Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
04/10 Người Samaritanô nhân hậu.
- Viết bởi Lc 10, 25-37
Người Samaritanô nhân hậu.
Thứ Hai tuần 27 thường niên. – Thánh Phanxicô Assisi. Lễ nhớ.
"Ai là anh em của tôi?"
* Thánh nhân sinh năm 1182 tại Assisi. Từ ngày trở lại, gặp Chúa Kitô ở nhà thờ thánh Đa-mi-a-nô cho tới ngày từ trần ở Poóc-ti-un-cu-la (1226), thánh nhân -con người được mệnh danh là Người Nghèo thành Assisi- cùng với các anh em tu sĩ của mình sống nghèo khó, rảo khắp nơi loan báo tình yêu của Thiên Chúa. Người cũng đặt nền tảng cho ngành nữ đan sĩ của Dòng và huynh đoàn giáo dân hãm mình. Người còn tha thiết với việc giảng thuyết cho những người chưa tin.
Suốt đời, thánh nhân không có bận tâm nào khác ngoài mối bận tâm theo Đức Giêsu trong tinh thần vui tươi, đơn sơ, tha thiết phục vụ Hội Thánh và dịu dàng yêu thương mọi người.
Lời Chúa: Lc 10, 25-37
Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông".
"Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?"
Người thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy".
Và Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Hãy đi và làm như vậy
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Tin Mừng Mátthêu và Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28)
vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất.
Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu
về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).
Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.
Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.
Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận:
"Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,
với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con,
và người thân cận như chính mình” (c. 27).
Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28).
Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.
Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo,
nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.
Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.
Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.
Nhưng Đức Giêsu còn phải trả lời câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi ?”
Ngài đã trả lời bằng một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó ngài mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận.
Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô.
Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số.
Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp.
Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.
Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không?
Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi.
Cả hai đều phản ứng như nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi (cc. 31-32).
Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế.
Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,
vì sách Lêvi (21, 1-3) cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.
Một người Samari là nhân vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân.
Hầu chắc nạn nhân này là một người Do Thái,
vì không có chi tiết nào cho thấy anh ta là dân ngoại cả.
Giữa dân Do Thái và dân Samari vốn có mối hiềm thù từ lâu.
Người Samari này cũng thấy nạn nhân như hai người trước,
nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.
Anh thấy bằng trái tim mình, vì thế anh chạnh lòng thương (c. 33).
điều mà hai người trước không có.
Chính sự thúc đẩy của trái tim đã khiến anh làm một loạt hành động cụ thể:
lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,
đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,
trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần (cc. 34-35).
Lòng thương xót thật sự khiến anh chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,
và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.
Khi giúp cho kẻ lâm nạn, dù biết đó là một người Do Thái kẻ thù của mình,
người Samari đã làm một phép lạ lớn.
Đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy,
và biến anh ấy, kẻ thù của mình, trở thành người thân cận với mình.
Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới
của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.
Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi ?
Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị này: “Theo ông,
trong ba người, ai đã trở nên người thân cận với kẻ bị nạn ?” (c. 36).
Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa.
Trước khi giúp một người,
tôi không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không.
Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác.
Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó đang cần chúng ta.
Giúp đỡ cụ thể là cách tạo ra người thân cận
Càng giúp nhiều, ta càng có nhiều người bạn thân.
Vị luật sĩ đã hỏi Đức Giêsu phải làm gì (c. 25).
Kể xong dụ ngôn, Đức Giêsu trả lời: Hãy đi và hãy làm như vậy (c. 37).
Đất nước chúng ta đã giàu lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…
Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”,
thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa.
Yêu những người nghèo như chính mình, yêu cả những ai đã làm khổ mình.
Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.
Suy niệm 2: Ai là người thân cận của tôi?
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tiên tri Gio-na và người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu là hai hình ảnh trái ngược. Gio-na là người Do thái, người có đạo, nhưng tâm địa hẹp hòi không muốn cứu dân thành Ni-ni-ve. Người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu là người ngoại đạo, nhưng tấm lòng bác ái bao la, quan tâm chăm sóc cho tha nhân. Gio-na là tiên tri, là người tin có linh hồn nhưng lại chẳng quan tâm cứu linh hồn dân thành Ni-ni-ve. Còn người Sa-ma-ri-ta-no nhân hậu tuy không có đức tin nhưng đã sẵn sàng cứu giúp dù chỉ là thân xác người lâm nạn. Gio-na là tiên tri của Chúa nhưng lại không vâng lệnh Chúa truyền. Người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu không có đạo nhưng lại thực hành Lời Chúa. Và được Chúa đem làm gương mẫu cho những nhà lãnh đạo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Bên trong hai bài Sách Thánh còn những trái ngược lớn lao gây suy nghĩ. Gio-na là tiên tri thì trốn Chúa. Những người đi thuyền ngoại đạo lại muốn tìm thánh ý Chúa, muốn cầu nguyện cùng Chúa. Cũng vậy thầy tư tế và thầy Lê-vi trong đạo tránh qua một bên để khỏi giúp người bị nạn. Trong khi người ngoại đạo xứ Sa-ma-ri lại tỏ lòng nhân hậu cứu giúp nạn nhân (năm lẻ).
Và để trả lời cho câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi?”, Chúa Giêsu đã hỏi ngược lại: “Theo ông, ai là người thân cận của người bị nạn?”. Chúa Giêsu trả lời bằng một mệnh đề kép. Muốn có người thân cận, chính tôi phải thân cận với mọi người. Nói khác đi người thân cận không tự nhiên có nhưng tôi phải tạo ra. Tôi tạo ra người thân cận bằng tấm lòng nhân hậu, bằng thái độ quảng đại, bằng cử chỉ phục vụ. Như thế người thân cận là tất cả những ai cần sự giúp đỡ, cần sự quan tâm, là những ai đang lâm nạn, đang không thể tự lo cho mình, cả phần hồn lẫn phần xác.
Trong thư Ga-lát, thánh Phao-lô chê trách giáo dân Ga-lát đã mau chóng trở mặt lại giáo lý của Chúa. Lời chê trách đó có thể áp dụng cho Gio-na. Dù là tiên tri nhưng lại không tuân lời Chúa dạy. Lời đó cũng nhắm đến thầy tư tế và thầy Lê-vi vì đã không thực hành Lời Chúa. Lời thánh nhân chê trách cũng nói với chúng ta hôm nay, có đạo nhưng lại không tuân giữ Lời Chúa (năm chẵn).
Chúng ta có thể hỏi một câu hỏi khác. Ai là người thân cận của Chúa. Câu trả lời thật hiển nhiên. Nhưng khá cay đắng. Không phải vị tiên tri người đem Lời Chúa cho mọi người. Không phải thày tư tế và thày Lê-vi những người dâng của lễ trên bàn thờ, trước tôn nhan Chúa. Nhưng lại là người Sa-ma-ri-ta-nô, kẻ ngoại đạo. Hôm nay, chúng ta hãy tỉnh ngộ trở nên người thân cận của mọi người. Và người thân cận của Chúa. Như thế tôi mới “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”.
Suy niệm 3: Người Samaritanô Nhân Hậu
Một phóng viên nọ muốn biết cách đối xử với con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Nhiều người đã đi qua..., cuối cùng có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại cho cảnh sát. Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phỏng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế: bàn tay của mình đưa ra để mong tìm được sự nâng đỡ của người khác mà không gặp được.
Người Samaritanô nhân hậu được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay là chính Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, các tư tế, lêvi có lý do của họ: họ đã sống đúng luật, tuy nhiên luật đã giết chết lòng yêu thương của con người vì trọng mặt chữ mà thôi. Chúa Giêsu đã vượt qua luật lệ và hướng dẫn tâm hồn con người lên cao, đi vào chiều sâu của bác ái. Ngài đã đến với từng con người, Ngài không đứng xa nhìn con người đương đầu với những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Như người Samaritanô nhân hậu, Ngài đến gần bên con người, Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy trắc ẩn, cảm thông, Ngài cúi xuống băng bó các vết thương của họ và còn tình nguyện trả nợ cho họ bằng giá máu của Ngài khi chấp nhận chết trên Thập giá để cứu sống và đưa họ về quê trời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi theo gương mẫu của người Samaritanô nhân hậu là hình ảnh của chính Chúa. Chung quanh chúng ta còn biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau của đồng loại.
Nguyện xin Chúa kiện cường lòng bác ái của chúng ta, một lòng bác ái biết tìm đến, dừng lại và xoa dịu những nỗi khổ đau của người khác; một lòng bác ái vị tha, không bị lấm bẩn bởi bản tính ích kỷ trục lợi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Biến Ðổi Tâm Hồn
Chủ đề chính của đoạn Phúc Âm trên đây là tình yêu thương đối với người lân cận và chủ đề được nhắc đến do bởi hai câu hỏi của luật sĩ: "Tôi phải làm sao để được sống đời đời?" và "Ai là người anh em tôi?"
Chúa Giêsu đã để cho chính luật sĩ phải trả lời cho câu hỏi thứ nhất: "Tôi phải làm gì để được sống đời đời?", và vị luật sĩ đã trả lời đúng trăm phần trăm, dựa trên chính lời Kinh Thánh mà ông đã biết nằm lòng. Và nếu đã biết rõ như vậy rồi thì đâu còn lý do gì để hỏi Chúa Giêsu nữa. Không cần phải luật sĩ mới trả lời cho câu hỏi này, mọi thành phần dân Chúa đều có thể trả lời. Vấn đề là nơi câu hỏi thứ hai: "Ai là người anh em tôi?" Sự hiểu biết thông thái của luật sĩ làm ông ta lúng túng vì hẳn thật vào thời Chúa Giêsu có nhiều trường phái luật sĩ khác nhau đã cố gắng trả lời cho câu hỏi này, nhưng chưa có câu trả lời nào thỏa đáng cả. Có trường phái cho rằng người lân cận mà luật Môisen buộc phải yêu thương là cha mẹ, bạn bè, người đồng hương. Như thế, nhà luật sĩ có lý do để hỏi Chúa Giêsu: "Ai là anh em tôi?", ông muốn biết những giới hạn của tình thương đối với anh chị em để rồi từ đó xác định những bổn phận cần phải tuân giữ. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người Samari nhân hậu để giúp cho luật sĩ biết là không có giới hạn nào cho tình thương đối với anh chị em và bất cứ ai cần trợ giúp thì người đó là anh chị em của mình. Kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đặt lại vấn đề như sau: "Ai trong số những kẻ qua đường là người anh em của kẻ bị cướp?", và dĩ nhiên luật sĩ cũng đã trả lời đúng: "Thưa là kẻ có lòng thương xót người ấy".
Giải quyết vấn đề trên bình diện tri thức hiểu biết xem ra rất dễ, chỉ cần một chút hướng dẫn như Chúa Giêsu đã làm trong dụ ngôn thì ta có thể biết được câu trả lời cho vấn đề, nhưng để vào nước Chúa không phải chỉ có biết mà thôi, cũng không phải chỉ nói Lạy Chúa, Lạy Chúa mà thôi, nhưng còn phải thực hành, phải làm nữa, phải thực hiện lời dạy của Chúa và phải làm ngay không được chần chờ.
"Hãy đi và làm như vậy!" xem ra Chúa Giêsu không muốn vị luật sĩ ở lại để tranh luận lý thuyết với Chúa mãi mãi mà hãy dấn thân hành động, vì thế liền sau câu trả lời thứ hai của vị luật sĩ, Chúa Giêsu khuyến khích ngay: "Hãy đi và làm như vậy!"
Khi phải hành động giúp đỡ anh chị em, chúng ta thường hay có thái độ chần chờ, tìm sự chân thành lý do để tránh né để khỏi phải cho đi, để khỏi phải làm ngay công việc bác ái phải làm. Vì thế, vấn đề là luôn luôn phải sẵn sàng phục vụ, vấn đề bắt đầu từ tâm hồn của chúng ta trước, vì phải có tâm hồn yêu thương, cần canh tân chính mình trước. Chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đã đổi lại viễn tượng, đã đổi lại câu hỏi của luật sĩ, câu hỏi không còn là: "Ai là anh em ta?" nhưng là: "Ai là anh em của người bị nạn?"
Khi tâm hồn chúng ta đã được biến đổi rồi, đã có đầy tình yêu Chúa rồi thì chúng ta sẽ dễ dàng chu toàn mệnh lệnh yêu thương của Chúa hơn, sẽ yêu thương như Chúa, yêu thương không giới hạn, không tính toán, yêu thương cả đến hy sinh mạng sống mình. Không có tình yêu này to lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống mình cho người mình thương. Vấn đề không phải là biết: "Ai là anh em của tôi?" nhưng vấn đề là biến đổi tâm hồn chúng ta để chúng ta trở thành người lân cận, người anh em của tất cả những anh chị em chung quanh chúng ta.
Lạy Chúa, xin giúp con canh tân chính tâm hồn mình trước và giúp con trở thành người lân cận của tất cả mọi người, mọi nơi và mọi lúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Ai là người thân cận của tôi?
Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sự sồng đời đời làm gia nghiệp?”Người đáp: “Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: “ngươi hãy yêu mến Đức Chúa,Thiên Chúa của ngươi, và người thân cận như chính mình.” (Lc.10, 25-27)
Đây là vấn đề chính luôn luôn được đặt ra qua các thời đại: Ai là người thân cận của tôi? Chính ở điều này, Đức Kitô đã hoàn thành một cuộc cách mạng vĩ đại. Người sắp cho ông luật sĩ một bài học sáng giá về bác ái qua một dụ ngôn rất ý nghĩa và rõ nét.
Ông đã hỏi Ngài: “Ai là người thân cận của tôi? ”Đức Kitô đã giải đáp vấn đề cho chúng ta biết cách thực hiện ai là người thân cận của chúng ta. Trong những người chung quanh tôi, những người tôi gặp, ai là anh chị em tôi? Đức Kitô nói: “Một người nào đó đi từ Giê-ru-sa-lem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch và đánh nhừ tử người ấy rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết bên lề đường. Tình cờ có thầy tư tế cũng đi xuống con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi! cũng thế, một thầy lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy, bỏ tránh qua bên kia mà đi! nhưng một người Samari đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương, ông lại gần lấy dầu rượu băng bó vết thương người ấy, đặt lên lừa, đưa về quán trọ mà săn sóc, lấy tiền nhờ chủ quán cứu chữa bệnh nhân!
Một người Samari nào đó chẳng quen biết, thuộc dân tộc ly giáo với Do-thái, họ không thờ Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem nhưng ở núi Garidim! Thế mà ông đã lo chăm sóc cho một người cùng khổ hoạn nạn cướp bóc đánh đập và gánh lấy trách nhiệm cứu chữa. Ông không cần biết đó là ai, dân mình hay dân khác, bạn hay thù! không kể đến tốn phí bao nhiêu! ông chỉ thấy đó là một người cần giúp đỡ. Bác ái không từ bỏ một ai trong bất cứ một hoàn cảnh nào, nơi nào, thuộc hạng nào! bác ái có mặt mọi nơi, nơi nào có khổ sở cần xoa dịu giúp đỡ là có bàn tay êm ái nâng đỡ, có lòng tận lực chi trả, có lời an ủi âm thầm tâm sự, thông cảm mọi cảnh éo le, chia sẻ mọi cuộc sống ngoài lề xã hội, băng bó những xung đột, âu yếm những người bị bỏ rơi, hy vọng làm sáng lên những nơi đen tối, chia vui cho những nơi bị xáo trộn, bất ổn.
Bác ái hiện diện khắp nơi, nơi nào có tiếng nhân loại kêu cùng khổ là có con tim đến tiếp cứu, đến biến đổi nó lên tươi sáng. Bác ái hiện diện trên mọi trận tuyến, bạn cũng như thù, tương trợ lẫn nhau trong khắp thế giới. Lúc đó và chỉ như thế, chúng ta mới là anh chị em thân cận với nhau.
GF
Suy niệm 6: Yêu là biết hy sinh cho người mình yêu
Xem lại CN 15 TN C, CN 30 TN A, CN 31 TN B, thứ Ba tuần 1 MV, thứ Sáu tuần 3 MC, thứ Năm tuần 9 TN và thứ Sáu tuần 20 TN
Bài hát: “Qua cầu gió bay” có lẽ nhiều người trong chúng ta đều đã quen thuộc, hoặc đôi khi còn thuộc lòng! Bài hát này diễn tả tình yêu của hai người: khi yêu nhau, họ trao tặng cho nhau tất cả, ngay kể cả cái áo, cái nhẫn và chiếc nón là những thứ gắn liền với bản thân của con người, nhưng một khi đã yêu thì sẵn sàng trao tặng, miễn sao người mình yêu được vui và hạnh phúc...
Bài Tin Mừng hôm nay, qua hình ảnh người Samaritanô nhân hậu, Đức Giêsu cũng dạy cho người thông luật một bài học của tình yêu. Tình yêu đó là một tình yêu biết cho đi, hy sinh và chấp nhận gian khó vì người mình yêu.
Khởi đi từ việc người thông luật đến hỏi Đức Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?"; và: “Ai là anh em của tôi?”. Đức Giêsu đã giúp ông xác tín nguyên lý của sự sống đời đời là yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu người thân cận như chính mình.
Tuy nhiên, Đức Giêsu còn muốn ông đi xa hơn nữa trên lộ trình tình yêu đó khi kể cho ông nghe dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu.
Hình ảnh của người Samaritanô nhân hậu đối đãi với nạn nhân như: dừng lại, băng bó vết thương, xức dầu và rượu, đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ, thuê người chủ quán trọ săn sóc cho nạn nhân ... tất cả những nghĩa cử đó cho thấy người Samaritanô đã vì yêu mà chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả, cho đi tất cả... ngang qua hành vi của người Samaritanô, Đức Giêsu muốn giới thiệu cho người thông luật biết: những người đau khổ chính là anh em của ông.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy đi và làm như người Samaritanô nhân hậu, làm tất cả và cho đi tất cả vì người mình yêu.
Có lẽ chúng ta sẽ thắc mắc là nhiều khi tôi nghèo quá, nên khó có thể có gì để thể hiện tình yêu như người Samaritanô với người thân cận. Tuy nhiên, chúng ta sẽ không nghèo đến độ không thể không có gì để cho!
Có thể tôi nghèo về vật chất, nhưng tôi giàu về tấm lòng, giàu về tình yêu. Tôi không có hiện vật để trao tặng, nhưng tôi có nụ cười, thời giờ, niềm an ủi, sự cảm thông và tinh thần liên đới... Đây chính là món quà cao quý hơn cả bạc vàng.
Mong sao mỗi chúng ta hiểu rằng: chỉ có tình yêu là không thể chết, và cho đi là còn mãi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Thiên Chúa tha thiết và yêu tha nhân như chính mình. Đồng thời xin cho chúng con biết sống tinh thần liên đới trong một thế giới quá nhiều bất công và vô cảm. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Mẫu gương sống luật yêu thương
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mến Chúa yêu người: đó là con đường đưa loài người đến sự sống đời đời. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu chính là mẫu gương sống luật yêu thương.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trên thế giới hôm nay có rất nhiều người đang đau khổ. Họ là những gia đình li tán, những đứa trẻ bị bỏ rơi, những người đang quằn quại trong cơn đói, những chiến binh gục ngã nơi chiến trường, những kẻ thất nghiệp bơ vơ không nhà cửa, và chung quanh con không thiếu những người đang mỏi mòn chờ đợi con yêu thương giúp đỡ. Thế mà con vẫn tự hỏi: Ai là người anh em mà tôi phải thương mến ?
Lạy Chúa, rất nhiều lần con đã có thái độ ích kỷ như thầy tư tế và thầy Lê-vi trong câu chuyện dụ ngôn, con cố tình làm ngơ hoặc dửng dưng trước những nỗi đau của tha nhân. Con sợ người ta quấy rầy cho dù con biết rõ những nhu cầu cần thiết của họ. Con không quan tâm đến những người nghèo khổ, những bệnh nhân, những người gặp hoạn nạn, vì con sợ mất thời giờ và hao tốn tiền của. Và như thế, lạy Chúa, con đã không sống luật yêu thương của Chúa.
Xin cho con biết bắt chước người Sa-ma-ri nhân hậu biết yêu thương tha nhân bằng tình yêu không tính toán và không biên giới. Xin hãy canh tân tâm hồn con. Xin Chúa mở rộng tầm nhìn và đôi bàn tay của con, để con nhận biết mọi người là anh em để con yêu thương phục vụ họ.
Và xin cho con biết chấp nhận những phiền hà khi giúp đỡ anh em, chấp nhận những mất mát khi cho đi chính con người và tiền bạc của con. Lạy Chúa, xin Chúa giúp sức để con thực hiện trọn vẹn giới luật yêu thương của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai là anh em của tôi ?”
Suy niệm 8: Hai chiều kích của yêu mến
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu!
Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại của anh. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.
Suy niệm
Tình yêu mà Chúa Giêsu nói đến có hai chiều kích: Yêu mến Thiên Chúa và yêu mến anh em. Việc tôn thờ, yêu mến Thiên Chúa có lẽ chẳng ai thắc mắc. Còn chiều kích yêu mến với anh em thì Chúa Giêsu đã làm một cuộc cách mạng khi mạc khải một tình yêu không biên giới nơi tha nhân bằng dụ ngôn người Samaria nhân hậu (x. Lc 10,30-35).
Do những nguyên nhân về lịch sử và thực hành tôn giáo, người Samaria và người Do Thái không ưa nhau, quan hệ giữa hai miền này rất căng thẳng đến nỗi họ không thể nói chuyện với nhau. Qua thời gian, sự căng thẳng này dẫn đến việc người Do Thái không được giao thiệp với người Samaria và ngược lại như luật của họ. Cho nên, Tin Mừng Gioan kể lại các môn đệ của Chúa rất ngạc nhiên khi Chúa nói chuyện với người phụ nữ Samaria. Sự ngạc nhiên này cũng thể hiện nơi người phụ nữ Samaria khi Chúa Giêsu xin chị nước uống, chị bối rối và trả lời: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao ?”. Gioan đã khẳng định: “Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với người Samaria” (x. Ga 4,1-42).
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu trình bày, người Samaria đã vượt qua ranh giới chủng tộc mà con người đã tự tạo ra để ngăn cách tình anh em, xé rào những bất đồng để đến cứu nguy người anh em Do Thái bị cướp, đánh đập nguy hiểm đến tính mạng. Chúa Giêsu cũng kêu gọi người anh em Do Thái cũng hãy đáp lễ, xé rào hận thù, xóa bỏ ngăn cách của chủng tộc để đến với tha nhân mà bước đầu tiên là anh em Samaria bên cạnh. Trước đó, Chúa Giêsu đã xé rào bằng tinh thần đối thoại qua việc Chúa đã trao đổi với người phụ nữ Samaria, một hình ảnh tối kị trong quan hệ Do Thái - Samaria.
Yêu thương anh em và anh em chính là tha nhân, bất cứ người nào ngoài ta, “Cứ làm như vậy là sẽ được sống” (Lc 10,28) như Chúa Giêsu đã truyền. Hãy thi hành một tình yêu không biên giới đối với tất cả mọi người dù là người thân cận hay có thù oán. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải yêu thương mọi người, kể cả những người không hợp với mình và thù ghét mình (Mt 5,44).
Tình yêu mới: “Yêu không biên giới”, là cơ bản trước mọi hành động của đời sống người Kitô hữu như thánh Âugustinô nói: “Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”. Tình yêu sẽ cho ta biết ta phải làm gì. Không tình yêu, mọi hành động đều vô nghĩa. Thánh Phaolô nói rất rõ: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr 13,3). Tình yêu không biên giới dành cho tha nhân là dấu chứng cho tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, nếu có biên giới, tình yêu với Thiên Chúa là giả dối, như thánh Gioan Tông đồ có viết: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20).
“Tôi phải làm gì để được sống đời đời”, đó cũng là điều luôn thao thức trong tâm hồn tôi tâm hồn bạn. Tiếng vang vọng lại trong cõi lòng: “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10,37): Làm như người Samaria nhân hậu, dám phá tan cái rào cản thù hiềm của ngăn cách chủng tộc, màu da, ngôn ngữ để giúp người anh em trong lúc khốn cùng cần có người giúp đỡ. Làm như người Samaria là thiệt thòi về thời gian, công sức, tiền của để cứu người anh em xa lạ có hiềm khích.
Ý lực sống:
“Tình yêu này là lời ca, lời ca đánh thức tôi. Lời ca dạy tôi những gì tôi đã học, chỉ cho tôi những nẻo đường bí mật và những vì sao nơi chân trời của trái tim tôi” (Tagore, Lời dâng).
Suy niệm 8: Ai là người thân cận của tôi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Người Do thái vẫn biết giới luật cao trọng hơn hết là “Mến Chúa hết lòng và yêu người thân cận như chính mình”. Mến Chúa thì sẽ hiểu, còn yêu tha nhân thì họ khó hiểu, vì họ có cái nhìn thiển cận và hẹp hòi về những người ngoài dân tộc Do thái. Chính vì vậy, một người thông luật đã đến hỏi thử Chúa Giêsu xem ai là người thân cận của ông và ông xin Chúa cho một câu định nghĩa. Nhưng thay vì lý thuyết suông, Ngài đã đưa ra dụ ngôn người Samaritanô nhân lành để cho ông một bài học.
Đối với luật sĩ và biệt phái thì luật mến Chúa thì quá rõ, ai cũng biết vì nó có ở trong kinh Schema mà người Do thái đọc hằng ngày; nhưng còn luật yêu người thì họ còn mù mờ: “Thế nào là yêu người thân cận như chính minh ? Người thân cận là ai ?” Chính vì vậy mà một người thông luật đến chất vấn Đức Giêsu xem người thân cận là ai ? Đức Giêsu không trả lời bằng lý thuyết suông có thể gây tranh luận, Ngài dùng dụ ngôn người Samaritanô nhân hậu, để nói cho người thông luật biết rằng: người thân cận không phải chỉ là người Do thái, mà là bất cứ ai không phân biệt chủng tộc, giai cấp, màu da hoặc tín ngưỡng đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.
Ngày nay chúng ta hay nói: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn bể là anh em, nhưng người Do thái không chấp nhận quan niệm này. Luật của người Do thái đã giới hạn sự giao tiếp giữa người Do thái với những người không phải là Do thái. Theo luật của họ, người thân cận được định nghĩa là “những người con trai của xứ sở bạn”. Do đấy, chỉ có những người Do thái mới là hàng xóm, là thân cận của mình.
Đức Giêsu chủ trương ngược lại: người anh em của tôi, người thân cận của tôi là bất cứ ai tôi chọn để trở nên người anh em, người thân cận. Như vậy, không biết ai là người anh em của mình nữa, mà điều quan trọng là tìm cách để trở nên người anh em, người gần gũi với bất cứ ai đang cần sự giúp đỡ.
Có người nói tình yêu đích thực được thể hiện qua bốn phương diện: (1) sẵn lòng giúp đỡ; (2) biết xót xa trước đau khổ và (3) biết vui mừng trước hạnh phúc của người khác; cuối cùng (4) biết tha thứ. Chúa Giêsu đưa ra nhân vật Samaritanô như một điển hình về tình yêu đích thực đó. “Chạnh lòng thương” trước tình cảnh khốn khổ cấp bách của một người không quen biết, thay vì bỏ đi như thầy tư tế và thầy Lêvi với những bận rộn của mình – mà ai lại không có những việc bận rộn cơ chứ ? – ông Samaritanô này sẵn sàng gác lại công việc của mình, và dốc toàn lực cứu chữa người bị nạn cách tận tình. Với nghệ thuật kể chuyện tài tình, Chúa mô tả tỉ mỉ những việc làm bác ái của người Samaritanô. Ngài dạy chúng ta yêu thương đích thực phải thể hiện bằng việc làm cụ thể và Ngài kết luận cũng rất cụ thể: “Hãy đi và làm như vậy” (5 phút Lời Chúa).
Nhà văn Mark Twain nói: “Từ ngữ ‘mưa’ sẽ chẳng nói lên điều gì nếu như bạn chưa một lần đi trong mưa hoặc tiếp xúc với nó ? ‘Tình yêu’ cũng chẳng là gì, nếu như bạn chưa bao giờ kinh nghiệm về nó”. Người thông luật biết rất rõ hai giới răn quan trọng là mến Chúa và yêu người. Nhưng theo Đức Giêsu, để được sự sống đời đời, ông phải thực hành điều ông vừa nói. Ông sẽ không biết ‘mến Chúa yêu người’ thực sự, nếu không hiện thực hoá hai điều răn này trong suy nghĩ, lời nói và hành động của ông. Ai cũng cần có tình yêu để được sống hạnh phúc. Thế nhưng, tình yêu không phải là một khái niệm chỉ để nói suông. Tình yêu đòi hỏi chia sẻ, cảm thông, hy sinh và gắn bó với một đối tượng cụ thể. Tình yêu mời gọi mỗi người biết trao tặng một lời nói chân thành, một nụ cười khích lệ, hoặc một việc bác ái (Học viện Đa Minh).
Một cách tổng quát, chúng ta có thể thực hiện lòng yêu Chúa và tha nhân như sau:
Mến yêu Chúa: Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng những cách biểu lộ ấy có tính cách chủ quan, mỗi người một cách, nhưng theo Tin mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu đã nhấn mạnh lại điều kiện tiên quyết để biết ai là người mến Chúa, đó là “Thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa”.
Yêu tha nhân: Muốn yêu tha nhân cho xứng đáng, hãy sống theo khuôn vàng thước ngọc này: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Mt 7,12). Hay nói ngắn gọn hơn: “Ngươi hãy yêu thân cận ngươi như chính mình”(Mc 12,30). Yêu mình thế nào, thì phải yêu người như vậy. Tất nhiên mình luôn luôn muốn cho mình được những điều tốt lành, hạnh phúc và lợi ích. Không ai muốn mình bị xấu xa, khổ cực, tại hoạ; vậy yêu người cũng phải làm cho người như vậy.
Truyện: Đi tìm chén thánh
Có một câu chuyện huyền thoại về “một người Samaritanô tốt lành” có tên là Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa Tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu! Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại trong cuộc đời. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.
Suy niệm 9: Người thân cận của tôi
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúng ta vừa nghe lại câu chuyện chúng ta đã thuộc lòng từ rất lâu. Ông luật sĩ hỏi Chúa: “Ai là người thân cận của tôi ?” (Lc 10,29)
Với câu hỏi này chúng ta thấy ông luật sĩ muốn hai điều:
- Ông muốn tìm một câu định nghĩa về “người thân cận”. Tại sao thế ? Thưa, vì người Do Thái thời đó chỉ hiểu “người thân cận” là những đồng bào Do Thái với mình.
- Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.
Còn Chúa Giêsu thì sao ? Với dụ ngôn người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu muốn mọi người hiểu ba điều:
- Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, quan điểm...). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này: một người là Do Thái, một người là Samaria. Người Samaria thì dụ ngôn nói rõ, còn người bị thương thì dụ ngôn bỏ ngỏ, nhưng có nhiều lý do nói rằng, đó là người Do Thái, vì những người Do Thái thường đi trên con đường này nhiều hơn người Samaria.
- Như vậy, định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (Lc 10,37)
- Cuối cùng, thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (Lc 10,36).
2. Một phóng viên nọ muốn biết cách đối xử của con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Rất nhiều người đã đi qua… Cuối cùng, mới có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại gọi báo cho cảnh sát. Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phóng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế. Đó là điều mà chúng ta ít khi để ý tới.
Sống ở đời, ai mà chẳng cần tới tình yêu. Nhưng ít người thực thi tình yêu đối với người khác. Hay nếu có, lại chỉ vỏn vẹn trong một khung cảnh gia đình hay trong một lũy tre xanh chật hẹp của mình. Chính vì thế mà trần gian mất đi rất nhiều nguồn vui thật”.
Chung quanh chúng ta còn có biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì ? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau với đồng loại.
Vậy hãy cố gắng mà đối xử tốt với nhau và hãy cố gắng trở thành người thân cận của mọi người.
Một hôm, Thầy Antôn dẫn Thầy Amôna ra khỏi chòi tu và chỉ vào tảng đá giữa hoang địa mà nói:
- Thầy hãy mắng tảng đá và đập cho nó một cái đi.
Thầy Amôna làm theo. Lúc đó Thầy Antôn hỏi: - Tảng đá có nói gì không ?
Thầy Amôna đáp: - Không.
Thầy Antôn nói: - Thầy cũng vậy, thầy sẽ đạt tới mức độ này.
Ý thầy Antôn muốn nói là thầy Amôna phải tập sao cho mình không còn biết đến hai chữ giận dữ, không còn biết đến nóng nảy là gì nữa.
Và quả thực sau này đã xảy ra như thế. Thầy Amôna càng ngày càng tiến bộ, lòng nhân hậu của Thầy càng ngày càng tăng trưởng tới mức thầy không biết tới sự ác độc, dữ dằn là gì nữa. Về sau, khi thầy lên chức Giám Mục, có một lần các tu sĩ trong miền dẫn tới Toà Giám Mục một thiếu nữ mang bầu và xin Ngài ra hình phạt. Ngài đã ứng xử như thế nào ? Đức Cha đã đưa tay vẽ hình Thánh Giá lên bụng cô gái, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm drap bằng lanh mịn và nói:
- Sợ rằng, khi cô ta sinh con, cô ta hay đứa con có thể chết, mà không có gì tẩm liệm chăng ?
Nhưng những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế ? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Xin anh em coi, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi còn phải làm gì hơn nữa ?
Nói thế rồi Ngài cho cô ta về. Từ đấy, không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy đi mà làm như thế”.(Lc 10,37) Điều đó không chỉ có nghĩa là chúng ta đi mà băng bó săn sóc cho những người bị thương tích, nhưng còn có nghĩa là hãy cố gắng mà trở nên người thân cận với mọi người. Nếu chúng ta làm được như thế thì những việc chúng ta đối xử tốt với nhau sẽ không còn khó khăn gì nữa, mà nó sẽ trở thành những việc tự nhiên trong cuộc đời.
Lạy Chúa,
Giữa một thế giới
đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Suy niệm 11: Định nghĩa về người thân cận
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. “Ai là người thân cận của tôi ?”. Câu hỏi này của vị Luật sĩ phản ảnh phần nào chiều hướng của ông:
- Ông muốn tìm một câu định nghĩa về “người thân cận”. Người do thái thời đó hiểu “người thân cận” chỉ là những đồng bào do thái với mình.
- Ông muốn nghe một câu trả lời có tính lý thuyết.
2. Dụ ngôn người Samari phản ảnh chiều hướng của Chúa Giêsu:
- Định nghĩa về “người thân cận” không quan trọng bằng thực thi bác ái với người thân cận (câu 37)
- Người thân cận là bất cứ ai (không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, quan điểm...). Hình như hai nhân vật chính trong dụ ngôn này một người là do thái một người là Samari.
- Thay vì tìm hiểu ai là người thân cận, tốt hơn nên tỏ ra mình là người thân cận đối với những kẻ đang cần mình giúp đỡ (câu 36)
B.... nẩy mầm.
1. “Sống ở đời, ai ai cũng có những lúc tối lửa tắt đèn, có lúc lá rách cần lá lành, có lúc chị ngã em nâng. Sống ở đời, ai ai mà không cần tới tình yêu. Nhưng ít người thực hiện tình yêu. Hay nếu có, lại chỉ vỏn vẹn trong một khung cảnh gia đình hay trong một lũy tre xanh chật hẹp. Cho nên cũng vì vậy mà trần gian mất đi nhiều nguồn vui thật” (Trích “TMCGK ngày trong tuần”)
2. “Bác ái là thẻ thông hành có giá trị nhất để vào Nước Trời”. “Bác ái đích thực không tra vấn, không đặt câu hỏi” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
3. Trong thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang oằn oại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: “Mình không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy ! ”Thế là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa sang phần đất mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra khỏi chiến hào, tháo chiếc thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh.
03/10 Tôi tớ Chúa xin vâng.
- Viết bởi Lc 1, 26-38
Tôi tớ Chúa xin vâng.
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN năm B. – Kính trọng thể ĐỨC MẸ MÂN CÔI.
"Này Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh một Con trai".
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ".
Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền".
Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN năm B
Lời Chúa: Mc 10, 2-14
"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái đến gần và hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?"
Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị".
Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông, mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục.
Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".
Bấy giờ người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ.
Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng. Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó".
Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm
* CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: St 2,18-24; Dt 2,9-11; Mc 10,2-16
* Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Cv. 1,12-14; Gl. 4,4-7; Lc 1,26-38
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Suy niệm của Lm. Nguyễn Cao Siêu.
Suy niệm:
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp,
loài người không được phép phân ly”
Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ
và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng
ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng?
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu vẫn tăng.
Sống với nhau suốt một đời trở thành ước mơ khó đạt.
Trong xã hội Do thái giáo thời Đức Giêsu,
người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới.
Người vợ là một thứ tài sản của người chồng,
nên chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ,
có khi ly dị vì một lý do cỏn con.
Trước câu hỏi: “Chồng có được rẫy vợ không?”
Đức Giêsu kiên quyết nói không.
Ngài bênh vực các bà vợ bị áp chế.
Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không cần.
Lập trường của ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo
của thời đó cũng như thời nay.
Điều này khiến các môn đệ của Đức Giêsu có lần bị sốc.
Họ nói: “nếu vậy thì thà đừng lấy vợ thì hơn” (Mt 19, 10).
Hóa ra các ông vẫn cho mình có quyền bỏ vợ nếu muốn.
Khi người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật
để biện minh cho việc ly dị đúng theo luật Môsê,
Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế,
để nhấn mạnh đến sự hiệp nhất vĩnh viễn của vợ chồng.
Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.
Điều này nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời.
Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh luật Môsê
và khai mở trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa.
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp…”
Vậy trong Lễ Cưới, không phải chỉ có hai người yêu nhau,
lấy nhau và cam kết suốt đời sống cho nhau.
Hôn nhân không chỉ là bản hợp đồng giữa hai bên.
Còn cần một bên thứ ba là Thiên Chúa,
Đấng phối hợp và làm cho hai bên kia nên vợ nên chồng.
Thiên Chúa có mặt trong mỗi Lễ Cưới,
và tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người muốn bỏ cuộc.
Chung thủy chưa bao giờ là chuyện dễ dàng.
Khi thịnh vượng, lúc gian nan;
khi bệnh tật, lúc mạnh khỏe.
Còn nhiều tình huống khác đe dọa hôn nhân:
khi buồn chán và thất vọng về nhau,
khi yếu đuối vấp ngã,
khi đổ vỡ quá lớn và vết thương quá nặng,
khi đời sống vợ chồng trở thành như hỏa ngục…
Những khi ấy, yêu thương và kính trọng nhau thật khó.
Con người bị cám dỗ tìm giải pháp chia tay.
Chúng ta cầu cho những ai đã và sẽ kết hôn.
Xin cho họ bớt một chút ích kỷ, thêm một chút khiêm tốn,
bớt một chút tự ái, thêm một chút phục vụ,
bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…
Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa
trong việc bảo vệ và tưới bón tình yêu.
Gợi ý chia sẻ:
1) Đâu là những hậu quả của việc ly dị? Việc ly dị ảnh hưởng thế nào trên xã hội và Giáo hội?
2) Theo ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến việc vợ chồng chia tay nhau?
Lời nguyện:
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.
2. Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Đó là lời Chúa Giêsu được thánh Marcô ghi lại trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe và thỉnh thoảng đã từng nghe vào mỗi dịp lễ cưới, hay cử hành nghi thức chứng hôn nào đó. Đến phần cầu nguyện cho đôi tân hôn, chủ tế dang tay đọc: “Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng, Cha đã tạo dựng muôn loài từ hư vô, và an bài mọi sự trong trời đất ngay từ thuở ban đầu. Khi dựng nên con người gống hình ảnh Cha, Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam, vì vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương thịt. Như thế, Cha dạy chúng con rằng: sự gì Cha đã phối hợp nên một, loài người không bào giờ được phép phân ly…
Cha đã chúc phúc cho xã hội họ gầy dựng nên được sinh sôi nảy nở. Lời chúc phúc này, dù nguyên tội hay đại hồng thuỷ cũng không xóa bỏ được”. Như thế đã rõ hôn nhân trong ý định nhiệm mầu yêu thương của Thiên Chúa.
Đẹp thay cái thủa ban đầu
Lần giở lại những chương đầu của sách Sáng Thế ta thấy người nam và người nữ được Thiên Chúa tạo dựng và thiết lập thật là đẹp. Đẹp về các mai mối: Thiên Chúa đã mai mối cho ông Adong và bà Evà, bởi chính Thiên Chúa dẫn Evà đến giới thiệu với Adong. Đẹp về cách chuẩn bị cho một gia đình mới: Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông bà cả một gia nghiệp, chim trời cá nước, thú vật ngoài đồng, ruộng vườn canh tác. Đẹp về cử hành nghi lễ: Đám cưới của ông Adong và bà Evà do Thiên Chúa chủ sự, trước đó Ngài trang bị cho có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sang ban đêm, khách sạn với muôn triệu vì sao. Hôn lễ bắt đầu, Thiên Chúa dẫn Evà đến với Adong, Adong vui vẻ hạnh phúc sáng mắt ra và không chỉ nhận Evà làm vợ mà còn nhận: Đây là xương tôi, đây là thịt tôi nữa (x. St 2,24). Nhận nhau xong rồi, Thiên Chúa tuyên phán: “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly” (Mc 19,6). Được Thiên Chúa chúc phúc và họ đã sống vui hạnh phúc. Nhờ hôn nhân, người nam và người nữ trở nên không phải một tổ hợp nhưng là một thể xác (x. St 2,24), nghĩa là một sự thông hiệp tình yêu phát sinh sự sống mới. Đúng là, đẹp thay của thủa ban đầu.
Hôn nhân ngày hôm nay
Con người và thế giới hiện đại của chúng ta đang thay đổi nhanh chóng về nhiều mặt: văn hóa, xã hội, kỹ thuật, cũng như thông tin điện toán toàn cầu… Sự thay đổi ấy tác động trực tiếp đến lễ nghĩa gia phong, tôn giáo, nhất là các gia đình, đặc biết các cặp hôn nhân trẻ.
Hơn bao giờ hết, gia đình trên thế giới đang bị đe dọa đến tận nền tảng như: nạn ly dị lan tràn, chấp nhận sống chung mà không hôn phối, khước từ con cái hoặc hủy diệt con cái từ trong trứng nước. Kết hôn giữa người cùng giới tính, một số quốc gia chấp thuận.
Loài người không được phân ly
Ngay từ thủa ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên loài người có nam, có nữ. Hôn nhân đã có trong chương trình của Thiên Chúa. Ngài muốn người nam và người nữ kết hiệp với nhau thành vợ chồng và sống hạnh phúc bên nhau. Tới Tân ước, cả bốn sách Tin mừng không có dấu hiệu nào cho thấy Chúa Giêsu chống lại việc hôn nhân.
Là người tín hữu ai cũng biết: đơn hôn và vĩnh hôn là hai đặc tính trong hôn nhân Công giáo. Đơn hôn; nghĩa là hôn nhân chỉ giữa một người nam và một người nữ, hay nói cách khác: một vợ, một chồng. Người nam không thể là chồng của người nữ nào khác, ngoài vợ mình; người nữ không thể là vợ của một người nam nào khác, ngoài chồng mình. Thế nên, loại trừ mọi hình thức đa thê, đa phu. Vĩnh hôn; có nghĩa là đã kết hôn thành sự và đã hoàn hợp thì hai người bị ràng buộc, phải chung thuỷ với nhau với nhau cho đến chết. Đặc tính vĩnh hôn loại trừ ly dị. Vì thế, khi cả hai còn sống thì không thể tháo cởi dây hôn phối vì bất cứ lý do nào, dù cả hai người đồng ý với nhau, hay vì bất cứ quyền lực nhân loại nào ép buộc.
Tại sao hôn nhân Công giáo không cho phép ly dị? Thưa là vì: Hôn nhân Công giáo mô phỏng tình yêu giữa Thiên Chúa đối với loài người, cụ thể là tình yêu giữa Đức Kitô và Hội thánh, mà tình yêu giữa Thiên Chúa đối với con người luôn là một tình yêu không chia sẻ và bền vững muôn đời.
Giao ước Hôn nhân bắt đầu bằng lời hứa thuỷ chung cho đến chết, trọn đời mình. Một Giao ước mang tính Bí tích, lấy Chúa ra mà thề, lấy cộng đoàn Giáo hội ra để làm chứng.
Chúng ta hãy cầu xin cho các cặp hôn nhân ngày hôm nay chung thành với giao ước hôn nhân, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hay gặp gian lao thử thách nào, vẫn mãi mãi bền chặt, thủy chung và son sắt. Amen.
3. Giá trị của gia đình - Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chưa bao giờ các gia đình lại gặp nhiều khốn đốn, nhiều đe doạ và sóng gió hung tợn như ngày hôm nay. Hàng loạt rồi hàng loạt gia đình bị rạn nứt, bị sụp đổ, bị tan tác trước những cơn địa chấn kinh hồn do nếp sống hưởng thụ và vô thần gây nên (nạn ly dị tràn lan, hôn nhân thử cũng như kết hôn đồng tính gia tăng đáng sợ...)
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta nhận ra giá trị cao cả của gia đình để chúng ta trân trọng yêu mến gia đình và từ đó quyết tâm xây dựng gia đình nên tốt lành thánh thiện hơn.
Dựa vào Lời Chúa, chúng ta có thể khẳng định rằng gia đình có một giá trị rất cao quý, vì những lý do sau:
* Chính Thiên Chúa là kiến trúc sư đã thiết kế và trực tiếp xây dựng nên gia đình:
Bài đọc thứ nhất cho thấy Thiên Chúa đã thiết lập nên gia đình đầu tiên bằng hình ảnh rất nên thơ: Trước tiên, Ngài dựng nên ông Ađam và trong khi Ađam say ngủ, Ngài rút một xương sườn của ông mà dựng nên E-và. Ađam hoan hỉ đón nhận Evà làm bạn đời và xác nhận rằng đó là xương thịt của ông.
Đó là cách diễn tả rất thi vị, rất độc đáo để trình bày cho chúng ta thấy Thiên Chúa đã sáng tạo nên gia đình và gia đình là tác phẩm ưu việt của Ngài.
Ta có thể hình dung mỗi gia đình như một toà lâu đài và lâu đài đặc biệt nầy được chính Thiên Chúa vừa là nhà thiết kế, vừa là kỹ sư xây dựng. Vì thế, gia đình là một công trình rất đáng trân trọng của Thiên Chúa.
* Lý do thứ hai khiến cho gia đình đáng cho mọi người chúng ta tôn trọng là vì chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa Ngôi Hai quyền năng phép tắc cũng đã vui lòng đến sống dưới mái gia đình Na-da-rét. Trong ba mươi ba năm mang lấy thân phận con người, Ngài đã dành ra đến gần ba mươi năm nương náu trong gia đình Na-da-rét. Thế là tại đây, mái ấm gia đình trở nên cung điện của Thiên Chúa.
* Lý do thứ ba là Chúa Giêsu rất quý trọng gia đình.
Khi có một gia đình mới được thành lập tại Cana, Chúa Giêsu, Mẹ Maria cùng các môn đệ được mời dự tiệc. Đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu, Mẹ Maria phải cậy nhờ Chúa Giêsu cứu nguy cho đôi tân hôn. Chúa Giêsu biết là giờ Ngài chưa đến, chưa đến lúc để làm phép lạ đầu tay. Mà nếu cần thực hiện một phép lạ đầu tay thì cũng phải thực hiện vì một lý do rất hệ trọng. Thế mà Chúa Giêsu lại chấp nhận làm phép lạ đầu tiên hoá nước thành rượu cho gia đình mới được vui.
Sự kiện Chúa Giêsu, Mẹ Maria cùng các môn đệ đến tham dự tiệc cưới tại Ca-na và Chúa Giêsu đã làm phép lạ đầu tay chỉ vì hạnh phúc của một đôi tân hôn, của một gia đình mới xây dựng chứng tỏ Chúa Giê -su rất quý trọng gia đình.
* Lý do thứ tư là Chúa Giêsu lập bí tích hôn phối để nâng cấp gia đình những người con cái Chúa.
Đối với những người sống trong Hội Thánh, Chúa Giêsu còn thiết lập nên bí tích hôn phối để làm cho gia đình họ trở thành gia đình thánh. Thế là nhờ bí tích hôn phối, gia đình là một tổ chức thế tục trở thành một Hội Thánh nhỏ của Chúa Giêsu.
Vì những lý do kể trên, gia đình là một công trình cao đẹp và rất đáng trân trọng. Có thể nói rằng không một công trình kiến trúc vĩ đại nào của con người, ngay cả đại thánh đường Phêrô tại Rôma được xây dựng trong suốt 130 năm bởi nhiều kiến trúc sư tài năng nhất thế giới, cũng không thể sánh bằng.
Giả như có một ai đó đang tâm phá huỷ đền thờ thánh Phêrô tại Rôma, thì đó là một tội ác lớn lao đối với nền văn minh nhân loại, thì kẻ nào phá vỡ gia đình là thánh điện của Thiên Chúa, là kiến trúc tuyệt mỹ của Thiên Chúa Ba Ngôi thì đáng chịu tội nặng nề hơn.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu củng cố nền tảng gia đình và lên tiếng cảnh cáo mọi người nhớ rằng: gia đình là "công trình mà Thiên Chúa đã kiến tạo, thì loài người không được phá huỷ". Phá huỷ gia đình là xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa.
Vậy xin đừng ai phá huỷ gia đình hay làm cho gia đình xuống cấp bằng cách đưa vào nhà mình những tệ nạn xã hội, những gương xấu, những nguyên nhân phát sinh tội lỗi.
Trái lại, mỗi người hãy xây dựng gia đình mình trở thành tổ ấm cho tình thương và sự sống phát triển, xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để cho sự "hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa" (thư chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2002)
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã chọn gia đình làm nơi cư ngụ của Ngài, ban ơn giúp sức để chúng ta biết dựng xây gia đình mình ngày càng hạnh phúc, an vui và thánh thiện như gia đình của Chúa Giêsu ngày xưa. Amen.
4. Không thể chia lìa – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Khi những người biệt phái đặt vấn đề với Chúa Giêsu về việc ly dị, Chúa Giêsu khẳng định dứt khoát rằng vợ chồng không thể phân li. Người trích dẫn lại lời Kinh thánh: "Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li." (Mc 10, 6-9)
Sự kiện vợ chồng nên một xương một thịt đã được cụ thể hoá qua hình ảnh Thiên Chúa lấy xương sườn Ađam để dựng nên Evà. E-và như thân cây được Thiên Chúa làm cho nẩy sinh từ gốc cây A-đam; gốc cây và thân cây chỉ là một, nên A-đam và E-và cũng chỉ là một. Thế nên khi Thiên Chúa trao Evà cho Ađam, ông vui mừng mừng xác nhận rằng nàng không là ai xa lạ mà chỉ là xương thịt của mình: "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi". (Sáng Thế 2, 18-23)
Trong hôn nhân, tuy người nam và người nữ là hai chủ vị khác nhau, nhưng họ được Thiên Chúa liên kết thành một với nhau như chim liền cánh, như cây liền cành. Họ là một như A-đam, E-và là một với nhau.
Tuy nhiên, một số người không nhìn nhận vợ chồng là một và bất khả phân li vì họ có cái nhìn phân mảnh nên không thấy được tính duy nhất trong đa tạp.
Đối với hạng người nầy, khi nhìn vào chiếc kìm hay chiếc kéo, họ chỉ thấy có hai gọng thép ghép lại với nhau và nói rằng đây chẳng là gì ngoài hai gọng thép; nhưng người hiểu biết thì cho rằng đây không đơn thuần là hai gọng thép mà là một chiếc kéo hay một chiếc kìm.
Khi nhìn vào một ngôi nhà gạch, người có nhãn quan phân mảnh cho rằng đây là tập hợp của rất nhiều gạch đá. Nhưng người hiểu biết thì quả quyết đó là một ngôi nhà.
Tay phải và tay trái, tuy là hai cánh tay riêng biệt nhưng cũng nên một với nhau vì cùng thuộc về một thân mình.
Đầu và thân mình tuy là hai phần riêng biệt, nhưng cũng chỉ là một vì cả hai đều thuộc về nhau và cùng thuộc về một thân mình.
Tương tự, khi nhìn vào người nam và người nữ đã kết hôn, người không đón nhận giáo lý của Chúa thì cho rằng đây chỉ là một người nam sống bên cạnh một người nữ; nhưng người am hiểu giáo lý Chúa dạy thì biết rằng đó là một gia đình gồm hai người đã nên một xương một thịt với nhau.
Hôm nay, Chúa Giêsu tái khẳng định với chúng ta rằng vợ chồng không còn là hai mà là một huyết nhục và điều gì Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không được phân li.
Đã nên một xương một thịt với nhau mà phân li, chia cắt thì đau xót biết bao! Phân li như thế khác chi tự phanh thây xẻ thịt mình.
Cấu trúc của máy bay có hai cánh. Nhờ hai cánh mà máy bay cất cánh và giữ được thăng bằng. Nhờ cấu trúc nầy, máy bay lướt gió, vượt lên trên các tầng mây, bay xuyên qua đại dương và các lục địa. Nếu có ai đó chặt bỏ mất một cánh, thì máy bay không thể cất cánh được, hoặc nếu có cất cánh được thì cũng lảo đảo mấy vòng rồi lao xuống đất.
Cấu trúc của gia đình là nam và nữ kết hợp nên một như hai cánh máy bay. Nếu ai phá vỡ cấu trúc nầy, gia đình sẽ bị đổ vỡ và gây ra tổn thất rất lớn cho xã hội loài người.
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm xưa Chúa đã cầu xin cho các môn đệ được hợp nhất nên một như Ba Ngôi là một, thì nay xin Chúa cũng lặp lại lời cầu đó cho mỗi thành viên trong các gia đình: "Lạy Cha, xin cho người chồng, người vợ, người con trong các gia đình nầy được "nên một như chúng ta là một" (Ga 17,22), nhờ đó các gia đình con cái Chúa được hiệp nhất trong yêu thương và trở nên hình ảnh sống động của Gia Đình Ba Ngôi.
5. Một mình – Lm. Vũ Đình Tường
Sống một mình không tốt. Lời khuyên của tiền nhân là như thế. Trải qua nhiều kinh nghiệm sống ông cha đã nhận biết con người không thể nào hạnh phúc tràn đầy nếu sống vò võ một mình. Sống một mình đây không thể hiểu là sống độc thân. Sống một mình đây có nghĩa là sống mà không biết đến ai, chỉ biết đến mình tôi, riêng tôi mà thôi. Tôi là quan trọng. Ngoài tôi ra, tôi không cần ai. Đó là ý nghĩa đích thực của sống một mình. Cá nhân sống một mình trong cảnh cô đơn, thiếu người chia sẻ tâm tình, dù rằng quanh mình có nhiều người thân nhưng không sống chung được với ai. Con người lệ thuộc vào nhau để sống; chọn sống một mình là chọn hưởng những sáng chế của người khác còn mình khư khư tích trữ tài năng cho riêng mình. Quốc gia chọn sống một mình theo chính sách bế quan toả cảng, bài khích các quốc gia khác chính là chọn sống lạc hậu, thụt lùi mà một số nước gặp phải, trở thành tụt hậu trong nhiều thế kỉ.
Chọn sống một mình là chọn cuộc sống tự trói buộc mình, tự ngăn cách mình với mọi người. Mỗi người trong chúng ta là con người xã hội, cần sống chung với mọi người trong xã hội. Sống chung có những phiền phức riêng của nó. Thí dụ sống chung luôn có những tư tưởng khác biệt, í kiến dị biệt nên cần phải có người lãnh đạo hướng dẫn chọn í kiến thích hợp chung, có lợi cho đại đa số. Điều không may xảy ra cho xã hội là người lãnh đạo thường lầm lẫn giữa lãnh đạo với dụng quyền. Tài lãnh đạo là tài tổ chức, điều hợp và biết cắt cử, xử dụng người đúng công việc. Nhờ khéo tổ chức, giỏi điều hành và xử dụng đúng tài năng mà công việc tiến hành tốt đẹp, được việc và những cộng tác viên lại thoải mái,vui vẻ, hăng hái trong công việc. Người lãnh đạo thiếu những đức tính cần thiết trên thường xử dụng quyền lực như là cách duy nhất để điều hành công việc. Trong khi người có tài lãnh đạo rất ít khi dùng quyền, ngay cả người đó có quyền rất ít khi dùng tới bởi vì người đó thấy không cần thiết phải xử dụng đến mà thay vào đó là tài năng thuyết phục, giải thích, trình bày sao cho người nghe tự nguyện thi hành một cách vui vẻ.
Dụng quyền vì người lãnh đạo thiếu khả năng lãnh đạo nên dùng bạo lực như sức mạnh nồng cốt thay cho các khả năng thiếu sót khác. Dụng quyền thường gây nên bất mãn, bực dọc và đó là nguyên nhân gây nên bất hoà, bất mãn ngầm trước khi đi đến ra mặt chống đối. Dùng sức mạnh, bạo lực đạt được kết quả theo í muốn, giải quyết được vấn đề này nhưng lại nảy sinh ra những vấn đề khác, có thể phức tạp, rắc rối hơn vấn đề đã được giải quyết. Người lãnh đạo tự ban cho mình quyền xử dụng sức mạnh nhưng thực ra họ không có quyền đó. Quyền họ tưởng có chỉ là giả tạo, ảo ảnh, chính họ trao trong tay họ. Thực tế cuộc sống cho thấy càng cố gắng xử dụng bạo lực, sức mạnh để cầm giữ người khác nhiều bao nhiêu thì càng tạo ra sức phản hồi, ngăn cách, chia rẽ bấy nhiêu. Sức mạnh, bạo lực và ban thưởng tạo ra những kẻ nịnh đầm, vâng vâng, dạ dạ vì bổng lộc, danh lợi mà không gây được thiện cảm, tâm tình quí trọng và lòng mến thiết tha, chân thành.
Bạo lực trong gia đình giết chết tình yêu gia đình, đào sâu hố ngăn cách giữa cha mẹ và con cái trước khi xảy ra tình trạng li dị. Điều này xảy ra ngàn năm trước đây và đến nay xem ra vẫn chưa có thuốc trị. Vì thế có chuyện người ta giả vờ hỏi Đức Kitô về vấn đề li dị. Ngài mượn cơ hội hỏi giả vờ để đưa ra câu trả lời thật. Hôn nhân Thiên Chúa giáo xảy ra giữa một người nam và một người nữ. Hôn nhân này lâu bền vĩnh cửu và là bí tích thánh.
Lị dị không phải là vấn đề mới mẻ gì trong cuộc sống. Thời tổ phụ Môi sen đã có li dị. Thời Đức Kitô cũng có xảy ra li dị và thời đại mới dường như li dị càng ngày càng tăng, không giảm vì lòng chai dạ đá (Mc 10,7)
Mọi cố gắng định nghĩa hôn nhân khác với điều Đức Kitô truyền dậy đều đưa đến đổ vỡ thảm khốc vì nó là khôn ngoan của loài người, không phải khôn ngoan của Thiên Chúa. Xã hội chúng ta đang sống li dị xảy ra thường xuyên và có đà tăng nhanh gây nên bởi những định nghĩa khác nhau về hôn nhân. Những định nghĩa mới này thường là xa lạ, khác biệt với giáo huấn vừa tinh tuyền vừa thánh thiện được Đức Kitô cổ võ và bảo trợ. Ngài cổ võ vì đó là tình yêu thực, hạnh phúc thực đến từ nguồn hạnh phúc thực là Thiên Chúa vua tình yêu.
6. Nụ hôn – Lm. Vũ Đình Tường
Hôn nhân, hôn ước, hôn phối, hôn lễ, thành hôn, kết hôn, tiêu hôn, tái hôn. Tất cả nhấn mạnh về chữ hôn. Chữ hôn đứng vai chủ động diễn tả hành động yêu thương, cử chỉ trìu mến, tác thành như tân hôn, kết hôn, thành hôn, tái hôn. Chữ hôn dùng trong trường hợp cử hành các nghi thức mừng vui như hôn lễ, hôn phối, hôn ước. Tiếc thay chữ hôn còn dùng diễn tả sự kiện buồn tẻ, cô đơn như tiêu hôn.
Kinh thánh ghi lại hai nụ hôn: Nụ hôn phản bội của Yuđa bị chỉ trích. Nụ hôn đó đến từ đầu, do suy luận, có tính toán hơn thiệt. Trái lại Chúa khen nụ hôn chân thành đầy lòng yêu mến của chị phụ nữ thống hối ăn năn trở lại Lc 7,36tt. Nụ hôn đó đến từ con tim, không so đo hơn thiệt. Chúa yêu chị nhiều; chị đáp lại nhiều. Nói đến nụ hôn gợi nhớ hình ảnh bông hoa chớm nở, không giống kiểu hôn trên màn ảnh tivi lè lưỡi lát người yêu.
Có nhiều cách diễn tả tình yêu. Một trong những cách đó là dùng nụ hôn để diễn tả nội tâm một cách trìu mến. Chúng ta cùng tìm hiểu câu Chúa trả lời những người hỏi Chúa về vấn đề li dị trong Phúc Âm thánh Marcô 10,1-12.
Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương, một thịt.
Môsê cho phép li dị vì sao? Vì các ông lòng chai dạ đá. Người ta nại cớ, viện vào sức mạnh quần chúng, ý kiến đại đa số ép Môsê làm công việc Môsê không muốn. Điều chắc chắn là lòng chai dạ đá của con người không lay chuyển ý định của Thiên Chúa. Hôn nhân không phải là điều mới mẻ.Thiên Chúa dự liệu ngay từ thuở sáng tạo, khởi đầu công trình tạo dựng của Ngài. Thiên Chúa sáng tạo không chùn bước, tháo lui trước sức ép ý kiến đa số hoặc sức mạnh đám đông. Luật Chúa là luật yêu thương nên không thể bỏ qua. Luật yêu thương này không bị thời gian chi phối. Không thể nại cớ luật cũ xưa như trái đất, lỗi thời cần phải thay đổi. Chúa không chối bỏ điều đó Ngài tái xác định khi nhắc đến câu ‘lúc khởi đầu công trình sáng tạo’. Luật Chúa dù cũ cổ xưa như trái đất không bị mai một với năm tháng, thời gian. Luật yêu thương tồn tại và vĩnh cữu đến muôn đời.
Luật Chúa là luật yêu thương, có lợi cho con người. Luật Chúa là luật tạo dựng, kết hợp. Luật xã hội tốt lành nếu luật đó có nguồn gốc phát xuất từ luật Chúa. Luật Môsê cho phép viết giấy li dị không phát xuất, không có nguồn gốc từ luật Chúa vì thế Chúa nhắc cho họ nhớ là ngay từ đầu công trình sáng tạo vấn đề li dị đã bị loại bỏ, không được đặt ra. Luật Môse cho phép li dị với lí do chính đáng, luật đó thuần túy xã hội, do con người sáng chế ra. Chúa Yêsu muốn đưa con người trở về nguồn gốc từ lúc sáng tạo đó là luật yêu thương. Chúa thấy mọi sự tốt đẹp trong công trình sáng tạo của Chúa. Luật con người sáng chế thay đổi theo hòan cảnh, nơi chốn. Luật đó tồn tại nhất thời, không vĩnh cữu.
Căn bản của hôn nhân là tình yêu, không phải luật lệ ràng buộc. Chính tình yêu liên kết hai người thành mối giây yêu thương. Người ta nhấn mạnh đến luật hôn nhân. Chúa nhắc đừng lầm ý định của Chúa. Ngài nhấn mạnh đến tình yêu. Hôn nhân liên kết hai người không phải vì luật ràng buộc mà là yêu thương.
Chính tình yêu gắn bó, liên kết hai người thành một ‘xương, một thịt’. Bởi thế người đàn ông lìa bỏ cho mẹ để luyến ái vợ mình và cả hai trở nên một xương một thịt. Luật không có khả năng gắn bó hai người thành xương thịt. Luật hỗ trợ cho hôn nhân nhưng không gắn bó. Liên kết, gắn bó là hoa trái của luyến ái, của tình yêu. Luật không bảo đảm giúp hôn nhân tồn tại. Tình yêu bảo đảm gắn bó, liên kết hôn nhân. Đôi tân hôn tuyên hứa trung thành, lời hứa chưa phai, luật chưa đổi nhưng họ đã chia tay vì tình yêu tàn lụi. Luật không thay đổi nhưng mức độ yêu thương tàn lụi nên có lắm li dị, nhiều phá ngang. Hôn nhân tồn tại bao lâu hai người còn yêu nhau, tình còn nồng, dù lời thề đã phai.
Con người dùng luật để liên kết hôn nhân. Chúa dùng tình yêu liên kết hôn nhân; dùng mối tình của chàng, nàng trao nhau. Tương tự như thế Chúa không liên kết chúng ta bằng luật nhưng ‘Ai yêu mến Thầy.... Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở lại với người ấy Gn 14,24’.
Tình yêu nối kết nên một, không phải luật. Nếu là luật thì đó chính là luật yêu thương. Hôn ước, có đại diện Hội Thánh chứng kiến, công khai trước thân nhân, thân hữu và xảy ra trong nơi thánh, biến hôn ước thành giao ước thánh. Chúa chúc phúc, thắt chặt và nâng mối tình tự hiến trao ban thành bí tích. Chúa liên kết hai người bằng chính hai mối tình họ tự nguyện dâng hiến. Chúa ban ơn giúp họ sống trong tự do, tôn trọng và giữ mối tình sắt son bền chặt. Khi một trong hai mối tình lỏng lẻo tình yêu chao đảo, lỏng lẻo. Khi cả hai mối tình thắt chặt tình yêu bền chặt. Khi một trong hai mối tình chết đi; mối còn lại không bị ràng buộc nữa. Người đó tự do thắt mối tình mới.
Khi có tố tụng tòa án hôn phối không làm công biệc tháo gỡ bí tích hôn phối. Dùng chữ tháo gỡ bí tích hôn phối là sai. Sự gì Thiên Chúa liên kết con người không được phân li. Nhiệm vụ của tòa hôn phối là xét xem mối tình hai người trao nhau năm xưa có ngăn trở gì không. Nếu không ngăn trở thì đó là bí tích. Một khi đã là bí tích, tòa án hôn phối đành bó tay, không có năng quyền tháo hay cởi. Nếu có ngăn trở, hôn ước xưa không phải là bí tích. Tòa hôn phối tuyên bố đây không phải là bí tích với những lí do đính kèm. Môt khi không phải là bí tích nghĩa là Thiên Chúa chưa kết hợp. Vì chưa kết hợp con người có quyền phân li.
7. Chung thủy trong hôn nhân -- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Mọi người phải công nhận gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu nền tảng gia đình không vững chắc thì lâu đài xã hội có nguy cơ sụp đổ. Ngày nay nền tảng gia đình đang bị lung lay do những cuộc đổ vỡ, phản bội, nói đúng, hơn là do những cuộc ly dị xẩy ra hằng ngày. Thực ra chế độ đa thê và ly dị đã có từ xưa trong xã hội, nhưng nó được đặt lại cho dân Chúa từ thời ông Maisen. Chính ông đã cho phép hợp thức hóa, qui định luật và làm thành thủ tục. Luật này vẫn còn tồn tại cho tới thời Chúa Giêsu .
Luật tuy đã có đấy, nhưng người biệt phái muốn Chúa Giêsu phải xác định rõ ràng xem người đàn ông có được phép rẫy vợ không, có ý gài bẫy Chúa, để Ngài phải trả lời và trả lời thế nào cũng gặp nguy hiểm. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời có hay không mà chỉ dùng Kinh Thánh để nhắc nhở cho người ta phải trở về nguồn gốc ý định đầu tiên của Thiên Chúa khi dựng nên loài người: "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mt 19,6).
Ngày nay, Giáo hội vẫn trung thành với giáo lý của Chúa Giêsu và luôn khẳng định đặc tính "vĩnh viễn" của hôn nhân Công giáo. Không ai có quyền hủy bỏ giao ước hôn nhân hợp pháp vì đây là luật của Chúa. Luật bất ly dị xem ra là một luật khắt khe và khó khả thi, nhưng với ơn Chúa trợ giúp chúng ta có thể thực hiện được, và nhờ đó Giáo hội cũng như xã hội càng thêm vững chắc, gia đình dễ tìm được hạnh phúc.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: St 2,18-24.
Trong bài đọc 1, tác giả sách Sáng thế nói với chúng ta về nguồn gốc cặp vợ chồng đầu tiên trong nhân loại: chính Thiên Chúa đã tạo dựng người nam người nữ, bổ túc cho nhau để trong hôn nhân, họ tạo thành một cặp vợ chồng bền vững. Chúng ta có thể rút ra được mấy tư tưởng - - Người nam sống một mình cô đơn cần phải có người khác để chia sẻ.
- Thiên Chúa dựng cho người nam một người nữ làm trợ tá tương xứng.
- Người nữ trợ tá này có quyền bình đẳng với người nam.
- Người nam và người nữ kết hợp với nhau, gắn bó với nhau thành một xương một thịt.
+ Bài đọc 2: Dt 2,9-11.
Tác giả thư gửi tín hữu Do thái nhằm tôn vinh chức tư tế của Đức Kitô: Ngài là vị tư tế hoàn hảo. Để thực hiện chương trình của Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống làm người chịu nạn chịu chết, bị hạ xuống thua kém các thiên thần một thời gian ngắn, nhưng qua việc Phục sinh, Ngài lại được nâng lên và trở thành vị lãnh đạo thập toàn.
Nếu các Kitô hữu cùng kết hợp với cuộc khổ nạn của Ngài thì Ngài cho phép mọi người được dự phần vinh quang của Ngài.
+ Bài Tin Mừng: Mc 10,2-16.
Bài Tin mừng hôm nay được chia thành hai phần:
a) Về vấn đề ly dị:
Có người biệt phái đến phỏng vấn Chúa Giêsu về vấn đề ly dị có ý gài bẫy Ngài, bởi vì luật Maisen đã cho ly dị, còn Chúa Giêsu thì lại kết án.
Về vấn đề ly dị thì có hai trường phái đối nghịch nhau: phái tự do và phái bảo thủ. Phái tự tự do thì cho rằng có thể ly dị vì bất cứ lý do gì dù rất tầm thường. Còn phái bảo thủ thì khắt khe hơn, chỉ dược ly dị trong trường hợp ngoại tình. Tuy chủ trương khác nhau, nhưng hai phái này có một điểm chung là cho phép ly dị.
Sau khi giải thích tại sao Maisen đã phải dàn xếp như vậy, Chúa Giêsu lớn tiếng tuyên bố cần phải tái lập cho hôn nhân được sự trong sáng nguyên thủy: "Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly".
b) Thái độ đối với trẻ con.
- Người Do thái có thói quen đem trẻ nhỏ đến cho những người có uy tín đặt tay chúc lành cho chúng. Thấy Chúa Giêsu là bậc Thầy nhân hậu có nhiều uy tín, họ đã đem trẻ nhỏ đến để Ngài chúc lành cho chúng.
- Các môn đệ tỏ ra khó chịu, muốn đuổi chúng đi vì chúng là những kẻ bắng nhắng, hay quấy rầy người lớn.
- Nhưng Chúa Giêsu ngăn cản các ông và dạy cho các ông một bài học là mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại trừ bất cứ ai.
- Nhân dịp này, Chúa cũng bảo người lớn phải có tâm hồn như trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Chung thủy trong Hôn nhân
1. Theo ý định của Thiên Chúa.
Theo sách Sáng thế, Thiên Chúa đã dựng nên con người là Adong giống hình ảnh Chúa, cho làm chủ mọi công trình tạo dựng của Ngài, nhưng Ngài thấy "con người ở một mình không tốt" nên từ cạnh sườn của Adong Thiên Chúa đã dựng nên cho ông "một trợ tá tương xứng với ông". Thiên Chúa đã giới thiệu Evà cho ông và ông đã phải thích thú kêu lên: “Đây là xương bởi xương tôi, và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là đàn bà (Ishsah) vì bởi đàn ông (Ish) mà ra"(St 2,23).
Hai nguyên tổ là những tạo vật do Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài và do một tình thương đặc biệt, Ngài cho hai người phối hợp với nhau trở nên một xương một thịt, bởi vì "người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình và hai người sẽ nên một xương một thịt"(St 2,24).
Như vậy, ý định của Thiên Chúa là sáng tạo một người nam và một người nữ để thành một huyết nhục là khế ước tình yêu giữa người nam và người nữ. Hiệu quả của khế ước này là sự trở nên làm một với nhau. Điều này chứng tỏ việc ly dị là phủ nhận khế ước tình yêu giữa nam và nữ, đồng thời cũng nói lên sự bất phục tùng ý định của Thiên Chúa. Tình yêu vợ chồng phải là tình yêu duy nhất và chung thủy: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly"(Mt 19,6).
2. Luật thời Maisen.
a) Luật trong sách Đệ nhị luật:
Luật ly dị của người Do thái vốn bắt nguồn từ Đệ nhị luật 24,1. Đoạn sách này là nền tảng của toàn thể vấn đề. Câu ấy chép: “Khi một người nam cưới vợ, nếu nàng chẳng được ơn trước mặt chàng, bởi chàng thấy nơi nàng một xấu hổ nào, thì chàng được viết một tờ ly dị, trao vào tay nàng và đuổi khỏi nhà mình"(Đnl 24,1).
Thoạt tiên, tờ ly dị vợ rất đơn giản. Nó được viết như sau: “Đây là tờ giấy tôi viết để ly dị cho ra khỏi nhà và cho (nàng) được tự do, có thể lấy ai tùy ý". Về sau tờ giấy ly dị được viết lại kỹ lưỡng và trau chuốt hơn.
Vào thời Tân ước, chứng từ này phải do một rabbi có tài năng thảo ra. Sau đó, nó còn phải được một hội đồng gồm 3 rabbi phê chuẩn, rồi được lưu trữ ở Tòa An Tối cao. Nhưng nói chung thì việc ly dị vợ hết sức dễ dàng và hoàn toàn do ý muốn của người đàn ông.
b) Hai trường phái cắt nghĩa luật.
Maisen phần lớn chỉ lấy lại "luật theo tục lê" của thời ông, mà thời đó chế độ đa thê và ly dị đã nằm trong truyền thống có cơ sở vững chắc. Vì không thể làm hơn được, ông đã cố sửa chữa những sở thích tùy tiện bằng cách "hợp thức hóa","qui định" và thiết lập một "thủ tục". Ông muốn giới hạn sự ác bằng cách buộc phải theo thủ tục rõ ràng. Nhưng cũng như mọi luật lệ, luật này có thể được áp dụng rộng rãi hay là ngược lại.
Vấn đề then chốt thực sự là việc giải thích luật pháp dựa theo chương 24,1 trong sách Đệ nhị luật. Câu ấy qui định người đàn ông có thể ly dị vợ nếu có một "xấu hổ". Vậy họ phải giải nghĩa câu này thế nào? Trong vấn đề này chúng ta thấy có hai trường phái đối nghịch nhau: trường phái bảo thủ và trường phái tự do.
* Trường pháo bảo thủ (Rabbi Shammai): giải thích hết sức khắt khe: xấu hổ là ngoại tình và chỉ có ngoại tình (tà dâm) mà thôi.
* Trường phái tự do (Rabbi Hille): phái này cắt nghĩa rất rộng rãi. Họ bảo nó có nghĩa là nếu người vợ làm hỏng đĩa đồ ăn, la cà ngoài phố, trò truyện với đàn ông lạ, nói hỗn với bà con bạn bè của chồng gần bên chồng… là đáng xấu hổ.
Thậm chí Rabbi Akiaba còn đi rất xa để giải thích câu "nếu nàng chẳng được ơn trước mặt chàng" là nếu người đàn ông thấy có người đàn bà nào đẹp hơn vợ mình.
Sở dĩ có vấn đề được đặt ra ở đây là theo luật Do thái, phụ nữ vốn bị xem như một đồ vật. Phụ nữ không có quyền lợi pháp định, hoàn toàn bị đặt dưới quyền sử dụng của đàn ông làm chủ trong gia đình. Hậu quả là người đàn ông có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì, trong khi hầu như có rất ít lý do để người phụ nữ được phép ly dị. Cùng lắm, người vợ chỉ có thể xin chồng ly dị mình mà thôi. Phụ nữ bị chồng ly dị dầu có thuận ý hay không, nhưng đàn ông thì có thể tự ý ly dị vợ. Chỉ có lý do để một người phụ nữ được quyền xin ly dị chồng là khi người chồng mắc bệnh phung, hoặc khi người ấy xâm phạm tiết hạnh một trinh nữ, hoặc khi người chồng cáo gian vợ phạm tội trước khi kết hôn với nhau.
Truyện: ly dị nơi bộ lạc Babira.
Bộ lạc Babira bên Phi châu là nơi người chồng ly dị dễ dàng nhất với vợ.
Người chồng chỉ việc đợi lúc ban đêm, đặt trước túp lều của vợ mình một bình dầu nhỏ và một chiếc gậy (gậy chống để đi cho đỡ mỏi) là sáng dậy người vợ hiểu ngay rằng người chồng đã ly dị với mình.
Chiếc gậy để lại cho vợ có nghĩa là: bà hãy đi tìm người khác mà nương tựa. Còn lọ dầu nhỏ là theo một phong tục cổ truyền.
3. Vấn nạn đặt ra cho Chúa Giêsu.
Vấn đề được đặt ra là luật pháp cho phép ly dị đã rõ ràng như vậy rồi, tại sao những người biệt phái lại hỏi Chúa Giêsu: “chồng có được phép rẫy vợ không"? Đó là câu hỏi đầy ác ý, có ý gài bẫy Ngài. Họ đặt ra câu hỏi ấy để bắt bí Chúa Giêsu: dù Chúa trả lời như thế nào đi nữa, thì Ngài cũng phải lãnh chịu một phần công luận, vì đây là vấn đề nóng bỏng và chạm đến những gì thâm sâu nhất của con người. Không ai có thể trung lập trước câu hỏi, vì phải chấp nhận tình trạng này hay tình trạng kia một cách cụ thể.
Thật vậy, người biệt phái đã thử thách Chúa Giêsu một cách thâm độc ghê gớm. Hỏi Chúa Giêsu: Chồng có được phép ly dị vợ mình không? Họ hỏi câu này ngay trong đất của Hêrôđê Antipas. Ông vua này mới ly dị vợ để lấy Hêrôđia, vợ của anh mình là Philipphê I. Gioan Tiền hô đã cảnh cáo vua và dã bị chặt đầu. Nếu Chúa Giêsu phản đối luật ly dị, thì sẽ bị chặt đầu như Gioan, và đồng thời nghịch lại với Maisen. Nếu Chúa Giêsu đồng ý cho ly dị, thì lại trái ngược với Gioan và dân chúng sẽ phản đối vì dân chúng rất tôn kính Gioan.
4. Chúa giải quyết vấn đề.
Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào cạm bẫy của họ. Ngài trả lời bằng một câu hỏi: “Thế ông Maisen đã truyền dạy các ông điều gi"? Khi dùng từ ngữ truyền dạy, Ngài buộc những lời chất vấn phải nhìn nhận công khai, đó không phải là một "lệnh truyền" của Maisen mà chỉ là một "nhân nhượng" vì lý do nhân đạo. Họ thú nhận: ông Maisen đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ.
Thực ra, luật này (Đnl 24,1) chỉ cấm lấy lại một người đàn bà đã bị rẫy và nói đến việc viết tờ ly dị, chứ không có chỗ luật nào nói rõ việc được phép ly dị… Chính các biệt phái cũng phải công nhận rằng Maisen cho phép viết tờ ly dị chứ không ra lệnh phải làm việc này (GM B. Nguyễn sơn Lâm, Lời Chúa các Chúa nhật năm B, tr 422).
Phần Chúa Giêsu, Ngài luôn luôn đứng về phía Thiên Chúa, nhưng Ngài đã trưng Kinh Thánh để trả lời: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, và cả hai sẽ thành nên một xương một thịt… Sự gì Thiên Chúa phối hợp loài người không được phân ly".
Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ, thương yêu nhau chí thân chí thiết đến nỗi nên cùng một xương một thịt, hợp nhất với nhau nên một. Người Đông phương diễn tả sự hiệp nhất đó bằng một hình tròn, trong đó có âm có dương. Am là nữ, dương là nam, hình tròn chỉ sự toàn hảo, toàn thiện, toàn mỹ. Am dương hòa hợp vơi nhau hoàn hảo như thế gọi là thái hòa. Hòa tới tột độ gọi là thái cực. Nhờ sự hòa hợp đó sinh ra bốn mùa xuân hạ thu đông gọi là tứ tượng. Bốn mùa xoay vần, đắp đổi nhau làm cho muôn loài, muôn vật được phát triển, sinh sôi nảy nở, lớn lên, xanh tốt, trưởng thành, kết trái, rồi lại trở về cội nguồn hoàn hảo, toàn thiện, toàn mỹ.
Hình tròn thái hòa âm dương không có góc cạnh gẫy góc, không có khuyết điểm, phân chia, thật hoàn toàn tốt đẹp diễn tả được ý nghĩa hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập như Ngài đã nói: “Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta, như họa hình Ta" (St 1,28).
(Vũ Khắc Nghiêm, Xây Nhà Trên Đá, năm B, tr 190)
HÔN NHÂN THỜI CHÚNG TA.
1. Thực trạng các gia đình thời nay.
Lịch sử con người đầy rẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Maisen dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến Đavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Hêrôđê ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp tục cho đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/1989 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.
Trong tiệc cưới người ta thường chúc cô dâu chú rể nhiều điều tốt lành, nhưng có một lời chúc mà người ta dùng nhiều nhất là "Trăm năn hạnh phúc". Cầu mong hạnh phúc thì ai cũng muốn, nhưng để có được hạnh phúc quả thật không dễ chút nào. Bởi hôn nhân không phải là chuyện tháng ngày, mà là chuyện cả một đời. Rất cần có sự keo sơn, chung thủy, nhẫn nhục và tha thứ cho nhau.
Hiệp nhất trong hôn nhân phải là sự hiệp nhất trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác. Có thể nói hôn nhân chính là cuộc đời "3 in 1": hai trong một.
Người ta thường nói: "Vợ chồng như đũa có đôi" để minh họa cho sự hiệp nhất, gắn bó, nương tựa giữa hai vợ chồng:
Thà rằng chiếu lác có đôi
Chẳng hơn chăn gấm lẻ loi một mình.
Có một câu thơ khá phổ biến, như một điệp khúc dễ thương: "Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai". Trước đây, vợ chồng thường xưng hô với nhau: "Mình ơi mình", còn ngày nay, các bạn trẻ lại thi vị gọi người bạn đời là "Một nửa của tôi ơi"!
Lý tưởng thì vậy đấy nhưng thực tế thì thật là chua chát. Người ta không ngại ngùng chặt phăng cái nửa mình mà quăng đi nơi khác. Vì tình, vì tiền, vì chức quyền, danh vọng, vì tính tình khác biệt… người ta có thể xé toạc cái giao ước hôn nhân mà bỏ vào thùng rác. Lúc này giao ước còn có nghĩa gì đâu! Lúc này người ta cho phản bội là một việc bình thường nên mới thẳng thừng nói với nhau:
Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
(Thế Lữ)
3. Lý do của việc ly dị.
Theo tài liệu của Ủy Ban Tòa thánh chuyên trách về gia đình, chúng ta thấy tài liệu viết: “Con người và gia đình hiện nay sống trong một xã hội "bị động", nghĩa là thiếu lý tưởng, muốn làm gì thì làm, bị tục hóa và là nơi mà sự giải thoát mình được thực hiện bằng nhiều cách, mà một trong những cách đó là dùng ma túy… Thời đại chúng ta đề cao tự do, một thứ tự do không còn được coi là tích cực hướng về sự thiện, mà là thoát ly khỏi mọi điều kiện cản ngăn mỗi người làm theo ý riêng mình…
Người ta ca tụng chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa ích kỷ" (Tập Du désespoir à l'espérance, L.E. Vatican, 1992).
Vì muốn theo chủ nghĩa thực dụng ích kỷ để thỏa mãn những khoái lạc thể xác, người ta không còn tôn trọng hôn nhân theo truyền thống nữa mà thích theo hôn nhân tự do. Loại hôn nhân này chẳng có phép đời, cũng chẳng có phép đạo. Tại Pháp, năm 1975 loại hôn nhân tự do là 445.000 trường hợp. Đến ăm 1982 loại trường hợp tự do đã tăng lên gấp đôi tức là 809.000 đôi.
4. Phải củng cố lại tình yêu gia đình.
Chúng ta phải đổi mới và làm tươi trẻ lại tình yêu hôn nhân như người ta nói: “Hãy rửa tội cho tình yêu mỗi buổi sáng và hãy cưới lại nhau mỗi ngày". Trong bài đọc 2, tác giả thư Do thái đã nhấn mạnh đến sự khắng khít giữa Đức Kitô và loài người trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh. Đức Kitô đã không để lại cho chúng ta một tấm gương khắng khít hòa hợp và hiệp nhất đó sao? Ngài đang kêu gọi chúng ta không những kết hợp bất khả ly với Ngài mà còn với nhau nữa. Ngài muốn khuyến khích riêng các gia đình đang gặp khó khăn đó.
Thiên Chúa dựng nên chúng ta để yêu thương - nhận và cho tình yêu. Tuy nhiên, khả năng yêu thương không phải là một vật mà Ngài ban cho đôi lứa trong ngày hôn lễ cùng với mọi quà tặng khác. Tình yêu là một điều mà người ta phải học biết. Hành trình thực sự mà đôi vợ chồng mới cưới phải thực hiện, không còn là cuộc hành trình cô độc, mà là cuộc hành trình đi từ tính ích kỷ đến tình yêu.
Không có gì thách thức tình yêu bằng hôn nhân, cũng không có gì đem lại cho tình yêu cơ hội trưởng thành bằng hôn nhân. Nó đòi hỏi phải có nhiều sự trưởng thành. Theo kinh nghiệm, chúng ta thấy những con cá vàng trong chậu hòa hợp với nhau dễ dàng. Nhưng bạn hãy đem hai người đến sống chung thì ít lâu sau họ sẽ có vấn đề. Khi hai người kết hôn, họ đem đến hôn nhân sức mạnh và sự yếu đuối, tình yêu và thù hận, va chạm và tổn thương, hy vọng và sợ hãi.
Tuy nhiên, những khó khăn mà họ gặp có thể là những cơ hội để họ trưởng thành. Khi đã khắc phục được vài cơn bão tố thì mối tương quan trở nên sâu sắc.
Đứng trước tình trạng bi đát của các gia đình, Hội đồng Giám mục Pháp đưa ra một đường lối khả thi để xây dựng cuộc sống gia đình: “Để xem xét mục vụ về bí tích hôn nhân, chúng ta phải thực sự quan tâm đến những điều kiện thực tế hiện nay của đời sống lứa đôi: cuộc sống tạm bợ, bấp bênh về tương lai, bất ổn về đời sống lứa đôi không ngừng gia tăng, đổi thay của thân phận phụ nữ, những vấn đề do việc điều hòa sinh sản đạt ra. Khi để ý đến những điều kiện này, ta có thể trình bầy những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân như một đường lối khả thi để xây dựng đời sống lứa đôi và gia đình. Một đường lối khả thi, nghĩa là đi theo nó, đôi vợ chồng không bị bỏ rơi, nhưng, nhờ sự nâng đỡ của một nhóm hay một cộng đoàn Kitô hữu, chính họ được mời gọi để hiểu rằng Lời Đức Kitô dạy về tình yêu nhân loại đáp ứng được điều sâu thẳm nhất, mà cũng mỏng giòn nhất nơi con người"(Fiches dominicailes, năm B, tr 295).
5. Cầu nguyện cho gia đình hiệp nhất.
Người ta thường nói: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", dù con người có nỗ lực đến đâu cũng không đạt tới kết quả mong muốn nếu không có ơn Chúa trợ giúp vì Ngài đã nói: "Không có Thầy các con không làm được gì", nhưng Ngài cũng nói: "Hãy xin thì sẽ được", do đó, chúng ta phải nỗ lực cầu nguyện nhiều để gia đình được hiệp nhất, tránh được sự đổ vỡ đang rình rập.
Để có đượcnhững tâm tình đó, chúng ta hãy đọc lại đoạn kết bài giảng của Đức Cha B. Nguyễn sơn Lâm: “Mầu nhiệm Thánh Thể của Người mà chúng ta cử hành bây giờ thật sự nói lên điều này. Đức Kitô chấp nhận sự chết là hình phạt của mọi người để đưa mọi người lên phúc vinh quang. Người kêu gọi chúng ta mật thiết kết hợp với Người. Và đồng thời Người sẽ thêm cho chúng ta sức mạnh kết hợp với nhau như các chi thể trong một thân thể. Với ơn của Người, chúng ta sẽ lướt thắng mọi khó khăn trong tương giao xã hội và đặc biệt trong quan hệ gia đình, để khi mến Chúa nhiều, chúng ta cũng đoàn kết yêu thương nhau nhiều, không phải chỉ bằng cảm tình và lời nói hoặc lời cầu nguyện, mà bằng việc làm, hy sinh, cố gắng. Và chúng ta sẽ thấy đời người thật đáng sống khi có ơn Chúa.
Truyện: Chiếc ghế quì.
Một phụ nữ Đức đến xin tòa ly dị, vì ông chồng quá say sưa, chửi mắng, đập phá. Vị chánh án là ông Windthorst, một nhân vật thời danh của Giáo hội Đức. Vị chánh án hỏi:
- Lúc chồng bà say sưa, chửi mắng, đập phá, bà đối xử thế nào?
Bà trả lời:
- Thưa ngài, dĩ nhiên là tôi phải gây sấm sét giông tố đối lại.
Vị chánh án ôn tồn bảo:
- Tôi thấy hình như trong nhà bà thiếu một việc cần thiết để gây hòa bình, đó là chiếc ghế quì. Bà hãy về sắm chiếc ghế quì. Rồi mỗi lần ông chồng trở về say sưa, chửi bới, đập phá, bà hãy mau mắn quì vào ghế đó và thay vì nói với chồng, bà hãy nói với Chúa.
Bà này về làm đúng theo lời chỉ bảo. Ít lâu sau bà trở lại, sung sướng báo tin cho cho vị chánh án hay: “Môn thuốc ghế quì thật là linh nghiệm".
8. Bất khả phân ly
Bọn Biệt phái hôm nay đưa vấn đề ly dị ra hỏi Chúa Giêsu, không phải là để có thêm kiến thức hay tranh thủ ý kiến của Ngài, nhưng là để giăng bẫy gài Ngài. Một cái bẫy không kém phần thâm độc. Họ chọn đúng lúc có đông đảo dân chúng tụ tập xung quanh Chúa Giêsu để đòi buộc Ngài phải bày tỏ rõ lập trường. Uy tín của Ngài sẽ tùy thuộc vào cách giải quyết của Ngài. Mà theo những người Biệt phái, Chúa Giêsu sẽ không dễ gì thoát được cạm bẫy của họ. Nếu trả lời được phép, thì Ngài sẽ đi ngược lại lề luật của Thiên Chúa. Còn nếu trả lời không được phép, thì Ngài sẽ vi phạm điều Maisen qui định.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần âm mưu của bọn Biệt phái bằng cách kéo họ về với điều Thiên Chúa muốn người ta thực hiện. Chúa Giêsu đã gợi lại: Khởi đầu cuộc sáng tạo con người, Thiên Chúa dựng nên người nữ, để làm vợ của người nam, nghĩa là làm người bạn đường, bình đẳng với người nam…
Để diễn tả ý tưởng này, Kinh Thánh cho thấy Thiên Chúa đã dựng nên người nữ, không phải bằng bụi đất, mà bằng chính xương thịt của người nam. Và trong quan niệm của người Do Thái, thì lồng ngực được cấu tạo bởi bộ xương sườn đó chính là trung tâm của sự sống con người. Như thế, giữa người nam và người nữ, giữa người vợ và người chồng, có một mối quan hệ mật thiết với nhau, quan hệ xương máu, quan hệ cuộc sống. Và trong ý định của Thiên Chúa, nam và nữ, vợ và chồng được tạo dựng để trở nên một huyết nhục. Do đó mà điều gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly.
Nhưng trong thực tế, Maisen đã cho phép ly dị. Theo Chúa Giêsu, thì việc làm của Maisen không có tính cách qui định về một lý tưởng phải theo đuổi, mà chỉ là một nhượng bộ bởi sự cứng lòng của người Do Thái. Thay vì thực hiện lý tưởng của khởi đầu cuộc sáng tạo, nghĩa là coi vợ mình như một người bạn đường, như một phần của cuộc sống mình, thì người ta đã coi vợ mình như là một phương tiện thỏa mãn những ước muốn ích kỷ, để rồi sẽ dẫy bỏ khi không cần thiết.
Sự ích kỷ đó đã phổ biến đến nỗi Maisen phải nhượng bộ, nhằm giải quyết sự yếu đuối của con người cùng thời với ông, đồng thời nó còn phản ảnh cho một quan niệm hôn nhân thời bấy giờ: Người vợ không được nhìn nhận là bình đẳng với người chồng.
Ngoài ra, có lẽ cũng nhằm sửa đổi cái nhìn của người ta về con người trong xã hội, mà ở đây Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ thái độ phải có đối với các trẻ nhỏ, vì trẻ nhỏ chính là mẫu mực cho những ai muốn vào nước Thiên Chúa. Mẫu mực ở sự đơn sơ vô tội đã đành, mà còn mẫu mực ở thái độ sẵn sàng đón nhận với tất cả sự chân thành.
Đoạn Tin Mừng vừa nghe thường được xử dụng trong lễ cưới, và câu nói của Chúa Giêsu: Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly, vốn được coi là nền tảng cho sự bền vững của gia đình Công giáo. Thế nhưng chúng ta đừng vội hiểu việc Thiên Chúa liên kết theo một ý nghĩa hoàn toàn pháp lý hay nghi lễ. Vợ chồng kết hợp với nhau không phải bằng một nghi lễ, mà bằng chính sự tôn trọng lẫn nhau, đặt mình trong kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa, bằng sự trở nên một huyết nhục, qua hành động, qua tình cảm, qua cuộc sống thường ngày, qua sự chọn lựa diễn ra trong từng giây từng phút.
Bởi đó, hãy sống việc Thiên Chúa liên kết hơn là coi đó chỉ là một nghi lễ có tính cách pháp lý mà thôi.
9. Cả hai sẽ thành một – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Vũ Khắc Nghiêm)
Người Pharisiêu đã thử thách Đức Giêsu một cách thâm độc ghê gớm. Họ hỏi Đức Giêsu: Chồng có được phép ly dị vợ mình không? Họ hỏi câu này ngay trong đất của Hêrôđê Antipas. Ông vua này mới ly dị vợ để lấy Hêrôđia, vợ anh mình là Philip I. Gioan tiền hô đã cảnh cáo vua và đã bị chặt đầu. Nếu Đức Giêsu phản đối luật ly dị, thì sẽ bị chặt đầu như Gioan, và nghịch lại với Môisen. Nếu Đức Giêsu đồng ý cho ly dị, thì lại trái ngược với Gioan và dân chúng phản đối vì dân chúng rất tôn kính Gioan.
Phần Chúa Giêsu, Người luôn luôn đứng về phía Thiên Chúa, nên Người đã trưng Kinh Thánh để trả lời: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, và cả hai sẽ thành nên một xương một thịt … Sự gì Thiên Chúa phối hợp loài người không được phân ly”. Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ, thương yêu nhau, chí thân chí thiết đến nỗi nên cùng một xương thịt hợp nhất với nhau nên một, không còn là hai mà là một: Mình với ta tuy hai mà một. Người Đông phương diễn tả sự hợp nhất đó bằng một hình tròn, trong đó có âm có dương. Âm là nữ, dương là nam, hình tròn chỉ sự toàn hảo, toàn thiện, toàn mỹ. Âm dương hòa hợp với nhau hoàn hảo như thế gọi là thái hòa. Hòa tới tột độ gọi là thái cực. Nhờ sự hòa hợp đó sinh ra bốn mùa xuân, hạ, thu, đông gọi là tứ tượng. Bốn mùa xoay vần, đắp đổi nhau làm cho muôn loài, muôn vật được phát triển, sinh sôi, nảy nở, lớn lên, xanh tốt, trưởng thành, kết trái, rồi lại trở về cội nguồn hoàn hảo, toàn thiện, toàn mỹ.
Hình tròn thái hòa âm dương không có góc cạnh gẫy góc, không có khiếm khuyết, phân chia, thật hoàn toàn tốt đẹp diễn tả được ý nghĩa hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập như Ngài đã nói: “Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta, như họa hình Ta” (St. 1, 26).
Hình ảnh Thiên Chúa là gì?
Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình yêu đã liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa thành Một Thiên Chúa Duy Nhất không bao giờ phân ly, không lúc nào xa cách, hoàn toàn trọn hảo bền vững đời đời. Chỉ có tình yêu như thế mới thực sự trọn vẹn chân thiện mỹ. Chỉ có tình yêu đó mới thể hiện được sự hiến dâng thí mạng sống cho người mình yêu: “Chúa Cha đã dạy Tôi thế nào, thì Tôi nói như vậy. Tôi hằng làm những điều đẹp ý Người” (Ga. 8, 28-29). “Cha ơi! Nếu được, xin cất chén đắng này khỏi Con. Nhưng đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt. 26, 39). Tình yêu thí mạng sống đó đã tạo nên sức mạnh hoạt động không ngừng cho nhau, phục vụ lẫn nhau: “Cha Ta hằng làm việc luôn”. Như Kinh Dịch nói: “Thiên hành kiện” – Trời làm việc kiên cường, không hề ngừng nghỉ để làm gì? Để sáng tạo và cứu độ. Do tình yêu chí thiện, chí mỹ đó, Thiên Chúa sáng tạo muôn loài, muôn vật và đã dựng nên người có nam có nữ và làm hai nam nữ thành một, giống hình ảnh Thiên Chúa: Ba Ngôi thành một. Có hai mới thương yêu nhau được, không bị cô đơn, cô độc, đóng kín câm lặng. Có yêu nhau nên một mới tạo sức mạnh sinh sôi, nảy nở, phát triển, thăng tiến: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, “thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”, “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”. Thiên Chúa đã làm cho con người có nam có nữ chụm lại nên hòn núi cao, có sức bao quát thống trị muôn loài. Vì thế, Thiên Chúa đã trao ban cho đôi tân hôn đầu tiên một quà tặng vô cùng phong phú là vũ trụ bao la, chứa đầy muôn loài muôn vật: từ những vật vĩ đại như mặt trời, mặt trăng, tinh tú đến chim trời, cá biển, rừng núi, sông ngòi, những côn trùng, sinh vật đầy dẫy những tài nguyên trên mặt đất và dưới lòng đất. Thiên Chúa đã nói với đôi tân hôn Adong Evà rằng: Hãy thống trị, cai quản, phát triển và hưởng dùng quà tặng đó (Bài Đọc I).
Giống như nhà tỷ phú, sau khi lập gia đình cho con, ông đã chia gia tài cho con để con kinh doanh phát triển và hưởng dùng tùy ý. Nhưng đáng buồn thay cho đôi tân hôn đầu tiên đó, đã không biết hợp nhất để kinh doanh, phát triển mà lại đi ăn chơi đàng điếm với bọn rắn quỷ miệng ngậm những nọc độc ghê gớm gây ra đau khổ truyền kiếp cho loài người.
Dầu vậy, Thiên Chúa đã không bỏ rơi họ, Thiên Chúa tiếp tục cứu vớt lấy hình ảnh của Ngài. Ngài vẫn yêu thương họ và còn tặng ban cho họ một món quà quý giá vô cùng hơn món quà sáng tạo, đó chính là Con Một rất yêu dấu của Chúa Cha: “Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu quý của Ngài cho chúng ta, để cho chúng ta được sống và được sống dồi dào”. Con Một đó là Đức Giêsu đã trải qua gian khổ, cam chịu khổ hình, phải nếm sự chết, trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ, và cho mọi người được ơn cứu độ. (Bài Đọc 2)
Đó là công trình cứu độ.
Như vậy ba bài đọc trong Thánh lễ này nói về ba công trình vĩ đại của Thiên Chúa: Bài 1 nói về công trình sáng tạo, bài 2 nói đến công trình cứu độ, bài Tin mừng nói về công trình thiết lập gia đình và trao cho gia đình tiếp tục công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Sau cùng, đạt tới kết quả là: Các trẻ em được hưởng ơn phúc của ba công trình đó. Cho nên, Đức Giêsu đã ôm các em và nói: “Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì chẳng được vào”. Các em đã đón nhận mọi ơn huệ một cách ngoan ngoãn và biết ơn người cho như thế nào, thì hôn nhân trở nên cha mẹ các em cũng phải biết đón nhận công ơn sáng tạo, công ơn cứu độ và công ơn thiết lập gia đình một cách sẵn sàng vâng phục và biết ơn Thiên Chúa như vậy, mới được vào nước Trời.
Lạy Chúa, Chúa đã thiết lập gia đình để thực hiện chương trình tình yêu sáng tạo và cứu độ của Chúa, xin cho các gia đình biết sống yêu thương hợp nhất, chung thủy với nhau, cùng nhau chăm lo xây dựng và cứu độ con cái để cả gia đình được tiến vào nước tình thương vinh phúc đời đời của Chúa. Amen.
10. Điều Thiên Chúa kết hợp.
Điều Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không được phân ly.
Trong một năm chúng ta cử hành rất nhiều lễ cưới, nhưng phụng vụ Chúa nhật thì hầu như lại không đề cập tới hôn nhân. Một vài trường hợp ít ỏi như ngày hôm nay chẳng hạn, vấn đề hôn nhân được đặt ra, không phải một cách trực tiếp, nhưng là một cách gián tiếp. Tuy nhiên, qua phần Lời Chúa, chúng ta có thể rút ra một vài kết luận về cuộc sống gia đình.
Trước hết, với bài đọc I trích từ sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy: Con người, trong bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa, không phải chỉ là nam hay nữ, mà là nam và nữ. Người nữ được dựng nên từ xương thịt của người nam. Cả hai cùng có một bản chất, cùng mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Có lẽ, không một tài liệu cổ xưa nào có được một quan niệm vừa rõ ràng vừa thơ mộng về sự bình đẳng giữa người nam và người nữ cho bằng câu chuyện của sách Sáng Thế Ký. Đồng thời, sự kết hợp giữa người nam và người nữ, hay nói một cách cụ thể hơn, cuộc sống lứa đôi, cuộc sống hôn nhân, cuộc sống gia đình không phải là một sự chúc dữ, không phải một chuyện chẳng đặng đừng, mà là một sự thật xuất phát từ Thiên Chúa. Cuộc sống ấy là khởi điểm cho sự hiện diện của con người trên mặt đất này: Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình và cả hai trở nên một thân thể. Đây là một sự kết hợp có tính cách thánh thiện và thiêng liêng, bởi vì từ sự kết hợp này mà nảy sinh những con người mới, có tự do, có hiểu biết, có yêu thương và cũng mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Như vậy hôn nhân chính là hành động cộng tác và tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Rồi qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thẳng thắn gạt bỏ những dễ dãi do sự cứng lòng của con người để trở về với ý định ban đầu của Thiên Chúa. Sự gắn bó giữa vợ chồng để trở nên một là do Thiên Chúa thiết lập.
Tiếp nối vào đó, thánh Phaolô còn xác quyết: Sự gắn bó ấy còn là hình ảnh tượng trưng cho sự kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Một sự kết hợp làm nên cuộc sống mới. Bởi đó, sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly vì phá đổ sự kết hợp này chính là phá đổ công trình của Thiên Chúa, là bôi bác hình ảnh của Thiên Chúa đã có đó trong cuộc sống hôn nhân. Không phải ngẫu nhiên mà phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu, dấu chỉ về sự hiện diện của Nước Trời giữa trần gian, lại đã được Ngài thực hiện trong một đám cưới.
Ngày nay, gia đình tại nhiều nơi đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chồng bỏ vợ và vợ bỏ chồng, con cái thì bơ vơ vất vưởng. Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa củng cố nền tảng của gia đình bằng cách làm cho vợ chồng biết trung thành và gắn bó với nhau trong suốt cuộc sống yêu thương của mình.
11. Hôn nhân bất khả phân ly -- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay dạy về đạo thuỷ chung trong hôn nhân.
Ngày nay, đạo thuỷ chung đang bị thử thách nặng nề: nhiều cặp vợ chồng ly dị nhau, nhiều cặp khác thì ly thân, nhiều cặp khác nữa thì vẫn còn sống chung nhưng ngoại tình.
Trong thánh lễ này, anh chị em hãy cầu nguyện cho gia đình mình, và cũng hãy cầu nguyện cho những gia đình đang bất hòa với nhau.
II. Gợi ý sám hối
Xin Chúa tha thứ cho những người làm vợ làm chồng đã vì yếu đuối mà có lần không trung tín với nhau.
Xin Chúa tha thứ cho những vợ chồng không hòa thuận yêu thương nhau.
Xin Chúa thứ tha cho những cha mẹ không làm gương tốt cho con cái.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (St 2,18-24)
Bài tường thuật về việc Thiên Chúa tạo dựng người nữ. Qua những hình ảnh mà tác giả tạm dùng, chúng ta khám phá được những ngụ ý sau: (1) Người nữ là trợ tá tương xứng của người nam (trong khi mọi dã thú và chim trời đều không thể làm bạn tương xứng với người nam được); (2) Người nữ vừa thân thiết vừa bình đẳng với người nam (hình ảnh chiếc xương sườn ở ngang hông người nam); (3) Vợ chồng phải gắn bó với nhau thành một xương một thịt.
2. Ðáp ca (Tv 127)
Bài thơ ca tụng người vợ đức hạnh: nàng như cây nho đầy hoa trái, nàng là phúc lộc Thiên Chúa ban cho người kính sợ Chúa.
3. Tin Mừng (Mc 10,2-16)
Ðoạn Tin Mừng hôm nay gồm hai bài học:
a/ Về cuộc sống hôn nhân: Những người biệt phái phỏng vấn Ðức Giêsu về vấn đề ly dị.
Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường ngược nhau về vấn đề này: lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbi Hillel) cho phép ly dị vì những cớ rất tầm thường; lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbi Shammað) chỉ cho ly dị trong trường hợp ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai lập trường này có điểm chung là cho phép ly dị.
Còn lập trường của Ðức Giêsu là tuyệt đối không được ly dị: "Ðiều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly".
Nhân dịp này, Ðức Giêsu còn dạy cách sống đời hôn nhân: phải yêu thương nhau ("luyến ái") và đồng tâm nhất trí ("nên một huyết nhục") với nhau.
b/ Về thái độ đón tiếp:
Người ta đem trẻ nhỏ đến với Ðức Giêsu. Lý do khiến người ta đem trẻ nhỏ đến với Ðức Giêsu là để Ngài chúc lành cho chúng ("đặt tay trên chúng").
Lý do khiến các môn đệ khiển trách họ là vì thời đó người Do Thái coi khinh trẻ nhỏ (coi chúng chưa biết Luật). Trẻ nhỏ bị coi là hạng còn ở ngoài lề xã hội.
Phản ứng của Ðức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại bỏ bất cứ ai.
Chúa còn bảo người lớn phải có tâm thế của trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.
4. Bài đọc II (Dt 2,9-11) (Chủ đề phụ)
Ðức Giêsu là đại biểu của loài người. Qua cuộc chịu nạn và chịu chết, Người bị hạ xuống thua kém các thiên thần một thời gian ngắn. Nhưng qua việc phục sinh, Ngài lại được nâng lên trở thánh vị lãnh đạo thập toàn. Các kitô hữu kết hợp với Ðức Giêsu trong đau khổ thì cũng được chia xẻ vinh quang với Ngài.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Gia đình: Vấn đề Ly hôn và con cái
"Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi. Tôi buồn giận cha tôi lắm, tuy nhiên tôi thấy thiếu vắng cha tôi kinh khủng. Biết bao lần tôi hình dung cha tôi mà tôi chỉ nhớ loáng thoáng bóng dáng. Tôi tưởng tượng một ngày nào đó đến nhà ông để khạc nhổ vào mặt ông ta cho hả cơn oán ghét và khinh bỉ. Hôm khác tôi lại mơ thấy mình nằm gọn trong cánh tay cha tôi, đắm mình trong một tình thương mà tôi tưởng chừng đã phai tàn. Rồi tôi đã khóc, và tôi còn khóc, nhưng không ai biết... Tôi nằm lăn đất vì đau khổ, vì bị xung đột khủng khiếp. Tôi muốn tìm cách báo thù: chống lại cha tôi, chống lại mẹ tôi, chống lại mọi người, chống lại xã hội và chống lại... chính tôi nữa!"
Tâm trạng của một đứa con mà cha mẹ đã ly dị với nhau là như thế: bị xâu xé ray rứt rất đau đớn: vừa thù ghét cha mẹ mà vừa đói khát thèm muốn tình thương của cha mẹ. Tương lai của những đứa con ly hôn là như thế: nó sẽ nổi loạn chống lại mọi người, phá phách mọi người và phá phách cả cuộc đời của chính nó nữa.
Vậy mà ít ai lưu tâm đến hoàn cảnh đau khổ to lớn ấy của những đứa con mà cha mẹ đã ly hôn. Ngược lại càng ngày người ta càng ủng hộ việc ly dị. Theo một bảng thống kê ở các nước giàu có phát triển thì cách đây 20 năm cứ 20 cặp vợ chồng thì có một cặp ly dị, cách đây 10 năm thì trong 10 cặp có một cặp ly dị, và hiện thời cứ 2 cặp là có một cặp ly dị. Nghĩa là tỉ lệ phân nửa: bên Nga cũng vậy mà bên Mỹ cũng vậy!
Lý do người ta dựa vào, là "Ðã không thể sống chung với nhau nữa thì thà chia tay nhau". Một lý do quá giản dị, nhưng vì quá giản dị nên cũng quá thiếu sót, ít ra là thiếu sót 3 điểm sau đây:
Thứ nhất là quá ích kỷ: chỉ lo cho những cặp vợ chồng mà không nghĩ đến những đứa con. Cho phép ly dị thì có lẽ vợ chồng sẽ thoải mái đấy, nhưng con cái thì như chúng ta đã thấy qua bức trên đây. Cha mẹ muốn thoải mái cho bản thân mình, và dồn mọi hậu quả cho những đứa con phải chịu. Mà những đứa con đó nào có tội tình gì đâu? Tội là ở cha mẹ chúng, nhưng chúng phải gánh lấy hậu quả hoàn toàn.
Thứ hai là phản trắc, lật lọng: những người ly dị là những kẻ phản trắc, lập lọng, không phải đối với ai khác mà đối với chính bản thân họ, đối với chính lương tâm của họ. Họ hãy nhớ lại xem trước khi cưới họ đã nghĩ gì, đã muốn gì, đã thề hứa gì? Họ muốn chiếm cho bằng được con người lúc đó họ đang yêu, họ chấp nhận tất cả mọi khó khăn xung đột của cuộc sống chung, và họ thề sẽ yêu thương nhau trọn đời. Lúc ban đầu thì vậy, nhưng lúc sau thì khác không yêu nhau nữa, không chấp nhận nhau nữa và đòi bỏ nhau bằng mọi giá. Có phải là phản trắc, là lật lọng, là tiền hậu bật nhất không?
Và điểm thứ ba là người ta đã quên một điều rất là thông thường trong cuộc sống hôn nhân: bất cứ cặp vợ chồng nào cũng phải trải qua những cuộc khủng hoảng. Không cặp nào thoát. Ðó là điều tất yếu, và có thể nói còn cần thiết nữa. Cũng như một đứa trẻ cần phải trải qua khủng hoảng của tuổi dậy thì mới trở nên người lớn được, thì bất cứ cặp vợ chồng nào cũng cấn phải trải qua khủng hoảng mới đi tối chỗ trưởng thành. Vậy mà khi gặp khủng hoảng thì tính ngay chuyện ly dị, thử hỏi làm sao gia đình trưởng thành được?
Ðó là ba điểm rất quan trọng mà người ta đã bỏ qua không xét tới. Vì bỏ qua những điểm quan trọng như thế nên người ta càng ngày càng đòi hỏi ly hôn: những cặp vợ chồng trẻ đòi ly hôn, cha mẹ đôi bên xúi ly hôn, luật pháp cho phép ly hôn... Chỉ có Tin Mừng Chúa và Giáo Hội Công giáo là còn cố gắng ngăn cản việc ly hôn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý tới những điểm sau đây:
Những người biệt phái dẫn chứng với Ðức Giêsu rằng ông Môsê cho phép ly hôn. Ðức Giêsu trả lời: đó chỉ là vì lòng dạ chai đá của các ngươi thôi. Nghĩa là Ðức Giêsu vạch cho thấy nguồn gốc của ly hôn là lòng dạ chai đá, lòng xấu của con người. Và như chúng ta đã phân tích ở trên, lòng xấu ấy chính là cái tính ích kỷ, cái thái độ phản trắc lật lọng, thái độ hèn nhát vội tìm đường lẫn trách trước những khủng hoảng tất yếu của hôn nhân.
Ðức Giêsu nhắc nhở tính chất bất khả ly của hôn nhân là quyền của TC, con người không có quyền làm ngược lại "Ðiều gì mà Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly". Nghĩa là Ðức Giêsu phủ nhận mọi quyền của con người trong vấn đề này: vợ chồng không có quyền đòi ly dị, cha mẹ đôi bên và bè bạn không có quyền xúi ly dị, luật lệ xã hội không có quyền cho phép ly dị, cho nên dù có 100 tờ giấy ly dị cũng chẳng có chút giá trị nào trước mặt Chúa.
Và thứ ba là Chúa nhắc mọi người phải nhớ đến những đứa trẻ. Ðức Giêsu đã ôm trẻ nhỏ vào lòng, Ngài đã chúc lành cho chúng để nhắc mọi người phải thương yêu chúng, phải bao bọc chúng, đừng ruồng bỏ chúng để chúng phải bơ vơ vì cha mẹ chúng đã ly dị nhau; đừng ngăn cản, không cho chúng đến với Chúa bằng cách dạy chúng vào con đường bất mãn, nổi loạn, sa đoạ khi cha mẹ chúng đã ly dị với nhau.
* 2. Chung thủy trong tình yêu (Mc 10,2-16)
Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm vợ và mẹ. Khi về gần đến nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường.
Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.
Hồ Tử nói:
- Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân!
Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.
Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học:
- Chàng đi làm quan năm năm mới về. Ðáng lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được!
***
Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin mừng hôm nay xác định lại. Ðó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: "Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mc.10,6-9). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục "là giao ước tình yêu". Hiệu quả của giao ước này là "hai người trở nên một". Ðiều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.
Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy: "Mình với ta tuy hai mà một". Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.
Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Ðavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.
Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Ðó cũng là một ơn huệ của bí tích Hôn nhân.
Hình ảnh "Ðức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng" (Mc.10,16) là một lời nhắc nhở các bậc cha mẹ. Nếu "cơm không lành canh không ngọt", muốn chia tay, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp "đường ai nấy đi" thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu? Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.
Ðức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: "Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn".
****
Lạy Chúa, "Chúa là tình yêu", xin ban Tình yêu Chúa xuống trong các gia đình đã nguội lạnh tình yêu.
Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhẫn nhục và tha thứ cho nhau, để họ trọn đời chung thủy trong tình yêu mà Chúa đã chúc phúc cho họ trong ngày thành hôn. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
3. Trở lại thành trẻ thơ
Ðức Giêsu nói: "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với một tâm hồn trẻ thơ thì sẽ chẳng được vào".
Sau đây là một vài suy nghĩ về việc trở lại thành trẻ thơ:
1. Trẻ không do tuổi đời mà do tâm hồn.
Ta già đi không phải vì đã sống nhiều năm mà do đã đánh mất lý tưởng, chất chứa ưu phiền, nghi hoặc, sợ hãi, thất vọng, không tự tin...
2. Niềm tin làm ta trẻ, hoài nghi khiến ta già; hy vọng làm ta trẻ, thất vọng khiến ta già.
3. Hồi còn bé chúng ta rất hồn nhiên. Lớn lên chúng ta đánh mất nó. Dù vậy chúng ta vẫn có thể tìm lại được sự hồn nhiên. Tuy nhiên tính chất của hai sự hồn nhiên này khác nhau:
- Sự hồn nhiên thứ nhất thì chưa chín chắn, chưa có trách nhiệm, chưa biết đến ưu sầu và sự dữ. Sự hồn nhiên thứ hai đã chín mùi nhờ tinh thần trách nhiệm, nhờ cảm nghiệm về ưu sầu và sự dữ; Sự hồn nhiên thứ nhất chưa biết phạm tội. Sự hồn nhiên thứ hai chỗi dậy từ tội lỗi; Sự hồn nhiên thứ nhất không biết phạm tội, sự hồn nhiên thứ hai không muốn phạm tội.
4. Chuyện minh họa
a/ Ðổi lời tuyên hôn
Một đôi bạn trẻ sắp sửa thành hôn đến gặp vị linh mục sắp chứng hôn cho họ và đề nghị:
- Thưa cha, chúng ta đã thảo luận với nhau rất kỹ nên đến xin Cha sửa đổi một chút trong câu mà Cha sẽ đọc trong nghi lễ: Thay vì Cha tuyên bố là chúng ta sẽ là vợ chồng với nhau "cho đến chết", Cha có thể đổi lại là "cho đến khi không còn yêu nhau nữa" được không ạ?
Linh mục hỏi lại:
- Tại sao thế?
- Chúng con thấy nhiều vợ chồng sống với nhau một thời gian rồi không còn yêu nhau nữa. Khi đó mà phải tiếp tục sống với nhau thì chỉ làm khổ cho nhau thôi. Thà ly dị còn tốt hơn.
- Cha khen ngợi sự thẳng thắn của chúng con. Nhưng cha không thể sửa đổi như chúng con đề nghị, vì cha không muốn chứng hôn cho một cuộc hôn nhân chắc chắn sẽ tan rã.
- Nghĩa là sao ạ?
- Hôn nhân nửa vời thì chắc chắn sẽ tan rã.
- Thế nào là hôn nhân nửa vời?
- Thứ nhất là nửa vời về thời gian, nghĩa là chỉ muốn sống chung cho đến khi không còn muốn sống chung nữa; thứ hai là nửa vời về chọn lựa: chúng con không chọn con người của nhau mà chỉ chọn một số những điểm hợp nhau; thứ ba là nửa vời về dấn thân: chúng con chỉ muốn dấn thân bao lâu sự dấn thân đó mang đến cho chúng con sung sướng và hạnh phúc. Hôn nhân nửa vời chắc chắn sẽ tan rã thôi.
- Vậy thế nào là hôn nhân trọn vẹn?
- Hôn nhân công giáo phải là hôn nhân trọn vẹn, vì khi chọn một người làm vợ hay làm chồng mình là ta chấp nhận trọn vẹn con người của người đó gồm cả ưu điểm và khuyết điểm, ta muốn cùng người đó chia xẻ không chỉ niềm vui mà cả nỗi buồn, ta sẽ cùng người đó sống không chỉ một thời gian mà là suốt đời.
- Thế nhưng ở đời này có gì là trọn vẹn đâu?
- Ðúng thế. Nhưng chính vì con người không trọn vẹn nên con người cần có bạn hôn nhân để bổ túc cho nhau nên trọn vẹn hơn. Hơn nữa, khi hôn nhân được cử hành bằng bí tích trước mặt Chúa thì còn có Chúa hỗ trợ cho những cố gắng của hai vợ chồng.
b/ Nam và nữ
Truyện kể Ấn độ về tạo dựng: Khi tạo dựng người nam xong, Ðấng sáng tạo thấy Ngài đã tận dụng tất cả những yếu tố vật chất. Ngài không còn chất cứng hay vật rắn trên tay để tạo dựng người nữ.
Sau một hồi suy nghĩ, Ngài lấy sự tròn trịa của mặt trăng, dẻo dai của thân nho, mảnh mai của cây sậy, nảy nở của bông hoa, màu tươi sáng của lá cây và sự yên tĩnh của tia nắng mặt trời, nước của đám mây và sự bất ổn của gió, sự sợ hãi của con thỏ và tự cao tự đại của con công, sự mềm mại của ức chim và cứng rắn của kim cương, ngọt ngào của mật và độc ác của cọp, nóng của lửa và lạnh của tuyết, sự bép xép của chim mỏ ác và giọng líu lo của họa mi, sự dối trá của sếu và sự tự tin của sư tử.
Trộn tất cả những yếu tố đó lại với nhau, Ðấng sáng tạo dựng nên người nữ và trao cho người nam.
Một tuần sau, người nam trở lại và nói: "Thưa Ngài, tạo vật Ngài trao cho làm con sống không hạnh phúc. Cô ấy nói luôn miệng và chòng ghẹo con suốt ngày, làm con chẳng được nghỉ ngơi. Cô bắt con phải luôn để ý đến cô, nên thời giờ của con bị lãng phí. Chuyện nhỏ tí cũng làm cô khóc và cuộc sống thật vô dụng. Con đến trả lại cô ấy cho Ngài, vì con không thể sống với cô ấy".
- Ðược.
Và Ngài nhận lại. Một tuần trôi qua, người nam trở lại với Ðấng sáng tạo và nói: "Thưa Ngài, cuộc sống của con thật trống rỗng từ khi con trao lại tạo vật đó cho Ngài. Con luôn nghĩ về cô ấy, về cách cô múa hát, về ánh mắt trao duyên, về bao câu chuyện và xích lại gần con. Trông cô thật đẹp và da thịt cô mịn màng. Con rất thích nghe cô cười. Xin trao lại cô ấy cho con".
- Ðược.
Và Ngài trao lại cho anh. Nhưng ba ngày sau, người nam trở lại và nói: "Thưa Ngài, con không biết phải giải thích làm sao, nhưng với tất cả kinh nghiệm của con về tạo vật này, con kết luận rằng cô đã gây cho con nhiều buồn bực hơn niềm vui. Con cầu nguyện cho cô và trao trả lại cho Ngài. Con không thể sống với cô ấy!"
- Anh cũng không thể sống thiếu cô ấy!
Rồi Ngài quay lại và tiếp tục làm việc. Người nam nói vẻ thất vọng: "Con sẽ làm gì? Con không thể sống với cô ấy và cũng không thể sống thiếu cô ấy!"
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho những người Thiên Chúa đã liên kết thành vợ chồng trong hôn nhân, để họ luôn nhớ và thi hành lời Chúa dạy: "Ðiều gì Thiên Chúa đã liên kết thì loài người không được phân ly".
1. Nhiệm vụ của Hội thánh là giúp mọi người chuẩn bị và nuôi dưỡng đời sống hôn nhân theo ý Thiên Chúa / Xin cho các vị chủ chăn luôn tận tâm thi hành nhiệm vụ rất cần thiết và cao quí này.
2. Nhiệm vụ của xã hội là tạo điều kiện và môi trường tốt / để các đôi vợ chồng sống đời hôn nhân đúng phẩm giá con người / Xin cho các nhà cầm quyền biết ý thức trách nhiệm đó / để loại bỏ mọi ảnh hưởng nguy hại đến đời sống hôn nhân.
3. Nhiệm vụ của vợ chồng là chung thủy với nhau trọn đời / để tôn trọng và yêu thương nhau / Xin cho các đôi vợ chồng đang chia rẽ bất hòa / biết nhận lỗi và tha thứ cho nhau / để gia đình được sum họp.
4. Nhiệm vụ của vợ chồng công giáo là thi hành đúng lời cam kết với nhau trước mặt Chúa và Hội thánh khi cử hành bí tích hôn phối / Xin cho các đôi vợ chồng trong họ đạo chúng ta / luôn nêu gương sống trung thành với lời cam kết đó.
Chủ tế: Lạy Chúa, hoàn cảnh nghèo đói, chậm tiến và những ảnh hưởng xấu trong xã hội, đang gây đổ vỡ cho nhiều gia đình chúng con, xin Chúa luôn trợ giúp để ít là những gia đình công giáo, luôn là những dấu hiệu tinh thương của Chúa giữa mọi người. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Qua kinh nghiệm gia đình, chúng ta đã hiểu tình cha yêu thương con cái là thế nào. Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta hơn bất cứ người cha trần gian nào. Tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời kinh sau đây.
VII. Giải tán
Hôm nay Lời Chúa đã dạy cho chúng ta hiểu tình nghĩa vợ chồng như thế nào. Cầu chúc cho những vợ chồng trở về gia đình sống hòa thuận yêu thương nhau.
12. Bài tình ca đầu tiên – Lm. Hồng Phúc
"Đây là xương bởi xương tôi..."
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một quan niệm về tình yêu hôn nhân và gia đình trong đạo mới.
Trước hết, Sách Sáng thế mô tả cái nhìn đầu tiên, âu yếm và ngây ngất của ông Ađam trên Eva, người bạn đường từ trong bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa xuất hiện. Đó là bài tình ca đầu tiên: "Đây là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi. Người này sẽ được gọi là đàn bà (Ishâh) vì bởi đàn ông (Ish) mà ra". (Stk 2,23). Hai nguyên tổ là những tạo vật do Thiên Chúa dựng nên, giống hình ảnh Người và do một tình thương đặc biệt. "Người đàn ông ở một mình không tốt, Ta phải ban cho nó một người bạn tri kỷ". Vì thế, hai người sẽ phối hợp với nhau trở nên một xương một thịt. Tình yêu vợ chồng phải là một tình yêu, duy nhất và chung thủy: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly".
Nhưng tình yêu loài người có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm. Sách Sáng Thế mở màn bằng mối tình keo sơn giữa hai nguyên tổ. Nhưng, than ôi, lịch sử cũng đầy nhan nhãn những cuộc chia ly, đổ vỡ và phản bội. Không phải chỉ trong hàng ngũ người ngoại đạo mà cả trong tập đoàn dân Chúa. Theo linh mục Lawrence Wrenn, chánh án tòa án hôn phối giáo phận Hartfort, Connecticut, thập niên trước đây có 120,000 đôi ly hôn tại tòa án dân sự và có phân nữa tái hôn. Họ cảm thấy bối rối, buồn phiền nên lập ra nhiều nhóm đòi sự thông cảm của Giáo Hội.
Ngày xưa, người Do Thái nói với Chúa: Ông Môsê cho phép rẫy vợ thì ngày nay họ nói: Luật pháp cho phép! Như xưa Chúa trả lời vì sự cứng đầu của các ông, thì ngày nay Chúa vẫn khẳng định: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly". Lời Chúa đưa ta đến nhận định này: Luật pháp trần gian chỉ có hiệu lực khi không phản lại luật Thiên Chúa. Chứng chỉ ly dị, trước mặt Chúa chỉ là mảnh giấy vụn: "Ai bỏ vợ mình mà lấy vợ khác thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng và lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình". Những nguyên tắc căn bản của luật Chúa sẽ giúp cho đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, bão bùng, giông tố, biết tự chủ, biết nhịn nhục, để giữ vững hạnh phúc. Đó cũng là một ơn của Bí tích hôn nhân.
Và Phúc Âm Marcô kết luận bằng một bối cảnh rất dễ thương. Một đám con trẻ đến quây quần chung quanh Chúa. Ngài ôm chúng vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng. Phải chăng đó cũng là một sự mời gọi các đôi vợ chồng, các người làm cha mẹ? Khi trái tim đôi bên không còn cùng rung một nhịp, khi phải chước cám dỗ muốn từ bỏ, chia ly, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Bỏ nhau, đường ai nấy đi là một cách giải quyết cho mình, nhưng còn chúng, chúng đi đâu? Biết dâu chúng lại trở nên kẻ thù của cha mẹ, bỏ công sinh thành. Đây chứng từ của một em bé tên là Nina, trích trong cuốn "Dossier des enfants du divorce" (Con cái người ly dị) của Jeanne Delas: Ba thương mến, con viết về bàn giấy của ba vì con không biết bây giờ ba ở đâu, vì ba đã bỏ gia đình. Con mong rằng ba mạnh khoẻ và nhớ đến bé Nina mỗi tối khi ba đi ngủ. Con mong rằng bà ấy không dữ lắm. Con chắc là bà dữ, vì bà đã bắt ba bỏ nhà ra đi. Con hôn ba. Nina" (trg 74).
Chúa phán: "Hãy để con trẻ đến với Ta, dừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng". Nước Trời là thiên đàng của nhi đồng. Một người thanh niên đã nói: "Nhìn thấy cha mẹ tôi thương yêu nhau, tôi hiểu hơn về Thiên Chúa".
Phía sau đại thánh đường kính Bà Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu ở Lisieux, có hai phần mộ nằm song song. Đó là các phần mộ của thân phụ và thân mẫu của Thánh Nữ. Ông Louis Martin và bà Zelie Guérin. Trước hai phần mộ có pho tượng vị Thánh Nữ, với câu khắc ghi lời Bà đã nói: Tôi cám ơn Thiên Chúa đã cho tôi những người làm cha mẹ đáng thiên đàng hơn là trần thế (Đọc: Chị thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu của H.P. trg 246).
"Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trogn gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như chồi non của nhóm ôliu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. Đó là phúc lột dành cho người biết kính sợ Chúa" (Tv 127, 1-2 - Đáp Ca)
13. Chung thủy trong tình yêu.-- Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu"
Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về quê thăm vợ và mẹ. Khi về gần đến nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh đẹp đang hái dâu bên đường.
Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.
Hồ Tử nói:
- Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân!
Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.
Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học:
- Chàng đi làm quan năm năm mới về. Đáng lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quý được!
***
Câu chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin mừng hôm nay xác định lại. Đó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: "Lúc khởi đầu cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mc.10,6-9). Ý định của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở thành một huyết nhục "là giao ước tình yêu". Hiệu quả của giao ước này là "hai người trở nên một". Điều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.
Kể từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy: "Mình với ta tuy hai mà một". Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Có những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.
Lịch sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Đavít chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như trẻ mồ côi.
Xét cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Đó cũng là một ơn huệ của bí tích Hôn nhân.
Hình ảnh "Đức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng" (Mc.10,16) là một lời nhắc nhở các bậc cha mẹ. Nếu "cơm không lành canh không ngọt", muốn chia tay, hãy nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp "đường ai nấy đi" thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu? Thống kê cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.
Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: "Phẩm giá và trách nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn".
****
Lạy Chúa, "Chúa là tình yêu", xin ban Tình yêu Chúa xuống trong các gia đình đã nguội lạnh tình yêu.
Xin cho các bậc cha mẹ luôn biết nhẫn nhục và tha thứ cho nhau, để họ trọn đời chung thủy trong tình yêu mà Chúa đã chúc phúc cho họ trong ngày thành hôn. Amen.
14. Suy niệm của Guy Marin.
Những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu xem người ta có thể hủy bỏ mối liên hệ hôn nhân không. Chúng ta biết câu trả lời rồi. Trước nỗi khó khăn mà giáo lý này đặt ra, phản ứng đầu tiên của chúng ta là chúc dữ cho những kẻ đặt câu hỏi ấy. Khốn cho các ngươi, hỡi những người biệt phái! Không hài lòng với việc làm cho Chúa Giêsu phải lúng túng, các ông còn phá rầy chúng tôi, báo hại cả ngàn năm sau nữa. Ước gì họ không bao giờ nêu lên câu hỏi này và Chúa Giêsu chẳng bao giờ phải trả lời cả! Như vậy các nhà chức trách trong Giáo Hội sẽ có một khoảng cách không gian để xoay sở và các Kitô hữu có một khoảng không gian để sống.
Chúng ta có thể thực sự nghĩ như thế không? Chúng ta có thể nghiêm túc nghĩ như vậy không, nếu chúng ta tin vào Lời Chúa? Chắc chắn là không. Chúng ta không có quyền lựa chọn trong Tin Mừng những gì hợp với chúng ta hoặc tuyên bố rằng lời này lời nọ không phải là lời của Tin Mừng. Thực ra tội ở địa đàng lại không phải là khẳng định cái gì tốt hoặc xấu theo ý chúng ta chứ không theo ý Thiên Chúa đó sao?
Có được phép rẫy vợ không?
Vào thời Chúa Giêsu, việc rẫy vợ thường được chấp nhận nơi người Do Thái. Người chồng có quyền rẫy vợ và điều này bao giờ cũng cho phép người chồng được tái giá. Người vợ không có quyền này. Những cuộc tranh cãi thường liên quan đến những lý do khiến người chồng sử dùng quyền rẫy vợ: tùy theo trường phái đó có thể là vì người vợ xấu nết hoặc làm cháy món ăn. Bởi vậy trong Phúc Âm thánh Matthêu, câu hỏi gần với thực tại hơn: “Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào không?”.
Thánh Marcô nêu lên ý xấu của những kẻ nêu câu hỏi, đó là “để làm cho Ngài lúng túng”. Người ta đưa ra cho Chúa Giêsu một câu hỏi để gài bẫy Ngài, tương tự như câu hỏi về việc trả thuế cho Xêda vậy. Trả lời câu hỏi ấy xem ra rất khó về nhiều phương diện. Ngài phải tránh nói ngược với luật Môsê cho phép ly dị. Khó khăn khác nữa: lúc bấy giờ Chúa Giêsu ở trên lãnh thổ của Hêrôđê, và ông này vừa mới cho chém đầu Gioan Tẩy Giả vì đã trách ông về cuộc hôn nhân bất hợp pháp của ông (6,17). Đây không phải là một địa điểm dễ dàng để nói sự thật. Và Ngài có thể bị chống đối bởi những thính giả thuộc phái đàn ông kiên quyến bảo vệ quyền được rẫy vợ. Phản ứng của các môn đệ cho thấy rõ điều này: “Nếu không thể rẫy vợ được thì thà đừng cưới vợ còn hơn” (Mt 19,10). Khi trả lời, xem ra Chúa Giêsu phải mạo hiểm lắm.
Chúa Giêsu đề nghị một cái nhìn đức tin.
Trước hết, Chúa Giêsu đưa ra cho mấy người Pharisiêu một câu hỏi về lệnh truyền của Môsê và sau đó Ngài giải thích câu trả lời của họ: đây là một sự nhượng bộ. Nhưng Ngài sẽ không để mình bị giam hãm trong một cuộc tranh cãi về những gì được phép và không được phép. Ngài mời gọi các thính giả của Ngài hãy có cái nhìn đức tin hướng về Thiên Chúa và về con người từ bản văn của sách Sáng Thế. “Lúc ban đầu khi Thiên Chúa tạo nên nhân loại, Ngài đã làm ra cho họ có nam có nữ…” Chúa Giêsu khẳng định rằng việc phân biệt phái tính không những là một sự kiện tự nhiên nhưng còn là ý muốn của Thiên Chúa nữa. Giới tính không do bởi ngẫu nhiên, cũng không do bởi sự trà trộn những giống loại sinh vật, nhưng do ý muốn của Thiên Chúa. Ở đây ta thấy có giáo huấn về con người. Con người không phải là một hòn đảo, nhưng là một hữu thể tương quan. Con người cần thiên nhiên để có thức ăn, áo mặc. Tuy nhiên, nỗi cô đơn của họ vẫn không được lấp đầy; họ cần một kẻ ngang hàng, với người này họ có thể chia sẻ mọi sự. Và Thiên Chúa ban cho con người người phụ nữ. Để triển nở theo ý định của Thiên Chúa, con người cần phải liên hệ với thiên nhiên, với tha nhân và đặc biệt là với một người phối ngẫu.
Thánh Kinh rút ra những hậu quả từ việc sáng tạo này. Khi người nam và người nữ rời bỏ cha mẹ để gắn bó với nhau và trở thành một thân xác, thì họ tự do chấp nhận làm theo điều Thiên Chúa muốn về họ. Quả thật, theo quan niệm Thánh Kinh, việc sáng tạo vẫn còn tiếp tục chứ không phải chỉ là một tác động lúc ban đầu mà thôi. Như vậy mối dây liên hệ vợ chồng không do bởi lề luật cũng không do bởi sự lựa chọn của cha mẹ, nhưng do Thiên Chúa sáng tạo hành động trong sự ưng thuận của đôi vợ chồng. Sự kết hợp này từ Thiên Chúa mà đến, vì vậy nên nó không thể bị cắt đứt được.
Sứ điệp không tưởng.
Nếu cứ nhìn vào thực tại hiện nay: vô số những cuộc ly dị, ly thân, tái giá, không kể những cặp nam nữ chung sống với nhau ngoài hôn nhân thì trong Tin Mừng này lại chẳng là không tưởng ư? Nó không tưởng theo nghĩa là nó đề nghị một lý tưởng mà các Kitô hữu được mời gọi theo đuổi phải triệt để cậy dựa vào Chúa Thánh Thần, Đấng tạo nơi họ một quả tim mới.
Một điều chắc chắn là các nhà chức trách của Giáo Hội cũng như dân Kitô không thể chối bỏ một giáo huấn như thế được. Đàng khác, không ai được kết án những anh chị em mà đã thất bại trong quan hệ hôn nhân. Chúng ta vừa buộc phải theo lý tưởng được Chúa Giêsu đề nghị và buộc phải có tình thương huynh đệ đối với những kẻ đã phạm lỗi. Trong cuộc thi Olympic, không phải tất cả các lực sĩ đều lãnh huy chương, nhưng mục đích của hết thảy mọi người trong họ đều là đạt cho được huy chương.
15. Gia đình- Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Gia đình là phần tử nền tảng của Giáo Hội và xã hội. Gia đình được xây dựng trên tình yêu: tình yêu của vợ chồng với nhau, tình yêu của cha mẹ đối với con cái, và tình yêu của con cái đối với cha mẹ. Tình yêu, tương quan giữa con người với nhau, cần được trân trọng và vun trồng, để đạt tới mức trọn hảo trong Thiên Chúa.
I. Thật tuyệt vời tình yêu nam nữ
Sách Sáng Thế chương hai cho thấy Thiên Chúa đã tạo dựng con người, đặt con người trong vườn địa đàng, và cho con người được quyền đặt tên mọi sinh vật. Adam không tìm thấy cái gì thích hợp với mình cho tới khi Thiên Chúa tạo dựng Evà, và dẫn Evà tới gặp Adam. Adam tìm được niềm vui đặc biệt khi được Evà sống bên cạnh làm bạn đồng hành. Người nam và người nữ được tạo dựng, để sống bên nhau và nâng đỡ nhau, để cùng nhau tiến bước về với Thiên Chúa.
Thật đẹp tình yêu giữa người nam và người nữ. Hai người quyến luyến và cảm nghiệm hạnh phúc bên nhau. Họ sẵn sàng hy sinh cho nhau, hạnh phúc khi thấy người mình yêu hạnh phúc. Họ sống cho nhau và vì nhau. Con cái là tình yêu của hai người, là điểm nối kết hai người, giúp họ sống triển nở và hạnh phúc. Tình yêu và hạnh phúc giữa hai người nam nữ, là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và chúc phúc cho con người, cụ thể là hai người đang yêu nhau này. Không ai phá hủy được tình yêu giữa hai người, nếu không phải là chính một trong hai người. Hành vi tội của một trong hai, có thể phá vỡ hạnh phúc của họ.
Sau khi Evà và Adam phạm tội, Adam đã nhìn Evà với một ánh mắt khác, như nguyên nhân làm cho mình trở nên tệ hơn và xa lìa Thiên Chúa: “chính người đàn bà mà Ngài đã đặt bên tôi, đã hái trái Ngài cấm đưa cho tôi nên tôi đã ăn”. Adam đã không dám nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho Evà. Đúng là Evà có cám dỗ Adam ăn trái cấm, nhưng Adam hoàn toàn tự do. Nếu Adam dứt khoát không ăn, thì Evà đâu có làm gì được ông. Adam ăn, là do chọn lựa của ông, vì Adam tự do!
II. Điều Thiên Chúa liên kết con người không được phân ly
Tình yêu không chỉ là cảm tính mà còn là hành vi nhân linh. Để thành vợ thành chồng, hai người nam nữ phải chọn nhau suốt đời. Họ muốn chọn nhau ngay cả lúc bệnh hoạn yếu đau, họ chọn nhau lúc vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như khi thất bại. Tuy nhiên, con người là hữu thể tự do, một hữu thể có thể thay đổi chọn lựa của mình. Hôm nay một người chọn điều này, ngày mai có thể họ lại chọn điều khác. Hai người nam nữ muốn thành vợ thành chồng, họ cũng ý thức thân phận con người mong manh mỏng dòn đó, nhưng họ vẫn muốn tình yêu của họ thành vĩnh cửu, thế nên họ đã thề nguyền chọn nhau cả đời, thề nguyền trọn đời chung thủy với nhau.
Tội là cố tình làm điều xấu. Chính hành vi chọn điều xấu này đã làm biến dạng con người phạm tội, đã làm họ ra khác, trở nên “xấu như quỷ”. Quỷ chính là thiên thần đã muốn độc lập với Thiên Chúa, đã không vâng phục Thiên Chúa, đã từ chối sống trong tình yêu của Thiên Chúa. Evà đã muốn thành một thần linh không tùy thuộc Thiên Chúa; tuy nhiên không thể là một thần linh mà không tùy thuộc Thiên Chúa vì con người chỉ là tạo vật. Không chấp nhận thân phận thụ tạo, là không chấp nhận chính mình, là muốn phản kháng chống lại Thiên Chúa. Một hành vi như vậy không làm con người triển nở và hạnh phúc; Hành vi đó đã làm biến dạng con người, đã làm họ ra xấu, và làm họ không hạnh phúc; Họ không hạnh phúc với chính họ, và không hạnh phúc với người khác.
Không chung thủy, muốn chọn người khác, là một cám dỗ có thể xảy đến trong đầu của một người đã lập gia đình. Con người được mời gọi để thắng vượt cám dỗ, để là một người vợ người chồng chung thủy và tuyệt vời. Muốn những điều mới lạ, đó là khuynh hướng bình thường của con người; tuy nhiên, con người được mời gọi vươn lên thành người tuyệt vời qua việc thắng vượt chính mình, để người bạn đời là người chồng người vợ và con cái được hạnh phúc hơn. Chung thủy trong đời sống gia đình, là dấu chỉ của một người trưởng thành thật sự.
III. Tình yêu cần được vun tưới nuôi dưỡng
Tình yêu là tương quan giữa ngôi vị. Làm sao để hai người mãi yêu nhau? Làm sao để hai vợ chồng tin nhau hơn, trân trọng nhau, quan tâm săn sóc nhau hơn? Có lẽ hai người cần biết rằng tình yêu có thể chết nếu không được vun tưới chăm bón. Nghĩa là, họ có thể mất nhau nếu họ không cố gắng để đẹp hơn mỗi ngày. Nét đẹp về thể lý có thể mai một nhưng nét đẹp về tinh thần có thể được tăng lên với thời gian. Để được vậy, người này phải để ý tới người kia, phải quan tâm đến người bạn mình khi họ vui khi họ buồn, nâng đỡ họ khi họ gặp khó khăn.
Con người, cần được yêu một cách thật cụ thể, chẳng hạn, cần được yêu qua lời nói, qua sự quan tâm săn sóc. Con người cần thấy mình được yêu mỗi ngày. Mỗi người cũng cần cho thấy mình đẹp, mình đáng yêu mỗi ngày. Để được vậy, mỗi người phải tập quên mình, phải tập sống cho người khác, phải tập quan tâm đến người khác, tập săn sóc và biểu lộ tình thương yêu đối với người khác, tập coi người khác là quan trọng và rất quý đối với mình. “Anh (em) cần em (anh) để hạnh phúc” là một câu mà người bạn đời của mình thích được nghe lại, vậy tại sao mình lại tiết kiệm lời này?
Thiên Chúa là tình yêu. Mọi tình yêu đều đến từ Thiên Chúa. Tình yêu nam nữ cũng có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương nhau đến độ tất cả tùy thuộc lẫn nhau. Đức Yêsu luôn lấy Ý Cha làm lương thực và lẽ sống cho mình; Ngài luôn cố gắng lấy Ý Cha làm ý mình. Là một trong thân xác, chưa đủ để duy trì và phát triển tình yêu; con người cần là một trong tâm trí, trong phán đoán, trong chọn lựa giáo dục con cái, trong cách sống... Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguyên mẫu và phải là nguyên mẫu của tình yêu gia đình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Làm sao để chung thủy trong đời sống gia đình?
2. Làm sao để tình yêu vợ chồng không bị mai một nhưng mỗi ngày một sâu đậm hơn?
3. Theo bạn, có nên ly dị không? Tại sao?
16. Gia Đình: Thách đố và giải pháp
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Hồi thế kỷ XVI, Henri VIII vua nước Anh muốn ly dị với bà Catherine d'Aragon, để cưới lấy Anne de Boleyn. Nhà vua xin Đức Giáo Hoàng Clément VII tháo gỡ dây hôn phối với người vợ chính thức, để nhà vua lấy người vợ thứ hai. Nhưng Đức Giáo Hoàng đã nói một câu bất hủ rằng: “Nếu Ta có hai linh hồn, ta sẽ hy sinh cho nhà vua một linh hồn. Nhưng ta chỉ có một linh hồn mà thôi. Vì vậy, ta không thể cho như lời vua xin”. Vua Henri VIII tức giận, nên đã tách lìa Giáo Hội nước Anh ra khỏi Giáo Hội Công Giáo, và thành lập Anh Giáo ngày nay.
Sự tách lìa đó gây thiệt hại vô kể cho Giáo Hội. Nhưng Giáo Hội thà chấp nhận, chứ không thể phá hủy dây hôn phối đã thành sự.
Vâng, đặc tính hôn nhân Công giáo là đơn hôn và vĩnh hôn: một vợ một chồng và phải sống với nhau cho đến chết. Đó là luật Chúa. Dù là Đức Giáo Hoàng cũng không có quyền thay đổi. Vì “sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ" (Mc 10,9).
Nhưng, giá trị cao đẹp của Bí Tích Hôn Nhân đang phải đối mặt với bao thách đố của thời đại. Xin được nêu lên một số thách đố tiêu biểu sau đây:
1. Chế độ đa thê: Mới đây tổng thống Uhuru Kenyatta ký luật hợp thức hoá chế độ đa thê. Theo đó, luật mới cho phép một người đàn ông có quyền kết hôn với một số không giới hạn phụ nữ mà không cần sự đồng ý của người vợ thứ nhất. Hiện nay, chế độ đa thê được hợp thức hoá ở hơn 40 quốc gia trên thế giới, hầu hết là các quốc gia Hồi Giáo.
2. Hôn nhân đồng tính: Hiện nay có khoảng trên 10 quốc gia chấp nhận hôn nhân đồng tính. Điều này đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa mà chúng ta nghe đọc trong bài đọc thứ I hôm nay: Gia đình đầu tiên Thiên Chúa tạo dựng là một người đàn ông và một người đàn bà, chứ không phải nam với nam hay nữ với nữ (St 2,18-24). Trong bài huấn dụ trước 40. 000 tín hữu và khách hành hương hôm qua, ĐTC tái định nghĩa gia đình như sau: “Gia đình, nghĩa là giao ưóc giữa một ngưòi nam và một người nữ, là câu trả lời cho thách đố lớn của thế giới chúng ta: đó là sự tan vỡ từng mảnh và đám đông hóa, là hai thái cực chung sống với nhau, tương trợ nhau và chúng cùng yểm trợ mô thức kinh tế duy tiêu thụ”.
3. Nạn sống thử, “Góp gạo thổi cơm chung”. Với chủ trương, hợp thì tiến tới hôn nhân, không hợp thì chia tay. Hậu quả là nhiều người con sinh ra ngoài hôn thú, không có bố, thậm chí là không có mẹ chăm sóc. Tình trạng này chiếm tỷ lệ không nhỏ trong giới trẻ hiện nay.
4. Nạn phá thai: Theo các số liệu thống kê cho biết bình quân mỗi năm cả nước Việt Nam có khoảng 300.000 ca nạo phá thai, cao nhất các nước Đông Nam Á và xếp thứ 5 thế giới. Có nhiều nguyên nhân đưa đến nạn phá thai, trong đó nguyên nhân đầu tiên là do sống buông thả, sống thử, nên có thai ngoài ý muốn. Nguyên nhân thứ hai là bị ảnh hưởng bởi các chương trình KHHGĐ và giáo dục sai lầm.
5. Nạn bạo hành trong gia đình: Theo một nghiên cứu về bạo lực ở các gia đình Việt Nam cho biết: 66% các vụ ly hôn ở Việt Nam liên quan đến bạo hành gia đình. Trong đó: 5% phụ nữ thường xuyên bị chồng đánh đập; 82% hộ dân nông thôn và 80% hộ dân ở thành thị có xảy ra bạo lực; 9-10% trường hợp nạn nhân của bạo lực gia đình là nam giới và thủ phạm chính là người vợ. Bạo lực cũng có thể do con cái cháu chắt gây nên.
6. Ly dị ngày càng tăng: Cuộc điều tra do Bộ VH-TT&DL, phối hợp với Tổng cục Thống kê, với sự hỗ trợ của UNICEF cho thấy, số vụ ly hôn đang tăng nhanh. Năm 2000 có 51.361 vụ ly hôn. Năm 2005 có tới 65.929 vụ. Có 4 nguyên nhân thường xảy ra nhiều là: Mâu thuẫn về lối sống: (chiếm 27,7%); ngoại tình (25,9%); kinh tế (13%); bạo lực gia đình (6,7%).
Trên đây là một số trong muôn vàn thách đố tiềm ẩn nhưng hiểm hoạ không chỉ phá vỡ nền tảng gia đình mà còn đẩy nhân loại đến bờ vực của sự sa đoạ và huỷ diệt. Trước những thách đố như trên, chúng ta phải làm gì để giữ trọn luật Chúa và gìn giữ hạnh phúc gia đình? Dựa vào thư mục vụ năm tân Phúc-Âm-Hoá đời sống gia đình của HĐGM Việt Nam, xin đưa ra một số việc thực hành sau đây:
Thứ nhất, gia đình là cộng đoàn cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích:
Hãy siêng năng cầu nguyện. Hãy sắp xếp thời giờ thích hợp để mỗi thánh viên trong gia đình có thể cầu nguyện chung với nhau tối sáng. Có những lúc vì công ăn việc làm không thể qui tụ chung với nhau trong giờ kinh tối sáng, những lúc đó cần có sự hiệp thông trong cầu nguyện, nghĩa là hãy cầu nguyện cho nhau. Vợ chồng cầu nguyện cho nhau. Con cái cầu nguyện cho cha mẹ, cha mẹ cầu nguyện cho con cái. Đó là cách thế để gìn giữ hạnh phúc gia đình và cũng là cách thế để cứu vãn gia đình. Gương cầu nguyện của Thánh Nữ Mônica luôn nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng và hiệu năng của việc cầu nguyện. Ngài chung sống với một người chồng hoàng đàng, trác táng và thiếu chung thuỷ. Auggustinô lại là một đứa con sống vô luân, ngã theo lạc giáo... Nhưng Thánh Nữ không sờn lòng nản chí mà luôn kiên trì hy sinh trong cầu nguyện. Cuối cùng, chồng và Augustinô được ơn trở lại, đặc biệt là Augustinô trở thành linh mục, giám mục, một vị đại thánh.
Hãy lãnh nhận các bí tích: Đức Kitô đã để lại cho Hội Thánh những Bí tích, là những dấu chỉ hữu hình diễn tả và đem lại ơn thánh cho các tín hữu. Các bí tích có mục đích thánh hoá con người, xây dựng thân thể Đức Kitô và thờ phượng Thiên Chúa.
Bảy Bí tích liên quan đến các giai đoạn và các thời điểm quan trọng của đời sống người Kitô hữu: Bí tích sinh ra (Rửa Tội), lớn lên (Thêm Sức, Thánh Thể), chữa lành (Hoà Giải, Xức Dầu) và lãnh nhận sứ mạng xây dựng cộng đoàn (Truyền Chức, Hôn Phối). Nhờ lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí Tích Giải Tội và giao hoà đời sống Kitô hữu, đời sống các gia đình được nuôi dưỡng và mỗi ngày một tăng trưởng hơn.
Thứ hai, gia đình là cộng đoàn yêu thương bằng tình yêu hợp nhất thủy chung, xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Mối tương quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng như giữa anh chị em với nhau, phải là dấu chỉ sống động của Tình Yêu Thiên Chúa. Vì thế, các gia đình Công giáo phải loại bỏ mọi thứ bạo hành, “Hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13).
Trong bài huấn dụ ngày 28/10/2013, ĐTC Phanxicô đã đưa ra ba từ khóa cho đời sống gia đình: “Xin phép. Cám ơn. Xin lỗi”. “Chúng ta xin phép để không trở thành kẻ xâm lấn trong gia đình”. Anh làm điều này được chứ? Anh có đồng ý em làm việc này không? Chúng ta cám ơn vì tình yêu thương…mỗi ngày anh nói cám ơn vợ mấy lần? mỗi ngày chị nói cám ơn chồng mấy lần? Và từ cuối cùng: Xin lỗi. Tất cả chúng ta đều có sai lầm và đôi khi có ai đó trong gia đình và trong hôn nhân bị phiền lòng… nhưng các bạn hãy nghe lời khuyên này: đừng để một ngày kết thúc mà chưa làm hòa với nhau”.
Ngoài hai việc làm chủ chốt để gìn giữ gia đình trên đây, Hội Đồng Giám Mục còn mời gọi các gia đình cần có trách nhiệm phục vụ sự sống, tham gia vào sứ vụ Phúc-âm-hóa, bằng lời cầu nguyện cũng như bằng hành động cụ thể. Việc chuẩn bị cho giới trẻ bước vào đời sống hôn nhân và gia đình cũng là đòi hỏi khẩn thiết hơn bao giờ hết... Cái Ngài cũng tái khẳng định chân lý mà Chúa Giêsu đề cập trong bài tin mừng hôm nay: “Định chế gia đình đặt nền tảng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Định chế này dựa trên bản tính con người, do chính Thiên Chúa thiết lập, hướng đến thiện ích của chính gia đình và xã hội; vì thế, mọi cá nhân và tập thể xã hội cần nhìn nhận và tôn trọng định chế này”.
Nguyện xin Thánh Gia Thất là gia đình mẫu mực gìn giữ và hướng dẫn tất cả các gia đình chúng ta trước các trào lưu xấu để tất cả giữ trọn luật Chúa và sống hạnh phúc với nhau. Amen.
17. Loài người không được phân ly
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Vợ chồng chung thủy
Một quan nước Lỗ tên Hồ Tử mới cưới vợ được năm ngày, vua đã ra lệnh đi công tác ở nước Tần. Năm năm sau ông được phép về thăm mẹ và vợ. Khi về gần đến nhà, ông thấy một thiếu nữ xinh đẹp đang hái dâu bên đường. Ông giở trò ong bướm, “Này em, hái dâu cực nhọc sao bằng có người chồng làm quan. Anh là quan có nhiều vàng bạc. Nếu chịu lấy anh, em không phải hái dâu vất vả nữa.”
Người thiếu nữ vẫn thinh lặng, nhìn ông cách khinh bỉ. Về đến nhà, ông chào mẹ, nhưng khi vừa thấy vợ, ông choáng váng, vì đó chính là người thiếu nữ hái dâu lúc nãy.
2. Chấp nhận và kính trọng nhau
Khi còn chập chững trên đường chính trị, Haronicosen biết mình có nhiều khả năng, nhưng ông thấy cần có thêm kinh nghiệm của các bậc lão thành. Ông đến gặp nhà chính trị nổi tiếng Stalipovin. Ông này sẵn lòng chia sẻ kinh nghiệm, “Tôi cầu chúc ông gặp nhiều may mắn trên đường chính trị. Nhưng theo kinh nghiệm, tôi thấy cần có ba điểm sau đây. Trước tiên, nếu ông đặc trách về truyền thông, ông nên rút lui ngay. Kế đó hãy tự đặt cho mình một luật mà không bao giờ lợi dụng lỗi lầm của kẻ thù để mỉa mai mạt sát họ. Sau cùng ông hãy sẵn sàng nhận lời chỉ trích của người khác.”
3. Cảm thông và tha thứ
Thiền sư nổi tiếng Nhật Bản là ông Shecchery. Ông đang ngồi thiền thì có tên cướp xông vào. Hắn dí gươm vào cổ ông và bảo, “Hãy trao hết tiền bạc cho ta.” Vị thiền sư điềm nhiên chỉ cái hộp và nói, “Tiền để trong hộp đó, ngươi lấy hết đi và để cho tôi yên.” Tên cướp mừng quýnh. Nhưng rồi thiền sư lại bảo, “Nhưng đừng lấy hết. Hãy chừa lại cho ta một ít, vì ngày mai ta phải đóng thuế.”
Nhưng tên cướp cứ giả điếc, lấy hết tiền trong hộp, không chừa lại đồng nào. Ít ngày sau, tên cướp bị sa lưới pháp luật. Hắn khai đích danh thiền sư là kẻ bị hắn uy hiếp. Thế là thiền sư được mời ra tòa để chứng minh. Ông đã tuyên bố, “Đối với tôi, người này không phải là tên cướp, vì chính tôi đã cho anh ta tiền.” Nhưng vì có nhiều tiền án nên tên cướp vẫn bị tống ngục. Sau khi mãn hạn tù, anh đã tìm đến thiền sư và xin làm đệ tử ông.
4. Chồng cứu vớt vợ
Ở một đảo nhỏ bên Ý, nếu bắt quả tang người đàn bà nào phạm tội ngoại tình, thì sẽ cột tảng đá to vào cổ nó, xô xuống biển cho chết. Ngày nọ có người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội đó, và bị xử theo quy định. Thế nhưng đến ngày xử, chồng người đàn bà này vẫn còng đi đánh cá chưa về, nên phải đình cuộc xử, chờ người chồng về. Chờ mãi người chồng cũng không về, dân làng đem người đàn bà đó đến vùng biển sâu, cột tảng đá lớn vào cổ, xô xuống…
Hôm sau, người ta hết sức ngạc nhiên thấy người đàn bà đó xuất hiện trong làng. Thì ra người chồng đã hay biết tất cả, và vì muốn cứu vớt vợ mình, nên không về mà ở lại ngoài khơi. Hôm xô vợ anh xuống biển, anh núp sau gành đá dưới đó, đón lấy người vợ, tháo tảng đá ra và đưa về nhà.
5- Ly dị nơi bộ lạc Babira.
Bộ lạc Babira bên Phi châu là nơi người chồng ly dị dễ dàng nhất với vợ.
Người chồng chỉ việc đợi lúc ban đêm, đặt trước túp lều của vợ mình một bình dầu nhỏ và một chiếc gậy (gậy chống để đi cho đỡ mỏi) là sáng dậy người vợ hiểu ngay rằng người chồng đã ly dị với mình.
Chiếc gậy để lại cho vợ có nghĩa là: bà hãy đi tìm người khác mà nương tựa. Còn lọ dầu nhỏ là theo một phong tục cổ truyền.
6- Chiếc ghế quì.
Một phụ nữ Đức đến xin tòa ly dị, vì ông chồng quá say sưa, chửi mắng, đập phá. Vị chánh án là ông Windthorst, một nhân vật thời danh của Giáo hội Đức. Vị chánh án hỏi:
- Lúc chồng bà say sưa, chửi mắng, đập phá, bà đối xử thế nào?
Bà trả lời:
- Thưa ngài, dĩ nhiên là tôi phải gây sấm sét giông tố đối lại.
Vị chánh án ôn tồn bảo:
- Tôi thấy hình như trong nhà bà thiếu một việc cần thiết để gây hòa bình, đó là chiếc ghế quì. Bà hãy về sắm chiếc ghế quì. Rồi mỗi lần ông chồng trở về say sưa, chửi bới, đập phá, bà hãy mau mắn quì vào ghế đó và thay vì nói với chồng, bà hãy nói với Chúa.
Bà này về làm đúng theo lời chỉ bảo. Ít lâu sau bà trở lại, sung sướng báo tin cho cho vị chánh án hay: ”Môn thuốc ghế quì thật là linh nghiệm”.
18. Mors sola - Chỉ có sự chết – Lm. GB. Trần Văn Hào
Đại hội quốc tế về gia đình năm nay được tổ chức tại Philadelphia, Hoa Kỳ. Một trong những vấn đề mà Giáo hội rất quan tâm hiện nay là tình trạng gia đình đổ vỡ và những hệ lụy của nó. Lập trường bất di bất dịch mà Giáo hội luôn khẳng định là tôn trọng giá trị gia đình với tính cách bất khả phân ly của Bí tích Hôn nhân mà chính Chúa Giêsu đã thiết định. Tính bền vững của định chế hôn nhân trong đời sống Kitô giáo được lặp lại trong giáo huấn Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu đã khẳng quyết: “Sự gì Thiên Chúa đã tác hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).
Hôn nhân, Một bí tích Thánh thiêng
Hôn nhân Công giáo là một bí tích linh thánh chứ không phải đơn thuần chỉ là một khế ước mang tính xã hội. Xã hội ngày nay, người ta vẫn cho ly dị là hợp hiến. Giáo hội nói không. Giáo hội không bao giờ cho phép, và thực sự Giáo hội cũng không có quyền cho phép. Quyền đó dành cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Hiểu như vậy, ly dị trong Kitô giáo chính là tiếm quyền của Thiên Chúa, hay nói thẳng ra là ăn cắp độc quyền duy nhất dành choNgài. Cho dù Giáo hộikhông loại bỏ những nạn nhân của sự đổ vỡ trong đời sống gia đình và cố gắng đưa ra những giải pháp để chữa trị tận căn (sanatio), nhưng Giáo hội tuyệt đối không bao giờ cổ xúy việc ly dị. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta những giáo huấn quan trọng này.
Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Sáng thế gợi lại định chế “một vợ một chồng” giữa người nam và người nữ do chính Đức Chúa Giavê thiết định ngay từ thuở ban đầu: “ Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu cũng lặp lại xác quyết đó: “ Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ. Vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai nên một xương một thịt (Mc 10,7-9)”. Khi nhắc lại giáo huấn này, Đức Giêsu cũng gợi nhắc về tội ngoại tình mà chúng ta thường dễ mắc phải qua nhiều dạng thức khác nhau. Khi đọc diễn văn trước quốc hội Mỹ ngày 25 tháng Chín vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã mạnh mẽ tái khẳng định học thuyết xã hội mà Giáo hội chủ xướng, là nói không với hôn nhân đồng tính. Ngồi ngay trước mặt vị chủ chăn đáng kính là ông chủ tịch Thượng viện, người đã ký vào văn bản cho phép hôn nhân đồng tính trở thành luật hợp pháp. Đức Thánh Cha không run sợ trước bất cứ một áp lực chính trị nào để công bố cho cả thế giới biết những gì thuộc quyền thánh thiêng của Thiên Chúa.
Chủ nghĩa thực dụng hiện nay
Ở bên Mỹ, lớp trẻ rất tâm đắc câu châm ngôn:‘Easy come, easy go’. Thích thì đến với nhau, ở với nhau, không thích nữa thì đường ai nấy đi, đơn giản thế thôi. Đây là một não trạng thực dụng mang tínhvô thần, đang dần dần loại bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Ở Hoa kỳ, người ta ước tính khoảng 50% các cặp vợ chồng sau khi đã thành hôn, sẽ bỏ nhau. Nhanh hay chậm còn tùy mỗi hoàn cảnh. Cũng may mắn, con số các vợ chồng công giáo ly dị ít hơn. Ở Việt Nam, theo khảo cứu của tiến sỹ Nguyễn minh Hòa thuộc Đại học Khoa học xã hội nhân văn, tỷ lệ ly hôn từ 31 đến 40%, và hơn một nửa thuộc các gia đình trẻ ở độ tuổi từ 23 đến 30. Sự chia tay có muôn vàn lý do, nhưng tựu trung cũng do lối sống ích kỷ và thích hưởng thụ (consumerism), là lối sống mà trước đây Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã mạnh mẽ cảnh báo.
Sống trung thành
Người ta vẫn thường nói: “Một người vợ trung thành là một cô gái suốt đời chỉ đay nghiến duy nhất một ông chồng mà thôi”. Đời sống vợ chồng không phải lúc nào cũng bình yên và phẳng lặng. Có những lúc cơm không lành canh chẳng ngọt, và điều đó rất thường xảy ra. Nhưng làm cách nào để chúng ta có thể vượt qua những sóng gió và sống chung thủy. Hơn 10 năm về trước, khi quốc hội Hoa Kỳ cho công bố công khai những cuộn băng tự thú của ông Bill Clinton về những lăng nhăng tai tiếng của ông với cô đào Monica Lewinski, gia đình ông cựu tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu dậy sóng. Một con người tài ba đã thành công trong việc điều hành một cường quốc đứng đầu thế giới lại thất bại trong việc điều khiển chính bản thân và gia đình mình. Nạn nhân đầu tiên của sự phản bội này chính là bà Hilary, phu nhân của ông. Cho dù bà ta có bản lĩnh ngoan cường, rất bình tĩnh chống đỡ, nhưng bà đã tỏ lộ sự cay đắng phũ phàng khi phải hứng chịu những búa rìu của công luận. Người ta thường nói khôn ba năm nhưng lại dại một giờ, và sự dại dột đó có khi phải trả giá khá đắt.
Nhìn lại một cách thoáng chung nơi các gia đình Công giáo ở Việt Nam chúng ta, tình trạng ly dị tương đối không nhiều, nhưng không phải là hiếm. Có lẽ, do truyền thống văn hóa, hoặc do lối sống tình làng nghĩa xóm khá chặt chẽ, nên các vợ chồng khó bỏ nhau. Sống giữa một giáo xứ đa phần toàn tòng, nếu một cô gái nào lăng nhăng bỏ chồng đi sống với người khác, chỉ còn cách độn thổ hoặc đi biệt xứ, còn nếu trở về làng, chắc chắc sẽ bị thiên hạ ném đá khủng khiếp. Nhưng điều quan trọng nhất trong đời sống gia đình, là vợ chồng luôn luôn phải canh tân sự trung thành của mình mỗi ngày với cảm thức đức tin và tín thác vào ơn thánh. Người ta vẫn ví von khi so sánh nụ hôn đầu tiên của hai vợ chồng lúc mới cưới nhau, giống hệt cái bắt tay rất lịch lãm và thân thiện của hai võ sĩ trước khi thượng đài. Một nhà xã hội học nọ cũng đã diễn tả: Sự ngọt ngào của hai vợ chồng trong những ngày tháng trăng mật đầu tiên được sánh như những cơn gió hiu hiu giữa bầu trời vần vũ mây đen. Sau làn gió thoảng và những giọt mưa dịu mát, là chớp lòe và sét nổ. Tình trạng này không phải là hiếm, khi chúng ta nhìn vào thực trạng các gia đình của chính chúng ta. Có rất nhiều nguyên do gây nên đổ vỡ. Những lý do ban đầu xem ra chẳng đâu vào đâu, nhưng nếu vết thương không được cứu chữa kịp thời, nó sẽ dần khoét sâu vào cơ thể và biến dạng thành một khối u ác tính vô phương chữa trị.
Để có thể khắc phục, phương thuốc quan trọng nhất chính là sự khiêm tốn và hiền dịu đi đôi với lòng quảng đại biết tha thứ. Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy học với tôi vì tôi có sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Đây là quy chuẩn căn bản để bảo toàn hạnh phúc trong các gia đình. Nếu không biết ứng xử trong sự hiền lành và nhẫn nhục, chúng ta sẽ dần biến gia đình thành một bầu khí hỏa ngục đáng sợ. Khi mới cưới nhau, anh nói em nghe và ngược lại em nói anh nghe. Cưới nhau về một thời gian, nhiều xung khắc xảy ra dẫn đến tình trạng anh nói anh nghe, và em nói chỉ mình em nghe. Cao điểm cuối cùng là chiến tranh bùng nổ: Anh và em chúng ta cùng nói, cả làng cả xóm đều nghe. Có bao giờ trong gia đình của chúng ta, vợ chồng cùng ngồi lại bên nhau để giải gỡ những khó khăn hay không? Đối thoại là điều rất cần thiết để hóa giải những nghi kỵ và hiểu lầm, nhưng đừng bao giờ biến cuộc đối thoại thành một cuộc họp ‘chi bộ đảng’ chỉ để đay nghiến hay kết án lẫn nhau.
Mors Sola
Có một giai thoại thuật lại. Cô Catherine kết hôn với anh Jean Wasa, một sĩ quan Phần Lan. Người chồng bị kết án tù vì bị gán vào tội phản loạn. Nhà vua khuyên cô Catherine đi lấy chồng khác, vì số phận tù nhân hầu như không có ngày được ra. Catherine đã từ chối và còn xin nhà vua một đặc ân, là cho được vào tù ở chung với chồng mình. 17 năm sau, vua Eric băng hà, cả 2 vợ chồng được tha bổng. Người ta hỏi cô động cơ nào cô xin vào tù cùng sống với chồng, cô chỉ chiếc nhẫn cưới đeo trên tay, trên đó có khắc hàng chữ ‘Mors Sola’, nghĩa là, chỉ có sự chết mới có thể phân lìa chúng tôi. Chúng ta đều quá biết điều đó, đặc biệt được nghe nhắc đi nhắc lại trong các thánh lễ hôn phối, nhưng nhiều người vẫn lạnh lùng xé rào và gián tiếp tiếm quyền của Thiên Chúa.
Kết luận
Trên đời này không có gì ghê tởm và đáng khinh bỉ cho bằng sự phản bội. Ông Ford, Tổng giám đốc một công ty lớn chuyên sản xuất xe hơi tại Mỹ đã rất thành công trong sự nghiệp xã hội cũng như nơi chính bản thân và gia đình ông. Trong ngày kỷ niệm 50 năm thành hôn, người ta hỏi ông đâu là bí quyết khiến ông thành công và hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Ông dí dỏm trả lời: “Trong cuộc sống gia đình, tôi vẫn tôn trọng nguyên tắc giống như nguyên tắc sản xuất xe hơi, đó là “luôn trung thành với mẫu mã ban đầu”.
Trong đời sống vợ chồng, mẫu mã ban đầu của chúng ta có thể đã dúm dó và cũ kỹ theo thời gian, nhưng chỉ sống trung thành, chúng ta mới có thể thành công và hạnh phúc.
19. Một tình yêu giống như tình yêu của Chúa Giêsu.
(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’ – Charles E. Miller)
Vào ngày cưới, cô dâu và chú rể tuyên bố trước Thiên Chúa và với nhau, cũng như trước mọi người hiện diện rằng họ sẽ chấp nhận nhau dù tốt hay xấu, giàu hay nghèo, bệnh hoạn hay mạnh khỏe và họ sẽ yêu nhau cho đến chết. Một cuộc hôn nhân được giả thiết sẽ kéo dài cho đến suốt đời. Nhưng điều đó thì không luôn luôn xảy ra giống như vậy. Ngày xưa, khi các đôi hôn nhân Công giáo có vấn đề thì họ biết rằng họ phải tìm cách cố gắng để khắc phục nó. Cái điều cuối cùng mà họ nghĩ đến mới là ly dị. Bây giờ ly dị là điều đầu tiên mà các cặp hôn nhân nghĩ đến khi họ gặp một vấn đề.
Giáo Hội đã cố gắng tranh đấu để dủ lòng xót thương hơn là cứng nhắc về bí tích hôn phối. Điều đó có thể trình bày khi một cặp hôn nhân gặp một chướng ngại cho cuộc hôn phối hợp lệ ngay từ khi bắt đầu và Giáo Hội đã ban phép tiêu hôn. Điều này không phải là ly dị. Đó là một sự nhận biết bí tích hôn nhân hợp lệ đã không hiện hữu. Tiến trình để bảo đảm cho sự tiêu hôn thì lâu dài bởi vì Giáo Hội được ủy nhiệm bởi Đức Kitô để bảo vệ và đề xướng bản tính của hôn nhân là một Giao Ước suốt đời. Một Giao Ước không thể chia cắt, cũng không thể bị thiêu hủy, ngoại trừ có một lý do nghiêm trọng. Tuy nhiên khi quan sát thấy rằng một số những đôi hôn nhân không thể sống chung khi họ không thể tiêu hôn được. Những người Công giáo đã ly dị không được tái hôn và sẽ được rước lễ.
Tuy nhiên chúng ta phải gìn giữ hôn nhân theo viễn cảnh, hôn nhân không phát xuất nơi xã hội, cũng không được thiết lập bởi những thực hành thế tục. Hôn nhân là một sáng tạo của Thiên Chúa. Đó là giáo huấn của sách Sáng Thế Ký. Thiên Chúa muốn hôn nhân phản ánh chính tình yêu của Ngài đối với dân Người, không bao giờ suy tàn và tình yêu đó được ban cho đặc ân sự sống. Không thể không có khó khăn trong hôn nhân. Hôn nhân là một thách đố để trở nên giống Thiên Chúa, không có gì ngạc nhiên khi hôn nhân không dễ dàng.
Thiên Chúa thì trung thành, Người không chỉ yêu chúng ta kh chúng ta yêu Người. Người không xóa bỏ tình mến của Người dành cho chúng ta bởi vì chúng ta đã yêu một người khác. Thiên Chúa không thấy buồn sầu hay bực tức vì tội lỗi của chúng ta. Ngài không giận dữ khi chúng ta không làm điều vừa ý Ngài. Thiên Chúa không sợ Ngài sẽ mất thời gian để chăm sóc chúng ta khi chúng ta lâm cơn ốm nặng. Tình yêu của Thiên Chúa thì kiên nhẫn, quảng đại và luôn quan tâm. Trên hết, tình yêu Thiên Chúa không bao giờ suy suyển, tình yêu ấy là một lý tưởng thách đố tất cả mọi cặp vợ chồng.
Làm cha mẹ là một phần của đời sống hôn nhân. Có con cái đó là một ân phúc nhưng cũng có thể là có nhiều đòi hỏi đi kèm theo. Đừng ngạc nhiên, có con cái là trở nên giống Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã được kết trái. Tuôn trào từ Người là đặc ân của sự sống. Chúa Giêsu rất yêu thương những trẻ nhỏ. Nơi chúng, Người không chỉ thấy đó là hoa quả tình yêu giữa người chồng và người vợ, nhưng Người cũng còn thấy đó là sự tuôn trào sự sống từ nơi Cha thần linh của Người.
Chúa Giêsu là kiểu mẫu của tình yêu hôn nhân và của các bậc cha mẹ, đặc biệt là hy tế của Người trên thánh giá. Hy sinh cần thiết cho đời sống hôn nhân. Chỉ có tình yêu mới làm cho sự hy sinh trở nên có thể. Tình yêu đó phát xuất từ Chúa Giêsu, đặc biệt là từ Thánh Thể. Những đôi hôn nhân Công giáo phải cùng nhau lãnh nhận Thánh Thể với lời cầu nguyện trong tâm trí của họ: “Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho chúng con yêu mến lẫn nhau và yêu mến con cái của chúng con với một tình yêu mà Người đã tỏ bày cho chúng con, đặc biệt là qua đau khổ và cái chết trên thánh giá của Người. Xin cho tình yêu của chúng con chẳng bao giờ chết nhưng luôn tăng trưởng sâu xa và mạnh mẽ hơn qua từng năm tháng. Xin cho tình yêu của chúng con trở nên giống như tình yêu của Người”. Điều đó không dễ dàng nhưng sẽ có thể và nó sẽ trở nên đáng giá.
20. Để thành toàn tình yêu – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Đoạn Phúc âm này là đối tượng của quá nhiều công trình bình giải, tốt nhất chúng ta chỉ nên tìm hiểu đường lối của Giáo hội về điểm này. Sau đây là lập trường của Cộng đồng Vaticanô II về tình yêu trong hôn nhân.
1) Tình yêu vợ chồng có đặc tính nhân bản cao quý vì từ một nhân vị hướng đến một nhân vị khác, do một tình cảm tự nguyện, do đó bao gồm hạnh phúc toàn diện của con người. Cho nên tình vợ chồng có thể lồng vào những biểu lộ của thể xác và tâm linh khiến chúng ta trở nên cao quý như những yếu tố vào dấu hiệu đặc thù của tình bạn thiết giữa vợ chồng. Bởi ơn huệ đặc biệt của ân sủng và lòng ưu ái của Người, Chúa đã đoái thương chữa trị, cải thiện và nâng cao tình yêu ấy.
Một tình yêu kết hợp yếu tố nhân loại và yếu tố thần linh như thế, phải thấm nhuần cả đời sống, hướng dẫn vợ chồng biết tự do trao hiến cho nhau, qua những tâm tình và cử chỉ âu yếm. Hơn nữa, chính nhờ những hành vi quảng đại của mình mà tình yêu giữa hai người được trọn vẹn và lớn mạnh. Vì vậy tình yêu vợ chồng vượt xa xu hướng nhục dục thuần túy và xu hướng này nếu được vun tưới chỉ vì ham thích, sẽ tan biến mau chóng để lại những di lụy thảm hại.
2) Sự âu yếm nói trên biểu lộ và hoàn hảo cách đặc biệt qua tác vụ riêng của hôn nhân. Bởi vậy những hành vi thực hiên sự kết hợp mật thiết và thanh khiết của vợ chồng đều là đoan chính và tự chế. Được thi hành thật sự đúng với nhân luân, những hành vi ấy biểu thị và khuyến khích sự trao tặng tương giao, nhờ đó hai người thêm phong phú trong niềm hân hoan và biết ơn.
Tình yêu ấy được bảo đảm với sự cam kết giữa vợ chồng và nhất là được chuẩn nhận bởi bí tích của Đức Kitô.
Mối tình đó trung thành bất khả phân ly về thể xác và tâm hồn, bất kể thăng trầm trong cuộc sống do đó nó loại hẳn mọi sự ngoại tình và ly dị. Phải nhìn nhận cái phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa vợ chồng trong tình thân ái trọn vẹn, để nhờ đó biểu hiện rõ ràng tính cách duy nhất của hôn nhân đã được Chúa xác nhận. Để kiên trì gánh vác những bổn phẩn của ơn gọi Kitô giáo này cần phải có một nhân đức ít thấy, vì thế, vợ chồng đã được ân sủng củng cố để sống thánh thiện sẽ ân cần nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện - một tình yêu vững bền, đại lượng, sẵn sàng hy sinh.
3) Tình yêu vợ chồng chân chính sẽ được quý trọng hơn và gây được một dư luận lành mạnh hơn, nếu những đôi vợ chồng Kitô hữu làm chứng rõ ràng về sự trung thành và hòa hợp trong tình yêu cũng như trong việc ân cần giáo dục con cái, nếu họ đóng góp trách nhiệm hoạt động trong việc chấn hưng văn hóa, tâm lý và xã hội, một sự chấn hưng cần thiết để đề cao hôn nhân và gia đình.
Phải biết kịp thời giáo dục thanh thiếu niên theo một đường lối thích ứng, tốt nhất là trong khung cảnh gia đình, để giới trẻ hiểu biết về phẩm giá, chức năng và cách thể hiện tình vợ chồng. Nhờ vậy, một khi đã được rèn luyện để giữ gìn đức khiết tịnh, chừng nào tới lứa tuổi thích hợp, giới trẻ từ giai đoạn đính ước đúng đắn, có thể dấn mình vào bậc hôn nhân (Hiến chế Vui mừng và Lo âu, 49).
21. Sự gì Thiên Chúa kết hợp – GM Lệ Tâm
Trình thuật của đoạn Tin Mừng này là vấn đề Ly dị do những người Pharisêu đặt ra với ý đồ gài bẫy Chua Giêsu. Chúng ta nên biết: các kinh sự Do thái thường tranh luận với nhau về những lý do cho phép ly dị chứ không tranh luận về chính việc được phép ly dị hay không? Và luật do Thái chỉ cho phép đàn ông bỏ vợ chứ không cho phép đàn bà bỏ chồng. Như vậy, chuyện người Phari sêu đặt vấn đề với Chúa là: "Có được phép ly dị không" quả là khúc mắc, tế nhị và phức tạp. Họ muốn Chúa phải xác định lập trường rõ ràng trước mặt dân chúng và trước mặt họ. Luật đã cho phép ly dị, nếu Người bảo không, tức là Người đang chống lại luật. Ngược lại, nếu người bảo được, thì họ sẽ chống lại Người. Cho nên, rõ ràng là người Pharisêu có ý gài bẫy Chúa. Chúa trả lời sao đây?
Chúa hỏi lại họ: "Ông Môse truyền dạy thế nào?". Thật sự trong Cựu Uớc không có chỗ nào ghi một mệnh lệnh phải ly dị hay không được ly dị, cũng chẳng có chỗ nào trực tiếp chỉ thị muốn ly dị thì phải làm gì? Vậy những người Pharisêu trả lời Chúa thế nào đây? Họ trích dẫn Sách Đệ Nhị Luật, đoạn 24, từ câu 1 đến câu 4. Trong đoạn này, sách đệ Nhị Luật cũng chỉ gián tiếp nói về việc làm giấy ly dị. Vì thế, Chúa Giêsu đã trả lời cho người Pharisêu: sở dĩ ông Mô sê đã ra luật đó, "vì lòng các ông chai đá", nên chỉ là điều nhân nhượng mà thôi, chứ từ ban đầu không có như vậy, và Chúa kết luận: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly". Như thế, Chúa Giêsu cho biết rõ ràng lập trường của Người là không bao giờ được ly dị. Một khi người nam và người nữ đã kết hợp với nhau nên vợ chồng trong hôn nhân theo luật của Chúa, thì họ không có quyền và cũng không ai có quyền phá vỡ cái nên một ấy.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rõ luật của Chúa và Giáo Hội: sự nên một trong hôn nhân là một công trình tuyệt vời của Thiên Chúa. Chính do sự nên một ấy mà đứa con xuất hiện như một bông hoa, một trái ngọc ngào và được nên người. Thánh Phaolô đã nêu cao giá trị của sự nên một ấy khi đem đối chiếu với sự nên một giữa Chúa Kitô và Hội Thánh Người.
Phía sau đại thánh đường kính Thánh Terexa Hài Đồng Giêsu ở Lisieux có hai phần một nằm song song. Đó là phần mộ thân phụ và thân mẫu của thánh nữ: ông Louis và bà Zelie Martin. Trước hai phần mộ có tượng thánh nhân với hàng chữ: "Tôi cám ơn Thiên Chúa đã cho tôi những người cha mẹ tốt lành thánh thiện".
Hôn nhân là bài ca đẹp về tình yêu, là nơi mà ở đó một cộng đoàn yêu thương được thiết lập và cũng là nơi qui tụ những nét tươi đẹp nhất của vũ trụ này. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về luật vĩnh cửu của hôn nhân, luật một vợ một chồng: Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly. Ngày nay, con người đang đi ngược với luật Chua dậy: biêt bao gia đình tan vỡ, vợ chồng phân ly. Điều này khiến cho đời sống vợ chồng đánh mất dần ân sủng và hiệu quả của bí tích Hôn Phối nơi mình.
Quả vậy, qua bí tích này, Thiên Chúa chúc lành cho đôi hôn nhân, ban tình yêu và hạnh phúc cho họ, đời sống gia đình không còn là gánh nặng nhưng là niềm vui, và là con đường để hai gnười nên thánh. Thế nhưng, vì thiếu tôn trọng hay quá ích kỷ, chỉ nghĩ cho bản thân nmình mà hai người đã chia tay nhau, để rồi mỗi người phải mang lấy đau khổ, gánh lấy bất hạnh và mất dần ân nghĩa với Chúa và với nhau. Hơn thế nữa, những người con của họ cũng phải mang lấy rất nhiều hệ luỵ do cha mẹ gây ra bởi sự ích kỷ của mình.
Lạy Chúa, xin cho những ai đang sống đời hôn nhân, và cho mọi gia đình trên thế giới này hiểu rằng: yêu thương và chung thủy là ocn đường duy nhất để mỗi thành viên đạt được hạnh phúc và nên thánh thiện, và những ai sắp bước vào đời sống hôn nhân, chuẩn bị cẩn thận để bảo đảm đời sống gia đình luôn mãi.
22. Độc thê hay đa thê?
(Suy niệm của JM. Lam Thy ĐVD.)
Khoảng thập niên 50 và 60 thế kỷ XX, giới thanh niên miền Nam Việt Nam thường hay nói vui với nhau: “Lấy vợ Nhật, nằm giường Lèo, ăn cơm Tiều, xài đồ Tây”. Bộ nhớ hồi này đã kém đi nhiều, không hiểu có nhớ hoàn toàn đúng như vậy không; nhưng không hề gì, vì nhắc lại câu nói ấy ở đây, kẻ viết bài này chỉ muốn nói đến cái ý nghĩa, mục đích của câu nói. Đại khái câu nói ấy diễn tả cái mơ ước được sở hữu toàn đồ dùng tốt đẹp. Trong 4 cái mốt (mode) thời thượng ấy, tôi chỉ hiểu được 3: * Lấy vợ Nhật (gái Nhật mặc kimono rất đẹp, rất quyến rũ); * Ăn cơm Tiều (cơm Tàu đủ món, đủ kiểu, đủ mùi vị); * Xài đồ Tây (hồi đó, mặc Âu phục – gọi là “quần Tây áo Tây” – là cái mốt rất hợp thời trang). Nhưng còn “giường Lèo” thì mù tịt, chẳng biết hình dáng và công dụng của nó ra sao? Chỉ nghe truyền khẩu giường Lèo là giường của người nước Lào (Ai Lao) rất đẹp, rất êm. Mà có lẽ cũng vì thế nên có câu nói về chế độ hôn nhân: “Một vợ nằm giường Lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ ngủ chuồng heo”. Như vậy, muốn được ngủ trên cái giường Lào rất đẹp, rất êm ái, thì chỉ nên có một vợ mà thôi.
Nói dông dài cho vui để có cái cớ đi vào suy niệm bài Tin Mừng CN XXVII/TN-B (Mc 10, 2-16). Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật nhóm ngưới Pha-ri-sêu hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ hỏi không phải vì họ quan tâm đến vấn đề đạo đức trong hôn nhân, mà thâm ý của họ chỉ “là để thử Người”. Biết quá rõ dụng ý của đám người chuyên gài bẫy, Đức Giêsu đã hỏi vặn lại: “ông Mô-sê đã truyền dạy điều gì?” và khi đám Pha-ri-sêu trả lời là ông Mô-sê cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ, thì ngay lập tức Đức Giêsu giáng một đòn rất nặng: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông.” Tiếp theo đó, Người chỉ ra ngay từ khởi nguyên Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ “họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt”, mà đã là một xương một thịt thì tất nhiên không được “rẫy vợ” dù bất cứ dưới hình thức nào.
Xã hội thời hiện tại không chỉ thoả hiệp, mà còn chấp nhận bằng luật pháp nhiều hình thức “rẫy vợ”: từ ly thân, ly hôn tới ly dị; ngoài ra, đây đó – thậm chí cả trong tôn giáo – vẫn còn tục đa thê. Với Ki-tô Giáo thì lập trường dứt khoát khẳng định là hôn nhân chỉ có một vợ một chồng, vì tuy là hai nhân tố nhưng đã nên “một xương một thịt”. Bởi tiên vàn thì cuộc hôn nhân nguyên thuỷ của loài người đã từ một mà ra (“ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa phán: ‘Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó’… ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người. Con người nói: "Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra." – St, 2, 18-24).
Có một phản biện vui vui trong trường hợp này: Tại sao Thiên Chúa lại không lấy một cái xương đầu hoặc xương chân, mà lại “rút một cái xương sườn của con người ra” để làm nên người phụ nữ? Và cũng có một đáp án vui vui: Vì nếu lấy xương đầu thì rất có thể người vợ sẽ “đè đầu vít cổ” người chồng, mà nếu lấy xương chân thì người phụ nữ sẽ bị chồng “vít cổ đè đầu” biến vợ mình thành nô lệ thay vì trợ tá. Tuy chỉ là những chuyện nhàn đàm trong lúc trà dư tửu hậu, nhưng tôi thấy rất có lý. Sở dĩ Thiên Chúa lấy cái xương sườn ở trung tâm thân thể của người nam mà dựng nên người nữ, là có ý cho biết người nữ bình đẳng với người nam, người nữ chỉ có thể là trợ tá, chớ không thể là bà chúa và càng không phải là nô lệ của người nam. Đối lại, người nam cũng không thể là ông chủ hay đầy tớ của người nữ. Nam nữ phải bình đẳng, bình quyền – rất thâm thuý và xác thực.
Chính vì thế, nên Đức Ki-tô mới dạy: “Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly… Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình." (Mc 10, 6-12). Vâng, dù là hợp pháp (theo luật lệ xã hội) hay lén lút, thì những việc làm, những hành động đi ngược lại giáo huấn trên, không những chỉ là phản bội người bạn đời của mình (bội ước hôn nhân), mà còn là vi phạm giới răn của Thiên Chúa nữa. Đó là chưa kể trường hợp đôi vợ chồng phạm tội ấy đã có con, thì việc làm của họ còn làm gương mù, gương xấu cho con cái, tác động mãnh liệt vào cuộc sống con cái khiến cho chúng dễ sa chân vào những hệ luỵ không thể lường trước được.
Viết tới đây, chợt nhớ tới một câu nói về hôn nhân Ki-tô Giáo mà kẻ viết bài này rất tâm đắc: “Họ mở rộng bàn ăn cho mọi người, nhưng không mở rộng giường ngủ cho ai”. Chỉ một câu ngắn gọn thôi đã gói ghém tình yêu ‘nhận về’ và tình yêu ‘cho đi’ trong Tình Yêu Thiên Chúa. Nói khác hơn, câu nói trên bao hàm cả tình yêu giới tính (tình ái – eros) lẫn tình bác ái (agape) Ki-tô giáo (xc Thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu “Deus Caritas Est”, số 2-10). Xin được trích cả đoạn văn có câu tâm đắc nêu trên: “Việc chuẩn bị này cũng không được lãng quên tầm quan trọng phải giúp người trẻ thủ đắc được khả năng phê phán liên quan đến các môi trường chung quanh của chúng, và lòng can đảm Ki-tô Giáo giúp biết hiện diện trong đời nhưng không thuộc về đời. Đây là điều ta đọc được trong Thư gửi Diognetus, một văn bản đáng kính và chắc chắn là xác thực từ thời Ki-tô Giáo sơ khai: "Các Ki-tô hữu không khác biệt gì với những phần tử khác của nhân loại xét cả trên bình diện xứ sở, tiếng nói lẫn phong tục...Toàn bộ nếp sống của họ đã làm nó trở nên đáng ca ngợi và ai cũng phải nhìn nhận là phi thường... Họ cũng cưới vợ cưới chồng và sinh con đẻ cái như những người khác; nhưng họ không bỏ rơi con cái họ. Họ mở rộng bàn ăn cho mọi người, nhưng không mở rộng giường ngủ cho ai. Họ thấy họ trong thân xác, nhưng không sống theo thân xác." (xc Tập “Chỉ Dẫn Chuẩn Bị Lãnh Nhận Bí Tích Hôn Nhân”, Vatican 1996, số 27 – nguồn: Thanhlinh.net).
Quả thật, vấn đề đa thê ngay từ thời phong kiến, mặc dù được xã hội công nhận, nhưng trong dân gian đại đa số quần chúng vẫn không chấp nhận. Có câu chuyện tiếu lâm “Ba bát canh bầu” kể rằng: Có một anh chàng 3 vợ, bữa sáng tới vợ cả, bà cả thầm nghĩ “chắc thế nào khi sang dì hai, thì đức ông chồng sẽ được đãi một bữa cơm thịnh soạn, thôi thì ta nấu cho chàng một bát canh bầu lót dạ vậy”. Ăn xong tô canh bầu, xế trưa sang bà hai, bà hai nghĩ bụng “chắc chàng đã ăn no nê ở bên chị cả, thôi thì ta nấu cho chàng một tô canh bầu, để bụng đến chiều sang dì ba dùng bữa cho ngon miệng”. Chiều sang bà ba, bà ba cũng nghĩ “chắc chồng mình đã ăn no bên chị cả, chị hai, thôi thì nấu cho chàng tô canh bầu ăn cho nhẹ bụng để ngủ cho ngon giấc”. Anh chàng ăn ba tô canh bầu, tối đến hết ngủ được, vì bị “Tào Tháo đuổi” chạy có cờ suốt đêm (tiêu chảy đấy!). Nếu tình trạng này kéo dài, anh chàng 3 vợ chắc chắn chẳng còn đi tiêu chảy, đi tả nữa, mà là “đi tàu suốt” luôn. Hoặc như câu chuyện dẫn ở đầu bài viết “Một vợ nằm giường Lèo, hai vợ nằm chèo queo, ba vợ ngủ chuồng heo”, cũng đã đưa ra một lời răn đe: chớ ham đa thê.
Xã hội ngày nay, vấn đề đa thê tuy đã được đa số các quốc gia không thừa nhận, nhưng công nhận cho ly hôn, ly dị, thì cũng có nghĩa là bỏ vợ (chồng) này lấy vợ (chồng) khác, và cũng không hiếm cảnh “chán cơm thèm phở”, lén lút “phòng nhì, phòng ba”, gian dâm, ngoại tình. Câu chuyện gian dâm ngoại tình, ngay trong Cựu Ước cũng đã răn đe: “Nhờ thế, con sẽ thoát khỏi người đàn bà trắc nết, khỏi người phụ nữ không quen cứ nói ngon nói ngọt. Người bạn đường thời son trẻ, ả đã bỏ rơi, giao ước của Thiên Chúa, ả hằng quên lãng” (Cn 2, 16-17); “Hỡi con, sao con lại mê say người đàn bà xa lạ, ôm ấp người phụ nữ không quen?” (Cn 5, 20). Đến Tân Ước, trong vấn đề hôn nhân gia đình, Thánh Phao-lô cũng dạy: “Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Xa-tan lợi dụng để cám dỗ…. Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.” (1Cr 7, 3-5, 10-11).
Thánh Phao-lô cũng không quên nhắn nhủ đừng phạm tội gian dâm ngoại tình, vì làm như thế là mình đã xúc phạm đến thân xác mình, mà thân xác con người là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, là đền thờ sống động cúa Chúa Thánh Thần, là chi thể của thân thể Đức Giêsu Ki-tô, thì xúc phạm đến thân thể mình nào có khác gì xúc phạm chính thân thể Đức Giêsu, xúc phạm đến Thiên Chúa? (“Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Ki-tô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào! Anh em chẳng biết rằng ăn ở với người kỹ nữ là nên một thân xác với người ấy sao? Thật thế, có lời chép rằng cả hai sẽ thành một xương một thịt. Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người. Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình.” – 1Cr 6, 15-18).
Quả thât “Những đặc tính căn bản của hôn phối là sự duy nhất và bất khả phân ly. Nhờ tính cách Bí Tích, những đặc tính ấy đựợc kiện toàn đặc biệt trong hôn phối Ki-tô giáo.” (Giáo Luật HTCG, Ðiều 1056). Đó cũng là lý do cho biết tại sao sách Giáo Lý HTCG (số 1611) khẳng định: “Khi nhìn giao ước của Chúa với Ít-ra-en dưới hình ảnh của một tình yêu hôn nhân độc hữu và chung thủy (x. Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31, Ed 16;23), các ngôn sứ đã dọn lòng Dân Tuyển Chọn để họ ý thức sâu xa về tính duy nhất và bất khả phân ly của hôn nhân (x. Ml 2,13-17).”
Nói tóm lại, là Ki-tô hữu (tức là những người đã được chính Đức Giêsu Thiên Chúa nhận là bạn hữu, anh em) xin hãy “mở rộng bàn ăn cho mọi người”, và kiên quyết “không mở rộng giường ngủ cho ai”. Một vợ một chồng yêu thương gắn bó, chung thuỷ trọn đời, thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn. Ấy cũng bởi vì: “Tự bản chất, chính định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi qui hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân. Như thế, bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ "không còn là hai, nhưng là một xương thịt" (Mt 19, 6), phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly.” (Hiến chế về Mục vụ “Gaudium et Spes” – số 48).
Sống trong đời sống hôn nhân, người Ki-tô hữu hãy gìn giữ biểu tượng “Hôn nhân là hiện thân của Tình Yêu Cứu Độ” cho trong sáng, quang minh chính đại, đúng với ý nghĩa đích thực của nó; bởi vì “Toàn bộ đời sống Ki-tô giáo mang dấu ấn của tình yêu "hôn nhân" giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh. Bí tích Thánh Tẩy, cửa ngõ dẫn vào dân Thiên Chúa, đã là mầu nhiệm "hôn nhân", nên cũng được gọi là "thanh tẩy chuẩn bị hôn nhân" (x. Ep 5, 26-27) trước khi dự tiệc cưới là bí tích Thánh Thể. Hôn nhân Ki-tô giáo là dấu chỉ hữu hiệu, là bí tích của giao ước giữa Đức Ki-tô và Hội Thánh. Hôn nhân giữa hai người đã được rửa tội là một bí tích thực sự của Giao Ước Mới, vì biểu thị và thông ban ân sủng cho họ (x. DS 1800; CIC 1055, 2).” (Giáo Lý HTCG, số 1617). Ước được như vậy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắn rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XXVII/TN).
23. Ly dị là phản chứng yêu thương
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Người ta có được phép ly dị vợ mình bất cứ vì lý do gì không?” (Mc 10,2).
Chẳng biết các biệt phái đã đặt vấn đề này với Chúa Giêsu để đưa Ngài vào bẫy hay họ thành tâm muốn xin một lời chỉ giáo. Bởi lẽ trong bối cảnh vua Hêrôđê vừa ly dị vợ và cưới người khác, nếu Chúa Giêsu phản đối ly dị thì chẳng khác chi tự gây xung đột với nhà vua. Mặt khác, Ngài cũng có thể bị kết tội lạc giáo nếu câu trả lời mâu thuẫn với những gì được ghi trong luật Môisen-người chồng được bỏ vợ bằng cách trao tờ ly thư nếu như thấy vợ mình “thiếu đoan trang đứng đắn”.
Giải thích về ý nghĩa của nhóm từ “thiếu đoan trang đứng đắn,” trường phái Giáo sĩ Shammai của Do thái cắt nghĩa rằng: luật cho phép người đàn ông bỏ vợ chỉ với lý do cô ta phạm tội ngoại tình. Trong khi đó trường phái Hillel, vốn rất phóng túng, lại cắt nghĩa rằng người vợ có thể bị ly dị nếu làm hư đồ ăn, hay nói chuyện với người đàn ông lạ mặt, hay kể xấu về họ hàng bà con bên chồng. Kết quả là phái tự do phóng túng đã thắng thế khi mà nhiều người đàn ông đã đưa vợ ra toà vì những lý do không đâu vào đâu.
Trước những lối lý giải khác nhau của hai trường phái Shammai và Hillel về vấn đề ly dị, cộng với lối sống tự do quá trớn của nhiều người đương thời. Đức Giêsu đã khẳng khái xác định lý do Môisen để cho người ta ly dị là vì lòng dạ quá chai lì và ngang bướng của họ. Còn từ thưở tạo thiên lập địa, sự đó chẳng hề được lập ra.
Đức Giêsu đã hướng con người về với khung cảnh sáng thế để chỉ ra rằng Thiên Chúa đã thương dựng nên người nam và người nữ, tác thành họ nên một trong tình yêu, và điều gì Thiên Chúa đã phối hợp, sẽ không có một quyền lực nào được phép phân ly (Mc 10:6-7), dù đó là quyền lực của tiền bạc, sắc đẹp, sức khoẻ, tuổi tác, tính tình… ngoại trừ sự chết, lúc người ta trở về với Đấng Tạo Thành.
Tính chất bất khả phân trong hôn nhân đã được tôn trọng và bảo vệ từ ngày khai nguyên của Giáo hội cho đến thế kỷ thứ 15. Rất nhiều quốc gia trên khắp thế giới đã có chung một sự tín phục đối với giáo lý của Đức Giêsu: “Sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly.”
Thế nhưng vào thế kỷ thứ 16, một biến cố đau lòng đã xảy ra, gây phương hại trầm trọng đến yếu tố bất khả phân của hôn nhân. Số là vua Henry VIII của nước Anh đã tìm mọi cách để xin Giáo hội Công giáo cho phép tiêu hôn với hoàng hậu Catherine thành Aragon. Giáo hội can đảm cự tuyệt và trả lời nhà vua: “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, con người không thể phân ly.” Thế là hận thù phát sinh. Thế là sự ác dâng tràn. Nhà vua bèn mua chuộc và tạo áp lực lôi kéo một số giám mục về phía mình. Sau đó cắt đứt quan hệ với Giáo hội Công giáo, thành lập giáo hội Anh giáo, tự phong làm giáo chủ của giáo hội mới. Nhà vua đi cưới vợ khác, và đưa cả đất nước vào con đường lầm lạc. Thế nhưng Henry vẫn không tìm được hạnh phúc, dù đã trải qua nhiều lần kết hôn.
Việc làm sai trái của vua Henry VIII-ly dị và hậu quả của nó-đã xâm nhập vào luật pháp của dân Anh. Từ đây lan sang các quốc gia trong vùng biển Tại Tây Dương. Thậm chí còn len vào tận luật pháp của Hoa kỳ. Cho đến hôm nay, vấn đề ly dị đang ăn sâu vào nhiều quốc gia Á châu và Mỹ châu.
Việc cho phép ly dị của luật pháp dân sự không những gây ra vô số tác hại khủng khiếp cho hai người nam, nữ, song còn làm tổn thương trầm trọng đến thể xác và tinh thần của con cái. Phải chăng đó là lý do Đức Giêsu đã tái xác định với các môn đệ: từ khởi nguyên không có chuyện đó, và “Ai bỏ vợ mà đi lấy người khác tức là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và nếu ai bỏ chồng mà đi lấy chồng khác, thì người đó cũng phạm tội ngoài tình luôn” (Mc 10:11-12). Thế nên luật pháp trần gian và tờ ly thư mà nó cấp phát cho, cũng chỉ là mảnh giấy vô hồn, vì chúng không tuân theo đường lối của Thiên Chúa.
Thật đáng ghi nhận biết bao khi Kinh Thánh tiếp nối bài huấn từ của Đức Giêsu về vấn đề ly dị với hình ảnh Ngài ẵm các em nhỏ vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng. Phải chăng Thiên Chúa muốn nói với các bậc cha mẹ: dù gì thì cũng hãy nhìn vào con cái. Chúng không thể cùng một lúc bước đi trên hai nẻo đường đối nghịch của cha mẹ. Cha mẹ đã từng được phối hợp “nên một” rất thiêng liêng trong con cái đó phải được bảo vệ và duy trì nhân danh Thiên Chúa. Bởi vì trong Thiên Chúa không có phân ly.
Thiên Chúa đã chúc lành cho các em nhỏ. Chẳng nhẽ cha mẹ lại chống lại ý Trời bằng ly dị, một hành động chúc dữ cho con mình.
Con cái là phúc lộc Thiên Chúa trao ban cho cha mẹ. Ơn lành của Thiên Chúa nơi các em, cha mẹ sẽ được hưởng nhờ. Để con cái đón nhận phúc lành của trời cao và để ơn lộc đó sinh hoa bình an, kết trái vui tươi, và chín mùi hạnh phúc, cha mẹ phải biết đưa con mình đến với Đức Giêsu. “Người ta đem các trẻ nhỏ đến với Ngài để Ngài đụng đến chúng” (Mc 10:13). Khi đưa con em đến cùng Chúa, cha mẹ cũng đã tự đưa chính mình đến với Ngài.
Song, giữa thế giới hôm nay, phải đưa con và đưa mình đến với Đức Giêsu như thế nào?
Trong các phương cách tiếp cận Đức Giêsu, không gì dễ dàng và hữu hiệu hơn cầu nguyện. Thử hỏi có phải bao gia đình tan nát, bao con cái buông tuồng; bao tâm hồn sa đoạ, là vì gia đình thiếu cầu nguyện? Phải chăng là vì các thành viên bỏ bê, không màng chi đến mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa?
Thực tế cho thấy phần lớn những gia đình bất hạnh là những gia đình coi thường đạo đức. Những đôi vợ chồng gấu ó đến độ phân ly là những cặp vợ chồng xem giá trị thiêng liêng nhẹ hơn giá trị trần tục.
Chỉ với đời sống liên kết với Đức Giêsu qua cầu nguyện, người ta mới tìm được sức mạnh đỡ nâng và khám phá giá trị bất biến của một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
Chí lý làm sao lời xác minh của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Gia đình cầu nguyện là gia đình tồn tại. Một gia đình không bỏ cầu nguyện là một gia đình không mất hạnh phúc.”
“Vinh phúc thay người kính sợ Chúa,
Và hằng đi trên đường quang minh Thiên Chúa
Người hưởng huê lợi tay người tạo nên
Và hạnh phúc Chúa thưởng ban muôn đời.”
24. Có Chúa trong đời nhau
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Chuyện tình yêu đôi lứa ngày mới xây mơ dệt mộng biết bao là sắc màu xinh đẹp. Những hẹn hò trước lễ thành hôn, những nũng nịu hồn nhiên, những chiều chuộng rất nhân từ, những cho nhau không hề giữ lại, không hề tiếc nuối… tưởng như là hạnh phúc! Đôi tim hồng rạng rỡ. Mạch sống căng tràn sức xuân. Tưởng như thế là thời gian chuẩn bị đã xong, đã đủ. Rồi cuối cùng, quyết định đến với nhau nên nghĩa vợ chồng. Hôn nhân tự nhiên đẹp theo một khuôn định tự nhiên của Đấng Tạo Hóa, mà đôi khi con người không khám phá ra nổi. Đã vậy, còn mơ hồ định nghĩa tình yêu như một chuyện tự nhiên mà không cần đến sự can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Vì thế, chuyện đến với nhau và để bỏ nhau cũng bỗng dưng cho là chuyện tự nhiên bình thường.
Ki-tô hữu Công Giáo khi bước vào đời sống hôn nhân cũng không thiếu những ước mơ hạnh phúc lãng mạn của thuở ban đầu yêu nhau say đắm. Nhưng hẳn phải khác hơn người không tin Thiên Chúa ở nhiều điểm:
- Thứ nhất là tin mọi biến cố trong đời đều có sự can thiệp của Thiên Chúa,
- Thứ hai là phải học hiểu thấu đáo về ý nghĩa của Hôn Nhân Công Giáo, đặc biệt là ý nghĩa Đơn Hôn và Vĩnh Hôn: một vợ một chồng và suốt đời trung tín. Bởi Chúa Giêsu đã nâng hôn nhân tự nhiên lên hàng Bí Tích khi Ngài nói rõ: “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết loài người không được phân ly”.
- Và thứ ba: phải sống niềm tin ấy trong đời hôn nhân bằng sự chung thủy sâu xa và chân thành.
Thiên Chúa đã Liên Kết:
Khi chuẩn bị bước vào hôn nhân, Kitô Hữu hẳn phải biết kết hiệp với Chúa và xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn để tình yêu đôi lứa được thánh hóa nên tình yêu vợ chồng trong cuộc hôn nhân thánh thiện. Nhờ ơn Bí tích, đôi vợ chồng dần dần khám phá ra những chiều kích kỳ diệu mới mẻ trong hôn nhân.
Có người chưa hiểu thấu ý Chúa khi mới thành hôn, nhưng qua thời gian, họ đã ngộ ra: “Ngày ấy tôi tưởng tôi chọn em. Nhưng bây giờ tôi mới hiểu: Chúa đã can thiệp vào con người, vào ý muốn tôi, không phải tự sức riêng tôi. Và tôi cảm tạ Chúa vì tôi đã lấy em, không phải người khác. Nếu là một người khác, chắc gì họ đã chịu đựng được tôi cho đến hôm nay”. Và ngược lại, người vợ cũng phải hiểu được thấu đáo điều đó và đừng đứng núi này mà trông núi nọ.
Sự ràng buộc của Hôn Nhân Công Giáo, của Bí tích hệ tại ở việc Thiên Chúa muốn thi thố tình thương của Ngài qua việc kết hiệp ấy. Đã có không ít người tuyên bố: “Nếu cho phép tôi chọn lần thứ hai, tôi sẽ không chọn anh ấy nữa. Nhưng vì chỉ được chọn có một lần và muôn đời không đổi, nên tôi mới hiểu ra tôi “phải làm thế nào” “phải cộng tác với ơn Chúa thế nào” để người ấy chính là người tuyệt vời nhất của đời tôi, và để tôi nhìn nhận”.
Con người vẫn là loài kiêu ngạo trên đời, và cả trong tình yêu cũng không thiếu cốt cách kiêu ngạo ấy. Không biết thế nào là tình yêu mà vẫn cho rằng mình yêu người ta nhất, và vì yêu ngạo, không nhận ra tình yêu của người khác dành cho mình. Sự ngu đần về tình yêu không phải nơi người ngu chữ ít học, mà là nơi người ngu vì coi cái tôi của mình to lớn hơn cả trời cả đất.
Vậy thì, việc “tôi phải làm thế nào”, “phải cộng tác thế nào” ấy là tôi phải học bài tình yêu hiền lành và khiêm nhượng. Chỉ khi tôi hiền lành và khiêm nhượng, thì:
- một là tôi mới thấy người ấy đáng yêu,
- hai là mới có sức làm cho người ấy thay đổi con người từ đáng ghét đến đáng yêu,
- và ba là, mới chứng minh cho người ấy rằng tôi yêu người ấy.
Công việc của người tin, hiểu điều “Thiên Chúa đã liên kết” là cộng tác với ơn Chúa làm cho điều đã liên kết trở nên thành toàn, bền vững.
“Không được phân ly”
Vậy, khi xác nhận được điều “Thiên Chúa đã liên kết”, hẳn phải giữ điều Chúa dạy “không được phân ly”.
Có thể nói các trường hợp ly dị đều bắt nguồn từ chỗ không những chối bỏ việc “Thiên Chúa liên kết” mà còn cho rằng việc liên kết với nhau là do chính mình. Vì thế họ nghĩ đơn giản rằng đã yêu nhau được thì cũng có quyền bỏ nhau khi không còn yêu nhau nữa. Đó là cách yêu và cách bỏ của những người không tin có Thiên Chúa. Những người Công Giáo thời nay cũng bắt chước như vậy. Họ cũng đang chối bỏ Thiên Chúa.
Người Do Thái ngày xưa có hai chủ trương: một là không sống với nhau được nữa thì cứ ly dị, hai là nếu người vợ ngoại tình thì người chồng được ly dị. Nhưng Chúa Giêsu đã khẳng định “Sự gì Thiên Chúa đã liên kết loài người không được phân ly”.
Thời nay, nạn ly dị tràn lan. Ai dám đổ thừa cho người không tin Thiên Chúa làm gương xấu cho người tin Thiên Chúa, nhưng thiết tưởng các Ki-tô hữu phải tự đấm ngực mình về tội bất trung với người bạn đời, cũng đồng nghĩa với tội bất trung với Thiên Chúa. Ly dị thì chỉ có hai người mà hậu quả của ly dị thì ảnh hưởng tới không biết bao nhiêu người! Trước hết là con cái mồ côi cha mẹ khi cha mẹ hãy còn sống, rồi đến những chuyện tình lần thứ hai, thứ ba, thứ năm thứ bảy của người đã ly dị, kể cả chuyện tái hôn bất hợp pháp, lần này sang lần nọ. Cuộc sống không phút bình yên cho ai cả!
May mắn thay, khi đã ly dị, còn có người biết sám hối và ngộ ra mình đã thưa nhau ra tòa vì nhiều lý do vặt vãnh, nhưng còn nhiều lý do sâu xa hơn:
- Ngày chưa cưới nhau thì “Con quỳ lạy Chúa trên trời, sao cho con lấy được người con yêu”. Cưới được rồi, chẳng thấy có phút kinh nguyện mà thưa với Chúa ‘Con quỳ lạy Chúa trên trời, sao cho con yêu được người con đã lấy”.
- Nhớ xưa, khi còn là con nít, được nhận nhiều hơn cho đi. Nay lớn rồi, phải cho đi nhiều hơn nhận lại, mới chứng minh được là mình đã trưởng thành, đã lớn. Lòng ích kỷ của mình chỉ thích nhận hơn là cho đi.
Hai người lấy nhau nên vợ thành chồng không còn là con nít với nhau nữa. Họ cùng là người lớn. Nhưng trong tình yêu, bỗng dưng cả hai sẽ có khi là con nít để nhận, là người lớn để trao. Lẽ công bằng trao và nhận. Con nít của lòng đơn sơ khiêm nhượng, và người lớn của lòng quảng đại bao dung.
- Sách Talmud Do Thái có đoạn: “Xin đừng làm phụ nữ khóc, vì Thượng Đế đang đếm từng giọt lệ của nàng. Hãy nhớ, nàng không đi ra từ đôi chân hay từ cái đầu của chàng. Nàng đã đi ra từ cạnh sườn của Chàng. Bởi thế, nàng được bình an dưới cánh tay ấp ủ của chàng và nàng hạnh phúc gối lên ngực chàng bên trái tim nồng ấm”.
À thì ra, tình yêu của chúng tôi đã thiếu sự “tôn trọng nhau suốt đời” như lời đã hứa.
Và còn bao nhiêu lý do sâu xa nữa…, nhưng một lý do cốt lõi của nạn ly dị vẫn là: Từ chối sự hiện của Chúa trong đời mình và trong đời nhau.
Lạy Chúa, chỉ vì chúng con không mời Chúa đến và ở lại trong lòng chúng con, trong nhà chúng con, nên gia đình chúng con trở nên một địa ngục trần gian quá kinh khủng. Từ nay, xin cho chúng con biết giữ Chúa ở trong lòng mỗi chúng con, trong nhà chúng con, để sự hiện diện của Chúa kiện toàn hạnh phúc hôn nhân và hạnh phúc trong mái ấm gia đình của chúng con. Amen.
25. Đừng chia tay với người mình yêu.
Hôn nhân là con đường thông thường của phần đông nhân loại. Có những người đã bước vào cuộc đời hôn nhân và đang sống với một tổ ấm tươi đẹp, êm đềm và hạnh phúc. Cũng có những người đang kéo lê cuộc sống gia đình “cơm không lành, canh không ngọt”, một cuộc sống khổ đau không lối thoát.
Montaigne đã trình bày hôn nhân như một chiếc lồng sơn son thiếp vàng: những con chim ở ngoài khao khát được vào, còn những con ở trong thì lại làm hết cách để thoát ra. Ca dao Việt Nam cũng có câu ý tương tự: “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt. Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”.
Cách đây không lâu, màn ảnh thành phố chúng ta có chiếu bộ phim mang tựa đề: “Chúng tôi muốn ly hôn” rồi một bộ phim khác mang tựa đề ngược lại: “Đừng chia tay người mình yêu”. Chắc chắn các bạn trẻ đã biết nội dung những cuốn phim này nói gì. Chúng đã nêu lên những lý khiến những đôi vợ chồng đưa nhau ra toà án để xin dị:
- Tại sao chị xin ly dị? Trước toà án, người vợ trả lời: “Tại vì ông ấy ngáy to quá, không để cho tôi ngủ”.
Một bà vợ khác trả lời: “Tại vì ông ấy hôi mùi thuốc lá quá, tôi không chịu được”… và mỗi người đều có lý do không đâu cả, để bỏ nhau một cách dễ dàng, nếu như được phép ly dị.
Vậy có được phép ly dị không? Đây là một vấn đề thời sự, nhưng cũng là một vấn đề đã được đặt ra từ xa xưa: Từ thời Chúa Giêsu những người Biệt Phái Pharisiêu đã từng đặt vấn đề này để thử Chúa Giêsu, bởi vì ông Môsê đã cho phép họ được làm giấy ly hôn để đuổi người vợ nào không vừa mắt chồng ra khỏi nhà (Đnl 24,1-4). Điều này cho ta thấy số phận hẩm hiu của người phụ nữ trong chế độ “chồng chúa vợ tôi”.
Chúa Giêsu đã giải quyết thế nào? Ly dị là một trục trặc của tình yêu, nó không phải là vấn đề chính yếu. Cái chính yếu của hôn nhân là tình yêu hiệp nhất. Với Thiên Chúa không có vấn đề ly dị. Vấn đề ly dị là vấn đề của con người. Chúa Giêsu đã trả lời với họ: “Chính vì lòng chai dạ đá của các ông mà ông Môsê đã phải nhượng bộ cho phép các ông làm giấy ly hôn, chứ từ ban đầu, ý muốn của Thiên Chúa không phải như thế”.
Chúa Giêsu phân biệt rõ rệt đâu là ý muốn của Thiên Chúa và đâu là ảnh hưởng của thời đại. Và ảnh hưởng của thời đại không những làm lu mờ, mà có khi còn làm mất cả ý muốn rõ rệt của Ngài. Thánh ý Thiên Chuá khi dựng nên con người có nam có nữ là để sống chung với nhau. “Đàn ông ở một mình không tốt”. Và Ngài đã dựng nên người đàn bà. Người đàn bà, trước tiên là hông ân của Thiên Chúa ban cho người đàn ông. Đây là quà tặng cao nhất mà Thiên Chúa ban cho người đàn ông, sau khi Ngài đã dựng nên cả vũ trụ đặt dưới chân của ông Ađam. Nhưng Ađam vẫn cảm thấy cô đơn, thiếu thốn, cho đến khi Ađam gặp được chiếc xương sườn cụt của mình là Evà, ông đã reo lên: “Đây đúng là xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi”. Đó là hôn nhân đầu tiên. Từ đó “người đàn ông luôn luôn đi tìm chiếc xương sườn đã bị lấy mất, còn người đàn bà luôn luôn luyến tiếc nơi mình đã xuất phát” (Osty) để kết hợp với nhau thành một xương một thịt, một thân một thể. “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”.
Điều Chúa Giêsu muốn bảo vệ trước hết là phẩm giá con người. Con người càng thấp bé, càng bị hiếp đáp bao nhiêu, càng phải được bảo vệ bấy nhiêu. Trong chế độ “chồng chúa vợ tôi”, Chúa đã đòi phải trả lại cho phụ nữ quyền làm con người, phải nhìn phụ nữ theo ý muốn của Thiên Chúa. Phải nhìn chân giá trị của người phụ nữ như là người hỗ trợ, bổ túc và làm sung mãn cho người đàn ông. Vì vậy, hôn nhân phải đặt căn bản ở sự tương trợ lẫn nhau, tôn trọng giá trị của nhau. Chính sự hiệp nhất này làm cho hai người trở nên một và phát sinh hoa trái cho sự sống mới. Đó là những đứa con của tình yêu. Cha mẹ có yêu thương nhau thì mới yêu thương con cái là kết quả của tình yêu giữa vợ chồng với nhau. Cha mẹ không được bỏ rơi con cái. Phải đón nhận tất cả con cái Thiên Chúa đã ban cho, bởi vì các em bé là con người. Phải tôn trọng các em như con người, từ bào thai các em đã là hơi thở và là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Cha mẹ, vợ chồng có chung tình vẹn nghĩa với nhau mới có thể đảm bảo hạnh phúc cho con cái mình.
Sở dĩ khi xưa, ông Môsê đã chăm chước cho dân Israel được rẫy vợ là vì lòng dạ họ lì lợm, bướng bỉnh, chai đá. Còn ngày nay, Chúa Giêsu đã rút lại luật Môsê, chính thức thay thế nhừng gì là hủ tục trong Cựu ước bằng luật Tân Ước, chính thức xác nhận ý muốn của Thiên Chúa từ thuở ban đầu là nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly của hôn nhân. Hơn nữa, từ ngày Chúa Giêsu đến, từ ngày Ngôi Lời nhập thể làm người, hôn nhân đã tìm thấy lại tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Bởi vì, việc kết hợp vợ chồng trong hôn nhân là biểu tượng, là hình ảnh của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Đó là điều Thánh Phaolô đã nhiều lần nói đến trong thư gởi tín hữu Êphêsô: “Cũng như Đức Kitô không thể chia cắt với Hội Thánh, thì chồng cũng không thể chia ly với vợ”. Chính với tư cách là Hiền Thê của Chúa Kitô mà Hội Thánh buộc các con cái của mình khi lập gia đình phải tuân giữ định luật vẫn chi phối sự kết hợp giữa Hội Thánh với Chúa Kitô, như Hiền Thê với vị Hôn Phu của mình. Làm sao Hội Thánh có thể trở về với những nhượng bộ của thời Cựu Ước về hôn nhân được, khi mà Hội Thánh đã được nghe chính miệng Chúa Giêsu trả lời cho những người Biệt Phái Pharisiêu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”.
Thánh Phaolô (1Cr 7,10-11) nói rất rõ về điều này: “Ai đã kết hôn, thì tôi truyền –thực ra không phải tôi, mà là Chúa– là vợ không được lìa chồng, và giả như đã lìa chồng, thì phải ở độc thân, hay phải làm hoà lại với chồng, và chồng không được rẫy vợ”.
Hôn nhân là một định chế do chính Đấng Tạo Hoá thiết lập, là một giao ước có tầm vóc vững chắc, vĩnh viễn, nghĩa là một sự thoả thuận cá nhân không thể rút lui lại được. Vì lợi ích của vợ chồng, của con cái, của xã hội và của Giáo Hội nữa, nên mối dây liên kết thánh thiện của bí tích Hôn Nhân không lệ thuộc vào sở thích của con người, nghĩa là không còn được tự ý bỏ nhau, một khi đã thề hứa chung tình vẹn nghĩa, nên vợ nên chồng. Vì vậy, Chúa Giêsu còn nói rõ ràng rằng: phải liệt kê vào tội ngoại tình, khi người chồng hoặc người vợ bỏ nhau đi lấy người khác trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực. Chỉ có cái chết của một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa chúc phúc cho mọi gia đình, nhất là các gia đình Kitô hữu mà Chúa đã thánh hiến một cách đặc biệt bằng bí tích Hôn nhân. Nhờ đó, những phẩm giá tự nhiên cũng như những giá trị thiêng liêng cao cả của đời sống hôn nhân được bảo toàn, được cổ võ, được kiên cường và ngày càng tiến gần đến tình yêu trung thành và vĩnh cửu của Thiên Chúa.
26. Gia đình
Một ngày kia, có hai vị tu sĩ già cùng ngồi đọc Tin Mừng, hôm đó họ đọc chuyện người con đi hoang. Một vị nhận xét: Đây thật là một câu chuyện hay. Chúa đã vẽ nên một bức tranh sinh động: Người em tự cao tự đại, ham hưởng thụ, người anh cần củ lam lũ nhưng lại nhỏ nhen ganh tỵ; còn người cha thì dịu hiền nhân ái. Mà sao không thấy nói tới người mẹ nhỉ?” Vị tu sĩ thứ hai là một người lớn tuổi hơn, điềm đạm trả lời: Nhưng bạn ơi, nếu gia đình đó còn mẹ, chắc người con sẽ không bỏ nhà đi hoang đâu.
Một gia đình đầy đủ, mỗi người đều làm chu toàn sứ mệnh của mình, thì đó là một bảo đảm về hạnh phúc cho từng người và cũng là một cái nôi an toàn cho đức hạnh, tư cách của mỗi người. Đó cũng là bảo đảm thành công trong hoạt động xã hội, và trợ lực người ta rất nhiều trong việc rèn luyện các đức tính tự nhiên cũng như siêu nhiên. Và một gia đình như vậy phải được xây dựng trên nền tảng hôn nhân vững chắc, một hôn nhân theo đường hướng Chúa Giêsu đã vạch định và củng cố.
Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên mọi sinh vật, từ thực vật, động vật có đực có cái, đến con người có nam có nữ, có đàn ông đàn bà. Những khác biệt về giới tính đi tới một hoà hợp diệu kỳ, bổ túc cho nhau để đạt thăng tiến phát triển. Nhưng trong lịch sử tiến hoá của nhân loại, quan niệm về giới tính đã trải qua nhiều dao động thăng trầm; khi thì bi quan nghiêm khắc muốn tiêu diệt tính dục, có lúc lại quá lạc quan đến mức tự do phóng túng, chủ trương tìm hưởng lạc thú như mục đích đời người.
Nền luân lý của Do Thái giáo cổ truyền cũng qua nhiều biến động. Các tổ phụ đều chấp nhận đa thê, và luật Môisê cho phép bỏ vợ nếu có lý do chính đáng, chỉ cần thành lập một chứng từ ly hôn. Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật đó cũng được đưa ra mổ xẻ. Vì thế mới có câu hỏi: Có được phép bỏ vợ không? Nhân dịp này Chúa Giêsu xác định quan điểm của Ngài về hôn nhân. Hôn nhân phải có hai đặc tính: Một vợ một chồng và không được ly dị.
Quan điểm này phần nào khác với một số người đồng thời với Chúa Giêsu, nhất là trái với nếp sống đa số nhân loại thời nay. Nhưng lại rất cần thiết để đạt hạnh phúc. Hôn nhân phải xây dựng trên tình yêu. Kết hợp với nhau là phải nghĩ tới người khác. Chỉ được hưởng hạnh phúc khi tạo dựng hạnh phúc cho người bạn, cho thành phần khác trong gia đình. Còn nếu chỉ nghĩ tới mình thì rồi sẽ có lúc thấy người khác là gánh nặng mình muốn trút bỏ.
27. Hôn nhân trong Tin Mừng nhân ái
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Hôn nhân, với các khía cạnh liên quan của nó, vẫn luôn là một vấn đề lớn của xã hội loài qua các thời đại. Trước đây tôi vẫn thường coi nó là một vấn đề thuần luân lý. Chính vì suy nghĩ như thế cho nên trong công tác mục vụ, tôi thường xuyên phải đối mặt với, một bên là những đòi hỏi bền vững của các ràng buộc luân lý, bên kia là sự yếu đuối mỏng dòn của thực tế con người. Không ít lần trong thâm tâm tôi cảm thấy bị xâu xé khủng khiếp; không biết cách nào trung hòa giữa hai trạng thái đối nghịch nhau như thế.
Xét về khía cạnh con người vốn mãi mãi là ‘lòng chai dạ đá’, thì luân lý hôn nhân, ngay cả trong các nền luân thường đạo lý chặt chẽ nhất, chẳng hạn như Luật Mô-sê của Cựu Ước, cũng vẫn phải mở ra lối thoát; “Ông Mô-sê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”. Đối với một xã hội thượng tôn luật pháp như Do Thái Giáo thời Đức Giêsu, thì ly dị trong một số trường hợp được pháp luật qui định, đúng là một lối thoát cần thiết. Xã hội nào cũng vậy, thời xưa cũng như ngày nay, mọi người đều nhận thức, cách này hay cách khác, giá trị của hôn nhân, và đều mong muốn duy trì nó cho thật bền vững. Thế nhưng thực tế phũ phàng không ngừng yêu cầu phải chấp nhận, trong một số trường hợp bất khả kháng, một sự phân ly dưới hình thức này hay hình thức khác, ly dị hay ly thân… hay gọi là gì cũng được. Mấy ông Pha-ri-sêu quen đề cao luật pháp, khi đặt câu hỏi trước Thầy Giêsu, họ cũng thừa biết rằng học thuyết mà Người đang giảng dạy, cho dầu có cao đẹp tới mấy, cũng khó có thể đi ra ngoài cái lẽ thường tình này. Hiểu như thế, ta sẽ thấy câu Đức Giêsu trả lời họ thực không đơn giản chút nào. Rõ ràng ở đây Thầy không giới thiệu một nền luân lý mới, chắt chẽ hơn, khắt khe hơn những gì họ từng giảng dạy. Vì là một người phàm ‘giống chúng ta mọi đàng’ (Dt 4:15), Người chắc chắn không thể nhắm mắt làm ngơ trước một nhân loại mỏng dòn yếu đuối, nhất là trong lãnh vực tình dục nhạy cảm của hôn nhân. Và vì là người đang rao giảng về một Thiên Chúa nhân ái và thứ tha, Đức Kitô chắc chỉ muốn cống hiến một giải pháp cho vấn đề hóc búa này hoàn toàn dưới nhãn quan Tin Mừng. Theo một số nhà chú giải Kinh Thánh thì, trong nền văn hóa cổ đại, ‘lúc khởi đầu công trình tạo dựng’ không chỉ mang ý nghĩa thời gian hoài cổ, mà còn để chỉ thời vàng son của mạc khải Thiên Chúa (xem chú thích trong Christian Community Bible). Vậy thì rõ ràng Đức Giêsu đang muốn đặt hôn nhân trong bối cảnh của Tin Mừng cứu độ.
Phải rồi, chỉ trong tình yêu bao dung và tha thứ của Thiên Chúa - Đấng đã yêu thương con người tội lỗi tới độ chết trên thập giá, thì ‘lòng chai dạ đá’ của con người đầy dục vọng mới tìm được thuốc chữa. Chữa đây không phải là tiêu diệt hoàn toàn bất trung - lăng loàn - ‘fornicatio’ (xem Mt 19,9), để có thể sống trọn đời trung thủy. Nếu có phương pháp cụ thể nào giúp cho các cặp vợ chồng đạt được điều này, thì thật đáng mừng cho hôn nhân biết mấy… Mong rằng, luật pháp cũng như các tổ chức xã hội loài người sẽ ngày càng tiến bộ hầu có thể tiến dần tới mục tiêu hoàn hảo đó. Hãy cứ để các xã hội dân sự, với nền văn hóa và truyền thống của riêng mình, giúp cho hôn nhân ngày càng được thêm củng cố bền vững, dựa trên các qui định của luật pháp con người! Kitô hữu chúng ta chân thành cầu mong cho nền dân luật ngày càng tiến bộ và sáng suốt hơn. Thế nhưng tham lam và yếu đuối vẫn luôn mãi là thực tế phũ phàng mà chỉ lòng nhân ái bao dung của Tin Mừng Đức Kitô mới cống hiến được liều thuốc chữa lành hữu hiệu nhất. Phaolô đã từng so sánh hôn nhân với tình yêu mà Đức Kitô dành cho Hội Thánh; một tình yêu bền vững, không phải là vì Hội Thánh tự mình đã ‘xinh đẹp lông lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào’, nhưng vì nhờ ‘Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống’ mà Hội Thánh mới được nên ‘thánh thiện và tinh tuyền’ như thế (Ep 5,25-27).
Hôn nhân Tin Mừng là như thế đó! Ta không thể hiểu đây là một nền luân lý đối kháng với các nền luân lý khác, cũng chẳng phải là một lề luật cạnh tranh với các luật lệ dân sự hay tôn giáo khác, nhưng là niềm tin thâm sâu vào tình yêu Thiên Chúa cứu độ. Thế nhưng, như Đức Giêsu chứ không như các Pha-ri-sêu, mỗi khi đề cập tới hôn nhân gia đình, chúng ta sẽ luôn đề cao giá trị nhân ái - bao dung của Tin Mừng làm nền tảng cho lòng trung tín. Hôn nhân, nếu muốn thực sự là Tin Mừng, phải lấy giới luật yêu thương mới làm nền tảng duy nhất cho mình; “anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Phải chăng đó mới đích thực là mong muốn của Đức Giêsu khi Người lên đưa ra một khẳng định xem ra mang nặng tính luật pháp: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”?
Lạy Chúa là Đấng thủy trung, Chúa đã đến trần gian không phải để dạy cho con người biết cách cử xử với nhau dựa trên một luân lý hay luật pháp cao đẹp. Tin Mừng nhân ái của Chúa phải trổi vượt trên tất cả, vượt thắng mọi bế tắc của con người yếu đuối! Xin Chúa giúp con, trong khi thi hành mục vụ hôn nhân, luôn biết xa tránh nhãn quan luân lý - luật lệ hạn hẹp, để biết hướng các anh chị em Kitô hữu tới diện mạo Thiên Chúa nhân ái, thứ tha và cứu độ, như cột trụ chống đỡ cho đời sống hôn nhân của họ. Amen.
28. Suy niệm của Gm. Arthur Tonne.
(Trích trong ‘Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật & Lễ Trọng’)
CẦU NGUYỆN VỚI NHAU, Ở VỚI NHAU.
Lớp giáo lý người lớn đang học về hôn nhân. Giáo lý viên xin mỗi học viên cho một câu hỏi về hôn nhân: những câu hỏi tiêu biểu cho cuộc hội thảo ba cấp: Một cặp Công giáo kết hôn được 14 năm, cặp Tin lành Methodist 22 năm và một cặp Mennenite kết hôn mới hai năm. Người chồng Mennonite trả lời hay nhất: Jennie và tôi cả hai đã cam kết với Đức Kitô, khi chúng tôi còn học trung học, điều đó giúp chúng tôi cam kết với nhau trong hôn phối.
Cam kết là quan hệ thường thấy thời nay, nó có nghĩa là một lời thề, một lời hứa với một người khác. Trong tôn giáo, nó có nghĩa là một lời hứa đúng đắn và long trọng để hoàn toàn trung thành với Đức Kitô. Trong hôn nhân, nó có nghĩa là một lời hứa long trọng và thành thật, hoàn toàn trung thành với nhau.
Điều làm sáng tỏ ý nghĩa của tôi hôm nay là: một đôi hôn phối, họ trung thành với Chúa, có nhiều cơ may trung thành với nhau. Kinh nghiệm và điều tra đã làm sáng tỏ điều đó: Năm 1975 trong 4 cặp có 1 cặp ly dị. Nhưng trong 57 gia đình đi lễ đều đặn chỉ có một cặp ly dị. Điều đáng chú ý là 500 cặp gia đình đọc Kinh Thánh đều đặn và cầu nguyện chỉ có một cặp ly dị.
Chúng ta không thắc mắc khi cặp hôn phối cầu nguyện với nhau, họ thường ở với nhau.
Khi một đôi hôn nhân gặp vấn đề. Họ thường thổ lộ với người khác, họ phàn nàn với lối xóm và bạn bè. Họ khóc lóc với mẹ với cha. Họ thở than với người đồng nghiệp, với người cùng hội cùng thuyền. Họ cũng có thể tin cậy ở một bác sĩ, một linh mục, một tâm lý gia, một luật sư, một cố vấn hôn nhân, một viên chức. Họ nói với bất cứ ai về tình cảnh rắc rối của họ. Nhưng họ không thưa với Chúa về điều đó. Tất cả những người nêu trên có thể cho họ lời hướng dẫn, lòng cảm thông và sự giúp đỡ nào đó. Nhưng không ai có thể nâng đỡ họ như Chúa, Đấng thông biết mọi sự và yêu thương mọi loài. Hãy đơn sơ và thành thật, bạn thân thưa với Chúa về nỗi khó khăn của bạn, chân thành và khiêm nhượng, bạn xin Chúa giúp. Nếu thật sự bạn cảm thấy mình có tội. Đừng quá dễ dãi tha thứ cho mình. Bạn xin Chúa hoán cải trái tim người có lỗi. Nếu bạn có lỗi, một lần nữa bạn hết sức khiêm nhượng xin Chúa giúp bạn thay đổi. Nếu bạn cam kết với Chúa, hai bạn cũng cam kết với nhau. Nếu bạn tập cầu nguyện riêng tư với Chúa. Hai bạn cũng sẽ cùng cầu nguyện với nhau dễ dàng. Kết quả là mọi vấn đề sẽ được giải quyết trước khi chúng trở nên trầm trọng.
Chúa ban luật cấm ly dị. Chúa sẽ giúp bạn giữ luật đó. Hãy xin Chúa giúp bạn trong Thánh Lễ hôm nay. Khi Chúa ban mình cho chúng ta trọn vẹn, chúng ta sẽ cố gắng dâng trọn vẹn chúng ta cho Chúa.
Xin Chúa chúc lành bạn.
29. Suy niệm của Noel Quesson.
Đừng chia cắt những gì Thiên Chúa đã kết hợp
Một ngày kia, có hai vị tu sĩ già cùng ngồi đọc Tin Mừng, hôm đó họ đọc chuyện người con đi hoang. Một vị nhận xét: “Đây thật là một câu chuyện hay. Chúa đã vẽ nên bức tranh sinh động: Người em tự cao tự đại, ham hưởng thụ; người anh cần cù lam lũ nhưng lại nhỏ nhen ganh tỵ; còn người cha thì dịu hiền nhân ái… Mà sao không thấy nói tới người mẹ nhỉ?”.
Vị tu sĩ thứ hai là một người lớn tuổi, điềm đạm trả lời: Nhưng bạn ơi, nếu gia đình đó còn mẹ, chắc người con sẽ không bỏ nhà đi hoang đâu!
Một gia đình đầy đủ, mỗi người đều làm chu toàn sứ mệnh của mình thì đó là một bảo đảm về hạnh phúc cho từng người và cũng là một cái nôi an toàn cho đức hạnh, tư cách của mỗi người. Đó cũng là bảo đảm thành công trong hoạt động xã hội, và trợ lực người ta rất nhiều trong việc rèn luyện các đức tính tự nhiên cũng như siêu nhiên.
Và một gia đình như vậy phải xây dựng trên nền tảng hôn nhân vững chắc, một hôn nhân theo đường hướng Chúa Giêsu đã vạch định và củng cố. Từ đầu Thiên Chúa đã dựng nên mọi sinh vật, từ thực vật, động vật có đực có cái, đến con người có nam có nữ, có đàn ông, đàn bà. Những khác biệt về giới tính đi tới một hòa hợp diệu kỳ, bổ túc cho nhau để đạt thăng tiến phát triển. Nhưng trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, quan niệm về giới tính đã trải qua nhiều giao động thăng trầm; khi thì bi quan nghiêm khắc muốn tiêu diệt tính dục, có lúc lại quá lạc quan đến mức tự do phóng túng, chủ trương tìm hưởng lạc thú như mục đích đời người.
Nền luân lý của Do Thái cổ truyền cũng qua nhiều biến động. Các tổ phụ đều chấp nhận đa thê, và luật Môisê cho phép bỏ vợ nếu có lý do chính đáng, chỉ cần thành lập một chứng từ ly hôn. Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật đó cũng được đưa ra mổ xẻ. Vì thế mới có câu hỏi: “Có được phép bỏ vợ không?”. Nhân dịp này Chúa Giêsu xác định quan điểm của Người về hôn nhân. Trước hết nhận xét về luật cho ly dị của Môisê. Chúa bảo đầu tiên không phải như vậy, nhưng Môisê đã chiều theo sự yếu đuối của con người mà tạm thời đưa ra những quy luật rộng rãi. Đã đến lúc phải đặt vấn đề vào đúng chỗ ban đầu của nó. Hôn nhân phải có hai đặc tính: một vợ một chồng và không ly dị.
Chỉ có một vợ một chồng, vì hai người nam nữ phải được bình đẳng. Đó là hai nhân vị cùng quan trọng như nhau, bổ túc cho nhau, chu toàn những sứ mệnh riêng không ai thay thế được. Và phải có tư thế bền vững để mọi thành phần gia đình được yên vui hạnh phúc, nhất là cho những đứa con đang hình thành về thể chất và tinh thần. Không ổn định, không vững chắc thì không thể nào xây dựng những giá trị lâu dài được.
Quan điểm này phần nào khác với một số người đồng thời với Chúa Giêsu, nhất là trái với nếp sống của đa số nhân loại thời nay. Nhưng lại rất cần thiết để đạt hạnh phúc. Hôn nhân phải xây dựng trên tình yêu. Kết hợp với nhau là phải nghĩ tới người khác. Chỉ được hưởng hạnh phúc khi tạo dựng hạnh phúc cho người bạn, cho thành phần khác trong gia đình. Còn nếu chỉ nghĩ tới mình thì rồi sẽ có lúc thấy người khác là gánh nặng mình muốn trút bỏ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết xây dựng niềm tin trên quan điểm của Chúa. Cho chúng con biết kiên tâm bảo vệ hạnh phúc gia đình để chúng con được hạnh phúc trong cuộc sống này trong khi mong đợi cuộc sống hạnh phúc mai sau.
30. Vợ chồng bất khả phân ly.
Ngày hôm nay bọn Biệt phái đã đưa ra vấn đề ly dị để gài bẫy Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài có được phép ly dị hay không? Bởi vì trong sách Đệ Nhị Luật, Maisen đã khẳng định: Một người đàn ông lấy vợ, nhưng sau đó nhận thấy người vợ không đẹp mắt mình, ông ta có quyền dãy vợ và đuổi vợ đi.
Đây là một vấn đề được tranh cãi rất nhiều nơi dân Do Thái. Có người thì chủ trương được ly dị với bất cứ lý do nào, có người thì quan niệm chỉ được ly dị với lý do thật nghiêm trọng và chính đáng mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu chấp thuận ly dị thì đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa, còn nếu Ngài không chấp thuận thì Ngài sẽ mất đi cảm tình của dân chúng và không tôn trọng luật lệ Maisen. Đằng nào thì Ngài cũng sẽ rơi vào cái bẫy được gài sẵn.
Hơn thế nữa, lúc bấy giờ chính Hêrôđê cũng đã dãy vợ để lấy người chị dâu của mình. Gioan Tiền hô đã lên tiếng can ngăn và đã phải trả giá bằng chính cái chết của mình.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy rõ âm mưu thâm độc ấy và đã nói với họ: Sở dĩ Maisen chấp nhận là vì sự cứng lòng của họ, chứ từ thuở ban đầu thì đã không như thế. Bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên người nam và người nữ, để cả hai trở nên một xương một thịt. Nghĩa là cả hai phải bổ túc lẫn cho nhau. Sợi giây hôn nhân này còn bền chặt hơn cả sợi giây máu huyết. Bởi đó người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ để kết hiệp với vợ mình. Và Chúa Giêsu đã kết luận:
- Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly.
Lời xác quyết của Chúa Giêsu thì vững vàng như đá tảng. Chính vì thế mà Giáo hội luôn bênh vực cho tính cách bất khả phân ly của hôn nhân.
Như chúng ta đã biết gia đình là tế bào sống động của nhân loại, là nền tảng kiên vững của xã hội. Nền tảng này tồn tại được là do tính cách bất khả phân ly của hôn nhân. Nếu vợ chồng tan rã thì đang sẽ sụp đổ. Một khi gia đình đã sụp đổ hẳn sẽ kéo theo nhiều hậu quả tai hại cho xã hội.
Thực vậy, vì lợi ích của cả hai vợ chồng mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Một cuộc tình tan vỡ, hẳn sẽ gây đau khổ cho cả hai, nhất là người vợ. Nơi những quốc gia mà chế độ đa thê còn tồn tại, thì người phụ nữ phải chăng chỉ là một thứ đồ chơi không hơn không kém. Với đặc tính bất khả phân ly, Giáo hội đã lớn tiếng bênh vực quyền lợi của người phụ nữ.
Tiếp đến vì lợi ích của con cái mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Trẻ nhỏ như một mầm non, cần phải được che chở bởi sức mạnh của người cha và tình thương yêu của người mẹ. Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho trẻ thơ những bài học làm người, trong đó cha mẹ chính là những bậc thày, những người hướng dẫn không thể thay thế. Con cái sẽ như thế nào nếu như cha một nơi, mẹ một nẻo và như thế, chính bản chất của hôn nhân đòi buộc tính cách bất khả phân ly.
Để duy trì được đặc tính này, dĩ nhiên chúng ta phải hy sinh và từ bỏ nhiều lắm, nhưng nhờ chính những hy sinh và từ bỏ ấy mà tình yêu của chúng ta ngày một thêm mặn nồng và đằm thắm.
Có lẽ giờ này Chúa Giêsu cũng muốn nhắn nhủ chúng ta, những cặp vợ chồng Công giáo, đó là: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, thì loài người không được phân ly.
31. Bền vững.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố cho những người Pharisêu cũng như cho mọi người biết chủ trương của Ngài về hôn nhân và cũng là lề luật của Thiên Chúa, là vợ chồng phải nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly, tức là chỉ được một vợ một chồng và phải sống chung thủy với nhau suốt đời. Nói khác đi, Chúa Giêsu không chấp nhận đa phu đa thê và ly dị. Tại sao Chúa Giêsu lại chủ trương như vậy và đòi hỏi mọi người phải sống như vậy?
Trong báo Tuổi Trẻ Cười số 3 phát hành vào đầu tháng ba năm 1984, có một bài đầu đề là “Hôn nhân kiểu Mỹ” kể rằng: chuyện thay vợ đổi chồng như thay áo của người Mỹ cũng đáp ứng nhu cầu tiện dụng, bởi vì mọi thứ trong cuộc sống của họ đều phải tiện dụng, đều mang dấu vết những sản phẩm chế tạo hàng loạt. Khi nói như vậy tác giả bài báo này có dụng ý nói rằng: chuyện bỏ nhau, chuyện thay vợ đổi chồng ở Mỹ rất nhiều và rất dễ dàng. Mọi người dân Mỹ đều thuộc làu bộ luật ly dị, vì nó giản tiện hơn những bộ luật khác.
Đó là chuyện của xứ người, còn ở xứ ta thì sao? Báo chí cho biết: tại thành phố Hồ Chí Minh, qua thụ lý sơ thẩm của các tòa án quận huyện, được tòa án thành phố tổng hợp, thì hiện tượng ly hôn đã gia tăng đáng kể, đến mức báo động trong những năm gần đây. Báo chí còn cho biết thêm: phần đông đơn xin ly hôn là của những đôi vợ chồng ở lứa tuổi 30 tới 40 và có rất nhiều đôi vợ chồng mới lấy nhau từ một đến năm năm. Có bài báo, sau khi đã kể ra một số lý do dẫn đến ly hôn, đã kết luận: có những trường hợp có lý do chính đáng, nhưng cũng có những trường hợp lý do đưa ra xin ly hôn thật lẩm cẩm. Một số dẫn chứng trên cho thấy tình trạng hôn nhân ngày nay và củng cố cho điều Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay.
Bước vào hôn nhân, tất cả mọi người, ai cũng muốn được hạnh phúc, trọn đời yêu thương, và cuộc tình không phải chỉ là chuyện tháng ngày, vui thì ở, chán thì chia tay, nhưng trái lại, luôn bền vững, tươi đẹp. Chính Chúa Giêsu cũng mong muốn như thế, nên Ngài đã nâng sự kết hợp vợ chồng lên hàng bí tích, nghĩa là một sự kết hợp thánh thiện, bền chặt, biểu tượng của sự kết hợp mầu nhiệm giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Sự kết hợp này keo sơn và bền chặt, ngoài sự chết, không sức mạnh nào, không uy quyền nào có thể chia lìa. Vì thế, khi những người Pharisêu đến chất vấn Chúa: có được phép ly dị để lấy người khác không? Hẳn là họ muốn hỏi: có được thay vợ đổi chồng, đa phu đa thê không? Họ còn nại đến thế giá của ông Môsê để hỏi thử Chúa. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã điềm đạm nhắc lại cho họ biết luật nguyên thủy của Thiên Chúa là một vợ một chồng, còn việc ông Môsê cho phép bỏ nhau để lấy người khác là vì lòng dạ dân chúng thời đó cố chấp, nên ông Môsê phải nhường bộ, chứ thuở ban đầu đâu có thế. Như vậy, Chúa Giêsu đã chính thức rút lại luật Môsê và thay thế những gì là hủ tục trong Cựu ước bằng luật Tân ước, nghĩa là Chúa chính thức xác nhận luật nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly của hôn nhân, đồng thời Chúa đòi hỏi mọi người phải sống theo luật lệ này. Vì thế từ xưa cho đến nay, Giáo hội vẫn luôn trung thành tuân giữ.
Hôn nhân là vấn đề tình yêu, một tình yêu chân chính không chấp nhận chia sẻ, phân tán. Khi yêu người ta muốn chiếm trọn, muốn được chung tình, chứ không ai muốn chung chạ hay nửa đường đứt gánh. Vì thế, bất cứ khi nào tình yêu bị sứt mẻ, bị chia sẻ, bị phản bội, người ta sẽ không quản gian nguy, không ngại tai tiếng, không ngại hy sinh, để quyết bảo vệ cho kỳ được tình yêu đó, như đánh ghen, đập phá, chém giết, thuê người hành hung, tạt át xít tình địch… Tất cả những hành động đó không ngoài mục đích đòi quyền yêu và được yêu một cách tuyệt đối trong hôn nhân, không ngoài mục đích bảo vệ đạo chung thủy của vợ chồng.
Không thể có hạnh phúc trong những gia đình chồng đèo bồng vợ lang chạ, trái lại, khi “sợi giây” tơ hồng bị xé lẻ thì biết bao cảnh hỗn loạn tang thương xảy đến cho gia đình, vợ chồng sẽ không còn lòng quảng đại để tha thứ và để cảm thông nhau như trước nữa, bầu khí gia đình ngột ngạt, nghi kỵ, hằn học, ăn miếng trả miếng sẽ bùng nổ từ đây, và không sớm thì muộn sẽ đi đến chỗ đưa nhau ra tòa đòi ly dị. Tình trạng bi đát này sẽ gây nên nhiều đau khổ cho hai người.
Nhưng hậu quả tai hại nhất của gia đình ly dị là số phận con cái. Thật bất hạnh cho chúng, sinh lầm trong những gia đình bất hòa ấy: tâm tư tình cảm chúng bị đầu độc, chia sẻ, tình huynh đệ bị sứt mẻ héo tàn, tuổi trẻ mơ mộng bị hoen ố, lòng chúng hoang mang, mặc cảm, chán chường. Tội ác phát sinh ra tội ác, từ một gia đình thiếu tình yêu, chúng càng khao khát tình yêu khi nhìn đến anh em của những gia đình khác, chúng muốn tình thương mà lại thiếu tình thương, chúng muốn thoát ly gia đình để đòi hỏi một sự bù đắp nào đó, đòi hỏi không được thì càng gào thét, đập phá, quấy rối… và trở thành những trẻ em hư hỏng.
Trong phạm vi tự nhiên mà đã nguy hại như thế huống chi là phạm vi siêu nhiên. Gia đình là nền tảng của Giáo hội, là tế bào sống của Giáo hội. Nếu tế bào đó không sống, bị hư hỏng thì nhiệm thể đâu còn có lành mạnh được. Chúa nói: “Gia đình nào chia rẽ là tự hủy”. Trường hợp đau thương đó nếu còn được người cha hay người mẹ biết chịu đựng, nhẫn nại, hướng dẫn các con thì còn hy vọng cứu vãn được con cái, nhưng nếu “ông ăn chả bà ăn nem” thì sẽ không còn mảnh đức tin nào nữa. Chúa Kitô đã xác định rõ ràng: “Điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”, phân ly là mất mát, là chết chóc.
Nếu thực tại hôn nhân ngày nay đã lệch chính đạo và xa rời ý muốn của Thiên Chúa, thì nhiệm vụ đưa hôn nhân trở về nguồn là một vinh dự và cũng là một trọng trách của đôi bạn đã kết ước, của các bậc cha mẹ, của các gia đình, và của hết mọi người có nhiệm vụ rao truyền lời Chúa cho muôn dân.
32. Đời đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisêu đã trưng dẫn luật Môsê cho phép một người Do Thái ly dị vợ mình. Một câu trích trong sách Đệ Nhị Luật (24,1) nói rằng: “Nếu một người đàn ông thấy nơi vợ mình có điều gì chướng thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà”. Nghe có vẻ giống như ném một cái rác vào trong thùng rác.
Nhưng Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến tính vĩnh viễn và bất khả phân ly của hôn nhân. Người trích một câu trong sách Sáng Thế Ký như sau: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly”.
Hôn nhân là một giao ước vĩnh viễn giữa người chồng và người vợ, được ký kết trước mặt Thiên Chúa. Hai người tự nguyện thề hứa dâng hiến cuộc đời cho nhau. Giao ước này khác xa các hợp đồng kinh tế. Chẳng hạn, nếu chúng tôi muốn thuê một căn hộ chúng tôi sẽ ký một hợp đồng trong một thời hạn nhất định, có ghi rõ số năm, tháng mà chúng tôi sẽ thuê căn hộ đó. Giao ước hôn nhân thì khác hẳn. Bởi vì nó không phải là một giao kèo có thời hạn, nhưng là một cam kết dấn thân sống kết hiệp với nhau trong suốt cả cuộc đời.
Hai người phải phối hiệp với nhau. Trong hôn nhân, sự chia cách là hậu quả của những hiểu lầm. Ly dị có thể phá hủy không chỉ là cuộc sống lứa đôi mà thôi, nhưng còn phá hủy cả tương lai của con cái nữa. Vì thế, hôn nhân mang ý nghĩa một sự kết hiệp vĩnh viễn, giữa người chồng với người vợ, và còn là sự liên đới giữa cả cha mẹ với con cái nữa.
Cả hai vợ chồng sẽ trở nên một xương một thịt. Theo kế hoạch của Thiên Chúa, họ không còn là hai nữa nhưng đã kết hợp nên một. Điều này có thể thấy được trong cố gắng kết hiệp của họ để giúp nhau lớn lên trong sự trưởng thành.
Để cuộc sống lứa đôi được hạnh phúc, người ta cần phải có nhiều yếu tố chẳng hạn như sự thành thật, tinh thần hy sinh, hợp nhất, sự tha thứ, tinh thần phục vụ quảng đại.
Lạy Chúa, xin chúc lành cho mọi cuộc hôn nhân. Xin giúp các người làm chồng và làm vợ biết sống trung thành với lời dạy của Chúa.
33. Lởi giao ước
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)
Chúng ta hiểu rằng, hôn nhân được kết hợp bằng lời giao ước của hai người trong ngày đám cưới. Lời giao ước đó sẽ không bao giờ thay đổi. Đó là định luật của hôn nhân gia đình. Lời giao ước hôn nhân được dựa trên nền tảng Lời Chúa: "Sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly". Lời Chúa hôm nay như là một sự nhắc nhớ cho những ai đang sống trong bậc hôn nhân gia đình, những ai đang sắp bước vào đời sống hôn nhân gia đình thì lời giao ước này rất có ý nghĩa và giá trị cho đôi vợ chồng để giữ lòng chung thủy với nhau. Lời giao ước này không thể xóa bỏ hay thay đổi giá trị của bí tích hôn nhân.
Dựa vào bối cảnh bài Tin mừng của thánh Maccô, chúng ta có thể phân định ra hai thái độ, đó là thái độ của người chấp nhận hôn nhân là bất cả phân ly và thái độ của kẻ chối bỏ lề luật hôn nhân là vĩnh viễn. Một số người đến gặp Chúa Giê-su hỏi: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?" Họ hỏi thế để muốn thử Chúa Giê-su. Người đáp: "Thế ông Mô-sê đã cho phép các ông điều gì?" Họ trả lời: "Ông Mô-sê cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ." Đức Giê-su nói với họ: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; và cả hai sẽ trở thành một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa liên kết loài người không được phân ly."
Đây là lời chúc phúc và cũng là lời giao ước khi cả hai người thề hứa trước mặt Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa. Lời cam kết đó thì rất thiêng liêng, nó như là di sản quý giá để hai vợ chồng hứa gắn kết với nhau suốt đời. Ấy thế mà lời giáo ước đó ngày nay, con người ta dễ dàng phá bỏ. Có bao giờ họ nghĩ lời hứa với nhau trong ngày thành hôn không? Họ nói gì! Họ thề hứa giữ lòng chung thủy với nhau, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng nhu lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em).
Những lời thề hứa thì ngọt ngào và đầy lãng mạn mà họ trao cho nhau: "Sau ngày hôm nay, anh chính thức là chồng và là người sẽ luôn yêu thương và che chở cho em đi hết cuộc đời. Anh hứa sẽ luôn chăm sóc và bảo vệ em trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nếu em cười, anh sẽ cùng cười với em, nếu em khóc, anh sẽ là bờ vai vững chắc. Và cho dù cuộc sống này có dẫn đến điều gì đi chăng nữa, thì anh cũng sẽ luôn ở lại bên cạnh em."
Lời thề của người vợ: "Anh yêu, anh sẽ là người chồng mà em hằng yêu thương, tôn trọng, ngưỡng mộ và tin tưởng suốt cuộc đời. Hôm nay, em thực hiện một cam kết trước khi Thiên Chúa và tất cả những người thân yêu rằng, con đường phía trước sẽ chỉ có em và anh. Em sẽ luôn làm cho anh cười cho đến khi anh mỏi mệt. Enh hứa sẽ luôn luôn bên cạnh anh, và là người vợ tuyệt vời nhất bằng cả trái tim mình."
Khi yêu nhau thì hứa với nhau đủ điều, khi sống với nhau rồi thì lời hứa như gió thoảng bay. Người ta dễ quên đi lời thề, đánh mất đi hạnh phúc trong tầm tay, và tình yêu của thuở ban đầu. Tình yêu là sự kiên nhẫn, tình yêu là lòng vị tha và tình yêu cũng là sự chấp nhận lẫn nhau. Tình yêu là một điều thật đẹp đẽ trên thế gian. Lời thề nguyện sẽ kề vai sát cánh bên nhau vượt qua dẫu bệnh tật hay khỏe mạnh, dẫu nghèo khó hay giàu có. Hãy nhớ lời thề hứa với nhau để đi đến cuối con đường cuộc đời. Không có gia đình nào là hoàn hảo, nhưng gia đình luôn mang lại sự yêu thương, che chở, nâng đỡ, chăm sóc, ủi an, niềm vui và hạnh phúc.
Gia đình là một ngôi nhà an toàn cho ta trú ngụ trong cuộc đời.
Gia đình là nơi ta học cách yêu thương, quan tâm, chăm sóc người khác và bản thân ta.
Gia đình là nơi ta học được cách sống, giao tiếp, yêu thương, khoan dung và tha thứ.
Gia đình là nơi cho ta giải bày tâm sự. Gia đình là chỗ dựa tinh thần và thể xác tốt nhất.
Gia đình cho ta những bữa cơm ấm áp đầy yêu thương và chia sẻ mà ai đi xa cũng nhớ về.
Nguyện xin Chúa và Mẹ Maria chúc lành cho gia đình chúng con. Amen.
34. Vấn đề gia đình -- Trầm Thiên Thu
Ai cũng có một gia đình, thế nên chẳng ai lạ gì về gia đình, nhưng để cho “vuông tròn” một gia đình đúng nghĩa thì chắc chắn không là chuyện đơn giản. Vả lại, ngày nay người ta không còn đề cao vai trò gia đình, vì thế mà tỷ lệ ly thân và ly hôn đang ở mức báo động đỏ!
Trong Mười Điều Răn được Thiên Chúa truyền qua ông Mô-sê, có một điều răn nói về gia đình: Điều răn thứ tư. Gia đình như chiếc kiềng ba chân: Cha – Mẹ – Con. Ba “chân” này giúp giữ vững “chiếc kiềng” gia đình, trong đó có hai mối quan hệ chính: Phu thê, Mẫu tử hoặc Phụ tử. Đó là gia đình thuộc dạng “tế bào gốc”, và gia đình còn được hiểu theo dạng “đại gia đình”.
Điều răn này được truyền cho con cái trong mối quan hệ với cha mẹ, vì mối quan hệ này phổ biến nhất. Điều răn này quan tâm hệ lụy thân thuộc giữa các thành viên trong gia đình và dòng tộc. Điều răn này đòi hỏi lòng kính trọng, yêu thương, biết ơn tổ tiên và những người lớn tuổi. Tuy nhiên, điều răn này còn ở mức rộng hơn, đó là đề cập trách nhiệm của học sinh đối với thầy cô giáo, nhân viên đối với chủ nhân, người dưới đối với người trên, công dân đối với tổ quốc và những người lãnh đạo đất nước. Thật đa dạng chứ không như chúng ta tưởng.
Giáo lý Công giáo (số 2199) cho biết: “Điều răn này bao gồm nhiệm vụ của cha mẹ, người hướng dẫn, người dạy dỗ, người lãnh đạo, quan tòa, người lãnh đạo, người có quyền trên người khác hoặc cộng đồng”. Từ hệ lụy gia đình dẫn tới các hệ lụy khác. Gia đình thực sự quan trọng vì mọi sự bắt đầu từ gia đình – đặc biệt là các nhân đức, nhưng sử gia Thomas Fuller (1608-1661, Anh quốc) nói: “Lòng nhân ái bắt đầu từ gia đình, nhưng không nên kết thúc luôn ở đó”.
Trong chuyến Tông du Cuba, ĐGH Phanxicô đã gặp gỡ với các gia đình tại nhà thờ chính tòa Santiago ngày 22-9-2015. Sau khi nghe một bà mẹ trẻ và một người cha của 3 đứa con nói về hy vọng của mình, ngài đã mô tả gia đình là các trung tâm nhân văn và hơi ấm.
ĐGH Phanxicô chia sẻ: “Chúng ta ở đây như một gia đình! Và bất kỳ lúc nào chúng ta đến với nhau như một gia đình, chúng cảm thấy mái ấm. Cảm ơn các gia đình Cuba. Cảm ơn người dân Cuba vì, trong những ngày này, đã cho tôi được cảm nhận là một phần của gia đình, vì cho tôi được cảm nhận mình trong mái ấm. Buổi gặp này như ‘trái cherry trên cái bánh’ vậy. Kết chuyến viếng thăm Cuba của tôi bằng cuộc gặp quy tụ các gia đình là một lý do để tạ ơn Chúa vì ‘hơi ấm’ lan tỏa từ những con người biết chào đón và chấp nhận người khác, cho người đó được thấy mình trong mái ấm”. Thực sự gia đình rất quan trọng, dù nhỏ hay to, dù giàu hay nghèo, thế nên người ta gọi gia đình là “Tổ Ấm”, và gia đình là “tế bào gốc” của xã hội và Giáo hội. Khi mặc xác phàm, chính Chúa Giêsu cũng có một gia đình, và Ngài rất yêu quý gia đình.
Gia đình liên quan hôn nhân. Bắt đầu một gia đình là bắt đầu đời sống hôn nhân chân chính. Sau khi tạo dựng con người đầu tiên trên thế gian là Adam, Thiên Chúa xác nhận: “Con người ở một mình thì không tốt” (St 2:18a). Vì thế, Ngài quyết định: “Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18b).
St 2:19-22 cho biết rằng Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, tên nó sẽ là thế. Con người được Thiên Chúa trao quyền đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. Thiên Chúa đã biết trước “nỗi niềm” của con người như vậy, Ngài biết con người sẽ “khắc khoải” vì cảm thấy trống vắng, thiếu thốn tình cảm. Và rồi Ngài cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Lúc đó, Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người.
Nhìn thấy “sinh vật lạ”, vừa giống mình mà lại vừa khác mình, chắc là lúc đó con người bối rối lắm. Chuyện đời là thế mà. Nam châm khác dấu thì hút nhau dữ lắm nghen! Con người khoái chí nên nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Việt ngữ gọi “” đó là em, là phụ nữ, là nội tướng. Và Kinh Thánh đã nói rõ: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2:24). Hay quá sức! Vì là xương thịt của nhau nên vợ chồng vẫn gọi nhau là “mình ơi!”. Độc đáo quá chừng!
Đó mới chỉ là bước khởi đầu tạo lập một gia đình. Ngày cưới là ngày hạnh phúc nhất, nụ cười tươi nhất, y phục đẹp nhất, thế nhưng vấn đề quan trọng là những ngày tháng tiếp theo, không chỉ vài tháng hoặc vài năm, mà kéo dài cả phần đời còn lại, trong khi vốn dĩ “đời là bể khổ”. Vợ chồng còn có thể cười với nhau và cười với người khác hay không thì mới là vấn đề!
Giữa năm 2015, có một phiên tòa ly hôn kỳ lạ và hy hữu tại Đăk Mil, Đăk Nông. Phiên tòa này phân xử chuyện ly hôn của hai vợ chồng Đặng Văn Đó (sn 1985) và Phạm Thị Lụa (sn 1987), người dân ở Đăk Rla (Đăk Mil, Đăk Nông) qá đỗi bất ngờ. Tại sao? Đôi uyên ương ấy đã từng yêu nhau tới gần 5 năm, cố gắng vượt qua sự ngăn cấm của hai bên gia đình để có thể được ở bên nhau. Thế nhưng, ở với nhau chưa có “ấm hơi” mà đã vội dẫn nhau ra tòa ly dị. Nguyên nhân của sự việc đáng buồn này là việc tranh giành giữ của hồi môn và thùng tiền cưới, mâu thuẫn xảy ra ngay trong đêm tân hôn chỉ vì… tiền. Thật tồi tệ!
Nam nữ đến với nhau vì hạnh phúc của nhau – vừa vị kỷ vừa vị tha, vì hạnh phúc của chính mình và của người bạn đời. Tuy nhiên, hạnh phúc không thể tự dưng mà có hoặc “ngẫu nhiên” như trái sung rụng, mà nó phải được vun xới bằng hy sinh, mồ hôi và nước mắt. Cây cảnh chỉ có thể tươi đẹp nếu nó được chăm sóc, vun tưới. Hạnh phúc thật kỳ diệu, hạnh phúc ở ngay bên chúng ta chứ không cần tìm kiếm ở nơi nào xa lắc xa lơ: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may!” (Tv 128:2). Hạnh phúc vô hình mà thực tế, đừng ảo tưởng mà đứng núi này trông núi kia!
Sự thật rất minh nhiên, không hề mơ hồ chút nào: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:3-4). Ước mơ đó là của bất kỳ ai, nhưng khó là mỗi thành viên trong gia đình đều phải cố gắng để có thể biến ước mơ đó thành sự thật ngay tại trần gian này. Tác giả Thánh Vịnh cầu chúc cho mọi người: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6).
Quả thật, có được hạnh phúc gia đình không phải dễ, chúng ta sẽ chẳng làm nên trò trống gì nếu thiếu ơn Chúa. Có ơn Chúa, chúng ta có biết đón nhận hay không lại là chuyện khác. Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện cho chúng ta: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật” (Ga 17:17). Sự thật sẽ tạo nên hạnh phúc gia đình, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32).
Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vừa qua (cuối tháng 9-2015), ĐGH Phanxicô được mời phát biểu tại phiên họp Quốc Hội Hoa Kỳ. Trong diễn văn này, ngài đã gọi Hoa Kỳ là “vùng đất của tự do và ngôi nhà của người can đảm”. Ngài đề cập vấn đề duy trì phẩm giá con người, bảo vệ môi trường, và kêu gọi chú ý đến các thành viên gia đình – đặc biệt là những người trẻ. Con người và môi trường có liên quan với nhau – môi trường thiên nhiên, môi trường gia đình và môi trường tâm linh.
Trong gia đình, vai trò cha mẹ rất quan trọng. Ước gì mỗi cha mẹ đều biết tâm nguyện sâu sắc điều này: “Chuẩn bị cho Thiên Chúa một dân tộc hoàn hảo – Parare Domino plebem perfectam”. Đó là một cách truyền giáo tích cực, là tân Phúc Âm hóa thực tế, là làm cho “Danh Cha cả sáng và Nước Cha trị đến” – không cần phải làm gì to lớn.
Làm cho gia đình hạnh phúc bằng những tiếng cười thì chắc chắn được Thiên Chúa chúc lành và hứa ban Nước Trời mai sau. Cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày cũng là cách “tử đạo liên lỉ”. Coi vậy chứ không dễ đâu đấy! Thánh Phaolô cho biết: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2:9).
Gia đình nhỏ có hạnh phúc thì gia đình lớn mới có hạnh phúc. Tất cả chúng ta, không phân biệt bất cứ điều gì, đều là thành viên của Đại Gia Đình của Thiên Chúa. Gia đình nhỏ cần có hạnh phúc để vui sống và phát triển, gia đình lớn cũng vậy. Thánh Phaolô xác định: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em“” (Dt 2:10-11). Chúng ta chỉ là tội nhân mà được Thiên Chúa nhận là huynh đệ thì quả là trên cả tuyệt vời rồi!
Nói đến gia đình là nói đến hạnh phúc, gọi là tổ ấm, nhưng gia đình không có hạnh phúc thì hóa thành tổ lạnh, là bất hạnh. Hạnh phúc gia đình thiếu vắng sẽ dẫn đến cảnh vợ chồng ly thân hoặc ly hôn. Dạng “ly” nào cũng là “chia ly”, dạng nào cũng tệ hại vì gây bất hạnh cho con cái – và chính cả hai vợ chồng!
Theo trình thuật Mc 10:2-12, một hôm có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi người chồng có được phép rẫy vợ hay không. Họ hỏi thế là để thử Ngài thôi, tâm địa của họ thế nào thì còn ai lạ gì nữa! Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng họ nên Ngài trả lời họ bằng một câu hỏi: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?”. Họ nói rằng ông Môsê đã cho phép chồng viết giấy ly dị mà rẫy vợ. Ngài nói với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
Ca dao Việt Nam rất chí lý khi đưa ra nhận định về tình yêu thương trong mối quan hệ phu thê: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Cách “kê” rất quan trọng. Vợ chồng là hai con người hoàn toàn khác nhau về mọi thứ, cái mà người ta gọi là “giống nhau” hoặc “hợp nhau” cũng chỉ mang tính tương đối. Không bao giờ có hai chiếc lá giống nhau, chắc chắn cũng chẳng bao giờ có hai con người giống nhau. Dù chỉ là giống về bề ngoài, hai người sinh đôi cũng vẫn có điểm khác để có thể nhận biết ai là anh (chị) và ai là em. Với người Công giáo, cách “kê” tuyệt vời nhất là tha thứ.
Hôn nhân là một ơn gọi. Vợ chồng được mời gọi diễn tả tình yêu phối ngẫu qua 3 chữ T: Thân mật, Thủy chung và Thanh tịnh (khiết tịnh). Với 3 chữ T đó, cả vợ và chồng đều phải tự nhủ: “Tôi Trung Thành”. Đó không chỉ là lời hứa với nhau mà chính là hứa với Thiên Chúa.
Những người đã lập gia đình, hãy cố gắng sống “tương kính như tân”, và đừng quên rằng chính mình đã long trọng thề hứa với nhau trước mặt vị đại diện Giáo hội và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa: “Anh/em nhận em/anh làm vợ/chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em/anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian lao, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em/anh mọi ngày suốt đời anh/em”.
Lời hứa đó không là hứa cho vui, hứa cho xong lần, hứa cho đủ nghi thức, nhưng là lời hứa có tính chất “thề” (thề “độc” chứ không thề thường đâu). Mà lời thề thì không ai “giải” được, vì đó là lời thề với Thiên Chúa!
Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Ngài về điều ấy. Ngài nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11-12). Hệ lụy tội lỗi thật đáng sợ! Tất cả các “cấu trúc tội” có căn nguyên trong trách nhiệm của tội cá nhân. Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách thức chúng ta có thể phạm tội. Chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên lụy các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp. Đó là sự liên lụy tội lỗi.
Lạy Thiên Chúa, Nguồn Mạch Yêu Thương, xin giúp chúng con biết nhận thức đúng đán về giá trị gia đình, nhờ đó mà chúng con có thể tuân giữ Thánh Luật của Ngài, đó là biết tích cực bảo vệ gia đình, bảo vệ nhân phẩm con người và duy trì luân lý. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
35. Bài toán lạ -- Trầm Thiên Thu
Chắc hẳn bài-toán-hôn-nhân là bài toán “lạ” nhất, đơn giản nhất, khó giải nhất, và cũng ngược đời nhất: 1+1=1, thế nhưng bài toán này vẫn hoàn toàn đúng: “Người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19:5). Hôn nhân Công giáo có “đặc điểm” khác hẳn các hôn nhân khác nhờ hôn luật thánh: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19:6).
Từ thuở hồng hoang, sau khi tạo dựng con người, Đức Chúa là Thiên Chúa đã phán: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18). Một cách quan phòng và tiền định kỳ diệu của Thiên Chúa. Điều đó cho thấy tiền đồ của Ngài là muốn con người sống hài hòa với nhau, liên kết với nhau, cùng chia sẻ vui buồn và tận hưởng hạnh phúc.
Và rồi Ngài “lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế” (St 2:19). Thiên Chúa tạo dựng muôn loài, nhưng Ngài muốn con người “góp công” nên cho con người quyền đặt tên mọi loài, chứng tỏ con người có giá trị. Hạnh phúc quá! Tuy nhiên, sau khi “con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (St 2:10). Vì thế, Ngài “cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi, rồi Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào” (St 2:21). Nghe kể việc Chúa làm thật là chuyện lạ, ngày nay người ta thấy vậy sẽ cho là “ma thuật”, nhưng không, hoàn toàn đó là quyền năng vô song của Thiên Chúa, và chỉ một mình Ngài làm được như vậy!
Sau đó, Ngài lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra – ý nói “con người” ở đây là “đàn ông”, Ngài làm thành một “sinh vật lạ”, và dẫn đến với con người. Thấy vậy, con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Bởi thế, “người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2:24).
Có những đàn ông “tự đề cao” mình và “lý luận” rằng Thiên Chúa dựng nên đàn ông trước, đàn bà là “sản phẩm” của đàn ông, là cấp dưới nên phải “lệ thuộc” đàn ông. Thậm chí người ta còn quan niệm là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một trai kể là có, mười nữ coi như không). Lối suy nghĩ thật là ấu trĩ, thiển cận, nông cạn và kiêu ngạo! Càng nói càng lòi cái… ngu, ngu kinh niên. Tại sao?
Nhóm Xa-đốc gồm những người không tin có sự sống lại, họ hỏi Chúa Giêsu để “gài bẫy” Ngài về chuyện bảy anh em trai, lần lượt mỗi người đều cưới cùng một cô vợ, vì luật Mô-sê nói rằng anh lấy vợ mà chết trước khi có con thì chú em phải cưới chị dâu làm vợ. Cả bảy anh em đều cưới cô ta mà không có con. Hết thuốc chữa! Nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu rằng khi sống lại thì cô ta sẽ là vợ của người nào trong bảy anh em kia. Bọn họ chắc mẩm Chúa Giêsu sẽ “bó tay”. Nhưng Chúa Giêsu thản nhiên và nói chắc hơn hàn xì: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22:29-30; Mc 12:24-25; Lc 20:34-36). Hố to! Đã vậy họ còn bị Chúa Giêsu trách là “lầm” và chê là “ngu dốt”, chẳng biết Kinh thánh chứ nói chi biết đến quyền năng Thiên Chúa.
Thời kỳ sáng thế cũng vậy thôi. Chúa dựng nên con người tốt lành, không hề có khái niệm nam, nữ, hoặc đồng giới. Thế nên người ta vô tư mà “ở mát”: “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau” (St 2:25). Chỉ sau khi phạm tội, con người mới nhận ra mình trần truồng và xấu hổ nên muốn… độn thổ! Bởi vì “bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân” (St 3:7).
Nam và nữ “thu hút” nhau như hai cực nam châm trái dấu, nhờ đó mà phát sinh tình yêu, tình yêu dẫn đến hôn nhân. Hôn nhân là liên kết để tạo một gia đình mới – tế bào cơ bản của xã hội. Hôn nhân đòi buộc sự chung thủy một vợ, một chồng, có vậy mới không sinh những hệ lụy rắc rối khác. Ca dao Việt Nam có nhiều câu nói về sự chung thủy trong tình yêu và hôn nhân, chẳng hạn:
Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền
Sự chung thủy ấy được thể hiện qua lời tâm sự của người vợ:
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam
Sự chung thủy ấy cũng được thể hiện qua lời tâm sự của người chồng:
Tay cầm quyển sách bìa vàng
Sách bao nhiêu chữ, thương nàng bấy nhiêu
Chung thủy là “chén nước được giữ thăng bằng”, không hề sóng sánh. Luật chung thủy không chỉ “bắt buộc” ở người vợ mà cả ở người chồng. Vì khi hai người cùng nhau cử hành bí tích hôn phối trước mặt vị đại diện Giáo hội và cộng đoàn Dân Chúa, ai cũng vui vẻ thề hứa công khai: “Anh (em) nhận em (anh) làm vợ (chồng), và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em)”. Vậy đó, “mình với ta tuy hai mà một”, vì thế mà không ai lại tự “xẻ” mình ra!
Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn. Hôn nhân là một ơn gọi và là bí tích, hôn nhân Công giáo là hôn nhân thánh. Tác giả Thánh vịnh chúc mừng: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Hôn nhân là hành trình đầy trọng trách và gian khó, nhưng bù lại cũng nhiều niềm vui, có thể nói rằng hôn nhân là “nỗi đau ngọt ngào”. Đó là niềm hạnh phúc độc đáo trong hôn nhân! Thật vậy, trầu cau xanh kết hợp với vôi trắng tạo nên nước đỏ tươi và vị cay cay, chính vị cay đó khiến người ta nghiện ăn trầu.
Và niềm hạnh phúc đó chính là “phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Một lần nữa, tác giả Thánh vịnh cầu chúc cho những người sống đời hôn nhân: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu. Nguyện chúc Ít-ra-en vui hưởng thái bình” (Tv 128:5-6).
Thánh Phaolô phân tích: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu” (Dt 2:9a). Thật vậy, “Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2:9b). Thánh Phaolô nói rạch ròi: “Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2:10).
Thiên Chúa là Đấng chí nhân, Ngài không muốn ai phải hư mất, mà chỉ muốn tất cả chúng ta cũng được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc với Ngài. Đó là Tình Yêu Chúa, đó là Lòng Chúa Thương Xót. Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, “những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc” (Dt 2:11), vì thế, Ngài đã không hề hổ thẹn gọi chúng ta là huynh đệ – dù chúng ta quá khốn nạn, xấu xa và tội lỗi. Thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta từ “không” mà biến thành “có”!
Mục đích của hôn nhân không chỉ là sinh con đẻ cái theo lệnh Chúa: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1:28). Mục đích của hôn nhân còn là giúp nhau nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
(Mc 10:2-16)
Một hôm, có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” (Mc 10:2). Họ chẳng tốt lành gì, hỏi han cho ra vẻ thân thiện chứ thực tế họ muốn thử Ngài, muốn “gài bẫy” Ngài. Nhưng Ngài thản nhiên: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” (Mc 10:3). Họ ra chiều vẫn “vô tư” khi trả lời: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ” (Mc 10:4). Đức Giêsu chơi liên khúc với họ: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mc 10:5-8). Và Ngài quả quyết: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10:9). Đúng là họ “dốt đặc cán mai” mà vẫn muốn tỏ ra thông thái, ngu truyền kiếp mà tưởng mình thông minh. Gậy ông đập lưng ông. Bọn họ đành ngậm bồ hòn mà “câm như hến”!
Ngay cả các môn đệ cũng lơ ngơ như bị “chạm mạch”, thế nên khi về đến nhà, các ông lại hỏi Ngài về điều ấy. Người nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11-12). Quá rõ, không phân biệt nam hay nữ chi cả. Ai làm sai là phạm tội.
Lúc đó, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu để Ngài đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Ngài bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng” (Mc 10:14). Thấy các đệ tử mình theo mình mà chẳng giống mình, thế nên, dù Ngài rất nhân từ và hiền lành mà còn phải “nổi nóng” thì hẳn là chuyện không vừa, chắc chắn các môn đệ phải xua đổi các trẻ em dữ lắm. Và rồi Ngài nhấn mạnh: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10:15). Thánh Mátthêu còn kể rõ: “Ngài ÔM lấy các trẻ em và đặt tay CHÚC LÀNH cho chúng” (Mt 10:16).
Lại một Bài Toán Lạ nữa đối với tất cả chúng ta về “bí quyết” để làm công dân Nước Trời!
Lạy Thiên Chúa là Đấng Trung Tín, xin giúp những người sống đời hôn nhân luôn sống trung thành với lời hứa yêu thương, biết yêu quý trẻ em và học ở chúng bài học đơn sơ, đặc biệt là giúp chúng con luôn sống trung thành với Ngài trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
36. Bà mẹ tên 'Hale'.
Lorraine Hale dừng xe khi đèn đỏ ở một ngã tư, bà nhìn thấy bên lề đường có một chị, dáng như nghiền xì ke, đang bồng một đứa bé.
Sau khi đèn xanh nổi lên thì Lorraine đạp ga và bà lái tiếp. Nhưng một cái gì đó đã nói với bà là bà phải trở lại cái chỗ vừa rồi. Bà liền quay trở lại và nói với người đàn bà nghiền xì ke kia rằng:
"Này, chị đang có những vấn đề nan giải và chị cần sự giúp đỡ. Chị hãy mang baby của chị đến nhà mẹ của tôi. Bà ấy sẽ giúp chị."
Người đàn bà nghiện xì ke nhìn Lorraine một cách không hiểu. Loraine lập lại lời bà nói tới ba lần. Sau đó, bà đã viết địa chị nhà của mẹ bà và nhét vào tay người đàn bà nghiện xì ke.
Sáng hôm sau, người đàn bà nghiện xì ke đã đến trước cửa gia đình bà Hale. Đứa con bà đang bồng trên tay run cầm cập, xổ mũi, và còn bị tiêu chảy nữa. Đứa bé đang chịu sự giày vò của sự thiếu thuốc xì ke.
Các trẻ em của những người mẹ nghiện xì ke khi chào đời thì thường là những đứa bé nghiện xì ke. Chúng đã bị nghiện xì ke từ khi còn trong lòng người mẹ.
Mẹ của Lorraine thường được hàng xóm gọi là 'Mother Hale' (bà mẹ tên Hale) đã ẵm lấy đứa bé, chữa trị nó trong thời gian chờ cho nó cai nghiện thuốc.
'Mother Hale' đã không biết rằng nghĩa cử của bà đối với một người đàn bà nghiện xì ke đó đã biến đổi cuộc đời của bà.
Dần dần, lời đồn đã vang đi và các bà mẹ nghiện xì ke khác đã mang con mình đến cửa của 'Mother Hale'.
Có lúc, 'Mother Hale' đã có đến cả hơn 20 em bé nghiện xì ke trong nhà bà. Một đôi lúc, bà hết cả tiền bạc để mua thức ăn và quần áo cho chúng. Nhưng bà đã cố gắng để thu xếp cho ổn thỏa.
Trong vòng 16 năm, 'Mother Hale' đã giúp 600 em bé cai nghiện thuốc xì ke. 'Mother Hale' chia sẻ rằng: "Thường là khoảng thời gian bốn đến sáu tuần để cai nghiện. Những đứa bé khóc lóc rất thảm thương và mình chỉ có thể làm một điều là ẵm chúng và yêu thương chúng."
Tiếp theo đấy, một chuyện không ngờ đã xảy ra cho 'Mother Hale' và đã biến đổi cuộc đời của bà. Một người nào đó đã nói về 'Mother Hale' cho tổng thống Reagan. Tổng thống rất cảm động và ông đã nhắc đến trong cuộc diễn thuyết toàn quốc rất quan trọng trong năm là 'State of Union'. Sau đó, TV đã chiếu hình 'Mother Hale', một người đàn bà 81 tuổi đang chảy những giọt nước mắt trên gò má.
'Mother Hale' đã trở thành một nhân vật nổi tiếng qua một đêm. Các báo chí đã đăng tải các tin tức về bà. Đồng thời các chương trình TV đã mời bà đến để phỏng vấn và nói chuyện. Qua đó, 'Mother Hale' đã được các nơi gởi tiền về để giúp bà thành lập thành một trung tâm với tất cả những tiện nghi và người làm. Nhiều thành phố khác đã cố gắng gặp bà để xin bà cho biết ý kiến hầu cũng thành lập các trung tâm để giúp những đứa bé nghiện xì ke.
Câu truyện về 'Mother Hale' thật thích hợp với bài Phúc Âm hôm nay, khi các bà mẹ đã đem các con trẻ của họ đến gặp Chúa Giêsu để xin Ngài đặt tay chúc lành. Và Chúa Giêsu đã nói: "Hãy để cho các trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng bởi vì Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng." Chúa Giêsu đã "ôm chúng và chúc lành cho chúng" với tất cả tấm lòng yêu thương.
Và qua cách sống đó, chúng ta được truyền đạt để muốn làm một điều gì đó trong cuộc đời chúng ta.
Khi 'Mother Hale' giơ tay ra để bồng ẵm lấy đứa trẻ nghiện xì ke đầu tiên, bà đã không có một ý nghĩ gì về việc làm này của bà sẽ gây ảnh hưởng tới muôn triệu người do một hành vi tình yêu đó.
Bà đã không có một ý nghĩ gì về 16 năm trong tương lai điều bà làm sẽ trở nên một sự phản ứng để giúp đỡ cho muôn vàn trẻ em xấu số.
Bà đã không có một ý nghĩ gì về những hậu quả nối tiếp sẽ tiếp nối theo thành phố Harlem đến những thành phố khác.
Bà đã không có một ý nghĩ gì rằng Thiên Chúa sẽ dùng bà để bắt đầu một chương trình quan trọng mới hầu giúp ích cho những đứa trẻ đau thương trong thời đại chúng ta.
Trung Hoa có câu ngạn ngữ như sau: "Cuộc đời một đứa bé giống như một tờ giấy để các nét chữ được viết lên."
Dấu vết của 'Mother Hale' là một dấu vết tuyệt vời mà bà đã in trên cuộc đời của hàng ngàn đứa trẻ.
Điều đó thật là tuyệt vời và nó làm cho chúng ta cũng muốn để lại những dấu vết tương tự trên muôn ngàn con trẻ mà chúng ta gặp hằng ngày trong cuộc đời chúng ta, nhất là trên con cháu chúng ta. Chúng ta mong muốn để lại trên chúng dấu vết của Chúa Giêsu để chúng có thể sau này cũng sẽ để lại dấu vết ấy trên con cháu của chúng ta.
37. Trẻ thơ.
Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như những trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào đâu.
Tục ngữ Ả Rập có câu:
- Hương thơm của tuổi thơ thì xuất phát tự thiên đàng.
Còn người Ấn Độ thì bảo:
- Thức uống làm cho người ta hết khát, đó là nước. Trái cây làm cho người ta được lại sức, đó là trẻ thơ.
Những ý tưởng này đã gợi lên phần nào những nét đẹp của tuổi thơ. Thực vậy, những người đã lớn, khi nghĩ về tuổi thơ, bao giờ cũng cảm thấy một cái gì dịu mát và êm đẹp. Bao giờ cũng hối tiếc vì nó đã vuột khỏi tầm tay của mình.
Người ta đã gọi tuổi thơ là tuổi thiên thần. Vẻ đẹp của tuổi thơ không phải chỉ ở nơi mái tóc đen nhánh, ở nơi cặp mắt trong sáng hay ở nơi thái độ nhí nhảnh và nhõng nhẽo. Vẻ đẹp chính yếu của tuổi thơ là vẻ đẹp của tâm hồn. Nhờ vẻ đẹp này mà Chúa Giêsu luôn yêu thương, chúc lành cho các em, rồi đã lấy các em làm tiêu chuẩn, làm điều kiện, làm khuôn mẫu cho những ai muốn được vào Nước Trời:
- Ai không trở nên như trẻ nhỏ, thì chẳng được vào Nước Trời đâu.
Vậy vẻ đẹp tâm hồn của tuổi thơ là gì? Tôi xin thưa trước hết đó là sự đơn sơ.
Thực vậy, cặp mắt của tuổi thơ là cắp mắt của chim bồ câu, như lời Chúa đã so sánh:
- Hãy đơn sơ như chim bồ câu.
Nhìn vào cặp mắt đó, người ta sẽ thấy phản chiếu lên một sự trong sáng. Tuổi thơ không tính toán cộng trừ nhân chia. Không âm mưu, không phức tạp nhưng trước sau như một, không nghi lễ kiểu cách, không bôi bác giả hình, không rào trước đón sau…Các em hoàn toàn tin tưởng vào những lời chỉ dạy của cha mẹ, của thày cô, không một chút nghi ngờ và thắt mắc.
Từ đó, tôm hồn các em mang một nét đẹp thứ hai, đó là sự thành thật. Tục ngữ Việt Nam đã nói:
- Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.
Trước khi lên đường đi phương xa, chúng ta thường phải hỏi ý kiến những người già cả vì họ đã từng trải và có thể chỉ dạy cho chúng ta những kinh nghiệm quí giá. Trái lại, khi trở về nhà, muốn biết những gì đã xảy ra trong thời gian vắng mặt, chúng ta cứ hỏi các em nhỏ. Chúng sẽ không ngần ngại kể lại tất cả đúng với sự thật mà chúng đã ghi nhận, cho dù sự thật ấy, người lớn nhiều khi rất muốn dấu diếm.
Thái độ thành thật này cũng là thái độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta:
- Có thì nói có, không thì nói không, thêm ra bớt vào là do ma quỉ.
Một ông bố muốn trốn chủ nợ, bèn sai con ra nói với người khách bất đắc dĩ rằng:
- Bố cháu đi vắng.
Đứa nhỏ mở cổng, rồi lễ phép nói với người khách:
- Thưa bác, bố cháu sai cháu ra nói với bác rằng bố cháu đi vắng.
Đơn sơ và thành thật mà thôi chưa đủ, đặc tính thứ ba nổi bật nơi tuổi thơ, đó là sự phó thác. Thực vậy, các em cảm thấy mình nhỏ bé trước mặt cha mẹ, vì các em chưa có nghề nghiệp để tự túc tự cường, chưa có tiền bạc để sinh sống, chưa có đủ sức mạnh để chống trả với những hiểm nguy.
Chẳng hạn một em nhỏ bị đứa bạn xử ức, em khóc và không thể làm gì được. Thế nhưng, biện pháp cuối cùng em có thể thực hiện, đó là chạy về méc bu. Hay khi gặp một con chó dữ từ đàng xa xông tới, em sẽ làm gì? Chạy trốn thì không được mà chống cự thì cũng chẳng xong. Bấy giờ em sẽ không ngần ngại kêu ba, kêu má đến giúp dỡ. Đi bên ba má, em sẽ cảm thấy được an toàn.
Tuổi thơ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ, nơi người lớn mà chẳng cần biết đến lý do, mà không lo đến hậu quả. Đó cũng chính là thái độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta:
- Các con hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo cũng không gặt, thế mà chẳng con nào bị chết đói. Bộ các con không trọng hơn chim trời hay sao?
Cho đến bây giờ, Chúa vẫn hằng yêu thương chúng ta, miễn là chúng ta luôn giữ được những nét đẹp của tâm hồn tuổi thơ: đó là thành thật, đơn sơ và phó thác cho tình thương của Ngài.
38. Hôn nhân.
Bài Tin Mừng có hai phần: Phần thứ nhất là lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân. Phần thứ hai là thái độ của Chúa Giêsu đối với các trẻ em. Phần thứ nhất chính là đoạn Tin Mừng thường được đọc trong thánh lễ hôn phối, chúng ta sẽ tìm hiểu sau đây.
Đề tài của đoạn Tin Mừng này là vấn đề ly dị do những người Pharisêu đặt ra với ý đồ gài bẫy Chúa Giêsu. Chúng ta nên biết: các kinh sư Do thái thường tranh luận với nhau về những lý do cho phép ly dị chứ không tranh luận về chính việc được phép ly dị hay không. Và luật Do thái chỉ cho phép đàn ông bỏ vợ chứ không cho phép đàn bà bỏ chồng. Như vậy, chuyện những người Pharisêu đặt vấn đề với Chúa Giêsu: “Có được phép ly dị không?” quả là khúc mắc, tế nhị và phức tạp. Họ muốn Chúa phải xác định lập trường rõ ràng trước mặt dân chúng và trước mặt họ. Luật đã cho phép ly dị, nếu Ngài bảo không được, tức là Ngài chống lại luật. Ngược lại, nếu Ngài bảo được, thì họ sẽ chống lại Ngài. Cho nên, rõ ràng những người Pharisêu có ý gài bẫy Chúa. Chúa trả lời thế nào?
Chúa hỏi lại họ: “Ông Mô-sê truyền dạy thế nào?”. Thật sự trong Cựu ước không có một chỗ nào ghi một mệnh lệnh tổng quát phải ly dị hay không được ly dị, cũng chẳng có chỗ nào trực tiếp chỉ thị muốn ly dị thì phải làm gì. Vậy những người Pharisêu trả lời câu hỏi của Chúa thế nào? Họ trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, đoạn 24 câu 1 đến câu 4. Trong đoạn này, sách Đệ Nhị Luật cũng chỉ gián tiếp nói về việc làm giấy ly dị. Đó là trường hợp một người đàn bà đã bị chồng ly dị và có làm giấy ly dị đàng hoàng, nay đi lấy người khác, rồi lại bị ông chồng mới này ký giấy ly dị, thì người chồng thứ nhất, dù có vì tình xưa nghĩa cũ, muốn đoàn tụ với nàng, cũng không được phép. Vậy khoản luật này chỉ trực tiếp đề cập đến vấn đề người chồng cũ có quyền cưới lại người vợ mình đã ký giấy ly dị không? Luật trả lời không được. Nhân vấn đề đó mà sách này cho chúng ta biết: luật gia đình của người Do thái cho phép chồng ly dị vợ.
Chúa Giêsu đã trả lời cho những người Pharisêu: sở dĩ ông Mô-sê đã ra luật đó, “vì lòng các ông chai đá”, nên đó chỉ là điều nhân nhượng mà thôi, chứ từ ban đầu không có như vậy, và Chúa kết luận: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Như thế, Chúa Giêsu cho mọi người biết rõ lập trường của Ngài là không bao giờ được ly dị, nghĩa là một người nam và một người nữ đã kết hợp với nhau nên một trong hôn nhân theo luật của Chúa, thì họ không có quyền và cũng không ai có quyền phá vỡ cái nên một ấy.
Như vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rõ luật của Chúa và Giáo hội: sự nên một trong hôn nhân là một công trình tuyệt vời của Thiên Chúa, nên những ai đang sống trong sự nên một ấy phải tôn trọng và giữ nó cho thật đẹp và thật bền, và phải làm cho nó trọn vẹn hơn mãi, không những một thân xác mà một tâm hồn, một cuộc sống, một hạnh phúc. Chính do sự nên một ấy mà đứa con xuất hiện như một đóa hoa, một trái ngọt ngào và được nên người. Thánh Phaolô đã nêu cao giá trị của sự nên một ấy khi đem đối chiếu với sự nên một giữa Chúa Kitô và Giáo hội.
Còn những người chuẩn bị đi vào cuộc sống hôn nhân phải thận trọng và chuẩn bị kỹ lưỡng để sự nên một ấy có thể được thành tựu tốt đẹp. Nếu Chúa đã an bài con người có nam có nữ để rồi nam nữ thành một, thì Chúa vẫn dành cho con người quyền tự do để lựa chọn. Chuyện hôn nhân là chuyện của hai người trong cuộc. Những người khác dù là cha mẹ, vẫn phải tôn trọng, giúp cho người liên hệ chọn lựa, chứ không có quyền áp đặt. Cần dứt khoát với hủ tục ép buộc con lấy người này người khác. Người ta đã coi đó là lễ giáo, nhưng chắc chắn nó không phù hợp tinh thần Tin Mừng. Vì thế, Giáo hội không bao giờ chấp nhận sự cưỡng ép trong vấn đề hôn nhân.
Xin Chúa cho những ai đang sống đời hôn nhân luôn trung thành với nhau; và những ai sắp bước vào đời hôn nhân, chuẩn bị cẩn thận để bảo đảm trung thành luôn mãi.
39. Không tốt.
Khi chúng ta còn là trẻ nhỏ; để sống còn, chúng ta cần có những người khác. Và khi đến cuối cuộc đời, chúng ta cũng cần có những người khác để sống còn. Và đây là một bí quyết: khoảng giữa cuộc đời, chúng ta cần có những người khác.
Kinh thánh nói: “Người ta ở một mình không tốt”. Một đôi khi, ở một mình đối với chúng ta là điều tốt và cần thiết. Nhưng đây không phải là một điều kiện thường xuyên. Con người là con vật có tính xã hội. Chúng ta không tự mình mà hoàn chỉnh. Nhân tính không thể có được trong sự đơn độc. Chúng ta cần đến những người khác. Cảm thấy có nhu cầu này không phải là dấu chỉ của sự bệnh hoạn mà là dấu chỉ của sự lành mạnh. Sự không lành mạnh do đó được định nghĩa như là một điều kiện trong đó người ta không thể tiếp xúc với người khác.
Con sư tử nguy hiểm nhất không phải là một con sư tử sống thành bầy hoặc có tiếng gầm to nhất mà là một con sư tử bước đi một mình trong thinh lặng. Những kẻ giết người hàng loạt hầu như lúc nào cũng trở thành những người cô độc và giận dữ. Người phạm tội tự sát thường là những người rơi vào tình trạng hoàn toàn cô lập.
Sự cô lập là một hoàn cảnh đau khổ hơn hết. Nó làm cho người ta quay về với chính mình và có thể dẫn đến bạo lực và rượu chè. Sự sợ hãi, sỉ nhục, phạm tội làm cho người ta muốn ở lỳ mãi trong sự cô lập của họ.
Trước hết, Thiên Chúa đã cho Ađam các thú vật. Nhưng Ađam không tìm thấy trong các con vật ấy người phối ngẫu phù hợp với mình. Một bản nghiên cứu được thực hiện trong số những người già ở Mỹ. Khi được hỏi ai là người ở gần họ nhất? Hai phần ba trong số người được hỏi đã trả lời đó là con chó hoặc con mèo cưng của họ. Thật đáng buồn.
Rồi Thiên Chúa đã cho Ađam một người phụ nữ, Evà. Và ngay khi Ađam nhìn thấy Eva, ông nhận ra bà là người đồng hành và là người phối ngẫu của ông. Bà được làm ra bởi cùng một vật liệu như ông, có cùng một nhân phẩm như ông và do đó bình đẳng với ông. Một cộng đoàn thật sự chỉ có thể được thiết lập giữa những người bình đẳng.
Trong hôn nhân, Thiên Chúa đáp ứng nhu cầu của con người về tình bạn, sự đồng hành, sự thân mật và ấm cúng – chúng ta thiết tha mong ước những điều đó nhưng tìm thấy rất khó. Những nhu cầu ấy cũng có thể được đáp ứng khi phụ thuộc vào một cộng đoàn. Và những người có quan hệ mật thiết với Thiên Chúa sẽ không bao giờ cô độc nữa.
Khi con người kết hôn họ đem đến với hôn nhân không chỉ sức mạnh của họ mà cả sự yếu đuối của họ. Tất cả chúng ta đều bị tội lỗi và lòng ích kỷ làm tổn thương. Đi vào hôn nhân là đi vào một trường học yêu thương, một trường học trong đó mọi người đều là những học sinh chậm chạp. Dây liên kết mà hai người cam kết trong ngày hôn lễ không được làm bằng vật liệu không hư hỏng, nhưng bằng vật liệu của con người và do đó có thể bị gãy đổ. Chỉ có một dây liên kết không gãy đổ là dây liên kết mà Thiên Chúa hình thành với chúng ta trong Đức Kitô.
Những điều gì làm cho dây liên kết hôn nhân bị yếu đi? Thiếu sự tôn trọng, thiếu sự hiệp thông, tính ích kỷ và trên hết là sự không trung tín. Sự tôn trọng, hiệp thông, lòng vị tha và trung tín làm sự liên kết trở nên mạnh mẽ.
Những mối quan hệ phải được củng cố, xây dựng. Nếu thờ ơ, lãnh đạm chắc chắn chúng giống như một khu vườn không có người chăm sóc. Người ta không nên e sợ mà phải đi tìm sự giúp đỡ nếu mình cảm thấy khó khăn trong hôn nhân. Những mối quan hệ vượt qua dông bão trở nên sâu xa hơn. Các cặp vợ chồng phải cương quyết đặt hôn nhân của họ và con cái họ lên trên những thành công về kinh tế.
Chế độ hôn nhân một vợ một chồng không thể phân ly không phải là sự bày đặt của các giáo sĩ. Nó được chứng minh mạnh mẽ trong nhu cầu đặc biệt của con cái. Chúng phải được nuôi dưỡng và chăm sóc trong một thời kỳ lâu dài, dài hơn bất cứ một thành viên nào của các chủng loài động vật khác.
40. Cam kết.
Harold Kushner một giáo trưởng người Mỹ kể lại câu chuyện một cặp vợ chồng trẻ đến tìm ông vào một buổi tối nọ. Hôn lễ của họ sắp đến và ông là người làm lễ trong hôn lễ ấy. Anh thanh niên nói với ông về một vấn đề: “Thưa giáo trưởng, hẳn là giáo trưởng sẽ không phản đối nếu chúng con thay đổi chút ít trong nghi thức lễ cưới? Thay vì tuyên bố chúng con là vợ chồng cho tới lúc cuối đời, liệu chúng con có thể tuyên bố chúng con là vợ chồng cho tới khi nào tình yêu còn tồn tại? Chúng con đã nói với nhau về điều đó và chúng con cảm thấy rằng nếu một ngày nào đó chúng con không còn yêu nhau nữa thì về mặt tinh thần chúng con không gây cản trở cho nhau”.
Nhưng vị đạo trưởng đáp: “Tôi phản đối và tôi không thay đổi. Anh chị và tôi biết rằng có một điều như ly dị và chúng ta biết rằng nhiều cuộc hôn nhân ngày nay không kéo dài đến lúc một trong hai người qua đời. Nhưng anh chị hãy để cho tôi nói với anh chị một điều. Nếu anh chị đến với hôn nhân mà có thái độ “Nếu nó không êm xuôi thì chúng ta có thể chia tay”, tôi có thể bảo đảm với anh chị rằng vì suy nghĩ ấy của anh chị mà những việc đó sẽ không êm xuôi”.
“Tôi tán thưởng sự chân thật của anh chị. Nhưng anh chị phải hiểu rằng một cam kết hôn nhân không chỉ là ước muốn sống chung với nhau, nhưng là một lời cam kết chấp nhận những sự chán nản thất vọng vốn là một phần không thể tránh khỏi trong quan hệ của hai con người bất toàn. Ngay lúc bắt đầu cuộc hôn nhân việc chia sẻ cho nhau mọi việc đã là rất khó. Nhưng nếu chỉ đặt một phần của mình vào mối quan hệ ấy thì hầu như anh chị không có cơ may?”
Kết quả là mối quan hệ mong manh, thử nghiệm chắc chắn sẽ thất bại. Có những người bước vào hôn nhân và mong đợi nó làm cho đời sống họ lúc nào cũng thích thú và khi gặp đau khổ, và xung đột họ chỉ muốn lìa bỏ nhau.
Khi hai người kết hôn đời sống họ được liên kết với nhau. Từ đó mà họ có một số phận chung. Họ đã cam kết với nhau và có trách nhiệm lẫn nhau. Như thế Thiên Chúa đóng dấu và chúc phúc mối quan hệ này. Tuy nhiên, mối liên kết ấy không được làm bởi vật liệu không thể gãy đổ. Nó do con người tạo ra, nên nó là vật liệu không hoàn hảo.
Thiên Chúa dựng nên chúng ta để yêu thương - nhận và cho tình yêu. tuy nhiên, khả năng yêu thương không phải là một vật mà Người ban cho đôi lứa trong ngày hôn lễ cùng với mọi quà tặng khác. Tình yêu là một điều mà người ta phải học biết. Hành trình thật sự mà đôi vợ chồng mới cưới phải thực hiện, không còn là cuộc hành trình cô độc, mà là cuộc hành trình đi từ tính ích kỷ đến tình yêu.
Không có gì thách thức tình yêu bằng hôn nhân, cũng không có gì đem lại cho tình yêu cơ hội trưởng thành bằng hôn nhân. Nó đòi hỏi phải có nhiều sự trưởng thành. Những con cá vàng trong chậu hòa hợp với nhau dễ dàng. Nhưng bạn hãy đưa hai người đến sống chung thì ít lâu sau họ sẽ có vấn đề. Khi hai người kết hôn, họ đem đến hôn nhân sức mạnh và sự yếu đuối, tình yêu và thù hận, va chạm và tổn thương, hy vọng và sợ hãi.
Tuy nhiên, những khó khăn mà họ gặp có thể là những cơ hội để họ trưởng thành. Khi đã khắc phục được vài cơn bão tố thì mối tương quan trở nên sâu sắc.
41. Tuổi thơ.
Đức Giêsu nói với chúng ta: “Người nào không trở nên giống như trẻ nhỏ sẽ không vào được Nước Trời”. Chúng ta thường nhìn tuổi thơ như một giai đoạn từ đó mình phải lớn lên và hoàn toàn để lại phía sau như thể không có gì ở đó đáng để giữ lại.
Chúng ta phải phân biệt giữa giống như trẻ nhỏ và ấu trĩ. Au trĩ có nghĩa là không trưởng thành, hay hờn giận, ngớ ngẩn, thiếu trách nhiệm… Trẻ nhỏ không phải là những thiên thần. Chúng ta phải trưởng thành ra khỏi những điều đó. Tuy nhiên có những phẩm chất giống như trẻ nhỏ và đáng yêu mà chúng ta phải cố gắng giữ lấy như tính cởi mở, nhạy bén, cảm giác về điều kỳ diệu, khả năng sống trong hiện tại.
Khổ nỗi, chúng ta thường đánh mất một vài phẩm chất của trẻ nhỏ và giữ lại những điều xấu nhất. Chúng ta thôi không giống trẻ nhỏ nhưng vẫn tiếp tục ấu trĩ. Chúng ta đã đánh mất gì khi tuổi thơ của chúng ta qua đi?
Óc tưởng tượng của tuổi thơ mạnh mẽ vô cùng. Mỗi đứa trẻ được ban cho một ý thức, một ý thức về điều kỳ diệu. Cái nhìn của chúng mới mẻ và rõ ràng. Words Worth đã nói rất hay: “Thiên đàng của chúng ta ở trong tuổi thơ”. Các trẻ nhỏ nhìn mỗi vật như thể đó là lần đầu tiên chúng trông thấy. Tham vọng của Picasso là vẽ tranh giống như một đứa trẻ. Ông nói rằng nghệ thuật nên đánh thức chúng ta để nhìn thế giới bằng một cái nhìn mới mẻ như cái nhìn của trẻ thơ. Trẻ thơ dạy chúng ta sống như thế nào. Chúng chưa sống theo những lối mòn xưa cũ, hoặc trở thành tù nhân của tập tục, thói quen và thành kiến. Chúng luôn luôn là chính chúng. Điều này làm cho chúng lôi cuốn và độc đáo.
Hạnh phúc là tình trạng tự nhiên của trẻ thơ. Chúng có khả năng rút ra sự thích thú từ những sự vật đơn giản. Một con búp bê cũ kỹ có thể làm cho tâm hồn một trẻ nhỏ vui sướng sáu tháng liền, còn người lớn thì không cần nhiều đến thế. Tại sao? Bởi vì người lớn đã đánh mất tâm hồn của một trẻ nhỏ. Nhiệm vụ của Giáo hội là giữ cho tâm hồn trẻ thơ luôn sống động.
Không gì dễ hơn là để cho đời sống tiếp tục làm cho tâm hồn mình trở nên già cỗi, khô khan và trắng trợn, sỗ sàng và ích kỷ. Trẻ nhỏ để cho chúng ta tiếp xúc với sự hiền lành và ngây thơ của chúng, để chúng ta bỏ bớt cuộc đấu tranh quyết liệt để sinh tồn. Chúng làm sống lại trong chúng ta cảm thức về điều kỳ diệu và chính cảm thức này hơn bất cứ điều gì sẽ giữ cho chúng ta luôn được trẻ trung.
Khi Đức Giêsu nói với chúng ta: “Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, anh em sẽ không vào được Nước Trời”. Người muốn nhắc lại tuổi thơ đã đánh mất của chúng ta để chúng ta được tái sinh trong tính cách ngây thơ cho dù thân xác chúng ta đã già yếu.
Đức Giêsu nói rằng chúng ta không thể vào Nước Trời nếu như chúng ta không đón nhận nó như một trẻ thơ. Nước Trời là một quà tặng. Trẻ nhỏ thích hợp với Nước Trời hơn bởi vì chúng biết phải nhận quà tặng như thế nào. Người nào không biết mở rộng tâm hồn để đón nhận Nước Trời như một quà tặng, người ấy không thể vào được.
42. Gia đình.
“Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi. Tôi buồn giận cha tôi lắm, tuy nhiên tôi thấy thiếu vắng cha tôi kinh khủng. Biết bao lần tôi hình dung cha tôi mà tôi chỉ nhớ loáng thoáng bóng dáng. Tôi tưởng tượng một ngày nào đó đến nhà ông để khạc nhổ vào mặt ông ta cho hả cơn oán ghét và khinh bỉ. Hôm khác tôi lại mơ thấy mình nằm gọn trong cánh tay cha tôi, đắm mình trong một tình thương mà tôi tưởng chừng đã phai tàn. Rồi tôi đã khóc, nhưng không ai biết…Tôi nằm lăn đất vì đau khổ, vì bị xung độ khủng khiếp. Tôi muốn tìm cách báo thù: chống lại cha tôi, chống lại mẹ tôi, chống lại mọi người, chống lại xã hội và chống lại… chính tôi nữa!”
Tâm trạng của một đứa con mà cha mẹ đã ly dị với nhau là như thế: bị xâu xé ray rứt rất đau đớn: vừa thù ghét cha mẹ mà vừa đói khát thèm muốn tình thương của cha mẹ. Tương lai của những đứa con ly hôn là như thế: nó sẽ nổi loạn chống lại mọi người, phá phách mọi người và phá phách cả cuộc đời của chính nó nữa.
Vậy mà ít ai lưu tâm đến hoàn cảnh đau khổ to lớn ấy của những đứa con mà cha mẹ đã ly hôn. Ngược lại càng ngày người ta càng ủng hộ việc ly dị. Theo một bảng thống kê ở các nước giàu có phát triển thì cách đây 20 năm cứ 20 cặp vợ chồng thì có một cặp ly dị, cách đây 10 năm thì trong 10 cặp có một cặp ly dị, và hiện thời cứ 2 cặp là có một cặp ly dị. Nghĩa là tỷ lệ phân nửa: bên Nga cũng vậy mà bên Mỹ cũng vậy!
Lý do người ta dựa vào, là “Đã không thể sống chung với nhau nữa thì thà chia tay nhau”. Một lý do quá giản dị, nhưng vì quá giản dị nên cũng quá thiếu sót, ít ra là thiếu sót ba điểm sau đây:
1/ Thứ nhất là quá ích kỷ: chỉ lo cho những cặp vợ chồng mà không nghĩ đến những đứa con. Cho phép ly dị thì có lẽ vợ chồng sẽ thoải mái đấy, nhưng con cái thì như chúng ta đã thấy qua bức trên đây. Cha mẹ muốn thoải mái cho bản thân mình, và dồn mọi hậu quả cho những đứa con phải chịu. Mà những đứa con đó nào có tội tình gì đâu? Tội là ở cha mẹ chúng, nhưng chúng phải gánh lấy hậu quả hoàn toàn.
2/ Thứ hai là phản trắc, lật lọng: những người ly dị là những kẻ phản trắc, lật lọng, không phải đối với ai khác mà đối với chính bản thân họ, đối với chính lương tâm của họ. Họ hãy nhớ lại xem trước khi cưới họ đã nghĩ gì, đã muốn gì, đã thề hứa gì? Họ muốn chiếm cho bằng được con người lúc đó họ đang yêu, họ chấp nhận tất cả mọi khó khăn xung đột của cuộc sống chung, và họ thề sẽ yêu thương nhau trọn đời. Lúc ban đầu thì vậy, nhưng lúc sau thì khác không yêu nhau nữa, không chấp nhận nhau nữa và đòi bỏ nhau bằng mọi giá. Có phải là phản trắc, là lật lọng, là tiền hậu bật nhất không?
3) Và điểm thứ ba là người ta đã quên một điều rất là thông thường trong cuộc sống hôn nhân: bất cứ cặp vợ chồng nào cũng phải trải qua những cuộc khủng hoảng. Không cặp nào thoát. Đó là điều tất yếu, và có thể nói còn cần thiết nữa. Cũng như một đứa trẻ cần phải trải qua khủng hoảng của tuổi dậy thì mới trở nên người lớn được, thì bất cứ cặp vợ chồng nào cũng cần phải trải qua khủng hoảng mới đi đến chỗ trưởng thành. Vậy mà khi gặp khủng hoảng thì tính ngay chuyện ly dị, thử hỏi làm sao gia đình trưởng thành được?
Đó là ba điểm rất quan trọng mà người ta đã bỏ qua không xét tới. Vì bỏ qua những điểm quan trọng như thế nên người ta càng ngày càng đòi hỏi ly hôn: những cặp vợ chồng trẻ đòi ly hôn, cha mẹ đôi bên xúi ly hôn, luật pháp cho phép ly hôn… Chỉ có Tin Mừng Chúa và Giáo hội Công giáo là còn cố gắng ngăn cản việc ly hôn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý tới những điểm sau đây:
1. Những người biệt phái dẫn chứng với Đức Giêsu rằng ông Môsê cho phép ly hôn. Đức Giêsu trả lời: đó chỉ là vì lòng dạ chai đá của các ngươi thôi. Nghĩa là Đức Giêsu vạch cho thấy nguồn gốc của ly hôn là lòng dạ chai đá, lòng xấu của con người. Và như chúng ta đã phân tích ở trên, lòng xấu ấy chính là cái tính ích kỷ, cái thái độ phản trắc lật lọng, thái độ hèn nhát vội tìm đường lẩn tránh trước những khủng hoảng tất yếu của hôn nhân.
2. Đức Giêsu nhắc nhở tính chất bất khả ly của hôn nhân là quyền của Thiên Chúa, con người không có quyền làm ngược lại “Điều gì mà Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”. Nghĩa là Đức Giêsu phủ nhận mọi quyền của con người trong vấn đề này: vợ chồng không có quyền đòi ly dị, cha mẹ đôi bên và bè bạn không có quyền xúi ly dị, luật lệ xã hội không có quyền cho phép ly dị, cho nên dù có một trăm tờ giấy ly dị cũng chẳng có chút giá trị nào trước mặt Chúa.
3. Và thứ ba là Chúa nhắc mọi người phải nhớ đến những đứa trẻ. Đức Giêsu đã ôm trẻ nhỏ vào lòng, Ngài đã chúc lành cho chúng để nhắc mọi người phải thương yêu chúng, phải bao bọc chúng, đừng ruồng bỏ chúng để chúng phải bơ vơ vì cha mẹ chúng đã ly dị nhau; đừng ngăn cản, không cho chúng đến với Chúa bằng cách dạy chúng vào con đường bất mãn, nổi loạn, sa đọa khi cha mẹ chúng đã ly dị với nhau.
43. Suy niệm của JKN.
Tính sư phạm và nhân bản của Thiên Chúa trong việc lập luật và áp dụng luật
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao luật Môsê lại cho phép vợ chồng ly dị (x. Mt 5,31; Đnl 24,1) còn Đức Giêsu thì không? Luật Môsê có phải là luật của Thiên Chúa không? Phải giải thích sao về sự mâu thuẫn giữa hai thứ luật đều cùng là luật của Thiên Chúa cả?
2. Thiên Chúa coi hạnh phúc của con người quan trọng hơn luật của Ngài, hay ngược lại? Ngài lập luật để con người hạnh phúc, hay dựng nên con người để tuân theo luật Ngài? Luật lệ và con người, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện?
3. Khi áp dụng luật Chúa cho người khác, ta nên có thái độ nào? cứng nhắc hay mềm dẻo? nên vì luật Chúa hay vì hạnh phúc con người hơn?
Suy tư gợi ý:
1. Bối cảnh của bài Tin Mừng
Các người Pharisêu hỏi Đức Giêsu về vấn đề ly dị không phải vì họ thắc mắc cần được giải đáp, mà vì muốn gài bẫy Ngài. Nếu Ngài đồng ý với việc ly dị, thì Ngài tỏ ra cùng lập trường với người Pharisêu. Và như vậy người Pharisêu có thêm một đồng minh rất có uy tín về vấn đề này để chống lại chủ trương đối lập. Còn nếu Ngài không đồng ý, thì nhiều người trong đám đông không chấp nhận. Quan trọng hơn nữa, Ngài sẽ bị vua Hêrốt thù ghét, vì Ngài tỏ ra cùng phe với Gioan Tẩy giả, là người lên án ông về tội ngoại tình và đã bị ông giết chết (Mc 6,17-28). Đây cũng là điều mà bọn Pharisêu mong muốn cho Ngài. Vì thế, Ngài trả lời thế nào cũng đều có lợi cho họ.
Nhưng Đức Giêsu đã lợi dụng cái bẫy này để mặc khải nền tảng của hôn nhân theo kế hoạch ban đầu của Thiên Chúa là vợ chồng phải “nhất phu nhất phụ», đồng thời chỉ ra sự sai trái trong chủ trương của người Pharisêu. Người Pharisêu dựa vào câu Kinh Thánh sau đây để biện minh cho sự ly dị: “Nếu một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà» (Đnl 24,1). Đức Giêsu đã nhắc đến luật này trong Cựu Ước và đưa ra luật mới ngược lại: “Luật (Môsê) dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình» (Mt 5,31-32).
2. Bài học về tính sư phạm của Thiên Chúa
Ngài chủ trương khác với Môsê, nhưng Ngài không đả kích hay chê bai Môsê, mà cho rằng Môsê đã thích ứng với sự yếu đuối của con người: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông». Vì: nếu ra luật mà người ta yếu đuối quá không thể giữ được, thì lúc đó luật chỉ gây nên mặc cảm tội lỗi. Như vậy, thay vì luật nâng đỡ con người, thì lại đạp họ xuống. Nghĩa là luật trở nên gánh nặng không thể vác nổi cho con người, khiến họ thất vọng đối với sự công chính và quay về hướng tội lỗi. Vì thế, trong trường hợp đó, tốt hơn là luật chưa nên đòi hỏi đúng mức. Do đó, luật Môsê đã tỏ ra nhân nhượng với sự yếu đuối của con người. Thánh Phaolô chủ trương: “Nếu không có Luật, thì tội không bị kể là tội» (Rm 5,13); và “tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật» (1Cr 15,56). Bởi luật được lập nên vì con người, chứ không ngược lại (x. Mc 2,27). Đó là quan niệm rất nhân bản về lề luật. Nhưng khi con người đạt được một trình độ tâm linh cao hơn, thì Đức Giêsu đã nâng cấp lề luật lên một bậc để đưa con người lên mức độ thánh thiện và hoàn hảo cao hơn, hợp lý hơn, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa hơn.
Điều này cho chúng ta thấy tính sư phạm của Thiên Chúa. Lề luật, giao ước, mặc khải hay những điều Thiên Chúa dạy dỗ con người không thể là những gì bất biến, mặc dù Thiên Chúa thì bất biến. Tất cả những thứ ấy không phải vì Thiên Chúa nhưng vì con người, mà con người thì biến đổi, nên chúng phải thích ứng sao cho phù hợp với con người. Khi trình độ hay hoàn cảnh của con người thay đổi, thì lề luật, cũng như những mặc khải hay những điều dạy dỗ của Thiên Chúa đã có trước đó lâu năm sẽ phải thay đổi cho thích ứng với con người thời đại, đồng thời phù hợp với “đạo» là nguyên lý không thay đổi của Thiên Chúa hơn. Không thể lấy lề luật cũ áp dụng cho con người mới được: lề luật cũ, mặc khải cũ, giao ước cũ phù hợp với con người cũ (thời xưa) chứ không phù hợp với con người mới (thời nay). Vì thế, cần phải có lề luật mới, mặc khải mới, giao ước mới để phù hợp với con người mới.
Thánh Phaolô có nói đến sự lỗi thời của các giao ước, khi đã có một giao ước mới đến thay thế: “Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sẽ tan biến đi» (Dt 8,13). Bất kỳ giao ước nào, lề luật nào, mặc khải nào đang hiện hành đều được coi là tuyệt đối, bất biến, muôn đời không thay đổi. Có như thế con người mới đủ xác tín để thực hành. Nhưng khi có giao ước, lề luật, mặc khải mới, thì những thứ cũ đều bị coi là lỗi thời, không phải theo nữa. Cụ thể là luật Môsê mà người Do Thái xưa coi là tuyệt đối và bất biến, đã trở nên lỗi thời và được thay thế bởi luật của Đức Giêsu. Và đương nhiên luật của Đức Giêsu cũng là luật cho con người chứ không phải cho Thiên Chúa.
3. Hãy “vì con người, chứ không phải vì lề luật»
Đức Giêsu đã cho thấy kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa là: “Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly». Đấy là nguyên lý của Thiên Chúa cho hạnh phúc con người, ai sống theo như vậy thì sẽ được hạnh phúc. Thật vậy, trong đời sống vợ chồng, tình yêu và sự hòa hợp là hai yếu tố quan trọng để đời sống hôn nhân được hạnh phúc. Tình yêu cũng là một yếu tố thuận lợi cho sự hòa hợp và ngược lại. Tuy nhiên, thiếu một trong hai thì đời sống hôn nhân không thể hạnh phúc. Dẫu vậy, tình yêu là yếu tố quan trọng nhất. Nhưng chỉ có tình yêu đích thực mới đem lại hạnh phúc, mà tình yêu chân thực tất yếu phải là tình yêu duy nhất và chung thủy. Một nhà tâm lý nói: “Đã yêu rồi, lại còn yêu người khác nữa, thì không phải là tình yêu chân thật. Đã yêu, nhưng sau đó lại không yêu nữa, cũng không phải là tình yêu chân thật». Vì thế, hôn nhân Kitô giáo đòi hỏi hai phối ngẫu một tình yêu đích thực, nghĩa là tình yêu duy nhất và trọn đời. Điều đó thật hợp lý và phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Và Giáo Hội không chấp nhận ly dị là điều hợp lý.
Tuy nhiên, việc áp dụng luật của Thiên Chúa cũng như luật Giáo Hội thiết tưởng không nên cứng ngắc. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy: chính Thiên Chúa - qua luật Môsê - cũng đã nhân nhượng sự yếu đuối của con người. Từ nguyên thủy, Thiên Chúa chỉ dựng nên có một người nam và một người nữ, nghĩa là ngay từ đầu, trong kế hoạch của Thiên Chúa, đã có luật “nhất phu nhất phụ» rồi. Nhưng trong luật Môsê, Ngài đã tạm thời chấp nhận việc ly dị, chỉ vì tâm linh của con người còn quá thấp kém, không thể giữ nổi: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông». Như thế ta thấy mặc dù Thiên Chúa là Thiên Chúa, nhưng Ngài cũng rất là nhân bản, Ngài thông cảm với những yếu đuối của con người, và Ngài đã tỏ ra chú trọng đến hạnh phúc của con người nhiều hơn cả việc đòi hỏi con người phải theo đúng kế hoạch của Ngài. Ngài đặt nặng hạnh phúc của con người hơn cả lề luật của Ngài: bởi lề luật được lập nên vì con người, chứ không phải con người được dựng nên vì lề luật (x. Mc 2,27). Lề luật dù có thánh thiêng tới đâu cũng là vì con người, nhằm phục vụ cho lợi ích hay hạnh phúc của con người, chứ không ngược lại. Lề luật là phương tiện, nhưng con người mới là mục đích. Con người thánh thiêng hơn các lề luật rất nhiều, cho dù lề luật có do chính Thiên Chúa lập nên đi nữa, vì “con người là hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26.27; 9,6), chứ lề luật không phải là hình ảnh của Ngài, dù là luật do chính Ngài thiết lập.
Vì thế, các mục tử, khi áp dụng luật Chúa cho giáo dân của mình, thiết tưởng cũng phải biết sử dụng quyền mà Chúa trao: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy» (Mt 16,19; 18,18). Chúa trao cho mình cả hai quyền, nhưng nhiều khi mình chỉ chuyên sử dụng có một quyền, chỉ biết “cầm buộc» mà không biết “tháo cởi». Tội nghiệp cho giáo dân ngu dốt của mình! Xin hãy cân nhắc một cách sáng suốt giữa hai sức nặng cần phải tôn trọng: hạnh phúc của con người và luật của Thiên Chúa. Có những trường hợp phải hy sinh luật Chúa cho hạnh phúc của con người! Trong ngôn ngữ dân gian có câu: “Nếu đất không chịu trời, thì trời nhiều khi đành phải chịu đất». Đó cũng là sự mềm dẻo trong việc áp dụng luật cho người khác, một đặc tính phải có của tình thương. Thiên Chúa còn mềm dẻo và nhân nhượng trong việc áp dụng luật đối với con người, tại sao con người lại quá hà khắc với nhau?
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng con người thánh thiêng hơn lề luật, và lề luật được lập nên vì hạnh phúc của con người. Lề luật chỉ là phương tiện, con người mới là mục đích. Xin đừng để con quá “vị luật» đến nỗi lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh con người cho việc áp dụng lề luật. Xin cho con biết nhân ái và bao dung khi áp dụng luật Chúa cho tha nhân.
44. Bất khả phân ly - Trần Quang Huy Khanh.
Trong một tuần phòng nọ. Khi các linh mục đang ngồi thảo luận và trao đổi với nhau về kinh nghiệm mục vụ, một vị lớn tuổi đã chậm dãi phát biểu: “Tôi không biết các cha trẻ nghĩ thế nào, riêng tôi, tôi thấy làm lạ là nhiều cặp chúng nó mới hôm nào đưa nhau lên trước bàn thờ thề thốt yêu nhau, vậy mà quay đi, quay lại đã thấy chúng nó lên nữa, mà lần này với một đứa khác. Tôi đã tò mò hỏi một vài đứa thì chúng nó nói rằng: Tại vì cha quản nhiệm chúng con trẻ, nên làm đám cưới mát tay”.
Gọi ly dị là căn bệnh thời đại, vì trải qua mọi thời đại, ly dị vẫn là một vấn nạn nhức nhối và không thuốc chữa; đặc biệt, đối với con người của thời đại chúng ta đang sống. Một thời điểm mà theo Đức Piô XII, con người đang mất dần đi ý thức tội lỗi. Hoặc theo Đức Gioan Phaolô II, thế giới đang bị ảnh hưởng của một nền văn hóa sự chết. Trong xã hội hôm nay, dưới ảnh hưởng của nền văn hóa này, nền móng gia đình và hạnh phục hôn nhân đang bị đảo lộn tận gốc rễ. Qua đó, nền tảng xã hội cũng đang bị lung lay. Hơn 50% các cặp hôn nhân đã kết thúc bằng ly dị. Nhiều người ly dị sau chỉ mới 3 tuần lễ cưới nhau. Một số lớn chừng 3 hay 10 năm sau khi cưới. Và một số khác sau 30 năm chung sống với nhau. Như vậy, căn bệnh thời đại này không dừng lại ở thành phần tuổi tác, hoặc thời gian chung sống với nhau. Nó xẩy ra cho mọi lứa tuổi, và trong mọi hoàn cảnh.
Lịch sử đã chứng minh tính chất xã hội của chứng bệnh ly dị, khi cho biết ngay những người đồng thời với Chúa Giêsu cũng đã đặt vấn đề với Ngài. Và trước đó nữa, Maisen cũng đã phải vất vả với vấn nạn này. Thánh Kinh kể lại, khi những người Biệt Phái đến chất vấn Ngài về đề tài ly dị, Chúa Giêsu đã nói với họ: “Chính vì sự cứng lòng của các ngươi mà Maisen đã viết ra luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ bỏ cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10:5-9).
Qua câu trả lời trên, chúng ta thấy rằng ly dị là do tâm trạng đổi thay, do những thúc đẩy từ nhiều phía, do ảnh hưởng xã hội, và do thiếu lòng thủy chung của con người. Hơn 10 năm trước, khi khảo cứu về hậu quả của những cuộc hôn nhân đổ vỡ, người ta đã đi đến kết luận rằng con cái của những cha mẹ ly dị chính là những nạn nhân đáng thương nhất qua hành động ly dị của cha mẹ chúng. Hậu quả này kéo dài cho đến khi chúng lớn, và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là các em trai, đặc biệt, nếu lúc cha mẹ chúng ly dị mà chúng đang ở vào lứa tuổi vị thành niên. Anh hưởng ấy có thể làm cho chúng có một cái nhìn thiên lệch, và mặc cảm tội lỗi về đời sống hôn nhân, gia đình. Nhưng gần đây, người ta lại có câu trả lời khác, đại khái cho rằng nếu cha mẹ mà cứ tiếp tục sống trong cảnh bất hòa, thì tốt hơn là nên ly dị, vì như thế sẽ giúp cho con cái sống trưởng thành hơn và không bị ảnh hưởng tâm lý về một cuộc hôn nhân đổ vỡ.
Nhiều cuộc khảo cứu còn đi xa hơn nữa, khi kết luận rằng trẻ em được nuôi dưỡng bởi những cha mẹ đồng tính luyến ái, và những cha mẹ tự nhiên không có gì khác biệt về tâm lý và tình cảm. Và ảnh hưởng của những lần phá thai không còn gây kinh hoàng cho nhiều phụ nữ như trước nữa. Ngược lại, chúng chỉ có tác dụng về mặt thể lý, như một lần đau bụng, đi cầu. Đó là tâm lý, đó là tâm trạng của con người thời đại. Điều này cho thấy rằng, con người thời nay đang mất dần đi ý thức của việc làm, và họ lẫn lộn giữa cái xấu và cái tốt, cái được phép làm và cái không nên làm, điều mà Chúa Giêsu gọi là sự cứng lòng: “Chính vì sự cứng lòng của các ngươi” (Mc 10: 5).
Thật vậy, do lòng dạ con người ra cứng cỏi, chai đá, mà hiện tượng ly thân, ly dị, phá thai, đồng tính luyến ái, hôn nhân đồng tính mới đang được hưởng ứng và thịnh hành. Và không những chỉ có những con người bình thường, ít học thức mới có những quan niệm lệch lạc, nhưng cả những vị có trách nhiệm thuộc lãnh vực luân lý và đạo đức cũng bị những tư tưởng lệch lạc ấy chi phối. Đó là lý do tại sao có những linh mục “làm phép cưới mát tay”. Làm phép cưới mát tay hay làm phép cưới cẩu thả, thiếu điều tra kỹ lưỡng, và thiếu hướng dẫn, thiếu chuẩn bị cũng là một hình thức. Đối với những linh mục này, có lẽ việc ly thân, ly dị chỉ là hệ quả của tâm lý xã hội, hoặc một hành động thiếu kinh nghiệm của những người trong cuộc. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế, vì hậu quả của những việc làm cẩu thả ấy còn kéo dài cho tới những thế hệ kế tiếp. Thống kê cho biết, con cái những cha mẹ ly dị cũng có nhiều cơ hội ly dị.
Vấn đề ly dị tưởng chỉ là những đối chọi về quan điểm xã hội giữa những người Pharisiêu và Chúa Giêsu nên Ngài đã có những lời lẽ cứng rắn về hôn nhân. Nhưng điểm quan trọng ở đây, là nhân cơ hội này, Chúa Giêsu đã lập lại ý định của Chúa Cha ngay từ ban đầu khi sáng tạo vũ trụ, khi đó, Thiên Chúa đã đặt con người vào một ơn gọi hết sức quan trọng: “Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ bỏ cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục (Mc 10: 6-8). Đó là những gì Thiên Chúa nói, và đó là việc Thiên Chúa làm.
Thật vậy, nếu nhìn luật một vợ, một chồng với cái nhìn của tâm lý hôn nhân gia đình, ta sẽ thấy đây là một đòi hỏi hết sức hợp tình, hợp lý, phù hợp với tâm lý sống của con người. Nó không hề đi ngược hoặc mang lại những khó khăn, những phiền toái mà con người không thể vượt thắng được. Ngược lại, nó mang đến cho những cặp vợ chồng một sự đảm bảo, một sự gắn bó hạnh phúc. Trong xã hội loài vật, Thiên Chúa cũng dựng nên những mẫu gia đình mà chỉ một vợ, một chồng, thí dụ, loài chim đại bàng đầu bạc của Bắc Mỹ. Chúng ở với nhau cho đến khi một con chết, và không bao giờ đi lang thang, hoặc cặp kè với những con khác.
Trở lại vấn đề con người, như khảo cứu đã cho biết, nếu một người đã ly dị một lần, thì có nhiều lý do cho thấy người ấy sẽ ly dị tiếp sau này. Thực tế đã chứng minh nhận xét này, vì có nhiều người ly dị, tái hôn đến ba, bốn, hoặc năm lần mà vẫn không hạnh phúc. Những người này tưởng rằng sau khi đã bỏ chồng, bỏ vợ sẽ gặp được hoàng tử hay công chúa của cõi lòng, nhưng như người Việt Nam đã có câu: “Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”, hoặc: “Chê thằng toét mắt, lấy thằng gù lưng”. Do đó mới có hiện tượng ly dị, tái hôn, và tái hôn, ly dị.
Ngoài ra, theo tâm lý, một người đã mang tâm trạng cứ thử một lần cho biết, hoặc cứ bước vào đời sống hôn nhân, nếu không thích thì bỏ, thì người này hầu như sẽ kết thúc hôn nhân của họ bằng ly dị. Họ giống như những kẻ mang tâm trạng chán đời, và nuôi ý muốn tự tử. Trước sau, nếu họ không được giúp đỡ kịp thời, thì cũng sẽ kết liễu cuộc đời bằng những cái chết hết sức vô nghĩa. Bước vào đời sống hôn nhân mà còn trông trước, ngó sau, còn mang ý nghĩ muốn thử một lần cho biết, thì trước sau gì, những người này cũng gặp đổ vỡ. Hơn nữa, chứng tỏ rằng họ đã không nghiêm chỉnh, đã không trưởng thành, và không ý thức trách nhiệm về lựa chọn, quyết định, và hành động hôn nhân của mình, những yếu tố để tạo nên hạnh phúc. Và nếu bước vào đời sống hôn nhân như vậy, thì đừng đổ thừa cho Thiên Chúa, mà là lỗi tại mình.
Việc Thiên Chúa đã liên kết trong đời sống hôn nhân, do đó, là một hành động phù hợp với ơn gọi cao quí, cho biết đây không phải là việc làm con trẻ, hoặc một hành động mà con người có thể đùa giỡn. Con người không được phân ly, vì con người không có quyền coi thường đời sống này, hoặc làm khác đi những luật lệ mà Thiên Chúa đã đặt định, thí dụ, con người ngày nay đang muốn lập thành một quy ước hôn nhân cho những người đồng tính. Đây là một việc làm trái ngược, và một hành động phá vỡ luật lệ mà Thiên Chúa đã an bài từ trước.
Trở lại những gì Chúa Giêsu đã nói về đời sống gia đình, ta thấy rằng, Thiên Chúa hết sức khôn ngoan và thương xót khi đặt định con người vào một cuộc sống hôn nhân tốt lành, và đã ràng buộc, cột chặt họ lại trong sự tốt lành ấy bằng hôn ước bất khả phân ly. Ngài không hề o ép, và không hề áp đặt con người trong sự ràng buộc này. Trái lại, Ngài đã tạo cơ hội cho con người sống hòa hợp và hạnh phúc với nhau. Thử hỏi, nếu Ngài không bảo họ phải nghiêm chỉnh, tránh nhiệm, và trưởng thành với hành động của mình, thì đời sống hôn nhân sẽ đi về đâu, và sẽ như thế nào? Những trái tim tan nát vì tình yêu bị phản bội, những đứa trẻ bơ vơ vì thiếu cha, thiếu mẹ, những cuộc tình vụng trộm, và những cuộc hôn nhân đồng sàng dị mộng sẽ trở thành một nỗi kinh hoàng cho cá nhân, gia đình, và xã hội nếu Thiên Chúa không ràng buộc con người bằng luật bất khả phân ly.
Hôn nhân là một ơn gọi, một chọn lựa, một cửa ngõ dẫn vào hạnh phúc. Nhưng hôn nhân Công Giáo với luật bất khả phân ly còn là một bảo đảm cho tất cả những hạnh phúc ấy, nếu con người đi đúng, và tuân thủ một cách tự nguyện những gì Thiên Chúa đã an bài: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10:9).
45. Suy niệm của Lm. Thu Băng.
Sự gì thiên chúa đã kết hợp, loài người không phân ly (Mc. 10, 2-16)
Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về huyền nhiệm hợp nhất giữa hai vợ chồng "Họ không còn là hai, nhưng là một, một thể xác, một tinh thần, một quyền lợi, một một nhiệm vụ." Bởi thế: "Với gia đình họ là một tổ ấm, tổ ấm của nhau, tổ ấm của con cái." Với học đường họ là nhà giáo dục đầu tiên dạy dỗ con cái trở nên người công dân tốt cho xã hội. Với Giáo Hội thu hẹp, cha mẹ là cha sở dạy dỗ con cái về Thiên Chúa, ban Đức tin cho con cái qua Bí tích Rửa tội và giúp con cái lãnh nhận các Bí tích khác, lãnh nhận ơn thánh Chúa. Với nhiệm vụ Chúa trao, họ chính là Thiên Thần Hộ Thủ mà hôm nay Giáo Hội mừng kính cách riêng.
Hôm nay tôi cũng muốn nhấn mạnh đến vai trò hộ thủ, vai trò gìn giữ canh phòng mà Chúa đã trao phó cho các bậc làm cha làm mẹ: Đức Tin dạy có các Thiên Thần luôn ở bên để bênh đỡ, chỉ dạy chúng ta khi còn sống. Trong Sách Tân Ước cũng như Cựu Ước có đều nói Chúa đã cho mỗi người sinh ra trong trần gian một Thiên Thần canh giữ. Chúa Kitô gọi các con trẻ đến với Ngài, Ngài nói rằng: "Thiên Thần của chúng hằng thấy mặt Cha Ta ở trên trời". Vì lý do ấy thánh Jêrônimô ca tụng: "Các linh hồn thật là cao quý, vì mỗi linh hồn được Thiên Chúa cắt cử riêng một Thiên Thần để canh giữ, nhắc nhở". Thánh Tôma cũng quả quyết: "Mỗi quốc gia, mỗi đô thị, mỗi dân tộc, mỗi tu viện cũng như mỗi người, đều có Thiên Thần gìn giữ".
Các Thiên Thần là tướng lãnh trên thiên đàng, các ngài có sứ mạng dẫn dắt chúng ta trên đường hoàn thiện. Ở mỗi nơi, mỗi chỗ, cả ngày cũng như đêm, các ngài không lúc nào rời chúng ta, ngay cả những khi chúng ta phạm tội phản nghịch cùng Chúa.
Khi chúng ta cầu nguyện, các Đấng có nhiệm vụ dâng những kinh nguyện của chúng ta lên trước tòa Chúa để kéo muôn ơn phước xuống cho chúng ta. Lúc ta lâm nguy hoặc gặp điều nan giải, các Đấng sẽ lo cho chúng ta như cha mẹ lo cho con cái. Thử hỏi từ thuở sinh ra đến nay:
- Nhờ ai mà ta biết Chúa và tấn tới trên đường trọn lành, tấn tới trên đường sống đạo?
- Nhờ ai mà người có tội được phục thiện và vững vàng tin tưởng Chúa trước mọi đe dọa?
- Chính là nhờ các Thiên thần hộ thủ săn sóc, giúp đỡ, che chở, cầu thay nguyện giúp chúng ta vậy.
- Theo ông Hamon thì: "Mỗi khi Thiên Thần hoàn thành một công tác cứu rỗi nào, thì các ngài về trời mừng đại lễ cám ơn Chúa".
Hỡi những người được Thiên Chúa mời làm cha, làm mẹ, quí vị hãy nghe Đức Hồng Y Wyzinsky nói về cha mẹ ngài những lời này: "Tôi mạnh dạn nói rằng: "Mẹ tôi chính là vị thiên thần sống bên tôi từ giây phút đầu tiên cuộc sống của tôi và cha tôi cũng chính là thiên thần che chở tôi từ khi tôi được chào đời".
Vậy thì khi con cái gọi quí vị là Thiên Thần cha, Thiên thần mẹ cũng không sai, vì chính Thiên Chúa đã trao cho quí vị sứ mạng thương yêu, giáo dục, an ủi, cửu thoát và bảo toàn hồn xác con cái từ chiếc nôi lọt lòng cho đến nấm mồ an nghỉ cuối đời và cũng chính quí vị là thiên thần hướng dẫn con cái trên con đường về thiên đàng nữa.
Xin quí vị hãy gắng dạy cho con cái: tình thương mến, thảo kính, cởi mở, dễ dạy với mọi người.... Vì quí vị là Thiên Thần Chúa đã trao trách nhiệm chăm sóc con cái nên con của Thiên Chúa. Cha mẹ là khuôn vàng thước ngọc đưa con cái đi trúng và vững trên đường cứu rỗi.
Hỡi những kẻ làm con, hãy vâng nghe cha mẹ với tình con thảo, hãy để cho lời cha mẹ lọt vào lòng, nghĩa là hãy trở nên một người con ngoan thảo, yêu thương và kính trọng cha mẹ vì các ngài chẳng những lả cha là mẹ mà còn là Thiên Thần của Chúa canh giữ chúng con, chỉ dạy chúng con nên con của Thiên Chúa. Hãy luôn tỏ lòng hiếu thảo, kính yêu các ngài cho xứng vị làm con.
Hôm nay Giáo Hội biệt kính các Thiên Thần hộ thủ. Chúng ta hãy nguyện xin Thiên Chúa cho chúng ta được đầy lòng kính tôn các ngài và xin Chúa ban cho các Thiên thần cha Thiên thần mẹ.... có đầy đủ phẩm cách và đức tính của Thiên thần hộ thủ, để các con cái trọng kính, yêu mến, vâng nghe... và ngày sau cả cha mẹ, con cái được cùng nhau xum họp vui vầy bên toà Chúa.
46. Thánh hoá trong chân lý - Lm. Minh Vận.
Chị Bernadette là người được diễm phúc thấy Đức Mẹ hiện ra nhiều lần lại hang đá Lộ Đức Nước Pháp. Để được ẩn mình ở nơi thanh vắng, chuyên việc chay tịnh cầu nguyện và sống trọn cuộc đời cho Chúa và Đức Mẹ, Chị đã thánh hiến đời mình trong chốn tu viện Dòng Kín ở Nevers. Một ngày Chúa Nhật trong năm 1876, một Chị Nữ Tu đưa cho Bernadette xem bức ảnh người ta đã chụp Chị ở hang đá Lộ Đức trước đây, để xem phản ứng của Chị thế nào.
Đang khi chăm chú nhìn bức ảnh của mình, đột nhiên Chị Dòng Bernadette hỏi:
- Người ta dùng cái chổi để làm gì Chị nhỉ?
- Để quét nhà.
- Quét xong họ để chổi ở đâu vậy Chị?
- Để ở góc nhà, sau cánh cửa, chỗ cư trú thường lệ của nó.
- Đời em cũng thế Chị ạ. Đức Mẹ đã dùng em, rồi để em vào chỗ của em. Em sung sướng lắm, và em muốn ở yên trong chỗ đó mãi.
I. DIỄM PHÚC CỦA TÂM HỒN BÉ THƠ
Phần thứ hai của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, sau khi Chúa đã minh xác lập trường của Chúa với những người biệt phái, về mục đích của Hôn Ước Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu khi tạo dựng con người, người ta đưa các trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để được Chúa chúc phúc, nhưng họ lại bị các môn đệ khiển trách. Thấy thái độ của các môn đệ, Chúa không bằng lòng nên phán bảo các ông: "Hãy để các trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những kẻ giống như chúng". Rồi Chúa còn nhấn mạnh thêm: "Thật, Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào Nước đó". Rồi Chúa âu yếm ôm hôn chúng và chúc lành cho chúng.
Căn cứ vào thái độ thương mến Chúa dành cho các trẻ thơ và lời quả quyết của Chúa: "Nước Thiên Chúa thuộc về những kẻ giống như chúng", cho chúng ta thấy con đường thơ ấu thiêng liêng của Tin Mừng là cần thiết, để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của ơn gọi làm con cái Chúa.
Bài Tin Mừng thứ bảy vừa qua, cũng nhắc lại cái diễm phúc của những tâm hồn bé nhỏ khiêm nhu, mới được Chúa mạc khải mầu nhiệm Nước Trời, cái diễm phúc mà những kẻ kiêu căng tự phụ không bao giờ được nếm hưởng. Hơn nữa, Chúa còn đòi buộc chúng ta phải biến cải và trở nên như con trẻ, như một điều kiện khẩn thiết để được vào Nước Trời: "Nếu không trở nên như con trẻ, các con không được vào Nước Trời" và "Ai không tiếp nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, cũng sẽ không được vào Nước đó". Tại sao? Thánh Giacobê trả lời cho chúng ta: "Chúa ban ơn cho người khiêm hạ, nhưng chống lại kẻ kiêu căng" (Jac 4:6).
II. MẪU GƯƠNG BÉ NHỎ KHIÊM HẠ
Chính Chúa Kitô đã tự trở nên mẫu gương bé nhỏ khiêm hạ cho chúng ta noi theo bắt chước, như một hấp lực lôi cuốn, chinh phục và cảm hóa chúng ta. Nhiều nơi trong Tin Mừng được Chúa nhắc đi nhắc lại sự khẩn thiết này, khi thôi thúc kêu gọi chúng ta noi theo: "Các con hãy học cùng Cha, vì Cha dịu hiền và khiêm hạ trong lòng". Chúa còn tự hạ mình xuống như một người tôi tớ, khi quì xuống rửa chân cho các Tông Đồ tại nhà Tiệc Ly, để như một mẫu gương sống động có sức đè bẹp tâm trí kiêu căng tự phụ, chỉ muốn trồi mình lên trên kẻ khác, chiếm địa vị ưu tiên, đoạt chỗ nhất trong cộng đồng, vì các ngài luôn tranh dành nhau xem ai là người cao trọng hơn... Tấm gương ấy đã làm rung động con tim, khuất phục ý chí và cảm hóa tâm hồn các ngài. Sau khi chiếm được lòng cảm mến sùng mộ, Chúa mới lên tiếng âu yếm nhắn nhủ: "Hỡi các con nhỏ của Thầy, các con gọi Ta là Chúa và là Thầy thì rất phải. Thầy có như vậy thật; vậy nếu Thầy là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng hãy bắt chước mà rửa chân cho nhau". Vậy: "Ai trong các con là Thủ Lãnh thì hãy tự hạ làm tôi tớ mọi người; cũng như chính Thầy đã không đến để được người ta phục vụ, nhưng để trở nên tôi tớ phục vụ mọi người và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người" (Mt 20:28).
Thánh Tông Đồ Phaolô đã đề cao mẫu gương khiêm hạ của Chúa Cứu Thế, khi viết cho các Tín Hữu Giáo Đoàn Do Thái trong bài đọc hai hôm nay: "Anh chị em thân mến, Đấng trong một thời gian bị hạ xuống kém các Thiên Thần là Đức Giêsu Chúa chúng ta" và "Người đã không hổ thẹn gọi chúng ta là anh chị em của Người", mặc dầu chúng ta chỉ là phàm nhân tội lỗi.
III. ĐỂ ĐẠT TỚI ĐÍCH THÁNH THIỆN
Để đạt tới Đích Thánh Thiện của ơn gọi đặc biệt, được Chúa tuyển chọn thánh hiến cuộc đời cho Chúa, chúng ta hãy sống theo con Đường Thơ Ấu của Tin Mừng Chúa đã dạy và nhất là hãy sống theo mẫu gương khiêm hạ Chúa đã thực hiện.
Mặc dầu là Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả, toàn năng, thánh thiện, Chúa đã nhập thể làm người mặc xác phàm nhân như chúng ta, trở nên con thơ bé nhỏ làm con Đức Trinh Nữ Maria, là một thụ tạo chính Ngài tạo dựng. Sống cuộc đời làm con, hằng suy phục Mẹ như một người con ngoan thảo luôn làm hài lòng Mẹ.
Thánh Montfort đã ngây ngất sung sướng kêu lên trước tấm gương khiêm nhu bé nhỏ của Chúa Cứu Thế và cái diễm phúc của các linh hồn bé thơ được Chúa hài lòng: "Ôi linh hồn nào noi theo gương mẫu Chúa Giêsu trong sự thuần phục Mẹ Maria, thì làm vinh danh Chúa đến chừng nào!" (T.T.S.K.M.)
Kết Luận
Trước mẫu gương khiêm hạ vô cùng của Chúa Kitô, chúng ta hãy quyết tâm sống đời bé thơ thiêng liêng của Tin Mừng như Chúa đã dạy:
1. Thâm tín sự hư vô bất lực của mình trong mọi lãnh vực và cố trở nên bé nhỏ, thơ ngây ngoan thảo với các Bề Trên, để các vị đại diện Chúa dễ dàng giáo huấn, dẫn dắt chúng ta trên đường thiêng liêng.
2. Là những vị hữu trách, những nhà Tông Đồ, chúng ta hãy trở nên như người tôi tớ vô dụng phục vụ mọi người, như Chị Thánh Bernadette chỉ tự nhận mình là một cái chổi.
3. Nhất là chúng ta hãy trở nên một Giêsu Bé Thơ người con ngoan thảo của Mẹ, để Mẹ dễ dàng giúp chúng ta trở nên thánh thiện như Giêsu Con Mẹ, vì theo Thánh Phaolô: "Đấng thánh hóa và người được thánh hóa cả hai chỉ có một nguồn gốc". Do đó, trở nên Chúa Giêsu là chính mục đích của đời sống chúng ta vậy.
47. Mầm mống ly dị nơi hai nguyên tổ loài người
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL.)
Có thể nói bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này có liên hệ đến bài Phúc Âm tuần trước về chiều hướng của mình. Bởi vì, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước nói tới vấn đề gương mù gương xấu và việc phải dứt khoát với hành động này để được rỗi bằng cách từ bỏ mình, một hành động dứt khoát được thể hiện một cách biểu hiệu ở chỗ móc mắt, chặt tay chân làm xấu của mình đi. Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này là nạn ly dị, một trong những gương mù gương xấu chẳng những của thời xưa mà nhất là thời đại văn minh nhân bản nhân quyền ngày nay. Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu hôn nhân, như Chúa Giêsu khẳng định, là những gì ngay từ ban đầu đã được Thiên Chúa thiết lập và bởi thế loài người không được phép phân chia, không được quyền tháo gỡ, thì phải chăng, theo nguyên tắc tránh dịp tội của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, thì vợ chồng theo hôn nhân đã trở nên một thân thể (đã coi nhau và gọi nhau là “mình”, là “anh em”, “anh em như thể tay chân”) có thể bỏ nhau, một khi họ nên dịp tội cho nhau, chẳng hạn làm cho nhau đi đến chỗ ngoại tình (vì chồng không để ý chăm sóc chiều chuộng vợ, hay vì vợ không đáp ứng chồng trong việc chăn gối chẳng hạn), nhất là vì vợ chồng lén lút hoặc trắng trợn ngoại tình? Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu đã trả lời dứt khoát với một số người Pharisiêu về vấn đề ly dị là vấn đề do con người mà có, đúng hơn, do lóng trí con người hư hỏng mà ra, còn hôn nhân là do Thiên Chúa, do Đấng Toàn Thiện đã dựng nên họ theo hình ảnh yêu thương của Ngài, ở chỗ Ngài đã dựng nên con người có nam có nữ, để họ tiến đến chỗ hiệp nhất nên một thân thể với nhau, một tình trạng phản ảnh sự sống thần linh hiệp thông Ba Ngôi nơi Ngài.
Thật vậy, mầu nhiệm về con người và ơn gọi của con người là ở chính cốt lõi của hôn nhân. Chính vì ơn gọi phản ảnh “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) mà con người mới được Ngài dựng nên theo giống hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài (x Gen 1:26-27). Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa ở chỗ nào, nếu không phải hữu thể của con người có yếu tố linh thiêng (linh hồn), có tự do, biết ý thức; và con người được dựng nên tương tự như Thiên Chúa ở chỗ nào, nếu không phải ở ngôi vị của con người biết yêu thương, trao tặng và hiệp thông. Đó là lý do, sau khi tạo dựng nên mọi sự trên trời dưới đất, như tất cả đoạn thứ nhất của Sách Khởi Nguyên cho thấy, Thiên Chúa, cũng Sách Khởi Nguyên thuật lại ở trọn đoạn thứ hai, còn làm một việc nữa cho riêng con người, loài được Ngài dựng nên sau hết, đó là hình thành cơ cấu hôn nhân nơi họ, một cơ cấu xã hội căn bản đầu tiên của loài người, một cơ cấu hiệp thông, yêu thương và sự sống. Và đó cũng là lý do bao lâu con người sống mầu nhiệm “hôn nhân” là yêu thương và sống ơn gọi “hôn nhân” là hiệp thông này, họ mới sống trong sự thật, vì họ sống đúng như ý muốn của Thiên Chúa, và họ mới hoàn toàn hạnh phúc, vì họ sống sự sống thần linh vô cùng toàn hảo và viên mãn của Thiên Chúa. Trái lại, bao lâu con người sống ngược với mầu nhiệm “hôn nhân” và ơn gọi “hôn nhân” này, tức tìm kiếm những gì ngoài ý định vô cùng khôn ngoan tốt lành của Thiên Chúa, bấy lâu con người còn sống trong bất hạnh và đầy những bất an.
Không phải hay sao, ngay từ ban đầu, nếu con người cương quyết sống theo những gì Thiên Chúa ấn định như lương tâm của họ ý thức được (x Gen 3:2-3) thì họ đâu đến nỗi đi đến chỗ “ly dị” trong tinh thần, một yếu tố nẩy sinh trong giòng dõi loài người như một thứ men làm cho họ càng ngày càng ly dị như thời đại văn minh tuyệt đỉnh về nhân bản ngày nay cho thấy? Cặp vợ chồng đầu tiên của loài người này đã không âm thầm “ly dị” nhau về tinh thần là gì, ở chỗ, ngay sau khi ăn trái cấm, mỗi người tự động đi tìm nơi trú ẩn và lấy lá vả che đậy chỗ kín của mình đi: họ không còn là một thân thể như trước nữa, họ đã ra khỏi tình trạng ngây thơ vô tội như trẻ nhỏ “trần truồng không biết xấu hổ” (Gen 2:25). Thậm chí họ đã đi đến chỗ chính thức “ly dị” nhau trước nhan Chúa, khi người nam không chấp nhận bản thân mình là nữ nguyên tổ Evà, người ông đã tuyên nhận là xương thịt của ông và là người Chúa cho ở với ông, qua việc ông phũ phàng và bất công đổ lỗi cho người nữ (x Gen 3:12), một lỗi lầm mà chính ông đáng lẽ phải đứng ra nhận lỗi, vì ông chẳng những đã không can ngăn vợ mà còn vào hùa với vợ để làm nữa. Nếu con người nam nguyên tổ Adong này yêu thương vợ trong chân lý, tức yêu thương theo ý Chúa, ở chỗ mạnh mẽ lên tiếng ngăn cản vợ về hành động hái trái cấm mà ăn của nàng, thì tình yêu của ông đã phản ảnh tình yêu vô cùng trọn hảo của Thiên Chúa rồi, và con cái miêu duệ của ông đâu phải mang mầm mống “ly dị” từ ông cho đến tận thế. Như thế, một cách nào đó, nguyên tội được phát xuất từ hôn nhân, từ tình yêu hôn nhân, từ thứ tình yêu sai trái nơi hôn nhân. Quả thực ly dị phát xuất từ con người, từ lòng trí hư hỏng của con người là như thế.
Tới đây một vấn đề nữa xuất hiện, đó là vấn đề “(nguyên) tội bởi đâu mà có?”, bởi vì ngay từ ban đầu con người nguyên tổ hoàn toàn tốt lành, lòng trí chưa hề bị hư hại tí nào, thì làm sao con người có thể đi tới chỗ “ly dị”, tới chỗ phân ly những gì Thiên Chúa đã phối hợp, đã liên kết. Đúng thế, ngay từ ban đầu, con người nguyên tổ được Thiên Chúa dựng nên hoàn toàn tốt lành, không bị hư hại tí nào, không có mầm mống tội lỗi trong mình như miêu duệ của các vị, không có đam mê nhục dục, không có tính mê nết xấu. Tuy nhiên, không phải vì thế mà con người không thể phạm tội. Con khổng long và một phần ba tinh tú trên trời bị mất chỗ của mình trên trời đâu có xác thịt, có mầm mống tội lỗi, thế mà vẫn có thể phạm tội, vẫn có thể làm mất lòng Thiên Chúa cơ mà (x Rev 12:1-9). Đệ nhất tạo vật về ân sủng, dù được ơn vô nhiễm nguyên tội ngay từ lúc được hoài thai trong lòng thai mẫu, chẳng lẽ lại không phạm tội được hay sao, khi Người khăng khăng từ chối không chịu “xin vâng” (Lk 1:38) làm theo ý muốn tối cao của Thiên Chúa được tỏ ra cho Người qua sứ thần Gabiên trong giây phút truyền tin? Bởi thế, trường hợp phạm tội của hai nguyên tổ, tội đầu tiên trong lịch sử loài người, tội phá giới, tội vượt biên, tội phân ly nhưnõng gì Thiên Chúa đã kết hợp, không phải là do lòng trí hư hỏng của con người, mà là do ý thức chọn lựa của con người. Thế nhưng, ngay từ ban đầu, nếu con người còn ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, lòng trí của họ còn hoàn toàn ngay thẳng, thì phải chăng việc họ làm, dù trái với ý muốn của Thiên Chúa, có xấu xa tội lỗi trước nhan Ngài, cũng chỉ là những hành động lầm lạc đáng thương?
Sở dĩ con người lầm lạc đáng thương là vì trình độ của con người hữu hạn chỉ tới đó. Nếu con người có Thần Trí của Thiên Chúa, chắc hẳn họ đã thấu hiểu được tất cả mọi sự như Ngài (x 1Cor 2:10) và đã không làm những gì trái ý Ngài. Thế nhưng, dù Thiên Chúa có muốn thông ban cho con người tất cả Thần Trí của Ngài ngay từ ban đầu đi nữa, con người tạo vật hữu hạn bấy giờ tự bản chất cũng không thể nào lãnh nhận được. Phải chăng đó là lý do “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) để qua Ngôi Vị nhân thần là Con Người Giêsu Kitô này, loài người “sinh bởi xác thịt là xác thịt” (Jn 3:6) có thể được “rửa trong Thánh Thần” (Jn 1:34), được “tái sinh bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5), “được sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10), một sự sống như Con Người Giêsu Kitô đã sống “đẹp lòng Cha mọi đàng” (Mt 3:17, 17:3). Thật ra, làm việc gì ngoại tại, “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) đều tỏ mình là Lời ra và ban mình là Thần Linh của Ngài cho đối tượng của Ngài. Thiên Chúa đã bắt đầu ban Thần Trí của Ngài cho con người khi Ngài tỏ mình ra cho họ, khi Ngài bắt đầu tỏ cho họ biết giới hạn của họ giữa biên giới sự sống và sự chết, giữa cây biết lành biết dữ và cây sự sống. Trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái, Ngài vẫn tiếp tục tỏ mình ra, vẫn tiếp tục ban Thần Trí của Ngài cho con người, và mức độ dồi dào Thần Trí nhất là lúc Con Ngài Nhập Thể, Vượt Qua và sai Thánh Thần từ Cha xuống trên Giáo Hội. Thế nhưng, chỉ có thành phần sống bé mọn (x Mt 11:25; Lk 10:21), biết đáp lại Mạc Khải Thần Linh như Mẹ Maria đầy tin tưởng mới được tràn đầy Thần Trí của Thiên Chúa mà thôi!
Đó là lý do chúng ta thấy Chúa Giêsu, một lần nữa, đã dùng đến trẻ nhỏ, như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho thấy, để giải quyết vấn đề phức tạp của đời sống hôn nhân, điển hình là vấn đề gương mù ly dị nơi hôn nhân. Không phải hay sao, vì hai nguyên tổ không còn sống như những trẻ nhỏ, không còn sống ngây thơ vô tội, không còn hoàn toàn tin tưởng vào Đấng Tối Cao vô cùng Toàn Tri, Toàn Thiện, Toàn Năng, trái lại muốn trở thành người lớn, đầy lý sự và ham hố, nên đã đi đến chỗ “ly dị” nhau, không còn là một thân thể mà là hai (một tình trạng được biểu hiệu qua hành động hai vị nguyên tổ tìm cách che bịt cái của quí private part của mình đi)? Thật ra, thực tế cho thấy, không thể nào vợ chồng lại có thể trở nên một thân thể. Việc vợ chồng chỉ là một tác động biểu hiệu cho việc nên một thân thể này mà thôi. Thế nhưng, tình trạng ly dị vẫn có thể làm cho vợ chồng chấm dứt việc vợ chồng với nhau, không còn là một thân thể nữa. Như thế, vấn đề nên một thân thể đây không phải là vấn đề về sinh lý hay thể lý cho bằng về tâm lý và tinh thần. Đúng vậy, nếu vợ chồng không được phân ly những gì Thiên Chúa đã phối hợp, thì vấn đề vợ chồng nên một thân thể là một vấn đề bất khả phân ly, vấn đề trọn đời, chứ không phải vấn đề trò chơi tình ái, vấn đề pro choice của con người. Nếu vợ chồng biết chấp nhận nhau như là người Chúa cho ở với mình, (như bài đọc một cho thấy), biết ý thức nguyên tắc không phải họ chọn mà là được chọn (x Jn 15:16), thì không bao giờ họ sẽ đi đến chỗ ly dị, bằng không, họ sẽ là kẻ ly dị Chúa trước, phủ nhận những gì Chúa ban cho mình, gửi đến cho mình, và không bao giờ họ sẽ tìm thấy ý nghĩa đích thực và hạnh phúc hôn nhân trọn vẹn.
Nếu con người không sống nguyên bởi bánh, mà còn bởi lời Chúa (x Mt 4:4), thì vấn đề vợ chồng nên một thân thể như ý định của Thiên Chúa về hôn nhân ngay từ ban đầu này cũng thế, ở chỗ, Thiên Chúa không chỉ có ý dựng nên con người có nam có nữ để họ làm việc vợ chồng hầu sinh con đẻ cái như loài thú thuần huyết nhục thế thôi, mà là để họ biểu hiện một mầu nhiệm sâu xa hơn nữa, đó là mầu nhiệm Chúa Kitô với Giáo Hội của Người (x Eph 5:32), một mầu nhiệm chỉ khi nào vợ chồng nỗ lực sống theo họ mới có hạnh phúc và hoàn trọn ơn gọi hôn nhân của họ thôi. Chúa Kitô và Giáo Hội của Người không bao giờ ly dị nhau. Cho dù Giáo Hội, qua yếu đuối của loài người, của thành phần đại diện Người thừa kế Thánh Phêrô và thừa kế các vị tông đồ, có những lúc phản bội tinh thần của Người, như dân Do Thái phản bội giao ước của Thiên Chúa cha ông họ song Thiên Chúa vẫn ở với họ, vẫn trung thành với giao ước của Ngài, vẫn thực hiện lời Ngài tự đoan hứa với họ thế nào, Chúa Kitô vẫn ở cùng Giáo Hội luôn mãi cho đến tận thế như vậy (x Mt 28:20). Đầu và thân thể không thể nào phân ly nhau thế nào, Chúa Kitô và Giáo Hội làm nên một Nhiệm Thể cũng không thể phân lìa nhau như thế. Chồng thực sự là đầu của vợ, như Chúa Kitô là đầu của Giáo Hội, và vợ là thân thể của chồng, như Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô. Vì là đầu của vợ, chồng phải yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội; và vì là thân mình của chồng, vợ phải vâng lời chồng trong mọi sự như Giáo Hội vâng lời Chúa Kitô như thế (x Eph 5:22-30).
Hình ảnh một thân thể có đầu và thân này, như bài đọc một cho thấy, đã được biểu lộ qua tác động nhận biết (thuộc đầu óc) của Adong đối với thân thể của mình là Evà, một ngôi vị được làm nên bởi thân thể của ông và phát xuất từ cạnh sườn thân thể của ông. (Chồng là đầu và vợ là thân còn được thể hiện nơi tâm lý trai cua gái, gái theo trai, và nam có ý nghĩ thèm thuồng thân thể nữ như ở Phúc Âm Thánh Mathêu 5:28 cho thấy). Nếu chồng luôn nhận biết vợ, tức yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội đến cùng (x Jn 13:1), và nếu vợ luôn gắn bó với chồng, ở chỗ nghe lời chồng, đáp lại tình yêu của chồng, thì không bao giờ có chuyện ly dị xẩy ra trong đời sống hôn nhân. Tuy nhiên, vì mầm mống nguyên tội, mầm mống con người ngay từ ban đầu tách mình lìa xa Thiên Chúa nên không thể bền bỉ với nhau, vẫn còn tồn tại nơi con người nói chung và con người nam nữ vợ chồng nói riêng, mà cho dù họ có yêu nhau đắm đuối mấy đi nữa, họ vẫn cần phải có ơn Chúa đặc biệt, có Thần Linh, mới có thể trung thành với nhau, mới có thể hoàn toàn phản ảnh mầu nhiệm Nhiệm Thể Giáo Hội!
Tóm lại, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu xác định rõ dự án của Thiên Chúa và đường lối của con người. Dự án của Thiên Chúa bao giờ cũng là muốn con người hiệp nhất nên một; còn đường lối của con người thường hướng chiều về tình trạng chia rẽ ly dị. Tuy trong bài Phúc Âm Chúa Giêsu không xác định rõ hai vợ chồng phải sống trọn đời với nhau, nhưng nếu hai vợ chồng phải nên một thân thể với nhau mới là vợ chồng theo dự án của Thiên Chúa thì có nghĩa là họ phải sống trọn đời với nhau. Thật vậy, nếu không ai lại phủ nhận thân thể của mình (x Eph 5:28-29), và không ai mất đầu mà còn sống thế nào, chồng cũng không thể thiếu vợ, không thể phủ nhận vợ là thân thể của mình, và vợ cũng không thể thiếu chồng, không thể tách rời chồng là đầu của mình như vậy. Chính vì con người cứng lòng, sống theo ý riêng của mình, chứ không sống theo dự án của Thiên Chúa về hôn nhân ngay từ ban đầu như thế mà xã hội loài người càng ngày càng trở nên băng hoại như thực tế hiện nay cho thấy. Đó là lý do, để cứu vãn tình thế, để sống hợp với dự án của Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, cách riêng trong đời sống hôn nhân, Chúa Giêsu kêu gọi con người hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ, tình trạng con người nguyên sơ còn đang ngây thơ vô tội chỉ biết tin tưởng vào Chúa và làm theo ý Chúa mà thôi.
48. Hãy gìn giữ hạnh phúc - Lm. Vũ Xuân Hạnh.
Có lần đọc trên báo một tâm sự của một cô gái trẻ viết về nỗi đau của gia đình mình. Ngày ấy cô còn bé lắm. Một buổi sáng, còn đang ngon giấc trên giường, bỗng cô nghe bàn tay thô ráp của cha mình gọi dậy. Cha bắt hai chị em cô thay quần áo để cùng cha mẹ ra tòa ly dị. Hiểu được đây là một rủi ro, cô ôm đứa em trai của mình chui vào một góc nhà ngồi khóc tấm tức, cho đến khi cha cô bế xốc hai chị em cô ra xe và chở đi. Còn mẹ đạp xe theo sau mà dòng nước mắt chảy quanh. Trên đường ra tòa, hai ông bà không nói với nhau nửa lời. Cô cũng không thể nhớ trước tòa, cha mẹ cô đã nói với nhau điều gì, nhưng hình như có lúc hai người rất to tiếng với nhau. Chỉ biết sau phiên tòa, cô theo mẹ, còn em trai của cô thì theo cha. Căn nhà, nơi mà chị em cô đã từng được hưởng những ngày hạnh phúc, người khác đã mua. Thế rồi chị em cô cũng lớn lên. Ngày cô lên xe hoa, không có sự hiện diện của cha cô. Ngày hạnh phúc nhất của đời người con gái, cũng lại là ngày cô tủi thân nhất. Suốt tuổi nhỏ, cô đã không có cha ở bên cạnh yêu thương, dạy dỗ, chăm sóc, đã là một mất mát. Bây giờ lên xe hoa theo chồng, không có mặt cha, cô càng hụt hẫng. Dường như tình cha trong cô không còn chút nào nữa. Em trai của cô bây giờ đang ở tuổi thanh niên. Rồi đây, nó cũng sẽ lập gia đình. Cô tin rằng, ngày đám cưới của em không đầy nước mắt như ngày đám cưới của cô. Cô tha thiết ước mong, cha mẹ cô cố nén giận, cố nén tự ái để mà tham dự đầy đủ, để em cô được vui và không mặc cảm bị bỏ rơi như chính cô.
Đọc những lời trên đây của cô gái trẻ, tôi có cảm giác, cô không chỉ viết cho cha mẹ mình, mà hình như viết cho những ai đang làm cha, làm mẹ, và tất cả những người sẽ sống đời sống gia đình, sẽ làm cha, làm mẹ, để họ hiểu rằng, hạnh phúc gia đình là do chính vợ chồng tạo ra, nhưng hạnh phúc gia đình mất thì không chỉ gây bất hạnh cho chính vợ chồng, mà còn gây đau khổ cho những người liên hệ, cụ thể là những đứa con mà vợ chồng sanh ra nó. Bởi những đứa con thay vì có đủ cha mẹ, lại trở thành những đứa trẻ mồ côi. Thú thật, không có gì bi đát cho bằng mồ côi cha mẹ trong khi cha mẹ còn sống. nếu mồ côi thật sự, đứa bé có thể chấp nhận được, vì nó biết rõ, cha mẹ nó đã chết. Nhưng đàng này, cha mẹ nó còn sống mà nó phải thiếu cha hoặc thiếu mẹ.
Nhưng không phải tự dưng mà tôi nói đến gia đình, nói đến bất hạnh của việc vợ chồng bỏ nhau. Đúng hơn, do chính Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta. Bài đọc I, trích sách Sáng Thế diễn tả lời vui mừng của Ađam khi lần đầu tiên thấy Evà: “Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi”. Ngay từ khởi đầu của nhân loại, Ađam, Evà đã ý thức được sự cao cả của tình yêu vợ chồng. “Xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” nghĩa là gì? Nghĩa là vợ chồng phải gắn bó với nhau như xương với thịt, đúng hơn: như xương trong thịt và thịt gắn chặt vào xương. Bởi thế, không thể tách xương ra khỏi thịt, hoặc tách thịt ra khỏi xương mà không gây đau đớn, không gây tê tái cho nhau.
Còn trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nhắc ta về sự chung thủy của vợ chồng một cách dứt khoát hơn, nhấn mạnh hơn: “Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly”. Rõ ràng, trong lời dạy này, Chúa nhấn mạnh, hôn nhân là do Thiên Chúa muốn. “Thiên Chúa liên kết” kia mà! Do đó, nếu ai manh tâm phản bội vợ hay chồng của mình, phản bội hạnh phúc gia đình mà chính mình tạo ra, người đó cũng bắt đầu động chạm đến Thiên Chúa, vì đã cố tình đi ngược ý Thiên Chúa muốn. Nói cách khác, khi xúc phạm đến hôn nhân, không đơn thuần chỉ là xúc phạm đến những người có liên quan, mà còn xúc phạm đến chính Thiên Chúa, Đấng đã tạo ra, chúc lành cho hôn nhân và làm cho hôn nhân trở nên tốt đẹp.
Ước mong các gia đình luôn luôn là mái ấm của tình yêu thương. Đặc biệt, gia đình Công giáo hãy là những mái ấm thật sự, nơi mà mọi người trong đó đều cảm thấy được yêu thương, vỗ về và cảm nhận hạnh phúc mà ngoài mái ấm gia đình ra, mình không thể tìm ở bất cứ nơi đâu. Những gia đình Công giáo phải là những gia đình đùm bộc nhau, để không còn cảnh ngay cả nhìn mặt nhau cũng không có, không còn cảnh vợ chồng bỏ nhau, không còn cảnh có những đứa con ôm nhau mà khóc vì cha mẹ chúng bất hòa, không còn cảnh những đứa con phải mồ côi cha mẹ trong khi cha mẹ còn sống, hay thiếu vắng cha mẹ trong ngày vui của những đứa con mà lẽ ra cả hai đều phải hiện diện, nhưng chỉ vì tự ái mà điều ấy đã không xảy ra.
Trên hết tất cả, chúng ta hãy để cho Lời Chúa thẩm thấu vào tâm hồn mình, để Lời Người dạy thực sự là lời thúc bách ta trong từng ngày sống của mình: sống làm sao đúng với mục đích của hôn nhân: Sinh con và giúp đỡ lẫn nhau. Ta hãy nhớ rằng: “Sự gì Thiên Cha đã liên kết, loài người không được phân ly”, để gia đình mãi mãi là gia đình hạnh phúc, và mọi người trong gia đình mãi mãi hưởng bình an.
49. Chung thủy
(Suy niệm của Br. Thiện Mỹ, CRM.)
LỜI CHÚA:
Bài đọc1: St.2,18-24: Cả hai nên một thân thể.
Bài đọc 2: Dt.2,9-11: Đấng thánh hóa và những người được thánh hoá, tất cả đều do một nguồn gốc.
Phúc âm: Mc.10,2-16: Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ.
SUY NIỆM:
Một quan nước Lỗ là Thu Hồ Tử cưới vợ được năm ngày, vua đã ra lệnh đi công tác ở nước Tần. Năm năm sau ông được phép về thăm mẹ và vợ. Khi về gần đến nhà, ông thấy một thiếu nữ xinh đẹp đang hái dâu bên đường. Ông giở trò ong bướm:
- Này em, hái dâu cực nhọc sao bằng có người chồng làm quan. Anh là quan có nhiều vàng bạc. Nếu chịu lấy anh, em không phải vất vả nữa.
Người thiếu nữ vẫn thinh lặng, nhìn ông cách khinh bỉ.
Về đến nhà, ông chào mẹ. Nhưng khi vừa thấy vợ, ông choáng váng, vì đó chính là người thiếu nữ hái dâu lúc nãy.
Câu chuyện trên đây nói về Lời Chúa Giêsu dậy trong Tin Mừng hôm nay. Vợ chồng phải chung thuỷ với nhau trọn đời, phải giữ luật đơn hôn (một vợ một chồng) và vĩnh hôn của Thiên Chúa, vì “lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ: vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn phải là hai, nhưng là một xương thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly” (Mc.10,69).
Ngày xưa trong Do Thái giáo, sự trinh khiết vẫn được xem như đức hạnh quan trọng nhất của mọi đức hạnh: “Chúng tôi nhận thấy rằng Thiên Chúa nhịn nhục đối với mọi tội, trừ tội không gìn giữ trinh khiết. Việc không giữ tiết hạnh khiến vinh quang của Thiên Chúa bỏ đi. Mọi người Do Thái thà chết chứ không chịu phạm tội thờ hình tượng, giết người hoặc tà dâm; khi có ai ly dị vợ thuở thanh xuân của mình, thì cả đến bàn thờ cũng rơi nước mắt”.
Nhưng “lý tưởng đẹp hơn thực tại”, đời sống thực tế đã hụt hẫng quá xa! Điểm xáo trộn ở đây là phụ nữ bị xem như một đồ vật. Phụ nữ không có quyền lợi pháp định, hoàn toàn bị đặt dưới quyền xử dụng của người đàn ông làm chủ gia đình. Hậu quả là người đàn ông có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì, trong khi hầu như có rất ít lý do để người phụ nữ được phép ly dị. Người đàn ông có thể tự ý ly dị vợ, dù cho người vợ có thuận ý hay không. Còn người phụ nữ được quyền xin ly dị chồng là khi người chồng mắc bệnh phong cùi hoặc khi người xâm phạm đến tiết hạnh một trinh nữ.
Ở đây chúng ta không thấy có sự bình đẳng giữa người nam và người nữ. Trong khi đó cả nam lẫn nữ đều là phàm nhân hay thay đổi đổi thay, chẳng hạn đối với nàng:
Ngày trước nàng dạ nàng thưa,
Nói năng dịu ngọt cho vừa lòng anh!
Anh tưởng hoa nở trên cành,
Bao giờ cũng đẹp, tươi xanh bốn mùa!
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Nên anh ngọt lại cho vừa lòng nhau.
Bây giờ chẳng hiểu gì đâu,
Nàng mang chứng bệnh cứng đầu lặng câm!
Mặt mày thì cứ hằm hằm,
Nàng trợn một cái, ta bầm mấy hôm v.v.
Trong khi đau xót tiêu cực đối với người vợ, người đàn ông cũng không thiếu những đam mê oái oăm làm xé nát con tim nồng nàn:
Bồ là phở nóng tuyệt vời,
Vợ là cơm nguội đáy nồi hẩm hiu.
Bồ là nơi tỏ lời yêu,
Vợ là nơi trút bao nhiêu bực mình.
Bồ là rượu ngọt trong bình,
Vợ là nước ở ao đình nhạt pheo.
Nhìn bồ đôi mắt trong veo,
Trông vợ đôi mắt nhăn nheo gườm gườm.
Bồ tiêu thì chẳng tiếc tiền,
Vợ tiêu một cắc thì liền kêu hoang v.v.
Thêm vào những sự đó là những vấn đề trung lập sẽ đi vào yếu tố tâm lý “yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Thậm chí cả những vấn đề tốt lành trước kia nay cũng trở nên xấu nốt. Đối với nàng trước kia anh là Hoàng tử , bây giờ anh chỉ còn là thằng hề. Đối với chàng trước kia em là Nàng tiên giáng trần, bây giờ en chỉ còn là mớ giẻ rách v.v.
Với luật Môisen cho phép và với tình thế khó khăn trong sự trung tín, mà trung tín là nhân đức quan trọng, nên những người biệt phái đến hỏi thử Chúa Giêsu để tìm mọi cơ hội bắt bẻ Chúa. Họ hỏi để gài bẫy Chúa về ly dị:
Nếu trả lời không được phép ly dị thì Chúa Giêsu sẽ bị kết án là người đi ngược với luật Môisen, vì Môisen cho phép người ta ly dị khi người vợ làm điều ô nhục, họ viết tờ ly hôn cùng với hai người làm chứng để ly dị vợ mình. Đồng thời trả lời như thế lại xúc phạm đến vua Hêrôđê, vì ông đã ly dị vợ mình chính để cưới lấy Hêrôđia vợ của anh mình.
Nếu trả lời được phép ly dị thì Chúa Giêsu sẽ bị gán cho là người tự do, phóng khoáng, lãng mạn. Bất cứ lý do gì cũng là cớ ô nhục để ly dị, như vậy là phá vỡ chương trình ban đầu của Thiên Chúa.
Cuối cùng Chúa đã làm sáng tỏ vấn đề bằng những lời rất khôn ngoan: “Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môisen đã viết ra điều đó”. Nhưng trong lúc khởi đầu cuộc sáng tạo là một nam một nữ (St.1,27): “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ”.
Như vậy một khi đã kết hôn, chúng ta không những phải tìm mọi cách để giữ lòng chung thuỷ trong tình yêu, mà còn phải làm thế nào cho tình yêu luôn tươi thắm như thuở ban đầu và phát huy càng ngày càng gia tăng: “Hôm nay hơn hôm qua và kém ngày mai”. Hãy quảng đại bỏ qua những khó chịu và làm nổi bật giá trị đạo đức của nhau. Tính nết sẽ làm ngọt ngào con tim hơn là nhan sắc. Gia sản Nước Trời mới là kho tàng chính yếu lớn lao của gia đình. Phiêu lưu mộng mơ quang cảnh Thiên Đàng hơn là những cuộc du lịch vòng quanh thế giới. Hai người cùng nhìn về quê trời hơn là chỉ nhìn nhau hoặc là nhìn về những thú vui tạm bợ ở trần gian. Được như thế gia đình mới có đức có hậu trong mối tình chung thuỷ và hấp dẫn nhau cả về phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên.
50. Suy niệm của Chiara Lubich.
"Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng"
Cung cách hành xử và nói năng của Đức Giêsu luôn làm ta bỡ ngỡ. Chẳng hạn như cách thức Người đối xử với trẻ em. Vào thời của Người, trẻ em bị coi rẻ trong xã hội và chúng chẳng có vị trí gì trong thế giới "người lớn". Các tông đồ không muốn chúng đến vây quanh Người: chúng chỉ có quấy rầy mà thôi. Ngay cả các thượng tế và kinh sư cũng đâm ra "tức tối" khi thấy lũ trẻ reo hò trong đền thờ "Hoan hô Con Vua Đa-vít". Họ yêu cầu Đức Giêsu hãy quở mắng chúng (xem Mt 21,15-16). Thay vì thế, Đức Giêsu có một thái độ đối với trẻ em hoàn toàn khác hẳn: Người gọi các trẻ em đến; Người ôm lấy chúng, đặt tay chúc lành cho chúng; và Người còn đưa chúng ra làm gương mẫu cho các môn đệ của mình:
"…vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng"
Tại một đoạn khác trong Phúc Âm, Đức Giêsu dạy rằng "nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời" (Mt 18,3).
Tại sao Nước Thiên Chúa thuộc về những người giống như các trẻ em? Vì trẻ em tin tưởng, phó thác nơi cha mẹ của mình; chúng tin vào tình thương của cha mẹ. Khi ở trong vòng tay của cha mẹ, chúng cảm thấy an toàn, không sợ hãi. Và khi thấy hiểm nguy, chúng lại càng ôm ghì lấy cha mẹ và ngay lập tức chúng cảm thấy mình được che chở. Đôi khi, ta đã từng thấy có những người cha, người mẹ đặt đứa trẻ lên cao chẳng hạn, rồi bảo con hãy nhảy. Và đứa trẻ đã thực hiện cú nhảy trong sự phó thác hoàn toàn.
Đức Giêsu muốn các môn đệ của Nước Trời cũng giống thế. Kitô hữu đích thực, như các trẻ em, tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa. Họ lao vào đôi tay của Cha trên trời, và họ tín thác Người vô điều kiện. Không có gì làm cho họ phải sợ hãi nữa bởi vì họ không bao giờ cảm thấy cô đơn. Cả khi thử thách xảy đến, họ tin vào tình yêu của Thiên Chúa, vì họ tin rằng mọi sự xảy ra đều vì lợi ích của họ. Có điều gì phải lo lắng sao? Họ liền phó mình trong tay Thiên Chúa, để rồi với lòng tin tưởng như trẻ thơ, họ tin rằng Người sẽ giải quyết mọi sự. Như một đứa trẻ, họ phó thác hoàn toàn, không so đo, tính toán thiệt hơn.
"…vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng"
Trẻ em phụ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ về thực phẩm, áo quần, nhà cửa, sự chăm sóc, giáo dục v.v. Chúng ta, "những trẻ em của Phúc Âm", cũng phụ thuộc hoàn toàn vào Chúa Cha. Người nuôi ta như Người nuôi chim trời. Người mặc cho ta như Người mặc cho những bông huệ ngoài đồng. Người biết điều ta cần trước khi ta mở miệng cầu xin (xem Mt 6,26), và Người ban điều ấy cho ta. Ngay cả Nước Trời cũng không phải là cái mà ta chiếm đoạt được; ta lĩnh nhận như một món quà từ bàn tay Thiên Chúa.
Ngoài ra, trẻ em không làm điều xấu vì chúng không biết xấu là gì. Người môn đệ của Phúc Âm xa lánh sự dữ bằng cách yêu thương. Nhờ vậy, họ giữ mình trong sạch và lấy lại được sự hồn nhiên.
Không bị gánh nặng kinh nghiệm chất lên người, các trẻ em đối diện với đời trong thái độ tin yêu, luôn đi tìm những cuộc phiêu lưu mới. "Các trẻ em của Phúc Âm" tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa và để lại quá khứ sau lưng, họ bắt đầu một cuộc sống mới mỗi ngày bằng cách bỏ ngỏ cho những tác động luôn mang tính sáng tạo của Chúa Thánh Thần.
Trẻ em không tự mình học nói được; chúng cần có người dạy. Người môn đệ của Đức Giêsu cũng không theo lối lý luận riêng của mình; họ học tất cả từ nơi Lời Chúa, bao gồm việc nói năng và sống theo Phúc Âm.
Trẻ em có khuynh hướng bắt chước cha mình. Nếu ta hỏi chúng khi lớn lên chúng sẽ làm gì, thì chúng thường trả lời là sẽ theo nghề của cha mẹ. "Các trẻ em của Phúc Âm" cũng vậy. Họ noi gương Cha trên trời, Đấng là Tình Yêu, và họ yêu thương như Người yêu thương. Họ yêu mọi người vì Chúa Cha cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính (xem Mt 5,45). Họ yêu thương trước, bởi vì đang lúc ta còn là tội nhân thì Đức Kitô đã yêu thương ta (xem Rm 5,8). Họ mến yêu không vụ lợi vì Cha trên trời làm như thế.
Vì thế Đức Giêsu thích được các trẻ em vây quanh và Người đặt chúng làm gương mẫu:
"Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng"
Thực vậy, trẻ em không ngừng làm ta kinh ngạc. Betty, một bé gái sáu tuổi ở Milan, đã viết cho tôi: "Hôm qua ba cháu bảo cháu đi xuống hầm để lấy đồ. Cái cầu thang tối thui làm cháu sợ. Lúc đó cháu cầu nguyện với Chúa Giêsu và cảm thấy Người ở gần bên".
Irene, Hillary và Laura, ba chị em ở Firenze, được mẹ chở đi mua sắm. Khi đi ngang qua trước nhà ông ngoại, chúng xin mẹ cho chúng được ghé thăm ông. Người mẹ bảo: "Các con đi đi, mẹ đợi ở đây". Khi quay lại, chúng hỏi: "Tại sao mẹ không thăm ông ngoại?" Người mẹ trả lời: "Ông ngoại làm mẹ buồn. Như thế này để ngoại biết ngoại đã làm gì".
Hillary trả lời: "Nhưng mẹ ơi, ta phải yêu mọi người, kể cả kẻ thù nữa". Người mẹ không còn biết phải nói gì. Bà nhìn chúng và mỉm cười: "Con có lý. Các con chờ mẹ ở đây". Và bà đi một mình lên chào ông ngoại.
Ta có thể học nơi trẻ em cách thức đón nhận Nước Thiên Chúa.
51. Mầm mống ly dị nơi hai nguyên tổ loài người
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Có thể nói bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này có liên hệ đến bài Phúc Âm tuần trước về chiều hướng của mình. Bởi vì, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước nói tới vấn đề gương mù gương xấu và việc phải dứt khoát với hành động này để được rỗi bằng cách từ bỏ mình, một hành động dứt khoát được thể hiện một cách biểu hiệu ở chỗ móc mắt, chặt tay chân làm xấu của mình đi. Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này là nạn ly dị, một trong những gương mù gương xấu chẳng những của thời xưa mà nhất là thời đại văn minh nhân bản nhân quyền ngày nay. Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu hôn nhân, như Chúa Giêsu khẳng định, là những gì ngay từ ban đầu đã được Thiên Chúa thiết lập và bởi thế loài người không được phép phân chia, không được quyền tháo gỡ, thì phải chăng, theo nguyên tắc tránh dịp tội của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, thì vợ chồng theo hôn nhân đã trở nên một thân thể (đã coi nhau và gọi nhau là “mình”, là “anh em”, “anh em như thể tay chân”) có thể bỏ nhau, một khi họ nên dịp tội cho nhau, chẳng hạn làm cho nhau đi đến chỗ ngoại tình (vì chồng không để ý chăm sóc chiều chuộng vợ, hay vì vợ không đáp ứng chồng trong việc chăn gối chẳng hạn), nhất là vì vợ chồng lén lút hoặc trắng trợn ngoại tình? Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu đã trả lời dứt khoát với một số người Pharisiêu về vấn đề ly dị là vấn đề do con người mà có, đúng hơn, do lóng trí con người hư hỏng mà ra, còn hôn nhân là do Thiên Chúa, do Đấng Toàn Thiện đã dựng nên họ theo hình ảnh yêu thương của Ngài, ở chỗ Ngài đã dựng nên con người có nam có nữ, để họ tiến đến chỗ hiệp nhất nên một thân thể với nhau, một tình trạng phản ảnh sự sống thần linh hiệp thông Ba Ngôi nơi Ngài.
Thật vậy, mầu nhiệm về con người và ơn gọi của con người là ở chính cốt lõi của hôn nhân. Chính vì ơn gọi phản ảnh “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) mà con người mới được Ngài dựng nên theo giống hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài (x Gen 1:26-27). Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa ở chỗ nào, nếu không phải hữu thể của con người có yếu tố linh thiêng (linh hồn), có tự do, biết ý thức; và con người được dựng nên tương tự như Thiên Chúa ở chỗ nào, nếu không phải ở ngôi vị của con người biết yêu thương, trao tặng và hiệp thông. Đó là lý do, sau khi tạo dựng nên mọi sự trên trời dưới đất, như tất cả đoạn thứ nhất của Sách Khởi Nguyên cho thấy, Thiên Chúa, cũng Sách Khởi Nguyên thuật lại ở trọn đoạn thứ hai, còn làm một việc nữa cho riêng con người, loài được Ngài dựng nên sau hết, đó là hình thành cơ cấu hôn nhân nơi họ, một cơ cấu xã hội căn bản đầu tiên của loài người, một cơ cấu hiệp thông, yêu thương và sự sống. Và đó cũng là lý do bao lâu con người sống mầu nhiệm “hôn nhân” là yêu thương và sống ơn gọi “hôn nhân” là hiệp thông này, họ mới sống trong sự thật, vì họ sống đúng như ý muốn của Thiên Chúa, và họ mới hoàn toàn hạnh phúc, vì họ sống sự sống thần linh vô cùng toàn hảo và viên mãn của Thiên Chúa. Trái lại, bao lâu con người sống ngược với mầu nhiệm “hôn nhân” và ơn gọi “hôn nhân” này, tức tìm kiếm những gì ngoài ý định vô cùng khôn ngoan tốt lành của Thiên Chúa, bấy lâu con người còn sống trong bất hạnh và đầy những bất an.
Không phải hay sao, ngay từ ban đầu, nếu con người cương quyết sống theo những gì Thiên Chúa ấn định như lương tâm của họ ý thức được (x Gen 3:2-3) thì họ đâu đến nỗi đi đến chỗ “ly dị” trong tinh thần, một yếu tố nẩy sinh trong giòng dõi loài người như một thứ men làm cho họ càng ngày càng ly dị như thời đại văn minh tuyệt đỉnh về nhân bản ngày nay cho thấy? Cặp vợ chồng đầu tiên của loài người này đã không âm thầm “ly dị” nhau về tinh thần là gì, ở chỗ, ngay sau khi ăn trái cấm, mỗi người tự động đi tìm nơi trú ẩn và lấy lá vả che đậy chỗ kín của mình đi: họ không còn là một thân thể như trước nữa, họ đã ra khỏi tình trạng ngây thơ vô tội như trẻ nhỏ “trần truồng không biết xấu hổ” (Gen 2:25). Thậm chí họ đã đi đến chỗ chính thức “ly dị” nhau trước nhan Chúa, khi người nam không chấp nhận bản thân mình là nữ nguyên tổ Evà, người ông đã tuyên nhận là xương thịt của ông và là người Chúa cho ở với ông, qua việc ông phũ phàng và bất công đổ lỗi cho người nữ (x Gen 3:12), một lỗi lầm mà chính ông đáng lẽ phải đứng ra nhận lỗi, vì ông chẳng những đã không can ngăn vợ mà còn vào hùa với vợ để làm nữa. Nếu con người nam nguyên tổ Adong này yêu thương vợ trong chân lý, tức yêu thương theo ý Chúa, ở chỗ mạnh mẽ lên tiếng ngăn cản vợ về hành động hái trái cấm mà ăn của nàng, thì tình yêu của ông đã phản ảnh tình yêu vô cùng trọn hảo của Thiên Chúa rồi, và con cái miêu duệ của ông đâu phải mang mầm mống “ly dị” từ ông cho đến tận thế. Như thế, một cách nào đó, nguyên tội được phát xuất từ hôn nhân, từ tình yêu hôn nhân, từ thứ tình yêu sai trái nơi hôn nhân. Quả thực ly dị phát xuất từ con người, từ lòng trí hư hỏng của con người là như thế.
Tới đây một vấn đề nữa xuất hiện, đó là vấn đề “(nguyên) tội bởi đâu mà có?”, bởi vì ngay từ ban đầu con người nguyên tổ hoàn toàn tốt lành, lòng trí chưa hề bị hư hại tí nào, thì làm sao con người có thể đi tới chỗ “ly dị”, tới chỗ phân ly những gì Thiên Chúa đã phối hợp, đã liên kết. Đúng thế, ngay từ ban đầu, con người nguyên tổ được Thiên Chúa dựng nên hoàn toàn tốt lành, không bị hư hại tí nào, không có mầm mống tội lỗi trong mình như miêu duệ của các vị, không có đam mê nhục dục, không có tính mê nết xấu. Tuy nhiên, không phải vì thế mà con người không thể phạm tội. Con khổng long và một phần ba tinh tú trên trời bị mất chỗ của mình trên trời đâu có xác thịt, có mầm mống tội lỗi, thế mà vẫn có thể phạm tội, vẫn có thể làm mất lòng Thiên Chúa cơ mà (x Rev 12:1-9). Đệ nhất tạo vật về ân sủng, dù được ơn vô nhiễm nguyên tội ngay từ lúc được hoài thai trong lòng thai mẫu, chẳng lẽ lại không phạm tội được hay sao, khi Người khăng khăng từ chối không chịu “xin vâng” (Lk 1:38) làm theo ý muốn tối cao của Thiên Chúa được tỏ ra cho Người qua sứ thần Gabiên trong giây phút truyền tin? Bởi thế, trường hợp phạm tội của hai nguyên tổ, tội đầu tiên trong lịch sử loài người, tội phá giới, tội vượt biên, tội phân ly nhưnõng gì Thiên Chúa đã kết hợp, không phải là do lòng trí hư hỏng của con người, mà là do ý thức chọn lựa của con người. Thế nhưng, ngay từ ban đầu, nếu con người còn ở trong tình trạng công chính nguyên thủy, lòng trí của họ còn hoàn toàn ngay thẳng, thì phải chăng việc họ làm, dù trái với ý muốn của Thiên Chúa, có xấu xa tội lỗi trước nhan Ngài, cũng chỉ là những hành động lầm lạc đáng thương?
Sở dĩ con người lầm lạc đáng thương là vì trình độ của con người hữu hạn chỉ tới đó. Nếu con người có Thần Trí của Thiên Chúa, chắc hẳn họ đã thấu hiểu được tất cả mọi sự như Ngài (x 1Cor 2:10) và đã không làm những gì trái ý Ngài. Thế nhưng, dù Thiên Chúa có muốn thông ban cho con người tất cả Thần Trí của Ngài ngay từ ban đầu đi nữa, con người tạo vật hữu hạn bấy giờ tự bản chất cũng không thể nào lãnh nhận được. Phải chăng đó là lý do “Lời đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14) để qua Ngôi Vị nhân thần là Con Người Giêsu Kitô này, loài người “sinh bởi xác thịt là xác thịt” (Jn 3:6) có thể được “rửa trong Thánh Thần” (Jn 1:34), được “tái sinh bởi nước và Thần Linh” (Jn 3:5), “được sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10), một sự sống như Con Người Giêsu Kitô đã sống “đẹp lòng Cha mọi đàng” (Mt 3:17, 17:3). Thật ra, làm việc gì ngoại tại, “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24) đều tỏ mình là Lời ra và ban mình là Thần Linh của Ngài cho đối tượng của Ngài. Thiên Chúa đã bắt đầu ban Thần Trí của Ngài cho con người khi Ngài tỏ mình ra cho họ, khi Ngài bắt đầu tỏ cho họ biết giới hạn của họ giữa biên giới sự sống và sự chết, giữa cây biết lành biết dữ và cây sự sống. Trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái, Ngài vẫn tiếp tục tỏ mình ra, vẫn tiếp tục ban Thần Trí của Ngài cho con người, và mức độ dồi dào Thần Trí nhất là lúc Con Ngài Nhập Thể, Vượt Qua và sai Thánh Thần từ Cha xuống trên Giáo Hội. Thế nhưng, chỉ có thành phần sống bé mọn (x Mt 11:25; Lk 10:21), biết đáp lại Mạc Khải Thần Linh như Mẹ Maria đầy tin tưởng mới được tràn đầy Thần Trí của Thiên Chúa mà thôi!
Đó là lý do chúng ta thấy Chúa Giêsu, một lần nữa, đã dùng đến trẻ nhỏ, như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho thấy, để giải quyết vấn đề phức tạp của đời sống hôn nhân, điển hình là vấn đề gương mù ly dị nơi hôn nhân. Không phải hay sao, vì hai nguyên tổ không còn sống như những trẻ nhỏ, không còn sống ngây thơ vô tội, không còn hoàn toàn tin tưởng vào Đấng Tối Cao vô cùng Toàn Tri, Toàn Thiện, Toàn Năng, trái lại muốn trở thành người lớn, đầy lý sự và ham hố, nên đã đi đến chỗ “ly dị” nhau, không còn là một thân thể mà là hai (một tình trạng được biểu hiệu qua hành động hai vị nguyên tổ tìm cách che bịt cái của quí private part của mình đi)? Thật ra, thực tế cho thấy, không thể nào vợ chồng lại có thể trở nên một thân thể. Việc vợ chồng chỉ là một tác động biểu hiệu cho việc nên một thân thể này mà thôi. Thế nhưng, tình trạng ly dị vẫn có thể làm cho vợ chồng chấm dứt việc vợ chồng với nhau, không còn là một thân thể nữa. Như thế, vấn đề nên một thân thể đây không phải là vấn đề về sinh lý hay thể lý cho bằng về tâm lý và tinh thần. Đúng vậy, nếu vợ chồng không được phân ly những gì Thiên Chúa đã phối hợp, thì vấn đề vợ chồng nên một thân thể là một vấn đề bất khả phân ly, vấn đề trọn đời, chứ không phải vấn đề trò chơi tình ái, vấn đề pro choice của con người. Nếu vợ chồng biết chấp nhận nhau như là người Chúa cho ở với mình, (như bài đọc một cho thấy), biết ý thức nguyên tắc không phải họ chọn mà là được chọn (x Jn 15:16), thì không bao giờ họ sẽ đi đến chỗ ly dị, bằng không, họ sẽ là kẻ ly dị Chúa trước, phủ nhận những gì Chúa ban cho mình, gửi đến cho mình, và không bao giờ họ sẽ tìm thấy ý nghĩa đích thực và hạnh phúc hôn nhân trọn vẹn.
Nếu con người không sống nguyên bởi bánh, mà còn bởi lời Chúa (x Mt 4:4), thì vấn đề vợ chồng nên một thân thể như ý định của Thiên Chúa về hôn nhân ngay từ ban đầu này cũng thế, ở chỗ, Thiên Chúa không chỉ có ý dựng nên con người có nam có nữ để họ làm việc vợ chồng hầu sinh con đẻ cái như loài thú thuần huyết nhục thế thôi, mà là để họ biểu hiện một mầu nhiệm sâu xa hơn nữa, đó là mầu nhiệm Chúa Kitô với Giáo Hội của Người (x Eph 5:32), một mầu nhiệm chỉ khi nào vợ chồng nỗ lực sống theo họ mới có hạnh phúc và hoàn trọn ơn gọi hôn nhân của họ thôi. Chúa Kitô và Giáo Hội của Người không bao giờ ly dị nhau. Cho dù Giáo Hội, qua yếu đuối của loài người, của thành phần đại diện Người thừa kế Thánh Phêrô và thừa kế các vị tông đồ, có những lúc phản bội tinh thần của Người, như dân Do Thái phản bội giao ước của Thiên Chúa cha ông họ song Thiên Chúa vẫn ở với họ, vẫn trung thành với giao ước của Ngài, vẫn thực hiện lời Ngài tự đoan hứa với họ thế nào, Chúa Kitô vẫn ở cùng Giáo Hội luôn mãi cho đến tận thế như vậy (x Mt 28:20). Đầu và thân thể không thể nào phân ly nhau thế nào, Chúa Kitô và Giáo Hội làm nên một Nhiệm Thể cũng không thể phân lìa nhau như thế. Chồng thực sự là đầu của vợ, như Chúa Kitô là đầu của Giáo Hội, và vợ là thân thể của chồng, như Giáo Hội là thân mình của Chúa Kitô. Vì là đầu của vợ, chồng phải yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội; và vì là thân mình của chồng, vợ phải vâng lời chồng trong mọi sự như Giáo Hội vâng lời Chúa Kitô như thế (x Eph 5:22-30).
Hình ảnh một thân thể có đầu và thân này, như bài đọc một cho thấy, đã được biểu lộ qua tác động nhận biết (thuộc đầu óc) của Adong đối với thân thể của mình là Evà, một ngôi vị được làm nên bởi thân thể của ông và phát xuất từ cạnh sườn thân thể của ông. (Chồng là đầu và vợ là thân còn được thể hiện nơi tâm lý trai cua gái, gái theo trai, và nam có ý nghĩ thèm thuồng thân thể nữ như ở Phúc Âm Thánh Mathêu 5:28 cho thấy). Nếu chồng luôn nhận biết vợ, tức yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội đến cùng (x Jn 13:1), và nếu vợ luôn gắn bó với chồng, ở chỗ nghe lời chồng, đáp lại tình yêu của chồng, thì không bao giờ có chuyện ly dị xẩy ra trong đời sống hôn nhân. Tuy nhiên, vì mầm mống nguyên tội, mầm mống con người ngay từ ban đầu tách mình lìa xa Thiên Chúa nên không thể bền bỉ với nhau, vẫn còn tồn tại nơi con người nói chung và con người nam nữ vợ chồng nói riêng, mà cho dù họ có yêu nhau đắm đuối mấy đi nữa, họ vẫn cần phải có ơn Chúa đặc biệt, có Thần Linh, mới có thể trung thành với nhau, mới có thể hoàn toàn phản ảnh mầu nhiệm Nhiệm Thể Giáo Hội!
Tóm lại, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu xác định rõ dự án của Thiên Chúa và đường lối của con người. Dự án của Thiên Chúa bao giờ cũng là muốn con người hiệp nhất nên một; còn đường lối của con người thường hướng chiều về tình trạng chia rẽ ly dị. Tuy trong bài Phúc Âm Chúa Giêsu không xác định rõ hai vợ chồng phải sống trọn đời với nhau, nhưng nếu hai vợ chồng phải nên một thân thể với nhau mới là vợ chồng theo dự án của Thiên Chúa thì có nghĩa là họ phải sống trọn đời với nhau. Thật vậy, nếu không ai lại phủ nhận thân thể của mình (x Eph 5:28-29), và không ai mất đầu mà còn sống thế nào, chồng cũng không thể thiếu vợ, không thể phủ nhận vợ là thân thể của mình, và vợ cũng không thể thiếu chồng, không thể tách rời chồng là đầu của mình như vậy. Chính vì con người cứng lòng, sống theo ý riêng của mình, chứ không sống theo dự án của Thiên Chúa về hôn nhân ngay từ ban đầu như thế mà xã hội loài người càng ngày càng trở nên băng hoại như thực tế hiện nay cho thấy. Đó là lý do, để cứu vãn tình thế, để sống hợp với dự án của Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, cách riêng trong đời sống hôn nhân, Chúa Giêsu kêu gọi con người hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ, tình trạng con người nguyên sơ còn đang ngây thơ vô tội chỉ biết tin tưởng vào Chúa và làm theo ý Chúa mà thôi.
52. Sống đạo trung tình nghĩa vợ chồng
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Theo Kinh thánh thì mỗi liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người được gọi là một giao ước. Thiên Chúa khởi sự giao ước bằng việc bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài người đáp trả lại tình yêu đó. Không những Chúa thiết lập giao ước hàng dọc, nghĩa là giao ước giữa Thiên Chúa với loài người, Chúa còn thiết lập giao ước hàng ngang giữa người với người nữa. Sách Sáng thế có ghi lại Chúa thiết lập giao ước hôn nhân hàng ngang bằng việc kêu gọi Ađam và Evà sống trung thành với nhau: Bởi thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ, mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt (St 2:24). Lời Kinh thánh này được Chúa Giêsu trích lại để nói lên tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (Mc 10:7).
Khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, Người đã nâng khế ước hôn nhân lên hàng bí tích. Vậy bí tích hôn nhân là việc hai người công giáo đã chịu phép Rửa tội, thề hứa trung thành yêu thương và phục vụ lẫn nhau cũng như yêu thương và phục vụ con cái. Sự trung tín giữa vợ chồng là phản ảnh lòng trung tín giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Chúa khẳng định tính cách bất khả phân ly của bí tích hôn nhân: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly (Mc 10:9). Khi mấy người Pharisêu thắc mắc tại sao ông Môsê cho phép li dị thì Chúa Giêsu bảo là tại lòng dạ chai đá của họ mà ông Mosê cho li dị. Thực ra từ đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã trù liệu kế hoạch hôn nhân bất khả phân li để nhằm xây dựng hạnh phúc gia đình: của vợ chồng và con cái. Còn li dị khiến con cái nhất là còn nhỏ tuổi thiệt thòi về mọi phương diện: thể chất, tình cảm, tinh thần và đời sống thiêng liêng.
Trong quá khứ, hôn nhân được bảo vệ một cách tối đa: được gia đình, tôn giáo và xã hội che chở. Hôn nhân còn được phong tục và lễ giáo ràng buộc. Đời sống vợ chồng được cha mẹ, anh chị em, họ hàng, bạn hữu và hàng xóm khuyến khích, nâng đỡ và ủi an khi vợ chồng có chuyện buồn giận lẫn nhau. Trái lại sống trong xã hội hiện tại và hiện đại, hôn nhân bị tấn công bởi nhiều yếu tố như báo chí, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình và cả mạng tin. Bằng cách cho phép ly dị, luật pháp xã hội hiện tại và hiện đại không bảo vệ hôn nhân.
Nhận thức được rằng đám cưới chỉ kéo dài có một ngày, còn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống, mà đa số các giáo phận tại Mỹ đời nay đòi hỏi những cặp dự bị hôn nhân phải qua chương trình học hỏi và đợi chờ tối thiểu là sáu tháng. Thời gian học hỏi và đợi chờ nhằm giúp cho người dự bị hôn nhân học hỏi về giáo lý hôn nhân và tiếp tục tìm hiểu lẫn nhau xem hai người có thể đi tới đời sống lứa đôi không?
Có những cặp nam nữ sau thời gian tìm hiểu và đợi chờ thấy không hợp đã tự ý chia tay vĩnh viễn. Những cặp dự bị hôn nhân mà thực sự chú tâm học hỏi để sửa sọan bước vào đời sống hôn nhân thì cũng khiến cho các linh mục làm đám cưới hứng khởi. Có linh mục kia không biết nói chơi hay thật cho rằng giả như trước đây nếu người đi tu biết được cái đẹp của tình yêu và đời sống hôn nhân thì chưa chắc đã đi tu. Để cho hôn nhân có thể kéo dài suốt cả cuộc sống, người ta cần khám phá ra nét đẹp và sống nét đẹp của tình yêu và đời sống hôn nhân công giáo. Người ta cần đem Chúa vào đời sống hôn nhân để Chúa cùng đồng hành và làm chủ đời sống hôn nhân.
Như vậy ta thấy mối liên hệ hôn nhân là một thứ liên hệ gần gũi và thân mật nhất trong các thứ liên hệ của loài người, đem lại cho hai người niềm an vui và tin cậy. Có người nói yêu nhau là cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích. Khi hai người cùng nhìn về một hướng và theo đuổi cùng mục đích, họ sẽ giúp nhau hoàn thành ơn gọi của đời sống hôn nhân. Tuy vậy đời nay người ta lại thấy cảnh li lan tràn khắp đó đây. Nếu phân tích tại sao đời nay vợ chồng lại li dị dễ dàng như vậy, người ta có thể nêu ra tại những lí do sau đây (dĩ nhiên còn có những lí do khác nữa):
(1) Tại đặt nặng yếu tố tiền bạc trong đời sống hôn nhân. Khi thấy chồng làm ít tiền mà vợ lại thích mua sắm, thì nàng có thể bắt đầu để ý đến người có nhiều tiền hay làm nhiều tiền hơn.
(2) Tại đặt nặng vấn đề chăn gối. Có lẽ vì ảnh hưởng bởi phim ảnh, nghệ thuật quảng cáo, và công ty xây cất nhà cửa với phòng ngủ của chủ gia đình thật lớn và sang có phòng tắm đặc biệt, có bồn tắm jacuzzi sóng ngầm chẳng hạn, mà người ta để ý đến vấn đề này. Vợ chồng cần tìm hiểu và để ý xem những lúc nào, hoặc thời kì nào người phối ngẫu không muốn chuyện chăn gối để tôn trọng nhau. Ngoài ra việc chăn gối hôn nhân phải là việc bày tỏ sự ưng thuận của cả hai người, lòng yêu thương, âu yếm, thông cảm, và coi trọng phẩm giá của nhau, chứ không phải là việc làm ép buộc, chỉ nhắm tìm khoái lạc. Vợ chồng cũng cần tìm những thoải mái về đời sống tinh thần và đời sống thiêng liêng có tính cách bền lâu bằng việc cầu nguyện, săn sóc gia đình và con cái hoặc làm việc xã hội và từ thiện bác ái nữa. Khi người ta cảm nghiệm hạnh phúc thoải mái về đời sống tinh thần và thiêng liêng, thì vấn đề chăn gối không còn phải là một nhu cầu lớn.
(3) Tại ích kỉ trong đời sống hôn nhân. Nếu một người phải đi làm lụng vất vả để nuôi gia đình mà người kia không góp phần mình, để cho nhà cửa lôi thôi, con cái nheo nhóc, cơm nước thất thường, thì người góp phần nhiều sẽ nản lòng. Nếu nấu giở thì cũng nên học cách nấu ăn sao cho người ăn được. Như vậy vợ chồng cần phải để ý để đáp ứng những gì mà người kia đã làm cho mình. Nói cách khác là có đi có lại mới toại lòng nhau. Còn không thì sẽ làm mất lòng.
(4) Tại để ý nhiều đến tình, mà quên nghĩa. Có những khi người ta còn lẫn lộn tình yêu với cảm tình hay cảm xúc trìu mến. Do đó khi không còn cảm thấy có cảm tình là người ta chia tay. Người ta quên đi những hi sinh và công ơn mà người khác đã làm cho mình. Có những người trọng nghĩa vợ chồng mà vẫn có thể chung sống với nhau mặc dù tình đã phai nhạt.
(5) Tại quên rằng vợ chồng còn là thánh giá cho nhau. Lập gia đình là để vợ chồng nâng đỡ nhau và săn sóc con cái về đời sống vật chất, tình cảm, tinh thần và đời sống thiêng liêng. Tuy nhiên vợ chồng còn là thánh giá cho nhau nữa nếu hiểu thánh giá là những bất đồng quan điểm với tính tình khác nhau, ăn ngử khác biệt, lại thêm tập quán, cách nói năng, cách nhìn đời cũng khác. Nếu học để chịu đựng và chấp nhận, những thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và mang lại ơn phúc cho đời sống hôn nhân.
(6) Tại quên đi phần sau của lời hứa hôn nhân. Trong thánh lễ cưới, vợ chồng hứa với nhau: Anh hứa nhận em làm vợ, em hứa nhận anh làm chống, và hứa sẽ giữ lòng chung thuỷ với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh nạn cũng như lúc mạnh khoẻ để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em). Vợ chồng phải thường xuyên nhắc nhở cho mình giữ lòng chung thuỷ lúa gian nan và khi bệnh nạn nữa cũng như yêu thương và tôn trọng nhau suốt cả cuộc sống.
(7) Tại không chịu tìm cách thăng tiến hoá đời sống hôn nhân. Tự nhìn và xét mình, người ta thường chủ quan hay vì tự ái mà không nhìn thấy mặt trái của mình. Do đó mà có những phong trào ra đời như Hội Ngộ Phu Thê (marriage Encounter) để giúp vợ chồng thông đạt với nhau cách hữu hiệu; hay phong trào Teams of our Lady để hướng dẫn vợ chồng cách thế phát triển đời sống hôn nhân; hoặc phong trào Thăng tiến Hôn nhân Gia đình để giúp vợ chồng đả thông những vấn đề bất hoà trong đời sống hôn nhân để mà tiếp tục thăng tiến.
(8) Tại nhìn thấy trước mắt có lối thoát. Vì có luật cho phép li dị cho nên khả dĩ tính của việc li dị được nằm trong tiềm thức của người chồng hay vợ nghĩa là đầu óc họ quan niệm rằng họ có lối thoát nếu không cảm thấy thoải mái trong đời sống hôn nhân. Trái lại thời xưa không có luật li dị, cho nên ông bà tổ tiên ta không nghĩ đến chuyện có thể li dị. Vì thế ông bà tổ tiên chỉ nhắm đến tính cách bất khả phân ly của đời sống hôn nhân cho nên cố xây dựng trên những ưu điểm của nhau thay vì chỉ nhìn đến những khuyết điểm. Nếu người ta cứ nhắm đến ý tưởng trung thành trong đời sống hôn nhân thì trong đời sống hàng ngày mà họ có súc phạm đến nhau bằng lời nói hay hành động, thì họ sẽ tìm cách hàn gắn, điều chỉnh và sửa sai, để có thể lèo lái tới đích. Còn nếu nghĩ rằng mình không sống với nhau được thì chia tay, thì người ta sẽ không cố gắng chỉnh đốn vấn nạn hôn nhân, mà cứ để vậy cho tới lúc không còn chịu đựng được nữa thì sẽ bỏ cuộc. Vì thế việc tâm niệm về tính cách bất khả phân ly của hôn nhân sẽ giúp định hướng cho hướng đi trong đời sống lứa đôi. Trong quá khứ luật pháp không cho phép ly dị, vậy mà ông bà tổ tiên ta vẫn sống bên nhau cho đến bạc đầu long răng. Chẳng thế mà quan sát người ta thấy có những ông bà già ngồi ghế đá công viên, nhìn ngắm cảnh vật và người đi qua lại. Ông thì thẩy thức ăn cho chim câu, còn bà thì ngồi ngắm. Hai ông bà chỉ cần ngồi đó, có sự hiện diện của nhau là đủ, mà không cần nói nhiều. Vả lại sống với nhau lâu năm rồi, bây giờ lại lớn tuổi, nói nhiều làm chi cho mỏi miệng, mà cũng chẳng còn gì để nói.
(9) Tại đặt nhẹ việc phát triển tình bạn trong đời sống hôn nhân. Ở xã hội Việt Nam, vợ chồng được gọi là bạn trăm năm, nhưng nhiều vợ chồng lại không phải là bạn. Có lẽ người ta sẽ tìm thấy tình yêu bền vững trong hôn nhân nếu người ta tìm nó trong tình bạn hữu. Trong thời đại ta đang sống, người ta nói nhiều về tình yêu hôn nhân mà ít nói về tình bạn. Tình bạn trong đời sống hôn nhân rất là quan trọng trong việc phát triển tình yêu và đời sống hôn nhân. Nếu trước khi cưới, hai người chưa phải là bạn, họ cần tìm cách để trở thành bạn. Bạn hữu là những người có tính tình, tập quán và cách nhìn đời giống nhau, cùng chia sẻ những giá trị giống nhau. Nếu trước khi cưới chưa phải là bạn, thì sau khi cưới việc quan tâm và đáp ứng nhu cầu người khác cũng có thể khiến họ trở thành bạn với mình. Nếu bạn hữu không muốn xa nhau thì tình bạn trong đời sống hôn nhân sẽ giúp người ta muốn sống bên nhau mãi mãi.
(10) Tại quên đem Chúa vào đời sống hôn nhân. Người ta có thể nhớ đem Chúa vào đời sống cá nhân, nhưng lại quên đem Chúa vào đời sống hôn nhân và đời sống gia đình. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân có nghĩa là tuân giữ giới răn Chúa. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân để Chúa cùng đồng hành trong đời sống hôn nhân khi vui cũng như khi buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại, khi yếu đau cũng như lúc mạnh khoẻ. Đem Chúa vào đời sống hôn nhân còn có nghĩa là để Chúa làm chủ đời sống hôn nhân. Cũng nên biết khi vợ chồng cùng chung một niềm tin vào Chúa thì dễ thực hiện việc đem Chúa vào đời sống hôn nhân. Theo thánh Gioan định nghĩa thì Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:16). Và Thiên Chúa chia sẻ tình yêu cho loài người và cho vợ chồng nghĩa là Thiên Chúa có liên hệ mật thiết trong đời sống hôn nhân bằng cách kết hợp hai người nam nữ trong một tình yêu. Nói như vậy có nghĩa là khi chồng yêu vợ thì chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho vợ mình. Ngược lại khi vợ yêu chồng thì cũng chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho chồng mình. Thế nên ngay cả trong những tác động chăn gối, vợ chồng cũng cần đem Chúa vào để cho khỏi trở thành những tác động chỉ bao hàm nhục dục mà thiếu yếu tố yêu đương. Thống kê cho thấy những gia đình thường ăn chung và đọc kinh chung là những gia đình tránh cảnh đổ vỡ.
Sự trung thành giữa vợ chồng thường được Chúa dùng để so sánh với lòng trung thành của Thiên Chúa với loài người. Trong Phúc âm, Chúa Giêsu ví Người như đức lang quân, còn Giáo hội được ví như là hiền thê. Thiên Chúa luôn trung thành với lời giao ước với loài người và Chúa muốn loài người cũng trung thành với giao ước mà người ta đã làm với Chúa qua các bí tích họ lãnh nhận.
Lời cầu nguyện xin cho được trung thành trong đời sống hôn nhân:
Lạy Thiên Chúa hằng sống! Đấng luôn trung thành với lời giao ước, Chúa làm với loài người.
Xin dạy con cũng biết trung thành với lời giao ước mà con đã làm qua các bí tích mà con lãnh nhận: hôn nhân cũng như thánh chức.
Xin cho con được giữ trọn lời thề. Đừng để con nghe lời cám dỗ rỉ tai mà bất trung với nhau và bất trung với Chúa. Amen.
53. Tìm lại sự ngạc nhiên – Lm. Mark Link.
"Biết ngạc nhiên như trẻ thơ là trọng tâm mọi lời cầu nguyện và tôn thờ"
Mấy năm trước, tờ Chicago Tribune (Diễn đàn Chicago) có đăng bài viết của Amelia Bahl nhan đề: "Đi đạo với Bà Tôi". Bài được viết theo thể đối thoại như sau;
Ricky hỏi: Thưa bà tại sao cây lại thay lá vào cuối mùa hạ?
Bà trả lời: Vì những lá cây cũ mèm xơ xác rồi, cần mặc lấy lá mới.
- Những lá mới từ đâu đến vậy?
- Từ sâu dưới lòng đất, bà mẹ thiên nhiên luôn bận bịu chuẩn bị lá mới cho chúng
- Bà ơi, có bao giờ bà thấy bầu trời giống như một hồ nước úp lộn ngược không?
- Và những áng mây bé tí kia trông giống những chiếc thuyền buồm phải không nào?
- Cháu thắc mắc chả hiểu chúng dương buồm đi về đâu?
- Có lẽ đi dự "hội mây" đó cháu.
- Chúng sẽ làm gì ở đó nhỉ?
- Có lẽ để quyết định xem trái đất có cần mưa thêm không?
- Chà! Chúa lo lắng tất cả mọi sự, bà nhỉ?
***
Bà của Richy thực là một gương mẫu hoàn hảo cho người trưởng thành. Bà không bị mất cảm thức của mình về những điều ngạc nhiên của trẻ thơ. Biết ngạc nhiên là biết nhìn thấy sự vật giống như trẻ con nhìn thấy chúng. Là biết đặt ra những câu hỏi tương tự như trẻ con thường hỏi. Biết ngạc nhiên là biết nhìn mọi sự như chúng ta nhìn chúng lần đầu tiên, nghĩa là nhìn chúng với sự tươi mát lần đầu, toả ra sự mới mẻ từ đôi tay tạo dựng của Chúa khi chưa hề bị tì ố. Biết ngạc nhiên là biết nhìn vào một cánh đồng cỏ ướt đẫm sau cơn mưa và nhận ra những dấu chân của Chúa trên đó. Biết ngạc nhiên là biết nhìn vào đôi mắt trẻ thơ và nhận ra dấu tay của Thiên Chúa ẩn chứa trong đó.
Có một ví dụ thú vị cho vấn đề chúng ta đang bàn được thấy trong quyển sách của Charles Colson tựa đề "Born Again" (Tái sinh). Colson một trong những người bị kết án trong vụ Watergate của tổng thống Nixon vào thập niên 1970. Về sau, ông đã trở lại đạo Chúa. Sự trở lại này đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn ông mãi đến hôm nay.
Trong một đoạn sách của mình, Colson đưa chúng ta lùi về quá khứ 20 năm trước để tham dự một mùa hè thú vị mà ông đã trải qua cùng hai cậu nhóc, con của ông. Ông đã mua cho chúng một chiếc thuyền buồm dài 14 bộ (quãng 4 mét rưỡi) và đem nó ra hồ. Khi cả ba đến bờ hồ, một cơn mưa phùn nho nhỏ của mùa hạ bắt đầu lất phất. Tuy nhiên điều này chẳng làm cho họ quan tâm.
Sau khi thuyền rời khỏi bến, họ chỉ còn nghe thấy tiếng nước vỗ mạn thuyền và tiếng chiếc buồm sũng nước vỗ phành phạch trong gió. Cậu bé Chris, 10 tuổi được giao nhiệm vụ điều khiển chiếc thuyền. Khi nhận thức được vai trò thuyền trưởng của mình, gương mặt cậu bé trông mới rạng rỡ làm sao! Ánh mắt cậu toé lên nỗi hào hứng khi biết rằng cậu đang nắm trong tay quyền điều khiển sức mạnh của gió. Nhìn vào khuôn mặt và ánh mắt cậu con trai, Colson hết sức sửng sốt. Lúc đó, ông tâm sự với Chúa và ông vẫn còn nhớ mãi những lời tâm sự ấy:
"Lạy Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho con đứa con trai này, đã ban cho con giây phút kỳ dịêu này. Chỉ cần nhìn vào đôi mắt đứa nhỏ này, đời con đã thoả mãn rồi. Trong tương lai, dù có xảy đến điều gì cho dẫu ngày mai con có phải chết, thì đời sống của con kể cũng đã mãn nguyện lắm rồi. Tạ ơn Chúa".
Sau đó, Colson ngạc nhiên vì điều ông vừa làm. Trước đó, ông đâu có tin rằng Thiên Chúa có bản ngã, thế mà trong ngẫu hứng, ông lại thưa chuyện với Ngài như một Đấng có bản ngã. Trong niềm vui vào giây phút ấy, tim ông đã vượt khỏi trí não để biểu lộ lời xác nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa hữu ngã. Qua chính những lời cầu nguyện của mình, ông khám phá rằng dù ông chưa tự chứng minh được là có Thiên Chúa, ông vẫn có thể thưa chuyện với Ngài. Làm sao ông có thể thưa chuyện với Ngài được nếu không phải là tận thâm sâu tâm hồn ông vẫn ý thức rằng có ai đó đang lắng nghe ông từ một nơi nào đó. Thực thế, vào buổi trưa hè mưa phùn ấy, Colson đã khám phá ra cho mình điều mà các tác giả linh đạo luôn nhất trí với nhau, đó là: Sự ngạc nhiên là trọng tâm mọi lời khẩn nguyện và thờ phụng.
Điều này dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của bài Phúc Âm hôm nay.
Nếu chúng ta cảm thấy khó cầu nguyện và thờ phụng Chúa, có thể là vì chúng ta đã để cho cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình bị khuất sau đám mây: có lẽ vì chúng ta đã không nghiêm chỉnh nghe theo lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm hôm nay; "Ai không biết đón nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó đâu".
Có lẽ chúng ta đã đánh mất cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình về vũ trụ. Có lẽ từ lâu lắm rồi chúng ta không còn đi bộ dạo chơi và trò chuyện với con cháu chúng ta.
Nhà viết tiểu thuyết hiện đại John Updike đã cảnh cáo chúng ta điều có thể xảy ra nếu chúng ta không còn biết tiếp xúc với những thành viên trẻ trong gia đình Thiên Chúa như sau:
"Nếu người lớn chúng ta không biết tiếp tục trò chuyện với trẻ con, chúng ta sẽ không còn là những con người nữa, mà chỉ còn là những cổ máy biết ăn và biết kiếm tiền". Nhà thừa sai vĩ đại Albert Schweitzer nói: "Bi kịch của cuộc sống chính là chúng ta đã chết mặc dù vẫn mang tiếng là đang sống". Khi cảm thức ngỡ ngàng trước vũ trụ bắt đầu lịm tắt thì ý thức về cầu nguyện và phụng thờ cũng bắt đầu tàn lụi theo. Đây là một lời rất quan trọng và thực tiễn mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay.
Để kết thúc xin mời anh chị em yên lặng hiệp ý cầu nguyện cùng tôi; "Lạy Chúa, xin giúp chúng con giữ mãi được cảm thức ngạc nhiên trước cuộc sống, đừng để chúng con trở nên mù loà không nhìn thấy dấu tay Chúa trong vũ trụ quanh chúng con, đặc biệt nơi ánh mắt và khuôn mặt của các trẻ nhỏ.
Xin giúp chúng con biết luôn tiếp xúc với những trẻ em chung quanh chúng con, để đừng bao giờ quên lời Chúa Giêsu truyền dạy; "Kẻ nào không tiếp nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó".
Xin hãy giúp chúng con tái khám phá ra cách nào để ngạc nhiên ngõ hầu nhờ đó chúng con có thể tìm lại được cách thức cầu nguyện và phụng thờ Chúa.
Chúng con nguyện xin nhờ Chúa Giêsu là Đấng hằng sống hằng trị cùng Chúa và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời."
54. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
VẤN ĐỀ LY DỊ (10,1-12)
Nhiều lời khuyên bảo liên quan đến đời sống cộng đồng đã được Chúa Giêsu thực tại Caphanaum, xứ Galilê (9,33). Chặng đường dài của xứ Palestin, từ bắc tới nam đã được vượt qua (c. 1a). chúa Giêsu đang tiến bước hướng về Giêrusalem. Giờ đây Ngài đang tiếp xúc với cư dân mạn nam Palestin, ở hai bên bờ sông Giođan; ở phía tây là Giuđê, những đồng hương Do Thái với Ngài, phía đông là người xứ Pêrê (hiện là Giocđani) thuộc dân ngoại. Maccô muốn chứng tỏ Chúa Giêsu đang rao giảng cho tất cả mọi người không phân biệt. Đám đông đang hiện diện và thế là Chúa Giêsu dạy dỗ họ (c. 1b). Ở đây có đủ mọi điều kiện cần thiết để sứ điệp của Ngài đạt đến quảng đại quần chúng.
Đám biệt phái lại mon men đến gần Ngài (c. 2a). Lần tranh luận cuối cùng giữa Chúa Giêsu và những kẻ nhiệt tình bảo vệ luật Môsê này đã xảy ra cách đây khá lâu (8, 11-12). Cũng giống nhu lần đó, lần này Maccô cũng ghi rõ những người Do Thái được số một này đến chất vấn Chúa Giêsu “để thử Ngài” (c. 2b). Cần phải nhớ rằng đàng sau những từ này, tác giả Phúc Âm muốn gợi lại thái độ của những người Israel vào thời còn ở hoang mạc lúc xuất hành từng biểu lộ sự cứng lòng với Môsê và với chính Thiên Chúa: “Ho thử thách Giavê bằng cách nói rằng: “Thiên Chúa có ở giữa chúng ta hay không?”. Còn ở đây thì họ giương bẫy gài Chúa Giêsu về vấn đề ly dị: “Chồng có được phép rẫy vợ không?” (c. 2c). Vào bước ngoặt của Kỷ nguyên Kitô giáo vấn đề “rẫy” vợ được các giáo sĩ Do Thái tranh luận sôi nổi. Hai trường phái nổi tiếng đối đầu đưa ra những ý kiến ngược nhau. Một bên là giáo sĩ Hillel, thuộc dạng biệt phái tự do thì chấp nhận rất nhiều lý do cho phép vợ chồng có thể chia tay nhau. Ngược lại, giáo sĩ Shamamai thuộc khuynh hướng nghiêm khắc thì chỉ chấp nhận một số giới hạn các trường hợp được phép “rẫy” vợ. Bởi vì theo luật Do Thái, chỉ đàn ông mới có quyền ly dị vợ mình, nên Shammai theo cách thức của mình, đã bảo vệ cho phụ nữ trong một xã hội thượng tôn nam giới. Chính vì được đánh giá là một bậc thầy tăm tiếng nên Chúa Giêsu đã được hỏi ý kiến xem Ngài ủng hộ phe nào. Bẫy gài giương ra rất rõ ràng: Người ta sẽ đánh giá Ngài thuộc loại theo chủ thuyết “buông thả” hay chủ thuyết “gò bó” trong vấn đề này. Họ muốn đóng khung Ngài hoặc trong phe này hoặc trong phe kia. Trước tiên Chúa Giêsu dẫn đối phương về tận nguồn gốc cuộc tranh luận: “Môsê đã răn dạy các ông điều gì?” (c. 3). Câu hỏi này dễ trả lời (c.4). Lời quy chiếu của đám biệt phái về luật Môsê cho thấy thói quen xưa kia xem việc ly dị là hợp pháp (x. Đnl 24,1). Luật pháp Israel (bắt nguồn từ Môsê?). Chỉ nhân đạo hóa chút ít tập tục này bằng cách buộc người chồng phải trao cho người vợ mà ông ta ly dị một tờ giấy xác nhận. Tuy nhiên Chúa Giêsu không phải là không biết rằng bởi vì theo chủ trương buông thả quá độ nên truyền thống Do Thái đã phạm tội thiên bị bênh vực cho riêng cánh đàn ông. Người đàn ông có thể rẫy vợ mình kể cả vì những lý do không đáng gì hết! Một câu trong sách Đệ nhị luật đã mở đường cho tất cả mọi sự lạm dụng: “Khi một người nam cưới vợ, nếu cô này chẳng được ơn trước mặt người chồng bởi người ấy thấy nơi nàng có điều gì tỳ vết, thì người ấy thảo một tờ giấy ly dị, trao vào tay cô ta và đuổi cô ta về lại nhà cha mẹ...” (Đnl 24,1). Sử gia Do Thái Flarius Joseph (thế kỷ I sau Công nguyên) xác nhận là phe Hillel đã dùng đoạn này trong Torah để ủng hộ quyền tự do ly dị của cánh đàn ông. “Kẻ nào muốn lỵ dị, vì bất cứ lý do gì (có vô số lý do mà đàn ông có thể nại ra) thì cứ viết ra một chứng thư xác nhận (Cổ văn Do Thái 4,8,23).
Ý thức được hiện có đủ lối cắt nghĩa về vấn đề này Chúa Giêsu liền bắt đầu cách phục hồi luật Môsê vào đúng mực độ của nó: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá nên ông Môsê mới viết điều răn đó” (c. 5). Chủ đề dân được chọn cứng lòng không nghe lời Chúa đầy dẫy trong luật sư. Các tiên tri đã không ngừng tố cáo tấn kịch này của Israel, một dân tộc luôn cố “chống lại ý Chúa”. Chính Chúa Giêsu cũng đã phàn nàn về “sự cứng lòng này” của đám biệt phái là những đại biểu ưu tú của dân (x. 3,5). Tuy nhiên, Chúa Giêsu dự tính xoáy sâu hơn vào tư tưởng Ngài. Cũng như trước đây khi đề cập đến luật Môsê về ngày Sabat (x. 2,23-28). Lần này Ngài cũng đi trở vượt qua truyền thống Do Thái để trở về với ý định ban đầu của Đấng Tạo Hóa (c. 6). Chúa Giêsu đi trở ngược dòng thời gian: khá lâu trước thời kỷ Đệ nhị luật, sách Sáng thế mà Ngài trưng dẫn (St 1,27) đã trình bày sự kết hợp nam nữ như là nền tảng vững chắc để xây dựng cộng đoàn nhân lọai chứ không phải để phá hủy. Được tạo dựng theo hai phái tính nam, nữ nên cả đàn ông lẫn đàn bà “đều là hình ảnh của Thiên Chúa”. Sự cao cả của việc hô kết hợp với nhau là ở đó. Chúa Giêsu đưa ra yêu muốn Đấng Tạo Hóa về sự kết hợp này: “Vì thế... cả hai sẽ thành một xương thịt” (c. 7-8). Quy chiếu này rõ ràng ám chỉ trình thuật thứ hai về cuốn tạo dựng (St 2,24). Bản văn này rất súc tích. Người nam và người nữ được kêu gọi xây dựng nên một tế bào gia đình độc lập. Sự kết hợp giữa họ tạo thành một đơn vị nền tảng, phát sinh do sợi dây tình yêu và tình dục. Được xây dựng trên ý định của Thiên Chúa nên đơn vị nguyên sơ này là một thực thể cần phải bảo vệ bằng mọi giá. Chúa Giêsu nhấn mạnh điều đó: “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phố hợp, loài người không được phân ly!” (c. 9).
Như vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra một tầm nhìn cao vời bất ngờ cho câu hỏi trên. Như sau này thánh Gioan nhận thức, nơi đây quả có một vị tiên tri còn cao cả hơn Môsê, nhà lập luận của dân riêng Chúa (Ga 1,17). Với quyền năng Thiên Chúa tràn đầy, Đức Mêsia đã đến phục hồi vũ trụ vào đúng trật tự Đấng Tạo Hóa muốn. Nếu có tham gia vào cuộc tranh luận đang diễn ra giữa các bậc khôn ngoan (các giáo sĩ ưu tú lúc bấy giờ) Chúa Giêsu cũng không để mình bị rơi vào bẫy của các nhà luật học Do Thái cũng như vào chủ nghĩa vị luật của họ. Ngài xác nhận mạnh mẽ ý nghĩa nguyên thủy mà Thiên Chúa đã ban cho mối dây liên kết hôn nhân. Con đường Ngài mở ra mang tính cách đòi hỏi hơn các quan điểm nhân loại rất nhiều. Sự nghiêm khắc của con đường ấy không ngừng hạch sách các bạn hữu thân tình của Ngài. Như thường lệ, chính các môn đệ cũng ngỡ ngàng về lời dạy khắt khe của Thầy mình. Họ lợi dụng đám Biệt Phái rút lui để hỏi riêng Chúa Giêsu tại nhà (c. 10). Người ta có thể nghĩ rằng họ đai diện cho cộng đoàn Kitô hữu sơ khai đang đương đầu với vấn đề ly dị nơi các thành viên của mình và đang tìm cách xác định tư tưởng của Chúa Giêsu về những trường hợp khó khăn, và Chúa Giêsu đã trở lại cho các môn đệ bằng một công thức đầy kinh ngạc (c. 11-12). Người ta có thể nêu ra hai nhận xét. Thứ nhất, ở đây liên quan đến việc tái hôn của những người đã ly dị, chứ không phải là một sự ly thân. Tình trạng này bị xem là “ngoại tình”. Đây là từ ngữ nghiêm khắc được các tiên tri dùng để bêu riếu Israel về việc họ “tương giao” với Thiên Chúa (x. Hs 1-3). Thứ hai là các từ ngữ được dùng cho thấy đàn bà cũng có quyền ly dị giống như đàn ông. Vào thời Chúa Giêsu, trường hợp này không hề có Thầy luật pháp Do Thái. Điều này cho thấy trường hợp này phát xuất từ luật Rôma. Khi soạn Phúc Âm cho các Kitô hữu đến từ gốc ngoại giáo, hẳn Maccô đã phải để ý đến các luật lệ Rôma.
Hai nhận xét trên đủ cho thấy rõ tư tưởng vững chắc của Chúa Giêsu về đề ly dị đã được Giáo Hội sơ khai áp dụng vào những tình cảnh mới. Vì thế không ngạc nhiên gì khi tư tưởng ấy vẫn còn áp dụng mãi đến ngày hôm nay. Giáo Hội luôn luôn phải đương đầu với những trường hợp hôn nhân bị “đứt đoạn” và vấn đề tái hôn. Dù sao trong tất cả những trường hợp này, người ta hãy nhớ rằng tư tưởng của Chúa Giêsu không xây dựng trên quan điểm “vị luật”, và Ngài luôn luôn rộng mở đón nhận những kẻ bị khai trừ và những người tội lỗi (x. 2,15-17).
CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRẺ EM (10,13-16).
Giữa lúc Chúa Giêsu đang dạy dỗ về phương cách để trở thành môn đệ Ngài (từ 8,34) thì Maccô lại lồng vào quang cảnh ngắn gọn sống động đầy tươi mát này: Chúa Giêsu tiếp đón các trẻ em. Trước đây, Chúa Giêsu đã từng biểu lộ quan tâm của Ngài đối với thế giới trẻ em (9,35-37). Để được đầu với những cao vọng nhóm Mười Hai, lúc đó Ngài đã tự xem mình là tôi tớ cho tất cả mọi người. Ở đây sứ điệp này được lặp lại với trọng điểm nơi khác một tí. Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết trẻ em là gương mẫu trong một trong việc tiếp nhận Nước Thiên Chúa.
Người ta mang trẻ em tới cho Ngài để được Ngài chạm vào chúng (c. 13a). không ghi rõ tuổi tác nhưng đây chắc chắn không phải là những đứa bé xíu. Từ ngữ Hy Lạp được dùng ở đây ám chỉ lứa tuổi từ 7-14. Cũng không thấy xác định rõ lý do tại sao “người ta” muốn Ngài chạm vào đứa trẻ em này. Thực sự rất nhiều lần chúng ta đã thấy nhiều người, nhất là các bệnh nhân chen nhau đến với Chúa Giêsu để chạm được vào vị lương y này (2,10; 5,25-28). Tuy nhiên các trẻ em này không phải là những bệnh nhân. Phải chăng những kẻ mang chúng đến với Chúa Giêsu chỉ muốn Ngài ban cho chúng một cử chỉ chở che?
Người ta rất cảm thấy chướng trước thái độ rõ ràng thù nghịch của các môn đệ (c.13b). Đây là một cử chỉ xua đuổi mạnh mẽ. Tại sao vậy? Vào thời Chúa Giêsu, người lớn thường có thái độ khinh thường trẻ em. Lũ trẻ lóc nhóc, hay đòi ăn này chẳng được xem trọng trong một thế giới đói nghèo. Thêm vào đó, đám trẻ thuộc cộng đoàn Do Thái này lại chưa biết gì đến lề luật Môsê nữa chứ. Cho nên người ta xem chúng như những kẻ “sống ngoài lề luật”. Chúng bị liệt vào hàng “bị khai trừ” giống như các bệnh nhân, phụ nữ và nô lệ v.v... Sự khinh bỉ mà các bạn thân của Chúa Giêsu biểu lộ đối với đám trẻ em làm Ngài xúc động mạnh: “Thấy thế, Ngài bực mình” (c.14a). Maccô từng nêu lên tia nhìn giận dữ của Chúa Giêsu (3,5) tuy nhiên chưa bao giờ ông tỏ cho chúng ta biết lý do sâu xa Ngài tức giận. Còn bây giờ thì lý do đã rõ (c.14b): đám trẻ em, cũng như những kẻ bị “khai trừ” khác, vẫn có chỗ trong Vương Quốc của Chúa Giêsu.
Cùng với Chúa Giêsu, Vương Quốc Thiên Chúa đã đến: đó là một trong những đề tài nổi bật được Chúa Giêsu ưa thích nhất trong lời công bố của Ngài (x.1,14-15). Giờ đây Ngài chỉ rõ đám trẻ em và “những kẻ giống như chúng” là những người được nhận lãnh Vương Quốc này. Tại sao vậy? Chúa Giêsu thường dùng lời nói tán dương “tinh thần của trẻ em”. Hẳn người ta đã nói nhiều đến sự ngây thơ vô tội của trẻ em. Người ta đã biến chúng thành kiểu mẫu luân lý mặc dù vẫn không phải luôn luôn cảnh giác được chiếc bẫy mà những kẻ trưởng thành khờ khệch thường hay rơi vào đó là một thứ “ấu trĩ chủ nghĩa” nào đó. Khoa học hiện đại, đặc biệt là khoa tâm lý chiến đấu đã cho thấy một cái nhìn bớt thơ mộng hơn về trẻ em. Một nhà thông thái như Frend chẳng hạn còn dám nói trẻ em là một thứ “tà vạy đa hình”: một sinh vật tàng ẩn, dưới dạng mầm non, mọi xấu xa của người lớn.
Vì thế không nên lý tưởng hóa việc Chúa Giêsu tiếp đón trẻ em. Nếu Chúa lấy trẻ em làm gương cho những người lớn bắt chước là bởi vì theo não trạng thời đó, trẻ em là những kẻ bé nhỏ, nghèo nàn và bị khai trừ. Chúng ta hãy đọc lại: vào thời Chúa Giêsu trẻ em trước hết là một “kẻ nghèo” bởi chúng hoàn toàn lệ thuộc vào người khác, đồng thời chúng cũng tỏ ra rất có khả năng lắng nghe và tin cậy, điều này những người lớn hầu như đã đánh mất! Chính thái độ sẵn sàng nơi trẻ em đã biến chúng thành tấm gương cho các tín hữu. Chúa Giêsu đã long trọng quả quyết điều này (c.15). Người ta nhận thấy rõ đây là nỗi ưu tư mà Chúa Giêsu không ngừng điều chỉnh cho tầm nhìn của các môn đệ bởi vì họ là những kẻ Ngài đang huấn luyện để đảm nhận trách nhiệm trong Giáo Hội. Họ phải bỏ đi những tham vọng “làm cha làm chú” (9,33-34) và phải trở nên “bé nhỏ” để có thể đón nhận Vương Quốc Thiên Chúa với lòng khiêm nhu và cởi mở tối đa.
Đoạn cuối trình thuật dễ thương này cho thấy Chúa Giêsu đã chuyển từ lời nói qua hành động. Ngài ôm đám trẻ và chúc lành cho chúng (c.16). Việc Chúa Giêsu trìu mến đám trẻ em – ít được yêu thương và thường bị ruồng bỏ này – mang đầy ý nghĩa sâu sắc. Theo Thánh Kinh cử chỉ “chúc lành” các giáo sĩ Do Thái thường làm, ám chỉ việc hiệp thông nhờ hành vi ban ân sủng của Thiên Chúa. Ở đây có nghĩa là Chúa Giêsu mở rộng Nước Thiên Chúa cho đám trẻ em.
Mọi cử động trong quang cảnh trên hé mở cho thấy những gì đang xảy ra trong Giáo Hội của Maccô. Một số môn đệ nắm giữ quyền hành, chắc chắn đang bị cám dỗ muốn “ngăn cấm” không cho những kẻ bé nhỏ, nghèo khó, bị khai trừ, gia nhập vào đời sống của cộng đoàn. Tác giả Phúc Âm đặt lại trước mắt các vị ấy cử chỉ tiên tri của Chúa Giêsu: với tư cách là tôi tớ mọi người, Chúa Giêsu muốn người ta để cho những kẻ bị thế gian khinh dể “đến với Ngài”; và không chừng những kẻ này lại được mời gọi vào sống thân mật với Thiên Chúa... trước tiên đấy!
55. Chú giải của Noel Quesson.
Đàn ông và đàn bà! Tại sao trai và Gái! Tại sao? Tính dục? Tại sao? Ai tình, khoái lạc, âu yếm, hôn nhân. Tại sao?
Tại sao cả thế giới sống động: thực vật, thú vật hay con người, đều được tạo ra theo "mẫu" này? Tại sao sinh vật phải gồm có hai “giống”, chia ra làm hai phần “đực và cái” khác nhau, nhưng được tạo ra “cho nhau". Tư tưởng con người không ngớt giao động về vấn đề này giữa phái Janséniste, và những người mệnh danh là lạc quan phóng khoáng, loại người đòi được tự do tình dục và ca tụng lạc thú như mục đích của con người.
Luân lý Kitô giáo trong những thế kỷ vừa qua, đã quá thổi phồng mặc cảm tội lỗi quanh vấn đề "Thanh sạch " và “không Thanh sạch”.
Tâm trạng con người hiện nay có khuynh hướng từ bỏ mọi khuôn mẫu và ca ngợi sự phóng khoáng: “Hãy làm điều bạn muốn làm, hãy làm những gì vừa ý bạn".
Đức Giêsu nghĩ gì về vấn đề này?
Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?".
Đó là câu hỏi đầy ác ý. Họ đặt ra để bắt bí Đức Giêsu, một câu hỏi nhằm gài bẫy. Dù Chúa có trả lời như thế nào đi nữa, thì Người cũng phải lãnh chịu một phần công luận, vì đây là vấn đề nóng bỏng và chạm đến những gì thâm sâu nhất của con người. Không ai có thể trung lập trước câu hỏi, vì phải chấp nhận tình trạng này hay tình trạng kia một cách cụ thể. Những vết thương lòng rất khó lành. Câu hỏi do người Pharisêu nêu lên là đáng ngạc nhiên, vì giải đáp đã do luật đưa ra rồi. "Một người nào lấy vợ và đã cưới hỏi rồi, nếu xảy ra là vợ không được vừa mắt chồng nữa, vì chồng gặp thấy nơi nó có điều gì thô bỉ, vậy chồng đã viết cho nó lá thư, mà trao tay nó và đã thải hồi khỏi nhà mình" (Đnl 24).
Câu trả lời của luật pháp thật là rõ ràng: Sự ly dị là hoàn toàn hợp luật, vào thời Đức Giêsu, cũng như thời nay. Chúng ta cũng ngạc nhiên về sự giống nhau giữa những tình huống của các Kitô hữu đầu tiên và tình huống ngày nay mà chúng ta biết: Trong hầu hết các nước trên thế giới đều có luật chấp nhận ly dị và tái giá.
Người đáp: "Thế ông Môsê đã răn dạy các ông điều gì? Họ trả lời ông Môsê đã cho phép viết chứng thư ly dị mà rẫy vợ”.
Trả lời như thế thật là đẹp đẽ để giúp ta giữ thái độ khiêm nhường trước- những câu hỏi khó khăn. Những kiểu chú giải Kinh thánh "mang tính truyền thống" (nghĩa là chủ trương phải hiểu Kinh thánh theo nghĩa đen từng chữ một) thực sự chỉ đạt đến những điều ngây ngô và trẻ con. Hiển nhiên là mạc khải luôn tiệm tiến, và luân lý, giáo huấn cũng tiến bộ theo thời đại. Môsê, phần lớn chỉ lấy lại "luật theo tục lệ" của thời ông, mà thời đó chế độ đa thê và ly dị đã nằm trong truyền thống có cơ sở vững chắc. Vì không thể làm hơn được, ông đã cố sửa chữa những sở thích tùy tiện, bằng cách "hợp thức hóa", "quy định" và thiết lập một; “thủ tục". Ong muốn giới hạn sự ác bằng cách buộc phải theo thủ tục rõ ràng. Nhưng cũng như mọi luật lệ, luật này có thể được áp dụng rộng rãi hay là ngược lại: Có hai cách giải thích đối nghịch nhau vào thời Đức Giêsu. Thực vậy vấn đề là giải thích chữ "việc làm gây đụng chạm nặng" trong điều luật mà theo ý của Rabbi Shammai, phải hiểu từ này ám chỉ một tình trạng "vô luân trầm trọng" mà thôi, như thái độ ngoại tình. Trong khi trường phái kém khắt khe hơn của Rabbi Hillel đã hiểu rộng hơn, như đã lỡ để mất một bữa ăn bị cháy khét (Mischna Gittin IX 10).
Qua thí dụ này, chúng ta có thể kết luận rằng: "Tất cả những gì hợp pháp, không hẳn là hợp luân lý". Người Kitô hữu sống trong một thế giới đa dạng. Họ phải đủ sức chịu động để sống theo lương tâm của mình, dù điều đó có thể đưa tới một thái độ anh hùng theo Tin Mừng nào đó, đi ngược lại đa số. Nhưng nói cho cùng, đa số những đòi hỏi của Tin Mừng không yêu cầu chúng ta làm như thế cả sao? Thái độ bất bạo động không phải là một sự điên rồ sao? Tha thứ vô điều kiện, không phải là một lệch lạc sao? Tự nguyện sống nghèo không phải là một điều không tưởng sao? Chính trong bối cảnh ly dị trở thành hợp pháp như thế, mà Đức Kitô sắp bày tỏ lập trường đối với thời đại của mình.
Đức Giêsu nói với họ: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn ấy”.
Lần này, đáng lẽ Người ta không nên dịch từ Hy Lạp “Sclérocardia" mà nên chuyển từ này sang tiếng Pháp thì mọi người sẽ hiểu: "Vì chứng bệnh "sơ cứng tim" của các người, mà Môsê đã cho phép ly dị". Đây là một chứng bệnh tim rất phổ biến, sự chai cứng của quả tim, sự cứng lòng. Lạy Chúa, xin dạy cho chúng con biết thực sự yêu thương Người kia (người phối ngẫu). Có một áp lực xã hội rất mạnh (hãy làm như mọi người). Ngày nay cũng như thời xưa, thúc đẩy chúng ta chỉ cần những mối "tương quan lực lượng". Thí dụ; Thống kê chứng minh rằng ba phần tư những trường hợp ly dị trong năm năm đầu của cuộc hôn nhân xảy ra đối với những đôi vợ chồng đã ăn ở với nhau trước khi cưới. Khước từ "hôn nhân", khước từ "những tiêu chuẩn xã hội", không phải là bằng chứng của sự trưởng thành! Sống chung, ăn ở với nhau mà không làm đám cưới, thực ra điều đó có nghĩa gì? 'Không phải đó là giữ cảm tình ở một mức thiếu niên, và làm cho nó không vượt khỏi trình độ sơ đẳng sao? Không phải đó là giữ một lối thoát. Khước từ dấn thân thể sự, không "tự trao hiến" có nguy cơ cứ ở mãi trong tương quan thống trị giữa hai Người phối ngẫu sao? Tôi luôn phải làm chủ! Tôi phải tỏ ra tự do!
Coi chừng bệnh "chai tim" của bạn đó, Đức Giêsu đã cảnh giác như thế. Có cái gì đang núp ẩn dưới vẻ thân mật tự chủ, tự do? Tình yêu cho người kia, hay là tình yêu của tình bạn?
Còn thuở ban đầu, lúc tạo thành vạn vật, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ.
Luật căn bản của lứa đôi cần phải kiếm tìm, luôn nằm trong lãnh vực đó: Sự bổ túc của hai phái tính là một "sáng tạo", một "Thánh ý" của Thiên Chúa, được ghi khắc trong bản chất thâm sâu của người nam và người nữ.
Một lần nữa, Đức Giêsu không diễn tả bằng những từ luân lý được phép và bị cấm dù trên thực tế những điều này dẫn đến những thái độ rõ ràng. Người đưa ra một lý tưởng. Chúng ta không thể coi việc áp dụng luật là đủ. Đối với Đức Giêsu, cần phải có chiêm ngưỡng "dự án của Chúa về người nam và người nữ".
Trước những quan điểm xã hội, những luồng tư tưởng khác nhau, những chủ truơng "làm như mọi người", chúng ta quan niệm thế nào về tình yêu hôn nhân? Có phải quan niệm như một minh tinh điện ảnh nào đó? Như trong một bài hát nào đó trên máy thu thanh, dành cho những người bình dân? Đức Giêsu nói.. Hãy coi chừng! Trước tất cả những điều này, Thiên Chúa đã có một quan niệm về tình yêu và đã diễn tả quan niệm này trong sự sáng tạo của Người.
Vì thế người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.
Như vậy, Đức Giêsu đã tham chiếu bản văn sách Sáng Thế mà chúng ta đọc trong bài đọc một hôm nay. Chúng ta sẽ không bao giờ khám phá hết những kỳ diệu trong lời khẳng định phi thường của Sách Thánh: "Chúng ta hãy tạo con người theo hình ảnh của chúng ta, theo họa ảnh của chúng ta". Và Thiên Chúa đã tạo con người theo hình ảnh của Người, theo hình của Thiên Chúa, Người đã tạo ra con người nam và nữ (St 1,26-27). Không phải tình cờ mà bản văn Kinh thánh đã chuyển từ số ít ra số nhiều. Thiên Chúa là một trong ba ngôi, đã tạo nhân loại theo hình ảnh của Người, "nhiều” mà chỉ là “một". Từ nhiều người, khác nhau sâu xa, làm nên một. Đó là nguồn gốc của sự hiệp nhất trên thế gian, ngay từ lúc đầu cuộc sáng tạo.
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con vinh quang của Chúa. Chúa đã tạo người nam và người nữ theo hình ảnh của Chúa. Oi, một giao ước mầu nhiệm thay! Lạy Chúa, là tình yêu chia sẻ, xin cho dân của Người nghị lực yêu thương.
Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.
Chỉ có Thiên Chúa sống động trong ta, mới có thể làm được những gì mà chúng ta coi như bất lực. Bí tích hôn phối đúng là một hồng ân, một quà tặng nhưng không, để chữa bệnh con người không biết yêu thương như Thiên Chúa của giao ước hằng thương yêu. Sự bất khả phân ly của hôn nhân như Đức Giêsu đã tuyên bố, đi ngược lại chuẩn mực thông thường của chúng ta, không thể trở nên dịp cho chúng ta xét đoán hay lên án những gia đình gặp khó khăn: Chúa Kitô không kêu gọi chúng ta làm việc đó! Sự bất khả phân ly là lời thề hứa sâu sắc nhất của tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cảm tạ Chúa đã nói lại điều đó cho chúng con, dù đó là điều khó sống theo, nhưng nhờ sự thương khó và thập giá Chúa, xin cứu giúp tình yêu chúng con. Xin làm cho chúng con biết yêu thương như Chúa.
Ai rẫy vợ mà lấy người khác, là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình, và ai bỏ chồng để lấy người khác thì cũng phạm tội ngoại tình.
Sự đối xung hoàn hảo của hai kiểu nói song hành này, rất có ý nghĩa.
Đối với Đức Giêsu, sự hỗ tướng cần trọn vẹn: Người nam và Người nữ đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Trong thế giới mà các tương quan thống trị đang thắng thế như hiện nay, Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải biết yêu thương người phối ngẫu. Và Người cho chúng ta "sức mạnh" để yêu thương như thế, dù có gặp khó khăn.
Sự hiệp nhất đời sống lứa đôi là do Chúa muốn, không phải chỉ từ "lúc đầu”, không phải "một thiên đường đã mất" trong quá khứ. Đây là đường đi hằng ngày mà nơi đó "Thiên đàng đã tìm lại" đang xây dựng, nơi cuối cùng chúng ta sẽ trở nên hình ảnh của Thiên Chúa "Ba" mà là "Một".
56. Chú giải của Fiches Dominicales.
HỌ CHỈ LÀ MỘT XƯƠNG MỘT THỊT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Từ cuộc tranh luận "khi đi đường”
Đã hai lần (và sẽ còn một lần thứ ba nữa) Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Người. Trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ chịu khổ nạn và chịu chết, Người tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan.
B.Standaert nhận xét như sau: "Việc Maccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô thật đáng suy nghĩ: Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích luật này luật nọ trong Kinh Thánh, ông- nhìn nhận chỉ có một nền tảng duy nhất cho đời sống luân lý Kitô giáo là việc noi gương Đức Kitô. Những trình thuật quan trọng loan báo số phận của Con người thật ra không gì là khích lệ, nhưng chính từ đinh mệnh Đức Kitô, ta sẽ hiểu được những đòi hỏi thực tế của Kitô giáo. Do đó, ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống đó có những đòi hỏi quyết liệt, không khoan nhượng”. Ông nhận xét tiếp: "Theo Maccô trình bày, noi gương Đức Kitô là chìa khoá của tất cả đời sống luân lý. Sự tương cận giữa đời sống Đức Giêsu và đời sống người Kitô hữu mà Maccô đề ra vẫn là gương mẫu cho nỗ lực tìm hiểu đời sống Kitô giáo. Maccô mời gọi ta suy nghĩ lại cả những thực hành, hoạt động, bi kịch và ước vọng của ta dưới ánh sáng duy nhất của tấn thảm kịch mà Đức Giêsu đã trải qua: "bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại" (9. 31) ("L'evangile selon Marc", Cerf, trang 78-79 và 81).
- Có lẽ ở Giuđê, nơi dân cư là người Do thái sống chung quanh thủ đô Giêrusalem, Đức Giêsu chạm trán với nhóm Pharisêu. Nhóm này muốn thử thách Người nên đặt vấn nạn về vấn đề ly hôn: "Chồng có được phép rẫy vợ không?" Vào thời đó, việc chồng rẫy vợ trên nguyên tắc được mọi người chấp thuận. Sách Đệ Nhị luật 24,1 có viết: "Nếu một người đàn ông đă lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà”? Người ta chỉ bất đồng ý kiến về lý do mà người đàn ông viện ra để rẫy bỏ vợ mình.
+ Phái bảo thủ, muốn bênh vực quyền lợi cho người đàn bà trong xã hội do đàn ông thống trị, (môn phái Shammai) chỉ nhận duy nhất một lý do là hợp pháp: đó là thói lăng loàn bất trị của người vợ, hoặc một hành động khiến có thể nghi ngờ lòng chung thuỷ của nàng.
+ Phái tự do (môn phái Hillel) cho phép rẫy bỏ vợ bất cứ vì lý do nào, thí dụ như vô sinh, hiếm muộn, gặp được người đàn bà khác mình thích hơn, hoặc chỉ vì nấu ăn dở.
Nhóm Pharisêu tự hỏi xem Đức Giêsu sẽ gia nhập phái nào? Nhưng họ cũng biết quá rõ, cho dầu chọn môn phái nào, Người cũng bị sập bẫy. Vì người ta sẽ chụp mũ Người là “cứng cỏi” hoặc là "buông thả" đối với Lề Luật thánh, và như vậy, không ai còn tin giáo huấn của Người.
- Nhưng Đức Giêsu không rơi vào cạm bẫy của họ. Người trả lời bằng một câu hỏi: "Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? Khi dùng từ truyền dạy, Người buộc những người chất vấn phải nhìn nhận công khai, đó không phải "một lệnh truyền" của Môsê, mà chỉ là một nhân nhượng vì lý do nhân đạo. Họ thú nhận: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”.
Bấy giờ, Đức Giêsu nại đến một quyền lực cao trọng hơn quyền lực của Môsê trong việc cắt nghĩa Lề luật. Như những lần tranh luận về ngày Sabát, ở đây, Đức Giêsu cũng nại đến ý Thiên Chúa từ thuở ban đầu: "Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, vì thế người đàn ông sẽ "lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Việc rẫy vợ, dù rằng có trao tờ ly hôn chỉ là một nhân nhượng, nó không huỷ bỏ ý muốn ban đầu của Thiên Chúa, và tính cách vĩnh viễn của hôn ước. "Vì thế họ sẽ thành một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly".
J. Hervieux giải thích: "Ra đời trước sách Đệ nhị luật rất lâu, sách Sáng Thế mà Chúa trích dẫn, đã trình bày sự phối hợp người nam người nữ như nền tảng vững chắc, trên đó nhân loại được xây dựng chớ không bị hủy diệt. Con người được tạo dựng có nam có nữ nên cả hai phái tính đàn ông và phụ nữ đều là "hình ảnh của Thiên Chúa". Sự cao quí của việc kết hợp nam nữ là ở đó. Đức Giêsu rút ra kết luận mà Đấng Tạo Dựng mong muốn: "Vì lý do cả hai thành một xương một thịt". Lời lẽ thật hết sức rõ rệt. Đàn ông và phụ nữ ơn gọi làm nên một tế bào gia đình tự lập. Đôi uyên ương họ tạo lập trở nên một đơn vị nền tảng, phát xuất do mối tương quan tình yêu và giới tính. Cái đơn vị hàng đầu này, được tạo lập do ý định của Thiên Chúa, là một thực thể cần được bảo vệ bằng mọi giá. Đức Giêsu cương quyết nhắc nhủ điều đó "Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly" ("L'evangile de Marc", Centurion, trang 141-142).
2) Đến cuộc chuyện vãn thân mật "ở nhà".
Thay vì bị mắc vào âm mưu của các luật sĩ, Đức Giêsu cương quyết tái xác định ý nghĩa sự phối hợp hôn nhân do Thiên Chúa sắp đặt tự nguyên thuỷ; Người không làm luật, Người chỉ đề nghị một thái độ đạo đức cơ bản: đó là đặt mình vào kế hoạch của Đấng tạo thành. Người mở ra con đường khắt khe hơn quan điểm thường tình của người phàm. Cũng thế, vừa khi trở về nhà, (nơi biểu trưng cho những giáo huấn mà Đức Giêsu dạy dỗ riêng các môn đệ) các môn đệ thay thế cho nhóm Pharisêu đặt câu hỏi: Và Đức Giêsu trả lời họ: "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác, là phạm tội ngoại tình, đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác cũng phạm tội ngoại tình”.
Ta thấy, khi chuyển lời Chúa đến địa chỉ mới là những Kitô hữu gốc ngoại giáo, thuộc thế giới Hy-lạp, nơi mà luật pháp cho phép phụ nữ cũng như đàn ông được quyền tự ý ly dị, Maccô cũng để ý đến hoàn cảnh đặc biệt này. Ông lần lượt nêu ra trường hợp người chồng, rồi người vợ, lìa bỏ người bạn đời của mình; dù cho phía nào gây ra cuộc phân ly cũng sẽ có "ngoại tình" nếu đi lấy người khác, nghĩa là nếu kéo theo cuộc phối hợp khác.
J.Hervieux nhận xét: "ý kiến cứng rắn của Đức Giêsu về vấn đề ly dị được áp dụng cho Giáo Hội sơ khai trong bồi cảnh mới mẻ. Đem áp dụng cho Giáo Hội hôm nay cũng không là điều đáng ngạc nhiên. Giáo Hội luôn phải đối mặt với những trường kết hợp vợ chồng bị đổ vỡ rồi tái tạo. Dù sao đi nữa, ta phải luôn nhớ rằng ý kiến của Đức Giêsu không dựa trên quan điểm “ duy luật” và Người luôn dang rộng tay đón tiếp những người bị khai trừ và những kẻ tôi lỗi” (Sđd, trang 142).
Tiếp ngay sau giáo huấn này, là việc một số cha mẹ dẫn con họ đến với Đức Giêsu để “Người đặt tay trên chúng” và họ chạm phải phản ứng thô bạo của các môn đệ: các ông thẳng tay đuổi chúng.
Ta dễ hiểu phản ứng của các môn đệ, nếu ta nhớ rằng vào Đức Giêsu. Trẻ nhỏ thường bị người lớn khinh thường. Tất cả những chú nhóc chen chúc nhau trong cộng đồng Do thái đều mù tịt về luật Môsê, chúng bị liệt vào hạng “bị khai trừ”, như bệnh nhân, phụ nữ và nô lệ.
Bực tức trước thái độ như thế, Đức Giêsu lợi dụng cơ hội này để dạy về thái độ tinh thần mà người môn đệ của Nước Trời phải có: "Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”. "Nếu Vị Tôn Sư nêu trẻ nhỏ ra làm gương mẫu cho người lớn bắt chước, chính là theo quan niệm của thời đó, vì chúng nhỏ bé, nghèo khó, bị khai trừ. Như đã nói, vào thời Đức Giêsu, trẻ nhỏ là "người nghèo": chỉ là một sinh vật hoàn toàn lệ thuộc vào người khác. Nhưng trẻ nhỏ cũng là dấu chỉ sống động cho khả năng biết lắng nghe và tin tưởng. Chính khả năng dễ hoà nhập của trẻ nhỏ là một tấm gương cho các tín hữu. Đức Giêsu long trọng quả quyết điều đó(câu 15). Bởi vậy, ta nhận ra rằng Đức Giêsu luôn lo lắng để uốn nắn cái nhìn của các môn-đệ, mà Người đang đào tạo để trở thành những người lãnh trách nhiệm trong Hội Thánh. Họ cần phải bỏ tính tự cao tự đại (9,33-34), phải trở nên nhỏ bé để đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn khiêm nhượng và rộng mở " (Sđd trang 142).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) Do bản tính yếu đuối của con người.
"Do bản tính yếu đuối của con người" đó là câu nói cửa miệng để biện minh cho luật lệ và quy chế. Không có nó, con người sẽ đi về đâu? Có lẽ xã hội sẽ do những người mạnh nhất, hoặc những kẻ xấu nhất thống trị. Luật lệ là điều cần thiết dù ở thời đại nào, hay trong nền văn minh nào cũng vậy. Đó là lời thú nhận về những giới hạn của thân phận con người.
Trả lời cho nhóm Pharisêu có ý gây hấn và đầy ác tâm, Đức Giêsu vạch một luống cày để gieo hạt giống cho sự sống vĩnh cửu. "Chính vì lòng chai dạ đá của các ông mà Môsê đã ban hành luật như thế, kể cả luật hôn nhân, để các ông khỏi chìm xuống sâu hơn, đúng hơn để các ông giữ được độ cao và biết đâu, các ông có thể sẽ muốn vươn lên cao hơn”.
Một cái nhìn đầy tin tưởng đối với nhân loại! Người không lợi dụng điểm yếu của họ. Người khơi dậy điều tốt nhất nơi họ, điều làm cho một tạo vật nên giống hình ảnh của Đấng Sáng Tạo, tức lương tri và trí tuệ mở rộng vô biên đến tận cõi trời vĩnh phúc.
Như vậy, Đức Giêsu dẫn đối thủ của Ngài về với ý định đầu tiên mà cũng là cuối cùng của Thiên Chúa, đó là con người sống hoà hợp với nhau và với vũ trụ. Thiên đường tại thế và Nước Trời. Giữa hai thế giới ấy, những yếu đuối của con người đọc coi là "sự cứng cỏi của con tim”, là trái tim từ chối đập theo nhịp của Thiên Chúa. Là từ chối hoạt động cho sự hòa hợp trong vũ trụ theo ý muốn của Đấng Sáng Tạo".
2) Những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân: đường lối khả thi để xây dựng cuộc sống gia đình.
Để xem xét mục vụ về bí tích Hôn nhân, chúng ta phơi thực quan tâm đến những điều kiện thực tế hiện nay của đời sống lứa đôi: cuộc sống tạm bợ, bấp bênh về tương lai, bất ổn về đời sống lứa đôi không ngừng gia tăng, đổi thay của thân phận phụ nữ, những vấn đề do việc điều hoà sinh sản đặt ra. Khi để ý đến những điều kiện này, ta có thể trình bày những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân như một đường lối khả thi để xây dựng đời sống lứa đôi và gia đình. Một đường lối khả thi, nghĩa là đi theo nó, đôi vợ chồng không bị bỏ rơi nhưng, nhờ sự nâng đỡ của một nhóm hay một cộng đoàn Kitô hữu, chính họ được mời gọi để hiểu rằng Lời Đức Kitô dạy về tình yêu nhân loại đáp ứng được điều sâu thẳm nhất mà cũng mỏng giòn nhất nơi con người".
57. Chú giải mục vụ của William Barclay.
DÙ SAU NÀY TỐT XẤU RA SAO (10,1-12)
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đi về phía Nam, Ngài đã ra khỏi xứ Galilê và vào trong địa phận xứ Giuđê. Ngài chưa đến Giêrusalem nhưng từng bước từng giai đoạn, Ngài đang đến gần khung cảnh cuối cùng. Có vài người Pharisêu đến chất vấn Ngài về việc ly dị để thử Ngài. Có thể ẩn đàng sau câu hỏi này, còn có nhiều động cơ thúc đẩy khác nữa. Ly dị là một vấn đề nóng bỏng, một đề tài tranh luận của các Rabbi, và có thể họ thật lòng muốn biết ý kiến và nhận định của Chúa Giêsu trong vấn đề này. Cũng có thể họ muốn thử Ngài về phương diện giáo lý chính thống. Có lẽ Chúa Giêsu đã từng đề cập đến vấn đề này rồi. Trong Mt 5,31-32 chúng ta đã thấy Chúa Giêsu đề cập hôn nhân và việc tái hôn, nên số người ấy mong Ngài tự mâu thuẫn với chính mình và sẽ gặp rắc rối vì chính những lời Ngài đã nói. Cũng có thể họ vốn biết Ngài sẽ trả lời như thế nào nên tìm cách đẩy Ngài vào chỗ thù địch với Hêrôđê, là người đã ly dị vợ để cưới vợ khác. Cũng có thể họ muốn được nghe Chúa Giêsu nói trái luật Môsê sẽ như Ngài đã từng làm, do đó, họ sẽ tố cáo Ngài là kẻ giảng tà giáo. Có một điều chắc chắn: vấn đề họ đặt ra không phải là vấn đề thuần lý, chỉ liên quan đến trường phái của các Rabbi mà thôi. Đó là một trong những đề tài tranh luận gay gắt trong thời Chúa Giêsu.
Về lý thuyết, không có gì cao hơn lý tưởng về hôn nhân trong Do Thái giáo. Trinh khiết vốn được xem như đức hạnh quan trọng nhất của mọi đức hạnh. “Chúng tôi nhận thấy rằng Thiên Chúa nhịn nhục đối với mọi tội, ngoại trừ tội không gìn giữ trinh khiết”. “Việc không giữ tiết hạnh khiến vinh quang Thiên Chúa quay đi”. “Mọi người Do Thái thà chết chứ không chịu phạm tội thờ ngẫu tượng, giết người hoặc tà dâm”. “Khi có ai ly dị vợ thuở thanh xuân của mình, thì cả đến bàn thờ cũng rơi nước mắt”. Lý tưởng đã nằm sẵn ở đó nhưng thực tế lại hụt hẫng quá xa.
Điểm cơ bản làm xáo trộn mọi sự ở đây là theo luật Do Thái, phụ nữ vốn bị xem như một đồ vật. Phụ nữ không có quyền lợi pháp định, hoàn toàn bị đặt dưới quyền sử dụng của người đàn ông làm chủ trong gia đình. Hậu quả là người đàn ông có thể ly dị vợ bất cứ vì lý do gì, trong khi hầu như có rất ít lý do để người phụ nữ được phép ly dị. Cùng lắm người vợ chỉ có thể xin chồng ly dị mình mà thôi. Phụ nữ bị chồng ly dị dù có thuận ý hay không, nhưng đàn ông có thể tự ý ly dị vợ. Lý do để một phụ nữ được quyền xin ly dị chồng là khi người chồng mắc bệnh phong, hoặc khi người ấy xâm phạm tiết hạnh một trinh nữ, hoặc khi người chồng cáo gian vợ phạm tội trước khi kết hôn với nhau.
Luật về ly dị của người Do Thái vốn bắt nguồn từ Đnl 24,1. Đoạn sách này là nền tảng của toàn thể vấn đề. Khi một người nam cưới vợ, nếu nàng chẳng làm đẹp lòng chồng, bởi thấy nơi nàng một điều gì chướng, thì chồng được viết một tờ ly dị vợ rất đơn giản. Nó được viết như sau: “Đây là tờ giấy tôi viết để ly dị, cho ra khỏi nhà và cho (nàng) được tự do, có thể lấy ai tùy ý”. Về sau tờ ly dị được viết kỹ hơn, trau chuốt hơn “Vào ngày… tuần… tháng…năm… trên thế gian, theo cách đang tính đang thịnh hành tại thành phố..., bên bờ sông…, tôi là X. con trai của Y và dưới bất kỳ tên nào tôi được gọi ở đây, có mặt hôm nay… nguyên quán tại thành phố…, tự ý, không bị ai ép buộc gì, có từ bỏ, cho về và đuổi nàng Z. con gái của V. hoặc dưới bất cứ tên nào được người ta gọi mà từ trước đến nay vốn là vợ tôi. Hôm nay tôi đuổi nàng là Z. con gái của V. để nàng được tự do và có thể lấy ai tùy ý, chẳng ai có quyền ngăn cản. Đây là tờ ly dị, giấy đuổi, chứng chỉ ly hôn và theo luật Môsê, của Israel”. Vào thời Tân Ước, chứng từ này phải do một Rabbi đặc trách thảo ra. Sau đó, nó còn phải được một hội đồng gồm ba Rabbi phê chuẩn, rồi được lưu trữ tại Tòa Công Luận, nhưng nói chung thì việc ly dị vợ hết sức dễ dàng và thường thuờng do ý muốn của người đàn ông.
Nhưng vấn đề then chốt thực sự là việc giải thích luật theo Đnl 24,1. Câu ấy quy định người đàn ông có thể ly dị vợ nếu thấy nơi nàng điều gì chướng (bản Anh văn dịch là ô uế). Vậy họ phải cắt nghĩa câu này như thế nào? Trong vấn đề này xuất hiện hai trường phái tư tưởng. Trường phái Shammai giải thích vấn đề hết sức khe khắt, điều chướng (ô uế) là ngoại tình và chỉ có nghĩa là ngoại tình (tà dâm) mà thôi. Cho dù người đàn bà ấy xấu xa gian ác như Giêsabên, nhưng nếu người ấy không ngoại tình, không thể có chuyện ly dị. Thứ hai là trường phái Hillel giải thích câu quan trọng này theo nghĩa rộng rãi nhất. Họ bảo người vợ làm hỏng một đĩa đồ ăn, la cà ngoài phố, trò chuyện với đàn ông lạ, nói hỗn với bà con bên chồng và nếu đó là người hay to tiếng (họ lại định nghĩa to tiếng là đã nói lớn đến nỗi nhà hàng xóm có thể nghe được) –đó là những điều chướng. Rabbi Akiba còn đi rất xa để giải thích câu “nếu nàng chẳng làm đẹp lòng chồng” là “nếu người đàn ông thấy có người đàn bà nào đẹp hơn vợ mình”.
Bản tính con người vốn vậy, hễ điều gì lỏng lẻo hơn thì luôn luôn thắng thế hơn. Hậu quả là các lý do để ly dị hoàn toàn là những lý do nhỏ nhặt, hay chẳng có lý do nào cả lại là chuyện phổ biến tai hại. Sự việc vẫn tiếp diễn như thế nên vào thời Chúa Giêsu, phụ nữ thường ngần ngại không chịu tiến đến hôn nhân, vì hôn nhân quá bấp bênh. Khi Chúa Giêsu phán các lời ấy, Ngài đang đề cập một vấn đề nóng bỏng, và Ngài đã quan tâm đến phụ nữ mà giáng một đòn sấm sét hầu vãn hồi địa vị thích đáng phải dành cho hôn nhân.
Chúng ta cần ghi nhận một số điểm sau đây: Chúa Giêsu đã trích dẫn một quy tắc của Môsê, và Ngài thêm rằng sở dĩ Môsê đã quy định như vậy là “vì lòng các người cứng cỏi”. Câu này có một trong hai nghĩa sau đây. Có nghĩa là sở dĩ Môsê quy định như thế vì đó là điều tốt đẹp nhất người ta có thể trông mong nơi dân mà ông phải ban bố luật cho. Hoặc nó có nghĩa là sở dĩ Môsê quy định như vậy vì ông muốn cố gắng kiểm soát một tình hình lúc bấy giờ đã thoái hóa trầm trọng, và điều đó thật ra không hề có chuyện cho phép người đàn ông ly dị vợ, nhưng từ ban đầu, nó chỉ là một nỗ lực nhằm kiểm soát việc ly dị vợ đưa nó vào trong phạm vi một thứ luật lệ, khiến việc ly dị vợ gặp phải nhiều khó khăn hơn mà thôi. Dù sao Chúa Giêsu cũng đã vạch rõ, Ngài chỉ xem Đnl 24,1 như một quy định do một hoàn cảnh chứ không là một sự ràng buộc vĩnh viễn. Những chứng liệu Ngài trích dẫn còn lui về những thời xa xưa hơn. Để thêm uy quyền, Ngài nêu chuyện sáng tạo trời đất như trong Sáng Thế 1,27; 2,24. Theo quan điểm của Ngài, ngay trong bản chất của sự việc, hôn nhân vốn có tính cách vĩnh viễn, là sự kết hợp bền vững giữa hai người bằng một phương cách mà không bao giờ luật lệ, quy điều của con người có thể phá vỡ, cắt đứt được sự ràng buộc đó. Chúa Giêsu tin, trong cơ cấu của vũ trụ, hôn nhân là một sự kết hợp tuyệt đối vĩnh viễn, bất khả phân ly, chẳng có một quy tắc nào của Môsê nhằm vào một hoàn cảnh tạm thời lại có thể thay đổi được nó.
Chỗ khó hiểu trong phần tường thuật của Matthêu lại có một điểm khác hẳn. Trong Maccô Chúa Giêsu tuyệt đối cấm việc ly dị vợ và tái hôn. Trong Mt 19,3-9 Ngài vẫn tuyệt đối cấm tái hôn, nhưng về ly dị, thì có một trường hợp duy nhất được cho phép, là nếu có ngoại tình (hiểu theo Tin Lành). Hầu như chúng ta có thể chắc chắn rằng phần tường thuật trong Matthêu là đúng và dĩ nhiên ý đó cũng có cả trong Maccô nữa. Chính luật Do Thái dạy rằng sự kiện ngoại tình bắt buộc phải đưa đến việc hủy bỏ hôn nhân. Thật ra thì chính tội ngoại tình, bất trung, cũng đã cắt đứt sợi dây buộc chặt đôi vợ chồng trong hôn nhân rồi. Một khi đã phạm tội ngoại tình, thì trong mọi trường hợp, sự hiệp nhất nên một đã bị tan vỡ, còn ly dị, chỉ là một sự kiện để chứng thực mà thôi. Bên Công Giáo hiểu được phép ly dị nếu là hôn nhân bất hợp pháp.
Yếu tính đích thực của đoạn sách này là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh tình trạng lỏng lẻo của đạo đức về hôn nhân và tình dục vào thời của Ngài, cần phải được hàn gắn, sửa đổi. Những kẻ chỉ muốn kết hôn để tìm lạc thú rằng hôn nhân cũng là trách nhiệm. Những kẻ xem hôn nhân chỉ là một phương tiện nhằm thỏa mãn các đam mê xác thịt phải nhớ đó là một sự liên hiệp thuộc linh. Chúa Giêsu đang xây một thành lũy chung quanh gia đình.
NƯỚC TRỜI THUỘC VỀ NHỮNG NGƯỜI ĐÓ (10,13-16)
Các bà mẹ Do Thái muốn một Rabbi danh tiếng, có uy tín, chúc phúc cho con cái họ. Đó là điều hết sức tự nhiên. Đặc biệt là nhằm ngày thôi nôi cho chúng. Theo thói quen đó họ đã đưa nhiều trẻ nhỏ đến Chúa Giêsu.
Chúng ta chỉ hiểu được trọn vẹn vẻ đẹp sâu sắc của đoạn sách này nếu nhớ rằng sự việc đã xảy ra lúc nào. Phải luôn nhớ là Chúa Giêsu đang trên đường dẫn đến thập giá và Ngài biết rõ điều đó. Lúc ấy, bóng khổ nạn không rời khỏi tâm trí Ngài. Thế nhưng, cũng chính lúc ấy, Ngài đã dành thì giờ cho trẻ nhỏ. Ngay khi tâm trí Ngài bị căng thẳng như vậy, Ngài vẫn dành thì giờ để ẵm bồng chúng vào lòng, vẫn có thể mỉm cười với chúng và có lẽ cũng còn nô đùa một lúc với chúng nữa. Cũng chính vì thế mà các môn đệ Chúa đã tìm cách ngăn cản đám trẻ nhỏ lại, không phải vì họ là những con người thô lỗ, vô tâm. Nhưng thực sự họ chỉ muốn bảo vệ Chúa Giêsu. Họ không biết chuyện gì xảy ra, nhưng biết rõ là tấm thảm kịch đang ở truớc mặt và thấy rõ Chúa Giêsu đang trong sự căng thẳng. Họ không muốn Ngài bị quấy rầy, cũng không thể nào hiểu nổi Ngài muốn có trẻ nhỏ bên cạnh trong một hoàn cảnh như thế. Nhưng cả trong một tình huống như vậy, Chúa Giêsu vẫn phán “Cứ để trẻ em đến với Thầy đừng ngăn cấm chúng’.
Một cách ngẫu nhiên việc này cho chúng ta biết rất nhiều điều về Chúa Giêsu. Nó cho chúng ta biết Ngài là Đấng hay chăm sóc trẻ nhỏ mà trẻ nhỏ cũng mến Ngài. Ngài không thể là một người nghiêm nghị, âu sầu, chẳng biết vui vẻ gì. Gương mặt nhân từ của Ngài rạng rỡ như mặt trời vây. Chắc Ngài rất dễ mỉm cười, cũng thường vui vẻ reo cười. George Macdonald, bảo rằng ông không tin vào Kitô giáo của một người nếu trẻ em không tìm được một chỗ để quây quần vui chơi trước cửa nhà người ấy. Biến cố nhỏ bé, quý báu này đã chiếu cả một luồng ánh sáng của Chúa Giêsu vào loài người.
Ngài tiếp “Vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”. Trẻ nhỏ có gì mà Chúa Giêsu lại yêu thích và đánh giá cao như vậy”
1/ Có khiêm nhu như trẻ nhỏ. Thỉnh thoảng cũng có vài đứa trẻ thích phô trương, nhưng trẻ như vậy rất hiếm và hầu như đó là kết quả sự hướng dẫn chúng cách sai lầm của người lớn. Thông thường trẻ nhỏ rất bối rối khi được đề cao, được đưa ra quảng cáo, nó chưa hề biết suy nghĩ bằng ngôn từ của địa vị, của tính kiêu ngạo, háo danh. Nó chưa được học hỏi để khám phá ra tầm quan trọng của chính nó.
2/ Có vâng phục như trẻ nhỏ. Thật ra trẻ nhỏ thường không chịu vâng lời, nhưng cũng thật nghịch lý là bản năng tự nhiên của trẻ nhỏ lại vốn hay vâng phục. Trẻ nhỏ chưa học biết để kiêu ngạo, để muốn được độc lập giả tạo, là điều gây ngăn cách giữa một người với đồng bào, đồng loại.
3/ Có lòng tin cậy của trẻ nhỏ. Điều này được thấy rõ trong những trường hợp: (a) Trẻ nhỏ thừa nhận uy quyền. Vào một giai đoạn nào đó, nó nghĩ rằng cha nó biết hết mọi sự, và cha nó bao giờ cũng đúng, cũng phải cả. Nhưng điều đáng xấu hổ cho chúng ta là chẳng bao lâu nó thoát khỏi tuổi đó, nhưng do bản năng, nó vốn biết rõ sự ngu dốt, bất năng, bất lực của nó và tin cậy nơi người mà nó tưởng là hiểu biết. (b) Trẻ nhỏ có sự tin cậy đối với người khác. Chỉ có trẻ nhỏ mới không thấy người khác xấu. Nó sẵn sàng kết bạn với người xa lạ. Một vĩ nhân đã nói, lời khen tặng lớn lao nhất đời ông là lần kia một đứa trẻ hoàn toàn xa lạ đến nhờ ông cột dây giầy giúp nó. Trẻ nhỏ chưa biết hoài nghi về thế giới, nó tin rằng mọi người đều tốt. Có khi niềm tin cậy đó đưa nó vào chỗ nguy hiểm, vì có nhiều kẻ hoàn toàn không xứng đáng, sẽ lạm dụng nó, nhưng dầu sao thì lòng tin cậy đó cũng hết sức đẹp đẽ.
4/ Trẻ nhỏ vốn mau quên. Nó chưa biết lẩm bẩm và chất chứa điều cay đắng trong lòng. Cả khi bị đối xử bất công, mà ai trong chúng ta lại không có lần tỏ ra bất công với con cái, nó cũng quên ngay, quên đến nỗi chẳng còn gì để tha thứ nữa.
Thật vậy Nước Thiên Chúa thuộc về những người như vậy.
58. Đức Giêsu đối với việc ly dị và các trẻ em -- Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc trong Phụng vụ Lời Chúa hôm nay bỏ câu Mc 10,1 là một tóm lược nhỏ quen thuộc của tác giả Mc: một chi tiết địa lý khá mơ hồ (“miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan”); một mô tả tổng quát về hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu cho đám đông đã quy tụ lại. Truyện kế tiếp không liên hệ gì với nội dung của c. 1 cả. Nhưng tác giả có một ý hướng thần học: Đức Giêsu đang tiến đến gần Giêrusalem.
Khi nghiên cứu kỹ đoạn văn cc. 2-12, người ta nhận thấy nòng cốt là cc. 2-9, một cuộc tranh luận với mấy người Pharisêu. Vì bản văn Kinh Thánh được trích từ Bản LXX, người ta nghĩ đến Do Thái giáo thuộc môi trường Hy Lạp. Sự độc lập của phân đoạn này với cc. 10-12 được xác nhận bởi Lc 16,18 trong đó chỉ có câu đầu của giáo huấn ban cho các môn đệ. Có lẽ cc. 10-12 đã được thêm vào sau.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Vấn đề ly dị (10,2-12):
a) giáo huấn cho dân chúng (cc. 2-9),
b) giáo huấn cho các môn đệ (cc. 10-12);
2) Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (10,13-16).
3.- Vài điểm chú giải
- chồng có đựơc phép rẫy vợ không? (2): Câu hỏi đề cập đến tính hợp pháp của ly dị, chứ không phải lý do đưa đến ly dị có xung khắc với sự hiểu ngầm theo Đnl 24,1-4. Vào thời ấy, người ta chỉ tranh luận về các lý do. Một nhóm kinh sư nêu ra các lý do: ngoại tình, một bệnh truyền nhiễm, chứng điên hoặc không thể có con. Đối với đa số các kinh sư, còn có nhiều lý do khác: chỉ cần người đàn ông không bằng lòng một điều gì đó nơi vợ mình là có thể rẫy vợ. Dù thế nào, người chồng có tự do rất lớn.
- để thử: Có tác giả cho rằng có lẽ họ nhắm đẩy Đức Giêsu vào thế xung đột với đại gia đình Hêrôđê đầy những vụ ly dị. Nhưng hợp lý hơn thì cho rằng ngưòi Pharisêu muốn gài Đức Giêsu vào thế phải nói ra quan điểm nhiệm nhặt của Người, và như thế Người trở thành đáng ghét trước mắt người ta do Người giới hạn “tự do” của họ.
- Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? (3): Đnl 24,1-4 coi việc ly dị như được phép; đoạn văn này chỉ đề cập đến thủ tục phải theo khi một người chồng đã quyết định ly dị vợ mình, và lệnh cấm tái kết hôn sau khi cuộc hôn nhân của người phụ nữ này đã chấm dứt. Các lý do để được ly dị được diễn tả mơ hồ: “thấy nơi nàng có điều gì chướng” (bh ‘erwat dbr). Sự mơ hồ này đã đưa tới một tranh luận của giới kinh sư. Những nố ngoại lệ trong TM Mt (5,32; 19,9) được hiểu trong bối cảnh này. Nhưng trong TM II, vấn đề được đặt ra tận căn bản: có được phép ly dị không?
- Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị rẫy vợ (4): Người Pharisêu đã trả lời câu hỏi của Đức Giêsu dựa vào nền tảng của Đnl 24,1-4. Trong Do Thái giáo xưa kia, ly dị không phải là một hành vi pháp lý công khai tại toà án. Người chồng chỉ việc viết một giấy (“Tôi bỏ và ly dị vợ tôi ngày này”), rồi đưa giấy ấy cho vợ. Ta thấy rằng người Pharisêu nói về phép (cc. 2.4) trong khi Đức Giêsu lại hỏi họ là có một lệnh truyền (= điều răn) nào chăng (hẳn là người Pharisêu sẽ khó mà tìm được một lệnh truyền nào như thế trong Luật!). Trong Mt 19,7-9, người Pharisêu lại nói về một lệnh truyền của Môsê, còn Đức Giêsu lại trả lời họ rằng đó chỉ là một sự cho phép.
- vì các ông có lòng chai dạ đá (5): Đức Giêsu coi lời dạy của Đnl 24,1-4 như một sự nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người và một sự miễn chuẩn cho chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa về hôn nhân. Trong câu trả lời, Đức Giêsu đi từ một lời cho phép ly dị đến lời làm nền tảng cho hôn nhân: sự miễn chuẩn không hủy bỏ được luật căn bản.
- Lúc khởi đầu công trình tạo dựng (6): Đức Giêsu cho thấy Người phản đối ly dị là do Người dựa vào Kinh Thánh: Người trích St 1,27; 2,24. Người khẳng định rằng trong chương trình nguyên thủy của Thiên Chúa, những người kết hôn thì nên “một xương một thịt”, nên không được ly dị. Đnl 24,1-14 cho phép ly dị là một cách nhượng bộ cho sự yếu đuối của con người. Lời giáo huấn của Đức Giêsu nhằm tái lập lại chương trình của Thiên Chúa khi tạo dựng, nên không hề đối lập với Kinh Thánh.
- Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt (8): Lý tưởng hôn nhân này là một suy diễn dựa trên St 2,24; nó cung cấp lý do vì sao không thể ly dị.
- loài người không được phân ly (9): “Loài người” đây là người chồng, chứ không phải là đệ tam nhân như vị thẩm phán. Bởi vì theo Đnl 24,1-4, người chồng có thể một mình bắt đầu thủ tục, thì không cần một đệ tam nhân. Ở đây Đức Giêsu triệt tiêu thủ tục Cựu Ước.
- khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người (10): Đây không thể là ngôi nhà ở Caphácnaum (x. 1,29; 9,33), bởi vì Đức Giêsu và các môn đệ đã bỏ miền Galilê. Đây là một sáng tạo của Mc để tạo cơ hội cho Đức Giêsu dạy riêng các môn đệ.
- Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình (11): Giáo huấn tuyệt đối này cũng xuất hiện trong Lc 16,18c.
- và ai bỏ chồng… (12): Luật Do Thái chỉ nói rằng người chồng có thể tiến hành thủ tục ly dị, chứ không nói là người vợ. Thường thường, các tác giả cho rằng c. 12 này là một cách tác giả ứng dụng giáo huấn của Đức Giêsu cho những người sống dưới luật Rôma và Hy Lạp.
- trẻ em (13): có thể ở trong khoảng ấu nhi đến 12 tuổi. Người ta mong Đức Giêsu đặt tay để chúc lành cho chúng.
- chạm tay vào chúng: để Đức Giêsu chúc lành cho chúng.
- Người bực mình (14): Phản ứng này của Đức Giêsu (x. 1,43; 3,5; 8,12; 14,33-34) đã phát sinh do các môn đệ không hiểu Người và bản chất của Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng. Một lần nữa, lối xử sự của các môn đệ lại là cớ để Đức Giêsu ban một giáo huấn tích cực. Mt 19,14; Lc 18,16 đã bỏ đi phản ứng rất người này, có lẽ vì thấy bất xứng với Đức Giêsu.
- vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng: Đặc tính chính yếu của trẻ em là khả năng đón nhận. Vì không có sức mạnh thể lý và không có quy chế pháp lý, trẻ em biết cách đón nhận tốt nhất. Nước Thiên Chúa phải được đón nhận như một quà tặng, bởi vì không một sức mạnh hoặc quy chế nào của loài người tạo ra được hoặc đòi hỏi cho có được Nước Thiên Chúa (x. c.15).
- Thầy bảo thật (15): Từ “thật” dịch từ amên trong bản Hy Lạp: “điều vững vàng”, “điều chắc chắn là thế”.
- đặt tay chúc lành cho chúng (16): Trong các tác phẩm thời ấy, trẻ em được coi như ví dụ về phong cách thiếu hợp lý hoặc là những đối tượng cần được đào tạo. Trong đoạn này (x. cả 9,33-37), chúng được trân trọng như những nhân vị và được quan hệ với Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Vấn đề ly dị (2-12)
Đức Giêsu đã sang miền Giuđê. Giáo huấn của Người về hôn nhân và ly dị lại là một thách đố nữa cho những ai muốn bước theo Người. Cựu Ước cho thấy có thể ly dị (x. Đnl 24,1); điều chắc chắn là người đàn ông có thể rẫy vợ. Dù các lý do để ly dị thế nào, hệ thống luật lệ thời ấy cho các người chồng một tự do rất lớn và khiến các bà vợ phải trả giá đắt cho tự do này: vị trí của các bà rất mong manh và các bà phải lệ thuộc sự quyết đoán của chồng.
Khi đặt câu hỏi cho Đức Giêsu, người Pharisêu muốn lôi kéo Đức Giêsu vào trong cuộc tranh luận về các lý do cho phép ly dị. Đức Giêsu không đi vào trong tranh luận về các lý do hợp pháp để ly dị. Như trong các trường hợp khác, Người đăt cuộc tranh luận trên một bình diện khác. Người đưa các người đối thoại trở lại với Kinh Thánh, với cách xử sự và ý muốn của Thiên Chúa Tạo Hóa vào thuở tạo thiên lập địa. Tương quan giữa người nam và nữ không phải là điều mà con người tự do định liệu, bởi vì không phát xuất từ con người, nhưng từ Thiên Chúa trong tư cách là Đấng Tạo Hóa. Ngài đã tạo dựng loài người trong sự khác biệt nam nữ; Ngài đã nhắm người này cho người kia, đã quy định rằng họ kết hợp với nhau và nên “một xương một thịt”. Phá hỏng sự bố trí này của Thiên Chúa Tạo Hóa là một hành vi xuyên tạc thô bạo và chống lại ý muốn của Đấng Tạo Hóa. Như thế, hậu quả tiêu cực là cấm ly dị và tái kết hôn. Vì vậy, sau đó, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng ly dị và cưới vợ hoặc lấy chồng khác là phạm tội ngoại tình.
* Đức Giêsu chúc lành cho trẻ em (13-16)
Sau một đoạn nói về hôn phối, có một đoạn nói về trẻ em cũng là chuyện hợp tình hợp lý. Nhưng thực ra bản văn này đề cập đến Nước Thiên Chúa và hạng người hy vọng được tham dự vào đó. Các em bé không tự mình hành động theo sáng kiến của mình; chúng không có khả năng lo liệu cho bản thân; chúng chỉ được an toàn dưới sự che chở của cha mẹ. Chỉ những ai nhận biết và đón tiếp Nước Thiên Chúa như một quà tặng (như một em bé nhận quà) mới hy vọng được thông phần vào Nước Thiên Chúa; Nước này được dành cho những ai không cậy dựa vào quyền thế hoặc đặc quyền, bởi vì Nước này vượt trên mọi quyền lực và quy chế loài người. Công thức đặc biệt nói về việc đón nhận Nước Thiên Chúa gợi ý cho ta coi ở đây Nước này như một thực thể hiện tại. Quả thật người ta đi vào trong Nước tương lai, nhưng dĩ nhiên việc đón nhận Nước ấy phải xảy ra trước. Nước ấy cũng đã hiện diện rồi. Tác giả Mc đã hiểu tương quan với hiện tại này theo nghĩa Kitô học: Ngay bây giờ người ta đã có thể trải nghiệm Nước Thiên Chúa trong hoạt động của Đức Giêsu. Một hình ảnh được cung cấp trong cảnh kết thúc, khi Đức Giêsu ôm lấy các trẻ em và chúc lành cho chúng: qua hành động này, nguyện vọng của dân chúng được đáp ứng (c. 13), và nhất là lời hứa được công bố ở cc. 14t được xác nhận.
+ Kết luận
Có thể nói, trong phần thứ nhất, tác giả Mc muốn mô tả Đức Giêsu tiếp tục hoạt động, cả trong chuyến đi lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này các môn đệ cần được Thầy giáo huấn kỹ càng để có thể bước theo Thầy. Câu hỏi của các ông cho thấy các ông không có khả năng hiểu đường lối của Thầy, và do đó rất cần được giáo huấn. Khi đã nhận được một giáo huấn đặc biệt, các ông có tư cách để truyền đạt Lời Chúa cách thuyết phục cho các cộng đoàn.
Phần thứ hai cho thấy cách mà người môn đệ phải hiểu về chính mình. Họ phải thanh thoát khỏi những định kiến ích kỷ và sống như một em bé trước nhan Thiên Chúa. Chỉ như thế, họ mới có thể gặp người thân cận với tình yêu. Bản văn này cũng cho thấy quan niệm của tác giả về Nước Thiên Chúa. Nước này tuy thuộc về tương lai, nhưng đã bắt đầu hoạt động mạnh mẽ trong hiện tại rồi. Đó là vì Đức Giêsu không những loan báo Nước Thiên Chúa, mà còn đưa Nước này đến gần con người trong hiện tại.
Ngoài nội dung riêng của hai phần trong đoạn này, ta thấy hai phần có một nét chung: người phụ nữ và trẻ em bị coi nhẹ trong xã hội lúc ấy, nhưng dưới mắt Đức Giêsu, họ cũng là những nhân vị, và có lẽ còn được Thiên Chúa chiếu cố đến đặc biệt, vì họ là những người bé mọn. Nước Thiên Chúa được dành cho những con người như thế.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Xuyên qua dây hôn của đôi vợ chồng, phát sinh một điều mới, một đơn vị mới và có thể nói, một hữu thể nhân loại mới. Họ vẫn là hai người với đặc tính riêng và trách nhiệm riêng, nhưng họ không còn độc lập, tách biệt và riêng rẽ nữa. Thiên Chúa đã nhắm làm cho sự kết hợp của họ đưa tới sự phát sinh một đơn vị mới chuyên biệt và thực hữu, một dây liên hệ thường hằng. Đó là cách bố trí của Thiên Chúa. “… Gia đình là tế bào cơ bản của xã hội, ở đó chúng ta học sống chung với nhau bất chấp những khác biệt của người này với người khác và nương tựa vào nhau; gia đình cũng là nơi cha mẹ chuyển giao đức tin cho con cái” (Đức giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, số 66).
2. Các môn đệ phải đón nhận Nước Thiên Chúa như các trẻ em, nghĩa là họ không thể đi vào đó bằng sức riêng. Như các em bé, họ phải cảm thấy mình được che chở bởi tình yêu của Thiên Chúa, phải để cho mình được Người lấp đầy bằng những ân huệ. Đi vào Nước Thiên Chúa luôn luôn là một ân huệ mà ta đón nhận với lòng biết ơn.
3. Các môn đệ chu toàn bổn phận chính yếu, bổn phận phục vụ, bằng cách chu toàn trách nhiệm đối với các trẻ em. Cũng như con cái có bổn phận đối với cha mẹ, cha mẹ cũng có bổn phận đối với con cái. Các bổn phận được giao cho chúng ta có thể là lớn lao và đẹp đẽ, nhưng trước nhan Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều là như các trẻ em: chúng ta phải luôn luôn tin tưởng vào tình yêu của Người và để cho Người ban chan hòa các ân huệ.
4. Đức Giêsu dạy chúng ta tôn trọng nhân vị của mỗi người, người lớn cũng như em bé. Chúng ta không có quyền khinh bỉ hay chê bai người nào cả, cũng không có quyền coi mình tốt hơn người khác vì mình là Kitô hữu. Thật ra, nếu chúng ta không thấy được những điều sai phạm của mình để xin tha thứ, thì chúng ta có còn là Kitô hữu nữa chăng?
LỄ MÂN CÔI
1. Đức Chúa Ở Cùng Bà – Lm. Nguyễn Cao Siêu.
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã.
Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống,
thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin,
lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương.
Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời,
và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ
vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn,
yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng,
để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa.
Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời,
Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh,
nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta:
Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng
và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42)
vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia.
Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc
vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay Chúa
và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ,
để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc:
"Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh
và là nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời,
vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa,
và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu,
nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài:
"Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa
và đem ra thực hành" (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống,
chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay.
Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn,
mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng,
từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
2. Tháng Mân Côi: lời Đức Mẹ nhắn nhủ -- GM. Gioan B. Bùi Tuần
Thế giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã. Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới, kể cả những vùng cực kỳ hữu thần.
Tình hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm.
Những thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức, tại La Salette, tại Fatima.
Đức Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế giới gây nên.
Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ hai điều:
Một là hãy cầu nguyện,
Hai là hãy ăn năn sám hối.
Dưới đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến.
Vì thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: “Có Thánh Thần giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải. Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Thực vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh Phaolô đã than: “Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì.
Những việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: “Tạ ơn Chúa đã thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi sự” (Tv 139,14-16).
Chúa thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: “Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (Br 1,21-22).
Các thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu, là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong’ tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và thương cảm còn cần hơn.
Ăn năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin.
Chúng ta tin chắc rằng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Nếu chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã phán: “Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt 17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm con người sám hối.
Với vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu bầu cho nhân loại đáng thương này.
3. Tôi là nữ tỳ của Chúa -- ‘Manna’
Suy Niệm
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày
trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu.
Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33).
Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người,
nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo.
Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương.
Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng,
là người được Đức Chúa ở cùng (c.28),
là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30).
Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời
ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu.
Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria.
Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé
trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
"Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô
và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô" (c.35).
Maria hẳn đã phải suy nghĩ
trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa
cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư.
Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh,
thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con.
Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse,
thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse,
và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp đi.
Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi.
Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa,
vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được.
Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác.
Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng
làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa
vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có.
Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu
bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời.
Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ,
chuyện đó cần đến lòng tin.
"Phúc cho em là kẻ đã tin..." (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria
là tiếng xin vâng dưới chân thập giá.
Những lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không?
Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ
tất cả những tiếng xin vâng trong đời
mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng,
từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa
4. Cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi -- GM. Gioan B. Bùi Tuần
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào "Kinh Mân côi sống". Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: "Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau". Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.
Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37).
5. Này tôi là tôi tớ của Chúa -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
(nhân dịp Kỷ niệm 95 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. 1917-2012)
Với lời thưa "Xin Vâng" của Đức Mẹ, điều vô cùng kỳ diệu xẩy ra: Thiên Chúa đến ở với loài người. Thiên Chúa vô hạn đến ở trong thân xác hữu hạn. Thiên Chúa vô thủy vô chung đi vào lịch sử để trở nên có sinh có tử. Đây là đại hạnh của con người. Nhân loại khổ đau có Thiên Chúa đến cùng chia sẻ nâng đỡ, chữa lành. Nhân loại đi trong đêm tối có Thiên Chúa đến dẫn đường chỉ lối. Nhân loại bơ vơ có Thiên Chúa đồng hành. Còn hơn thế nữa, Thiên Chúa không chỉ đến để đồng hành, để an ủi nhưng Thiên Chúa còn đến biến đổi thân phận con người. Thư Galata cho biết Thiên Chúa sinh làm con loài người để ta được nâng lên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa chịu nghèo để ta được giầu có vì được thừa kế gia tài, được hưởng vinh phúc của Thiên Chúa.
Những điều kỳ diệu ấy chỉ được thực hiện nhờ thái độ của Đức Mẹ. Khi thưa với thiên thần: "Này tôi là tôi tớ của Chúa", Đức Mẹ đã cộng tác trọn vẹn với Thiên Chúa để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Vào thời Đức Mẹ nô lệ có nghĩa là không có quyền gì hết. Nô lệ hoàn toàn thuộc quyền sử dụng của chủ. Chủ có thể bán đi. Chủ có quyền hành hạ, giết chết nô lệ mà không có tội trước pháp luật. Nô lệ không có quyền sống cho mình, mà sống vì chủ, cho chủ. Khi xưng mình là "tôi tớ", Đức Mẹ từ bỏ tự do, từ bỏ quyền sống của mình để hoàn toàn cho Thiên Chúa sử dụng. Từ đó Chúa ở trong Đức Mẹ. Đức Mẹ đi đâu cũng có Chúa ở cùng. Vì thế sự hiện diện của Đức Mẹ là hiện diện của Chúa. Đức Mẹ đi đến đâu là sinh ơn phúc đến đấy. Đến thăm bà Isave đem ơn cứu độ cho thánh Gioan Baotixita khiến thánh nhân nhảy mừng từ trong lòng mẹ. Đến tiệc cưới Cana làm cho đám cưới ngập tràn niềm vui vì được thưởng thức thứ rượu ngon chưa bao giờ có.
Từ khi về trời Đức Mẹ vẫn tiếp tục viếng thăm con cái trần gian. Lavang, Lộ đức, Fatima... không sao kể xiết những ơn lành Chúa xuống qua tay Đức Mẹ. Tuy Lavang, Lộ đức đều là chứng tích việc Chúa và Đức Mẹ đồng hành với con người trong những nỗi khổ đau. Nhưng Fatima mới tỏ tường là nơi Chúa và Đức Mẹ can thiệp vào lịch sử nhân loại. Thực vậy vào tháng 5 năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ tiên báo nước Nga sẽ gieo rắc lạc thuyết vô thần khắp thế giới. Đúng tháng 10 năm đó cách mạng vô sản nổ ra tại Nga và thế giới bị chia đôi. Một nửa theo lý thuyết cộng sản vô thần gay khổ đau cho biết bao người. Tuy nhiên Đức Mẹ cũng chỉ cho ta con đường thoát khỏi sự dữ này bằng cách cầu nguyện cho nước Nga và tuân giữ 3 mệnh lệnh là: ăn năn sám hối, lần hạt Mân Côi và tôn sùng đền tạ Trái Tim Đức Mẹ. Có thực hành lời Đức Mẹ dậy, nhân loại mới thoát khỏi cơn thịnh nộ của Chúa, thế giới mới được hòa bình. Sứ điệp Fatima quả đã đi vào lịch sử thế giới, hướng dẫn lịch sử thế giới và chữa trị những vết thương của thế giới.
Nếu chương trình của Chúa cần có Đức Mẹ "xin vâng", thì trong chương trình của Đức Mẹ cũng cần một người con quảng đại dâng hiến toàn thân cho Đức Mẹ sử dụng. Người đó chính là Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn. Ngài đã viết Tông huấn "Kinh Mân Côi" để tôn vinh Đức Mẹ. Ngài là vị Giáo hoàng lần hạt chung với dân chúng. Ngài đã lập thêm Năm Sự Sáng cho tràng chuỗi Mân Côi. Nhưng nhất là Ngài dâng hiến toàn thân cho việc phụng sự Đức Mẹ. Khẩu hiệu của ngài là "Totus Tuus", trích từ câu nói của thánh Louis Grignon de Monfort:Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua sunt (Con là tất cả của Mẹ và mọi sự của con đều là của Mẹ).
Ngài đã dâng nước Nga cho Đức Mẹ. Và đáp lại Đức Mẹ đã thực hiện những lời hứa và những bí mật Fatima trong cuộc đời của ngài. Việc nước Nga được ơn trở lại dưới triều Giáo hoàng của ngài là bằng chứng rõ rệt nhất về lời hứa Fatima: "Trái Tim Mẹ Sẽ Thắng". Theo sau nước Nga là các nước Đông Âu khác. Bản đồ thế giới được vẽ lại. Tình hình thế giới đổi mới khác hẳn. Quả thật Chúa và Đức Mẹ đã can thiệp vào lịch sử thế giới.
Tuy nhiên Đức Thánh Cha phải chịu đau khổ. Và thị kiến chị Lucia thấy người áo trắng bị ám sát đã ứng nghiệm trong đời ngài. Ngài bị bắn đúng ngày 13-5-1981. Tay thiện xạ Ali Agca đứng sát ngài và nhắm bắn trúng chỗ hiểm. Nhưng ngài thoát chết trong gang tấc. Ngài biết Đức Mẹ đã cứu ngài. Nên ngài đến hành hương Fatima tạ ơn Đức Mẹ và đặt đầu viên đạn lên triều thiên Đức Mẹ để tôn vinh quyền phép của Đức Mẹ. Vết thương hành hạ suốt đời đã biến cuộc đời ngài thành cuộc đền tạ Trái Tim Mẹ không ngưng nghỉ.
Đã 95 năm trôi qua kể từ ngày Đức mẹ hiện ra tại Fatima, nhưng sứ điệp Fatima vẫn còn mang tính thời sự và cấp thiết. Vì hiện nay biết bao lạc thuyết vẫn lan tràn gieo đau thương chết chóc cho con người. Đức Mẹ vẫn luôn đồng hành với ta như Người đã cùng cầu nguyện với các tông đồ trong nhà Tiệc ly. Đức Hồng Y Fulton Sheen diễn giải lời thiên thần Gabriel: "Này cô Maria, cô có đồng ý đem xương thịt cho Con Thiên Chúa không? Liệu Thiên Chúa có trở nên loài người qua thân xác của cô không?". Hôm nay Đức Mẹ cũng hỏi ta: "Con có đồng ý cho ta thân xác của con để ta hiện diện với các con, đồng hành với các con không". Nếu ta đồng ý Đức Mẹ sẽ nhờ thân xác ta mà hiện diện trong thế giới, sẽ uốn nắn thế giới và lịch sử sẽ thay đổi. Ta hãy noi gương ĐTC Gioan Phaolô thưa với Mẹ: Lạy Mẹ, tất cả của con là của Mẹ, xin Mẹ hãy dùng con theo ý Mẹ để Thiên Chúa được vinh danh và nhân loại được hạnh phúc. Amen.
6. Xin Vâng – TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hai tiếng “Xin vâng” thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước hết hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa. Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện. Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ mà thành công.
Hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng “Xin vâng” của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Vì vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi Đức Mẹ nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Giêsu cũng nói “Xin vâng” với Đức Chúa Cha. Với hai tiếng “Xin vâng”, Đức Mẹ khai thông chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng “Xin vâng”, Ngôi Hai xuống thế làm người, tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới cả cuộc đời.
Hai tiếng “Xin vâng” nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, những ảnh hưởng tới cả cuộc đời Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế, như lời Thánh vịnh: “Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Cha”. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây Thánh giá: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Những xin đừng làm theo ý Con, chỉ xin vâng ý Cha mà thôi”.
Cũng vậy, khi nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai cập. Vì xin vâng mà chấp nhận lời tiên tri Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà”. Vì xin vâng mà theo Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con vậy.
Như thế, để nói tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói “Không” với chính mình. Để một lần nói “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ phải nhiều lần nói “Không” với chính mình. Tiếng “Vâng” lớn thành hình nhờ những tiếng “Không” nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng. Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nói tiếng “Xin vâng” với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa. Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng khi vui. Hãy xin vâng khi buồn.Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin Vâng từng giây phút trong cuộc đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh phúc cho những người chung quanh ta.
Lạy Mẹ, xin dạy con hai tiếng XIN VÂNG như Mẹ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến chương trình của Thiên Chúa?
2- Hai tiếng “Xin vâng” Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của Đức Mẹ.
3- Chúa Giêsu đã sống lời “Xin vâng” thế nào?
4- Ta phải làm gì để chương trình của Chúa nơi ta được thực hiện”
7. Hành trình đức tin của Đức Maria -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa "Xin vâng". Lời thưa 'xin vâng' của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: "Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?". Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:
"Kẻ nghe lời Cha Ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ Ta".
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
8. Hoa Mân Côi – TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Mỗi khi tháng Mười về, những người con thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh "Ave Maria" được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp.
"Vườn Rôsa bao quanh lái (trái) đất,
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền" (Ngắm Rôsa)
Vườn Rôsa trong câu thơ trên chính là Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa được sánh ví như một vườn hoa rộng lớn mênh mông, mà ở đó được trồng những cây hồng với muôn sắc hoa rực rỡ. Giáo Hội của Chúa thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp ấy không thể hiện nơi những tòa nhà cổ kính khang trang kiến trúc cầu kỳ, mà là nơi những cộng đoàn tín hữu, nhất là khi họ hội họp nhau để cử hành phụng vụ: tất cả cùng một đức tin, một tình mến, một tâm hồn để tôn vinh và ca tụng Chúa. Vẻ đẹp của Giáo Hội được tỏa rạng từ nụ cười móm mém của các lão ông lão bà, đến những gương mặt rất thơ ngây của các em nhỏ trong những cuộc rước tôn vinh Chúa, Đức Mẹ hay các thánh. Vẻ đẹp của Giáo Hội còn được thể hiện nơi những người cha người mẹ, nơi các bạn trẻ công giáo, được thấm nhuần tinh thần Phúc âm, đang hăng hái nhiệt tình góp phần làm cho quê hương đất nước thêm tươi đẹp. Những nụ cười, những tâm hồn hy sinh ấy chính là những đóa hồng trong vườn Giáo Hội, làm cho Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.
Lời "Vãn Mân Côi" cũng đưa chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một bè lạc giáo có tên là Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện đến với Thánh Đaminh và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu siêng năng lần hạt thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời Đức Mẹ, nhiệt thành kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa, bè lạc giáo đã tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này mà Giáo Hội được gọi là "vườn Rôsa" - vườn của những đóa hoa hồng, vì nhờ kinh Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong ngày giao chiến.
Một câu chuyện kể rằng Thánh Đaminh đã có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài, tượng trưng cho 150 thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt như ép khuôn và làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng hạt. Từ đó, tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.
"Đức Bà như Hoa Hường (hồng) màu nhiệm vậy" (Kinh cầu Đức Bà)
Trong vườn Rôsa, tức vườn Giáo Hội, có một đóa hoa vượt trổi về màu sắc và hương thơm. Đóa hoa ấy mang tên là Maria. Đức Maria vừa là Mẹ của Giáo Hội, đồng thời cũng là chi thể của Giáo Hội. Mẹ là mẫu mực cho đời sống đức tin của các tín hữu. Nơi Mẹ, Giáo Hội chiêm ngưỡng hình ảnh của mình trong tương lai. Mẹ diễn tả một hình ảnh không tỳ ố, không vết nhơ của Giáo Hội. Mẹ là hy vọng của Giáo Hội đang vươn tới vinh quang rạng rỡ như Mẹ.
Là Mẹ của Đức Giêsu, Mẹ cũng là Mẹ của Giáo Hội. Bằng sự quan tâm hiền mẫu của mình, Mẹ luôn đỡ nâng chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Cũng như tại Cana ngày nao, Mẹ đang dặn dò chúng ta: "Người bảo sao, các con hãy cứ làm như vậy" (Ga 2,5). Mẹ dạy chúng ta phó thác nơi Chúa, như Mẹ đã kiên trung tín thác suốt đời, để Thánh ý của Chúa được thực hiện, vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.
Khi tôn vinh Đức Mẹ là Hoa Hồng, chúng ta ca tụng quyền năng của Chúa đã tác tạo nên Mẹ, như một tạo vật hoàn hảo, xứng đáng là ngai tòa cho Ngôi Lời nhập thể. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao siêu của Mẹ, chúng ta nguyện ước noi gương Mẹ, trau dồi các nhân đức, mến Chúa yêu người, luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
"Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió,
Làm thành vườn hoa, muôn màu muôn sắc tươi xinh" (Lời một bài hát)
Mỗi chúng ta, khi sinh vào cuộc đời, cũng giống như một loài hoa để tô điểm cho thế giới này tươi đẹp. Sự khác biệt về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa hay điều kiện kinh tế không phải là những lý do gây mâu thuẫn, nhưng làm cho cuộc sống thêm phong phú. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nhận mình là một loài hoa được Thiên Chúa chăm sóc yêu thương một cách đặc biệt. Đã là hoa trong vườn, dù thuộc chủng loại nào, những bông hoa đều cống hiến hương sắc cho đời. Con người cũng thế, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có trách nhiệm góp phần làm cho cuộc sống thêm nhân ái hơn.
Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.
Khi ước mong trở thành những đóa hồng dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.
Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: "Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy" (Tông thư Kinh Mân Côi).
Lạy Mẹ Mân Côi, xin chúc lành và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian. Amen.
9. Tại sao chúng ta đọc Kinh Mân Côi -- GM. Giuse Vũ Duy Thống
Kính thưa cộng đoàn, Trên các trang mạng công giáo ngày hôm nay, cách riêng trang mạng của HĐGMVN, người ta thấy xuất hiện một lá thư của Hội đồng gửi đến toàn thể cộng đoàn dân Chúa Việt Nam. Bức thư ấy cho biết nỗ lực làm việc của Đại hội XI mới kết thúc hôm qua, tập trung vào tài liệu làm việc dành cho đại hội dân Chúa sẽ được qui tụ vào cuối tháng 11. Ở cuối bức thư, có xin toàn thể mọi người bằng kinh Mân Côi, hãy cầu nguyện cho Đại hội đem lại những thành quả tích cực.
Tại sao xin cầu nguyện mà lại cầu nguyện bằng kinh Mân Côi? Có lẽ vì lý do thực tế bức thư được viết vào lễ Đức Mẹ Mân Côi, bức thư được viết vào tháng Mân Côi. Nhưng bên trong, HĐGMVN muốn kêu gọi toàn thể dân Chúa vốn là dân vẫn yêu mến Đức Trinh Nữ Maria, vẫn yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy bằng chính tràng hạt Mân Côi ký thác Đại hội dân Chúa tháng 11 này cho Đức Trinh Nữ Maria. Đó là một tình cảm rất đậm đà, mà cũng là nhiều gợi ý cho chúng tôi muốn chia sẻ với cộng đoàn trong thánh lễ sáng nay về kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm hiệp thông và sứ vụ.
I. Trước hết, thưa cộng đoàn, kinh Mân Côi trong nhãn giới mầu nhiệm ai trong chúng ta cũng biết từ thưở còn tấm bé, vẫn nghe nói đến và sướng lên những mầu nhiệm Mân Côi. Ngày xưa là 15 mầu nhiệm, nhưng hôm nay là 20: Vui, Sáng, Thương, Mừng đầy đủ. Mỗi một sự kiện được xướng lên, mệnh danh là một mầu nhiệm trong tâm tình kinh đọc.
Nhưng cùng với Đức Maria và trong Đức Maria, người ta thấy những mầu nhiệm ấy cũng thoát lên cả một sức sống mầu nhiệm mà Đức Trinh Nữ Maria cá nhân đã được dẫn dắt vào, và mở ra cho cộng đoàn Giáo Hội cả một sức sống rộng dài lịch sử cứu rỗi hôm qua cho đến hôm nay, và còn mãi ngàn sau.
Chỉ xin đan cử mầu nhiệm Truyền Tin trong Tin Mừng hôm nay vừa gợi lên, cũng là ngắm thứ nhất Mùa Vui. Cộng đoàn chúng ta cũng thấy là cả một mầu nhiệm tuyển chọn Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Nếu như trong Tin mừng hôm nay có tô đậm lời chào của Thiên sứ Gabrien dành cho Đức Mẹ trong buổi Truyền Tin với một danh xưng tuyệt vời, nằm mơ cũng không thấy, đó là danh xưng Đấng Đầy Ơn Phúc. Một danh xưng họa hiếm trong Thánh Kinh, và cũng là một danh xưng nói lên cả một mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa tuyển chọn Đức Trinh Nữ Maria, để thông qua Mẹ tuôn đổ xuống tất cả mọi người. Ông bà anh chị em cứ nghĩ mà xem, trước đó Đức Maria chưa là gì. Thế nhưng, kể từ buổi Truyền Tin, cách riêng với lời chào Đấng Đầy Ơn Phước, Mẹ đã trở nên một nhân vật không thể thiếu được, và cũng là nhân vật mẫu gương, nhân vật điển hình, hay nói theo kiểu ngày hôm nay, Mẹ là người mẫu để khởi đi từ đó mở ra một nhãn giới sự sống mầu nhiệm cho toàn thể Hội Thánh.
Mẹ được tuyển chọn trong mầu nhiệm mà ngày hôm nay chúng ta gọi là mầu nhiệm Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ cũng được tuyển chọn trong mầu nhiệm đồng trinh khi thụ thai, và cũng là mầu nhiệm tuyển chọn khi Mẹ cung cấp chất liệu xác thân của mình cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành làm người trong cuộc sống nhân lọai. Ở đây, Mẹ chính là Mẹ Thiên Chúa. Và mầu nhiệm của tháng 8 vừa qua chúng ta cử hành, mầu nhiệm Mẹ Hồn Xác Lên Trời, tất cả đều quyện lại trong một sự sống, sự sống Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong mầu nhiệm tuyển chọn, để rồi với hình mẫu ấy, tất cả mọi tín hữu đều gắn bó với Mẹ, đi theo bước đường Mẹ đã đi, cũng được tháp nhập vào trong sự sống của Đức Kitô, để đến với sự sống của Thiên Chúa, vốn là sự sống hồng ân Chúa dành cho tất cả mọi người.
Vâng, mầu nhiệm không phải là cái gì đơn thuần mình nghĩ là vượt quá tầm hiểu biết, có tin cũng không đạt được. Mà mầu nhiệm ở đây trước hết xin hiểu là một sự sống mênh mông trong đó mỗi người chúng ta được dìu dắt đến và cứ như vậy, như biển cả, như đại dương, càng ngụp lặn đến thỏa thích, mà vẫn không bao giờ no thỏa cơn khát của tấm lòng. Bằng kinh Mân Côi, Đức Maria đã dẫn chúng ta vào tất cả những mầu nhiệm từ ân tuyển chọn cho đến thông qua Đức Giêsu Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm cứu độ, và còn mở ra cho tương lai của hậu thế của mọi người chúng ta trong Đức Kitô. Đó là mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa trao gửi cho con người, ban tặng cho con người, và làm sao mỗi người khi đọc kinh Mân Côi, cũng để cho chính mầu nhiệm sự sống ấy được triển nở lên trong cuộc đời riêng của mình cũng như trong cộng đoàn mà mình là thành phần.
Kết thúc mấy ngày đại hội vừa qua, các Giám mục chúng tôi được mời tra lại sức khỏe, ở đó có việc thử máu, cũng như các Linh mục của các giáo phận nước Việt Nam trong năm vừa qua cũng được mời để làm như thế. Kết quả là Giám mục nào cũng khám phá ra được điều gì đó trong vận hành máu huyết của mình không phù hợp lắm với chính bước đi của mình hôm nay. Có những lắng lo, và bên cạnh đó cũng có những vui mừng khi ai đó khám phá ra mình hôm nay vẫn còn khỏe mạnh cho dẫu đã ở tuổi 65 hoặc 70. Quan sát như thế và cũng chia sẻ với nhau ưu tư một chút về vấn đề ấy, chúng tôi trộm nghĩ mỗi một tín hữu, từ Giám mục cho đến mọi người giáo dân, ắt hẳn ai cũng khám phá trong máu huyết của mình có một sức sống. Sức sống ấy không được ý tự, sức sống có thử máu cũng không tìm ra. Nhưng sức sống ai cũng cảm nghiệm được, cũng nhận thấy, đó là sức sống Kitô nơi chính máu huyết của mình, bất kể đó là những loại máu A, B, C, D,… Nhưng ở đây, là Kitô hữu, chúng ta mang dòng máu Kitô. Dòng máu ấy chỉ được thử nghiệm trong tình yêu thật với Đức Kitô và cách riêng bằng tràng hạt Mân Côi. Vào dịp này, ta sẽ nghiệm được đó là mầu nhiệm dàn trải và mời gọi mỗi người chúng ta đón nhận cũng như sống lấy. Vâng, đó là khía cạnh trước hết trong nhãn giới mầu nhiệm.
II. Khía cạnh thứ hai chia sẻ với cộng đoàn, bằng kinh Mân Côi, người ta cũng nhận ra khía cạnh hiệp thông trong đời sống tín hữu. Nếu như phần đầu của từng mầu nhiệm Mân Côi, theo như thói quen chúng ta vẫn đọc. Ví dụ ngắm thứ nhất Mùa Vui Thiên Thần truyền tin cho Đức Mẹ,…, và phần sau là Ta hãy xin cho được khiêm nhường. Phần sau này chính là tâm tình hiệp thông của tất cả mọi tín hữu, của từng cá nhân, khởi đi từ mầu nhiệm mình gẫm suy, cũng như của từng cộng đoàn gắn bó nhịp sống của mình với mầu nhiệm mà mình đang suy tưởng. Ở đây là một sự nối kết giữa mầu nhiệm sự sống với hành trình sự sống của mỗi người trong tinh thần hiệp thông. Chính nhãn giới hiệp thông này, ta gặp thấy trọn vẹn đời sống của mình được dàn trải ra từ những ngóc ngách của suy tư, cho đến những lối ngõ của hành động. Ở đó, đâu đâu cũng có sự đồng hành của Đức Trinh Nữ Maria. Cộng đoàn cứ thử nghĩ mà xem, trong ngày thăm viếng, Đức Maria đã làm gì. Ngài không đến để chia sẻ, để niềm vui của Mẹ được hiệp thông với Bà Isave, mà cuối cùng là bừng vỡ lên niềm vui của hai thai nhi, hai bà bầu trẻ và trọng tuổi hơn gặp nhau, làm cho hai thai nhi cũng gặp gỡ. Rốt cuộc, phát tỏa trong điệu nhảy niềm vui của Gioan Baotixita, nhảy hôm qua cho đến hôm nay và ngàn đời vẫn cứ tiếp tục nhảy.
Trong lịch sử của âm nhạc, có nhiều điệu nhảy kết thúc bằng chữ A, điệu nhảy Chachacha hay Lămbada… Vì thế, đây cũng có thể gọi là điệu nhảy Gioan Baotixita, để tất cả mọi người trong mầu nhiệm ấy được hiệp thông niềm vui của mình, làm sao cho kinh đọc, cho suy tưởng, và cho đời sống của mình cũng vươn lên trong những điệu nhảy của tấm lòng, điệu nhảy niềm vui, sẻ chia. Và rồi còn nhiều mầu nhiệm khác trong 15 hoặc là 20 ngắm Mân Côi, người ta cũng thấy Đức Trinh Nữ Maria ở đó khuôn mẫu cho tình hiệp thông gắn bó. Gắn bó với đối tượng mà Mẹ tìm đến gặp gỡ, cũng như gắn bó trong nhãn giới của Hội Thánh hôm nay. Đây là một niềm vui không bao giờ chấm dứt.
Ngày hôm nay, cộng đoàn của mỗi người chúng ta cử hành lễ Mân Côi, được nhìn trong nhãn giới hiệp thông. Hiệp thông của từng người với nhau làm thành niềm vui lớn đã đành, nhưng còn là niềm vui hiệp thông cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho Hội Thánh hiệp thông với Đức Trinh Nữ Maria. Đó là nhãn giới thứ hai, nhãn giới hiệp thông. Và gắn với liền đó là mênh mông bao là những biến cố cũng như tâm tình mà cộng đoàn có thể gắn bó tiếp nối vào đó mà tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.
III. Nhãn giới thứ ba chính là nhãn giới sứ vụ. Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải vì có Giáo Hội, rồi mới có sứ vụ truyền giáo. Nhưng bởi vì đã có lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu trao cho các tông đồ, thế nên phải thành lập một tổ chức để thi hành, đó chính là Giáo Hội. Giáo Hội được khai sinh từ lệnh truyền truyền giáo của Đấng Phục Sinh, và khởi đi từ đó, tất cả những ai biết mình là thành viên của Giáo Hội luôn luôn canh cánh bên lòng, từ ước vọng cho đến thao thức, và thể hiện ra qua những công việc truyền giáo cụ thể mình thực hiện được tại địa bàn dân cư mà mình là thành phần. Nói một cách vắn gọn, sứ vụ ở đây có nghĩa là mình đã hiệp thông với mầu nhiệm sự sống, mình đã đáp ứng bằng nhịp sống cá nhân làm thành niểm vui, thì tới phiên mình, trong tư cách là thành viên của Hội Thánh, mình cũng trao gửi, mình cũng sẻ chia niềm vui ấy cho tất cả những ai mình gặp gỡ. Có thể là những người chưa biết đến đạo giáo, có thể là những người năm nào đó đã biết rồi, đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đã là Kitô hữu rồi, nhưng đã bị lớp bùn thời gian và nếp sống của họ phủ lên chính lòng tin. Vì vậy, khi mình trao gửi niềm vui, khi mình chia sẻ lại ơn mình lãnh nhận được, mình mời gọi họ bước vào nẻo đường tạ ơn. Đó cũng chính là lúc mình đang sống tinh thần sứ vụ của Hội Thánh.
Kinh Mân Côi là một kinh mở ra cho mỗi tín hữu nhãn giới sứ vụ ấy. Nếu như trong biến cố thăm viếng, Đức Maria đã bước chân trong sứ vụ vượt qua nẻo đường cả một trăm kilômét, không biết bằng đi bộ hay ngồi trên lưng lừa, nhưng Mẹ đã vượt nẻo đường xa để chia sẻ niềm vui với một người chị em trọng tuổi hơn mình. Hay là trong năm sự sáng, Đức Maria hiện diện tại đám cưới Cana, Mẹ đã đôn đáo, mới đầu chỉ như một thông tin cỏn con dành cho người con thân yêu của mình họ hết rượu rồi, để rồi sau đó ngược xuôi, chạy đi chạy lại đôn đáo, làm sao cho hòa cùng vào một nhịp. Nhất là giải quyết được vấn đề - rượu được tràn đầy và niềm vui của đám cưới được diễn tả ra. Không mất danh dự của đám cưới, mà còn khơi thêm niềm vui, cách riêng khơi thêm niềm tin cho các môn đệ đầu tiên tìm theo Chúa Giêsu. Rõ ràng, trong biến cố ấy, Đức Maria là hình mẫu của con người sứ vụ, để rồi hôm nay, mỗi người chúng ta qua Kinh Mân Côi cũng khám phá lại được tiếng gọi sứ vụ đang thúc đẩy chúng ta đến với tất cả những anh chị em xung quanh mình. Bất luận bằng một lời kinh, bằng một tâm tình chia sẻ, bằng một lời nói ủi an. Rõ hơn nữa, bằng một cử chỉ gì đó giúp đỡ, Vâng, chỉ xin thâu tóm lại trong nhãn giới ấy, nhãn giới mầu nhiệm, nhãn giới hiệp thông, nhãn giới sứ vụ của kinh Mân Côi.
Trong dịp cử hành thánh lễ Mân Côi cùng với cộng đoàn đây. Trong niềm vui cảm tạ khơi lên cùng với HĐGMVN lời chia sẻ dành cho cộng đoàn dân Chúa – hãy yêu mến tràng hạt Mân Côi, hãy cầu nguyện bằng tràng hạt Mân Côi, và hãy thả vào đó tất cả tâm tình của mình. Một mặt để nhận được sức sống mầu nhiệm Thiên Chúa gửi trao, và một mặt khác, chính mình cũng nhận ra sức sống ấy trong từng nhịp sống, trong từng lời kinh của mình. Một khi đã nhận được như vậy, chính mình trở thành tông đồ sẻ chia cho những người xung quanh.
Xin nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi, mà chúng ta đang cử hành trong thánh lễ đây, cho mỗi người tín hữu chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Trước đây đã yêu rồi, đã lần hạt nhiều lần rồi, nhưng ta thử đọc lại bằng một tâm tình, một tâm tình mới mà HĐGM mời gọi ấy, để thấy được rằng cả một sức sống nhiệm mầu, hiệp thông, và sứ vụ đang ùa vào tâm hồn mỗi người chúng ta. Xin kết thúc bằng một vần thơ nhỏ:
Gửi em một chục Mân Côi
Để em sớm tối học lời cầu kinh
Mẹ trên cao sẽ thương tình
Cho em hạnh phúc, gia đình an vui.
Gia đình đây là cộng đoàn. Gia đình đây là gia đình riêng của mỗi người. Gia đình đây cũng là tập thể giáo xứ, là giáo phận, là đất nước, là tất cả mọi người chúng ta.
Xin Đức Trinh Nữ Maria Mân Côi ban muôn ơn lành xuống trên tất cả mọi người. Amen.
10. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu -- ‘Từng Bước Một Thôi’ -- GM. Giuse Vũ Duy Thống
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
11. Kinh Mân Côi - Lời kinh kết nối -- 'Nút Vòng Xoay' -- GM. Giuse Vũ Duy Thống
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu, là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng tác bằng lời "xin vâng" thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng "xin vâng" không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự "nối mạng", nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ", nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường......? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.
12. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng -- ‘Với cả tâm tình’ -- GM. Vũ Duy Thống
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
13. Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa ở cùng Bà -- GM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Julbell có một bài hát nổi tiếng khắp thế giới từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, và chắc có lẽ mãi mãi còn đọng lại trong lòng người nghe. Bài hát rất quen thuộc. Đó là bài Ave Maria.
Điều gì đã khiến cho nhạc sĩ có được cảm xúc một cách dạt dào để viết lên một bản nhạc tuyệt vời như vậy?
“Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”. Chính lời kinh tuyệt vời đó đã làm nên cảm xúc không phải chỉ một Julbell mà cho biết bao nhạc sĩ trong lịch sử âm nhạc của thế giới viết nên những bản nhạc tuyệt vời và chính lời kinh đó làm nên ngày lễ Mân Côi hôm nay. Tại sao vậy?
Trong lịch sử Giáo Hội vào khoảng thế kỷ 16. Anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới. Bởi vì họ đi từ vùng Trung Đông sang Á châu đến Ấn Độ. Họ đổ bộ lên Âu châu. Đi đến đâu thắng đến đó. Khi đổ bộ đến Âu châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Một đoàn quân thiện chiến như thế thì quân Ý làm sao mà đối đầu được. Nếu để thua thì Ý sẽ thất thủ, thủ đô của Hội Thánh Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả Âu châu cũng bị đe dọa.
Đức Giáo Hoàng Piô V bấy giờ lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, và cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng.
Ngày 7/10 năm ấy quân của Công giáo chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm ngày lễ Đức Bà chiến thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
Nói đến chiến thắng, có lẽ chúng ta nghĩ đến chiến thắng về quân sự, kinh tế, chính trị. Không, Chúa Giêsu không ban cho mình chiến thắng đó. Khi đối diện với Philatô Ngài đã trả lời: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này thì binh lính tôi đã đến giải thoát tôi khỏi tay người Do Thái”.
Ta cần nhìn vào chiến thắng ở một góc độ khác. Đó là chiến thắng chính mình. Một danh tước trong lịch sử thế giới đã thường nói: “Không có cuộc chiến đấu nào khó khăn hơn chiến đấu với chính bản thân mình.”
Mỗi chúng ta có thể cảm nghiệm điều đó trong cuộc sống. Đức Cha Pul-ton-Shin, Ngài nói: “Nếu bạn chấp nhận một cuộc chiến đấu trong tâm hồn bạn, thì sự bình an sẽ giải tỏa trong cuộc sống xã hội. Ngược lại, nếu bạn không chấp nhận cuộc chiến đấu đó, mà bạn đi tìm thỏa hiệp với cái xấu và tội lỗi trong tâm hồn bạn, thì chiến tranh sẽ lan tỏa trong cuộc sống xã hội”.
Nói như thế có nghĩa là chuyện chiến thắng chính mình là một cuộc chiến rất khó, nhưng nó lại là căn bản để dẫn đến cuộc sống bình an cho mọi người. Chuỗi Mân Côi, những lời kinh Kính Mừng đan kết lại với nhau thành xâu chuỗi. Chuỗi Mân Côi đó có khả năng giúp cho ta tập chiến thắng chính mình. Tại sao vậy?
Ở phương Đông khi nói về con người, người ta hay nói đến thân, trí, tâm. Triết học phương Tây ngày xưa, khi học tâm lý học nói đến con người, người ta nói đến tình cảm và ý chí. Cũng tựa như nhau. Khi các bạn lần chuỗi Mân Côi thì cả thân, cả trí, cả tâm, có nghĩa là tất cả con người toàn diện chúng ta được chi phối. Chúng ta hãy nhớ lại, khi ta lần chuỗi có nghĩa là trong tay của mình cầm chuỗi đó là cái thân. Việc cầm một xâu chuỗi ảnh hưởng đến trí và tâm mình.
Có một linh mục kể chuyện: Trong một lần ngài đi máy bay, ngồi cạnh nhà sư, thấy trên tay nhà sư cầm xâu chuỗi, miệng lâm râm nam-mô-a-di-đà-phật. Linh mục hỏi nhà sư: Tại sao lần chuỗi vậy? Nhà sư bảo: Chúng tôi lần chuỗi như thế này tâm trí đỡ căng thẳng. Thế thì bên các ngài không có cái gì giống vậy à?
Linh mục trả lời: Có chứ, nhưng mà chúng tôi lần chuỗi không phải để cho tâm trí bớt căng thẳng, mà chúng tôi nhắm cái khác cơ. Nhà sư nói với vị linh mục thế này: Cha ạ, nếu cha muốn tập trung vào một điều gì, thì trong tay của cha phải có một cái gì, nhờ đó cha sẽ dễ tập trung hơn.
Vị linh mục học được một bài học, hóa ra chuỗi Mân côi mình cầm trong tay giúp cho cái trí của mình tập trung. Khi các bạn lần chuỗi là trong tay cầm xâu chuỗi, nó giúp cho trí của mình tập trung vào lời kinh, và còn tập trung vào cuộc đời của Chúa Giêsu mà kinh Mân Côi mô tả từ khi Ngài sinh ra cho đến cuộc sống công khai, đến khi bị chết trên thánh giá chịu táng trong mồ, sống lại, lên trời, ban Thánh Thần xuống cho Giáo Hội.
Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu. Một thứ Tin Mừng thu gọn được tóm lại ở trong chuỗi Mân Côi, đồng thời khi chúng ta lần chuỗi như vậy tâm của mình tịnh lại. Đối với người trẻ hôm nay đang sống trong một thời đại tốc độ, mà người đọc như thế thật mất thì giờ. Tôi đã từng nghĩ như vậy. Nhưng sau này khi tìm hiểu lại lịch sử linh đạo, tôi mới thấy đó là một phương pháp rất hay cho cuộc sống tâm linh. Những lời con người vắn tắt được lặp đi lặp lại như thế nó làm cho tâm của mình tĩnh lại.
Có một người học trò người Việt Nam, sau này sang Mỹ viết thư về kể cho tôi nghe kinh nghiệm về việc sống đạo của anh ta: Cuộc sống quá nhiều khó khăn đến mức độ chịu không được, nên đêm đến về nhà muốn phá toang, la toáng lên: Tại sao lại đổ trên đầu tôi những sự khổ sở thế này. Bất chợt nhìn lên đầu giường thấy một tràng chuỗi treo ở đấy. Nó liền chạy đến cầm lấy ngồi đọc kinh. Chỉ mới có 10 kinh thôi là thấy tâm hồn của mình lắng xuống….
Khi lần chuỗi Mân côi thì toàn diện con người của mình: thân, trí và tâm đều được chi phối. Cùng sự chi phối đó thì chuỗi Mân côi làm cho nơi chúng ta hình thành một con người mới chống lại những gì xấu trong tâm hồn mình.
Con người ta sống ở đời này bao giờ cũng sống trong ba mối tương quan chính: tương quan với Thiên Chúa, tương quan với tha nhân, tương quan với thế giới vật chất. Tội lỗi chúng ta nó cùng nằm trong ba mối tương quan đó. Khi lần chuỗi Mân Côi, Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta sống những tương quan đó tốt đẹp.
Chẳng hạn khi chúng ta lần chuỗi chúng ta đọc: Chúa Giêsu lên trời, xin cho lòng con được hưởng những sự lên trời. Chúng ta sẽ sống mối tương quan với Thiên Chúa; chúng ta sẽ sống một tâm hồn siêu thoát hơn; khi chúng ta đọc: Mẹ Maria đi viếng thăm bà Isave, xin cho được lòng yêu người. Đó là lời cầu xin tương quan với tha nhân, bằng tình yêu thương chứ không phải là hận thù ghen ghét; khi chúng ta đọc Chúa Giêsu chịu đóng đinh, xin cho đóng đinh tính xác thịt mình vào thánh giá Chúa; đó là tương quan với thế giới vật chất, với chính xác thịt của mình.
Chuỗi Mân Côi giúp cho chúng ta chiến thắng cái xấu ở nơi bản thân mình, hoàn thành một con người mới, con người mới đó sẽ tác động trong cuộc sống, làm cho cuộc sống được đẹp hơn.
Đức Cha Pul-ton-Shin là một diễn giả nổi tiếng ở Mỹ. Ngài chỉ giảng trên đài truyền hình chứ không giảng ở nhà thờ. Nhiều bạn trẻ xin Ngài chứng hôn cho lễ cưới của mình. Ngài đồng ý chứng nhận với hai điều kiện, hai bạn đó phải hứa với Ngài mỗi ngày vợ chồng phải đọc chung với nhau 50 kinh Kính Mừng. Lời kinh nối kết vợ chồng giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn.
Hình như bây giờ các bạn trẻ ít lần chuỗi lắm. Hôm nay tôi muốn nói về giá trị của kinh Mân côi. Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ tiền. Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân Côi. Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản thân, để tôi chiến thắng chính mình, để tôi sống đời đức tin tốt hơn. Amen.
14. Mẹ tuyệt vời --Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Mẹ vẫn thường cầu nguyện, và cầu nguyện mọi nơi mọi lúc như Mẹ cùng cầu nguyện với các tông đồ sau biến cố Đức Yêsu lên trời (Cv.1, 12-14).
Mẹ được tổng lãnh thiên thần Gabriel chào là người “được Thiên Chúa thương”, “được đầy ân phúc”, vì Mẹ luôn vâng phục Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận Lời Chúa vào đời mình. Với lời thưa “xin vâng” trong biến cố thiên thần chuyển đạt Ý Thiên Chúa (Lc.1, 38), Đức Mẹ đã đón nhận Lời Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình.
Kể từ khi đón nhận Thiên Chúa nhập thể trong cung lòng mình, Đức Maria vẫn nghèo như thuở nào, không được sung túc về vật chất. Không chỉ vậy, cuộc đời của Mẹ gian nan hơn, vất vả hơn; chẳng hạn, Mẹ đã bôn ba đi thăm bà Isave, phải chấp nhận sinh Đức Yêsu trong chuồng chiên cừu, bị lạc mất con ở Yêrusalem, khi Đức Yêsu đi rao giảng Mẹ đã phải tự sinh sống, khi Đức Yêsu bị chống đối lúc Ngài rao giảng, khi Mẹ theo Đức Yêsu trên con đường thập giá và đặc biệt dưới chân thập giá.
Mẹ Maria như luôn âm thầm, không làm gì to lớn trước mặt người đời. Mẹ vẫn luôn cưu mang Lời Chúa trong lòng, ngay cả khi đã sinh hạ Thiên Chúa nhập thể cho con người “ai là anh chị em và mẹ Ta? Đó là người nghe và giữ Lời Thiên Chúa”.
Thiên Chúa đã dùng con đường rất “bình thường” để đến với con người, để ở mãi với con người, để yêu mến và phục vụ con người, đó là “nhập thể”. Nhập thể là tự hủy, là chấp nhận trở thành con người, và vĩnh viễn là người. Thiên Chúa đã làm người, để giúp con người trở nên con Thiên Chúa. Đức Maria đã sống “âm thầm khiêm hạ” theo cách thức của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn liệt kê những điều mà một người phụ nữ nổi tiếng nhất đã làm được?
(Mỗi bạn có thể chọn một người nữ nổi tiếng nào đó trên thế giới, và kể những gì người đó đã làm được).
2. Đức Maria đã làm được điều gì mà người khác không làm được?
3. Dựa vào Ga.17, 23, giữa bạn và Đức Maria, Thiên Chúa yêu ai hơn?
4. Bạn cũng có thể là anh chị em và mẹ Đức Yêsu (Lc.8, 19-21), vậy Đức Maria hơn chúng ta ở điểm nào?
15. Kinh Mân Côi.
Hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về kinh Mân Côi. Trước hết kinh Mân Côi là một việc đạo đức bắt nguồn từ Phúc Âm.
Thực vậy, kinh Lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh mà chính Chúa đã dạy cho các môn đệ. Còn kinh Kính Mừng là gì nếu không phải là lặp lại lời chào của sứ thần Gabriel và của bà Elisabet. Tất cả đều được rút ra từ Phúc Âm. Hơn thế nữa, chúng ta còn sống lại trọn bộ Tin Mừng qua những mầu nhiệm của kinh Mân Côi. Đúng thế 20 mầu nhiệm làm một bản tóm lược Tin Mừng, trình bày cho chúng ta những giai đoạn chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu từ khi nhập thể cho đến lúc về trời, cao điểm của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi không phải chỉ là một lời kinh chúng ta đọc trên môi trên miệng, mà còn là những đề tài suy gẫm. Đây là một việc làm hết sức đơn giản. Chúng ta chỉ cần mường tượng ra những biến cố, những hình ảnh mà mỗi mầu nhiệm gợi lên, cũng giống như khi chúng ta đi chặng đàng thánh giá. Nó không đòi buộc chúng ta phải suy gẫm từng lời chúng ta đọc hay dừng lại lâu giờ nơi mỗi mầu nhiệm. Chẳng hạn chúng ta mường tượng ra Chúa Giêsu vai vác thánh giá và chúng ta nghĩ đến những khổ đau chúng ta phải gánh chịu. Như thế mà thôi cũng đã đủ lắm rồi. Chúa Giêsu không phải là một ông chủ hà khắc, chỉ đánh giá theo những kết quả đã đạt được, nhưng Ngài còn là một người cha nhân từ thấu rõ thiện chí của mỗi người chúng ta. Nói vậy không có nghĩa là xoá bỏ những con đường dẫn chúng ta tới đỉnh cao trọn lành. Như thế kinh Mân Côi sẽ là một việc đạo đức thích hợp cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc, sẽ đem lại cho chúng ta một nguồn nghị lực thiêng liêng.
Tiếp đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức luôn được Giáo Hội cổ võ.
Thực vậy các Đức Thánh Cha không ngừng khuyến khích chúng ta siêng năng lần chuỗi. Đức Thánh Cha Piô IX khuyên chúng ta lần hạt tại gia đình trong những giờ kinh tối sớm. Ngài nói: Kinh Mân Côi là một kho tàng quý giá của Giáo Hội công giáo. Tiếp đó, Đức Thánh Cha Lêô XIII còn đi xa hơn nữa và người ta đã dành cho ngài tước hiệu là Đức Thánh Cha của kinh Mân Côi. Ngài đã công bố cả thảy 12 thông điệp và 8 văn kiện khác nữa bàn về kinh Mân Côi. Chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi để thúc đẩy việc lần chuỗi, cũng như đã thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắn nhủ: Nếu các con muốn cho gia đình mình được bình an và hạnh phúc thì hãy lần chuỗi với nhau mỗi buổi tối. Đức Thánh Cha Piô XII đã huấn dụ: Chúng ta khuyên nhủ những người cha, những người mẹ trong gia đình, hãy tập cho con cái thói quen lần chuỗi, và ngay cả chúng ta nữa, chúng ta vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Năm 1951, trong một thông điệp, ngài đã tha thiết hêu gọi những người công giáo hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng này để cầu xin những ơn lành cho Giáo Hội và cho nhân loại. Chính ngài khi đã 80 tuổi, mặc dù bận rộn nhiều công việc nhưng ngài đều lần chuỗi trước khi đi ngủ. Rồi gần đây, Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Đức Thánh Cha Phaolô VI và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đều đề cao giá trị của kinh Mân Côi và khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi.
Để kết luận tôi xin kể lại mẫu gương của thầy Peyton. Thầy bị bệnh nặng, các bác sĩ đều chịu thua, tuy nhiên trong âm thầm mẹ thầy đã xin được chết thay cho thầy. Lời cầu xin được Đức Mẹ nhận lời, thầy được bình phục và được thụ phong linh mục. Mẹ chết. Dành trọn cuộc sống để loan truyền sứ điệp Fatima và kinh Mân Côi.
Với chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ cho bản thân chúng ta, gia đình chúng ta luôn mãi.
16. Ave Maria, Lời con thảo
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Từ năm 1883, sau khi Vua Tự Ðức băng hà, nổi lên Phong Trào Cần Vương nhằm đánh đuổi quân Pháp và tàn sát người Công Giáo. Ngày 1 tháng 9 năm 1885, quân lính Văn Thân kéo đến vây làng Trà Kiệu, trong khi linh mục Bruyère (thuộc Hội Thừa Sai Paris) và giáo dân không kịp chuẩn bị.
Cuộc giao tranh giữa làng công giáo Trà Kiệu và quân lính Văn Thân kéo dài trong nhiều ngày. Tương quan lực lượng chênh lệch, phe Văn Thân mạnh hơn cả về nhân lực và vũ khí nên những người công giáo đã bày tượng Ðức Mẹ trên bàn thờ để cầu nguyện. Trong khi thanh niên lâm chiến, thì người già và trẻ con tập trung đọc kinh trước ảnh Đức Mẹ. Khi xong trận, họ lại quay về tạ ơn Mẹ. Khẩu hiệu tiến quân của giáo dân là 3 tên thánh: Giêsu, Maria, Giuse. Mỗi khi quân Văn thân tiến đến giáp lũy tre phòng thủ, thì đồng loạt tất cả giáo dân hô to khẩu hiệu và ào ra giao chiến.
Sau đó quân Văn Thân tăng viện thêm đại bác. Họ đặt đại bác trên Ðồi Kim Sơn và Bửu Châu để bắn vào nhà thờ, nơi được xem như là trung tâm xuất phát các trận phản công, đồng thời là biểu tượng của tinh thần kháng chiến của giáo hữu. Nhà thờ bị trúng đạn một lần nhưng tổn thất không đáng kể. Một khẩu đại bác đặt cách nhà thờ chừng 100 thước, nhưng không sao bắn trúng được nhà thờ. Theo truyền tục thì võ quan chỉ huy đã thú nhận rằng ông ta cố tình nhắm bắn thì thấy "một người đàn bà xinh đẹp, bận áo trắng, đứng trên nóc nhà thờ nên không thể nào nhắm trúng được". Thông tin này đã khiến quân lính trong phe Văn Thân xôn xao. Vị Linh mục và giáo dân nghe vậy đều nghĩ rằng phép lạ Ðức Mẹ làm, cũng mong được nhìn thấy, nhưng không ai trông thấy ngoại trừ một người đàn bà, tên là Chỉnh. Ðồng thời phe Văn thân còn thấy nhiều trẻ nhỏ mặc áo đỏ áo trắng từ trên không trung bay xuống qua lũy tre xanh, tay cầm gươm bạc sáng ngời vả đánh giúp giáo dân.
Ngày 21 tháng 9 năm 1885, phe giáo dân chiếm lại bộ chỉ huy của Văn Thân đặt trên Ðồi Bửu Châu. Trà Kiệu được giải vây từ đó. Ðêm đến, mọi người họp nhau trong nhà thờ sốt sắng tạ ơn Thiên Chúa, nhất là Thánh Mẫu Maria. Năm 1898, giáo dân Trà Kiệu xây cất một đền Thờ trên ngọn Ðồi Bửu Châu để ghi nhớ công ơn Đức Mẹ. Từ ấy đến nay, Linh địa Đức Mẹ Trà Kiệu vốn nổi tiếng là linh thiêng, nhiều người đều đến cầu khẩn Mẹ lành và thường đều được ban ơn. Nhiều người tự cho rằng đã được khỏi bệnh bằng lá Non Trược trên Ðồi Bửu Châu.
Ngày 31 tháng 5 năm 1971, Giám mục Đà Nẵng Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi đã chọn Trà Kiệu làm Trung Tâm Thánh Mẫu của Giáo phận Đà Nẵng. Và theo thông lệ thì ba năm một lần, Giáo phận sẽ tổ chức ngày "Đại Hội Đức Mẹ Trà Kiệu" vào ngày 31 tháng 5. (Đức Mẹ Trà Kiệu, Wikipedia)
Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng lễ Mẹ Mân Côi với bài Tin Mừng của thánh Luca, thuật lại Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel truyền tin cho Đức Mẹ Maria. Từ câu chào của ngài, Hội Thánh hình thành dần Kinh Kính Mừng hôm nay. Ngày xưa Đức Mẹ Trà Kiệu đã cầu bầu cứu giúp giáo dân khỏi bị bách hại, nay Mẹ vẫn còn đang âm thầm chăm lo, săn sóc, giúp đỡ những ai chạy đến cùng Mẹ. Vậy trong tháng Mân Côi, chớ gì người tín hữu mỗi khi tay lần chuỗi, miệng đọc Kinh Kính Mừng đều dạt dào, tha thiết những tâm tình cung kính, mến yêu, xác tín và hoàn toàn đặt niềm hy vọng vào Mẹ.
Ave Maria, trân trọng kính chào Mẹ
Chẳng còn lời chào nào cao quý, trân trọng hơn lời Thiên sứ Gabriel chúc mừng Mẹ. “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng. Đức Chúa ở cùng Bà.” Vậy nay con cái Mẹ hân hạnh mượn lời Thiên sứ để chạy đến, kính cẩn cúi mình cung chúc Mẹ thì thật là hợp tình hợp lý và quá tốt lành.
Mỗi người đều có người mẹ thân thương, dễ gần gũi, dễ cởi mở tâm tình hơn người cha nghiêm nghị, xa cách. Nên thường đứa con mới hay đến xin xỏ, vòi vĩnh với mẹ, chứ không dám quấy rầy cha. Người mẹ lại càng vui mừng hơn, khi đứa con biết kính trọng, lễ phép, ngợi khen mẹ phúc hậu, rộng lượng và thương con. Cũng vậy, mỗi khi Mẹ Maria nghe lời cầu chúc thánh thiện của con chiên bổn đạo, sao đành lòng làm ngơ được.
“Tình yêu Mẹ như làn gió mát, như hạt sương mai, làm tâm hồn quằn quại khao khát an bình, được êm dịu ủi an.” (Đường Hy Vọng, số 912)
Ave Maria, thân thương xác tín Mẹ
“Đức Chúa Trời ở cùng Mẹ” Còn hạnh phúc nào trọng đại hơn là vinh dự có Chúa - Ở - Cùng? Mẹ Maria được diễm phúc đó vì sống đẹp lòng Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói và hành động.“Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Chúa.” Thiên sứ Gabriel vội trấn an, khi Mẹ đang bỡ ngỡ về lời chào quá trọng thể.
“Phúc đức tại mẫu.” Câu tục ngữ dân Việt đã khẳng định từ ngàn đời rằng con cái được thừa hưởng phúc lộc từ người mẹ hiền. Vậy Mẹ Maria được tràn đầy hồng phúc, nhất là được Chúa - Ở - Cùng, thì con cái Mẹ cũng hẳn cũng được thông phần. Người con nào thảo hiếu với Mẹ, chắc chắn được Mẹ rộng lượng ban phát. Cho nên, càng thân thương xác tín Mẹ tràn đầy ân phúc, thì Mẹ càng yêu thương cầu bầu cứu giúp.
Hơn nữa, “Mẹ có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu, Con lòng Mẹ gồm phúc lạ.” Mẹ là người nữ duy nhất trên đời, được cưu mang Đấng Cứu Thế, rồi cùng đồng hành với Người từ khi Mẹ thưa “Xin Vâng” cho đến khi được về trời. Vậy để được Chúa - Ở - Cùng, con cái cứ ghi nhớ lời Mẹ dặn, như với gia nhân tiệc cưới Cana: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (Ga 2, 5) Nghe và thực hành Lời Chúa thì con cái cũng được diễm phúc như Mẹ.
“Muốn biết Mẹ con tốt đẹp chừng nào, con hãy nhớ Mẹ Chúa Ngôi Hai, cao cả, toàn năng. Phúc cho con biết chừng nào, vì Ngài cũng là Mẹ của con. Nếu không phải Chúa Giêsu nói, con không thể hiểu được.” (Đường Hy Vọng, số 917)
Ave Maria, chân tình hy vọng
“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử.” Khi đứa con biết mình lỗi phạm, cứ đơn sơ, khiêm tốn chạy đến Mẹ khẩn cầu, nương tựa, cứu chữa, để Mẹ soi sáng, chỉ dạy, biết ăn năn, sám hối, giải hòa với Thiên Chúa. Chẳng bao giờ Mẹ nỡ ngoảnh mặt quay đi. Vì Mẹ chính là niềm hy vọng xán lạn của con cái đang trầm luân dưới thế.
“Đứa con có bệnh tật, xấu xí người mẹ vẫn thương yêu. Dù con nguội lạnh tội lỗi, phản bội, con hãy phó mình trên tay Mẹ. Chúa Giê su trối: “Đây là Mẹ con!” Nỡ nào Mẹ bỏ con.” (Đường Hy Vọng, số 914)
Lạy Chúa Giêsu, trước khi sinh thì trên thập giá, Chúa đã trăn trối Mẹ cho chúng con, cũng như trao chúng con cho Mẹ săn sóc. Xin giúp chúng con trở nên người con hiếu thảo của Mẹ, để được luôn có Chúa Ở Cùng.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ hằng ngày cứ mãi tiếp tục nhắc nhủ chúng con: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo,”hầu chúng con được luôn thức tỉnh, mà sống trọn vẹn Lời Chúa. Amen.
17. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng -- 'Niềm Vui Chia Sẻ'
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: "Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris".
Anh chị em thân mến,
Louis Pasteur là một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi mân côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn "Lòng sùng kính Đức Maria" (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh "Ave Maria" mà chúng ta đọc là "Kính Mừng Maria" thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là "Hãy vui lên, Maria!" khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: "Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc" là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh "Kính mừng Maria" là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: "Từ khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang - và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc" (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín thác... Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình... được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhận lời" (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: "Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.
18. Kinh Mân Côi
Nguồn gốc kinh Mân Côi là những bông hồng kết thành triều thiên, mà những tín hữu Bắc Âu thời Trung cổ đội lên đầu Đức Mẹ, trong những tiếng đàn ca và múa hát. Tiếc thay, ngày nay kinh Mân Côi đã trở thành một kinh đơn điệu nhàm chán và máy móc, mà chỉ có ông già bà già cùng những người đạo đức mới đọc, để ăn mày ân xá, còn giới trẻ và đặc biệt là phía đàn ông con trai, chẳng cảm thấy vui vì khi lần hạt.
Mặc dầu vậy, cứ đến tháng mười, các đấng các bậc trong Hội Thánh cũng lại hết lời khuyên bổn đạo "Hãy ăn năn sám hối và lần hạt Mân Côi". Nhưng thực tế cho thấy ít có ai sám hối thật lòng, còn lần hạt thì cũng luôn luôn chỉ có mấy cụ già và người lớn tuổi. Ai không tin thì cứ thử làm một cuộc điều tra.
Trong khi đó vào tháng năm, thì người ta lại rầm rộ thi đua tổ chức Dâng Hoa. Rõ ràng là râu ông nọ cắm cằm bà kia. Vì đáng lẽ cái thứ "phụng vụ dân gian" này phải được kết hợp với kinh Mân Côi, thì mới đúng về nguồn gốc và ý nghĩa của nó.
Thật vậy, người Kitô hữu Bắc Âu, sống vào koảng từ thế kỷ XI tới XIII, vì không hiểu gì về phụng vụ bằng tiếng Latinh, nên đã sáng tạo ra một thứ phụng vụ dân gian, là sáng tác những bài ca bằng tiếng bản xứ, đôi khi rất lãng mạn và trữ tình, đồng thời kết những triều thiên hoa hồng, vừa đội lên đầu Đức Mẹ, vừa hát vừa múa.
Theo truyền thuyết thì có một anh lái buôn, vì phải đi rong ruổi đó đây, không thể tham dự những buổi họp mừng Đức Mẹ với anh chị em tín hữu, nên đã nghĩ ra cách đọc đi đọc lại những câu kinh mà ban đầu chỉ có lời chào của sứ thần Gabriel cộng với lời chúc mừng của bà Elisabeth.
Thánh Đaminh đã dùng cái nên tảng của lòng sùng kính này để xây dựng nên truyền thống suy niệm những mầu nhiệm cứu độ, bằng cách giảng dạy cho các tín hữu nghe biết về những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu. Có thể nói, thánh nhân đã biến đổi một hình thức sùng kính chỉ có tính cách tình cảm trở thành một phương tiện loan báo Tin Mừng. Đối với thánh nhân, điều quan trọng không phải là múa hát hay đội triều thiên cho Đức Mẹ, mà là hái cho bằng được những bông hoa của ơn cứu độ từ cây hồng ân sủng được trồng trong vườn thiêng là cõi lòng Đức Trinh Nữ.
Chính nhờ nghe lời rao giảng mà người ta sám hối và tin vào Phúc Âm. Sám hối phải được liên kết với việc tin vào Phúc Âm, chứ không phải sám hối rồi chỉ đọc kinh. Đọc kinh mà không biết, không hiểu Tin Mừng thì làm sao đạt được niềm tin. Và không tin thì đọc kinh làm gì cho uổng công.
Bởi thế, cần phải bớt kinh, bớt việc làm của cái miệng, để tăng thêm việc làm cho trái tim, cho cái tâm. Thật ra thì sự suy niệm này đã được chính Đức Mẹ thực hiện và làm gương cho chúng ta. Thánh Luca đã ghi lại những hai lần thái độ của Đức Mẹ, đó là luôn để tâm suy niệm những biến cố liên quan tới Chúa Giêsu, người Con của Mẹ. Vậy thì đối với chúng ta, suy niệm những mầu nhiệm của Tin Mừng, đó chính là cách hữu hiệu nhất để hái được những bông hồng tươi thắm mà cài lên áo Mẹ hiền.
19. Lời kinh hoà bình và lời kinh của gia đình
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Trong phần kết thúc Tông Thư về Kinh mân côi năm 2003, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi mọi thành phần trong Giáo hội như sau: “Tôi hướng về tất cả anh chị em, thuộc mọi bậc sống, hướng tới tất cả anh chị em trong các gia đình Kitô hữu, đến anh chị em là những người đau yếu và cao niên, đến các con là những người trẻ: Xin tất cả một lần nữa hãy cầm lại Chuỗi mân côi với lòng tin tưởng. Hãy khám phá lại Kinh mân côi dưới ánh sáng của Kinh Thánh, trong sự hài hoà của Phụng Vụ, và trong bối cảnh hằng ngày của anh chị em”.
Tại sao Đức Giáo Hoàng tha thiết kêu mời chúng ta đọc Kinh cân côi như vậy? Có nhiều lý do, nhân ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, tôi xin nêu lên hai lý do quan trọng sau đây:
1. Kinh mân côi là lời kinh hoà bình
Ngày 13 tháng 05 năm 1917, Đức Mẹ nói với ba trẻ ở Fatima rằng: “Hãy ăn năn đền tội, cải thiện đời sống. Hãy lần chuỗi Mân Côi hằng ngày để đem hòa bình cho nhân loại và để chấm dứt chiến tranh (…). Nếu các con thi hành các điều Ta phán dạy thì rất nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và sẽ có hòa bình. (…) Nếu các điều Mẹ mong ước được thực thi, nước Nga sẽ trở lại, và sẽ có Hòa Bình. Nếu không, nước Nga sẽ gieo rắc các tà thuyết trên khắp thế giới, chiến tranh sẽ xảy ra, Giáo Hội sẽ bị bách hại, người lành sẽ bị tử đạo…” (x. Tiếp tục thực hiện sứ điệp Fatima cho Hòa bình và Công lý của UBCL và HB). Sau đó, nhờ cha ông chúng ta vâng nghe lời Mẹ dạy, chăm chỉ đọc Kinh mân côi mà nước Nga và toàn bộ Khối Đông Âu đã trở lại.
Thật vậy, Kinh mân côi chính là lời kinh hoà bình. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói “Tự bản chất, Kinh mân côi là lời kinh cầu cho hoà bình”. Ngài giải thích: Thứ nhất, vì nó hệ tại ở việc chiêm ngưỡng Đức Kitô, Hoàng tử Hoà bình, là sự bình an của chúng ta(x. Ep 2,14). Bất cứ ai đồng hoá với mầu nhiệm Đức Kitô và rõ ràng đó là mục tiêu của Kinh mân côi thì sẽ học được bí quyết của hoà bình và biến nó thành dự phóng của đời sống mình. Thứ hai, nhờ tính chất suy niệm của nó, với sự tiếp nối thanh thản các Kinh kính mừng, Kinh mân côi đem lại sự an bình nơi người cầu nguyện, tạo điều kiện cho họ đón nhận và cảm nghiệm tận đáy lòng, và gieo vãi ra chung quanh, hoà bình đích thật vốn là quà tặng đặc biệt của Chúa Phục Sinh (x. Ga 14,27; 20,21). Thứ ba, vì những hoa trái bác ái mà nó sản sinh. Khi được thực hiện tốt theo một thể thức suy ngắm đích thực, Kinh mân côi dẫn ta đến gặp gỡ Đức Kitô trong các Mầu nhiệm của Người, và vì thế, ta không thể không quan tâm tới dung nhan Đức Kitô nơi những người khác, nhất là nơi những người đau khổ nhất. Và Ngài kết luận: Kinh mân côi cho phép chúng ta hy vọng rằng, cả ngày hôm nay nữa, trận chiến cam go vì hoà bình có thể dành thắng lợi. (x. Tông thư Rosarium Virginis Mariae về Kinh mân côi).
Như vậy, muốn có hoà bình thực sự trong tâm hồn, trong gia đình, trong tổ quốc và trên thế giới, chúng ta hãy lẫn hạt mân côi.
2. Kinh mân côi là lời kinh của gia đình
Kinh Mân côi không những là lời kinh cầu cho hoà bình mà còn là lời kinh của gia đình và cho gia đình. Các gia đình truyền thống Việt Nam thường lần chuỗi chung với nhau trong gia đình vào buổi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng khi vừa mới thức dậy. Nhiều giáo dân có thói quen lần chuỗi trên đường đến nhà thờ, trên đường đến nơi làm việc, khi rảnh rỗi... Đó là những thói quen tốt. Nhờ thế, Đức Mẹ đã gìn giữ họ được bình an, nhiều gia đình đã vượt qua được những sóng gió trong cuộc đời. Cho nên, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhắc nhở những người làm công tác mục vụ các gia đình phải có trách nhiệm khuyên nhủ họ duy trì thói quen đọc Mân côi trong gia đình. Ngài nói: “Kinh mân côi cũng là và vẫn luôn luôn là lời kinh của gia đình và cho gia đình”.
Ngài đưa ra một số các lợi ích khi các gia đình đọc Kinh mân côi: Làm cho các gia đình gần gũi nhau hơn. Lôi kéo các gia đình xích lại gần nhau. Thông hiệp với nhau. Tỏ tình liên đới. Tha thứ cho nhau, và nhìn thấy giao ước tình yêu của họ được đổi mới trong thần khí của Thiên Chúa.
Đặc biệt, trước những thách đố của xã hội, các gia đình lại cần trở về với Kinh mân côi hơn. Đức Thánh Giáo Hoàng nói tiếp: “Nhiều vấn đề đang thách thức các gia đình hiện nay, đặc biệt trong xã hội có nền kinh tế phát triển, xuất phát từ việc càng ngày người ta càng khó hiệp thông với nhau. Các gia đình ít khi thu xếp để gặp gỡ nhau, và những cơ hội hiếm hoi để gặp gỡ được nhau lại bị những hình ảnh truyền hình xen vào phá hỏng. Trở về với việc đọc kinh Mân côi trong gia đình có nghĩa là lấp đầy cuộc sống hằng ngày những hình ảnh hoàn toàn khác, những hình ảnh trình bày Mầu nhiệm cứu độ: hình ảnh Đấng Cứu chuộc, hình ảnh Mẹ Rất Thánh của Người. Gia đình cùng đọc Kinh mân côi là làm sống lại phần nào bầu khí của gia đình Nagiarét: các thành viên gia đình đặt Đức Giêsu ở trung tâm để họ chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của Người, đặt những nhu cầu và dự tính của họ trong tay Người, kín múc từ Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến bước”.
Khi nói về con cái, Đức Thánh Giáo Hoàng cũng mời gọi các bậc cha mẹ hãy cầu nguyện bằng Kinh mân côi với con cái và cho con cái, vì đó là một trợ lực thiêng liêng mà chúng ta không thể coi thường. Ngài nói: “Việc cầu nguyện bằng Kinh mân côi cho con cái mình, khi và hơn nữa, với con cái mình, dạy dỗ chúng ngay từ những năm đầu đời, biết ngừng lại mỗi ngày để cầu nguyện với gia đình, phải thú nhận rằng đó không phải là một giải pháp cho mọi vấn đề, nhưng đó là một trợ giúp thiêng liêng mà ta không thể coi thường”. (x. Tông thư Rosarium Virginis Mariae về Kinh mân côi).
Để thêm lòng tin tưởng vào Kinh mân côi, chúng ta hãy nghe câu chuyện sau đây:
Cha Patrick Joseph Gillard-Peyton là vị Linh Mục tông đồ của Tràng Chuỗi Mân Côi. Cha chào đời ngày 9-1-1909 tại County Mayo trong gia đình Công giáo nghèo bên nước Ái-nhĩ-lan. Năm 18 tuổi, Patrick cùng với bào huynh Tom sang Hoa Kỳ tìm kế sinh nhai. Nhưng rồi Chúa gọi, Patrick từ giã anh, gia nhập chủng viện.
Lúc gần chịu chức Linh mục, thầy Patrick bỗng lâm bệnh lao phổi trầm trọng. Các bác sĩ cho biết vô phương cứu chữa! Giấc mơ Linh mục trong phút chốc tan thành mây khói .. Thầy Patrick chán nản buông tay bỏ cuộc. Một vị Linh Mục lão thành bất ngờ đến thăm và nói với Thầy: Hãy kêu xin Đức Mẹ MARIA chữa lành bệnh. Đức Mẹ là nguồn sự sống. Hãy tin tưởng nơi Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ như Người Mẹ thật. Hãy kiên trì van nài và tin chắc chắn Đức Mẹ sẽ chữa lành. Đức Mẹ sẽ tỏ ra vô cùng nhân hậu với Thầy. Chính vì chúng ta tin tưởng quá ít nơi Đức Mẹ nên Đức Mẹ không ban cho chúng ta nhiều ơn!
Nghe vị Linh mục lão thành nói thế, Thầy Patrick bỗng nhớ lại chuỗi ngày niên thiếu nơi quê hương Ái-nhĩ-lan thân yêu. Thầy cũng nhớ đến “liều thuốc thần” hiền mẫu Thầy vẫn dùng trong cơn gian nan khốn khó. Đó là Tràng Chuỗi Mân Côi. Cứ chiều đến, cả gia đình tụ họp và cùng nhau sốt sắng lần hạt Mân Côi.
Giờ đây, vì hết hy vọng nơi các phương thuốc chữa trị trần gian, Thầy Patrick hướng về Trời Cao và kêu van Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc qua Kinh mân côi. Và Thầy được lành bệnh thật.
Năm 1941 - 32 tuổi - Thầy Patrick Peyton hân hoan lãnh thiên chức Linh mục trong dòng Thánh Giá. Từ đó Cha xác tín rằng: Thế giới cầu nguyện là thế giới hòa bình. Gia đình cầu nguyện là gia đình hiệp nhất. Nếu mỗi người, mỗi gia đình dành ít thời gian trong ngày để đọc Kinh mân côi thì các tổ ấm sẽ trở thành vườn địa đàng. (x. Phép lạ của Tràng chuỗi Mân Côi, Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)
Vì những lý do trên đây, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm siêng năng đọc Kinh mân côi theo lời Mẹ dạy, để cầu cho bản thân, gia đình và cầu cho hoà bình thế giới. Amen.
20. Phúc âm hóa Giáo Xứ bằng việc sống kinh Mân Côi -- Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Sách Công vụ Tông đồ thuật lại biến cố các Tông đồ cùng với Mẹ Maria cầu nguyện mong chờ Chúa Thánh Thần đến. Lúc này, Đức Mẹ Maria vẫn còn ở với các Tông đồ, chứng tỏ rằng Mẹ giữ trọn tiếng Fiat mẹ thưa khi xưa. Dù nay Mẹ đã về cùng Thiên Chúa, Mẹ vẫn không bỏ Giáo hội. Mẹ đồng hành và cùng với Giáo hội đón chờ Chúa Thánh Thần đến. Và hôm nay cùng với Mẹ Giáo hội vững bước trên hành trình đức tin. Có Mẹ dìu dắt, che chở gìn gìn, Giáo hội sẽ vượt qua những phong ba bão tố của cuộc đời với lòng yêu Chúa sắt son, lòng cậy tin vững vàng vào Chúa và đến bến bình an.
Hôm nay, toàn thể Giáo hội mừng lễ Mẹ Mân côi. Lễ này có gốc tích như sau: Căn cứ vào các nguồn tài liệu đáng tin nhất của Thánh Louis Marie Grignion de Monfort, trong cuốn "Bí Mật Kinh Mân Côi", thì chính Đức Mẹ đã ban Kinh Mân Côi và dạy Kinh Mân Côi cho thánh Đaminh. Vào thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong việc chống tà thuyết Anbi, thuyết cho rằng đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác. Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa-Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác. Từ đó, thánh Đaminh đã là sứ giả của Đức Mẹ và là tông đồ tiên khởi truyền bá Kinh Mân Côi từ năm 1214.
Rồi năm 1917, trong cả sáu lần hiện ra tại Fatima với ba em thiếu nhi Lucia, Phanxicô và Giaxinta, Đức Mẹ đã kêu gọi các em hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày. Trong lần hiện ra cuối cùng Mẹ đã tự xưng "Ta là Đức Mẹ Mân Côi”. Và sự kiện cuối cùng, ngày Chúa nhật 07/10/1571, hải quân Công Giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lepante. Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mân Côi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, Đức Giáo Hoàng Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, Đức Giáo Hoàng Ghê-go-ri-ô XIII đặt tên cho lễ này là lễ Mân Côi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, Đức Giáo Hoàng Clément XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, Đức Thánh Piô X ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng 10.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói rằng: “Chuỗi mân côi là bảng tóm lược toàn bộ Phúc Âm, với trung tâm là mầu nhiệm nhập thể cứu chuộc, trong đó lặp đi lặp lại lời ngợi khen Đức Kitô”. Qủa thế, kinh Mân côi là bạn đồng hành của biết bao nhiêu con người từ bình dân đến thông thái. Kinh Mân côi là một lời cầu nguyện ngõ hầu đem lại sức mạnh cho đức tin đồng thời giúp chúng ta sống đạo lý Chúa một cách trọn hảo và tốt đẹp. Qủa thế, 20 mầu nhiệm Mân Côi là một bản tóm lược Tin Mừng, trình bày cho chúng ta những giai đoạn chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu từ khi nhập thể cho đến lúc về trời, cao điểm của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước. Với một nội dung như thế, Giáo hội dạy ta khi đọc kinh Mân Côi vừa suy niệm các biến cố lịch sử cứu độ của Chúa Giêsu vừa rút ra bài học luân lý giúp ta sống theo Tin Mừng của Chúa trong đời sống thường nhật. Chẳng hạn, mầu nhiệm thứ nhất của Mùa Thương, chúng ta suy ngắm Chúa Giêsu chịu đánh đòn, rồi xin cho ta được hãm mình chịu khó bằng lòng với những khó khăn đớn đau trong cuộc sống để cùng với những đớn đau Chúa chịu xưa mà dâng lên Thiên Chúa Cha làm của lễ đẹp lòng Chúa nhất thay vì chúng ta trách móc và tuyệt vọng. Hay mầu nhiệm thứ nhất của Mùa Vui, chúng ta suy ngắm việc Thiên Thần truyền tin, và rồi xin cho ta được sống tinh thần khiêm nhường như Đức Mẹ trong cuộc sống vì chỉ có khiêm nhường thì mọi người trong giáo xứ tôn trọng nhau, phục vụ nhau, yêu thương nhau và giúp nhau nên hoàn thiện như lòng Chúa mong muốn một cách dễ dàng. Cụ thể hơn nữa, với mầu nhiệm thứ ba của Mùa Vui, chúng ta suy ngắm việc Đức Mẹ thăm viếng bà Ê-li-sa-bet, ta xin cho được lòng yêu người. Lòng yêu người đó không chỉ qua việc cầu nguyện mà còn ở hành động là bác ái, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an và chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật trong giáo xứ mình như Đức Maria đã đến viếng thăm, phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Ê-li-sa-bét. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo Mẹ. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau, nói với nhau những lời an ủi, chia sẻ tinh thần cũng như vật chất, chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của con cái Chúa. Vì vậy, những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Ước gì hôm nay và mãi mai chúng ta hãy hướng nhìn lên Đức Mẹ Mân Côi, Người Mẹ gần gũi và nhân hậu của Giáo hội. Xin Mẹ Mân Côi giúp mỗi người trong giáo xứ và gia đình chúng ta nên chứng nhân cho tình hiệp thông và phục vụ, cho đức tin nồng cháy và yêu thương người nghèo khổ một cách quảng đại để niềm vui Tin Mừng chạm đến cõi lòng của mọi người. Amen.
21. Hiệu năng của chuỗi Mân Côi
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Lc 1: 26-38: Hôm nay ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi theo lời Mẹ dặn, vì kinh Mân Côi sẽ mang đến cho chúng ta một kho tàng ân phúc của Chúa.
Hôm nay ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân Côi theo lời Mẹ dặn, vì kinh Mân Côi sẽ mang đến cho chúng ta một kho tàng ân phúc của Chúa. Kinh Mân Côi chính là chìa khóa vạn năng để chúng ta mở kho ân sủng vô biên của Chúa. Chân Phước Alan nói rằng: "Sau Hy Tế trong Thánh Lễ, một Hy Tế cao trọng nhất, cùng những kỷ niệm sống động của những đau khổ của Chúa Kitô, thì không còn loại sùng kính nào tốt hơn, đem ích lợi nhiều cho các linh hồn bằng Kinh Mân Côi, một kinh cũng nhắc lại những kỷ niệm và diễn lại cuộc đời, sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô".
Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội số 67 viết: "Các tín hữu hãy nhớ rằng lòng tôn sùng chân chính không hệ tại tình cảm chóng qua và vô bổ, cũng không hệ tại sự dễ tin phù phiếm, nhưng phát sinh từ một Đức Tin chân thật. Đức Tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta". Chính vì vậy, Đức Mẹ đã nói với thánh Mechtilđê: "Mẹ muốn con biết rằng không ai có thể làm đẹp lòng Mẹ bằng đọc lời thiên sứ chào Mẹ mà Chúa Ba Ngôi chí thánh gửi xuống cho Mẹ và nâng Mẹ lên chức phẩm Mẹ Thiên Chúa." Thánh Anphongsô còn cho biết: "nhờ kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân Côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh" như câu truyện "chuỗi hạt Mân Côi với vua Galicia":
Alphonso từ ngày được tôn lên làm vua nước Galicia, đã tỏ ra rất oai phong lẫm liệt. Nhà vua đi đâu cũng có các quan văn võ tả hữu theo hầu. Thần dân của vua hầu hết là những người công giáo ngoan hiền đạo hạnh. Biết thế nên muốn lấy lòng dân, vua luôn tỏ ra mình là người đạo đức, có lòng kính mến Đức Mẹ Mân Côi, để triều đình và thần dân bắt chước. Cho nên dụng ý nhà vua là làm thế nào cho thần dân biết mình là người năng lần chuỗi Mân Côi. Vua cho đặt một cỗ tràng hạt thật dài để quấn vào thắt lưng, mỗi khi vua đi ra ngoài. Dân chúng ai cũng trầm trồ khen ngợi nhà vua rất ngoan đạo. Cho nên để lấy lòng vua, các quan cũng như thần dân, ai cũng mang tràng hạt, và cũng bắt chước vua năng lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ. Nhưng than ôi, thực tế phũ phàng thay! Vua chỉ giả hình vậy thôi, chứ chẳng bao giờ ông đọc kinh cầu nguyện gì cả, chỉ lo ăn chơi trác táng .
Một ngày kia, vua lâm bệnh nặng, trong một thị kiến vua thấy mình bị đưa đến toà phán xét. Ma quỷ vây chung quanh tố cáo vua các tội tầy đình, và chúng chực sẵn để đầy vua xuống hoả ngục. Đang lúc Chúa Giêsu Đấng Thẩm Phán Tối Cao, sắp sửa luận phạt vua, thì Đức Mẹ xuất hiện biện hộ cho vua. Mẹ nói với Chúa Giêsu: Con hãy thư thả để Mẹ xem xét lại vụ này.
Đức Mẹ liền truyền cho các thiên thần đem các tội vua đã phạm khi còn sống để trên một bàn cân, và cỗ tràng hạt vua luôn luôn đeo bên mình, cùng các kinh Mân Côi đã được đọc do gương sáng đeo tràng hạt của vua, trên một bàn cân khác. Kết quả là cỗ tràng hạt nặng hơn các tội vua đã phạm.
Rồi Đức Mẹ nhìn vua một cách trìu mến và nói: để tưởng thưởng một chút công của con đã dành cho Mẹ, bằng cách đeo tràng hạt Mân Côi, Mẹ đã xin Con Mẹ cho con được ơn rất lớn lao là khỏi sa hỏa ngục. Con sẽ được sống thêm mấy năm nữa để làm việc đền tội. Nhà vua tỉnh lại kêu lên: “Ngợi khen chuỗi hạt Mân Côi của ĐứcTrinh Nữ Maria ! Nhờ đó trẫm được giải thoát khỏi sa hoả ngục”. Sau khi bình phục, nhà vua đã sốt sắng truyền bá kinh Mân Côi, và lần chuỗi Mân Côi suốt ngày.
Anh chị em thân mến,
Kinh Mân Côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược, nhưng chuỗi Mân Côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã, Chuỗi Mân Côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
- Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có.
- Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay.
- Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh … thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.
Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo Hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
22. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
HÃY NĂNG ĐỌC KINH MÂN CÔI
Khi chúng ta đọc “Kinh Kính Mừng”, chúng ta dâng lên Mẹ trên trời những hoa hồng nhỏ của tâm hồn con thảo. Chắc Mẹ sẽ vui mừng đón nhận lòng hiếu thảo của chúng ta. Không phải vì Mẹ thích được ngợi khen ca tụng, nhưng vì Mẹ thương chúng ta nên Mẹ vui khi thấy chúng ta chạy đến với Mẹ, để tỏ lòng yêu mến của chúng ta. Nhiều lần trong lịch sử, Mẹ đã nói với những người Mẹ chọn như đã nói với thánh Eulalia vào thế kỷ thứ IV ở Tây-Ban-Nha: “Khi con chào Mẹ với lời chào của thiên sứ, Mẹ cảm thấy vui mừng khôn tả”.
Nhiều lần Mẹ đã hiện ra tại Lộ-Đức, Fatima… Mẹ chỉ khuyên chúng ta lần chuỗi Mân Côi. Tại sao?
Kinh Mân Côi là lời kinh có từ thế kỷ thứ IV, đơn sơ chỉ có phần đầu, phần thứ hai được thêm vào độ thế kỷ thứ mười bốn. Lịch sử của kinh Mân Côi rất dài dòng vì từ từ qua một thời gian rất lâu mới hình thành thể thức hiện nay. Chúng ta không nói đến điều đó. Rất nhiều tài liệu đã được viết về vấn đề này.
Mẹ bảo chúng ta lần chuỗi Mân Côi, vì đó là dấu hiệu của tình yêu Chúa đối với Mẹ và với chúng ta. Chính Mẹ nói: “Chúa đã nhìn đến thân phận nữ tỳ của Chúa… đã làm cho tôi những điều kỳ diệu… Chúa hằng xót thương những ai kính sợ Người…”
Lần chuỗi Mân Côi không phải chỉ hướng về Mẹ mà hướng về Chúa. Chúa là tất cả, vì “tình thương của Ngài luôn bền vững muôn năm.”
Chúng ta đã nghe nhắc đi nhắc lại trang Tin Mừng của thánh Luca về việc thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, chúng ta có thấy nhàm chán không? Hãy khám phá không ngừng biến cố duy nhất tuyệt vời ấy. Hãy nhìn thấy tình yêu Chúa và khuôn mặt đáng yêu của Mẹ chúng ta.
Thật thế, mỗi khi đọc lại trang Tin Mừng này, ai là con cái Đức Mẹ phải cảm thấy vui mừng và tri ân, vì đây là một biến cố quyết định hạnh phúc của chúng ta, của toàn thể nhân loại. Thiên Chúa đã đến trần gian đang ngập chìm trong tăm tối mịt mù. Dân Do Thái đã chờ đợi qua bao nhiêu thế kỷ và hôm nay, ngày hạnh phúc đã đến. Thiên sứ báo cho Mẹ một tin vui mà từ từ Mẹ mới khám phá. Tin vui đó chính là Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi ban Con Một mình cho trần gian. Điều đó không tạo nên một niềm vui rộn ràng trong lòng chúng ta sao? Đức tin chính là nhảy mừng trong Chúa.
Trình thuật của Luca rất sống động và mỗi khi chúng ta nghe đọc lại đoạn Tin Mừng này, chúng ta chiêm ngắm khuôn mặt đáng yêu của Mẹ chúng ta.
Đọc đi đọc lại, chúng ta càng thấy Mẹ chúng ta đáng yêu như thế nào?
Thiên thần vào nhà trinh nữ…Thánh Luca không nói rõ thái độ của thiên sứ, chỉ nói là vào nhà, thế thôi và cung kính chào trinh nữ bằng những lời lạ lùng đến nỗi Maria ngạc nhiên và như sợ sệt và tự hỏi lời chào như thế có ý nghĩa gì.
Làm sao không hoảng sợ khi một người thanh niên bước vào nhà, trân trọng bái chào mình! Chúng ta nên chú ý đến chi tiết này. Thiên thần vào nhà trinh nữ như thế nào? Đây là một vấn đề mà nhiều nhà chú giải Kinh Thánh không đồng ý với nhau.
Xã hội Do Thái rất khắc khe về vấn đề liên lạc nam nữ, có thể nói là chủ trương “nam nữ thọ bất thân”. Vì thế nếu nói rằng thiên thần vào nhà trinh nữ vào lúc ban ngày thì không thể chấp nhận được. Người hàng xóm sẽ nghi ngờ về sự đứng đắn của Maria. Vậy thiên thần vào nhà trinh nữ như thế nào? Hay thánh Luca dùng một hình ảnh cụ thể để nói đến cuộc đối thoại của Maria với thiên thần? Hay đây chỉ là một thị kiến hoàn toàn bên trong, nhưng thánh Luca tường thuật như một việc xảy ra bên ngoài? Bao nhiêu câu hỏi không có câu trả lời. Theo ý kiến của một số nhà chú giải thì, có lẽ thiên thần đã hiện ra trong nhà vào lúc ban tối. Vậy đây là một lần hiện ra giống như thiên thần đã hiện ra với Dacaria trong Đền thờ. Giải pháp này xem ra phù hợp hơn.
Chúng ta không quá chú tâm đến những chi tiết đó, nhưng sẽ suy nghĩ đến cuộc gặp gỡ giữa thiên thần và Maria hơn.
Thiên thần chào Maria với những lời làm Maria ngạc nhiên và sợ hãi: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng; Đức Chúa ở cùng bà.”
“Maria bối rối và tự hỏi lời chào như vậy có ý nghĩa gì?”
E sợ nhưng không mất bình tỉnh, Maria vẫn tự hỏi… Nhưng thiên thần đã nhanh chóng đánh tan sự bối rối của Maria: “Thưa Bà Maria, xin đừng sợ, vì Bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây, bà sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và đặt tên nó là Giêsu…” Maria càng ngạc nhiên hơn và trả lời: “Việc này xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng?”
Thánh Luca đã nói trước, Maria đã đính hôn với một người thanh niên tên là Giuse, trong giờ phút này Maria lại nói rằng sẽ không biết đến việc lấy chồng, thế nghĩa là sao? Chúng ta thường không để ý đến vấn đề này mà chỉ xem như đã biết rồi. Đây mới là vấn đề. Đã đính hôn rồi thì sớm hay muộn người ta cũng rước về nhà, hơn nữa trong xã hội Do Thái, người nữ không có quyền quyết định, chỉ có bên nam có quyền mà thôi. Sao Maria dám quả quyết rằng tôi sẽ không có chồng?
Maria chỉ có một quyền duy nhất là năn nỉ. Bên đàng trai có thể trả tự do cho thiếu nữ đã đính hôn với mình. Có lẽ Maria tin cậy rằng Giuse là người tốt có thể chấp nhận chuyện này dễ dàng.
Thiên thần cho Maria biết, tất cả mọi sự không do nàng mà do chính Thiên Chúa. Ngài sẽ che chở nàng… Maria đã hiểu và đã tuân phục: “Tôi là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Thái độ của Maria thật dễ thương. Nàng bình thản, đắn đo và sau cùng chấp nhận, hoàn toàn tín thác vào Chúa, không bận tâm.
Khi chúng ta lần chuỗi Mân Côi là lúc chúng ta lặp lại những lời thiên thần chào và ngợi khen Mẹ “đầy ơn phúc”, không có gì tươi sáng hơn, không có gì êm đềm hơn. Mẹ được Chúa trên trời đoái đến và mời gọi mang Chúa Con đến với chúng ta. Mẹ thay chúng ta đón nhận hồng ân trên các hồng ân là Con của Chúa Cha.
Chúng ta cùng với Mẹ đi suốt quảng đường của Con Chúa, Đấng xuống thế làm người vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, và cùng với Mẹ, sống lại trong vinh quang. Như thế, chúng ta sẽ có Mẹ đi cùng chúng ta suốt quảng đường cuộc đời chúng ta. Như thế có phải là hạnh phúc không?
Tại sao có nhiều người không muốn lần chuỗi Mân Côi, viện đủ thứ lý lẽ, chỉ vì họ không hiểu được tình yêu của Mẹ và hồng ân họ lãnh được nơi Mẹ. Mẹ là phần thưởng Chúa ban cho những ai thành tâm sống trong tình yêu Chúa, tin vào tình yêu Chúa. Mẹ là quả tim đón nhận Chúa Giêsu, thì Mẹ cũng đón nhận chúng ta, vì Mẹ đã được trao phó làm Mẹ chúng ta. Giây phút đau thương nhất trên thập giá cũng là giây phút tuyệt hảo nhất vì trong giây phút đó, chúng ta đón nhận hồng ân êm đềm nhất là chính Mẹ Maria.
Mẹ là nguồn sống cho Ngôi Hai ra đời, Mẹ cũng là nguồn sống cho chúng ta là kẻ có tội. Ai cảm thấy mình yếu đuối, phạm tội, hãy tin vào Mẹ. Mẹ yêu Chúa Giêsu thế nào thì Mẹ cũng yêu chúng ta như thế.
Giáo Hội luôn thúc giục chúng ta yêu mến Mẹ, vì chỉ có Mẹ mới là nguồn suối tình yêu, giúp chúng ta yêu mến Chúa.
Hôm nay mừng Mẹ Mân Côi, chúng ta hãy nhờ Mẹ dẫn dắt chúng ta trên con đường yêu mến vì chúng ta chưa bao giờ có thể yêu Chúa đủ. Chúa Giêsu đến nơi bàn thờ này để nhập thể lại trong mỗi người chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể, xin Mẹ giúp chúng ta đón nhận Ngài như Mẹ: “Con là tôi tớ Chúa, xin Chúa thực hiện nơi con những gì Chúa muốn”.
23. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Lần Chuỗi Mân Côi – một việc đạo đức đang bị giới trẻ "xếp xó"
Trong đời sống của Giáo Hội, có hai việc tôn thờ Thiên Chúa: thứ nhất là Phụng Vụ, thứ hai là các việc đạo đức bình dân. Việc Phụng Vụ là việc thờ phượng Thiên Chúa một cách chính thức của Giáo Hội, gồm Thánh Lễ, Chầu Thánh Thể và Giờ Kinh Thần Vụ. Còn các việc đạo đức bình dân gồm có viếng Thánh Thể, lần hạt Mân Côi, đi Đàng Thánh Giá, rước kiệu… Gọi là “bình dân” vì ai cũng có thể làm được, và có thể làm được mọi nơi mọi lúc.
Trong các việc đạo đức bình dân, thiết nghĩ lần chuỗi Mân Côi là việc có giá trị nhất. Vì sao? Vì khi lần chuỗi Mân Côi là ta lặp đi lặp lại những lời kinh trọng nhất, đẹp nhất trong đạo. Bắt đầu là Kinh Lạy Cha, lời kinh do chính Chúa Giêsu dạy, lời kinh trọng nhất. Và tiếp đến là 10 kinh Kính Mừng, vốn là lời kinh cũng có nguồn gốc từ Tin Mừng. Đi kèm là việc luân phiên suy gẫm 20 mầu nhiệm Tin Mừng gắn liền với công trình nhập thể và cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, trong đó Đức Mẹ luôn luôn góp phần một cách trực tiếp.
Đó là lý do tại sao Mẹ Maria rất yêu thích chuỗi Mân Côi. Và đó cũng là lý do tại sao, ta thấy rằng, mỗi lần hiện ra nơi này nơi nọ, Mẹ Maria đều cầm tràng chuỗi Mân Côi trên tay, và luôn nhắc nhở con cái của Mẹ lần chuỗi Mân Côi: ở Fatima, ở Lộ Đức, hay ở La Vang đều như thế!
Tuy nhiên, thực tế ngày hôm nay giới trẻ và cả giới trung niên rất lười lần Chuỗi Mân Côi, đặc biệt nam giới. Tất cả đều có chung một “họ” là họ “lười”. Nguyên nhân tại sao? Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng thiết tưởng có ba nguyên nhân chính.
- Thứ nhất là do não trạng chung, người ta vốn xem thường các việc đạo đức bình dân.
Vì là bình dân, nên nhiều người cho là bình thường, thậm chí là tầm thường, là việc của mấy bà già. Cơm bình dân thì giới bình dân ăn; việc đạo đức bình dân thì người bình dân làm. Đọc kinh, viếng Chúa, đi Đàng Thánh Giá đã mệt, lại còn mất công, tốn thời gian. Lần hạt thì toàn lặp đi lặp lại những kinh nhàm chán và buồn ngủ; trong khi đó cuộc sống hôm nay có những thứ khác hấp dẫn hơn, lý thú hơn nhiều. Rất nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ vẫn thường suy nghĩ như thế!
- Thứ hai là do cuộc sống ngày hôm nay vốn nhiều bận bịu lo toan, nhất là việc học hành, làm ăn.
Người lớn thì căng thẳng vì chuyện cơm áo gạo tiền, hay vì chuyện công ăn việc làm, có khi phải tăng ca tăng kíp, có khi làm ngày không đủ phải tranh thủ làm đêm. Người trẻ thì bù đầu vào chuyện học hành: học chính khóa, học thêm, học tăng cường, học phụ đạo, học nâng cao… Tất cả những thứ đó đã khiến cho nhiều người cảm thấy mệt mỏi sau một ngày làm việc, hay học hành; vì thế mà họ không còn hứng thú, hay sốt sắng để làm các việc đạo đức nữa.
- Thứ ba là do các thú vui giải trí từ ngành công nghệ truyền thông.
Đây là lý do chính. Rảnh rang được giờ nào là xem Tivi, chat chit, lướt web, hay chơi game. Tivi thì nhiều chương trình, nhiều kênh đài phong phú và hấp dẫn, phát sóng 24/24. Đặc biệt những chương trình nóng, “hot” lại rơi vào những giờ vàng, giờ Kinh Lễ, khiến cho người ta không sao rời khỏi cái màn hình Tivi - con quái vật một mắt. Nếu rời được cái Tivi thì quay sang ôm cái điện thoại, là thứ mà lúc nào cũng kè kè bên mình: hết gọi điện lại nhắn tin, hết nhắn tin lại chơi game, hết chơi game lại nghe nhạc, hết nghe nhạc lại selfie. Chưa hết, dứt được cái điện thoại, lại chụp ngay cái máy vi tính: lướt web, chat chit, xem phim, chơi game thỏa thích, v.v…
Ngày hôm nay không ai phủ nhận những tiện ích lớn lao từ cuộc cách mạng công nghệ thông tin mà Apple, Microsoft… mang lại cho con người. Thế nhưng, có thể nói Apple, Microsoft đang là những “nhà vô địch” trong việc “đánh cắp” các linh hồn. Dĩ nhiên, chính những người sử dụng các phương tiện, cũng có phần trách nhiệm vì đã “thỏa hiệp” với những “kẻ đánh cắp” ấy.
Viện cớ cuộc sống có nhiều áp lực và căng thẳng, nên cần giải trí, cần thứ giãn, và dần dà người ta sa đà và bị cuốn vào những thứ giải trí thường vô bổ. Hậu quả là gì? Hậu quả là các thứ này sẽ lấy hết những khoảng thời gian rảnh rỗi ít oi, và cũng xâm chiếm hết tâm trí của con người, khiến cho người ta không còn trí lòng nào, khoảng trống nào cho Chúa Mẹ và cho các việc đạo đức. Cầm điện thoại thích thú hơn cầm sách Lời Chúa, lướt web lý thú hơn lần hạt, chat chit chí thú hơn đọc kinh, v.v… Đây là một thực tế đối với nhiều bạn trẻ ngày nay.
Có thể nói chính vì những nguyên nhân trên mà lớp trẻ ngày nay đang bắt đầu rơi vào một cuộc “đại khủng hoảng” về các việc đạo đức, xa hơn sẽ là một “thảm họa” về đời sống thiêng liêng. Cứ thử xem trong giáo xứ có bao nhiêu bạn trẻ còn lần chuỗi Mân Côi mỗi tối, bao nhiêu thanh thiếu niên còn viếng Chúa Giêsu Thánh Thể mỗi ngày thì sẽ thấy thảm họa về đời sống thiêng liêng là không còn xa. Ai phải chịu trách nhiệm?
Người đầu tiên phải chịu trách nhiệm chính là các bậc làm cha mẹ. Vậy cần chấn hưng thế nào đây?
- Trước hết, các bậc cha mẹ hãy quản lý con cái của mình, quản lý cái Tivi và cái máy vi tính. Đừng cho con cái mua sắm những cái điện thoại đắt tiền, nhiều chức năng…. Chúng sẽ tiêu tốn hết thời gian rảnh rỗi của nó vào những chuyện vô bổ, tả pí lù. Bởi vì chúng chưa biết làm chủ bản thân, chưa biết sử dụng đúng đắn. Thay vì những phương tiện đó đem lại những cái hay cái được, thì lại đem đến những cái dở cái mất: mất giờ, mất tiền, mất sức và mất nết.
- Sau nữa, chính cha mẹ hãy nêu gương sáng cho con cái mình. Đây là điều quan trọng nhất. Mai sau ra trước tòa phán xét, Chúa sẽ hỏi các bậc cha mẹ về trách nhiệm này, trách nhiệm răn dạy và làm gương sáng cho con cái của mình. Cha mẹ mà không có lòng yêu mến Chúa, không đọc kinh lần chuỗi thì khó mà mong con cái có được lòng yêu mến Chúa và yêu mến Chuỗi kinh Mân Côi.
Vậy nếu ta chưa có thói quen làm các việc đạo đức bình dân, hoặc đã đánh mất thói quen tốt lành là lần chuỗi Mân Côi, do lười biếng, hay do xem nhẹ, thì tháng Mân Côi là dịp rất thuận tiện để bắt đầu tập thói quen, hoặc bắt đầu lại thói quen tốt lành ấy.
Xin Chúa giúp chúng ta có quyết tâm cụ thể trong tháng Mân Côi này và nỗ lực để thực hành, hầu kéo ơn Chúa, ơn Mẹ xuống trên gia đình và gia tộc mình; đồng thời giúp con cái mình tìm lại nguồn sức sống thiêng liêng.
24. Suy niệm của Lm. Alfonso
Thánh Anphong: Nhờ kinh Mân côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.
Suy niệm:
Nếu như Kinh Lạy Cha là lời kinh trực tiếp mà Chúa Giêsu trao lại cho chúng ta, thì kế đó, phải kể tới kinh Kính Mừng, lời kinh quen thuộc với lòng đạo đức bình dân nơi bổn đạo. Kinh Kính Mừng xuất thân chính từ lời Kinh Thánh. Đó là lời sứ thần Gabriel, khi truyền tin cho Đức Maria về việc Trinh nữ sẽ cưu mang Con Thiên Chúa, đã chào rằng “Kính mừng Maria đầy ơn phước Ðức Chúa Trời ở cùng bà”. Đó còn là lời của Isave người chị họ tràn đầy Thánh Thần, cùng với người con đang nhảy mừng trong lòng khi Đức Maria đem Chúa đến viếng thăm rằng “Bà có phước lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phước lạ”. Và với lời định tín “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời…” tại Công đồng Êphêsô năm 431, toàn thể Hội Thánh tôn vinh Đức Trinh nữ Maria khi tuyên xưng đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa nơi Mẹ.
Như chúng ta biết, điểm chính yếu mà thánh sử Luca muốn trình bày trong đoạn Tin Mừng trên đây là chính Ðức Giêsu Kitô, Đấng Messia, Con Ðấng Tối Cao, và là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Để chuẩn bị cho con Thiên Chúa nhập thể làm người, Ngài cần phải chọn cho Người Con sinh ra nơi một tâm hồn xứng đáng, một người phụ nữ tuyệt hảo, người được Chúa ưu ái và là người đầy tràn ơn sủng của Chúa để làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Thế nhưng, lời mời gọi của Thiên Chúa cũng làm đảo lộn hết của dự tính nơi thiếu nữ Nazaréth ấy. Nếu như Đức Maria muốn khấn dâng mình cho Thiên Chúa thì Ngài lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Còn nếu Maria muốn sống bậc hôn nhân với Giuse như bao con người “trai lớn lấy vợ, gái lớn gả chồng”, thì Thiên Chúa lại muốn cô cưu mang một người con không phải từ nơi người nam như Giuse, mà là thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần ban xuống. Thiên Chúa luôn thực hiện điều mà còn người không bao giờ nghĩ tới. Cho nên, chỉ bằng lòng tin, Đức Maria mới có thể đáp lại lời sứ thần “Nếu Chúa muốn, không có việc gì mà Ngài không làm được” để dấn thân cho Thiên Chúa và để Ngài hoạch định trên cuộc đời mình.
Mẹ còn vâng phục Thánh ý đón nhận các tín hữu làm con cái khi Chúa Giêsu trao nhân loại lại cho Mẹ, mà Gioan là đại diện “Đây là con Bà”. Vì thế, Mẹ đã đồng hành với các môn đệ ngay từ những giây phút đầu tiên Giáo hội được thành lập. Bài đọc I cho chúng ta biết tất cả các Tông đồ đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Chúa Giêsu, và với anh em của Người. Gia đình Thiên Chúa giờ đây mở rộng ra bao gồm những ai lắng nghe lời Chúa và chuyên cần cầu nguyện cùng một sự hợp nhất với nhau, và với Đức Maria làm Mẹ Hội Thánh.
Đời sống đạo của các tín hữu qua dòng thời gian cũng được Mẹ đồng hành, và có những lúc Mẹ còn hiện ra để an ủi con cái. Mẹ thường khuyên nhủ hãy siêng năng lần hạt Mân Côi. “Mân Côi” phát xuất từ tiếng Latinh Rosarium, có nghĩa là vườn hoa hồng. Sở dĩ người Việt gọi là Mân Côi là vì tiếng Hán là “méi gùi”, và tiếng Hán Việt được đọc là Mân Côi, và có khi trại ra thành Môi Khôi, Mai Khôi. Hoa hồng lại là biểu tượng của lòng mến, của tình yêu. Những lời kinh Kính Mừng được kết thành tràng Chuỗi tượng trương cho vòng hoa hồng thiêng dâng kính Đức Mẹ.
Như Đức Giáo hoàng Piô XII khẳng định: “Chuỗi Mân Côi là một bản tóm lượt toàn bộ Tin Mừng”, phác hoạ lại toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu, mà Mẹ đã gắn bó cách mật thiết với Người. Để rồi, trước sự sẵn sàng xin vâng theo Thánh ý, Đức Maria càng làm đẹp lòng Chúa, nên mọi đều Mẹ khấn xin đều được Chúa đáp lời. Vì thế, chúng ta là con cái của Mẹ, hãy nhờ Mẹ dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa ngay trong giây phút hiện tại cuộc sống của chúng ta cũng như trong giờ lâm tử nguy khốn.
Lịch sử Giáo hội đã ghi lại những cuộc chiến thắng oanh liệt của nhờ lời việc lần chuỗi Mân côi:
Chẳng hạn, đầu thế kỷ XII bè rối Albigensê nổi lên ở miền Nam nước Pháp, gieo lầm than và đau khổ cho nhân dân. Thánh Đaminh đứng ra khấn xin Đức Mẹ soi sáng cách nào để cứu vớt những tâm hồn sai lạc. Đức Mẹ đã hiện ra, tay cầm một chuỗi Mân côi, và dạy thánh Đaminh cách đọc Kinh Mân côi, đồng thời truyền cho ngài rao giảng như một phương thuốc linh nghiệm ngăn ngừa tội lỗi và sự lầm lạc. Quả nhiên, hơn 100.000 kẻ rối đạo đã từ bỏ sự sai lạc, và rất nhiều người được thêm phấn khởi sốt sắng đọc kinh Mân côi.
Hơn thế nữa, vào thế kỷ XVI quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ đe doạ xâm chiến toàn vùng đất Công giáo Âu châu. Và trong lúc thuỷ quân của Hồi giáo xuống vịnh Lépante để tràn sang Âu châu, đô đốc Don Juan người nước Áo chỉ huy hải quân Công giáo ra nghinh chiến. Lúc ấy, thánh Giáo hoàng Piô đệ V truyền lệnh cho các giáo phận tổ chức một nghi thức "cầu nguyện 40 giờ" gồm cuộc rước kiệu cung nghinh Đức Mẹ và đọc kinh Mân côi cầu cho các chiến sĩ Công giáo thắng trận. Bỗng nhiên, tại vịnh Lépante gió đổi chiều làm lợi điểm cho các chiến hạm Công giáo ào ạt tấn công đánh chìm các chiến hạm quân Thổ vào ngày Chúa nhật 7/10/1571. Sau cuộc thắng trận nhờ ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi, thánh Piô V dạy rước kiệu Mẹ trọng thể và thành lập lễ Mẹ Thắng Trận vào ngày mồng 7 tháng 10 để ghi ơn Đức Mẹ.
Ngày nay, các tín hữu còn tiếp tục được khuyến khích dùng lời kinh Mân Côi giúp nâng tâm hồn lên tới Chúa. Nhưng không phải bởi số lượng lời kinh mà là bởi sự chú tâm sốt sắng chất lượng miệng đọc lòng suy. Nếu đọc kinh Mân côi mà không suy niệm mầu nhiệm, kinh Mân Côi sẽ chỉ có xác mà không có hồn. Phần kinh đọc gồm: Một lời nguyện bắt đầu một ngắm. Sau đó đọc Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh, và kết thúc mỗi chục bằng lời xin ơn: “Lạy Đức Chúa Giêsu, xin tha tội cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên thiên đàng, nhất là những linh hồn cần nhờ đến lòng Chúa thương xót hơn”. Và tiếp theo đến lời nguyện ngắm thứ hai…, cứ như vậy đến hết ngắm thứ năm của một mùa Vui, Sáng, Thương hay Mừng.
Lạy Mẹ Maria, chúng con là những người con thảo, xin quyết tâm làm thành một tràng chuỗi Mân Côi dâng lên Đức Mẹ trong tháng Mười Mân Côi này, hợp với lời chúc tụng Đức Mẹ là lời xin ơn của chúng con: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử”. Vâng, vì thân phận phải chết của chúng con, và vì chúng con tin tưởng đời sống của Mẹ đẹp lòng Chúa, nên lời cầu xin của Mẹ cũng rất hiệu nghiệm. Mẹ còn là thụ đạo đầu tiên được Chúa ban thưởng phúc Thiên đàng cả hồn lẫn xác. Vậy xin Mẹ giúp chúng con là con cái của Mẹ biết chạy đến nương ẩn nơi Mẹ để Mẹ chở che cho chúng con giữa biển hiểm nguy trần thế này và trong giờ sau hết, để ngày sau chúng con được vào hưởng vinh phúc Thiên đàng với Mẹ và Con của Mẹ là Vua muôn đời. Amen.
***
THẦN LỰC KINH MÂN CÔI
Ngoài những ơn lạ Đức Mẹ ban nhờ thần lực của kinh Mân côi về phần hồn cũng như phần xác, * Mẹ Maria phán dạy Chân phước Alanô: "Bất cứ ai trung thành đọc kinh Mân côi và suy ngắm những mầu nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết. Điều đó rất dễ đối với Mẹ, vì Mẹ là Mẹ Vua Trời và Người gọi Mẹ là Đấng đầy ơn. Và vì đầy ơn, Mẹ có thể ban phát ơn phúc cho các con cái dấu yêu của Mẹ".
- Thánh Đaminh: Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân côi.
- Chân phúc Alanô: Kinh Kính mừng là một cầu vòng trên trời, là một dấu chỉ lòng thương xót và ân sủng Thiên Chúa ban cho thế giới. Mẹ muốn dân chúng có lòng sùng kính kinh Mân côi được ơn thánh và phúc lành của Con Mẹ torng cuộc sống và trong giờ họ chết. Mẹ muốn họ thoát khỏi mọi ràng buộc, để họ nên giống các vua đội triều thiên, cầm phủ việt và hưởng phúc vinh quang vĩnh cửu.
- Thánh Anphong: Nhờ kinh Mân côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.
- Đức Gioan XXIII: Chớ gì kinh Mân côi gia đình là một hương thơm sự an bình cho gia đình các con. Ước chi con cái của các con chạy đến với Mẹ maria để gìn giữ sự trong trắng thơ ngây. Ước chi các bạn thanh thiếu niên học được nơi Đức Mẹ sự phấn khởi làm việc thiện và bảo đảm sự thanh khiết của họ. Ước chi người đau khổ hy vọng được niềm an ủi nơi Đức Nữ Trinh.
- Đức Phaolô VI: Kinh Mân côi đạo đức và phổ cập hiện ra như một chuỗi cứu độ treo trên cánh tay Chúa Cứu Thế và Mẹ Thánh Người, và do đó phát ra mọi ơn lành cho chúng ta và mọi niềm hy vọng đến với chúng ta.
- Đức Gioan Phaolô II: Trong những chục kinh Mân côi, tấm lòng chúng ta có thể hái lượm được những sự kiện làm thành đời sống cá nhân, gia đình, dân tộc, giáo hội và thế giới. Đó là những vấn đề cá nhân hay người thân cận, người thân quyến chúng ta. Như vậy, kinh Mân côi hoà nhịp đời sống con người.
25. Việc ấy sẽ xảy ra cách nào
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Phúc Âm được đọc trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi đề cập tới biến cố truyền tin. Điều đó có vẻ như thiếu thiếu một gì đó, vì thật ra truyền tin chỉ là ‘mầu nhiệm Mân Côi’ thứ nhất trong số 20 mầu nhiệm được đem ra suy gẫm? Phụng vụ muốn nói gì khi chọn đoạn Tin Mừng này, đặc biệt cho giáo dân Việt Nam khi mà Hội Đồng Giám Mục trong khóa họp tháng 4 năm 1991 đã quyết định cho phép mừng trọng thể lễ này vào ngày Chúa Nhật? Đặt vấn nạn như thế có nghĩa là muốn xác định nội dung đích thực của việc lần hạt Mân Côi: một việc đạo đức được Đức Mẹ ưa thích, hay còn là một con đường sống Tin Mừng bình dân nhưng hữu hiệu và sâu sắc?
Người Công giáo chúng ta vẫn biết rằng giá trị của việc lần hạt Mân Côi hệ tại ở suy niệm các sự kiện hay biến cố xảy ra trong cuộc đời đức Giêsu và đức Ma-ri-a, hầu giúp ta nhận ra, ngày càng sâu sắc hơn, hồng ân cứu độ. Tuy nhiên sự nhận biết này nhiều khi chỉ dừng lại ở nhận thức, một cảm thức chung chung mang tính lý thuyết; hoặc giả hồng ân cứu độ đó chỉ là điều ta đã từng nhận lãnh một lần ngày rửa tội xa xưa. Biến cố truyền tin nói riêng, và mọi biến cố liên quan tới đức Ma-ri-a nói chung, theo như tác giả Lu-ca trình bày, cho thấy một khía cạnh khác của cuộc sống Hồng Ân cứu độ: các biến cố thường nhật cần phải được nhìn nhận và được đưa vào hồng ân này, nhất là khi chúng xem ra càng khó hiểu và xa lạ với kế hoạch từ ái của Thiên Chúa.
Biết bao lần tôi phải tự hỏi, trong tư cách một Kitô hữu đứng trước nhiều biến cố liên quan tới mình, tới tha nhân và xã hội loài người, thì “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào?” Câu hỏi này không mong tìm cho ra một giải đáp hợp lý cho từng sự kiện, nhưng là để nhận ra lòng từ bi thương xót của Chúa đang được thực hiện ra sao. Trong lần hạt Mân Côi, cùng với đức Ma-ri-a, tôi giáp mặt với cuộc sống hàng ngày, có thể là những niềm vui, những biến cố trang trọng mang nhiều ý nghĩa, cũng có thể là những nỗi buồn, những đổ vỡ..., những chuyện vụn vặt vu vơ, những thành công hay thất bại, những kỳ vọng hay hoài bão…
Đối với một Kitô hữu như tôi, tất cả mọi biến cố bất luận tốt xấu, đều có giá trị nếu được nhìn nhận và đưa vào tình yêu nhân ái của Thiên Chúa đầy lòng xót thương. Đối với Kitô hữu, sẽ không chỉ có vấn đề ‘thánh hóa = làm phép’ các biến cố hàng ngày, theo kiểu dâng chúng lên cho Thiên Chúa, như cách nói bình dân thông thường. Điều một Kitô hữu cần làm là dìm mọi biến cố của cuộc sống mỗi ngày ngập sâu trong hồng ân cứu độ. Truyền tin, và nhiều biến cố khác nữa, đã được đức Ma-ri-a sống như thế. Mẹ đã ‘ghi nhớ tất cả các điều ấy… và suy đi nghĩ lại trong lòng’ (Lc 2,19.51). Ma-ri-a đã không lần hạt, nhưng là Mẹ Mân Côi vì đã không ngừng khám phá và sống từng biến cố đời mình trong hồng ân cứu độ của Thiên Chúa.
Dành được thời giờ mỗi ngày để xét mình và suy gẫm các ‘mầu nhiệm phép Mân Côi’ là điều tốt, nhưng rồi cũng có lúc trở thành nhàm chán. Chung qui đó vẫn còn là công việc nặng tính lý thuyết và khá trừu tượng. Lần hạt Mân Côi sẽ làm cho cả hai việc trên trở nên sống động hơn, hiện sinh hơn, nếu qua đó tôi cùng với Mẹ nhìn nhận lòng từ ái Chúa trong từng biến cố cuộc sống mình. Mà các biến cố thì luôn thực tế, thiết thực và biến đổi không ngừng trong đời sống thường ngày. Các biến cố không chỉ được phân loại tối hay xấu theo nghĩa luân lý, mà tất tất đều cần được ánh sáng hồng ân cứu độ của Chúa soi chiếu và biến đổi, Như thế tôi không chỉ lần chuỗi hạt, mà sống Mân Côi mỗi ngày. Chắc chắn sống Mân Côi như thế sẽ thiết thực dẫn đưa tôi đạt tới một cuộc sống Kitô ngày càng Tin Mừng hơn, hiểu theo nghĩa cho phép tôi ngày càng vào sâu hơn trong hồng ân cứu độ, và mau mắn biến đổi đời tôi - không theo nghĩa ngày càng trở nên tốt lành thánh thiện hơn - nhưng ngày càng thâm tín khi nhận ra rằng tình thương của Chúa trên tôi (và trên toàn nhân loại) không bao giời vơi cạn, bất chấp tất cả những yếu đuối biến thiên vô hình vạn trạng của con người.
Sứ điệp Fa-ti-ma sẽ không bao giờ mất đi cái ý nghĩa thâm sâu của nó, đã được vang vọng từ thời Thánh Đa-minh, và sẽ còn tiếp tục mãi qua mọi thời: “Hãy năng lần Mân Côi!”
Lạy Mẹ Mân Côi! Cùng với Mẹ, xin cho con sống Mân Côi hàng ngày. Xin cho con luôn tìm được giải đáp thỏa đáng cho mọi tình huống và biến cố trong đời con qua câu nói của sứ thần mà chính Mẹ đã được nhắc nhở: “Vì đối với Thiên Chúa - nhân lành, không có gì là không thể làm được’. Cùng với Mẹ, con mong rằng việc lần hạt Mân Côi sẽ trở thành con đường Tin Mừng đích thực cho con. Amen.
26. Phương thuốc thần diệu – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Mọi tội lỗi của con người đều do một cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người là A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau... là vì hai ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm. "Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân..." (Rôma 5, 19)
Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.
Tràng chuỗi Mân Côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi Mân Côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
* Gương Vâng Phục Của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công; khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi...
Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng theo lệnh Chúa truyền. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Gương Vâng Phục Của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng và xin thưa với Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng chịu đựng và xin thưa với Cha: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn xin vâng: "Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giêsu. Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phaolô khắc hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Philíp:
"Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự..." (Philíp 2, 6-8)
Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi chứa đựng bài học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng mình.
27. Tháng Mân Côi: Nghĩ về Mẹ
(Suy niệm của JB. Lê Đình Nam)
Đối với mọi người, những ai đã lớn lên trong vòng tay của mẹ đều thấy rằng, ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất và cao quý nhất. Nếu không nhận ra được điều đó, có lẽ chúng khó có thể cảm nghiệm được thế nào mà một tình yêu tinh ròng và bao dung, một tình yêu thanh khiết và tinh tuyền, một tình yêu hy sinh và luôn hết mình vì con.
Nhưng cũng không ít những người con đã làm tổn thương đến tình mẹ đó. Bị lôi cuốn bởi những xu thế xã hội, chạy theo những đam mê danh vọng, nhiều đứa con đã không những quên đi tình mẹ mà còn đối xử tệ bạc lên tình mẹ đó. Thật quặn đau thì nghe lời người mẹ nói với con mình trong câu chuyện “Lá sầu riêng”: "Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?" Đây là câu hỏi được đặt ra cho mỗi người trong chúng ta trong tư cách làm con.
Thực tế, tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Và đối với thời đại hôm nay, tình trạng đó đang ngày một phổ biến và lan rộng đến nhiều gia đình thuộc mọi nền văn hóa trên thế giới. Tình yêu của người mẹ không những không được đáp trả mà còn bị xúc phạm một cách thiếu nhân văn nơi những đứa con mới lớn.
Đối với người kitô hữu, tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi chứng kiến con mình đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con hững hờ, kiêu căng khi không nhìn ra sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của những đứa con Mẹ hằng săn sóc. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang khóc khi thấy những đứa con của mình sa vào những thú vui tội lỗi và đánh mất đức tin.
Tháng Mân Côi, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của mỗi chúng ta. Năm xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ giây phút đó, Mẹ là mẹ của mỗi người chúng ta. Từ giây phút đó, Mẹ sẽ che chở, bao bọc chúng ta như mẹ đã từng làm với hài nhi Giêsu. Từ giây phút đó, Mẹ Maria sẽ nuôi dưỡng và chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay, Mẹ Maria sẽ luôn bên cạnh cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa cho đến giây phút cuối cùng. Từ nay, cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ.
Vì tình mẹ mãi mãi là thế, luôn hết mình vì con. Mẹ luôn chấp nhận khổ để con được hạnh phúc. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con.
28. Lá sầu riêng – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như:
"Nuôi con chẳng quản chi thân,
Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn".
Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con:
"Con ho lòng mẹ tan tành,
Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi".
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện "Lá sầu riêng" của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: "Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?".
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: "Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ - Năm canh dài thức trọn năm canh".
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản "lá sầu riêng" đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: "Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con".
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.
29. Lễ Mẹ Mân Côi.
"Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu" (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên".
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: "Hỡi Maria, hãy vui lên", vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
"Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước", vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng" (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà". Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà". Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: "Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân loại.
"Hỡi Maria đừng sợ". Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: "Vui và Sợ". Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng "Đầy Ơn Phước", Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
30. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi -- Lm. Ignatio Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. "Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân..." (Rm 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là "đầu tàu" nầy: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính". (Rm 5, 19)
Tràng chuổi Mân Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: "Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
31. Chuỗi Mân Côi ngày ấy
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Lời kinh Mân Côi luôn gắn bó với đời sống đức tin và lòng đạo đức bình dân của tín hữu Việt Nam. Vâng, từ những ngày đầu tiên Tin Mừng đến đất nước này, việc đọc kinh kính mừng thịnh hành đến nỗi mọi người đọc khắp mọi nơi. Đã vậy, các sự gẫm còn được suy gẫm theo cách văn vần để ngắm theo cung kinh vãn long trọng. Gẫm Năm Sự Vui, thứ năm thì gẫm: “Đức Bà tìm đặng Đức Chúa Giêsu trong đền thánh. Ta hãy xin giữ nghĩa cùng Chúa luôn” trong bản kinh phép ngắm Rosa, là một chứng tích:
Lễ rồi, con lạc, Mẹ tìm con,
Lòng Mẹ, ba ngày rất héo hon.
Đoạn trở vào đền, tìm lại thấy,
Con về, thảo kính đến khi khôn.
Lạy ơn Đức Mẹ nhân thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này, xuống ơn
Cho con lòng thật ăn năn,
Soi gương phúc đức, siêng năng, vâng lời
(Văn côi thánh nguyệt tán tụng thi ca, 73-80)
Người Việt Nam vốn giàu tình cảm với mẹ mình thế nào thì nay, Kinh kính mừng đã trở nên lời kinh trước tiên là đầy tình cảm dành cho Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa, Mẹ chúng sinh, và sau đó là lời kinh của Đức Tin khi học hiểu cùng Mẹ sống trọn Tin Mừng Chúa Giêsu, Con Mẹ. Đọc kinh kính mừng để ca tụng Mẹ, để noi gương mẹ, để xin ơn Mẹ sống Tin Mừng của Chúa và xin ơn an bình trong những lúc cùng khốn.
- Kinh kính mừng trong cơn bách đạo của các chứng nhân xin Mẹ được ơn can đảm làm chứng cho Đức Tin Công Giáo.
- Kinh kính mừng trong lúc khốn khổ ở La Vang, ở nơi này nơi kia xin Mẹ ơn bình an giữ đạo Chúa cho nên.
- Kinh kính mừng trong thời chiến tranh loạn lac, giữa bom đạn, giữa lúc tản cư, giữa đường chạy giặc, xin cho thoát khỏi nạn quỷ dữ vô thần.
- Kinh kính mừng của những ngày đất nước phải sống trong một hoàn cảnh mới.
Vâng, làm sao quên được cảnh đời cơ cực ở Việt Nam đã suốt bao nhiêu năm trời. Và cũng làm sao mà quên được những chuỗi kinh kính mừng trong phút giờ tưởng như là tuyệt vọng. Người người đọc kinh Mân Côi. Nhà nhà lẫn chuỗi Mân Côi. Trên nương rẫy, dưới đồng sâu, nơi hợp tác xã, trong trại cải tạo, dưới ánh trăng khuya bên ngọn đèn dầu khu kinh tế mới, cụ ông cụ bà thấp cao không đều giọng đọc với trẻ con, thế mà tiếng kinh kính mừng âm thầm râm ran như lời kêu van thống thiết Mẹ Ơi Đoái Thương chúng con giữa cảnh đời u ám điêu tàn!
Và nhờ kinh kính mừng, lòng người được bình an.
Tôi còn nhớ, phía sau nhà thờ gỗ loang lỗ những vết đạn, rách nát do những mảnh bom, cụ già Toma với năm bảy người bên ngọn đèn dầu, lần chuỗi Mân Côi:
- “Tháng này lần chuỗi xin Đức Mẹ cho có cha trông coi Giáo xứ”.
- “Sao không vào nhà thờ mà đọc kinh?”
- “Xứ mình không có cha, không dám làm gì trong nhà thờ cả. Ủy Ban Xã bên cạnh. Hôm bữa họ xách súng qua đây hỏi rồi”.
- “Vậy, mình đọc ở đây họ thấy có bắt không”
- “Không đâu! Đức Mẹ nào để cho ai bắt mình. Nhưng bắt thì mình xin. Đọc kinh mà, tội gì. Cứ đọc đi. Ban đầu thì sau nhà thờ, rồi ít bữa nữa đọc hè nhà thờ, cho người ta thấy quen mắt rồi mình vào trong nhà thờ”.
Và nhờ kinh kính mừng, Đức Mẹ đã cầu thay nguyện giúp. Chúa đã nhậm lời. Từ những buổi kinh ít người ngoài, rồi trong nhà thờ rách nát, đến đông hơn, rồi phụng vụ Lời Chúa, rồi “mượn” được Cha về làm lễ, và cuối cùng là có Cha xứ, xây nhà thờ mới, Giáo xứ phát triển….
Cụ Tô-ma đã qua đời được gần 20 năm, nhưng kỷ niệm Mân Côi ấy không phai nhòa trong ký ức của Giáo Xứ.
Tôi còn nhớ, một nửa buổi nọ, mang ra ruộng cho cha vài củ khoai. Đứng trên bờ nhìn xuống, tôi đếm cha cày được 10 đường cày rồi. Thế là tôi biết cha đã lần hai chuỗi. Bên kia, Mẹ chất đầy hai giỏ mạ. Thì ra mẹ cũng hai chuỗi Mân Côi rồi, không ít hơn.
Vâng, những ngày gian khổ ấy, cha mẹ chúng ta Lần Chuỗi Mân Côi không bằng xâu chuỗi ngọc sáng trưng, không bằng xâu chuỗi gỗ xinh xắn, nhưng bằng mười ngón tay bùn lầy, đen đủi, rám nắng. Chuỗi Mân Côi và 5 sự gẫm được tính bằng lọn mạ, đường bừa, đường cày, tính bằng vồng khoai, thúng bắp, bó rau thật sốt sắng, thật tin tưởng, thật khẩn thiết, thành tâm.
Cũng nhờ kinh kính mừng, đời sống các gia đình thật êm đềm hạnh phúc.
Không ai dám tiếc nuối một thuở thời lầm lũi trong nghèo khổ đau thương, trong nước mắt dập vùi. Bởi vì, ai cũng có quyền ước mơ một cảnh đời an nhàn thư thái, sung túc, thịnh vượng. Nhưng khi đã hưng thịnh, giàu sang, phú quý hay ít là có của ăn của để rồi, thì tôi bỗng dưng tiếc nuối lòng đạo đức của ông bà cha mẹ chúng ta trong những ngày gian khổ ấy. Lòng đạo đức của ông bà, của tiền nhân nay còn đâu?! Đáng lý ra, tấm gương sáng của những người đi trước chúng ta, hẳn phải lưu truyền lại cho hậu thế, và hậu sinh phải là những người tiếp bước lòng đạo đức ấy.
Là hậu duệ của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, là con là cháu trong gia đình Công Giáo hôm nay, nhân tháng Mân Côi này, hẳn phải lập lại đời sống đạo đức, đời sống Đức Tin, đời sống Tin Mừng mà cha ông ta đã nêu gương sáng lạn. Có như thế, thiết nghĩ mới gọi được là có lòng hiếu kính với ông bà, có lòng tri ân Thiên Chúa tri ân Mẹ Maria đã giúp ông bà cha mẹ chúng ta vượt qua bao gian nan thử thách của cuộc đời, để chúng ta có được ngày hôm nay.
Vâng, Lễ Mẹ Maria Mân Côi, nhắc đến sức mạnh của Kinh Mân Côi, của Chuỗi Mân Côi chiến thắng bè rối Albigeois chống phá Giáo Hội và cụ thể hơn, nhắc nhớ cho mỗi tín hữu Việt Nam rằng ông bà cha mẹ của chúng ta đã nhờ kinh Mân Côi mà vượt qua mọi gian nan, mà chiến thắng thế lực của quỷ thần
- để có một Giáo Hội Việt Nam thu hoạch mùa lúa dồi dào
- để còn các gia đình kính thờ Thiên Chúa
- để còn Đức Tin và hạnh phúc nhờ Đức Tin mang lại trong các gia đình công giáo trong mỗi tín hữu.
Chuỗi Mân Côi nay đâu? Kinh Mân Côi nay đâu? Lớp người trẻ, thế hệ con cháu có còn yêu mến, siêng năng và sốt sắng đọc kinh kính mừng hay lần chuỗi Mân Côi?
Thiết tưởng, bổn phận khẩn cấp của chúng ta hôm nay, đặc biệt người trẻ, là tái lập việc đọc kinh Mân Côi chung, riêng ở khắp mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã giúp cha ông chúng con vượt qua gian nan và chiến thắng quỷ thần nhờ sức mạnh của kinh Mân Côi. Xin cho chúng con lòng yêu mến, sốt sắng cùng sống Đức Tin qua lời kinh Mân Côi trong suốt đời mình. Amen.
32. Mẹ Đầy Ơn Phước – R. Veritas.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính mừng Maria, hãy vui lên, Maria". Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúc Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng "Kính Mừng Maria đầy ơn phước" chúng ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa". Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria:
"Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà", Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa. "Thiên Chúa ở cùng Bà", giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
"Hỡi Maria, đừng sợ", kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
"Lạy Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha đã chọn Mẹ Mari để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con".
Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
33. Học sống khiêm nhường với Chúa qua kinh Mân Côi -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Trong những lần hiện ra, Mẹ Maria thường cầm tràng hạt trên tay. Khi hiện ra với ba trẻ ở Fatima, Mẹ còn lần hạt với ba trẻ tại đó. Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng như nhiều vị giáo hoàng khác rất siêng năng lần hạt và kêu gọi tín hữu năm châu sốt sắng lần hạt hằng ngày. Như thế, Mẹ Maria cũng như Hội Thánh luôn khuyến khích chúng ta lần hạt vì Kinh Mân Côi là một phương thế giúp cho người ta nên thánh.
Nhưng để cho kinh Mân Côi thực sự là một phương thế giúp ta nên thánh, thì chỉ đọc suông ngoài miệng không đủ, mà cần phải suy niệm trong lòng, cần phải chiêm ngắm và noi theo gương lành của Chúa Giêsu và Mẹ Maria được gợi lên trong Kinh Mân Côi.
Giờ đây, chúng ta cùng chiêm ngắm lòng khiêm nhường sâu thẳm của Ngôi Hai Thiên Chúa qua Kinh Mân Côi.
Gương khiêm nhường của Ngôi Hai Thiên Chúa nổi bật trong những phần suy gẫm sau đây:
- Gẫm thứ nhất năm sự vui: Ngay khi Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ, Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng cao sang quyền phép đã chấp nhận hóa thân thành một phôi thai nhỏ, chỉ bằng hạt cát thôi, nằm trong tử cung của Mẹ Maria để chờ ngày được sinh ra làm người. Một Thiên Chúa cao sang là Chúa Tể trời đất mà lại hạ mình đến thế thì tôi là ai mà dám nhắc mình lên cao!
- Gẫm thứ ba năm sự Vui: Khi Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu trong hang đá, Thiên Chúa Ngôi Hai là Vua Trời đầy quyền uy phép tắc hiển trị trên các tầng trời đã chấp nhận chọn hang bò lừa làm nơi nương náu, chọn máng súc vật làm nôi để đến ở cùng nhân loại. Hạ mình và khiêm nhường như vậy là hết mức, không thể hạ mình sâu hơn được nữa.
- Gẫm thứ nhất trong năm sự Sáng: Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Gio-đan; Chúa Giêsu là Thiên Chúa hoàn toàn vô tội, ngàn trùng chí thánh, vậy mà Người chấp nhận hòa mình với những người tội lỗi bên bờ sông Gio-đan, xếp hàng đứng chung với những người tội lỗi, những tay đâm thuê chém mướn, những cô gái điếm, những gã côn đồ… để chờ đến phiên mình bước xuống dòng sông Gio-đan, cúi mình xuống để cho Gioan làm phép rửa cho. Đấng không hề biết tội là gì lại khiêm nhường cúi mình nhận tội, còn tôi thì cứ cho mình vô tội và tìm mọi cách trút tội lên đầu người khác.
- Và đặc biệt là trong năm sự Thương, chúng ta thấy nổi lên hình ảnh Chúa Giêsu quá đỗi khiêm nhường khi Người tự xóa mình đi, trở thành tên tử tội, để cho người ta hành hạ Người đủ cách cho đến chết.
- Chúa Giêsu chịu đánh đòn: Chúa tốt lành thánh thiện vô cùng nhưng lại bị đưa ra tòa xét xử như một tên gian phi, bị vu cáo, bị khạc nhổ vào mặt, bị đánh đòn tan nát thân mình mà vẫn khiêm nhường chịu đựng chẳng hé môi kêu trách hay phản kháng.
- Chúa Giêsu chịu đội mão gai. Thay vì đội mão triều thiên vinh hiển của các bậc vua chúa cao sang, Chúa Giêsu chịu đội vòng gai nhọn đâm sâu vào đầu, để cho người ta sỉ nhục nhạo cười mà không hận thù hay oán trách. Khiêm nhường hạ mình đến thế thật là hết mức.
- Chúa Giêsu vác thập giá: Là Chúa Tể trời đất, lẽ ra Chúa Giêsu bắt mọi người quy phục mình, nhưng trái lại, trên chặng đường thương khó, Chúa để cho quân lính chế ngự Người, bắt Người vác thập giá lảo đảo tiến lên pháp trường theo lệnh truyền và những lời quát tháo của những tên lính hung hăng. Chúa Tể trời đất đã khiêm nhường chịu thua hết thảy mọi người và để mặc cho người ta hành hạ.
- Chúa chết trên thập giá: Cuối cùng, tuy là Chúa Tể càn khôn, Chúa chịu để cho quân lính lột áo ra, đóng đinh tay chân Người vào thập giá và bị treo thân trên thập giá giữa hai tên đạo tặc, chia chung án chết với những kẻ côn đồ. Dù bị hành hạ đến mức nào đi nữa, Chúa Giêsu vẫn khiêm nhường chịu mọi nhục hình cho đến chết.
Kiêu ngạo là đầu mối, là nguồn mạch phát sinh nhiều tội lỗi, là một trong bảy mối tội đầu; còn khiêm nhường là nhân đức cao vời và là liều thuốc thần diệu cứu con người khỏi kiêu căng tự mãn. Ước chi mỗi lần đọc Kinh Mân Côi, chúng ta biết nhìn ngắm tấm gương khiêm nhường sâu thẳm của Chúa Giêsu, học sống khiêm nhường như Chúa để nhờ đó, chúng ta triệt bỏ được tính kiêu căng và làm cho đời sống mình trở nên cao đẹp và giống Chúa hơn.
34. Đến với Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria -- Alphonse Marie Trần Bình An
Dưới thời Hitler, Đức quốc xã đã bắt không biết bao nhiêu giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và giáo dân tập trung vào các trại, mà người ta gọi là “lò sát sinh”. Linh mục Tito Brandsma, dòng Camêlô cũng bị bắt tập trung taị trại Dachau, gần Muechen, Tây Đức. Ngài đã bị án hành quyết ngày 26/7/1942. Biết mình sắp chết, do một cô y tá Đức quốc xã, chuyên môn làm cai nghề độc ác là chích thuốc độc cho tử tội. Cha đã chuẩn bị sẵn, lợi dụng lúc cô đang chích thuốc độc cho mình, thì ngài đưa cho cô xâu chuỗi Mân Côi, mà cha đã làm trong tù để kỷ niệm, hoặc sau này, nhờ cô là nhân chứng, để đem chuỗi hạt gửi lại cho người thân trong gia đình.. Cha nói với cô y tá: cô hãy dùng xâu chuỗi này để cầu nguyện. Cô ta đáp: “Tôi không cần, vì tôi không biết cầu nguyện.” Cha nói: “Cô cứ thử xem đi. Ít là cô hãy đọc câu: “Cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử.” Đó là những lời cuối cùng của Linh Mục Brandsma trước khi chết. Dù vậy, cô cũng cứ cầm lấy chuỗi hạt Mân Côi mà vị tử tù cho để làm kỷ niệm.
Sau khi chế độ Đức quốc xã sụp đổ, cô ý tá phải đổi tên, đổi họ, đi sinh sống tại một vùng xa xôi hẻo lánh khác, để khỏi bị cảnh sát quốc tế lùng bắt, vì cô đã góp phần sát hại hàng ngàn tù nhân dưới chế độ Đức quốc xã. Chính nhờ xâu chuỗi Mân Côi của linh mục Brandsma, mà cô ý tá tìm lại được đức tin. Năm 1955, khi Tòa Thánh lập hồ sơ phong Chân Phước cho cha Brandsma, cô cảm thấy hối hận, và quá cảm động, cô đã tự ý ra trình diện với chính quyền sở tại, thuật lại tất cả những gì đã xảy ra 10 ngày cuối cùng của cha Bradsma, để bổ túc vào hồ sơ phong Chân Phước. (Thomas Trần Khắc Khoan, 100 truyện tích Mân Côi)
1) Nhờ Mẹ
Từ trên thập giá, Chúa Giêsu trăn trối với Đức Mẹ Maria và Thánh Gioan. “Thưa Bà, đây là con Bà!” và “Đây là Mẹ của anh.” (Ga 19, 26) Kể từ đó, Thánh Gioan rước Mẹ Maria về nhà, (Ga 19, 27) để cùng với các Tông Đồ tập trung thành tâm cầu nguyện. Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với Bà Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu.” (Cv 1, 14)
Nhờ Mẹ an ủi, nâng đỡ, các Thánh Tông Đồ đã vượt qua cơn sốc cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, mới có thể bình tâm đón nhận đặc sủng của Đức Chúa Thánh Thần. Để rồi thành những chứng nhân nhiệt thành của Chúa Giêsu.
Qua hình ảnh rất nhân lành và thánh thiện của Mẹ Maria, Thánh Louis - Marie Grignion de Montfort đã sâu xa cảm nghiệm: “Chúa đã muốn đến với chúng ta nhờ Mẹ Maria, thì Người cũng muốn chúng ta đến với Người nhờ Mẹ Maria.” Ngài lập ra khẩu hiệu lừng danh: “Ad Jesum per Mariam.” (Đến với Chúa Giê su nhờ Mẹ Maria).
Nay chúng ta xướng lên kinh Mân Côi, để nhờ Mẹ, mà đến gần Chúa Giêsu, hầu đón nhận được hồng phúc từ sứ mạng Đồng Công Cứu Chuộc của Mẹ.
2) Với Mẹ
Qua Kinh Mân Côi, Mẹ dẫn chúng ta cùng đồng hành vào mầu nhiệm Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu, từ khởi đầu cho đến hoàn thành. Từ Năm Sự Vui, Năm Sự Sáng, Năm Sự Thương, đến Năm Sự Mừng, Mẹ dẫn dắt chúng ta hội nhập vào từng biên cố, từng mầu nhiệm Nhập Thể, để canh tân và thánh hóa đời sống.
Cùng với Mẹ, chúng ta được gắn bó, kết hiệp mật thiết với Người. Bởi vì Mẹ đã cưu mang, dưỡng nuôi, đồng hành với Chúa ra sao, thì Mẹ cũng muốn chúng ta gắn bó với Người như vậy, để chúng ta được chung hưởng với Mẹ trên cõi phúc muôn đời.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: “Khi biết suy ngẫm đích thực, Kinh Mân côi dẫn chúng ta đến gặp gỡ Chúa trong mầu nhiệm của Người, và vì thế, chúng ta không thể không quan tâm đến diện mạo Chúa Kitô nơi những người khác, nhất là những người đau khổ nhất. (Tông Thư Kinh Mân Côi Kính Đức Trinh Nữ Maria. “ROSARIUM VIRGINIS MARIAE”)
3) Trong Mẹ
Lập lại lời chào của sứ thần Gabriel, chúng ta cùng hiệp ý ca khen, ngợi danh Mẹ.: “Kính mừng Maria, đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ,” Đồng thời chúng ta cũng vinh danh Chúa Giêsu: “và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.” Để rồi chúng ta đặt hết niềm tín thác vào Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử, Amen.”
Những tấm gương sáng như Thánh Đa Minh, Thánh Louis - Marie Grignion de Montfort, Thánh Gioan Maria Vianney, Thánh Padre Pio 5 Dấu, ĐGH Gioan Phaolô II, ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận,… đã hoàn toàn tận hiến cuộc đời vào trong tay Mẹ. Các ngài đã chia sẻ cho chúng ta biết bao hồng phúc từ Kinh mân Côi.
Chuỗi Mân Côi là dây ràng buộc con với Mẹ, là cuốn phim kỷ niệm con đường hy vọng của Mẹ: Âu yếm như Bê lem, khắc khoải như Ai cập, trầm lặng như Nazareth, lao động như xưởng mộc, sốt sắng như đển thờ, cảm động lúc Chúa giảng, đau khổ bên thánh giá, vui mừng lúc Phục Sinh, Tông đồ bên Thánh Gioan. Tóm tắt lại, Chúa sống trong Mẹ, Mẹ trong Chúa, hai cuộc đời chỉ là một. Đừng bỏ chuỗi Mân Côi Mẹ đã trao và nhắn nhủ con sống như Mẹ, với Mẹ, nhờ Mẹ, trong Mẹ. (ĐHV, 922)
Trước bối cảnh xã hội nhiễu nhương và văn minh sự chết đang lan tràn như vũ bão hiện nay, chúng ta cùng phó thác, nương tựa vào tình yêu nhân hậu của Mẹ qua Kinh Mân Côi, để được Mẹ che chở, chống đỡ và chiến đấu với ba thù.
Kính xin Nữ Vương Truyền Phép Rất Thánh Mân Côi
Cầu cho chúng con. Amen.
35. Chuỗi Mân Côi
Ngày kia có một vị linh mục nói chuyện với đám tù nhân vừa mới được trả tự do. Sau khi đã thăm hỏi họ về chuỗi ngày cực khổ, thì một người trong đám họ đã nói: Chính những cực nhọc của kiếp sống đoạ đày đã đem lại nhiều lợi ích cho chúng con. Vì nhờ đó chúng con mới hiểu được giá trị và yêu thích sự cầu nguyện. Rồi anh ta giơ ra cho vị linh mục xem một khúc tràng hạt, chỉ gồm có 10 hạt mà thôi. Vị linh mục ngỏ ý muốn tặng anh một chuỗi khác, nhưng anh đã cám ơn, đã từ chối và nói: Thưa cha đây là một kỷ niệm sâu xa nhất trong cuộc đời của con, con sẽ cẩn thận gìn giữ nó, vì nó gợi cho con nhớ đến chuỗi ngày bi thảm. Chúng con cả thảy gồm 3 người, bị thương nặng trên trận địa và nằm chờ chết. Bấy giờ trong thinh lặng giữa lúc màn đêm buông xuống, con khẽ lần hạt, và rồi hai người bạn kia lên tiếng xin một mẩu tràng hạt để cùng lần, thì ra họ cũng là người công giáo. Con bèn dứt chuỗi tràng hạt thành ba khúc, mỗi người một khúc, và chúng con cùng nhau lần hạt một cách sốt sắng như thể là lần cuối cùng trong cuộc sống.
Nghe xong câu chuyện này, có thể một số người trong chúng ta sẽ nói: Tôi sẽ không chờ cho đến những giây phút bi thảm và đen tối như vậy mới cầu nguyện. Tốt lắm. Phải cầu nguyện liên tục, nhất là những lúc gặp phải gian nguy thử thách. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta lại thờ ơ với chuỗi Mân côi, vì nó tẻ nhạt, vì nó buồn chán. Thật là đáng tiếc.
Cách đây 1000 năm, đạo quân Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa trầm trọng thế giới công giáo. Tình hình càng thêm bi thảm hơn nữa vào thế kỷ XVI. Họ tiến vào châu Âu và quyết tâm dứt điểm bằng một cuộc hải chiến tại vịnh Lépante. Trong khi đạo quân Công giáo với một lực lượng yếu kém hơn nhiều xông ra chiến trận, thì tại Rôma, Đức Giáo Hoàng đã tổ chức những hiệp hội Mân Côi, liên tục lần chuỗi, dâng lên Mẹ những lời kinh thắm thiết để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ. Và sau cùng đạo quân công giáo đã chiến thắng. Để tạ ơn Đức Mẹ và để ghi nhớ cuộc chiến thắng này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng kính ngày hôm nay.
Còn với chúng ta thì sao? Đôi khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, ngán ngẩm khi phải lần chuỗi. Sở dĩ như vậy là vì chúng ta chưa lần chuỗi cho đúng cách. Tại một giáo xứ nọ, thầy giúp xứ hướng dẫn một số em vào nhà thờ để lần hạt chung với nhau. Tại mỗi ngắn, thầy bèn trao cho các em xem một bức hình liên hệ. Chẳng hạn năm sự Mừng thứ nhất thì ngắm, Đức Chúa Giêsu sống lại. Các em sẽ nhìn thấy bức hình lộng lẫy: Chúa Giêsu phục sinh, khải hoàn ra khỏi mồ, còn những tên lính canh thì hoảng sợ vứt bỏ khí giới trước luồng ánh sáng chói loà.
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm như vậy mỗi khi lần hạt, nhưng chúng ta có thể nghĩ tưởng trong đầu óc, nhờ đó mà chúng ta như được tham dự vào chính những biến cố mà mỗi ngắm, mỗi mầu nhiệm của kinh Mân Côi gợi lên. Trong tháng 10 cũng như trong suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy dâng lên cho Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, là như những bông hồng tươi xinh, để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.
36. Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào tháng Mười, tháng Mân Côi, hình ảnh Đức Mẹ Mân Côi, một tay bồng Chúa Giêsu Hài Ðồng, còn tay kia thì trao tràng chuỗi Mân Côi cho thánh Ðaminh. Hình ảnh ý nghĩa này dìu chúng ta về với Đức Maria đầy ơn phúc, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta.
1. Đức Maria đầy ơn phúc
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) dìu ta về với "Đức Maria đầy ơn phúc". Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc khi thưa “xin vâng”. Mẹ có phúc vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng. Mẹ có phúc vì Mẹ đã cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Chúa Giêsu là Quả Phúc lòng Mẹ. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại lời mừng chúc “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng đầu tư vốn liếng cuộc đời, biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Mẹ tìm mọi phương thế để chúng ta được hạnh phúc. Một trong những phương thế ấy là hiện ra dạy chúng ta đọc Kinh Kính Mừng, để nhờ chiêm ngắm và suy niệm về cuộc đời của Chúa, mà yêu mến Chúa và theo Chúa mỗi ngày một trung thành hơn hầu đạt tới cõi trời vinh phúc.
Truyền khẩu rằng, trước thế kỷ XII, chưa có Kinh Kính Mừng. Các tín hữu với lòng mến Mẹ đã hái hoa hồng kết thành triều thiên dâng kính Mẹ, miệng ngâm nga mừng hát Thánh Thi. Có anh lái buôn vì lòng sùng kính Đức Mẹ, anh muốn hái hoa dâng Mẹ, nhưng vì công việc làm ăn không cho phép anh thực hiện, anh liền nghĩ ra một cách làm bù, thay vì hái hoa dâng Mẹ, anh đã đọc những lời của sứ thần Gabriel trong ngày Truyền Tin vì nghĩ rằng mỗi lần anh đọc những lời ấy cũng có giá trị như những bông hồng dâng lên Mẹ vậy. Sáng kiến ấy được nhiều người thực hành theo. Đó là gốc tích kinh Kính Mừng hay kinh Mân Côi.
Khởi đi từ lời của sứ thần Gabriel chào kính Đức Maria: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc (Lc 1,28), và lời xác nhận của bà Êlisabet: "Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc", Giáo hội đã dùng để chúc khen Mẹ. Đồng thời, thêm vào lời cầu khẩn xin Mẹ thương nâng đỡ phù trì "Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời... và trong giờ lâm tử".
2. Chuỗi Ngọc Mân Côi
Tại sao tràng hạt lại gồm năm ngắm?
Không biết tràng hạt phát xuất từ tôn giáo nào, vì không chỉ có Công Giáo có, mà cả một số tôn giáo khác nữa. Tuy nhiên, con số năm ngắm tương ứng với năm biến cố lớn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: Truyền Tin, Giáng Sinh, Phục Sinh, Thăng Thiên, Mẹ Lên Trời.
Tại sao lại có tràng hạt mười lăm ngắm?
Thánh Vinh Sơn Ferrier Dòng Đaminh (1350-1419) đã soạn ra ngắm Đàng Thánh Giá thứ 15 để bổ túc cho 14 chặng Đàng Thánh Gía, vì ơn cứu độ của con người không kết thúc một cách bi đát ở nấm mồ, thì mười lăm ngắm khi đọc kinh Mân Côi diễn tả niềm vui này. Bởi vì bản chất của kinh Mân Côi nói lên niềm vui ơn cứu độ.
Tại sao lại có ba mùa Vui – Thương – Mừng?
Cách chia này do Alain de la Roche (1428-1475) và được đức Pio V chấp nhận và cho công bố ngày 17-9-1569. Niềm vui ơn cứu độ do Đức Maria khai mào từ lúc Ngôi Lời nhập thể (Vui); Tử Nạn (Thương); đến sống lại vinh quang (Mừng).
Ngày 16/10/2002 II trong Tông Thư gởi các tín hữu về “Mầu Nhiệm Rất Thánh Mân Côi” Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II thêm vào Năm Sự Sáng, nhằm suy niệm năm biến cố lớn trong chương trình cứu chuộc loài người.
Tại sao đọc 150 kinh kính mừng?
Từ trước Công Đồng Vat.II chỉ có hàng giáo sĩ mới đọc Kinh Phụng Vụ gồm 150 Thánh vịnh, giáo dân không được tham dự giờ kinh này. Mà ta biết mỗi câu Tv đều nhắc đến một biến cố cứu độ trong lịch sử. Nên đọc và suy gẫm hết 150 Tv thì cũng có nghĩa là đọc và suy gẫm toàn bộ Thánh Kinh. Vậy người giáo dân không có điều kiện đọc Kinh Phụng Vụ, thì người ta đọc 150 kinh Kính Mừng để nói: Niềm vui ơn cứu độ.
3. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Vì muốn con cái mình hạnh phúc, nên mỗi lần hiện ra là một lần nhắn nhủ: "Hãy năng lần hạt Mân Côi". Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn. Vậy, hãy biến đời mình thánh chuỗi Mân Côi.
Thế thì, dù bận đến đâu cũng đừng bỏ lễ Chúa nhật và lễ Trọng buộc. Dù mệt đến đâu cũng đừng bỏ đọc Kinh Kính Mừng, bởi "Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng" (St Bênađô).
Nhiều bạn trẻ cho rằng: Thời buổi khoa học, ai còn tụng niệm như mấy ông già bà cả nữa. Không đâu, Louis Pasteur, Giám Đốc Viện nghiên cứu vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại Học hoá học và sinh vật học cho chúng ta kinh nghiệm: động lực để nghiên cứu khoa học lại là Kinh Kính Mừng. Ông lần hạt khi đi trên Métro, nam sinh nữ tú chê ông quê mùa, mà không hay biết ông là người thầy của mình.
Thế giới ngày hôm nay tục hóa, con người sống như thể không có Thiên Chúa. Nếu bị ma quỉ cám dỗ, sự xấu, người xấu lôi kéo, hãy đọc Kinh Kính Mừng, vì: "Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ" (Lời thánh Anphongsô). Nếu con cái hư đốn, chồng không trung thủy, vợ bất trung thành, hãy đọc Kinh Kính Mừng: "Nhờ Kinh Kính Mừng, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng".
Đức Thánh Cha Phanxicô vừa quyết định mời gọi tất cả các tín hữu, trên toàn thế giới, lần hạt Mân Côi mỗi ngày, trong suốt tháng Mười là tháng Đức Mẹ, để hiệp thông và ăn năn đền tội cùng toàn thể dân Chúa, đồng thời cầu xin rất thánh Đức Mẹ Chúa Trời và Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bảo vệ Giáo Hội khỏi quỷ dữ, là kẻ luôn tìm cách tách chúng ta khỏi Thiên Chúa và chia rẽ với nhau.
Nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Mân Côi, xin cho mỗi người chúng ta, cách riêng trong tháng này, cũng biết yêu mến tràng hạt Mân Côi. Amen.
37. Kinh Kính Mừng lời kinh cầu cho hòa bình-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con. Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.
1. Kinh Kính Mừng
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc"
Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: " Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc". Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.
Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời... và trong giờ lâm tử".
Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với "Đức Maria đầy ơn phúc". Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc" để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.
Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: "Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi". Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.
2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô: "Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết".
Thánh Bênađô nói: "Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ".
Còn thánh Bônaventura nói: "Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng".
Theo thánh Montfort "Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi".
Thánh Anphongsô "Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng".
Kinh Mân côi là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục: "Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày". Và nhất là: "Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình".
3. Lời kinh cầu cho hòa bình
Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Năm 2014, và những năm tiếp theo Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới nhiều lần cầu nguyện cho Irắc, không những kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và Palestin mà còn tổ chức cầu nguyện với nguyên thủ quốc gia cả hai nước. Trước tình thế hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Chúng ta hướng về Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, và khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời cao. Chính Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, Ðấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.
Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thường cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những thế lực trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi, chúng ta tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, là Thiên Chúa. Ðức Maria, như gương mẫu của sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Ðấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.
Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.
Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.
Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.
38. Kinh Mân Côi và Giáo Hội.
Kinh Mân côi là một việc đạo đức của Giáo hội Công giáo.
Thực vậy, trước hết các Đức Giáo Hoàng, nhất là các Đức Giáo Hoàng gần đây nhất, đã không ngừng kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi, nơi mỗi cá nhân cũng như trong các gia đình.
Chẳng hạn Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ chúng ta hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình. Cũng chính ngài đã xác định:
- Kinh Mân côi là một kho tàng quý giá nhất của Giáo hội.
Tiếp đến Đức Thánh Cha Lêô XIII đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải lần hạt, và người ta đã gọi ngài là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã xuất bản khoảng 12 thông điệp nói về Kinh Mân Côi, ấy là không kể đến 8 văn kiện khác nữa, chính ngài đã thiết lập tháng Mân Côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.
Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo chúng ta:
- Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.
Đức Thánh Cha Piô XI cũng đồng quan điểm ấy khi ngài viết:
- Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô XII cũng đã khuyên nhủ các bạn trẻ:
- Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi.
Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, ngài xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục:
- Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết: Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.
Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại, ngài cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.
Xem đó chúng ta thấy các Đức Thánh Cha đều nhất trí về sự tuyệt hảo của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi.
Và các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi khẩn thiết ấy. Từ đông sang tây, từ bắc xuống nam, đâu đâu người ta cũng lần chuỗi. Tôi xin kể lại mẫu gương của thày Patrick Peyton.
Thày là một đại chủng sinh bị đau yếu trầm trọng. Các bác sĩ đều bó tay. Trong âm thầm, mẹ thày đã cầu nguyện và xin được chết thay cho thày. Và sự thực đã xảy ra. Người mẹ chết và thày được sống. Sau khi thụ phong linh mục và để tạ ơn Đức Mẹ, thày đã dâng hiến trọn cuộc đời cho việc loan truyền sứ điệp Fatima bằng cách thành lập một tu hội với lời dốc quyết lần chuỗi mỗi ngày. Tu hội này ngày nay có trên mười triệu người gia nhập. Họ thường đọc kinh chung với những người khác trong nhà thờ, nơi xưởng thợ và trong những môi trường khác nhau.
Có những trường đại học bên Mỹ vẫn lần chuỗi mỗi ngày để cầu cho những người tội lỗi ăn năn. Có những chương trình lần chuỗi trên truyền thanh, truyền hình vào những giờ giấc nhất định, để những người Công giáo có thể hợp ý cầu nguyện, dù ở nhà, trong xe hơi hay đang làm việc.
Bởi vậy, hãy siêng năng lần hạt để thực thi lệnh truyền của Mẹ, để đáp trả lại những lời mời gọi của các Đức Thánh Cha và nhất là để chúng ta được Mẹ yêu thương và chúc phúc.
39. Mân Côi
Vào năm 1917, Đức Mẹ đã hiện ra với ba em nhỏ tại Fatima, nước Bồ Đào Nha. Lucia 10 tuổi, Jacinta 7 tuổi và Phanxicô 9 tuổi. Khi các em đang chăn cừu thì bỗng một luồng sáng xuất hiện trên trời và Đức Mẹ hiện ra, nói với các em rằng: Ta từ trời mà đến. Từ tháng 5 tới tháng 10, Đức Mẹ đã hiện ra với các em 6 lần. Và trong lần hiện ra cuối cùng, có phép lạ mặt trời nhảy múa và Thánh Gia xuất hiện, Chúa Giêsu thì chúc lành cho dân chúng, còn Mẹ Maria thì mặc áo choàng núi Carmêlô. Hàng ngàn người đã chứng kiến phép lạ và những sự kể trên. Dù tin hay không tin sự kiện Fatima, chúng ta hãy chú ý đến những gì Jacinta đã làm trong những năm sau đó. Em thường hay lên núi, chậm rãi và kính cẩn đọc kinh Kính Mừng và em được nghe tiếng dội lại của lời kinh muôn thuở này từ vách núi.
Từ đó chúng ta ghi nhận: Lời kinh Kính Mừng là một lời kinh được đem xuống từ trời. Thực vậy, ngay câu đầu tiên: Kính mừng Maria đầy ơn phúc là lời chào kính của sứ thần Gabriel dưới mái nhà Nadarét để xác nhận tin vui Đức Maria sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Tiếp đến: Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và con lòng bà gồm phúc lạ. Đó là lời chào của bà Elisabeth đã được linh ứng từ trời. Còn phần cuối là những tâm tư được Giáo Hội thêm vào cũng trong chiều hướng được đem đến từ trời cao. Chẳng hạn khi hiện ra vào ngày 19.8.1917, Mẹ đã nói với ba em: Hãy cầu nguyện cho kẻ có tội. Và kết thúc đó là lời nguyện xin: Khi nay và trong giờ lâm tử, là một lời cầu rất thích hợp cho ngày lễ hôm nay.
Như chúng ta đã biết vào cuối đời Mẹ Maria đã được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác vì Ngài không muốn để thân xác thanh sạch của Mẹ phải chịu cảnh hư nát trong mồ. Cùng với Mẹ, chúng ta hãy hân hoan vui mừng, bởi vì một khi đã về trời, Mẹ sẽ là Nữ Vương trời đất. Với thiên chức làm mẹ, Đức Maria có đủ tình thương để sẵn sàng trợ giúp chúng ta. Còn với tước hiệu là Nữ Vương trời đất, Đức Maria có đủ khả năng để nâng đỡ chúng ta. Thế nhưng điều cần thiết đó là chúng ta phải biết chạy đến với Ngài và kêu cầu Ngài. Hơn thế nữa, chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa về trời, hưởng hạnh phúc bất diệt bên Chúa và Mẹ Maria thân yêu của chúng ta.
40. Tháng Mười thắm sắc Mân Côi -- Trầm Thiên Thu
Kính mừng Mẹ Đức Chúa Trời hiển vinh
Hoa lòng thắm sắc Đức tin
Xin dâng kính Mẹ Đồng Trinh từng ngày
Tháng Mười được dành để tôn kính Đức Mẹ Mân Côi. Theo miêu tả của tu sĩ Alan de la Roch, Dòng Đa-minh (thế kỷ XV), Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa-minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong việc chống tà thuyết Albigensianism (*). Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng của ngài chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa-minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác.
Kinh Mân Côi có nguồn gốc từ chính Thiên Chúa, từ Kinh thánh, và từ Giáo hội. Không lạ gì khi Chuỗi Mân Côi gần gũi với Đức Mẹ và mạnh mẽ đối với Nước Trời.
Rất nhiều người đã được ơn từ việc lần Chuỗi Mân Côi. Thánh GH Gioan Phaolô II cũng thường xuyên lần Chuỗi Mân Côi những khi ngài đi bách bộ. Nếu xem lại lịch sử, chúng ta thấy có nhiều chiến thắng nhờ Chuỗi Mân Côi. Truyền thống ban đầu đã có chiến thắng tà thuyết Anbi tại trận Muret năm 1213 nhờ Chuỗi Mân Côi.
Dù không muốn chấp nhận truyền thống đó thì cũng phải chân nhận rằng Thánh GH Piô V đã góp phần chiến thắng đội quân Thổ Nhĩ Kỳ vào Chúa Nhật đầu tháng 10 năm 1571. Ngay thời điểm đó có Hội Mân Côi (Rosary Confraternities) tại Rôma và những nơi khác. Do đó, Thánh GH Piô V đã truyền phải tôn kính Kinh Mân Côi vào chính ngày đó.
Năm 1573, ĐGH Grêgôriô XIII công bố việc mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi tại các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi. Năm 1671, ĐGH Clêmentô X mở rộng lễ này trên toàn cõi nước Tây Ban Nha. Chiến thắng anh dũng lần thứ hai trên người Thổ Nhĩ Kỳ, những người đã có lần (cũng như người Nga) đe dọa phá hủy văn minh Kitô giáo, xảy ra vào ngày 5-8-1716, khi hoàng tử Eugene đánh bại họ tại Peterwardein (Hungary). Do đó, ĐGH Clêmentô XI mở rộng lễ Đức Mẹ Mân Côi trong toàn Giáo hội.
Lm William G. Most đã viết trong cuốn “Đức Maria trong Đời sống” (Mary in Our Lives): “Ngày nay, các mối nguy hiểm còn lớn hơn người Thổ Nhĩ Kỳ, không chỉ đe dọa Kitô giáo mà đe dọa cả nền văn minh, Đức Mẹ thúc giục chúng ta trở lại với Chuỗi Mân Côi để được giúp đỡ. Nếu nhân loại đủ số người làm vậy, đồng thời thực hiện các điều kiện khác mà Đức Mẹ đã đưa ra, chúng ta có lý do chính đáng để tin rằng chúng ta sẽ thoát khỏi mọi mối nguy hiểm”.
Nhưng thiết nghĩ chúng ta cần tích cực lần Chuỗi Mân Côi hàng ngày không vì mong được lợi cho mình mà vì lòng yêu mến chân thành. Người Việt Nam có câu: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Cứ hành động bằng tất cả niềm tin, cậy, mến (ba nhân đức đối thần) thì chúng ta không bao giờ phải thất vọng. Kinh Mân Côi là chu kỳ của cuộc đời chúng ta, với đủ “sắc màu” quyện vào nhau: Vui, Thương, Mừng, Sáng.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết yêu mến Đức Mẹ. Lạy Mẹ, xin dẫn chúng con đến với Chúa. Chúng con xin trao phó mọi sự cho Thiên Chúa và Đức Mẹ, xin quan phòng và lo liệu cho chúng con, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.
------------------
(*) Albigensianism: Anbi giáo, một phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism – xem chú thích bên dưới) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là tà thuyết thời Tòa án Dị giáo (Inquisition).
Manichaeism: Mani giáo, hệ thống tôn giáo nhị nguyên do tiên tri Manes (khoảng 216–276) sáng lập ở Ba Tư hồi thế kỷ III, dựa trên vụ xung đột nguyên thủy giữa ánh sáng và bóng tối, kết hợp với các yếu tố của Kitô giáo ngộ đạo (Gnostic Christianity), Phật giáo (Buddhism), Bái hỏa giáo (Zoroastrianism), và các yếu tố ngoại giáo khác. Thuyết này bị chống đối từ phía Hoàng đế La mã, các triết gia phái tân Platon (Neo-Platonist) và các Kitô hữu chính thống.
41. Kinh Mân Côi.
LỜI KINH CỦA QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
Trong một vài phút ngắn ngủi này tôi muốn trình bày về ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với quê hương đất nước. Trước hết tôi xin đưa ra một vài biến cố lịch sư.
Biến cố thứ nhất đó là cuộc chiến thắng tại Lépante.
Vào năm 1571 dưới thời Đức Thánh Cha Piô V, vua Sélim nước Thổ nhĩ kỳ đem quân thôn tính Âu châu, trước tai họa thảm khốc này, Đức Thánh Cha một mặt liên kết các quốc gia Âu châu, một mặt kêu gọi mọi người ăn chay cầu nguyện và nhất là lần hạt Mân côi.
Chính nhờ kinh Mân côi, đoàn quân ô hợp của các nước công giáo đã chiến thắng đoàn quân tinh nhuệ của Thổ nhĩ kỳ tại Lépante.
Và để tạ ơn Mẹ Maria, Đức Thánh Cha đã thiết lập ngày lễ Mân côi hôm nay.
Biến cố thứ hai là trường hợp của Bồ Đào Nha.
Bồ Đào Nha là một quốc gia đạo đức và sùng kính Đức Mẹ. Thế nhưng đã rơi vào tay bọn Tam điểm từ năm 1910.
Trong suốt 16 năm nắm chính quyền, họ đã gây nên biết bao cảnh xáo trộn lầm than. Nào là giết chết các linh mục tu sĩ., phá hủy các dòng tu, cướp bóc các cơ sở từ thiện của Giáo hội.
Cũng trong thời gian ấy đã xảy ra tất cả 16 lần đảo chánh, 45 lần thay đổi chính phủ và tiền nợ nước ngoài lên tới hai tỷ mỷ kim.
Thế nhưng, vào năm 1917, Đức mẹ đã hiện ra tại Fatima và đã hứa với ba em nhỏ:
- Bồ Đào Nha sẽ giữ vững được đức tin.
Và sự thật đã xảy ra như thế. Dân công giáo Bồ Đào Nha đã vùng lên, đập tan xiềng xích của bọn Tam điểm, lòng đạo đức được phục hồi và ngày 12. 6. 1925 chính phủ và toàn thể nhân dân Bồ Đào Nha đã long trọng dâng kính đất nước mình cho Mẹ Fatima.
Sau cùng là trường hợp của Tây Ban Nha.
Cũng vậy, Tây Ban Nha là một quốc gia đạo đức nhưng đã bị rơi vào tay những kẻ chống đối tôn giáo. Dưới sự hướng dẫn của tướng Franco một mặt trận giải phóng được thành lập và mãi tới năm1939 mới lật đổ được chính quyền.
Ông đã tiết lộ như sau:
- Chúng ta đã nắm được những tài liệu của kẻ thù cho hay: họ định triệt hạ các thánh đường, biến đất nước chúng ta trở thành một quốc gia không còn tôn thờ Thiên Chúa nữa.
Qua những sự kiện lịch sử ấy, chúng ta thấy Mẹ Maria luôn sẵn sàng can thiệp để giúp đỡ mỗi khi chúng ta gặp phải khó khăn và thử thách. Phương thế mẹ muốn chúng ta sử dụng đó là kinh Mân côi, như lời mẹ tỏ lộ tại Fatima:
- Thế chiến lần thứ nhất sắp kết thúc, nhưng nếu người ta không lo cải thiện đời sống, tôn sùng trái tim Mẹ và lần hạt Mân côi thì rồi chiến tranh sẽ lại bùng nổ một cách tàn khốc hơn.
Nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta không khỏi bi quan khi nhận thấy rằng:
- Bất công và bạo động, hận thù và đàn áp đang xảy ra khắp nơi, những chiếc ngòi của một cuộc chiến tranh thảm khốc vẫn sẵn sàng bùng nổ. Rồi nghèo đói, bệnh tật và những tệ nạn xã hội luôn liên tục phát triển, không một phần đất nào mà lại không có.
Riêng tại Việt Nam, mặc dù hòa bình đã trở về trên quê hương chúng ta gần ba chục năm rồi, thế nhưng vẫn còn biết bao nhiêu khó khăn cần phải tháo gỡ, biết bao nhiêu vấn đề cần phải giải quyết nhất là về phương diện kinh tế và đạo đức.
Chiến tranh như một cơn ác mộng đã qua đi, nhưng hậu quả đắng cay và nghiệt ngã của nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Bởi đó, là người dân Việt Nam, chúng ta phải cố gắng góp phần vào việc phát triển đất nước bằng chính công sức lao động sản xuất của mình.
Tuy nhiên, là người tín hữu, chúng ta còn có những phương thế siêu nhiên. Và một trong những phương thế siêu nhiên đó là sự cầu nguyện.
Đồng thời, một trong những cách thức cầu nguyện đắc lực và hiệu nghiệm hơn hết, đó chính là kinh Mân côi.
Bởi vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin mẹ nâng đỡ và phù trợ cho đất nước Việt Nam, quê hương yêu dấu của chúng ta.
42. Thánh Mẫu Mân Côi.
Chuỗi Mân Côi là quà tặng quí báu, Thiên Chúa và Đức Mẹ trao cho chúng ta. Người ta gọi chuỗi Mân Côi là kinh nguyện của người bình dân. Thực vậy, cho tới thế kỷ XII, Hội Thánh chỉ dùng 150 thánh vịnh làm kinh nguyện chính thức. Tới khi bà thánh Birgitta được ơn Chúa soi sáng mới đặt ra chuỗi 150 Kinh Kính Mừng để thay thế cho 150 Thánh vịnh. Các mầu nhiệm Mân Côi còn được gọi là cuốn sách Phúc âm rút gọn của người bình dân, bởi vì sau này người ta thêm 15 mầu nhiệm vào kinh Mân côi. Cứ 10 kinh Kính mừng lại suy gẫm vê một mầu nhiệm mùa Vui, Thương hoặc Mừng.
Chuỗi Mân Côi rất cao quí vì chính nội dung của nó như chúng ta vừa đề cập tới. Người biết xử dụng sẽ gặp được hiệu quả phi thường. Ngay trong sự tích việc thành lập lòng sùng kính này đã đã ghi dấu bằng một phép lạ đặc biệt. Ngày kia trên đường đi Tây Ban Nha, hai thánh Đôminicô và Bernađo chẳng may bị sa vào tay quân cướp. Sau khi bóc lột tất cả, chúng bắt các Ngài phải làm nô lệ chèo thuyền. Một lần con thuyền bị bão đánh giữa khơi. Trong cơn nguy nan, thánh Đôminicô đã cầu xin Đức Mẹ và được Ngài hiện ra dạy phải lần chuỗi Mân Côi. Mọi người trong thuyền đều hứa sẽ thực hiện theo lời chỉ dạy của Mẹ. Bão tố liền tan biến.
Cũng chính thánh Đôminico, trong cuộc tranh đấu chống lại bè rối Albigeois năm126, một lần nữa được Đức Mẹ dạy cho biết phải dùng chuỗi Mân Côi làm khí giới. Thánh nhân đã dốc toàn lực phổ biến thực hành đạo đức này và được gặt hái được thành quả mĩ mãn. Bè rối Albigeois hoàn toàn bị tiêu diệt.
Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân Côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân Côi, Khi ấy quân Hồi Xâm lăng Au Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người chạy đến với Kinh Mân côi. Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới tồi tàn, người công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu, từ Roma, Đức Giáo hoàng đã thấy được cuộc chiến thắng này và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức giáo hoàng đã thiết lập một lễ để ghi nhớ chiến thắng này.
Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan... Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.
Vậy khi mừng lễ Thánh mẫu Mân Côi, Giáo hội muốn chắc lại sức mạnh cứu rỗi vô song của Kinh Mân Côi và kêu gọi mọi người hãy năng lần chuỗi Mân Côi như phương thế hữu hiệu để cải thiện đời sống và xây dựng Nước trời.
43. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
“Hãy xin thì sẽ được”
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức Mẹ và về việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.
Nhiều người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống chàng chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nòi được là thi vị hơn nhiều.
Vào thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây phương, người thanh niên, nhất là các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là Chapel- nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng chuỗi.
Thánh Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội trong cuộc tử nạn.
Tràng hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi đó, ở tu viện, các Tu sĩ mỗi ngày đọc đủ 150 kinh dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi trở nên tràng chuỗi Mân Côi.
Việc đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp nhận, khi Người hiện ra với Thánh ĐaMinh vào thế kỷ XIII. thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội rất nhiều. Thánh Đaminh và Dòng của Ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy. Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Lần chuỗi không phải là việc đọc kinh một cách máy móc các kinh thường quen, mà là miệng đọc mà lòng suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu nhiệm năm sự VUI để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm sự THƯƠNG để theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm nhiệm năm sư MỪNG để cùng Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.
Vì thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.
Vậy chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở lộ Đức và Fatima.
Tại rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng Thánh nữ Catherine Labouret: con hãy quan tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Đức Mẹ.
Tại Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Benrnadetta đến quì tại một chỗ nhất định. Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một bầu ánh sáng và trong một bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.
Đức Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp máy đóc kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.
Cách riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ dạy em Phanxicô phải lần hạt mới được về Thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và một trong ba mệnh lệnh ấy la phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ Vương Mân Côi.
Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỉ, nhất là để nhở Đức Mẹ đưa ta đến với Chúa, ad Jesum per Mariam. Amen.
44. Suy niệm của Trọng Hương.
* LỊCH SỬ
Chuỗi Mân Côi, với hình thức ngày hôm nay, được các Cha Dòng Đa Minh và sau đó Dòng Tên truyền bà từ thế kỷ XV. Lễ Mân Côi không nhằm vào xâu chuỗi cho bằng hướng về Thánh Mẫu Mân Côi, đó là Đức Trinh nữ Maria.
Thánh Lễ được Đức Giáo Hoàng Piô V, xuất thân từ Dòng Đa Minh, lập ra vào năm 1572 để kỷ niệm chiến thắng của Hạm đội Công giáo trên dân Thổ nhĩ Kỳ (Hồi giáo) ở Vịnh Lepanto ngày 7.10.1571.
Sau cuộc chiến thắng quân Thổ nhĩ Kỳ ở Peterwardein xứ Hungaria ngày 5.8.1716, theo yêu cầu của vua Charles VI, Đức Giáo Hoàng đã cho phép mừng lễ này trong toàn Hội Thánh (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Thánh sử Luca trình bày Đức Maria trong hai bức tranh khác hẳn nhau:
1. Maria tầm thường:
- Một thiếu nữ mang tên Maria, một tên bình dân nhiều người có. Trong Tân Ước có ít ra 4 phụ nữ mang tên này: Mẹ của Đức Giêsu, mẹ của Giacôbê và Giuse, Maria Mađalêna và Maria chị của Matta và Ladarô.
- Sinh sống tại Nadarét, một thị trấn hầu như vô danh nên Cựu Ước không lần nào nhắc tới.
2. Maria cao sang:
- Thiên sứ gọi Maria bằng những tước hiệu cao sang: Đấng đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng, đẹp lòng Thiên Chúa.
- Con của Người là Cao cả, Con Đấng tối cao, Con Thiên Chúa, trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, triều đại Ngài sẽ vô cùng vô tận...
3. Do đâu một thiếu nữ tầm thường bỗng trở nên cao sang như thế?
Do sự khiêm tốn của Maria. Người đã thưa “Tôi là nữ tì của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói”. Nghĩa là Maria ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa “làm” mọi sự nơi Người, không cản trở, không đòi Thiên Chúa phải làm theo ý riêng Người.
Mà Thiên Chúa là Đấng toàn năng, “Đối với Ngài, không có gì là không thể làm được”.
B.... nẩy mầm.
1. Trong những người biết khiêm tốn để cho ơn Chúa hoạt động thì sẽ xảy ra những điều vĩ đại phi thường.
2. “Thưa bà Maria, xin đừng sợ”: Ta đừng sợ những sứ mạng Chúa giao, miễn là ta chịu để cho quyền năng Chúa hoạt động nơi mình.
3. Trong Thánh Kinh, câu “Đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để nhắc chúng ta mỗi ngày trong suốt một năm.
4. “Nếu bạn cậy vào sức riêng của mình thì chẳng lạ gì bạn sẽ sớm ngã lòng. Kẻ khiêm nhường thực thì không ngã lòng, kẻ ngã lòng không phải là người khiêm nhường thật bởi vì người ấy cậy dựa vào một cái gì đó ngoài Chúa” (J.N.D. “Scripture Truth”)
5. Một hôm Satan đem bày bán những dụng cụ làm việc của hắn. Có rất nhiều món, được dán nhãn hiệu rõ ràng: nào là giận hờn, ganh ghét, dâm dục, nào là kiêu ngạo, nói dối, tham lam v.v. Và món nào cũng có ghi giá. Nhưng có một món được để riêng một bên, không dán nhãn nhưng giá lại cao nhất. Một người hỏi:
- Đó là cái gì mà cao giá dữ vậy?
- Đó là sự ngã lòng.
- Tại sao nó cao giá thế?
- Vì nó hữu hiệu hơn tất cả những dụng cụ khác: khi tôi không thể dùng những dụng cụ kia để đến gần người ta thì tôi dùng nó để xâm nhập tận cõi lòng người ta. Một khi tôi đã đặt nó vào lòng người ta rồi thì tôi có thể xúi người ta làm bất cứ điều gì tôi muốn. Mà đặt nó vào lòng ta rất dễ, bởi vì ít ai biết dụng cụ đó là của tôi”. (Gospel Herald)
6. Về tiếng “xin vâng” của Đức Mẹ:
a/ Vì Thiên Chúa là chủ của vũ trụ và của lịch sử, nên mọi việc trên đời, không việc gì có thể đi ngoài ý Chúa và kế hoạch của Chúa mà êm xuôi được (“thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”; gương ngôn sứ Giôna). Cho nên biết “xin vâng” tức là biết lái con thuyền đời mình thuận theo dòng nước.
b/ Thực ra chữ “fiat” còn có thể dịch đúng hơn, là “Xin hãy thành sự nơi tôi”. Hiểu như vậy, phía chủ động là chính Thiên Chúa. Con người chỉ cần ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa hoạt động nơi mình. Nói cách khác, con người chỉ việc “buông theo ân sủng”
7. “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa. Xin Chúa cứ làm choi tôi” (Lc 1,38)
Vào một ngày đẹp trời, các phóng viên thiên thần được diện kiến “người nữ có phúc hơn mọi người nữ” là Đức Maria. Các ngài đã làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng:
- Chào Bà. Bà đã từng làm người. Vậy, theo Bà, sứ mệnh của nhân loại là gì?
- … Là sống cho Chúa.
- Người nữ “chân yếu tay mềm” phải làm gì để hoàn tất vai trò của mình trong gia đình, xã hội và Giáo Hội?
- … Hãy trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa trao ban qua nữ tính của họ.
- Nhưng càng nhu mì, càng hiền dịu thì càng bị đối xử bất công. làm sao tìm được sự bình đẳng mà không đánh mất nữ tính?
- … Mỗi người có một bản sắc riêng. Hãy thể hiện trọn vẹn nét độc đáo ấy.
- Vậy sẽ không có sự bình đẳng tuyệt đối?
- … Chỉ có sự bình đẳng hoàn hảo nhất, đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa…
Và Đức Maria đã minh chứng điều này qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu, với bí quyết rất nữ tính: “Xin vâng”.
Thông qua hai tiếng “Xin Vâng”, Mẹ như thầm nhắn nhủ: Hạnh phúc và sự bình đẳng của phận người tuỳ thuộc vào sự đáp trả của chúng ta trước tiếng gọi của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong từng giây của cuộc sống như Mẹ Maria (Hosanna)
45. Cầu nguyện và cải thiện đời sống -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:
* Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau...
* Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.
* Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.
* Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ… người lớn.
Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc... Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.
Trong tháng Mân côi, giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.
46. Lễ Mẹ Mân Côi.
LỜI KINH CỦA TUỔI THƠ
Mừng lễ Mẹ Mân côi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những tình cảm Mẹ đã dành cho tuổi thơ. Trước hết chúng ta sẽ đưa ra một vài sự kiện lịch sử.
Sự kiện thứ nhất, đó là biến cố Lộ Đức.
Tại đây Mẹ đã hiện ra với một cô bé mười bốn tuổi, tên là Bernadette. Mẹ bảo cô bé lần hạt và Mẹ cùng đọc với cô bé kinh Lạy Cha và kinh Sáng Danh. Đồng thời, Mẹ còn tỏ cho chúng ta thấy Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Sự kiện thứ hai, đó là biến cố Phatima.
Tại đây Mẹ đã hiện ra với ba em nhỏ: Lucia mười tuổi, Giaxinta bảy tuổi và Phanxicô bảy tuổi. Đồng thời, qua ba em nhỏ này, Mẹ đã gửi đến mỗi người chúng ta ba mệnh lệnh: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân côi.
Qua hai sự kiện trên, chúng ta nhận thấy Mẹ Maria rất yêu thương trẻ thơ và đã chọn các em làm sứ giả để chuyển đạt cho thế giới những sứ điệp của Mẹ. Mẹ đã dùng các em để làm nên những việc trọng đại.
Bởi vì kể từ đó cho đến ngày hôm nay, Lộ Đức và Phatima đã trở nên những nơi hành hương sầm uất nhất của Giáo hội và cũng tại hai nơi này, Mẹ đã ban xuống biết bao nhiêu ơn lành hồn xác.
Với kết luận trên, chúng ta liên tưởng tới lời kinh Magnificat của Mẹ ngày xưa, trong đó Mẹ đã xác quyết:
- Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những người phận nhỏ.
Thực vậy, nếu ngày xưa Chúa đã chọn Mẹ từ một nữ tì nhỏ bé tầm thường để trở nên Mẹ của Đấng Cứu thế, Mẹ của Thiên Chúa, thì giờ đây Mẹ cũng chọn những em bé đơn sơ để làm nên những việc trọng đại.
Nếu ngày xưa Chúa đã yêu thương các trẻ nhỏ, bởi vì các em vừa đơn sơ và trong trắng, lại vừa tin tưởng và phó thác, thì bây giờ Mẹ cũng đã dành cho các em một tình yêu thương đậm đà, bởi vì các em đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời khuyên nhủ của Mẹ.
Bernadette đã lần hạt với Mẹ và sau này vào tu trong một nhà dòng, sống một cuộc đời đạo đức và thánh thiện. Còn ba em nhỏ ở Phatima cũng thế.
Mẹ bảo:
- Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt nhiều trước đã.
Và Phanxicô đã thưa lên:
- Lạy Mẹ, Mẹ muốn con lần hạt bao nhiêu cũng được.
Từ đó, không những lần hạt với hai em kia, mà cậu bé còn lần hạt riêng một mình nữa.
Lắm khi đang chơi với bạn, cậu bé lẻn đi lần hạt. Được hỏi tại sao thì cậu bé trả lời:
- Đức Mẹ bảo em phải lần hạt nhiều cơ mà.
Còn Giaxintha cũng vậy. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra, em đã về nhà và nói với má:
- Má à, hôm nay con đã được nhìn thấy Đức Mẹ.
Bà mẹ bảo:
- Con đã là thánh đâu mà được nhìn thấy Đức Mẹ.
Rồi em xin phép má đi lần hạt với anh Phanxicô, bởi vì Đức Mẹ bảo:
- Chúng con phải lần hạt mỗi ngày.
Nhất là Lucia, em thường đứng lên lần hạt mỗi khi Đức Mẹ hiện ra. Sau khi được ơn nhìn thấy Đức Mẹ, em gia nhập phong trào Phatima để cùng với mọi người chống lại với những kẻ ghét đạo. Em cũng thường lần hạt chung với mọi người để suy gẫm về Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Sau cùng, em đã dâng hiến trọn cuộc đời mình trong dòng kín.
Chúng ta cũng vậy, như các em nhỏ, chúng ta hãy quảng đại đáp lại lời kêu mời của Mẹ bằng cách siêng năng đọc kinh Mân Côi và cố gắng thực thi tinh thần kinh Mân Côi trong cuộc sống, để chúng ta xứng đáng với tình yêu thương của Mẹ.
47. Mân Côi: Khỉ cứu mặt trăng.
Có năm trăm con khỉ mặt đỏ đi trong rừng sâu, đến dưới một gốc cây ni-câu. Dưới cây có một cái giếng, nước trong giếng phản chiếu lại mặt trăng, con khỉ đầu đàn nhìn thấy, liền gấp gáp nói với đồng bạn: "Mặt trăng bị rơi xuống giếng rồi kia, chúng ta nên cùng nhau kéo nó ra khỏi giếng. Thế này nhé, tôi sẽ bám vào cành cây trên mặt giếng, sau đó các anh từng người, từng người một bám vào đuôi nhau trèo xuống, như thế mới có thể cứu được mặt trăng". Bầy khỉ mặt đỏ từng con, từng con liên tục treo thành một chùm dài. Lúc còn một chút xíu nữa thì xuống mặt nước, trọng lượng của bầy khỉ vượt qúa lực chịu của cành cây, chỉ nghe "rắc" một tiếng, cành cây gãy, bầy khỉ mặt đỏ rớt xuống trong giếng giãy giụa mãi không thôi, mặt trăng trong giếng cũng "mất tích" luôn.
Khỉ là loài được gọi là thông minh trong các loài vật, nhưng cũng có những lúc ngu đần hết chổ nói, nhưng cái ngu của loài khỉ không đáng trách, vì nó là...khỉ. Mặt trăng rơi xuống giếng thì không có, nhưng linh hồn đắm trong tội và sẽ rơi vào trong hỏa ngục thì có thật, chuổi Mân Côi là sợi dây liên kết tâm tình của người Kitô hữu với Mẹ Maria, bám vào sợi dây này để cứu linh hồn mình và linh hồn của anh chị em, chính là việc làm thông minh và hiệu qủa hơn là bám vào ô dù của những kẻ quyền qúy ở thế gian. Bầy khỉ mặt đỏ đã chết oan uổng vì đã làm chuyện không có -cứu mặt trăng rơi xuống giếng- nên bị coi là ngu. Cũng vậy, chúng ta cũng sẽ bị coi là ngu, nếu chúng ta không dùng chuỗi Mân Côi như một phương thế đơn sơ mà hữu hiệu để cứu linh hồn mình. Mẹ Maria -Đấng đồng công cứu chuộc nhân loại- đã rất "thông minh" khi nghĩ đến phương thế nhẹ nhàng mà hiệu qủa này cho con cái của Mẹ, để không một đứa con nào phải hư mất đời đời khi suy tư, chia sẻ mầu nhiệm xuống thế làm người và cứu chuộc của Con Mẹ -Đức Giêsu Kitô- trong chuổi Mân Côi.
Khắp mọi nơi và mọi lúc (trừ đang khi dâng thánh lễ) chúng ta đều có thể lần hạt Mân Côi, kết hợp với Thiên Chúa qua Đức Trinh Nữ Maria, để chúng ta ngày càng trở nên hoàn hảo hơn trong đời sống thiêng liêng, và tốt đẹp hơn trong cuộc sống đời thường.
48. Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Nói về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: "Vào bình minh của ngàn năm mới, chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên 'chiều kích Thánh Mẫu' của Hội Thánh, ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề xướng". Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy.
MẸ MARIA TRONG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Maria được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria được tràn đầy ân sủng,Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là hạnh phúc lớn nhất, khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ Maria là một người trong nhân loại, là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ. Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua.
"CÁC CON ĐỪNG SỢ, THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN"(Ga 16,33)
Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân loại: " Sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế "(Ga 14,18). Chúa là con của Mẹ Maria,nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết: " Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là người chiến thắng". Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima, Labouret, Nam Tư, La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng khuyên nhủ: “ phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi Mân Côi ". Mẹ đã luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời. Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần."Trái tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự dữ…"
LỄ MÂN CÔI NÓI GÌ CHO NHÂN LOẠI
Lễ Mân Côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria.Tuy nhiên, đó chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương An Bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người. Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Jacintha. Trong các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân như thế nào? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa? Nếu chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã sống bác ái, yêu thương đủ chưa? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi vào định luật của tình yêu: " Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu thương các con".
Lễ Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi.
Chuỗi Mân Côi là phương thế dễ dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa Giêsu.
"Lạy Chúa,…xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con,để nhờ công ơn con Chúa chịu khổ hình thập giá,và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu,Chúa cũng cho chúng con được sống lại hiển vinh" (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Mẹ Mân Côi).
49. Mai khôi: bông hồng đẹp, viên ngọc quí -- Lm. Anrê Đỗ xuân Quế
Mân côi, Văn côi, Môi khôi, Mai khôi, tất cả những chữ này đều có cùng một nghĩa là những bông hồng đẹp hay viên ngọc quí, tùy theo thói quen và ý thích, mỗi người mỗi nơi dùng một kiểu. Một số người hiện nay thích dùng chữ Mai khôi, vì theo họ, chữ này vẫn giữ được nguyên nghĩa là bông hồng đẹp, viên ngọc quí mà đọc nghe lại thấy thanh nhã và mới mẻ hơn.
Chuỗi Mai khôi là chuỗi gồm năm mươi chục hạt. Mỗi hạt là một kinh Kính mừng và sau mười hạt lại có thêm một hạt nữa để chỉ kinh Lạy Cha. Những kinh Kính mừng đó được coi như những bông hồng kết thành vòng hoa dâng kính Đức Mẹ. Một trăm năm mươi kinh Kính mừng là một trăm năm mươi bông hồng hay một trăm năm mươi thánh vịnh kính Đức Mẹ, vì chuỗi Mai khôi được coi như tập thánh vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như một trăm năm mươi thánh vịnh để tôn vinh ca tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.
Nguồn gốc chuỗi Mai khôi
Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bê-na-đô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai khôi. Sau này, năm 1328 ngưòi ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh. Và từ đó trở đi, người ta cứ truyền tụng cho nhau làthánh Đa Minh đã lập ra chuỗi Mai khôi. Vì thế, trong dòng Đa Minh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai khôi cho thánh Đa Minh.
Thực ra, theo cha La-co-đe (Lacordaire), một tu sĩ dòng Đa Minh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Pa-ri (Paris) vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Tu-lu-giơ (Toulouse), tình thế lúc bấy giờ rất nhiễu nhương: quân của quận Chúa Ray-mông (Raymond) theo bè rối An-bi-doa (Albigeois) đánh nhau với quân của quận chúa Xi-mông đờ Mông-pho (Simon de Montfort) theo công giáo. Thánh Đa Minh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Người thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa các người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế, người mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Người được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi mười kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát vắn hay mấy lời lấy trong các sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đỡ nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về các niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm ba chuỗi, mỗi chuỗi năm chục kinh suy ngắm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và các điều mừng.
Hai tu sĩ dòng Đa Minh là linh mục A-lanh đờ la Rót-sơ (Alain de la Roche) người Pháp ở tỉnh Đu-ê (Douai), (sau được nâng lên hàng chân phước) năm 1470 và linh mục Gia-cóp Pơ-ren-gơ (Jacob Sprenger) người Đức ở tỉnh Kơn (Koeln) năm1475 đã lập ra các Hội Mai khôi. Từ thế kỷ XVI, các ĐGH chính thức giao cho dòng Đa Minh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai khôi và thành lập các hội Mai khôi.
Nguồn gốc lễ Mai khôi
Ngày Chúa nhật 7.10.1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lơ-păng-tơ (Lepante) (giữa Co-rin-tô và Pa-trát). Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mai khôi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, ĐGH Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng. Ngày 1.4.1573, ĐGH Ghê-go-ri-ô đặt tên cho lễ này là lễ Mai khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các Hội Mai khôi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, ĐGH Cơ-lê-măng (Clément) XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai khôi được ấn định vào ngày 7.10 mỗi năm.
Ý nghĩa của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi
Trên đây là nguồn gốc của chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, nhưng còn ý nghĩa của chuỗi và lễ thì thế nào? Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng thừa biết lần chuỗi Mai khôi là đề tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ. Chúng ta tôn vinh Đức Mẹ và nhớ lại tình thương của Chúa đối với Hội thánh qua tay Đức Mẹ, trong những hoàn cảnh gần như tuyệt vọng. Từ những sự việc hiển hách của Chúa trong các hoàn cảnh này, chúng ta càng thêm xác tín lời của thần sứ trong bài Tin Mừng lễ Đức Mẹ Mai khôi: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Thiên Chúa làm được tất cả. Nhưng oái oăm thay! Nhiều khi Chúa không biểu lộ trực tiếp và ngay tức khắc quyền năng của Người cho chúng ta thấy. Bởi thế, nhiều lúc chúng ta hoài nghi, tỏ ra chán nản vì thấy nguyện vọng của mình chưa hay không được đáp ứng và xem ra Chúa như câm lặng xa vắng.
Giữa những hoàn cảnh éo le ở đời và giữa lúc phải đắm chìm trong đêm tối của hoài nghi, thất vọng, ước gì chúng ta nhớ lại những hoàn cảnh lịch sử gắn liền với chuỗi Mai khôi và lễ Mai khôi, để giữ vững niềm tin và đốt cháy lên ngọn lửa hy vọng.
50. Canh tân đời sống, lần chuỗi Mân Côi.
“HÃY CANH TÂN ĐỜI SỐNG & LẪN CHUỖI MÂN CÔI MỖI NGÀY”
* Câu hỏi gợi ý
1. Đức Ma-ri-a có vai trò gì trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa?
2. Đức Ma-ri-a và việc lần hạt Mân Côi.
3. Hãy học cùng Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.
* Suy tư gợi ý
1. Vai trò của Đức Ma-ri-a trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa:
1.1 Bài Tin Mừng về Truyền Tin trong Phúc Am Lu-ca cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của Đức Ma-ri-a trong Chương trình Nhập thể và Cứu độ của Thiên Chúa. Như bao thiếu nữ Do Thái khác khi sắp đến tuổi lấy chồng, Ma-ri-a cũng đã có chương trình riêng của mình. Người thanh niên mà nàng yêu thương và tính lấy làm chồng là Giu-se, thuộc chi tộc Đa-vít. Nhưng sau khi thiên sứ trình bày về kế hoạch của Thiên Chúa và được giải đáp thắc mắc một cách thỏa đáng, thì Ma-ri-a đã mau mắn chấp thuận lời đề nghị của Thiên Chúa và phó thác cuộc đời mình cho Ngài: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
1.2 Bài đọc 1 của Sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy vị trí của Đức Ma-ri-a giữa các Tông Đồ, tức giữa lòng Giáo hội sơ khai. Các vị chờ đợi Thánh Thần trong thanh vắng và cầu nguyện.
1.3 Bài đọc 2 của Thư Gá lát của Thánh Phaolô nói về việc Con Thiên Chúa sinh ra từ một phụ nữ theo đúng chương trình của Thiên Chúa để cứu chuộc mọi người và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa, có quyền gọi Thiên Chúa là Cha (Abba).
2. Đức Ma-ri-a và việc lần hạt Mân côi.
2.1 Một trăm năm mươi Thánh vịnh đã được thay thế bằng 150 kinh Kính Mừng: Miệng đọc lòng suy 15 Mầu Nhiệm Mân Côi: Năm Sự Vui, Năm Sự Thương và Năm Sự Mừng. Đó chính là bản tóm tắt cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô và cũng là của Đức Ma-ri-a, vì hơn ai hết, Đức Mẹ đã cùng với Con bước các chặng đường Vui-Thương-Mừng ấy với tinh thần của lời “XIN VÂNG = FIAT!” mà Mẹ đã tuyên xưng trước khi Ngôi Lời Thiên Chúa đầu thai làm người trong cung lòng Mẹ.
2.2 Khi chúng ta đọc sự tích về các cuộc Đức Mẹ hiện ra, dù ở Lộ Đức hay ở Fa-ti-ma, dù ở Gua-da-lu-pe hay ở Mễ Du, hay ở La Vang…. chúng ta đều thấy Đức Mẹ nhắn nhủ người tín hữu hãy canh tân đời sống và siêng năng lần hạt Mân Côi để làm đẹp lòng Thiên Chúa: "Ta là Đức Mẹ Mân Côi, ta đã đến để cảnh báo các tín hữu canh tân đời sống và xin ơn tha thứ tội lỗi của họ. Họ không được xúc phạm đến Thiên Chúa nữa, vì Ngài đã quá phiền muộn vì tội nhân loại. Loài người hãy lần chuỗi Mân Côi. Họ hãy tiếp tục lần chuỗi hàng ngày." (Thông điệp Đức Mẹ gởi cho chị Lu-xi-a 13/10/1917).
2.3 Thánh Đa Minh là người cố công rất lớn trong việc quảng bá việc đọc kinh Mân Côi trong Giáo hội, để cầu xin Chúa bảo vệ Giáo hội trước sự tấn công của kẻ thù.
Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: "Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi".
Còn cha Stefano Gobbi viết: "Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân." Và "Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu"
3. Hãy học cùng Đức Mẹ trên con đường theo Chúa Giêsu Kitô.
Chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể cứu độ nhân loại. Chân lý ấy không bao giờ chúng ta được lãng quên! Đức Mẹ, dù là Mẹ Thiên Chúa cũng chỉ là tạo vật. Nhưng Mẹ là tạo vật hoàn hảo nhất của công trình Tạo Dựng của Thiên Chúa và Mẹ là môn đệ “gương mẫu” nhất của Đức Giêsu. Tuy thế, Mẹ cũng đã phải vất vả, khổ đau trên con đường theo Đức Giêsu. Vì thế mà Mẹ có đủ khả năng, kinh nghiệm hướng dẫn, chỉ bảo chúng ta nếu chúng ta muốn bước theo Mẹ trên con đường theo Chúa! Chúng ta hãy chạy đến với Mẹ để học cùng Mẹ!
Hơn nữa Thiên Chúa đã có ý đặt Đức Mẹ bên cạnh Chúa Giêsu và giữa Chúa Giêsu và chúng ta. Nếu nhờ có Chúa Giêsu mà Thiên Chúa trở nên gần gũi với con người hơn, thì cũng nhờ có Đức Mẹ mà chúng ta mạnh dạn và tin tưởng hơn khi dâng lời khẩn nguyện và tạ ơn lên Thiên Chúa.
NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha, chúng con cảm tạ Cha đã ban Con Một Cha cho chúng con. Chúng con cũng cảm tạ Cha vì Cha đã chọn cho Con Một Cha một người Mẹ tuyệt vời là Đức Ma-ri-a. Cha đã đổ tràn ân sủng của Cha trên người Nữ Tỳ đặc biệt này. Chúng con xin ngợi khen và chúc tụng Tình Thương và Quyền Năng của Cha!
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sinh ra từ một người mẹ, đã lớn lên và trưởng thành bên cạnh Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se, đã lên đường rao giảng Nước Trời với sự cộng tác của Mẹ, đã trao Mẹ cho thánh Gio-an trước giờ tắt thở. Chúng con cảm tạ và ngợi khen Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng đã xuống tràn đầy trên các Tông Đồ và Đức Ma-ri-a, để khai sinh Hội Thánh là Cộng đoàn của Chúa Kitô Phục Sinh. Xin Chúa xuống trên tất cả chúng con, để chúng con nhận được ánh sáng, bình an và sức mạnh cần thiết cho cuộc lữ hành của chúng con.
51. Lời kinh của mỗi cá nhân.
Sáng hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với cá nhân mỗi người chúng ta.
Trước hết tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể. Năm 1507, ông Valentinô bị một bọn cướp bắt cóc để tống tiền. Chúng đã xiềng chân và khóa tay ông, rồi giam ông trong một ngọn tháp cao, tối tăm, bẩn thỉu và hôi hám. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, ông và gia đình vẫn tin tưởng và lần hạt kính Đức Mẹ. Rồi một lần kia, khi đã cầu nguyện xong, ông vô cùng bỡ ngỡ vì bỗng thấy xiềng xích đều mở ra. Tay chân được thong dong, ông bắt đầu lần mò trong bóng tối, gõ khắp lượt vào tường tháp, đến một chỗ ông nghe bục bục và ọp ẹp. Ông đẩy mạnh và viên đá nhúc nhích. Ông vội cậy viên đá để tìm lối thoát thân và thế là ông chạy trốn được bình an vô sự. Phải chăng Đức Mẹ đã cứu chữa ông và ban xuống cho gia đình ông niềm an ủi.
Kinh Mân côi không phải chỉ cứu chữa phần xác, mà nhất là nó còn cứu chữa phần hồn. Hélène là một nàng kỹ nữ đã làm cho bao nhiêu người say đắm. Ngày kia nàng theo chị em bạn vào trong một nhà thờ, gặp lúc vị linh mục đang giảng về kinh Mân côi. Về nhà, nàng mua một cỗ tràng hạt, và thỉnh thoảng cũng lần trộm vì sợ thiên hạ trông thấy và chê cười. Ít lâu sau, nàng được Đức Mẹ ban ơn sốt sắng khi lần hạt. Rồi từ đó, nàng ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời, quyết tâm dâng mình cho Đức Mẹ, sống một cuộc sống nghèo khó và nhân đức.
Có một thiếu phụ khác, thuộc gia đình quí phái, chẳng may bị bệnh nặng và đang trong cơn hấp hối. Đức cha Dupanloup được mời đến viếng thăm. Ngài nhận thấy bệnh nhân rất bình thản khi hỏi: Thưa Đức cha, liệu con có được lên trời hay không? Cha hy vọng là có. Bệnh nhân đáp lại: Còn con, con tin đó là một điều chắc chắn. Sao con có thể tin chắc chắn như thế? Thưa Đức cha, từ nhỏ cho đến nay, mỗi ngày nhiều lần con đã kêu xin Mẹ giúp con trong giờ lâm tử, lẽ nào Mẹ lại bỏ rơi con.
Qua những chứng tích sống động ấy, chúng ta nhận thấy kinh Mân côi đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều cả về phần hồn lẫn phần xác. Bởi đó từ xưa cho đến nay, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc với người tín hữu.
Tuy nhiên, chúng ta phải lần hạt như thế nào để việc đạo đức này thực sự đem lại những lợi ích cho bản thân chúng ta? Tôi xin thưa vừa đọc, chúng ta vừa phải suy gẫm về những mầu nhiệm kinh Mân côi đã gợi lên cho chúng ta, và nhất là chúng ta phải sống tinh thần kinh Mân côi, thực hiện những nhân đức mà chúng ta van xin ở mỗi ngắm. Có như thế, kinh Mân côi mới trở nên là như hơi thở của tâm hồn, cũng như trở nên là như những cánh hồng tươi xinh dâng kính Mẹ, để Mẹ ban xuống cho bản thân chúng ta những ơn lành hồn xác.
52. Vị Thánh Của Kinh Mân Côi.
Đaminh, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời năm 1170 bên Tây Ban Nha trong một gia đình quý tộc, nhưng ngay từ nhỏ, Đaminh đã tập quen sống hãm mình. Ngoài ra, Đaminh có tính khẳng khái, thích làm việc có hệ thống và chú ý đến việc trau dồi kiến thức.
Khi làm linh mục, rồi kinh sĩ, Đaminh nổi bật về lòng ngay thẳng, hăng hái và tinh thần hy sinh. Ngài cảm thấy như được Chúa gọi đi để loan báo Tin Mừng cho các bộ lạc bên nước Nga, nhưng Đức Innocentê thứ 3 lại cử ngài đến hoạt động tại Toulouse bên Pháp, nơi những làn sóng lạc giáo đang làm lung niềm tin của nhiều người.
Đaminh xác tín rằng: Lời giảng dạy phải đi đôi với cuộc sống. Vì thế, ngài đã lập một hội dòng, quy tụ các tu sĩ sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm để có thể rao giảng, không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống của mình. Chính Đaminh đã là người đầu tiên làm gương về nếp sống ấy bằng cách đi chân không, ngủ dưới đất, ăn chay và sống bằng của bố thí.
Vào năm 1216, Đức Hônôriô thứ 3 đã phên chuẩn dòng do cha Đaminh sámg lập mang tên "Dòng anh em giảng thuyết" thưo quy luật của thánh Augustinô, tức là dòng Đaminh ngày nay. Thiên Chúa chỉ dành cho cha Đaminh 5 năm vắn vỏi để chu toàn sứ mệnh của người gieo giống. Suốt thời gian này ngài đã rảo qua các nước Pháp, Italia và Tây Ban Nha để rao giảng và đã đưa nhiều người ly giáo trở về với Giáo Hội.
Trong suốt cuộc sống, Đaminh đã nêu cao gương hy sinh và cầu nguyện. Ngoài ra, ngài còn truyền bá lòng sùng kính Đức Maria và kinh Mân Côi, vì thế, ngài đã thành lập một dòng nữ để giúp chị em sống theo tinh thần này.
Cha Đaminh qua đời tại Bologna bên Italia ngày 06/8/1221 và chỉ 13 năm sau, vào năm 1234, Đức Gregoriô thứ 9 tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.
Có một câu chuyện thuật lại giấc mơ của thánh Đaminh: Ngài thấy thế gian sắp bị án công thẳng của Thiên Chúa luận phạt, nhưng được cứu thoát nhờ lời cầu bàu của Đức Maria. Đức Mẹ chỉ cho Chúa Giêsu hai hình ảnh: một hình ảnh là chính Đaminh và hình ảnh kia là một người ăn mày quần áo rách tả tơi.
Ngày hôm sau, trong lúc cầu nguyện trong nhà thờ, Đaminh thấy người ăn mày trong mộng xuất hiện, tiến đến gần, ôm chầm Đaminh và nói: "Anh là người đồng hành với tôi. Nếu chúng ta cùng sánh vai tiến bước, thì không quyền lực nào có thể thắng chúng ta". Nhìn kỹ, Đaminh nhận ra người ăn mày đó chính là Phanxicô thành Assisi.
Cuộc gặp gỡ này của hai vị sáng lập dòng vẫn được các tu sĩ Đaminh và Phanxicô mừng mỗi năm. Vào ngày lễ kính hai thánh nhân, họ cùng nhau dâng Thánh Lễ và sau đó ngồi vào bàn để chia sẻ với nhau những tấm bánh và những lý tưởng đã làm cho Giáo Hội trở nên phong phú trong việc sống theo tinh thần Phúc Âm trải qua 7 thế kỷ nay.
Lý tưởng mà dòng Đaminh cũng như của các dòng khác không phải chỉ để chúng ta kính phục, nhưng cũng là để chúng ta noi gương. Các tu sĩ là những người tự nguyện sống trọn những lời khuyên của Phúc Âm qua ba lời khấn: khó nghèo, thanh tinh, vâng lời. Đó cũng là ba nhân đức mà mỗi người Kitô cũng phải thực hành tùy sức, tùy hoàn cảnh và địa vị của mình.
53. Kinh Mân Côi.
Vào thế kỷ mười ba, bè rối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp, gây nhiều thiệt hại cho Giáo hội. Và theo truyền thuyết, chính Đức Mẹ đã hiện ra và truyền dạy thánh Đa Minh phép lần lật Mân côi, như là một phương thế tuyệt điêu để cảm hóa bè rối. Và sự thật đã xảy ra đúng như thế. Chỉ sau một thời gian ngắn quảng bá việc lần chuỗi Mân côi, thánh Đa Minh đã dẫn đưa được 150.000 người theo bè rối trởvề cùng Giáo hội. Và đó chính là nguồn gốc của kinh Mân Côi.
Tiếp đến, vào thế kỷ mười sáu, vua Thổ Nhĩ Kỳ đảm đạo quân Hồi giáo của mình xâm chiếm Âu Châu. Sau khi lấy được đảo Chypre và Creta, ông ngang nhiên tuyên bố sẽ cho ngựa ăn cỏ trong đền thờ thánh Phêrô. Trước sự tấn công như vũ bão, cũng như trước áp lực nặng nề ấy, các nước Âu châu đã phải liên kết với nhau. Đồng thời, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho mọi người phải ăn chay, cầu nguyện và nhất là lần chuỗi Mân côi. Sau cùng, đạo quân Công giáo đã dành được chiến thắng tại vịnh Lépante. Để cám ơn Đức Mẹ và để kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh Cha Piô V đã thiết lập lễ kính Mẹ Mân Côi hôm nay. Và đó chính là nguồn gốc của lễ Mẹ Mân Côi.
Rồi từ đó cho đến bây giờ, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc của người Công giáo. Vậy tại sao chúng ta lại ưa thích kinh Mân côi? Phải chăng vì cỗ tràng hạt vừa nho nhỏ lại vừa xinh xắn? Phải chăng vì kinh Kính mừng là một lời kinh vùa dễ đọc, lại vừa dễ thuộc, để rồi chúng ta có thể lần chuỗi ở mọi nơi và trong mọi lúc? Phải chăng vì tình cảm của chúng ta thường dễ hướng tới người mẹ? Phải chăng qua dòng thời gian, Mẹ đã nhiều lần hiện ra khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần hạt và hứa ban nhiều ơn lành qua việc đạo đức ấy?
Tất cả những lý do trên đều đúng nhưng còn mang nặng tính chất tình cảm. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa sâu xa và nội dung phong phú của kinh Mân Côi, khiến chúng ta càng yêu thích việc lần hạt nhiều hơn nữa.
Thực vậy, là một sáng kiến đạo đức được Mẹ đưa ra, nên chuỗi Mân côi có một hình thức thật đơn sơ: một trăm năm mươi kinh Kính mừng, mười lăm kinh Lạy Cha và mười lăm sự việc được xoay quanh mười lăm đề tài suy gẫm cụ thế và dễ hiểu.
Tuy hình thức đơn sơ, nhưng chuỗi Mân côi lại có được một nội dung phong phú. Thực vậy, kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng là những kinh cao trọng nhất xuất phát từ Tin mừng. Còn những mầu nhiệm suy gẫm là những biến cố được rút tỉa từ cuộc đời của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Chính vì thế, chúng ta có thể gọi kinh Mân côi là một cuốn Phúc âm được rút ngắn của người tín hữu.
Vậy chuỗi Mân côi đem lại những hậu quả nào?
Cha Lacordaire nói:
- Con đường bảo đảm nhất để về trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà luôn có cỗ tràng hạt trong tay.
Chính Mẹ, khi hiện ra tại Phatima, cũng đã nói:
- Phanxicô sẽ được lên thiên đàng, nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Nếu chúng ta đọc và sống kinh Mân côi, thì kinh Mân côi sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi của chúng ta. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, kinh Mân côi còn đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ, nhất là trong những giờ phút chúng ta gặp phải khổ đau và buồn phiền.
Có một anh lính trở về từ thế giới ngục tù đã cho biết như sau: Chính chuỗi Mân côi đã giúp anh ta cầu nguyện và thánh hóa những khổ đau trong những tháng ngày đen tối ấy.
Rồi anh ta kể tiếp:
- Khi bị thương và nằm lại trên chiến trường, tôi đã lần hạt. Liền sau đó hai người bạn bên cạnh cũng muốn lần theo. Thế là tôi dứt cỗ tràng hạt làm ba mẩu, mỗi người một mẫu để cùng nhau lần chuỗi. Và mẫu chuỗi ấy, tôi vẫn còn lần nó cho đến bây giờ. Nó mãi mãi sẽ là một kỷ vật thân thương nhất trong cuộc đời của tôi.
Hãy dâng lên Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, đó là những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.
54. “Kết nối” với Chúa Giêsu qua Đức Mẹ -- Lm Vũ Xuân Hạnh
“KẾT NỐI” VỚI CHÚA
1. Đôi dòng lịch sử hình thành kinh Mân côi.
Kinh mân côi nguyên tiếng Latinh là Rosarium, tiếng Anh, tiếng Pháp là Rose, nghĩa là hoa hồng. Ý muốn nói rằng, những kinh Kính mừng mà chúng ta đọc và suy gẫm kết thành chuỗi Hoa Hồng thiêng dâng kính Đức Mẹ.
Xưa kia, khi tràn chuỗi chưa ra đời, người ta đếm kinh bằng hạt sỏi, dần dần người ta kết những hạt khác thành chuỗi Mân côi gọi là Rosary.
Trong Hội Thánh, có thói quen cầu nguyện bằng Thánh vịnh, nhưng đối với đại đa số người, 150 Thánh vịnh dài quá không thể đọc được. Từ thế kỷ XII, người ta thay thế bằng việc đọc 150 kinh Lạy Cha. Dần dần người ta đọc 150 kinh Kính Mừng thay 150 kinh Lạy Cha. Do đó Thánh Đaminh gọi là “Thánh vịnh Đức Mẹ”.
Ban đầu, kinh Kính mừng chỉ có lời chào của thiên thần Gabriel: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Thiên Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28). Sau đó, người ta thêm lời chào của bà Elizabeth: “Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ. Và Con lòng Bà gồm phúc lạ” (Lc 1, 42). Cũng trong thế kỷ XII, Đức Mẹ hiện ra trao tràng hạt Mân côi cho Thánh Đaminh và dạy thánh nhân phổ biến tràn hạt này, như là phương thế cầu nguyện để cải hoá bè rối Albigensê đang tung hoành ở phía nam nước Pháp. Sang thế kỷ XIII, Đức Urbanô IV thêm vào lời chào của bà Elizabeth Thánh Danh “Giêsu”. Từ đó, chúng ta đọc là “…Và Giêsu Con lòng Bà…”.
Thời đó, người ta đọc 150 kinh Kính mừng cùng với 150 kinh Lạy Cha, nghĩa là mỗi kinh Kính mừng một kinh Lạy Cha. Đến thế kỷ XIV, thầy Henry Kalkar (1328-1408), dòng Carthusian do Thánh Brunô sáng lập, chia 150 kinh Kính mừng thành từng chục 10 kinh, đầu mỗi chục kinh là một kinh Lạy Cha.
Thế kỷ XV, Cha Đaminh Prussia (1384-1460) cũng dòng Carthusian chia 150 Kinh Kính mừng thành 3 chỗi 50. Cũng trong thế kỷ này, Chân phước Alanô de la Roche thêm phần suy niệm các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng trong khi lần chuỗi. Từ nay tràng kinh Mân côi gọi là “Vòng hoa hồng”.
Chân phước Alanô nhiệt thành phổ biến kinh Mân côi mà Đức Mẹ đã truyền cho Thánh Đaminh. Ngài cũng thành lập Hội Mân côi năm 1480 và được Đức Mẹ hứa ban 15 ơn cho những ai trung thành đọc kinh Mân côi.
Năm 1521, linh mục Albertô da Castello, sửa lại: trước mỗi kinh Lạy Cha và chục kinh Kính mừng được kết vào một mầu nhiệm. Năm 1569, Đức Thánh Cha Piô V cho thêm phần thứ hai của kinh Kính mừng: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời...” và kinh Sáng danh ở cuối mỗi chục.
Tháng 10.2002, thánh Gioan Phaolô II mở năm kinh Mân côi và thêm vào chuỗi Mân côi truyền thống năm mươi kinh Kính mừng đi liền với năm mầu nhiệm về cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, gọi là năm mầu nhiệm sự Sáng.
Với việc thêm này, chuỗi Mân côi từ nay có đến 200 kinh Kính mừng. Kể từ đó, kinh Mân côi có hình thức như chúng ta đọc ngày nay.
2. “Kết nối” với Chúa Giêsu qua Đức Mẹ.
Chuỗi Mân côi, chuỗi hoa hồng. Người tín hữu đọc kinh Mân côi với ý nghĩa là từng lời kinh mà họ đọc được ví như từng đóa hoa hồng dâng lên Đức Mẹ, và kết hợp với Đức Mẹ, dâng lên Chúa Giêsu.
Vì thế, mỗi khi lần chuỗi, người tín hữu kết thành tràng hoa hồng thánh thiện, dâng tấm lòng, dâng tình mến, dâng tâm hồn, dâng quyết tâm sống đẹp lòng Chúa như Đức Mẹ. Do đó, khi lần chuỗi, là người tín hữu ấp ủ hoa hồng thiêng liêng, hoa hồng mầu nhiệm của lòng mình kính dâng Đức Mẹ và hợp với Đức Mẹ mà tôn thờ Chúa.
Đặc biệt, dù kinh Mân côi là lời kinh mà người tín hữu dùng để cầu nguyện, và tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ, thì cũng là lời kinh mà chính Đức Mẹ cũng dùng để cầu nguyện. Bởi thật lạ lùng, trong những lần hiện ra ở Lộ Đức hay ở Phatima, người ta đều nhìn thấy Đức Mẹ cầm tràn chuỗi và lần chuỗi. Đức Mẹ cùng cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi với con cái của mình.
Đọc những kinh Kính mừng, vì là lời kinh trực tiếp hướng lên Đức Mẹ, do đó, cũng là lời kinh cho ta được kết nối với Đức Mẹ.
Nhưng quan trọng hơn, khi đọc kinh Mân côi, ta lại được cùng Đức Mẹ kết nối với Chúa Kitô. Điều đó được thấy rõ qua hai bằng chứng:
- Trong kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ”, nghĩa là kết nối với Đức Mẹ để được nối kết với Con của Người. Qua Đức Mẹ đến với Chúa Giêsu.
- Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân côi: mùa Vui, mùa Sáng, mùa Thương, mùa Mừng. Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Chúa Giêsu xuống thế làm người sống cho mọi người; Sáng trong mầu nhiệm Chúa Giêsu công khai loan báo Tin Mừng, công bố ơn tha tội và ban Nước Trời cho mọi người tin; Thương trong mầu nhiệm Tử nạn, Chúa Giêsu chịu chết, chuộc tội cho cả nhân loại; Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh, Đức Giêsu bước vào vinh quang mang ơn cứu độ đời đời cho mọi người.
Kết nối với Chúa Giêsu là kết nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu sự kết nối này, kết nối với Đức Maria sẽ còn lỏng lẻo, chưa lên đến đỉnh điểm, chưa mang lại sức sống cứu độ. Bởi Chỉ có Chúa Kitô, mới là Đấng Cứu Độ duy nhất của chúng ta. Vì thế, chỉ có kết nối với Người, ta mới đạt tới sự thánh thiện hoàn hảo. Đức Maria chỉ là con đường dẫn ta đến cùng Chúa Kitô.
Trên đường trọn lành của ta có Đức Mẹ cùng đồng hành, đó là điều quý giá vô cùng. Để Đức Mẹ hướng dẫn, giáo dụ, đó chắc chắn là điều Chúa Giêsu muốn. Bởi Chúa ban cho Đức Mẹ được mẹ chúng ta, và chúng ta được làm con của Đức Mẹ, tất cả đều không ngoài mục đích: Chúa dạy chúng ta, muốn đi về vĩnh cửu, hãy học gương thánh thiện của Đức Mẹ, hãy để Đức Mẹ đồng hành, hãy “nối kết” liên lỉ với Chúa cùng Đức Mẹ và như Đức Mẹ.
Bằng tràng chuỗi Mân côi, chúng ta, con của Đức Mẹ, sẽ sống trong phúc lành của Chúa. Bởi Chúa đã yêu Đức Mẹ, thì chúng ta, những môn đệ của Chúa, chắc chắn cũng sẽ được Chúa tỏ lòng mến thương không kém.
55. Suy niệm của Lm Nguyễn Quang Duy.
CHUỖI MAI KHÔI TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH
1. Tâm điểm của Phụng Vụ hôm nay
Hôm nay là ngày Hội Thánh Việt Nam long trọng mừng Lễ Đức Mẹ Mai Khôi. Ý Hội Thánh mừng lễ được gợi lên trong ba bài đọc. Lướt qua một lần đọc, ta đã thấy nổi bật lên hình ảnh Chúa Giêsu.
Bài đọc 1 viết về hoàn cảnh khai sinh Hội Thánh: Chúa Giêsu về trời, dặn dò kỹ lưỡng các Tông Đồ và Môn Đệ phải ở lại Giê-ru-sa-lem đợi chờ Thánh Thần được ban xuống. Cộng đoàn tiên khởi đang sốt sắng cầu nguyện cùng với Đức Ma-ri-a. “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với Bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu”. (Cv 1, 14)
Qua bài đọc 2, Thánh Phaolô kể về Ơn Cứu Độ được ban xuống, ơn làm con cái Chúa được xác định qua việc Thiên Chúa chọn một người phụ nữ sinh hạ Đấng Cứu Độ, cách nào đó ta có thể hiểu Thiên Chúa mở cửa Trời bước xuống cứu độ trần gian. Cửa đó là Đức Ma-ri-a. “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4, 4–5).
Bài Tin Mừng lộ rõ thái độ Thiên Chúa chúc phúc cho người Nữ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng cứu độ, một cách quá đại độ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn sủng, Chúa ở cùng Bà” (Lc 1, 28); “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà...” (Lc 1, 35), nhưng cũng rất tôn trọng. Và cuối cùng, người phụ nữ ấy là Đức Ma-ri-a đã hoàn toàn vâng phục ý Chúa, không phải vì bị bắt buộc mà Mẹ tự do ưng thuận, vì Mẹ quá kính trọng Chúa, buông mình trong tay Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói (Lc 1, 38).
Như vậy ta có thể đi đến ý tưởng này là Phụng Vụ hôm nay mừng Đấng Cứu độ chúng ta, trong chương trình yêu thương của Chúa Cha hiệp với Chúa Thánh Thần, đã tuyển chọn Đức Ma-ri-a để làm mẹ Người. Vì thế Hội Thánh hướng lòng chúng ta ngưỡng mộ Đức Ma-ri-a, để cám ơn Thiên Chúa, và nhắc nhở cho chúng ta con đường đón nhận ơn Cứu độ hữu hiệu.
2. Lễ Đức Mẹ Mai Khôi.
Giữa muôn loài hoa khoe sắc của Vườn Hoa Thiên Chúa, nổi bật Hoa Hồng Mai Khôi chính là Mẹ Ma-ri-a. Bước vào vườn hoa, khách tham quan cứ xúm xít tắc lưỡi trầm trồ bên hoa khôi, Chủ Vườn chúm chím cười! Trong lịch sử Hội Thánh, việc lần chuỗi Mai Khôi cũng tương tợ: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Chúa đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh chí tôn!”
Điệp khúc vui mừng kính chào Mẹ của tín hữu là tràng chuỗi Mai Khôi. Suốt dòng truyền thống, lời chào của thiên thần và lời chào của bà Ê-li-sa-bét đã được kéo dài và lặp đi lặp lại nơi miệng tín hữu, như lời ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Rồi từ đó chuỗi Mai Khôi hình thành, được cổ võ và truyền bá, từ thế kỷ 15. Khi Kitô giáo bị lâm nguy, Lòng Tin bình dân gán cho Kinh Mai Khôi sức mạnh giải thoát nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ. Nên trong lúc có xung đột giữa Hồi Giáo và Kitô giáo, thì việc lần chuỗi Mai Khôi càng được thực hành sốt sắng để xin Mẹ Ma-ri-a cầu bầu cho chấm dứt chiến tranh. Và để kỷ niệm chiến thắng của hạm đội Thánh Giá trên quân Thổ-nhĩ-kỳ ở vịnh Lepanto ngày 7.10.1971, lễ Đức Mẹ Mai Khôi được thiết lập do Đức Giáo Hoàng Pi-ô 5 năm 1572 bởi Sắc Chỉ Salvatoris Domini. Lễ này sau Công Đồng vẫn còn giữ cho đến nay.
3. Kinh Mai Khôi, bản toát yếu sách Tin Mừng
Kinh Mai Khôi dẫn đưa chúng ta đến việc chiêm niệm Mầu Nhiệm Cứu Độ trong đó Mẹ Ma-ri-a đã gắn bó chặt chẽ với công trình của Chúa. Như ta biết, trung tâm chiêm ngắm của Chuỗi Mai Khôi là Chúa Giêsu, dầu chúng ta lặp đi lặp lại những lời nói cùng Mẹ... thì cũng như Mẹ, những kỷ niệm về Con Mẹ làm thành chuỗi suy niệm liên tục trong đời Mẹ. Nhưng việc nhắc đến Danh Giêsu cũng liên tục trong lời kinh trở thành trọng tâm cho việc chiêm niệm. Khẩn cầu với danh thánh Giêsu là đường lối cầu nguyện đơn sơ nhất và phổ biến nhất có thể xử dụng ở mọi nơi mọi lúc.
Giáo Hội Đông Phương cũng như Tây Phương xuyên suốt lịch sử hằng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi”. Tên gọi ấy chứa đựng cả Thiên Chúa, cùng với tất cả chương trình tạo dựng, cứu độ của Thiên Chúa. “Kinh Mai Khôi thuộc về truyền thống tốt đẹp và đáng ca ngợi nhất của chiêm ngưỡng Kitô giáo. Được phát triển bên Tây Phương, đó là một hình thức cầu nguyện suy tư điển hình, tương ứng cách nào đó với lời kinh của con tim hay lời kinh kêu tên Chúa Giêsu của tín hữu. Đức Phaolô 6 trong Tông Huấn Recurrens Mensis October đã viết: “Chuỗi Mai Khôi hầu như là một bản tóm lược Phúc Âm và là hình thức đạo đức của Hội Thánh”.
4. Thông hiệp với Đức Ma-ri-a chiêm ngắm Đấng Cứu Độ
Mẹ Ma-ri-a không ngừng đặt chúng ta trước các Mầu Nhiệm của Con Mẹ và dạy chúng ta chiêm ngưỡng bằng tâm trí của Mẹ. Không ai biết Đức Kitô bằng Mẹ Ma-ri-a. Chiêm ngưỡng các mầu nhiệm trong sự thông hiệp với Mẹ là cách thế học hỏi từ Ngài để hiểu Đức Kitô. Khi chiêm ngưỡng mỗi mầu nhiệm, Mẹ mời gọi chúng ta hành động như Mẹ: “Xin vâng” (Fiat). Lý do ta cần suy niệm ơn cứu độ hiệp thông với Mẹ, là vì mục đích đời sống theo Chúa là muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa.
Việc này đòi hỏi ta phải luôn chiêm ngắm Chúa Giêsu, mà tốt hơn hết là ta chiêm ngắm Chúa Giêsu, như Mẹ Ma-ri-a suốt đời chiêm ngắm Con mình. Những lời nói việc làm của Chúa đã làm cho Mẹ giữ lấy và suy đi gẫm lại trong một tiến trình của Đức Tin, nên ta không lấy đâu làm mẫu mực đời sống Đức Tin cho bằng chọn Mẹ Ma-ri-a. Trong đời sống chiêm ngắm việc Cứu Độ, Mẹ cũng luôn vui mừng khiêm tốn mà chúc tụng ngợi khen Chúa vì những kỳ công người đã làm cho Mẹ và qua Mẹ, cho nhân loại. Có tâm tình nào bằng tâm tình Magnificat và Fiat của Mẹ.
Ngày qua ngày trong cuộc đời tại thế này, ta chiêm ngắm Chúa cùng với Mẹ, nhìn Chúa bằng con tim của Mẹ, và nhìn Mẹ, yêu mến Mẹ để ngày càng trở nên giống Mẹ. Giống Mẹ về đời sống vâng phục Đức Tin, giống Mẹ về tinh sạch trong lòng, giống Mẹ về sự gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu, giống Mẹ hằng là con thảo của Chúa Cha, giống Mẹ luôn ngoan ngùy với Chúa Thánh Thần.
Nói tắt một lời, đến cùng Mẹ chiêm ngắm Mẹ là ta được ngâp lặn trong sự hiệp thông với Chúa Ba ngôi, là bước chân vào Thiên Đàng; vì thế cho nên ai đọc và suy niệm kinh Mai Khôi thường cảm thấy sự an vui của tâm hồn, vì từ đó Đức Tin mình luôn đuợc toi luyện nhờ hình ảnh của Chúa mình chiêm ngắm. Có Chúa ở cùng như Mẹ thật là có phúc, có Chúa là có quyền năng của Chúa, làm gì ta còn sợ hãi bị bắt nạt bởi quyền lực sự dữ, từ bây giờ và cho đến sinh thì.
Lần chuỗi Mai Khôi, ta đi từ hột này sang hột khác thành một tràng. Trường đời là cả một tràng chuỗi biến cố và sự việc tiếp nối liên tục, cần có Mẹ cùng đi, cần có Mẹ nâng đỡ tiếp sức. Đối với ơn cứu độ Chúa đã thương ban dư tràn nơi Đức Giêsu Kitô, cũng từng bước từng bước suốt cuộc đời ta theo gương Mẹ mà đón nhận.
5. Thực hành trong Năm Mai Khôi
Việc đọc kinh Mai Khôi được Đức Giáo Hoàng đương kim xác nhận là việc đạo đức xuyên suốt cuộc đời của ngài. Và cho tới giờ này, trong địa vị Giáo Hoàng, ngài vẫn là Totus tuus: Tất cả cho Mẹ. Trong dịp mừng Ngân Khánh Giáo Hoàng, ngài đã ra một Tông Thư nói về Kinh Mai Khôi, trình bày một cách chi li, và đầy xác tín về công việc đạo đức này và Ngài kêu gọi toàn thể Giáo Hội hãy yêu thích đọc kinh Mai Khôi, ngài còn đề nghị cả một năm từ 7.10.2202 đến 7.10.2003 là một Năm Mai Khôi, để cám ơn Chúa với Ngài và Ngài lưu ý chúng ta quan tâm hai ý cầu nguyện xét thấy là cần thiết hàng đầu, đó là cầu nguyện cho thế giới hòa bình và cầu nguyện cho các gia đình. Quả vậy, bước sang thiên niên kỷ thứ 3, đã xảy ra nhiều cuộc chiến đe dọa toàn cầu. Cũng thế, hiện nay gia đình bị xói mòn bởi khủng hoảng của xã hội, làm cho căn bản gia đình đang bị lung lay.
Còn ít ngày nữa thôi là hết Năm Mai Khôi mà Đức Thánh Cha mời gọi. Không biết suốt 11 tháng qua chúng ta có rục rịch gì cho lời mời gọi này không. Vậy hôm nay mừng Lễ Mẹ Mai Khôi, tôi gợi lại ý thức của mọi ngưỡi về hiệp thông Hội Thánh và vâng phục ý Cha chung, để toàn thể tín hữu rập một tiếng đồng thanh kêu khấn trước tòa Chúa cùng với Mẹ và nhờ Me, cho hòa bình thế giới, cho gia đình sống theo ý định Thiên Chúa từ đầu tạo dựng, mà Đức Giêsu đã dùng ân sủng Cứu Độ của Người để phục hồi.
Gia đình ngày nay coi như qúa bận rộn với nhiều công việc, cha mẹ con cái khó có thời gian đoàn tụ. Có lẻ chỉ có giờ đoàn tụ được là chiều tối ngồi trước Tivi. Và lúc đó mọi người trong gia đình như chỉ đối thoại hay tiếp xúc với những gì xuất hiện trên màn hình. Chớ gì trong thời gian ấy, gia đình tắt Tivi khoảnh khắc, ngồi chung trước bàn thờ, lần hạt chung với nhau y như coi Tivi, nhưng ở đây mọi người sẽ nhìn xem thấy Chúa, với những kỳ công của Người đối với Mẹ và đối với nhân loại.
Và tôi xin kết thúc bằng lời của Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô 2: “Gia đình mà đọc chung Kinh Mai Khôi tạo nên được điều gì đó của bầu khí gia đình Na-da-rét: các thành viên gia đình đặt Đức Giêsu ở trung tâm, họ chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của Người, họ đặt những nhu cầu và dự tính của họ trong tay Người, họ kín múc từ Người niềm hy vọng và sức mạnh để tiến bước”.
02/10 Thiên thần bảo trợ
- Viết bởi Mt 18, 1-5. 10
Thiên thần bảo trợ.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 26 thường niên. – Các thiên thần hộ thủ. Lễ nhớ.
"Các thiên thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời".
* Các thiên thần được ơn gọi trước hết là để chiêm ngưỡng ánh huy hoàng của thánh nhan Thiên Chúa và không ngừng ca hát ngợi khen Người. Nhưng theo Kinh Thánh, Chúa cũng trao cho các thiên thần sứ mạng hiện diện bên cạnh con người để giúp đỡ con người. Ngày lễ kính các thiên thần bản mệnh nhắc cho ta nhớ lại điều đó.
LỜI CHÚA: Mt 18, 1-5. 10
Khi ấy, các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời.
Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Kẻ bé mọn trong cộng đoàn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay vừa nói đến trẻ nhỏ,
vừa nói đến những kẻ bé mọn trong cộng đoàn.
Ai là những kẻ bé mọn trong cộng đoàn ?
Đó là những người tin vào Đức Giêsu (Mt 18, 6),
nhưng đức tin của họ còn non yếu, mong manh.
Đức Giêsu đã nặng lời với ai làm cho một kẻ bé mọn sa ngã.
“Thà cột cối đá lớn vào cổ và ném nó dưới biển còn hơn.”
Rõ ràng Đức Giêsu quý những kẻ bé mọn trong cộng đoàn.
Ngài không muốn họ bị tổn thương vì gương mù gương xấu.
Câu cuối của bài Tin Mừng là một lời nhắc nhở nữa.
“Anh em chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này” (c. 10).
Lý do Đức Giêsu đưa ra khá đặc biệt:
“Vì các thiên thần của họ ở trên trời
không ngừng thấy khuôn mặt của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”
Như thế ngay cả những người bé mọn cũng có thiên thần riêng.
Người bé mọn có thể lầm lạc, sa ngã,
nhưng không vì thế mà họ bị coi thường hay khinh miệt.
Thiên thần của họ vẫn ở gần Thiên Chúa để chuyển cầu cho họ.
Thật thú vị khi người Kitô hữu tin mình có một thiên thần hộ thủ.
Thánh Basiliô viết: “Mỗi tín hữu đều có một thiên thần hộ thủ,
để bảo trợ và hướng dẫn đến sự sống đời đời.”
Vị thiên thần này vừa được phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa,
vừa đồng hành suốt đời với từng người cho đến nơi quê thật.
Thiên thần hộ thủ là một quà tặng của lòng nhân hậu Chúa.
Là sứ giả được Chúa sai,
thiên thần là sự hiện diện của Chúa với từng người chúng ta.
Thiên thần đã bảo vệ ông Lót (St 19),
đã cứu Agar và con của bà (St 21, 17),
đã giữ tay Abraham không cho cụ giết con (St 22, 11).
Một vị thiên thần ban đêm đã cứu Phêrô khỏi tù ngục (Cv 12, 15).
Như thế thiên thần là bạn đường bảo vệ chúng ta khỏi sự dữ.
Khi sống trong một bầu khí vắng bóng Thiên Chúa,
con người khó tin vào những thực tại vô hình.
Các thiên thần có khi chỉ là những hình trang trí nơi hang đá,
hay những bức tượng thạch cao đặt hai bên bàn thờ.
Chúng ta khó tin mình được trợ giúp bởi một thiên thần có thật,
và không dám tin mình đáng quý đến thế,
để Chúa ban cho mình một người hướng đạo và đỡ nâng.
Làm sao để chúng ta ra khỏi sự cô quạnh của chính mình,
khi chấp nhận niềm tin vào thiên thần hộ thủ?
Làm sao để ta cảm được hoạt động kín đáo của người trong đời ta?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, có những ngày con cảm thấy đời sống thật nặng nề ;
có những lúc con muốn buông trôi, để mặc cho dòng đời đưa đẩy;
có những khoảng thời gian dài, con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu, con thấy mình cần Chúa trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con cũng gặp được sự hiện diện của Chúa.
Suy niệm 2: Người nhỏ nhất
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Phá kỷ lục là ước mơ của các vận động viên.
Làm sao phá kỷ lục của quốc gia, của vùng, của châu lục và thế giới?
Để phá kỷ lục cần có thành tích vượt hơn người đang giữ nó.
Chỉ cần chạy nhanh hơn một phần ngàn giây,
nhảy cao hơn hay xa hơn một centimét,
cũng đủ để làm một kỷ lục đứng vững nhiều năm bị phá đổ.
Nhưng không phải chỉ các vận động viên mới thích phá kỷ lục.
Các nước cũng tranh nhau xem ai là cường quốc về một lãnh vực nào đó.
Có vẻ cả nhân loại đều ở trong một cuộc đua tranh xem ai đứng đầu.
Có những cuộc đua tranh lành mạnh, thúc đẩy tiến bộ.
Nhưng cũng có những cuộc đua tranh dẫn đến chiến tranh và hủy diệt.
Các môn đệ vẫn loay hoay với một câu hỏi trong đầu:
“Trong các ông, ai là người lớn nhất ?” (c. 46).
Thầy Giêsu muốn dạy cho họ một bài học rất gợi hình,
nên đem một em nhỏ đến và trân trọng đặt em đứng bên cạnh (c. 47)
Thầy đồng hóa mình với em nhỏ yếu đuối và không có địa vị ấy:
ai tiếp đón em này là tiếp đón chính Thầy.
Thầy cũng cho biết, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Thiên Chúa (c. 48).
Như thế một em nhỏ bình thường
là con đường dẫn ta gặp gỡ Đức Giêsu,
và gặp gỡ chính Thiên Chúa siêu việt.
Để tiếp đón Thiên Chúa và Đức Kitô trong đời,
ta phải sẵn sàng tiếp đón những người yếu kém và nhỏ bé nhất trong xã hội.
Khi các môn đệ bị ám ảnh bởi chuyện làm lớn
thì Thầy Giêsu đem lại cho họ một em nhỏ,
và cho thấy sự cao trọng lớn lao của em trong cái nhìn của Thiên Chúa.
Câu trả lời của Thầy đã rõ: kẻ nhỏ nhất chính là người lớn nhất trong anh em.
Vượt ra khỏi sự tranh chấp trong nhóm,
bây giờ các môn đệ lại phải đối diện với một người trừ quỷ ở ngoài nhóm.
“Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng chúng con đi theo Thầy.”
Tại sao một người ở ngoài nhóm lại dám lấy danh Thầy mà trừ quỷ?
Lẽ ra việc dùng danh Thầy phải là độc quyền của chúng con.
Người ấy không được chiếm lấy sự thành công và tăm tiếng
mà chỉ những ai theo Thầy như chúng con mới được hưởng.
Các môn đệ đã có thái độ cục bộ và bè phái.
Họ cần cởi mở và khoan dung hơn với những người ngoài.
Danh Thầy Giêsu là quà tặng cho cả thế giới, chứ không cho riêng môn đệ.
Ai cũng có thể đến múc lấy sức mạnh từ Danh ấy và sẻ chia.
Thầy Giêsu mời các môn đệ bước ra khỏi sự hẹp hòi khép kín,
để vui vẻ kính trọng một người tuy không thuộc nhóm mình,
nhưng làm được những việc mà có khi mình không làm nổi (Lc 9, 40).
Danh Giêsu được tôn vinh: đó là điều chúng ta nhắm tới.
Chúng ta chỉ mong sức mạnh của Danh này làm thế giới được trừ quỷ.
Chỉ mong ai đó đang ở ngoài nhóm và đang trừ quỷ nhờ Danh Giêsu,
sẽ có ngày trở thành người môn đệ trong nhóm.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến,
và tin tưởng vào thiện chí của nhau.
Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen,
những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi.
Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý
ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,
xin cho chúng con được triển nở không ngừng
và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
Suy niệm 3: Thiên Thần Bản Mệnh là bạn thiêng liêng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa tình thương đã an bài cho mỗi người có một bạn thiêng liêng là Thiên Thần Bản Mệnh. Hãy tạ ơn Chúa bằng cách lắng nghe và gắn bó với bạn tốt đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong cuộc sống, con đã cảm nghiệm được những tình bạn cao quý: đó là những người chân thành, tốt bụng, trung thành. Khi con buồn vui, họ chia vui sẻ buồn với con. Đặc biệt những lúc con nản chí, họ là người động viên an ủi; những lúc con sai lỗi, họ là người thẳng thắn nhắc nhở sửa sai cho con. Tuy thế, vì là con người, những người bạn đó vẫn có lúc bó tay chẳng giúp được gì cho con.
Chúa đã thương ban cho mỗi người chúng con có một bạn thiêng liêng là Thiên Thần Bản Mệnh. Lòng các Ngài luôn tôn thờ Chúa nên luôn tốt với con người. Các ngài không bị thời gian không gian chi phối, nên các ngài luôn sáng suốt hướng dẫn đúng đắn cho con người. Các Ngài thay mặt Chúa mà an ủi khi con gặp thất bại. Các Ngài cộng tác với Chúa Thánh Thần mà soi sáng gợi ý cho con tìm ra Thánh Ý Chúa trong mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời con. Các Ngài dạy con biết sống theo đường ngay lẽ thật. Xin cho con biết vâng nghe sự hướng dẫn của Thiên Thần Bản Mệnh, bạn tốt thiêng liêng Chúa ban cho đời con.
Lạy Chúa, trên đời này chọn được người bạn tốt đã khó; chọn được người bạn tốt khôn ngoan sáng suốt còn khó hơn. Xin cho con biết trọng tình bạn thiêng liêng rất trung thành và khôn ngoan của Thiên Thần Bản Mệnh dành cho con.
Xin cho con khôn ngoan xa tránh những bạn bè xấu trên đời và biết gắn bó hơn với Thiên Thần Bản Mệnh của con. Amen.
Ghi nhớ: “Các thiên thần của họ trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời”.
Suy niệm 4: ,,,,,
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một vị linh mục kể lại một chứng từ: “Khi đó ngài làm cha sở ở một xứ đạo hẻo lánh miền quê bên Pháp, vào một đêm được tin một người đau nặng đang hấp hối, muốn xin ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với mình. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối...
Mười năm sau, ngài được người ta báo: Có người tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cứ một ai khuyên bảo. Nghe tin, ngài đã tới thăm vì lòng nhân từ mục tử. Vừa thấy ngài, người tử tù đã muốn phản ứng xua đuổi, không muốn gặp, nhưng khi nhìn trực diện ngài, bỗng anh ta ngừng lại và nói với ngài: “Có phải cha là cha sở họ X không?”. Ngài ngạc nhiên trả lời: “Trước đây 10 năm tôi làm cha sở ở đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác...
Thì ra cách đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người, đang lẩn trốn ở khu rừng mà tôi đi qua và hắn định bất cứ gặp thấy ai, hắn sẽ giết chết để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: “Lúc đó y muốn giết tôi, nhưng thấy bên cạnh có người thanh niên lực lưỡng, thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho tôi và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự”.
Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên và sực nhớ lại lúc đó tôi dừng lại để cầu nguyện xin Thiên Thần Bản Mệnh giúp đỡ. Như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên Thần Bản Mệnh của tôi, đã giữ gìn tôi”.
Suy niệm
Ngay trong Cựu ước, Thiên Chúa loan báo một gửi xuống đạo binh thiên sứ để giữ gìn loài người: “Này Ta sẽ sai Thiên thần Ta đi trước mặt ngươi và gìn giữ ngươi khi đi đàng, dẫn đưa ngươi đến nơi Ta dọn sẵn cho ngươi” (Xh 23,20).
Trong hang sâu tù ngục, trước hàm của sư tử, Đanien được các Thiên thần bảo vệ... Vì không thờ thần dân ngoại, ba cậu bé Khanania, Adaria và Misaen bị bỏ vào trong lò lửa, nhưng các em được các Thiên thần Chúa bảo vệ khi lửa đang cháy mà không bị gì, các thiếu niên này còn vang lời ca tụng Đức Chúa (Đn 3).
Chúa Giêsu sau khi Chúa chịu ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, cũng đã được các thiên thần phục vụ khi, Kinh Thánh ghi lại: “Các thiên thần đến để hầu hạ Người” (Mt 4,11).
Giữa con người và các Thiên thần có mối dây liên lạc mật thiết. Các ngài là thụ tạo cộng tác viên với Thiên Chúa nhằm trợ giúp mỗi chúng ta trên con đường lữ hành ở trần thế, sứ mạng của các ngài thực hiện trong âm thầm, lặng lẽ. Mỗi người có một Thiên thần đồng hành che chở bảo vệ và Thiên thần đó hằng nhìn thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu diễn tả các Thiên thần với đời sống các trẻ em như sau: “Anh em chớ khinh khi một ai trong những kẻ bé nhỏ này; Thầy nói cho anh em hay: Các thiên thần của họ hằng ở bên ngai Thiên Chúa trên trời!” (Mt 18,10).
Thánh Gioan trong sách Khải huyền còn nói đến mỗi dân tộc cũng có một Thiên thần bản mệnh riêng (x. Kh 2 - 3). Các thánh Giáo phụ tin là mỗi người từ lúc được tạo dựng trong bào thai đã có một Thiên thần bản mệnh riêng.
Chúng ta đã nhận biết bao ân phúc của các Thiên thần, chúng ta phải tỏ lòng cung kính vâng phục các ngài. Niềm tin vào Thiên thần bản mệnh giúp ta lấy lại bình an trong tâm hồn vì luôn có Đấng bảo vệ. Chúng ta mang niềm vui, nhất là tâm tình phó thác cậy trông vào Thiên Chúa vì như Chúa Giêsu khẳng định: “Các thiên thần của họ hằng ở bên ngai Thiên Chúa trên trời!” (Mt 18,10).
Ý lực sống
“Chúng ta hãy đặc biệt cầu xin các Thiên Thần, nhất là hôm nay để các đấng canh giữ tôi và các cộng sự viên của tôi” (ĐGH Bênêđictô XVI).
Suy niệm 5: Thiên thần bản mệnh
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính các thiên thần bản mệnh của mỗi người chúng ta.
Sự hiện diện của các ngài trong Kinh Thánh là điều đã thật rõ ràng không có thể chối cãi. Ngay từ trang đầu của sách Sáng Thế Ký chúng ta đã thấy các ngài xuất hiện như là những vị thừa hành mệnh lệnh của Thiên Chúa,
Trong suốt thời Cựu Ước sự hiện diện của các ngài cũng không thiếu. Bài sách thánh thứ I chúng ta vừa nghe là một trong những đoạn văn rõ rệt nhất nói về những điều đó. Thiên Chúa đặc biệt loan báo con người sự có mặt của một đạo binh mà Người gửi xuống để giữ gìn loài người chúng ta. “Này Ta sẽ sai thiên thần Ta đi trước mặt ngươi và gìn giữ ngươi khi đi đàng, dẫn đưa ngươi đến nơi Ta dọn sẵn cho ngươi” (Xh 23,20).
Sự bảo vệ mà con người nhận được từ các Thiên thần thật đặc biệt. Hồi ấy Đaniel là mới chỉ là một cậu bé, nhưng là một cậu bé hết lòng kính sợ Thiên Chúa. Đaniel được Vua Đarius vua xứ Ba tư rất thương yêu. Đaniel là một người Do thái mà lại được nhà Vua Ba Tư thương yêu như thế thì quả thực việc đó chẳng có lợi gì. Các quan cận thần trong triều đình nhà vua tìm đủ mọi cách để hại Đaniel. Một hôm họ lập mưu để cho nhà vua phải mắc mưu họ.
- Hoàng đế Đarius vạn tuế! Chúng tôi tất cả các thừa tướng trong nước, các viên đổng lý, bảo quốc, tư vấn và tổng trấn đã cùng nhau bàn là phải ra một ngự sắc và ban hành lệnh cấm là trong vòng 30 ngày, hễ ai khấn nguyện cầu kinh với bất cứ thần hay người nào trừ phi là ngài thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử. Vậy nay tâu hoàng thượng, xin Ngài ban lệnh cấm và châu phê văn kiện để được bất di bất dịch chiếu theo luất của dân Mê-di và Ba-Tư, một luật vô phương bãi bỏ”(Dn 6,7-9)
Vua ký ngự sắc và ngự sắc đó thành luật.
Thế nhưng Đaniel mỗi ngày vẫn 3 lần quì cầu nguyện và ngợi khen Thiên Chúa,
Đaniel đã phạm luật. Đaniel bị bắt.
- Tâu hoàng thượng, Đaniel đã chẳng đếm xỉa gì tới Ngài và lệnh cấm Ngài đã châu phê. Cứ mỗi ngày ba lần, y đã khẩn nguyện và cầu kinh với Thần của y.(Dn 6,14)
Vua muốn cứu nhưng họ đáp lại:
- Tâu hoàng thượng, Ngài biết là luật của dân Mê-đi và Ba-Tư là mọi lệnh cấm và sắc chỉ nhà vua đã ban hành đều bất di bất dịch (Dn 6,16).
Đaniel bị ném vào hầm sư tử. Cửa hang được đóng ấn và niêm phong cẩn thận.
Suốt cả một đêm nhà vua không thể nào nhắm mắt.
Sáng sớm hôm sau nhà vua ra trước của hang và lên tiếng gọi:
- Đaniel tôi tớ của Thần linh hằng sống. Thần người bền đỗ phụng thờ có cứu ngươi khỏi lanh vuốt sư tử không ? (Dn 6,21)
Từ trong hầm tối Đaniel nói vọng ra:
- Hoàng đế vạn vạn tuế. Thiên Chúa của thần đã sai thiên thần xuống khóa miệng sư tử khiến chúng chẳng làm hại được thần. Bởi chưng trước mặt Người tôi được nhìn nhận là vô tội - Và cả trước mặt ngài tâu đức Vua, tôi cũng chẳng phạm một lỗi gì (Dn 6,22).
Đaniel được tha, Những người tố cáo Đaniel bị ném và trong hầm sư tử. Và chúng ta biết sự việc sau đó như thế nào.
Trong Tân Ước chính Chúa Giêsu cũng đã được các thiên thần phục vụ.
+ Sau khi Chúa chịu ma quỉ cám dỗ trong hoang địa, khi Chúa đã hoàn toàn chiến thắng, Kinh Thánh ghi lại: “Các thiên thần đến để hầu hạ Người”(Mt 4,11)
+ Công Vụ Tông Đồ 5,17 thuật lại câu truyện Phêrô được cứu thật hết sức lạ lùng: Bấy giờ, vị thượng tế cùng tất cả những người theo ông tức là phái Xađốc ra tay hành động. Đầy lòng ghen tức, họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù công cộng. Nhưng ban đêm thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói:”Các ông hãy đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự sống.”(Cv 5,20), Nghe thế, các ông vào Đền Thờ ngay từ lúc rạng đông và bắt đầu giảng dạy.
Khi thuộc hạ đến, họ không thấy các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo rằng: “Chúng tôi thấy ngục đóng kỹ lưỡng và những người lính canh đứng ở cửa; nhưng khi mở cửa ra, chúng tôi không thấy ai ở bên trong”(Cv 5,23). Nghe những lời ấy, viên lãnh binh Đền Thờ và các thượng tế phân vân về các ông, không biết chuyện gì xảy ra. Bấy giờ có một người đến báo cáo cho họ: “Những người các ông đã tống ngục, kìa họ đang đứng trong Đền Thờ và giảng dạy cho dân!” (Cv 5,25)
Viên lãnh binh bèn đi với bọn thuộc hạ và điệu các ông về, nhưng không dùng bạo lực vì sợ bị dân ném đá.
Xin được kết bằng một bài thơ rất dễ thương dành cho các thiên thần.
Thiên thần bé nhỏ của tôi ơi
Hãõy ở bên tôi suốt cuộc đời
Soi bước chân tôi trong chân lý
Chỉ biết đi tìm Chúa mà thôi.
Thiên thần bản mệnh của tôi ơi
Đam mê hoan lạc trong cuộc đời
Phù vân, bóng câu qua cửa sổ
Ngoảnh nhìn thử hỏi được mấy mươi.
Thiên thần chí ái của tôi ơi.
Giúp tôi đứng vững giữa vòm trời
Nhủ lòng thà chết không phản bội
Hiến chương Galilê xa xôi.
Thiên thần sáng láng của tôi ơi
Lộng giả thành chân biết bao người!
Cho tôi nhận rõ chân với giả
Hầu cảnh giác chị em tôi.
Thiên thần dũng mãnh của tôi ơi,
Bao lúc cô đơn muốn rã rời….
Hãy giúp cho tôi đừng vấp ngã.
Đến khi tới được nhà Cha tôi.
(Bài thơ của Lê xuân Mai)
Suy niệm 6: Thiên thần Hộ Thủ
(tgpsaigon.net)
Hôm nay Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta về người bạn thân thiết của mỗi người, đó là vị Thiên thần Hộ Thủ của chúng ta. Mỗi người từ giây phút đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ đều được Thiên Chúa cắt cử một vị Thiên thần để che chở hộ phù bằng một cách thế chúng ta không chờ đợi và cũng chẳng tưởng tượng được. Đây là chân lý Giáo Hội muốn nhắc nhở và mời gọi chúng ta đào sâu hôm nay.
Mỗi người đều có một vị Thiên thần luôn sát cánh nhắc nhở chỉ bảo, hướng dẫn và gìn giữ trong từng đường đi nước bước của chúng ta. Dạy điều đó, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta đi vào tình yêu Thiên Chúa, Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu vượt lên trên mọi dự đoán, tính toán và chờ đợi của chúng ta.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu mà chúng ta vừa mừng kính hôm qua đã tìm ra được bí quyết hạnh phúc và đã mở ra một con đường nên thánh đơn sơ nhất đó là "hãy chấp nhận để cho Thiên Chúa yêu thương". Thảm kịch bi thảm nhất của con người đó là không cảm nhận hay không đón nhận tình yêu của Thiên Chúa; trái lại, ai đón nhận tình yêu của Thiên Chúa họ sẽ thấy rằng cuộc sống của họ là một chuỗi những phép lạ.
Theo định nghĩa thông thường phép lạ là một biến cố hay một hiệu quả xem ra nghịch với định luật khoa học, do đó được gán cho các nguyên nhân siêu nhiên. Giáo Hội chỉ nhận là phép lạ khi một biến cố này khoa học không thể lý giải được mà thôi. Đây là tiêu chuẩn được áp dụng một cách rất khắt khe tại trung tâm Thánh Mẫu Lộ Đức. Từ hơn 100 năm qua, mặc dù không biết bao nhiêu người đã tuyên bố cảm năm được sự can thiệp của Chúa, Giáo Hội chỉ nhận được có 65 trường hợp được xem là phép lạ thực sự sau khi ủy ban y tế tuyên bố không thể giải thích sự lành bệnh theo phương diện y khoa.
Tuy nhiên, nếu hiểu phép lạ theo một ý nghĩa rộng rãi hơn như là một sự can thiệp quan phòng trường kỳ của Chúa vào cuộc sống mỗi ngày của từng người chúng ta, con mắt Đức tin sẽ cho chúng ta thấy được vô số phép lạ Chúa đang thực hiện trong mỗi biến cố của cuộc sống. Phép lạ không chỉ là sự kiện lạ lùng ở bên kia, ngoài các định luật khoa học, phép lạ không chỉ diễn ra tại những trung tâm Thánh Mẫu nổi tiếng trên thế giới. Phép lạ là từng hơi thở và nhịp đập của trái tim, phép lạ là từng tia sáng mặt trời hay từng cơn gió mưa mỗi ngày, phép lạ là một cuộc gặp gỡ đang có mỗi ngày, phép lạ ở mọi nơi và mọi lúc, bởi vì Thiên Chúa luôn hiện diện với chúng ta từng giây phút trong cuộc sống.
Các Thiên thần không chỉ là những vị có cánh đến từ trời cao, các Ngài đang ở bên cạnh chúng ta trong giây phút này đây, các Ngài không ngừng nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Thiên Chúa, các ngài không ngừng gợi lên cho chúng ta những tâm tình trong sạch và cao quí cũng như xua đuổi khỏi những tư tưởng mê muội và bắt chính. Nếu biết lắng nghe tiếng nói của các Ngài, chúng ta sẽ tiến bước trên đường ngay nẻo chính và sẽ gặp được hạnh phúc đích thực.
Với đoạn Tin Mừng chúng ta Suy niệm trong ngày kính nhớ các Thiên thần Hộ Thủ hôm nay, một lần nữa Giáo Hội mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ. Trẻ thơ luôn biết ngạc nhiên và ngây ngất trước những điều kỳ diệu của cuộc sống, trẻ thơ chỉ nghĩ đến chuyện thần tiên. Thế giới của người lớn cũng còn là thế giới thần tiên, bởi vì mỗi người đều có một Thiên thần hộ thủ gìn giữ bao bọc và hướng dẫn. Thế giới ấy sẽ thực sự thần tiên khi con người biết lắng nghe sự hướng dẫn của vị Thiên thần Hộ Thủ và cảm nghiệm được tình yêu bao bọc chở che của Thiên Chúa. Hãy để cho Thiên Chúa yêu thương, còn gì đơn sơ cho bằng những giây phút ấy.
Câu chuyện minh chứng bàn tay Thiên thần Hộ Thủ hộ phù, chở che
Một Cha sở miền quê bên Pháp thuật lại công chuyện này:
Khi đó ngài đang ở một xứ đạo hẻo lánh. Một đêm kia được tin một người đau nặng, đang hấp hối, muốn xin Ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử Ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, Ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, Ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên thần Hộ Thủ, Ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với Ngài. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối.
Câu chuyện đã qua 10 năm rồi, nếu không có biến cố mới này thì nó đã rơi vào quên lãng:
Một tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cử một ai. Người ta báo tin cho ngài: có người tử tù sắp bị hành quyết. Vì là Cha sở địa phương, ngài đến nhà tù thăm viếng. Nhưng vừa thấy bóng linh mục, người tử tù phản ứng và từ chối không muốn gặp ngài, nhưng bỗng anh ta ngừng lại và nói với ngài: " Có phải cha là cha sở họ X không?". Vị linh mục ngạc nhiên trả lời: "Trước đây 10 năm tôi làm Cha sở ở họ đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác".
Thì ra cách đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người bị tầm nã, đang lẩn trốn ở khu rừng mà ngài đi qua. Hắn dự định sẽ giết chết bất cứ khách bộ hành nào băng qua đoạn đường đó, để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, và đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: "Lúc đó y muốn giết vị linh mục, nhưng bên cạnh ngài có một thanh niên lực lưỡng. Thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho ngài và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự".
Vị linh mục kết luận: "Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên hết sức. Nhưng tôi chợt nhớ ra rằng, lúc đó, tôi có dừng lại một lúc để cầu nguyện xin Thiên thần Hộ Thủ giúp đỡ. Và như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên thần Hộ Thủ của tôi, đã giữ gìn, bảo vệ tôi qua cơn nguy hiểm”
Câu chuyện trên minh chứng Thiên thần Hộ Thủ luôn có mặt khi con người kêu cầu, xin ngài giúp đỡ, can thiệp. (trích nguoitinhuu.com)
Nguyện xin Chúa soi lòng mở trí để chúng con biết nhìn ra sự hướng dẫn của vị Thiên thần hộ thủ hầu cảm nếm được tình yêu của Ngài. Amen.
Suy niệm 7: Vâng nghe các thiên thần
(Trích trong ‘nguoitinhuu.com’)
”Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 18,10)
Suy niệm: “Ma quỉ đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta, mạng lưới này tuy vô hình, nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho ta yêu chuộng giây phút chóng qua hơn sự sống vĩnh cửa, khuyến dụ ta chạy theo sự vô định hơn chân lý, nó bảo ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi" (Triết gia Raissa Maritain). Khắc tinh của ma quỷ là các hiệp sĩ thiên thần hộ thủ, những người bạn thân vô hình được Thiên Chúa sai đến ở bên cạnh, hộ giúp ta đêm ngày. Vai trò của các ngài là giúp ta phá đi mạng lưới ảo tưởng, đưa ta đến môi trường của sự thật giải thoát của Tin Mừng Nước Trời. Các ngài nhắc nhở ta cài “phần mềm” sự sống vĩnh cửu trong mọi việc ta làm, phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân trong mọi dự tính đời ta.
Mời Bạn: Các hiệp sĩ vô hình ấy chu toàn nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó hay không tùy thuộc nơi thái độ của bạn. Nếu bạn ngoan ngoãn vâng theo sự soi sáng hướng dẫn của các ngài, dù phải trầy da tróc vẩy, bạn sẽ thoát vòng vây của quỷ ma và đạt đến cùng đích đời mình là hạnh phúc muôn đời bên Chúa.
Sống Lời Chúa: Tập lắng nghe tiếng nhắc nhở của thiên thần hộ thủ, và ngoan ngoãn làm theo, dù phải hy sinh ý riêng, sở thích riêng của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã sai các thiên thần hộ thủ nâng đỡ chúng con trên hành trình đi về quê trời. Xin cho chúng con biết vâng theo sự hướng dẫn của các ngài, và cảnh tỉnh trước những hiểm họa do ma quỷ, xác thịt và thế gian đang cản trở bước đường của chúng con. Amen.
Suy niệm 8: Mỗi người có một thiên thần bản mệnh
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
Đọc lại Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy có rất nhiều đoạn đề cập tới các thiên thần. Sống giữa một thế giới luôn có ánh sáng và bóng tối, các thiên thần được Chúa giao nhiệm vụ ở cạnh loài người, ở cạnh con người. Chúa Giêsu và Hội Thánh đã dậy con người điều đó.
Giáo lý công giáo cũng viết:” Thiên thần và con người là những thụ tạo thông minh và tự do, nên phải tiến về cùng đích bằng một sự lựa chọn tự do và yêu chọn cái tốt hơn”. (SGLCG số 311) hoặc số 328 sách giáo lý công giáo nói: ”Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng, không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần, là một chân lý đức tin. Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế. Nếu ma quỷ, satan, và sự dữ đang vây lượn chung quanh con người, xung quanh thế giới để quấy nhiễu, ám hại con người như sư tử hung ác tìm mồi cắn xé, an ủi thay chính Thiên Chúa lại gửi đến cho nhân loại, cho con người những sự trợ giúp rất hữu hiệu của các thiên thần. Chúng ta thường quen gọi các thiền thần này là các thiên thần hộ thủ hay thiên thần bản mệnh. Các thiên thần hộ thủ nâng đỡ con người, gìn giữ con người khỏi những hiểm nguy, khỏi sự dữ, giúp con người xa lánh mọi dịp tội, gợi lên trong tâm trí con người những ý tưởng lành thánh và dẫn con người đi vào con đường thánh thiện, đạo đức. Các thiên thần hộ thủ thêm sức mạnh cho con người trong những cơn cám dỗ, trong những lúc gặp những sự thử thách hiểm nghèo, nâng đỡ và khuyến khích con người trong lúc thất vọng và an ủi con người trong những cơn u sầu, đen tối. Mỗi khi con người sa ngã vì yếu đuối, sai lầm, thiên thần hộ thủ giúp con người tỉnh thức hồi tâm, sửa đổi, quay về đường chính nẻo ngay, và bầu cử cho con người trước ngai toà Thiên Chúa. Các thiên thần bản mệnh cũng soi sáng, thêm sức cho con người trong giờ hấp hối.
Chính Chúa Giêsu cũng từng nhắc nhủ nhân loại: ”Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 18, 10). Do đó, các vị là “những người đi thực hiện Lời Chúa, sẵn sàng phụng lệnh Người” (Tv 103, 20).
Mừng lễ các thiên thần hộ thủ, chúng ta hãy ghi nhớ lời Thiên Chúa nói: ”Mọi thiên thần của Thiên Chúa, hết thảy phải tôn thờ Người” (Dt 1, 6). Lời ca tụng của các thiên thần khi Chúa Kitô giáng sinh không ngừng vang lên trong lời ca tụng của Hội Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa…” (Lc 2, 14). Thiên Thần hộ thủ là Đấng ở bên cạnh chúng ta để che chở và giúp đỡ chúng ta. Do đó, chúng ta phải biết ơn bằng cách chu toàn bổn phận đối với các thiên thần bản mệnh. Bổn phận của chúng ta là tỏ lòng kính trọng các Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta, yêu mến và tin tưởng cậy trông vào sự che chở, phù trì của các Ngài. Đồng thời, chúng ta sẵn sàng nghe theo lời chỉ dậy, hướng dẫn của các Ngài theo tiếng của lương tâm chúng ta. Mỗi người Chúa đều ban cho một thiên thần bản mệnh để Ngài nâng đỡ, an ủi, hướng dẫn, giữ gìn.
Lạy các thiên thần hộ thủ, xin bênh vực chở che chúng con trong mọi trạng huống của cuộc đời chúng con đang phải đương đầu và chiến đấu. Amen.
Suy niệm 9: Thiên thần bản mệnh
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Nếu sức mạnh của sự dữ và ma quỉ đông hàng hà sa số, đang ngày đêm bay lượn quanh nhân loại, xung quanh chúng ta để tìm cơ hội làm hại con người thì sung sướng và hạnh phúc, vững dạ thay khi Chúa gửi đến cho loài người một sức mạnh vô cùng hữu hiệu là các Thiên Thần. Sự trợ giúp này, Chúa và Giáo Hội gọi là các Thiên Thần Hộ Thủ hay Bản Mệnh. Các Thiên Thần Bản Mệnh gìn giữ con người khỏi hiểm nguy, khỏi mọi sự dữ quấy phá, đưa con người tránh xa dịp tội để con người kết hợp và tiến bước tới Chúa.
THIÊN THẦN BẢN MỆNH LÀ AI?
Thiên Chúa thiết lập vũ trụ, tạo dựng con người. Sách khải nguyên ngay từ những trang đầu đã thuật lại việc Thiên chúa tạo dựng Trời Ðất, tạo nên Con người. Trong vũ trụ hỗn mang đan xen bóng tối và sự sáng. Lực của bóng tối, của ma quỉ mạnh mẽ vô cùng. Ma quỉ có số đông vô số kể lúc nào cũng lượn quanh con người, rình mò cắn xé. Ngay trang đầu khởi nguyên, Kinh Thánh đã viết: "thần khí Chúa bay lượn là là trên mặt nước" và trong Tân Ước, trong đêm Giáng Sinh, Thiên Thần của Chúa với muôn cơ binh đàn ca, vinh tụng xướng hát, tôn vinh con Thiên Chúa là Ðức Giêsu xuống thế làm người. Ðây là các Thiên thần luôn túc trực để thờ phượng Chúa và nâng đỡ con người. Trong số này, có muôn vàn Thiên Thần Bản Mệnh, Chúa sai tới để nâng đỡ, gìn giữ từng người. Các ngài giúp con người tránh xa các dịp tội, thêm sức mạnh cho con người để con người thoát những cơn cám dỗ nguy hiểm, nâng đỡ và khuyến khích con người khi con người gặp những sự thất vọng ở trần gian, an ủi con người trong những cơn sầu muộn. Các Thiên Thần Bản Mệnh cũng giúp con người hồi tâm thống hối khi con người yếu đuối, sa ngã, cầu bầu cùng Chúa cho con người. Các Thiên thần Bản Mệnh cũng soi sáng, thêm sức mạnh cho con người khi con người đang hấp hối, nguy tử vv.
Các Thiên thần Bản Mệnh có sứ mạng lớn lao là luôn hiện diện bên cạnh con người để giữ gìn, an ủi và che chở con người.
Nên, Thánh vịnh 137,1 đã viết: " Lạy Chúa, giữa chư vị Thiên Thần, con đàn ca kính Chúa" hoặc trong lời nguyện nhập lễ ngày 2/10, Giáo Hội đã cất tiếng nguyện xin: "Chúa sai các Thiên Thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này được các Ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các Ngài hưởng phúc vinh quang".
CÂU CHUYỆN MINH CHỨNG BÀN TAY THIÊN THẦN BẢN MỆNH HỘ PHÙ, CHỞ CHE
Số là có một cha sở miền quê bên Pháp lúc đó đang ở một xứ đạo hẻo lánh, một đêm kia được tin một người đau nặng, đang hấp hối, muốn xin Ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử Ngài ra đi làm phận sự của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, Ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi tới khu rừng, trời đã rất tối, Ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, Ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với Ngài. Ngài mạnh dạn và đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối. Câu chuyện đã qua 10 năm rồi, nếu không có biến cố mới này thì nó đã rơi vào quên lãng: Một tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất khó tính và không chịu nghe bất cứ một ai. Người ta báo cho vị linh mục năm xưa đã băng qua khu rừng để đi xức dầu cho người đang hấp hối. Linh mục được báo tin có người tử tù muốn gặp, đã tới vì lòng nhân từ. Vừa thấy linh mục, người tử tù đã muốn phản ứng, xua đuổi, không muốn gặp vị linh mục, nhưng bỗng anh ta ngừng lại và nói với vị linh mục: "có phải cha là cha sở họ X không?". Vị linh mục ngạc nhiên trả lời trước đây 10 năm tôi làm cha sở ở họ đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác. Thì ra các đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người, đang lẩn trốn ở khu rừng mà tôi đi qua và hắn định bất cứ gặp thấy ai, hắn sẽ giết chết để lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù kể lại: "Lúc đó y muốn giết tôi, nhưng thấy bên cạnh có người thanh niên lực lưỡng, thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho tôi và người thanh niên ấy đi bình an, vô sự". Nghe người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên và sực nhớ lại lúc đó tôi dừng lại để cầu nguyện xin Thiên thần Bản Mệnh giúp đỡ. Và như vậy, người thanh niên mà người tử tù thấy chính là Thiên Thần Bản Mệnh của tôi, đã giữ gìn tôi.
Câu chuyện trên minh chứng Thiên Thần Hộ Thủ luôn có mặt khi con người kêu cầu, xin ngài giúp đỡ,can thiệp.
"Lạy Chúa, nhân ngày lễ kính các Thiên Thần Hộ Thủ, xin cho các Ngài luôn ở gần chúng con để trông nom gìn giữ, nhờ đó, chúng con sẽ thoát khỏi mọi nguy hiểm dưới thế và mai sau được hưởng hạnh phúc trên trời" (Lời nguyện tiến lễ ngày 2/10, lễ các Thiên Thần Hộ Thủ).
Xin cho mọi người chúng con luôn biết kính trọng, yêu mến và cậy trông vào sự che chở của các Thiên Thần Hộ Thủ, và luôn sẵn sàng tuân theo lời chỉ dậy của các Thiên Thần Bản Mệnh qua tiếng nói lương tâm.
Suy niệm 10: Các thiên thần hộ thủ
(tonggiaophahanoi.org)
I. Ghi nhận lịch sử - phụng vụ
Lễ nhớ các Thiên Thần Hộ Thủ bắt nguồn từ năm 1411: một lễ được lập vào ngày này ở Valencia (Tây Ban Nha) để tôn kính vị thiên thần bảo vệ của thành phố. Năm 1590, Đức Giáo Hoàng Sixte V phê chuẩn cho Bồ Đào Nha một bản kinh phụng vụ riêng để kính các thiên thần hộ thủ, và năm 1608, Đức Giáo Hoàng Phaolô V qui định lễ này trong lịch Rôma phổ quát, mừng vào ngày đầu tiên không có lễ nào sau lễ thánh Micae. Vì thế lễ nhớ các thiên thần hộ thủ ngày nay mang ý nghĩa mở rộng lễ kính Tổng lãnh thiên thần Micae.
II. Thông điệp và tính thời sự
Lời nguyện trong ngày, chúng ta cầu xin Chúa – Đấng sai “các thiên thần gìn giữ chúng ta” – xin Người ban cho chúng ta “được ơn che chở của các ngài và niềm vui được sống với các ngài luôn mãi”.
Hai Bài đọc của thánh lễ (Xh 23, 20-23 và Mt 18, 1 . . . 10) làm nổi bật sứ mạng quan phòng của các thiên thần: Ta sai thiên thần Ta đi trước mặt ngươi, để gìn giữ ngươi trên đường . . . (Xh 23, 20); . . . Các thiên thần của họ ở trên trời hằng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy (Mt 18, 10). Đây là hai sứ mạng luôn đi đôi với nhau của các thiên thần: không ngừng chiêm ngưỡng nhan Chúa Cha và bảo vệ loài người trên mọi nẻo đường của họ.
Bài giảng của thánh Bênađô trong Bài đọc Giờ Kinh Sách mời gọi chúng ta có lòng thảo kính đối với các ngài: “Thế nên các ngài ở bên cạnh bạn, không chỉ ở với bạn mà còn vì bạn; các ngài hiện diện để che chở bạn, cứu giúp bạn; và tuy rằng các ngài làm việc này vì Thiên Chúa ra lệnh cho các ngài, nhưng chúng ta không được thiếu sót trong việc thảo kính đối với các ngài.” (Bài giảng về Tv 90).
Lời nguyện hiệp lễ mời gọi chúng ta nhớ đến “con đường cứu độ và bình an” mà các thiên thần dẫn bước chúng ta đi. Sứ mạng này cũng được gợi lên trong Điệp ca 1 của giờ Kinh Sáng: “Chúa sẽ sai thiên thần của Người đến, để gìn giữ ngươi trên đường.” Câu xướng đáp của bài đọc giáo phụ lặp lại câu trích thánh vịnh 90: “Người ra lệnh cho các thiên thần của Người gìn giữ bạn trên mọi nẻo đường của bạn.” Điệp ca của thánh thi Benedictus: “Chúa truyền cho các thiên thần của Người che chở những kẻ thừa hưởng Nước Trời” lấy cảm hứng từ Dt 1, 14: “Nào tất cả các vị đó (thiên thần) không phải là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?”
Các bài đọc vắn cống hiến chúng ta nhiều ví dụ về sứ vụ của các thiên thần: một thiên thần được Thiên Chúa ban cho Ítraen (Xh 23, 20-21); các tông đồ được giải thoát khỏi nhà tù ở Giêrusalem (Cv 5, 17-20); thánh Phêrô được giải cứu khỏi nhà tù (Cv 12, 7); một thiên thần được sai đến với ông Cornêliô (Cv 10, 3-5); một thiên thần dâng lên Chúa các lời cầu nguyện của tất cả các thánh (Kh 8, 3-4).
Trong thánh thi Kinh Chiều, chúng ta ước nguyện được một thiên thần đang chiêm ngưỡng nhan Cha, “ghé xuống thăm / cầm than hồng chạm đến chúng ta; / để môi miệng chúng ta dâng lời cảm tạ, / và được thanh tẩy bằng ơn tha thứ.” Nếu các thiên thần trên trời lên xuống trên Con Người (Ga 1, 51), thì chúng ta, “những kẻ thừa hưởng Nước Trời”, nhờ đời sống phụng vụ ở dưới đất này, chúng ta có thể hợp tiếng với các thiên thần để thờ lạy Thiên Chúa bằng một bài ca ngợi khen duy nhất.
Enzo Lodi
Suy niệm 11: Các thiên thần hộ thủ
(http://conggiao.info // Linh mục Giuse Đinh Quang Thịnh)
Giáo Lý Công Giáo dạy : “Sự hiện hữu của các hữu thể thiêng liêng không có thể xác, mà Thánh Kinh quen gọi là các thiên thần, là một chân lý Đức Tin. Thánh Kinh và Thánh Truyền đều nhất trí như thế” (số 328).
“Chân lý Đức Tin” thì vượt lý trí con người, ta chỉ có thể đón nhận được chân lý này với lòng khiêm tốn và tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa toàn năng, toàn tri, toàn thiện, luôn mạc khải cho ta những điều hữu ích.
Mạc khải không nói rõ Chúa dựng nên thiên thần vào lúc nào. Mạc khải cho ta biết “mục đích Chúa dựng nên thiên thần để sai đi giúp đáp vì phần ích những kẻ sẽ thừa hưởng ơn cứu độ” (Dt 1,14).
Cụ thể như thiên thần Gabriel mang sứ điệp Truyền Tin (x Lc 1,19.26) ; một đạo binh các thiên thần trên Thiên Quốc hát mừng trong đêm Giáng Sinh (x Lc 2,9-14) ; các thiên thần còn báo tin Chúa Giê-su Phục Sinh (x Mt 28,5t) và thông báo cho các môn đệ Đức Giê-su hiểu biết ý nghĩa việc Chúa Giê-su Thăng Thiên (x Cv 1,10t). Thiên thần còn có sứ mệnh phụ tá Đức Ki-tô Giê-su trong việc cứu độ nhân loại, các thiên thần chăm sóc, gìn giữ loài người (x Cv 12,15) và mỗi người Công Giáo (những kẻ bé mọn) được các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng Thánh Nhan Chúa Cha (x Mt 18,10 : Tin Mừng), để dâng lên Thiên Chúa lời kinh của các thánh (x Kh 5,8 ; 8,3), cùng dẫn đưa linh hồn người công chính vào Thiên Đàng (x Lc 16,22).
Có một mối dây liên lạc mật thiết nối kết Phụng Vụ trần thế với Phụng Vụ Thiên Quốc : trên trời các thiên thần cử hành Phụng Vụ vĩnh cửu (x Kh 4,8-11), mà Phụng Vụ Giáo Hội ở trên dương thế cũng cùng hiệp thông, như trong kinh Vinh Danh và trong kinh Tiền Tụng.
Tuy vậy, các thiên thần không được phúc ngắm nhìn Lời Thiên Chúa (x 1Pr 1,12). Cụ thể ngôn sứ Isaia vào Đền Thờ thấy thiên thần Sêraphim chầu hầu bên Hòm Bia Thiên Chúa, phải lấy hai cánh che mặt (x Is 6,2) ; và Chúa cũng không bao bọc một thiên thần nào, Ngài chỉ bao bọc dòng giống Abraham : những người tin tưởng tuyệt đối vào Lời Thiên Chúa để hành động (x Dt 2,16).
Có loại thiên thần ánh sáng (Lucipher) đã kiêu ngạo tức khắc bị lãnh án phạt: “Hỡi tinh tú rạng ngời, con của bình minh,chẳng lẽ ngươi đã từ trời sa xuống rồi sao? Này, kẻ chế ngự các dân tộc, ngươi đã bị hạ xuống đất rồi ư? Chính ngươi đã tự nhủ: "Ta sẽ lên trời: ta sẽ dựng ngai vàng của ta trên cả các vì sao của Thiên Chúa; ta sẽ ngự trên núi Hội Ngộ, chốn bồng lai cực bắc.Ta sẽ vượt ngàn mây thẳm, sẽ nên như Đấng Tối Cao." Nhưng ngươi lại phải nhào xuống âm phủ, xuống tận đáy vực sâu” (Is 14,12-15). Chính Chúa Giê-su cũng đã xác định như vậy : “Ta đã thấy satan như chớp nhoáng tự trời sa xuống” (Lc 10,18).
Satan có nghĩa là địch thủ ; hoặc quỷ có nghĩa là kẻ vu khống, nó hiện diện như cùng với các thiên thần tốt lành tại triều đình Thiên Chúa, chu toàn nơi tòa án Thiên Quốc một nhiệm vụ giống như một biện lý công cộng, có bổn phận bắt người trần thế phải tôn trọng công lý và quyền lợi của Thiên Chúa. Tuy nhiên, dưới chiêu bài phục vụ Thiên Chúa, chúng ta nhận ra nó là kẻ lừa gạt muốn lôi kéo người ta không còn tin vào Thiên Chúa nữa (x Giop 1-3). Nó đội lốt hình con rắn ghen với hạnh phúc của loài người (x St 2,24), vì nó rất thông minh và khôn khéo, dụ dỗ được nguyên tổ loài người làm theo ý nó thì tốt hơn là làm theo ý Chúa (x St 3). Như thế vài trò cốt yếu của nó là cám dỗ, cố gắng xúi giục người ta phạm tội (x 1Tx 3,5 ; 1Cr 7,5), và như thế đặt loài người chống lại Thiên Chúa (x Cv 5,3), nhưng nó thường xuất hiện dưới dạng phản Ki-tô (x 2 Tx 2,7t). Quỷ khủng khiếp vì mưu mô, cạm bẫy, lừa dối và thủ đoạn (x 2Cr 2,11 ; Ep 6,11 ; 1Tm 3,7).Satan ngụy trang thành thiên thần ánh sáng (x 2Cr 11,14). Nhưng nó bị đánh bại bởi cây Thập Giá của Chúa Ki-tô (x Ep 6,10) và kinh nguyện của loài người (x Mt 6,13). Chỉ kẻ nào thuận theo satan mới bị chiến bại (x Gc 4,7 ; Ep 4,27). Satan sẽ bị ném vào biển diêm sinh bốc lửa, nó sẽ chết lần thứ hai (x Kh 20,10.14t).
Vậy ta không được tin vào thuyết nhị nguyên là trong thế giới này có thần lành và thần dữ luôn đấu đá với nhau, khi nào thần lành thắng thì ta hạnh phúc ; khi nào thần dữ thắng thì ta khổ! Mà phải tin rằng mọi kẻ thù đều làm bệ kê chân Đức Ki-tô, đến nỗi “trước danh hiệu của Đức Ki-tô, mọi gối đều phải quỳ xuống bái lạy, chốn hoằng thiên, trên địa cầu, dưới gầm đất, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng : Giê-su Ki-tô là Chúa mà làm vinh hiển cho Thiên Chúa Cha” (Pl 2,9-11).
Mỗi người Công Giáo được Chúa sai thiên thần đến chăm sóc, như Ngài nói : “Này Ta sai thiên sứ đi trước mặt ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn. Trước mặt người hãy ý tứ nghe Lời người. Đừng làm cho người phải chịu cay đắng ; người sẽ không tha lỗi lầm cho các ngươi, vì danh Ta ngự trong người” (Xh 23, 20-21 : Bài đọc).
Chúa đã dặn mỗi người chúng ta phải ý tứ nghe Lời thiên thần, nghĩa là phải thực hành Lời Chúa Giê-su dạy : “Muốn làm lớn phải hoán cải nên như trẻ nhỏ và hạ mình như trẻ nhỏ (x Mt 18,1-4 : Tin Mừng).
I. Phải hoán cải trở nên trẻ nhỏ : Có nghĩa là phải được tái sinh trong Chúa Giê-su
Thực vậy, ai không được sinh lại bởi Chúa Giê-su, dù người ấy có địa cao, thì trước mặt Chúa họ cũng chỉ là một sinh vật (x 1Cr 15,45), chẳng khác loài thú đều phải chết (x Gv 3,18-19). Mà ý định ngàn đời của Thiên Chúa là “con người phải nên giống hình ảnh Thiên Chúa” (x St 1,26). Không phải giống Thiên Chúa vô hình mà là giống Con Thiên Chúa làm người : Đức Giê-su Ki-tô. Do đó ta phải được tái sinh qua Bí tích để được đồng hóa với Đức Giê-su (Gl 2,20).
Đó là lý do Đức Giê-su nói về ơn tái sinh với ông Ni-cô-đê-mô : “Quả thật, quả thật, tôi bảo ông : ai không bởi Trên sinh ra, thì không thể thấy được Nước Thiên Chúa”, làm ông thắc mắc : không lẽ người đã già lại có thể chui vào lòng mẹ lại sinh ra làm con nít ? Thì Đức Giê-su lại nhấn mạnh : “Ai không sinh bởi nước và Thần Khí, thì không thể vào được Nước Thiên Chúa” (Ga 3, 3-5).
Một khi ta đã được tái sinh làm con Thiên Chúa, ta được đồng hóa với Chúa Giê-su (x Gl 2,20), cùng một xương thịt với Ngài (x Dt 2,11), cùng một sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa (x Ga 6,57), và cùng quyền năng như Thiên Chúa (x Ga 14,12). Người như thế chắc chắn được Chúa Giê-su khen : “Họ là kẻ nhỏ trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông Gioan Bt, mặc dù ông Gioan là người cao cả nhất trong những người do người nữ sinh ra” (x Mt 11,11).
Xét về mặt tình cảm trong gia đình, ai nhỏ nhất, người ấy làm vua. Bởi lẽ cả gia đình phải quan tâm chăm sóc, trìu mến đứa con sơ sinh. Cũng chính vì vậy mà trong ngày Đức Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, báo hiệu ý muốn của Thiên Chúa là loài người phải được sinh lại bởi nước và Thần Khí. Ngày ấy, tiếng Chúa Cha phán : “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Tiếng ấy, Chúa Cha muốn nói về những người được tái sinh trong Con yêu dấu của Ngài.
Vậy ai được tái sinh làm con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha thì cũng được Hội Thánh là Mẹ ôm vào lòng : “Được thỏa thích nếm mùi sung mãn vinh quang, như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ ; được bồng ẵm bên hông, nâng niu trên đầu gối, khiến thân mình được tươi tốt như cỏ đồng xanh” (Is 66, 10-14c).
II. Sống tinh thần trẻ thơ. Cụ thể phải là :
- Vâng phục cha mẹ.
- Sống không có ác tâm.
- Không đòi ai quan tâm tôn mình lên.
- Luôn sống vươn tới sự trưởng thành.
- Sống lệ thuộc vào đấng sinh thành.
- Sống bằng tình yêu.
1/ Vâng phục cha mẹ. Trẻ nào không vâng phục cha mẹ, không thể thành công làm lớn trong xã hội được. Đức Giê-su muốn kẻ đã thuộc về Ngài phải đi con đường khiêm nhu, hạ mình phục vụ theo ý Cha trên trời dù phải chết nhục nhã đau khổ, như thế để học biết thế nào là Con vâng phục Cha, nhưng cuối cùng được Chúa Cha tôn vinh Con, đến nỗi trên trời dưới đất ai nghe danh Con, mọi đầu gối phải sụp lạy bái quỳ (x Pl 2,6-11).
2/ Không có ác tâm : Thánh Phao-lô nói : “Có ác thì như con nít thôi” (1Cr 14,20). Thực vậy, trẻ con chơi với nhau thế nào cũng có lúc bất hòa, chúng mếu máo khóc lóc chạy đi mách ông bà cha mẹ, nhưng lát sau chúng lại vui đùa với nhau bình thường, đó là “cái ác” của trẻ thơ ; khác hẳn người trưởng thành, bề ngoài xem ra thân thương, hòa thuận, nhưng trong lòng tìm mưu kế hại nhau.
3/ Không đòi ai quan tâm tôn mình lên. Cụ thể : trong bữa tiệc, những người có chức vị thì được tôn trọng mời lên chỗ danh dự, còn đàn bà con nít thì không đáng kể (x Mt 14,21). Vậy ta phải sống khiêm tốn hạ mình sát đất thì không còn khoảng cách nào để phải sợ té!
4/ Luôn sống vươn tới sự trưởng thành. Thánh Phao-lô nói : “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con” (1Cr 13,11). Bởi vì ai cũng biết con nít nói trước hiểu sau, còn người trưởng thành thì phải nghĩ trước, hiểu rồi mới nói. Vậy ta phải chăm học hỏi giáo lý, Kinh Thánh, vì “khởi điểm đạt tới Đức Khôn Ngoan là thật lòng ham muốn học hỏi” (Kn 6,17).
5/ Sống lệ thuộc vào đấng sinh thành. Thánh Phao-lô muốn các Ki-tô hữu phải sống lệ thuộc vào Thiên Chúa, như trẻ thơ trong gia đình phải lệ thuộc vào cha mẹ : chúng muốn gì phải được phép của cha mẹ, mặc dù mọi vật trong gia đình cha mẹ mua sắm là dành cho con cái (x Gl 4,1-3). Vậy bất cứ làm việc gì, ta phải cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn.
6/ Sống bằng tình yêu. Trẻ thơ không bao giờ bận tâm lo ăn gì, uống gì, mặc gì? Cũng chẳng sợ kẻ thù nào, nếu nó được nép mình trong tay cha mẹ. Thiên Chúa muốn con cái Ngài sống tinh thần đó, như Lời Kinh Thánh nói: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm” (Tv 131/130,1-3).
Ai sống Lời Chúa Giê-su dạy trên đây, thì được Ngài xác nhận: Người ấy đã đón tiếp chính Ngài (x Mt 18,5). Và như thế mới được “Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường” (Tv 91/90,11).
THUỘC LÒNG
Thiên thần là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ (Dt 1,14).
Suy niệm 12: Thiên Thần bản mệnh
Trong bài huấn từ vào sáng ngày 02/10/2015 tại nhà nguyện Thánh Mácta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Thiên Chúa ban cho mỗi người một “vị đồng hành”, một Thiên Thần Bản Mệnh để khuyên nhủ, bảo vệ và nâng đỡ”.
Thiên Chúa luôn yêu thương con người là những thụ tạo yếu đuối hay sa ngã. Vì thế, Người đã gửi đến cho mỗi người một vị thiên thần, gọi là Thiên Thần Bản Mệnh, để che chở và giữ gìn con người khỏi tay ma quỷ, từ lúc mới sinh cho đến khi qua đời. Thiên Thần Bản Mệnh còn là thầy dậy, mở lòng con người để họ biết được đạo thánh Chúa, giúp họ tuân giữ luật Hội Thánh dạy, cũng như tránh xa những điều tội lỗi. Thiên Thần Bản Mệnh còn là Đấng bầu cử, luôn cầu nguyện cùng Chúa cho con người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết vâng nghe lời hướng dẫn của các Thiên Thần Bản Mệnh. Amen.
Suy niệm 13: Các thiên thần hộ thủ
Mỗi người Chúa dựng nên đều có một thiên thần giữ mình, điều đó Chúa Giê-su đã khẳng định: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn nầy; quả thật, Thầy nói cho anh em biết; các thiên thần của họ không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt. 18, 10).
Và thánh Bê-na-đô minh chứng: “Chúa đã sai các thiên thần đến phục vụ các con, cắt đặt các ngài gìn giữ các con, và cho các ngài làm quản giáo cho các con”. Thánh Giê-gô-ri-ô nói: “Phẩm giá các linh hồn cao quý biết bao, vì mỗi linh hồn đều được Thiên Chúa ban cho một thiên thần chăm sóc”. Và thánh Ghê-rô-ni-mô viết: “Chúa biết ác tâm của ma quỷ, chúng luôn tìm cách ngăn cản không cho ai vào chỗ chúng đã mất trên thiên đàng, nên ban cho mỗi người một thiên thần hộ thủ, để chống trả kẻ thù của phần rỗi chúng ta”.
“Ma quỷ đông đúc và độc dữ như sư tử, ngày đêm rình chực hãm hại con người, thì Chúa cũng ban cho họ vô số thiên thần quyền phép hơn gìn giữ bảo hộ. Ngay lúc mới sinh ra, mỗi người đều có một thiên thần giữ mình. Dù lương hay giáo, dù lành hay dữ, ai ai cũng được Chúa thương cho thiên thần che chở. Chẳng những Chúa cho thiên thần bảo vệ từng người, mà còn cho các ngài gìn giữ các xã hội, các cộng đoàn, các gia đình, mọi nước, mọi thành, mọi nơi chốn có con người trú ngụ. Như lời thánh Tô-ma tiến sĩ nói: “Có thiên thần bảo hộ các quốc gia, dân tộc, thành thị, cộng đoàn cũng như mỗi người”.
“Thiên thần hộ thủ có trách nhiệm che chở chúng ta khỏi mọi sự dữ và gian nan khốn khó, cứu giúp chúng ta khỏi sa ngã phạm tội, giúp chúng ta làm lành lánh dữ, nâng đỡ chúng ta trong lúc yếu đuối, tăng thêm lòng can đảm mạnh mẽ, an ủi chúng ta trong những lúc sầu buồn đau khổ”.
“Các ngài còn giúp sức chúng ta lướt thắng các chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt thế gian. Và nếu chúng ta có lỡ lầm sa ngã, các ngài nâng đỡ chúng ta ăn năn hối cải”.
“Ngoài ra, các thiên thần hộ thủ dâng lên trước tòa Chúa các việc lành phúc đức và lời cầu nguyện hằng ngày của chúng ta, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta được ơn lành của Chúa. Các ngài an ủi soi sáng chúng ta trong cơn bệnh hoạn chết chóc, và bênh đỡ chúng ta trong ngày phán xét”.
“Tắt một lời, Chúa cho thiên thần hộ thủ gìn giữ che chở chúng ta trên khắp nẻo đường và suốt đời, như thánh Bê-na-đô nói, và bảo chúng ta hãy cám ơn Chúa, vì Người đã thương chúng ta, đồng thời phải kính sợ, thương mến, tin tưởng thiên thần giữ mình: “Người truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường. Họ hãy cảm tạ Chúa vì tình thương Người, vì những kỳ công Người đã làm cho con cái loài người…”
“Người truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường. Lời nầy phải mang lại cho bạn bao niềm kính sợ, tôn kính và tin tưởng: Kính sợ trước sự hiện diện, tôn kính trước lòng nhân hậu, tin tưởng trước sự phù trợ của các ngài”.
Ngoài ra, ba bổn phận kính sợ, tôn kính, tin tưởng như thánh Bê-na-đô vừa kể, mỗi người còn cần phải sẵn sàng tuân theo sự hướng dẫn dìu dắt của thiên thần hộ thủ, để được sống đẹp lòng Chúa và đáng thưởng phước đời đời.
Quyết tâm: Hằng ngày tôi luôn kính sợ, tôn kính, tin tưởng và làm theo thiên thần hộ thủ dạy bảo chỉ dẫn, để ngày sau được Chúa thưởng.
Lời nguyện: Lạy Chúa là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Chúa sai các thiên thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời nầy được các ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quang.
Suy niệm 14: Các thiên thần hộ thủ
Ngày xưa người ta tin rằng thiên thần là những thần linh giữ vai trò quan trọng trong việc liên lạc giữa thế giới Thiên Chúa và con người; niềm tin này đã được thấy nói trong Cựu Ước, cho dù không được giải thích rõ ràng.
Trong Cựu Ước, thiên thần là sứ giả trợ lực của Thiên Chúa (St 16,7; 21,17; Xh 14,19; 2 V 19,35). Trong những tác phẩm cuối (tỉ như sách Đanien) có kể tên các vị thiên thẩn; qua tên đó chúng ta thây được công tác của họ.
Trong Tân Ước, các thiên thần cũng giữ mội vai trò trong đời sống Đức Giêsu và Hội Thánh tiên khởi. Nếu có những sức lực của satan, của ma quỷ, thì cũng có những thiên thần lành, trợ lực, hướng dẫn và bảo vệ con người. Niềm tin vào thiên thần bản mệnh hay hộ thủ dựa vào đoạn Phúc Âm Mt 18,10.
Thánh Lễ thiên thần hộ thủ rất phổ biến ỏ thế kỷ XV và XVI, thường được liên kết với lễ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae (29.9). Năm 1670 Đức Giáo Hoàng Clémentô X đã cho phép mừng lễ thiên thần hộ thủ trong cả Hội Thánh và xác định lễ này vào ngày 2.10 hằng năm.
a) Bài đọc 1 : Xh 23,20-23a
Thuật ngữ Hiprí, mà chúng ta thường dịch ra là “Thiên Thần”, thực sự có nghĩa đơn sơ là “Sứ giả”, người nhận lệnh của chủ để nói hay làm một cái gì. Trong Cựu Ước thì “Thiên Thần của Chúa” (Thiên thần của Giavê) không phân biệt gì với chính Giavê: Thiên Thần chính là Thiên Chúa xuất hiện ở ưần gian để nói và hành động.
Mãi trong những văn bản mới, nhất là sau thời lưu đày ở Babylon, chúng ta mới gặp những lời rõ ràng, không những phân biệt giữa Thiên Chúa và thiên thần, nhưng còn kê khai cả tên và phận vụ của từng thiên thần.
Theo cái nhìn này, thì đoạn Xuất Hành 23 thuộc về loại cổ. Thiên Chúa đã hứa với dân ưong sa mạc, sẽ sai một thiên thần đến để dẫn lộ và bảo vệ dân. Danh Thiên Chứa tỏ hiện trong vị Sứ Giả này (23,21). Danh tức là người. Danh nơi sứ giả chính là Thiên Chúa, Người tự tỏ lộ để con người nhìn ra Người, cho phép họ kêu cầu Danh Người hay là cho họ cảm nhận được sự sợ sệt trước sự hiện diện của Người.
Vì Thiên Chúa hiện diện ngay trong các thiên thần, nên con người phải kính trọng và tin tưởng các Đấng.
b) Phúc Âm : Mt 18,1-5.10
Đoạn Mt 18,10 nói về “kẻ nhỏ”; như thế, ở đây không những nói về trẻ nhỏ, nhưng còn nói về những người yếu đuối, những người thấp bé về mặt kính tế và xã hội, những người đơn sơ. Luôn luôn chúng ta thấy những người này thường bị khinh khi và bị xử tệ.
Để tránh những thái độ như thế, Đức Giêsu nhắc đến giá trị của chính những con người đó. Chính Thiên Chúa biết và tôn trọng từng người này. Họ là con Thiên Chúa và hơn nữa, Thánh Kinh gọi họ là “con người của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu lại đồng hóa mình với họ :“Quả thật, Ta bảo các ngươi, những gì các người đã không làm cho một người nào trong các kẻ hèn mọn nhất này, là các ngươi đã không làm cho chính mình Ta” (Mt 25,45).
Tất cả ngày tháng và hành động của “những kẻ bé mọn” này đều được tường trình trước mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa đã gởi những trung gian và sứ giả từ trời xuống để chăm sóc cho họ. Đó là những thiên thần phục vụ Thiên Chúa và con người.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha là Đấng an bài mọi sự cách tuyệt vời, Cha sai các thiên thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này được các ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các ngài hưởng phúc vinh quanh. Chúng con cầu xin…
Suy niệm 15: Các Thiên thần hộ thủ
(www.giaophandanang.org)
Thiên Chúa ban cho tất cả mỗi người chúng ta một Thiên Thần Hộ Thủ để đồng hành cùng chúng ta trong cuộc lữ hành trần thế để khuyên nhủ và bảo vệ chúng ta. Chúng ta nên lắng nghe với sự nhu mì và kính trọng. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu 02 tháng Mười, lễ Thiên Thần Hộ Thủ, tại nhà nguyện Santa Marta.
Bài giảng của Đức Thánh Cha trình bày những Suy niệm về sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta, và mô tả các thiên thần là đại sứ của Thiên Chúa, là Đấng đồng hành với mỗi người chúng ta. Đức Thánh Cha đã chứng minh điều này khi nhắc lại những gì xảy ra khi Chúa đuổi ông A dong ra khỏi vườn địa đàng: Ngài không để ông A dong bơ vơ một mình cũng chẳng nói với ông: “Hãy tự lo cho bản thân ngươi đi”, nhưng Chúa ban cho tất cả mọi người một Thiên Thần Hộ Thủ của Thiên Chúa, là Đấng đang ở bên cạnh chúng ta.
Đại sứ của Thiên Chúa bên cạnh chúng ta
“Vị ấy luôn ở với chúng ta! Và đây là một thực tế. Giống như có đại sứ của Thiên Chúa ở với chúng ta. Và Chúa khuyên chúng ta: ‘Hãy tôn trọng sự hiện diện của ngài!’ Chẳng hạn, khi chúng ta phạm một tội lỗi, chúng ta tin rằng chúng ta chỉ có một mình, không ai biết, chẳng ai hay. Không, ngài đang ở đó. Hãy tôn trọng sự hiện diện của ngài. Hãy lắng nghe tiếng nói của ngài vì ngài cho chúng ta lời khuyên. Khi chúng ta nghe những lời dụ dỗ: ‘Nhưng hãy cứ làm điều này đi… điều này là tốt hơn. ..’ chúng ta đừng làm điều đó nhưng hãy lắng nghe tiếng nói của Thiên Thần Hộ Thủ! Đừng chống lại ngài.”
Đức Thánh Cha Phanxicô nói các Thiên Thần Hộ Thủ luôn luôn bảo vệ chúng ta, đặc biệt khỏi các tội lỗi. Ngài lưu ý rằng “Đôi khi, chúng ta tin rằng chúng ta có thể che dấu rất nhiều điều xấu xa nhưng cuối cùng những điều như thế vẫn bị đưa ra trước ánh sáng. Thiên Thần hiện diện mọi nơi để nhủ bảo chúng ta và che chở cho chúng ta như một người bạn thân thiết. Một người bạn chúng ta không nhìn thấy nhưng chúng ta có thể nghe được tiếng nói của ngài vang lên trong thẳm sâu tâm hồn chúng ta, một người bạn một ngày kia sẽ ở cùng chúng ta trong niềm vui vĩnh cửu của Thiên Đàng.”
Tôn trọng và lắng nghe ngài
“Tất cả điều ngài đòi hỏi nơi chúng ta là lắng nghe và tôn trọng ngài. Tất cả chỉ tóm gọn trong sự tôn trọng và lắng nghe ngài. Sự tôn trọng và lắng nghe người bạn đồng hành này trong cuộc hành trình của chúng ta được gọi là sự nhu mì. Các Kitô hữu phải nhu mì trước Chúa Thánh Thần. Nhu mì hướng về Chúa Thánh Thần bắt đầu với sự tuân phục những lời khuyên của ngài trong cuộc hành trình của chúng ta”
Đức Thánh Cha giải thích thêm rằng để nhu mì, chúng ta cần phải trở nên như trẻ thơ và Thiên Thần Hộ Thủ của chúng ta là một người bạn đồng hành dạy ta sự khiêm nhường này và cũng giống như các trẻ thơ chúng ta vâng nghe lời ngài.
“Xin cho chúng ta biết cầu xin cùng Chúa cho ân sủng của sự nhu mì này, để lắng nghe tiếng nói của người bạn đồng hành này, tiếng nói của vị đại sứ của Thiên Chúa, là Đấng đồng hành với chúng ta nhân danh Ngài và xin cho chúng ta có thể được nâng đỡ bởi sự trợ giúp của Thiên Thần Hộ Thủ. Chúng ta phải tiến tới trong cuộc hành trình. Và trong Thánh Lễ này, nơi chúng ta ca ngợi Chúa, chúng ta hãy nhớ Thiên Chúa tốt lành dường bao, ngay sau khi chúng ta đánh mất tình bạn với Ngài, Thiên Chúa không để chúng ta bơ vơ lạc lõng. Ngài không bỏ rơi chúng ta.”
01/10 Con đường thơ ấu thiêng liêng
- Viết bởi Mt 18, 1-4
Con đường thơ ấu thiêng liêng.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 26 thường niên. – THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU, TRINH NỮ, TIẾN SĨ HỘI THÁNH. Lễ kính.
Bổn mạng các xứ truyền giáo.
"Nếu không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời".
* Thánh nữ sinh năm 1873 tại A-lăng-xông, nước Pháp. Người nhập đan viện Cát Minh ở Li-di-ơ, lúc tuổi còn rất trẻ, và nhận tên là Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Chị đã sống đời khiêm tốn, đơn sơ theo tinh thần Tin Mừng và hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa theo “con đường thơ ấu”.
Chị cũng đã dùng lời nói và gương sáng để hướng dẫn các tập sinh trong Dòng. Chị qua đời ngày 30 tháng 9 năm 1897 trong niềm khao khát được hiến dâng mạng sống để các linh hồn được ơn cứu độ và Hội Thánh được tăng triển.
LỜI CHÚA: Mt 18, 1-4
Khi ấy, các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?"
Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Bí mật của Thánh Têrêsa Hài Đồng
Bạn đã bao giờ nghe về Thánh Thérèse hay Thánh Têrêsa Hài Đồng và những bí mật về thánh nữ? Bạn có biết tại sao có rất nhiều người chọn ngài làm thánh quan thầy, và là người bạn gần gũi nhất của mình không?
Câu chuyện của Thérèse Martin
Thérèse Martin sinh ra trong một thị trấn thuộc Alencon, Pháp vào ngày mùng 2 tháng 1 năm 1873. Chị là con gái út trong gia đình gồm 5 chị em gái. Khi chị còn rất nhỏ, mẹ của chị mắc căn bệnh ung thư. Vào thời đó, họ không có thuốc và sự điều trị tốt như ngày nay. Các bác sĩ đã cố gắng hết sức nhưng căn bệnh của bà Martin vẫn ngày càng nặng thêm. Bà đã mất khi Thérèse mới chỉ 4 tuổi.
Đó là khi bố của Thérèse quyết định tốt hơn nên chuyển nhà đến Lisieux, một thị trấn khác, nơi có nhiều người thân sinh sống. Ở đó có tu viện Carmelite, một tu hội dòng kín, nơi các thiếu nữ làm một công viêc đặc biệt đó là cầu nguyện cho toàn thế giới. Khi Thérèse được 10 tuổi, một chị gái của chị là Pauline đã xin nhập dòng Carmelite ở Lisieux. Điều đó thật khó khăn cho Thérèse vì chị Pauline giống như người mẹ thứ hai của Thérèse, chăm sóc và dạy dỗ chị ân cần như mẹ đã từng làm. Thérèse nhớ chị Pauline đến phát ốm. Suốt cả tuần sau đó chị vẫn chưa khỏi, các bác sĩ không biết chị đã gặp vấn đề gì. Bố và 4 chị gái của Thérèse đã cầu xin Thiên Chúa giúp. Một ngày sau, tượng Đức Mẹ trong phòng ngủ của Thérèse bỗng dưng mỉm cười với Thérèse và chị hoàn toàn bình phục!
Một lần khác, Thérèse nghe tin về một người đàn ông đã gây ra ba vụ giết người và thậm chí còn không biêt hối lỗi. Chị quyết định cầu nguyện và làm một việc hy sinh để cầu nguyện cho ông ấy (như từ bỏ một cái gì đó mình thích, hay làm một việc nào đó mà mình không thích). Chị cầu xin Chúa thay đổi tâm hồn người đàn ông ấy. Trước khi người đàn ông đó chết, ông ta hỏi về cây thánh giá và hôn lên hình Chúa Giêsu. Thérèse cảm thấy rất hạnh phúc, chị biết rằng ông ta đã tin vào Chúa và đón nhận ơn sám hối.
Thérèse rất yêu mến Chúa Giêsu. Chị muốn dâng hết cả con người mình cho Chúa. Chị muốn gia nhập dòng Camelô để có thể dâng hiến đời mình để làm việc và cầu nguyện cho mọi người, nhất là cho những người còn chưa biết đến lòng thương xót Chúa. Nhưng Thérèse gặp một trắc trở: chị còn quá trẻ, cần phải cầu nguyện và chờ đợi thêm. Cuối cùng thì chị cũng được 15 tuổi, được phép gia nhập vào tu viện.
Chị Thérèse đã làm gì trong thời gian ở tu viện? Không gì đặc biệt cả. Bí mật của chị ấy là: YÊU MẾN. Có một lần Thérèse nói rằng: “Thiên Chúa không muốn chúng ta phải làm điều này điều kia cho Ngài, mà Ngài muốn chúng ta yêu Ngài là đủ”. Vì thế, Thérèse đã ước muốn và thực hành đời sống yêu mến Chúa. Chị tập kiên nhẫn và ân cần với mọi người, điều đó thật không dễ chút nào. Trong thời ấy, lúc các chị đang giặt quần áo bằng tay (lúc đó máy giặt chưa được phát minh), có một chị luôn làm bắn tóe nước bẩn vào mặt Thérèse. Nhưng Thérèse chẳng bao giờ tỏ ra bực bội. Thérèse thường hay giúp đỡ một chị lớn tuổi có tính cáu gắt và luôn phàn nàn về mọi thứ, bởi vì Thérèse không cảm thấy thích việc đó. Thérèse muốn đối xử với chị ấy như với chính Chúa Giêsu. Chị biết rằng khi mình yêu những người khác tức là mình đang yêu chính Chúa Giêsu. Tình yêu khiến Thérèse trở nên hạnh phúc.
Thérèse chỉ sống đời tu 9 năm. Căn bệnh lao đã xảy đến với chị, nó khiến chị phải chịu rất nhiều đau đớn. Không có sự điều trị đối với căn bệnh ấy, các bác sĩ cũng không thể giúp được nhiều cho chị. Thérèse qua đời khi mới chỉ 24 tuổi. Nhưng trước khi chết, chị đã hứa sẽ không từ bỏ điều bí mật của mình. Chị hứa sẽ luôn yêu thương và giúp đỡ mọi người khi về quê trời. Trước khi mất, Thérèse đã nói: “Tôi sẽ gửi mưa ơn lành từ trời xuống mặt đất”. Và chị ấy đã làm được điều đó! Tất cả mọi người trên thế giới, những người đã nhờ thánh Thérèse Lisieux cầu xin đến Thiên Chúa đều nhận được sự đáp trả qua lời cầu nguyện của họ.
Bí mật của Thánh Têrêsa Hài Đồng
Thérèse đã khám phá ra “con đường nhỏ” để đến với Thiên Chúa: Thérèse muốn nên Thánh. Ngài biết Thiên Chúa rất muốn giúp đỡ mình và đặt hết mọi tin tưởng nơi Thiên Chúa và yêu Chúa hết cả tấm lòng, sau đó ngài quan tâm, đối xử tốt với mọi người xung quanh, từ những việc đơn giản nhất. “Con đường nhỏ” của Thérèse là làm mọi việc bạn có thể làm cho người khác vì yêu mến Chúa. Đó chắc chắn là cách để bạn có thể nên thánh.
Suy niệm 2: Trẻ thơ người lớn nhất trong Nước Trời
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Để trở thành người lớn nhất trong Nước Trời, ta phải tự hạ và phó thác trọn vẹn xác hồn cho Chúa như trẻ thơ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm nay con nhìn lên khuôn mặt Chúa đầy bao dung, hiền hậu, chan chứa yêu thương khi Chúa để các em bé vây quanh. Đó cũng là khoảnh khắc Chúa ghé nhìn và lưu ý đến con để xác định con phải sống như thế nào để trở thành người lớn nhất trong Nước Trời. Chúa dạy con tự hạ và phó thác như trẻ thơ. Quả thực, Lời Chúa làm con băn khoăn và sững sờ như các môn đệ xưa.
Lạy Chúa, giá trị của xã hội trần gian và của Nước Trời có một khoảng cách khác biệt quá lớn mà hôm nay con mới nhận ra. Nhìn lên Chúa, con cảm thấy an tâm phấn khởi vì điều kiện Chúa đặt ra cho kẻ lớn nhất trong Nước Trời thật đơn giản, là tự hạ và hoàn toàn phó thác tin tưởng vào Chúa như tâm hồn các em bé. Nhưng khi nhìn lại, con thấy mình chưa thực hiện đòi hỏi ấy trong cuộc sống đầy cạm bẫy, bon chen, lo lắng hôm nay. Cuộc đời luôn thay đổi như một quy luật tất nhiên mà con không thể đứng ngoài. Vâng, xã hội loài người vẫn là mạnh được yếu thua, mạnh vì gạo bạo vì tiền. Cuộc đời là phải đấu tranh có địa vị, danh lợi, chức quyền và cả lạc thú nữa. Con đang trong vòng xoay đó và con thường bị nó cuốn hút vào. Chính cuộc sống đó dần dần làm tâm hồn con mất đi lòng tín thác đơn sơ tự hạ như các trẻ thơ. Xin ánh mắt Chúa nhìn xuống và gia ân để con tỉnh thức trong cuộc đời này.
Cậy nhờ lời cầu bầu của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, xin Chúa giúp con biết phó thác trọn vẹn cuộc sống cho lòng yêu thương quan phòng của Chúa. Xin Chúa hướng dẫn điều khiển cuộc sống hôm nay và mai sau vì con muốn đặt trọn niềm tin yêu nơi Chúa. Xin thương giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”.
Suy niệm 3: Gắn bó vào Ðức Giêsu như trẻ thơ
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một cậu bé gõ cửa nhà một bà già và hỏi xem bà có mua những trái trứng cá chín mọng cậu vừa hái được hay không. Bà trả lời: “Có, bà sẽ xách xô của cháu vào bếp và đong 2 lít”.
Cậu bé đứng ngoài đùa với con chó. Bà nói: “Sao cháu không vào xem bà đong có đúng không ? Nhỡ bà lường gạt cháu thì sao ?”.
- Cháu không sợ, vì làm thế bà sẽ nhận được điều xấu nhất.
- Cháu muốn nói gì ?
- Vì cháu chỉ mất vài trái nhỏ, nhưng bà tự biến mình thành kẻ trộm.
Suy niệm
Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, nước Trời chỉ dành cho những ai có tâm hồn trẻ thơ vì các em có các đức tính:
Khiêm nhường: Trẻ em thì yếu đuối, vô năng lực, chúng không thể làm gì dựa trên sức lực riêng, và luôn tùy thuộc vào cha mẹ trong mọi sự. Người có tâm hồn trẻ thơ biết ra điều đó và chấp nhận.
Nghèo khó: Trẻ em không có riêng gì là của mình, chỉ được người khác ban cho mà thôi.
Trông cậy: Trẻ em chỉ biết có cha mẹ của mình. Trẻ em trông chờ cha mẹ nuôi dưỡng cung cấp cho mình những điều cần thiết vì vậy không cần lo lắng gì.
Tình thương yêu: Trẻ em có tình thương yêu, yêu cha mẹ và phó thác mình vào cha mẹ.
Đơn sơ: Mọi sự trong trẻ em thì đơn sơ, từng ý nghĩ và lời nói cả việc làm nữa. Trẻ em chỉ có khả năng làm những việc nhỏ.
Ðức Giêsu đưa trẻ em ra làm lý tưởng sống; “Con đường thơ ấu thiêng liêng”, mà sau này thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu tái khám phá biểu lộ tinh thần đơn sơ của con đường nhỏ, để trở nên thánh thiện, bằng việc yêu mến và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.
Thật thế, chúng ta cũng cần sống gắn bó vào Ðức Giêsu như trẻ thơ.
Ý lực sống
“Ai không đón nhận nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Lc 18,15-17).
Suy niệm 4: Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
* lịch sử
Thánh Têrêxa sinh tại Alençon ngày 2.1.1873, qua đời tại Lisieux ngày 30.9.1897
Thánh Tê-rê-xa chào đời ngày 2.1.1873 tại Alençon nước Pháp. Song thân là cụ Louis Martin (+ 1894) và bà Maria Guérin (+ 1877) có tất cả 9 người con, nhưng chỉ sống có 5; cả 5 cô con gái đều bước vào tu viện. Khi Tê-rê-xa chưa tròn 4 tuôi, bà mẹ Guérin qua đời để lại một tang buồn cho gia đình, nhất là Tê-rê-xa. Bà phải chịu ung thư suốt 12 năm đến lúc kiệt sức phải qua đời. Từ Ngôn sứ ày đó ông Louis bỏ Alençon lui về Lisieux với cả gia đình.
Vào tháng 4.1888 Têrêxa vào đan viện Cát Minh ở Lisieux lúc được 15 tuổi. Lúc ấy chị có cản nghiện phong phú về đời sống đạo đức. Chính chị xem đêm Giáng Sinh 1886 như là một sự kiện quyết định trong đời sống của chị. Chị cảm nhận hồng ân của một cuộc chuyển đổi hoàn toàn; từ đấy, chị hiểu ơn gọi của cuộc đời mình là yêu Chúa Kitô và yêu con người.
Cuộc đời trong dòng Cát Minh của chị, mặt ngoài rất đơn sơ, nhưng con đường nội tâm càng ngày càng lên cao. Chị hiểu rõ tình yêu của chị đối với Chúa Kitô phải được thực hiện trong việc theo Chúa trên con đường khổ nạn. Thánh Kinh đối với chị ngày càng nên sách đọc duy nhất, nhưng kèm theo đó là thử thách nội tâm và đau khổ phần xác lại diễn ra hằng ngày.
Trong đêm thứ sáu Tuần Thánh năm 1896, chị bị ho ra máu lần đầu tiên. Mười tám tháng cuối cùng là một cuộc tử đạo triền miên. Chị qua đời ngày 30.9.1897, hưởng dương 24 tuổi, với tiếng thì thào: “Lạy Chúa, con yêu Chúa!”
Chúng ta biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và “Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêxa đi vào cái trọn vẹn, cái vĩ đại: chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới; chị muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu; chị muốn yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kêu ngạo, chị luôn nhận thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu của Chúa ban cho.
Đức Thánh Cha Piô XI nâng Têrêxa lên hàng hiển thánh và đặt làm thánh quan Thầy cho các xứ truyền giáo. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Các môn đệ đã tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Trong nếp sống cộng đoàn, vấn đề làm lớn làm nhỏ cũng thường gây va chạm. Chúa Giêsu dạy phải trở nên trẻ nhỏ: trở nên trẻ nhỏ là khiêm tốn chấp nhận thân phận của mình trong gia đình, và sẵn sàng vâng lời người lớn…
Trong những lời dạy các môn đệ hãy trở lại nên như trẻ nhỏ, Chúa Giêsu khẳng định hai điều:
- Đó là điều kiện để được vào Nước Trời
- Kẻ tự hạ như trẻ nhỏ sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời.
B.... nẩy mầm.
1. Trong cộng đoàn, sự ganh ghét nhau về địa vị, danh dự đã làm cho biết bao người khổ sở. Kẻ bị ganh ghét khổ, mà chính người ganh ghét cũng khổ. Sao chúng ta không sống đơn sơ như những đứa trẻ trong gia đình: cha mẹ đặt đâu là chúng ở đó, cha mẹ bảo gì là chúng làm nấy, không hề nghĩ ngợi so đo, chỉ nhắm đến điều duy nhất là làm cho cha mẹ hài lòng.
2. Theo khuynh hướng tự nhiên, tôi thường khinh dễ những người kém hơn tôi (mà Chúa Giêsu gọi là “những kẻ bé mọn”). Nay tôi đã nghe Chúa Giêsu bảo rằng khinh họ là khinh Chúa, đón tiếp họ là đón tiếp Chúa. Tôi nghĩ sao?
3. Hãy nghĩ đến một đứa trẻ. Nó có nhiều đức tính rất đáng phục, như: lúc nào cũng hồn nhiên không lo lắng, vì nó tin rằng cha mẹ đã lo mọi sự cho nó; rất ngưỡng mộ cha mẹ, coi cha mẹ như thần tượng; luôn vui vẻ sống giây phút hiện tại; nó cũng thường xích mích với những trẻ khác nhưng rất mau quên; có những lúc nó giận cha mẹ, nhưng cha mẹ dỗ ngọt vài lời là nó bỏ qua ngay v.v.
Bởi thế, Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã chọn nên thánh bằng con đường trẻ thơ.
4. “Chúa Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: Thầy bảo thật anh em nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,2-3)
Nếu trẻ thơ chẳng biết giận lâu, thì với con; sống để dạ, chết mang theo. Trẻ thơ không màng giành chức tước; riêng con nghiêng mình trước công danh. Trẻ thơ luôn biết mình yếu đuối; còn con khẳng định mình trên hết. Trẻ thơ yêu với cả tâm hồn; còn con theo bề ngoài đánh giá. Trẻ thơ sống những gì mình có; con thường nặn mình rất công phu.
Lạy Cha, có những bài học của trẻ thơ tuy đơn sơ mà cao vời vợi, để người lớn học cả đời chưa tròn nghĩa một câu. Xin dạy con nên như trẻ nhỏ, để con bước trên đời không chỉ bằng đôi chân của con, nhưng biết buông mình trong tay Cha từ ái. (Hosanna)
5. “Ai tự hạ, coi mình như anh em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.” (Mt 18,4)
Một lần nọ, tôi đọc được lời nguyện này của một người bạn: Lạy Chúa, xin cho con lòng khiêm nhường để biết nhìn ra mọi sự là hồng ân. Xin cho con lòng khiêm nhường để dám đối diện với sự thật. Xin cho con lòng khiêm nhường để can đảm vác thập giá hàng ngày theo Chúa. Xin cho con lòng khiêm nhường để không mệt mỏi vươn lên. Xin cho con lòng khiêm nhường để không đòi cho được phải hơn kẻ khác, nhưng luôn biết chấp nhận sự trổi vượt nơi mỗi con người, và xin cho con lòng khiêm nhường để bớt đi mọi lời khoe mẽ, nhưng thay bằng những lời tạ ơn.
Và Lạy Chúa, lời nguyện của con hôm nay: xin cho con luôn sống khiêm nhường để xây dựng Thiên Đàng quanh con. (Hosanna)
Suy niệm 5: Con đường nên thánh cùa thánh Têrêxa
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, bổn mạng các xứ Truyền giáo.
Với thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, chúng ta có rất nhiều đề tài để suy niệm. Tuy nhiên với thời lượng có giới hạn hôm nay, chúng ta chỉ dừng lại ở con đường nên thánh của ngài.
Thông thường khi nói đến sự thánh thiện, chúng ta hay nghĩ đến những hành động phi thường, một cái chết can trường, một cuộc sống dấn thân hy sinh, một cuộc từ bỏ ngoại hạng. Nói chung, sự thánh thiện gợi lên cho chúng ta một cuộc sống vượt qua những khả năng tự nhiên của con người. Có lẽ thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã làm một cuộc cách mạng trong cách nhìn và sống sự thánh thiện.
Trong quyển tự thuật có tựa đề “Một Tâm Hồn”, thánh nữ đã ghi lại như sau: Tôi hằng khao khát được nên thánh, nhưng mỗi lần so sánh mình với các thánh, tôi thường nhận ra sự khác biệt trời biển này. Đó là các ngài giống như những ngọn núi thái sơn, dấu đầu trong những đám mây, còn tôi, tôi chỉ là những hạt nhỏ li ti bị kẻ đi qua, người đi lại dẫm lên. Tuy nhiên, điều đó không làm cho tôi thất vọng. Tôi tự nhủ: Lẽ nào Chúa gợi nên những ước muốn mà lại không cho ước muốn ấy được thực hiện. Rõ ràng là tôi không thể làm được điều gì vĩ đại. Do đó, tôi phải thánh hoá bằng chính sự thấp hèn của tôi mà thôi. Tôi phải chấp nhận chính mình với tất cả con người của tôi, vì tất cả những bất toàn của tôi. Nhưng bằng mọi giá, tôi phải tìm ra một con đường nhỏ, một con đường của riêng tôi, một con đường ngắn và trực tiếp lên Thiên Đàng.
Ngày nay, người ta nhất là những người giầu có không phải nhọc công để leo lên từng bậc thang nữa, vì họ đã có những thang máy tiện nghi hơn. Phải chăng tôi không thể tìm cho mình một thang máy đưa tôi lên thẳng với Chúa Giêsu. Bởi vì, tôi quá bé nhỏ để có thể lên tới bậc thánh thiện. Nghĩ như thế nên tôi cố gắng tìm trong Kinh Thánh một chỉ dẫn của cách sống mà tôi muốn, và tôi đã tìm đuợc đoạn mà trong đó Đấng Khôn Ngoan vĩnh cửu nói như sau: “Có ai đơn sơ như trẻ nhỏ không ? Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta”(Mt 19,14). Thiên Chúa toàn năng đã làm những điều trọng đại và cao cả nhất trong tôi. Đó là Ngài đã làm cho tôi ý thức được sự nhỏ bé, bất lực của tôi.
Anh chị em thân mến ?
Qua những dòng trên đây, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta về con đường nên thánh thường được mệnh danh là “Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng” của Ngài. Con đường nên thánh mà thánh nữ đã quả quyết là “Sự nên thánh được múc từ Chúa Giêsu” mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay.
Thực thế, Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Nếu các con không hóa nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời”(Mt 18,3). Hoá nên như trẻ nhỏ có nghĩa là mặc lấy tâm tình đơn sơ, phó thác tuyệt đối vào quyền năng yêu thương của Thiên Chúa. Thánh thiện thiết yếu không có nghĩa là cố gắng làm những điều phi thường hoặc đeo đuổi một cách sống vượt quá những giới hạn bình thường của con nguời. Thánh thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã vạch ra chính là biết chấp nhận chính mình, biết đón nhận từng phút giây trong cuộc sống với tất cả yêu thương và phó thác. Biết sống giây phút hiện tại một cách sung mãn, biết nhận ra giá trị cao cả trong những công việc tầm thường nhỏ bé nhất, biết nhìn vào ngay cả những thất bại khổ đau trong cuộc sống như một ân ban của Chúa.
Mùa hè 1987 khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến thăm tiểu bang California Hoa Kỳ. Trong buổi gặp gỡ với dân chúng đón tiếp Ngài người ta đã được chứng kiến một sự kiện vô cùng đẹp đó là khi từ trên lễ đài nhìn xuống, Ngài thấy một người thanh niên tàn tật đang ôm một cây đàn và hát. Hôm ấy nhiều người đã được chứng kiến và thật không bao giờ có thể quên được khi Đức Giáo Hoàng từ trên cao Đức Giáo Hoàng bước xuống để ôm và hôn một người thanh niên đang hát với tiếng đàng ghi ta đó. Điều gì đã làm cho cảnh ấy trở nên khác lạ và giây phút ấy trở nên luyến nhớ cho nhiều người ? Thưa rằng bởi vì người thanh niên ấy đã chơi đàn ghi ta bằng những ngón chân của mình!
Tony Belade là hiện thân của niềm hy vọng. Anh đã chào đời không có hai cánh tay, nhưng anh đã biết tận dụng các ngón chân của mình để học đàn ghi ta. Không những thế, anh còn dùng chân trong nhiều công việc khác nữa như: gấp quần áo, vắt một ly nước chanh... Anh đã biết biến sự tàn tật kém may mắn của mình thành một khả năng thuần thục. Ngạc nhiên trước khả năng lạ lùng ấy của anh, nhiều người đã hỏi anh:
- Bí quyết nào đã giúp anh chẳng những chấp nhận mình để sống bình thường, mà còn sử dụng ghi ta một cách tuyệt diệu như thế ?
Người thanh niên tàn tật trả lời:
- Tôi đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo Thánh ý Chúa”. Tôi đã tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Chúa đã nhận lời tôi.
Không ai trong chúng ta được chọn lựa sinh ra hoặc không sinh ra. Không ai trong chúng ta được chọn lựa làm đàn ông hay đàn bà. Không ai trong chúng ta được chọn lựa làm người xinh đẹp hay xấu xí, thông mình hay ngu đần, giàu sang hay nghèo hèn... Dưới mắt người đời, mỗi người chúng ta đến trong trần gian này với tất cả một định mệnh. Người ta thường hay nói: Có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt, có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người may mắn, có người kém may mắn. Thế nhưng, trong ánh mắt tình yêu của Thiên Chúa thì số phận nào cũng là một hồng ân cao cả. Thiên Chúa luôn có một chương trình cho mỗi một con người.
Nói tóm lại, thánh thiện đích thực là trong tất cả mọi sự có thể thốt lên như thánh nữ: “Tất cả đều là ân sủng”.
Cùng với vị thánh đã được Giáo Hội chọn làm quan thầy các xứ truyền giáo, mặc dù chưa một lần ra khỏi bức tường của Dòng Kín, chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả cuộc sống với không biết bao nhiêu thử thách khổ đau từng ngày. Nguyện cho niềm tin tưởng phó thác của các tín hữu Chúa được trở nên dấu chứng tình yêu của Ngài đối với mọi người.
Lạy Chúa, dù thế giới này có thừa mứa của cải vật chất và tiện nghi đến đâu, con người thời đại cũng sẽ mãi mãi bất hạnh, nếu họ chưa sống theo tinh thần con đường nhỏ mà thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu vạch ra. Nguyện xin thánh nữ cầu thay nguyện giúp để chúng ta được đi vào con đường nhỏ bé ấy. Amen.
Suy niệm 6: Trở nên như trẻ nhỏ
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.)
1. “Ai là người lớn nhất?”
Trên đường đi theo Đức Giê-su, đến một lúc nào đó, các môn đệ tranh cãi với nhau xem ai là người lớn nhất. Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều thuật lại cuộc tranh luận và đặt ngay sau khi Đức Giê-su loan báo lần thứ hai cuộc Thương Khó mà Ngài sẽ trải qua. Thánh Luca nói rằng đây là vấn đề các môn đệ « trăn trở ở trong lòng », và vì thế, ngay sau Bữa Tiệc Ly, họ lại tiếp tục tranh luận vấn đề ai là người lớn nhất trong nhóm (Lc 22, 24). Thánh Mát-thêu, đẩy vấn đề đi xa hơn: họ đến hỏi trực tiếp Đức Giê-su để biết ai là người lớn nhất trong Nước Trời !
Lược qua một chút bối cảnh và cách ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật, như thế là quá đủ để chúng ta nhận ra rằng đây là một « căn bệnh » nghiêm trọng của các môn đệ thời Đức Giê-su. Bệnh nghiêm trọng, vì đó là một thứ bệnh ung thư gây mất hiệp nhất, vì sẽ phải tranh cãi với nhau, ganh tị nhau, loại trừ nhau (x. Mt 20, 17-28); ngoài ra, đó là một căn bệnh nghiêm trọng, còn là vì bệnh này là bệnh “mãn tính” và lây lan, có mặt ở mọi nơi và mọi thời.
Thật vậy, con người luôn muốn hơn và muốn đứng đầu trong mọi lãnh vực, thậm chí trong các nhân đức, trong đó có nhân đức khiêm nhường, vì người ta cũng phân chia nhân đức khiêm nhường ra thành bậc! Con người khổ sở vì sự thua thiệt trong thân phận và trong ganh đua; tự xếp loại mình và xếp loại nhau; từ đó không chấp mình không chấp nhận nhau trong trong thâm tâm. Rộng hơn nữa, đó còn là cách sống, cách làm việc và cách tổ chức của con người ngoài đời cũng như trong đạo: thi đua, thi tuyển, phân cấp, xếp bậc, xếp loại…. Kết quả là “những người bé nhỏ” theo nghĩa rộng và ở nhiều bình diện khác nhau, vốn chiếm đa số, bị khinh chê, thậm chí bị loại trừ, hay ít nhất tạo ra nơi họ mặc cảm thua kém rất tai hại và chết chóc.
2. Nên như trẻ nhỏ
Cách Đức Giê-su chữa căn bệnh này, và cách các Tin Mừng kể lại càng làm cho chúng ta nhận ra rằng đây là một thứ bệnh khó chữa. Ba Tin Mừng Nhất Lãm không hoàn toàn đồng nhất với nhau khi kể lại cách Đức Giê-su giải quyết; nhưng cả ba đều có ít nhất ba điểm chung:
Đảo lộn hoàn toàn quan niệm lớn-bé của các môn đệ và của loài người chúng ta: muốn làm lớn phải không ? Ai là người nhỏ nhất trong nhóm, thì là người lớn nhất (theo Tin Mừng Luca); hãy thay đổi và trở nên như trẻ nhỏ (theo Tin Mừng Mát-thêu); hãy trở nên người rốt hết và trở nên người phục vụ mọi người.
Để các môn đệ đừng hiểu lung tung những khái niệm ‘‘nhỏ nhất’’, ‘‘trẻ nhỏ’’, ‘‘người rốt hết và người phục vụ’’, Đức Giê-su đem một em bé tới đặt giữa họ.
Cuối cùng, giảng giải bằng lời và bằng minh họa vẫn chưa đủ, Đức Giê-su đi đến cùng bằng cách đồng hóa mình với em nhỏ: ‘‘Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy ».
Loài người ham muốn vị trí “lớn nhất”, Đức Giê-su lại đẩy về một cực khác, là “nhỏ nhất”: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Nhưng phải làm thế nào để trở nên như « trẻ nhỏ » ? Chúng ta không thể lùi thời gian lại được; vì thế, ai muốn quay trở lại với thời ấu nhi để có được sự ngây thơ trong trắng, thì đó là ‘‘ngây thơ cụ’’. Trở nên như “trẻ nhỏ” là một ơn gọi, luôn ở phía trước.
Trở nên như trẻ nhỏ là luôn sống trong tương quan và sống bằng tương quan, vì trẻ nhỏ không thể sống một mình.
Trở nên ‘‘trẻ nhỏ’’ là ơn gọi trở nên con của Thiên Chúa Cha, là luôn sống như con của Thiên Chúa Cha, giống như Đức Giê-su, dù chúng ta là ai, ở độ tuổi nào và có chức vụ gì. Vì khi gặp một trẻ nhỏ, chúng ta luôn hỏi: “con ai vậy?”
Trở nên như trẻ nhỏ, còn là sống bản chất hiền lành vốn có trong cõi lòng chúng ta; bởi vì chúng ta là con của Thiên Chúa Cha, và được mời gọi trở nên giống Cha, vốn là tình yêu, là hiền lành. Chính sự hiền lành sẽ chiến thắng được thù địch, vốn là hình ảnh cụ thể của thú tính, sự dữ, lòng ham muốn, bạo lực. Như Đức Giê-su công bố trong Bài Giảng Trên Núi:
Phúc thay những người hiền lành,
Vì họ sẽ có được Đất Hứa làm gia nghiệp. (Mt 5, 4)
3. Thánh Nữ Tê-rê-xa và “con đường thơ ấu thiêng liêng”
Ngang qua việc chuyên cần đọc và cầu nguyện với các Tin Mừng, Thánh Tê-rê-xa đã khám phá con đường “con đường thơ ấu thiêng liêng” của Đức Giê-su và đã sống đến cùng theo cách của mình, theo ơn gọi của mình và theo những ơn huệ cùng với thử thách của mình. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm hình ảnh tuyệt đẹp này: Đức Giê-su ôm em bé; và Ngài sẽ thực sự trở nên em bé đối với Cha và loài người trên Thập Giá. Thánh nữ Tê-rê-xa cũng đã sống như thế đó, trong tình yêu con thảo với Cha, trên Thập Giá bệnh tật của đời mình.
Như thế, Đức Giê-su chữa lành chúng ta không chỉ bằng lời, nhưng còn bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá. Thật vậy, nơi Thập Giá, Ngài sống như một em bé: yếu đuối, bất lực và tự đặt mình vào vị trí tận cùng của bậc thang xã hội: tử tội và chết treo trên Thập Giá! Bởi vì, trẻ em và những người bé nhỏ, giới hạn yếu đuối là “nơi” bày tỏ tốt nhất sức mạnh và khôn ngoan của Thiên Chúa (x. Tv 8). Và Giáo Hội đã nhận ra “sức mạnh và sự khôn ngoan” của Thiên Chúa nơi “con đường thơ ấu thiêng liêng”, khi tôn phong thánh nữ Tê-rê-xa là Thầy Dạy của Giáo Hội, nghĩa là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Suy niệm 7: Con Ðường Nhỏ
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Ðây quả thật là một sự trùng hợp hay ho vì chúng ta được dịp suy nghĩ hai lần theo hai biểu tượng khác nhau về thái độ sống như trẻ nhỏ để vào Nước Trời. Tác giả Phúc Âm theo thánh Luca nhắc đến chi tiết này: các môn đệ còn suy nghĩ trong lòng xem ai là kẻ lớn nhất và Chúa Giêsu đã hiểu thấu tâm tư của các ông nên Chúa gọi một trẻ nhỏ đến và dạy các ông bài học nên giống như trẻ nhỏ. Hôm nay, mùng 1/10, đúng ngày lễ kính thánh Têrêsa Hài Ðộng Giêsu, Giáo Hội chọn đọc Phúc Âm theo thánh Mátthêu nói về cùng một vấn đề nhưng trong viễn tượng khác. Theo tác giả Phúc Âm theo thánh Mátthêu thì các môn đệ không còn suy nghĩ trong lòng nữa nhưng đã tranh luận với nhau mà không tìm được câu trả lời nên mới đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?” Hai viễn tượng này không đối nghịch nhau nhưng bổ túc cho nhau và mô tả cho chúng ta tâm thức quá ư phàm trần của các môn đệ lúc đó, khi các ngài chưa được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Không những các môn đệ đã suy nghĩ trong lòng mà còn đem ra thành đề tài tranh luận nữa. Hành động này diễn tả thái độ nội tâm, lòng đã nghĩ xấu rồi, đã có sự ganh tị rồi nên mới đưa đến sự ganh tị với nhau. Các môn đệ chưa nhận được Chúa Thánh Thần, chưa được thanh luyện để trở nên con người mới, trở nên như trẻ nhỏ, có tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn, trong sạch để làm việc cho Chúa.
Ðọc đoạn Phúc Âm này, chúng ta lưu ý thêm chi tiết này nữa, đó là Chúa Giêsu không trả lời liền câu hỏi mà các môn đệ đặt ra: “Ai là kẻ lớn nhất?”, nhưng Chúa nói tới việc phải sống như trẻ nhỏ trước rồi sau đó mới trả lời: “Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này thì người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời”. Chúa Giêsu không nói đến địa vị lớn nhỏ nhưng nói về giá trị tinh thần của con người sống như trẻ nhỏ, dễ dàng gần gũi thân tình với Chúa trước. Chính tình thương và ân sủng của Chúa mới làm cho con người được cao trọng chứ không phải những công việc do sức riêng của con người tạo nên.
Thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu mà chúng ta mừng lễ hôm nay đã nêu gương cho chúng ta về điểm này khi thánh nữ đề ra con đường nhỏ để sống thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa. Cùng với thánh nữ chúng ta hãy cầu nguyện như sau:
Lạy Chúa của con,
Con muốn biết điều mà Chúa thực hiện cho kẻ bé nhỏ nhất đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chiếc thang máy để đưa con lên đến trời cao là chính đôi tay Chúa, vì thế con không cần lớn lên mà hiện tại con cần phải ở lại trong tâm tình bé nhỏ, cần phải càng ngày càng trở nên bé nhỏ hơn nữa.
Lạy Chúa của con, Chúa đã cho con nhiều hơn điều con hy vọng là con muốn hát lên chúc tụng tình thương nhân từ của Chúa. Xin Chúa thương ban cho con một tâm hồn đơn sơ tươi trẻ, luôn tin tưởng phó thác vào Chúa như trẻ nhỏ phó thác vào cha mẹ và lúc nào cũng sống an vui, chân thành yêu Chúa và anh chị em.
Suy niệm 8: Truyền giáo
Nhìn vào cuộc đời của thánh nữ Têrêsa, chúng ta không thấy được những hành động to tát hay những mẫu gương sáng chói. Con đường thánh nữ đã đi là con đường ấy thơ, ngập tràn những bông hoa của tin yêu và phó thác. Thánh nữ luôn sống dưới cái nhìn trìu mến của Thiên Chúa và cố gắng chu toàn những bổn phận tầm thường, những công việc không tên của một nữ tu dòng kín.
Vậy tại sao Giáo hội lại tôn kính thánh nữ như một bậc đại thánh và đặt thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo?
Thực vậy, với hai mươi bốn tuổi đời, không bước chân ra khỏi những bức tường của tu viện, không bôn ba nơi những vùng đát xa lạ để rao giảng Tin mừng cho dân ngoại, như thánh Phanxicô Xaviê, người đã hiến trọn cuộc đời cho những hành trình truyền giáo, từ Nhật Bản cho tới Ấn Độ, thế nhưng Têrêsa đã được đạt ngang hàng với Phanxicô. Sở dĩ như vậy là vì Giáo hội đã thực sự nhìn thấy giá trị tuyệt vời của con đường thánh nữ đã đi, của phương thế thánh nữ đã dùng để dẫn đưa các linh hồn trở về cùng Thiên Chúa.
Vậy con đường ấy, phương thế ấy là gì?
Trước khi đề cập tới con đường và phương thế truyền giáo của thánh nữ, chúng ta cùng nhau tìm hiểu sơ qua về bổn phận tông đồ của mỗi người chúng ta.
Phúc Âm kể lại: ngày kia, khi đi ngang qua một cánh đồng, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn những bông lúa vàng và nói với các môn đệ:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ sai thợ đi gặt lúa về.
Rồi trước khi về trời, Ngài đã chính thức trao cho các ông sứ mệnh lên đường truyền giáo:
- Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Mơ ước của Ngài là mơ ước của một ngọn lửa. Thực vậy. Ngọn lửa thì nhỏ bé, nhưng mơ ước của nó thật lớn lao vì nó muốn thiêu đốt tất cả. Chúa Giêsu cũng muốn mọi người nhận biết Ngài để rồi qui tụ về với Ngài, hầu chỉ còn một đàn chiên và một chủ chiên.
Vì thế, bổn phận truyền giáo không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng còn phải là một bổn phận chung của hết mọi người tín hữu chúng ta. Bởi vì một khi đã sống trong lòng Giáo hội, chúng ta có trách nhiệm phải làm cho Giáo hội được lớn mạnh, được phát triển không ngừng. Một khi đã là con cái Thiên Chúa, chúng ta có bổn phận phải làm cho mọi người nhận biết Ngài.
Để chu toàn bổn phận và trách nhiệm này, chúng ta có thể dùng lời nói để rao giảng Tin mừng như các thánh tông đồ và như các vị thừa sai. Tuy nhiên, đây không phải là phương thế của thánh nữ Têrêsa, bởi vì thánh nữ luôn sống trong khuôn viên nhà dòng.
Chúng ta có thể dùng việc làm, dùng đời sống gương mẫu để làm chứng cho Chúa. Và đây phải là phương pháp của mổi người chúng ta, bởi vì sống giữa lòng cuộc đời, chúng ta phải trở nên như ánh sáng trong đêm tối, như men trong bột và như muối trong thức ăn. Tuy nhiên, đây cũng không phải là phương thế của thánh nữ Têrêsa.
Phương thế chính yếu thánh nữ đã sử dụng đó là cầu nguyện và hy sinh.
Thực vậy, ngay từ hồi còn tấm bé, thánh nữ đã muốn vào dòng kín để chịu đau khổ và cầu nguyện cho Giáo hội, cho các linh mục, cho các thừa vị sai và cho các linh hồn.
Trong cuốn tự thuật mang tựa đề “Chuyện một tâm hồn”, thánh nữ đã ghi lại ước vọng sâu xa muốn được sang sống tại nhà kín Hà Nội, một xứ truyền giáo đầy triển vọng. Có lẽ vì thế mà chúng ta, những tín hữu Việt Nam, đã dành cho thánh nữ những tình cảm đặc biệt?
Lời cầu nguyện và những hy sinh của thánh nhân là như một sự yểm trợ rất cần thiết cho những hoạt động tông đồ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Mừng kính thánh nữ Têrêsa, chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã làm được những gì để cứu vớt các linh hồn, cũng như để góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội?
Suy niệm 9: “Cha ơi, tên con trên trời”
Trong xấp hình chụp ở Lisieux hè năm 1997, tôi thích nhất tấm hình chụp tại góc vườn nhà thánh nữ Têrêsa, hiện nay là nhà trưng bày những kỷ vật thời thơ ấu của ngài.
Thích tấm hình ấy không phải vì khung cảnh rộng lớn, vì chỉ là một vuông cỏ chừng một trăm mét vuông; không phải vì góc máy đẹp hay kỹ thuật chụp hình độc đáo; mà thực ra chỉ vì tấm ảnh chụp cảnh sống động bên tượng Têrêsa đứng bên cạnh cha, tay chỉ lên trời. Người ta bảo chỗ đặt tượng hiện nay là chỗ năm xưa cha con Têrêsa đã ngồi trò chuyện buổi tối. Tấm ảnh xem ra có “tiếng nói”. Câu nói hôm ấy chính là lời Têrêsa nói với cha mình khi chỉ tay lên chòm sao hình chữ T: “Cha ơi, tên con trên trời”.
Xin dựa trên câu nói đượm chất mộc mạc đơn sơ của trẻ thơ nhiều ước mơ ấy để chia sẻ về con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ Têrêsa.
1. “Cha ơi!” cho thấy con đường thơ ấu thiêng liêng khởi đi từ một hiện thực.
Têrêsa là con út trong một gia đình toàn là nữ. Ngài mất mẹ lúc lên bốn tuổi. Tuổi còn quá nhỏ để có thể ghi nhận nỗi đau, nhưng cũng đủ để ghi nhớ sự mất mát không gì bù lấp được. Từ đó thánh nữ dồn hết tình cảm cho người cha yêu quý. Và cũng từ đó, người cha phải kiêm luôn vai trò và trách vụ của người mẹ gia đình. Nếu “gà trống nuôi con” trong tiếng Việt Nam nói lên nỗi đau lận đận của người đàn ông lẻ bóng bên cạnh đàn con, thì nơi nhà Buissonnets nó đã trở thành một tình yêu khả thi khả kính và khả ái. Chính cô út mít ướt Têrêsa đã cảm nghiệm điều này hơn bất cứ thành viên nào khác của gia đình. Khúc hát tâm tình nhất của Têrêsa lúc ấy chính là hát về người cha, giống như những bài hát Việt Nam gần đây như “Bố là tất cả” hoặc “Ba sẽ là cánh chim đưa con đi thật xa…”. Đó là một hiện thực.
Từ hiện thực tưởng như mất mát, thiếu hụt bi quan ấy, Têrêsa rất tự nhiên sống lấy và đảm lĩnh trọn vẹn để sau này chuyển hóa và diễn tả về tình yêu Thiên Chúa, Đấng là CHA muôn đời. Nếu còn cha còn mẹ đầy đủ trong một gia đình hạnh phúc đủ đầy mọi sự, khi xưng Chúa là Cha, có lẽ ta chỉ có tâm tình một nửa, còn với Têrêsa thì khác, xưng Chúa là CHA với cả tâm tình dành cho người bố. Bố là tất cả, Chúa là tất cả.
Chính khởi đi từ hiện thực ấy, Têrêsa đã từng ngày đi sâu và đi xa trên con đường phó thác: phó thác mọi chuyện đời lớn nhỏ trong tay cha mình và phó thác chuyện một đời trong tay Thiên Chúa là Cha giàu lòng nhân ái, quảng đại yêu thương. Nếu lúc nhỏ Têrêsa ngồi bệt ở cầu thang khiến cha mình phải cúi xuống bồng lên, thì khi lớn Têrêsa nghiệm ra: người con nào càng nhỏ bé yếu đuối khiêm nhường phó thác, càng được Cha trên trời yêu mến bế bồng nâng đỡ dìu đưa.
2. “Tên con” cho thấy con đường thơ ấu thiêng liêng dệt bằng những bước đơn sơ mang đậm cá tính.
Đường thơ ấu thiêng liêng của Têrêsa khởi đầu là thế, với những tiếng “Bố ơi” dệt nên ngày sống và những tiếng “Cha ơi” làm nên cuộc đời. Đó là những bước chân bé nhỏ trên hành trình dài. Và thánh nữ đã thực hiện tuần tự không bằng “đôi hia bảy dặm” của phép màu dễ dãi, cũng chẳng bằng “tấm thảm biết bay” thênh thang rộng rãi hoặc bằng “đũa thần” nhẹ nhàng vung vít, nhưng bằng tấm lòng đơn sơ nhỏ bé.
Ngày nay Têrêsa được nâng lên bậc Tiến Sĩ Hội Thánh, người ta tưởng đời ngài làm bằng những việc vĩ đại. Không, rất bình thường. Trong chín năm Dòng Kín Lisieux lặng lẽ, ngài chỉ làm những việc vô cùng bình thường như những người khác, nhưng cách thế ngài làm quả là khác thường đến độ phi thường. Cách ngài làm là cách của tình yêu lớn. Việc lớn mà tình yêu nhỏ là việc thắt lại, việc nhỏ mà tình yêu lớn là việc triển nở sinh sôi. Têrêsa là Têrêsa nhỏ vì đời nhỏ việc nhỏ, nhưng Têrêsa vĩ đại vì tình yêu ngài sống khó ai có thể vượt qua.
Nhiều lúc xem ra ngài còn muốn “đánh lừa” cả Chúa nữa, như khi gặp chuyện trái ý hoặc tâm sự buồn, ngài vẫn cố gắng giữ bộ mặt tươi cười như không có chuyện gì xảy ra, không phải để các chị em trong cộng đoàn khỏi để ý hoặc bề trên hỏi han lôi thôi mất công giải thích phiền phức, mà để Chúa “khỏi biết” kẻo Chúa đau buồn. Chúa đã chịu đau khổ nhiều vì chuyện lớn lao cứu độ nhân loại rồi, dám đâu phận cỏ rơm lại làm phiền lòng Chúa vì những chuyện nhỏ. Xem ra cách chọn lựa đơn sơ và cũng trẻ thơ quá phải không?
Khi bị bề trên quở vô lý, Têrêsa rất vui vì có dịp hy sinh. Khi lượm được cọng rác lạc lõng nơi hành lang, Têrêsa rất thích vì có dịp cầu nguyện vòi vĩnh Chúa giải thoát cho một linh hồn. Khi nhìn bông hoa được ngắt chưng trên bàn thờ, Têrêsa nghĩ về niềm dâng hiến. Tất cả là bình thường tự nhiên, nhưng đã trở thành cơ hội để thánh nữ được thánh hóa trong tình yêu. Đặt “tình yêu” nhỏ của mình trong “TÌNH YÊU” vĩ đại của Chúa, sẽ hóa nên tình yêu lạ thường có sức làm cho những điều bình thường đem lại những hiệu quả phi thường.
3. “Trên trời” cho thấy con đường thơ ấu thiêng liêng vươn mở tới những ước mơ lành thánh.
Têrêsa lìa trần lúc mới hai mươi bốn tuổi. Quá trẻ cho một đời người để trở thành một vị thánh trẻ cho toàn thế giới. Nhưng nét xuân trẻ nơi Têrêsa đâu căn cứ vào tuổi tác, mà đúng ra là dựa trên tâm hồn. Trẻ vì dung dị gần gũi và cũng trẻ vì những ước mơ bay bổng. Tết Trung Thu, thiếu nhi mơ lên cung trăng gặp chị Hằng, thăm thằng Cuội, nhìn Thỏ ngọc, ngồi gốc đa nghe sáo thổi vi vu điệu nhạc nên thơ … Đó là ước mơ đơn sơ tuổi thơ ngây dại đi liền với những hình ảnh mang màu văn hóa, nhưng ước mơ của Têrêsa dẫu đơn sơ mà cao vượt, dù nên thơ mà vẫn không xa rời thực tế.
Khi Têrêsa ước mơ sẽ là tình yêu trong Giáo Hội, thì cùng lúc ngài cũng đón nhận vào mình những hy sinh của sự chia lìa đối với người thân và những biểu lộ của cơn bệnh ngặt nghèo. Khi Têrêsa ước mơ thao thức trở thành vị truyền giáo đặt chân đến những nơi thật xa thật lạ mà đem về cho Chúa thật nhiều linh hồn, lại là lúc ngài phải liệt giường liệt chiếu để mãi được gọi mời thể hiện ước mơ truyền giáo bằng việc cầu nguyện và hy sinh. Khi Têrêsa ước mơ sẽ rải mưa hoa hồng làm đẹp cuộc sống nhân thế chính là lúc ngài đang lặng lẽ nghĩ về những cánh hoa hồng được trải lên đường kiệu Mình Thánh Chúa.
Cuộc đời rộng mà không ước mơ, cuộc đời ấy sẽ bị thắt buộc trở nên hẹp hòi. Cuộc đời hẹp mà biết ước mơ, nhất là với những ước mơ lành thánh, cuộc đời ấy sẽ mở ra thênh thang cho Giáo Hội được nhờ và cũng cho Nước Trời được hiện tỏ. Nếu ước mơ là dấu hiệu của sự trẻ trung thì rõ ràng Têrêsa với những ước mơ không vơi cạn đã là một vị thánh trẻ hôm qua và sẽ còn là mùa xuân trẻ trong lòng mộ mến của Giáo Hội hôm nay.
Tóm lại, “Cha ơi, tên con trên trời” chỉ là một câu nói trẻ thơ đơn sơ đột xuất, nhưng đã toát lược những bước hành trình dệt nên con đường thơ ấu thiêng liêng của Têrêsa. Tất nhiên, con đường ấy đã được Chúa Giêsu khai sinh khi tuyên bố “Ai không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”, nhưng thực hiện con đường ấy như thế nào lại là một dấu ấn ký tên Têrêsa. Con đường ấy phổ quát mở ra cho mọi người mọi thời, con đường ấy vừa tầm với mọi bậc sống
Cầu chúc mọi người hôm nay thanh thản bước đi trên đường thơ ấu thiêng liêng và cũng nhận được những “hoa hồng” trìu mến của thánh nữ Têrêsa từ con đường ấy.
Suy niệm 10: Têrêsa HĐGS: Con đường thơ ấu thiêng liêng
(http://tgpsaigon.net// Lm An Mai CSsR)
Têrêsa Hài Đồng Giêsu sinh năm 1873, qua đời năm 1897, quả là một vị thánh rất trẻ, chỉ sống được 24 tuổi đời. Một vị thánh rất hợp thời. Một vị thánh rất gần với chúng ta. Cũng là một trong những khuôn mặt lớn của Giáo Hội công giáo, đã được Đức Piô XI tôn phong làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê của mấy thế kỷ trước. Thánh nữ được phong tiến sĩ Hội Thánh 1997.
Trong đêm thứ sáu Tuần Thánh năm 1896, chị bị ho ra máu lần đầu tiên. Mười tám tháng cuối cùng là một cuộc tử đạo triền miên. Chị qua đời ngày 30.9.1897, hưởng dương 24 tuổi, với tiếng thì thào: “Lạy Chúa, con yêu Chúa!”
Chúng ta biết được con đường nội tâm của thánh nữ nhờ vào quyển “Lịch sử một tâm hồn” và “Các lời nói” do bà chị ruột cũng là bề trên sưu tập. Têrêsa đi vào cái trọn vẹn, cái vĩ đại: chị muốn yêu mến Chúa Giêsu hơn bất cứ ai trên thế giới; chị muốn dâng mình cho tình yêu nhân từ của Chúa như của lễ toàn thiêu; chị muốn yêu tất cả mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu. Chống lại kiêu ngạo, chị luôn nhận thức mình hoàn toàn bất lực và nếu có làm được gì, đó là do sức mạnh tình yêu của Chúa ban cho.
Đức ái đã cho Têrêsa chìa khóa, để tìm ra ơn gọi và chỗ đứng của chị trong Hội thánh.
Nên thánh bằng đường thơ ấu thiêng liêng
Từ trước tới nay, chúng ta cho việc nên thánh là khó và chỉ có những linh hồn đặc biệt mới nên thánh được, vì các thánh đã nên thánh bằng những cách thức khác nhau, nhưng cách nào cũng khó khăn, vượt trên khả năng của chúng ta. Nhưng nay thánh nữ đã vạch cho chúng ta con đường mới để nên thánh, đó là “đường thơ ấu thiêng liêng”.
a) Con đường mới
Chúng ta gọi là con đường mới vì con đường nên thánh này khác hẳn với lối nên thánh cổ truyền mà chúng ta đã biết. Con đường này có những đặc tính tiêu cực và tích cực như ta sẽ thấy dưới đây. Dù tích cực hay tiêu cực, nó cũng khác với đường lối xưa và thích hợp cho hết mọi người để nên thánh. Chúng ta có thể nói được rằng đây là con đường nên thánh của thời đại mới, của thế kỷ 20.
Về phương diện tiêu cực, ta thấy Đường thơ ấu thiêng liêng này có những đặc điểm sau đây:
+ Không có những việc hãm mình kỳ lạ
Ngày xưa, các thánh được kể lại bằng những câu chuyện về việc hy sinh hãm mình của các ngài. Và ngày nay trong giới giáo hữu thơ ngây, đôi khi người ta còn thích đồng hóa sự thánh thiện anh hùng với những việc khổ hạnh đẫm máu. Đối với họ, một vị thánh tức là một người không ăn, không uống, không ngủ, kiệt sức vì thức khuya, vì đánh tội đủ mọi cách và hủy diệt hay hành hạ thân xác trong những công việc nặng nhọc để chỉ lo nghĩ đến việc rỗi linh hồn. Không còn sự sai lầm nào tác hại hơn! Một số đông tín hữu nghĩ mình không thể nên trọn lành được vì không thể ăn chay, không thể thức khuya và không thể mặc áo nhặm.
Riêng vị đại thánh thành Lisieux, chị đã nhất định gạt bỏ những điều mà thánh nữ quen gọi là “những khổ hạnh của các thánh nhân”. Hơn thế, chị còn tỏ thái độ đối lập rõ rệt, ngoại trừ vài rường hợp đặc biệt. Thoạt đầu Têrêsa đã tưởng là phải dấn thân vào con đường khổ hạnh vượt sức mình ấy... Không cần bàn cãi, nhiều bản văn đã chứng tỏ thánh nữ đã loại ra khỏi đường thơ ấu thiêng liêng của Ngài những hãm mình phạt xác kỳ lạ và những lối quá khổ hạnh của các thánh. (Philipon. Op, Sứ điệp của thánh Têrêsa thành Lisieux)
+ Không có những đặc ân thần bí
Nơi Têrêsa Hài đồng hoàn toàn không có xuất thần, dấu thánh, thị kiến, trừ qủi hay phép lạ. Con người cần phải trở nên nhà pháp thuật kỳ tài nhất của “thế hệ tận hiến” lại không thực thi một dấu lạ nào trong đời sống. Điều này là điều trái ngược với đa số tiểu sử các thánh, chỉ dựa trên những ân thần bí thuộc đủ mọi loại: xuất thần, thị kiến, m ạc khải, in dấu thánh, thần thuật trừ qủi, có thiên thần hiện ra, hiểu biết mọi tâm hồn. Ơn nói tiên tri và làm phép lạ...
Thật ra chúng ta cũng tìm ra những dấu vết, những hiện tượng lạ thường, ít ra là năm sáu hiện tượng nếu để ý quan sát đời sống thánh nữ. Nhưng nhiều nếp sống tầm thường cũng có thể có bằng ấy hiện tượng lạ! Những bằng chứng nêu lên trong tòa án phong thánh đủ để các khía cạnh tiêu cực này, khía cạnh rất đặc sắc về sự thánh thiện của Têrêsa Hài đồng.
+ Không có phương pháp cầu nguyện
Đời sống cầu nguyện là linh hồn của việc tu đức cho nên vấn đề chúng ta đề cập ở đây thật quan trọng. Nó mạc khải cho chúng ta cái bí thuật kết hợp với Thiên Chúa của các thánh hơn tất cả yếu tố khác.
Chị Têrêsa Hài đồng đã đọc đi đọc lại trong các tác phẩm của Mẹ thánh những đoạn viết rất hay về các điểm: cầu nguyện bằng lời, cầu nguyện bằng trí, cầu nguyện tâm niệm, cầu nguyện tĩnh niệm, cầu nguyện kết hợp. Theo thánh Têrêsa Avila, người cải tổ có công nhất của dòng Kín,” cầu nguyện là tất cả”. Theo Mẹ thánh, bảy nơi ở các linh hồn cũng là bảy bậc thang chính của đời sống cầu nguyện và kết hợp, kể từ những hình thức sơ luợc của sự cầu nguyện hoạt động, đến những phân tích tỉ mỉ về những bậc sống cao siêu trong hôn ước thiêng liêng. Nơi Têrêsa Hài đồng không có một dấu vết của một cấp bậc, một tầng lớp, một thứ hạng nào nhất định! Truyện Một tâm hồn không giống cuốn Lâu đài linh hồn, vì tuy hai thánh nữ cùng thuộc về một dòng nhưng năng khiếu thiên phú rất khác nhau.
Về điểm căn bản của đời sống cầu nguyện này, cũng như của đời hy sinh khổ hạnh và những đặc ân thần bí, Têrêsa phải là khuôn mẫu thích hợp với “mọi linh hồn thơ ấu”. Phúc âm là linh hồn đời sống cầu nguyện của chị. Đối với chị và số đông linh hồn Kitô hữu, tìm về với Chúa bằng con đường thông thường, thì cầu nguyện phải là “một đà tiến của trái tim”, một cái nhìn ngây thơ hướng về trời, một tiếng gọi tri ân và yêu mến, thốt ra trong cơn thử thách cũng như giữa lúc an vui; nghĩa là một sự gì cao thượng siêu nhiên, có sức phấn khởi linh hồn và nối kết linh hồn vơi Thiên Chúa.
+ Không có những hoạt động hiển hách
Giữa lớp người có “thế lực hoạt động và ăn nói” có nhiều vị hiển thánh đã sống theo hình ảnh của Thầy chí thánh. Chính các ngài có công rất nhiều trong việc thực hiện những tổ chức cơ sở bác ái, đã có ảnh hưởng sâu xa trong việc hướng dẫn vận mạng quốc gia và xã hội. Chúng ta phải ngỡ ngàng trước thánh Albertô cả, trước sự thông thái phi thường của thánh Augustinô, và thánh Tôma Aquinô... trước chiến công lẫm liệt của thánh nữ Jeanne d’Arc, trước sức mạnh của lời rao giảng và những phép lạ huy hoàng của thánh Vinh sơn Phêriê, trước lòng nhiệt thành truyền giáo của thánh Phanxicô Xaviê, và sau cùng hoạt động cảm hóa dân chúng bằng gương sáng của cha sở họ Ars... Chúng ta còn có thể kể những bằng chứng rõ ràng của các nhà truyền giáo và các thánh tử đạo, của một số lớn các vị lập Dòng. Đời sống thánh thiện của các ngài vẫn còn sáng chói như một thành quả vô song của nhân loại.
Trái lại, trong cuộc sống âm thầm của chị dòng Kín thành Lisieux không có lấy một hoạt động hiển hách hay một công trình bên ngoài nào. Ngay ở toà án phong thánh, chỉ vỏn vẹn một trang kể lại những việc làm nhỏ mọn của chị trong suốt đời dòng kín: lần lượt chị đảm nhận chu đáo những việc nhà giặt, phòng ăn, phòng khách và giữ cửa. Nhiệm vụ đáng chú ý nhất của chị là – chức vụ không được chỉ định rõ – làm phụ tá coi sóc ba hoặc bốn chị đệ tử và tập sinh khó tính. Sống với các chị này, Têrêsa phải luôn luôn cố gắng tận tụy và giữ thái độ cởi mở vui tươi.
Người ta đã lầm trước sự tương phản giữa vẻ tầm thường của những việc Têrêsa làm hằng ngày với sự trọn hảo thần linh thánh nữ dùng để kiện toàn công việc thường nhật ấy. Rồi người ta có thể tự hỏi xem ngoài tấm gương trinh nữ Nazareth, còn có mẫu đời nào cũng siêu vời thánh thiện như những công việc bên ngoài rất tầm thường như thế không?
b) Đặc tính của con đường mới
Trong các đặc tính của con đường thơ ấu thiêng liêng của thánh nữ, ta thấy có mấy đặc tính nổi vượt, đó là: bé nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường và vui vẻ chấp nhận mọi hy sinh gian khổ.
+ Bé nhỏ, đơn sơ, khiêm nhường
Thánh nữ luôn Suy niệm lời Chúa với câu:”Hãy học cùng Thầy vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Với một trực giác kỳ lạ về địa vị thiết yếu của đức khiêm nhường trong đời sống thiêng liêng, thánh Terêsa đã nhấn mạnh về sự thực hành nhân đức này. “Hãy luôn sống như trẻ thơ” theo ý muốn của Chúa Giêsu trong Phúc âm, Ngài chẳng muốn nói với ta rằng:”Nước Trời thuộc về người giống như trẻ nhỏ” sao? Người có đặc ân của Chúa Giêsu là kẻ bé thơ.
Tự đáy lòng, Têrêsa cảm thấy rằng chướng ngại đầu tiên và lớn nhất của sự thánh thiện là tính kiêu ngạo. Kẻ thù mạnh nhất của chúng ta là bản ngã riêng của ta. Để đưa ta đến sự trọn lành, ta quá tin tưởng vào sức riêng và tưởng phải làm những việc kỳ lạ, cho đến khi sa ngã, ta mới có kinh nghiệm là mình bất lực và hư vô. Chỉ lúc đó ta mới hiểu lời Thầy Chí thánh “Không có Thầy các con không thể làm gì được”. Trẻ nhỏ đã ý thức được sự yếu hèn của mình, nó cảm thấy mình nghèo khó, thiếu thốn mọi sự và hoàn toàn lệ thuộc.
Chiếm hữu được chân lý nền tảng này, thánh nữ đã lấy TRẺ THƠ làm mẫu mực cho đến cuối đời.
Chị hướng dẫn các linh hồn đến sự thánh thiện là bằng đức tính khiêm nhường như Chúa đã chẳng nói:”Kẻ giống trẻ nhỏ sẽ lớn nhất trong nước trời” sao? Và khi người ta bảo rằng điều đó không hợp với mọi người, Têrêsa trả lời:”Nếu tôi chết lúc, tám, mười tuổi, nếu tôi ở trong nhiều tu viện, lãnh nhiều trách nhiệm, tôi cũng cảm thấy rõ ràng tôi vẫn nhỏ bé như ngày nay”. Người ta có thể được cất lên địa vị rất cao mà vẫn nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa.
+ Từ bỏ mình
Thánh nữ quên mình đi, coi mình là hèn mọn hư vô và đặt tất cả sự tin tưởng của mình vào tình thương vô biên của Chúa. Người muốn sống để làm đẹp lòng Chúa, yêu mến và làm cho người ta yêu mến Chúa. Nhưng muốn được thế, thánh nữ đã sống hết sức quảng đại đối với Chúa, đã từ bỏ mình đi để sống cho Chúa và với chị em. Thánh nữ luôn ví mình như bông hoa hồng được dâng tiến Chúa:
Chúa ơi, này đóa hoa hồng,
Trên bàn thờ Chúa hương nồng sắc tươi,
Con đây mơ ước này thôi:
Tách từng cánh một, Chúa Trời, hiến dâng.
Thánh nữ đã cảm nghiệm thấy lời Chúa “Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta” là cần thiết, nên việc cắt tỉa ý riêng mình là cần thiết để cho phù hợp với ý Chúa. Người làm vườn mà vì thương hại cây hồng không muốn bạo tay cắt những cành sâu đi, thì không phải là một người làm vườn khéo: cây hồng được “nuông chiều” như thế cũng không thể nở hoa được... Người không muốn quên mình cũng không bao giờ có ý chí vững chắc.
Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con sô 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm sao thành 7 được, mà vẫn là 3, 4. Thánh Têrêsa đã biết quên mình đi, hòa tan ý riêng của mình vào thánh ý Chúa để hoàn toàn sống cho Chúa và chỉ làm những điều gì Chúa muốn.
Sự từ bỏ mình đã thúc đẩy Têrêsa yêu mến thánh giá như ngài đã viết trong Một tâm hồn:”Khi ai muốn đạt tới đích kỳ vọng, dĩ nhiên người ấy phải dùng phương thế, Đức Giêsu đã cho con biết phương thế cứu rỗi các linh hồn là THÁNH GIÁ, cho nên càng gặp nhiều thánh giá, lòng ái mộ, chịu đau khổ của con càng thêm nồng nàn hăng hái. Trong 5 năm qua, con đã bước đi con đường ấy, con đi thì con biết, chớ chẳng ai biết con đi. Ấy chính là một hoa mọn mọc nơi xó xỉnh chẳng ai thèm biết tới mà con muốn dâng tiến Chúa đấy. Hoa mọn này còn chút hương thơm nào, chỉ bốc theo đường thẳng lên trời thôi”. (Một tâm hồn, tr 132)
+ Chấp nhận trong vui tươi
Đường lối nên thánh của thánh nữ gạt bỏ tất cả những việc hãm mình lớn lao mà mình tự tạo ra, trái lại, Têrêsa chỉ cố gắng chấp nhận tất cả mọi sự việc trong hiện tại, dù muốn hay không. Thái độ đó là thái độ CHẤP NHẬN. Nhưng chấp nhận có thể là thái độ chấp nhận miễn cưỡng hay tự ý, vui tươi hay rầu rĩ! Đối với thánh nữ, việc gì xẩy đến cũng là do thánh ý Chúa, cho nên Ngài nhận lấy cách thực tình và vui tươi. Tinh thần vui tươi phấn khởi trước những hy sinh còn được thánh nữ ghi lại trong nhiều vần thơ:
Nếu Chúa chẳng đoái hoài ve vuốt,
Con vẫn tươi cười trước khổ đau.
Mỉm cười với Chúa tôi thờ,
Đó là thiên quốc thỏa mơ ước rồi.
Thiết tưởng không cần làm gì thêm để hãm mình, để nên thánh, cứ vui lòng chấp nhận cảnh sống hiện tại với muôn vàn việc xẩy đến vui cũng như buồn, vừa ý cũng như trái ý. Nên thánh ở chỗ chấp nhận mọi hy sinh đau khổ mà nét mặt vẫn vui tươi, không cho ai biết mình đang phải đau khổ. Chính Terêsa ở vào trong hoàn cảnh đó: ai cũng cho là Têrêsa sung sướng vì có chị làm Mẹ Bề trên chắc chắn được nuông chiều, hơn nữ nét mặt của Têrêsa lúc nào cũng tỏ ra vui tươi hớn hở; nhưng Têrêsa cho biết: chính cái đó cũng làm cho mình đau khổ thêm mà không ai biết.
THẦN HỌC VỀ SỰ BÉ NHỎ
Thiên Chúa đã chọn những gì bé nhỏ, yếu hèn. Nhìn sâu vào mầu nhiệm nhập thể, mầu nhiệm thánh giá, mầu nhiệm Thanh Thể, chúng ta thấy Thiên Chúa đã chọn những con đường rất khiêm hạ. Thiên Chúa mặc khải chính mình trong những hình thức không chút gì là quyền lực. Chúa mặc khải tình yêu của Ngài. Tình yêu là một sức mạnh mà không một phạm trù nào về quyền lực có thể diễn tả được, nhưng lại rất hùng hồn khi tự hạ hy sinh.
Chúa chọn những sứ giả tình yêu để họ cộng tác vào việc xây dựng Nước Tình Yêu của Ngài. Đây cung là những chọn lựa do lòng thương xót của Ngài, chứ không do công phúc và áp lực của bất cứ ai. Ngài có thể chọn những con người bé mọn yếu hèn. Trong cuốn Tự Thuật, Têrêsa kể lại: Một hôm, trong phòng, Têrêsa tình cờ mở Phúc Âm và gặp ngay đoạn viết: "Chúa Giêsu lên núi, Ngài kêu gọi những kẻ Ngài muốn; và họ đã đến với Ngài" (Mc 3, 13). Đó là mầu nhiệm ơn gọi của tôi… Chúa đã không gọi những người xứng đáng, nhưng kêu gọi những người Chúa muốn, như thánh Phaolô đã viết: "Chúa thương xót những người Chúa ưa thích và Chúa xót thương kẻ Chúa muốn xót thương. Như thế sự được ơn không phải là công trình của kẻ muốn hoặc kẻ chạy chọt, nhưng là của Chúa thương xót mà thôi" (Rm 9, 15-16).
Têrêsa rất ý thức chân lý đó, Ngài còn đi xa hơn, khi khẳng định rằng: Chúa thương Ngài không phải vì Ngài có công phúc gì, mà chính sự yếu đuối bé nhỏ của Ngài. Hơn nữa Têrêsa còn quả quyết: "Cuối đời, con sẽ tay không ra trước mặt Chúa. Bởi vì lạy Chúa, con không xin Chúa đếm các việc con làm. Con biết tất cả các việc công chính của chúng con đều mang vết nhơ trước mặt Chúa." Têrêsa nhận biết sự khó nghèo thiêng liêng và bé nhỏ của mình, ngài chỉ trông cậy vào ơn thương xót Chúa mà thôi.
Qua thánh nữ Têrêsa, Chúa đang kêu gọi mọi người, nhất là những người tự mãn cho mình là đạo đức, hãy trở về tinh thần khiêm tốn, khó nghèo và bé mọn. "Ai hạ mình xuớng như trẻ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong nước Thiên Chúa" (Mt18, 4). Lời Chúa trên đây ghi lớn trên trần nhà nguyện Dòng kín Carmel là một bài thần học rất quan trọng cho Hội Thánh tương lai.
Kết luận
Têrêsa đã vui lòng chịu đau khổ trong tăm tối bởi vì Ngài đã nhận ra rằng trong nhiều cách Ngài rơi vào cảnh tăm tối mà trong đó có nhiều thử thách vây kín. Ngài nhận ra với những người không tin, những người mà Ngài gọi là “anh chị em” của Ngài, gần gũi họ hơn nữa. Ngài đã làm cho nhận thức của Ngài đối về họ cách rõ ràng hơn trong câu chuyện về một vương quốc tăm tối, đã không nhận ra Vua của Ánh Sáng đã đến ở giữa họ trong 33 năm:
Lạy Chúa, con cái Chúa đã hiểu về ánh sáng thánh thiêng của Ngài và xin Ngài tha thứ cho những anh chị em đó. Thiên Chúa đã trao cho Thánh nữ chén đắng; Ngài đã không ước mong được thoát khỏi những đắng cay mà Thiên Chúa dành cho những tội nhân đáng thương phải chịu. Ngài không thể nói là nhân danh cá nhân Ngài mà là nhân danh những anh chị em của Ngài, “Xin thương xót con cùng, lạy Chúa, vì chúng con là những tội nhân đáng thương”. Ôi! Lạy Chúa đừng xét xử chúng con. Có thể tất cả những ai mà không được ngọn lửa đức tin soi sáng thì một ngày nào đó sẽ được ánh sáng chiếu soi. Ôi lạy Chúa Giêsu! Nếu cần thiết thì xin Ngài hãy thanh tẩy những kẻ gây ra tội lỗi vì một linh hồn yêu mến Ngài, kế đến con ước ao được đón nhận thử thách vì những lỗi lầm đó đến khi mà Chúa sẵn sàng mang con đi vào trong vương quốc Ánh sáng của Ngài. Ân sủng duy nhất con van xin Ngài đó là đừng để con bao giờ xúc phạm đến Ngài.
Têrêsa thật sự là một vị thánh thời đại, là một mẫu gương của thời đại – bởi vì Ngài đã chết trong sự tăm tối của ngờ vực mà nhiều người đương thời của Thánh nữ đã lạc lối. Thánh nữ sẵn sàng vào cõi âm ti nếu Thiên Chúa được tán dương ở đó. Những lời cầu nguyện của Thánh nữ đã được đáp trả. Nhưng địa ngục mà Thiên Chúa đã cho Thánh nữ chính là cơ hội để công bố lòng tin và tình yêu của Thánh nữ là khía cạnh tăm tối trong thời đại của Ngài.
Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng
Một hôm nhà đạo sĩ Beroca cùng với người môn đệ là Elia bước ra khỏi trại, nhà đạo sĩ đưa mắt nhìn ra đám đông người, giữa khu phố ồn ào náo nhiệt, rồi lên tiếng hỏi môn đệ: Con nghĩ sao giữa những người bon chen nơi phố chợ này? Sẽ có ai được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng không?
Thoạt đầu Elia lắc đầu bi quan trả lời là: không có ai cả. Một lúc sau người môn đệ đưa tay chỉ về phía hai người đang đứng đó và nói: thưa thầy, con nghĩ rằng hai người này thế nào cũng sẽ được chia sẻ phần hạnh phúc đời đời.
Nhà đạo sĩ cho gọi hai người ấy đến và hỏi xem họ làm nghề gì?
Họ thưa: thưa thầy, chúng con chỉ biết làm nghề mua vui cho người ta thôi. Khi thấy ai buồn sầu, chúng con tới làm cho họ vui lên. Khi họ gây lộn cãi vã nhau, chúng con tìm mọi cách giúp họ làm hòa và sống an bình với nhau hơn. Chúng con không biết làm gì hơn ngoài những việc nhỏ mọn như thế thôi.
Nhà đạo sĩ trả lời: các anh nói rất đúng, vì những việc các anh làm tuy bé nhỏ nhưng thực sự lại rất lớn lao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: "Ai không trở nên đơn sơ bé nhỏ sẽ không được vào Nước Trời".
Thiên Chúa là Cha nhân từ giàu lòng xót thương, không những với các tội nhân mà thôi, Ngài còn đặc biệt để mắt nhân từ đến với những tâm hồn đơn sơ, những người hèn hạ hoặc bị khinh dể ít được ai biết tới, nhất là các trẻ nhỏ. Ngài là Cha nhân từ không muốn cho một ai trong những kẻ bé nhỏ phải hư mất. Chính Chúa Giêsu lại còn đồng hóa mình với những kẻ bé nhỏ thấp hèn và còn quả quyết rằng: "Mỗi lần các con làm một việc tốt lành cho những người bé nhỏ nhất, tức là làm cho chính Chúa vậy. Trái lại, khi ta từ chối không làm một điều tốt lành cho người bé nhỏ nào thì cũng không làm cho Chúa vậy". Vì thế Chúa Giêsu cảnh cáo và nhắc nhở ta đừng bao giờ khinh dể những người bé mọn, cũng chớ làm gương xấu cho trẻ nhỏ. Bởi vì họ là những người gần gũi Thiên Chúa và được Ngài yêu thương cách đặc biệt.
Trong xã hội hưởng thụ, những người bị khinh thường coi rẻ hơn cả là những người thấp kém về tuổi tác, văn hóa, khả năng, tiền bạc, bằng cấp... Nhưng đối với Chúa Giêsu thì hoàn toàn trái ngược, tiêu chuẩn và cái nhìn của Chúa không phải là tiêu chuẩn và cái nhìn thiển cận của loài người. Những người bé mọn lại là những người được Thiên Chúa Cha yêu thương và mạc khải cho những sự khôn ngoan, cho họ hiểu biết những điều bí nhiệm mà sự khôn ngoan thế gian không thể nào hiểu biết được.
Chúa Giêsu tự coi mình là người bé mọn và tự đồng hóa mình với họ, nên Ngài đã sung sướng thốt lên rằng: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha vì đã giấu không cho những kẻ thông thái mà lại cho những kẻ bé mọn hiểu được những điều bí nhiệm về Nước Trời. Vâng lạy Cha, vì đó là Thánh Ý Cha..." (Mt 11,25-26; Lc 10,21-22).
Những người bé mọn Chúa Giêsu muốn nói tới đây là ai? Phải hiểu sự bé mọn ấy như thế nào? Bé mọn về thể xác hay về sự hiểu biết hoặc về tinh thần? Sự bé mọn về thiêng liêng có ý nghĩa gì?
Những Kẻ Bé Mọn Là Ai?
Có thể nói được rằng sự bé mọn mà Chúa Giêsu nói tới trong Phúc Âm, thực thi tới mức hoànhảo trong đời sống. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được Giáo Hội chính thức nhìn nhận và nhiều người trong chúng ta đã được nghe biết tới. Hơn nữa nhân ngày truyền giáo thế giới 19/10/1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nâng thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu lên bậc Tiến Sĩ Giáo Hội, như thánh nữ Catharine Sienna và thánh nữ Têrêsa Avila.
Với tước hiệu này, Giáo hội chính thức nhìn nhận thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thuộc vào những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ, nhưng được Thiên Chúa kén chọn và tỏ lộ cho những điều vượt xa tầm hiểu biết trí khôn loài người, như lời thánh Tông Đồ Phaolô quả quyết rằng: "Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần khí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ khôn ngoan đã học được nơi trí khôn loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí. Chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí để diễn tả những thực tại thuộc Thần Khí".
Thật vậy, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã có một tâm hồn đơn sơ hồn nhiên, đã có thể nói lên rằng: "Trong Phúc Âm, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã tìm thấy mọi chân lý và sự thật". Cũng nhờ Phúc Âm mà người đã khám phá ra những khámphá mới ẩn giấu trong Phúc Âm.
Thánh nữ viết: "Theo thiển nghĩ của tôi thì tất cả mọi người cảm nhận được những gì ThiênChúa đã ban tặng cho tôi, thì quả thật Thiên Chúa không còn phải là ông vua đáng phải khiếp sợ nữa, nhưng trái lại là người Cha đáng mến vô cùng và sẽ không còn dám làm điều gì xúc phạm đến Người nữa. Tuy nhiên tôi vẫn biết rằng không phải mọi người đều giống hệt nhau cả, mỗi người đều có một đặc điểm cá biệt để nói lên sự hoàn hảo muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa, và đồng thời cũng là dịp tốt để mỗi người một cách và tất cả mọi người cùng hiệp lời ca ngợi sự thánh thiện khôn ngoan của Thiên Chúa cách phong phú dồi dào hơn. Riêng đối với tôi, Ngài đoái thương cho tôi cảm nghiệm được lòng nhân từ yêu thương vô biên của Ngài, và cũng nhờ đó tôi được dịp chiêm ngắm và tôn thờ những sự hoàn hảo thánh thiện khác của Ngài nữa. Đối với tôi tất cả đều tỏa sáng sự khôn ngoan, tình thương vô biên của Chúa, ngay đến sự công minh chính trực của Chúa cũng chỉ là sự công chính của tình yêu mà thôi".
Hiểu Sự Bé Mọn Ấy Như Thế Nào?
Sự hiểu biết về lòng nhân từ xót thương của Chúa không phải chỉ là sự hiểu biết của trí khôn trên bình diện hiểu biết mà thôi, nhưng thực sự là kinh nghiệm sống trong cuộc sống cá nhân của Người. Đặc biệt hơn cả là sức mạnh của ơn thánh đã được cảm nghiệm năm Têrêsa lên mười bốn tuổi.
Khi còn nhỏ Têrêsa vốn là cô bé được nuông chiều, nên thường nương theo bản tính ích kỷ dễ hờn giận. Lớn lên Têrêsa dần dần được thay đổi và trưởng thành hơn về mặt tình cảm.
Một biến cố đã thay đổi hẳn cả hướng đi cuộc đời của Têrêsa. Hôm đó là ngày lễ sinh nhật (năm 1886), Têrêsa được ơn Chúa thúc đẩy và soi sáng cho thấu hiểu cách sâu xa hơn về mầu nhiệm Giáng Sinh, Con Một Chúa quyền phép vô cùng, nhưng chỉ vì tình yêu nhân loại đã muốn mặc lấy thân phận con người thấp hèn như tất cả mọi người, ngoại trừ tội lỗi.
Tất cả mầu nhiệm như một luồng ánh sáng soi chiếu cả cuộc sống Têrêsa, chính trong sự yếu ớt của đứa bé thơ sinh nằm trong máng cỏ hèn hạ của loài súc vật, Têrêsa cảm thấy được mặc cho một sức mạnh phi thường. Từ ngày đó, Têrêsa bắt đầu đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác trong việc khắc phục những tính hư nết xấu của mình. Têrêsa cũng ý thức được sự cao cả của ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho người một cách nhưng không. Têrêsa hoàn toàn không có công trạng gì ngoài công nghiệp duy nhất là sự yếu hèn, nhưng đầy lòng tin tưởng phó thác của người. Vì thế Têrêsa có lý khi viết:
"Chính vì tôi bé mọn mà Cha là Thiên Chúa nhân từ đã cúi xuống trên tôi và chỉ bảo tôi những điều cao cả mầu nhiệm về tình thương Thiên Chúa. Nếu như các nhà thông thái thế gian trông thấy tôi, họ sẽ ngạc nhiên về những gì Thiên Chúa đã muốn tỏ lộcho một cô bé mười bốn tuổi như tôi về tình thương của Ngài. Đó là tất cả những điều bí ẩn mà sự khôn ngoan thông thái của họ cũng không thể nào hiểu được.Bởi vì để được hiểu biết những điều cao cả đó, trước hết họ cần phải có lòng đơn sơ và tinh thần khó nghèo bên trong".
Bé Mọn Về Thể Xác hay Về Sự Hiểu Biết Hoặc Về Tinh Thần?
Con đường nên thánh và đúc kết sự khôn ngoan của Têrêsa được gọi là Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng. Đây không phải là sự thơ ấu khờ dại của đứa trẻ, cũng không phải là việc tầm thường hóa những giá trị Phúc Âm, trái lại Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, trước hết dựa trên thái độ khiêm tốn nội tâm, biết tự hạ chấp nhận thân phận thấp hèn trước mặt Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành, đồng thời cũng là Cha nhân từ đầy lòng xót thương.
Đặc điểm trước tiên của con đường nên thánh của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là lòng tin tưởng phó thác. Đó là hoa trái của lòng trông cậy, như người con thơ chỉ biết đặt lòng tin cậy phó thác vào bàn tay chăm sóc của người Cha đầy tình yêu thương.
Từ sự tin tưởng vào tình thương cha mẹ và anh chị em trần gian nơi gia đình, Têrêsa tiến tới trong sự tin tưởng vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa là Cha. Lòng tin tưởng đưa Têrêsa đến sự phó thác hoàn toàn trong tay Chúa về tất cả cuộc sống của người, không phải là thứ phó thác thụ động lười biếng một cách suy luận sai lầm của con người, nhưng là sự phó thác linh động, sẵn sàng thi hành tất cả những gì tình yêuChúa đòi hỏi, cả khi phải hy sinh với giá cao và chấp nhận từ bỏ những gì mình ưa thích nhất, nhưng có thể là sự nguy hiểm trong bước đường tiến tới sự kết hiệp thân mậtvới Chúa. Vì thế, tin tưởng phó thác là hoạt động của tình yêu, là cao điểm của lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự, đồng thời cũng rất gần gũi với tha nhân để chia sẻ tình yêu Chúa đổ tràn trong tâm hồn mọi người, để lôi kéo người khác đến gần tình yêu Chúa hơn.
Ý Nghĩa Thiêng Liêng Về Sự Bé Mọn
Đây là bí quyết sức mạnh và hiệu lực Tông Đồ của thánh nữ, người được đặt làm quan thầy các vị thừa sai truyền giáo khắp nơi trên thế giới, mặc dù thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu không bao giờ bước chân ra khỏi bốn bức tường của Tu Viện và cũng không hề lên tiếng giảng dạy cho ai. Nhưng thánh nữ đã khôn khéo khám phá ra chỗ đứng của mình trong lòng Giáo Hội, chỗ đứng đó là tình yêu, là biết yêu thương, là hoàn toàn phó thác tin tưởng cho tình yêu thương của Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy lòng xót thương.
Suy niệm 11: Lễ thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trinh nữ
(Lm Giuse Maria Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Sống ở trần gian chỉ có 24 tuổi đời, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã để lại cho trần gian một con đường nên thánh xem ra đơn sơ, giản dị, nhưng cũng là một linh đạo tuyệt vời: “con đường thơ ấu thiêng liêng”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu là ai ?
Con đường thơ ấu thiêng liêng nói gì cho ta ?
MỘT CON NGƯỜI. MỘT CUỘC ĐỜI: Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, con ông Louis Martin và bà Maria Guérin. Người sinh ngày 2 tháng 1 năm 1873 tại Alencon nước Pháp. Gia đình Ông bà Louis Martin sinh được 9 người con. Tuy nhiên 4 người con đã qua đời, chỉ còn lại 5 chị em gái. Tất cả 5 chị em gái sau này đều bước vào đời tận hiến trong các Dòng tu. Têrêsa mồ côi mẹ từ lúc chưa tròn 4 tuổi. Nỗi buồn mất mẹ cứ hằn sâu trong cuộc đời của Têrêsa. Ông Louis Martin bỏ Alencon lui về Lisieux với cả gia đình. Với truyền thống của một gia đình đạo đức và với tấm lòng đơn sơ, yêu mến Chúa, Têrêsa đã nhất quyết chọn cho mình một con đường. Do đó, thánh nhân đã xin vào tu viện nhà kín Cát Minh tại Lisieux vào tháng 4 năm 1888 lúc Người mới chưa tròn 15 tuổi. Thánh Têrêsa luôn cảm nghiệm sâu xa tình yêu của Thiên Chúa và Người đã sống cái diệu cảm của một con người đầy ắp Chúa. Tâm hồn của Người thật đạo đức, thánh thiện. Người cảm thấy ơn gọi của Người thật kỳ diệu vì chính vào đêm giáng sinh năm 1886, một biến cố làm cho Người quay trở về với Chúa và Người nhận thấy con người của mình được biến đổi hoàn toàn. Từ đây, ơn gọi yêu mến Chúa và yêu tha nhân thôi thúc Têrêsa. Người đã có thể nói như thánh Phaolô tông đồ: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi’’. Đời sống trong tu viện Cát Minh càng lúc càng nung đốt tâm hồn của thánh nhân. Đời sống nội tâm của Têrêsa càng ngày càng lên cao. Người đã có mối liên hệ mật thiết với Chúa ở một tầm cao mới, chiều sâu mới, quan hệ tình yêu. Thánh nhân cảm thấy càng ngày càng phải kết hợp với Chúa trong cuộc thống khổ của Ngài. Thánh nhân coi thánh kinh là sách gối đầu và là sách duy nhất giúp Người nên thánh và gần gũi Chúa. Tuy nhiên sự thử thách nội tâm và sự đau khổ thể xác diễn ra hằng ngày trong đời sống của thánh nhân đã làm cho thánh nhân càng ngày càng cảm nghiệm sâu xa mầu nhiệm tình yêu cao vời của Chúa.
Năm 1896 trong đêm thứ sáu tuần thánh, Têrêsa bị ho ra máu lần đầu tiên. Thánh nhân đã sống những tháng ngày trong sự đau khổ triền miên của bệnh tật. Có thể nói, mười tám tháng cuối cùng của cuộc đời Người là một cuộc tử đạo không ngừng. Thân xác bị đau đớn, nội tâm bị thử thách. Nhưng, thánh nhân đã sống hết mình vì tình yêu. Người lìa trần vào ngày 30 tháng 9 năm 1897, hưởng thọ 24 tuổi. Cái tuổi còn đầy sinh lực và nhựa sống. Người ra đi trong tiếng thì thào: “Lạy Chúa, con yêu Chúa”. Đức Giáo Hoàng Piô XI nâng Người lên bậc hiển thánh và đặt Người làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
CON ĐƯỜNG THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU: Thánh Têrêsa đã bỏ cõi đời để đi vào cõi sống vĩnh hằng, Người đi vào cái trọn vẹn, cái lớn lao: yêu Chúa hơn bất cứ người nào trên dương thế này; Têrêsa muốn dâng mình cho tình yêu vô vị lợi, tình yêu nhân từ vô biên của Chúa như của lễ dâng hiến toàn thiêu; Têrêsa muốn yêu mọi người như Chúa Giêsu đã yêu nhân loại.
Người đã sống trọn vẹn con đường tình yêu của Chúa. Người đã chọn một linh đạo cho cuộc đời mình, linh đạo tình yêu nhỏ bé. Con đường của Người là con đường thơ ấu thiêng liêng. Têrêsa tựï ví mình như trẻ nhỏ, mà nhỏ nghĩa là yếu đuối, hèn mọn, không thể tự sức mình làm được gì; nên phải yêu mến thật nhiều, yêu mến không giới hạn để đạt được điều mình ao ước, mong chờ. Quan niệm của Têrêsa giống như những người nghèo của Thiên Chúa mà đặc biệt là thái độ của Mẹ Maria trong kinh Magnificat. Têrêsa đã cảm nghiệm được con đường nên thánh qua thái độ, cử chỉ của Đức Mẹ. Têrêsa đã hiểu được bí quyết nên thánh theo thánh kinh: “trở nên người lớn nhất phải trở nên bé nhỏ nhất”. Đây là kinh nghiệm sống của Têrêsa trong cuộc sống hằng ngày. Con đường nên thánh của Người là con đường thơ ấu thiêng liêng. Muốn đi con đường ấy, bí quyết thật giản dị: “ Hãy dâng mình yêu Chúa, hãy chấp nhận đau khổ hy sinh vì Chúa, hãy chia sẻ tâm tình của Chúa cứu độ đang đau khổ trong các chi thể của Hội Thánh để cứu rỗi thế gian”.
Hãy yêu Chúa và yêu tha nhân thật nhiều. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đang mời gọi mọi người nên thánh bằng con đường tình yêu, con đường thơ ấu thiêng liêng…Nên thánh không phải là làm những việc vĩ đại, nhưng con người trở nên thánh bằng con đường nhỏ bé thiêng liêng. Têrêsa đã ví chiếc thang máy bác lên Trời là tình yêu. Con người chỉ có thể đạt được Nước Trời khi họ sống bé nhỏ và yêu thương.
Lạy thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, với tư tưởng phong phú, đầy thánh thiện và đạo đức của Người, xin cho chúng con hiểu được con đường nhỏ bé đầy tình yêu của Người. Xin Người làm rơi hoa hồng là những ân huệ từ Trời xuống thật nhiều cho chúng con. Amen.
Suy niệm 12: Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, trinh nữ
(http://tinmung.net//Lm hạt Xóm chiếu dịch)
I. Ghi nhận lịch sử - phụng vụ
Chị Têrêxa Hài Đồng Giêsu qua đời tại tu viện Carmel ở Lisieux, ngày 30 tháng 9 năm 1897, được phong thánh năm 1925; từ đó lễ kính thánh nữ được mừng vào ngày 1 tháng 10. Thánh nữ được chọn làm bổn mạng thứ hai của nước Pháp, cùng với thánh Jeanne d'Arc, và bổn mạng các xứ truyền giáo, cùng với thánh Phanxicô Xavie.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu tên thật là Marie Françoise Thérèse Martin, sinh tại Alençon (Normandie, Pháp) ngày 02 tháng 01 năm 1873, con gái út của một gia đình đã có bốn cô con gái. Ông Louis Martin, cha cô, là một thợ sửa đồng hồ đã nghỉ việc; bà Zélie Guérin, mẹ cô, gánh vác gia đình bằng việc trông coi một cửa hiệu đăng-ten. Bà qua đời khi Têrêxa chưa đầy năm tuổi. Ông Martin cùng năm cô con gái dời đến ở Lisieux; Têrêxa trở nên cô bé tính khí thất thường, bối rối và hay dằn vặt, lại được cha và các chị nuông chiều. Giáng sinh năm 1886, một cuộc "hoán cải" diễn ra nơi cô: những thái độ trẻ con và bối rối nơi cô biến mất; cô đạt được sự trưởng thành lúc mới 14 tuổi. Cô xin vào sống trong tu viện Carmel ở Lisieux, tại đây đã có hai chị gái của mình đã là nữ tu. Cô được nhận vào dòng năm 15 tuổi với tên gọi là Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh-Nhan (Thérèse de l'Enfant-Jésus et de la Sainte-Face). Têrêxa sống trong tu viện Carmel ở Lisieux được 9 năm, cho tới khi qua đời; tu viện này có 25 nữ tu, tất cả đều già hơn chị rất nhiều, trừ hai người. Kinh Thánh – đặc biệt sách Diễm Ca và các sách Tin Mừng – và các thi ca thần bí của thánh Gioan Thánh Giá nuôi dưỡng linh đạo của chị nữ tu trẻ bây giờ đã sớm đạt tới một mức thánh thiện rất cao. Năm 1893, chị Têrêxa được cử trông coi việc đào luyện các tập sinh, và năm 1894, mẹ Agnès yêu cầu chị viết hồi ký tuổi thơ của chị; một năm sau, tập hồi ký này được xuất bản cùng với các bài viết khác của chị trong cuốn Tiểu Sử Một Tâm Hồn. Tác phẩm này về sau được in ra hàng triệu bản, vạch cho toàn thế giới một phương pháp nên thánh đơn sơ nhưng anh hùng, "con đường nhỏ", và góp phần biến Lisieux thành một nơi hành hương được cả thế giới công giáo biết đến.
II. Thông điệp và tính thời sự
Các bản văn phụng vụ diễn tả khoa linh đạo siêu vời của thánh nữ Têrêxa, bắt đầu bằng Ca Nhập lễ, lấy ý tưởng trong Đệ Nhị Luật (32, 10-12) … "Tựa chim bằng giương cánh đỡ con và cõng trên mình, duy một mình Thiên Chúa dẫn dắt dân."
a. Lời Nguyện của ngày lấy ý tưởng trong Mt 11, 25, cầu xin Thiên Chúa – Đấng mở cửa Nước Trời "cho những người bé mọn"– cho chúng ta "biết theo chân thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, bước đi trên con đường phó thác". Ngay từ 3 tuổi, Têrêxa đã hứa không bao giờ từ chối Chúa Giêsu điều gì; giờ đây con đường chị đi đã dẫn chị tới chỗ dâng hiến đời sống làm lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa tình thương, qua sự bỏ mình và phó thác hoàn toàn. Đó là "con đường nhỏ" mà thánh nữ nói đến trong Tiểu Sử Một Tâm Hồn: "Con là tạo vật hèn mọn nhất, con biết sự khốn nạn và yếu hèn của con, nhưng con cũng biết các tâm hồn cao quí và quảng đại yêu thích làm điều thiện biết bao. Vì vậy con nài xin Chúa, Đấng toàn phúc ở trên trời, xin nhận con làm con Chúa … Ôi Người Yêu của con, con nài xin Ngài ghé mắt đoái nhìn vô số những tâm hồn bé mọn; con nài xin Ngài thương chọn trong thế giới này một đạo binh những nạn nhân bé mọn đáng dược Ngài yêu thương."
Điệp ca của bài Benedictus: " … hãy trở nên giống trẻ thơ" làm vang lên Tin Mừng của thánh lễ (Mt 18, 1-4): Thật, tôi bảo thật anh em: Nếu anh em không hoán cải và trở nên giống trẻ thơ … "Trẻ thơ" đối với thánh Têrêxa Lisieux là người "chấp nhận tất cả", với thái độ vâng phục và phó thác của Người Đầy Tớ đau khổ (xem sách Isaia) không ngừng thưa lên: Này con đây ! Chương trình sống này đã có khi Têrêxa chọn tên mình lúc vào dòng Carmel: Têrêxa Hài Đồng Giêsu và Thánh-Nhan. Đủ loại thử thách không ngừng giúp thanh luyện chị và dẫn chị tới mức độ thánh thiện ngày càng cao hơn. Đời sống hằng ngày trong tu viện, "cái lạnh chết người", tình trạng khô khan thiêng liêng, những cám dỗ về đức tin, những cơn đau do xuất huyết phổi … "Hồi ấy con không hề nghĩ phải chịu đau khổ rất nhiều để đạt sự thánh thiện ...", chị viết trong Tiểu Sử Một Tâm Hồn (Thủ bản A). Tất cả điều này làm chứng một tâm hồn thanh tịnh và mạnh mẽ phi thường, hoàn toàn phó thác cho tác động của Thánh Thần và hoàn toàn dâng hiến cho Tình Yêu nhân từ của Chúa. "Ôi, con yêu Chúa … lạy Chúa … con yêu Chúa !" là những lời cuối cùng của chị.
b. Lời Nguyện trên lễ vật gợi lên một khía cạnh khác của hy tế thầm lặng trong "đời sống đơn sơ và can đảm" của thánh Têrêxa Lisieux. Chính vào lễ Chúa Ba Ngôi ngày 9 tháng 6 năm 1895, thánh nữ được Chúa soi sáng để hiến mình cho Tình Yêu nhân từ. Không lâu sau khi thực hiện cuộc dâng hiến này, khi bắt đầu con đường thánh giá, chị cảm thấy như có một "thương tích tình yêu" giống như hiện tượng in dấu thánh thần bí của thánh nữ Têrêxa Avila.
Têrêxa Lisieux ước muốn đón nhận và đáp lại tất cả các ơn gọi: "Con cảm thấy ơn gọi làm chiến binh, linh mục, tông đồ, bác sĩ, tử đạo", với "ước muốn thực hiện mọi hành vi anh hùng nhất …" Thế rồi một ngày kia, khi đọc Thư 1 Côrintô, chị hiểu rằng "mọi ân điển hoàn hảo nhất cũng chẳng là gì nếu không có đức ái … Đức ái là con đường tuyệt hảo chắc chắn dẫn đến Thiên Chúa." Sau cùng, đây là câu trả lời và là "sự yên nghỉ" đối với thánh Têrêxa: "Con hiểu rằng đức ái bao gồm mọi ơn gọi, đức ái là tất cả … Lúc đó, lòng tràn ngập niềm vui ngây ngất, con la lên: Ôi Giêsu, tình yêu của con … ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm ra, ơn gọi của con là tình yêu ! Vâng, con đã tìm ra vị trí con trong Hội Thánh. Ôi lạy Chúa, chính Chúa ban ơn gọi này cho con … trong lòng Hội Thánh, Mẹ của con, con sẽ là tình yêu … như thế con sẽ là tất cả …" (Thư thánh Têrêxa viết cho chị Maria Thánh Tâm, trong Bài đọc Giờ Kinh Sách).
c. Lời Nguyện sau hiệp lễ nhấn mạnh một tính cách đặc trưng khác của thánh Têrêxa, đó là niềm say mê "vì phần rỗi mọi người". Sau khi qua cuộc kiểm tra theo giáo luật để tuyên khấn trong dòng (8 tháng 9 năm 1890), chị đã tuyên bố chị vào dòng Carmel để "cứu rỗi các linh hồn và nhất là để cầu nguyện cho các linh mục". Năm 1895, chị được cử làm "chị linh hướng" cho một chủng sinh có ý hướng đi truyền giáo, thầy Bellière, và năm sau, thầy này có thêm một "anh linh hướng", cha P. Roulland, thuộc Hội Truyền Giáo. Tháng 11 năm 1896, chị làm tuần chín ngày kính thánh tử đạo Théophane Vénard († 1861) để xin ơn được đi truyền giáo ở Đông Dương, nhưng không lâu sau chứng xuất huyết phổi của chị tái phát. Chị trút hơi thở cuối cùng ngày thứ năm 30 tháng 9, 1897, lúc 7 giờ 20 tối, sau một cơn hấp hối kéo dài hai ngày.
Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh cho chị ngày 17 tháng 5 năm 1925 tại Đại Thánh Đường Phêrô ở Rôma, và ngày 14 tháng 12 năm 1927, ngài công bố thánh nữ Têrêxa là bổn mạng tất cả các nhà truyền giáo, nam cũng như nữ, và của tất cả các xứ truyền giáo trên toàn thế giới. Ngày 3 tháng 5 năm 1944, Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố thánh Têrêxa là bổn mạng phụ của nước Pháp, ngang hàng với thánh nữ Jeanne d'Arc.
Nhân dịp Ngày quốc tế giới trẻ lần thứ 12 diễn ra tại Paris, Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II đã tôn phong Thánh nhân lên bậc Tiến Sỹ Hội Thánh vào ngày 19 tháng 10 năm 1987.
Suy niệm 13: Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu
(dongten.net // Bảo Ân, SJ.)
Ngày 19 tháng 10 năm 1997, thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu được ĐGH Gioan Phalô II trao tặng danh hiệu Tiến sĩ Hội thánh. Ngài là người trẻ nhất (24 tuổi) trong 3 vị nữ thánh được trao tặng danh hiệu này.[1]
Nhìn vào cuộc đời của chị Têrêsa chúng ta chắc không khỏi ngạc nhiên thắc mắc: “Đâu là điều khiến chị có được danh hiệu ấy?”; bởi cuộc đời chị quá đơn giản và bình thường, chẳng có chi là nổi trội. Thậm chí có người còn nhận xét: “Có lẽ với cuộc đời ấy chị đã chìm vào quên lãng, nếu không để lại cuốn tự thuật ‘Truyện một tâm hồn’ mà chị viết vì vâng phục.”[2]
Thật vậy, Têrêsa được sinh ra (1873) và được nuôi dưỡng trong một bầu khí đầy mộ đạo của một gia đình truyền thống nước Pháp. Nét mộ đạo truyền thống ấy được biểu hiện qua việc cả 5 chị em gái trong gia đình đều là nữ tu cả. Được hít thở trong bầu khí đạo đức kia, năm 15 tuổi (1888), Têrêsa gia nhập Dòng kín Carmel ở Lisieux. Ở đây, với bầu khí êm ả, lành thánh của tu viện kín, chị sống tiếp 9 năm còn lại của cuộc đời vắn vỏi. Có lẽ biến cố đáng kể nhất trong 24 năm sống mà chúng ta nhìn thấy được nơi chị là 18 tháng cuối đời chị phải chiến đấu với bệnh lao phổi nặng.[3]
Thế nhưng, sự vĩ đại của một vị thánh đâu hệ ở những biến cố hay những công trạng vang dội, song cốt ở việc họ thuộc về Chúa[4] đến mức nào mà thôi. Chị Têrêsa Nhỏ đã minh chứng cho chân lý ấy cách mạnh mẽ và đầy hồn nhiên bằng những dòng nhật ký của mình.
Chị viết xuống ước mơ của chị:
“Phần con, con vẫn một lòng quả cảm muốn làm đại thánh. Con không cậy công con, có đâu mà cậy; con hoàn toàn cậy trông ở Chúa là sức mạnh, là chính sự thánh thiện. Những cố gắng nhỏ nhặt của con cũng làm Chúa vui lòng. Người sẽ nâng đỡ con lên tới Người, Người sẽ lấy công nghiệp cực trọng Người mà bù đắp cho con. Người sẽ làm con nên thánh.”[5]
Không chỉ mơ mộng suông, Têrêsa còn sống lý tưởng kia trong đời thực bằng những hy sinh, tập rèn nhân đức. Có bận, khi đang giặt đồ, một Soeur cứ làm bắn nước bẩn vào mặt Têrêsa. Têrêsa vô cùng khó chịu. Chị muốn lùi ngay ra, lau mặt như để “giằng mặt” Soeur ấy. Nhưng rồi chị cố nén mình, không tỏ vẻ khó chịu gì hết, và cứ để nước bẩn ấy bắn lên mặt. Chị giải thích nguyên do như sau: “Con là một linh hồn rất nhỏ mọn, chỉ biết dâng lên Chúa những việc rất nhỏ mọn thế thôi. Thật là việc hèn mọn chẳng đáng gì, song đã mang lại cho con được bình an vui vẻ trong lòng.”[6] Một lần khác, khi đang là phụ tá giáo tập, Têrêsa đã “được” các chị em nhà Tập “góp ý” cách thẳng thắn về những khuyết điểm cũng như những điều các chị em ấy không ưa không thích nơi Têrêsa. Têrêsa đã đau khổ gọi nó là “một đĩa rau trộn, trộn rất nhiều giấm và thêm thắt nhiều vị đắng chát… đĩa rau trộn chẳng thiếu gì, chỉ thiếu chất dầu, một chất không có không thành rau trộn, chỉ thành một món chưa có tên gọi.”[7] Đối mặt với “đĩa rau trộn” này, chị Têrêsa lại coi đó như là “cách thức Chúa chăm sóc gìn giữ chị. Chúa chỉ muốn chị phải nén lòng bên trong, phải khiêm nhượng thật trong linh hồn.”
Với những tập rèn nho nhỏ ấy suốt 8 năm ròng trong tu viện, Têrêsa đã có thói quen “mỉm cười trước và trong đau khổ”. Thế nên, trong những ngày tháng cuối đời trên giường bệnh, dù liên tục ho ra máu, dù đau đầu như thể không làm chủ được mình, chị thánh vẫn hằng giữ được nụ cười trên môi. Bởi tận sâu trong thâm tâm mình, chị xác tín một điều rằng: “Một trinh nữ muốn hy sinh cho Tình Ái mà còn ghê sợ chút quà Bạn Thánh gởi cho sao? Lúc nào chịu nổi ngần nào, Bạn Thánh gởi cho ngần ấy, không bao giờ phải lo quá, giả như chốc nữa Người gởi thêm đau đớn, Người cũng sẽ gởi thêm sức chịu đựng. Tuy nhiên, chẳng khi nào con dám xin Chúa gởi cho đau khổ cả thể, vì sức con hèn yếu lắm. Con mà xin như thế, những đau khổ ấy sẽ thuộc về con và riêng sức con phải gánh lấy; nhưng sức riêng con có làm nên trò trống gì bao giờ?”[8]
Như thế đấy, nếu ví cuộc đời chị thánh với một bản nhạc, thì chắc bản nhạc ấy đều đều, buồn buồn, trầm trầm. Song, dường như trong từng nốt nhạc lại chuyên chở rất nhiều tâm ý của người nữ nhạc sĩ Têrêsa. Hay nói khác đi, chị đã thổi được hồn vào trong những chuỗi âm thanh đơn điệu kia. Cái hồn ấy là ao ước nên thánh, là mối tình của chị với Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất.
Cuộc sống là thế, luôn cần những tâm hồn, luôn cần những tấm lòng. Và sự rung động của tâm hồn này sẽ gợi hứng và làm cho những tấm lòng khác cũng vỗ nhịp theo. Có phải vì thế mà Trịnh Công Sơn đã hát lên đầy xúc cảm rằng: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng… Hãy nghiêng đời xuống nhìn suốt một mối tình, chỉ lặng nhìn không nói năng.”[9] ?
-----------------------
[1] Hai vị khác là: thánh Têrêsa thành Avila (1515-82), và thánh Catarina thành Siêna (1347-80).
[2] David Hugh Farmer, The Oxford Dictionary of Saints, 2nd edition, (Oxford: Oxford University Express, 1987), p. 405.
[3] http://en.wikipedia.org/wiki/Thérèse_of_Lisieux (19 September 2013, 21h30).
[4] “Thánh” có nghĩa là: thuộc về Chúa, dành riêng cho Chúa.
[5] Truyện Một Tâm Hồn, quyển 1, chương 4.
[6] Truyện Một Tâm Hồn, quyển 2, chương 10.
[7] Như trên.
[8] Truyện Một Tâm Hồn, quyển 2, chương 12.
[9] Lời ca khúc “Để Gió Cuốn Đi” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Suy niệm 14: THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU (1873-1897)
(http://loichua.donboscoviet.net)
"Tôi thích chấp nhận sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là trải qua những trạng thái xuất thần. Nhặt một cây kim vì tình yêu cũng có thể hoán cải một linh hồn." Ðó là những lời của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, một nữ tu dòng Camêlô thường được gọi là "Bông hoa nhỏ," người đã sống một đời âm thầm trong tu viện ở Lisieux, nước Pháp. Và quả thật, những hy sinh âm thầm của ngài đã hoán cải các linh hồn. Không mấy vị thánh của Thiên Chúa nổi tiếng như vị thánh trẻ trung này. Cuốn tự truyện của ngài, Chuyện Một Linh hồn, được cả thế giới đọc và yêu chuộng. Tên thật của ngài là Thérèse Martin, gia nhập tu viện năm 15 tuổi và từ trần năm 1897 lúc 24 tuổi.
Ðời sống tu viện dòng kín Camelô không có sức cuốn hút bởi các biến cố lớn, mà phần lớn chỉ gồm sự cầu nguyện và làm các công việc trong nhà. Nhưng thánh Têrêsa có được trực giác sâu sắc về sự thánh thiện của những bông hoa tình yêu nhỏ bé để cứu chuộc quãng thời gian thường ngày ấy, bất kể có nhàm chán đến đâu. Ngài nhìn thấy sự đau khổ có khả năng cứu chuộc trong chính sự đau khổ âm thầm, sự đau khổ chính là sứ mạng tông đồ của ngài. Thánh nữ nói ngài gia nhập tu viện Camêlô là "để cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục." Và không lâu trước khi chết, ngài viết: "Tôi muốn dùng thời gian ở thiên đàng để làm những điều tốt lành cho trần gian."
Vào ngày 19-10-1997, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố ngài là Tiến sĩ Hội Thánh, là người phụ nữ thứ ba trong Giáo hội được nhìn nhận là tiến sĩ dựa vào ánh sáng của sự thánh thiện và tầm ảnh hưởng của lời ngài dạy về đời sống thiêng liêng trong lòng Hội Thánh.
Lời bàn
Thánh Têrêsa có nhiều điều để dạy thời đại chúng ta, thời đại của sự hào nhoáng bề ngoài và của “sự thất vọng”. Chúng ta đã trở thành những con người sống một thứ ý thức về bản thân mình theo một hướng rất nguy hiểm: Một đàng ta biết cái nhu cầu là mình phải được hoàn thành trọn vẹn, nhưng đàng khác ta biết mình chẳng phải là thế, thế rồi ta đâm trở nên thất vọng. Thánh Têrêsa, cũng như bao vị thánh khác, đã tìm cách phục vụ người khác, thực hiện những gì ở ngoài bản thân mình, quên mình đi trong những hành động thầm lặng của tình yêu. Ngài là một trong những tấm gương vĩ đại của những con người đã biết ôm ấp lấy cái nghịch lý của Tin Mừng là chiếm lại cuộc sống của mình khi mình chấp nhận mất nó đi, là nên như hạt giống ném vào lòng đất để chịu chết thối đi hầu nảy mầm sự sống mới (Xem Ga 12).
Sự lo lắng đối với bản thân đã tách biệt con người nam nữ thời nay với Thiên Chúa, với đồng loại và thực sự xa rời với chính mình. Chúng ta phải học cách quên mình, để Suy niệm về một Thiên Chúa là Ðấng mời gọi chúng ta thoát ra khỏi sự ích kỷ để phục vụ người khác. Ðây là cái trực giác sáng suốt của thánh Têrêsa Lisieux, và ngày nay trực giác này có giá trị hơn bao giờ hết.
Lời trích
Thánh Têrêsa phải chịu đau khổ vì bệnh hoạn trong suốt cả cuộc đời. Khi còn là một thiếu nữ trẻ, ngài phải trải qua ba tháng đau từng cơn, mê sảng và ngất xỉu. Sau đó, dù yếu ớt nhưng ngài làm việc vất vả trong phòng giặt quần áo và phòng ăn của tu viện. Về phương diện tâm linh, ngài phải trải qua một thời kỳ tăm tối khi ánh sáng đức tin dường như tắt ngúm. Năm cuối cùng của cuộc đời, ngài chết dần vì ho lao. Tuy nhiên, không lâu trước khi chết vào ngày 30-9, ngài thì thào "Tôi không muốn bớt đau khổ."
Thực sự ngài là một phụ nữ dũng cảm, không rên rỉ vì bệnh tật và lo âu. Ðây là một người nhìn thấy sức mạnh của tình yêu, mà sự biến đổi của Thiên Chúa có thể thay đổi mọi sự kể cả sự yếu đuối và bệnh tật thành sức mạnh phục vụ và Cứu chuộc cho người khác. Không lạ gì ngài là quan thầy của công cuộc truyền giáo. Còn ai có thể thay đổi thế giới ngoài những người ôm ấp sự đau khổ của mình với tình yêu?
Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB
Suy niệm 15: Những Dòng Khôn Ngoan từ Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu
Gần đến lễ mừng kính thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, xin mời mọi người chúng ta cùng lược đọc chút ít tâm sự và chọn lựa từ “ái nữ của Hội Thánh”. Đây thực sự là những tâm sự hết sức khôn ngoan từ chị thánh.
Têrêsa vào đan viện Cát Minh lúc tuổi đời chỉ mới mười lăm, và đã qua đời chín năm sau đó vào ngày 30 tháng 9 năm 1897. Chị hoàn toàn không được thế giới biết đến bên ngoài vòng tròn những người thân trong gia đình và các nữ tu trong đan viện. Tuy thế, cuộc đời của chị đã được biết đến qua tác phẩm Truyện Một Tâm Hồn.
Dưới đây xin được trích đoạn về cách thức vị thánh vĩ đại này đã chọn sống ơn gọi mình ra sao:
“Em đã mở các thư của Thánh Phaolô ra để tìm phương giải cứu. Các chương 12 và 13 của thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô đập ngay vào mắt em. Em đọc thấy rằng không phải mọi người đều là tông đồ, ngôn sứ và tiến sĩ, v.v… rằng Hội Thánh là một thân thể gồm nhiều bộ phận khác nhau và mắt không thể đồng thời là tay. Câu trả lời đã rõ nhưng không làm thỏa mãn các ước vọng của em, nó không mang lại cho em bình an…. Nhưng như thánh Gioan Thánh Giá đã nói, “nhờ cúi xuống tận đáy thẳm hư vô của mình, em vươn lên cao mãi cho tới khi em đạt tới mục đích của mình.” Em tiếp tục đọc và gặp được câu này: “Hãy tha thiết tìm kiếm những ơn cao trọng. Và đâytôi xin chỉ cho anh em đường trổi vượt hơn cả.” (1 Cr 12:31). Và thánh Tông Đồ cắt nghĩa tại sao mọi ơn cao trọng nhất đều chẳng là gì cả nếu không có Tình Yêu và Đức Ái là con đường trổi vượt dẫn tới Thiên Chúa một cách chắc chắn. Cuối cùng em đã tìm thấy được sự nghỉ yên.
Khi suy nghĩ về Thân Miình Mầu Nhiệm của Hội Thánh, em không nhận ra mình trong bất cứ bộ phận nào mà thánh Phaolô miêu tả, hay đúng hơn em muốn nhận ra mình trong tất cả các bộ phận… Đức Ái cho em chìa khóa của ơn gọi em. Em hiểu rằng nếu Hội Thánh có một thân thể, gồm các bộ phận khác nhau, không thể thiếu bộ phận cần thiết nhất, cao trong nhất, thì em cũng hiểu rằng Hội Thánh có một Trái Tim, và Trái Tim này chính là Tình Yêu bốc lửa. Em hiểu rằng chỉ có Tình Yêu làm cho các bộ phận của Hội Thánh hoạt động, rằng nếu Tình Yêu ấy tắt đi, thì các Tông Đồ sẽ chẳng còn rao giảng Tin Mừng nữa, các vị Tử Đạo sẽ từ chối đổ máu mình ra… Em hiểu rằng Tình Yêu bao gồm mọi Ơn Gọi, rằng Tình Yêu là tất cả, nó bao trùm mọi thời gian và mọi không gian… tóm lại, Tình Yêu là Vĩnh Cửu!
Thế là trong vui sướng mê mẩn tột độ, em đã la lên: Ôi Giêsu Tình Yêu của em… cuối cùng em đã tìm thấy ơn gọi của em, ơn gọi của em chính là tình yêu!… Trong Trái Tim của Hội Thánh là Mẹ con, con sẽ là Tình Yêu…vì thế con sẽ là tất cả… vì thế giấc mở của con sẽ trở thành hiện thực!… Tại sao em lại nói đến một niềm vui sướng mê mẩn, không, nói thế này không đúng, đúng hơn là sự bình an thanh thản và thư thái của người đi biển khi nhìn thấy ngọn hải đăng sẽ dẫn họ đến bến…. Ôi ngọn Hải Đăng sáng rực của Tình Yêu! Em đã biết làm thế nào để đến được với Người rồi, em đã tìm ra được bí quyết để chiếm đoạt ngọn lửa của Người rồi.
Những hành động vĩ đại không thích hợp với em. Em không thể giảng về Tin Mừng cũng chẳng thể đổ máu mình ra,- nhưng điều có hệ gì? Vì những người anh em của em đã lao nhọc thay em rồi. Phần em, một đứa trẻ, em chỉ ở gần ngai tòa của Thiên Chúa và em yêu mến thay cho những ai đang chiến đấu.
Không có điều chi làm em sợ hãi nữa…. Nếu những áng mây dày đặc che khuất Mặt Trời, và dường như không có gì tồn tại bên ngoài bóng đêm của cuộc đời này, thì thật ra đó phải là khoảnh khắc của niềm vui tuyệt hảo, khoảnh khắc để cảm nhận niềm tin tưởng trọn vẹn và để ở thật yên lặng, an toàn trong sự nhận biết rằng Mặt Trời đáng tôn thờ của em vẫn chiếu sáng phía bên kia đám mây.”
Suy niệm 16: Sống Lời Chúa
Qua phần tìm hiểu sáng hôm nay, tôi muốn nhìn thánh nữ Têrêsa như là một mẫu gương sống Lời Chúa.
Thực vậy, trước hết thánh nữ Têrêsa rất yêu mến Kinh Thánh, ngài thường mang Phúc Âm đêm ngày trên ngực và năng đọc Phúc Âm đến nỗi gần như đã thuộc lòng. Mẹ Agnes de Jésus kể lại rằng: Ngày 12.9.1897, tức là 18 ngày trước khi qua đời, thánh nữ xin mẹ đọc cho nghe bài Phúc Âm Chúa nhật. Vì không có sách lễ nên Mẹ bề trên nói với Têrêsa: Đó là đoạn Phúc Âm Chúa dạy chúng ta không được làm tôi hai chủ. Bấy giờ thánh nữ bèn bắt chước giọng một em bé bị khảo bài, đã đọc từ đầu đến cuối đoạn Phúc Âm đó.
Không những siêng năng đọc Kinh Thánh mà ngài còn cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và nhất là dùng Kinh Thánh làm đề tài để suy niệm. Một hôm chị Genevière vào phòng thánh nữ Têrêsa và ngỡ ngàng trước thái độ chăm chú hồi tâm của ngài. Chị thấy Têrêsa đang may vá nhanh nhẹn mà vẫn như đắm chìm trong một cuộc chiêm niện sâu xa, nên đã hỏi xem Têrêsa đang suy nghĩ những gì, thì Têrêsa trả lời: Em Suy niệm kinh Lạy Cha. Thật êm ái biết bao khi được gọi Thiên Chúa là cha của mình. Vì năng suy gẫm Kinh Thánh như vậy, nên ngài đã khám phá ra những ý nghĩa tiềm ẩn trong Kinh Thánh và biết ứng dụng một cách thật lạ lùng vào đời sống. Trong một bức thư, thánh nữ đã viết: Chỉ một lời Kinh Thánh mà thôi cũng đã mở ra cho con những chân trời vô biên.
Đọc Kinh Thánh, tìm hiểu Kinh Thánh, Suy niệm Kinh Thánh mà thôi vẫn chưa đủ, điều quan trọng là Têrêsa đã sống Lời Chúa. Chính ngài đã cho chúng ta biết ngài đã tìm ra con đường thơ ấu thiêng liêng như thế nào. Ngài luôn nghĩ rằng chỉ trong Kinh Thánh ngài mới có thể tìm ra điều giúp đỡ ngài thẳng tiến trên con đường thánh thiện. Ngài mở Kinh Thánh và đọc thấy lời này trong sách Châm Ngôn: Ai thật bé nhỏ thì hãy đến với Ta. Một trực giác siêu nhiên cho Têrêsa biết là đã tìm thấy điều mong ước. Một người khác, không phải Têrêsa, có lẽ đã ngừng lại đó, nhưng Têrêsa chưa lấy làm đủ, ngài muốn biết điều Chúa sẽ làm cho kẻ thật bé nhỏ, đã đáp lại tiếng Chúa. Têrêsa tiếp tục tìm kiếm và đã gặp trong sách Isaia lời sau đây: Như một người mẹ nâng niu con mình thế nào, Ta cũng sẽ an ủi con như thế. Ta sẽ ôm con vào lòng và ru con trên đầu gối. Têrêsa đã thấy được điều muốn tìm. Nếu dừng lại ở đây, chỉ coi những lời vừa đọc như là những tư tưởng cao đẹp, thì có lẽ Têrêsa đã không nên thánh. Nhưng Têrêsa quyết tâm sống Lời Chúa, đem Lời Chúa mới được khám phá thể hiện trong cuộc sống hằng ngày.
Với ơn Chúa soi sáng, với những suy tư và với chính cuộc đời của mình, Têrêsa đã tìm ra cách sống của những tâm hồn bé nhỏ. Ngài viết: “Ở bé nhỏ là không coi những nhân đức mình luyện tập được như là của mình. Không nghĩ tự mình có thể làm được việc gì, nhưng nhận biết rằng Chúa đã đặt kho tàng đó trong bàn tay người con nhỏ để sử dụng khi cần. Sự thánh thiện không hệ tại làm việc đạo đức nay hay việc đạo đức kia, nhưng hệ tại ở tâm tình bên trong làm ta trở nên khiêm nhường và bé nhỏ”. Trong Phúc Âm chính Chúa đã nói: Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ không được vào Nước Trời. Và: Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ người ấy sẽ là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Nói đến trẻ nhỏ là chúng ta nghĩ ngay tới một cái gì đơn sơ và trong trắng, tin yêu và phó thác. Chính vì thế, noi gương thánh nư, chúng ta hãy siêng năng đọc Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng, suy gẫm và thực thi những điều Chúa truyền dạy, nhất là sống tinh thần ấu thơ trong tin yêu và phó thác, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa yêu thương và chúc phúc.
30/09 Sai bảy mươi hai người rao giảng
- Viết bởi Lc 10, 1-12
Sai bảy mươi hai người rao giảng.
Thứ Năm tuần 26 thường niên. – Thánh Giêrônimô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Sự bằng an của các con sẽ đến trên người ấy".
* Thánh nhân sinh quãng năm 340 tại Xơtriđôn, Đanmaxia. Người đến Rôma học văn chương và đã lãnh bí tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông phương và làm linh mục. Trở lại Rôma, người làm thư ký cho Đức Giáo Hoàng Đamaxô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng La tinh và cổ võ nếp sống đan tu. Nhưng nhất là người đã sống 35 năm cuối đời ở Bêlem, gần cái hang nơi Đức Giêsu ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Người qua đời ở Bêlem năm 420.
Lời Chúa: Lc 10, 1-12
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới.
Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: "Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi". Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: "Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần". Thầy bảo các con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Như chiên con
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu sai các môn đệ của mình đi trước,
từng hai người một, vào mọi thành phố và mọi nơi Ngài sẽ đến.
Sứ mạng dọn đường này không dễ chút nào.
Đức Giêsu biết rõ những hiểm nguy và chống đối đang chờ đợi họ.
“Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói.” (c. 3).
Chiên con trở nên hình ảnh của người môn đệ,
yếu đuối, không có khả năng chống cự khi gặp sự tấn công hung hãn.
Chính Đức Giêsu cũng là Chiên Con được Thiên Chúa sai đi.
Chính Ngài cũng “như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7).
Người môn đệ được sai vào thế giới mãi mãi thấy mình mong manh,
trước thế lực tưởng như không thể thắng nổi của sự dữ.
Nhưng người môn đệ lại không được trang bị nhiều:
không túi tiền, không bao bị, không giầy dép,
dù đó là những điều bình thường thiết yếu cho một cuộc hành trình.
Chính vì thế họ buộc lòng phải cậy dựa vào người khác.
Mà không phải ai cũng có lòng, ai cũng vui vẻ đón nhận.
Như thế là chấp nhận liên tục bấp bênh,
liên tục cậy dựa vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nhà của các tín hữu là nơi hoạt động của người môn đệ.
Căn nhà là nơi các môn đệ được trú ngụ, được chia sẻ bữa ăn.
Họ sống gần gũi như người trong nhà, như người thợ làm việc.
Nếp sống giản dị và siêu thoát của họ phải được bày tỏ
qua việc chấp nhận mọi đồ ăn thức uống người ta dọn cho (cc. 7-8),
cũng như việc không đi tìm một căn nhà khác tiện nghi hơn (c. 7).
Ngoài ra các thành phố cũng là điểm đến của họ (cc. 8-12).
Nhưng dù là vào một căn nhà hay vào một thành phố (cc. 5. 8),
thái độ của người môn đệ đều rất tích cực và thân thiện.
Họ chúc bình an, chữa bệnh, loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Họ cũng khiêm tốn chấp nhận bị từ chối,
khi ơn bình an không được đón nhận, lời loan báo không được lắng nghe.
Những lời dặn dò của Đức Giêsu ngày xưa, bây giờ vẫn còn giá trị.
Chúng ta vẫn tiếp tục được sai vào các thành phố hôm nay.
Có biết bao người cần được chữa lành về thân xác, tinh thần,
với những thứ bệnh mới của thời đại được coi là văn minh.
Có bao người cần được nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng.
Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố.
Làm sao ta có can đảm nói về Nước Trời cho những người vô tín,
và những người bị cuốn vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc ?
Làm sao nói về Đấng Vô Hình khi nhiều người chỉ tin vào cái hữu hình ?
Người môn đệ hôm nay vẫn phải lại gần con người để chia sẻ cuộc sống,
như xưa các môn đệ xưa đã sống chung, ăn chung,
và làm việc như một người thợ để phục vụ.
Giáo Hội vẫn cần xin nhiều thợ hiền lành và can đảm để đến với thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta).
Suy niệm 2: Triều đại Thiên Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Triều đại Thiên Chúa. Đó là điều muôn đời ngàn dân trông đợi. Vì đời sống trần gian khổ cực đau thương. Chưa hề có triều đại nào đem lại hạnh phúc cho người dân. Chưa có chế độ nào hoàn toàn được tín nhiệm. Chưa có hệ thống ý thức hệ nào thực sự tạo nên thiên đường.
Dân Ít-ra-en cảm nhận được tất cả những nỗi khổ đau, nhục nhã khi bị lưu đầy. Nên khi được trở về. Được thờ phượng Chúa. Được nghe Lời Chúa. Lòng họ tràn đầy niềm vui. “Ông Ét-ra mở sách... Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen!” Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Đức Chúa….Các thầy Lê-vi thì trấn an mọi người như sau: “Anh em đừng khóc nữa, vì hôm nay là ngày thánh!...” Bấy giờ toàn dân đi ăn uống, rồi gửi các phần ăn, và liên hoan tưng bừng”. Họ sống một cuộc sống hạnh phúc vì tuân theo Lề Luật. Vì Thiên Chúa hướng dẫn họ.
Chúa Giê-su là Đấng phải đến. Quả thực Triều đại Thiên Chúa đã đến. Đó là tin vui lớn lao. Cần loan báo cho cả địa cầu. Vì thế Chúa không chỉ sai 12 tông đồ. Mà còn sai 72 môn đệ đi loan báo. Triều đại được chứng nghiệm bằng việc xua trừ ma quỉ. Chữa lành bệnh tật. Giải phóng con người khỏi mọi ách nô lệ ràng buộc của ma quỉ và sự dữ. Và đem bình an cho mọi người. Tuy nhiên chính người loan báo phải chứng tỏ Triều đại Thiên Chúa bằng một thái độ siêu thoát: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”. Sứ điệp quan trọng. Thời giờ cấp bách. Nên “đừng chào hỏi ai dọc đường”. Tập trung vào sứ mạng. Không chú ý đến những gì phụ thuộc ở đời này như ăn uống, ngủ nghỉ: “người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó”. Khi người môn đệ siêu thoát, nghèo khó, chính Thiên Chúa ngự trong họ sẽ làm việc. Họ sẽ có sức mạnh của Thiên Chúa.
Chính vì hi vọng Triều Đại Thiên Chúa đến mà thánh Gióp, trong cơn đau khổ cùng cực, vẫn hi vọng tin tưởng đợi chờ. Luôn gắn bó với Chúa: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa… Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (năm chẵn).
Phần chúng ta hãy làm cho Triều Đại Thiên Chúa mau đến ngay trong bản thân mình. Bằng đời sống siêu thoát. Bằng tin tưởng vượt qua mọi gian khổ như thánh Gióp. Và bằng lời loan báo tin vui cho mọi người.
Suy niệm 3: Tinh Thần Nghèo Khó Ðích Thực
Có một nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:
Nhà ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta?
Nhà hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp:
Theo nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian này?
Nhà hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói:
Thưa ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó; Ngài đã lớn lên trong khó nghèo; và trong ba năm sống công khai, Ngài đã chọn lựa nếp sống nghèo khó. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời, Ngài cũng đã khuyến dụ các ông hãy sống khó nghèo. Ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại, người ta không niềm nở thì ra đi, giũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở những môn đệ của Ngài. Ðây không chỉ là điều kiện của những người môn đệ, những nhà truyền giáo hay các tu sĩ: nghèo khó là đồng phục của mọi người mang danh hiệu Kitô. Nghèo khó là bộ mặt đích thực của các nghĩa tử của Thiên Chúa, họ phải giũ bỏ tất cả để mặc lấy phẩm giá của những con người được tái sinh.
Trong thực tế, người Kitô hữu phải sống thế nào mới gọi là nghèo khó? Ðó là thắc mắc mà trong xã hội nào, ở thời đại nào, các Kitô hữu cũng có thể nêu lên. Phải chăng sống nghèo khó, họ phải từ bỏ mọi thứ của cải trần thế? Phải chăng về lý tưởng nghèo khó, Kitô giáo chủ trương bần cùng hóa xã hội? Thực tế, nghèo không hề mâu thuẫn với sự phát triển hay làm giầu tài nguyên vốn có trong thiên nhiên mà Kitô giáo luôn cổ võ và nâng đỡ. Kitô giáo vốn là sức mạnh tiên phong trong việc khai hóa và mở mang vào thời Trung Cổ tại Âu Châu; những khám phá khoa học và tiến bộ kỹ thuật ở khởi đầu đều phát xuất từ Kitô giáo, như vậy, phát triển hay làm giầu không hề mâu thuẫn với Tin Mừng.
Thế nhưng, làm thế nào để sống tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng? Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy rằng tự nó, của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong quan hệ với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Như vậy, có tinh thần nghèo khó đích thực có nghĩa là luôn biết giữ khoảng cách đối với của cải vật chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước Trời, như công bằng, bác ái, liên đới. Một cách cụ thể, có tinh thần nghèo khó đích thực là biết mưu cầu cho công ích, biết san sẻ với người túng thiếu, biết làm ra của cải, nhưng không thuộc về của cải.
Hơn bao giờ hết, người Kitô hữu chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần nghèo khó. Túng thiếu, nghèo đói, mà vẫn tin tưởng cậy trông và giữ bàn tay thanh sạch, chứ không bán đứng lương tâm để làm điều gian ác; may mắn hơn người khác vì được thịnh vượng, giầu có, mà vẫn biết mở rộng trái tim và bàn tay để chia sẻ cho người nghèo khó, đó là thể hiện của tinh thần nghèo khó đích thực. Trong một xã hội của chụp giựt và xâu xé lẫn nhau, một cuộc sống như thế chắc chắn là một chứng tá cao độ cho Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Rao Giảng Và Chữa Lành Bệnh Tật
Chúng ta vừa đọc lại bài tường thuật của thánh sử Luca nói về việc Chúa sai nhóm mười hai Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật. Ðây là cuộc sai đi trước biến cố phục sinh để thực tập, để chuẩn bị cho cuộc sai đi quyết định sau phục sinh, khi đó Chúa sẽ nói với các ông một cách vĩnh viễn: "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thầy. Vậy, các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,18-20).
Hai lần sai đi này, trước và sau Phục Sinh, trước và sau biến cố vượt qua của Chúa Giêsu, rất quan trọng và bổ túc cho nhau. Nếu lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh, mà không có lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh thì người ta dễ dàng rơi vào cám dỗ quả quyết rằng, những đồ đệ của Chúa Giêsu tự bày việc cho mình để thành lập cộng đoàn Giáo Hội do sáng kiến riêng chứ không phải do ý muốn của Chúa Giêsu . Ngược lại, nếu lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh mà không có lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh thì người ta cũng dễ dàng rơi vào cám dỗ khác nữa, cho rằng Chúa Giêsu đã thất bại trong dự án của Ngài sau khi bị giết chết trên thập giá. Nhưng các sách Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta hai lần sai đi trước và sau Phục Sinh, và điều này làm nổi bật ý định của Chúa Giêsu. Vượt qua giới hạn của thời gian, Chúa đã kêu gọi, huấn luyện và sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian nhờ những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho.
Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội qua các thời đại trong lịch sử nhân loại đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người. Hơn nữa, chúng ta thấy tác giả Phúc Âm thánh Luca mô tả sứ mệnh của các tông đồ được Chúa sai đi bằng hai cụm từ rao giảng và chữa lành bệnh tật. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, chúng ta có thể nói rằng đây là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Rao giảng và chữa lành, công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Người đồ đệ của Chúa khi làm công việc của Chúa là công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Khi làm công việc này không thể nào lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em chung quanh. Nhà thờ để thờ Thiên Chúa, nhà thương chăm sóc bệnh nhân, nhà săn sóc người cao niên, nhà học tập cho người trẻ, nhà ở cho người nghèo, nhà cứu trợ cho anh chị em gặp nạn, đó là những nhà, những loại công tác nằm trong sứ mệnh của người đồ đệ của Chúa.
Lịch sử hai ngàn năm qua của Giáo Hội cho thấy những đồ đệ của Chúa còn luôn trung thành với lệnh truyền của Chúa: rao giảng và chữa lành, mặc dù không thiếu những sai sót lỗi lầm mà giờ đây những đồ đệ chân thật của Chúa không ngần ngại ăn năn xin tha thứ và dốc quyết thực hiện tốt đẹp hơn trong tương lai.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho chúng con quyền năng của Chúa để chúng con được canh tân và dấn thân nhiều hơn nữa, để chu toàn tốt hơn sứ mệnh Chúa đã trao phó cho trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin Chúa hãy thương hiện diện với chúng con và cùng hoạt động với chúng con luôn mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Đừng ảo tưởng
Sau đó Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Người bảo các ông: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Lc. 10, 1-2)
Đừng ảo tưởng! truyền giáo, theo Đức Kitô, chính là không ngừng nghỉ. Ngay từ đầu các môn đệ đã được chỉ định rõ rệt. Thầy đã nói từng chi tiết những gì các ông trông đợi trước khi sai các ông đi. Đi từng hai đến các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Trước hết, các môn đệ cần phải xác tín rằng: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Muốn có số thợ gặt sẵn sàng và có hiệu quả, phải cầu nguyện tận lực xin tuyển mộ được những thợ gặt chân chính và chắc chắn để đi loan truyền sứ điệp của Đức Kitô.
Số thợ tuyển mộ thì ít, họ như chiên ở giữa sói rừng! họ không được phép giơ tay năm ngón chỉ trỏ kiêu hãnh để áp đặt sứ điệp bằng bạo lực hay bất cứ thứ gì như thế. Nhưng chỉ đề nghị, rất trong sáng, an bình và tự do, không một chút bó buộc nào cả.
Những người truyền giáo nghèo khó, trơ trụi không trang bị những phương tiện gì to lớn của loài người, như tiền của tài năng, trù ếm, ảo thuật, không được dính bén những gía trị quan trọng quyền thế của trần tục, của bảo hiểm dưới đất, của an toàn vật chất, tuy không khinh bỉ chúng, nhưng không để chúng lôi kéo mình vịn lý do cần thiết.
Đối với Đức Kitô, những lời chào hỏi dọc đường là không cần thiết. Hãy trực tiếp đến nơi để rao giảng thì tốt hơn. “Đừng chào ai dọc đường” cũng có nghĩa là “hãy đi thẳng đến mục đích”. “Trước tiên hãy nói: Bình an cho nhà này”, đó là đem niềm vui đến cho họ, rồi đừng để mất giờ, hãy chữa bệnh tật cho họ và nói cho họ biết: “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”.
Đó là những chỉ dẫn thật chính xác, rất ngắn gọn và cô đọng, đáng cảm phục biết bao một tinh thần trung thực vĩ đại! Người ta chấp nhận hay từ chối sứ điệp không phải dài dòng lý sự bắt người ta phải kính trọng. Người còn nói: “Nếu người ta không tiếp đón, hãy đi nơi khác”.
Người truyền giáo cần hành động chứ không van xin than thở.
GF
Suy niệm 6: Mỗi người đều là nhà thừa sai
Xem lại CN 14 TN C
Loan báo Tin Mừng là sứ mạng của hết mọi người chứ không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ. Hình ảnh 72 môn đệ được Đức Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng cho thấy tính phổ quát của sứ vụ này.
Khi được sai đi loan báo Tin Mừng, người thừa sai cần hiểu rõ một nguyên tắc căn bản về sứ vụ tông đồ là: việc Tông đồ là của Chúa. Người tông đồ là người được sai đi để thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Mục đích là làm sao cho muôn người được ơn cứu độ.
Tuy nhiên, không phải ai được sai đi cũng đều thành công trong sứ mạng, bởi lẽ người tông đồ sẽ bị những thử thách, khó khăn do ngoại cảnh gây nên, và đôi khi do chính sự yếu đuối của bản thân, nên dẫn đến tình trạng buồn chán, thất vọng và buông xuôi...
Vì vậy, bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã hướng dẫn các môn đệ về tư cách, phương pháp và tinh thần của người thừa sai, để các ông ra đi và hy vọng mang lại nhiều hoa trái.
Trước tiên: người môn đệ phải noi gương Thầy của mình, đến để cứu độ bằng con đường thập giá. Vì thế, can đảm đón nhận những khó khăn, trở ngại do hiểu lầm, kỳ thị, ghen tức và hóa giải nó trong yêu thương là tinh thần của người môn đệ. Khó khăn này được ví như: "Chiên giữa bầy sói".
Thứ đến: người môn đệ phải sống cuộc sống thanh thoát, nhẹ nhàng trong sự thiếu thốn. Không quá lo lắng về cơm áo gạo tiền cách thái quá. Không bị của cải, sự sung sướng và an thân níu kéo bước chân người thừa sai. Bởi vì của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong tương quan với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Cần cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình qua sự chăm sóc của Ngài, vì thợ thì đáng được thưởng công. Vì thế: không bị, không tiền, không mang hai áo ... là tinh thần của người thừa sai.
Tiếp theo: hãy noi gương Đức Giêsu, Đấng đến để cho chiên được sống và sống dồi dào, còn bản thân Ngài thì lại hóa mình ra không đến nỗi trở nên của ăn cho người khác. Vì thế, người môn đệ cần nhạy bén để khước từ cám dỗ là tìm mọi cách để thay đổi điều kiện sống cho mình, nhằm an thân và sung túc, trong khi đó sứ vụ thì bỏ bê. Như thế, không cẩn thận sẽ dẫn đến tình trạng: "Đi hết nhà này đến nhà kia" mà sứ vụ thì không sinh hoa trái.
Mặt khác: hội nhập văn hóa là điều cần thiết để Lời Chúa thấm nhập vào truyền thống, văn hóa, được chuyển tải bằng những thứ ngôn ngữ của chính người bản địa. Những sinh hoạt hằng ngày như ăn uống, nghỉ ngơi cũng cần thích nghi. Được như thế, người thừa sai sẽ không bị cuốn theo bản năng để chỉ lo cho bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu "hạ đẳng" của chính mình. Vì vậy: "Vào bất cứ thành nào mà người ta tiếp đón thì cứ ăn những gì mà người ta dọn cho anh em".
Hơn nữa: truyền giáo phải đi đôi với bác ái. Nếu lời giảng dạy là để giới thiệu Đức Giêsu như một vị Thiên Chúa nhân từ, yêu thương, đứng về phía người nghèo, áp bức, bất công để giải thoát con người cách toàn diện, thì việc bác ái chính là một chứng minh cụ thể về tình thương, sự liên đới do lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Vì thế, người môn đệ cần: an ủi kẻ âu lo, nâng đỡ kẻ yếu đuối... để làm chứng cho: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần".
Cuối cùng: nhà truyền giáo phải là người thấm thía sự bình an của Chúa. Nếu không có bình an thì không thể trao ban cho người khác bình an được. Cuộc đời sứ vụ của người thừa sai mà thiếu đi yếu tố này, thì hẳn chính bản thân cũng bất hạnh, và như thế, chỉ còn gieo rắc sự thất vọng mà thôi. Tuy nhiên, bình an là một ơn ban của Thiên Chúa, kèm theo sự cộng tác của con người. Vì vậy: "Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con".
Lạy Chúa Giêsu, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Xin Chúa sai những người thợ lành nghề để ra đi thu lúa về cho Chúa. Xin Chúa cũng ban cho chính chúng con, là những người cũng được mời gọi tham gia vào sứ mạng truyền giáo ngày lãnh Bí tích Rửa Tội, luôn biết làm gương sáng, chu toàn bổn phận và trung thành với đời sống bác ái yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nhiệm vụ loan báo Tin Mừng không chỉ dành riêng cho mười hai tông đồ, nhưng là sứ mạng của tất cả mọi người. Là người Kitô hữu, ta được Chúa sai đi nối tiếp công việc truyền giáo của các tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi sai các môn đệ ra đi, Chúa đã căn dặn các ông cầu xin Chúa Cha ban nhiều thợ gặt. Chúa muốn các ông ý thức vai trò của các ông là hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa, vì Chúa Cha là chủ ruộng. Hôm nay, Chúa cũng mời con lên đường truyền giáo, nhưng công việc truyền giáo cần phải bắt đầu bằng những giờ cầu nguyện. Vâng Chúa ơi, công việc của Chúa trao phó luôn luôn bắt đầu từ tấm lòng đáp trả lại lời mời gọi, và được cụ thể hoá bằng giờ phút riêng tư giữa con với Chúa. Vì lạy Chúa, những giờ phút cầu nguyện sẽ đem lại cho con một nghị lực mới, một ánh sáng chan hòa, tạo được một sức sống trào dâng. Xin Chúa dạy con biết cầu nguyện.
Lạy Chúa, cầu nguyện là điều cần thiết, nhưng Chúa không miễn chuẩn cho con phải làm việc: “Anh em hãy ra đi”. Lệnh truyền của Chúa thật dứt khoát. Xin Chúa giúp con ra đi với một tấm lòng rộng mở. Con tin việc làm của con sẽ có một năng lực phi thường vì có Chúa trợ giúp. Xin giúp con biết làm việc tông đồ trong khi kết hiệp với Chúa.
Xin Chúa cho con biết ra đi khỏi chính mình để luôn bận tâm làm việc cho Chúa mà thôi. Xin cho con ra đi khỏi những ràng buộc của thế gian, để có thể phục vụ một người Chủ duy nhất là chính Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Sự bằng an của các con sẽ đến trên người ấy”.
Suy niệm 8: Tin vào Thiên Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tướng Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:
“Các bạn hãy can đảm lên!. Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu”.
Suy niệm
Tyrô và Siđôn, những thành phố phồn thịnh, nổi tiếng thời Cựu ước, cũng là cửa ngõ bị ảnh hưởng của đời sống ngoại giáo xâm nhập vào Israel, nên các ngôn sứ hay phê phán nặng lời các thành phố này (x. Is 23; Ed 26-28; Ge 4,4-8; Am 1,9-10; Dcr 9,2-4). Riêng Sôđôma là thành phố tội lỗi đã bị Chúa hủy diệt bằng lửa… Các ngôn sứ lên án vì nếp sống thực dụng vật chất hưởng thụ dẫn tới những sa đọa luân lý, tôn thờ ngẫu tượng của ngoại bang tại các thành phố này.
Corozain, Bethsaiđa và Capharnaum là những thành phố nằm trên bờ hồ Giênêgiarét. Chúa Giêsu và các môn đệ đã nhiều lần rao giảng Tin Mừng, cũng như làm nhiều phép lạ ở các nơi này. Cuộc sống vật chất sung túc, làm cho con người không chỉ sa đọa, mà còn chối bỏ tương quan với Ðấng Tạo Hóa qua việc họ không tin vào lời giảng dạy của Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không lãnh nhận giáo huấn Chúa. Chính sự chối bỏ, cứng tin của họ, làm cho họ bị phán xét nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa. Thế mà dân ở đây vẫn cứng lòng không theo Chúa. Hình phạt cho các thị trấn sẽ nặng hơn vì ngoan cố không chịu nghe theo Chúa.
Khi loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, đời người sẽ trở nên trống rỗng vắng bóng Ngài, dễ dàng rơi vào sa đọa... Chỉ tin vào Thiên Chúa, khi đó con người mới biết đặt Ngài vào trọng tâm cuộc đời, sống những giá trị thiêng liêng và xây dựng tình người với nhau.
Ý lực sống
“Con hy vọng rất nhiều vào Chúa,
linh hồn con trông cậy ở Lời Chúa” (Tv 130,5).
Suy niệm 9: Bảy mươi hai môn đệ đi truyền giáo
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin Mừng. Và mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ:”Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về”(Lc 10,2).
Sau khi đã trang bị cho họ những khả năng tinh thần tuyệt diệu, Đức Giêsu đã sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng bình an cho mọi người. Ngài ân cần khuyên họ đừng lo tìm an toàn nơi các phương tiện vật chất trần gian. Họ vâng lời ra đi và trở về trong hân hoan. Đức Giêsu cho họ biết họ hãy vui mừng vì tên tuổi họ đã được ghi trên Nước Trời.
2. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, điều đầu tiên Chúa muốn nơi họ là lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 72 môn đệ được sai đi tay không. Chúa cũng không ra lệnh cho họ đến các Hội đường hay các ngã ba đường để rao giảng, nhưng là đến từng nhà và hội nhập vào đó, hiện diện như một phần tử trong gia đình, ăn những gì người ta dọn cho. Nhờ đó Tin Mừng sẽ được đón nhận dễ dàng hơn, bởi vì Tin Mừng không còn là sức mạnh áp đặt từ bên ngoài, mà là một sức sống từ người rao giảng truyền sang những người khác và đâm rễ sâu trong lòng họ (Mỗi ngày một tin vui).
3. Bảy mươi hai môn đệ là hình bóng của mọi tín hữu được kêu mời tham gia vào việc tông đồ của hàng Giáo phẩm. Đức Giêsu đã nói:”Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”. Vậy thợ gặt là ai ? Trước đây người ta thường dành danh xưng “thợ gặt” cho các linh mục, các tu sĩ nam nữ, các nhà truyền giáo. Đây là một nhầm lẫn. Không ai có thể trở thành Kitô hữu mà lại không cảm nghiệm nơi mình nỗi lo âu của Đức Giêsu trước cánh đồng lúa chín mênh mông. Những tác vụ đa dạng sẽ làm nảy sinh những hình thức hoạt động khác nhau nơi mỗi người, nhưng ai nấy theo cách của mình, đều được gọi và làm việc ở đồng lúa chín (L. Sintas).
4. Ngay từ đầu sứ vụ, Đức Giêsu đặt công việc truyền giáo trong cái nhìn cấp bách và khẩn thiết. Cho nên Chúa tuyển chọn 12 tông đồ và sau đó là 72 môn đệ, huấn luyên và sai đi truyền giáo. Hội thánh ngày hôm nay cũng không ngừng tiếp tục mời gọi những người thành tâm thiện chí tiếp tục ra đi loan báo sứ điệp tình thương và ơn cứu độ của Chúa cho trần gian, qua mọi thời đại. Cần ý thức rằng, qua bí tích Rửa tội, mỗi tín hữu cũng là một nhà truyền giáo, được sai đi để làm công việc của Chúa là cứu chữa các linh hồn (5 phút mỗi ngày).
5. Trong tinh thần ấy, thánh Phanxicô Xaviê hồi còn là sinh viên ở trường đại học Paris, đã nghe được lời mời gọi trở thành linh mục và sau đó ngài là một nhà truyền giáo ở Ấn độ. Một trong những lá thư của ngài từ Ấn độ vang vọng lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Đây là một phần của lá thư:
“Nơi đây, nhiều người không trở nên Kitô hữu được, chỉ vì lý do là không có ai sẵn sàng đảm nhận việc dạy dỗ cho họ về Chúa. Tôi thường nghĩ đến việc đi tới trường đại học ở châu Âu và kêu gọi những người thợ đến thu hoạch mùa ở Ấn độ”.
6. Đức Giêsu đã kêu gọi và ngày nay Hội thánh cũng kêu gọi chúng ta hãy tích cực tham gia vào trong việc truyền giáo này. Đức Giêsu đã không dành riêng việc rao giảng Tin Mừng cho các Tông đồ, mà còn sai 72 môn đệ ra đi. Nói khác đi, Ngài muốn gửi sứ mạng rao giảng đến mỗi người chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức sứ mạng rao giảng đó, không những bằng lời nói mà nhất là bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ.
Nói một cách cụ thể, chúng ta có thể tham gia vào việc truyền giáo bằng cầu nguyện, xin Chúa sai nhiều thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo. Đây là một việc mọi người có thể làm bất cứ lúc nào. Cầu nguyện còn chứng tỏ lòng tin tưởng cậy trông của chúng ta, vì từ việc sai thợ gặt đến cánh đồng truyền giáo, cho đến việc cứu độ thực sự là làm cho người ta chấp nhận Tin Mừng, trở về với Chúa để được hưởng ơn cứu độ .
7. Truyện: Đôi tay của Chúa.
Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi tay Đức Quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng mình cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.
Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được. Vì các mảnh vụn lớp thì bị bể quá nhỏ, lớp thì đã bị nát thành như bụi.
Sau nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn những người dân trong làng, mà còn thu hút được nhiều khách du lịch đến vùng này để được tận mắt xem hàng chữ đầy ý nghĩa. Các bạn có thể đoán được hàng chữ này không? Đó là “CHÍNH BẠN LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA”.
Suy niệm 10: Đi rao giảng Tin Mừng
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng:
- Theo tường thuật của Thánh Luca, Chúa Giêsu đã sai đi rao giảng không phải chỉ nhóm tông đồ mà còn cả nhóm môn đệ nữa. Luca muốn nhấn mạnh rằng không riêng gì các tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Ý này lại được làm rõ thêm với con số 72. Đây là số dân của loài người mà St 10 đã liệt kê.
- “Từng nhóm hai người”: Việc loan Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác.
- “Hãy cầu xin”: Việc đầu tiên mà nhà truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Thiên Chúa là chủ mùa gặt, nhận ai vào Nước Thiên Chúa là quyền của Ngài và là ơn của Ngài. Chúa Giêsu bảo cầu xin là để các môn đệ ý thức rằng họ được gọi là nhờ ơn Chúa, và để có thêm nhiều người nữa nhận được ơn ấy.
- “Như chiên non vào giữa sói rừng”: Chúa Giêsu khuyến cáo các môn đệ về những hiểm nguy và sự thù nghịch mà có thể họ sẽ gặp phải.
- “Đừng chào ai dọc đường”: việc chào hỏi của người Phương Đông thường kéo theo những câu chuyện rề rà rất lâu. Trong khi sứ mạng loan Tin mừng đòi phải gấp.
- “Bình an cho nhà này”: đây vừa là một lời chúc vừa là một lời ban ơn bởi vì nó có sức tạo nên điều nó chúc (Is 45,23). Người rao giảng Tin Mừng phải là “con cái của sự bình an”. Họ phải có bình an trong mình và sau đó đem bình an ấy ban lại cho người khác. Nếu nhà nào đáng được hưởng ơn bình an thì được bình an, nếu không thì ơn bình an trở lại cho người chúc.
- “Cứ ở lại nhà ấy”: gặp nhà nào đầu tiên cho ở thì người môn đệ hãy ở đó. Đừng tìm hiểu nhà để so sánh chọn lựa nhà nào tiện nghi hơn. Điều quan trọng là loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa chứ không phải tiện nghi cho mình hoặc cách người ta tiếp rước mình.
- “Ăn uống của người ta cung cấp cho mình”: sứ mạng của môn đệ đừng để bị ảnh hưởng bởi những quan tâm có tính cách trần thế (đòi hỏi hoặc e ngại những gì của ăn uống người ta lo cho mình).
- “Thợ đáng trả lương”: đây là một nguyên tắc (1Tm 5,18 ; 1Cr 9,11). Nhưng người thừa sai cũng có thể tự ý từ chối (1Cr 9,14-18).
- “Người ta dọn thức gì cứ ăn thức ấy”: Người rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không còn bị bận vướng bởi luật Môsê về sự phân loại thức ăn nào sạch, thức ăn nào dơ (1Cr 10,27).
- “Hãy chữa lành các bệnh nhân”: đây là dấu hiệu Nước Thiên Chúa gần đến.
- “Phủi bụi chân”: người Do Thái thường phủi bụi chân khi từ một vùng đất ngoại trở về đất Palestina vốn được coi là đất thánh. Cử chỉ này có nghĩa là không có chung đụng giữa Israel và dân ngoại. Thành nào không đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu thì cũng cắt đứt liên hệ với dân Thiên Chúa, trách nhiệm là thuộc về họ.
- Thành đó sẽ đáng chịu phán xét trong ngày chung thẩm, họ sẽ bị trừng phạt nặng nề còn hơn Sôđôma ngày xưa. Việc các thừa sai đến loan Tin mừng là cơ hội cho người ta chọn lựa để hoặc được cứu độ hoặc bị luận phạt.
B.... nẩy mầm.
1. Truyền giáo là bổn phận của tất cả mọi tín hữu không trừ ai. Thực ra, người tín hữu VN chỉ mới lo giữ đạo chứ chưa ý thức truyền đạo.
2. Việc đầu tiên người truyền giáo phải làm là “cầu xin”. Đây là điều mà chúng ta hay quên.
3. Điều thứ hai người truyền giáo phải lưu ý là: cái họ cần có hơn là ơn Chúa chứ không phải là những phương tiện vật chất (túi tiền, bao bị, giày dép…)
4. Việc làm chính của người truyền giáo là “chữa lành các bệnh tật”, nghĩa là làm giảm bớt đi những đau khổ tinh thần và vật chất của người ta.
5. “Anh em hãy ra đi. Đừng mang theo túi tiền, bao bị giày dép.(Lc 10,4)
Nếu phải thực hiện một chuyến đi dài, tôi sẽ mang theo thứ gì ? Chắc chắn là những gì gọn nhất, nhẹ nhất, cần thiết nhất. Và hôm nay, trong lênh truyền của Chúa Giêsu tôi đọc được nét nhẹ nhàng thanh thoát ấy trong bước chân của người môn đệ không giày dép, bao bị, tiền nong...
Và phải chăng cũng vang động trong tâm hồn tôi lời mời gọi “ra một cuộc lữ hành” ? Nhưng lạy Chúa, khó quá, vì nơi con: Đã quen rồi bóng râm của tiện nghi, an toàn. Đã quen rồi đôi giày của danh vọng. Đã quen rồi chiếc đồng hồ kế hoạch. Đã quen rồi bao bị của bằng cấp, bạc tiền.
Lạy Chúa, trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc của bản thân, của lề thói xã hội, để biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ không phải chính con (Hosanna)
29/09 Bước vào Nước Trời
- Viết bởi Ga 1, 47-51
Bước vào Nước Trời.
Thứ Tư tuần 26 thường niên. – CÁC TỔNG LÃNH THIÊN THẦN MICAE, GABRIE, RAPHAE. Lễ kính.
"Các ngươi sẽ thấy các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".
* Chúng ta mừng các vị tổng lãnh thiên thần, nhưng đồng thời cũng mừng tất cả các thiên sứ được nhắc tới từ sách Sáng Thế cho tới sách Khải Huyền. Các vị hiện diện cách vô hình để hướng dẫn dòng lịch sử cứu độ.
Tuy các vị là những sứ giả của Chúa, có nhiệm vụ bộc lộ cho con người biết các kế hoạch của Chúa và mang tới lệnh Người truyền, nhưng trước hết các vị là cộng đoàn đông đảo những vị thờ lạy Thiên Chúa hằng sống.
Lời Chúa: Ga 1, 47-51
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông rằng: "Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối". Nathanaen đáp: "Sao Ngài biết tôi?" Chúa Giêsu trả lời rằng: "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Nathanael thưa lại rằng: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel".
Chúa Giêsu trả lời: "Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin. Ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa".
Và Người nói với ông: "Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Các thiên thần của Thiên Chúa
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa,
Đấng dựng nên muôn vật hữu hình cùng vô hình.
Các thụ tạo vô hình ở đây chính là chư vị thiên thần.
Chư vị này sống gần bên Thiên Chúa để phục vụ Ngài và nhân loại.
Hơn nữa, các thiên thần là những người đã phục vụ Đức Giêsu Kitô,
từ khi Ngài chào đời đến khi Ngài quang lâm.
Sứ thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến với trinh nữ Maria
để loan báo về sự hạ sinh của Đấng Cứu Độ (Lc 1, 26).
Ta nghe tiếng ngợi khen của muôn vàn thiên binh cùng với sứ thần
trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh trên trái đất (Lc 2, 13).
Ta cũng thấy các thiên thần hiện ra để phục vụ Đức Giêsu (Mt 4, 11),
sau khi Ngài chiến thắng những cám dỗ của quỷ dữ nơi hoang địa.
Khi Đức Giêsu bị xao xuyến trước cái chết sắp đến,
một thiên thần từ trời đã đến tăng sức cho Ngài (Lc 22, 43).
Ngài đã không tránh né cái chết
bằng cách xin Cha cấp cho mình mười hai đạo binh thiên thần (Mt 26, 53).
Tin Vui Phục sinh được loan báo bởi các thiên thần từ mộ trống (Lc 24, 6).
Vào ngày tận thế, các thiên thần của Đức Giêsu sẽ đi theo Ngài
khi Ngài trở lại trong vinh quang để phán xét cả thế giới (Mt 16, 27).
Đức Giêsu nay ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời,
trổi vượt trên các thiên thần và được các thiên thần thờ lạy (Dt 1, 4. 6).
Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay
cũng nói đến tương quan giữa Đức Giêsu và các thiên thần.
Trong lần gặp gỡ với Nathanaen và các bạn của ông
Đức Giêsu đã long trọng hứa là họ sẽ thấy trời rộng mở,
và “các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người” (c. 51).
Trong một giấc mộng, Giacóp đã chiêm bao thấy
“một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời,
trên đó có các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống” (St 28, 12).
Đức Giêsu nhận mình chính là chiếc thang đó,
là Đấng Trung Gian nối đất với trời,
nối Thiên Chúa với nhân loại.
Các thiên thần cũng phải qua Ngài mà đến phục vụ con người.
Các thiên thần cũng là những đấng trung gian được sai đi,
nhưng họ phải qua Đấng Trung Gian duy nhất và đích thực,
vì Đấng đó vừa trọn vẹn là người, vừa trọn vẹn là Thiên Chúa.
Lên lên xuống xuống trên thang Giêsu là việc của các thiên thần.
Lên với Thiên Chúa để dâng cho Ngài nỗi thống khổ của nhân loại.
Xuống với nhân loại để mang cho họ ân lộc và sứ điệp từ trời.
Thiên thần vừa gần với con người, vừa gần với Thiên Chúa,
vừa tựa trên đất, vừa đụng tới trời,
nên kéo trời xuống đất và đưa đất lên trời.
Xin được quyền năng của Sứ thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
Xin được sức mạnh của Sứ thần Gabrien: Thiên Chúa hùng dũng.
Xin được ơn lành mạnh của Sứ thần Raphaen: Thiên Chúa chữa lành.
Kitô hữu là người hạnh phúc vì biết mình được nâng đỡ chở che.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa, lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
Lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động
sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin, cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo.
(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)
Suy niệm 2: Phụng sự Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên thần và loài người đều có bổn phận và quyền lợi là phụng sự Thiên Chúa. Chính việc phụng sự Thiên Chúa đem lại hạnh phúc đời đời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên các thiên thần là loài thiêng liêng luôn chiêm ngưỡng, thờ lạy, tôn vinh Chúa. Các ngài còn được sai đi thi hành lệnh truyền của Chúa để giúp đỡ loài người.
Hôm nay, con mừng kính ba vị: Mi-ca-en, Gáp-ri-en và Ra-pha-en với tước vị cao trọng Tổng Lãnh Thiên Thần. Các Ngài đã tuyệt đối trung thành yêu mến và triệt để thi hành lệnh truyền của Chúa. Nhờ lòng yêu mến và trung thành trọn vẹn với Chúa, Chúa đã cho các Ngài được nâng lên và sáng láng trong vinh quang nước Chúa. Hợp với các thiên thần, con xin dâng Chúa lời chúc tụng, tôn vinh và cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã thương ban cho con có các thiên thần. Các ngài luôn giúp con sống yêu mến, trung thành và mau mắn làm theo Ý Chúa. Các ngài vẫn luôn đồng hành và phù trợ con để con được sống bằng an trong tình yêu Chúa. Xin Chúa soi sáng để con ghi nhớ hồng ân trọng đại này và cộng tác với các thiên thần để phụng thờ Chúa suốt cả đời sống con. Và con sẽ luôn giúp đỡ, yêu thương mọi người để nên giống các thiên thần. Xin đừng bao giờ để con ghen ghét, thù hằn anh em như loài quỷ dữ.
Lạy Chúa, cuộc sống con luôn bị quỉ dữ tấn công. Đó là các thiên thần phản loạn, chống lại Chúa và rình rập loài người. Xin Chúa luôn sai các thiên thần đến giúp con chiến đấu chống lại ma quỉ, để con trung thành, yêu mến và phụng sự Chúa mà thôi. Xin Chúa chúc lành cho ước nguyện chân thành của con. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi sẽ thấy các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người”.
Suy niệm 3: Thừa hành ý muốn của Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tại Tây phương, nhiều cuộc hiển linh của Tổng lãnh Thiên thần Micae càng làm cho việc sùng kính khởi sắc hơn, như tại núi Gargano miền Nam nước Ý, dưới thời Đức Gelase (192 - 196).
Tại Pháp, Tổng lãnh Thiên thần Micae cũng đã hiện ra với nhiều người, đặc biệt năm 708, ngài hiện ra với Ðức Giám mục thành Arranche và Ðức Giám mục đã xây một thánh đường nguy nga để kính dâng Ðức Micae tại Mont Saint Michel. Từ đó, nơi đây đã trở nên một vị trí hành hương lớn. Theo thánh nữ Gioanne d’Arc, Tổng lãnh Thiên thần Micae đã thúc giục bà đi gặp vua Charles VII để lên đường đi cứu nước.
Suy niệm
Micae, danh từ Hêbrơ có nghĩa “ai bằng Thiên Chúa” ám chỉ sự siêu việt của Thiên Chúa, được nói đến trong sách Đanien (10,13-21) và trong sách Khải huyền của thánh Gioan (12,7) như vị chiến thắng ma quỷ.
Tổng lãnh Thiên thần Micae đã chống lại thần dữ để bênh vực quyền tối cao của Thiên Chúa. Giáo hội nhận thiên thần Micae như Ðấng bảo trợ và tin rằng ngài vẫn dâng lời cầu nguyện của chúng ta lên ngai tòa Chúa.
Raphael tiếng Hêbrê có nghĩa là “Thiên Chúa chữa lành” hoặc “thầy thuốc của Thiên Chúa”. Sách Tôbia cho biết, chính ngài đã được Thiên Chúa sai đến giúp đỡ gia đình ông Tôbit trong cơn hoạn nạn. Trong câu chuyện này, ngài xuất hiện để dẫn dắt con ông Tôbit là Tôbia qua những cuộc mạo hiểm dị thường mà sau cùng dẫn đến một kết quả thật tốt đẹp: Tôbia kết hôn với Sarah, ông Tôbit được chữa khỏi mù mắt và tài sản của gia đình ông được hồi phục. Người đã cho hai cha con biết: “Ta là Raphael, một trong bảy khâm sai của Thiên Chúa hằng ở bên cạnh Ngài trong huy hoàng của Ngài hiện diện”. Thiên Chúa quan phòng hằng hoạt động trong đời con người và hằng nghe lời cầu xin. Raphael là đấng được nhiều người đến cầu xin cho thể xác khang an, linh hồn khỏe mạnh và là quan thầy người đi đường.
Gabriel, danh xưng Hêbrê có nghĩa là “Thiên Chúa là sức mạnh”, cũng còn được gọi là “Sứ thần truyền tin”, được gửi đến để báo tin Thiên Chúa can thiệp vào việc cứu rỗi nhân loại và Đấng Mêssia sẽ đến thực hiện. Gabriel được gửi đến với ngôn sứ Đanien (x. Đn 8,16; 9,21-27), với ông Dacaria và Đức Maria (x. Lc 1,11-38). Đây cũng là sứ thần đã nhiều lần hiện ra báo mộng cho thánh Giuse. Thánh Bernarđô nhận định: “Trong tất cả các thiên thần, đức Gabriel đã được thấy là vị xứng đáng loan báo những chương trình của Thiên Chúa cho Đức Mẹ và đón nhận lời fiat (xin vâng) của Mẹ”.
Chiêm ngưỡng ba vị Tổng lãnh Thiên thần Micae, Raphael và Gabriel trong chương trình của Thiên Chúa uỷ thác, như Chúa Giêsu nói bằng hình ảnh: “Các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người” (Ga 1,51), Thiên Chúa cũng có chương trình tốt đẹp nhất dành cho chúng ta, Ngài luôn là Đấng lên tiếng mời gọi chúng ta tham gia: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.
Chúng ta hãy xin ba Đức Tổng Thiên thần luôn hướng dẫn chúng ta giữa những quyết định cần phải thực hiện trong cuộc sống: Luôn tìm ra thánh ý Thiên Chúa.
Ý lực sống
“Hãy chúc tụng Chúa đi, chư binh toàn thể,
chư vị thần hạ thừa hành ý muốn của Chúa” (Tv 103,21).
Suy niệm 4: Các tổng lãnh thiên thần Micae, Gabie và Raphae
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Theo sách thánh thì Thiên Chúa đã dựng nên một loài thần đông vô số, và các thánh tiến sĩ thì nói có lẽ các thần này được dựng nên trong ngày thứ nhất khi bắt đầu công việc tạo dựng.
Thiên Chúa dựng nên loài thiên thần để chầu chực hầu hạ Đức Chúa Trời, giúp đỡ loài người và gìn giữ vũ trụ.
Theo như các lần các ngài hiện ra thì ta thấy các ngài là đấng thiêng liêng, tốt lành, quyền phép, mạnh mẽ và mau lẹ.
Trước khi các ngài được tiếp nhận vào trong nước của Thiên Chúa thì các ngài đã phải trải qua một cuộc thử thách. Trong cuộc thử thách này có một số đông đã tỏ ra không chịu phục tùng Thiên Chúa. Đứng đầu là Luxiphe.
MICAE
Theo sách Khải huyền của thánh Gioan thì khi ấy trên trời có một trận chiến to tát. Một bên do Đức Micae lãnh đạo, bên kia là do Luciphe. Micae là thiên thần dũng mãnh đã anh dũng tống cổ Luciphe và bè lũ theo hắn ra khỏi thiên đàng dưới khẩu hiệu: “AI BẰNG THIÊN CHÚA”. Khẩu hiệu này sau đã trở thành tên của ngài.
Hôm nay Giáo hội mừng kính thánh Micae vị thủ lãnh các thiên thần lành trên trời và còn là bổn mạng của Giáo hội dưới thế. Chính Ngài đã nhiều lần hiện xuống trần gian với nhiều nhiệm vụ khÿc nhau để thực hiện sứ mạng cao cả của Ngài.
Chúng ta hãy bắt chước Ngài: luôn trung thành với Chúa. Mỗi khi chúng ta bị thế gian xác thịt cám dỗ muốn xa lìa Chúa, chúng ta hãy lập lại lời của Ngài: Ai bằng Thiên Chúa? Vâng! Chẳng ai bằng Thiên Chúa cả. Tiền bạc, vui sướng xác thịt, chức quyền không có gì sánh được với Thiên Chúa cả.
Không có một ai, một vật nào được phép đứng ngang hàng với Thiên Chúa của chúng ta. Chỉ có Thiên Chúa mới là đấng tốt lành, thánh thiện, mạnh mẽ phép tắc vô cùng. Người nhân từ vô biên, hiểu biết mọi sự, làm được mọi sự. Ngài là cội rễ mọi sự, là cùng đích của mọi loài. Không ai bằng Thiên Chúa.
RAPHAE
Raphael xuất hiện ở trong Cựu Ước. Cựu Ước nói về Raphael như thế này:
“Ông Tobia người Do thái thuộc chi họ Neptali bị bắt làm tôi mọi bên nước Assyria vì dân Do thái bị bại trận. Thời gian ở đất khách quê người Tobia luôn giữ lòng trung thành làm tôi Chúa. Ông bị tai nạn làm cho đôi mắt bị mù hoàn toàn. Gia đình ông túng đói quá không có cách nào xoay trở. Lúc đó ông nhớ đến món tiền trước kia ông đã cho nhà Gabelo mượn. Ông sai người con của ông cũng có tên là Tobia -để khỏi lầm lẫn sau này người ta gọi là Tobia-con- đến nhà Gabelo để xin lại món tiền đã cho vay. Tobia-con sẵn sàng vâng lời những Tobia-con không biết đường đi. Tổng lãnh Raphael đã hiện ra dưới hình dạng một người thanh niên để đẫn đường. Dọc đàng Raphael cứu Tobia-con khỏi bị cá nuốt. Tới nơi Raphael còn giúp cho Tobia-con cưới được vợ là Sara và đồng thời còn đòi nợ giùm Tobia.
Công việc xong, Tobia-con cùng với vợ trở về nhà. Raphael bảo cho Tobia-con lấy mật cá mà xức vào mắt cho Tobia cha. Tobia cha được khỏi mù. mắt được sáng trở lại, cha con Tobia hết sức vui mừng. Đứng trước những ơn mà cả nhà vừa mới được: đòi được nợ, cưới được vợ, lại khỏi bị mù cha con ông Tobia muốn lấy phân nửa số tiền đòi được để gọi là đền ơn đáp nghĩa đối với người thanh niên đã tận tình giuó đỡ gia đình mình. Khi ấy “người thanh niên” tốt lành đó mới tỏ ra cho cha con Tobia biết mình là thiên thần của Thiên Chúa đã được sai đến để giúp đỡ gia đình ông. Nói xong điều đó thiên thần liền biến đi.
Câu truyện của cha con Tobia cho chúng ta thấy Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc những kẻ kính sợ Người. Raphael có nghĩa là “THẦY THUỐC CỦA THIÊN CHÚA”
GABRIE
Tên Gabriel có nghĩa là “Sức mạnh của Thiên Chúa”.
Chính đức Gabriel đã hiện ra với tiên tri Đaniel để cho Đaniel biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra.
Chính đức Gabriel đã hiện ra với Giacaria báo tin cho ông biết ông sẽ sinh được một người con trai và đặt tên là Gioan.
Luca ghi lại quang cảnh cảm động này như sau: “Khi ấy ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong đền thờ của Đức Chúa. Sứ thần của Chúa hiện ra với ông...thấy vậy ông bối rối. Sự sợ hãi ập xuống trên ông. Những sứ thần bảo ông: “Này ông Giacaria, đừng sợ vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin. Bà Elidabeth vợ của ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai và ông phải đặt tên cho con là Gioan”
Ông thưa lại: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điêu ấy? Vì tôi đã già và bà nhà tôi cũng đã lớn tuổi.?
Sứ thần đáp lại: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa. Tôi được sai đến với ông và loan báo Tin vui đó cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm không nói được cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không chịu tin lời tôi là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi” (Lc 1,1-20) vv. Và sau đó mọi việc xẩy ra như thế nào thì chúng ta đều đã được biết.
Rồi cũng theo Tin Mừng của Luca, sau sáu tháng, sứ thần Gabriel còn được Thiên Chúa gửi đến trần gian với một sứ mạng còn cao trọng hơn nhiều: Đó là sứ mạng truyền tin cho Đức Maria. Nếu Giacaria đã ngỡ ngàng thì Đức Mẹ còn ngỡ ngàng hơn. Việc của Giacaria với bà Elidabeth chỉ là việc giữa con người với con người. Còn việc của Đức Maria là việc của Thiên Chúa: “Thánh thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế người con do bà sinh ra sẽ là thánh và được gọi là con Thiên Chúa”
Sau tiếng Xin vâng của Đức Mẹ, cả vũ trụ đều phải nhảy mừng.
Thi sĩ Hàn mặc Tử chỉ nghĩ đến biến cố này thôi cũng đã phải run rảy mà thốt lên như sau:
“Hỡi sứ thần Thiên Chúa Gabriel.
Khi người xuống truyền tin cho thánh nữ
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú
Người có nghe náo động cả muôn loài?”
Chúng ta hãy cám ơn Chúa vì Chúa đã thực hiện những việc lạ lùng trước mắt chúng ta.
Suy niệm 5: Tổng lãnh Thiên thần Micae, Gabie và Raphae
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
* Lịch sử
Thuật ngữ thánh kinh dùng để gọi các thiên thần đều có nghĩa là “sứ giả”; theo thư Do Thái 1,14, các thiên thần là những thần linh phục vụ cho Thiên Chúa, và Thiên Chúa sai họ đến với những người cần được cứu giúp.
Cựu Ước cũng gọi họ là “Các Thánh” hay là “những người con của Thiên Chúa”. Nổi bật nhất giữa các thiên thần là các đâng Kêrubim và Sêraphim (số ít là Kêrub và Seraf). Vài đấng được gọi tên là:
Michael, có nghĩa: “Ai ví bằng Thiên Chúa”
Gabriel, có nghĩa: “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hay là “Anh hùng của Thiên Chúa”
Rafael, có nghĩa: “Thiên Chúa cứu giúp”
Thánh lễ hôm nay bắt nguồn từ lễ thánh hiến Đền thờ Michael trên đường Via Salaria ở Rôma. Ngày hôm nay cùng với Tổng lãnh thiên thần Michael, Hội Thánh cũng mừng chung hai tổng lãnh thiên thần Gabriel và Rafael, theo lịch xưa, các ngài được mừng vào những ngày 24.3 và 24.10. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Thánh Kinh cách chung và Tân Ước cách riêng nói tương đối ít về các thiên thần. Trong đoạn Tin Mừng này chỉ có một câu “Các thiên thần của Thiên Chúa lên xuống trên Con Người”. Đây là lấy lại hình ảnh chiếc thang Giacóp, như một nhịp cầu nối trời và đất, Thiên Chúa và loài người. Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh này vào bản thân Ngài: Ngài cũng là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Các thiên thần góp phần tích cực vào sứ mạng trung gian ấy.
B.... nẩy mầm.
1. Micae là tổng lãnh tất cả các thiên thần. Ngài đã lãnh đạo các thiên thần khác chiến đấu với Luxiphe. Nhắc tới Ngài là người ta nhớ lại câu Ngài nói “Ai bằng Thiên Chúa?”.
Xin Thánh thiên thần Micae trợ lực để chúng con chiến đấu và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Xin Ngài luôn nhắc chúng con biết đặt Thiên Chúa ở vị trí cao cả nhất trong cuộc đời chúng con.
2. Gabriel là thiên thần truyền tin (Lc 1,19: Truyền tin cho ông Dacaria; Lc 1,26: truyền tin cho Đức Mẹ). Ngài tuân lệnh Thiên Chúa mang sứ điệp Thiên Chúa đến cho loài người.
Xin Thánh thiên thần Gabriel giúp con mau mắn đón nhận những sứ điệp Chúa gởi đến chúng con, và mau mắn thưa lời “Xin vâng” như Đức Mẹ.
3. Raphael là vị thiên thần đã đưa đường dẫn lối cho Tôbia con, nhờ đó Tôbia bình an trong cuộc hành trình nhiều nguy hiểm, cưới được vợ hiền và chữa được bệnh cho cha già. Trước khi từ biệt gia đình Tôbia, Ngài cho biết thêm là Ngài luôn ở trước mặt Chúa để dâng những công nghiệp của loài người lên cho Thiên Chúa.
Xin Thánh thiên thần Raphael là bạn đồng hành của chúng con trong cuộc hành trình dương thế nhiều cạm bẫy. Xin Ngài nhắc nhở chúng con làm việc thiện, vì luôn biết rằng từng việc thiện âm thầm nhỏ bé cũng là những làn hương thơm tho bay lên toà Thiên Chúa.
Suy niệm 6: Bước vào Nước Trời
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Bài trình thuật Phúc Âm theo thánh Gioan hôm nay diễn tả sự kiện tông đồ Philipphê muốn thuyết phục người bạn của mình là Nathanaen rằng ông đã tìm thấy Ðấng cứu thế mà Lề Luật và các ngôn sứ đã tiên đoán trước, đó là Chúa Giêsu thành Nazareth, con ông Giuse. Nhưng Nathanaen là người công chính và có lòng tôn kính Thiên Chúa, và cũng như nhiều người Do Thái thời đó ông đang trông chờ Ðấng cứu thế đến. Chính lòng khao khát được trông thấy Ðấng cứu thế đã thúc đẩy ông nghe theo lời của Philipphê mà tới gặp Chúa Giêsu. Ông gặp và tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa vì Ngài đã nhìn thấu được những khát vọng sâu xa trong tâm hồn của ông, đó là lòng ao ước được nhận biết Thiên Chúa và được hiệp thông với Ngài trong sự vinh hiển muôn đời.
Chúa Giêsu đã ban cho Nathanaen một niềm tin mới vào Ðấng cứu thế mà dân tộc Do Thái đã chờ đợi từ lâu là Ngài chính là chiếc thang nối kết giữa Nước Trời với trần gian, như Thiên Chúa đã mở rộng cánh cửa cho tổ phụ Giacóp để đưa ông và dân tộc Do Thái vào Nước Trời với Thiên Chúa hằng sống. Chúa Giêsu cũng mạc khải cho Nathanaen thấy rằng Ngài chính là Ðấng sẽ phải đến để hoàn tất các lời hứa của Thiên Chúa cho tổ phụ Giacóp.
Qua mầu nhiệm nhập thể, Con Một Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm cho sự cứu rỗi của nhân loại và thông qua sự cứu rỗi và mầu nhiệm Phục Sinh đã mở rộng con đường cho tất cả nhân loại bước vào một mối liên hệ mới là trở nên các con cái của Ngài. Con Một Thiên Chúa đã mở rộng con đường cho nhân loại đi vào Nước Trời cũng như mang Nưới Trời vào thế gian và vào trong đời sống mỗi ngày của chúng ta, điều đó có nghĩa là Nước Trời hiện diện ở những ai đi tìm kiếm và thực hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Mười hai môn đệ ở kề cận với Chúa Giêsu để được dịp chứng kiến sự kiện Chúa Cha tác động và ngự trên Chúa Con. Sự kết hợp được biểu lộ một cách trọn vẹn nhất qua mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Giêsu. Chính vào giây phút Ngài được nâng lên trên thập giá để bước vào sự vinh hiển muôn đời của Chúa Cha, tất cả chúng ta cũng được gọi để dự phần vào sự mạc khải này và mỗi lần chúng ta cử hành mầu nhiệm hy tế là chúng ta sống lại mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, là vị thượng tế và là con chiên hiến tế trong giao ước mới giữa Chúa Cha và nhân loại.
Lạy Chúa Cha trên trời,
Qua Con Một của Ngài là Chúa Giêsu, Cha đã chỉ đường cho chúng con bước vào Nước Trời như chính Cha đã mạc khải cho các tổ phụ và các tông đồ. Xin Cha cũng tỏ lộ Cha cho tất cả chúng con để chúng con biết làm sáng Danh Cha qua cuộc sống chứng tá hằng ngày. Xin cho chúng con luôn tìm thấy niềm hân hoan trong sự hiện diện của Cha để tận hưởng niềm hạnh phúc và sự sống muôn đời nơi Nước Trời.
Suy niệm 7: Các Tổng Lãnh Thiên Thần – Cộng Đồng Siêu Việt
Nathanael ngạc nhiên khi thấy Đức Giê-su biết rõ ông dù hai người chưa gặp nhau bao giờ, thế mà lần thứ nhất thấy ông, Người đã thấu suốt mọi bí ẩn trong tâm tư ông: “Lòng dạ ông không có gì gian dối”.
“Tôi đã thấy anh rồi”
Chúng ta ở với Đức Giê-su Ki-tô nhiều hơn chúng ta tưởng. Trong những cơn gian nan khốn khó suốt trên đường đời, Đức Giê-su luôn nhìn chúng ta, theo dõi chúng ta. Nathanael, trong ông: “không có gì gian dối”. Ông đã nhận được ơn mặc khải về tình yêu của Chúa đang hoạt động trong ông. “Tôi đã thấy anh trước rồi” nhưng “Anh sẽ còn thấy những điều lớn lao hơn thế nữa”... Ông đã tin và được hứa cho thấy rõ ràng, sáng suốt một viễn tượng mới về các thực thể với muôn vật. Và “Anh sẽ thấy trời mở rộng”. Đức Giê-su đã đến: và từ nay trời với đất được hiệp thông với nhau. “Thiên Thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên con người”
Những sứ giả của Thiên Chúa
Ngày nay chúng ta không còn quen nhiều với các Thiên Thần nữa, ngay cả tên các Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-e, Gabriel và Raphael. Chúng ta nhưng hơn cả là Thiên Thần Gabriel trong việc truyền tin: Ngài đã được sai đến với Đức Ma-ri-a để báo tin đầy ơn phúc cho Đức Ma-ri-a, theo Kinh Thánh, các Thiên Thần được dựng lên để chầu chung quanh Thiên Chúa và đưa lời Chúa. Các Thiên Thần còn hướng dẫn chúng ta ngợi khen Thiên Chúa và vâng lời Thiên Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, các Ngài can ngăn chúng ta khỏi co dúm, cuộn mình lại trong chiều kích thấp hèn hư nát của tạo vật, nhắc nhở chúng ta thuộc một cộng đồng siêu việt cao cả, hoàn toàn hướng lên Đức Ki-tô, trong ngôi vị của Con Người là đường dẫn lên Thiên Chúa, đang mở ra trước mắt chúng ta một trời mới, đất mới lớn lao vô cùng: chúng ta có biết lắng nghe tiếng các thiên thần tuyên dương ca tụng Thiên Chúa không?
Một liên kết mới giữa chúng ta và Thiên Chúa, phúc cho ai thấy và sống trong tình liên kết đó.
Tôi yêu chuộng một thứ vũ trụ đông đảo các Thiên Thần hơn cả cái vũ trụ trống rỗng và lạnh ngắt đang ở trước mắt chúng ta. Các Thiên Thần sống hòa hợp với Thiên Chúa tuyệt vời hơn là loài người được Đức Ki-tô đưa về sống với Thiên Chúa.
J.M
Suy niệm 8: Các Tổng Lãnh Thiên Thần Micae - Gabriel - Raphael
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Hôm nay Giáo Hội mừng kính tổng lãnh các Thiên Thần Micae, Gabriel và Raphael, đây là tên tuổi của ba vị Thiên Thần đã được Kinh Thánh nhắc đến nhiều lần, và khi nói đến các Thiên Thần là nói đến vô số. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết với các môn đệ của Ngài về sự hiện hữu của các Thiên Thần, đây chính là mầu nhiệm gắn liền với những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Khi tự tỏ bày cho loài người, Thiên Chúa cũng một trật mạc khải cho chúng ta về thế giới của các Thiên Thần.
Một trong những dấu chỉ thời đại mang nhiều ý nghĩa, là hiện nay tại những nước văn minh như Hoa Kỳ, sách vở liên quan đến các thiên thần được xếp vào một trong những loại bán chạy nhất, ngày càng có nhiều người tin tưởng vào sự hiện diện chở che của thiên thần trong cuộc sống của họ.
Vào tháng 12 năm 1993, một cuộc thăm dò được tờ báo Time và đài truyền hình thực hiện, cho thấy rằng có đến 69% người dân Mỹ tin sự hiện hữu của các Thiên Thần. Một cuộc thăm dò khác được thực hiện trước đó cũng tìm thấy rằng, 75% dân Mỹ tin có thiên thần.
Ðầu thập niên 1970, một nhà giảng thuyết nổi tiếng của Hoa Kỳ được tạp chí Time cho vào danh sách một trong 20,000 những tư tưởng nổi bật nhất của thế kỷ XX đã viết một cuốn sách có tựa đề: "Các Thiên Thần và Nhân Viên Mật Vụ của Thiên Chúa". Trong cuốn sách được xem là bán chạy nhất này, tác giả đã viết: "Các Thiên Thần là một chủ đề mang lại niềm an ủi và phấn khởi lớn lao cho những người tin Chúa, đồng thời cũng là một thách đố để cho những người không tin phải tin".
Thật thế, nếu Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta sự hiện hữu và hoạt động của các thiên thần, hẳn Ngài cũng muốn cho chúng ta cảm nghiệm hơn về mầu nhiệm tình yêu của Ngài. Dù chúng ta có thấy các thiên thần hay không, dù các ngài có đến với chúng ta như thần linh hay dưới hình bóng người phàm, thì lời cầu xin của chúng ta luôn được đáp trả. Thiên Chúa hằng can thiệp vào cuộc sống của chúng ta cách diệu kỳ, niềm tin nơi sự hiện diện và hoạt động của các thiên thần luôn nhắc nhở chúng ta điều đó. Quả thật, cuộc sống của chúng ta được dệt bằng phép lạ từ giây phút đầu tiên được tạo thành trong lòng mẹ cho đến lúc chào đời rồi lớn lên, mỗi một nhịp đập của trái tim, mỗi một hơi thở của chúng ta không là phép lạ sao?
Với mỗi người Chúa âu yếm nói: "Ta đã gọi con bằng tên con, con thuộc về Ta". Chúa Giêsu đã có lý khi mời gọi chúng ta nên giống như trẻ thơ, bởi vì trẻ thơ không ngừng ngây ngất trước những điều kỳ diệu và những phép lạ của cuộc sống. Người lớn thì trái lại thường bị cuốn xoáy trong dòng đời nên dễ đánh mất khả năng chiêm ngắm trước những điều kỳ diệu và các phép lạ của cuộc sống.
Thiên Chúa yêu thương mỗi người, Thiên Chúa không ngừng bao bọc che chở chúng ta bằng sự hiện diện của vô số các thiên thần. Ðó phải là niềm tin hôm nay khi mừng kính các thiên thần Micae, Gabriel và Raphael, Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta hâm nóng lại. Thiên Chúa đã ban cho cuộc sống chúng ta như một phép lạ, nhờ các sứ thần của Ngài, Ngài hướng dẫn và che chở chúng ta trong từng đường đi nước bước của chúng ta.
Nguyện xin các thiên thần nhất là thiên thần bản mệnh của mỗi người luôn nhắc nhở ta, để ta luôn tiến bước trong tin yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa là tình yêu.
Suy niệm 9: Các Tổng Lãnh Thiên Thần Michael, Raphael, Gabriel
Tên các TLTT đều có tiếp vĩ ngữ “el”: Michael (Việt ngữ là Micael), Raphael, Gabriel. “El” nghĩa là “trong Thiên Chúa” còn Angel là Thiên thần. Tổng lãnh Thiên thần có thể xuất hiện cùng lúc ở nhiều nơi.
Trong các Tổng lãnh Thiên thần có 3 vị “nổi tiếng” là Micael, Raphael, và Gabriel được mô tả trong Kinh thánh. Có thể nhiều người chưa biết rằng TLTT Micael còn được gọi là Beshter, Mika'il và Sabbathiel; TLTT Raphael còn được gọi là Labbiel; TLTT Gabriel còn được gọi là Abruel, Jibril, Jiburili và Serafili. Thế kỷ VIII, Kitô giáo đã biết tôn sùng các Thiên thần.
1. MICHAEL (chúng ta quen gọi là Micae) nghĩa là “Người Giống Thiên Chúa” hoặc “Giống Như Thiên Chúa”.
Micael là Thiên thần đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng, là vị trưởng trong các TLTT, có nhiệm vụ bảo vệ, khuyến khích, về sức mạnh, sự thật và chính trực. TLTT Micael bảo vệ chúng ta về thể lý, tâm lý và tình cảm. Ngài cũng giám sát mục đích sống của chúng ta. Chức năng chính của ngài là loại bỏ những điều xấu. TLTT Micael cầm gươm lửa để bảo vệ chúng ta khỏi Satan và những điều tiêu cực.
Khi có ngài ở bên, bạn có thể thấy lấp lánh ánh sáng xanh hoặc đỏ. Hãy cầu xin TLTT Micael nếu bạn thấy mình bị tấn công về tâm lý hoặc thiếu can đảm giữ lời hứa, thiếu động lực, thiếu lòng tin, thiếu can đảm, mất phương hướng, thiếu nghị lực, thiếu sức sống, thiếu tự tin, và cảm thấy bất xứng. TLTT Micael giúp chúng ta nhận biết mục đích sống và giúp bảo vệ.
Micael đã chiến thắng Satan (thiên thần sa ngã Luxiphe) ở trong Vườn Địa Đàng, dạy cho Adam cách gieo trồng và chăm sóc gia đình, nói với Môsê trên Núi Sinai, và năm 1950 ngài được tôn vinh là Thánh Micael, “bổn mạng của cảnh sát”, vì ngài giúp can đảm và anh dũng. Ngài cũng có “bí quyết lạ” về sửa các thiết bị điện và máy móc, kể cả máy tính và xe cộ. Nếu xe bị hư, hãy cầu xin TLTT Micael!
Ngài giúp chúng ta hành động theo sự thật mà không thỏa hiệp với tính lim chính và giúp chúng ta tìm ra bản chất và vẫn là chính mình. Ngài hay giúp đỡ nên khi gặp khó khăn trong công việc, khi bị chứng nghiện nào đó, khi bị bệnh, khi đau khổ, hoặc gặp ác mộng, hãy cầu xin TLTT Micael!
2. RAPHAEL nghĩa là “Sức Mạnh Chữa Lành của Thiên Chúa” hoặc “Thiên Chúa Chữa Lành”.
Chữ Raphael trong tiếng Do Thái nghĩa là “bác sĩ” hoặc “người chữa lành”. TLTT Raphael giúp chúng ta mau lành bệnh về thể lý và tinh thần nếu chúng ta cầu xin ngài. Kinh thánh kể chuyện ông Abraham khỏi đau sau khi ông chịu phép cắt bì. Bạn cũng có thể cầu xin TLTT Raphael thay cho người khác.
TLTT Raphael là người dễ gần gũi và vui vẻ nhất trong các Thiên thần. Ngài thường được vẽ là người vui vẻ nói chuyện với người khác. Ngài rất ngọt ngào, yêu thương, tử tế và hiền từ, khi bạn thấy những tia sáng xanh là ngài đang ở gần bạn.
Ngài thường hoạt động với TLTT Micael để trừ các thực thể xấu và luôn “hộ tống” mọi người ở khắp nơi.
Là người chữa lành, TLTT Raphael là “bổn mạng của các du khách” vì ngài đã giúp ông Tôbia trong các hành trình. Hãy cầu xin TLTT Raphael khi bạn đi du lịch hoặc đi đây đi đó để được bình an trong chuyến đi. Ngoài ra, ngài còn giúp việc chuyên chở, cư trú và đồ đạc an toàn. Ngài cũng nâng đỡ các chuyến hành trình tâm linh, giúp tìm kiếm chân lý và hướng dẫn.
TLTT Raphael dạy ông Tôbia cách làm hương liệu và dầu thơm bằng cá và đã chữa khỏi mù cho người cha của ông Tôbia. Ngài được cầu xin giúp các y bác sĩ, các thầy thuốc, các nhà trị liệu và các bác sĩ phẫu thuật. Hãy cầu xin ngài nếu bạn là sinh viên trường y hoặc đang học chữa bệnh và xin ngài giúp bạn học tập tốt. Ngài không chỉ giúp chữa lành về thể lý và tâm lý, mà ngài còn chữa lành các vết thương lòng từ quá khứ.
Trong các lĩnh vực khác, TLTT Raphael còn giúp tìm lại những thứ bị thất lạc, giúp cai nghiện, giúp sáng suốt, tạo tình đoàn kết. Hãy cầu xin TLTT Raphael!
3. GABRIEL nghĩa là “Sức Mạnh của Thiên Chúa” hoặc “Thiên Chúa là Sức Mạnh của Tôi”.
Chỉ có TLTT Gabriel được mô tả là nữ giới trong nghệ thuật và văn chương, ngài là “sứ giả” và là một trong các TLTT có tên trong truyền thống Do Thái, được coi là một trong hai Thiên thần cao cấp theo truyền thuyết Do Thái giáo và Hồi giáo. Ngoài TLTT Micael, TLTT Gabriel là Thiên thần duy nhất được nhắc đến trong Cựu ước. Ngài là TLTT quyền thế và mạnh mẽ, những ai kêu cầu ngài sẽ cảm thấy muốn hành động và sẽ có kết quả tốt.
TLTT Gabriel là người đã truyền sứ điệp cho Thánh Êlidabét và Đức Mẹ Maria về việc thụ thai và sinh con, là Thánh Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu thành Nadarét. Nếu bạn sắp lập gia đình, hãy cầu xin TLTT Gabriel giúp bạn trong việc thụ thai, sinh sản và dạy dỗ con cái.
TLTT Gabriel có thể giúp chúng ta về nghệ thuật và giao tiếp. Ngài sẽ hành động như một huấn luyện viên, gợi cảm hứng và kích thích các nghệ sĩ, các nhà báo và những người làm việc về truyền thông, ngài giúp hành động một cách can đảm và mau mắn.
Ngài cũng giúp chúng ta nhận biết ơn gọi đích thực của mình. Hãy cầu xin ngài hướng dẫn nếu bạn đi không đúng đường tâm linh, nếu bạn muốn hiểu cuộc sống và mục đích sống. Nếu bạn dự định chuyển nhà, mua bán công to việc lớn hoặc muốn đổi nghề, hãy cầu xin TLTT Gabriel!
Cũng hãy cầu xin ngài nếu cơ thể bạn bị ngộ độc hoặc đầu óc nghĩ về những chuyện xấu, ngài sẽ giúp bạn thanh tẩy hồn xác. Các phụ nữ bị hãm hiếp hoặc bị quấy rối tình dục, rồi cảm thấy mình ô uế, bị dằn vặt, hãy cầu xin TLTT Gabriel!
Trầm Thiên Thu (chuyển ngữ từ AngelFocus.com)
Suy niệm 10: Nhận ra Thiên Chúa
(5 phút suy niệm)
“Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.” (Ga 1,51)
Suy niệm: Giáo huấn của Giáo Hội dạy rằng có một thế giới thần thiêng trong đó gồm có thần lành thần dữ là thiên thần và ma quỷ ảnh hưởng đến thế giới chúng ta. Thiên thần là sứ giả, là những thần linh phục vụ Thiên Chúa. Thánh Kinh chỉ nêu tên ba vị Tổng lãnh thiên thần là Mi-ca-en, Gáp-ri-en và Ra-pha-en với ý nghĩa:
Mi-ca-en là “Ai bằng Thiên Chúa”.
Gáp-ri-en là “Uy lực của Thiên Chúa”
Ra-pha-en là “ Thiên Chúa cứu giúp”
Mi-ca-en là Đấng bảo trợ đặc biệt Hội Thánh, Gáp-ri-en là sứ giả được sai đến với Đức Maria và Ra-pha-en là vị tổng lãnh hầu cận Thiên Chúa.
Mời Bạn: Mi-ca-en giục chúng ta lòng tin Thiên Chúa là Chúa duy nhất để nhờ đó chúng ta biết quy hướng mọi sự về Chúa. Ga-bri-en giục chúng ta có lòng trông cậy vào Thiên Chúa quyền năng để nhờ đó chúng ta biết lệ thuộc vào Chúa trong mọi sự. Ra-pha-en giục chúng ta có lòng mến Chúa nhờ đó chúng ta gắn bó với Chúa trong mọi việc.
Sống Lời Chúa: Theo gương và lời chỉ dẫn của các vị tổng lãnh thiên thần, tôi chỉ tin vào một mình Thiên Chúa vì không ai bằng Ngài. Tôi luôn cậy trông vào Chúa, dù khó khăn thử thách đến đâu cũng không ngã lòng vì Chúa có uy lực vô biên có thể giúp bạn vượt qua bất cứ mọi khó khăn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không bao giờ thất vọng về chúng con, vì thế xin cho chúng con cũng không bao giờ thất vọng về chính mình, nhưng luôn tin tưởng vào tình yêu của Chúa.
Suy niệm 11: Các thiên thần với Thánh Thể
“Thật, tôi bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên Con Người.” (Ga 1,51)
Suy niệm: Mừng lễ các tổng lãnh thiên thần là dịp để Suy niệm về vai trò của các ngài trong phụng vụ, cách riêng trong thánh lễ. Khi Giáo Hội cử hành thánh lễ, không chỉ loài người chúng ta mà cả triều thần thiên quốc cùng tham dự vào hiến tế này: “Vì thế, hiệp với toàn thể thiên thần và các thánh, chúng con không ngừng hát bài ca chúc tụng Chúa…” (Lời cuối các kinh tiền tụng).
Ngay đầu lễ, chúng ta xin các thiên thần chuyển cầu cho chúng ta: “Vì vậy, tôi xin… các thiên thần… khẩn cầu cho tôi trước tòa Thiên Chúa…” (Kinh Tôi Thú Nhận). Các thiên thần đem của lễ chúng ta dâng “lên bàn thờ thiên quốc, trước tôn nhan uy linh cao cả Chúa…” (Kinh nguyện tạ ơn II). Khi rước lễ, ta được lãnh nhận “bánh của các thiên thần”.
Mời Bạn: Hiến tế Thánh Thể cao cả, vì là cử hành của toàn thể Giáo Hội nơi trần thế cũng như trên thiên quốc và cả trong luyện ngục. Nếu bạn ý thức điều đó, hẳn là bạn sẽ phấn khởi khi tham dự thánh lễ, bởi vì mình chẳng là gì, thế mà được mời “đến dự tiệc vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa” (Dt 12,23).
Chia sẻ với người thân và bè bạn về sự cao cả của Thánh lễ, và cùng rủ nhau đến tham dự thánh lễ.
Sống Lời Chúa: Khi thánh lễ bắt đầu, đặc biệt hôm nay, bạn hãy dành ít phút cầu nguyện với các thiên thần, xin các ngài giúp bạn dọn lòng tham dự thánh lễ tốt đẹp.
Cầu nguyện: “Lạy Chúa, giữa chư vị thiên thần, này con xin đàn ca kính Chúa; hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ.” (Tv 137)
Suy niệm 12: Các thiên thần của Thiên Chúa
(Fx. Đình Phước SDB)
Đoạn Tin Mừng này nằm trong bối cảnh các môn đệ bước theo Chúa (Ga 1, 35-51), cách đặc biệt Philipphê và Natanaen. Có những điểm khác biệt với các Tin Mừng Nhất Lãm: sự kiện không xảy ra tại sông Giođan nơi Gioan làm phép rửa, nhưng xảy ra khi Chúa Giêsu trên đường đi Galilê. Chúa Giêsu đang trong cuộc đời công khai, và Ngài quy tụ các môn đệ lại để ở lại với Ngài, cùng chia sẻ cuộc sống và sứ mệnh của Ngài.
Natanaen (theo truyền thống là Bartôlômêô) là môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu gọi. Khi Philipphê nói với Natanaen rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanaen tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nadarét. Nhưng khi được Philiphê nói "hãy đến mà xem", thì Natanaen sẵn sàng gặp Chúa, đó là dấu chỉ của sự tìm kiếm chân thành và ước muốn đón nhận Chân Lý.
Thấy Natanaen mở rộng cõi lòng đến với mình một cách sẵn sàng, Chúa Giêsu đến và nói về ông như một người Israel chân chính. Natanaen ngạc nhiên: "Sao Thầy lại biết tôi?" Chúa Giêsu biết Natanaen bởi vì Ngài biết chúng ta từng người một và biết tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta. "Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi". Natanaen có thể là một nhà thông luật, am hiểu Kinh Thánh; đó là hình ảnh của người yêu mến Lời Chúa, ngồi dưới gốc cây Suy niệm Thánh Kinh để biết về Đấng Messia. Người môn đệ cũng được Chúa nhìn bằng một cặp mắt yêu thương và dần dần họ sẽ cảm nghiệm tình yêu này cách mạnh mẽ.
Lời của Chúa Giêsu khiến Natanaen xúc động đến nỗi ông thốt lên: "Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel". Natanaen tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, tước hiệu nói đến thần tính của Chúa Giêsu. Chỉ một cuộc gặp gỡ với Chúa đã biến đổi Natanaen. Một khi cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Giêsu, người môn đệ sẽ biết Ngài một cách sâu xa hơn; và khi biết Ngài một cách sâu xa thì sẽ yêu mến Ngài cách mãnh liệt hơn.
Mỗi người chúng ta cũng được kêu mời khám phá hành trình đức tin của mình: được Chúa Giêsu kêu gọi, các môn đệ đáp trả, trong một kinh nghiệm cá nhân với Ngài, và sau cùng niềm tin vào Chúa Giêsu, Đấng là lý lẽ và là vinh quang của người môn đệ.
Cuối đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có hình ảnh liên hệ đến các vị tổng lãnh Thiên Thần chúng ta mừng kính hôm nay: "các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người".
Hình ảnh này liên hệ đền tổ phụ Giacóp xưa, khi ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran, "đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm ngủ ở đó. Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống" (St 28, 10-12). Thiên Chúa dựng nên các thiên thần để chầu chực hầu hạ Đức Chúa Trời, giúp đỡ loài người và gìn giữ vũ trụ. Micae có nghĩa là ai bằng Thiên Chúa, được sai đi để gìn giữ và bảo vệ các tín hữu, như câu chuyện trong sách khải huyề; Raphael có nghĩa là thầy thuốc của Thiên Chúa được sai để giúp đỡ con người như câu chuyện trong sách Tôbia, và Gabriel có nghĩa là sức mạnh của Thiên Chúa được sai đi truyền tin cho Đức Trinh Nữ Maria.
Các thiên thần nêu gương cho chúng ta: trung thành với Chúa, phụng sự Chúa và chăm sóc con người. Người môn đệ sẽ được Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang, mặc khải cho những mầu nhiệm cao cả. Đây là niềm hy vọng của chúng ta. Chúa Giêsu hứa cho Nathanaen sẽ “được thấy những điều cao trọng hơn thế nữa”, thấy vinh quang của Thiên Chúa, thấy tầng trời mở ra và "các thiên thần Chúa lên xuống trên Con Người". Trời đất giao duyên: Chúa Giêsu là cầu nối giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và loài người, là Đấng mặc khải Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng thương xót cho nhân loại.
Suy niệm 13: Tổng lãnh thiên thần Micae, Raphae, Gabrie
(Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý)
Giáo huấn của Giáo hội về thế giới thần thiêng rất giản dị và không thay đổi, là có một thế giới như vậy, trong đó gồm có cả thần lành và thần dữ và ảnh hưởng đến thế giới chúng ta. Trong kinh Tin Kính, chúng ta vẫn tuyên xưng rằng việc tạo dựng được thể hiện gồm có "muôn vật hữu hình và vô hình".
Còn về ảnh hưởng của thế giới vô hình, của các thần thiêng đối với chúng ta, chỉ cần nhớ lại biến cố cám dỗ Eva tại vườn địa đàng và biến cố truyền tin cho Đức Mẹ. Trong lịch sử như Thánh Kinh trình bày, thế giới thần thiêng được tỏ lộ trong bối cảnh những thiên thể đến thế giới này để thi hành thánh ý Thiên Chúa hay để truyền đạt lời Chúa cho loài người. Thiên thần theo nguyên ngữ là sứ giả. Thánh Grêgôriô thu nhặt nhiều đoạn khác nhau để xếp các thiên thần thành 9 phẩm.
Riêng phẩm tổng lãnh được 1Tx 4,16 nhắc đến. Nhưng Thánh Kinh chỉ nêu tên 3 vị tổng lãnh là: Micae, Gabriel, và Raphael mà thôi. Nhắc đến tên các ngài, chúng ta cũng cần phải ghi nhớ lời dặn dò của thánh Grêgôriô Cả: "tên các thiên thần là danh xưng chỉ các chức phận chứ không chỉ bản tính". Micae để có nghĩa là "ai bằng Thiên Chúa". Gabriel có nghĩa là "uy lực của Thiên Chúa". Raphel có nghĩa là "thầy thuốc của Thiên Chúa". Lần dở lại Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy rõ phận vụ mỗi đấng thực hiện và dĩ nhiên các phận vụ ấy liên quan đặc biệt đối với loài người chúng ta.
Người Do thái vẫn coi tổng lãnh thiên thần Micae là đấng bảo trợ đặc biệt. Trong Kitô giáo, ngài cũng là đấng bảo trợ đặc biệt Giáo Hội. Chúng ta coi ngài là đấng thống soái đạo binh trên trời, dựa theo lời kể của thánh Gioan: "Một cuộc chiến dữ dội xảy ra trên trời, tổng lãnh thiên thần Micae cùng với các đồng bạn giao chiến cùng con rồng, con rồng và các đồng đảng chống lại mãnh liệt. Song chúng không sao thắng nổi và chúng mất địa vị trên trời. Con rồng lớn tức là con rắn xưa kia, thường gọi là ma quỉ hay là Satan. Kẻ lừa dối thiên hạ, bị quăng xuống đất cùng với đồng đảng của nó" (Kh 12,7-9).
Tổng lãnh thiên thần Gabriel được sai đến với Đức Trinh Nữ Maria ở Nazareth để nói rõ cho Mẹ biết định mệnh của mẹ (Lc 1,23). Ngài cũng đến với Zacaria để nói cho biết việc sinh hạ của Gioan Tẩy giả (Lc 1,11-19). Chính Ngài đã tiên báo cho Daniel biết việc Đấng Thiên Sai đến (Dn 9,21). Nay ngài được nhận làm đấng bảo trợ của nhân viên bưu điện và điện thoại.
Tổng lãnh thiên thần Raphael là một trong bảy vị tổng lãnh hầu cận trước nhan Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện phận vụ này trong câu chuyện Tobia sau khi ngài giữ gìn trẻ Tobia trong một cuộc hành trình xa và khi được chữa lành cho Tobia cha được sáng mắt. Trong Tân ước, tổng lãnh thiên thần Raphael được đồng hoá với vị thiên thần đã khuấy nước trong hồ gần Giêrusalem và lại xuống hồ trước tiên khi nước mới sủi lên, thì bất cứ mắc bệnh tật gì đều được khỏi cả (Ga 5,1-4).
Suy niệm 11: Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa
(Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long)
Trong bức tranh vẽ trên trần nhà, tường vách thánh đường kính các Thiên Thần ở Palermo có hình cùng tên và chức vị của bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần:
1. Michael - Victoriosus - Người chiến thắng
2. Gabriel – Nuntius - Sứ gỉa
3. Raphael – Medicus - Thầy thuốc
4. Uriel – Fortis Socius – Người đồng hành mạnh mẽ
5. Jehudiel – Remunerator - Người làm ơn
6. Barachiel – Adjutor - Người trợ giúp
7. Sealthiel – Oarator - Người bầu cử
Tổng lãnh Thiên Thần Michael
Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng đầu bảy vị Tổng lãnh Thiên Thần của Thiên Chúa. Tiên Tri Daniel đã diễn tả Tổng lãnh Thiên Thần Michael đứng về phía Thiên Chúa: “Thời đó, Michael là đấng vẫn thường che chở dân người.” ( Daniel 12,1).
Tổng lãnh Thiên Thần Michael được xưng tụng với danh xưng bằng tiếng Latinh: Quis ut Deus? – Ai bằng Thiên Chúa?
Theo tương truyền:
-Thiên Thần Michael được liệt vào hàng Thiên Thần quân đội chiến đấu đã đánh thắng Thiên Thần quỉ dữ Lucifer.
-Thiên Thần Michael đã vâng lệnh Thiên Chúa cầm gươm đuổi Ông Bà nguyên tổ Adong-Evà ra khỏi vườn địa đàng, sau khi Ông bà phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa.
- Thiên Thần Michael cũng là vị Thiên Thần thổi kèn Posaune đánh thức gọi những người đã qua đời sống lại ra khỏi mồ.
Tổng lãnh Thiên Thần Michael là vị Thiên Thần có sức mạnh khả năng đi đến quyết định dứt khoát lại mang chiến thắng cho Thiên Chúa, khi giết chết con rồng mãng xà ma qủi, như sách Kinh Thánh thuật lại: “Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến. Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ trên trời nữa. Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó. ” (Khải Huyền 12, 7-9).
Tổng lãnh Thiên Thần Michael, theo vâng mệnh Thiên Chúa, đã quyết định lằn ranh giữa Trời và hỏa ngục. Vì thế, Vị Tổng lãnh Thiên Thần Michael được chọn là quan thầy bầu cử cho những người trong giờ phút cơn hấp hối.
Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel
Tên Gabriel có ý nghĩa “sức mạnh của Thiên Chúa“. Là vị sứ giả của Thiên Chúa được sai đến báo tin cho thiếu nữ Maria ở Nazareth rằng: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sẽ đầu thai làm người trong cung lòng Maria: “Sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng sẽ phủ rợp bóng trên chị…” (Lc 1,26-38).
Khi hiện ra với Ngôn sứ Dacharia trong đền thờ, vị Tổng lãnh Thiên Thần đã nói: “Tôi là Gabriel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông.” (Lc 1,19).
Hằng ngày trong đời sống đức tin của Hội Thánh, vào lúc 12 giờ trưa chuông thánh đường đổ hồi, kinh tuyền tin được xướng đọc lên. Như vào mỗi ngày Chúa Nhật lúc 12 giờ trưa, Đức Thánh Cha từ trên cửa sổ văn phòng làm việc cùng đọc kinh truyền tin với mọi người Gíao dân đứng tụ tập ở quảng trường Thánh Phêrô bên Vatican.
Tiếng chuông lúc 12 giờ trưa và Kinh Truyền tin nhắc nhớ đến Tổng lãnh Thiên Thần Gabriel, là Sứ giả của Thiên Chúa mang loan báo tin vui Chúa Giêsu Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người.
Tổng lãnh Thiên Thần Raphael
Tên Raphael mang ý nghĩa ‘‘Thiên Chúa chữa lành“. Trong Kinh Thánh sách Tobia thuật lại Thiên Thần Raphael vâng mệnh Thiên Chúa chữa lành bệnh mắt cho Tobia:
“Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tô-bít và Xa-ra đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa. Và thiên sứ Ra-pha-en được sai đến chữa lành cho cả hai. Ông Tô-bít thì được khỏi các vết sẹo trắng ở mắt, để ông được ngắm nhìn tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa.” (Tobia 3, 16)
Thiên Thần Raphael luôn đồng hành che chở Tobia trên đường đi. (Tobia 6, 10)
Tổng lãnh Thiên Thần Raphael trở thành bổn mạng phù hộ cho con người đi xa du lịch
Ông Bà Cha Mẹ nào ngay từ lúc con cháu còn nhỏ thơ bé cũng đều to nhỏ âm thầm cầu xin với các Thiên Thần phù hộ cho đời sống thể xác lẫn tinh thần của chúng. Bằng an hồn xác là nhu cầu căn bản rất cần thiết cho đời sống.
Sống lòng bác ái giúp đỡ nhau, kính trọng sự sống, điều chân thật lẽ phải luôn là nhu cầu làm nên khung nền kiến tạo đường đời sống tình liên đới con người với nhau trong xã hội.
Sống thể hiện một đời sống trong tương quan tình liên đới với Đấng là nguồn đời sống, nguồn tình yêu và ơn tha thứ, luôn là nhu cầu khát vọng của tinh thần con người ở đời.
Nhu cầu tinh thần này không chỉ là nhu cầu thiêng liêng đạo giáo, nhưng đó là nhu cầu đời sống văn hóa của con người ở vào mọi thời đại. Nhu cầu tinh thần văn hóa này cùng với những nhu cầu khác cho sự sống thể xác giúp đời sống có đầy đủ ý nghĩa, triển nở cùng mang đến niềm vui hạnh phúc.
Các Thiên Thần của Thiên Chúa là Sứ giả được Thiên Chúa gửi sai đến cùng đồng hành trợ giúp con người trong mọi hoàn cảnh đời sống thể hiện tình lòng thương xót bác ái vị tha.
Với người tín hữu Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa là Đấng của sự chân thật, sự tốt lành thiện hảo, là Thiên Chúa của lòng khoan dung tha thứ qua Thánh Gía Chúa Giêsu Kitô.
Lòng tin vào Thiên Thần vượt quá khỏi sự suy hiểu cùng thắc mắc của trí khôn con người. Thắc mắc thuộc về đời sống con người. Và thắc mắc giúp con người tỉnh thức thêm ra.
28/09 Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem
- Viết bởi Lc 9, 51-56
Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa.
Thứ Ba tuần 26 thường niên.
“Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem”.
Lời Chúa: Lc 9, 51-56
Vì gần tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người.
Những người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?”
Nhưng Người quay lại, quở trách các ông rằng: “Các con không biết thần trí nào xúi giục mình. Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta”. Và các Ngài đi tới một làng khác.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Nhất quyết lên Giêrusalem
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Sống là lên đường.
Hai lần tiên báo về cái chết sắp đến
cho thấy Đức Giêsu biết rõ con đường mình sắp đi,
và những gì sẽ xảy ra ở cuối đường (Lc 9, 22. 44).
Bị bắt, bị nộp, bị loại bỏ, bị giết chết,
là những điều tự nhiên ai cũng gớm ghét, sợ hãi và muốn né tránh.
Đức Giêsu cũng vậy, vì Ngài mang trọn phận người như ta.
“Đức Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem” (c. 51).
Lên Giêrusalem là một quyết định đắn đo và nghiêm túc,
cũng là một chọn lựa tự do và can đảm của Đức Giêsu,
bởi lẽ lên đó là chấp nhận đối diện với cái chết bi đát.
Giêrusalem là trung tâm hoạt động của các nhà lãnh đạo Do Thái giáo,
những người đang âm mưu bắt được Đức Giêsu để thủ tiêu.
Muốn được sống yên thân, Đức Giêsu chỉ cần đừng lên thành đô ấy,
chỉ cần giới hạn hoạt động của mình ở Galilê.
Lên Giêrusalem trong tình thế dầu sôi lửa bỏng như bây giờ
là làm một cuộc Xuất Hành mới (Lc 9, 31), đầy bất trắc hiểm nguy.
Nhưng Đức Giêsu không sợ đến với nơi Cha muốn mình đến:
“Hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi,
vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được” (Lc 13, 33).
Giêrusalem là nơi Đức Giêsu hiến mình qua cái chết vì vâng phục,
nhưng Giêrusalem cũng là nơi Ngài được phục sinh và rước lên trời (c. 51).
Tin Mừng Luca coi việc lên Giêrusalem như một hành trình dài (9, 51-19, 27).
Ngài cố ý đi ngang qua vùng đất của người Samari.
Giữa người Do Thái và người Samari có sự xung khắc.
Người Do Thái khinh người Samari, người Samari thù người Do Thái.
Chính vì thế khi biết nhóm Thầy trò lên đường đi Giêrusalem dự lễ,
người dân một ngôi làng Samaria đã từ chối tiếp đón.
Giacôbê và Gioan, từng được Thầy gọi là con của thiên lôi (Mc 3, 17),
đã muốn xin cho mình được chia sẻ quyền năng trừng phạt của Thầy.
Họ muốn làm như ngôn sứ Êlia ngày xưa (2 V 1, 10. 12),
“khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy bọn chúng” (c. 54).
Nhưng Thầy Giêsu, người dẫn đầu, đã quay lại quở mắng hai ông.
Ngài chẳng bao giờ dùng quyền lực để trừng phạt kẻ từ chối mình.
Ngài sống điều Ngài đã giảng cho các môn đệ (Lc 6, 29).
Làm sao có thể giết người khác chỉ vì họ không đón nhận mình?
Quyền lực của Thiên Chúa không đe dọa, không áp đặt,
cũng không bóp chết tự do mà Ngài đã ban cho con người.
Sự bao dung của Đức Giêsu cho ta thấy sự bao dung của Thiên Chúa.
Chúng ta có thể học được nhiều điều từ thái độ này.
Như các môn đệ, chúng ta cũng thích thi thố quyền lực.
Chúng ta cũng thích dùng lửa khi có lửa trong tay.
Chúng ta không chấp nhận một Kitô giáo có vẻ yếu đuối, chịu lép vế.
Thầy Giêsu và các học trò đã đi sang làng khác (c. 56).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Suy niệm 2: Con đường đau khổ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su rao giảng tại Ga-li-lê. Người lên Giê-ru-sa-lem để hoàn tất quãng đời dương thế. Đó là cao điểm. Lu-ca nói Người đi về trời để được vinh quang. Da-ca-ri-a đã loan báo trước vinh quang của Chúa. Mọi dân tộc sẽ nhận biết Chúa. Sẽ trở về với Chúa. Sẽ đi theo con đường của Chúa: “Các nước và dân cư trong các thành phố lớn vẫn còn tuôn đến. Dân thành này sẽ đến thành khác mà nói rằng: “Nào ta cùng đi làm cho nét mặt Đức Chúa dịu lại và tìm kiếm Đức Chúa các đạo binh; cả tôi nữa, tôi cũng đi!...Trong những ngày ấy, mười người đàn ông thuộc mọi ngôn ngữ trong các dân tộc sẽ níu lấy áo của một người Giu-đa mà nói: “Chúng tôi muốn đi với anh em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh em”(năm lẻ).
Nhưng con đường vinh quang phải trải qua đau khổ. Đau khổ lớn lao chưa từng có ai chịu nổi. Đau khổ không ai có thể chịu đựng được. Chúa bị phản bội, bị bỏ rơi bởi các môn đệ. Bị xét xử nhiều lần. Bị kết án. Bị nhục mạ. Bị đánh đòn. Bị vác thánh giá. Bị đóng đinh. Chết giữa những tên trộm cướp. Đau đớn nhất là Người cảm thấy như bị Chúa Cha ruồng bỏ. Thánh Gióp là người chịu đau khổ phần nào giống Chúa. Ông trong sạch. Ông trung thành thờ phượng Chúa. Nhưng ông bị thử thách. Mất hết của cải, con cái. Bản than bị lở loét, sâu bọ đục khoét. Vừa đau đớn vừa hôi thối. Nhưng đau đớn hơn nữa ông bị bạn bè kết án. Và nhất là người vợ thân thương cũng khinh khi miệt thị. Và nhất là ông cảm thấy như bị Chúa ruồng bỏ. Nên ông đau buồn than khóc. “Bấy giờ, ông Gióp mở miệng nguyền rủa ngày ông chào đời. Ông Gióp lên tiếng nói: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời…Sao lại ban ánh sang và sự sống cho kẻ chẳng biết mình đi đâu, cho kẻ bị Thiên Chúa giam hãm tư bề?”(năm chẵn).
Việc người Sa-ma-ri không đón tiếp Chúa chỉ là bắt đầu. Rồi Chúa sẽ chịu nhiều đau khổ nhục nhã lớn lao hơn nữa. Cho đến chết. Các tông đồ muốn trừng phạt họ. Nhưng Chúa mắng các ông. Vì các ông không hiểu. Chính Chúa tự nguyện đi vào con đường đau khổ để được vinh quang. Chấp nhận chịu bạc đãi để đem lại yêu thương. Chấp nhận thân phận tội lỗi để qui tụ muôn người về với Chúa Cha. Chấp nhận chết đi để được sống lại.
Các môn đệ tuy chưa hiểu. Nhưng vì yêu mến Chúa, các ngài sẵn sang đi vào con đường của Chúa. Xin cho chúng ta cũng biết noi gương các ngài. Gắn bó với Chúa. Đi theo Chúa. Cùng chịu đau khổ để cùng vinh quang với Chúa. Cùng chịu chết để được sống lại với Chúa.
Suy niệm 3: Ra khỏi chính mình
Ðể lại một tên tuổi, có được một danh thơm tiếng tốt, đó vốn là ước mơ chung của mọi người. Tuy nhiên, được người khác trân trọng nhắc nhớ và mến thương hay không là tùy cách sống của mỗi người. Nói chung, cuộc đời hy sinh cho người khác, dù chỉ là hy sinh âm thầm cũng luôn được nhớ đến. Phải chăng đó không là ao ước của cố nhạc sĩ Văn Cao khi ông nói: "Tôi không đi qua tôi, tôi để lại gì? Tôi sẽ để lại gì nếu tôi chỉ khư khư giữ cho riêng mình? Nhưng nếu tôi có ra khỏi tôi, có trao ban chính mình, thì điều tôi để lại chính là bản thân tôi; bản thân tôi tìm gặp đã đành, mà đó cũng là quà tặng tôi để lại cho đời".
Có thể đó cũng là ý nghĩa chúng ta tìm thấy trong Tin Mừng hôm nay. Nếu mỗi tác giả Tin Mừng có một sợi chỉ xuyên suốt nối kết các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu, thì theo sự trình bày của thánh Luca, sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời Chúa Giêsu chính là cuộc hành trình lên Giêrusalem. Với thánh Luca, cuộc đời Chúa Giêsu là một hành trình ra đi không ngừng để đạt tới đích điểm là Giêrusalem, nơi gặp gỡ chung cục giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo Do thái cũng như chính quyền Roma. Giêrusalem là cao điểm của cuộc song đấu giữa quyền lực sự dữ và tình yêu diễn ra trong con người Chúa Giêsu. Giêrusalem, xét cho cùng, chính là cái chết đang chờ đợi Chúa Giêsu; đi lên Giêrusalem có nghĩa là giáp mặt với cái chết, là đi đến tận cùng của thân phận làm người.
Nếu đã đón nhận cái chết như tột đỉnh của cuộc hành trình, thì dĩ nhiên điều kiện tiên quyết của người ta ra đi là phải kiên nhẫn trước thất bại. Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ của Ngài bài học về sự kiên nhẫn trước thất bại ấy khi các ông bị những người Samari khước từ. Giacôbê và Gioan tưởng có thể sai khiến lửa từ trời xuống để tiêu diệt những kẻ chống các ông; tuy nhiên, trung thành với giáo huấn của Ngài, Chúa Giêsu nhắc nhở cho các ông bài học về yêu thương nhẫn nại mà họ phải có ngay cả với kẻ thù của mình.
Ra đi, hay nói theo ngôn ngữ của Văn Cao "đi qua khỏi mình" chính là biết thắng vượt những chướng ngại do lòng ích kỷ và hận thù có thể giăng mắc trên lối đi. Cái chết chỉ thực sự có ý nghĩa và giá trị khi nó là một cái chết vì yêu thương; cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu như vậy cũng là một cuộc hành trình của yêu thương. Chỉ có yêu thương mới giúp con người thắng vượt được chính mình, chỉ có yêu thương mới giúp con người nhìn xuyên suốt qua bên kia thất bại, khổ đau.
Cuộc sống của người môn đệ Chúa Giêsu là một cuộc hành trình không ngừng. Cùng với Ngài, chúng ta luôn được mời gọi từ giã con người cũ tội lỗi và ích kỷ để tiến về con người mới của ân sủng và yêu thương. Chông gai thử thách vẫn luôn có đó, nhưng chúng ta tin rằng có Chúa Giêsu đồng hành với chúng ta và phần thưởng đang chờ đợi chúng ta chính là niềm vui được lớn lên và tìm gặp lại bản thân mỗi ngày một cách sung mãn hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Cái Chết Trên Thập Giá
Tin Mừng hôm nay hẳn mời gọi chúng ta lặp lại niềm tín thác của chúng ta vào sự quan phòng kỳ diệu của Chúa. Thánh Luca, tác giả của đoạn Tin Mừng hôm nay nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu như một cuộc hành trình tiến về Giêrusalem mà cao điểm là cái chết trên thập giá. Tiến về Giêrusalem để chịu tử nạn cho nên có gặp thù nghịch chống đối trong suốt cuộc hành trình cũng là chuyện bình thường đối với Chúa Giêsu, nhưng các môn đệ của Chúa Giêsu chưa thể hiểu tại sao Thầy mình phải gặp phải những chống đối như thế. Phản ứng của hai thánh Gioan và Giacôbê là điển hình, hai vị thánh này không thể chấp nhận được sự kiện người dân tại một làng Samaria nọ không đón tiếp Ngài. Các ngài chỉ mong cho lửa từ trời xuống để tiêu diệt cái dân phản nghịch này. Chúa Giêsu quở trách các ngài, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cho các môn đệ biết rằng điều kiện đầu tiên để làm môn đệ Ngài là phải có thái độ kiên nhẫn trước sự chống đối, thù nghịch và thẳng thắn nói chung. Ðây là dịp để các môn đệ hiểu được ý nghĩa của những bài dụ ngôn về nước Trời, đặc biệt là các bài dụ ngôn về hạt giống, về cỏ lùng và lúa tốt. Hạt giống được gieo vãi ngay cả trên đất xấu, hạt giống được gieo vãi ngay cả trên cỏ lùng, hạt giống phải chịu thối đi trong lòng đất; dù có được gieo vãi trong những điều kiện không thuận lợi, hạt giống vẫn mọc lên và sinh nhiều bông hạt.
Hình ảnh của hạt giống gợi lên cho chúng ta lịch sử của Giáo Hội. Giáo Hội được tẩy trần và sinh hoa kết trái ngay giữa những cơn bách hại đẫm máu nhất. Giáo Hội từng được thanh luyện và trưởng thành khi gặp chống đối và thù nghịch. Thái độ thỏa hiệp có thể mang lại cho Giáo Hội một vài đặc ân và dễ dãi, nhưng chắc chắn những thiệt hại và mất mát mà Giáo Hội phải chịu thì không gì có thể bù lại được. Giáo Hội có đáng tin hay không? Giáo Hội có thật sự đi lại cuộc hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu hay không? Hay giữa những chống đối, thù nghịch và thử thách, Giáo Hội vẫn tỏ ra trung thành với Ðấng khi bị treo trên thập giá đã lặng thinh và phó thác cho Thiên Chúa. Hạt lúa có gieo vào lòng đất mới thối đi và lớn lên sinh nhiều bông hạt, đó là định luật của cuộc sống Giáo Hội và của người môn đệ Chúa Kitô.
Ước gì giữa những khổ đau, chống đối và thù nghịch, chúng ta vẫn luôn nhận ra được bàn tay quan phòng kỳ diệu của Chúa, đó là ơn trọng đại mà chúng ta phải không ngừng cầu xin Chúa ban cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Đi sang làng khác
Khi đã tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. Người sai mấy sứ giả đi trước, họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. (Lc. 9, 51-52)
Với lòng quả cảm, Đức Giêsu nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, vì Người biết rõ sắp tới ngày chịu nạn chịu chết. Người sẵn sàng vâng theo thánh ý Cha Người, nên không bao giờ lùi bước. Người không sống cho chính mình, trái lại sống phụng vụ thánh ý Cha với tấm lòng vui vẻ của người con thảo. Người gởi sứ giả đi trước dọn đường đi qua Sa-ma-ri-a, họ hận thù với dân Do-thái.
Dân Sa-ma-ri-a bị coi là kẻ ly giáo đối với thành thánh Giê-ru-sa-lem kể từ khi họ xây đền thờ trên núi Ga-ri-dim. Cả hai dân tộc đều khinh ghét nhau, nên những đoàn hành hương khi đi ngang qua ranh giới, đều phải chịu những quẫy nhiễu đủ thứ. Những Tông Đồ bị từ chối không cho qua làng Sa-ma-ri-a để lên Giê-ru-sa-lem.
Gia-cô-bê và Gio-an nổi khùng, muốn dùng biện pháp mạnh thiêu đốt làng đó ngay lập tức. Các ông nói với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không”. Người ta có thể nghĩ xem Đức Kitô, Đấng nhân lành xử thế nào đối với sự chống đối của các môn đệ. Người cần cho các ông một bài học nhân lành về thái độ ngạo ngược này, và chỉ cho các ông phải lấy lửa nào mà đốt tật xấu của mình đi. Đức Kitô đã nhìn Gia-cô-bê và Gio-an với giọng khiển trách ngay thẳng, hẳn tâm can Người khá thất vọng không biết đến chừng nào các ông hiểu được một chút lời dạy của Người: cần kiên trì đến bao giờ đối với các ông và với mọi người khác. Dầu đang sống với chính Người, đang nghe chính Người nói, đang nhìn thấy chính Người hành động, các ông vẫn chưa nuốt được ý nghĩa cần thiết phải có thời giờ chờ đợi cho mọi thứ ăn năn trở về, không nên dùng sức mạnh cưỡng bách Thiên Chúa xâm nhập vào những con tim loài người. Chúng ta cũng giống như các môn đệ đó, muốn một Giáo Hội bị xé nát do nhiều Kitô hữu tự lên án phạt vạ tuyệt thông nhau, đối xử tệ với những người trễ nải, hay bất mãn với những gánh nặng của Giáo Hội đề ra. Họ còn chống đối cả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa.
Đức Kitô chỉ nói đơn giản rằng: “Chúng ta đi sang làng khác”.
GF
Suy niệm 6: Hãy kiên trì để thi hành sứ vụ
Xem lại CN 13 TN C
Hành trình cứu độ của Đức Giêsu là một hành trình tiến về Giêrusalem để chịu chết trong chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn. Trên hành trình ấy, Đức Giêsu đã tìm dịp thuận tiện để Thầy trò tâm tư về sứ mạng.
Thật vậy, một trong những điều mà Đức Giêsu quan tâm, đó là làm sao để cho các môn đệ có được tinh thần hy sinh, thái độ kiên trì trước nghịch cảnh và thử thách, cần khiêm tốn và phải có tấm lòng bao dung, vị tha.
Tại sao vậy? Thưa! Người môn đệ của Đức Giêsu phải là người phản chiếu tình thương của Thầy cho anh chị em mình một cách trung thực, mà sự thật về Đức Giêsu là gì nếu không phải là một vị Thiên Chúa, Đấng nhân từ và hiền hậu, khiêm nhường và hay thương xót, Đấng đến để phục vụ thay cho được phục vụ, hy sinh và sẵn sàng chết cho người mình yêu...!
Vì thế, Đức Giêsu đã không chấp nhận thái độ trả thù của hai môn đệ Gioan và Giacôbê khi các ông xin Ngài cho phép khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt dân làng Samaria vì họ không cho Thầy trò đi qua. Nhân đây Đức Giêsu đã dạy cho các ông bài học về sự bao dung, tha thứ và biết đón nhận thử thách vì lòng yêu mến Chúa. Đồng thời cũng dạy cho các ông bài học về sự kiên trì và trung thành.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có thái độ cảm thông cho những nghi kỵ, khinh khi và cự tuyệt của người đời, ngay cả những sự vu khống, bắt bớ vì Đạo. Noi gương Đức Giêsu, sẵn sàng đón nhận đau khổ vì sứ vụ: "Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao" (Mt 5,11-12). Biết chấp nhận những sự giới hạn của con người, và ý thức rằng: chúng ta đi đến đâu cũng có một số người sống chết với ta, một số người quyết loại bỏ ta và số còn lại thì chẳng cần quan tâm đến chúng ta cũng như công việc của ta. Đây cũng chính là thân phận của Thầy Chí Thánh Giêsu đã trải qua.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tấm lòng bao dung như Chúa. Luôn hiểu và thông cảm cho những bất toàn của anh chị em mình. Đồng thời, xin cho chúng con biết đón nhận mọi thử thách, nghịch cảnh xảy đến trong đời và nơi sứ vụ vì lòng yêu mến Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Con Người không đến để giết chết
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu cương quyết lên Giêrusalem qua xứ Samaria cho gần, nhưng dân làng không chấp nhận vì họ thù nghịch với dân Do thái mà Đức Giêsu là người Do thái. Thấy vậy, hai ông Giacôbê và Gioan nổi giận xin Chúa cho phép lấy lửa trên trời xuống đốt cháy tụi này. Nhưng Đức Giêsu quở trách tính hung hãn của hai ông và nói cho hai ông biết:”Con Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống”. Thật vậy, bài học này đã làm cho các môn đệ và mỗi người chúng ta phải xét lại thái độ của chúng ta đối với anh em.
2. Nên biết, giữa người Do thái và Samaria có một sự xung khắc về quốc gia và tôn giáo. Người Samaria bị những người Do thái giáo coi như những kẻ ly giáo, từ khi họ đã xây dựng một ngôi đền thờ trên đỉnh núi Garizim để cạnh tranh với đền thờ Giêrusalem. Phải tránh tiếp xúc với những kẻ “lầm lạc” (Ga 4,9-20). Bị những người Do thái khinh bỉ, họ trả đũa lại bằng cách gây ra mọi phiền nhiễu cho các đoàn hành hương mượn con đường ngắn nhất để đi từ Galilêa về Giêrusalem.
Trước thái độ từ chối của dân làng Samaria, hai ông Giacôbê và Gioan, với biệt hiệu “Con trai Thiên lôi”: muốn xin lửa từ trời xuống thiêu đốt những kẻ nghịch này. Hai ông có thái độ như thế vì nhớ lại trường hợp tiên tri Êlia xưa (2V1,10) và nghĩ rằng dân làng Samaria làm như thế là đã làm nhục cho Chúa. Đây là thái độ còn nhiều tinh thần Cựu Ước, tinh thần báo thù.
3. Nhưng ở đây, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ một hình ảnh đích thực về Thiên Chúa, Ngài vốn là Đấng toàn năng nhưng không can thiệp như một ông vua chuyên chế bắt các bề tôi và kẻ thù phải quỳ mọp dưới chân, nhưng Ngài chờ đợi họ hoán cải như người cha, người mẹ đối với con cái: ”Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa”.
Các môn đệ được hiểu rằng việc báo thù là việc của tà thần chứ không phải là việc của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa báo oán, mà là Thiên Chúa tình thương. Đức Giêsu muốn dạy cho các ông con đường đi theo Chúa không luôn thẳng tắp, không gặp trắc trở. Vậy những ai muốn theo Chúa phải nhẫn nại hiền lành để đối xử lại, để chinh phục lại các linh hồn. Thánh Phanxicô Salêsiô nói:”Một thìa mật lôi kéo nhiều ruồi hơn một thùng giấm”.
4. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy lối suy nghĩ của các môn đệ khi chưa hiểu và thấm nhuần giáo huấn của Chúa. Lối suy nghĩ và lối thích sử dụng quyền lực để răn đe hay trấn áp người khác là cách hành xử hoàn toàn trái với tinh thần Tin Mừng. Nên Chúa Giêsu đã cảnh cáo các ông. Thái độ của các môn đệ ngày xưa cũng chính là thái độ của chúng ta ngày hôm nay. Tôi tôn thờ một Thiên Chúa nào ? Phải chăng là một Thiên Chúa tình yêu, nhân từ, quảng đại hay tha thứ... hay là một Thiên Chúa mà chúng ta cố giải thích méo mó để phục vụ cho ý muốn của riêng ta (5 phút Lời Chúa) ?
5. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có thái độ cảm thông cho những nghi kỵ, khinh khi và cự tuyệt của người đời, ngay cả những sự vu khống, bắt bớ vì Đạo. Noi gương Đức Giêsu, sẵn sàng đón nhận đau khổ vì sứ vụ:”Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu không đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”(Mt 5,11-12).
Biết chấp nhận những sự giới hạn của con người, và ý thức rằng: chúng ta đi đến đâu cũng có một số người sống chết với ta, một số người quyết loại bỏ ta và số còn lại thì chẳng cần quan tâm đến chúng ta cũng như công việc của ta. Đây cũng chính là thân phận của Thầy Chí Thánh Giêsu đã trải qua trong cuộc đời của Ngài.
6. Truyện: Tấm lòng nhân ái tuyệt vời.
Nhiều năm về trước – một ủy viên chấp hành khá cao tuổi của một tập đoàn dầu lửa Rochefeller ở Mỹ - đã đưa ra một quyết định sai lầm làm công ty thiệt hại hơn hai triệu đôla. John D. Rochefeller lúc đó là người đứng đầu công ty.
Bedford được Rochefeller mời lên văn phòng. Bedford đến rất đúng giờ và sẵn sàng để nghe những lời chỉ trích có thể nặng nề của Rochefeller.
Khi Bedford bước vào phòng, ông vua dầu hỏa đang ngồi cạnh bàn, chăm chú viết bằng bút chì lên một tờ giấy. Bedford đứng yên lặng, không muốn phá ngang. Sau vài phút, Rochefeller ngẩng lên.
- A, anh đấy à, Bedford – Rochefeller nói rất chậm rải – Anh đã nghe tin những tổn thất của công ty chúng ta rồi chứ ?
Bedford đáp rằng tôi đã biết rồi.
- Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về điều này, - Rochefeller nói,- Và trước khi nói chuyện với anh, tôi đã ghi ra đây vài dòng.
Sau này, Bedford kể lại cuộc nói chuyện của ông với Rochefeller như sau: Tôi thấy rõ dòng đầu tiên của tờ giấy mà ông chủ đã “ghi vài dòng” là “những ưu điểm cùa Bedford”. Sau đó là một loạt những đức tính của tôi, kèm theo là miêu tả vắn tắt rằng tôi đã giúp công ty, đưa ra quyết định đúng đắn được ba lần, giúp công ty kiếm được gấp nhiều lần số tiền tổn thất lần này.
Bedford không bao giờ quên bài học ấy. Ông đã ghi khắc những điều đó trong lòng và đem ra áp dụng trong những ngày làm việc còn lại của ông.
Thánh Giacôbê khuyên mọi người:”Phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận”(Gc 1,20-21).
Suy niệm 8: Chúa Giêsu dạy bài học sứ mệnh và nhường nhịn
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Một lần nữa, Gioan (và Giacôbê) biểu lộ những thói xấu rất tầm thường của con người:
1. Tính nóng nảy: hễ gặp chuyện không vừa ý là lập tức muốn trừng phạt.
2. Óc bè phái: phân biệt bạn thù và hở một chút là muốn tiêu diệt kẻ thù.
3. Lạm dụng quyền hành: ỷ mình là môn đệ Chúa Giêsu nên muốn dùng lửa trời để thỏa mãn tính nóng giận cá nhân.
Thái độ Chúa Giêsu dạy hai bài học:
1. Xác định ý hướng căn bản của sứ mệnh: Con Người đến không phải để giết chết mà để cứu sống.
2. Nhường nhịn: làng này không tiếp mình thì sang làng khác.
B.... nẩy mầm.
1. Không nên phản ứng theo cảm xúc tự phát, nhất là cảm xúc nóng giận. Phải phản ứng theo định hướng căn bản của sứ mệnh của mình: không nhằm giết chết mà nhằm cứu chữa.
2. Quyền hành không phải để trừng trị kẻ không làm đúng ý mình, mà để phục vụ.
3. Theo suy nghĩ của loài người, nhường là thiệt thòi, nhịn là nhục. Nhưng theo suy nghĩ của Chúa, nhịn nhục là biểu lộ một nhân cách rất vững vàng và một tấm lòng rất khoan dung.
4. Một Cha sở già kia có nhiều kinh nghiệm thường khuyên các đôi tân hôn như sau: “Khi các con thấy trong nhà sắp xảy ra cãi vã, các con hãy nói với nhau: “Để sáng mai rồi hãy gây gỗ”. Sáng hôm sau các con sẽ thấy rằng việc hôm qua thật là nhỏ nhoi không đáng gây gỗ chút nào. Khi các con sắp có chuyện cãi vã, chúng con hãy ngậm hoài một ngụm nước lạnh cho đến khi ngụm nước nóng lên. Rồi cứ tiếp tục ngậm ngụm nước khác. Làm như thế các con sẽ bớt được những xô xát đổ vỡ trong gia đình. (Trích ”Phúc”)
27/09 Người cao trọng nhất
- Viết bởi Lc 9, 46-50
Người cao trọng nhất.
Thứ Hai tuần 26 thường niên. – Thánh Vinh sơn Phaolô, linh mục. Lễ nhớ.
“Kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”.
* Thánh nhân sinh năm 1581 tại Gát-côn, nước Pháp. Người làm linh mục rồi đi Pa-ri phục vụ một giáo xứ. Người sáng lập Tu Hội Thừa Sai để giúp đào tạo các giáo sĩ và nâng đỡ những người nghèo. Được thánh nữ Lu-y Ma-ri-lắc cộng tác, người đã lập Tu Hội Nữ Tử Bác Ái. Người là gương mẫu hoàn hảo về việc sống đức bác ái như Chúa Kitô dạy, luôn sẵn sàng cứu giúp những người cùng khốn. Người nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô nơi bất cứ ai đang gặp đau khổ. Người qua đời tại Pa-ri năm 1660.
Lời Chúa: Lc 9, 46-50
Khi ấy, các môn đệ nghĩ ngợi trong lòng rằng ai trong các ông sẽ là người cao trọng nhất. Chúa Giêsu thấu biết tư tưởng trong lòng các ông, Người liền dẫn một trẻ nhỏ tới, để đứng bên cạnh Người, và bảo các ông rằng: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Đấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”.
Gioan lên tiếng thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con thấy một người kia lấy danh Thầy mà trừ quỷ, và chúng con đã ngăn cản nó, vì nó không theo Thầy cùng với chúng con”. Chúa Giêsu bảo ông rằng: “Các con chớ ngăn cản, vì ai không chống nghịch các con, tức là thuận với các con”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Người nhỏ nhất
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Phá kỷ lục là ước mơ của các vận động viên.
Làm sao phá kỷ lục của quốc gia, của vùng, của châu lục và thế giới?
Để phá kỷ lục cần có thành tích vượt hơn người đang giữ nó.
Chỉ cần chạy nhanh hơn một phần ngàn giây,
nhảy cao hơn hay xa hơn một centimét,
cũng đủ để làm một kỷ lục đứng vững nhiều năm bị phá đổ.
Nhưng không phải chỉ các vận động viên mới thích phá kỷ lục.
Các nước cũng tranh nhau xem ai là cường quốc về một lãnh vực nào đó.
Có vẻ cả nhân loại đều ở trong một cuộc đua tranh xem ai đứng đầu.
Có những cuộc đua tranh lành mạnh, thúc đẩy tiến bộ.
Nhưng cũng có những cuộc đua tranh dẫn đến chiến tranh và hủy diệt.
Các môn đệ vẫn loay hoay với một câu hỏi trong đầu:
“Trong các ông, ai là người lớn nhất ?”(c. 46).
Thầy Giêsu muốn dạy cho họ một bài học rất gợi hình,
nên đem một em nhỏ đến và trân trọng đặt em đứng bên cạnh (c. 47)
Thầy đồng hóa mình với em nhỏ yếu đuối và không có địa vị ấy:
ai tiếp đón em này là tiếp đón chính Thầy.
Thầy cũng cho biết, ai tiếp đón Thầy là tiếp đón chính Thiên Chúa (c. 48).
Như thế một em nhỏ bình thường là con đường dẫn ta gặp gỡ Đức Giêsu,
và gặp gỡ chính Thiên Chúa siêu việt.
Để tiếp đón Thiên Chúa và Đức Kitô trong đời,
ta phải sẵn sàng tiếp đón những người yếu kém và nhỏ bé nhất trong xã hội.
Khi các môn đệ bị ám ảnh bởi chuyện làm lớn
thì Thầy Giêsu đem lại cho họ một em nhỏ,
và cho thấy sự cao trọng lớn lao của em trong cái nhìn của Thiên Chúa.
Câu trả lời của Thầy đã rõ: kẻ nhỏ nhất chính là người lớn nhất trong anh em.
Vượt ra khỏi sự tranh chấp trong nhóm,
bây giờ các môn đệ lại phải đối diện với một người trừ quỷ ở ngoài nhóm.
“Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng chúng con đi theo Thầy.”
Tại sao một người ở ngoài nhóm lại dám lấy danh Thầy mà trừ quỷ?
Lẽ ra việc dùng danh Thầy phải là độc quyền của chúng con.
Người ấy không được chiếm lấy sự thành công và tăm tiếng
mà chỉ những ai theo Thầy như chúng con mới được hưởng.
Các môn đệ đã có thái độ cục bộ và bè phái.
Họ cần cởi mở và khoan dung hơn với những người ngoài.
Danh Thầy Giêsu là quà tặng cho cả thế giới, chứ không cho riêng môn đệ.
Ai cũng có thể đến múc lấy sức mạnh từ Danh ấy và sẻ chia.
Thầy Giêsu mời các môn đệ bước ra khỏi sự hẹp hòi khép kín,
để vui vẻ kính trọng một người tuy không thuộc nhóm mình,
nhưng làm được những việc mà có khi mình không làm nổi (Lc 9, 40).
Danh Giêsu được tôn vinh: đó là điều chúng ta nhắm tới.
Chúng ta chỉ mong sức mạnh của Danh này làm thế giới được trừ quỷ.
Chỉ mong ai đó đang ở ngoài nhóm và đang trừ quỷ nhờ Danh Giêsu,
sẽ có ngày trở thành người môn đệ trong nhóm.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin cho chúng con đến với nhau
không chút thành kiến,
và tin tưởng vào thiện chí của nhau.
Khi cộng tác với nhau,
xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó chúng con vượt qua
những tự ái nhỏ nhen,
những tham vọng ích kỷ
và những định kiến cằn cỗi.
Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,
để tìm kiếm chân lý
ở mọi nơi và mọi người,
nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha,
xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,
xin cho chúng con được triển nở không ngừng
và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
Suy niệm 2: Chúa là tất cả
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thế giới đảo điên vì tranh chấp hơn thua. Con người khổ đau vì cái được cái mất. Vì thế châm ngôn Pháp nói: sống là đấu tranh. Đấu tranh để có địa vị hơn, giầu có hơn người. Não trạng thế tục len lỏi vào cả các môn đệ của Chúa. Nên các ông tranh giành địa vị cao thấp.
Chúa nhân cơ hội dạy dỗ các ông. Tinh thần trong Nước Chúa phải ngược với tinh thần thế tục. Ai muốn làm lớn phải trở nên bé nhỏ. Ai muốn chỉ huy phải phục vụ. Chúa chẳng nói suông. Chính Chúa đã làm trước. Chính Chúa rất giầu sang đã trở nên khó nghèo. Rất cao sang đã trở nên thấp hèn. Chúa là Thầy là Chúa nhưng đã quì xuống rửa chân cho các tông đồ. Ai trở nên bé nhỏ là trở nên chính Chúa. Chúa đi ngược với trần gian. Ai theo đuổi trần gian sẽ mất Chúa. Ai từ bỏ trần gian sẽ được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ail à người nhỏ nhất trong tất cả an hem, thì kẻ ấy là người lớn nhất”.
Đó là điều thánh Gióp đã cảm nghiệm. Ma quỉ theo thói thế gian tưởng của cải, danh vọng, chức quyền là tất cả. Nên chiếm hết của thánh Gióp để lung lạc ông. Để ông bỏ Chúa mà đi theo ma quỉ. Không ngờ thánh Gióp có đức tin kiên vững. Là tôi tớ trung tín của Chúa. Càng đau khổ càng gắn bó với Chúa. Ông tuyên xưng đức tin: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa”. Ma quỉ chịu thua. Chúa trả lại cho ông tất cả. Con cái. Của cải. Danh vọng. Hạnh phúc. Còn hơn gấp bội những gì ngài có trước kia. Ngài càng xác tín: Chúa là tất cả. Có Chúa là có tất cả (năm chẵn).
Đó cũng chính là điều Da-ca-ri-a thay mặt Chúa khẳng định. Khi dân phản bội Chúa thì họ mất tất cả. Nhà tan cửa nát. Thân phận lưu đày nô lệ. Họ mơ một cuộc sống an bình nơi quê nhà. Họ mơ chiều chiều được ngồi trong quảng trường đền thánh. Ông già bà cả được thảnh thơi nghỉ ngơi. Lên đền thờ cầu nguyện. Sống lâu trăm tuổi. Đó là điều không thể được với tình hình lực lượng thua kém của họ. Nhưng Chúa quả quyết đó là điều có thể được đối với quyền năng của Chúa. Vì Chúa là tất cả. “Ta sẽ dẫn chúng về…Chúng sẽ là dân của Ta; Ta sẽ là Chúa của chúng” (năm lẻ).
Xin cho con biết từ bỏ thế gian. Chỉ chọn một mình Chúa thôi.
Suy niệm 3: Nhân Danh Chúa Giêsu
Một hôm, họa sĩ Picasso đến một xưởng mộc làm một cái tủ. Ông lấy bút phác họa hình thù và kích thước cái tủ rồi trao cho người thợ mộc và hỏi giá cả. Người thợ mộc cầm lấy tờ giấy một cách trân trọng và trả lời: "Ngài không phải trả gì cả, chúng tôi chỉ xin Ngài ký tên vào giấy này là đủ rồi".
Tên tuổi gắn liền với sự nghiệp của con người. Người ta nhắc nhớ và đề cao tên tuổi của những bậc anh hùng, những người tài ba, những ân nhân của dân tộc hay nhân loại. Nhưng người ta phỉ nhổ và nguyền rủa tên tuổi của những con người chỉ biết gây đau thương tang tóc cho đồng loại. Khi một người nào đó đã được nổi tiếng, thì tên tuổi người đó tạo được một sức mạnh lạ thường. Chúng ta thích xin chữ ký của những người nổi tiếng, chúng ta thích ăn mặc và sử dụng những sản phẩm có chữ ký hoặc tước hiệu của những người nổi tiếng. Một cách nào đó, chúng ta tôn thờ tên tuổi của những người nổi tiếng, chúng ta tự đặt mình dưới quyền lực của những người nổi tiếng.
Ðối với người Kitô hữu, như thánh Phêrô đã nói trước Công nghị Do thái: "Dưới bầu trời này không một danh hiệu nào đã được ban cho con người, để được cứu rỗi, ngoài danh Chúa Giêsu Kitô".
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cũng ghi lại sức mạnh của Danh Giêsu. Chính nhân danh Ngài mà một số người có thể xua trừ ma quỉ và chữa bệnh. Nhân Danh Chúa là một quyền hạn đã được trao ban cho các môn đệ Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể trừ quỉ và như vậy tiếp tục hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu nhờ quyền năng Ngài và lòng tin vào Ngài mà thôi. Ðó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã không lo ngại với những kẻ lén lút nhân danh Ngài để trừ quỉ, bởi vì khi hành động như thế, họ chỉ hành động với lòng tin vào quyền năng Ngài mà thôi.
Danh Chúa Giêsu không những có sức mạnh chữa lành bệnh và xua trừ ma quỉ, mà còn tạo được mối tương quan giữa con người . Chính nhân danh Ngài mà con người mới có thể tập họp để cầu nguyện; chính nhân danh Ngài mà con người phải tiếp rước những kẻ Ngài sai đi; chính nhân danh Ngài mà con người phải đón rước tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, hèn kém như các trẻ em. Chúa Giêsu nói: "Ai nhân danh Thầy mà đón tiếp trẻ nhỏ này là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy". Câu nói của Chúa Giêsu cho thấy được bản chất của Giáo Hội: Chúa Giêsu tiếp tục sống trong Giáo Hội Ngài, không như một vĩ nhân sống trong sự nghiệp mình và trong ký ức của dân tộc; Giáo Hội chính là một nối dài của Chúa Giêsu, Giáo Hội sống bằng sức sống của Chúa Giêsu.
Người Kitô hữu không chỉ mang danh hiệu Chúa Giêsu, họ còn sống bằng chính sức sống của Ngài. Ngài tự đồng hóa mình với mỗi tín hữu. Người Kitô hữu nhân danh Ngài để hành động, đến độ họ có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
Chúng ta thường nói đến tội kêu tên Chúa vô cớ, chúng ta nói đến tội xúc phạm Danh Chúa. Thực ra, khi cuộc sống chúng ta chưa là thể hiện của sức sống Chúa Kitô trong chúng ta; khi nhìn vào chúng ta, người ta chưa nhận ra Chúa Kitô đang sống trong chúng ta, phải chăng đó không là một kiểu chúng ta kêu tên Chúa một cách vô cớ và làm ô Danh Ngài?
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Nhân Danh Chúa Giêsu
Tên tuổi có một ý nghĩa và sức mạnh đặc biệt trong cuộc sống con người. Người ta thường kể về tên tuổi Alexandre Ðại Ðế của Hy Lạp giai thoại như sau:
Trong quân đội của ông có một binh sĩ rất nhát đảm, cứ mỗi lần nguy ngập anh đều tìm cách thoái lui. Alexandre cảm thấy bị xúc phạm về hành vi của người binh sĩ này vì anh ta cũng mang tên Alexandre như ông. Một hôm, ông gọi anh ta lại và bảo: "Ta cho nhà ngươi một chọn lựa: hoặc là chấm dứt thái độ nhát đảm hoặc là đổi tên đi".
Tên tuổi là một sức mạnh. Ðược nổi danh vốn là một trong những khát khao tự nhiên của con người. Trong Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta Suy niệm về ý nghĩa, sức mạnh và quyền năng của Danh Chúa trong cuộc sống người Kitô hữu chúng ta.
Tin Mừng được ghi lại những sự kiện được liên kết với nhau bằng Danh Chúa. Chỉ nhân danh Chúa mà đón tiếp những người bé nhỏ nhất, cụ thể là các em nhỏ và cũng chỉ nhân Danh Chúa, con người mới có thể khu trừ ma quỉ, chữa lành bệnh tật và làm phép lạ.
Ngày nay, Giáo Hội cũng nhân Danh Chúa để tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Ngài. Giáo Hội nhân Danh Chúa để cử hành các bí tích, để thực thi công tác bác ái, tranh đấu cho công lý. Nhưng phải chăng Danh Chúa Giêsu là một thứ bùa chú, một công thức ma thuật?
Chúng ta biết rằng nội dung niềm tin Kitô chính là tin rằng Thiên Chúa đã phục sinh Chúa Giêsu từ cõi chết, tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa và kêu cầu Danh Ngài. Cả ba kiểu nói này đều tương tự như nhau. Các Kitô hữu tiên khởi thường tự gọi mình là những kẻ kêu cầu Danh Chúa. Ðiều này được thể hiện một cách rõ rệt trong nghi thức rửa tội. Kêu cầu Danh Chúa có nghĩa là tin nhận rằng Ngài là Chúa và đặt mình dưới sự thống trị của Ngài. Duy chỉ mình Ngài mới có thể đem lại ơn cứu rỗi và sự sống, duy chỉ có mình Ngài mới có thể là lý tưởng của đời sống Kitô hữu.
Xét cho cùng, niềm tin của chúng ta không phải là một giáo điều để tuyên xưng, một số kinh kệ phải đọc làu làu, một số biểu dương tôn giáo cần bày tỏ ra bên ngoài. Niềm tin thiết yếu của chúng ta là Chúa Giêsu, Ðấng đang hiện diện cách sống động trong mỗi người chúng ta. Sống niềm tin ấy chính là luôn ý thức về sự hiện diện ấy của Ngài và không ngừng đi vào tương quan mật thiết với Ngài. Sống niềm tin ấy chính là để Ngài thấm nhập vào từng suy nghĩ, tâm tư và hành động đến độ có thể thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Nghĩa mới về giá trị
Người liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.” (Lc. 9, 47b-48)
Các môn đệ đã không hiểu ý nghĩa quan trọng về sự đau khổ mà Đức Giêsu sắp phải chịu. Người vừa loan báo về cái chết của Người là đỉnh cao của sứ vụ giữa loài người. Chính ra các ông phải xúc động và đổi đời, phải lo Suy niệm những lời giảng bi thảm của Thầy, để rút ra những điều bổ ích và chuẩn bị những hậu quả của những ngày đau khổ sắp tới.
Trái lại, các ông cứ tiếp tục nuôi dưỡng những ảo vọng danh lợi mong Đức Kitô sắp tới giờ vinh quang phục hưng vương quốc thế gian. Các ông hằng mơ thấy như thế. Đức Kitô đã không thành công trong khi thuyết phục các ông, Người không đến để làm như thế. Vì thế các ông đang nghĩ xem ai là người lớn nhất trong các ông, ai có chức vị cao nhất trong Nước Đức Kitô. Thánh Marcô cho thấy tính cách thô lỗ, thô bạo khi ông kể lại cuộc tranh giành giữa các tông đồ để biết ai được địa vị cao nhất. Đức Giêsu sắp hoàn toàn lật đổ quan niệm của các ông về giá trị mới trong nước trời. Người liền đem một em nhỏ đặt bên cạnh mình mà nói với các ông: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy, và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Đó là địa vị danh dự bên Đức Giêsu. Địa vị này không dành cho kẻ sáng giá nhất, thông minh nhất, tài năng nhất, có huy chương nhiều nhất! Nó chỉ dành cho ai đặt mình phục vụ những kẻ hèn mọn nhất, trơ trụi nhất, bị kinh bỉ nhất. Vì ai là người nhỏ nhất trong mọi người, chính là người lớn nhất.
Còn lời nào ngược đời đối với kẻ luôn luôn đòi cai trị người khác, nghịch lý đối với hạng chủ trương dùng quyền lực thống trị người khác. Đức Kitô quả quyết, cai trị là làm tôi tớ như chính Người đã làm gương, cai trị là hy sinh hủy mình đi vì người khác, chứ không phải là bắt họ làm nô lệ mình. Hủy mình đi vì thực thi bác ái của Đức Kitô để yêu người đến độ có thể hiến mạng sống mình vì họ.
Nhỏ bé là như thế, mới đạt tới sự cao cả duy nhất, như Đức Kitô kêu gọi chúng ta.
GF
Suy niệm 6: Muốn làm lớn … phải trở nên bé nhỏ
Xem lại CN 25 TN B, thứ Ba tuần 7 TN và tuần 19 TN, lễ Thánh Têrêxa và lễ Các Thiên Thần Bản Mệnh
Khi Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn đầu tiên, các môn đệ can ngăn. Lần thứ hai thì không ai dám nói gì. Tuy nhiên, vì biết Thầy sắp ra đi, vị trí lãnh đạo sẽ khuyết, nên các ông bắt đầu nẩy sinh chuyện tranh dành xem ai là người lớn nhất trong anh em. Biết được tâm tưởng của các môn đệ, nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã ban nhiều huấn dụ cho các ông để các ông hiểu và đi theo đúng con đường mà Ngài mong muốn nơi môn sinh của mình.
Huấn giáo của Đức Giêsu đã gây nên một ấn tượng mạnh nơi các môn đệ khi Ngài dẫn một em nhỏ đến bên cạnh và nói: "Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất". Qua đó, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ phải từ bỏ tính tham quyền cố vị. Tránh đi thái cực muốn được người khác ca tụng, hay thích ăn trên ngồi trước. Cần loại bỏ sự mong muốn được người khác phục vụ, rồi thích thống trị thiên hạ bằng quyền lực.
Ngày nay, hình ảnh và lối suy nghĩ của các môn đệ khi xưa vẫn thường diễn ra trong cuộc sống của chúng ta!
Thật vậy, vẫn còn đó những người Kitô hữu có suy nghĩ và hành xử bè phái, cục bộ, không phục vụ vì Chúa và các linh hồn, nhưng là vì mình. Không quy về Đức Giêsu mà lôi kéo để mình có ảnh hưởng. Tính háo danh và ham địa vị, cũng như tính hay ghen tỵ cũng diễn ra thường xuyên.
Tất cả những thứ đó làm nguy hại đến tinh thần hiệp nhất và sứ mạng loan báo Tin Mừng rất lớn.
Vì thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Luôn sống kết hiệp với Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Ngài dạy dỗ, bảo ban. Cần trở nên như trẻ nhỏ trong thái độ đơn sơ, chân thành và phục vụ cách vô vị lợi. Khiêm tốn và từ bỏ ham quyền, cố vị. Sẵn sàng cộng tác với hết mọi người để ra đi loan báo Tin Mừng cách trung thành.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống tinh thần của Chúa là trở nên như hạt lúa, chấp nhận chôn vùi đi để sinh nhiều bông hạt khác. Xin cho chúng con có được tinh thần của trẻ thơ, để không màng chi đến danh vọng, nhưng chỉ một lòng yêu mến Chúa và yêu người tha thiết. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 6: Kẻ nhỏ nhất là kẻ lớn nhất
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Các môn đệ tự hỏi xem ai là người lớn nhất, và Chúa Giêsu đã trả lời: kẻ nhỏ nhất lại là kẻ lớn nhất. Chúa muốn dạy ta rằng: người khiêm nhường phục vụ như Chúa là người lớn nhất trong Nước Trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, như các môn đệ ngày xưa, con cũng thích địa vị và đi tìm chỗ nhất cho mình. Con muốn hơn người khác và trở nên cao trọng bằng cách tự tôn mình lên hơn là sống theo đường lối của Chúa. Sở dĩ con không áp dụng phương thế của Chúa là vì con chưa hiểu được hình ảnh trẻ thơ bé nhỏ đối với Chúa lại cao đẹp và vĩ đại biết bao. Chính thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giêsu, hơn ai hết, đã chọn cho mình con đường thơ ấu thiêng liêng, một con đường ngắn nhất để nên trọn lành.
Lạy Chúa, suốt cả cuộc đời, Chúa đã phục vụ con người như một tôi tớ. Cuộc đời Chúa cho con hiểu rằng để trở nên cao trọng, con phải sống khiêm nhường phục vụ như Chúa. Xin cho con luôn trở nên nhỏ bé trước tình yêu Chúa, để con luôn đơn sơ phó thác vào Chúa.
Xin cho con biết noi gương Chúa, như khi Chúa hạ mình cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, để con cũng biết yêu thương phục vụ anh em, nhất là những anh em hèn mọn, nhỏ bé. Xin cho con xác tín rằng: khi con ích kỷ yêu chính mạng sống mình, con sẽ mất nó, nhưng khi con quên đi bản thân mình trong cuộc đời phục vụ tha nhân, con lại gặp chính mình.
Và lạy Chúa, xin cho con được lớn nên trong Chúa Thánh Thần, để trở nên cao trọng trong cung lòng Thiên Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”.
Suy niệm 7: Nước Trời thuộc về trẻ em
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Nhà kỹ nghệ công giáo danh tiếng, Léon Harmel, thuật lại câu chuyện sau:
Một bà mẹ đánh thức con dậy. Bà thấy dưới gối con có một cục gỗ.
- Con làm gì thế?
- Thưa mẹ, khi đi học giáo lý, con nghe dạy rằng mình phải hãm mình để cho kẻ có tội được trở lại. Con chọn cách hãm mình này. Con trông cậy Chúa nhận lời con.
Đó là gương một em bé trong sạch, biết đền tội thay cho những kẻ có tội mà không chịu đền tội.
Suy niệm
Các môn đệ đang suy nghĩ là ai sẽ là người lớn nhất. Chúa Giêsu đặt một em nhỏ vào giữa nhóm môn đệ và nói: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy, mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy”. Cử chỉ này đi ngược lại phong tục Do Thái thời đó vì xã hội cổ đại không quan tâm tới trẻ em. Hơn nữa, chúng không hiểu biết Lề Luật nên người ta loại bỏ, khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn tôn giáo.
Đứa trẻ còn tiêu biểu cho những người đau khổ, cô thế cô thân, gặp thiếu thốn, có nhu cầu ủi an nơi chúng ta nhưng lại bị chính cộng đồng đã loại trừ. Qua việc đón tiếp các trẻ em, Đức Giêsu đề cao sự khiêm nhường phục vụ những người nghèo, có giá trị thiêng liêng cao quý như hành động phục vụ của Người và phục vụ chính Chúa Cha Đấng đã sai Người (x. Mt 10,40). Trong nước của Thiên Chúa, người lớn thì phải phục vụ, còn người bé nhỏ thì được đón tiếp nhân danh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu còn nhấn mạnh: “Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”. Người bé mọn, cô thế cô thân được sống bên Chúa:
“Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2).
Chúa làm cho thân phận bé mọn được tràn đầy ân sủng như chính Ngài dùng lời Kinh Thánh khẳng định: “Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21,16; Tv 8,2). Tông đồ Phaolô nhìn nhận các đặc ân, các ơn huệ nhưng không Chúa đã trao ban cho những con trẻ: “Những gì yếu đuối trong thế gian thì Thiên Chúa đã chọn lựa” (1Cr 1,27).
Giáo hội mời gọi chúng ta mặc lấy tâm tình của trẻ thơ. Trẻ thơ luôn biết ngạc nhiên và ngây ngất trước những điều kỳ diệu của cuộc sống. Trẻ thơ tuy đơn sơ mà cao vời vợi, vì các em luôn bước trên đời không chỉ bằng đôi chân của mình, nhưng biết buông mình trong tay Cha từ ái.
Ý lực sống:
“Hãy để trẻ nhỏ đến với Ta, đừng ngăn cấm chúng vì nước Trời thuộc về chúng” (Mt 19,14).
Suy niệm 8: Ai là người lớn nhất?
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi nghe Đức Giêsu loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó, tử nạn và phục sinh của Người, trong tâm tưởng của các Tông đồ đã nảy ra một ý tưởng rất tự nhiên: Thầy chết rồi, ai sẽ đứng đầu các anh em ? Ý tưởng đó làm các ông thắc mắc và đem ra bàn cãi lúc đi đường. Thừa dịp này, Đức Giêsu đã ban nhiều lời huấn dụ các ông. Trước những suy nghĩ của các ông, Đức Giêsu nhẹ nhàng dạy các ông chân lý của Người: “Muốn làm lớn, hãy trở nên bé nhỏ”. Người làm lớn trong Nước Trời phải là người biết phục vụ anh chị em mình.
2. Sống với Đức Giêsu gần ba năm, các ông đã nghe lời Ngài giảng, đã chứng kiến việc Ngài làm, nhất là gương khiêm hạ, phục vụ của Ngài, thế mà các ông tranh luận nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm. Thấy vậy, Đức Giêsu đã nói với các ông:”Ai là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” Để minh họa cho lời nói ấy, Đức Giêsu đưa một em nhỏ ra cho họ thấy gương mẫu điển hình và Ngài nói:”Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này, tức là đón nhận Thầy, mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Đấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong các con, đó là người cao trọng nhất”.
Qua đó, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ từ bỏ tính tham quyền cố vị. Tránh đi thái cực muốn được người khác ca tụng, hay thích ăn trên ngồi trốc. Cần loại bỏ sự mong muốn được người khác phục vụ, rồi thích thống trị thiên hạ bằng quyền lực.
3. Chúng ta thấy cái nghịch lý của Nước Trời là “càng bé thì càng lớn, càng cao thì càng sâu”. Bởi vì:
Ai muốn làm đầu thì phải hầu thiên hạ,
Ai muốn làm lãnh tụ thì phải phục vụ tha nhân.
Cám dỗ lớn nhất của con người, đó là đam mê quyền lực, ai cũng mong muốn được ăn trên ngồi trốc, được mọi người tung hô kính trọng... để rồi từ đó làm mọi cách (cho dù là đê tiện thấp hèn) để đạt được mục đích chức quyền... Trong khi giữ chức quyền là để phục vụ chứ không phải để cai trị, Làm to ai cũng muốn, nhưng lại ngại phải hy sinh. Vì thế, Đức Giêsu không trả lời trực tiếp là ai to ai nhỏ trong Nước Trời, mà chỉ đưa ra một “mẫu người” sẽ trở thành lớn nhất trong Nước Trời đó là nên như trẻ nhỏ, và Ngài nhấn mạnh rằng:”Ai muốn làm lớn thì phải cố tự hạ nên như trẻ nhỏ”.
4. Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta phải trở nên giống trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời, vì trẻ nhỏ có những đức tính sau đây:
Hình ảnh nên như trẻ nhỏ, nghĩa là biết sống tự hạ, khiêm tốn, vì ai biết hạ mình xuống sẽ được tôn lên, còn ai kiêu ngạo thì tự đánh mất chính mình trong mắt mọi người.
Hình ảnh trẻ nhỏ nói lên tính đơn sơ chân thực, trẻ nhỏ không tính toán so đo hay những tính toán nham hiểm. Chúa cũng muốn mọi người chúng ta sống chân thành và ngay thẳng, không toan tính mưu lợi thấp hèn.
Hình ảnh trẻ nhỏ còn nói lên tinh thần sống phó thác và tin tưởng nơi cha mẹ. Chúa mời gọi chúng ta biết sống đơn sơ phó thác nơi tay Chúa quan phòng.
Hình ảnh trẻ nhỏ nói lên sự trong sạch. Trẻ nhỏ như tờ giấy trắng, không có những đam mê xấu. Chúa cũng muốn chúng ta sống trong sạch trước mặt Người.
Khi nói kẻ lớn nhất trong Nước Trời phải trở nên như trẻ nhỏ nơi nước trần thế, không có nghĩa là bây giờ làm Giáo hoàng rồi sau này trở nên kể rốt hết, nhưng Chúa nhắm đến tinh thần khiêm tốn và phục vụ, sự phục vụ đó tùy theo bậc sống của chúng ta nơi thế gian này.
5. Đức Giêsu đã nêu gương khiêm nhường cho chúng ta qua hành vi rửa chân cho các môn đệ. Vì thế, người môn đệ Chúa cũng được mời gọi trở nên những người phục vụ, và khiêm nhường. Thế nhưng, trong cuộc sống, có mấy ai nghĩ tới điều đó, ai cũng nghĩ người khác phải phục vụ mình, tranh giành quyền lợi, địa vị, loại trừ người khác... Đối với Đức Giêsu thì khác, những người làm lớn phải là người phục vụ kẻ khác. Muốn được như thế, mọi người phải có lòng yêu thương nhau, vì có tình yêu thì những cạnh tranh không còn nữa. Là người lãnh đạo, Đức Giêsu đã sẵn sàng hiến mạng sống mình cho nhân loại. Là Thầy, Ngài cúi xuống rửa chân cho các môn đệ.
6. Truyện: Phục vụ trong khiêm tốn.
Sau đệ nhị thế chiến, những người dân ly tán khắp nơi còn sống sót đều trở về làng quê cũ, họ gạt nước mắt và sẵn sàng đổ mồ hôi để nỗ lực hàn gắn lại những vết thương chiến tranh và xây dựng lại cuộc sống trong hòa bình.
Tại một thị trấn nọ, tất cả nhà cửa, phố xá, ruộng vườn đều đã tan hoang đổ nát. Một nhóm bạn trẻ bước vào ngôi nhà thờ thân yêu ngày xưa, nay chỉ còn lại bốn vách tường và mái ngói tương đối là đứng vững, còn bên trong là những gạch vữa, gỗ đá vỡ vụn. Họ tìm thấy pho tượng Chúa Giêsu nằm sõng suợt dưới đất, chỉ còn có thân mình là nguyên vẹn.
Tuy thế, họ vẫn dọn dẹp sạch sẽ gian cung thánh, rồi họ đặt bức tượng trên một chiếc bàn con, ở ngay trung tâm của những buổi cử hành phụng vụ và cầu nguyện của giáo xứ. Và người ta đã ghi lại được một lời cầu nguyện bộc phát rất cảm động của một chị thiếu nữ như sau:
“Lạy Chúa, xin cho chúng con trở thành đôi mắt của Chúa, để chúng con diễn tả được tình yêu thương của Chúa. Xin biến chúng con trở thành đôi tay của Chúa, để chúng con nâng đỡ phục vụ anh chị em. Xin cho chúng con trở thành đôi chân của Chúa, để chúng con sẵn sàng đến với tha nhân. Xin biến chúng con trở thành con tim của Chúa, để chúng con biết thực sự yêu thương hết thảy mọi người”.
Suy niệm 9: Phục vụ và kết bạn
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu dạy các môn đệ ba điều. Ba điều này ngược hẳn suy nghĩ của các ông:
1. Lớn và nhỏ: mọi người, trong đó có các môn đệ và có cả chúng ta nữa, đều muốn làm người lớn, người cao trọng nhất, nghĩa là có địa vị, có uy thế, có quyền lợi. Các môn đệ của Chúa Giêsu ngày xưa cũng như thế. Chúa Giêsu biết ý nghĩ của các ông, nên Ngài bảo các ông đừng nghĩ tới vấn đề đó nữa, mà hãy nghĩ ngược lại: hãy trở thành kẻ bé nhỏ nhất, nghĩa là đừng nhắm địa vị, uy thế và quyền lợi mà hãy sống khiêm tốn phục vụ mọi người.
Năm thành viên của một gia đình nọ đang nghỉ ngơi và vui đùa ở một bãi biển. Các đứa bé tắm và nghịch ngợm xây những lâu đài bằng cát, khi cách đó không xa, xuất hiện một bà già gầy còm, đầu tóc rối bung trong gió và áo quần thì rách rưới, bẩn thỉu. Bà vừa đi vừa lảm nhảm điều gì đó trong miệng và cúi xuống nhặt các vật trên bãi cát, bỏ vào một cái bị.
Bố mẹ vội kêu các con lại bên họ và bảo chúng đứng tránh xa bà già kia ra. Khi đi ngang qua họ, bà cúi xuống nhặt bên trái, bên phải các vật trên cát, rồi bà nhìn và cùng mỉm cười với cả gia đình họ. Song thái độ thân thiện của bà ta không được đáp trả.
Nhiều tuần sau, họ biết được rằng, người đàn bà già yếu rách rưới đó đã bỏ những tháng ngày ròng rã để nhặt những mảnh vụn chai, sắt, thiếc trên bãi biển hầu các em nhỏ có thể nô đùa mà không bị thương tổn.
2. Vấn đề đón nhận người khác: Thường thì chúng ta thấy người ta dễ dàng niềm nở với những ai có lợi cho mình, chẳng hạn người có thế giá, có địa vị, có quyền hành, có của cải v.v….
Chúa Giêsu lại dạy khác: hãy có thái độ rộng mở đón tiếp mọi người, dù đó là một đứa trẻ chẳng có địa vị quyền hành gì cả.
Nhạc sĩ Howard Kelly cũng là nhà vật lí, bác sĩ, sinh vật học nổi tiếng và cũng là một Kitô- hữu. Lần kia, sau một cuộc nghiên cứu, ông dừng lại nhà một nông dân xin nước uống. Một cô bé xuất hiện và khi biết ông muốn xin bát nước, em chạy vào nhà rồi đưa ra cho ông một ly sữa tươi mát. Ông ân cần cám ơn và nói, nếu người nhà có ai bị đau cứ việc đến bệnh viện của bác sĩ Kelly. Cô bé cũng cảm kích trước lòng tốt của ông. Ít lâu sau, mẹ cô đau và cô đưa đi bệnh viện của bác sĩ Kelly. Một sự đón tiếp đặc biệt dành cho hai mẹ con. Và khi mẹ cô khỏi bệnh ra về, bác sĩ còn gửi cho cô một số tiền lớn để bồi dưỡng cho mẹ cùng với lời ghi chú: “Để trả ơn một ly sữa.”
Giá mỗi người chúng ta biết đối xử với nhau như thế thì cuộc đời sẽ đẹp hơn biết bao.
3. Vấn đề thuận và nghịch: Trong cuộc sống, người ta thường dùng cái khung phe nhóm để định hướng thái độ của mình. Ai thuộc phe nhóm mình thì là bạn mình và mình hợp tác. Ngược lại, ai không thuộc phe nhóm mình thì là kẻ thù của mình và mình phải chống lại. Chúa Giêsu lại dạy ngược lại: “Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta!” (Lc 9,50)
Tổng thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ có thói quen áp dụng một phương pháp bất thường để kết bạn. Một lần kia, ông đã dùng những lời hay ý đẹp để nói về những chính trị gia đối lập với mình. Nghe thế một phụ nữ thắc mắc:
- Tại sao ông lại ca ngợi những địch thủ của mình mà không phê bình, chỉ trích và tiêu diệt họ ?
Tổng thống Abraham Lincoln đã trả lời bằng một câu hỏi:
- Biến kẻ thù thành bạn hữu, không phải là tôi đã tiêu diệt kẻ thù hay sao ?
Một hoàng đế Trung Hoa nói:
- Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta!
Ông đã chinh phục các nước ấy và cả đình thần của ông đều chờ đợi một cuộc thảm sát địch quân. Họ mong những địch thù đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Nhưng họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả bọn địch thù cùng ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa. Họ tâu vua:
- Muôn tâu Hoàng Thượng, ngài đã nói sau khi thắng trận sẽ tiêu diệt tất cả địch thù kia mà!
Hoàng đế trả lời:
- Ta đã tiêu diệt tất cả bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ thành những người bạn của ta!
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa không gọi chúng con là tôi tớ,
Chúa cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ.
Chúa còn coi chúng con như bạn hữu của Chúa,
Hơn nữa, sau Phục Sinh,
Chúa đã gọi các môn đệ là anh em.
Mặc nhiên, Chúa đã tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc.
Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Chúa. Amen.
Suy niệm 10: Tiếp đón chính Thầy
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu dạy các môn đệ ba điều ngược hẳn suy nghĩ của các ông:
1. Lớn và nhỏ: mọi người, trong đó có các môn đệ và có cả chúng ta nữa, đều muốn làm người cao trọng nhất, nghĩa là có địa vị, có quyền hành, có quyền lợi. Nhưng khi các môn đệ đang suy nghĩ trong lòng về ước mong đó thì Chúa Giêsu biết ý nghĩ của các ông, Ngài bảo các ông đừng nghĩ tới vấn đề đó nữa, mà hãy nghĩ ngược lại: hãy trở thành kẻ bé nhỏ nhất, nghĩa là đùng nhắm địa vị và quyền hành, quyền lợi mà hãy sống khiêm tốn như trẻ nhỏ
2. Đón tiếp ai: Thói thường, người ta niềm nở với những ai có lợi cho mình, chẳng hạn người có địa vị, có quyền hành, có của cải. Chúa Giêsu thì dạy: hãy có thái độ rộng mở đón tiếp mọi người, dù đó là một đứa trẻ chẳng có địa vị quyền hành gì cả.
3. Thuận và nghịch: người ta thường dùng cái khung phe nhóm để định hướng thái độ của mình. Ai thuộc phe nhóm mình thì là bạn mình và mình hợp tác; ngược lại ai không thuộc phe nhóm mình thì là kẻ thù của mình và mình chống lại. Chúa Giêsu dạy ngược lại: “Ai không chống lại các con tức là thuộc với các con”, và “Chớ ngăn cản họ”.
B.... nẩy mầm.
1. Cái ý muốn “làm lớn” đã là nguồn gốc sinh ra biết bao đố kỵ, tranh dành và gây ra biết bao xào xáo khổ sở trong cuộc sống chung. Bởi thế Chúa dạy ta đừng ham làm lớn nhưng hãy ham làm nhỏ. Kiêu căng là đầu của 7 mối tội đầu, khiêm tốn là đứng số một trong 7 nhân đức hàng đầu.
Nếu con đang “làm nhỏ”, xin cho con biết cám ơn Chúa vì con được giống như những đứa bé trong gia đình. Nếu nhiệm vụ đang đặt con làm lớn, xin cho con biết “làm lớn” một cách khiêm tốn, làm lớn để phục vụ chứ không phải để bắt người ta phục vụ.
2. Vấn đề quan trọng không phải là tôi được địa vị cao hay thấp mà là tôi được đặt vào đúng chỗ hợp với khả năng của mình. Kẻ ít khả năng mà ở địa vị cao thì không chu toàn được những nhiệm vụ được giao, và như thế càng cho người khác thấy rõ những yếu kém của mình.
3. “Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào”. Chưa có địa vị thì ham có, đang có rồi thì cảm thấy nặng nề và mong được trút bỏ. Điều này càng đúng trong Giáo Hội.
4. Về thái độ đón tiếp: lẽ ra là môn đệ của Chúa, tôi phải đón tiếp mọi người, đặc biệt ưu tiên đón tiếp những kẻ bé mọn. Thế nhưng khuynh hướng tự nhiên vẫn còn sống mạnh trong tôi, nên đôi khi tôi vẫn thờ ơ, thậm chí xua đuổi những kẻ bé mọn ấy, và niềm nở vồn vả với những người có lợi cho tôi.
5. Thuận và nghịch: nhân danh Chúa Giêsu để trừ quỷ, đó là một việc làm tốt. Nhưng vì Gioan đã đánh giá việc làm đó theo một tiêu chuẩn sai (người đó không thuộc phe nhóm của mình), nên dẫn tới một thái độ sai là chống đối và ngăn cản. Để “chữa trị” Gioan, Chúa Giêsu bảo ông hãy suy nghĩ theo một tiêu chuẩn mới “Ai không nghịch với các con tức là thuận với các con”. Nghĩa là hãy suy nghĩ theo chiều “thuận”: hãy coi mọi người đều là “thuận” với mình, chỉ trừ khi rõ ràng người ta chống mình.
6. “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Lc 9,48)
Tôi đang loay hoay tìm kiếm mấy con ốc bị thất lạc khi sửa cái máy cassette thì thằng cháu mon men lại gần:
- Cậu ơi, cậu làm gì thế ? Cho cháu làm với.
- Con nít chỉ biết nghịch phá chứ biết làm cái gì. Đi chỗ khác chơi ! Tôi quát lớn.
- Nhưng cháu muốn ở lại nói chuyện với cậu, cho cậu đỡ buồn.
Câu nói ngây thơ của đứa trẻ lên bốn chứa đựng cả một tấm lòng nhân hậu làm tôi phải xét lại thái độ của mình. Những người lớn hay coi thường trẻ thơ bởi chúng là những trẻ nhỏ chưa có địa vị hay chỗ đứng trong xã hội. Thế nhưng những suy nghĩ tưởng chừng là bé nhỏ của chúng lại chất chứa cả một tâm hồn vĩ đại.
Lạy Chúa, xin cho những người lớn chúng con biết khiêm tốn lắng nghe và khám phá ra thế giới trẻ thơ; để qua trẻ thơ, mỗi người chúng con sẽ hoàn thiện chính mình (Hosanna)
26/09 Thà chặt tay, chặt chân, móc mắt
- Viết bởi Mc 9, 37-42. 44. 46-47
Thà chặt tay, chặt chân, móc mắt.
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi".
Lời Chúa: Mc 9, 37-42. 44. 46-47
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y".
Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.
"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài Suy niệm CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Ds 11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48
1. Làm cớ sa ngã.
(‘Manna’)
Suy Niệm
Chúng ta sống trong một thế giới có nhiều gương xấu.
Gương xấu lan nhanh nhờ các phương tiện truyền thông,
tạo nên một bầu khí ô nhiễm thấm vào buồng phổi.
Ngay trong Hội Thánh cũng có kẻ gây gương xấu,
khiến cho đức tin một số người gặp khủng hoảng.
Đức Giêsu tỏ thái độ không khoan nhượng đối với kẻ này:
"... thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn."
Có thể chúng ta đã ít nhiều gây gương xấu.
Cha mẹ làm ăn bất chính khiến con cái mất niềm tin.
Nhà tu hành mê say vật chất khiến tín hữu thất vọng.
Những phe phái chia rẽ khiến giới trẻ nghi ngờ tình yêu.
Có biết bao duyên cớ đẩy đưa một người sa ngã.
Nhiều khi chúng ta, vì vô tình hay thiếu khôn ngoan,
không biết hạn chế tự do của mình,
nên đã làm tổn thương lương tâm của những người yếu đuối.
Tôi có thể gây dịp tội khiến anh em tôi sa ngã,
nhưng chính thân xác tôi lại có thể là dịp tội cho tôi.
Đức Giêsu đòi ta chặt tay, chặt chân, móc mắt,
nếu những bộ phận đó làm ta phạm tội.
Hội Thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen
(nếu thế thì khó mà có một Kitô hữu lành lặn!).
Nhưng chúng ta lại không được coi thường
tính chất mạnh mẽ và quyết liệt của đòi buộc này.
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên
nếu thấy có người dám chịu cắt bỏ một phần thân thể
hầu cứu lấy sinh mạng của mình.
Người khôn là người dám từ bỏ một điều quý
để giữ lại một điều quý hơn.
Chỉ ai coi cuộc sống vĩnh cửu là điều quý nhất,
người ấy mới dám hy sinh mắt và tay chân, những gì vốn là tốt,
nhưng nay lại thành vật cản trở.
Có bao điều thiết thân, gắn liền với đời ta,
nhưng nay đã trở thành vật cản trở.
Cả những điều ấy, ta cũng phải cắt đứt, đoạn tuyệt.
Chấp nhận đoạn tuyệt là chấp nhận đớn đau.
Bỏ một tật xấu, một thói quen, một kế hoạch
có khi còn đau hơn móc mắt hay chặt tay.
Nếu chúng ta can đảm thắng vượt nỗi đau,
chúng ta sẽ được tự do thanh thoát.
Nếu cần một cuộc giải phẫu cho linh hồn.
Giải phẫu không phải chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế:
thay ước muốn nơi trái tim, thay lối nghĩ nơi bộ óc,
thay cái nhìn nơi đôi mắt, thay cách hành động nơi tay.
Đức Giêsu đưa ra những đòi hỏi tận căn.
Để vươn tới Tuyệt Đối thì cần hy sinh cái tương đối.
Ước gì chúng ta ra khỏi thái độ lấp lửng, nửa vời,
và dứt khoát chọn Thiên Chúa là Tuyệt Đối.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những gương xấu mà giới trẻ hôm nay chịu ảnh hưởng (nơi gia đình, trường học, giáo xứ, xã hội)? Những gương xấu đó đã tác hại thế nào trên giới trẻ?
Bạn có kinh nghiệm gì về việc "chặt bỏ" một tật xấu, một thói quen, hay việc "cắt đứt" một liên hệ nguy hiểm? Bạn có thành công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
2. Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nếu mỗi chi thể phạm tội đều phải bị cắt bỏ, chắc chắn không một ai lành lặn. Không thể hiểu theo nghĩa đen những lời Đức Giêsu nói hôm nay. Tuy nhiên cũng không được loại trừ tính chất quyết liệt của những lời đó. Đức Giêsu bảo ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt khi những chi thể này phạm tội, có nghĩa là phải quyết liệt với sự xấu.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như căn bệnh hay lây. Đã nhiễm vào một phần thân thể, sẽ nhanh chóng lây lan tới cả cơ thể. Lây lan đến đâu làm độc đến đấy. Phải ngăn chặn ngay từ đầu, nếu không sẽ khó mà cứu vãn được mạng sống.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như nọc độc loài thú dữ. Đã vào mạch máu sẽ mau chóng tràn vào tim. Khi chất độc đã ngấm đến tim, sẽ làm tê liệt mọi hoạt động của cơ thể, sẽ cướp đi mạng sống con người.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như loại thuốc mê. Một khi để sự xấu nhiễm vào, người ta sẽ mất khả năng chống cự. Sự xấu làm cho con người ra nhu nhược yếu hèn, làm tê liệt ý chí phấn đấu. Để cho sự xấu xâm nhập, nó sẽ thống trị ta, sẽ bắt ta làm nô lệ. Một khi đã rơi vào ách nô lệ sự xấu, con người khó lòng thoát ra.
Quyết liệt dứt khoát với sự xấu cũng giống như chặt tay, chặt chân, móc mắt, nghĩa là phải sẵn sàng chịu đau khổ, Dứt khoát với tội lỗi không dễ. Tội lỗi khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản thân, gắn bó với bản thân. Dứt bỏ cũng đau đớn như chính cơ thể bị chặt bỏ, xé lìa. Ta hãy xem người cai nghiện. Cơn nghiện vật vã dày vò tưởng chết đi được. Vì đối với người nghiện, ma túy trở thành một phần thiết thân của đời sống đến nỗi khi phải dứt lìa họ đau đớn khổ sở như phải tách lìa một phần thân thể, như đánh mất chính sự sống.
Chặt tay, chặt chân, móc mắt cũng có nghĩa là dứt lìa với những người, những nơi, những đồ vật khiến ta phạm tội. Những con người, những đồ vật, những nơi chốn đó trở thành một phần đời của ta. Để dứt bỏ, trái tim ta đau đớn đến rướm máu. Cuộc dứt bỏ làm tâm hồn ta như bị thương tích đau đớn vô cùng.
Cũng như người bệnh phải chịu phẫu thuật, cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo ta phải quyết liệt với tội lỗi, phải chặt tay, chặt chân, móc mắt không phải vì muốn hành hạ ta, muốn ta phải đau khổ. Trái lại chính vì yêu thương ta, muốn ta được hạnh phúc mà Chúa dạy ta phải dứt khoát với tội lỗi.
Dứt bỏ tội lỗi là dứt bỏ những phần hư hỏng xấu xa, nhiễm bệnh trong cơ thể. Dứt bỏ tội lỗi là ngăn ngừa không cho sự xấu xâm nhập vào linh hồn. Dứt bỏ sự xấu là ngăn chặn sự độc hại tàn phá linh hồn. Dứt bỏ tội lỗi là giúp linh hồn có cơ hội được lớn mạnh, được phát triển.
Ham vui một chốc lát để rồi chịu kết án suốt đời khổ sở. Hay là chịu đau khổ một chốc lát để suốt đời được tự do hạnh phúc. Ta chọn đàng nào? Chắc chắn ta phải chọn con đường hạnh phúc lâu dài. Chính Chúa muốn hạnh phúc cho ta, nên đã truyền cho ta phải dứt khoát với tội lỗi để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết nghe lời Chúa dạy, biết dứt khoát với tội lỗi, để được sống đời đời với Chúa. Amen.
3. Ðể trở nên môn ðệ đích thực
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
Ðừng nghĩ rằng mình có quyền ưu tiên
Khi thánh Mác-cô viết cho các độc giả của mình, Nhóm Mười Hai đã phân tán, một vài người đã qua đời. Tuy vậy, cộng đoàn được thành lập xưa kia quanh Ðức Giê-su vẫn là kiểu mẫu cho mọi cộng đoàn. Qua trình thuật, thánh Mác-cô nhắc lại cho các tín hữu thời ấy về cách sống họ phải có với nhau cũng như về mối tương quan của họ với thế giới bên ngoài: không được tự cho mình quyền ưu tiên trên người khác, việc phục vụ, sự bình an.
Kẻ trừ quỷ
Câu chuyện khởi đầu với đề nghị của ông Gio-an về việc có người không ở trong hàng ngũ môn đệ mà lại lấy danh Ðức Giê-su để trừ quỷ. Các môn đệ muốn xin Thầy cấm không cho người ấy làm như vậy.
Ðề nghị này diễn tả tham vọng của một số người trong dân Chúa muốn có những đặc quyền và độc quyền, kể cả quyền trừ quỷ. Ðức Giê-su cho thấy thái độ ngược lại: Người luôn hướng ra ngoài những biên giới hữu hình, những cơ chế, với mục đích làm cho việc phục vụ được mở rộng và đạt được hiệu quả tối đa. Xét cho cùng, sự hiện diện của Ðức Giê-su cũng như của Hội Thánh chính là dẹp tan sức mạnh của Xa-tan để Nước Thiên Chúa được lan rộng. Chỉ có những ai kết hiệp với Ðức Kitô, Ðấng duy nhất đã chiến thắng ma quỷ, mới có thể làm được công việc này.
Do đó, thay vì cấm đoán, Ðức Giê-su đã dạy các môn đệ hãy biết trân trọng và cộng tác với những người, cách này cách khác, đang làm cho Nước Thiên Chúa được lan rộng thêm. Những người này có thể không thuộc vào số những môn đệ của Ðức Kitô, nhưng vẫn có thể là những cộng tác viên của Người: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta."
Ngoài ra, theo tác giả Tin Mừng thứ hai, Thần Khí được ban tặng cho hết mọi người và không cơ cấu nào có thể ràng buộc Thần Khí của Ðấng Phục Sinh: Người là Ðấng vượt lên trên mọi cộng đoàn nhân loại, mọi hoạt động xã hội, mọi gia đình tôn giáo. Thần Khí luôn chống lại mọi hình thức địa phương hóa Hội Thánh, mọi ý định muốn trói buộc sự năng động mà Người là nguồn mạch.
Chính vì vậy, người môn đệ Ðức Kitô không thể viện cớ bảo đảm sự chính thống để rồi đồng hóa sự thuộc về Ðức Kitô với một quan niệm loại trừ, gạt bỏ hết những ai không cùng niềm tin với mình. Nước Thiên Chúa không chỉ ở đây hay ở đó, nhưng ở bất cứ nơi đâu có những con người thiện chí.
"Ai cho anh em uống một chén nước..."
Người Kitô hữu là đại diện của Ðức Kitô. Ðây là một trách nhiệm cao cả. Tuy nhiên, ở đây, trong câu nói của Ðức Giê-su, người môn đệ là cả một cộng đoàm trở nên bé nhỏ, và do đó là người phục vụ chứ không phải là người lãnh đạo. Tuy thế, trong cộng đoàn cũng như nơi từng người, Ðức Giê-su vẫn luôn hiện diện. Người môn đệ nhỏ bé nhất vẫn là tượng trưng cho Ðức Kitô. Phẩm giá cao quý này đòi buộc họ phải sống đúng theo Ðức Giê-su mong muốn, đồng thời cũng buộc người khác phải nhìn người môn đệ ấy là chính Ðức Kitô.
"... Làm cho một trong những kẻ bé mọn sa ngã..."
Ðó là làm cớ cho người khác lung lạc trong việc gắn bó với Ðức Kitô. Hành động này đi ngược với việc phục vụ, đón tiếp, và xây dựng bình an. Ðây là tội nặng và đáng chịu hình phạt nặng nề: chịu cột cối đá vào cổ và quăng xuống biển.
Trong Tin Mừng, các kẻ bé mọn có thể hiểu là những người hèn kém, ít học, bị coi thường. Còn trong đời sống Kitô hữu, kẻ bé mọn là những người có lòng tin yếu kém, ít am hiểu. Thái độ nghiêm khắc của Ðức Giê-su nói lên lòng kính trọng và mối ưu tư Người dành cho loại người này. Qua đấy, Ðức Giê-su cũng muốn tố cáo thái độ độc quyền của những thủ lãnh tôn giáo: giải thích Kinh Thánh, đóng cửa không cho những kẻ muốn vào. Theo Ðức Giê-su, hành động này là sự huỷ hoại chính mình khi huỷ hoại người khác, bởi vì làm như thế là tự cho mình quyền nắm giữ Thần Khí và có quyền tự do làm bất cứ điều gì theo ý mình.
Tiếp đến, Ðức Giê-su nói đến sự trầm trọng của gương xấu theo mối nguy mà nó gây ra cho mỗi người. Các chi thể của con người như tay, chân, mắt, mũi, v.v... là những bộ phận cho phép con người hoạt động và tạo nên những mối tương quan. Con người phải điều khiển những hoạt động và tương quan của mình để tạo nên sự sống, chứ không phải gây ra tội lỗi hay sự chết. Ðây là một lựa chọn có giá trị tuyệt đối: người ta không thể coi bất cứ điều gì có tầm quan trọng hơn sự sống - sự sống vĩnh cửu. Ðiều gì đi ngược với sự sống này, phải bị loại bỏ dứt khoát.
Dĩ nhiên, câu nói của Ðức Giê-su không thể hiểu theo nghĩa chặt. Ðàng khác, cũng thật là vô ích khi cố tìm xem những tội nào mà tay, chân hay mắt có thể là cơ hội. Mà giả như có cắt bỏ những phần thân thể này cũng không loại trừ được nguy hiểm.
Qua khẳng định này, Ðức Giê-su muốn nhấn mạnh đến việc chọn lựa, và người ta phải đặt sự sống vĩnh cửu lên trên mọi giá trị khác, kể cả những gì thân thiết nhất. Như vậy, trong suốt bản văn này, vấn đề được nêu lên cho người môn đệ Ðức Kitô là: cuộc sống và hành động của họ có làm cho họ, và cho người khác, được sống hay phải chết?
Thuộc về Ðức Kitô
Bài Tin Mừng hôm nay đề ra cho chúng ta hai sứ điệp:
Sứ điệp thứ nhất
Người xua đuổi quỷ là người tốt; họ là đối thủ hữu hiệu chống lại cái ác, và do vậy, họ được liên kết cách thực sự với Ðức Kitô. Có thể gặp thấy những người này ở khắp nơi, kể cả ở ngoài số những môn đệ chính thức của Ðức Kitô.
Nét đặc trưng của người môn đệ Ðức Kitô là không được ngăn cản những người này hoạt động, viện cớ rằng họ không nhận quyền từ Ðức Kitô.
Sứ điệp thứ hai
Ðức Giê-su yêu cầu chúng ta phải là những người trung tín đến mức phải loại trừ tất cả những gì gây trở ngại cho việc gắn bó với Người. Những ai nghĩ rằng bình an và sự công chính của Thiên Chúa là điều có thể thực hiện, cho dù phải trả giá là một cái chân hay một con mắt, những người ấy trở thành anh hùng trong lịch sử nhân loại. Ðây không phải là trường hợp những người quá bận tâm để cứu lấy những đồ đạc của mình, và được đánh đổi bằng một vài thoả hiệp.
Chúng ta hiểu rằng hai sứ điệp này không dễ thực hiện. Tuy nhiên, trong lý thuyết, nó cũng cho chúng ta cảm thấy vui thích. Sứ điệp thứ nhất phù hợp với tinh thần thoáng đạt, bao dung mà con người ngày nay đang hướng đến. Sứ điệp thứ hai phù hợp với tính trung thực đang được khuyến khích khắp nơi.
Nhưng phải chăng Ðức Giê-su chỉ nói với chúng ta như thế?
Ðể ý một chút, ta nhận ra một điểm chung: thuộc về Ðức Kitô. Kẻ trừ quỷ phải "nhân danh Ðức Giê-su", kẻ bé nhỏ nhận ly nước "vì thuộc về Ðức Kitô" và kẻ có những chọn lựa là để "vào trong Nước Thiên Chúa".
Như thế, trong mọi hoạt động, dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, ta cũng phải nhận ra dấu vết của Thiên Chúa và của Ðức Giê-su, Con Thiên Chúa. Chúng ta phải để cho ngọn lửa Thánh Thần thanh luyện các phán đoán và cách ứng xử của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta nhận ra cách tích cực nơi chính mình và nơi người khác - dù người ấy còn xa lạ với Kitô giáo - dấu chỉ của Thần Khí Ðức Giê-su. Thần Khí luôn mời gọi chúng ta sống thánh hơn, và do đó, tinh thần thoáng đạt hơn. Thánh Kinh luôn mời gọi chúng ta chân thành hơn, và như vậy, tự do hơn...
4. Óc bè phái, cục bộ.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
"Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta" (Mc 9,40)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúa nhật vừa qua, Lời Chúa đã dạy chúng ta đừng ganh ghét đố kỵ. Hôm nay, Lời Chúa lại dạy chúng ta đừng có óc bè phái cục bộ, chỉ biết đến nhóm mình, phe mình và loại trừ những người không thuộc phe nhóm của mình.
Ðoàn kết trong nội bộ là tốt, nhưng kỳ thị và loại trừ những người khác thì là xấu.
Chúng ta hãy chăm chỉ nghe giáo huấn của Chúa và cố gắng thi hành.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con có lỗi vì đã không thích những người không cùng tín ngưỡng với chúng con.
Chúng con có lỗi vì tạo phe nhóm chống đối nhau.
Vì họ đạo chúng con chia bè chia cánh, nên đã không là tấm gương tốt cho những người lương.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Ds 11,25-29)
Giôsuê khó chịu khi thấy hai người kỳ mục không đến Lều Thánh mà lại nói tiên tri. Ông bảo Môsê ngăn cấm hai người ấy. Nhưng ông Môsê chẳng những không ngăn cấm mà còn nói: "Phải chi Ðức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ".
2. Ðáp ca (Tv 118)
Tác giả Thánh Vịnh 18 suy nghĩ "Nào ai thấy rõ các lỗi lầm của mình?" Từ đó ông khiêm tốn nhìn nhận có những tội mình phạm mà chẳng hay, trong đó có tội kiêu ngạo.
Phối hợp với bài đọc I và bài Tin Mừng, ta có thể thấy cái thứ tội kiêu ngạo ta phạm mà chẳng hay chính là sự đố kỵ với những người không cùng ở trong tập thể của mình: mình ghét họ, mình chống họ nhưng cứ tưởng làm như thế là tốt cho tập thể mình.
3. Tin Mừng (Mc 9,37-42.44.46-47)
Trong bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu dạy hai bài học:
a/ Bài học bao dung và hợp tác: Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Ðức Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Ðức Giêsu chẳng những không cấm họ mà còn sửa dạy các môn đệ mình.
Người đời thường có óc bè phái: ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với những nhóm khác. Phương châm của thế gian là "Ai không theo ta tức là nghịch với ta"
Ðức Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, và sẵn sàng hợp tác với tất cả môi người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là "Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta".
b/ Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho "những kẻ bé mọn".
"Những kẻ bé mọn" không hẳn là trẻ con, mà còn là những người mà đức tin còn non yếu. Ai gây cớ vấp phạm cho họ thì thà buộc cối đá vào cổ nó rồi xô nó xuống biển còn hơn.
Ngay cả bản thân mình mà gây cớ vấp phạm cho mình thì mình cũng phải tự khắt khe với mình để diệt trừ nguy hiểm tận gốc: "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi..."
4. Bài đọc II (Gc 5,1-6) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê nặng lời phê phán những người giàu có mà không giúp đỡ những người nghèo: (1) Những tiền bạc của cải mà họ tích trữ không xài tới chính là bằng chứng buộc tội họ; (2) Tài sản của họ là do gian lận, bất công mà có; (3) Họ dùng tài sản để thỏa mãn khát vọng khoái lạc và làm hại người công chính.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Óc ganh tị bè phái... vì danh Chúa!
Những bài Sách Thánh mà phụng vụ tuyển đọc trong Thánh Lễ hôm nay đề cập tới một tính xấu, đó là Óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Tính xấu đó như thế nào, chút nữa chúng ta sẽ phân tích. Bây giờ trước hết chúng ta hãy xem lại những bài đọc nói gì.
- Bài đọc I kể một câu chuyện xảy ra từ thời ông Môsê đang dẫn dân Chúa đi lang thang trong sa mạc, nghĩa là lâu lắm rồi, khoảng năm 1250 trước Chúa Giáng sinh, nghĩa là cách nay đến hơn 3000 năm. Khi ấy Chúa bảo Môsê chọn trong dân ra 72 người để Chúa đổ ơn Chúa Thánh Thần xuống trên họ và nhờ đó họ được ơn nói tiên tri. Môsê đã chọn 72 người, Chúa đã ban cho họ ơn nói tiên tri. Nhưng mà có 2 người khác không ở trong danh sách 72 người kia cũng nói tiên tri. Một đứa bé thấy vậy chạy về báo cáo cho Môsê và người phụ tá của ông là Giôsuê hay sự việc. Giôsuê liền đề nghị ông Môsê ra lệnh ngăn cấm 2 người đó, lý do là vì họ không thuộc danh sách 72 người được chọn. Xin nhắc lại rằng câu chuyện này xảy ra từ thời Cựu Ước, cách đây khoảng 3000 năm lận. Nghĩa là từ thuở rất xa xưa, mà người ta đã có tính ganh tị rồi.
- Cái tính xấu này vẫn còn cho tới thời Tân ước. Bài Tin Mừng kể: Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Ðức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Ðức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Ðức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm như vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải là tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Ðức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Ðức Giêsu còn nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói "Ai không chống lại ta thì thuộc về ta".
Qua hai câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là: cái óc ganh tị đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa, như Ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Ðất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Ðức Giêsu yêu thương nhất. Ðó là óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Nói "Óc ganh tị Bè Phái vì danh Chúa" bởi vì ganh tị có tới 3 cấp bực:
Cấp thứ nhất là Ganh tị: đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.
Cấp thứ hai là Ganh tị bè phái: là Ganh tị với người không thuộc phe nhóm của mình.
Cấp thứ ba là Ganh tị bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tị với những người không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.
Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Ðó là một thí dụ về cái óc ganh tị bè phái vì danh Chúa.
Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Ðức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc "Ai không chống lại ta thì phải kể như là thuộc về ta". Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ "Ai không theo ta tức là kẻ chống ta", hoặc "Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta", hay hơn nữa "Ai làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta". Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc tôn: chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không thuộc phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Ðức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta; cũng phải hợp tác với họ.
Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Ðức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hoà với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.
Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Ðiều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được làm.
Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa: đừng ganh tị, đừng giữ đầu óc bè phái... nhưng cố gắng sống chan hoà với mọi người, cùng với mọi người thực hiện những việc tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.
2. Dịp tội
Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng những lời rất mạnh mẽ của Ðức Giêsu:
Nếu tay con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 tay mà phải vào hoả ngục.
Nếu chân con nên dịp tội cho con thì hãy chặt nó đi. Thà con mất một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ 2 chân mà phải vào hoả ngục.
Và nếu mắt con nên dịp tội cho con thì hãy móc nó đi. Thà con còn một mắt mà được vào Nước TC còn hơn có đủ 2 mắt mà phải ném xuống hoả ngục.
Dĩ nhiên đây là kiểu nói cường điệu theo thói quen của người Á Ðông. Không ai hiểu những câu đó sát nghĩa đến cả. Ta chưa thấy ai tự chặt tay chặt chân móc mắt để khỏi phạm tội cả. Ngay cả các thánh cũng vậy, các Ngài đã chống trả các cơn cám dỗ rất là quyết liệt, nhưng không bằng cách chặt tay chặt chân móc mắt mình. Có một trường hợp đặc biệt sau đây: Ông Origène, một Linh mục rất thánh thiện và cũng rất thông thái, uyên bác. Các tác phẩm của ông được xếp ngang hàng với tác phẩm của các thánh giáo phụ và tiến sĩ của Giáo Hội. Ông thường bị cám dỗ mạnh về xác thịt, cho nên một hôm ông quyết định tự thiến mình đi để khỏi bị cám dỗ nữa. Hành động này của ông chẳng những không được Giáo Hội khen mà còn bị chê trách nữa, do hành động ấy mặc dù ông rất thánh thiện và thông thái nhưng ông đã không được phong thánh và cũng không được coi là giáo phụ, hay tiến sĩ Giáo Hội, vì ông bị coi là một người bất bình thường.
Vậy, chúng ta không nên hiểu những lời Tin Mừng trên theo sát nghĩa đen. Mà phải hiểu theo tinh thần. Chúa Giêsu muốn căn dặn chúng ta phải hết sức triệt để xa lánh các dịp tội.
Nhưng, dịp tội là gì? Thưa là tất cả những gì có thể khiến ta phạm tội.
Ðó có thể là một sự vật. Td một chiếc xe đạp để ở chỗ vắng vẻ mà không có khoá.
Ðó có thể là một người. Td một cô gái đẹp lả lơi ăn mặc hở hang.
Ðó có thể là một hoàn cảnh, một môi trường. Td một xóm bình khang, một ổ điếm.
Ðể cho rõ hơn nữa, các nhà luân lý phân ra nhiều loại dịp tội:
Dịp tội gần: là những dịp mà nếu gặp thì hầu như chắc chắn ta sẽ phạm tội. Td người ghiền xì ke khi tới cơn ghiền, không có tiền, hễ gặp đồ đạc ai để hớ hênh thì hầu như chắc chắn sẽ "chôm" liền. Gặp 10 lần thì phạm tội khoảng 7,8 lần.
Dịp tội xa là những dịp mà có gặp thì cũng ít khi phạm tội. Td một người bình thường gặp một món đồ để hớ hênh. Có thể là anh ta sẽ ăn cắp, mà cũng có thể không ăn cắp.
Dịp tội gần lại được phân làm 2 loại nữa:
Dịp bó buộc là tuỳ hoàn cảnh đó có nguy hiểm khiến mình phạm tội, nhưng mình bó buộc phải vào, nếu không vào thì bị thiệt hại nặng. Td một cô gái làm việc cho ông chủ có máu dê xồm và thường phải gặp mặt ông ta. Ðây là một dịp nguy hiểm, nhưng nếu cô không gặp thì cô phải mất việc làm, phải thất nghiệp, phải túng thiếu.
Dịp tự do: là dịp tội cũng nguy hiểm nhưng ta không bó buộc phải gặp. Td không ai bó buộc một cô gái phải đến gặp một người đàn ông không đứng đắn vào buổi tối tại một nơi hẹn vắng vẻ.
Sau khi đã phân biệt nhiều thứ tội khác nhau. Bây giờ chúng ta nghĩ xem mình phải tránh loại dịp tội nào? Xin nhớ 3 nguyên tắc sau:
Buộc phải tránh dịp tội gần, vì đó là dịp mà nếu ta gặp thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ bị phạm tội.
Khi gặp dịp tội tự do, ta phải xa tránh: vì đó cũng là một dịp tội gần nguy hiểm hầu chắc sẽ phạm tội nhưng ta không bị bó buộc phải vào dịp đó cho nên phải tránh đi.
Còn nếu là dịp bó buộc thì ta đành phải gặp, tuy nhiên phải khôn khéo làm cho dịp tội gần và bó buộc đó tành ra dịp tội xa. Td một cô gái phải cặp mắt một ông chủ không đứng đắn, đó là một dịp tội gần và bó buộc. Nhưng nếu cô cùng đến với một người bạn khác nữa, hoặc đến gặp ở chỗ có đông người thì cô không còn nguy hiểm nữa, dịp đó đã trở thành dịp tội xa rồi.
Con người chúng ta có lương tri và có ý muốn hướng thượng, không ai cố tình muốn làm tội. Tuy nhiên con người chúng ta cũng rất yếu đuối và dễ bị lôi cuốn cho nên dễ bị sa ngã nếu gặp dịp tội. Bảng phân loại các dịp tội ở trên tuy hơi tỉ mỉ và có tính cách giáo điều, nhưng rất rõ ràng và hữu ích. Chúng ta hãy cố gắng xa lánh các dịp tội gần, vì Chúa đã dạy: "Nếu tay con nên dịp tội cho con..."
3. Giải phẫu.
Người ta đồn thổi rằng: Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên họ tìm cách đánh bẫy khỉ.
Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.
Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam và lôi ra.
Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái cam ra để bàn tay được tự do. Ðã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.
****
Thế giới chúng ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến chúng ta lỗi luật Chúa. "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay nó đi" (Mc.9,43). Kiểu nói "chặt tay, chặt chân, móc mắt" chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng, để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình. Hội thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen, nếu cứ áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ, thì khó mà tìm được một người Kitô hữu lành lặn.
Ðức Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội, các cơm cám dỗ, chớ coi thường chúng.
Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều người dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh mạng của mình. "Từ bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá hơn", đó là lẽ khôn ngoan ở đời. Cuộc sống vĩnh cửu không là điều quý giá đáng cho chúng ta từ bỏ một phần thân thể đã trở nên xấu xa để đổi lấy sao? Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì cũng cần nhiều cuộc cắt bỏ để cứu lấy linh hồn. Chúng ta có thể "cắt bỏ" một thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính... Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn "móc con mắt, chặt cánh tay". Ðau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic Giraud có viết: "Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất màu mở, cũng như việc cắt tỉa cây cối: làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao".
Có những người mơ ước hy sinh cuộc đời, nhưng lại không dám hy sinh những tật xấu của mình. Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ phận hư hỏng. Chúng ta có thể thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền yêu thương. Chúng ta có thể thay bộ óc định kiến hẹp hòi bằng bộ óc thoáng đạt hồn nhiên.
****
Lạy Chúa, sống cho Chúa thật không dễ chút nào: Phải cắt bỏ những gì mình gắn bó, thiết thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng: chỉ khi cắt tỉa những cành lá rườm rà thì cây đời chúng con mới trổ sinh hoa trái tốt tươi. Xin cho chúng con dám ra khỏi chính mình, để được lớn lên trong ân tình của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4. Mảnh suy tư
a/ Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta:
Chúng ta có quyền nhân danh Ðức Giêsu mà làm việc này việc nọ, nhưng đó không phải là độc quyền của chúng ta.
Nếu biết suy nghĩ kỹ, ta sẽ hiểu rằng những tài năng và thành công của những người khác không hề làm cho chúng ta bị nghèo đi, trái lại còn làm giàu thêm cho chúng ta.
Cũng thế, một người khác với chúng ta không hề làm chúng ta nghèo đi nhưng còn làm cho chúng ta giàu thêm.
Thiên Chúa ban nhiều ơn cho nhiều người. Bổn phận của chúng ta là đón tiếp những ơn ban đó ở bất cứ nơi nào mà chúng ta phát hiện.
b/ Ai cho anh em một chén nước lả thì người đó không mất phần thưởng đâu:
Chén nước lả là tượng trưng cho việc tốt nho nhỏ. Chúng ta ít có dịp làm những việc tốt lớn lao, nhưng có rất nhiều dịp làm những việc tốt nho nhỏ.
Một việc làm có khả năng an ủi không nhất thiết phải là một việc lớn, mà chỉ cần là một việc sưởi ấm cõi lòng.
c/ Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn:
Cái làm cho trẻ con dễ thương nhất là tâm hồn rộng mở của chúng. Do tâm hồn rộng mở, trẻ con đón nhận một cách ngây thơ tất cả những gì người ta dạy chúng.
Nhưng cũng do tâm hồn rộng mở mà trẻ con dễ bị tổn thương nhất vì bất cứ điều xấu nào cũng có thể xâm nhập vào đấy.
Tội làm gương xấu cho trẻ con đáng bị buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển vì tội đó biến cái dễ thương nhất thành cái tổn thương nhất.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã dạy: "Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta", và "Ai làm cớ cho tín hữu bé nhỏ sa ngã thì thà buộc cội đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn". Chúng ta hãy sốt sắng cầu xin Chúa:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh biết cố gắng tránh mọi gương xấu / mà nêu gương tốt cho mọi người.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo kẻ khác / dù chưa biết Chúa để tin theo Chúa / vẫn luôn sống lương thiện và không bao giờ chống đối Chúa.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những nạn nhân của các gương xấu, nhất là các trẻ nhỏ / gặp được những bạn bè và những nhà giáo dục biết đem chúng trở về đời sống lương thiện.
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho anh chị em trong xứ đạo chúng ta / biết khoan dung với những người làm gương xấu nhưng không chống đối Chúa / và biết luôn cố gắng để không làm gương xấu cho ai.
Chủ tế: Lạy Chúa, chung quanh chúng con còn nhiều người làm gương xấu và nhiều người là nạn nhân của gương xấu, xin cho chúng con biết rõ những hậu quả ghê tởm của gương xấu, để không bao giờ làm gương xấu cho ai. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.
VI. Trong Thánh lễ
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi óc bè phái, cục bộ..."
VII. Giải tán
Trong tuần này, chúng ta hãy ghi nhớ và sống một câu Tin Mừng này: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
5. Bỏ đi và cho đi
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Một trong những tình bạn đẹp mà Linh mục Cao Vĩnh Phan (1924 - 2011) có được với các Đại đức và Thượng tọa phải kể đến tình bạn giữa Đại đức Thích Thiện Hiền và Thích Huệ Tánh. Đại đức Thích Thiện Hiền trụ trì tại chùa Phú Sơn gần nhà thờ giáo xứ Thánh Mẫu, nơi Lm Cao Vĩnh Phan làm Cha xứ từ 1975 đến 1991. Hai người đã kết nghĩa anh em với nhau; Lm Phan là anh và Đại đức là em, bởi vì ngài lớn tuổi hơn. Hai anh em thường gặp nhau, động viên nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Lúc Đại đức đau ốm, Lm Phan đến thăm nom săn sóc, và ngược lại. Thân nhau đến nỗi nhiều lần Đại Đức đã nhờ Lm Phan cạo đầu cho mình.
Giữ lời đã nói với Đại đức: “Thầy tịch trước tôi không quên, thầy tịch sau tôi nhớ mãi”. Lm Phan thường đến thăm viếng Đại đức Thích Thiện Hiền trong thời gian bệnh nặng và có mặt lúc lâm chung cũng như đã tham dự đám tang. Tiếp theo sau nghi thức tôn giáo nhà Phật, Lm Phan cũng đọc Điếu văn phân ưu và một lời nguyện theo đức tin Công giáo.
Sau lễ an táng của Đại đức nhiều người nói với nhau rằng: “Đám tang của Thầy Hiền là đặc biệt hơn cả, vì có Linh mục và bổn đạo giáo xứ Thánh Mẫu tham dự một cách tích cực và có lời phân ưu nồng nhiệt chân tình chưa từng có.” Bà con họ hàng của Đại đức Thiện Hiền cũng đến giáo xứ Thánh Mẫu để cám ơn Cha xứ. Có mấy người ôm lấy ngài và khóc. Họ nghẹn ngào nói: “Như vậy là Thầy chúng tôi đã viên tịch, Cha không còn có dịp mà đến với chúng tôi nữa, nhưng chúng tôi luôn coi Cha như người thân thay thế Đại đức Thích Thiện Hiền. Xin Cha thương chấp nhận lời khẩn cầu nầy!”
Từ ngày ngài bị bệnh phải nghỉ hưu tại Viện Dưỡng Lão Chí Hòa (cuối năm 1992), nhiều Đại đức, Thượng tọa và đạo hữu Phật giáo vùng Phan Thiết và Mũi Né thường xuyên vào thăm ngài. Có nhiều khi họ đi cả phái đoàn vài ba chục người. Dịp lễ Giáng Sinh năm 1993 có mấy Đại Đức đã đưa các đệ tử và đạo hữu vào thăm cha Phan. Họ nói rằng: “Muốn vào thăm Cha vào dịp lễ Noel vì từ khi Cha đi không còn ai mời đi dự lễ Noel nữa”. Hiểu được nguyện vọng của họ, sau khi trò chuyện thăm hỏi, Lm Phan mời họ vào nhà nguyện viếng hang đá. Sau một lúc quì cầu nguyện, ngài giải thích cho họ về ý nghĩa lễ Giáng Sinh, dựa vào câu Kinh Thánh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Kết thúc buổi gặp gỡ thăm viếng, ngài bộc phát nguyện: “Lạy Chúa, đây là những vị Tăng Ni Phật tử thân thương từ Phan Thiết vào thăm con tại nhà hưu dưỡng nầy. Các vị thật là những “người thiện tâm”, các ngài muốn nghe Chúa nói. Vậy con tha thiết cầu xin Chúa nói cho các ngài hiểu biết về Chúa. Con muốn nói và nói nhiều lắm, nhưng con không đủ sức, và các ngài cũng không đủ thì giờ, vì phải về. Con tin Chúa thiêng liêng quyền phép. Xin Chúa hãy tỏ mình ra cho các vị như xưa Chúa đã tỏ mình ra cho ba Vua và các mục đồng. Con xin dâng tất cả các vị cho Chúa. Xin Chúa chúc lành cho các vị đi về bằng yên. Con xin Chúa ở với các vị luôn mãi và ban ơn cho các vị và gia quyến để chúng con cùng được làm con Chúa như nhau. Con cầu xin như vậy nhân danh Chúa Giêsu là Chúa của chúng con. Amen!” (Lm Phêrô Đan-Minh, Lm GBT Cao Vĩnh Phan Với Định Hướng Truyền Giáo Mới)
Trong Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu hoàn toàn bác bỏ thứ đạo “pháo đài” độc quyền, độc tôn, độc trị, mà rộng cửa đón nhận những người thiện tâm. Điển hình như cố Linh mục GBT Cao Vĩnh Phan thấm nhuần Lời Chúa, đã gần gũi với quý tu sĩ Phật giáo, cùng đồng hành trên đường hy vọng.
Để có thể đến với tha nhân, nhất là đến với anh em ngoài Kitô giáo, Đức Giêsu yêu cầu xả kỷ, bỏ đi chính bản thân, thậm chí chặt tay, chặt chân, móc mắt, bỏ đi những chướng ngại vật, ngăn cản, hay chệch đường đến với Nước Chúa. Rồi Người còn khuyến khích tích cực cho đi, hy sinh, dấn thân phục vụ vì danh Chúa.
Bỏ đi
Dĩ nhiên chẳng có ai ngây ngô hiểu theo nghĩa đen những ngôn từ gay gắt về xả kỷ của Đức Giêsu. Điều quan trọng là Người chẳng ngại biểu lộ một cách cứng rắn, thậm chí quá khích, kịch liệt chống lại tà tâm, tính tham lam và thói bạo lực của con người.
Con mắt vốn là cửa sổ tâm hồn, mà làm dịp tội, chính là con mắt tà tâm, dục vọng, đam mê hưởng lạc, ham muốn xác thịt, sẽ dẫn dắt bản thân lụy vào cạm bẫy nguy hiểm, chìm vào bùn lầy nhầy nhụa, sa đọa, không còn lối thoát. “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt 5, 28) Do đó, cần dứt khoát đoạn tuyệt với tội lỗi, tựa như móc mắt bỏ đi. “Hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục.”
Còn bàn tay tham lam vơ vét chiếm đoạt bao nhiêu cũng chưa đủ. Bàn tay thủ đoạn, chia rẽ, cướp giật, đánh đấm, gian lận, nhám nhúa, tham ô, rút ruột, móc ngoặc, trừ khử, xô đẩy, xua đuổi, khước từ. Đức Giêsu nghiêm khắc cảnh cáo thói tham lam vụ lợi:"Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu." (Lc 12, 15) Vì thế, “thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt.”
Hơn nữa, cái chân cứng rắn, đấu đá, tranh giành, bạo lực, bất nhân, vô liêm sỉ, leo lên đầu lên cổ thống trị thiên hạ, áp bức người lành, ức hiếp người yếu, chà đạp nhân phẩm. Tuy nhiên những người khốn khổ, bị đàn áp đó lại là chính Đức Kitô ẩn mình, nên đừng để Chúa phải lên tiếng cảnh cáo như với Saulô: “Khốn cho ngươi là kẻ dám đem chân đạp mũi nhọn.” (Cv 26, 14) Thế thì, cần can đảm loại bỏ, chặt đứt đi, “thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục.”
Tóm lại, Đức Giêsu khuyên người Kitô hữu hãy buông xả tất cả những gì dính líu, dây mơ rễ má, tham sân si, ngăn chận, cản trở con đường theo Người và đến với anh chị em: “Vậy ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được. (Lc 14, 33)
Cho đi
Loại bỏ được những rào chắn, ngăn cách, bất đồng, chia lìa, hay dửng dưng, xa lạ với tha nhân, mới có thể trao cho nhau cái nhìn dịu dàng, nụ cười tươi tắn, câu chào hỏi thương mến. Trước hết đến với nhau bằng tấm lòng chân tình, thái độ cởi mở, thân thiện. Rồi mới có thể quan tâm đến nhau, cư xử lễ độ, lịch sự và tử tế với nhau, thân ái trao nhau một chút quà mọn, một tấm bánh, hay một ly nước, công khai thể hiện tình người và tình yêu Chúa: “Ai nhân danh Thầy mà cho các con một ly nước vì lẽ các con thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”
Ly nước chẳng đáng giá chi, nhưng tràn đầy tình yêu Đức Kitô, đang ẩn mình trong hình hài tha nhân tầm thường, nghèo khó, bệnh hoạn, cơ nhỡ, côi cút, bị bỏ rơi, đau khổ. Một việc nhỏ, xoàng xĩnh như cho một ly nước còn được khen thưởng hậu hĩnh, huống chi những việc ý nghĩa hơn càng đẹp lòng Chúa biết bao!
Cho đi tương thân tương ái, không đòi hỏi phải làm những việc bác ái, từ thiện hào phóng, quy mô, vĩ đại, mà thường nhật chỉ là những việc trong tầm tay, như chia sẻ, an ủi, khích lệ, giúp đỡ những người gần gũi, khi họ đang có nhu cầu cấp bách và chính đáng, như chăm lo kẻ khốn khó, thất nghiệp, đau yếu, hoạn nạn.
Cho đi tấm gương sáng chứng nhân, chứ đừng cho đi gương mù gương xấu, kẻo làm méo mó, lệch lạc dung nhan Đức Giêsu. Cố gắng cho đi con người đổi mới, nhân ái, tốt lành đã được Đức Giêsu giải thoát khỏi xiềng xích của xác thịt, ma quỷ và thế gian.
Cho đi không chỉ tấm lòng mà còn cả thân xác, sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người, mọi lúc và mọi nơi. “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.” (Rm 14, 7-8) Mà Thiên Chúa luôn hiện hữu trong tha nhân, nên sống hay chết cho Chúa, cũng là sống hay chết cho tha nhân vậy.
Cho đi thì sẽ được lãnh thưởng bội hậu: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy."(Lc 6, 38)
“Chính lúc hiến mình, con tập biết hiến mình. Vì nói hiến mình dễ, thực sự hiến mình khó; giảng khuyên hiến mình dài, tình nguyện hiến mình ngắn; hô hào hiến mình đông, bền đỗ hiến mình hiếm.” (Đường Hy Vọng, số 609)
Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Ôi Thần Linh thánh ái xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí, ơn an bình. (Kinh Hòa Bình)
Lạy Mẹ Maria nhân lành, Mẹ đã bỏ đi tất cả ý riêng, để hoàn toàn “Xin Vâng” theo Thánh Ý Chúa. Mẹ đã dấn thân sống cho Chúa và cho tha nhân. Xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, để luôn vinh dự được Chúa ở cùng. Amen.
6. Bạn & Thù – AM Trần Bình An
Cuộc ngừng bắn diễn ra vào đêm trước Giáng Sinh, 24 tháng 12 năm 1914, khi binh sĩ Đức khởi sự trang trí khu vực xung quanh các chiến hào của họ, trong vùng Ypres thuộc nước Bỉ, để chào đón Giáng Sinh. Họ bắt đầu treo những ngọn nến trên cây, rồi ngồi lại với nhau để hát các ca khúc Giáng Sinh, nhiều nhất là bài thánh ca Đêm Thánh Vô Cùng (Stille Nacht). Khi ấy, các binh sĩ Anh bắt đầu ra khỏi chiến hào ở bên kia chiến tuyến và đáp lời bằng những bài hát Giáng Sinh tiếng Anh.
Tiếp đó là những tiếng hô to "Chúc mừng Giáng Sinh" vang vọng từ hai phía. Rồi là những lời mời gọi để những người lính từ hai bên chiến tuyến, tìm gặp nhau và trao đổi quà tặng Giáng Sinh, rượu whisky, mứt trái cây, xìgà, sôcôla và các thứ tương tự. Đêm ấy hoàn toàn không có tiếng đạn pháo. Lúc đó, các chiến sĩ trận vong được an táng theo nghi thức, được thương tiếc và nghiêm chào theo quân cách, bởi những người lính từ hai bên chiến tuyến. Tại một tang lễ trong Vùng Hoang địa, những người lính từ hai phía cùng nhau đọc đoạn Thánh Vịnh 23. (Wikipedia)
Như thế, ngày Giáng Sinh đã xóa tan làn ranh thù địch, tất cả đôi bên đều trở thành bạn bè thân thiết với nhau, khi tình thương, nhân ái thay thế hận thù và tội ác. Bài trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói rành mạch về Bạn và Thù, nhất là thù trong, nội gián vô cùng hiểm nguy.
Đâu là Bạn?
Các Tông đồ khởi sự đã đơn giản hóa làn ranh rất tế nhị đó. Kẻ xa lạ biết đâu là bằng hữu. Kẻ thân thiết biết đâu thành kẻ thù. Chúa Giêsu đã kịp lý giải rành mạch, chỉ đích danh đâu là bạn và thù.
Hôm nay, trong trích đoạn sách Dân Số và Tin Mừng Thánh Mác Cô, đều nói về lòng khoan dung và tình bằng hữu. Đừng hẹp hòi khi thấy Thần Khí Chúa ban tràn đầy cho nhiều người. Ông Môisê đã phải bất bình khi có người phản đối: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người, để họ đều là ngôn sứ.”(Ds 11, 29)
Lòng khoan dung cũng được Chúa Giêsu tái khẳng định:“Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.” (Mc 9, 38-40).
Chúa Giêsu muốn xác định những ai ủng hộ Người, lấy danh Người mà trừ quỷ, mà làm việc lành, thì đều xứng đáng coi như thân hữu hay bạn bè. Còn kẻ chống báng Người, mới là kẻ thù địch đích thực với Người.
Đâu là Bạn thân?
Hơn nữa, những ai giúp đỡ các môn đệ bé nhỏ của Người, thì còn được trọng thưởng, dù chỉ giúp việc nhỏ mọn, như một ly nước lã giải khát. Nhờ hành động bác ái đó, Chúa coi như họ như bạn thân thiết, vì cư xử tốt lành với Bạn của Người. “Ai cho anh em uống một chén nước, vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”(Mc 9, 41)
Đức bác ái luôn được Chúa hoan nghênh. Người không so đo, lớn nhỏ hay nhiều ít, mà căn cứ vào tấm lòng dành cho việc đó như thế nào. Vì thế Mẹ Têrêsa Calcutta mới dặn dò chúng ta: “Hãy làm những sự bình thường với một tình yêu phi thường”
Đâu là kẻ thù?
Kẻ chống lại Chúa chính là Satan, ma quỷ. Đó cũng là kẻ thù muôn kiếp của chúng ta. Khi sống trong tình nghĩa, kết hợp mật thiết với Chúa, chúng ta trở nên bạn hữu thân thiết với Người. Nhưng khi chúng ta phạm tội do yếu đuối, hay quy hàng, chạy theo ma quỷ, lẽ đương nhiên chúng ta trở nên xa lạ với Chúa. Chính tội lỗi khiến chúng ta xa lìa Chúa, biến chúng ta trở nên đối nghịch với Thiên Chúa, như Adam và Evà ngày xưa phạm tội, bị Chúa xua đuổi ra khỏi Vườn Địa Đàng. Tuy nhiên, Người Cha Nhân Từ vẫn sẵn lòng khoan dung, đón chiên lạc sám hối trở về.
Nhưng Chúa Giêsu gay gắt cảnh báo kẻ sa đọa, cố tình sống theo tội lỗi, không chịu hoán cải, mà chống báng, trở nên thù địch với Người, lại còn nhẫn tâm làm gương mù, gương xấu, hoặc rủ rê, lôi kéo người khác phạm tội.” Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn!”(Mc 9, 42)
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn tỏ ra quyết liệt với thù địch nội tại, ẩn nấp ngay chính trong bản thân mỗi người. Chúa ra lệnh trừ khử tội lỗi, trấn áp ngay lập tức, không khoan nhượng, Không thỏa hiệp, dù có phải hy sinh, như móc mắt, chặt tay hay chặt chân đi, để khỏi sa ngã, hầu được cứu thoát muôn đời.
“Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay được vào cõi sống còn hơn đủ cả hai tay mà sa hỏa ngục, phải vào lửa không thể tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là đủ cả hai chân mà bị ném vào hỏa ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là đủ hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục; nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt.”(Mc 9, 43-48) Lời tuyên chiến của Chúa với tội lỗi vô cùng dứt khoát và đanh thép!
Lạy Chúa, xin mở tai, mở mắt, mở lòng trí con ra, để con nhận biết phân biệt đâu là bạn và thù, hòng luôn củng cố, xây dựng và trung thành với tình bạn của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ gìn giữ con lánh xa các chước cám dỗ, kẻo con đánh mất tình nghĩa với Chúa, hầu con được cứu rỗi. Amen.
7. Diệt trừ gương xấu – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Gương xấu lây lan nhanh như đại dịch, bùng phát mạnh như cháy rừng. Nguy cơ lây nhiễm cao đến nỗi người ta thường nói: gần mực ắt phải đen cũng như gần đèn tất phải sáng. Biết bao nhiêu thói xấu của thế hệ trước ảnh hưởng đến những thế hệ tiếp theo đang làm cho xã hội chúng ta điêu đứng.
Chúa Giêsu ví tác động của gương xấu ảnh hưởng lên những người chung quanh y như men trong bột. Chỉ cần một nhúm men nhỏ cũng đủ sức làm dậy lên cả một thúng bột lớn. Một ít men rượu làm cho cả nồi cơm nên rượu; chút ít men dấm làm cho cả hũ nước nên dấm chua; men thối thì làm cho lương thực nên thối; men độc thì làm cho đồ ăn nên độc...
Chúa Giêsu xem thái độ giả dối của những người biệt phái cũng như tâm địa độc ác của vua Hêrôđê là những thứ men độc hại có thể khiến cho những người chung quanh bị tiêm nhiễm y như men ảnh hưởng lên bột nên Người cảnh báo các môn đệ phải đề phòng: "Anh em phải coi chừng men biệt phái và men Hêrôđê" (Mc 8, 15).
Chính vì gương xấu của người nầy gây ảnh hưởng tai hại lên nhiều người khác nên Chúa Giêsu kịch liệt bài trừ. Người muốn nhổ bỏ thói xấu tận gốc rễ, muốn tẩy trừ gương xấu bằng mọi giá.
Trước hết, Người răn đe những người gây ra gương xấu bằng những lời lẽ thật nghiêm khắc: "Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn." (Mc 9, 42)
Và Người muốn diệt trừ các duyên cớ gây ra tội lỗi cách rất quyết liệt: "Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt." (Mc 9, 43-48)
Khi phán dạy như thế, Chúa Giêsu không có ý nói là chúng ta phải huỷ hoại thân mình để loại trừ thói xấu, nhưng Người có ý nói phải diệt trừ thói xấu cách quyết liệt, bằng bất cứ giá nào.
* * *
Tuy nhiên, trong thực tế, việc nhổ bỏ tội lỗi và thói xấu là điều thật khó khăn, vì việc xấu ta vừa dứt bỏ hôm nay, ngày mai lại quay về.
Tẩy trừ thói xấu cũng như xua đuổi một con chó ghẻ trung thành. Khi con chó trong nhà bị ghẻ lở trông thật ghê tởm và hôi hám, người nhà quyết xua đuổi nó đi, nhưng lát sau nó cũng quay về. Dù người nhà tiếp tục đánh đập và xua đuổi nó đi xa... nó cũng lại trở về!
Tẩy trừ thói xấu cũng y như nhổ cỏ cú (một thứ cỏ có nhiều rễ củ ăn sâu xuống lòng đất, rất khó diệt) trên mảnh đất tốt. Hôm nay nhổ sạch cỏ rồi, mai gặp một trận mưa to, cỏ lại mọc lên phơi phới.
Như vậy, không lẽ con người đành bó tay trước thói hư tật xấu?
Bệnh nào cũng có thuốc chữa. Sâu nào cũng có thuốc trừ.
Đối với những đám đất nhiều cỏ cú diệt hoài không được, người nông dân kinh nghiệm có thể diệt hết cỏ bằng cách biến nó thành thửa ruộng lúa nước. Người ta bơm nước vào đám đất có nhiều cỏ, ngâm nước một thời gian cho cỏ thối đi, rồi cày và trục chôn cỏ mục xuống bùn. Sau đó, người ta sạ lúa xuống. Chờ lúa mọc lên chừng mươi phân, người nông dân lại cho nước vào phủ hết mặt ruộng, rồi bung phân cho lúa bốc lên nhanh; lá lúa vươn ra um tùm che phủ mặt ruộng khiến cỏ dại không thể nào mọc lên được.
Có người diệt cỏ bằng cách trồng mía. Mía con vừa mới lên liền được bón thúc phân thật sớm khiến bụi mía phát triển sum suê. Thế là cỏ dại dưới đất bị chết ngộp vì thiếu ánh sáng.
Thế là nhà nông thắng lớn vì không cần tốn công làm cỏ mà lại thu hoạch được lúa hoặc mía dồi dào.
Vậy thì một trong những phương pháp kiến hiệu để loại trừ gương xấu, thói hư là áp dụng phương thức lấy cái tốt đẩy lùi cái xấu: quyết tâm tạo cho mình những việc làm tốt để đẩy lui những việc làm xấu; tập thói quen tốt để đẩy lùi thói quen xấu; lấy sách báo lành mạnh thay thế cho sách báo đồi truỵ; lấy phim giáo dục đẩy lùi phim vô luân; chọn bạn tốt lành thay cho bạn bè xấu tính...
Hy vọng nhờ đó, cuộc đời chúng ta ngày càng được cải thiện; tâm hồn chúng ta ngày thêm trong sáng; bản thân chúng ta ngày càng trở nên người có phẩm chất cao.
8. Khổ chế với bản thân – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thành công nào cũng đòi phải trả giá bằng hy sinh, bằng khổ luyện. Vì qua gian khổ mới tới vinh quang. Đôi khi muốn đạt được mục đích người ta phải từ bỏ rất nhiều, kể cả niềm vui và đam mê.
Trong kỳ Sea Games 2015 người ta ca ngợi một siêu kình ngư Nguyễn Thị Ánh Viên. Cô đã đạt được 8 HCV cá nhân. Với kỳ tích này cô đã trở thành thần tượng của nhiều người. Vinh quang này cô đã phải đánh đổi và hy sinh hầu hết những niềm vui bình dị đời thường của thời tuổi trẻ.
Không sử dụng internet, không điện thoại, không face book, thậm chí xe máy cũng chưa biết đi và hơn cả là những chuyến xa nhà dài dằng dặc khiến cô nhiều lần nhớ nhà rơi nước mắt. Một ngày Ánh Viên phải bơi từ 20-25 cây số với nhiều tốc độ và “biến thiên” khác nhau. Khối lượng bài tập được phân chia trong hai buổi/ngày, thời gian còn lại, Ánh Viên tiếp tục rèn thể lực với việc tập tạ.
Quả đúng như người ta nói: muốn có vinh quang cần phải hy sinh nhiều thứ. Một em bé muốn thành bác sĩ, kỹ sư phải hy sinh thời giờ vui chơi để học tập. Một bác sĩ muốn giỏi phải hy sinh thời gian để trau dồi kiến thức. Một nghệ sỹ muốn thành danh phải dày công khổ luyện. Một linh mục muốn nên giống Chúa thì phải từ bỏ rất nhiều mới mong trở thành mục tử như lòng Chúa mong ước.
Và hôm nay Chúa Giê-su bảo muốn vào Nước Trời thì cũng phải nghiêm khắc với chính mình qua việc rèn luyện bản thân. Rèn luyện để sống khổ chế hy sinh. Rèn luyện để sống gương mẫu trước tha nhân. Rèn luyện đến mực tuyệt đối nghiêm khắc với bản thân. Có khi còn phải hy sinh cả một phần thân thể như: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi ; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi ; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi ; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”.
Xem ra con đường vào nước trời đòi hy sinh rất nhiều. Hy sinh cái tôi của mình để không ganh ghét, tị hiềm tha nhân. Hy sinh của cải của mình để sống quảng đại với tha nhân. Hy sinh cả những phần thân thể mình để được vào Nước Trời.
Nhưng xem ra có mấy ai lại hy sinh cái tôi của mình, có mấy ai lại không lo cho mình mà chỉ lo cho tha nhân, và nhất là có mấy ai chịu mất đi một phần thân thể của mình, dẫu biết rằng vì chiều chuộng thân xác mà hư mất đời đời. Con người luôn đề cao cái tôi, luôn lo lắng cho bản thân, luôn chiều chuộng bản thân. Đó là lý do mà cuộc đời vẫn còn đó những ganh ghét, tị hiềm; vẫn ích kỷ thiếu lòng quảng đại với tha nhân; vẫn chiều theo bản năng, chọn dễ dãi cho tính xác thịt...
Ước gì đời người tín hữu luôn biết khổ chế bản thân. Khổ chế tính bè phái để sống bao dung. Khổ chế tính xác thịt để sống gương mẫu. Ước gì mỗi người chúng ta biết rèn luyện bản thân mình nên giống Chúa Kitô để hoàn thiện mình mỗi ngày nên tốt hơn.
9. Hãy yêu như Giêsu – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu truyện ngụ ngôn của Ấn độ kể rằng: Một hôm thần Krisna muốn thử lòng các vua trên trần thế.
Trước tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi tiếng tàn ác, đến: "Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có lòng tốt". Duriana đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: "Lạy Ngài, con không thể gặp được một người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê hèn".
Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng đại, tên là Damanatra và ra lệnh ngược lại: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một người thực sự xấu xa". Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: "Lạy Ngài, con xin chịu tội, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham, trộm cắp... nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp. Cho dù có vấp ngã, mọi người đều có lòng tốt".
Xem ra nhận xét về một con người tùy thuộc vào tình cảm của người nhận xét nhiều hơn là về bản thân của người được nhận xét. Không ai hoàn toàn xấu, và cũng không ai hoàn toàn tốt. Vì "nhân vô thập toàn", và mọi sự trong trời đất đều tương đối. Nhưng đáng tiếc con người lại không nhận ra. Nhiều người vẫn cho rằng mình không sai lầm. Nhiều người vẫn tưởng rằng mình không có khuyết điểm. Con người cho mình là trung tâm điểm nên dễ dàng loại trừ, kết án, tẩy chay những ai khác với mình, hoặc không đồng quan điểm với mình.
Đó còn là lý do khiến người ta thường hay phân loại để chơi. Những người cùng sở thích, cùng quan điểm, cùng ý thức hệ thì liên đới với nhau, ngược lại thi xa lánh, đôi khi lại hiềm thù và đối nghịch với nhau. Khi yêu nhau người ta dễ cảm thông, tha thứ, nâng đỡ nhau, vì "Yêu nhau củ ấu cũng tròn - Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa". Khi ghét nhau thì "Cau sáu bổ ra làm mười". Có khi còn "ghét cả tông ti họ hàng".
Là người Kitô hữu Chúa bảo chúng ta đừng bao giờ có kẻ thù. Hãy dùng tình yêu mà xóa bỏ hận thù. Hãy yêu kẻ thù của mình vì chính Chúa đã chọn chết để xin ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi lầm lạc. Chúa còn bảo chúng ta nếu không yêu tha nhân như chính mình thì chúng ta không xứng đáng là môn đệ của Chúa. Chúa còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa để sống cho thanh sạch, cho công bằng và yêu mến sự thật. Chúa không chấp nhận là người Kitô hữu mà gây nên gương mù gương xấu cho người khác vì tật xấu, vì đam mê thấp hèn, vì tội lỗi của mình. Nhất là vì sống thiếu tình yêu thương với đồng loại trong lời nói và hành động.
Đó chính là bài học mà Chúa đã dạy chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài. Chính Chúa đã sống một cuộc đời yêu thương. Yêu thương đến nỗi cho đi cả tính mạng của mình. Tình yêu thương đó Chúa trải rộng trên người lành kẻ dữ. Chúa không kết án tội của Lê-vi, tội của người phụ nữ ngoại tình. Chúa càng không kết án tội của những người làm điều gian ác mà chúng chẳng hay biết. "Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm". Chúa đã nêu gương yêu thương đến quên cả chính mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà yêu tha nhân. Hãy vì Chúa mà đối xử tốt với nhau. Hãy vì Chúa mà quên đi cái tôi để sống vị tha và nhân ái với nhau.
Nhưng đáng tiếc con người lại thiếu tình thương nhưng lại đầy lòng ghen ghét. Thiếu lòng bao dung nhưng đầy hận thù. Thiếu sự cảm thông nhưng chất chứa đầy những toan tính hẹp hỏi, ích kỷ và thờ ơ. Chính lòng ghen ghét, lòng thù hận, và thiếu cảm thông đã đẩy con người vào bể khổ trần gian với biết bao nước mắt của oan trái, đau thương.
Có ai đó nói rằng: "Nếu cứ áp dụng luật "mắt đền mắt" thì mọi người đều trở nên mù lòa". Cuộc đời sẽ là thảm họa nếu thiếu lòng bao dung và yêu thương. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quên đi cái tôi để đón nhận mọi người trong yêu thương tha thứ. Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương, để đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay. Amen.
10. Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta
(Suy niệm của Phêrô Võ Tá Đương, OP)
Đọc lại lịch sư, ta thấy một thực trạng chung của các dân tộc là thường có tranh dành nhau trong việc làm chính trị. Người ta sẵn sàng làm tất cả mọi sự, kể cả việc thanh toán nhau để chiếm được chức quyền, địa vị và danh vọng. Tham vọng chức quyền là một trong những dục vọng lớn của con người. Nó được cắm rễ sâu vào trong bản tính tự nhiên của con người. Vì thế bất cứ ai cũng có thể bị chức quyền và danh vọng cám dỗ. Trước khi được Đức Ki tô biến đổi, các Tông đồ của Chúa cũng không ngoại lệ trong số đó. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy được phần nào điều đó. Cụ thể là qua sự việc tông đồ Gioan báo với Chúa Giêsu về việc ông đã ngăn cấm một người xa lạ lấy danh Thầy mình mà trừ quỷ. Tại sao vậy? Tin mừng cho thấy rõ lý do ấy, rất đơn giản đó là: “Vì người ấy không theo nhóm chúng ta”.[1]
Chính óc độc quyền phe nhóm và lòng ganh tị đã thúc đẩy tông đồ Gioan hành động như thế. Ông tưởng rằng, mình đã làm được một việc tốt, việc đúng và hữu ích cho nhóm mình để bảo vệ danh tánh thầy mình. Ông hy vọng là Thầy mình sẽ ban lời khen tặng. Thế nhưng không, Chúa Giêsu không ban tặng lời khen ngợi cho Gioan nhưng qua đó, Người đã dạy cho Gioan và các tông đồ một bài học và đưa ra một nguyên tắc để phân biệt: “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.”[2]
Thái độ và hành động của Gioan trong bài Tin Mừng hôm nay có lẽ cũng là thái độ của các môn đệ và cả chúng ta nữa. Nó phản ánh một thái độ khép kín, không muốn cho người khác được hưởng ân huệ Thiên Chúa nếu người đó không chịu theo các ông, không thuộc về nhóm các ông. Nói cách khác, các ông tự coi mình là những người thừa kế duy nhất của Chúa Giêsu. Ai muốn hưởng ân huệ của Thiên Chúa thì phải theo các ông hay nhập vào nhóm các ông. Chính vì thế khi thấy một người xa lạ không thuộc nhóm các ông nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ thì các ông đã ngăn cản họ. Đó là một quan niệm sai lầm và ích kỷ. Trước quan niệm sai lầm đo, Chúa Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh Thầy mà làm phép lạ rồi sau đó lại có thể nói xấu về Thầy.”[3] Như vậy, việc trừ quỷ nhân danh Chúa, dù thế nào đi nữa cũng là việc tôn vinh Chúa, vì khi giải thoát cho một người bị quỷ ám là làm một việc tốt, một việc nên làm cho nên không được ngăn cản mà còn phải ủng hộ nữa là khác.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng đã để cho óc độc quyền và lòng ganh tị chi phối như thế, nên đã hạn chế lòng nhiệt thành của người khác, áp đặt ý riêng của mình lên người khác, gây chia rẽ và đánh mất bình an trong gia đình, trong cộng đoàn. Tin mừng hôm nay là lời cảnh giác của Chúa Giêsu đối với tông đồ Gioan, cũng là lời cảnh giác cho mỗi người chúng ta, nhắc nhở cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa kêu gọi và ban ơn cho những ai có lòng thiện chí, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền đó, nhưng ơn Chúa thì vô biên, không hạn chế, không dành riêng cho người nào, nhóm nào. Bất cứ ai tin tưởng cầu xin hoặc nhân danh Chúa mà làm việc tốt đều được Chúa nhận lời. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện trong Giáo hội và trong lịch sử nhân loại, không ai có thể sống ngoài quỹ đạo của Ngài. Người ta chỉ có thể chọn lựa hoặc là theo Ngài hoặc là chống lại Ngài. Nhiều người không biết Chúa nhưng họ vẫn theo tiếng lương tâm mà ăn ở ngay lành và làm việc thiện, những người ấy cũng thuộc về Chúa. Trái lại có biết bao người mang danh Kitô hữu, kêu tên Chúa nhưng lại không theo đường lối của Chúa, thậm chí còn dửng dưng trước lời mời gọi của Chúa, vô tâm trước người nghèo khổ, lạnh nhạt với anh em, hờ hững với cuộc sống…thì quả thực những người đó cũng đang chống lại chính Chúa.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm mình, xem chúng ta đang ủng hộ hay chống đối Chúa? Danh hiệu Kitô hữu của chúng ta có là một thực tại sống động hay chỉ là một tiếng kêu rỗng tuếch? Đức tin của chúng ta có đi đôi với cuộc sống của chúng ta hay không? Ung hộ Chúa là sống kết hiệp mật thiết với Ngài, thực thi Lời Ngài dạy, sống bác ái yêu thương và giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Để thực thi lời Chúa, chúng ta phải có một thái độ dứt khoát với tội lỗi, với những đam mê dục vọng... chấp nhận những hy sinh khổ chế để lướt thắng những cảm bẩy của thế gian. Vì chính Chúa Giêsu đã nói: “Nếu tay chân anh làm dịp cho anh thì hãy chặt nó đi, nếu mắt anh làm nên dịp tội thì hãy móc nó đi”.[4] Nghĩa là chúng ta phải dứt khoát ngay mọi dịp tội, không chần chừ, không khất lần vì những điều đó là cớ làm cho ta vấp phạm, đánh mất sự sống đời đời, mất ơn cứu độ Thiên Chúa ban mà bị đọa đày trong chốn khốn cùng “nơi giòi mọi không hề chết và lửa không hề tắt”.[5]
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con biết rộng mở cõi lòng mình ra để đón nhận Chúa và mọi ân huệ của Ngài, để rồi chúng con cũng biết sẵn sàng mở rộng con tim của mình ra để tiếp đón những người khác, sẵn sàng chia sẻ với những người xung quanh chúng con.
Lạy Chúa Giê su Thánh Thể, xin giúp chúng con dẹp bỏ tính ích kỷ, phe nhóm, sự độc quyền, độc đoán và độc tài để chúng con biết đón nhận nhau, chân thành yêu thương nhau, cộng tác với nhau để cùng nhau xây dựng Nước Chúa, cho danh Chúa được rạng ngời trên khắp hoàn cầu, và để tất cả mọi người được hưởng ơn cứu độ Chúa ban. Amen.
--------------------------------------------------
[1] Mc 9, 38b
[2] Mc 9, 40
[3] Mc 9, 39
[4] Xc Mc 9, 43-47
[5] Mc 9, 48
11. Gương xấu và dịp tội
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta một điều quý giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.
Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa sẽ ghi công và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cho một người khác, dù là trẻ nhỏ hay người hèm kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm gương mù gương xấu lôi kéo người khác phạm tội, xa Ngài thì không bao giờ bỏ qua đâu.
Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc ấy, Ngài bảo rằng: "Khốn cho kẻ làm gương mù gương xấu". Gương mù gương xấu là gì? Là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho kẻ khác phạm tội nữa.
Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vô-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra cửa gọi theo: "Này ông, ông còn quên cái gì đây này". Người đó vội leo lên toa, nhìn quanh và hỏi: "Quên cái gì đâu?". Cha Vô-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: "Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa". Người ấy xấu hổ đi xuống ngay. Đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Tai hại và nguy hiểm như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ và quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và những tội chính họ phạm nữa.
Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người khác vấp phạm, tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của con người đều quý giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y khoa.
Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính là sự sống đời đời, thì càng đáng đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho mình phạm tội, đe dọa mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay, chặt chân hay móc mắt, không có nghĩa là chặt tay, chặt chân hay móc mắt thật, nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có thể hiểu là cha mẹ, người trên. Tay có thể hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ ngang hàng. Nếu cha mẹ hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào đàng tội lỗi, thì bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù có bị mất lòng. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng vậy, nếu chúng ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với người ấy, chúng ta cũng mắc thêm tội...thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải cắt đứt đi mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong năm tháng còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.
Bài Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường thần linh ở khu vực mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho anh em vấp phạm, chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta có: tiền tài, của cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp...đều chỉ là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn cớ cho tội lỗi, gây nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì nước trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và thực hành bài học hôm nay.
12. Gương mù gương xấu
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa Giê-su được thánh Mác-cô ráp lại với nhau: Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị, ngay cả với người ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của mỗi người môn đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ cho người khác vấp ngã, dù là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho mình vấp ngã, vì giá trị tuyệt đối của nước trời. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai điều sau thôi, tức là vấn đề gương mù gương xấu.
Chúng ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong cõi lòng, trong tư tưởng, trong lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào thì hành động ắt sẽ xảy ra như vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng tốt đến hành động tốt có vẻ hơi xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu thì rất gần. Những hành động xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo bao nhiêu thứ tội khác và kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: “mù dắt mù cả hai ngã xuống hố”. Một ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn đèn khác cần được thắp sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một ngọn đèn tắt đi là không những tối cho mình mà cho nhiều người khác dễ vấp ngã.
Gương mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gướng xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Tai hại như vậy nên Chúa Giê-su gắt gao lên án hết mọi kẻ làm gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt gao vì họ là những kẻ giết người vô tội, tiêu hủy đức tin, làm tăng thêm số người tội lỗi và khô khan, nói chung là làm hại các linh hồn. Kinh Thánh cho biết bà Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu cho dân, số người bắt chước đời sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở nên gấp muời lần số người các ngôn sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc vất vả. Tai hại và nguy hiểm như vậy nên Chúa Giê-su nói: họ đáng buộc thớt đá cối xay vào cổ và quăng xuống biển, vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người ta phạm và những tội chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết thêm một chút về câu nói trên đây của Chúa Giê-su. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt cối xay bột do các bà làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà ngũ cốc. Ở Pa-lét-tin có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc thớt cối đá ném xuống biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rô-ma mang vào Do Thái, và rất kinh sợ vì chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa Giê-su dùng hình ảnh này để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây gương mù dịp tội thì đáng lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần gian mà là trong hỏa ngục của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã là tội rồi, lại còn lôi cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn là tội giết người, vì giết người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm mất sự sống vĩnh cửu. Và chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều người thấy mới là gương mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.
Vì thế, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải hết sức tránh dịp tội, Chúa bảo phải “móc mắt, chặt tay, chặt chân”, không phải là móc mắt, chặt tay, chặt chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay, mất chân với việc cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa chọn một trong hai điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu tạm thời trên đời đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý giá tạm bợ kia để rồi lãnh án phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là Chúa muốn chúng ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu hình ảnh nào làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi, cũng như không thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy ra. Cũng tương tự như thế cho những ai ở trong dịp tội, đừng có liều mình. Các thánh nhân đã kinh nghiệm dạy: “thà phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “đào vi thượng sách”. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao đây? Cuộc đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê, nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần gian cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm luân mà giữ mình cẩn thận.
Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.
13. Chặt tay.
Ngày xưa có một đoàn thám hiểm từ Âu châu đi tìm đất mới. Nhà lãnh đạo của họ là một người thích phiêu lưu với số mệnh, và ông đã tuyên bố: Ai đụng tới đất đầu tiên sẽ được làm chủ toàn thể lãnh thổ ấy. Một người trong nhóm tên là O’Neil quyết tâm giành được đất mới. Ông gắng sức chèo, nhưng rồi một chiếc thuyền khác đã vượt qua được ông mà đất liền thì đã ở ngay trước mặt. Chúng ta có biết ông đã hành động như thế nào hay không? Con người sắt đá này đã buông mái chèo, rồi nhanh như một tia chớp, ông cầm lấy chiếc búa, chặt đứt bàn tay trái của mình rồi liệng nó lên bờ. Và như thế ông là người đầu tiên đụng vào đất mới. Đất mới là của ông.
Kể lại câu chuyện này, tôi hy vọng chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được lời nói của Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Nếu tay con làm cớ cho con phạm tội, thì hãy chặt nó đi. Thà con cụt một tay mà được vào Nước Trời còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục. Đâu là ý hướng Chúa Giêsu muốn nhắm tới? Tôi nghĩ rằng những người muốn theo Chúa phải sẵn sàng hy sinh cả những cái gần gũi và thân yêu nhất, khi chúng trở thành dịp tội và làm cho chúng ta vấp ngã. Chúa Giêsu không nói chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân hay móc mắt vì đây chỉ là cách nói nhấn mạnh của Ngài hầu gây một ấn tượng khó quên đối với người nghe: Nước Trời, miền đất hứa chủa chúng ta, quê hương vĩnh cửu của chúng ta, muốn đạt được thì phải hy sinh.
Đúng thế, để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải sẵn sàng làm một số việc vừa quyết liệt lại vừa đau đớn không kém gì hành động chặt tay và móc mắt. Đối với một số người thì từ bỏ một vài mối lợi vật chất cũng đau đớn như là cắt đứt một bàn tay. Nơi khác, Chúa Giêsu lại nói với chúng ta: Nếu chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ không nhà được trú trọ thì chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Hy sinh để cứu giúp họ, hy sinh để nâng đỡ những hoạt động truyền giáo của Hội Thánh, để làm đẹp lòng Chúa và chiếm lấy Nước Trời có thể cũng đớn đau như cưa đứt một ống chân. Với một người nghiện rượu thì bỏ đi một xị hay chỉ một ly mà thôi, ắm lúc cũng thật là khổ sở, nhưng vì vui lòng Chúa, anh ta phải bỏ. Chúng ta thường thích nằm ngủ nướng hơn là đi lễ sáng Chúa nhật. Cố gắng để vượt thắng tính lười biếng có thể gây phiền phức và khó chịu ở một mức độ nào đó, nhưng lại là phương cách để chiếm lấy Nước Trời. Ngồi theo dõi truyền hình thì dễ dàng hơn là cầu nguyện hay đọc Kinh Thánh. Thưa chuyện với Chúa là một ân huệ lớn lao, là một niềm vui tuyệt vời, nhưng nó là đòi hỏi chúng ta phải cố gắng cắt bỏ một khoảnh khắc giải trí hay nói chuyện tào lao với nhau.
Chúa Giêsu không phải chỉ chặt tay móc mắt, trái lại Ngài còn hiến dâng trọn vẹn mạng sống và đã đổ ra cho đến giọt múa cuối cùng để cứu chuộc chúng ta. Vì thế chúng ta hãy xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta biết từ bỏ, hầu nhờ sự từ bỏ này chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời, miền đất hứa của chúng ta. Hay nói các khác, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta có thể nói lên như Tổng lãnh Thiên Thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
14. "Đừng ngăn cản người ta" (Mc 9,39)
Môn đệ của Chúa Giêsu lấy làm khó chịu khi có người nhân danh thầy mình mà trừ quỷ, cụ thể là Gioan, môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến một cách đặt biệt nhưng Chúa Giêsu giải thích cho môn đệ của mình: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta". Có hai cái nhìn về một sự việc: cởi mở và đố kỵ, cái nhìn của con người và cái nhìn của Chúa.
Phản ứng của Gioan tuy chưa đến mức độ gay gắt nhưng cũng cho thấy ẩn tàng thái độ tranh giành hơn thua và loại trừ người khác. Những ai không cùng phe cùng nhóm với mình thì khó lòng chấp nhận hành động của họ cho dù họ làm đúng, làm tốt. Ông ỉ lại sự ưu ái của Chúa và khư khư giữ chân lý dành cho mình. Con người thường hay đố kỵ, ganh tỵ với thành công, ưu điểm của người khác, sợ ảnh hưởng của mình bị chi phối. Lòng đố kỵ và cái nhìn nhỏ hẹp làm cho đời sống con người không thể phát triển, nhất là đời sống đức tin không thể trưởng thành và những người xung quanh không thể nhận ra hình ảnh của Chúa. Co cụm trong suy nghĩ và hành động chỉ thêm cho mình sự cằn cõi và ù lì.
Ngược lại, Chúa Giêsu nhìn sự việc rất cởi mở và thanh thoát, người khác nhân danh mình để làm điều tốt đó là một thành công và uy tín được xác định, nhưng Chúa Giêsu không quan tâm đến điều đó. Ngài mời gọi sự hoà hợp và đón nhận nhau khi làm việc tốt và nhất là loại trừ cái xấu, đó là "trừ quỷ", cùng nhau xây dựng, bảo vệ cái tốt. Đặc biệt hơn trong lòng mỗi người phải giữ cho mình một thứ "muối" thật mặn để ướp cuộc sống thêm mặn mà, nồng ấm tình người hơn và "sống hoà thuận" với nhau. Khi con người đón nhận ưu điểm, ngay cả giới của nhau và nhìn cuộc sống với tấm lòng rộng mở thì cuộc sống trở nên tốt đẹp.
Sống cởi mở, đón nhận nhau cùng nhau lên tiếng bảo vệ sự thật, lên án bất công và cái xấu là điều cần phải làm cũng như không thể vì lòng đố kỵ mà cản trở người khác đang xây dựng một môi trường sống tốt đẹp. Với Chúa Giêsu mỗi người cùng nhau mang hạnh phúc, bình an và chan chứa tình huynh đệ cho cuộc sống ngày hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho con có tấm lòng quảng đại như Chúa để thật lòng đón nhận ưu khuyết điểm của người khác, sống hoà thuận và yêu thương để cùng nhau xây dựng một cuộc sống tốt đẹp.
15. Sống bác ái và làm gương tốt
Minh Họa Lời Chúa
1. Chấp nhận hy sinh
Sau khi tốt nghiệp đại học, Thomas More dấn thân vào con đường chính trị. Chàng thăng tiến chức rất nhanh. Năm 1529, chàng được vua nước Anh là Henry VIII phong lên chức Đại Pháp quan. Nhưng thảm kịch lại xảy đến cho Thomas More. Vua Henry VIII ly dị hoàng hậu và tái hôn bất hợp pháp. Để chống lại những kẻ phản đối cuộc tái hôn này, vua bắt buộc các quan trong triều đình ký tên chấp nhận cuộc tái hôn là hợp pháp. Ai bất tuân sẽ bị tống ngục vì tội phản loạn. Vì sợ mất chức tước, các quan đều ký tên, chỉ trừ ông Thomas More. Ông cương quyết chống lại gương xấu của nhà vua. Bạn ông là Norfolk khuyên, “Cuộc tái hôn này có hợp pháp hay không thây kệ nó, bạn cứ ký tên vào, bạn thấy các quan đều ký tên cả rồi.”
Thomas More vẫn từ chối không chịu ký tên, vì ông không thể làm điều lỗi luật Chúa, nhất là nêu gương mù gương xấu cho dân chúng. Thế là ông đã bị tống ngục và bị hành hình năm 1535.
2. Cạm bẫy
Người ta đồn ăn thịt nhất là óc của khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp, nên nhiều người tìm cách đánh bẫy khỉ. Họ lấy trái dừa, bổ ra làm đôi, bỏ vào đó trái cam thơm ngon, khoét một lỗ nhỏ vừa nắm tay khỉ, rồi cột trái dừa lại, đem treo trên cây. Nghe mùi thơm của cam, khỉ tìm đến, thọt tay vào trái dừa, nắm lấy trái cam lôi ra. Nhưng nó không thể rút tay ra được, vì tay nó nắm trái cam quá lớn so với cái lỗ của trái dừa. Biết mình bị mắc bẫy, nhưng nó cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la. Thế là người ta bắt được con khỉ khờ dại đó.
3. Cột cối đá lớn vào cổ nó
Ông Henry nổi tiếng về cách kết thúc câu chuyện gây ngạc nhiên của ông. Có một câu chuyện liên hệ đến một đứa trẻ thiếu thốn về mặt tình cảm. Nó luôn hỏi cha nó có thể ngồi vào lòng ông được không? Nhưng người cha luôn gạt đi và bảo nó ra ngoài chơi.
Điều không thể tránh khỏi đã xảy ra, cô bé lớn lên và chấp nhận tình yêu thương từ bất cứ ai. Cô trở thành một cô gái điếm. Khi cô chết, thánh Phêrô thưa với Chúa Giêsu, “Hôm nay có một người tội lỗi xấu xa đến.”
Và đây là kết luận ngạc hiên khi Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô, “Lúc cô ấy đến, hãy cho cô vào thiên đàng. Còn khi cha của cô đến, hãy bắt ông chịu trách nhiệm về cuộc đời của cô.” Tôi có cảnh giác để không làm điều gì khiến cho người khác, đặc biệt là trẻ nhỏ, mất niềm tin vào Chúa Giêsu không?
4. Gương tốt khơi dậy gương tốt
Một thanh niên bị án tử hình vì tội sát nhân. Trước khi thi hành án, anh xin nhà vua hoãn lại cho anh hai ngày và cho anh về nhà sắp đặt mọi việc. Nhà vua sợ anh trốn luôn nên nói với dân chúng có mặt ở đó, “Trẩm sẽ cho người thanh niên này về nhà, nếu có ai trong các ngươi dám bảo lãnh, và nếu người thanh niên này không trở lại thì kẻ đó phải chết thay.”
Nhà vua nghĩ là không ai dám bảo lãnh như thế, nhưng có người dám đứng ra bảo lãnh. Mọi người đều cho rằng người này phải chết thay cho người thanh niên đó, vì chắc chắn hắn sẽ trốn luôn.
Nhưng đúng hai ngày, người thanh niên đó đến phủ phục trước mặt vua, “Tâu bệ hạ, tôi đã làm xong mọi việc, hôm nay tôi xin đến để chịu án tử.”
“Thế là ngươi không trốn luôn à?”
“Thưa tôi không muốn thất tín, để cho không ai nói được sự tín trung đã bến mất khỏi thế giới con người.”
Quay sang người bảo lãnh, nhà vua hỏi, “Còn ngươi, sao ngươi dám bảo lãnh cho người xa lạ này?”
“Tâu bệ hạ, vì tôi muốn chứng tỏ lòng nhân hậu và can đảm hy sinh cho kẻ khác vẫn còn trong xã hội loài người.” Và từ trong đám đông, người con của kẻ bị chàng thanh niên giết chết tiến ra phủ phục trước măt vua và nói: “Tâu bệ hạ, giờ đây tôi xin bệ hạ tha cho chàng thanh niên bị án tử hình này. Tôi và gia đình đã tha cho anh ta rồi, vì tôi muốn chứng minh trong xã hội con người còn có kẻ biết tha thứ cho nhau.”
5. Tinh thần đoàn kết xây dựng
Có sáu người đi lạc giữa đêm giá lạnh miền Bắc cực. Họ xúm xích nhau bên đống lửa để đỡ giá lạnh như cắt da xé thịt. Nhưng điều lạ là đống lửa sắp tàn, và mỗi người đang cầm một thanh củi trên tay, mà không ai bỏ vào lửa cho nó tiếp tục cháy.
Người thứ nhất là một quả phụ. Bà thấy người ngồi bên cạnh là một thanh niên da đen. Bà tự nhủ, “Tại sao mình phải hy sinh thanh củi này để sưởi ấm ngoại kiều?”
Người thứ hai nhìn thấy người gần bên là một kẻ thuộc phe đối lập nên nghĩ, “Tại sao mình phải hy sinh khúc củi này sưởi ấm kẻ thù?”
Người thứ ba là một người nghèo khổ đói rách, nhìn thấy bên mình là một người giàu có sang trọng. Anh tự nhủ, “Tại sao mình phải hy sinh miếng củi của mình để sưởi ấm cho hạng giàu sang ích kỷ?”
Người thứ tư chính là kẻ giàu sang đó. Anh ta thấy kẻ nghèo khó bên cạnh thì nghĩ, “Dại gì mình bỏ thanh củi của mình ra, để sưởi ấm cho hạng cùng đinh mạt kiếp và lười biếng đó.”
Người thứ năm chính là anh thanh niên da đen. Anh nghĩ người da trắng đã khinh dễ hà hiếp người da màu. Anh dứt khoát không bỏ thanh củi của mình vào đống lửa để trả thù bọn da trắng.
Người sau cùng thuộc thành phần du đãng, không tin ai cũng chẳng làm việc gì cho ai nếu không có lợi. Hắn tự nhủ, “Nhất định mình không bỏ khúc củi của mình vào đống lửa để cho bọn đó sưởi ấm.”
Như thế, tất cả sáu người đều sưởi ấm nhờ đống lửa đang tàn lụi, nhưng không ai muốn bỏ thanh củi của mình vào cho nó tiếp tục sưởi ấm cho mình và cho những người cùng lạnh lẽo như mình. Cuối cùng sáu người đều chết cóng vì giá lạnh, không chỉ giá lạnh bên ngoài mà vì sự giá lạnh của tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi, phe phái.
6. Ấn tượng xấu
Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vo-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khóai trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vo-gan thò đâu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu”? Cha Vo-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.
7. Thuê tài xế lái xe.
Có một người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi thuê một người tài xế chở bà mẹ già đi chơi mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó.
Người giầu nói: “Tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy ra trong khi các ông mang mẹ tôi đi chơi cả. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát hào bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.
Người tài xế thứ nhất tự nhủ: “Cái đó thì dễ ợt”. Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách cái hào một tấc.
Người thứ hai thầm bảo: “Mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc”. Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách cái hào có nửa tấc.
Trong khi đó, người thứ ba suy nghĩ rất hung, kết quả ông lái cách hào những một mét.
Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người giầu lại bảo bác tài xế thứ ba rằng: “Tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái sát hào quá”.
(W.J. Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 19-20)
Hôm nay Chúa nói với chúng ta: nếu tay hay chân, hay mắt nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn chúng ta lánh xa dịp tội. Đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội. Ngoài ra, chúng ta còn phải nỗ lực hy sinh nhiều để giữ lòng trong sạch và trung thành với Chúa. Thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.
16. Óc bè phái.
Có một vị linh mục, ngày kia đã giảng một bài rất cảm động, khiến cho mọi người đều rơi lệ. Thế nhưng, có một người ngồi ngay ở hàng ghế đầu lại chẳng hề tỏ ra chút xúc động nào cả. Khi thánh lễ kết thúc người ta đã hỏi: Ông có nghe bài giảng đấy chứ. Người đàn ông trả lời: Dĩ nhiên là có và tôi đã nghe rõ lắm. Vậy thì ông nghĩ sao? Bài giảng thật cảm động đến nỗi tôi rưng rưng như muốn khóc. Xin lỗi ông nhé, thế tại sao ông lại không khóc. Người đàn ông trả lời: Đơn giản thôi, vì tôi không thuộc giáo xứ này.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta liên tưởng tới óc phe nhóm và tinh thần bè phái của các môn đệ, được biểu lộ qua thái độ của Gioan. Thực vậy, ông không thể chấp nhận được chuyện một người không theo Chúa, không thuộc về phe mình, mà lại dám lấy danh Thầy để trừ quỷ, và họ đã làm được.
Tên của Chúa có thể dùng để trừ được quỷ. Tên ấy có một sức mạnh, nhưng đối với Gioan, thì chỉ những người trong nhóm môn đệ của Chúa mới có quyền xử dụng sức mạnh ấy. Chính vì thế, chẳng riêng gì Gioan, mà ngay cả nhóm môn đệ, đều cố sức ngăn cản người ấy trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu. Họ muốn giữ độc quyền. Họ muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm. Nếu như ai cũng lấy danh Chúa mà trừ quỷ thì các môn đệ của Chúa đâu còn thế giá gì nữa. Chúng ta không biết các ông đã làm những gì để ngăn cản người ấy, còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã không chấp nhận thái độ của các ông. Ngài thật bao dung và cởi mở hơn nhiều. Ngài có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Ngài mà trừ quỷ.
Chắc hẳn anh ta không phải là kẻ thù của nhóm hay của bản thân Ngài. Vì không ai lấy danh Thầy mà làm phép lạ rồi sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Hẳn anh ta phải có một niềm tin nào đó vào Ngài, cho dù anh ta không phải là môn đệ chính thức trong nhóm. Như thế chúng ta phải chấp nhận có những môn đệ theo sát Chúa Giêsu và cũng có những môn đệ theo Ngài xa xa, nhưng trái tim họ thì lại rất gần Ngài.
Các môn đệ đã thấy kẻ thù ở khắp mọi nơi, vì ai không ủng hộ các ông đều là kẻ thù của các ông. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài hiền lành và bao dung, nên Ngài có nhiều bạn hữu. Thái độ cởi mở của Ngài khiến chúng ta phải nhìn lại sự khép kín và độc đoán của mình. Chúng ta không nên vạch một đường thật rõ để tách biệt những người theo Chúa và những kẻ không theo, Kitô hữu và dân ngoại. Chúng ta sẽ có nhiều bạn hơn chúng ta tưởng. Cùng bước đi với người khác, chúng ta sẽ có nhiều cơ may để giới thiệu Đức Kitô cho họ, một Đức Kitô mà có thể họ đã mang lấy trong trái tim từ lâu rồi, nhưng chưa một lần gọi tên Ngài trên môi. Thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ lòng ích kỷ chứ không phải từ lòng đạo đức chân thật. Đó cũng là thái độ của kẻ hèn nhát và khiếp đảm.
Hơn thế nữa, Công đồng luôn khuyến khích chúng ta thực hiện: Hãy mở ra với thế giới, hãy mở ra với các anh em Kitô hữu khác, cũng như hãy mở ra với những người chưa tin Đức Kitô. Bởi vì, mặt trời công chính chiếu soi trên mọi người và cho mọi người. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn hoạt động giữa các dân tộc.
17. Tinh thần cởi mở - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá)
Tin mừng kể: “Một người không theo chúng ta, nhưng lại nhân danh Thầy mà trừ quỷ”. Người đó bề ngoài không đi theo Chúa như các môn đệ, nhưng chắc chắn bên trong, tâm trí ông đã tin theo Chúa rồi. Ông có tin Chúa là Đấng quyền phép hơn ma quỷ, ông mới nhân danh Chúa, mới tin cậy danh Chúa mà đuổi quỷ. Ông vừa có đức tin, vừa có lòng bác ái thương cứu giúp kẻ bị quỷ hành hạ.
Thời trước, cứ đến tối 30 tết, các cụ đạo đức nhất gia đình, đến nhà thờ xin nước thánh về rảy khắp các gia đình con cháu. Các cụ xin nước thánh của Chúa có sức đuổi ma quỷ để sang năm mới, mọi gia đình con cháu được thoát khỏi mọi ám ảnh sự dữ của ma quỷ hãm hại. Năm mới được mọi sự nên mới, nên tốt đẹp, cả hồn an xác mạnh.
Phong tục Việt Nam xưa, trước khi bước sang năm mới, nhà nào cũng trồng cây nêu thật cao và thẳng vút, dưới sân vẽ những mũi tên bắn đi tứ phương để xua đuổi ma quỷ ngay từ những ngày đầu năm mới, mong được mọi sự an lành suốt năm, phải chăng đó là cách tham gia vào công cuộc xua trừ quỷ dữ của Đức Giêsu? Họ tin có quỷ hãm hại con người. Họ quyết tâm trừ khử chúng, coi chúng là nguyên nhân gây ra tội ác và tai họa. Chúng gieo rắc tội lỗi xấu xa cho con người.
Họ đã thực hiện công cuộc như Đức Giêsu đã thực hiện là giải thoát con người khỏi ách nô lệ của quỷ dữ, khỏi mọi ảnh hưởng của quỷ xấu xa để con người được sống an lành, tốt đẹp trong ánh sáng chí thiện, chí mỹ là Thiên Chúa.
Mục đích việc trừ quỷ của họ rất hợp với mục đích cứu thế của Đức Giêsu. Người đến thế gian để cứu loài người thoát vòng nô lệ ma quỷ, để trở về làm con Thiên Chúa. Vì thế, trong bí tích Rửa tội, Linh mục hỏi kẻ sắp chịu phép Rửa tội: “Để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa, anh chị em có từ bỏ ma quỷ, là kẻ gây ra và cầm đầu tội lỗi không? Họ trừ khử ma quỷ là họ muốn sống trong tự do của con cái tốt lành, tức là con cái Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng, những ai tốt lành đều là con cái Thiên Chúa. Như vậy, việc trừ quỷ của “người không theo chúng ta” xét về mục đích và thiện tâm thiện chí, thì tự căn bản nền tảng, họ đã theo Chúa thực sự rồi. Cho nên, họ đáng được Thiên Chúa chúc phúc bình an và cứu độ, như các thiên thần đã hát khi Chúa giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Họ chỉ khác chúng ta là họ chưa được nhận những nghi thức bên ngoài như chúng ta. Chúng ta trừ quỷ thì đọc lời Chúa, dùng nước thánh, tuyên xưng đức tin rõ ràng bằng lời nói và chịu phép rửa nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn họ, họ diễn tả theo cách thức dùng cây nêu, mũi tên là dấu chỉ như một quyền phép siêu phàm mạnh mẽ hơn quỷ để trừ quỷ, nhờ một Đấng tốt lành để bảo vệ họ mà xua đuổi những loại xấu xa, độc hại. Như vậy, họ chỉ khác chúng ta về phương diện dụng cụ diễn tả bên ngoài, chúng là những dấu chỉ phụ thuộc để diễn tả điều căn bản nền tảng bên trong.
Bí tích của đạo Chúa cũng là dấu chỉ bên ngoài chỉ những mầu nhiệm huyền bí thiêng liêng bên trong. Đức Giêsu đã dùng rất nhiều những dấu chỉ của trần thế để diễn tả những mầu nhiệm nước Trời như thế. Người đã dùng những hình ảnh sinh hoạt, văn hóa hay thiên nhiên, hữu hình để diễn tả mầu nhiệm nước Trời vô hình, như: men, muối, ánh sáng, hạt cải, cỏ lùng, người gieo giống, người quản lý, nén bạc, tiệc cưới hoàng tử, chàng rể, các cô phù dâu … nhất là Người đã dùng thân xác phàm trần của Người cũng như thập giá, và lưỡi đòng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa yêu thương loài người. Đó là cách hội nhập văn hóa, là tinh thần cởi mở đại kết của Đức Giêsu, biết trân trọng những giá trị trần thế, những giá trị khác biệt chúng ta. Nhưng những giá trị ấy cũng thực là những giá trị Thiên Chúa đã dựng nên. Chính vì thế, Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta làm gì. Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”.
Họ trừ quỷ là họ đã thực sự nhân danh Đức Giêsu, họ đã tích cực ủng hộ công cuộc cứu thế của Người. Sao lại ngăn cản họ? Sao không đón rước họ vào hàng môn đệ của Đức Giêsu? Nhiều khi chúng ta ăn phải đũa của Pharisiêu quá lệ thuộc vào nghi thức bên ngoài, mà lòng thì xa Thiên Chúa, ngăn cản họ, coi chừng chúng ta ngăn cản Thánh Linh, vì “Thánh Linh muốn thổi đâu thì thổi”. Họ có thể đã được rửa trong Thánh Thần. Họ là những Giakêu, đã tìm cách nhìn thấy Đức Giêsu. Họ là những sĩ quan La mã đã đến xin Người cứu chữa đầy tớ, là những người Samari nhân hậu đã được Đức Giêsu khen ngợi và nêu gương cho chúng ta. Họ là gia đình viên thái giám, người Thêôphi, là những gia đình Cornêliô (Cvtd. 8, 26-40 và 10, 1-48). Họ cũng có thể là “Người đã cho anh em một ly rước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu?”. Còn chúng ta, hãy coi chừng, rất có thể chúng ta làm cho một trong những tín hữu bé mọn này phạm tội, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn. Hãy coi chừng tay, chân, mắt, mũi, miệng lưỡi chúng ta đừng để ma quỷ xúi giục làm gương mù gương xấu cho kẻ khác, kẻo sẽ bị ném vào lửa hỏa ngục, là nơi dòi bọ rúc rỉa người ta và lửa không hề tắt.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được tâm hồn quảng đại cầu nguyện như Môisen: “Phải xin Chúa ban Thánh Thần trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ. Xin cho chúng con biết bước vào nhà chư dân như thánh Phêrô đã bước vào gia đình Cornêliô để tất cả đều được lãnh nhận Thánh Thần. Amen.
18. Cùng nhau rao truyền chân lý
Mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin cho danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến trên thế giới cũng như trong lòng mỗi người, cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là chân lý tối hậu hầu được ơn cứu độ.
Thế nhưng trong việc rao truyền chân lý, Chúa không chỉ trao cho một số người, nhưng kêu gọi mọi người hãy sống và làm chứng cho Sự thật, ai đứng về phía Sự thật thì nghe tiếng Chúa. Sự thật là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu nạn chịu chết và sống lại để cứu chuộc loài người. Tất cả những ai nghe biết Tin mừng này đều được phép và có bổn phận loan báo cho mọi người xung quanh.
Ngay từ thời Cựu ước, trong Bài đọc I, chúng ta thấy Thiên Chúa lấy thần trí của Môsê ban cho 70 vị bô lão để họ cùng với Môsê lo cho dân Chúa. Tuy nhiên, lúc đó có một số người ganh tỵ dùm cho Môsê và xin Môsê cấm các ông bô lão nói tiên tri. Môsê đã tỏ rõ lập trường của mình: "chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban thần trí Người cho họ". Môsê không dành độc quyền cho mình trong việc giảng dạy nhưng sẵn sàng cho nhiều người cộng tác với mình, miễn sao cho danh Chúa được cả sáng.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa giêsu cũng không dành độc quyền giảng dạy và chữa bệnh cho nhóm tông đồ mà sẵn sàng cho phép những ai tin mến Chúa được cộng tác vào công việc này. Chúa giêsu đã sửa lại quan niệm độc quyền của các ông:"đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh thầy làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu thầy. Ai chẳng chống đối các con là ủng hộ các con". Ai nhân danh Chúa làm điều tốt thì Chúa ủng hộ, còn ai làm điều xấu thì đáng bị phạt, nhất là khi điều xấu đó làm ảnh hưởng đến người khác và trở nên gương xấu cho những kẻ bé mọn.
Như vậy, mọi người trên thế giới dù thuộc tôn giáo hay dân tộc nào cũng hãy sống tốt, sống nhân hậu, hợp tác với nhau để chân lý được sáng tỏ như vầng hồng chính ngọ, chân lý về một Thiên Chúa nhân từ hay xót thương nhưng công bằng vô cùng. Ngài là Đấng tạo dựng nên muôn loài và cũng là Đấng ban ơn cứu chuộc cho nhân loại. Những ai rao truyền chân lý, trước tiên hãy là tấm gương phản chiếu lòng nhân từ, yêu thương, công bình của Thiên Chúa nơi chính mình, Nhờ đó, mọi người nhận thấy Thiên Chúa trong công việc và đời sống của mình, họ sẽ ca khen Thiên Chúa và đáp trả lại tình thương của Chúa đã thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô và các môn đệ của Người.
Những ai còn sống trong đố kỵ, phân biệt giai cấp, kỳ thị chủng tộc, loại trừ người khác là đang làm ngược lại ý Chúa và đang tiêu diệt chính mình. Chuyện kể rằng: có 6 người đi lạc giữa đêm giá lạnh vùng băng tuyết. Họ xúm xít nhau bên đống lửa để đỡ giá lạnh. Nhưng điều lạ là đống lửa sắp tàn, và mỗi người đang cầm một thanh củi trên tay mà không ai bỏ vào lửa cho nó tiếp tục cháy.
Người thứ nhất là một quả phụ. Bà thấy người ngồi bên cạnh là một thanh niên da đen. Bà tự nhủ: tại sao mình hy sinh thanh củi này để sưởi ấm ngoại kiều?
Người thứ hai thấy người gần bên là một kẻ thuộc phe đối lập nên nghĩ: tại sao mình phải hy sinh khúc củi này để sưởi ấm kẻ thù?
Người thứ ba là một người nghèo khổ đói rách, nhìn thấy bên mình là một người giàu có sang trọng. Anh tự nhủ: tại sao mình phải hy sinh miếng củi này để sưởi ấm cho hạng giàu sang ích kỷ?
Người thứ tư chính là kẻ giàu sang đó. Anh thấy kẻ nghèo khó bên cạnh thì nghĩ: dại gì mình bỏ thanh củi mình ra, để sưởi ấm cho hạng cùng đinh lười biếng này.
Người thứ 5 chính là anh thanh niên da đen. Anh nghĩ người da trắng hay hà hiếp người da màu, anh dứt khoát không bỏ thanh củi của mình vào đống lửa để trả thù bọn da trắng.
Người sau cùng thuộc nhóm xã hội đen, không tin ai và cũng chẳng làm việc gì cho ai nếu không có lợi. Hắn tự nhủ: nhất định mình không bỏ khúc củi của mình vào đống lửa để cho bọn đó sưởi ấm.
Do đó, đống lửa từ từ tàn hết. Cuối cùng cả sáu người đều chết cóng vì giá lạnh, không chỉ vì giá lạnh bên ngoài mà vì sự giá lạnh của tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi, phe phái...
(x. Minh Hoạ Lời Chúa - LMTV- Tập 3, tr.142, "Tinh thần đoàn kết xây dựng")
Nếu mọi người biết bỏ qua những khác biệt nhỏ nhen và những tính toán ích kỷ thì thế giới ngày càng phát triển trong ổn định. Nếu loài người biết noi gương Chúa Giêsu sống yêu thương, quãng đại, hy sinh, nếu loài người biết loại bỏ óc bè phái và sống cho Sự Thật, thì Nước Chúa được trị đến và nhân loại hạnh phúc biết chừng nào.
19. Quyền nhân danh Chúa
Bảo vệ quyền lợi là một khuynh hướng chúng ta có thể tìm thấy ngay cả ở những người đã được Thiên Chúa tuyển chọn.
Thực vậy, trong Cựu Ước, Giosuê, người tuỳ tùng của Maisen đã muốn dành ơn nói tiên tri cho một số thân tín của mình mà thôi. Con trong Tân Ước, các tông đồ đã ngăn cấm những kẻ không thuộc nhóm 12 của các ông được nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thái độ của Gioduê và của các tông đồ đã tỏ lộ một cái nhìn hẹp hòi và cục bộ về quyền năng của Chúa được ban cho các ông. Các ông đã chủ quan mà nghĩ rằng: Quyền năng các ông có trong việc trừ quỷ là do thuộc về nhóm Mười Hai và được Chúa tuyển chọn. Các ông quên rằng mình đã trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu, chứ không phải tự khả năng của bản thân mình. Như vậy Chúa Giêsu đã bị che khuất, hay đúng hơn đã bị giới hạn bởi cái đầu óc phe nhóm và bè phái.
Thế nhưng, Thiên Chúa không muốn người ta đóng khung quyền năng của Ngài, cũng không muốn để ai chiếm lấy quyền năng đó làm của riêng. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã giúp các môn đệ nhận ra sự thật, Ngài nói: Không ai nhân danh Thầy làm phép lạ, rồi lại có thể nói xấu Thầy. Các tông đồ có thể trừ được quỷ, không phải nhờ ở việc các ông thuộc về nhóm Mười Hai, mà chính là nhờ danh Chúa Giêsu, nhờ ở quyền năng của Thiên Chúa. Như thế, nhân danh Chúa Giêsu mà làm phép lạ và truỳ quỷ, tức là đã tin vào Ngài. Và một người đã làm được các phép lạ nhờ ở một lòng tin, sẽ không thể quay lưng chống lại Ngài.
Như thế, quyền năng người ta có được là do lòng tin ở Chúa, chứ không phải do bất cứ tước hiệu nào người ta mang lấy. Sở dĩ các tông đồ làm được viêc nọ việc kia cũng là do bởi đã tin vào Chúa và đã thuộc về Ngài. Phêrô sau này đã hiểu rõ bài học trên đây của Chúa Giêsu, khi ông đứng trong sân đền thờ và chữa lành cho người bất toại. Ông nói: Chính nhờ tin vào danh Đức Kitô mà anh này, như quý vị đã thấy, được làm cho vững mạnh. Và thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Côrintô cũng đã lập luận: Vậy những kẻ thuộc về Ngài thì hành động như Ngài, cũng thế, những kẻ hành động như Ngài thì thuộc về Ngài.
Để giúp các ông loại bỏ óc bè phái vị lợi, cũng như để giúp các ông biết tôn trọng những người đã tin ở Ngài, Chúa Giêsu xác quyết: Một việc làm nhỏ đối với những người tin, dù chỉ là cho đi một ly nước lã, cũng đáng được ân thưởng. Trái lại, làm cớ vấp phạm cho một kẻ bé mọn, đã tin vào Chúa, thì cũng đáng bị xô xuống biển. Là những người tín hữu, chúng ta có biết thực sự cộng tác với nhau, để danh Chúa mỗi ngày một cả sáng và Nước Chúa mỗi ngày một rộng mở hay không?
20. Nhân ái trong thực hành
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Thánh Phaolô đã từng phát biểu, ‘Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu…, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả… nhưng vui khi thấy điều chân thật’ (1 Cr 13:4-7), phải chăng qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn đề cập cách thực tế tới các đặc tính của đức mến này, cũng như coi chúng không chỉ như thuộc tính của con người, mà còn áp dụng cho cả Thiên Chúa nhân ái nữa?
‘Đức mến tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả!’ Sự khác biệt giữa môn đệ Gio-an và thầy Giêsu không chỉ hệ tại nơi hành động ngăn cản hay đừng ngăn cản một việc thiện không rõ mục đích, ‘có người lấy danh Thầy mà trừ quỉ’. Sự khác biệt lớn giữa hai người là ở chỗ, Thầy Giêsu có lòng nhân còn Gio-an thì không. Môn đệ của một Đấng Kitô nhân ái và hay xót thương không thể là người hành động thế này hay thế khác, nhưng phải là người có lòng nhân. Bao lâu còn khắt khe, xét nét… thậm chí lên án người anh em trong cách cư xử của họ, thì chưa đáng coi mình là môn đệ chân chính của Đức Kitô. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”; trước một việc thiện, dù nhỏ nhất hay xuất phát từ một con người bất xứng nhất, Tin Mừng không những đòi ta có thái độ khoan nhượng, mà còn đòi phải đón lấy như một sự ủng hộ tích cực. Trong tinh thần đó, Don Bosco, vị thánh hết lòng yêu thương giới trẻ, đã lên tiếng: “Hãy yêu mến những gì trẻ yêu thích”, hay “Các con cứ việc la hét chơi đùa thỏa thích… miễn là đừng phạm tội”. Cũng trong tin tưởng và hy vọng của Tin Mừng mà ta nhận ra giá trị to lớn của các việc phục vụ thường ngày, dầu nhỏ bé nhất… như ‘cho người anh em uống một chén nước lã’. Đương nhiên ‘vì lẽ anh em thuộc về đấng Kitô’ được hiểu là nhân danh lòng nhân ái xót thương vô biên của Thiên Chúa ‘được tỏ hiện nơi Đức Kitô Giêsu’.
‘Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu’; chính trong đức mến đối thần này mà ta nhận ra sự trầm trọng của cái gọi là ‘làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã’, trầm trọng tới độ, trong cách nói ngoa ngữ của người Do Thái, ‘thà buộc cối đá lớn vào cổ mà ném xuống biển còn hơn’. Cũng vậy để tránh dịp tội, nếu cần, ta cũng phải sẵn sàng hy sinh mất mát tất cả, ‘thà chặt tay, chặt chân, móc mắt…’ Trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Cô-rin-tô, khi bàn về vấn đề ăn thịt cúng (chương 8), Phao-lô cho chúng ta thấy, vì đức mến, ông đã tự buộc mình vào sự từ bỏ quyết liệt như thế nào; “Nếu của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa, để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã” (1 Cr 8:13). Và lý lẽ ông đưa ra cũng rất thuyết phục: “Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người anh em mà đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc! Như vậy, phạm đến anh em và làm tổn thương lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến đức Kitô!” (câu 11-12).
Như vậy theo Phao-lô, Đấng đã tôn trọng sự yếu đuối của con người tội lỗi trước hết lại là chính Thiên Chúa xót thương. Cái chết tự hiến của Giêsu - Con Một Ngài cho thấy Thiên Chúa đã nhẫn nhục và hiền hậu trước sự yếu hèn của từng người chúng ta như thế nào. Và còn hơn cả ‘chặt tay, chặt chân, móc mắt…’, còn hơn cả ‘không bao giờ ăn thịt nữa’, Thiên Chúa đã trao nộp chính người Con Một chí ái để chết trên thập giá vì chúng ta (xem Ga 3:16). Mạch văn của Phao-lô cũng cho chúng ta hiểu rằng, ‘làm cớ sa ngã’ không chỉ mang nội dung làm gương mù gương xấu trong lãnh vực luân lý, mà còn hàm cả Tin Mừng và thần học nữa. “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã’, câu xác quyết này của Đức Giêsu rõ ràng chất chứa nội dung đức mến nhân ái của Tin Mừng khi chính Người tự giời thiệu mình như sau, ‘không bẻ gẫy cây lau bị dập, khộng giập tắt tim đèn còn khói’ (Mt 12:20). Nếu Thiên Chúa nhân ái đã thà hy sinh Con Một mình để cứu lấy nhân loại tội lỗi, trước cả khi họ hoán cải để trở nên hoàn thiện, thì tôi là ai mà dám nhân danh sự thánh thiện, công chính, đạo đức hay hiểu biết của mình để loại bỏ người anh em? Làm như thế là tôi đang gây cớ vấp phạm, ‘làm tổn thương lương tâm yếu đuối của người anh em’. Chỉ cần nhìn vào thái độ Đức Giêsu cư xử với người phụ nữ Sa-ma-ri thấp kém bên bờ giếng Gia-cóp, khi kêu mời bà hãy kín múc Nước Hằng Sống bất chấp tình trạng sống chung chạ của chị (Gio-an chương 4), là tôi hiểu ra ngay ‘đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu’ phải như thế nào. Trong môi trường Tin Mừng chân chính, ‘kẻ bé mọn đang tin’ phải được trân trọng và bảo vệ hơn hết. Do đó tôi không được phép nhân danh bất cứ giá trị nào, dầu lớn lao tới mấy, để kết án hay loại trừ họ.
Nếu tôi muốn trở nên mục tử nhân lành như Đức Kitô mong ước, bài học nhân ái này dứt khoát phải được tôi thuộc lòng, và tôi cũng mơ ước được cùng các anh em tiến bước và phục vụ trong một Hội Thánh nhân ái.
Lạy Chúa Giêsu nhân ái! Có lẽ còn lâu con mới hiểu thấu lòng nhân ái của Chúa, cũng như phải sống đức mến thần linh này với hết mọi người ra sao. Trong công tác mục vụ, xin cho con nằm lòng câu xác quyết của Phao-lô: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến… thì chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13:1-3); chỉ như thế con mới thực sự dõi theo bước chân của vị Mục Tử Nhân Hậu. Amen.
2. Đừng ngăn cấm
Hai đứa trẻ có thể đánh nhau chí choé khi một đứa dám lôi tên ba của đứa kia ra giễu cợt. Hình như việc biết tên là một khám phá ra một bí mật và việc gọi tên có vẻ bất kính là một xúc phạm. Ngày xưa tên của một người thường mang ý nghĩa như chính con người đó. Vì thế mà Thiên Chúa cấm gọi đến tên Ngài ở giới răn thứ hai, đồng thời chúng ta cũng thếy được tầm quan trọng của tên Thiên Chúa như trong kinh Lạy Cha: Nguyện danh Cha cả sáng.
Nếu hiểu như thế chúng ta sẽ không lạ gì khi Chúa Giêsu tuyên bố: Kẻ nào tiếp đón một kẻ nhỏ vì danh Ta tức là tiếp đón Ta. Kẻ nào tiếp đón Ta thì không phải là tiếp đón Ta mà là tiếp đón chính Đấng đã sai Ta. Chúa nói về ân phúc của mọi hành động trong danh Ngài, điều này nhắc cho Gioan việc vừa xảy ra. Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo Thầy và chúng con đã ngăn cấm. Gioan có một lòng nhiệt thành về danh Chúa Giêsu, nhưng đồng thời lại kiêu hãnh về địa vị nhóm 12 của mình được sống sát cạnh Chúa, cũng như ganh tức với những kẻ không cùng nhóm, lạm dụng quyền hạn của mình. Thế nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài phán: Đừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền sau đó lại nói xấu Thầy. Ai không chống đối các con là ủng hộ các con. Thái độ của Gioan là một thái độ tự ái, bảo vệ một độc quyền của mình. Thế nhưng chúng ta có thể đặt lại vấn đề, liệu các môn đệ đã tin vào danh Chúa hay chưa?
Có thể họ đã tuyên xưng, nhưng trong hành động họ lại chối bỏ và để Chúa Giêsu chịu chết một mình, cô đơn trên thập giá. Chính Chúa Giêsu đã nhìn những người ngoại giáo và đã khen ngợi lòng tin của họ chẳng hạn người thiếu phụ Canaan và viên đội trưởng, khi Ngài nói với ông: Ta chưa thấy một niềm tin như thế trong dân Israel. Như vậy lúc ấy chưa chắc gì các môn đệ đã có một niềm tin mạnh như những kẻ ngoại. Các môn đệ của Chúa đã nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ, còn những người ngoài nhóm cũng nhân danh Chúa mà làm phép lạ, nhưng thử hỏi họ đã làm vinh danh ai? Phúc Âm thánh Luca ghi lại các môn đệ trở về kể lại cho Chúa Giêsu: Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng phải luỵ phục chúng con. Như thế cái tôi của họ vẫn còn là trung tâm điểm. Họ nhờ danh Chúa mà tìm vinh quang cho mình.
Ngày hôm nay chính chúng ta cũng phải ngồi lại mà suy nghĩ về những cái chúng ta chiếm độc quyền: độc quyền về Thiên Chúa, về Đức Kitô, độc quyền về đạo thật, về chân lý, về bác ai, và những hậu quả tai hại từ đó đưa đến như thế nào? Có phải vì danh Chúa Giêsu hay chỉ vì danh mình, danh giáo xứ mình mà thôi chăng.
Tiếp đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Đừng ngăn cản họ. Lời nói tuy ngăn nhưng phá vỡ cả một ý thức hệ cuồng tín về tôn giáo, phá vỡ cả một sự độc quyền về niềm tin để mở rộng cho muôn dân: Ta bảo các người nhiều kẻ từ phương Đông phương Tây mà đến và dự tiệc cùng Abraham trong Nước Trời, còn chính con cái thì lại bị đuổi ra bên ngoài. Chúa Giêsu qua đó dạy cho các môn đệ một cái nhìn mới về ơn cứu độ.
Ngày hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy người này người nọ thực sự yêu thương và phục vụ kẻ khác, nhưng họ lại là người vô thần, là người Phật giáo, thì lập tức chúng ta khựng lại. Chúng ta hãy nhớ lời Chúa: Ai yêu thương thì ở trong Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại khăng khăng phải ở trong đạo mới có tình thương. Chắc gì chúng ta những người có đạo lại sống được tốt lành như họ chưa.
22. Sống theo Thần Khí – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Làm sao để sống hạnh phúc, làm sao để sống tốt, làm sao để hình thành quan điểm sống đúng đắn để qua đó một người có thể sống bình an hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại?
I. Mọi sự tốt lành đều do Thiên Chúa mà có
Thiên Chúa là ai? Ngài là Đấng vượt lên tất cả, Ngài là Cha của tất cả, là Đấng ban cho con người tất cả những gì con người đang sở hữu hoặc đang có khả năng thực hiện. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho Eldad và Medad nói tiên tri ngay khi ở trong lều riêng của các ông, và cũng là Đấng làm cho những người khác có tên trong danh sách mà đi ra nhập hàng ngũ cùng với Môsê được nói tiên tri.
Giôsuê đã suy nghĩ và hành động với tinh thần phe phái: nếu không ra gia nhập hàng ngũ như những người khác thì không được nói tiên tri. Giôsuê đâu có biết rằng khi anh muốn cản người khác làm điều họ được Thiên Chúa thúc đẩy, là vô tình anh đã muốn cản cả tác động của Thiên Chúa nữa. Cũng tương tự vậy khi Yoan ngăn cản một người nhân danh Đức Giêsu mà làm phép lạ, vì “người đó không là một trong chúng ta”. Ai có thể làm phép lạ nếu không phải chính Thiên Chúa đã làm phép lạ qua trung gian người đó. Đức Giêsu đã trả lời Yoan: “đừng cản họ, vì nếu họ nhân danh Thầy mà làm phép lạ, thì họ cũng không phải là kẻ chống lại Thầy”. Ai không chống lại chúng ta, là thuận theo chúng ta.
Tinh thần phe phái là tinh thần muốn loại Thiên Chúa ra khỏi hành động của con người, hoặc muốn kéo Thiên Chúa về phe mình. Thực ra Thiên Chúa ở trên tất cả, Ngài là Đấng cho tất cả, Ngài thuộc về tất cả để tất cả được thuộc về Ngài. Tất cả tốt lành đều từ Thiên Chúa mà tới, đều do Thiên Chúa mà có. Muốn độc quyền Thiên Chúa, muốn điều tốt chỉ từ phe phái của mình, là muốn giới hạn Thiên Chúa, là muốn điều khiển Thiên Chúa theo ý mình. Tư tưởng Thiên Chúa không như tư tưởng của con người, Ngài vượt trên tất cả.
II. Những người bám víu vào của cải đời này
Trần gian với những tiện nghi vật chất, là điều người đời thường tham muốn. Người ta muốn sống hưởng thụ những thú vui vật chất, thỏa mãn xác thịt. Người ta thường nghĩ rằng với tiền bạc, người ta sẽ có tất cả. Tiền bạc giúp người ta có nhà cao cửa rộng, tiện nghi vật chất, được người đời kính trọng.
Người ta thường cho rằng, có tiền muốn gì mà chẳng được: “đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”. Với đồng tiền, người ta có thể mua chuộc được tất cả, lấy lòng được con người, kể cả những người thế giá nhất, uy quyền nhất. Nếu một người đặt tiền bạc là quan trọng, hoặc danh vọng là quan trọng, thì tiền bạc là một giá trị và phương tiện có thể mua chuộc hoặc điều khiển được người đó.
Làm sao để con người có một bậc thang giá trị đúng đắn, nghĩa là đặt tiền bạc danh vọng chức quyền vào đúng chỗ của nó. Trên đời này, điều gì là quan trọng nhất, điều gì mà mỗi người phải chú ý để có thể đạt được hạnh phúc trong cuộc sống? Nếu một người đặt sai bậc thang giá trị và theo đuổi những điều không chính đáng, thì những người liên hệ với người đó khổ, và chính người đó cũng không thể hạnh phúc. Chỉ những ai đặt Tuyệt Đối là một giá trị tuyệt đối, và đặt tha nhân là một giá trị cũng gần như một giá trị tuyệt đối, thì người đó mới sống hạnh phúc, và những người khác sống với họ cũng mới hạnh phúc đích thực.
III. Dứt khoát với dịp tội
“Nếu tay ngươi nên dịp tội cho ngươi, thì hãy chặt nó đi vì thà rằng cụt một tay vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục”. Lời dạy của Đức Giêsu cho thấy lập trường dứt khoát của Ngài đối với tội. Ngài coi cái gây ra tội nguy hiểm đến thế nào!
Nơi vườn dầu, Đức Giêsu đã nói với Phêrô và các tông đồ: “hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Thân xác có những nặng nề của thân xác, người ta khó có thể vượt qua những nặng nề của thân xác nếu người ta không cầu nguyện; hơn nữa, người ta khó có thể không phạm tội nếu người ta không tránh dịp tội. Trường hợp Phêrô ở vườn dầu: sau khi đã ăn thịt chiên vượt qua và uống rượu, thì khó ai có thể chống lại cơn ngủ; đó là lý do tại sao Phêrô đã “không thể thức với thầy được một giờ”. Những lề luật, thường là những gì bảo vệ đời sống ơn gọi của tu sĩ, giúp tu sĩ khỏi sa vào những dịp tội mà không thể tránh khỏi; ai không giữ lề luật thì đôi khi cũng là liều mình ở vào dịp tội.
Những tội phạm hình sự không có âm mưu, thường xảy ra khi người ta trong cơn say hoặc nghiện; tránh say sưa cũng là tránh những dịp tội, và cũng là tránh tội đối với một số người. Những người phạm tội trong những trường hợp này thường được giảm khinh vì lúc đó họ không hoàn toàn tự do, họ sống dưới những ảnh hưởng của thể xác mà không tự chủ hoàn toàn được. Những trường hợp này rất khác với những hành vi của những người có âm mưu nhưng mượn rượu hay một cớ nào đó để làm điều họ muốn làm, mà nếu họ làm lúc tỉnh thì họ sợ sẽ lãnh hoàn toàn trách nhiệm. Dứt khoát với dịp tội, là lời dạy của Đức Giêsu đối với con người của mọi thời đại.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, làm sao để sở hữu một bậc thang giá trị đúng đắn? Làm sao để đánh giá đúng đắn thực tại trần gian, cụ thể là con người và vạn vật?
2. Theo bạn, điều gì làm cho đương sự và người khác khổ nhất? Tại sao?
3. Theo bạn, quan điểm lập trường sống nào làm cho chính mình cũng như những người thân và những người sống với mình sống hạnh phúc đích thực?
23. Giải phẫu – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy đã yêu’)
Người ta đồn thổi rằng: Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên họ tìm cách đánh bẫy khỉ.
Họ lấy trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt trên cây.
Ngửi thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm chặt lấy trái cam và lôi ra.
Thọt tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái cam ra để bàn tay được tự do. Ðã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy. Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và người thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.
*****
Thế giới chúng ta đang sống có nhiều cạm bẫy, nhiều cám dỗ, nhiều dịp tội làm chúng ta sa ngã. Ngay chính thân xác chúng ta cũng có thể là những dịp tội, khiến chúng ta lỗi luật Chúa. "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay nó đi" (Mc.9,43). Kiểu nói "chặt tay, chặt chân, móc mắt" chỉ có ý nói theo nghĩa tượng trưng, để diễn tả các dịp tội mà ta có thể tìm thấy trong chính bản thân mình. Hội thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen, nếu cứ áp dụng triệt để theo từng câu từng chữ, thì khó mà tìm được một người Kitô hữu lành lặn.
Ðức Giêsu chỉ có ý đòi buộc chúng ta phải quyết tâm mạnh mẽ để khử trừ các dịp tội, các cơm cám dỗ, chớ coi thường chúng.
Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều người dám cắt bỏ một phần thân thể để cứu lấy sinh mạng của mình. "Từ bỏ một điều quý giá để giữ lại một điều quý giá hơn", đó là lẽ khôn ngoan ở đời. Cuộc sống vĩnh cửu không là điều quý giá đáng cho chúng ta từ bỏ một phần thân thể đã trở nên xấu xa để đổi lấy sao? Nếu cần một cuộc giải phẫu để cứu lấy thân xác, thì cũng cần nhiều cuộc cắt bỏ để cứu lấy linh hồn. Chúng ta có thể "cắt bỏ" một thói hư tật xấu, cắt bỏ một lời nói cay độc, cắt bỏ một ánh mắt căm hờn, cắt bỏ một cử chỉ khinh khi, cắt bỏ một lối sống buông tuồng, cắt bỏ một mối quan hệ bất chính... Cắt bỏ như thế có khi còn đau hơn "móc con mắt, chặt cánh tay". Ðau vì nó quá thân thiết với cuộc đời chúng ta, đau vì nó quá gắn liền với bản thân chúng ta, vì nó quá ăn sâu trong bản chất con người chúng ta. Nhưng nếu can đảm vượt thắng nỗi đau, chúng ta sẽ lớn lên trong tư cách làm người, và trưởng thành hơn trong địa vị làm con cái Chúa. Ludovic Giraud có viết: "Nỗi đau đối với chúng ta như lưỡi cày đối với mặt đất, nó cầy xới nhưng để làm cho đất màu mở, cũng như việc cắt tỉa cây cối: làm cây cối nhẹ nhàng, mạnh khỏe và đẩy nhanh những dòng nhựa lên cao".
Có những người mơ ước hy sinh cuộc đời, nhưng lại không dám hy sinh những tật xấu của mình. Tuy nhiên, giải phẫu không chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế các bộ phận hư hỏng. Chúng ta có thể thay trái tim sỏi đá căm hờn bằng trái tim dịu hiền yêu thương. Chúng ta có thể thay bộ óc định kiến hẹp hòi bằng bộ óc thoáng đạt hồn nhiên.
****
Lạy Chúa, sống cho Chúa thật không dễ chút nào: Phải cắt bỏ những gì mình gắn bó, thiết thân. Xin cho chúng con luôn hiểu rằng: chỉ khi cắt tỉa những cành lá rườm rà thì cây đời chúng con mới trổ sinh hoa trái tốt tươi. Xin cho chúng con dám ra khỏi chính mình, để được lớn lên trong ân tình của Chúa. Amen.
24. Hãy tránh xa dịp tội - Lm. Nguyễn Minh Hùng
Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: “Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”. Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không chỉ quyết liệt mà còn độc ác?
Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo Hội chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai tường hợp: Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị cụt…, vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì man r?. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế.
Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội còn dạy những điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo Hội đòi phải “Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể”. Sách Giáo lý cho biết: “…Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người.
Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý” (GLCG 2297).
Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu, ai đúng, ai sai?
Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu, khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định mối nguy hại có khi không nhỏ mà t?i l?i gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người cho thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không khoan nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu. Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.
Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích, khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con mắt… Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà con người phải chọn lựa.
Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh. Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.
Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay, hay chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối, mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn. Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.
Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội, chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và Suy niệm Lời Chúa… là những phương tiện giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.
25. Đức Kitô, con đường cứu rỗi duy nhất
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)
Các môn đệ của Ðức Giêsu quan sát thấy có người không thuộc về nhóm của họ, nhưng đã nhân danh Thầy mình để trừ đuổi ma quỉ. Chắc chắn người này không hề được Ðức Giêsu trao phó cho sứ vụ đó, vì thế các môn đệ đã tìm cách ngăn cản anh ta không được tiếp tục làm như thế nữa! Và đương nhiên họ tin chắc rằng Sư Phụ mình sẽ đồng ý với họ ngay.
Thế nhưng, Ðức Giêsu lại có thái độ hoàn toàn khác hẳn: «Các con đừng ngăn cản anh ta làm gì! Vì không có ai vừa nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi lại quay ra nói xấu Thầy một cách dễ dàng được. Vậy, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta! » (Mc 9,39-40).
Ðúng vậy, những « kẻ đứng ngoài » thường làm cho những « người đứng trong » bực mình khó chịu! Ðó là điều vẫn xảy ra trong bất cứ thời đại nào và ở bất cứ nơi nào: trong những đoàn thể và những nhóm nhỏ, trong những bè phái lẻ tẻ hay trong những giáo phái và những Giáo Hội rộng lớn hơn. Những người « đạo đức » luôn trung thành và gắn bó với Mẹ Giáo Hội thường hay dễ nghĩ tưởng và phê phán một cách tương tự về những kẻ đã xa lìa Giáo Hội bất cứ vì lý do gì: Một cách đơn giản là những con người đó không còn thuộc về chúng tôi nữa, và như thế họ cũng không còn thuộc về Ðức Kitô nữa; họ không còn được nhân danh Người để nói năng hay làm bất cứ điều gì có liên quan đến tôn giáo chúng tôi. Vâng, người ta còn cho là những con người như thế đã liều mình đánh mất phần rỗi! Bởi vì, nguyên tắc của Thần học là « ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi »! Dĩ nhiên, ngày nay người ta hiểu nguyên tắc đó khác với trước kia!
Một điều chắc chắn là Ðức Kitô muốn có một Giáo Hội duy nhất mà thôi và tất cả những chia rẽ giữa các Kitô hữu là một điều xấu, đã xảy ra ngoài ý mưốn của Người. Nhưng trách nhiệm về những rạn nứt và chia rẽ đó thường là do cả hai phía, và chỉ mình Thiên Chúa mới có thể phân xử được! Còn những kẻ thừa kế những rạn nứt và chia rẽ đó, tức những thế hệ con cháu sau này ở cả hai phía, tuy phải gánh chịu những hậu quả, nhưng không chịu trách nhiệm về những nguyên nhân đem đến những chia rẽ đó. Do có một đức tin chắc chắn và ý chí ngay lành họ cũng có thể sống, nói năng và hành động nhân danh Ðức Giêsu. Ðó cũng là điều mà chính Công Ðồng Chung Vatican II đã khẳng định. Chỉ những ai phạm tội mà xa lìa Giáo Hội, thì liều mình đánh mất phần rỗi. Ðối với những kẻ như thế, được áp dụng nguyên tắc thần học « Ngoài Giáo Hội không có sự cứu rỗi ». Công Ðồng dạy: « Vì thế, những ai biết rằng Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Ðức Giêsu Kitô, như một phương tiện cứu rỗi cần thiết, mà vẫn không muốn gia nhập hoặc không muốn kiên trì sống trong Giáo Hội này thì không được cứu rỗi » (Hiến chế Lumen Gentium, số 14).
Một câu hỏi khác đầy gai góc và có tính cách thúc bách, đó là: Những kẻ vô tín ngưỡng, tức những người chẳng những ở ngoài Giáo Hội, nhưng còn không tin kính Ðức Giêsu Kitô, có được cứu rỗi không? Con số những người như thế trên khắp thế giới lại là đại đa số!
Ðức tin Kitô giáo tin nhận Ðức Kitô là « Nguồn » (Dt 2,10; 5,9) và là « Ðấng Trung Gian » Tm 2,5) của sự cứu độ vĩnh cửu. Vì thế, thánh Phêrô « đầy ơn Chúa Thánh Thần » đã công bố những lời sau đây: « Ngoài Ðức Giêsu Kitô ra, không một ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ » (Cv 4,12). Như vậy, đương nhiên những ai không tin nhận được Kitô sẽ không được cứu rỗi?
Về vấn nạn này, Công Ðồng Vatican II cũng đã đưa ra những phán quyết một cách khác hẳn. Bởi vì, Thiên Chúa luôn muốn cho tất cả mọi người được cứu rỗi, như đã được ghi rõ trong Kinh Thánh: « Người mong muốn cho tất cả mọi người được cứu rỗi và đạt tới sự hiểu biết chân lý » (1Tm 2,4) và « Người là Ðấng Cứu Ðộ của tất cả mọi người, nhất là của các tín hữu » (1Tm 4,10), nghĩa là không chỉ các người tín hữu mà thôi! Vâng, không phải tất cả mọi người đều có được điều kiện thuận lợi để có thể tìm hiểu đức tin và tin nhận Ðức Kitô. Nhưng chính Ðức Kitô đã chết cho mọi người, không phân biệt hay loại trừ ai. Người đã đền thay cho tội lỗi của tất cả mọi người và chuộc lại đời sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người! Trong điểm này Công Ðồng đã dạy tiếp: « Thực vậy, vì Ðức Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là một ơn Thiên Chúa ban, do đó chúng ta phải tin tưởng cách chắc chắn rằng Chúa Thánh Thần ban cho tất cả mọi người khả năng được tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh theo cách thức đã được Thiên Chúa ấn định » (Gaudium et Spes, số 22; x. Lumen Gentium, số 16; Ad Gentes, số 7).
Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Ðức Giêsu Kitô, hành động một cách âm thầm trong tâm hồn của tất cả mọi người. Người soi sáng cho họ và qui hướng lòng trí họ về với Thiên Chúa. Nếu con người biết vâng nghe theo tiếng lương tâm của mình, họ sẽ được cứu rỗi nhờ vào sức mạnh của ân sủng Ðức Kitô ban. Nói cách khác, không có Ðức Giêsu thì không một ai có thể được cứu rỗi. Ðồng thời điều đó cũng minh nhiên khẳng định rằng ý kiến của rất nhiều người ngày nay cho rằng tất cả mọi tôn giáo đều giống nhau, đều dạy người ta ăn ngay ở lành và mỗi người nếu sống theo niềm xác tín của tôn giáo mình một cách trung thực đều có thể nên thánh, là hoàn toàn sai lầm. Ngoài niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô, không được Phúc Âm soi sáng hướng dẫn và không thông công với Giáo Hội, con đường dẫn tới sự cứu rỗi sẽ trở nên vô vàn khó khăn và đầy hiểm nguy. Ðiều đó đã được chứng minh trong suốt giòng lịch sử của nhân loại. Ðúng vậy, « con người bị ma quỉ gạt gẫm làm sai lạc phán đoán của mình khiến họ tráo đổi chân lý Thiên Chúa lấy sự giả dối và phụng sự tạo vật hơn là phụng sự Ðấng Tạo Hóa (x. Rm 1,21-25), hoặc: « vì họ sống chết ở đời này như thể không có Thiên Chúa, nên bị rơi vào cảnh hoài nghi thất vọng tột độ » (Lumen Gentium, số 16).
Bởi vậy, đức tin Kitô giáo không phải một loại hàng xa xỉ, không cần có nó người ta vẫn có thể sống chết một cách tốt lành được, nhưng là một ơn lành tối quan trọng mà Thiên Chúa đã ban cho con người, để dẫn đưa họ đạt tới sự cứu rỗi.
Vì thế, Giáo Hội không trình bày đức tin Kitô giáo một cách dửng dưng hời hợt như bất cứ một ý thức hệ nào mà con người có thể tuỳ ý lựa chọn, nhưng Giáo Hội loan báo đức tin một cách hết sức hăng hái và khẩn cấp như Ðức Giêsu đã làm. Một khi con người được nghe biết sứ điệp Tin Mừng, cần phải quyết định. Con người phải sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, để giữ trọn sứ điệp đó, hầu có thể đạt tới được sự cứu rỗi đời đời; Vì thà mất mát một phần cơ thể còn hơn là mất luôn cả cuộc sống (x. Mt 18,8). Nói cách khác, sự cứu rỗi hay hạnh phúc vĩnh cửu luôn có cái giá của nó và chỉ những ai chấp nhận trả cái giá đó, thì mới có thể chiếm hữu được nó!
26. Một dân tộc ngôn sứ – Jean Yves Garneau.
Sự dữ bị tố cáo.
Lời Chúa hôm nay thật là khắt khe. Thánh Giacôbê tỏ ra không khoan nhượng đối với những người giàu có: “Hãy khóc than… tai họa chờ đợi các ngươi đó. Của cải các ngươi bị mục nát…” Những lời thánh nhân mô tả gây ấn tượng mạnh mẽ, liệu ngài có nói khác đi vào thời đại chúng ta không? “Các ngươi không trả tiền công cho người gặt lúa. Các ngươi tìm kiếm lạc thú và sự xa hoa, các ngươi tiệc tùng trong lúc người ta chém giết kẻ khác…”.
Tin Mừng cũng gắt gao như vậy khi đòi hỏi ta phải dùng những phương thế quyết liệt để thoát khỏi sự dữ: “Nếu tay ngươi khiến ngươi phạm tội thì hãy chặt nó đi… Nếu mắt ngươi khiến ngươi phạm tội thì hãy móc nó đi…”.
Cám dỗ để mặc.
Nơi chúng ta và ngoài chúng ta, trong đáy lòng chúng ta và trong xã hội vẫn có sự dữ và tội lỗi. Ta biết thế, ta nhận thấy thế, ta nghe nói đi nói lại như thế. Và ta có khuynh hướng là đành chịu vậy thôi. Ta sẽ nói: “Không làm gì được đâu. Bao giờ cũng thế mà, ta không thay đổi được thế giới đâu”. Rồi một khi đã nói như vậy rồi, người ta đồng lõa với một thế giới tầm thường và quen đi với chính sự tầm thường của mình nữa. “Tôi không đến nỗi tệ hơn kẻ khác. Có những người còn dở hơn tôi nữa. Tôi quá già rồi thay đổi sao được, phải chấp nhận con người mình như vậy thôi, và chấp nhận thế giới như hiện có”.
Những ngôn sứ không được tín nhiệm.
Nhưng, may mắn thay, không phải mọi người đều phản ứng như vậy, không phải mọi người đều cam chịu cả. Ở giữa chúng ta vẫn còn có những ngôn sứ đang kêu gào, tố cáo, răn đe. Họ không chỉ nói mà thôi –điều này thường quá dễ– họ hành động nữa. Họ dám chịu liên lụy với những kẻ không được kính trọng, những kẻ chịu thiệt thòi về quyền lợi của mình, bị ngược đãi. Họ đấu tranh chống lại sự dữ chung quanh và sự dữ nơi chính mình.
Ta thấy đó, đây là lịch sử được lập lại. Trong đoạn sách dân số, người ta nói với chúng ta về hai người: Eldad và Médad, nói tiên tri trong lúc những ngôn sứ khác đã ngưng nói. Người ta tìm cách bắt họ im đi ngay. Họ không nói đúng lúc, họ không theo luật lệ đã được thiết lập. Họ xáo trộn hết thảy mọi sự.
Một biến cố tương tự được kể lại trong Tin Mừng: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người trừ quỷ nhân danh Thầy; Chúng con đã ngăn cản nó vì nó không thuộc nhóm chúng ta”.
Môsê và Chúa Giêsu có cùng một phản ứng như nhau: “Hãy để các ngôn sứ nói tiên tri. Hãy để họ nói. Hãy để họ hành động”.
Ta hãy xem những kẻ nói hơi mạnh một chút trong môi trường của chúng ta, họ tố cáo những sự hèn nhát của chúng ta, làm xáo trộn những tư tưởng chúng ta đã nhận được, làm cho chúng ta hoang mang, bắt chúng ta phải ra khỏi những lối suy tư và ứng xử của chúng ta. Những ngôn sứ này có thể là con cái, người phối ngẫu, một người láng giềng, một bạn đồng nghiệp của ta. Chúng ta dành cho họ số phận nào? Chúng ta có nhạy cảm trước lời kêu gọi của họ không?
Nhiều ngôn sứ.
Cứ để cho các ngôn sứ nói tiên tri, nâng đỡ, khuyến khích họ và để họ thách thức mình, đó là thái độ nên có. Nhưng xem ra còn phải làm hơn nữa. Chúng ta có nhớ lời ước mong của Môsê không: “Ôi! Ước gì Chúa có thể đặt Thần Khí của Ngài nơi họ “hết thảy” để làm cho toàn thể dân Ngài trở thành một dân ngôn sứ!”.
Cần có những ngôn sứ trên thế giới, trong Giáo Hội, trong các cộng đồng giáo xứ, trong các gia đình. Cần có những người đàn ông và đàn bà trẻ tuổi hoặc cao niên nói và hành động thế nào để khắp nơi trên thế giới mọi người được mời gọi và khuyến khích đẩy lui những gì làm cho con người mất tính người và làm tăng trưởng những gì giúp họ nên người hơn. Cần tăng số –ngày càng đông hơn- những ngôn sứ để nói tiên tri làm vinh danh Thiên Chúa và gây ích cho con người. Trở thành một cộng đoàn các ngôn sứ, chúng ta có dám thành thật xin Chúa điều này không?
27. Ai không chống đối các là ủng hộ các con
(Suy niệm của Paul-Maurice Lâm Thái Sơn)
Một ngày kia, các môn đệ đến gặp Chúa Giêsu và than phiền có những kẻ tuy không cùng nhóm nhưng dám nhân danh Ngài mà trừ quỷ! Thái độ này chẳng qua cũng chỉ là một phản ứng tự nhiên khi các môn đệ muốn bảo tồn sự độc quyền rao giảng Tin Mừng và công tác sứ đồ. Bài đọc thứ nhất cũng kể lại trường hợp tương tự: Giosuê bất mãn khi thấy Thần Linh Thiên Chúa ngự trị trên hai bô lão và hai vị này nói tiên tri khi chưa được ủy nhiệm. Nhưng Môisen thay vì khó chịu lại tuyên bố: “chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ".
Qua những đoạn sách hôm nay, Thiên Chúa mời gọi chúng ta nên tự kiểm thảo thái độ cá nhân hoặc tập thể của mình trước tình trạng những người đấu tranh cho công ích và chân lý. Thời nay cũng như thời Môisen, không thiếu những người tuy khác biệt tuổi tác màu da sắc tộc hay tín ngưỡng, nhưng hiên ngang lên tiếng báo động dư luận thế giới về những vấn đề quan trọng như: nhân quyền, hòa bình, sự tự do, nạn đói khổ, v.v... Nếu những người đó dám phát ngôn và hành động thật sự vì lợi ích nhân loại, dĩ nhiên là Thần Trí đã ngự trị trên họ, và ta có thể thừa nhận họ là những tiên tri thời đại mới.
Dầu vậy, ta cũng khó tránh khỏi phân vân và sẵn sàng kiểm tra lý lịch của họ để xem có cùng quan điểm hoặc tôn giáo chăng! Nếu không thì chúng ta dễ khước từ hành vi của họ. Như thế thì, thật lòng mà nói, ai trong chúng ta dám tự khoe là không có óc bè phái hoặc hẹp lượng cố chấp? Thông thường, chúng ta rất muốn ngắm nhìn những hoa quả tốt, nhưng lại muốn những thứ tốt này phải mọc trên những nhánh cây do chúng ta tuyển lựa và chỉ định, nhứt là phải thuộc vườn cây của Thiên Chúa hoặc của chúng ta chớ không của ai khác.
Thế giới ngày nay cũng như thời Chúa Giêsu đều có những kẻ trừ tà diệt quỷ. Và yêu quái thời đại chúng ta không thiếu chi trong đời sống thường nhật, điển hình là: sự vắng bóng niềm tin chân thực vào Thiên Chúa trong nhiều lãnh vực, sự đánh mất thiện giác, luân thường đạo lý bị chà đạp, những bất công và hiếp đáp bóc lột kẻ yếu, khinh miệt những người nghèo khổ, kỳ thị những kẻ không như mình... và ma quỷ cũng còn là sự thù ghét, lòng ganh tị hoặc thái độ kêu căng ngạo mạn, v.v...
Trái ngược các điều ác này, chúng ta lại biết hoặc thấy có những người, vì nghề nghiệp hoặc do tự nguyện, đang dấn thân vào các tổ chức, hội đoàn, phong trào để đấu tranh mang lại một chút tình thương cho kẻ khác hoặc cổ võ góp phần xây dựng một cuộc sống thoải mái tốt đẹp hơn... và ta có thể nghĩ ngay đến những nhà giáo dục, những y tá bác sĩ hoặc những người hy sinh thời giờ của mình để bảo vệ chính nghĩa hoặc phục vụ kẻ khác trong các công tác từ thiện bác ái...
Trước những cử chỉ cao đẹp này, ta không cần biết những vị đó có cùng tín ngưỡng, quan niệm hoặc đảng phái với ta hay không, vì chính Đức Kitô, Người duy nhất có lời ban sự sống, đã phán: “ai chẳng chống đối các con là ủng hộ các con. Vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền đó lại nói xấu Thầy". Qua lời nói này, Đức Kitô mời gọi chúng ta nên thoát khỏi những tranh chấp ý niệm tôn giáo hoặc đảng phái để nhận thức Thần Trí của Ngài ngự trị trên bất cứ những ai có thiện chí, với lòng trung thực và sẵn sàng phục vụ trong tình yêu thương nhân loại dưới mọi hình thức... do đó, không ai có quyền độc chiếm sứ mệnh truyền bá Tin Mừng. Công Đồng Vaticanô II có nói: “Ước gì giữa lòng Giáo Hội, chúng ta biết phát sinh lòng quý mến, tôn trọng và hoà hiệp lẫn nhau trong sự nhận biết những khác biệt chính đáng, cũng như biết cởi mở đón nhận những người anh em không cùng tín ngưỡng, nhưng có những truyền thống tàng trữ nhiều sở trường đạo hạnh và nhân phẩm quý giá..."
Vậy thì chúng ta cũng đừng nên ngạc nhiên khi thấy có nhiều kẻ ngang hàng hoặc kém sút hơn nhưng lại sống trung thực với Thần Linh Thiên Chúa và thực thi những công việc kỳ diệu hơn chúng ta. Thay vì ganh tị, ta nên ngưỡng mộ họ và chúc tụng Thiên Chúa trong kinh nguyện của chúng ta. Thay vì chống đối chỉ trích những ai không đồng bạn đồng hành, ta nên vui mừng về những hồng ân đã được trao ban cho họ, về những điều thiện được thực thi bởi kẻ khác và biết công nhận nơi họ có sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần.
Ước gì Thiên Chúa khơi dậy nơi chúng ta ngọn lửa tin yêu để thừa nhận ơn của Ngài vượt trên sự hiểu biết của chúng ta và hiện diện trong những hành vi cao thượng và tốt đẹp, để rồi chúng ta cùng thốt lên như Môisen: “chớ gì toàn dân được nói tiên tri và Chúa ban Thần Trí Người cho họ".
28. Mẹ của sự khám phá – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở ra những kho tàng’)
Phải nói rằng nhu cầu là mẹ của sự phát minh. Khi kỷ nguyên kỹ nghệ hóa bắt đầu làm cho nhu cầu ánh sáng trở nên tốt hơn là những cây nến hoặc cây đèn dầu và Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Nhu cầu là mẹ của sự phát minh. Trong Giáo Hội nhu cầu là mẹ của sự khám phá, đó là một sự khác nhau. Chúng ta có thí dụ trong bài đọc một.
Khi Môisê nhận thấy dân Israel ở nơi hoang địa đã trở thành quá đông số, quá sức chăm sóc của ông, ông đã phàn nàn với Chúa về gánh nặng của mình. Chúa đã nói với ông hãy thành lập một hội đồng bô lão gồm có bảy mươi bô lão để giúp vào việc cai trị. Trên họ, Thiên Chúa sẽ gởi xuống tinh thần của Môisê, điều có nghĩa là Thiên Chúa muốn chia sẻ quyền lực và sức mạnh của Môisê cho họ. Bởi nhu cầu, Môisê đã khám phá ra mình không thể làm tất cả mọi chuyện tự sức mình. Thiên Chúa muốn cho những người khác chia sẻ sứ vụ của ông trong việc hướng dẫn và chăm lo cho dân.
Khổ thay, Giosuê đã không hiểu kế hoạch của Thiên Chúa và có một lúc ông đã không lớn đủ để sẵn lòng chia sẻ tinh thần của Môisê với Eldad và Medad, là những người đã không hiện diện khi tinh thần ấy ngự xuống trên những người khác. Một điều gì đó quen thuộc đã xảy ra với Chúa Giêsu và các tông đồ. Chúa Giêsu đã chia sẻ sứ vụ của Ngài với các tông đồ nhưng khi Gioan thấy một người đàn ông không phải là một trong nhóm Mười Hai mà lại dùng danh Giêsu để xua đuổi quỷ, nên oán hận giống như Giosuê đã làm. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã không bị điều khiển bởi ganh tỵ. Ngài đã vui mừng vì sứ vụ của Ngài đã được lan rộng.
Trong Giáo Hội ngày hôm nay, nguyên tắc của nhu cầu là mẹ của sự khám phá vẫn được tiếp tục. Bởi vì các phong trào bên trong Công Đồng Vatican II, các Giáo hoàng và các giám mục đã luôn luôn nhớ rằng, Thiên Chúa ngay từ kỷ nguyên đầu đã ban cho Giáo Hội một thừa tác vụ, được biết như là phó tế. Đó cũng là một hình thức khám phá, bởi nhu cầu của cộng đoàn. Trước Công Đồng Vatican II chỉ một mình vị linh mục mới được cho rước lễ, (ngay cả thầy sáu chủng viện cũng cần có phép đặc biệt). Sau Công Đồng, số những người Công giáo rước lễ tăng lên rất nhiều, Giáo Hội khám phá ra rằng những giáo dân có thể trở thành những thừa tác viên đặc biệt cho rước lễ và một chức thừa tác đã được cho phép bởi Thiên Chúa và làm hài lòng Ngài. Trước Công Đồng Vatican II linh mục đã làm mọi chuyện trong Thánh Lễ, gồm cả việc đọc Thánh Kinh, nhưng sau khi trở lại với truyền thống, Giáo Hội mới khám phá ra rằng, từ xa xưa những thừa tác giáo dân cũng được biết như là những người đọc sách thánh.
Khổ thay, một số người trong chúng ta giống Giosuê và Gioan, chúng ta kháng cự lại sự khám phá. Chúng ta có thể oán hận bởi vì người đàn ông có vợ rồi vẫn có thể được truyền chức phó tế. Chúng ta cũng bực bội bác bỏ ý kiến về những thừa tác đặc biệt cho rước lễ và nhấn mạnh rằng họ chỉ được quyền trao Thánh Thể cho những trường hợp đặc biệt. Một số người khác trong chúng ta lại không thể chịu được những sự kiện, như là phụ nữ đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ.
Bởi vì nhu cầu mang ánh sáng lan tỏa trong Giáo Hội ngày hôm nay, ánh sáng đã được chiếu sáng hơn phát minh của Thomas Edison. Đó cùng là ánh sáng của Thánh Thể chiếu sáng trên chân lý để cho Giáo Hội thấy sáng tỏ hơn. Trong Thánh Vịnh nơi bài đáp ca, chúng ta đón nhận Thiên Chúa đã ban niềm vui cho trái tim. Đó là sự thật trao ban cho trái tim của chúng ta, để chúng ta mở rộng cho sự thúc đẩy của Thánh Thể trong Giáo Hội ngày hôm nay. Không nên phàn nàn về những thừa tác viên trong phụng vụ, chúng ta phải cám ơn Chúa và cầu xin cho ân sủng tuôn trào nơi Thánh Thần của Người sẽ tiếp tục ban xuống trên Giáo Hội.
29. Suy niệm của Achille Degeest.
THỜI ĐẠI CHÚNG TA CÓ ĐÁNG BỊ TRÒNG CỐI ĐÁ VÀO CỔ KHÔNG?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Các thánh chép sử không chủ tâm làm những bản tường thuật chính xác, đầy đủ về những lời Chúa Giêsu giảng dạy. Các ông truyền lại cách chính xác cho chúng ta giáo huấn của Thày tùy theo những điều nhớ được và tùy những lúc lưu tâm ghi – chép, nhưng theo thứ tự và cách sắp đặt không tuyệt đối đúng sự thật. Dường như thánh Marcô thuật lại trong bài đọchôm nay những đoạn rời rạc của một bài giảng của Chúa, chúng ta không sao hiểu được toàn bài như thế nào. Những đề mục gợi ra rất khác biệt, có thể là đề tài cho những công trình bình giải đi vào chi tiết. Về phần chúng ta, chỉ cần giữ lấy 2 chủ đề Suy niệm gợi ý chúng ta về hai cung cách trong số nhiều cung cách khác, để biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu trong đức ái thực tế.
1) Chúa không muốn các môn đệ đối lập với một người tuy không gia nhập nhóm các ông, nhưng nói và hành động nhân danh Ngài.
Ta thấy rằng Chúa phân biệt giữa sứ mệnh đặc biệt của nhóm Tông đồ và hiệu năng tỏa rộng của đức tin. Tông đồ Gioan bất bình thấy một người lấy tên Chúa mà hành động tuy không được chính thức nhìn nhận là 1 trong nhóm 12. Thày phản ứng, cho họ biết rằng muốn làm môn đệ hoạt động thì không bắt buộc phải ở trong tập đoàn Tông đồ Diễn giải Lời Chúa, ta thấy điều này có nghĩa tương tự như sau: hàng Giáo phẩm mà sứ mạng đặc biệt là bảo đảm đức tin, có bổn phận tôn trọng tính tự phát của Chúa Thánh Thần trong mỗi người đã chịu Phép Rửa. Hàng Giáo phẩm có thể và có bổn phận xem xét tính chất đích thật của sự tự phát này và phải vui mừng về tính sinh động của đức tin xuyên qua mọi tín hữu.
Mở rộng viễn tượng ra, người ta có thể dẫn chứng tư tưởng sau đây được Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh: Giáo hội vui mừng được nhìn thấy bất cứ hoạt động nào trong thế giới phù hợp với Phúc âm, dù cho hoạt động ấy không xuất phát từ thiên chức của Giáo hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI không quân phát biểu tư tưởng đó mỗi lần. Ngài tiếp kiến đại sứ một nước không theo Kitô giáo.
Liệu chúng ta có chấp nhận không giữ độc quyền tuyệt đối về Phúc âm không? Có những người gần gũi Phúc âm tuy không biết Phúc âm – trong khi có những Kitô hữu bất trung biết rõ Phúc âm mà lại xa cách Phúc âm.
2) Kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một trẻ trong các trẻ nhỏ này...
Những ai là ‘trẻ nhỏ’ Chúa nói đến ở đây? Chúa nghĩ đến em bé mà Cháu đem ra làm tấm gương thiêng liêng. Người cũng nghĩ đến nhóm môn đệ thiếu sáng suốt, khiêm nhường, quảng đại nhưng ít học, có xu hướng tự nhiên theo gương các lãnh đạo. Cấp lãnh đạo phải giữ mình sao cho đừng nên cớ cho họ vấp phạm, tức là đừng có trở thành dịp cho họ lầm lạc hay phạm tội.
Vấn đề trên đang rất hợp thời.
Nói chung, rất nhiều nhà ‘chế tạo dư luận’dẫn dắt chúng xa lìa chân lý và sự thanh khiết của Phúc âm.
Nói riêng, trong Giáo hội có những nhà viết sách báo và đôi khi cả những nhà tìm tòi nghiên cứu không cư xử như người có ý thức trách nhiệm. Cách khinh xuất, họ gieo rắc những nghi ngờ vào những tâm trí thiếu chuẩn bị, do đó làm suy yếu đức tin và quá nhiều phen giết chết đức ái. Vì họ thiếu một tình thương tạm đủ, cái cối đá Chúa gợi ý, đáng lẽ khiến họ phải hồi tâm.
30. Tinh thần đại kết.
(Trích trong ‘Niềm vui chia sẻ’)
Cha Anthony De Mello, một linh mục Ấn Độ, Dòng Tên, chuyên về huấn luyện tu đức, đã tưởng tượng câu chuyện “Chúa Giêsu đi xem bóng đá” (trong tập truyện “Bài ca của loài chim” The Song of Bird) như sau: “Nghe Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một trận bóng đá, chúng tôi liền đưa Ngài đến xem một trân đấu rất gay go giữa hai đội tuyển Tin Lành và Công Giáo. Khi đội Công Giáo làm bàn trước 1-0, Đức Giêsu hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội Tin Lành đã gỡ một đều (1-1), Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, ông ta hỏi Ngài:
- Này ông bạn, ông ủng hộ bên nào? Chúa Giêsu trả lời trong khi mãi mê theo dõi trận đấu: “Tôi à? Ồ, tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là để thưởng thức trận đấu mà thôi”. Người khán giả tỏ vẻ khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu lại bực hội hơn, ông quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn ta là một tên vô thần!”
Trên đường về nhà, chúng tôi nói với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại tất cả nhưng ai không thuộc về tôn giáo của họ”. Chúa Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: “Đó là lý do tại sao tôi không ủng hộ đội tuyển Tin Lành hay đội tuyển Công Giáo, mà chỉ ủng họ các cầu thủ thôi, dù họ thuộc bất cứ đội tuyển nào”.
Câu chuyện này tuy là tưởng tượng, nhưng nó mang sứ điệp của Tin Mừng hôm nay. Số là có người không thuộc về Nhóm Mười Hai Tông Đồ đã nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thấy thế, ông Gioan đã ngăn cản người ấy. Tưởng là có công lớn, ông đem khoe với Chúa Giêsu. Nhưng ông không ngờ trước phán quyết của Chúa: “Đừng ngăn cản người ta làm gì! Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”.
Vào thời ông Môisê cũng thế. Khi ông Giôsuê muốn dành độc quyền nói tiên tri cho nhóm bẩy mươi vị Kỳ Mục, đã xin Môisê ngăn cản hai ông Elđát và Mêđát nói tiên tri. Nhưng ông Môisê đã trả lời: “Anh ghen giùm tôi à? Phải chi Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”(Bđ. 1).
Cả hai câu trả lời thật đáng giá, vì chính thức lên án một tấm lòng hẹp hòi, một khối óc cục bộ. Làm sao người ta có thể nói tiên tri, có thể trừ quỷ, nếu không thuộc về Chúa, không do Chúa ban. Thái độ khép kín, phe nhóm như thế không đúng tinh thần cởi mở của Chúa Giêsu. “Thần Khí muốn thổi đâu thì thổi”, “đừng dập tắt Thánh Thần”. Không phải chỉ có Giôsuê của thời Môisê hay Gioan của thời Chúa Giêsu, mà Giáo Hội cũng đã nhiều lần muốn bảo vệ cái độc quyền nhân danh Đức Chúa của mình. Lịch sử Giáo Hội cũng là một chuỗi biến cố đau thương làm cho những trang sử của Giáo Hội mất đi vể trong sáng. Con người luôn bị cám dỗ áp đặt cho chính Thiên Chúa cái suy nghĩ hẹp hòi của chính mình, Cộng Đồng Vatican II đã đánh dấu một trang sử mới của Giáo Hội về chính mình, về thế giới, về những tôn giáo khác, về những người không tin. Không còn là thái độ lên án, khinh thường miệt thị nữa, mà là một thái độ trân trọng thực sự và đối thoại chân thành. Từ thái độ tự cao tự đại, tưởng mình độc quyền chân lý chuyển sang thái độ khiêm tốn biết giới hạn của mình, đồng thời nhìn ra cái chân, cái thiện, cái mỹ nơi người khác, nơi các dân tộc khác, trong các nền văn hoá khác.
Cuộc “hoán cải” lịch sử ấy vẫn đang tiếp diễn trong lòng Giáo Hội, đặc biệt trong những năm chuẩn bị bước sang Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Trong Tông thư “Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba” (10/11/1994). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi “Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về tội lỗi của con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những lạc xa Thánh Thần của Đức Kitô và Tin Mừng… Giáo Hội không thể bước qua ngưỡng cửa của Thiên Niên Kỷ mới mà không thối thúc con cái mình thanh luyện trong sự sám hối về những lỗi lầm, bất trung, chia rẽ, trì trệ… (số 34). “Trong số những tội lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài. Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội “đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này hay thành phần khác” đã bị xé rách một cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là một cớ vấp phạm cho thế giới” (số 34).
Người môn đệ Đức Kitô phải có trái tim rộng lớn, cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và mời gọi mọi người cộng tác vào những việc tốt, việc hữu ích cho con người, cho xã hội, không hạn chế, không loại trừ hay cấm cản ai, nhất là những người thành tâm thiện chí. Tinh thần quảng đại của Đức Kitô không cần biên giới, không chấp nhận bị ràng buộc trong một phe nhóm, một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt, vì “Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai”. Ở đất nước ta đã không thiếu những hình ảnh của các tăng ni phật tử bên cạnh các linh mục, tu sĩ nam nữ, các Kitô hữu để làm công tác từ thiện bác ái, thăm viếng bệnh nhân, chăm sóc các cô nhi quả phụ, xóa đói giảm nghèo… Có gì tuyệt cho bằng chân lý yêu thương của Đức Kitô được mọi người anh em Phật Giáo, Khổng Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Công Giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện cho bằng được: “Phàm ai hoạt động trong đức ái là đã thuộc về Đức Kitô” (x.Mc 9,41). Bởi vì bất cứ người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào, cũng đều được Chúa chấp nhận. Bất cứ hành động công bằng nào, công việc bác ái thương người nào, đều sẽ được Chúa thưởng công, dù chỉ một ly nước mát, một nụ cười tươi: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Ngược lại, Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm sa ngã phạm tội, làm điều gian ác. Hơn nữa, chính bản thân mình cũng phải cương quyết dứt khoát từ chối đi theo con đường tội ác, tránh xa dịp tội. Chúa bảo ai làm gương xấu cho kẻ khác vấp phạm thì “thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúa còn dùng kiểu nói cường điệu: “chặt tay, cưa chân, móc mắt”, nếu những chi thể quý báu ấy nên cớ cho mình vấp phạm để mất sự sống đời đời, vì “thà cụt tay, què chân, mù mắt còn hơn là phải vào hỏa ngục đời đời”. Lý do là giá trị tuyệt đối của sự sống đời đời.
Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình, nhưng hãy sống cái hạnh phúc được thuộc về Chúa Kitô và chia sẽ cho anh em hạnh phúc ấy. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác trong khi nói năng, cư xử, hành động, để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy thay đổi cách suy nghĩ và hành động phản chứng và gây gương mù. “Tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, hết thảy chúng ta được mời gọi tự vấn lương tâm và có những sáng kiến đại kết bổ ích để có thể giới thiệu cho thế giới thấy mình vào Năm Đại Toàn Xá 2000, nếu chưa hoàn toàn hiệp nhất thì ít ra cũng vượt qua được nhiều chia rẽ của Thiên Niên Kỷ Thứ Hai. Muốn thế, cần phải nỗ lực rất nhiều. Phải tiếp tục tiến hành đối thoại về giáo lý, nhưng nhất là cầu xin ơn hiệp nhất. Lời cầu nguyện mà chính Đức Kitô tha thiết kêu gọi trước khi chịu nạn: “Lạy Cha, xin cho mọi người hiệp nhất nên một trong chúng ta” (Ga 17,21) (số 43).
31. Nghiêm luật – Trầm Thiên Thu
Thuận ngôn nghịch nhĩ. Lời thật mất lòng. Thế nhưng hiếm có người muốn nghe lời thật – lời của sự thật, lời của chân lý.
Ca dao nói: “Mật ngọt nên mới chết ruồi – Những nơi cay đắng là nơi thật thà”. Thật vậy, người nịnh ta là kẻ thù của ta, người khen ta mà khen đúng là bạn của ta, người chê ta mới là thầy của ta. Khó nghe quá! Khó chịu lắm! Nhưng đó lại là sự thật! Sự phục thiện rất quan trọng. Phải tâm niệm “mất lòng trước, được lòng sau” thì mới là người chính trực.
Cái ác càng ngày càng hoành hành, tự tung tự tác. Thậm chí chỉ nhìn thấy “ngứa mắt” mà kẻ thủ ác không ngại rút dao lụi cho một cú, dù người bị hại không hề có lỗi gì. Đúng như tiền nhân nói: “Nhân dục thắng, thiên lý vong” [Ham muốn của con người thắng thì lẽ công (trời) sẽ bị mất]. Cũng vậy, ngạn ngữ Trung quốc nói: “Con cưng chiều khó giữ cơ nghiệp, vợ quay quắt khó giữ cửa nhà”.
Cái gì cũng có hệ lụy tất yếu: Gia luật bất minh, con cái hư hỏng; quốc pháp bất nghiêm, đất nước suy vong.
TƯ TƯỞNG DẪN TỚI LỜI NÓI
Lời nói là kết quả của tư tưởng. Vì phản ứng não quá nhanh, nhanh như chớp, chúng ta không thể nhận ra điều đó, nhưng quả thật là vậy!
Sách Dân Số kể: Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Môsê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa. Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại.
Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Môsê: “Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!” (Ds 11:27). Ông Giôsuê, con ông Nun, từng theo hầu ông Môsê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Môsê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!” (Ds 11:28). Nhưng ông Môsê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11:29).
Lời nói có thể chỉ là “lời theo gió bay”, nhưng lời nói vẫn quan trọng: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy”. Một lời nói ra, bốn ngựa cũng không đuổi kịp. Thế mà người ta không chịu “uốn lưỡi 7 lần” nên mới “nói nhịu” hoặc “lỡ lời”. Sự thật là chính Thần Khí mới tạo nên sự sống, vì có sống thì mới nói được. Mọi người đều được Thiên Chúa trao trách nhiệm làm ngôn sứ cho Ngài, nghĩa là ai cũng phải dùng lời nói mà tuyên xưng và loan báo Thiên Chúa nhân lành vô cùng.
Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Luật có sau con người nên luật phải vì con người, chứ con người không vì luật. Bởi con người không còn “nhân chi sơ tính bổn thiện” nên phải có luật, như hàm thiếc tra cho con ngựa chứng, nếu không thì mọi tôn ti trật tự đều bị đảo lộn. Thật vậy: “Ở đâu không có Lề Luật, thì cũng không có vi phạm” (Rm 4:15). Phàm cái gì cũng phải có luật: Luật giao tế, luật kinh tế, luật kinh doanh, luật quốc gia, luật quốc tế, luật đời, luật tôn giáo, luật đoàn thể, luật gia đình,… Ngay cả chuyện giản dị như ăn và nói cũng có luật. Nhưng tất cả đều phải dựa vào Luật Chúa, gọi là Thánh Luật, vì Chúa Giêsu xác định: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt 5:18).
Thánh Luật là Ý Chúa: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Luật đời có thể khiến người ta khổ sở, nhưng Luật Chúa luôn làm người ta hạnh phúc. Ai yêu mến Chúa thì chuyên chăm thi hành Thánh Luật, luôn miệt mài tìm kiếm Ý Chúa để vâng theo: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh” (Tv 19:10). Tác giả Thánh vịnh nói thay chúng ta: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽ nên vẹn toàn không còn vương trọng tội” (Tv 19:12-14). Chúng ta chỉ là những tội nhân, thế nên rất cần Luật Chúa để cải thiện cách sống, và đó mới là hạnh phúc đích thực mà các tôi trung của Chúa hằng mơ ước: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời” (Tv 119:1).
LỜI NÓI DẪN TỚI HÀNH ĐỘNG
Thánh Giacôbê khuyên một lèo: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này. Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người” (Gc 5:4a). Vì thế, “tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh” (Gc 5:4b).
Thánh nhân nói quá tỉ mỉ, quá rõ ràng, không hề bóng gió. Những lời đó hẳn chúng ta rất “chói tai” khi nghe, hoặc “xốn” mắt khi đọc. Sự thật mất lòng là thế! Ngài còn nói thêm: “Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5:5-6). Càng đọc/nghe, chúng ta càng thấy tự hổ thẹn với lương tâm của chính mình. Dù chúng ta có đấm ngực bao nhiêu lần mà không thay đổi cách sống, không bớt hung ác mà thêm tốt lành, không bớt ngu mà thêm khôn, thì cũng chỉ là vô ích!
Một hôm, ông Gioan tâm sự với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta” (Mc 9:38). Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39-40). Ôi, Sư phụ Giêsu “dễ ghét” quá chừng! “Không chống lại là ủng hộ”, Ngài nói vậy chứng tỏ Ngài quá chừng dễ thương, vì Ngài chẳng đòi hỏi chi cả.
Ngài không đòi hỏi điều chi lớn lao, thậm chí chỉ một hành động nhỏ cũng được Ngài ghi công: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41). Tuy nhiên, Ngài cũng thẳng thắn cảnh báo: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Cách so sánh rất thật, tất nhiên cũng rất… “chói tai”. Ngài tiếp tục so sánh cụ thể hơn: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48). Nghe mà giật thót mình như sét đánh. Nhưng đó là nghiêm luật của Chúa, không bao giờ lay chuyển. Ngài là Đấng trung tín và công minh, hễ NÓI là LÀM. Chúng ta không thể biện minh bằng bất kỳ lý do nào!
Thế mà chúng ta thấy ai không “hợp ý” mình hoặc không theo phe mình, chúng ta liền tìm mọi cách gièm pha, lườm nguýt, “hạ bệ”, hoặc trù dập. Tất nhiên Thiên Chúa biết rõ chúng ta là gì và thế nào, chỉ là cát bụi và tội lỗi, ích kỷ và kiêu ngạo. Nhưng chúng ta cũng đừng quá thất vọng, mà hãy luôn nhớ rằng lòng thương xót của Ngài còn lớn hơn mọi tội lỗi của cả thế gian này, như Thánh Giám mục Phanxicô Salê nói: “Đừng bao giờ lo buồn vì sự bất toàn của mình, nhưng phải luôn luôn can đảm đứng dậy sau khi vấp ngã”. Vế thứ hai trong câu nói của thánh nhân rất quan trọng!
Đặc biệt là Chúa Giêsu đã hứa: “Tôi muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13). Đó là niềm hy vọng và niềm an ủi đối với chúng ta. Ngài không chỉ muốn chúng ta sống mà còn phải được sống dồi dào (Ga 10:10). Nhưng Ngài cũng bắt chúng ta tự vấn lương tâm: “Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội” (Mt 12:7).
Kiêu ngạo dẫn đến cố chấp. Đó là tội “siêu trọng”, tội nặng nhất, tội phạm đến Chúa Thánh Thần: “Mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. Ai nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng được tha, cả đời này lẫn đời sau” (Mt 12:31-32).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết cẩn trọng mọi thứ ngay từ trong ý nghĩ để chúng con đêm ngày tìm kiếm Thánh Ý Ngài và hết lòng thi hành Thánh Luật. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
32. Nhỏ mà to – Trầm Thiên Thu
Có những điều tưởng nhỏ mà hóa to, có những điều tưởng to mà lại nhỏ. Như tục ngữ Việt Nam nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền”. To hoặc nhỏ cũng có nghĩa đen và nghĩa bóng, tiêu cực và tích cực. Chuyện nhỏ và to giống như vòng lẩn quẩn, có cái khôi hài mà “thấm thía”.
Trong cộng đồng mạng, người ta có luận về “chuyện nhỏ – to” như thế này: “Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có… có…” (*). Đúng là cười ra nước mắt, cười mà đau, cười mà chẳng vui chút nào! Sao thế nhỉ? Chỉ khổ cho đám “dân đen”, kêu chẳng ai thèm nghe!
Chu kỳ “nhỏ-to” như vậy không chỉ nói tới xã hội, đừng vội cười người kẻo bị người cười, vì trong đó cũng thấy “thấp thoáng” bóng dáng những người có chức vị trong tôn giáo. Dù to hay nhỏ, dù rộng hay hẹp, loại “ô dù” nào cũng đáng sợ. Kiểu nào thì cũng chỉ khổ đám dân đen thấp cổ bé miệng mà thôi!
Tuy nhiên, sự thật mãi mãi là sự thật, và sự thật thường làm chúng ta đau lòng, ngại đối mặt, thế nhưng ai dám đối mặt với sự thật thì mới khả dĩ “nên khôn”, vì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32) – Thầy chí thánh Giêsu đã bảo thế.
Trình thuật Ds 11:25-29 cho biết: “Ngày xưa, Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa”. Thần Khí đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài không bao giờ xuất hiện trong dạng hình người – chỉ như Gió, Lửa, Nước, hoặc Bồ Câu – nhưng Ngài vẫn không ngừng tác động nơi mỗi chúng ta, ngay từ trong ý nghĩ.
Bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê: “Ông En-đát và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!”. Ông Giô-suê, con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: “Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!”. Nhưng ông Mô-sê trả lời: “Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!”.
Được lãnh nhận Thần Khí là điều ai cũng muốn, ông Mô-sê cũng đã mong cho mọi người đều được ơn “nói tiếng lạ” để trở nên ngôn sứ của Thiên Chúa. Về cơ bản, bất cứ ai đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy thì đều có thiên chức: Ngôn sứ, Tư tế, và Vương giả.
Đây là lĩnh vực thần học, như Công đồng Vatican II đã đề cập trong Hiến chế Tín lý về Giáo hội (số 10). Đại ý: Thiên chức Tư tế (linh mục là tư tế thừa tác, Kitô hữu là tư tế cộng đồng) là để hiến dâng của lễ cứu độ loài người; Tiên tri (hoặc Ngôn sứ) là để loan báo Tin Mừng Nước Trời; Thiên chức Vương giả (hoặc Vương đế) là để phục vụ dân riêng của Thiên Chúa.
Với mỗi Kitô hữu (dù là giáo hoàng, giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, giáo dân, thành viên Đạo Binh Đức Mẹ, Lòng Chúa Thương Xót, Phạt Tạ Thánh Tâm, Con Đức Mẹ, Dòng Ba Đa-minh, Cursillo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hội đồng Giáo xứ,...), đều được Thánh Phêrô nhắn nhủ: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em em như những viên đá sống động mà xây lên ngôi đền thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa dắt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2:5).
Thời gian gần đây, chúng ta thấy xuất hiện phong trào “Sứ Điệp Từ Trời”, hoặc vấn đề “Canh Tân Đặc Sủng Với Ơn Té Ngã Và Nói Tiếng Lạ” mà Lm P.X. Ngô Tôn Huấn đã vài lần đề cập và cảnh báo. Quả thật, nếu chúng ta cứ “chạy đua” theo các “sự lạ” như vậy, coi chừng sẽ hóa thành Tin Lành.
Vì thế, đừng ham “thành tích” hoặc “sự lạ” mà tự làm hại đức tin của chính mình. Phúc đâu chưa thấy mà lại thấy họa! Trừ một số ít các vị thánh có ơn đặc biệt (như Thánh Martin, Thánh Faustina, Thánh Piô Năm Dấu,...), đa số các thánh đều có cuộc sống bình thường, thậm chí là rất bình thương, không có gì gọi là “lạ”. Vấn đề quan trọng vẫn là sống lòng thương xót để chứng tỏ đức tin vững mạnh và trọn vẹn đến hơi thở cuối cùng. Ngay như đối với Thánh Gioan XXIII, Thánh Gioan Phaolô II, Chân phước Phaolô VI, Chân phước Têrêsa Calcutta, Bậc đáng kính P.X. Nguyễn Văn Thuận,... là những người vừa sống cùng thời với chúng ta, cuộc đời các ngài không có gì gọi là “sự lạ”, có chăng là cách sống “lạ” – tức là thâm tín, chịu đựng, hy sinh,… vì mến Chúa và yêu người. Ai thực sự được gặp Chúa thì chắc chắn cuộc đời biến đổi hẳn, chứ không “nửa vời” như những người vẫn vỗ ngực tự nhận là được “ơn lạ”, nhưng cách sống của họ không thấy rõ nét biến đổi. Quả là chí lý khi tiền nhân cảnh báo chúng ta: Cẩn tắc vô ưu!
Chắc hẳn tác giả Thánh Vịnh cũng có cuộc sống đời thường như chúng ta, nhưng có cái “lạ” là biết giữ trọn Luật Chúa và nhận thức sâu sắc: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Nhận thức được như vậy thì quyết tâm tuân thủ, không so đo, không tính toán: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh (Tv 19:10).
Tác giả Thánh Vịnh thật là khôn ngoan khi biết tìm kiếm và cầu xin những gì thực sự có lợi cho linh hồn: “Tôi tớ Ngài đây xin ra công học hỏi; ai giữ những điều này sẽ được nhiều lợi ích. Nhưng nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà chẳng hay. Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con. Như thế con sẽ nên vẹn toàn, không còn vương trọng tội” (Tv 19:12-14).
Là Đấng chí tôn, tối thượng, nhưng Chúa Giêsu đã hạ mình đến tột cùng để sẵn sàng coi tội nhân chúng ta là thân hữu của Ngài: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15:15). Chúng ta dành cả đời để tạ ơn Ngài cũng không đủ, chứ nói chi dám năn nỉ Ngài ban cho điều gì nữa. Vì thế, chớ có ngu xuẩn mà ảo tưởng, tự cho mình là “ông kia, bà nọ”, hoặc đòi phải thế nọ, thế kia.
Thánh Giacôbê vừa nhắc nhở vừa cảnh báo: “Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai họa sắp đổ xuống trên đầu các người. Tài sản của các người đã hư nát, quần áo của các người đã bị mối ăn. Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này” (Gc 5:1-3).
Giàu sang, lắm của và nhiều tiền, đó không là tội. Nhưng tiền bạc có ma lực khó cưỡng lại, vì thế mà Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10). Đừng tưởng rằng những người đi tu mà “quên” tiền bạc, thậm chí có người còn tệ hơn giáo dân.
Ví dụ: Gm Tebartz-van Elst “nổi tiếng” là xa hoa hào nhoáng ở Đức, đã chi hơn 31 triệu euro để tu sửa dinh cơ của ông. ĐGH Phanxicô đã cho mãn nhiệm hồi tháng 10-2014. Lm Gioan Baotixita Võ Hồng Khanh vì lem nhem tiền bạc đã bị tước năng quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles (Hoa Kỳ) từ ngày 25-6-2015. Lm Ng. của TGP Saigon, còn trẻ nhưng đã bị nghỉ hưu non vài tháng qua vì lem nhem tiền bạc, quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục đích cá nhân ông. Và rồi các dịp đặc biệt (lễ, tết,…), Việt Nam cũng có giám mục được người ta đến chúc mừng bằng vật chất “béo bở” (không chỉ “phong bì dày” mà “vàng thật”). Thảo nào người ta bảo “tiền là tiên, là Phật,…”. Có nên đặt “dấu hỏi LỚN” hay không? Quả thật, đáng quan ngại biết bao!
Thánh Giacôbê nói thêm: “Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Trên cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. Các người đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người” (Gc 5:4-6). Thật chí lý khi tiền nhân xác định: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cái nào cũng to, cũng khó, nhưng khó nhất vẫn là “tu thân”. Chắc hẳn không phải ngẫu nhiên mà người ta đặt tiêu chí “tu thân” lên hàng đầu.
Hãy luôn ghi nhớ lời của Thánh Phaolô: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10). Và cũng đừng quên lời của Thánh Phêrô: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8). Chuyện NHỎ mà lại TO, không hề NHỎ chút nào ráo trọi!
Một hôm, chàng trai trẻ Gioan nói với Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Gioan hơi bị vô duyên, vì cứ tưởng không ai khác có quyền trừ quỷ. Ảo tưởng! Cái ảo tưởng của Gioan cũng là cái ảo tưởng của nhiều người trong chúng ta ngày nay. Và rồi Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (Mc 9:39-40).
Sau đó, Chúa Giêsu nói rõ: “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9:41). Chén nước chẳng là gì, chỉ là “chuyện nhỏ”, thế nhưng lại là “chuyện lớn”, chuyện quan trọng, và được Chúa Giêsu “chấm công”. Tất nhiên “việc nhỏ” đó phải được thực hiện với tình yêu thương, lòng trắc ẩn, lòng thương xót, chứ không vì bất cứ lý do gì khác.
Liên quan vấn đề nhỏ – to, Chúa Giêsu thẳng thắn nói: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9:42). Cách so sánh rất “nặng”, nhưng Ngài nói thật, không hề nói giỡn chơi hoặc hù dọa chi cả. Thiết tưởng rằng trẻ nhỏ ở đây không chỉ là trẻ thơ, trẻ em, hoặc con nít, mà còn là những người chân chất thật thà – dù đã trưởng thành hoặc cao niên.
Và còn hơn thế nữa, vốn dĩ tính thẳng thắn thật thà, Chúa Giêsu nói “mạnh” hơn nữa: “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (Mc 9:43-48).
Những lời này đầy “lửa”, có thể thiêu đốt bất cứ người nào, bất cứ lúc nào, và bất cứ nơi nào!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thực hiện những điều bình thường một cách phi thường, làm với tình đồng loại thực sự, mong sao được nên giống Ngài phần nào, vì con biết con rất dễ ảo tưởng. Xin thương xót, định hướng và nâng đỡ con, lạy Chúa! Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
***
(*) Đất nước NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn nhà TO, căn nhà TO có cô vợ NHỎ, cô vợ nhỏ dành cho ông quan TO, ông quan TO mang chiếc cặp nhỏ, chiếc cặp NHỎ có những dự án TO, dự án TO nhưng hiệu quả NHỎ, hiệu quả NHỎ nhưng thất thoát TO, thất thoát TO nhưng lỗi lại NHỎ… Trong đất nước NHỎ có những ông lãnh đạo TO, những ông lãnh đạo TO có cái đầu NHỎ, cái đầu NHỎ nhưng túi tham TO, túi tham TO bởi vì đầu óc NHỎ, đầu óc NHỎ nên tác hại TO, tác hại TO mà trách nhiệm NHỎ, trách nhiệm NHỎ nhưng quát tháo TO, quát tháo TO vì trí tuệ NHỎ, trí tuệ NHỎ nhưng lợi nhuận TO, lợi nhuận TO nhưng số người chia chác lại NHỎ, số người tuy NHỎ nhưng tổn thất TO, tổn thất TO nhưng báo cáo là NHỎ , báo cáo NHỎ nhưng thành tích thật vẫn TO. Và… cán bộ TO đi xe NHỎ (xe riêng), cán bộ NHỎ lại đi xe TO (xe đò), ông quan TO thường ở với vợ NHỎ (vợ bé), ông quan NHỎ phải ở với vợ TO (vợ cả) và ở nhà TO (nhà tập thể)…
33. Chặt tay bạn đi – Gm. Arthur Tonne.
Ngày xửa, ngày xưa, một đoàn thám hiểm từ lục địa Châu Âu đi tìm đất mới. Bạn biết gì về hòn đảo Ireland ngày nay – Nhà lãnh đạo của họ là một người phiêu lưu với số mệnh. Ông tuyên bố: Ai dựng lều đầu tiên, sẽ là chủ toàn thể lãnh thổ. Một người trong nhóm tên là O’Neil quyết tâm dành được đất mới. Ông rán sức chèo, nhưng một chiếc thuyền đối thủ rượt theo ông, bắt kịp ông rồi qua mặt ông. Ông có thể làm gì? Người đàn ông tinh thần mạnh mẽ, ý chí sắt đá này buông mái chèo, cầm lấy búa và chặt bàn tay trái liệng lên bờ. Như thế ông là người đầu tiên đụng vào đất mới, và nó là của ông.
Tôi kể câu chuyện đẫm máu và rùng rợn này để giúp chúng ta hiểu được những lời đẫm máu và rùng rợn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Nếu tay bạn làm cớ cho bạn phạm tội, hãy chặt nó đi. Thà bạn tàn tật mà được vào cõi hằng sống hơn là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục. Chúa Giêsu muốn nói điều chi?
Người nói rằng những ai theo Người phải sẵn sàng hy sinh những cái gần gũi nhất, thân yêu nhất hơn là bất tuân luật Chúa bởi phạm tội. Cắt tay, chặt chân, hay móc mắt không hiểu theo nghĩa đen. Chúa Giêsu không nói rằng chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân. Đó chỉ là cách nhấn mạnh của Người và gây ấn tượng mạnh mẽ trên chúng ta, để chúng ta hiểu rằng Nước Thiên Chúa, đất vĩnh cửu của chúng ta muốn đạt được, xứng đáng mọi hy sinh.
Để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải sẵn sàng làm một vài việc quyết liệt và đau đớn như chặt chân, cắt tay. Với một số người, xa lìa một vài món đồ vật chất cũng có thể đau đớn như cắt một bàn tay. Tuy nhiên Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta cho người đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người không nhà ở trọ, chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Chúng ta phải làm một vài hy sinh để nâng đỡ Giáo Hội Chúa, công cuộc của Chúa là truyền bá đức tin. Cái đó thường cũng đau đớn.
Hy sinh để đẹp lòng Chúa và chiếm đoạt Nước Trời có thể cũng đau đớn như cắt một bàn tay. Với một người nghiện rượu, bỏ một chai rượu hay chỉ một ly thôi cũng có thể gây khổ sở cho anh. Nhưng để làm đẹp lòng Chúa, anh phải bỏ.
Chúng ta thích ngủ nướng trên giường vào sáng Chúa Nhật hơn là đi lễ. Cố gắng chiến đấu để vượt thắng tính lười biếng, có thể gây phiền phức, khó chịu ở một mức độ nào đó. Nhưng đó là phương cách để chúng ta chiếm đoạt Nước Thiên Chúa. Thường dễ ngồi chăm chú nhìn màn kính truyền hình đến phút chót, hơn là dành chút thời giờ cầu nguyện hay đọc vài dòng Kinh Thánh, hoặc đọc báo chí Công giáo, và ngay cả nói chuyện với người thương.
Hầu chuyện với Chúa là một đặc ân lớn lao, một niềm vui tuyệt diệu nhưng nó đòi hỏi cố gắng cắt bớt một vài việc không quan trọng và gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu đã cố gắng, Chúa Giêsu đã hy sinh. Người không chỉ cắt tay, Người hiến cả thân mình, chúng ta tưởng niệm sự dâng hiến đó nơi đây trên bàn thờ này. Hãy xin Chúa Giêsu sức mạnh để từ bỏ chính mình. Xin Chúa chúc lành bạn.
34. Suy niệm của Noel Quesson.
AI KHÔNG CHỐNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TA
Một ni cô nọ có một tượng Phật bọc vàng, cô quý pho tượng lắm, đi đâu cũng mang theo. Trong ngôi chùa cô tu hành có nhiều tượng Phật, cô dọn riêng cho pho tượng của mình một bàn thờ đặc biệt. Lúc đốt hương trước tượng Phật của mình, ni cô không muốn làn hương bay sang các tượng khác, cộ xoay trở làm sao cho làn khói hương bay thẳng vào mũi pho tượng vàng của mình. Lâu ngày, pho tượng vàng của ni cô vì đón nhận khói hương mỗi ngày nên mũi tượng trở nên đen thùi xấu xí.
Đôi khi lòng nhiệt tình đến mức ích kỷ, cũng trở nên nhỏ mọn khó coi.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hài lòng về thái độ hẹp hòi của các Tông đồ. Chúa vừa bảo các ông khiêm tốn, phải nên tôi tớ mọi người, phải phục vụ mọi người, chứ không phải chỉ riêng với người đồng đạo, người Công giáo.
Nhưng các Tông đồ chưa thấm nhuần bài học này. Chúng ta thấy chính Gioan, một Tông đồ ưu tú của Chúa Giêsu phát biểu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ, chúng con muốn ngăn cản anh ta, vì anh ta không theo chúng ta”. Đọc câu chuyện này có lẽ ai trong chúng ta cũng thấy cái tính hẹp hòi, không thích hợp với tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu.
Chúng ta đừng quên rằng trong thực tế ngày nay, tinh thần này vẫn còn tồn tại và đôi khi vẫn bộc lộ trong tư duy cá nhân và tập thể. Có lúc các tín hữu chúng ta cũng khó chịu khi thấy có người ngoài nhóm chúng ta mà cũng làm được những chuyện tốt đẹp khác thường, những người không theo Chúa Giêsu mà cũng dùng giáo lý Người làm phương châm cuộc sống và nhờ đó đã đạt tới thành công. Đôi lúc có vẻ những người không phải Kitô hữu mà cũng nhận ra được ơn Chúa, họ cũng biểu lộ được những đức tính mà người Công giáo ra công gắng sức tập luyện mà chưa đạt tới. Thấy những người ngoài Công giáo sống tốt, biết xả kỷ vị tha, có người Công giáo đã tỏ ra không ưa, cho rằng những hành vi kia chỉ là vẻ bề ngoài hoặc là giả tạo. Còn Chúa Giêsu, Người muốn sửa đổi những suy nghĩ sai lầm ấy, Người cho các Tông đồ thấy rõ: Ai không chống lại Chúa, là ủng hộ Chúa, và họ cũng có công phúc. Mọi người đều có thể đón nhận Chúa, ai cũng có thể sống theo tinh thần Chúa. Chúa có thể ban ơn cho bất cứ ai. Người không bị ràng buộc vào một băng nhóm hay một cơ chế nào. Giáo lý và Tin Mừng của Chúa dành cho mọi người, giáo cũng như lương. Ở chỗ khác, Chúa cũng diễn tả vấn đề này bằng kiểu nói khác: “Thần Khí như gió, muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8).
Thánh Phêrô đã thấy Thánh Linh xuống trên cả dân ngoại (Cv 10,44). Chúa thông suốt mọi sự, nên Người đã giải thích cho các môn đệ: “Không ai vừa nhân danh Thầy làm phép lạ, lại vội nói xấu Thầy”, nghĩa là có những lúc Chúa tỏ uy quyền của Người trên cả những người chưa phải là tín hữu Kitô. Điều đó giúp chúng ta xác quyết rằng những hành động tốt thì luôn luôn do Chúa soi sáng thúc đẩy. Hiểu như thế chúng ta sẽ nhận ra những người thành tâm thiện chí để hợp tác, để đón nhận nhiều bạn đồng hành trên đường phục vụ và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi người theo gương Chúa và chu toàn ý định của Chúa: “Muốn cho mọi người được cứu và nhận ra Chân lý” (1Tm 2,4).
Lạy Chúa, xin giúp con sống quảng đại với mọi người, sẵn sàng hợp tác với những người thành tâm thiện chí để mưu ích cho mọi người. Xin Chúa tỏ quyền năng Chúa trên chúng con và những người đang tìm về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Người.
35. Dịp tội.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về dịp tội.
Câu hỏi thứ nhất: Dịp tội là gì?
Tôi xin thưa, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy làm cho chúng ta dễ dàng vấp ngã.
Câu hỏi thứ hai: Chúng ta phải có thái độ nào đối với dịp tội?
Trước hết bản thân chúng ta không được trở thành dịp tội cho người khác sai lỗi. Hay nói một cách cụ thể hơn, chúng ta không được phép làm gương mù gương xấu cho người khác.
Rất nhiều lần chúng ta đã nói:
- Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình, trái lại, chúng ta sống là sống với người khác.
Thế nhưng, trong cuộc sống chung này, chúng ta lại ảnh hưởng đến nhau rất nhiều. Một lời nói tốt, hay một việc làm tốt sẽ để lại một ảnh hưởng tốt. Trái lại, một lời nói xấu hay một việc làm xấu, sẽ tạo nên một hậu quả xấu nơi người chung quanh. Chính vì thế mà tục ngữ đã bảo:
- Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.
Hay như danh ngôn Tây phương cũng nói:
- Anh hãy chỉ cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ cho anh hay anh là người như thế nào.
Chính vì thế, chúng ta không được làm gương mù gương xấu, trở thành dịp tội, trở thành cái cớ cho người khác vấp phạm.
Chúa Giêsu đã có một thái độ nghiêm khắc đối với kẻ làm gương mù gương xấu. Ngài nói:
- Nếu ai làm cho một trong những kẻ bé mọn này phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn.
Đang khi mọi người cố gắng rao giảng Tin Mừng, góp phần làm cho Giáo hội được phát triển, thì gương mù gương xấu sẽ hủy hoại Giáo hội và làm cho Giáo hội bị giảm sút.
Ngoài ra, bản thân chúng ta còn phải xa tránh những dịp tội.
Như trên chúng ta đã nói dịp tội là những hoàn cảnh thúc đẩy khiến chúng ta dễ dàng sai lỗi. Bởi đó, tục ngữ đã dạy:
- Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, chơi dao có ngày đứt tay.
Hay như một nhà đạo đức đã xác quyết:
- Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.
Tuy nhiên, có điều chúng ta cần phải lưu ý: dịp tội thay đổi tùy theo mức độ hiểu biết và trưởng thành của mỗi người. Cùng một cuốn sách, người này đọc thì thấy hay và bổ ích, còn người khác thì bị cám dỗ nặng nề về đức tin hay đức trong sạch. Vì thế, không phải hễ thấy người khác làm việc nọ việc kia là chúng ta bắt chước mà làm theo. Trái lại, cần phải suy nghĩ, cân nhắc, bàn hỏi và lắng nghe tiếng nói của lương tâm để dễ dàng nhận ra dịp tội, bởi vì trước mỗi hoàn cảnh, trước mỗi công việc, lương tâm thường lên tiếng báo động và chỉ cho chúng ta hay đâu là cái phải làm và đâu là cái phải tránh.
Tóm lại để bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn, chúng ta hãy can đảm xa tránh dịp tội, như lời Chúa đã phán dạy:
- Nếu mắt con làm con phạm tội, thì hãy móc nó đi, vì thà rằng chột một mắt mà được vào nước trời, còn hơn là có đủ cả hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục đời đời.
36. Nhân danh.
Trong trận thế chiến II, ba vị tuyên úy Công giáo, Tin lành và Do thái trở thành những người bạn thân của nhau. Họ thề hứa với nhau nếu một người trong nhóm bị giết chết, thì những người còn sống sót phải báo tin cho gia đình của người qua đời và lo việc chôn cất.
Thế rồi, vị tuyên úy Do thái bị giết chết. Hai người còn lại không thể tìm thấy một Rabbi hay một hội đường Do thái nào. Cuối cùng, trong một làng ở nước Pháp, họ tìm thấy một nhà thờ Công giáo xinh đẹp với một nghĩa trang được chăm sóc cẩn thận. Vị tuyên úy Công giáo đề nghị: “Chúng ta hãy đi gặp vị linh mục chánh xứ, may ra ông ấy có thể giúp chúng ta”.
Cha xứ muốn giúp họ. Nhưng ngài lại không bảo đảm chắc chắn được nên mới nói: “Ngày mai, xin các ông trở lại đây. Tôi sẽ tìm kiếm trong các sách vở để xem có luật nào cho phép chôn một người không phải Kitô hữu trong một nghĩa trang Công giáo hay không “.
Cha xứ đã tìm kiếm suốt đêm đó, nhưng không có kết quả. Ngài bảo họ: “Hãy chôn ông ấy ngay sát hàng rào của nghĩa trang. Chính tôi sẽ chăm sóc ngôi mộ của ông ấy”.
Khi chiến tranh kết thúc, họ quay lại để viếng ngôi mộ của người bạn. Nhưng họ không thấy dấu vết gì ở sát bên hàng rào của nghĩa trang. Họ tìm cha xứ và yêu cầu ông giải thích. Cha xứ mỉm cười và nói: “Tôi thấy ngôi mộ nằm bên ngoài nghĩa trang trông cô độc quá. Do đó, tôi tiếp tục tìm kiếm”. Họ liền hỏi: “Cha đã tìm thấy một luật cho phép dời ngôi mộ vào bên trong hàng rào?” Cha xứ trả lời: “Tôi không thấy một luật nào cho phép như thế. Nhưng không có luật nào cấm tôi dời hàng rào ra bên ngoài”.
Thái độ loại trừ đang phổ biến khắp nơi. Không chỉ trong lãnh vực tôn giáo, nhưng còn trong các tổ chức, các hiệp hội và mọi nơi khác trong xã hội. Ngay cả trong các gia đình nữa, khi cha mẹ thương đứa con này hơn đứa khác.
Chúa Giêsu không có quan niệm loại trừ. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy”. Không có độc quyền trong sự thánh thiện. Chúa Giêsu Kitô không chỉ thuộc về những người Công giáo, Tin lành, Chính thống… và những Kitô hữu khác. Người thuộc về tất cả những ai có thiện chí, có thiện tâm. Tất cả mọi người chúng ta đều thuộc về Chúa Giêsu Kitô.
Lạy Chúa Giêsu, con tin, nhưng xin trợ giúp đức tin yếu kém của con.
37. Chiến hữu của Thiên Chúa
Ông Gioan nói với Đức Giêsu: Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta. Đức Giêsu đáp: Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ. Rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.
Xem ra Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, được mô tả như là chiến hữu của Thiên Chúa tay cầm lưỡi đòng, đạp trên mình satan ác quỷ. danh hiệu của Ngài cho người đời đủ biết rằng Ngài luôn sát cánh cùng với Thiên Chúa; trong cuộc chiến không khoan nhượng với tội lỗi ma quỷ.
Các Tông Đồ và môn đệ là chiến hữu của Chúa Giêsu. Các ngài được Chúa yêu thương bảo bọc như ta đã biết, qua Thánh Kinh và Thánh Truyền. Cuộc chiến của Chúa Giêsu chống lại Satan và tội lỗi là cuộc chiến chỉ kết thúc khi trời mới đất mới mở ra, mà chính những người theo Chúa, có nhiệm vụ đem trời mới đất mới đó mở mang trên thế giới này!
Thật ra, phải nhìn nhận cách chính xác và hết sức nghiêm túc rằng: các Tông và các môn đệ là những vị tướng tiên phong trong cuộc chiến đó. cho nên, những ai đón tiếp các ngài, đối xử tử tế với các ngài, khác nào đón tiếp và đối xử tử tế với Chúa, khác nào góp phần làm cho cuộc chiến chống lại tội lỗi ngày càng oanh liệt để nước Trời hiện trên trần gian này,
Thế nhưng hết sức nghiêm khắc, Chuá Giêsu là Đức Vua, nhắc nhở các vị tướng lãnh của mình phải tuyệt đối trung thành với sứ mạng: LOAN BÁO TIN MỪNG TÌNH YÊU THIÊN CHÚA cho chư dân! Muốn nói điều gì với người khác, thuyết phục người khác tin, thì chính bản thân mình phải sống điều đó! Muốn kêu người ta bỏ đàng tội lỗi, chính mình phải bỏ trước; chưa đủ, còn phải sống gương mẫu, nếu làm cho người ta sa ngã thì theo cách nói nhấn mạnh trách nhiệm của ta đối với Chúa Giê su thà buộc cối đá vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn! vậy chúng ta hãy cố gắng sống theo ý Chúa như các trẻ em về niềm tin của các em vào Đức Giêsu?
GỢI Ý SỐNG:
1. Đoạn Tin Mừng trên đây dạy ta điều gì về cách thức ta phải đương đầu với cơn cám dỗ?
2. Chúng ta có nghiêm túc lưu ý về tội lỗi như Thiên Chúa muốn không?
3. Tin Mừng hôm nay trình bày thế nào về trách nhiệm của ta đối với tha nhân cách rêng là đối với trẻ em, Về niềm tin của các em về Đức Giêsu?
38. Gương mù.
Bài Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa Giêsu được thánh Marcô ráp lại với nhau: Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị, ngay cả với người ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của mỗi người môn đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ cho người khác vấp ngã, dù là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho mình vấp ngã, vì giá trị tuyệt đối của nước trời. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai điều sau thôi, tức là gương mù gương xấu.
Chúng ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong cõi lòng, trong tư tưởng, trong lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào thì hành động ắt sẽ xảy ra như vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng tốt đến hành động tốt có vẻ hơi xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu thì rất gần. Những hành động xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo bao nhiêu thứ tội khác và kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: “Mù dắt mù cả hai ngã xuống hố”. Một ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn đèn khác cần được thắp sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một ngọn đèn tắt đi là không những tối cho mình mà nhiều người khác dễ vấp ngã.
Gương mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Tai hại như vậy nên Chúa Giêsu gắt gao lên án hết mọi kẻ làm gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt gao vì họ là kẻ giết người vô tội, tiêu hủy đức tin. Làm tăng thêm số người tội lỗi và khô khan, nói chung là làm hại các linh hồn. Kinh Thánh cho biết bà Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu cho dân, số người bắt chước đời sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở nên gấp mười lần số người các ngôn sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc vất vả. Tai hại và nguy hiểm như vậy nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc thớt đá cối xay vào cổ và quăng xuống biển, vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người ta phạm và những tội chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết thêm một chút về câu nói trên đây của Chúa Giêsu. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt cối xay bột do các bà làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà ngũ cốc. Ở Palestine có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc thớt cối đá ném xuống biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rôma mang vào Do Thái, và rất kính sợ vì chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây gương mù dịp tội thì đáng lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần gian mà là trong hỏa ngục của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã là tội rồi, lại còn lôi cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn là tội giết người, vì giết người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm mất sự sống vĩnh cửu. Và chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều người thấy mới là gương mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.
Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hết sức tránh dịp tội, Chúa bảo phải “móc mắt, chặt tay, chặt chân”, không phải là móc mắt, chặt tay, chặt chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay, mất chân với việc cả toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa chọn một trong hai điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu tạm thời trên đời đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý giá tạm bợ kia để rồi lãnh án phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là Chúa muốn chúng ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu hình ảnh nào làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi, cũng như không thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy ra. Cũng tương tự như thế cho những ai trong dịp tội, đừng có liều mình. Các thánh nhân đã kinh nghiệm dạy: “thà phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “đào vi thượng sách”. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao đây? Cuộc đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê, nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần gian cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm luân mà giữ mình cẩn thận.
Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.
39. Một ly nước lã – Lm. John Nguyễn Tươi
Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ còn một hào trong túi, mà bụng thì đang đói, cậu ta đi đến nhà bên cạnh để xin ăn. Một phụ nữ trẻ đẹp ra mở cửa, nhìn thấy cậu bé. Cô ta đoán là cậu đang đói bèn mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi: Cháu phải trả cô bao nhiêu ạ? Người phụ nữ trả lời: Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt. Cậu bé cảm kích đáp: Cháu sẽ biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu. Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe khoắn hơn và niềm tin của cậu vào con người càng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn đầu hàng với số phận.
Nhiều năm sau, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không chữa khỏi. Họ chuyển bà đến thành phố lớn để các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ lùng này. Tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng và đi đến phòng bệnh của người phụ nữ nọ. Ông nhận ra ngay người ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng hội chuẩn, ông quyết định sẽ dốc hết sức lực để cứu sống bệnh nhân này.
Sau đó, tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân để xem lại. Ông viết vài chữ và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn thầm nghĩ rằng, bà phải thanh toán nó cho đến hết đời cũng chưa xong. Bỗng nhiên, có gì đó khác thường khi bà nhìn thấy ngay dòng chữ: “ Trị giá hóa đơn = một ly sữa”. (Trích câu chuyện tiến sỹ Howard Kelly).
Khi đọc câu chuyện này, chúng ta nhận ra được giá trị của việc làm phúc đức, bác ái dù nó là một ly sữa thôi, nhưng đã cứu cả mạng sống của một con người. Việc làm đó được ghi rõ trong Tin mừng của thánh Mác-cô: “ Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Một chỗ khác Chúa Giê-su bảo: “Khi Ta đói các người không cho ăn. Ta khát các người không cho uống...” Rõ ràng, điều kiện tiên quyết để được vào Nước Trời là thể hiện lòng bác ái, yêu thương tha nhân.
Thế nhưng, nhìn xung quanh ta, còn có biết bao người đang sống cảnh lầm than, đói khát, kiếm từng hạt cơm qua ngày. Người bán hàng rong, kẻ làm thuê, trẻ em đi bán vé xố... Sau một ngày vất vả, họ lại trở về trú ẩn trong mái nhà dột nát, khi gặp trời mưa, bão tố thì không có chỗ để che thân. Trong khi đó, có những kẻ thì dư thừa phung phí, họ vẫn dửng dưng trước những con người đang từng ngày từng giờ đi tìm miếng ăn dư thừa của kẻ giàu sang.
“Nếu anh em làm cớ cho kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển. Nếu tay anh em làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn có hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”.
Khi nghe những lời răn đè này, chúng ta có suy nghĩ gì về số phận của con người?. Nếu hiểu theo nghĩa đen thì chắc hẳn con người trên thế gian này toàn là những người khuyết tật, bị cụt tay, què chân, mù mắt. Khi con người ta đang chạy theo sự văn minh của nhân loại, nhu cầu đời sống hưởng thụ càng ngày càng cao, thì con người ta lại đang mất dần niềm tin, họ không cần đến Chúa. Ngay cả những bậc làm cha mẹ cũng quên nhiệm vụ truyền đức tin cho con cái mình. Họ không còn thời gian để đến nhà thờ, đọc kinh dự lễ. Phải chăng đó là cái cớ cho kẻ khác vấp phạm! Có thể chúng ta không mù về thể lý, nhưng một cách nào đó chúng ta cũng đang bị mù tâm linh mới là điều đáng sợ nhất. Khi làm điều gian ác, nhưng người ta vẫn không cảm thấy là tội. Khi thấy người ta gặp tai nạn, nhưng ta vẫn đứng cười một cách vô tư. Một thái độ, một trái tim vô cảm thật là đáng sợ.
Nếu nói cái tay, cái chân, cái miệng và con mắt làm nên dịp tội, thì tội đó được xuất phát từ bên trong con người chúng ta. Theo lời của thánh Gia-cô-bê nói rất rõ: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi khoái lạc của anh em đang gây ra trong con người anh em đó sao?. Thật vây, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết và ganh ghét; anh em xin mà không được vì anh em xin với tà ý”. Cho nên, chúng ta chỉ có thể chữa lành vết thương tâm hồn khi chúng ta ý thức được mình là kẻ có tội, cần được Chúa thứ tha với thật lòng ăn năn và sám hối thì mới có thể làm những việc lành và là tấm gương sáng cho người khác. Người ta không thể cho những cái mình không có. Chúng ta có thể rút lấy kinh nghiệm của thánh Augustino, ngài nói: “ Lòng con khuâng buâng khắc khoải đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa”. Chính kinh nghiệm quá khứ tội lỗi của Augustino đã dạy cho ngài bài học quý giá của sự sám hối và trở về với Chúa. Vì Chúa cần chúng ta biết quay trở về cùng Chúa sau những lần lầm lỡ, nhờ đó, chúng ta biết cảm thông và chia sẻ nỗi khổ đau và bất hạnh của anh chị em đang cần lòng quảng đại của chúng ta.
Một ly sữa đã đổi lấy mạng sống một con người, thì ly nước lã dù cho người anh em uống thì cũng chẳng mất đâu. Đó là hứa của Chúa Giêsu cho những ai đặt niềm tin vào sự sống mai sau.
Lạy Chúa, đã biết bao lần tay con không biết nắm lấy một cụ già cần con dắt qua đường; đã biết bao lần chân con đi lạc bước vào những nơi tội lỗi xấu xa, và làm điều gian ác hại đến tha nhân; đã bao lần đôi mắt con thấy người ăn xin ven đường, nhưng chẳng biết xót thương. Thế là Chúa vẫn nói với con rằng: “ Chỉ một ly nước lã thôi!”.
40. Suy niệm của JKN.
CÁM DỖ CỦA ÓC BÈ PHÁI VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG TÔN GIÁO
Câu hỏi gợi ý:
1. Khi thấy có người ngoài nhóm mình nhân danh Thầy mình để trừ quỉ, các tông đồ khó chịu và muốn ngăn cản. Thái độ ấy có đúng không? Nó nói lên não trạng gì? Não trạng ấy có hiện hữu trong các Kitô hữu hiện nay không?
2. Các giáo phái Kitô giáo hiện nay có đoàn kết, yêu thương nhau không? Đức Giêsu sẽ vui hay buồn khi thấy các giáo phái tuy đều nhận mình là Chúa là Thầy nhưng lại nhân danh đức tin để nói xấu, kết án và loại trừ nhau?
3. Đức tin có thể gây chia rẽ, nhưng đức ái chỉ tạo nên đoàn kết. Giữa hai nhân đức quan trọng ấy, đức nào mới thật sự là điều kiện để vào Nước Trời?
CHIA SẺ
1. Khuynh hướng bè phái và muốn độc quyền của các tông đồ
Một trong những khuynh hướng rất thông thường nơi con người, đó là óc bè phái và ham muốn độc quyền. Khuynh hướng này được biểu lộ nơi các môn đệ Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Trên con đường loan báo Tin Mừng, các môn đệ Ngài thấy có những người không thuộc nhóm của mình lại nhân danh Ngài mà làm được những phép lạ như trừ quỉ, chữa bệnh… Theo quan niệm của các ông, chỉ những ai ở trong nhóm 12 như mình mới có quyền nhân danh Thầy mình để làm phép lạ, trừ quỉ, chữa bệnh… Nếu có ai khác làm điều ấy được, lập tức các ông nhận thấy độc quyền của mình bị xâm phạm. Có lẽ các ông cảm thấy bực bội vì điều ấy nên đã cố ra tay ngăn cản họ. Đức Giêsu đã tỏ ra không tán thành khuynh hướng bè phái muốn độc quyền ấy của các ông.
2. Cám dỗ mang tính bè phái và độc quyền nơi người Kitô hữu
Trong đời sống Kitô hữu, nhiều khi chính chúng ta cũng bị cám dỗ bởi não trạng bè phái và ham muốn độc quyền như các môn đệ Đức Giêsu. Chẳng hạn những người cùng tin vào Đức Giêsu và cùng nhận Ngài là Cứu Chúa, theo thời gian, bị phân thành nhiều giáo phái khác nhau. Việc bị phân hóa như thế là một việc hết sức tự nhiên nếu không muốn nói là tất yếu, vì tất cả mọi tôn giáo, mọi trường phái tư tưởng, nghệ thuật, v. v… đều bị phân hóa theo thời gian theo định luật đa dạng hóa của tự nhiên. Theo tôi, nếu không bị phân hóa như thế thì đó mới chính là điều lạ thường. Đương nhiên, giáo phái nào cũng tự cho mình là đúng đắn nhất, là gần với chân lý nhất. Tiếp xúc với các tín đồ của nhiều giáo phái khác nhau, tôi không hề thấy một giáo phái nào lại cho rằng có một giáo phái khác đúng hơn mình. Điều này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên hay bất mãn chút nào!
Dù khác nhau - chủ yếu là trong tiểu tiết - các giáo phái vẫn hết sức giống nhau trong đại thể. Giáo phái nào cũng đều tin và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Giáo phái nào cũng chủ trương phải sẵn sàng dấn thân theo Ngài với tất cả tình yêu, lòng nhiệt thành của mình. Giáo phái nào cũng đều tuyên xưng: «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9). Giáo phái nào cũng chủ trương: «Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa thì sẽ được cứu thoát» (Rm 10,13).
3. Thật là một gương xấu vĩ đại
Nhưng thật là một điều trớ trêu và là một gương xấu vĩ đại trước những người ngoài Kitô giáo, khi mà:
- một đằng Đức Giêsu - Đấng mà mọi giáo phái Kitô giáo đều tôn thờ, đều nhận là Chúa, là Thày - đã tuyên bố: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35).
- đằng khác, các giáo phái Kitô giáo lại coi nhau như là ngoại đạo! Các giáo phái nói xấu lẫn nhau, mạt sát lẫn nhau, kết án lẫn nhau, một vài trường hợp khủng bố lẫn nhau! Nhiều giáo phái Kitô giáo phủ nhận khả năng được cứu rỗi của những người thuộc giáo phái khác, cho dù tất cả đều tin và tuyên xưng những điều căn bản y hệt như nhau! Dường như giáo phái nào cũng muốn hạn chế hoặc chỉ dành riêng sự cứu rỗi cho những ai theo giáo phái của mình! Đó là điều tôi lấy làm lạ, làm ngạc nhiên hết sức, và không thể chấp nhận được!
Đây quả là một gương xấu vĩ đại, một điều mỉa mai cho Đức Giêsu và cho tất cả các giáo phái Kitô giáo, vì gương xấu này là một phản chứng nặng nề đối với những người ngoài Kitô giáo, khiến họ không thể chấp nhận được một tôn giáo như thế! Ước gì các giáo phái Kitô giáo đều đọc và suy nghĩ câu Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: «Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn».
4. Coi chừng chính kẻ kết án lại là kẻ độc ác, thiếu tình thương
Khi nghe một người Kitô hữu thuộc một giáo phái nào đó quả quyết chắc chắn rằng những Kitô hữu trong những giáo phái khác với họ đều không được cứu rỗi, thì tôi hỏi người ấy: «Vậy anh có muốn điều anh quả quyết như thế là đúng không?» Nếu anh ta trả lời rằng muốn, thì tôi nói: «Vậy thì anh quả là độc ác! Một đằng Thiên Chúa muốn tất cả mọi người đều được cứu rỗi (x.1Tm 2,4), Còn anh lại muốn chỉ những ai trong giáo phái của anh mới được cứu rỗi. Anh sẵn sàng chấp nhận những người khác giáo phái của anh không được cứu rỗi, tức sa hỏa ngục. Vậy thì anh mới chính là người đáng sa hỏa ngục đầu tiên, vì nơi anh không có tình thương! Vì tình thương mới là điều quan trọng nhất phải có để vào thiên đàng, để hợp nhất với Đấng mà bản chất là tình thương».
Nếu anh ta mong rằng điều anh ta nghĩ là sai, thì tôi bảo: «Như vậy là anh rất nhân từ, có tình thương! Tốt lắm! Phần tôi, tôi chắc chắn rằng Thiên Chúa còn nhân từ và nhiều tình thương hơn anh gấp tỷ lần. Ngài có đủ quyền năng và đủ cách để giải quyết cho những Kitô hữu khác giáo phái với anh được cứu rỗi. Vì thế, anh hãy phó mặc số phận của những người theo giáo phái khác trong tay Chúa và hãy an tâm! Anh hãy lo cho chính bản thân anh thì tốt hơn, vì nếu anh không có tình yêu, anh không thể vào thiên đàng được đâu! Điều Chúa muốn nơi anh chính là anh hãy coi các Kitô hữu khác giáo phái với anh là đồng đạo, và coi cả những người khác tôn giáo với anh nữa là anh em. Anh hãy yêu thương họ và hãy mong ước những điều tốt lành nhất cho họ!»
5. Điều quan trọng nhất để vào được thiên đàng là tình yêu
Điều quan trọng để vào được thiên đàng là đức tin. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa là tình yêu. Thánh Phaolô viết: «Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến» (1Cr 13,13). Khi lên thiên đàng, đức tin, đức cậy không còn vì không cần thiết nữa, chỉ riêng «đức mến không bao giờ mất được» (1Cr 13,8). Thiên đàng được định nghĩa là nơi hạnh phúc, trong đó mọi người hoàn toàn đối xử với nhau bằng tình thương. Nếu có ai còn ích kỷ hay thiếu tình thương mà lọt vào đó ắt người đó sẽ làm ô nhiễm ngay bầu khí hạnh phúc của thiên đàng. Chính vì thế, theo tinh thần đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46, khi phán xét, Thiên Chúa chỉ phán xét về cách cư xử của ta có tình thương hay không mà thôi. Cứ nhìn vào đời sống thực tế thì biết, chúng ta dễ hạnh phúc ở bên những người biết yêu thương hơn là bên những người có niềm tin. Thực ra, niềm tin đích thực tất yếu phải dẫn tới tình yêu. Thế giới này đã từng điêu đứng khổ sở vì những cuộc chiến tranh tôn giáo, thậm chí ngày nay vẫn còn. Những cuộc chiến tranh ấy nổ ra không phải do con người thiếu đức tin cho bằng thiếu tình thương. Có thể nói: đức tin cộng với lòng ích kỷ (tức thiếu tình thương) sẽ thành óc bè phái. Óc bè phái chính là nguyên nhân của chiến tranh. Vì thế, đức tin phải đi đôi với đức mến hay dẫn tới đức mến mới là đức tin đích thật. Niềm tin không dẫn tới tình yêu, thật ra, chỉ là niềm tin giả tạo, tương tự như «đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Như vậy, một Kitô hữu có đầu óc bè phái, muốn độc quyền được cứu rỗi, nghĩa là muốn loại trừ những Kitô hữu khác giáo phái mình, không muốn họ hưởng hạnh phúc đời đời, thì Kitô hữu ấy rõ ràng là thiếu tình thương. Mà thiếu tình thương thì làm sao vào thiên đàng được?
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con một đức tin đích thực nơi Cha và nơi Đức Giêsu. Đức tin đích thực tự bản chất phải bao hàm tình yêu ở bên trong. Không bao hàm tình yêu, đức tin đó chỉ là đức tin giả tạo, là nguồn phát sinh óc bè phái, óc độc quyền, cũng là nguồn phát sinh nên bao cuộc chiến tranh tôn giáo trên thế giới. Xin ban cho con tình yêu đối với mọi người chung quanh con, đặc biệt đối với tất cả những ai tin theo Đức Giêsu, như dấu chỉ đặc trưng cho người môn đệ đích thực của Ngài.
41. Bắt ông ấy chịu trách nhiệm.
William Porter một nhà văn nổi tiếng, bút hiệu là O. Henry, viết về một em bé gái mồ côi mẹ từ hồi còn bé. Bé gái này thường hay ở nhà và ngóng chờ ông bố đi làm về để có thể ngồi lên trên đùi bố để hưởng chút tình cha con.
Nhưng thương thay, mỗi buổi tối sau khi người cha làm các công việc ông vẫn thường làm là ăn, rồi đọc báo, hút xì gà, rồi đi ngủ.
Khi người con gái nhỏ của ông đến gần thì ông thường bảo: "Con không thấy cha mệt sao? Con hãy ra ngoài tìm bạn mà chơi."
Người con gái thấy cha bảo vậy thì cũng ra ngoài đường để tìm bạn chơi và nó cố gắng nhí nhảnh bao nhiêu có thể.
Chuyện không may đã xảy ra. Sau khi đứa con gái đó lớn lên, cô bắt đầu đi tìm những mối tình cảm từ bất cứ ai trao tặng. Cô đã trở thành một con đĩ.
Một ngày nọ, cô gái đĩ đó chết đi và tiến về cửa thiên đàng. Thánh Phêrô thấy vậy liền nói với Chúa Giêsu: "Nó là một đứa tội lỗi, Chúa ơi. Nó là một con đĩ. Nó chỉ có thể đến một nơi thôi!"
Tiếp đến là khúc cuối của câu truyện gây cho khán giả ngạc nhiên. Chúa Giêsu quay sang bảo Thánh Phêrô rằng: "Con hãy mở cửa thiên đàng cho cô ấy vào. Khi người cha của cô ấy đến đây, con hãy bắt ông ấy chịu trách nhiệm."
Thiên Chúa rất nhân từ đối với những kẻ lầm lạc mà không do lỗi của họ. Nhưng Thiên Chúa sẽ yêu cầu những kẻ nào làm cho người khác bị lầm lạc phải chịu trách nhiệm.
Chúng ta có thể thêm vào rằng cách chúng ta làm cho kẻ khác lầm lạc thường không phải là chúng ta đã làm gì nhưng thường là chúng ta đã không làm điều gì cho họ.
Cách đây vài năm, trong cuốn 'Reader's Digest' có đăng tải một bài báo của Jane Lindstrom. Bài báo này có tên là "Làm Sao Bạn Biết Nếu Tôi Không Nói?": "Các trẻ em thèm muốn sự yêu thương từ nơi cha mẹ. Nếu tình yêu bị khóa lại trong trái tim chúng ta, nó không thể tới các em được. Nó cũng giống như là một lá thư đã viết mà không đem đi gởi. Nhưng nếu những đứa trẻ được tình yêu bảo đảm, chúng sẽ nghe được những lời nói của chúng ta: con ngoan của mẹ cha. Mẹ cha rất lấy làm hãnh diện với con. Cha mẹ hết sức lấy làm vinh dự có một người con như con."
Nếu chúng ta từ chối không bày tỏ tình thương, chúng ta có thể làm cho người mình thương đi vào con đường lầm lạc. Và Thiên Chúa sẽ bắt chúng ta phải chịu trách nhiệm như trong trường hợp câu truyện của O. Henry.
Bài Phúc Âm hôm nay kêu gọi chúng ta tự vấn mình câu hỏi quan trọng. Chúng ta có làm gì, hoặc không làm gì, để có thể gây cho người khác đi vào con đường lầm lạc? Hoặc là chúng ta đã quá lo lắng cho những sự đau thương và lo nghĩ riêng mà bỏ đi những cách biểu lộ tình yêu với những người chúng ta quí mến?
42. Ghen tức.
Qua phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta ghi nhận hai nhân vật, đó là Giôsuê và Gioan. Cả hai nhân vật này đều có chung một thái độ, đáng cho chúng ta suy nghĩ, đó là lòng ghen tức.
Nhân vật thứ nhất là Giôsuê. Ông đã được Maisen tuyển chọn, đặt đứng đầu quân đội, để dẫn đưa dân Do Thái băng qua sa mạc cát nóng, cũng như vượt qua sông Giócđan, tiến vào miền đất hứa, chiếm lại phần lãnh thổ của cha ông ngày trước. Thế nhưng, Giôsuê đã ghen tức vì hai ông Eđát và Mêđát được ơn nói tiên tri. Bởi đó, Giôsuê đã xin Maisen ngăn cản, nhưng Maisen đã không làm theo lời Giôsuê nài xin.yêu cầu.
Nhân vật thứ hai là Gioan. Ông là vị tông đồ trẻ tuổi và được Chúa Giêsu yêu mến. Thế nhưng, khi nhìn thấy những người khác nhân danh Chúa Giêsu, Thày mình, mà trừ quỉ, có lẽ Gioan cũng đã có một chút ghen tức và đã ngăn cấm họ, hầu bản thân mình và phe nhóm của mình được độc quyền. Và như chúng ta đã thấy: Chúa Giêsu đã không chấp nhân quan niệm ấy
Từ thái độ của Giôsuê và của Gioan, chúng ta chúng ta có thể rút ra một định nghĩa: ghen tức là thái độ buồn sầu khi người khác được may mắn và vui mừng khi họ gặp phải rủi ro hay tai ương hoạn nạn. Nếu xét mình, chúng ta sẽ thấy đó chính là phản ứng thường tình của mỗi người chúng ta. Một người bạn thành công, chúng ta cảm thấy bực bội, rồi từ đó chúng ta đi nói hành nói xấu người bạn ấy. Thôi thì đủ mọi chuyện, thượng vàng hạ cám. Chúng ta ghen tức, nhưng chúng ta đâu có ngờ tới những hậu quả tai hại của nó.
Thực vậy, người có tính ghen tức không bao giờ được hạnh phúc cả. Tôm hồn luôn buồn bực vì thua kém bè bạn vì những sự không đâu. Người bạn có bộ quần áo mới cũng làm cho chúng ta buồn. Người bạn được thiên hạ khen cũng làm cho chúng ta bực. Và nhiều khi thái độ ghen tức của chúng ta sẽ trở thành đề tài cho người khác chê cười. Chẳng hạn có hai ông mù đi ăn xin. Ông này nghe người ta bảo ông kia hát hay thì bực bội lắm. Vào một buổi sáng, ông này nghe thấy tiếng hát của ông kia, liền mon men lại gần rồi cũng gân cổ lên để mà hát. Ông nào cũng hát thật to để cho người đi đường biết rằng mình hát hay. Thế nhưng, ai đi qua cũng đều lắc đầu ngao ngán và nói: rõ thật đồ điên.
Thái độ ghen tức còn có thể dẫn đến những tội lỗi nặng nề khác nữa, chẳng hạn như nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, thậm chí đến cả tội giết người. Vì thế, ghen tức đã được liệt vào trong bảy mối tội đầu, là như những căn nguyên sinh ra mọi tội lỗi khác.
Như chúng ta đã biết: Giuse được Giacóp yêu thương khiến cho các người anh ghen tức, nhất là khi Giuse kể lại những giấc mơ của mình. Nào là những bó lúa của các anh vây quanh và sụp lạy bó lúa của Giuse. Nào là mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao sụp lạy Giuse…Từ thài độ ghen tức ấy, những người đã anh tìm cách giết hại Giuse như bỏ Giuse xuống giếng cạn và sau cùng đã bán Giuse cho phường lái buôn Ismaen đang trên đường đi xuống Ai cập. Rồi lấy áo choàng của Giuse nhúng vào máu chiên mà đem về báo cho Giacóp biết là Giuse đã bị thú dữ ăn thịt.
Những người biệt phái cũng đã ghen tức với Chúa Giêsu, nên họ đã cáo gian Chúa trước tòa án Philatô và đã đóng danh Ngài vào thập giál
Để dứt bỏ thái độ ghen tức, chúng ta hãy hòa mình vào nếp sống của người khác: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Hãy bắt chước thánh Gioan Tiền Ho, đã không ghen tức khi thấy ảnh hưởng của mình bị giảm sút, trong khi uy tín của Chúa Giêsu mỗi ngày một gia tăng. Trái lại, ông đã nói:
- Tôi phải nhỏ đi, còn Ngài phải lớn lên. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Hãy để cho Chúa được lớn lên trong chúng ta. Hãy trở nên như đày tớ phục vụ người khác. Hãy thực thi lời thánh Phaolô trong cuộc sống thường ngày, đó là hãy vui cùng người vui và hãy buồn với người buồn.
43. Phe này cánh nọ - Anmai
Con người, tự lâu lắm rồi, đã mang trong mình cái đầu óc bè phái. Thấy người khác, nhóm khác thành công hơn mình, làm được việc hơn mình thì không chịu cố gắng, nỗ lực để được như người khác, nhóm khác. Hành động của những người ấy hết sức buồn cười là họ dèm pha, chỉ trích, nói hành, nói xấu.
Một kinh nghiệm hết sức thực tế ngay ở dân tộc Do Thái. Thuở xa xưa, khi đưa dân Do Thái ra khỏi nô lệ của Ai Cập thì Thiên Chúa đã nhờ đến bàn tay của Môsê. Ông quá vất vả với đám đông ô hợp. Mệt mỏi quá nên ông than thân trách phận với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nghe lời than vãn ấy, Thiên Chúa sợ ông phải cán đáng công việc một mình mệt nhọc nên Thiên Chúa đã gọi Môsê và truyền cho Môsê quy tụ 70 kỳ mục lại để cộng tác với Môsê.
Khi Thần Khí của Thiên Chúa xuống trên 70 người thì có 2 người trong nhóm họ tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều như sách Dân Số vừa thuật lại. Vì lý do nào đó không đến lều nhưng Thần Khí của Thiên Chúa vẫn đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Thấy sự kiện như vậy, Ông Giô-suê con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê: "Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!" Nhưng ông Mô-sê trả lời: "Anh ghen dùm tôi à?"
Thế đấy, ông Giô-suê đã ghen tương khi thấy Thần Khí đậu trên 2 người kia khi họ còn ở trong trại và xin Mosê ngăn cản 2 người ấy. Với Môsê thì khác, Môsê đã mắng rằng họ đã ghen tuông với 2 người ấy.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Máccô thuật lại hình như cũng mang âm hưởng của sự ghen tuông. Các môn đệ đã ghen tuông khi những người không thuộc nhóm với Chúa Giêsu, không thuộc nhóm các môn đệ mà trừ được quỷ.
Nếu để ý trình thuật trước trình thuật này bối cảnh là "ở nhà", nơi đó Chúa Giêsu "ngồi" giảng dạy cho các môn đệ. Thánh ký Máccô tiếp nối khung cảnh bằng cách chuyển mạch từ câu hỏi của môn đệ Gioan nhằm trình bày những giáo huấn mới của Chúa Giêsu.
Phải chăng việc gợi nhắc Gioan ở đây nằm trong dụng ý của thánh ký liên hệ đến một vấn nạn dù nhiệt tình song cũng không ít phần cục bộ: "lấy danh Thầy mà trừ quỉ, nhưng hắn lại không theo chúng tôi, và chúng tôi đã cố ngăn cản vì hắn không theo chúng tôi". Vì chưng, trong một truyền thống khác chỉ có trong Tin Mừng Luca (Lc 9,54), chính Gioan và anh mình là Giacôbê đã đòi khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt dân Samaria không đón tiếp Chúa Giêsu và các môn đệ.
Trong thời đại của Chúa Giêsu việc chữa bệnh bằng cách trừ quỉ cũng được một số người Do Thái thực hành. Sử gia Flaviô Giôsêphê (Antiquités VIII, 46t) có kể lại trường hợp một người Do Thái tên là Elêazar chuyên chữa bệnh bằng một việc trừ quỉ rất mê tín và phù phép nhân danh vua Salômon.
Ở đây, thánh ký đề cập tới việc trừ quỉ nhân danh Chúa Giêsu, gợi nhắc đến bối cảnh thời Giáo hội sơ khai, ở đó việc trừ quỉ được coi là khá thịnh hành.
Sách công vụ tông đồ 8,19-24 có kể lại trường hợp Simon phù thủy muốn mua ở Phêrô quyền làm các phép lạ. Sách Cv 19,13t cũng trình thuật câu chuyện một số người Do Thái trừ quỉ nhân danh Chúa Giêsu: "Có ít người trừ tà rong đường, gốc Do Thái, cũng đã thử kêu danh Chúa Giêsu trên những người có quỉ ám" (Cv 19,13).
Cách miêu tả: không theo chúng tôi là một chi tiết biên soạn đậm nét thời Giáo hội sơ khai ở đó công đoàn các Kitô hữu tiếp tục quanh quẩn bên nhóm môn đệ, những kẻ đã từng theo Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nói: "chớ ngăn cản người ấy, vì không có ai nhân danh Ta làm phép lạ, rồi lại có thể vội nói xấu Ta. Vì ai không chống cự chúng ta là ủng hộ chúng ta, Kẻ nào cho các ngươi uống một bát nước, vì danh nghĩa các ngươi thuộc về Đức Kitô... nó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Câu 39-41).
Sự kiện các môn đệ muốn ngăn cản những kẻ không theo họ, gợi nhắc tinh thần hẹp hòi của họ sánh với cái nhìn của Thầy họ. Từ đó, Chúa Giêsu đã dựa vào suy tư của các môn đệ để đưa ra những lời dạy nhằm khơi mở tâm hồn họ. Trong bối cảnh Chúa Giêsu đang tiến về cuộc khổ nạn cũng như đang đối diện với phe Biệt phái ký lục tìm cách hãm hại Người, câu trả lời của Chúa Giêsu (câu 39) có thể được hiểu như sau: một kẻ nại đến Ta, nhân danh Ta, dựa vào sức mạnh của Ta để làm phép lạ, thử hỏi Người đó có thuộc về phe Biệt phái ký lục không? Thử hỏi kẻ ấy có chủ ý tìm cách hãm hại Ta không?
Cách miêu tả: vội nói xấu ta Gợi nhắc rằng việc làm các phép lạ và trừ quỉ... chưa hẳn diễn tả được một cách dứt khoát đức tin bền vững vào Chúa Giêsu.
Dầu sao, trong nhãn quan thần học của Maccô, câu trả lời trên của Chúa Giêsu nói lên chủ đích của Người muốn các môn đệ hiểu thái độ thiếu nền tảng của họ. Vì chưng, "ai không chống đối chúng ta, là ủng hộ chúng ta" (câu 40).
Làm sao dung hợp được kiểu này và câu nói được trình bày ở Tin Mừng Matthêu cũng như ở Luca: Bản Mt 12,30 viết: "Ai không đi với Ta, tức là chống lại Ta. Kẻ không cùng Ta thu họp tức là làm tan nát" (x. Lc 11,23). Phải chăng đây là bằng chứng của các truyền thống mâu thuẫn nhau?
Một lần nữa, độc giả Tin Mừng được mời gọi để hiểu những lời của Chúa Giêsu trong mạch văn biên soạn tùy theo nhãn quan thần học của thánh ký.
Như vậy, mạch văn ở đây của Máccô là gì? Đó là sự mời gọi của Chúa Giêsu ngỏ cho các môn đệ biết theo chân Người làm tôi tớ mọi người (câu 35c), nhất là những ai thấp hèn hơn. Nếu Người đã từng nặng lời kết án phe Biệt phái ký lục và Hêrôđê như những kẻ mù quáng đối nghịch lại với Người, thì ngược lại, Người cũng luôn tỏ bày khuôn mặt của Đấng Thiên sai mang ơn cứu độ cho hết mọi người, Do Thái hay dân ngoại. Thế nên, chỉ có những kẻ chủ ý chống lại Người, phủ nhận quyền năng của Người, sẽ phải hụt mất cơ may cứu độ. Còn bất cứ ai không chống lại quyền năng của Người, cũng như muốn làm những sự thiện nào đó, đều được mời gọi để tin theo Người...
Lồng kết vào trong bối cảnh thời Giáo hội sơ khai ở đó Tin Mừng Maccô được biên soạn, kiểu này ngỏ cho các môn đệ và qua đó cho cộng đoàn Kitô hữu của sơ thời cũng như của mọi thời, như là lời mời gọi họ biết vượt qua tinh thần ích kỷ hẹp hòi phe phái. Vì chưng những ai theo Chúa không được phép trở thành những nhóm đóng kín, kẻo có nguy cơ sống trái ngược với tinh thần của Thầy họ. Ai tự cho mình là môn đệ đích thực của Đức Kitô và ai dám kết án người khác không phải là môn đệ của Người? Ai dám xác quyết rằng quyền lực cứu độ của Người chỉ tỏ bày cho họ chứ không cho kẻ khác? Ai có thể biết được quyền lực đó hoạt động như thế nào nơi người khác không?
Đang khi đó về bản văn của Matthêu và Luca: Nếu các Tin Mừng này trình bày một kiểu với ý nghĩa đối chọi, chính vì mạch văn đổi khác. Nơi Matthêu chẳng hạn, mạch văn nói về ý nghĩa vẫn đục của nhiều kẻ gán quyền lực trừ quỉ của Chúa Giêsu như xuất phát từ Satan. Hơn nữa trong bối cảnh của cộng đoàn mà Tin Mừng Mathêu được biên soạn, mối bận tâm nằm ở tầm vóc nội bộ cộng đoàn: "không phải mọi kẻ nói với Ta, Lạy Chúa, là sẽ vào được nước Trời" (Mt 7,21).
Trở lại với mạch văn Máccô người môn đệ của Chúa Giêsu được kêu mời ý thức sâu sắc về tâm nhìn cứu độ phổ quát của Người. Họ cần biết vượt thoát tinh thần phe nhóm để thấy được nơi mỗi sự thiện, mỗi sự góp phần tích cực nào đó như là khởi điểm cho ơn cứu độ, cho sự đón nhận Tin Mừng. Vì chưng, như đã được gợi nhắc ở trước trong Tin Mừng, sự thiện thuộc về Thiên Chúa, Đấng đã nhìn thấy mọi sự Ngài sáng tạo đều tốt lành quá đỗi.
Nhìn vào cuộc sống của chúng ta, cái máu phe nhóm, cái máu cục bộ nó len lỏi vào trong đầu của con người chúng ta lúc nào không hay.
Tâm trạng phe nhóm rất dễ thấy nơi các công sở, xí nghiệp và ngay cả trong gia đình. Chẳng hiểu vì sao và lúc nào mà tinh thần cục bộ, phe nhóm, bè phái nó đã len vào trong gia đình, trong công sở, trong xí nghiệp. Nhìn ở góc độ nào đi chăng nữa thì tinh thần cục bộ, óc bè phái và phe nhóm vẫn mang yếu tố tiêu cực hơn là tích cực dẫu rằng có chuyện thi đua để cho mọi sự nên tốt. Con người vẫn mang trong mình những giới hạn để rồi nhóm này thành công thì nhóm kia sẽ thất bại và rồi hai bên cứ kình địch nhau mãi. Tốt hơn hết là ta nên dung hoà và ta nên cùng làm việc chung với nhau chứ đừng vì hư danh mà ganh tỵ.
Anh em vẫn dùng cơm chung với nhau, thi thoảng Cha Sở đã nhắc nhở anh em nên sống công bằng, sống cư xử mọi người như nhau chứ đừng tạo phe nhóm, đừng tạo nên não trạng cục bộ. Chắc có lẽ kinh nghiệm với biết bao nhiêu năm sống cộng đoàn, giúp mục vụ nên Cha Sở đã thấy được những tổn thương, những thiệt hại của tinh thần bè phái, phe nhóm và cục bộ.
Mỗi thành viên góp phần cho sự phát triển của gia đình và cộng đoàn. Nếu từng thành viên ấy chung tay góp sức lại thì gia đình, cộng đoàn ấy vững mạnh và hạnh phúc. Nếu như gia đình, cộng đoàn nào gặp phải tình trạng phe nhóm thì buồn thật vì khi ấy, căn nhà, cộng đoàn ấy cứ mãi bị khập khiễng do sự ganh ghét, hơn thua của phe này nhóm nọ.
Thiệt hại về phe này cánh nọ chúng ta thấy hết sức bi đát. Dẫu bên ngoài họ có che lấp bằng những vẻ đẹp hào nhoáng đi chăng nữa nhưng bên trong nội bộ vẫn là sự bất an. Bất an là vì một bên thì cố gắng hết sức thủ cho mình hết chiêu này đến thức nọ để bảo vệ cho phe của họ còn phe kia thì cứ rình rập xem phe kia có sơ hở gì không và nếu có sơ hở là họ bắt đầu chỉ trích, bắt đầu lên án, bắt đầu dèm pha như các môn đệ hôm nay trong Tin mừng.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Vua của Bình An, Vua của Hiệp Nhất đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta dẹp bớt đi cái tôi của mình, dẹp bớt đi cái não trạng bè cánh để cộng đoàn, gia đình chúng ta được bình an và hạnh phúc hơn.
44. Dịp tội.
Bài Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta một điều quí giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.
Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa sẽ ghi công và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cho một người khác, dù là trẻ nhỏ hay người hèn kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm gương mù gương xấu lôi kéo người khác phạm tội, xa Ngài, thì Ngài không bao giờ bỏ qua đâu.
Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc ấy, Ngài bảo rằng: “Khốn cho kẻ làm gương mù gương xấu”. Gương mù gương xấu là gì? Là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho kẻ khác phạm tội nữa.
Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-Na Vô-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội leo lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?”. Cha Vô-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.
Đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Tai hại và nguy hiểm như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ và quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và những tội chính họ phạm nữa.
Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người khác vấp phạm, tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của con người đều quí giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một phần nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y khoa.
Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính là sự sống đời đời, thì càng đáng đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho mình phạm tội, đe dọa mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay, chặt chân, móc mắt, không có nghĩa là chặt tay, chặt chân hay móc mắt thật, nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có thể hiểu là cha mẹ, người trên. Tay có thể hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ ngang hàng. Nếu cha mẹ hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào đàng tội lỗi, thì bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù có bị mất lòng. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng vậy, nếu chúng ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với người ấy, chúng ta cũng mắc thêm tội… thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải cắt đứt đi mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong năm tháng còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.
Bài Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường thần linh ở khu vực mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho anh em vấp phạm, chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta có: tiền tài, của cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp… đều chỉ là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn cớ cho tội lỗi, gây nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì nước trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và thực hành bài học hôm nay.
45. Lời khuyên.
Tin Mừng nêu ra nhiều điểm rất quan trọng có tính thực hành. Mặc dù những điểm ấy lúc ban đầu gởi đến các người lãnh đạo trong cộng đoàn nhưng chúng cũng thích hợp với mọi môn đệ của Đức Giêsu.
1. Các Tông đồ đề cập đến một người không lấy tư cách đoàn thể của họ, để chữa lành dân chúng nhân danh Đức Giêsu. Các ông tìm cách ngăn cản người ấy. Tại sao? Bởi vì các ông ganh tị quan hệ đặc biệt của người ấy với Đức Giêsu (có một ví dụ tương tự trong Bài đọc 1). Chúng ta nhớ đến thái độ hẹp hòi của chúng ta đối với các Kitô hữu thuộc các Giáo hội khác trước Công đồng Vaticanô II.
Nhưng Đức Giêsu nói: “Đừng ngăn cản người ta “. Sự kiện người ấy nhân danh Người có nghĩa là người ấy không chống lại các Tông đồ. Kế đó Đức Giêsu cho họ một bài học về sự cởi mở và lòng khoan dung. Thật vậy, mọi lời cầu nguyện trong thánh lễ, và trong mọi bí tích được cử hành nhân danh Đức Giêsu và quyền năng của Người. Nhưng người Công giáo không độc quyền về Đức Giêsu.
Một số người e ngại các ơn huệ và thành tựu của những người khác. Nếu như họ có một thái độ cởi mở hơn hẳn họ sẽ thấy mình được phong phú thêm thay vì giảm bớt đi bởi những ơn huệ ấy. Người nào khác tôi không thu nhỏ tôi nhưng làm tôi thêm phong phú. Thiên Chúa ban phát những ơn huệ của Người một cách tự do. Trách nhiệm của chúng ta là vui mừng tiếp nhận những ơn huệ ấy dù chúng xuất hiện nơi đâu.
2. Đức Giêsu đã nói rằng ai cho những người bé mọn dù chỉ một chén nước lã sẽ được tưởng thưởng. Một chén nước lã là tượng trưng cho một loại công việc tốt lành nhỏ bé. Ít người trong chúng ta có cơ hội làm những việc lớn. Nhưng cơ hội cho một chén nước có thể đến với chúng ta nhiều lần trong một ngày. Một hành động nhân từ nhỏ bé có thể biến đổi một mùa đông ít nhất thành một khoảnh khắc mùa hè cho một người khác.
Không cần có những hành vi to lớn để có thể giúp đỡ và an ủi con người mà hành vi ấy nhắm đến. Chỉ cần những sự nồng ấm. Mọi hành vi xuất phát từ tâm hồn đều có sự nồng ấm ấy.
3. Sau đó, Đức Giêsu đề cập đến tội gây ra sự vấp ngã – làm cho người khác phạm tội. Người tuyên bố lời cảnh báo nghiêm khắc chống lại những người dẫn những kẻ bé mọn tin vào Người đi lạc lối. Khi chúng ta nghĩ đến những tội ác mà người ta gây ra cho các trẻ em hôm nay, dù là qua sự thờ ơ hay lạm dụng thì lời cảnh cáo của Đức Giêsu chúng ta phải coi là rất quan trọng.
4. Rồi Đức Giêsu nói đến nguyên nhân của tội nằm trong chính chúng ta. Một kẻ thù của con người nằm trong chính con người. Những cơ hội gây ra tội phải bị đoạn tuyệt không chút thương tiếc. Đức Giêsu khuyên người ta phải thực hiện những hy sinh đắt giá nhất để tránh xa tội lỗi, kể cả phải cắt bỏ tay chân hoặc móc mắt mình.
Những lời này không thể được hiểu sống sượng theo nghĩa đen. Đường hướng mà Đức Giêsu muốn đưa ra là người ta phải tránh xa tội nặng bằng bất cứ giá nào. Chúng ta phải sẵn sàng làm bất cứ việc gì có thể làm được để loại trừ điều ác ra khỏi đời sống chúng ta. Mục đích của Người là in sâu vào tâm trí chúng ta không thể nào tẩy xóa được, rằng nước Thiên Chúa đáng cho chúng ta hy sinh mọi thứ khác.
5. Đức Giêsu nói về hỏa ngục và so sánh nó với Ghê-hen-na, Ghê-hen-na là một hẻm núi ở phía nam Giêrusalem. Có một thời, người ta giết các trẻ nhỏ ở đó để tế thần Mô-lốc. Giô-xua đã chấm dứt việc thờ cúng đó, và sau này nơi đó dùng làm nơi đổ rác và xác thú vật. Là một mảnh đất báo điềm gở, nó trở thành biểu tượng cho nơi trừng phạt sau này.
Và lúc nào cũng thế, Lời Đức Giêsu đem lại cho chúng ta nhiều điều để suy nghĩ. Nếu chú ý đến Lời Người, những việc chúng ta làm sẽ trở nên tốt đẹp.
46. Gương xấu và dịp tội - GM. Lệ Tâm
Bài Tin Mừng hôm nay có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu dạy chúng ta một điều quí giá. Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.
Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa sẽ ghi ơn và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho các môn đệ của Ngài, dù chỉ là một bát nước lã. Ngài không bao giờ quên lòng tốt của họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cớ cho người khác vấp phạm, dù đó là một trẻ nhỏ hay người hèn kém nhất.
Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc làm gương mù gương xấu, Ngài bảo rằng: “ Khốn cho kẻ làm cớ cho một người bé mọn phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó ném xuống biển còn hơn…”Vậy gương mù gương xấu là gì? Là lời nói việc làm gây nên sự thiệt hại cho phần linh hồn người khác. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người khác phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho người khác phạm tội nữa.
Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vô-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do những chuyện đồi bại và thô tục, rồi lấy làm thích thú và cười cách khoái trá. Nhiều người đã lịch sự và khéo léo nhắc nhở để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Ông ta vội leo lên xe nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?” Cha nói với giọng nhẹ nhàng nhưng cứng rắn: “ Ông đã để lại cho hành khách trên toa một ấn tượng hết sức xấu xa”. Người ấy xấu hổ vội bỏ đi xuống ngay. Vậy đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Thật tai hại và nguy hiểm; nên Chúa đã nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ mà quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ phải chịu trách nhiệm về tội họ làm cho người khác phạm và những tội chính họ đã phạm.
Chúa Giêsu còn khuyên chúng ta phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội. Chúa đưa ra một ví dụ để giải thich: mỗi chi thể của con người đều quí giá. Chẳng hạn như: tay, chân, mắt… Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì đáng đánh đổi lắm. Ví dụ: như bệnh ung thư chẳng hạn, nếu không giải phẫu cắt bỏ phần đó đi, thì sẽ gây nguy hiểm cho toàn thân thể, và đe doạ đến sinh mạng nữa.
Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn, mà lại chính là sự sống đời đời, thì càng cần thíêt đáng phải đánh đổi hơn nữa. Nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho mình phạm tội, đe doạ mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Như vậy, không có nghĩa là ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt thật, nhưng có nghĩa là ta phải dứt khoát với dịp tội. Một người bạn rất thân thiết không thể xa rời, nhưng nếu họ là cớ cho ta vấp phạm thì hãy can đảm cắt đứt tình bạn đó thì hơn, dù có phải đau đớn, tiếc nuối thế nào. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Thà chịu đau khổ theo năm tháng còn hơn phải chịu cực hình trong lửa đời đời.
Bài Tin Mừng hôm nay là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi ngừoi đều có bổn phận và một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường tâm linh ở nơi mình sống. Bởi đó, chúng ta phải tránh xa tội lỗi và việc xấu gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho anh em vấp phạm cũng cần phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta đang có: tiền tài, của cải, chức vị, danh vọng, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp… đều là những phương tiện để xây dựng hạnh phúc cho đời sống vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn nguyên làm cớ cho ta phạm tội, gây nguy cơ đánh mất Nước Trời, thì vì Chúa Kitô và vì Nước Trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá. Vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?
Xin Chúa cho chúng con biết lánh xa dịp tội và đừng nên duyên cớ gây gương mù gương xấu cho anh chị em chung quanh.
47. Tảng đá.
Ngày nay, người ta sống gần gũi với nhau hơn bao giờ hết. Vì thế, ảnh hưởng giữa con người với nhau càng lớn hơn. Dù chúng ta có biết điều đó hay không, chúng ta vẫn là tảng đá gây vấp ngã hoặc viên đá giúp cho người khác vượt qua trên con đường dẫn đến ơn cứu chuộc. Ở đây xin đưa ra một vài thí dụ về việc chúng ta có thể là cố gây ra sa ngã hay tảng đá gây vấp ngã cho người khác.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn không tử tế hoặc bất công trong cách đối xử với tôi. Bạn làm cho tôi cảm thấy rằng tôi là người xấu.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn làm tôi bị sỉ nhục chỉ vì tôi không sống theo những gì bạn mong mỏi. Bạn làm tổn thương lòng tự hào của tôi và làm hại hình ảnh mà tôi có về mình.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn hạ thấp tôi và đẩy tôi ra phía sau. Khi bạn đứng dưới ánh đèn sân khấu, còn tôi buộc phải lùi về làm cái bóng của bạn. Điều này làm tôi cảm thấy mình thấp kém.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn loại trừ tôi hoặc không biết đến tôi. Bạn làm cho tôi cảm thấy mình là một người xa lạ hoặc một người ở bên lề.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn luôn phê bình tôi một cách bất công làm tôi chua cay vì sự vô liêm sỉ của bạn. Bạn làm lý tưởng tôi sụp đổ và phá hủy những mơ ước của tôi.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn trả tiền lương ít ỏi cho tôi (xem Bài đọc 2). Bạn biến tôi thành nô lệ để bạn có thể sống như một ông hoàng. Bạn làm tôi nghèo đi để làm giàu cho bạn.
Nếu bạn làm những điều đó cho tôi, bạn là bóng tối đối với tôi. Bạn là một trở ngại trong đường lối của tôi. Bạn là một cớ gây vấp ngã, một tảng đá làm tôi vấp ngã trên con đường phát triển của bản thân, và bạn làm cho tôi khó đến được Nước Trời.
Nhưng bạn cũng có thể là viên đá vượt qua cho tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn nâng đỡ tôi trong những lúc yếu đuối và nghi ngờ.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn làm tôi tin vào chính mình, khi tăng thêm niềm tự tin cho tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi tôi cảm thấy không đầy đủ, nhưng bạn giúp tôi khám phá các khả năng đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban cho tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn đòi hỏi thách đố mà không làm tổn thương tôi, trái lại giúp tôi trưởng thành và phát triển tiềm năng của mình.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn chấp nhận tôi, dù những người khác bỏ rơi tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn từ chối hùa theo đám đông để ném viên đá buộc tội và phán xét tôi khi tôi phạm tội.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn tha thứ cho tôi. Bạn giải thoát cho tôi khỏi quá khứ của tôi, và tôi được tự do để lại tiến bước.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn sử dụng tôi và trả lương cho tôi một cách công bằng.
Nếu bạn làm cho tôi bất cứ điều nào như thế, bạn là ánh sáng cho tôi trong bóng tối. Bạn là một bảng chỉ đường cho tôi trong những lúc nghi ngờ. Bạn là một cái cầu bên trên dòng nước lo âu, bối rối. Bạn làm cho việc vào Nước Trời của tôi được dễ dàng hơn.
Đức Giêsu nói nếu bạn đã cho tôi dù chỉ là một chén nước lã, bạn sẽ được tưởng thưởng về điều đó. Nhưng bạn đã làm nhiều hơn thế. Bạn đã dẫn tôi đến giếng nước của bạn và chia sẻ với tôi.
48. Hướng tâm hồn lên
Cha Zundel đã có định nghĩa nghe rất lạ tai nhưng cũng rất hay rằng: "Thiên Chúa là khi bạn tốt". Nói như thế có nghĩa là bất kì khi nào chúng ta "tốt", chúng ta đều là hình ảnh đích thực của Thiên Chúa, trong suốt với Thiên Chúa và trở nên giống Thiên Chúa mọi đàng. Nhưng thế nào là tốt? Một người được gọi là tốt thì phải như thế nào? Nếu liệt kê từng chi tiết nhỏ thì có lẽ chúng ta không thể ra hết được. Nhưng chúng ta có thể nói, một người tốt là người sống theo tinh thần Phúc Âm, mà cụ thể là sống theo tình yêu thương như Chúa đã yêu.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta một tiêu chuẩn, một phương thế để sống tình yêu là không ghen tị và ghen tương; không sống tinh thần cục bộ. Biết sống đoàn kết trong tổ chức, trong nội bộ của mình là tốt, nhưng chưa đủ. Do đó, chúng ta còn phải biết hướng nhìn về những người khác nữa. Nói cách khác, chúng ta không được phép loại trừ những người khác phe nhóm với mình, khác tổ chức của mình. Chúng ta cần phải sống tinh thần mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Các tông đồ của Chúa Giêsu ngày xưa cũng phạm phải tội ghen tương và đầu óc cục bộ khi thấy có những người không thuộc nhóm các ông lại nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Các ông nói với Chúa Giêsu câu chuyện ấy với ý định là nhờ Chúa Giêsu cấm những người ấy không được phép làm những chuyện mà các ông đang làm nhân danh Chúa, vì các ông nghĩ rằng chuyện trừ quỷ là ân huệ chỉ dành riêng cho ông mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu không những không làm theo ý các môn đệ của mình mà còn sửa dạy các ông, giúp các ông biết mở lòng ra và hướng tâm hồn lên để "nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện".
Ghen tị, ghen tương, đầu óc cục bộ không làm cho con người ta lớn lên được mà chỉ quanh quẩn trong những chuyện nhỏ nhặt, kéo ghì con người xuống. Vì thế, chúng ta rất cần sống tinh thần vui với người vui, khóc với người khóc mà Thánh Phaolô đã dạy chúng ta. Điều này, mới nghe tưởng dễ nhưng thực hành là điều rất khó. Có thể, chúng ta "khóc với người khóc thì dễ hơn vì khi đó, chúng ta thấy mình ở trên người khác; may mắn hơn người khác, thành công hơn người khác... Nhưng vui với người vui thì khó hơn nhiều. Bởi lẽ, khi thấy người ta thành công hơn mình, may mắn hơn mình, ở vị trí cao hơn mình thì khó lòng mà vui theo người ta được lắm. Nếu có thì chỉ ơ bên ngoài mà thôi, còn trong lòng có thể mình đang bực tức lắm đây. Con người ta phức tạp lắm. Vì thế, chúng ta cần phải hướng tâm hồn lên, bay cao lên trên những tình cảm tự nhiên của chính con người mình để chúng ta không bị lệ thuộc vào những chuyện nhỏ nhen, ích kỷ nơi ta, là nguyên dân làm tâm hồn ta không thể nâng lên cùng Chúa được.
Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy ra tại thế kỷ thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.
Để chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ quan vì những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy nhiên, người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt mọi người. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong lòng và không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu người ganh tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố: "Tôi xin được móc một con mắt...!". Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị móc hai con mắt.
Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và chúng ta cũng không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Không bằng lòng về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về người khác, chúng ta lại càng đau khổ hơn.
Tình trạng phe này đối nghịch với phe khác, đoàn thể này không hợp với đoàn thể kia... hình như ngày nay càng càng gia tăng, đặc biệt là trong xã hội văn minh và hiện đại như hôm nay. Ai cũng muốn cho công việc của mình là độc quyền, không ai có thể thay thế được. Sợ rằng mình bị mất ảnh hưởng, sợ mình không còn được ai nhắc đến, cần đến hay hết còn được đề cao nữa. Có một số người nhất quyết không truyền lại "nghề" của mình cho bất cứ ai dù là con hay cháu của mình. Gần đây, chúng ta chắc có nghe đến chuyện hai tập đoàn viễn thông Viettel và Mobifone kiện cáo nhau vì cho rằng đối tác của mình "chơi xấu" mình khi cố tình nói ra những chuyện không tốt của nhau, để rồi cuối cùng ai cũng bị thiệt hại nặng nề cả! Vậy mà họ vẫn thấy vui khi mình chỉ ra được cái xấu của người khác. Một niềm vui không quân tử và không thánh thiện chút nào!
Chúng ta cũng dễ thấy tình trạng tôn giáo này nói xấu tốt giáo khác, mục đích là loại trừ người khác và để nâng mình lên. Thật ra, truyền giáo bằng cách nói xấu đạo khác, chê bai, chỉ trích người ta thì chắc chắn không được ai kính trọng và nể phục bao giờ. Đó là chuyện làm của trẻ con quen làm, chuyện của những đầu óc tiểu nhân, suốt đời chỉ mong làm những chuyện chia rẽ, hạ bệ, gây đau khổ cho người khác.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãy sống hết lòng cho tình yêu của Chúa và vui lòng chấp nhận anh em mình với những hoàn cảnh và tình trạng của họ đang có. Đó là thái độ khôn ngoan của con người và là phương cách tốt nhất giúp ta nâng cao tâm hồn mình lên để đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Chúng ta hãy trở nên tốt để chúng ta được chia sẻ hạnh phúc êm đềm với Chúa mãi mãi, vì "Thiên Chúa là khi bạn tốt". Amen.
49. Lên án.
Rất nhiều người thán phục và ao ước như người giàu có. Thế mà thánh Giacôbê đã tấn công gay gắt những người giàu. (Bài đọc 2) Tuy nhiên, không phải vì họ giàu mà bị lên án. Thánh Giacôbê đưa ra hai điểm cơ bản.
Trước hết là sự giàu sang sau cùng không có giá trị gì. Bất cứ tiện nghi và xa hoa nào mà giàu sang đem lại đều tạm bợ; sau cùng, nó là sự hư ảo phù vân. Sự giàu sang không dẫn đến hạnh phúc. Vì thế, đặt hy vọng vào của cải vật chất là điên rồ.
Đây là điều mà đôi khi tất cả chúng ta phải nhớ lại, bởi vì chúng ta sống trong một nền văn hóa nói với chúng ta điều ngược lại. Bằng rất nhiều cách, nền văn hóa ấy nói với chúng ta rằng sở hữu của cải dẫn đến hạnh phúc. Đây là một sứ điệp đầy sự quyến rũ làm hư hỏng nhiều cuộc đời.
Điểm thứ hai mà thánh Giacôbê nêu ra liên quan đến cách mà người ta trở nên giàu có. Trong nhiều trường hợp, được giàu có và giữ sự giàu có lâu dài bao hàm hành động bất công và bóc lột người yếu kém. Ở đây, chúng ta không nói về sự điên rồ mà nói về một điều vừa ác vừa có tội.
Còn hai điểm nữa cũng cần phải nói đến.
Sự giàu có tạo ra một ảnh hưởng trên người sở hữu nó. Mối bận tâm đến những sự vật chất cuốn hút mọi suy nghĩ và ưu tư của người ấy về đời này và loại bỏ đời sau. Hơn thế nữa, sự chiếm hữu còn làm cho một người trở nên kiêu ngạo, tự cao, tự mãn. Giàu có nuôi dưỡng ích kỷ, làm cho tâm hồn người có của thành ra chai cứng. Không ai thấy sự nguy hiểm của những sự vật chất bằng Đức Giêsu.
Sau cùng tất cả những điều đó phải được nhìn trong sự tương phản với một hậu cảnh ở đó hàng triệu người đang sống trong cảnh nghèo nàn và đói khát. Đối với một người có quá nhiều, thì ít nhất có đến mười người có quá ít. Một vài người ăn uống no nê trong lúc nhiều người khác lại rất thiếu thốn. Trong một số nơi trên trái đất những đứa trẻ bị chết trước mắt của mẹ chúng.
Theo một bài báo trong tờ The Tablet (Tháng 12-1996) tài sản của 358 tỉ phú giàu nhất thì tương đương với tài sản của 2,3 tỉ dân nghèo, chiếm 45 /o dân số của thế giới. Có sự bất bình đẳng rất to lớn. Khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo ngày càng xa thêm.
Sự bất bình đẳng ấy là một điều xấu lớn. Nó giải thích sự bất an mà con người ngày nay cảm thấy, một sự bất an mà không chỉ người nghèo nhưng cả người giàu cũng cảm thấy. Nó đòi hỏi một giải pháp kiên quyết. Nhưng phải bắt đầu ở đâu và phải làm gì? Bước đầu tiên là phải ý thức về nó.
Giàu có là một trách nhiệm. Người ta sẽ bị phán xét bởi hai tiêu chuẩn: họ có được của cải như thế nào và họ sử dụng nó như thế nào?
50. Hiệp thông để làm sáng danh Chúa
Tự bản chất Giáo hội Công giáo là hiệp thông. Hiệp thông trong cùng một đức tin và một phép rửa. Hiệp thông giữa các thành phần dân Chúa. Dĩ nhiên, trong sự hiệp thông này mỗi người vẫn còn giữ được nét độc đáo của mình. Miễn sao mỗi người cùng hướng về một mục tiêu chung. Mục tiêu ấy là làm sáng danh Chúa.
Thánh Gioan trong đoạn Tin mừng hôm nay đã chưa hiểu và đã chưa sống tốt sự hiệp thông này. Ông đã ngăn cản một người lấy danh Chúa Giêsu để trừ quỷ. Mà người này lại không thuộc về nhóm các môn đệ của Chúa Giêsu. Làm xong chuyện đó, ông đã hồ hởi về trình báo cho Chúa Giêsu:"Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta." (Mc 9, 38b)
Không những ông không được khen mà ông còn được Chúa Giêsu dạy cho bài học về sự hiệp thông: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta" (Mc 9, 39 - 40)
Chúa Giêsu tin tưởng vào người đã lấy danh của Người để trừ quỷ vẫn hiệp thông với Người. Trong việc ấy người này đã làm sáng danh Chúa. Các Tông đồ khi hiểu được điều này nên các ông đã cố gắng hết sức mình để làm sáng danh Chúa mặc dù phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.
Trong Giáo hội luôn có nhiều ơn gọi khác nhau. Có nhiều dòng tu và tu hội với những đặc sủng khác nhau. Dầu vậy dù đặc sủng nào thì tất cả đều nhắm tới mục tiêu làm sáng danh Chúa.
Trong một họ đạo có nhiều thành phần khác nhau. Nhưng nếu như tất cả mọi người đều hiệp thông đoàn kết yêu thương nhau để xây dựng và phát triển họ đạo thì đó là điều tốt để làm sáng danh Chúa.
Trong từng tập thể lớn nhỏ của Giáo hội nếu biết cùng nhau từ bỏ ý riêng để cùng cộng tác làm một công việc nào đó thì danh Chúa sẽ được rạng rỡ biết bao.
Trong một gia đình, nếu mỗi sáng tối các thành viên cùng ngồi lại trước bàn thờ Chúa để cùng nhau đọc kinh thì đó cũng là cơ hội tốt để làm sáng danh Chúa.
51. Kitô hữu trước điều thiện và điều ác
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Tin nhận Đức Kitô không chỉ là đi theo Ngài đến những nơi mà Ngài đã đi qua, mà còn là tham dự vào cách sống của Ngài, tức là thực thi giáo huấn của Ngài. Cụ thể giáo huấn của Ngài hôm nay là giáo huấn về điều thiện và điều ác.
- Chúa Giêsu đề cao giá trị các việc thiện, dù việc thiện ấy do bất cứ ai làm và nhỏ đến đâu đi nữa. Ngày nay, người ta lên án nhiều về mọi hình thức độc quyền: độc quyền về điện nước, độc quyền về xăng dầu, độc quyền về sách giáo khoa,... Những thứ độc quyền này đã và đang hành hạ người dân và làm tê liệt sự phát triển về kinh tế, giáo dục và nhiều lĩnh vực khác nữa. Trong đời sống tôn giáo cũng có một thứ độc quyền mà Chúa Giêsu mạnh mẽ đả phá, đó là độc quyền về ơn sủng, độc quyền làm điều thiện.
Đây là một vấn đề rất phổ biến trong lịch sử Dân Thánh. Câu chuyện về ông Giôsuê trong Cựu Ước và ông Gioan trong Tân Ước mà Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trưng dẫn cho ta thấy điều này. Sau khi được báo cáo cho biết có những người trong trại đã nói tiên tri, ông Giôsuê rất lấy làm khó chịu và bẩm báo sự việc cho ông Môsê (x. Ds 11,26-28). Cứ theo lời lẽ ông nói, thì ông muốn việc nói tiên tri là độc quyền của một số người nhất định, chứ không phải ai muốn nói là nói.
Tương tự, khi thấy một số người mặc dù không thuộc nhóm các môn đệ của Chúa Giêsu mà lại ra tay trừ quỷ, ông Gioan tìm mọi cách để can ngăn. Ông hãnh diện về việc này và kể công với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cấm, vì người ấy không theo chúng ta” (Mc 9,38). Cứ ngỡ sẽ được Chúa Giêsu khen, ai ngờ ông bị Chúa Giêsu “sửa lưng”: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi sau đó lại nói xấu về Thầy” (Mc 9,39). Rất rõ ràng, quan điểm của Chúa Giêsu là việc tốt, việc thiện, việc lành do bất cứ ai làm nhân danh Ngài đều có giá trị.
Hơn thế nữa, một việc tốt, việc lành, nhất là việc phục vụ anh chị em đồng loại, dù nhỏ bé tầm thường đến mấy vẫn không mất công phúc: “Thầy bảo thật anh em, ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9,41). Ta có thể cho nhiều hay cho ít, điều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là ta đã cho “như thế nào”, bao nhiêu tình yêu mến được đặt vào nghĩa cử mà ta làm cho người khác. Ðôi khi chỉ cần cho một chén nước lã mà lại được ghi công. “Cho một chén nước lã” là một cử chỉ tầm thường, nhỏ bé, song lại lớn lao trước mắt Thiên Chúa khi được thực hiện nhân danh Người, nghĩa là thực hiện vì lòng yêu thương. Giá trị của nó còn nằm ở chỗ “làm cho những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa” (x. Mt 25,40). Đây là một mạc khải đầy bất ngờ. Bất ngờ vì chính Chúa Giêsu đã “đồng hoá” mình với những kẻ thấp hèn bé mọn. Từ nay, việc bái ái yêu thương mà ta làm cho anh em đồng loại nhân danh Chúa, nhất là cho những kẻ bé nhỏ, không chỉ đơn thuần là việc thuộc về “đức ái đối nhân”, tức là việc nhân ái giữa người với người; mà, hơn thế, còn là việc thể hiện “đức ái đối thần”, tức là việc yêu thương đối với chính Chúa. Cái phúc cái phần ấy thế mà được nhân lên gấp bội.
- Về việc tốt việc thiện là vậy, còn về việc xấu việc ác thì sao? Cũng trong chiều hướng trên, Chúa Giêsu cảnh tỉnh chúng ta trước những việc xấu việc ác dù nhỏ. Nhất là làm cớ, hay là làm gương xấu cho những kẻ bé mọn sa ngã là tội lớn, tội đáng “buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển”. “Buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển” là cầm chắc cái chết, dù có là vận động viên bơi lội, vì không còn trồi lên được. Đây là một trong hai hình phạt nặng nề đối với người Dothái thời bấy giờ. Qua giáo huấn này, Chúa Giêsu muốn đặc biệt lưu tâm đối với các bậc cha mẹ, thầy cô, bề trên,... là những người có trách nhiệm giáo dục hướng dẫn người khác.
Không chỉ dừng lại ở đó, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta can đảm và dứt khoát tránh chiều theo những cám dỗ, những thói hư tật xấu làm cho chính mình sa ngã. Dứt khoát với sự xấu, sự tội cũng giống như chặt tay, chặt chân, móc mắt… nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh.
“Mắt” đối với ngưới Do thái, là cửa ngõ của con tim, là lối vào của tâm hồn (gần với quan niệm của người Việt Nam: mắt là cửa sổ tâm hồn). Tội tư tưởng thường đến từ đôi mắt. Cũng theo quan niệm của người Dothái, “tay chân” diễn tả hành động. “Chặt tay chặt chân” nghĩa là phải dứt khoát với các duyên cớ dẫn đến hành động tội lỗi. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho ta thấy rằng dứt khoát với tội lỗi không dễ chút nào. Tội lỗi một khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản thân. Dứt bỏ nó cũng đau đớn như chính những chi thể trong thân thể bị chặt bỏ, cắt lìa. Ta hãy xem những người bị nghiện ngập ma tuý chẳng hạn. Cơn nghiện vật vã giày vò tưởng chết đi được. Vì đối với người nghiện, ma tuý trở thành một phần thiết thân của đời sống, đến nỗi khi phải dứt lìa, họ đau đớn khổ sở như thể đánh mất chính sự sống của họ vậy.
Đặt mình trước giáo huấn của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta được mời gọi có những phản tỉnh nào? Đối với những điều thiện tôi đã bỏ qua không làm, hay làm không ý thức: tôi đã đánh mất bao nhiêu cơ hội để làm điều thiện, vì cho rằng đó là điều nhỏ? Bao nhiêu lần tôi làm điều thiện, điều tốt mà tôi không ý thức làm vì danh Chúa Kitô?
Đối với những điều xấu, điều tội: bao nhiêu lần tôi đã tích lũy án phạt vì đã làm cớ cho người khác vấp phạm, sa ngã? Bao nhiêu lần tôi đã thiếu dứt khoát đối với các dịp tội và đã chiều theo cám dỗ để rồi sa ngã phạm tội đều đều?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết thành tâm kiểm thảo mình mỗi ngày và can đảm điều chỉnh lại lối sống của mình cho phù hợp với giáo huấn của Tin Mừng hôm nay. Amen.
52. Chiêm ngắm bức tranh 3 mầu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta chiêm ngắm bức tranh gồm 3 hình ảnh với 3 gam màu sống động:
1. Gam màu vàng cam: hình ảnh các tông đồ, những cộng sự viên nhiệt thành với sứ mạng và trung tín với Thầy Giêsu. Chúng ta bắt gặp ở đây hình ảnh các Tông đồ say sưa nhiệt thành với công việc thực tập mục vụ đến độ quên cả việc ăn uống nghỉ ngơi. Kẻ thì thao thao rao giảng Lời Chúa, kẻ thì bận bịu đặt tay chữa lành bệnh nhân, kẻ thì lâm râm đọc công thức trừ tà,.... Các ông tất bật từ sáng sớm tinh mơ mãi cho đến giờ đi ngủ. Lúc nào cũng có người vây quanh, mệt bở cả hơi tai, nhưng bù lại là niềm vui ngập tràn. Có lẽ, sau đợt thực tập này tất cả các ông đều được cấp chứng chỉ tốt nghiệp hạng ưu, vì đã hoàn thành xuất sắc nhiêm vụ!!!
Nhiệt thành hết mình với sứ vụ, các ông còn trung thành hết tình với Thầy Giêsu. Ý thức Thầy Giêsu là điểm qui chiếu những thành công trong việc mục vụ của mình, đồng thời là gạnh nối liên kết các ông với nhau, nên sau chuyến thực tập ngắn ngày, các ông mau mắn trở về bên Thầy mình để "báo cáo thành tích", để kể lại tất cả những việc các ông đã làm và tất cả những điều các ông đã dạy. Dù thành công hay thất bại thì các ông vẫn một lòng gắn bó mật thiết với Thầy của mình.
Bao nhiêu người làm công tác tông đồ, bao nhiêu người làm việc thiện nguyện biết trở về bên Chúa để nhỏ to tâm sự với ngài, sau một ngày hay sau một chuyến làm việc?
2. Gam màu xanh thẳm: hình ảnh đám đông dân chúng là những con chiên hết lòng đi theo Chúa và khao khát được nghe lời Ngài. Quả vậy, nhiều lần Chúa Giêsu và các môn đệ đã chủ động lánh vào những nơi hoang vắng để tránh bị quấy rầy, hay tránh bị tôn lên làm vua bất đắc dĩ, như trường hợp sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Nhưng dân chúng vẫn bám sát gót. Nói được là họ sẵn sàng đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, dù đó là trên núi cao, dưới biển khơi, hay trong hoang địa... Thậm chí họ còn đoán trước được nơi mà thầy trò Chúa Giêsu định tới, rồi theo đường bộ tới trước cả các ngài, như trình thuật mà thánh sử Máccô mô tả.
Rõ ràng là họ đi theo Chúa một say sưa. Theo Chúa để làm gì? Dĩ nhiên là có nhiều lý do, nhưng một trong những lý do tốt lành đó là để được nghe lời Ngài. Nói cách khác vì họ khát khao được nghe Lời Chúa nên tìm đủ mọi cách để được gần Ngài. Và đây là yếu tố làm nên một gam màu tuyệt đẹp, gam màu xanh thẳm, trong bức tranh toàn cảnh của Tin mừng hôm nay.
Chẳng bù cho con người thời nay, nhiều lúc tĩnh tâm cấm phòng để chuẩn bị mừng đại lễ này, đại lễ nọ,... các vị mục tử của Chúa "gọi kiêu triệu vời" rát cả cổ mà dân đàn chiên của ngài chẳng màng đến nghe các ngài giảng dạy.
3. Gam màu hồng thắm: Đây là gam màu nỗi bật nhất trong bức tranh, phác hoạ hình ảnh Đức Giêsu, vị mục tử nhân hậu và từ tâm.
Nhân hậu đối với các cộng sự viên của mình qua việc: Chăm chú lắng nghe họ tâm sự. Chúa Giêsu không bao giờ nghe một cách hời hợt, trái lại Ngài nghe như mở lòng để cho các ông trút bầu tâm sự. Bao nhiêu nỗi niềm sâu lắng, bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, bao nhiêu thành công thất bại của chuyến thực tập sứ vụ được Chúa Giêsu lắng nghe một cách say sưa và thấu hiểu. Không những thế, Ngài còn ân cần lo lắng cho miếng ăn, giấc ngủ, giờ nghỉ ngơi của các ông: "Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút" (Mc 6, 31). Tuyệt vời thay người mục tử nhân hậu, tuyệt vời thay con tim của một Thiên Chúa làm người!
Ân cần lo lắng hết tình với các cộng sự viên của mình, đã thế Ngài còn từ tâm tận tuỵ hết mình đối với đàn chiên. Tận tuỵ đến nỗi quên cả thời gian và sức lực. Trái tim của một người mục tử chân chính không cho phép ngài để mặc đàn chiên tiếp tục phải chịu nhiều khổ cực đoạ đày vì "bị" chăn dắt bởi "bạo quyền và roi sắt", và những đường lối mục vụ đầy toan tính của những kẻ "chăn thuê dắt mướn". Ngài cảm nghiệm được lòng khao khát của đàn chiên đang muốn được nghe những lời giáo huấn "mới mẻ và đầy uy quyền" của Ngài, và nhất là được chiêm ngắm dung mạo của một vị mục tử có tấm lòng vàng. Bởi đó dù thân đã mệt nhọc, bụng đã cồn cào vì đói, ngài vẫn ân cần đón tiếp họ và còn "dạy dỗ họ nhiều điều", dạy dỗ với cả tấm lòng yêu thương (x. Mc 6, 34).
Chiêm ngắm 3 hình ảnh đó để học lấy 3 chữ cần thiết cho cuộc đời người Kitô hữu. Đó là chữ tình nơi các Tông đồ: tình yêu đối với công việc tông đồ và tình yêu gắn bó đối với Thầy mình là Đức Giêsu. Chữ tâm nơi Chúa Giêsu: cảm thông, ân cần, yêu thương, nhân ái đối với mọi người. Chữ lòng nơi đám đông dân chúng: hết lòng đi theo Chúa và thực lòng khao khát được lắng nghe lời Ngài.
53. Óc ganh tỵ.
Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Đức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Đức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Đức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Đức Giêsu còn nói một câu rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói “Ai không chống lại Ta thì thuộc về Ta”.
Qua câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là: cái óc ganh tỵ đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa, như ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Đất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương nhất. Đó là óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa. Nói “Óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa “bởi vì ganh tỵ có tới ba cấp bực:
. Cấp thứ nhất là ganh tỵ: đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.
. Cấp thứ hai là ganh tỵ bè phái: là ganh tỵ với người không thuộc phe nhóm của mình.
. Cấp thứ ba là ganh tỵ bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tỵ với những người không có đạo khi những người không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.
Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người Công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Đó là một thí dụ về cái óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa.
Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc “Ai không chống lại Ta thì phải kể như là thuộc về Ta”. Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ. Người ta thường nghĩ “Ai không theo ta tức là kẻ chống ta”, hoặc “Ai không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta”, hay hơn nữa “Ai làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ thù của ta”. Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc tôn: chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không thuộc về phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Đức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta; cũng phải hợp tác với họ.
Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên tắc của Đức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hòa với những người khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.
Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Điều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được làm.
Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa: đừng ganh tỵ, đừng giữ đầu óc bè phái… nhưng cố gắng sống chan hòa với mọi người, cùng với mọi người thực hiện những điều tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.
54. Thuận hay chống
(Suy niệm của Antôn Lê Ngọc Sinh Nhật)
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết câu chuyện xảy ra trong khung cảnh truyền giáo của các Tông đồ và có thể cuộc sống của cộng đoàn tín hữu Thánh Marcô.
Bối cảnh xảy ra đó là sau khi các Tông đồ đi truyền giáo: rao giảng, trừ quỷ, chữa bệnh nhân danh Chúa Giêsu. Các Ngài đã thấy có người không thuộc nhóm Tông đồ của Chúa Giêsu mà dám kêu danh Ngài để trừ quỷ. Các Tông đồ đã ngăn cấm và Thánh Gioan còn trình bày sự việc này cho Chúa Giêsu phân xử. Chúa đã trả lời ông: “Ðừng ngăn cấm họ, vì không ai nhân danh Thầy làm phép lạ rồi sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Vì ai không chống lại Ta là ủng hộ Ta”.
Theo các Tông đồ thì quyền trừ quỷ, quyền ban ơn, quyền rao giảng chỉ dành cho những môn đệ được Chúa gọi rõ ràng, người khác không có quyền đó. Nhưng ơn Chúa không bao giờ bị hạn chế, không dành đặc quyền cho người nào, nhóm nào cả. Bất cứ ai tin tưởng và cầu xin, hoặc kêu cầu danh Chúa để làm việc tốt, Chúa đều nhậm lời. Chúa Giêsu còn mở rộng thêm: ngay cả những người yên lặng, kẻ không chống đối đạo Chúa, cũng phải xem họ như những cảm tình viên, như những người thuận với mình.
Nếu ai ra mặt ủng hộ sứ mạng truyền giáo, dầu bằng một việc cỏn con như cho nhà truyền giáo, dầu một bát nước, kẻ đó không mất phần thưởng đâu. Còn kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé nhỏ đã tin này thì thà cột cối đá dìm xuống biển còn hơn. Lý do dễ hiểu vì người mới trở lại, Ðức tin còn non nớt giống như mầm non mới mọc đang cần bám đất màu mỡ là gương lành, gương tốt của người tín hữu, của công đoàn giúp phát triển, thế mà người Kitô hữu tạo ra gương mờ, gương xấu làm họ sa ngã hoặc không còn tin tưởng vào đạo Chúa nữa. Như câu chuyện về nhà ái quốc Ghandi chẳng hạn (chuyện Ghandi vào nhà thờ).
Ngày nay cũng có thể xảy ra. Một người tìm đạo, thấy người công giáo sống xấu quá, họ không cần tìm hiểu đạo nữa. Một người mới gia nhập đạo bị người có đạo lôi cuốn họ vào con đường tội lỗi (tội ác). Một bạn học cùng lớp, có thiện cảm với đạo Chúa, một em có đạo gây gỗ, đánh đập bạn bè trong giờ chơi khiến bạn đó thấy người Công giáo sao dữ quá, không dám học đạo…
Tội làm gương xấu cản trở việc truyền giáo là tội hết sức lớn, Chúa ra lệnh phải trừ tận gốc rễ, trừ tuyệt, trừ hoàn toàn. Tin Mừng ghi lại những lời quyết liệt sau: “Nếu tay người làm ngươi vấp phạm thì chặt phăng đi, nếu chân người làm dịp tội cho ngươi thì chặt bỏ đi, nếu mắt ngươi làm ngươi vấp phạm thì móc vất đi vì thà mất tay, mất chân, chột mắt mà vào nước Thiên Chúa còn hơn có hai tay, hai chân, hai mắt mà vào hỏa ngục”. Ở đây, Chúa dạy ta theo nghĩa bóng chứ không theo nghĩa đen, vì có kẻ thì bỏ beer, bỏ gái, bỏ thuốc lá rồi chặt ngón tay, ngón chân xin thề mà vẫn không chừa. Nghĩa bóng ở đây dạy phải từ bỏ ngay, từ bỏ hẳn mọi gương xấu, không được chần chừ, không được khất lần khất lựa, vì đó là cớ làm ta mất lòng Chúa và bị đày trong hoả ngục.
Lời Chúa dạy trong bài Tin mừng hôm nay còn nóng hổi trong Giáo Hội, trong Giáo xứ, trong cộng đoàn và nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta thường cho mình độc quyền về chức vụ, về ơn Chúa để ganh tỵ với người khác, lên án người không hợp ý mình. Nhưng còn lối sống của chúng ta, sống bê bối, đối xử bất công với người khác (có đạo cũng như không có đạo) khiến họ sợ hãi khi nghe đến tôn giáo. Qua bài Tin mừng hôm nay xin cho mọi người trong chúng ta ý thức hơn về chức vụ Tông đồ của mỗi người chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho anh chị em. Amen.
55. Phải diệt trừ mọi ghen tị và tham lam
(Suy niệm của Lm. Antôn Đinh Minh Tiên)
NHẬP LỄ:
Tính phe đảng, ghen tị, và tham lam, làm con người dễ quên đi mục đích và khai trừ những ai không có cùng quan niệm hay không thuộc nhóm của mình. Người tín hữu phải nhớ điều quan trọng hàng đầu là làm cho Phúc Âm được lan rộng khắp nơi; còn cách thức làm sao để thực hiện điều này là tùy vào ơn riêng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Cần tránh thái độ chỉ có người của mình hay cách của mình mới quan trọng. Đừng ghen tị khi người khác được bằng mình hay hơn mình. Vì một người không thể làm hết, và cũng không có sức để chịu đựng tất cả; do đó, Thiên Chúa cần nhiều thợ nhiệt thành để làm việc trong vườn nho của Ngài. Trong tâm tinh đó, chúng ta hãy cùng nhau ăn năn thống hối mọi tội lỗi mình đã trót phạm vì tính ghen tị và tham lam của mỗi người chúng ta.
CHIA SẺ PHÚC ÂM:
Các Bài Đọc hôm nay muốn dạy con người phải diệt trừ tính phe đảng, ghen tị, và tham lam. Trong Bài Đọc I, ông Moses ước mong ơn Thánh Thần được ban cho mọi con cái Israel, để họ đừng than phiền, kêu trách Thiên Chúa, và kêu trách ông nữa. Trong Bài Đọc II, thánh Giacôbê quan niệm của cải trong trời đất là của Thiên Chúa ban cho mọi người; không ai có quyền vơ vét và tích trữ của cải cho mình đến nỗi để người khác phải chịu thiệt thòi và túng thiếu. Trong Phúc Âm, khi Gioan nói với Chúa Giêsu ông ngăn cấm một người đã lấy danh Chúa Giêsu trừ quỉ, vì người đó không ở trong nhóm môn đệ của Chúa. Ngài trả lời ông: đừng ngăn cản họ vì "ai không chống đối chúng ta là thuộc về chúng ta."
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thánh Thần Thiên Chúa hoạt động ở mọi nơi và trong mọi người.
1.1/ Thần Khí được ban cho cả bảy mươi kỳ mục, Eldad và Medad.
(1) Bảy mươi kỳ mục: Tổng số dân chúng khi ra khỏi Ai-cập cả gần triệu người. Họ tiếp tục đòi hỏi, than phiền, và trách mắng ông Moses về việc thiếu bánh ăn, nước uống, thịt, rau cải... Ông Moses đã quá mệt mỏi khi nghe những lời than phiền của dân chúng, nên ông tâm sự với Đức Chúa, ông không thể tiếp tục vác gánh nặng từ dân nữa. Thiên Chúa hiểu nỗi đau khổ và gánh nặng của Moses; nên Ngài bảo ông chọn 70 kỳ-mục (những người lớn tuổi trong dân) để họ cùng chia sẻ gánh nặng với ông (Num 11:17). Trình thuật hôm nay tường thuật: "Đức Chúa ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Moses. Người lấy một phần Thần Khí đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục."
(2) Endad và Medad: Thánh Thần của Thiên Chúa không chỉ hoạt động trên 70 kỳ-mục; nhưng bấy giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là Eldad, một người tên là Medad. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều. Thánh Thần đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại.
1.2/ Sự ghen tị của ông Joshua: Khi thấy những điều này xảy ra, một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Moses rằng: "Ông Endad và ông Medad đang phát ngôn trong trại!"
(1) Phản ứng của ông Joshua: Ông Joshua con ông Nun, từng theo hầu ông Moses từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Moses: "Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!"
(2) Phản ứng của ông Moses: Ông Moses hiểu Thánh Thần, cũng giống như Thiên Chúa, hoạt động và điều khiển mọi người trong mọi nơi, chứ không phải chỉ trên những người Moses đã chọn; nên ông trả lời ông Joshua: "Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Đức Chúa ban Thánh Thần trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!"
Chúng ta thường có khuynh hướng giới hạn hoạt động của Thiên Chúa hay của Thánh Thần nơi một số người hay chỉ trong Giáo Hội; nhưng hoạt động của Thiên Chúa cũng như của Thánh Thần bao trùm cả vũ trụ này. Kinh Thánh nhiều lần chứng minh quyền lực Thiên Chúa hoạt động trên các vua Dân Ngoại như Ai-cập, Assyria, Babylon, và Ba-tư... khiến họ phải thi hành thánh ý Ngài; và Thánh Thần hoạt động trên những người Dân Ngoại chưa chịu Phép Rửa, như gia đình Cornelius, viên sĩ quan người Rôma (Acts 10).
2/ Bài đọc II: Của cải Thiên Chúa ban trong vũ trụ, phải được chia sẻ cho mọi người.
2.1/ Kẻ tham lam sẽ phải đền tội: Một khuynh hướng xấu xa nơi con người là lòng tham lam vô đáy. Kẻ tham lam muốn thu tích của cải cho mình bằng mọi cách, mà không cần biết mình sẽ gây đau khổ và thiệt hại cho người khác thế nào. Thánh Giacôbê đã chứng kiến kẻ giầu bóc lột người nghèo trong cộng đồng của ngài, nên ngài tuyên cáo họ: ''Giờ đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các ngươi. Tài sản của các ngươi đã hư nát, quần áo của các ngươi đã bị mối ăn. Vàng bạc của các ngươi đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt các ngươi. Các ngươi đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này."
2.2/ Những tội gây ra bởi lòng tham lam của con người: Kẻ tham lam không chỉ phạm tội vơ vét của cải; nhưng còn kéo theo nhiều tội khác nữa.
+ Lỗi đức công bằng: ''Các ngươi đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các ngươi. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các ngươi, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh."
+ Tiêu xài xa hoa vào những việc bất chính: Trong khi người nghèo không có của ăn, kẻ giàu có phung phí tiền bạc trong những sòng bạc và những cuộc truy hoan. Thánh Giacôbê trách cứ hành động bất công của họ: ''Trên cõi đất này, các ngươi đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các ngươi đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại.''
+ Giết hại người công chính: Để thỏa mãn lòng tham, kẻ gian ác loại trừ tất cả những ai dám ngăn cản, phê bình, hay tố cáo lối sống của họ: ''Các ngươi đã kết án, đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các ngươi.''
3/ Phúc Âm: Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.
3.1/ Cần có tâm hồn rộng lượng bao dung: Một hôm, ông Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta." Sở dĩ, môn đệ Gioan nói những lời này, vì ông muốn đặc quyền trừ quỉ chỉ giới hạn trong thành phần môn đệ của Chúa Giêsu; vì nếu bất cứ ai cũng làm được, nhóm môn đệ của Chúa Giêsu sẽ không còn gì đặc biệt nữa.
(1) Cần loại trừ tính phe đảng, độc tài: Đức Giêsu bảo: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta." Nguyên lý Chúa đưa ra là một người không thể mâu thuẫn với chính mình: hoặc có hoặc không, chứ không thể chọn cả hai một lượt. Để một người trừ được quỉ, họ phải có một đức tin vững mạnh nơi Chúa Giêsu và phải nhân danh Ngài mà nói, thì mới trừ được. Nếu một người không có đức tin, và không nhân danh Chúa, họ không bao giờ họ có thể trừ được quỉ. Đức tin có được hay mất đi phải có thời gian lâu dài; chứ không một sớm một chiều mà có hay mất được. Vì thế, khi họ trừ được quỉ là họ đã có đức tin vào Thiên Chúa, tại sao cần phải ngăn cấm họ.
Hơn nữa, mục đích của Chúa Giêsu khi chọn các môn đệ là để huấn luyện các ông loan truyền Tin Mừng, chứ không chú trọng đến danh nghĩa và quyền lợi của cá nhân hay của nhóm. Ngài ban cho các ông quyền trừ quỉ để khơi dậy niềm tin, chứ không phải là đặc quyền để bảo vệ. Tính phe đảng nhiều khi làm con người không còn biết chú trọng đến mục đích, nhưng chú trọng đến tiếng tăm, quyền lợi, và dễ dàng khai trừ người khác.
(2) Con người có tự do để chấp nhận sự thật: Chúng ta cần biết rộng lượng để chấp nhận tự do của con người. Khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu chỉ có thể trình bày sự thật để thuyết phục con người tin vào Ngài, đồng thời kèm theo những phép lạ; nhưng nếu họ cứng lòng, Chúa Giêsu không bắt họ phải tin vào Ngài. Chúng ta cũng thế, chúng ta cũng chỉ có thể trình bày sự thật, hay phân tích cái lợi và cái hại của việc không sống theo sự thật, rồi để tha nhân có quyết định muốn theo hay không. Chúng ta không thể bắt người khác làm theo ý mình.
(3) Trên con đường tìm kiếm sự thật, có nhiều cách để dẫn con người đến sự thật và khơi dậy niềm tin của con người vào Thiên Chúa; chứ không phải chỉ có một cách. Hãy để Thiên Chúa làm việc trong tha nhân và cho họ có thời gian để nhận ra sự thật. Cần tránh thái độ võ đoán: chỉ có cách của chúng ta mới làm cho con người nhận ra sự thật hay mới được cứu độ.
3.2/ Bác ái và gương sáng là hai cách hiệu quả để rao giảng Tin Mừng.
(1) Phải biết chia cơm sẻ áo cho mọi người: "Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.'' Đạo của Chúa Giêsu là đạo bác ái yêu thương. Người môn đệ của Chúa không thể mến Chúa mà không yêu người. Tiêu chuẩn Chúa dùng để phán xét người môn đệ là đức bác ái (x/c Mt 25). Nếu ai làm cho tha nhân là làm cho chính Chúa, người đó sẽ được hưởng cuộc sống đời đời.
(2) Phải làm gương lành cho người khác: "Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn." Cùng một tư tưởng như trên: ai không làm cho tha nhân, là không làm cho chính Chúa. Hậu quả là họ sẽ không được hưởng hạnh phúc với Ngài. Nếu đã không làm điều tốt cho tha nhân, họ còn ngăn cản tha nhân đến với Chúa bằng gương xấu họ làm, chắc chắn họ phải sống xa Thiên Chúa.
3.3/ Phải đoạn tuyệt mọi tội lỗi: Năm câu kế tiếp có vấn đề về văn mạch: câu 44 và câu 46 được các nhà chú giải coi giống như câu 48: "nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt." Năm câu được sắp xếp như sau: "Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt." Có ít nhất hai cách để hiểu đoạn văn này:
(1) Theo những người theo chủ thuyết Fundamentalism, những người hiểu theo nghĩa đen, Chúa Giêsu muốn con người phải cắt bỏ các phần thân thể, nếu họ muốn được vào Nước Trời.
(2) Con người phải nhận ra nguy hiểm của tội: Tội lỗi làm con người có nguy cơ sa hỏa ngục; vì thế, cần phải tìm mọi cách để diệt trừ tội lỗi. Nếu hiểu theo nghĩa đen như trên, con người chắc chẳng còn gì để cắt hay loại bỏ nữa, vì con người vẫn thường xuyên phạm tội. Chúa Giêsu muốn con người nhận ra nguy hiểm của tội, vì tội có thể làm con người sa hỏa ngục, và không đạt được cuộc sống đời đời.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thánh Thần của Thiên Chúa hoạt động ở mọi nơi và trong mọi người. Chúng ta đừng bao giờ giới hạn hoạt động của Thánh Thần nơi mình, nơi một cộng đoàn, hay chỉ trong Hội Thánh mà thôi.
- Mục tiêu quan trọng của cuộc đời là làm sao cho Nước Chúa trị đến, và ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Để được như thế, chúng ta cần sự cộng tác của tất cả mọi người.
- Của cải trong vũ trụ là của Thiên Chúa ban cho mọi người. Chúng ta đừng tham lam thu tích của cải để tích trữ cho mình; trong khi bao anh chị em phải đói khát.
- Chúng ta có bổn phận làm gương sáng cho mọi người bằng cuộc sống nhân đức. Chúng ta cũng phải cố gắng để tránh mọi tội và đừng tạo gương mù làm lung lạc đức tin của tha nhân.
56. Lý trí và đức tin - Lm Nguyễn Khoa Toàn
"Buộc thớt cối xay vào cổ mà xô xuống biển; chặt tay; chặt chân; móc mắt v.v..." Mới nghe qua tưởng chừng như một bản án dành cho những tội phạm dưới thời Taliban bên A Phú Hãn.
Nhưng không! Những cụm chữ rất tượng hình kia thoát đi chính từ môi từ miệng Đức Giêsu -Người Chăn Chiên nhân hậu; Đấng Cứu Độ trần gian! Tại sao một người yêu thương toàn nhân loại nhất là những kẻ tội lỗi đến nỗi hy sinh chính thân xác mình lại đề nghị những hình phạt kinh khiếp như trong thời Trung Cổ?
Và mới nghe qua có thể đã vội vàng nghĩ rằng Đấng đem bình an đến cho toàn thế giới lại cổ súy việc dùng bạo lực là phương cách duy nhất để giải quyết vấn đề. Trong bối cảnh hiện nay, lối suy diễn kia có thể đã được các nhóm quá khích Hồi Giáo tận tình khai thác để biện minh cho những hành động khủng bố trong cuộc chiến tranh tôn giáo, ý thức hệ một mất một còn này.
Nhưng trước khi đi sâu vào cách dùng chữ cũng như ý nghĩa đích thực về những hình phạt khi "kẻ nào làm cớ vấp phạm cho cho một trong những người bé mọn có lòng tin vào" Chúa, thiết tưởng cũng cần nên khách quan nhìn lại những phản ứng về bài nói chuyện của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI cùng các giáo sư và sinh viên tại đại học Regensburg gần đây.
Trọng tâm của bài nói chuyện là sự quan hệ giữa lý trí và niềm tin. Hơn bao giờ hết, sự liên hệ giữa niềm tin và lý trí là điều kiện ắt có và đủ để vãn hồi hoà bình thế giới đồng thời triệt tiêu những nhóm quá khích đội lốt tôn giáo dùng bạo lực là cách thức duy nhất để biểu lộ niềm tin. Và chắc chắn không phải ngẫu nhiên hoặc thiếu tinh tế nhạy bén chính trị mà Đấng kế vị Thánh Phêrô đã chọn chủ đề này. Phản ứng nông nỗi bốc đồng của các nhóm Hồi giáo cực đoan đã minh chứng rằng với họ, niềm tin chỉ có thể rao giảng bằng súng đạn với giáo gươm thôi.
Mà không liên hệ làm sao được khi nhìn những phụ nữ đầu mặt che kín tay vung cao đầy sát khí hằn thù!!! Không liên hệ làm sao được khi nhìn những đứa bé mặt búng ra sửa nhưng đã tay súng tay dao!!! Chắc chắn họ đã không dùng lý trí để phân biệt thực hư nhưng đã mù quáng điên cuồng bị lôi cuốn vào sự thù nghịch bạo động nhân danh tôn giáo và niềm tin.
Khi trích dẫn lời Hoàng Đế Manuel II là Mohammed đã "truyền bá giảng dậy đức tin bằng gươm giáo", Đức Thánh Cha đã chỉ muốn giải thích rằng một tôn giáo chân chính không thể cổ súy bạo lực và niềm tin phải luôn luôn đi đôi với lý trí. Nói một cách khác, nếu "đức tin không có hành động quả là đức tin chết," (Gc 2.17) thì đức tin dùng bạo lực là cách thức thước đo là một đức tin sai trái, cạn hẹp, lầm lạc, đóng khung.
Tôn trọng tự do tôn giáo không thể đồng nghĩa đồng tình với việc dùng bạo lực là công cụ và phương thế duy nhất để biểu lộ đức tin. Trái lại, tôn giáo chân thật đòi buộc một sự đối thoại liên lĩ trong sáng giữa lý trí hôm nay và đức tin vĩnh hằng.
Bạo lực không có chỗ đứng trong niềm tin Kitô giáo. 'Buộc thớt, móc mắt, chặt chân tay" chỉ là một cách nói chứ không phải để cổ súy bạo lực; trái lại, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến sự tôn trọng tuyệt đối những người bé mọn nhất nhưng đã dám liên kết lý trí con người với niềm tin vào Sự Thật và là Sự Sống.
57. Hãy tránh xa dịp tội – Lm. Vũ Xuân Hạnh.
Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất quyết liệt và kinh khủng dành cho những ai phạm tội: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai chân mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt". Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không chỉ quyết liệt mà còn độc ác?
Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo Hột chẳng bao giờ thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà xem, nếu Giáo Hội sử dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai tường hợp: Trường hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị cụt..., vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì không có người. Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế. Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội còn dạy những điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo Hội đòi phải "Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể". Sách Giáo lý cho biết: "...Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người".
Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý" (GLCG 2297).
Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự sống, nhưng trong trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu, ai đúng, ai sai?
Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là Lời chân lý, Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa Kitô làm Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa Kitô, và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu, khi nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho thấy sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định mối nguy hại có khi không nhỏ mà nó gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người cho thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không khoan nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu. Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.
Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là lối nói cụ thể, thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích, khi phải tìm xem những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con mắt... Mặt khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô ích, vì như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm tội đâu phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của mình từ suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự dữ là một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự sống, của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà con người phải chọn lựa.
Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu rừng nọ có một con thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con đã lớn, thỏ mẹ dẫn chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một tiếng rống nghe rất dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội làm hiệu cho các con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu kỳ, muốn biết tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em nấn ná ở lại để xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu sau, từ phía tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ to. Thỏ con không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ mặt đầy sát khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng nanh thật dài trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh. Nhưng chính lúc thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một cú nhảy thật nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.
Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay hay chân, hay mắt ta nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn ta hãy tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội, đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức tin, đúng hơn đến sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì tò mò muốn biết tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể đưa tới cái chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự chết. Bạn và tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối, mỏng dòn, sự sa ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn. Tránh xa dịp tội là tự cứu mình thoát chết.
Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội, chúng ta không được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu nguyện. Con người không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng đối với đời sống thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu nguyện; thánh lễ; đọc, lắng nghe và Suy niệm Lời Chúa... là những phương tiện giúp ta thêm mạnh mẽ để chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình trong ơn Chúa. Hãy nhớ rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để mình xa Chúa, ta sẽ dễ gần tội.
58. Suy niệm của Chiara Lubich.
"NẾU CHÂN ANH LÀM CỚ CHO ANH SA NGÃ, THÌ CHẶT NÓ ĐI; THÀ CỤT MỘTCHÂN MÀ ĐƯỢC VÀO CÕI SỐNG CÒN HƠN LÀ CÓ ĐỦ HAI CHÂN MÀ BỊ NÉM VÀO HỎA NGỤC"
Đây là những lời làm ta sững cả người. Đức Giêsu bảo ta hãy chặt chân, chặt tay và móc mắt nếu chân ta, tay ta, mắt ta khiến ta phạm tội. Hẳn rằng những lời này có đầy đủ sức mạnh của một thanh gươm hai lưỡi (xem Dt 4,12), nhưng ta biết rằng không được hiểu theo nghĩa đen. Ý nghĩa muốn nói ở đây là trước bất kỳ dịp tội nào, ta phải sẵn sàng khước từ tất cả, kể cả những gì và những người mà ta rất yêu dấu, còn hơn để mất đi điều thực sự quý giá: "được vào cõi sống", nghĩa là được hiệp thông với Thiên Chúa và được cứu độ.
Cụm từ "cớ sa ngã" trong Phúc Âm chỉ tất cả những gì ngăn trở giữa ta và Thiên Chúa, ngăn cản ta thi hành ý của Người; bất kỳ điều gì thọc gậy bánh xe chặn ta đi theo Đức Giêsu, như một cái bẫy làm ta sa ngã, phạm tội. Có những lúc con mắt, bàn tay, bàn chân "làm ta sa ngã", nghĩa là chúng dường như dẫn ta đến chỗ chối bỏ Đức Giêsu, phản bội Người, yêu chuộng những cái khác hơn Người.
Santa Scorese, một thiếu nữ hai mươi ba tuổi, người thành phố Bari, miền nam nước Ý, đã hiểu rõ điều đó. Năm 1991, khi bị một thanh niên trạc bằng tuổi mình đe dọa, cô thà chết còn hơn mất sự trinh khiết. Đối với cô, Thiên Chúa đáng quý hơn chính mạng sống của mình.
"Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục".
Lời Sống này lột mặt nạ "con người cũ" (xem Ep 4,22) trong ta. Thực vậy tội lỗi không đến từ sự vật, từ bên ngoài mà xuất phát từ thâm tâm, từ trong lòng ta. "Con người cũ" sống trong ta khi ta chiều theo những lôi cuốn của tội lỗi và khi ta tìm cách thỏa mãn những xu hướng thấp hèn nhất của ta: thói ích kỷ, thèm khát quyền lực, vinh quang, tiền bạc….
"Con người cũ" phải nhường chỗ cho "con người mới" (xem Ep 4,24): Đức Giêsu ở trong ta.
Tự sức ta, liệu ta có thể nhổ tận gốc các đam mê thác loạn ra khỏi tâm hồn và làm trổ sinh trong ta sự sống thần linh không? Chỉ có Đức Giêsu, bằng cái chết của Người, mới có thể làm chết đi "con người cũ" của ta, và với sự phục sinh, Người biến đổi ta trở nên những con người mới. Người có thể ban cho ta lòng can đảm và quyết tâm trong cuộc chiến chống lại sự dữ, và một lòng mến sắt son, nồng nàn những gì là thiện hảo. Từ nơi Người xuất phát tự do nội tâm, bình an và niềm vui khôn tả, nâng ta lên khỏi tất cả những xấu xa của thế gian và cho ta được nếm trước niềm vui thiên đàng.
"Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục".
"Con người mới" trong ta phải lớn lên và phải được gìn giữ khỏi các cám dỗ của "con người cũ". Về phần ta, ta phải làm gì? Năm 1949, tôi đã viết như sau: "Có rất nhiều cách để dọn dẹp một căn phòng - lượm lên từng cọng rác một; dùng chổi nhỏ, chổi chà, hoặc máy hút bụi. Hoặc ta có thể dọn sang một phòng khác, mọi thứ đều sạch sẽ, ngăn nắp. Hành trình nên thánh của ta cũng giống như thế. Thay vì khó nhọc bứng đi hết khuyết điểm này đến tật xấu kia, thì ngay lập tức ta có thể tránh sang một bên và để cho Đức Giêsu sống trong ta. Nghĩa là ta "chuyển hộ khẩu" để sống trong người khác, chẳng hạn như trong những người chung quanh ta. Đúng vậy, ta sống viên mãn cuộc sống của người đó".
Hãy yêu mến! Đó là toàn bộ giáo lý của Đức Giêsu. Hãy tinh luyện tâm hồn để ta có khả năng lắng nghe tha nhân, biết đón nhận các vấn đề và các ưu tư của người bên cạnh làm của mình, và chia vui sẻ buồn với họ, phá bỏ những hàng rào vẫn còn gây chia rẽ giữa chúng ta, vượt qua những thành kiến và thói chỉ trích phê bình, ra khỏi thế cô lập của ta và đặt mình phục vụ những người túng thiếu, cô đơn, và xây dựng ở khắp nơi sự hiệp nhất mà Đức Giêsu đã muốn.
Nếu ta sống như thế, Thiên Chúa sẽ lôi kéo ta sống kết hợp với Người ngày càng thân mật hơn và sẽ làm cho ta kiên vững và hầu như không thể bị tấn công trước những sai lầm và lôi cuốn của thế gian.
"Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục".
Đức Giêsu còn bảo ta hãy dứt khoát "chặt đi" bất kỳ sự vật, người hoặc hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa của điều mà Phúc Âm gọi là "từ bỏ chính mình" (xem Mc 8,34). Kitô hữu là người có được lòng can đảm cần thiết để chống trả các xu hướng ích kỷ, không để cho chúng trở thành lối sống của mình.
Ta hãy ra khỏi con người mình bằng cách yêu mến những người bên cạnh và chặt đứt mọi dính bén với bất kỳ điều gì không đáng để ta yêu mến. Ta hãy quét sạch tất cả những gì cần được đưa ra khỏi tâm hồn của ta. Không có hi sinh nào gọi là quá lớn nếu hi sinh aáy duy trì được sự hiệp thông của ta với Thiên Chúa. Mỗi xén tỉa sẽ làm nảy sinh trong tâm hồn ta hoa trái mừng vui, một niềm vui đích thực, niềm vui mà thế gian không biết đến.
59. Tin Mừng dữ dội – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, đọc giả có lúc cười lúc khóc, có khi cảm nhận được sự xoa dịu ủian hay thôi thúc tỉnh thức, có lúc cảm thấy bị chói tai, bị cay cú… Tin Mừng nluôn nói lên những chân lý và dạy những bài học thích đáng.
Suy niệm trang Tin Mừng (Mc 9,42-48), Linh mục Nguyễn Hồng Giáo dùng cụm từ “Tin Mừng dữ dội”.
Đầu đề “Tin Mừng dữ dội” chắc sẽ làm cho nhiều người ngạc nhiên thắc mắc. Tin Mừng của Chúa Giêsu mà dữ dội sao? Chẳng phải là Tin Mừng toát ra một bầu khí yêu thương, hiền hoà, bao dung, yêu chuộng hoà bình và bất bạo động bao trùm đó sao? Tôi đồng ý như thế, tôi vẫn biết là có vố số những người đã tìm thấy trong lời dạy về tình thương và thái độ bất bạo động nguyên lý cho sự dấn thân xã hội, chính trị của họ, ví dụ như ba khuôn mặt còn khá quen thuộc với nhiều người trong chúng ta là Mẹ Têrêxa Calcutta, mục sư Tin Lành Martin Luther King và nhà anh hùng Ấn Độ Mahatma Gandhi. Dầu vậy, tôi cứ vẫn thấy Tin Mừng của Chúa là dữ dội, ngay cả hay đúng hơn nhất là Bài giảng trên núi (Mt các chương 5, 6, 7) mà Gandhi lấy làm một nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh hoà bình của mình chống lại thực dân Anh, dành độc lập cho đất nước.
Tin Mừng dữ dội với các đòi hỏi gắt gao: "Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà vào cõi sống còn hơn là có đủ hai hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục" (Mt 18, 8-9; x. Mt 5, 19-20).Cần hy sinh những gì đưa chúng ta tới tội trọng và phải biết dám liều mình, hy sinh đến cả mạng sống mình để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa. (x.nguoitinhuu.com)
Lời Chúa hôm nay cho thấy tính chất “dữ dội” của Tin Mừng.
Phải tránh gương mù gương xấu “Nếu ai làm cớ cho người khác phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn”.
Phải quyết liệt và dứt khoát với dịp tội“chặt tay, chặt chân, móc mắt” khi những chi thể này là nguyên nhân phạm tội. ĐGM Arthur Tonne gọi đó là những lời đẫm máu và rùng rợn. Noel Quesson nói: dù là những kiểu nói vùng Sêmít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.
M. Quesnel tự hỏi: Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp, bạo lực, ước muốn xấu (Mc 7,21-22). Chúa Giêsu bảo là hãy dứt khoát "chặt đi" bất kỳ sự vật, người hoặc hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa của điều mà Phúc Âm gọi là "từ bỏ chính mình" (x. Mc 8,34).
Tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe (Fiches Dominicales). Tay mắt và chân tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. “Chặt bỏ" một tật xấu một thói quen, "cắt đứt" một mối liên hệ nguy hiểm. Tính dữ dội biểu lộ nơi thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt với tội lỗi.
Cũng như người bệnh, phải phẫu thuật, phải cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo chúng ta phải quyết liệt với tội lỗi cho dù phải “chặt tay, chặt chân, móc mắt”. Chúamuốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của “sự sống”, của “Nước Thiên Chúa”, đó là tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người.Biết bao nhiêu người đã chịu thiệt thòi, thậm chí dám chấp nhận cái chết vì trung thành với tất cả các đòi hỏi “dữ dội” của Tin Mừng.
Đời sống Kitô hữu cần được cắt xén, gột rửa, từ bỏ để tăng trưởng, sinh nhiều hoa trái “Nhánh nào không sinh quả thì Thiên Chúa chặt bỏ, còn nhánh nào sinh quả thì Ngài tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn” (Ga 15,1-2).
Có những lời dạy của Tin Mừng, mới nghe qua thì rất "nhẹ nhàng", nhưng gẫm sâu hơn lại thấy vô cùng dữ dội, ví dụ: "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14, 26). "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được" (Mt 6, 24); "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: 'Chớ giết người'; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt" (Mt 5, 21-22); "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: 'Chớ ngoại tình'. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì lòng đã ngoại tình với người ấy rồi" (Mt 5, 27-28); "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không? Đức Giêsu đáp: 'Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 21-22); "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: 'Mắt đền mắt răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài..." (Mt 5, 38-40). Hoặc: "Anh em đã nghe Luật dạy: 'Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù'. Con Thầy. Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em..."(Mt 5, 43-44).
Tin Mừng dữ dội là do sự đòi hỏi vô cùng của sự hoàn thiện và tình thương của Cha trên trời mà các môn đệ Chúa Giêsu, vốn là những con người yếu đuối và tội lỗi, phải noi theo (x. Mt 5, 48 và Lc 6, 36). Giáo lý Tin Mừng không hề kêu gọi bạo lực nhưng nó đòi hỏi người tín hữu phải quyết liệt với mình, làm mạnh với mình, dám dùng "bạo lực" với mình, nếu nói được như thế, bởi lẽ nó bắt ta đi ngược với xu hướng tội lỗi vốn ăn sâu trong ta, đi ngược với sự khôn ngoan thế gian nữa. (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Gương xấu và làm dịp tội cho người khác gây tai hại và nguy hiểm vô cùng. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau. Phải tránh gương mù gương xấu. Mỗi người có thể gây dịp tội khiến người khác sa ngã, và đôi khi thân xác mình lại có thể là dịp tội cho chính mình. Càng tránh dịp tội, càng ít phạm tội.
Có câu chuyện ngụ ngôn “Đại hội cái búa” kể về nỗi lo sợ của các loại cây trong rừng, từ cây cổ thụ cho đến những cây nhỏ đều sợ Cái Búa của người đốn cây. Hễ búa đi đến đâu là là cây cối đều ngã rạp đến đó.
Một hôm, cây cối họp đại hội, bàn cách đối phó với Cái Búa. Để chứng tỏ rằng việc làm của tất cả cây rừng là công khai, và Búa cũng được mời tham dự Đại hội này.
Sau một lúc bàn bạc sôi nổi, Đại hội đi đến kết luận: Cương quyết không cho Búa bất kỳ một khúc gỗ nào để làm cán cả. Búa mà không có cán thì làm được việc gì bây giờ. Tất cả cây rừng từ nhỏ đến lớn đều hoan hỉ về quyết định này. Dù một khúc gỗ cũng không cho!
Bấy giờ, Búa đưa tay xin phát biểu với giọng nài nỉ đáng thương: Xin quý vị niệm tình, thân tôi mà không có cán như người tật nguyền không tay chân, xin hãy cho tôi một lần này nữa thôi, tôi sẽ chỉ dùng Búa vào những việc tốt, tôi chỉ chặt những gai góc làm vướng chân quý vị mà thôi!
Trước lời thỉnh cầu tội nghiệp của Búa, cả Đại hội liền có sự chia rẽ vì khác quan điểm. Hội nghị phải đi đến việc biểu quyết lại. Kết quả là đa số bằng lòng cấp cho Búa một khúc gỗ duy nhất làm cán. Nhưng hỡi ôi! Khi Búa đã có cán rồi, nó bèn lần lượt đốn hết những cây trong rừng, từ cây non cho đến cây cổ thụ.
Bạn chỉ cần cho tội ác một cơ hội thôi, là bạn sẽ hối tiếc cả cuộc đời! Tội lỗi huỷ hoại đời người như sự hung hãn của núi lửa. Tội lỗi tàn phá cơ thể như bệnh ung thư. Tội lỗi gây hậu quả lâu dài như những đổ vỡ trong Gia đình, hầu như không bao giờ hàn gắn được!
Bạn đừng cho tội ác một cơ hội nào hoành hành, dù chỉ là một một sự dễ dàng cỏn con. Hãy chống trả, hãy cự tuyệt và tránh xa nó! “Đừng để ma quỷ lợi dụng!” (Ep 4, 27).
Cái xấu có khả năng lây lan rất nhanh. Tiếp cận với lời “dữ dội” của Tin Mừng sẽ giúp bạn tránh xa dịp tội và gương xấu. Nhờ đó, bạn sẽ làm chủ những đam mê như vui, buồn, sợ, giận, yêu, ghét, ham muốn trong mọi mối tương quan.
Cái đẹp, cái tốt, cái chân thật, thường loan truyềntheo chiều rộng và chiều xa. Sống Tin Mừng giúp bạn đem đến cho cuộc đời những nét đẹp, cuộc sống thêm ý nhị đậm đà và nhiều niềm vui hạnh phúc hơn.
60. Cái giá người môn đệ phải trả - Lm Mark Link.
"Người môn đệ phải sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh vì nước trời…"
Cuốn phim "A man for all seasons" (Người thích ứng mọi mùa) được xây dựng dựa theo cuộc đời thánh Thomas More.
Khi Kha Luân Bố khám phá ra Mỹ Châu, Thomas More mới là một thiếu niên mười mấy tuổi tại Anh Quốc. Chàng theo học tại Đại học Oxford. Sau khi tốt nghiệp Đại học, chàng dấn thân vào cuộc đời chính trị. Là một viên chức của triều đình, chàng được thăng quan tiến chức rất mau lẹ, năm 1529, vua Henri thứ VIII đã phong chàng lên chức Đại pháp quan của Anh Quốc.
Nhưng thảm kịch đã xảy đến cho Thomas More. Khi vua Henri VIII ly dị với hoàng hậu và tái kết hôn không đúng theo luật lệ. Để chống lại bất cứ ai phản đối cuộc hôn này, Henri ra lệnh cho một số quan chức triều đình ký vào một văn bản tuyên thệ rằng sự tái hôn của ông là hợp pháp. Ông truyền cho các vị chức sắc này là nếu họ từ chối không chịu ký vào văn bản ấy họ sẽ bị hạ ngục vì tội phản loạn. Và rồi thảm kịch đã xảy ra khi ngài Norfold mang văn bản ấy đến cho Thomas More. Ông này chẳng chịu ký bất chấp biết bao lời thuyết phục khuyên ông thay đổi ý. Cuối cùng, Norfolk không còn kiên nhẫn được nữa, ông nói với bạn:
"Tôi không biết cuộc kết hôn có hợp pháp hay không, nhưng thây kệ nó! Thomas ơi, ông hãy nhìn vào tất cả những kẻ đã ký vào đây! Ông biết rõ những người này mà! Tại sao ông không thể làm như chúng tôi, nhân danh tình bạn của chúng ta?" Thomas More vẫn từ chối. Ông không muốn tuyên thệ điều gì mà tận thâm tâm ông biết là sai trái. Cuối cùng, Thomas More bị tống giam. Vào ngày 6 tháng 6 năm 1535 ngài đã bị hành hình vì tội phản loạn.
***
Câu chuyện thánh Thomas More làm sáng tỏ lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu tay con làm mất đức tin, hãy chặt nó đi!… Nếu chân con làm con mất đức tin, hãy chặt phăng nó đi!… Nếu mắt con làm con mất đức tin, hãy móc nó quẳng đi! vì thà rằng con bị chột mà vào nước trời hơn là còn toàn vẹn hai mắt mà bị ném vào hoả ngục".
Chúa Giêsu không bảo chúng ta chặt chân tay, móc mắt, theo nghĩa đen, Ngài chỉ muốn dùng những thành ngữ quen thuộc của thời đại Ngài để nhấn mạnh một điểm quan trọng là:
Các môn đệ Ngài phải sẵn lòng hy sinh tất cả sự gì cần thiết để giữ mình khỏi phạm tội, phải sẵn lòng hy sinh cả những gì quí báu nhất đối với ta để được vào nước trời. Trong trường hợp Thomas More, điều này có nghĩa là hy sinh cả mạng sống mình.
Chúng ta chớ vội nghĩ rằng vì Thomas More là một vị thánh nên ngài đã tự hiến dâng đời sống một cách dễ dàng. Chúng ta hãy lắng nghe những lời trong lá thư ngài viết cho cô con gái của ngài ít lâu sau khi ngài bị giam, những lời này sẽ cho ta biết cuộc đấu tranh khủng khiếp xảy ra bên trong tâm hồn ngài như thế nào:
"Meg thân yêu, Bố sẽ không bất tín với Chúa, dù bố cảm thấy yếu đuối khi sắp phải đương đầu với nỗi sợ hãi. Bố nhớ lại sự kiện thánh Phêrô bắt đầu chìm xuống nước vì thiếu đức tin, khi thấy gió thổi mạnh, bố sẽ bắt chước ông kêu cầu Chúa Kitô nài xin Chúa giúp đỡ Bố. Bố tin rằng Chúa sẽ đặt đôi tay thánh thiện lên Bố và ngay trong cơn bão biển Chúa sẽ giữ cho bố khỏi bị chìm xuống… vì thế hỡi con gái yêu của bố, con đừng bối rối âu lo về bất cứ điều gì sẽ xảy đến cho bố trong cuộc sống dương trần này, không điều gì xảy ra ngoài ý Chúa, Bố rất xác tín rằng bất cứ điều gì tồi tệ xảy ra, thì chắc hẳn đó là điều tốt nhất đấy".
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại câu hỏi này: chúng ta có biết phòng tránh tội lỗi để đạt nước trời không? Chúng ta có biết canh chừng đối với bất cứ điều gì có thể khiến chúng ta đánh mất nước trời không?
Trong một lá thư của mình, một vị thánh danh tiếng người Pháp, Francis de Sales, đã nói về vấn đề cám dỗ và việc canh phòng chống lại tội lỗi như sau;
"Mặc cho quân thù gào thét ở ngoài cửa,
mặc cho nó gõ, nó la, nó gào, nó làm bậy làm bạ.
chúng ta biết chắc rằng nó không thể đi vào nhà trừ khi chúng ta bằng lòng mở cửa cho nó".
Vậy chúng ta cần tỉnh thức đề phòng tội lỗi. Khi cơn cám dỗ xảy đến – và chắc chắn nó sẽ đến chúng ta hãy nhớ lại những lời thánh Thomas More đã viết cho Meg con gái ngài:
"Bố sẽ nhớ lại sự kiện thánh Phêrô bắt đầu chìm xuống vì thiếu đức tin khi thấy gió mạnh thổi lên, và bố cũng sẽ bắt chước ngài kêu lên với Chúa Kitô và khẩn cầu Ngài giúp đỡ. Bấy giờ bố tin rằng Chúa sẽ đặt tay lên người bố và giữ bố khỏi chìm xuống giữa cơn bão biển".
Tóm lại, sứ điệp của Chúa Giêsu ẩn chứa trong bài Phúc Âm hôm nay như sau; chúng ta phải sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh để tránh tội và để đạt được nước trời. Và chúng ta cũng phải sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh để tránh tội và để đạt được nước trời. Và chúng ta cũng phải sẵn sàng bắt chước Thomas More Người đã hy sinh mạng sống mình vì nước trời.
Chúng ta sẽ kết thúc với những lời rút ra từ bài hát cổ xưa mà Giáo hội thường xử dụng trong Kinh nhật tụng giờ Kinh chiều của một số ngày Chúa Nhật trong năm phục vụ.
"Nghe danh hiệu Giêsu, mọi gối phải quì xuống, mọi miệng lưỡi phải xưng tụng Ngài là Vua vinh quang…” Hãy để Ngài ngự trị tâm hồn bạn. Hãy để Ngài chinh phục những gì chưa thánh thiện, những gì chưa đúng. Ước gì bạn biết lên tiếng gọi Ngài trong cơn cám dỗ. Hãy để Ngài che phủ bạn bằng ánh sáng và quyền năng của Ngài. Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Cha Ngài, để ngự trị trên trái đất. Ngài là Thiên Chúa cứu độ. Ngài là Đấng Kitô Chủ tế chúng ta".
61. Cộng tác trong việc làm sáng danh Chúa
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Khi so sánh mình với người khác, người ta có thể nẩy ra cảm giác ghen tuông, ganh tị. Sở dĩ có cảm giác ganh tị, ghen tuông vì người ta sợ bị nép vế, bị mất ảnh hưởng hoặc bị đe doạ. Khi ông Môsê được thần khí của Thiên Chúa ngự xuống nói chuyện, thì ông dùng một phần thần khí ngự trên ông mà đặt trên 72 kì mục trong lều trại. Còn hai kì mục nữa là ông En-đát và ông Mê-đát không có mặt ở trong lều trại mà cũng nhận được thần khí nói tiên tri (Ds 11:27). Điều đó làm ông Giôsuê thắc mắc. Ông Môsê khuyên ông Giôsuê đừng quan tâm, vì càng nhiều người nói tiên tri, thì Thiên Chúa càng được vinh danh.
Đến lượt thánh Gioan tông đồ cũng quan ngại về việc Đức Giêsu ban tặng quyền năng cho người nghe. Ông Gioan sinh ghen tị vì có người không cùng nhóm các tông đồ đã dùng danh Chúa mà trừ quỉ (Mc 9:38). Ông Gioan muốn nói là có người nào khác cũng đã hành động theo thần trí của Thiên Chúa. Ông tưởng đó là sai trái, và không được phép vì người đó không thuộc nhóm các tông đồ. Chúa bảo ông Gioan: Không ai lấy danh nghĩa Thày mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó có thể nói xấu về Thày (Mc 9:39).
Theo lời Chúa dạy, người môn đệ Chúa không thể để cho đầu óc hẹp hòi đến nỗi đòi độc quyền làm việc từ thiện nọ, việc bác bác ái kia, mà ngăn cản người khác hay nhóm khác không được làm. Ngăn cản người khác hay nhóm khác, không cùng tổ chức, hay cùng tôn giáo với mình làm việc từ thiện bác ái là hạn chế vinh danh Thiên Chúa. Người tín hữu phải vui mừng khi có người làm việc thiện và việc lành, dù người đó không thuộc về nhóm, hay mình không ưa thích người đó. Người tín hữu cần cộng tác với những người có thiện chí và thiện ý trong việc làm giảm bớt nỗi thống khổ của loài người, làm tăng phẩm giá con người, và làm việc cổ võ công bình bác ái.
Cộng tác với người khác, với những hội đoàn xã hội và tôn giáo khác trong việc bác ái, xã hội, không có nghĩa là ta phải nhượng bộ những điều ta tin tưởng về đạo giáo. Trái lại ta phải giữ vững lập trường về đức tin công giáo. Cộng tác với người khác cũng không có nghĩa là không cần tìm sự hiệp nhất trong một đức tin. Chúa Giêsu không bảo người lấy danh Chúa mà trừ quỉ (Mc 9:38) không cần tìm hiệp nhất với nhóm tông đồ. Chúa chỉ bảo ông Gioan đừng ngăn cản người ấy mà thôi. Vì thế mà người tín hữu vẫn cần cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong một đức tin vào Chúa Kitô.
Nếu Chúa dạy ta phải vui mừng với người làm việc thiện và cộng tác với họ, thì Chúa cũng bảo ta phải xa tránh sự dữ và gương xấu vì gương xấu và sự dữ làm lu mờ danh Chúa. Chúa bảo ta không được làm cớ vấp phạm cho người khác, nhất là cho người yếu đức tin phải sa ngã. Chúa bảo ai làm cớ vấp phạm cho người yếu đức tin thì đáng trách phạt. Cớ vấp phạm có thể gây ra bằng lời nói hay việc làm khiến người khác có thể bắt chước. Như vậy làm cớ vấp phạm hay gương xấu là tội gấp đôi: do tội của đương sự và làm cớ sinh tội cho người khác.
Nếu Chúa bảo ta phải cộng tác và cổ võ công việc thiện hảo, thì Người cũng bảo ta phải tẩy chay việc dữ, tẩy chay những tệ đoan, những bất công trong xã hội loài người. Nếu sự việc ta làm, sự vật ta có, nếu chi thể ta gây dịp tội, gây nguy hại cho đức tin, cho sự cứu rỗi, Chúa bảo ta phải kiểm soát và canh chừng, phải làm chủ chính mình và làm chủ tình thế, chứ không để mình làm nô lệ cho dục vọng và ham muốn. Như vậy nếu truyền hình, phim ảnh, sách báo và mạng tin có thể làm sa đoạ đời sống tinh thần, làm suy giảm đức tin, làm cản trở mối liên hệ với Chúa, và làm nguy hại cho phần rỗi linh hồn, người tín hữu phải kiểm soát, hoặc loại bỏ.
Điều Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay là người môn đệ phải sẵn sàng chịu mất một tay, một chân, một mắt nếu những chi thể này làm cản trở cho phần rỗi linh hồn. Khi Chúa nói thà vào nước Trời với một tay, một chân, một mắt còn hơn là sa hoả ngục với hai tay, hai chân và hai mắt là nói theo nghĩa ẩn ý, nhấn mạnh đến giá trị của nước trời hơn một phần chi thể, chứ không nhất thiết phải hiểu theo nghĩa đen. Ta có thể cảm thấy khó tin lời Chúa, bởi vì đường lối của Chúa khác với đường lối loài người, và những giá trị siêu nhiên khác với những giá trị trần thế. Tuy nhiên lời Chúa vẫn là sự thật, và lời Chúa là lời ban sự sống. Chúa đến để làm đảo lộn những giá trị của loài người vì hệ thống giá trị của loài người đã bị tội lỗi làm nhiễm độc. Do đó mà Chúa đã ban cho loài người Mười Giới răn và những giáo lí Phúc âm nêu ra những gì phải làm, những gì phải tránh để được vào nước Trời.
Trong kinh Lạy Cha, Đức Giêsu dạy các tông đồ cầu nguyện: Nguyện cho danh Cha cả sáng. Vậy làm sao ta có thể làm cho danh Chúa cả sáng? Nói cách khác, làm sao ta làm cho danh Chúa được vinh danh? Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy ta cộng tác với những người có thiện chí và thiện ý trong việc làm sáng danh Chúa bằng cách làm việc từ thiện, bác ái, xã hội và nhân đạo cũng như xa tránh những việc làm lu mờ danh Chúa là tội lỗi và gương xấu.
Lời cầu nguyện xin cho danh Chúa được cả sáng:
Lạy Chúa Giêsu,
Trong kinh Lạy Cha,
Chúa dạy chúng con cầu nguyện cho danh Cha cả sáng.
Xin dạy con biết làm việc và cộng tác với người khác
trong những việc tìm kiếm vinh danh Chúa.
Xin cũng dạy con biết xa tránh và chận đứng
những việc làm lu mờ danh Chúa là tội lỗi và nết xấu
để danh Chúa được lan rộng. Amen.
62. Đức Giêsu giáo huấn các môn đệ
(Giải thích và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn này dường như là một tổng hợp những chất liệu khác biệt.
Ở cc. 38-41: Ta thấy điều đó ngay khi nhìn bề ngoài nơi việc thay đôi thường xuyên các nhân vật: Gioan nói ở ngôi thứ nhất số nhiều, Đức Giêsu trả lời ngay bằng một câu ở ngôi thứ nhất số ít, rồi bằng một câu khác ở ngôi thứ nhất số nhiều và cuối cùng, ở c. 41 thì ngỏ lời với các môn đệ (hymas, “anh em”). Rồi, c. 41 nối với c. 37 thì khớp hơn là nối với cc. 38-40. Khối cc. 38-40 dường như là một đơn vị độc lập được viết nhằm giải quyết một một vấn đề cụ thể của cộng đoàn, với nội dung và cấu trúc sê-mít: c. 39 là một mệnh đề điều kiện theo kiểu Sê-mít; c. 10 có giọng văn một cách ngôn. Dường như c. 41 được ghi giữ lại trong Mt 10,42, ở dạng cổ hơn: “Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi…”; bản văn nói về đề tài “những kẻ bé nhỏ” đã được tác giả Mc chuyển thành đề tài “các môn đệ”.
Đến cc. 42-48, chúng ta cũng nhận thấy có những câu nói thuộc các thể văn khác nhau. Dường như c. 42 tiếp nối đề tài những kẻ bé mọn của cc. 37 và 41. Các câu 43, 45 và 47 có cùng một cấu trúc và lặp lại nhịp nhàng đề tài cớ làm sa ngã. Có thể nói, các tư tưởng được liên kết với nhau chỉ về mặt từ ngữ, bằng những “từ móc nối”. Điều đó đặc biệt rõ ràng trong cc. 48-50: “lửa” ở c. 48 đưa đến “lửa” ở c. 49; tại đây “(ướp bằng) muối” đưa tới “muối” ở c. 50. Nhưng trước đó, động từ “làm cớ sa ngã” làm cho cc. 42-48 được thống nhất. Và thuật ngữ “vì danh” móc nối cc. 37 (“vì danh Thầy”), 38-39 (“vì danh Thầy, “vì danh Ta [Thầy]”) và 41 (“vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô” diễn tả trong hy ngữ là en onomati hoti, là một kiểu nói Sê-mít). Ngoài ra “một em nhỏ như em này” ở c. 37 móc nối với “một trong những kẻ bé mọn đang tin đây” ở c. 42 (cho dù trong hai câu ấy có hai từ khác nhau: paidion / micro).
Tuy đây là một bản văn gồm những tư tưởng được liên kết với nhau bằng những “từ móc nối”, nhưng khi đã thành một đơn vị văn chương, và đưa vào trong tác phẩm, hẳn tác giả phải có một chủ ý khi đặt nó vào một chỗ nhất định.
Đây là một cuộc chuyện trò giữa Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai: Đức Giêsu ngồi (tư thế của vị thầy). Truyện diễn ra “ở nhà” (c. 33), một ngôi nhà ta không biết rõ ai là chủ và toạ lạc ở đâu. Ở đây, ngôi nhà được xác định là tại Caphácnaum, nhưng ta vẫn có thể gặp ở nơi khác, mỗi khi Mc cần có để diễn tả sự kín đáo thân mật trong những giáo huấn Đức Giêsu ban riêng cho các môn đệ, tách khỏi đám đông (7,17; 9,28; 10,10). Trong cuộc trò chuyện, Đức Giêsu nhấn mạnh rõ ràng đến mối nguy đe doạ cộng đoàn khi các môn đệ còn tìm cho được ăn trên ngồi trước.
Cuối cùng, Mc 9,35-50 đến sau lời loan báo Thương Khó lần thứ hai. Từ 8,31 đến 10,45, có ba lời loan báo Thương Khó, mỗi lời đều có kèm theo những mẩu chuyện minh họa tình trạng tăm tối không hiểu của các môn đệ, khiến Đức Giêsu lại có cơ hội ban một giáo huấn về tình trạng cộng đồng sinh mệnh giữa Người và các môn đệ. Riêng ở đây, sau lời loan báo lần hai, vì các môn đệ còn quan tâm đến việc “trên trước”, Đức Giêsu dạy cho họ biết đâu là đường lối của Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Tuy bản văn rất tản mạn, chúng ta có thể chia thành hai đơn vị:
1) Người ở ngoài nhóm (cc. 38-41);
2) Các cớ làm sa ngã (cc. 42-48).
3.- Vài điểm chú giải
- Người lấy danh thầy mà trừ quỷ... không theo chúng ta (38-40): Trong Cựu Ước, có một đoạn song song với câu truyện này, đó là câu truyện Enđa và Mêđa không đến họp mà cũng tuyên sấm (Ds 11,26-30; x. Cv 8,18; 19,13-14). Môsê đã tỏ thái độ khoan dung. Trong bài tường thuật Mc, người trừ quỷ đã sử dụng danh Đức Giêsu như một thứ khí cụ đầy sức mạnh (x. Mc 1,24; 5,7). Đức Giêsu dạy các môn đệ tỏ ra khoan dung với người ấy. Thái độ của Người dựa trên ý tưởng này là bất cứ ai đã trừ quỷ nhân danh Người, không thể ngay sau đó lại đi nói xấu Người. Hẳn là Mc đang muốn nêu ví dụ này để phê bình những khuynh hướng độc quyền trong Giáo Hội tiên khởi. Câu 9,40 là một câu tổng-quát-hoá giáo huấn trong c. 39 thành dạng châm ngôn.
Công thức “vì người ấy không theo chúng ta”, chứ không phải là “vì người ấy không theo Thầy” khiến hiểu rằng nhóm các môn đệ là một thực thể khép kín và có thể lời báo cáo của Gioan phản ánh một vấn đề của cộng đoàn.
- Cho anh em uống một chén nước (41): Nên nối kết lời khẳng định này với c. 37: Hai câu này soi sáng cho nhau vì ta thấy Đức Giêsu nói về em nhỏ bằng những từ ngữ thích hợp với một sứ giả, một vị thừa sai hơn. Chính truyền thống Tin Mừng đã áp dụng cho các môn đệ những lời và những cử chỉ của Đức Giêsu liên hệ đến các em nhỏ: người ta dễ dàng chuyển đi từ em nhỏ sang người môn đệ được mời trở nên bé mọn (Mt 18,2-5; Mc 9,33-37) hoặc sang “kẻ bé mọn đang tin”, nghĩa là người môn đệ yếu đuối nhất hoặc tầm thường nhất (Mc 9,42; Mt 18,6). Câu 37 liên hệ đến việc tiếp đón em nhỏ nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là phù hợp với tinh thần và điều răn của Người, dường như nối kết hai câu được nói trong hai hoàn cảnh khác nhau, một câu (c. 37a) nói về các em nhỏ, câu kia (c. 37b) nói về những sứ giả của Đức Giêsu (x. Mt 10,40; Lc 10,16; Ga 13,20). Được diễn tả trong TM II, c. 37 này hoàn toàn phù hợp với người môn đệ được tiếp đón trong tư cách môn đệ. Nếu chén nước cho người ấy có giá trị đến thế, chính là vì Đức Giêsu tự đồng hoá với người ấy (x. Mt 25,35-45).
Nhờ những lời ấy, các Kitô hữu đầu tiên ý thức rằng họ thuộc về Đức Kitô và do đó, có những trách nhiệm: nhờ các môn đệ, Đức Giêsu tiếp tục hiện diện nơi thế gian này.
- Làm cớ cho những kẻ bé mọn đang tin phải sa ngã (42): “Những kẻ bé mọn” đây chính là những Kitô hữu yếu đuối hơn hoặc ít sáng suốt hơn những người khác. Phaolô có lưu ý rằng những người hiểu biết hơn cũng có thể trở thành cớ khiến người yếu phải sa ngã (x. 1 Cr 8,7-13; 9,22; 10,24-29; Rm 14,1-23). Giọng nghiêm khắc của Đức Giêsu khiến ta hiểu phải tôn trọng phẩm giá của những kẻ ấy và phải ân cần săn sóc họ.
- ai làm cớ cho… sa ngã (43-48): Phân đoạn này có cấu trúc giống nhau (“Nếu tay … nếu chân … nếu mắt…”; x. cc. 43.45.47): nếu một chi thể nào là cớ đưa anh em đến chỗ phạm tội, thì loại nó đi để tránh được geenna (hoả ngục) và được vào Nước Thiên Chúa. Không cần phải tìm hiểu xem những tội của tay, của chân, của mắt là những tội nào. Vả lại, loại bỏ những chi thể này đâu hẳn là loại trừ được mối nguy? Chúng tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. Đức Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của “sự sống”, của “Nước Thiên Chúa”, tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con người (x. Mc 8,35-37 // 10,23-27 // Mt 13,44-45;…).
“Sự sống” thì đối lại với “hoả ngục”, được coi như nơi có những khổ hình dành cho những kẻ tội lỗi bị loại khỏi “sự sống”. Câu trích khá thoáng ở c. 48 gửi chúng ta về với bản văn Is 66,22-24 trong đó vị ngôn sứ gợi lên vinh quang của Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của thế giới, trong khi đó ở bên ngoài thành, tử thi của những kẻ phản loạn chống lại Thiên Chúa đang bị giòi bọ rúc rỉa và lửa thiêu đốt. Đây là thung lũng (híp-ri ghê) Hinnôm (hoặc “con cái Hinnôm”: ghê-Hinnôm hoặc ghê ben-Hinnôm; Hy Lạp: ghêenna) gần các cổng thành ở phía nam. Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân Giuđa sẽ bị trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc) đã lên tới cực độ (Gr 7,30-8,3; 19,7; 32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những cách thế xử lý các tử thi, nay đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi bọ: G 25,5; Hc (Híp-ri) 7,17; lửa: Mt 13,42.50…), trở thành biểu tượng của số phận khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi hoán cải. Viễn tượng của Mc 9,43-48 là viễn tượng cuộc phán xét chung. Không nên dựa vào những bản văn này mà suy đoán về thế giới bên kia, nhưng mà soi sáng và hỗ trợ sự chọn lựa con đường đưa đến sự sống (x. Mt 7,13-14 so sánh với cc. 24-27).
Ghi chú: C.S. Mann giữ lại một gợi ý thú vị của J.R. Harris: tác giả TM II đã lấy từ La-tinh salis (muối) ở thể accusative (đối-cách) (salem) rồi liên kết từ ấy với Híp-ri salem nghĩa là “bình an, hoà bình” (x. Dt 7,2). Kết quả là chúng ta có một lời khuyến khích các môn đệ giữ cho được sự bình an nơi chính mình và duy trì sự bình an giữa họ với nhau (Mc 9,50).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Người ở ngoài nhóm (38-41)
Khi viết đoạn văn này, tác giả có hai mục tiêu. Trước tiên, sau 8,33-37, cách xử sự của Gioan lại cung cấp một ví dụ khác về tình trạng thiếu hiểu biết của các môn đệ và sự cần thiết phải sửa chữa. Các môn đệ không những tranh nhau về chỗ trên trước, các ông còn khoe khoang về những đặc quyền. Đó là một điểm tiêu cực cần điều chỉnh. Kế đó, cách Đức Giêsu đánh giá hoạt động trừ quỷ cho hiểu rằng Người không nhắm thành lập một nhóm khép kín để hưởng các đặc quyền đặc lợi, nhưng là một nhóm biết phục vụ bất cứ ai, trong âm thầm, khiêm tốn.
* Các cớ làm sa ngã (42-48)
Trong khi đi theo Đức Giêsu trong cuộc chiến đấu chống lại sự dữ, các môn đệ phải sẵn sàng tránh làm cớ sa ngã trong mọi trường hợp và phải sẵn sáng chấp nhận những hy sinh. Khi làm như thế, họ không nhắm đạt tới sự hoàn thiện cá nhân nhờ một việc khổ chế, hãm mình, nhưng là để củng cố sự hiệp thông giữa các thành viên. Sự hiệp thông này bị đe dọa bởi sự tranh cãi vê quyền trên trước, bởi việc tìm kiếm các đăc quyền đặc lợi, bởi các cớ làm sa ngã, bởi thái độ khinh bỉ những người thấp kém. Do đó, lệnh truyền cuối cùng là duy trì sự bình an có nghĩa là góp phần giúp người ta vượt lên trên tất cả các mối đe dọa trên (x. Dt 12,14-17).
+ Kết luận
Cho dù là tản mạn, các lời nói trên đây của Đức Giêsu luôn luôn có thể giáo huấn các Kitô hữu. Mc đã trình bày các lời này như những chỉ thị ban cho các môn đệ dấn thân trên nẻo đường đã từng đưa Đức Kitô đến những đau khổ thập giá. Toàn bộ những giáo huấn này nhắm tới lý tưởng một cộng đoàn trong đó mọi người sống hoà thuận với nhau (c. 50b) bởi vì sẵn sàng phục vụ lẫn nhau (cc. 33-35).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu như đang nói: Cứ để cho những người ở ngoài nhóm trừ quỷ! Người đang khuyến khích người ta làm những việc phục vụ ít lộ liễu. Quan trọng không phải là làm những việc ngoạn mục, tạo cảm giác mạnh, nhưng là tình yêu diễn tả cách âm thầm, như đơn giản trao một ly nước cho người đang khát.
2. Lời kết án nặng nề của Đức Giêsu đối với kẻ làm cớ cho người khác sa ngã có thể hiểu như là một lời an ủi khích lệ hay một lời răn đe tùy người được nhận lời nói này. Là lời an ủi khích lệ cho những người đạo đức, để họ cứ vững vàng sống đúng tư cách dù có bị thế gian khinh bỉ. Là lời răn đe đối với những người lãnh đạo cộng đoàn: coi chừng kẻo lối ăn nói, cư xử của các ngài lại thành cớ cho những kẻ mà các ngài đã đưa vào đức tin phải mất tinh thần và buông xuôi, hoặc học lấy một cách sống không phù hợp với người môn đệ của Đức Kitô.
3. Những ai có tinh thần của Đức Giêsu thì phải phục vụ như Người: quan tâm đến những kẻ thấp cổ bé miệng, những người cô thế cô thân, và cứ phục vụ họ trong thái độ kín đáo, khiêm tốn. Chỉ những người đó, vì kiến tạo được sự hiệp nhất trong các cộng đoàn, mới có thể làm chứng cho thế giới thấy rằng Nước Thiên Chúa đã ở giữa loài người.
4. Thế giới và lịch sử đều những hạt giống Lời Chúa. Ở bên ngoài Hội Thánh, nơi các dân tộc khắp nơi, nơi những người đang mở ra với làn hơi Thánh Thần, hiện có thực tại phôi thai của Nước Thiên Chúa. Chức năng của Hội Thánh là làm bừng lên và kiện toàn và đưa vào trong Hội Thánh-dấu chỉ thực tại hợp nhất của bất cứ điều gì được gieo vào trong trí tuệ và trái tim con người. Mọi công cuộc phúc âm hóa tùy thuộc vào điển hình này. Lời đã được gieo vào trong trí tuệ và trái tim con người, ta có thể thấy cả nơi các cá nhân và trong các nghi thức và tập tục của các dân tộc. Lời này được Thánh Thần đưa tới chỗ hợp nhất đức tin trong bí tích Rửa tội. Tất cả mọi người đều cần được liên tục kéo đến dấu chỉ hợp nhất. Mọi người đều loan báo Tin Mừng và được loan báo Tin Mừng.
63. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
HUẤN DỤ TRUYỀN CHO CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU (9,38-50)
Những gì chúng ta đang đọc xem ra không có liên hệ rõ ràng với diễn tiến trước đó (9,33-37). Người ta vẫn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi dạy dỗ các môn đệ. Tuy nhiên rõ ràng các vấn đề đang được bàn đến vượt quá giới hạn của vấn đề trước đó. Với tư cách một giáo lý viên giàu kinh nghiệm, Maccô đã gom góp ở đây nhiều huấn lệnh Chúa Giêsu nói với cộng đoàn Kitô hữu. Sự thu gom này được xác định bởi cách dùng một phương thức cổ xưa của các nền văn minh truyền khẩu để giúp cho dễ nhớ: đó là kỹ thuật dùng các “từ móc”. Các lời nói của Chúa Giêsu thoạt đầu không liên hệ với nhau đã được ghép lại với nhau bằng một từ, một lối diễn tả. Việc này được khởi đầu bằng lối nói: “Vì danh Thầy”. Lối nói này kết bốn câu lại với nhau: 37,38,39 và 41. Tiếp đó, một chuỗi lời nói được dệt chung quanh các từ “làm cớ cho sa ngã” mà người ta gặp bốn lần ở các câu 42,43,45 và 47. Cuối cùng hai đơn ngữ “lửa” và “muối” được dùng để làm cho ba câu 48,49 và 50 ăn khớp với nhau.
Lời giáo huấn đầu tiên của Chúa Giêsu được nói lên nhân việc can thiệp của Gioan, một trong nhóm Muời Hai (c. 38). Lời đề nghị của một trong hai anh em vừa mới được phong biệt danh “Con của Sấm Sét” (3,17) quả đáng ngạc nhiên. Nó bộc lộ cho thấy một tính cách bất bao dung nào đó nói nhóm các tông đồ. Nhóm này có khuynh hướng khai trừ những kẻ đang đứng ngoài lề, dù họ không hoàn toàn bộc lộ ra điều này. Chúa Giêsu không cổ vũ “anh thần pháo đài” (khép kín) trong Giáo Hội Ngài. Ngài nhắc nhở các môn đệ phải biết cởi mở với người anh em lân cận (c. 39). Ngài truyền họ phải rộng mở tiếp đón tối đa mọi kẻ công khai thù nghịch với họ. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (c. 40). Ta hãy nghĩ đến tầm quan trọng của những lời này đối với một Giáo Hội như Giáo Hội của Maccô hiện đang vị sự bách hại dồn vào thế co cụm, khép kín. Chúa Giêsu còn đi xa hơn với thí dụ về ly nước, dùng để giải khát và tăng sinh lực theo quan niệm Đông phương. Hành vi bác ái nhỏ nhặt nhất mà một kẻ đối nghịch làm cho một Kitô hữu trong một khu vực hết sức thú hằn với nhau, mang rất nhiều giá trị. Chúa Kitô sẽ nhớ đến hành vi ấy trong ngày chung thẩm (x. Mt 25, 31-46).
Trong các câu tiếp theo (42-47) cung giọng thay đổi và trở nên nặng nề nghiêm trọng hơn. Một chuỗi lời nói tác động vào nhau nhờ động từ tiếng Hy Lạp “làm cớ cho sa ngã” (c. 42a). Lời cảnh giác rất nghiêm trọng. Dứt khoát không được “dựng lên chướng ngại” trên con đường của những kẻ tin Chúa. “Những tín hữu bé mọn này” chính là các Kitô hữu mà đức tin phôi thai của họ vẫn còn mỏng manh. Mọi “gương xấu”, theo nghĩa mạnh có thể ví như bẫy gài dưới chân họ, đều sẽ gây tai hại trầm trọng cho lòng trung thành của họ. Phải tuyệt đối đề phòng mọi việc làm gương xấu. Vì thế mỗi anh em trong cộng đoàn phải chú tâm đến tương giao giữa mình và kẻ khác. Chúa Giêsu ra lệnh tới ba lần: “Nếu tay con... nếu chân con... nếu mắt con làm cớ cho con sa ngã”, thì hãy cắt, chặt, móc nó đi! (c. 43a; 45a; 47a). Tay, chân, mắt là những bộ phận chính của cơ thể dùng để liên lạc. Mỗi bộ phận này đều tác động đến cả thân thể. Nếu chúng là cớ gây thương tổn cho kẻ khác thì thà quẳng chúng đi. Đã có trường hợp cắt một phần chi thể bệnh hoạn có thể cứu sống toàn bộ cơ thể. Về mặt thiêng liêng, vấn đề này rất trọng yếu. Thà cụt tay, thọt cẳng, chột mắt mà được vào chốn trường sinh còn hơn là nguyên vẹn mà bị quẳng vào “hỏa ngục là nơi sâu bọ không hề chết và lửa không hề tắt” (c. 43b; 45b; 47b-49).
Các lời nói này xem ra quá cứng cỏi nếu không muốn nói là tàn bạo! Ở đây người ta gợi lên số phận của kẻ tội lỗi bằng những hình ảnh về cái chết vĩnh cửu kèm theo các nhục hình gớm ghiếc (sâu bọ và lửa). Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn vấn đề này. Trước hết chúng ta hãy bỏ đi lối đọc theo nghĩa đen các hình ảnh được sử dụng. Không bao giờ Giáo Hội đọc thấy nơi trong Phúc Âm này lời kêu gọi hủy hoại thân thể. Đối với mỗi Kitô hữu, đây chính là lời mời gọi thúc bách họ tự thoát khỏi những gì xấu xa nơi bản thân để đảm bảo phần rỗi cho mình. Quả thế, điều này có liên quan đến sự thành công hay thất bại của cuộc sống loài người. Một bên là cuộc sống đời đời vô tận với Chúa Kitô Phục Sinh, còn một bên là “địa ngục”, từ này muốn nói lên điều gì? Đây là hình ảnh bắt nguồn từ thụ kiến bi đát về hỏa ngục xét như một tình trạng hủy diệt đớn đau những kẻ tội lỗi cứng lòng! “Địa ngục” ở đây là một thung lũng sỏi đá nằm ở mạn nam ngọn đồi của thành Giêrusalem. Vào thời Chúa Giêsu, kể từ các cuộc điều tra dân số, chốn hoang dã ấy được dùng làm chỗ xả rác công cộng của thành đô. Ở đây người ta có thể thấy hàng đống rác rưởi, thú vật hoặc cây cối bị dòi bọ đục khoét; thường xuyên người ta thiêu cả những xác người. Tóm lại, đối với những kẻ do Thầy với Chúa Giêsu, địa ngục gợi lên số phận thích đáng dành cho những kẻ khép lòng lại trước lời kêu gọi của Thiên Chúa. Thị kiến kinh khiếp này đã từng được tiên tri Isaia mô tả: “Trong khi bước ra (khỏi thành phố), người ta có thể trông thấy các thây người từng nổi dậy chống đối ta (Chúa phán). Dòi bọ rúc rỉa chúng sẽ không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tắt. Mọi xác thịt sẽ nhờm tởm chúng (Is 66,24).
Quang cảnh được hình dung ở đây tác động mạnh đến các trí tưởng tượng, nhất là từ thời Dantê (thi sĩ nổi tiếng người Ý thể kỷ XIV) đối với nhiều người hỏa ngục và lửa thiêu kinh khiếp nơi đó từ một hình ảnh tượng trưng đơn sơ đã biến thành một thực tế không thể nào chịu nổi. Vì vậy cần phải tái lập lại chân lý. Dù cho lối dùng khoáng đại của nó, Kinh Thánh cũng chỉ muốn diễn đạt một ý tưởng đơn giản đó là Thiên Chúa công bình sẽ trừng phạt tất cả những kẻ hoàn toàn khép lòng lại trước Tình yêu Ngài. Họ sẽ không được hiệp thông với Chúa, bị xa cách Chúa Kitô và các thánh. Mặc dù được Kinh Thánh xác nhận, hỏa ngục vẫn còn là một thực tại mầu nhiệm, khó dung hòa được với hình ảnh một vị Thiên Chúa Tình yêu!
64. Chú giải của Noel Quesson.
Trên con đường đi Xêdarê - Philípphê, nơi Phêrô đã tuyên xưng đức tin, xuyên qua xứ Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho đến Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một mình. Con đường của "Con Người" cũng là con đường của các môn đệ. Chính, chúng ta cũng đi trên con đường đó theo chân Đức Kitô:
- Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách sống Tin Mừng cho đến cuộc vượt qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục sinh của mọi người. Trong trình thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn của Đức Giêsu đã giảng dạy trong nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác nhau. Phần lớn những lời giảng dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất: Đó là những đòi hỏi phải có khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là đi theo Người đến những nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn đệ, luân lý Kitô giáo không phải là một "luật lệ" được phép hay bị cấm đoán, mà là một sự tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.
Ông Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy: Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ”.
Chính Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức Giêsu thương yêu (Ga 21,20). Trong số 12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều nhất, và là người thân cận nhất của Đức Giêsu.
Trên đường đi, đây là một sự kiện sống động, một “biến cố" nhỏ gây ra một phản ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức tin đích thực phải được sống động qua những tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên đường đi của các Ngài?
Gioan đã thấy một "người trừ quỷ" mà không thuộc nhóm của các ông. Tin Mừng ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài hôm trước, khi vắng Đức Giêsu (Mc 9,18).
Nhưng các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của Đức Giêsu đã lan rộng, nên người ta cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ mặt đến lượt mình cũng có thể tập trừ quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết rằng, người Do Thái và ngoại đạo đã trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày nay, nhờ pháp thuật rất phổ biến vào thời Đức Giêsu (Cv 8,18).
Dĩ nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ quỷ sẽ được đặt ra một cách khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù bên ngoài có vẻ trái ngược. Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn có "những người trừ quỷ”. Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng rất đông.
Thí dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh thường sự sống, khai thác những người yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng cách đối xử phân biệt chủng tộc, sự phân chia của cải không đồng đều, những đồng lương chết đói, mất cảm thức đích thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng. Đứng trước những "con quỷ" này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ, già, lớn, bé... tất cả đều phải "khử trừ" sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng cách làm việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một phong trào.
Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.
Những người đó không phải là Kitô hữu. Họ không thuộc nhóm chúng ta, phe phái của ta. Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là người Việt, không phải Công giáo, không phải là người sống đạo... hay bạn không thuộc nghiệp đoàn của tôi, tông phái của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là người bảo thủ, cấp tiến... Vậy thì tôi không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ làm bạn phải im tiếng, tôi sẽ ngăn cản không cho bạn hành động.
Quả thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ chia rẽ vẫn tồn tại trong Giáo Hội, cũng như đã có trong đầu óc các tông đồ. Thời đó, Nhóm Mười Hai cứ mải mê ghen tương tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi thứ địa vị.
Đức Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của Người. Người sẽ trở nên "kẻ sau rốt, làm đầy tớ mọi người". Người vừa khuyên các môn đệ phải sẵn sàng phục vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ được coi là thân cận nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản ứng muốn thống trị, muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng minh "Quyền lực của Đức Kitô". Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ, cũng đừng xét đoán ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.
Trình thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường, nhưng nội dung đề cập đến một trong những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân cứu rỗi của Đức Kitô chỉ có hiệu lực bên trong những biên giới "thấy được" của Giáo Hội hay sao?
Trước câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời của Đức Giêsu sẽ ra sao?
Đức Giêsu bảo: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Thưa không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy nhất nhận lãnh Thần Khí của Thiên Chúa:
“Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi qua, bất ngờ và tự do như gió" (Ga 3,8).
Từ thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến rộng rãi, và người ta không thể ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài "nhóm" (Ds 11,25-29). Và cả bên ngoài những kẻ "đang ở trong lều”. Và Môsê đã ước mong ân huệ của thần khí cần được ban cho tất cả. Ong đã nói: "ôi ước gì Thiên Chúa có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những "người của ‘Thần Khí’ xuất hiện trên măt đất chúng con".
Không! Người ta không thể xiềng xích Thần Khí được. Thần Khí là tự do. Thần Khí không bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả. Thần Khí hành động ở bên ngoài những cấu trúc của chúng ta. “Người linh ứng cho cả những ngôn sứ ở bên ngoài" nhóm, bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu "các con đừng ngăn cản người ấy" đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là bảo đảm đức tin chân chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi người được rửa tội, và cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình của Giáo Hội.
Chúng ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức Giêsu, đối nghịch với óc bè phái và bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị trong chúng ta? Có phải Thần Khí của Đức Giêsu không?
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao cả quảng đại, thông sáng, bao la như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần Khí của Chúa... Thần Khí đó thổi từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh thần cục bộ của chúng con. Xin Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích thực, nghĩa là "những con người phổ quát", "nhưng con người biết thông cảm những khác biệt" như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con: "Chúng ta cần cổ vũ ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy hòa thuận với nhau, bằng sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở với những người anh em tuy chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta mở rộng tới những ai đang bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong truyền thống riêng của họ" (GS 9,2).
Các bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. "Các bạn đừng sợ! Hãy mở rộng biên giới của các bạn". Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên án những ai không thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta? Chúng ta có thưởng thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, nhũng điều tốt mà họ làm được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện không?
Đừng dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu đốt thế gian (Lc 12,49).
Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
'Một chén nước’, không có gì đáng kể. Đó là biểu tượng cho một việc phục vụ nhỏ nhất mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một chén nước. Đó là “phàm tước" lạ thường của người môn đệ: "Người ấy thuộc về Đức Kitô". Người tín hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng hóa mình với người Kitô hữu nhỏ bé nhất.
Thánh Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ nói về ngày thẩm phán (Mt 25,31-45). "Những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Đó là sự lớn lao của mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết bao cơ hội?
Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.
Sau những lời khuyên luận lý tích cực ("cho một chén nước"), giờ đây là sự cảnh giác tiêu cực ("không được làm cớ cho kẻ khác sa ngã"). Nhưng thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm đến kẻ khác.
Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh mới của Đức Giêsu: Ngoài tinh thần rộng mở, chúng ta cũng gặp được một sức mạnh bên trong, và khả năng sử dụng mãnh lực đó của Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức Giêsu không phải là sự lãnh đạm đối với điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải khoan dung đối với điều thiện được thực hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người cũng lấy làm bất bình khi thấy người ta có thể lôi kéo một người khác vào sự ác.
Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi còn hơn. Thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa không hề tắt.
Chỉ mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi thường này. Chỉ mình Người mới thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là nghiêm trọng và bi thảm đối với Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành mọi hy sinh. Chúng ta có thể chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thê không? Dù là những kiểu nói vùng Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của những câu đó.
65. Chú giải mục vụ của William Barclay.
MỘT BÀI HỌC VỀ KHOAN DUNG (9,38-40)
Như chúng ta chúng ta được biết nhiều lần, vào thời Chúa Giêsu, ai nấy đều tin có ma quỷ. Mọi người đều tin rằng các thứ bệnh tật của thân thể lẫn tâm thần, đều do ma quỷ tà linh ám ảnh. Có một phương pháp hết sức thông thường để trục xuất ma quỷ. Nếu ai biết được tên của một tà linh nào mạnh hơn, thì có thể nhân danh tà linh ấy truyền lệnh cho tà linh đang ám ảnh nạn nhân đó ra khỏi người đó và con quỷ đó phải nhượng bộ. Nó không dám chống lại danh của một tà linh khác có thế lực hơn nó. Đó là loại sự việc đang xảy ra ở đây. Gioan thấy có người nhân danh uy quyền của Chúa Giêsu để đuổi quỷ, ông đã ngăn cấm vì người ấy không phải là một trong số thân cận với Chúa Giêsu như các tông đồ. Nhưng Chúa Giêsu tuyên bố rằng chẳng hề có ai hoàn toàn thù địch với Ngài mà có thể nhân danh Ngài mà làm được việc quyền năng nào. Rồi Ngài quy định một đại nguyên tắc là “hễ ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Đây là một bài học về khoan dung mà mọi người cần học tập:
1/ Mỗi người đều có quyền tự do tư tưởng. Mỗi người đều có quyền suy nghĩ về mọi sự việc cho đến khi nào tìm ra kết luận cho những điều mình tin. Đây là một nguyên tắc mà chúng ta phải tôn trọng. Chúng ta thường vội vàng lên án những điều mình không hiểu. Penn có nói “Đừng bao giờ khinh dể hoặc chống lại những gì bạn không hiểu”. Trong bản dịch Tân Ước của Kinsley Williams.
Giuđa 10 được dịch là “số người này phát ngôn bừa bãi về mọi điều họ không biết”. Chúng ta phải nhớ hai điều:
(a) Có nhiều cách thức để người ta đến được với Chúa như Tennyson nói “Chúa tự bày tỏ mình theo nhiều cách”. Cervantes cũng bảo “Chúa có nhiều đường lối để đưa những người thuộc về Ngài vào thiên đàng”. Trái đất vốn tròn, hai người bắt đầu đi về hai hướng ngước nhau, cuối cùng vẫn gặp nhau tại một điểm. Tất cả mọi con đường đều dẫn đến Chúa, nếu chúng ta theo đuổi chúng lâu đủ và dài đủ. Thật là điều đáng sợ nếu có ai nghĩ chỉ có họ độc quyền về ơn cứu rỗi.
(b) Điều cần nhớ là chân lý luôn luôn lớn hơn điều mà bất cứ người nào có thể lãnh hội được. Chẳng hề có ai thâu tóm được toàn thể chân lý. Nền tảng của khoan dung không phải là thái độ lười biếng chấp nhận bất cứ điều gì. Đó không phải là cảm nghĩ cho rằng không thể có được sự bảo đảm ở bất kỳ nơi nào. Nền tảng của thái độ khoan dung chỉ đơn giản là nhận thức được tính cách bao la của quỹ đạo chân lý. John Morley viết “khoan dung là tôn trọng khả năng của chân lý, có nghĩa là thừa nhận chân lý có thể cư trú trong mọi nhà, mặc lấy mọi màu sắc và nói bằng đủ các thứ tiếng lạ. Nó có nghĩa là phải thật lòng tôn trọng quyền tự do của lương tâm ngự trị bên trong, chống lại mọi hình thức máy móc. Nó có nghĩa là tình yêu lớn hơn cả đức tin lẫn hy vọng”. Sự không khoan dung là dấu hiệu của cả kiêu ngạo lẫn dốt nát, nó là dấu hiệu của kẻ tin là không hề có chân lý nào khác ngoài chân lý mình thấy.
2/ Chẳng những phải nhường lại cho mọi người quyền làm theo những gì họ nghĩ, mà chúng ta phải nhường quyền để họ tự phát biểu những điều riêng của họ. Trong tất cả các quyền tự do dân chủ, quyền quan trọng nhất là quyền tự do phát biểu ý kiến. Dĩ nhiên là phải có giới hạn. Nếu có đưa ra những giáo lý được tính toán trước nhằm phá hoại luân lý, lật đổ mọi nền tảng của xã hội văn minh và Kitô giáo, thì kẻ ấy bị chống lại. Nhưng phương pháp để chống lại người ấy chắc chắn không phải là một loại trừ người ấy bằng vũ lực, nhưng bằng cách chứng minh cho người ấy thấy họ đã sai lầm. Voltaire từng quy định quan niệm về tự do ngôn ngữ bằng một câu sống động “tôi ghét điều anh nói, nhưng tôi sẵn sàng chịu chết để anh có quyền được nói ra nó”.
3/ Cuối cùng, chúng ta phải nhớ, mọi giáo lý và mọi quan niệm đức tin đều phải được xét đoán căn cứ vào các hạng người mà nó đã sản sinh ra. Câu hỏi tối hậu phải luôn luôn được nêu lên, không phải là “Giáo Hội được điều hành như thế nào?” nhưng là “Giáo Hội đã sản sinh loại người như thế nào?”. Ngụ ngôn phương Đông có câu chuyện như sau: Người kia có một chiếc nhẫn bích ngọc rất lạ. Hễ ai đeo nhẫn ấy vào thì tính tình trở nên hiền hậu, chân thực khiến mọi người đều yêu mến. Chiếc nhẫn là một thứ phép màu. Nó được truyền từ đời cha sang đời con luôn luôn linh nghiệm. Thời gian trôi qua, chiếc nhẫn được truyền đến một người có ba con trai, mà đứa nào ông cũng yêu quý cả. Khi biết mình sắp chết, ông ta băn khoăn sẽ để lại chiếc nhẫn lại cho đứa nào đây? Ông đã liều thuê thợ bạc làm thêm hai chiếc khác, y hệt như chiếc nhẫn thật, đến nỗi chẳng ai phân biệt được chiếc nào là chiếc thật, chiếc nào là giả. Lúc hấp hối, ông gọi riêng từng đứa con trối trăn riêng với từng người, sau đó ông cho riêng mỗi người một chiếc nhẫn mà người kia không biết. Nhưng về sau, cả ba người đều khám phá ra rằng mỗi người đều được nhẫn, thế là một cuộc tranh cãi dữ dội đã bùng nổ xem ai được chiếc nhẫn có thể đem lại nhiều điều có lợi cho chủ nó. Nội vụ được đưa đến một quan tòa khôn ngoan xét xử. Quan tòa xem xét thật kỹ các chiếc nhẫn rồi nói “ta không biếc chiếc nhẫn nào là chiếc nhẫn thật, nhưng chính các người có thể chứng nghiệm điều đó”. Ba người con ngạc nhiên hỏi “chúng tôi à?”. Quan tòa bảo “phải, và nếu chiếc nhẫn thật tạo cho người đeo nó một bản chất dịu hiền thật bởi đời sống thiện hảo của người ấy. Cho nên, các anh hãy về đi, sống cho tử tế, trung thực, dũng cảm ngay thẳng trong mối liên hệ với mọi người, và ai làm như thế chính là người được chiếc nhẫn thật”. Vấn đề phải chứng nghiệm bằng đời sống. Không ai lên án được một giáo lý đã khiến một người xấu trở nên tốt. Nếu chúng ta nhớ được điều ấy, có thể giảm bớt sự thiếu khoan dung.
4/ Chúng ta có thể ghen ghét niềm tin của một người nhưng đừng bao giờ ghét người ấy. Chúng ta có thể muốn loại bỏ những gì người ấy giảng dạy nhưng đừng bao giờ có ước muốn loại trừ chính người ấy.
THƯỞNG VÀ PHẠT (9,41-42)
Lời giáo huấn trong đoạn này thật đơn sơ, không thể lầm lẫn được, rất bổ ích.
1/ Bất kỳ một việc tốt nào, một sự giúp đỡ nào làm cho người của Chúa, đều không bị mất phần thưởng. Lý do để giúp đỡ là vì người ấy cần được giúp đỡ thuộc về Chúa Giêsu. Mỗi người có nhu cầu đều có thể đòi hỏi chúng ta giúp đỡ, người ấy được Chúa Kitô yêu thương. Nếu Chúa Giêsu còn tại thế, chắc Ngài cũng đã giúp đờ họ cách thực tiễn và bổn phận cứu trợ, giúp đỡ, đã được giao lại cho chúng ta. Cần chú ý là sự trợ giúp rất đơn giản. Của cho có thể chỉ là một ly nước. Không đòi hỏi ta làm những chuyện lớn lao, những việc vượt quá khả năng của ta. Chỉ đòi hỏi ta phải làm những việc mà bất cứ ai cũng có thể làm, cũng có thể cho.
Một giáo sĩ kể lại một câu chuyện sau đây: Bà giáo vừa dậy các học sinh cấp 1 người Phi châu về việc nhân danh Chúa Giêsu cho người ta một chén nước lạnh. Hôm ấy, bà đang ngồi trước nhà, thấy một đám phu khuân vác người bản xứ đi vào làng. Họ vác những kiện hàng thật nặng. Ai nấy đều mỏi mệt, khát nước và ngồi bệt xuống đất để nghỉ ngơi. Họ là người thuộc bộ tộc khác và nếu họ xin nước nơi những thường dân không theo Kitô giáo, sẽ được bảo: hãy tự đi tìm lấy mà uống, vì có một bức tường ngăn cách ở giữa họ. Nhưng đang khi số người mệt mỏi kia ngồi đó và bà đang nhìn họ thì một đám trẻ gái người Phi Châu từ trường học đi ra, mỗi em đội trên đầu một vò nước. Cả bọn rụt rè, sợ sệt tiến đến gần những người khuân vác đang mỏi mệt và quỳ xuống, đưa các vò nước cho họ. Những người khuân vác ngạc nhiên, tiếp lấy rồi uống ngon lành và trả vò lại. Các bé gái vội vàng chạy nhanh đến với bà giáo, và nói “chúng cháu vừa nhân danh Chúa Giêsu cho những người khát uống nước”. Các bé gái đã tiếp nhận lời dạy dỗ ấy theo nghĩa đen của nó. Ước gì cũng có nhiều người làm vậy. Chính những việc làm đơn sơ với tấm lòng tử tế là những việc hết sức cần thiết. Mahomet đã nói “Đặt người lạc lối vào đúng con đường, cho một nguơì khát uống nước, mỉm cười với anh em mình, đó là đức ái”.
2/ Nhưng việc trái lại cũng được nghiệm đúng. Giúp người thì sẽ được phần thưởng đời đời, còn làm cho một anh em yếu đuối hơn vấp phạm là tự chuộc lấy hình phạt đời đời. Phần thưởng rất nghiêm khắc. Tại Palestine có hai loại cối: cối đá xay bằng tay mà phụ nữ dùng trong nhà và loại cối đá lớn đến nỗi phải cột một con lừa mới kéo nổi. Loại cối đá nói ở đây là loại lớn. Bị ném xuống biển với một thớt cối như thế cột vào người, chắc chắn không hy vọng trở về. Thật ra, đây là cách xử tử cả tai Roma lẫn tại Palestine. Sử gia Josephus kể rằng, lúc một số người Galilê thành công trong một cuộc nổi dậy, “họ bắt được những người thuộc đảng Hêrôđê và ném xuống biển hồ”. Suetonius, sử gia Roma kể lại về Augustus rằng “vì ông thầy dạy học và bọn người hầu hạ hoàng tử là Gaius lợi dụng căn bệnh của chủ để lạm quyền và tham nhũng trong tỉnh, nên hoàng đế truyền cột vật nặng vào cổ và ném họ xuống sông”.
Tự mình phạm tội đã là chuyện khủng khiếp rồi, nhưng dạy kẻ khác phạm tội, lại càng tệ hại. O. Henry, nhà văn Mỹ lừng danh về truyện ngắn đã sáng tác câu chuyện về một bé gái mồ côi mẹ. Cha cô bé có thói quen hễ đi làm về là ngồi ngay xuống ghế mở cặp lôi giấy tờ ra, đốt ống điếu và gác chân lên ngăn kệ đặt gần lò sưởi. Cô bé vào, xin cha chơi đùa với mình một lát vì em rất cô đơn. Nhưng người cha bảo ông mệt lắm, hãy để cho ông yên. Ông bảo cô bé hãy ra đường mà chơi. Thế là cô đi chơi ngoài đường, và chuyện không tránh được đã xảy ra, cô trở thành người sống ngoài đường phố. Thời gian trôi qua, cô gái chết. Linh hồn cô gái đến thiên đàng. Phêrô trông thấy cô ta liền thưa với Chúa Giêsu “Thưa Thầy, đây là một bé gái gặp số phận xấu. Con nghĩ chúng ta phải đưa thẳng nó xuống hỏa ngục”. Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn đáp “Không, hãy cho nó vào”. Rồi đôi mắt Ngài trở nên nghiêm nghị “Nhưng hãy tìm con người đã từ chối không chịu chơi đùa với con gái nhỏ của mình, đuổi con ra đường, và đưa hắn xuống hỏa ngục”. Chúa không nghiêm khắc đối với tội nhân, nhưng Ngài hết sức nghiêm khắc đối với kẻ đã làm cho người khác sa vào tội lỗi, kẻ mà vô tình hay cố ý, đã đặt một tảng đá vấp chân trên lối đi của một người anh em yếu đuối hơn mình.
MỘT MỤC TIÊU ĐÁNG CHO CHÚNG TA HY SINH (9,43-48)
Bằng ngôn ngữ sinh động kiểu phương Đông, đoạn này nêu lên một chân lý căn bản, có một mục tiêu trong cuộc sống đáng cho chúng ta hy sinh bất cứ điều nào để đạt đến. Về phương diện thuộc thể, có lẽ người ta sẵn sàng chịu mất chân, tay hay một phần thân thể nào đó, để được sự sống cho toàn thân. Có những truờng hợp mà phương thế duy nhất để bảo tồn đuợc sự sống cho toàn thể là phải cưa tay, chân, hoặc phải chịu giải phẫu cắt bỏ một phần nào đó trong cơ thể. Về phương diện thuộc linh trường hợp như trên cũng có thể xảy ra.
Các Rabbi người Do Thái cũng có một câu cách ngôn đại ý một vài phần trong thân thể người ta có thể đưa họ đến chỗ phạm tội. “Con mắt và tấm lòng là hai tên mai mối cho người ta phạm tội”. “Con mắt và tấm lòng là hai đứa đầy tớ cho tội lỗi”. Đam mê chỉ ở trọ nơi kẻ có mắt để trông thấy. “Khốn thay cho kẻ nào chạy theo con mắt, vì con mắt vốn dâm tà”. Trong con người, có một số bản năng, một số các chi thể bẩm sinh dễ xui khiến người ta phạm tội. Chúng ta không nên hiểu câu nói này của Chúa Giêsu theo nghĩa đen, nhưng đây là một cách nói hết sức gợi hình theo lối người phương Đông, ngụ ý ở đời, người ta có một mục đích để sẵn sàng vì đó mà hy sinh bất cứ điều gì để đạt được.
Đoạn này nhắc đi nhắc lại nhiều lần về đia ngục. Tân Ước đề cập đến địa ngục trong Matthêu 5,22.29.30; 10,28; 18,9; 23,15.33; Luca 12,5; Giacôbê 3,6, đây là những chữ được dùng để dịch từ Gehenna. Từ này có một lịch sử. Nó là một dạng từ của của từ Hinnom. Hinnom là một thung lũng ở bên ngoài thành Giêrusalem. Nó có một lịch sử xấu xa. Đó là thung lũng mà xưa kia Acha đã lập đền thờ thần lửa và dâng trẻ con làm sinh tế trong lửa. “Người đốt hương trong thung lũng Hinnom và thiêu con cái mình trong lửa” (2Sk 28,3). Manase cũng tiếp tục việc thờ phượng ngoại giáo khủng khiếp này (2Sk 33,6). Do đó, Hinnom, Gehenna, là một cảnh tượng về một trong những lần Israel sa vào các phong tục tập quán khủng khiếp nhất của ngoại giáo. Vào thời phục hưng của Giôsia, nhà vua đã tuyên bố Hinnom là chỗ ô uế. “Người cũng làm ô uế Tôphết tại thung lũng con cái Hinnom hầu cho từ rày về sau, không ai được đưa con trai hay con gái mình qua lửa cho Môlóc” (2V 23,10). Một khi thung lũng ấy đã bị công bố là ô uế, nó bị đặt riêng ra làm nơi đổ rác và đốt rác của thành phố Giêrusalem. Kết quả là nó trở thành một nơi dơ dáy đáng ghê tởm, đầy rác rến giòi bọ, khói và lửa cháy âm ỉ không ngừng giống như một lò thiêu vĩ đại. Câu nói về nơi giòi bọ chẳng hề chết và lửa chẳng hề tắt có xuất xứ từ Israel 66,24, mô tả về số phận kẻ thù gian ác của dân Israel, vì tất cả các lý do trên đây, thung lũng Hinnom, Gehenna, trở thành một loại biểu tượng cho địa ngục, là nơi linh hồn kẻ ác sẽ bị hành hạ, hủy diệt. Nó được dùng như thế trong kinh Talmud “Tội nhân không tuân hành luật lệ, cuối cùng phải xuống địa ngục (gehenna)”. Vậy, địa ngục tượng trưng cho nơi giam phạt, và từ này gợi lên trong tâm trí người Israel những hình ảnh ảm đạm và khủng khiếp nhất.
Nhưng vì mục đích gì mà chúng ta có thể hy sinh mọi sự? Có lần nói về sự sống và một lần vì Nước Trời. Có thể định nghĩa Nước Trời như thế nào? Chúng ta lấy câu định nghĩa cho chúng ta trong Kinh Cầu Nguyện Chung. Kinh cầu nguyện ấy, có hai lời cầu xin đã được đặt bên cạnh nhau “Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Một đặc điểm trong ngữ pháp Do Thái, là thể loại song hành. Trong thể loại song hành người ta viết hai câu cạnh nhau, mà câu này nhấn mạnh, bàn rộng, giải thích hoặc khai triển câu kia. Ta có thể lấy bất cứ bài nào trong Thánh Vịnh để minh họa cho phương pháp đó. Vậy, trong Kinh Cầu Nguyện Chung, chúng ta có thể hiểu là lời cầu xin này đã giải thích và bàn rộng, triển khai lời cầu xin kia. Khi xếp hai câu chung với nhau, chúng ta có câu định nghĩa là “Nước Thiên Đàng là một xã hội trần gian, trong đó, ý Chúa được thực hiện trọn vẹn dưới đất cũng như trên trời”. Có thể nói thật đơn giản, người nào hoàn toàn vâng theo ý Chúa là công dân Nước Chúa. Nếu lấy câu đó làm ứng dụng cho đoạn sách chúng ta đang nghiên cứu, nó sẽ có nghĩa là “làm theo ý Cha là điều xứng đáng cho mọi hy sinh, mọi trường hợp khép mình vào kỷ luật, mọi trường hợp từ chối mình”. Chỉ có việc làm theo ý Chúa chúng ta mới có được sự sống đích thực, có được bình an tối hậu, hoàn toàn và mãn nguyện.
Origen đã hiểu ý này theo nghĩa biểu tượng. Ông bảo có lẽ cần phải khai trừ vài kẻ theo tà giáo hoặc vài kẻ gian ác nào đó, không được hiệp thông trong Hội Thánh để giữ thân thể Chúa Kitô được thuần khiết. Nhưng câu này ngụ ý dạy chúng ta phải ứng dụng nó cho chính mình trước nhất. Nó ngụ ý dạy chúng ta cần từ bỏ, khai trừ một thứ xấu, từ bỏ một thú vui, tuyệt giao với một số bạn bè, cắt đứt một điều nào đó vốn rất thiết thân với chúng ta để vâng phục trọn vẹn ý Chúa. Đây không phải là một điều mà bất cứ ai cũng có thể làm đối với người khác. Nó là vấn đề lương tâm mỗi cá nhân, và nó có nghĩa là nếu có bất cứ việc gì ngăn trở chúng ta vâng phục hoàn toàn ý Chúa, thì dù vật hay người ấy vốn rất thân thiết với chúng ta, dù thói quen phong tục tập quán đó đã trở thành một phần của chính đời sống. Thì chúng ta cũng phải nhổ bỏ tận gốc. Việc dứt bỏ đó có thể gây đau đớn như một cuộc giải phẫu, có thể giống như phải chặt bỏ đi một chi thể. Nhưng nếu muốn được sự sống đích thực, hạnh phúc đích thực và bình an đích thực, chúng ta phải quyết tâm thi hành. Câu nói nghe có vẻ lạnh lùng, nghiêm khắc, nhưng thật ra, đó là thái độ phải đối diện với các sự kiện của đời sống.
66. Sống yêu thương hiệp nhất
Ngày nay, người ta sống gần gũi với nhau hơn bao giờ hết. Sự gần gũi sẽ ảnh hưởng giữa con người với nhau càng lớn mạnh và quyết liệt hơn. Có thể nói con người ảnh hưởng tốt đến người khác và ngược lại. Nói cách khác, nếu không tỉnh táo và ý thức, chúng ta có có thể gây cớ vấp ngã cho người khác khó vượt qua trở ngại trên con đường dẫn đến ơn cứu chuộc.
Phúc âm hôm nay cho chúng ta cái nhìn về điều đó.Ông Gioan ngăn cản những người không theo "phe" mình, không thuộc nhóm mình. Tưởng mình làm như vậy là điều tốt và có thể sẽ làm cho Chúa Giêsu hài lòng nên ông đem việc này kể công với Chúa Giêsu:"Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta" (Mc 9, 38). Ông Gioan rất có lý khi ngăn cản những người không cùng hội cùng thuyền với mình mà dám ngang nhiên "trổ tài oanh liệt". Họ không phải là những người chính uy. Họ không được cấp giấy phép hành nghề. Họ phải ngưng mọi hoạt động. Sao mà có thể chấp nhận hành động của họ được!
Thế nhưng Gioan không ngờ rằng Chúa Giêsu đã sửa lại quan điểm cục bộ, hẹp hòi của ông bằng bài học mới. Chúa Giêsu dạy biết sống cởi mở và quảng đại với mọi người: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta." (Mc 9, 39 - 40). Tình thương và ý muốn của Thiên Chúa thì kỳ diệu và tuyệt vời lắm thay! Đường nẻo Chúa làm thay đổi tư tưởng cục bộ và não trạng hẹp hòi của nhân loại. Tình thương Chúa dành cho hết mọi người.
Người môn đệ Chúa Giêsu phải có trái tim rộng lớn, cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và có thể mời mọi người cộng tác vào những việc hữu ích chung, nhất là những người thành tâm thiện chí. Tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu không biên giới, không chấp nhận bị ràng buộc trong một phe nhóm hay một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt. Có gì tuyệt vời cho bằng chân lý yêu thương của Chúa Giêsu được hết mọi người thuộc mọi tôn giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện. Bất cứ người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào cũng đều được chấp nhận. Bất cứ hành động công bằng nào đều được Chúa thưởng công, dù chỉ là một nụ cười tươi, một ly nước lã: "ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Mc 9, 41). Ngược lại Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm. Hơn nữa, bản thân chúng ta can đảm dứt khoát nói không với tội ác, sự xấu. Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời sau.
Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình nhưng hãy sống chan hoà yêu thương và chia sẻ sự sống, hạnh phúc cho mọi người. Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác ngay trong suy nghĩ, thái độ ứng cử và cach thức hành động để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy sống tinh thần yêu thương, vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu. Hãy sống trong tinh thần hiệp nhất trong Chúa (Ga 17, 21).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quảng đại, liên đới với nhau trong yêu thương và hiệp nhất với mọi người. Xin cho tình thương của Chúa được thể hiện trong cuộc đời chúng con và mọi người được biết đến. Xin cho chúng con trở thành khí cụ yêu thương và hiệp nhất trong tình yêu Chúa. Amen.
67. Nhãn hiệu không cần đăng ký chủ quyền
Trong việc kinh doanh, ai cũng muốn có lợi. làm lợi một cách ngay thẳng do tài khéo, công sức, do chất xám là một việc đáng hoan nghênh. thế nhưng có những người làm lợi một cách phi pháp, làm hàng nhái, hàng giả, hàng dỏm, làm hại người khác thì đáng chê trách và đáng phạt.
Chính vì thế mà các nhà cầm quyền buộc người kinh doanh phải đăng ký bản quyền, đăng ký chất lượng, đăng ký mẫu mã, đăng ký nhãn hiệu sản phẩm.....cốt bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và cả nhà sản xuất.
Không biết luật độc quyền kinh doanh này đã có từ bao giờ mà ở đây, chúng ta thấy các tông đồ đã áp dụng luật "nhãn hiệu độc quyền"rồi. Khi thấy người ta nhân danh thầy để trừ quỷ, các ông đã ngăn cấm, không cho phép họ sử dụng danh của thầy mình để làm chuyện đó. Có lẽ các ông lo xa, sợ người ta xử dụng danh Thầy một cách bừa bãi, làm chuyện không tốt nên đã cấm như vậy. Chủ ý tốt, nhưng dường như đã không được Chúa Giêsu tán thưởng. Tại sao?
Việc làm của Chúa Giêsu là việc làm từ thiện giúp người, đó không phải làm việc làm để trục lợi cho cá nhân, mà đã là từ thiện giúp đời thì càng nhiều người làm càng tốt, không nên độc quyền làm gì, như thế sẽ hạn chế hiệu quả, như thế không còn từ thiện thực sự mà ngược lại nhiều khi còn bị rơi vào cám dỗ về danh và lợi. Không ít những cá nhân, những tổ chức lấy danh nghĩa làm từ thiện để được nổi danh, để được ủng hộ, sau đó, trích lại một phần để bỏ túi riêng, chia chác cho nhau. Lúc đầu là làm từ thiện nhưng sau đó đổi lại là thiện từ từ (từ Hán- Việt, thiện có nghĩa là ăn.)
Lý do thứ hai: Chúa Giêsu không sợ bị người ta lợi dụng danh của mình để làm bậy. Bởi vì vàng thật thì không sợ lửa. Nếu như có ai đó giả danh Người để trục lợi, để làm chuyện xấu thì sớm muộn mọi việc cũng được phơi bày, bởi vì Ngài chính là sự thật, sự thật thì không thẻ bị lẫn lộn với gian trá được, dù cho gian trá có xảo huyệt tới mức nào. Không phải là chúng ta đã từng thấy những kẻ hô hào, khua môi múa mép thay trời hành đạo, nhưng rồi ai cũng thấy rõ đó chỉ là "hàng giả"! chỉ là lường gạt đó sao? Bác ái thật chỉ có ở nơi Chúa, bởi vì Chúa chính là Tình Yêu và những kẻ ở trong tình yêu thì thuộc về Chúa. Những kẻ tâm địa bất chính thì không thuộc về Chúa, dù có che đậy, hóa trang cách cũng không thể giống Chúa được, vậy thì việc gì phải lo sợ người la đội lớp giả danh?
Tóm lại khi bảo các tông đồ không nên cấm người ta nhân danh chúa để trừ quỷ, Chúa Giêsu đã mở đường, cấp phép cho mọi người được tự do làm việc thiện giúp ích cho đời, đem lại hạnh phúc cho con người. Người cũng thách thức những kẻ có dã tâm muốn mượn danh đội lớp Chúa để làm chuyện xấu, vì không ai có thể mạo danh sự thiện để làm điều ác mà không bị lật tẩy.
25/09 Chấp nhận khổ đau với tình yêu
- Viết bởi Lc 9, 43b-45
Chấp nhận khổ đau với tình yêu.
Thứ Bảy tuần 25 thường niên.
“Con Người sẽ phải bị nộp. Các ông không đám hỏi Người về lời ấy”.
Lời Chúa: Lc 9, 43b-45
Đang lúc mọi người thán phục về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các môn đệ rằng: “Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời”.
Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó còn bị che khuất, nên các ông không lĩnh hội được ý nghĩa, và các ông không dám hỏi Người về lời ấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Không hiểu lời đó
(Lm Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai.
Bài này nằm ngay sau chuyện Đức Giêsu trừ quỷ cho một bé trai.
Quyền năng trừ quỷ của Ngài làm mọi người kinh ngạc, bỡ ngỡ (c. 43).
Chính vào giây phút thành công vẻ vang này,
Đức Giêsu lại bất ngờ tiên báo về cuộc Thương Khó sắp đến.
“Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” (c. 44).
Một Giêsu đầy uy lực sẽ phải lùi bước trước một thế lực khác.
Một Giêsu có quyền năng cao cả của Thiên Chúa lại phải chịu thua.
Hẳn lời tiên báo này đã làm các môn đệ hết sức bối rối.
Thánh Luca nhấn mạnh đến chuyện họ không hiểu:
“Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì nó bị che khuất khỏi các ông,
đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa” (c. 45).
Điều gì đã che khuất ý nghĩa của lời Đức Giêsu tiên báo
về việc mình sắp bị nộp, phải chịu đau khổ và chịu chết?
Lý do đầu tiên có thể là lòng ham muốn quyền lực.
Ngay sau đoạn Tin Mừng này, các môn đệ vẫn loay hoay với vấn đề
ai là người lớn nhất trong nhóm (c. 46).
Sau bữa Tiệc ly, Đức Giêsu đã nhận mình là người phục vụ (Lc 22, 27).
Việc phục vụ suốt đời này lên đến cao điểm nơi cái chết hy sinh.
Các môn đệ thì chỉ thích làm lớn, làm đầu, hơn là phục vụ,
nên chẳng lạ gì nếu họ không hiểu được con đường Thầy sắp đi,
con đường hẹp, nơi cái tôi như bị xóa bỏ, để hiến dâng.
Có lý do khác khiến các môn đệ không hiểu được lời tiên báo của Thầy.
Đó là khi quá nôn nóng mong đợi ngày Thầy đến trong vinh quang,
họ đã quên việc Thầy phải trải qua khổ đau và cái chết trước đã.
Họ tưởng Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện đến nơi rồi (Lc 19, 11),
và tưởng Thầy Giêsu sẽ cứu chuộc Ítraen ngay lập tức (Lc 24, 21).
Ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh, họ đã hỏi Ngài (Cv 1, 6):
“Có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?”
Các môn đệ nóng lòng mong đợi vinh quang cho Thầy,
thật ra là mong đợi vinh quang cho chính họ.
Họ bị ám ảnh về quyền lực, cũng là ám ảnh về vinh quang,
nên thất bại và cái chết nhục nhã là điều họ khó hiểu và khó chấp nhận.
Như các môn đệ, chúng ta cũng không hiểu được
làm sao một ngôn sứ như Đức Giêsu lại có thể bị loại trừ và thủ tiêu.
Chúng ta không chấp nhận vai trò của đau khổ, nhục nhã và cái chết,
trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa (Lc 24, 25-27).
Đức Giêsu đã phải soi sáng cho hai môn đệ Emmau về mầu nhiệm này.
Chúng ta cũng phải đối diện với mầu nhiệm đau khổ nơi chính mình.
Và chúng ta thường thấy nó vô nghĩa, vô lý, vô duyên.
Đau khổ mãi mãi là một mầu nhiệm mà chúng ta muốn chối bỏ vì sợ hãi.
Kitô giáo đã không dạy ta con đường tránh đau khổ bằng mọi giá.
Đức Giêsu đã giang tay đón lấy đau khổ với một tình yêu bao dung,
lập tức đau khổ ấy có ý nghĩa và nở hoa.
Nơi thập giá chúng ta thấy rõ nhất tình yêu vô lượng của Cha,
và tình yêu mênh mông của Đức Giêsu đối với nhân loại.
Nơi thập giá chúng ta thấy sự kinh khủng của tội ác con người,
và sự tha thứ vô bờ của Thiên Chúa.
Như thế là ta đã bắt đầu hiểu được ý nghĩa của thập giá và đau khổ.
Thật ra các môn đệ chỉ hiểu được cuộc Thương Khó nhờ Phục Sinh.
Khi sống lại, Chúa Giêsu cho tất cả những cái vô lý một ý nghĩa.
Khi được nếm trước mầu nhiệm phục sinh ngay từ đời này,
chúng ta thấy dễ đón nhận đau khổ hơn.
Hãy mạnh dạn hỏi Đức Giêsu về ý nghĩa cuộc Thương Khó của Ngài,
cuộc Thương Khó của cả nhân loại và của chính bản thân tôi.
Đừng sợ hỏi, nhưng “hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời Ngài nói” (c. 44).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa,
xin cho con biết sống
cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh
nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh
gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng,
tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
Suy niệm 2: Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su đang làm những phép lạ lẫy lừng khiến mọi người thán phục. Đột nhiên Người nói dõng dạc với các môn đệ: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” khiến các môn đệ sợ hãi. Thủ lãnh thế gian được quyền hoành hành ở thế gian trong một thời gian. Đó là thời kỳ thanh luyện. Chính Chúa, trong thân phận con người, cũng phải chịu một phép rửa thanh luyện. Đó là chịu đau khổ, chịu nhục nhã, chịu chết. Để thắng vượt mọi cám dỗ trần gian. Để siêu thoát mọi ràng buộc của xác thịt và thế gian. Để tự do đi vào Nước Trời. Để giải phóng con người khỏi ách nô lệ của ma quỉ, xác thịt, thế gian. Để mở con đường thăng tiến cho nhân loại. Đó là con đường khó khăn và đau khổ. Đến nỗi các môn đệ sợ hãi không dám hỏi lại.
Nhưng đó là con đường đúng đắn và cần thiết. Vì những giá trị trần gian chỉ là phù vân. Như sách Giảng viên khuyên nhủ thanh niên. Ngay lúc tuổi thanh xuân tươi đẹp hãy biết chuẩn bị cho đời sau. Vì đời này là chóng qua. “Giữa tuổi thanh xuân, bạn hãy tưởng nhớ Đấng đã dựng nên mình. Đừng chờ đến ngày tai ương ập tới, đừng chờ cho năm tháng qua đi, …Đừng chờ đến khi bụi đất lại trở về với đất, khi phàm nhân trả lại cho Thiên Chúa hơi thở Người đã ban cho mình…Phù vân chỉ là phù vân”. Hãy biết tích trữ kho tàng vĩnh cửu. Hãy biết sẽ bị Thiên Chúa xét xử để biết từ bỏ những cám dỗ vật chất trần gian. Mà chuẩn bị cho Nước Trời (năm chẵn).
Khi thế giới phù vân qua đi, một thế giới mới xuất hiện. Chúa lập nên thành Giê-ru-sa-lem mới. Vô cùng rộng lớn vì không còn biên giới. Vô cùng hạnh phúc vì được Chúa bảo vệ. Vô cùng lộng lẫy vì Chúa là vinh quang của thành. Đó là trời mới đất mới. Nơi chan hoà tiếng đàn ca. Nơi chan chứa tiếng vui cười. Nơi hạnh phúc vĩnh viễn. “Giê-ru-sa-lem phải là một thành rộng mở, sẽ có vô số người và súc vật đên cư ngụ ở đó. Phần Ta, sấm ngôn của Đức Chúa, Ta sẽ là tường luỹ bằng lửa bao quanh nó, và Ta sẽ là vinh quang ở giữa nó. Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi” (năm lẻ).
Chúa bị nộp vào tay người đời. Đó là tấm gương cho tôi biết sẵn sàng chịu thiệt thòi ở đời này. Từ bỏ những ràng buộc của danh vọng chức quyền đời này. Chắc chắn đó là một cuộc thanh luyện đớn đau. Nhưng khi sạch mọi vương vấn trần tục tôi mới có thể bước vào thành Giê-ru-sa-lem mới rạng ngời vinh quang, hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa xin cho con biết trao nộp vào tay người đời tất cả những gì của họ. Để con thuộc về Chúa. Thuộc về Nước Chúa.
Suy niệm 3: Chấp nhận khổ đau
Có hai người đang bị dằn vặt với nỗi khổ đau của mình. Họ tìm đến với một vị ẩn sĩ để xin ý kiến. Vị ẩn sĩ này giới thiệu họ đến gặp một vị ẩn sĩ khác. Sau khi nghe họ giãi bày tâm sự, ông trả lời: "Tốt hơn các anh hãy tìm đến một vị khác, tôi không có đủ tư cách để trả lời câu hỏi đó, bởi vì cả đời tôi có bao giờ nhận điều xấu từ bàn tay Chúa đâu". Hai người thanh niên chợt hiểu rằng khi con người vui vẻ đón nhận khổ đau, thì khổ đau không còn là vấn đề nữa.
Trong Tin Mừng hôm nay, khi loan báo cuộc khổ nạn của Ngài, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài hãy đối đầu với khổ đau, nếu khổ đau là thành phần thiết yếu của cuộc sống. Vấn đề không phải là chối bỏ hiện thực của khổ đau hay tìm cách tránh né khổ đau, mà là đối đầu với nó. Chúa Giêsu đã vạch ra cho chúng ta cách thế đối đầu với khổ đau, đó là chấp nhận khổ đau với tình yêu. Ðau khổ mà không có tình yêu thì chỉ là hỏa ngục mà thôi.
Xem chừng tất cả các vấn đề của con người đều được gắn liền với khổ đau. Vì không muốn chấp nhận khổ đau mà con người gây ra bao nhiêu tội ác, vì không muốn hy sinh mà một người mẹ đang tâm giết đứa con trong lòng mình, vì không muốn thấy người thân đau khổ mà người ta giết họ một cách êm dịu, vì không muốn đối đầu với thực tại khổ đau mà người ta tìm quên trong men rượu, ma túy và mọi thứ kích thích khác: hỏa ngục là như thế đó.
Chúa Giêsu đã đón nhận khổ đau, Ngài đã biến khổ đau thành hiến lễ tình yêu, do đó khổ đau đã trở thành nguồn ơn cứu thoát cho nhân loại. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy vác lấy thập giá mình mà đi theo Ngài. Mỗi ngày có nỗi khổ riêng của ngày đó, hạnh phúc hay không, bình an hay không, là tùy con người có biết đón nhận khổ đau với tình yêu hay không.
Giữa muôn nghìn khổ đau và thử thách của cuộc sống, xin Chúa cho chúng ta đón nhận tất cả với lòng tin yêu, phó thác và cảm tạ tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Lời tuyên xưng của Thánh Phêrô
Hôm qua, chúng ta đã đọc và Suy niệm đoạn Tin Mừng nơi chương 9 cũng của Phúc Âm theo thánh Luca, trong đó chúng ta ghi nhận lời Chúa loan báo lần đầu tiên về cuộc tử nạn của Ngài để đáp lại lời tuyên xưng của thánh tông đồ Phêrô: "Thầy là Ðấng Thiên Sai của Thiên Chúa". Hôm nay, chúng ta lại được Giáo Hội cho đọc đoạn ghi nhận lời loan báo của Chúa Giêsu lần thứ hai về cuộc khổ nạn của Ngài để cứu chuộc nhân loại. Ðọc lại lời loan báo này, chúng ta ghi nhận sự kiện là Chúa Giêsu sử dụng ngôn ngữ của sách tiên tri Ðaniel chương 7,13 và áp dụng cho mình cách nói Con Người đến mạc khải về chính mình như là Ðấng Thiên Sai, Ðấng có nguồn gốc từ trên cao được sai xuống trần gian, và để lưu ý và sửa lại những lệch lạc trong quan niệm về một Ðấng Thiên Sai vinh quang. Chúa Giêsu nhắc đến việc Con Người bị nộp vào tay người đời. Chúa Giêsu mạc khải một Ðấng Thiên Sai chịu đau khổ, một Ðấng Thiên Sai là người Tôi Tớ của Thiên Chúa chịu đau khổ như được nhắc đến trong sách tiên tri Isaia. Phúc Âm ghi lại phản ứng của các tông đồ lúc đó là các ngài không hiểu ý nghĩa Chúa muốn nói, tuy nhiên các ngài có trực giác trước một điều gì đó khủng khiếp sắp xảy ra cho Chúa và cả cho các ngài nữa, bởi vì trước đó, trong lần tiên báo về cuộc khổ nạn của mình tại Giêrusalem, Chúa Giêsu nhắc đến điều kiện cần phải vác thập giá để theo Chúa. Linh tính trước có điều quan trọng sắp xảy đến mà các ông không hiểu nên các ông lo sợ, lo sợ nhưng lại e ngại không dám hỏi Chúa Giêsu.
Ngày hôm nay, chúng ta cũng có thể hành sự như các tông đồ ngày xưa, chúng ta không hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô trong đời sống chúng ta, không hiểu được mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời của Chúa cũng như trong cuộc đời của chính mình. Không hiểu, chúng ta ngại không dám tiến tới, không dám tiếp tục con đường theo Chúa, ngại ngùng trước việc tìm hiểu biết Chúa, ngại ngùng lên tiếng xin Chúa trợ giúp cho ta hiểu biết Ngài trong việc cầu nguyện và tiếp xúc với lời Chúa và đến với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy khiêm tốn và tin tưởng đến với Chúa và xin Ngài mạc khải cho chúng ta được hiểu về Ngài mỗi ngày một sâu rộng hơn.
Lạy Chúa,
Xin thương tha thứ cho chúng con về những lần mà chúng con nghi ngờ về Chúa và về những sự nguội lạnh làm biếng của chúng con trong việc tìm biết về mầu nhiệm Chúa. Xin thương ban cho chúng con một con tim mới. Xin mạc khải cho chúng con hiểu thêm về Chúa, về con đường thập giá cần phải đi qua để tiến đến sự sống muôn đời với Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Sợ không dám biết
“Phần anh em hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời” (Lc. 9, 44)
Các tông đồ rất giống chúng ta, chúng ta cũng rất giống các Ngài. Các Ngài sợ biết rõ những điều Đức Giêsu muốn giải thích. Khi Người loan báo nhiều lần về cái chết của Người sắp tới. Đó là lý do tại sao các ông im không dám hỏi thêm về tin báo cái chết. Các ông tự thâm tâm từ chối nghĩ đến cái chết của Đức Kitô. Các ông không muốn hiểu dù Thầy đã thử làm sáng tỏ rằng: “Không có tình yêu nào lớn hơn hiến mạng sống cho người mình yêu”.
Các ông tuyệt đối không muốn thấy gương mù thập giá. Người ta có nên trách các ông không? các ông không thể từ bỏ quan niệm Đấng Kitô cai trị trần thế, chiến thắng huy hoàng và phục hưng nước Is-ra-el vinh quang. Người đến ban cho dân tuyển chọn tất cả mọi vinh hoa sang trọng như thời Mô-sê, Đa-vít và Sa-lô-môn xưa, để Is-ra-el trở thành vương quốc nhất thế giới. Các ông đã nuôi những tham vọnh như thế ngay cả lúc Đấng Kitô bị nộp vào tay kẻ đóng đinh Người. Cho nên, làm sao các ông có thể nắm bắt được ý nghĩ hy sinh mà Đức Giêsu đã đề cập tới? dầu các ông yêu Người và theo Người.
Sự hy sinh này là tâm trạng đời sống của Đức Kitô. Nó sẽ tóm tắt toàn diện sứ vụ của Người, đây là lý do Người đã đến trong thế gian, đây là lý do Người phải chịu đau khổ nhiều, đây là lý do Người là Đấng Trung Hòa và là Đấng Cứu Thế. Còn lý do tại sao Người không chịu giải thích tối đa để chuẩn bị các môn đệ chấp nhận thập giá? có phải thập giá gây cho các ông tuyệt vọng ê chề không?
Chúng ta cũng như các tông đô, chúng ta sợ biết phải đi vào con đường đau khổ với Đức Kitô. Chúng ta đôi khi không thích hỏi những ý nghĩa ẩn chứa trong Tin Mừng của Người. Chúng ta giải thích lời Người theo kiểu của mình, hay làm cho lời Người nên ngọt ngào êm dịu, sợ tư tưởng đó quá rõ, quá khó theo. Là môn đệ Đức Kitô, phải vui lòng chấp nhận ơn kêu gọi đặc biệt này là: “Hãy vác thập giá mình mà theo Ta”.
Suy niệm 6: Hóa giải đau khổ bằng lòng mến
Xem lại CN 25 TN B, thứ Ba tuần 7 TN và thứ Hai tuần 18 TN
Trong một thánh lễ nọ, có một cụ bà đến bàn ghi ý lễ và nói: “Xin ơn chết lành!”. Vị ghi ý lễ không chịu, vì đây là điều quái gở, nên tự ý ghi lại là: “Xin như ý”. Biết được, bà cụ không đồng ý và yêu cầu ghi đúng nguyên văn. Ôi thật là người tràn đầy đức tin!
Cũng có một câu chuyện khác kể về hai người nọ đang gặp đau khổ và đến xin một vị ẩn sĩ tìm cách giúp cho mình vượt qua thực trạng của cuộc sống mà họ đang phải đối đầu.
Sau khi nghe họ giãi bày tâm sự, vị ẩn sĩ trả lời: “Tốt hơn các anh hãy tìm đến một vị khác, tôi không có đủ tư cách để trả lời câu hỏi đó, bởi vì cả đời tôi có bao giờ nhận điều xấu từ bàn tay Chúa đâu!”. Nghe đến đây, hai người thanh niên chợt hiểu rằng khi con người vui vẻ đón nhận khổ đau, thì khổ đau không còn là vấn đề bi đát nữa.
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài sẽ phải chịu ngay khi dân chúng và chính các môn đệ đang trầm trồ khen ngợi vẻ huy hoàng, vinh quang qua quyền năng của Đức Giêsu nơi các việc Ngài đã làm cho dân. Khi tiên báo lúc này, Đức Giêsu muốn các môn đệ hãy đi theo con đường hy sinh, từ bỏ và đón nhận đau khổ vì tình yêu thì sẽ đạt được hạnh phúc đích thực.
Khổ đau không bao giờ buông tha chúng ta! Nếu chúng ta đối đầu với chúng trong sự tiêu cực thì chính khổ đau sẽ vùi dập cuộc đời và nó sẽ làm cho chúng ta thất vọng. Còn nếu chúng ta đón nhận nó trong lòng mến Chúa và sứ vụ thì sẽ bình an và đôi khi hạnh phúc hiện lên từ những gian nan khốn khổ. Bởi lẽ, theo niềm tin của người Công Giáo thì: “Qua đau khổ mới được vào vinh quang”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: con đường theo Chúa là con đường của đau khổ và hy sinh. Tuy nhiên, trung thành với Chúa trong lòng mến, chúng con sẽ được phục sinh vinh hiển mai ngày. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Con đường từ bỏ, vác thánh giá
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Con đường cứu thế là con đường từ bỏ mình, vác thánh giá lên núi sọ. Ai muốn đạt tới vinh quang muôn đời phải can đảm và tin tưởng bước theo Chúa Giêsu trên con đường cứu thế ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, vui sướng ai cũng thích, và khổ đau ai cũng sợ. Thấy vui tìm đến, thấy khổ tháo lui. Con bây giờ cũng thế, mà các tông đồ thuở xưa cũng vậy, lúc Chúa biến hình vinh quang, khi Chúa làm phép lạ diệu kỳ…, các tông đồ phấn khởi tin theo Chúa. Ngược lại, lúc tiên báo cuộc khổ nạn, lòng các Ngài như bị che khuất, chẳng hiểu và cũng không muốn hiểu.
Lạy Chúa, Chúa đến không phải được hầu hạ nhưng là để hầu hạ mọi người. Làm vua theo tinh thần của Chúa không phải là nghênh ngang trên kiệu vàng, mà là chịu khổ đau với thần dân. Điều đó trái với sự chờ đợi của mọi người. Xin cho con được hiểu rằng: theo Chúa là sẵn lòng bước đi trên con đường hẹp đòi hỏi nhiều từ bỏ hy sinh, và đón nhận một thập giá trên vai mình.
Chúa có hứa ban kho tàng trên trời cho kẻ từ bỏ mình vì Chúa. Xin cho con đừng trông chờ sự giàu sang trần thế.
Chúa có hứa ban sức mạnh tâm hồn cho kẻ theo Chúa. Xin cho con đừng thất vọng khi yếu đau sầu khổ.
Chúa có hứa ban vinh quang bất diệt mai sau. Xin cho con đừng ngỡ ngàng khi bị sỉ nhục vì Danh Chúa.
Xin cho con thêm lòng tin cậy mến để con can đảm bước vào con đường hẹp và theo Chúa tới phục sinh vinh quang. Amen.
Ghi nhớ: “Con Người sẽ phải bị nộp. Các ông không đám hỏi Người về lời ấy”.
Suy niệm 8: Tình yêu hiến dâng mạng sống vì người mình yêu
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một tờ báo Ý đã tiết lộ một tin quan trọng về Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Tờ báo cho biết, khi Đức Giáo hoàng còn là sinh viên du học tại Rôma, một hôm đã cùng với các bạn đi thăm cha đáng kính Piô, vị linh mục được Chúa in năm dấu thánh.
Vừa gặp, cha Piô ôm chầm lấy ngài và nói rằng một ngày kia cha sẽ làm Giáo hoàng và sẽ chịu đau khổ, máu sẽ chảy. Wojtyla trả lời: “Điều ấy tôi không sợ vì tôi sẽ không bao giờ làm Giáo hoàng”.
Nhưng thánh ý Chúa nhiệm mầu! Wojtyla đã làm Giáo hoàng và máu đã chảy trong cuộc mưu sát ngày 13/10/1981 tại công trường thánh Phêrô. Gioan Phaolô là vị Giáo hoàng thứ 264, từ ngày vị Giáo hoàng tiên khởi là thánh Phêrô được Chúa trao quyền tối thượng (Theo Lm. Hồng Phúc, Suy niệm lời Chúa, năm A, tr. 128).
Suy niệm
Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô”, một “Đấng Kitô vinh hiển”, Đấng đến giải thoát dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ của người Rôma và làm cho nước Do Thái được hùng cường. Các môn đệ vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Kitô đến thiết lập một vương quốc trần gian hùng cường. Cho nên, các ông vẫn tiếp tục mong chờ một: “biến cố vẻ vang” chứng tỏ quyền năng của Đấng Mêssia. Một vương quyền, quyền uy chiến thắng sắp đến với Đấng Kitô.
Thật thế, ông và các bạn vẫn chưa hiểu hết về một Đấng Kitô như Đức Giêsu loan báo “Đấng Kitô đau khổ” mà Chúa Giêsu nhấn mạnh về Đức Kitô khổ nạn và truyền cho các môn đệ phải luôn ghi tâm khắc cốt: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”.
Ngài chấp nhận chết để tình yêu Thiên Chúa được biểu lộ, đó là hy sinh vô bờ bến để cứu chuộc nhân loại: “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13). Chính vì thế, Đấng Kitô sẽ hy sinh trên thập tự đã làm cho cuộc sống con người có ý nghĩa và được cứu độ.
Xin cho chúng ta luôn tin vào Chúa để được cứu độ. Và hiểu rằng vì tội lỗi nhân loại, mà Chúa Kitô đã chịu khổ hình, bị đóng đinh...
Ý lực sống
“Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia” (Tv 90,1).
Suy niệm 9: Loan báo cuộc thương khó lần thứ hai
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Nhận thấy mọi người, trong đó có các môn đệ, kinh ngạc trước việc chữa lành đứa trẻ bị kinh phong mà nguyên nhân bởi quỷ ám. Đức Giêsu, một đàng sợ dân chúng ngộ nhận Ngài là Đấng Cứu Thế theo kiểu trần thế; đàng khác, Ngài muốn nhờ cơ hội này, để giáo huấn các môn đệ ngõ hầu từng bước một họ sẽ hiểu chính xác về công việc cứu thế của Ngài, nên Ngài đã loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời”.
Các môn đệ đang say sưa và hãnh diện về lời rao giảng và quyền năng của Thầy mình, thì đột ngột Đức Giêsu loan báo về cuộc thương khó sẽ xảy đến cho Ngài làm các ông ngỡ ngàng và không thể hiểu được.
Tại sao Thầy uy quyền, làm được những phép lạ lớn lao như thế thì ai có thể bắt được?
Tại sao Thầy chí thánh làm những việc thiện và cứu người lại bị nộp?
Nếu Thầy bị bắt thì sứ mạng Đấng Cứu Thế ở đâu?
Bởi vì từ lúc chọn theo Đức Giêsu cho đến lúc trước Phục sinh, các môn đệ chỉ nhìn Đức Giêsu với cái nhìn của con người. Họ nghĩ Ngài mang sứ mạng chính trị, dùng quyền lực giải phóng Israel khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, lên ngôi vua Israel. Từ đó các môn đệ cũng được chia phần vương giả. Chính vì thế mà Đức Giêsu dần dần dạy các ông hiểu về con đường cứu độ của Ngài là giải phóng toàn nhân loại khỏi ách nô lệ của ma quỷ, khỏi tội lỗi và sự chết. Con đường cứu độ này chỉ được thực hiện bằng giá máu.
Trong bài Tin mừng hôm nay, khi loan báo cuộc khổ nạn của Ngài, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài hãy đối đầu với đau khổ, nếu đau khổ là thành phần thiết yếu của cuộc sống. Vấn đề không phải là chối bỏ hiện thực của đau khổ hay tìm cách tránh né khổ đau, mà là đối đầu với nó. Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta cách thế đối đầu với đau khổ, đó là chấp nhận khổ đau với tình yêu. Đau khổ mà không có tình yêu thì chỉ là hỏa ngục mà thôi.
Đức Giêsu đã đón nhận khổ đau, Ngài đã biến khổ đau thành hiến lễ tình yêu, do đó khổ đau đã trở thành nguồn ơn cứu thoát cho nhân loại. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy vác lấy thập giá mình mà đi theo Ngài. Mỗi ngày có nỗi khổ riêng của ngày đó, hạnh phúc hay không, bình an hay không, là tuỳ con người có biết đón nhận đau khổ với tình yêu hay không.
“Tôi sẽ không cho phép ai đi qua tâm trí mình với đôi chân dơ bẩn của họ” (M. Gandhi)
Tâm trí con người có một khả năng tuyệt vời là chỉ đón nhận, thông hiểu những gì thích hợp với mình, và loại trừ điều họ không thích. Khả năng ấy của tâm trí giải thích lý do tại sao các môn đệ không hiểu điều Thầy mình tiên báo về cuộc khổ nạn. Tâm trí các ông đầy ắp tham vọng ham muốn quyền lực, mong mình sẽ là người lớn nhất trong nhóm. Còn chỗ đâu để hiểu con đường quên mình, phục vụ của Thầy các ông. Lòng trí các ông chỉ biết một hướng: hướng vinh quang của Thầy trong Vương quốc, thì làm gì còn chỗ để nhận ra“Con người sẽ bị nộp vào tay người đời”(Lc 9,44) (5 phút Lời Chúa).
Ngày hôm nay, chúng ta cũng có thể hành sự như các Tông đồ xưa, chúng ta không thể hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô trong đời sống của chúng ta, không hiểu được mầu nhiệm thập giá trong cuộc đời của Chúa cũng như trong cuộc đời của chính mình. Không hiểu, chúng ta ngại không dám tiến tới, không dám tiếp tục con đường theo Chúa, ngại ngùng trước việc tìm hiểu biết Chúa, ngại ngùng lên tiếng xin Chúa trợ giúp cho ta hiểu biết Ngài trong việc cầu nguyện và tiếp xúc với Lời Chúa và đến với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy khiêm tốn và tin tưởng đến với Chúa và xin Ngài mạc khải cho chúng ta được hiểu về Ngài mỗi ngày một sâu rộng hơn (R.Veritas).
Truyện: Biến đau khổ thành niềm vui
Một phụ nữ được các bác sĩ cho biết là chị đang mắc cơn bệnh bất trị. Chị cảm thấy như có một ngọn lửa bừng lên trong lòng và muốn nói với Chúa rằng chị muốn bỏ Ngài. Thế là giữa đêm khuya, chị bỏ nhà thương, đi thẳng đến nhà nguyện để gặp Chúa, trước cung thánh chị thốt lên:
- Ôi, ông Chúa, ông đã phỉnh phờ lừa dối tôi. Đã hơn 2000 năm qua, ông tự nhận mình là tình yêu, nhưng mỗi lần có ai được hạnh phúc một chút, là ông lập tức lại cho họ trắng tay. Tôi muốn nói cho ông biết là tôi chán ông lắm rồi, giữa tôi và ông không còn mối liên hệ gì nữa.
Người phụ nữ chỉ nói được thế rồi ngã quỵ, không còn đủ sức đứng dậy nữa. Nhưng trong ánh sáng mờ ảo của cung thánh, chị bỗng nhận ra một hàng chữ thêu trong tấm thảm trước mắt chị: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”.
Vừa nhìn thấy thế, cơn giận trong chị bỗng tan biến. Chị gục đầu vào đôi tay. Từ trong thinh lặng u tối của nhà nguyện, và từ trong sâu thẳm của cõi lòng, người phụ nữ ấy như nghe thấy có tiếng nói với chị như sau:
- Con biết không, tất cả chỉ là lời mời gọi để hướng đời con về với Ta. Con chưa bao giờ làm như thế. Các bác sĩ đã làm hết sức mình để chữa trị cho con, nhưng chỉ một mình Ta mới có thể cho con được sức mạnh.
Suy niệm 10: Chúa Giêsu báo tin lần hai về cái chết của Ngài.
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu báo tin lần thứ hai về cái chết của Ngài.
Đang lúc các môn đệ phấn khởi về quyền phép Chúa Giêsu thể hiện qua những phép lạ Ngài làm, thì đùng một cái Ngài cho các ông biết là Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết chết. Phải chăng, Chúa làm thế là muốn làm các ông mất hứng? Không, Chúa không muốn làm cho các ông mất hứng mà chỉ muốn dẫn các ông trở lại đúng con đường mà Ngài đang đi, đồng thời Ngài cũng muốn cho cả các ông cùng đi trên con đường đó với Ngài.
Trong vườn Giêthsêmani, có lúc Chúa cũng cảm thấy choáng váng khi thấy đau khổ gần kề, nhưng ngay sau khi biết được đó là thánh ý của Chúa Cha thì Ngài đã can đảm chấp nhận.
Chúa đón nhận khổ đau không phải vì khổ đau tự nó là điều đáng ước mong, nhưng Ngài đón nhận khổ đau vì lòng yêu mến Thiên Chúa Cha và Ngài đã biến khổ đau thành phương tiện cứu rỗi.
Người ta kể rằng, Indira đến gặp vị đạo sĩ Makia và thưa:
- Xin ngài hãy chỉ cho tôi một vị Thần để tôi tôn thờ và một tôn giáo để tôi sống theo.
Đạo sĩ liền đưa Indira đến một tòa nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành cho một căn phòng rộng. Vị đầu tiên là thần Bada được đạo sĩ Makia giới thiệu như sau:
- Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi đau khổ khỏi thế giới con người.
Nhưng Indira lắc đầu xin được sang căn phòng khác.
Đến vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu:
- Đây là vị thần có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ.
Nhưng Indira khẽ ra hiệu cho đạo sĩ cùng đi nơi khác.
Cuối cùng, hai người đến trước một người đang bị treo trên Thập Giá, Indira tò mò hỏi:
- Vị thần này là ai mà bị treo trên Thập Tự như thế này?
Đạo sĩ chậm rãi trả lời:
- Đây là Chúa Giêsu Kitô của những người Công Giáo.
Với một chút xúc động lộ ra trên nét mặt, Indira xin đạo sĩ giải thích thêm về những gì cần phải làm để được trở thánh đồ đệ của vị bị treo trên Thập Giá. Đạo sĩ Makia ngạc nhiên hỏi lại:
- Này anh, anh làm tôi thắc mắc. Hai vị thần đã gặp lúc đầu, một đề nghị cất bớt sự đau khổ, một đề nghị tránh khỏi đau khổ, anh không thích người nào cả, thế nhưng tại sao anh lại thích và muốn làm đồ đệ của vị chịu treo nhục nhã trên Thập Giá này?
Đến phiên Indira giải thích cho vị đạo sĩ Makia:
- Hứa làm bớt sự đau khổ trên trần gian này là lời nói suông. Người ta không thể nào cất đi mọi đau khổ trên trần gian này. Dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống khiếp nhược. Tránh né được đau khổ này thì đau khổ khác sẽ đến. Nhìn vào vị Chúa của người Kitô, dám chấp nhận sự đau khổ như vậy, con người sẽ được mời gọi để hiểu ý nghĩa của sự đau khổ và chấp nhận nó, và một khi hiểu và chấp nhận mầu nhiệm đau khổ thì niềm vui và an bình có thể trổ sinh cả trên thế giới không mấy tốt đẹp này. Đó là lý do tại sao tôi cảm thấy bị thu hút bởi Đấng bị treo trên thập tự kia và muốn làm đồ đệ của Ngài.”
Linh mục Bauer có kể lại chứng từ sau đây: Một phụ nữ được các bác sĩ cho biết là chị đang mắc cơn bệnh bất trị. Chị cảm thấy như có một ngọn lửa bùng lên trong lòng và muốn nói với Chúa rằng: chị muốn bỏ Ngài. Thế là, giữa đêm khuya, chị bỏ nhà thương, đi thẳng đến nhà nguyện để gặp Chúa. Trước cung thánh chị thốt lên:
- Ôi, ông Chúa, ông đã phĩnh phờ lừa dối tôi. Đã hai ngàn năm qua, ông tự nhận mình là tình yêu, nhưng mỗi lần có ai được hạnh phúc một chút, là ông lập tức cho họ trắng tay. Tôi muốn nói cho ông biết là tôi chán ông rồi, giữa tôi và ông không còn gì nữa.
Người phụ nữ chỉ nói được có thế rồi ngã quỵ, không còn đủ sức đứng dậy nữa. Nhưng trong ánh sáng mờ ảo của cung thánh, chị bỗng nhận ra một hàng chữ thêu trong tấm thảm trước mắt chị: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”.
Vừa nhìn thấy thế, cơn giận trong chị bỗng tan biến. Chị gục đầu vào đôi tay. Từ trong thinh lặng u tối của nhà nguyện, cũng như trong sâu thẳm của cõi lòng, người phụ nữ ấy như nghe thấy có tiếng nói với chị như sau:
- Con biết không, tất cả chỉ là lời mời gọi để hướng đời con về Ta. Con chưa bao giờ làm như thế. Các bác sĩ đã làm hết sức mình để chữa trị cho con, nhưng chỉ một mình Ta mới có thể cho con được sức mạnh.
Giữa bóng tối, một tia sáng tin yêu đã lóe lên trong lòng người phụ nữ. Chị chấp nhận tất cả. Chị đã đầu hàng Chúa vô điều kiện và chị đã dâng cuộc sống còn lại cho Ngài. Chị gắng gượng trở về phòng và chưa bao giờ chị tìm được sự thanh thản trong tâm hồn như thế.
Suy niệm 11: Ý nghĩa tình yêu của Thập giá
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu báo tin lần thứ hai Ngài sẽ chịu nạn chịu chết.
- Ngài báo tin này “đang lúc mọi người thán phục” về những phép lạ hiển hách Ngài đã làm.
- Dù đây đã là lần thứ hai Ngài nói về điều này, “nhưng các ông không hiểu”
- Dù không hiểu, nhưng “các ông không dám hỏi”.
B.... nẩy mầm.
1. Đang lúc các môn đệ phấn khởi về quyền phép Chúa Giêsu thể hiện qua những phép lạ Ngài làm, thì đùng một cái Ngài cho các ông biết là Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và giết chết. Phải chăng Chúa muốn làm các ông mất hứng? Không, Chúa muốn dẫn các ông trở lại đúng con đường Ngài và các ông phải đi.
Nhiều khi chúng ta đang phấn khởi vì những niềm vui và những thành công, thì đùng một cái, đau khổ và thất bại ập đến. Cũng không phải là Chúa làm chúng ta mất hứng, mà Ngài đang dẫn chúng ta trở lại đúng con đường của mình. “Ai muốn theo Thầy, hãy vác thập giá mà theo”.
2. “Nhưng các ông không hiểu”: chúng con cũng chẳng hiểu. Tại sao con phải đau khổ? Tại sao Chúa để Giáo Hội gặp nhiều khó khăn? Tại sao kẻ làm lành mà lại bị thiệt thòi? Tại sao thế này, tại sao thế nọ? Tuy nhiên chúng con nhớ là Chúa đã bảo phải như thế !
3. “các ông không dám hỏi”: chúng ta đừng làm như các môn đệ xưa. Khi không hiểu về Thập giá, chúng ta cứ hỏi Chúa. Ngài sẽ trả lời: “Vì Thầy yêu thương chúng con. Thầy muốn chúng con chia sẻ thân phận của Thầy”.
4. Xem chừng như tất cả các vấn đề của con người đều được gắn liền với khổ đau. Vì không muốn chấp nhận khổ đau mà con người gây ra bao tội ác: vì không muốn hy sinh mà một người mẹ đang tâm giết chết đứa con trong lòng mình; vì không muốn thấp người thân đau khổ mà người ta giết họ chết cách êm dịu, vì không muốn đối đầu với thực tại khổ đau mà người ta tìm quên trong men rượu, ma túy và mọi thứ kích thích khác: hoả ngục là như thế đó… Đau khổ mà không chấp nhận, không có tình yêu thì chỉ là hoả ngục mà thôi ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Chúa Giêsu nói với các môn đệ: ‘Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời’. Nhưng các ông không hiểu lời đó” (Lc 9,44-45)
Từ khi vợ mất, ông lão dọn đến đây ở với đứa con gái duy nhất, những mong tìm được nguồn an ủi trong những tháng ngày còn lại. Nhưng hình như ông đã già lắm rồi thì phải. Ít ra, thái độ của cô con gái khiến ông cảm thấy như thế.
… Đã thành lệ, mỗi buổi sáng sau khi nhận được ít tiền từ con gái, ông lại lủi thủi một mình. Con gái ông còn bận “ngoại giao” bên hàng xóm hoặc vòng vòng ngắm nghía phố thị. Phần buồn nhớ vợ, phần cô đơn, ông đâm ra nghĩ quẩn… Vài ngày sau khi ông bỏ đi, người con gái nhận được giấy báo lên nhận xác ông, nghe đâu được một người dân chài vớt lên…
Đã bao lần tôi là thế, vô tư với nỗi niềm của người bạn bên cạnh tôi, những Giêsu của ngày hôm nay. Họ cũng đang cần sự cảm thông của tôi như Giêsu ngày xưa tìm kiếm sự đồng cảm nơi các môn đệ.
Lạy Chúa, xin cho con một trái tim đừng chỉ đập những nhịp đập cho riêng mình, nhưng còn biết rung lên những khúc ca vui với niềm vui của người khác, và cũng biết đớn đau trước nỗi đau của bao người quanh con. (Hosanna)
- 24/09 Đấng Kitô chịu nhiều đau khổ.
- 23/09 Câu hỏi về Chúa Giêsu
- 22/09 Sai 12 Tông Đồ đi rao giảng
- 21/09 Đứng dậy – đi theo Chúa
- 20/09 Đèn sáng đặt đúng chỗ
- 19/09 Người lớn nhất trong nước trời
- 18/09 Dụ Ngôn Người Gieo Giống
- 16/09 Yêu mến nhiều, tha thứ nhiều
- 15/09 Đứng gần thập giá
- 14/09 Phải được giương cao