Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
11/12 Gioan Tẩy Giả là Elia.
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Gioan Tẩy Giả là Elia.
Thứ Bảy tuần 2 mùa vọng.
"Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông".
LỜI CHÚA: Mt 17, 10-13
Khi xuống núi, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu rằng: "Tại sao các luật sĩ lại nói Elia phải đến trước đã?"
Chúa Giêsu trả lời: "Thật Elia phải đến để chấn hưng mọi sự. Và Thầy bảo các con, Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ".
Bấy giờ các môn đệ hiểu Chúa Giêsu nói với họ về Gioan Tẩy Giả.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Êlia đã đến rồi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Các nhà thông luật, dựa trên ngôn sứ Malakhi,
nói rằng Êlia phải đến trước để dọn đường cho Chúa (c. 10),
để “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu,
và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3, 1. 24).
Đức Giêsu nhất trí với họ, nhưng nhấn mạnh:
“Êlia đã đến rồi, và họ đã không nhìn nhận ông,
nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn” (c. 12a).
Theo Đức Giêsu, chẳng cần phải đợi Êlia nữa.
Gioan Tẩy giả chính là Êlia (c. 13).
Gioan đã đến để chỉnh đốn mọi sự (c. 11).
Đời ông là một tiếng kêu to trong hoang địa.
Ông mời mọi người sinh hoa trái diễn tả lòng sám hối ăn năn.
Dân chúng đã đổ xô đến với ông như đến với một ngôn sứ,
để thú tội và nhận phép rửa của ông ở sông Giođan.
Ông trở nên nổi tiếng đến độ có người tưởng ông là Đấng Mêsia.
Gioan đã không bao giờ nhận mình là Đấng Cứu thế.
Ông chỉ xin được cúi xuống cởi dây giày
cho Đấng đến sau ông, nhưng cao trọng hơn ông.
Kết cục của đời ông là bị cầm tù (Mt 11, 2),
và sau đó là một cái chết bi đát và đột ngột (Mt 14, 10-12).
Đầu ông rơi dưới tay của Hêrôđê, người vừa sợ, vừa kính nể ông.
Vào Mùa Vọng, chúng ta lại được Đức Giêsu nhắc đến cái chết
của người đã giới thiệu Ngài cho chính đồng bào của mình.
Gioan đã chu toàn nhiệm vụ của tiếng, nhưng ông không phải là lời.
Ông là ngọn đèn, nhưng không phải là ánh sáng (Ga 1, 8; 5, 35).
Bạo quyền có thể làm cho tiếng phải im, ngọn đèn phải tắt,
nhưng lời chứng của Gioan thì vẫn còn mãi trong dòng lịch sử cứu độ.
Ông đã sống một đời sống tuyệt vời, hoàn toàn xóa mình,
nên nhân loại hôm nay, qua ông, có thể tin vào Đức Giêsu.
Êlia đã chịu nhiều đau khổ.
Gioan và Đức Giêsu cũng không được nhìn nhận (c.12b).
Số phận của các ngôn sứ trong mọi thời đại đều như nhau.
Họ chịu khổ vì phải nói hay làm một điều gì đó đòi người ta thay đổi.
Họ gây khó chịu cho những người có quyền thế vững vàng.
Nhìn kết cục của đời ông Gioan và Đức Giêsu ta thấy khó tin.
Một người chết vì bị xử trảm, một người chết vì bị đóng đinh.
Khó mà tin được một vị là Êlia, vị kia là Mêsia.
Êlia phải quyền thế hơn nhiều, Mêsia thì không hề nếm mùi thất bại.
Để đón lấy một Êlia như Gioan, đón lấy một Mêsia như Giêsu,
phải bỏ những định kiến khô cứng, vì Chúa đi đường chẳng ai ngờ.
Thế giới hôm nay vẫn cần những ngôn sứ như Gioan,
làm chứng bằng lời giới thiệu và bằng đời sống.
Lời giới thiệu hấp dẫn nhờ đời sống thanh liêm.
Đời sống thu hút nhờ lời giới thiệu soi sáng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen
Suy Niệm 2: Xe ủi mở đường
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mỗi khi muốn làm đường, người ta cho xe ủi đi trước để san lấp, tạo mặt bằng tốt. Xe ủi thật mạnh mẽ. Nó càn lướt qua các chướng ngại. Nó bạt núi san đồi. Đi đến đâu xe ủi làm cho mặt đất bằng phẳng đến đấy. Không một chướng ngại nào có thể ngăn chặn xe ủi. Ê-li-a và Gio-an Tẩy giả là những chiếc xe ủi mở đường cho Chúa Cứu Thế đến.
Như chiếc xe ủi các ngài có một đời sống mãnh liệt. Đó là những cuộc đời rực lửa. Sách Huấn ca miêu tả Ê-li-a là ngọn lửa bừng bừng nên đã đem lửa thiêu đốt mặt đất. Gio-an Tẩy giả được Chúa khen là ngọn đèn rực nóng. Ê-li-a có thể đi một mạch 40 đêm ngày đến núi của Thiên Chúa. Gio-an Tẩy giả từ bỏ thị thành sống trong hoang địa, ăn châu chấu và mật ong rừng, y phục chỉ là tấm da thú khoác trên mình. Thật là những cuộc đời rực lửa lý tưởng.
Như chiếc xe ủi, các ngài đưa ra những sứ điệp mãnh liệt. Trên núi Các-men, Ê-li-a bắt họ phải lựa chọn dứt khoát hoặc chọn Chúa hoặc Ba-an. Ngài thách thức 500 sãi của thần Ba-an đem lửa bởi trời xuống thiêu đốt lễ vật. Ngài đã thắng và bắt dân chúng phải trở về với Chúa. Gio-an Tẩy giả cũng đưa ra những sứ điệp đanh thép: Cái rìu đã đặt sẵn dưới gốc cây. Cây nào không sinh hoa trái sẽ bị chặt bỏ ngay. Chúa dùng nia mà sàng xảy sân lúa. Trấu sẽ bị thiêu đốt trong lò lửa.
Như chiếc xe ủi, các ngài chiến đấu mãnh liệt. Lên án những bất công, dối trá. Lên án cả giới thượng lưu, quan quyền. Lên án cả nhà vua và hoàng hậu. Ê-li-a chống lại vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben. Gio-an Tẩy giả lên án Hê-rô-đê và cuộc loạn luân với Hê-rô-đi-a-đê.
Như chiếc xe ủi, các ngài có cái chết mãnh liệt. Ê-li-a chết một cái chết hùng tráng khi được đưa về trời bằng chiếc xe lửa do ngựa lửa kéo đi trong cơn gió lốc. Gio-an Tẩy giả chết trong một cái chết bạo liệt khi bị Hê-rô-đê chém đầu trong ngục.
Nếu tôi muốn dọn đường đón Chúa đến, tôi cũng phải sống cuộc sống mãnh liệt trong các chọn lựa tốt. Phải mãnh liệt trong dứt khoát với cái xấu. Phải chiến đấu mãnh liệt với cái xấu. Phải quyết liệt đi theo đường tốt. Có thế tôi mới có hi vọng gặp được Chúa.
Suy Niệm 3: Họ không nhận ra Ngài
Lời Chúa đối với mỗi người đều có một ý nghĩa riêng áp dụng cho người đó trong cuộc sống hiện tại của mình. Chúa Thánh Thần là Ðấng soi sáng cho chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về chân lý niềm tin, cho nên Ngôi Ba được gọi là Thần Chân Lý và mỗi người đều múc lấy ý nghĩa sống cho mình qua Lời Chúa. Tuy nhiên, vì trình độ mỗi người khác nhau, vì hoàn cảnh mỗi nơi mỗi khác cho nên có thể hiểu Lời Chúa sai lệch đi.
Chúa Giêsu trao quyền rao giảng Lời Chúa cho Giáo Hội qua thánh Phêrô, vị đại diện tối cao của Giáo Hội tiên khởi và kế tiếp là trao cho các Tông Ðồ cho đến ngày nay. Cho nên chúng ta thấy trong Do Thái giáo, các luật sĩ là những người cắt nghĩa luật Chúa và họ đã nói với các môn đệ Chúa Giêsu: "Elia phải đến trước đã". Theo truyền thuyết, Elia là một tiên tri đại diện cho các tiên tri trong Cựu Ước, không chết nhưng được đưa về trời và sau này ông sẽ trở lại và các luật sĩ cắt nghĩa: Cần phải đợi Elia trở lại đã.
Chúa Giêsu cũng xác nhận với các môn đệ: "Thật, Elia phải đến để chấn hưng mọi sự". Elia ấy chính là Gioan Tẩy Giả đã rao giảng sự ăn năn thống hối, hãy sửa lối đi cho ngay thẳng, lối đi quanh queo hãy san cho bằng. Những nơi gồ ghề, hố sâu hãy lấp cho bằng thì mọi người sẽ thấy ơn cứu độ. Gioan tiền hô đã đi trước để dọn đường cho Chúa Kitô sẽ đến sau, Ngài đến để mang ơn cứu độ xuống cho trần gian và một số môn đệ Gioan đi theo Chúa Giêsu để xem Ngài, đồng thời Gioan cũng đã xác định vị thế của mình trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi".
Con người của Gioan Tẩy Giả thật là khiêm nhường trong vị thế của ông: "Còn tôi, tôi không xứng đáng cởi dây giầy cho Người". Gioan Tẩy Giả mang sứ mệnh như tiên tri Elia trong Cựu Ước nhưng cũng là một con người ăn chay hãm mình trong rừng vắng, khiêm nhường, đơn sơ trong công việc dọn đường cho Ðấng Cứu Thế sẽ đến.
Thật là một tấm gương cao quí đáng cho chúng ta bắt chước noi theo. Gioan Tẩy Giả không cao trọng nhờ sự lạ lúc sinh ra nhưng cao trọng do sứ mệnh dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến mà ông đã làm trong sứ mệnh của mình. Trong ngục tối, ông dám nói thẳng sự thật, dám làm chứng nhân cho Thiên Chúa ở giữa trần gian.
Chúa Kitô đến mang sứ mệnh cứu rỗi của Thiên Chúa Cha. Người ta không nhận ra Người, và người ta cũng đối xử với Ngài như các tiên tri trong Cựu Ước, đó là bắt bớ, đánh đập, hành hạ và sau cùng bị lãnh bản án tử hình treo trên thập giá một cách nhục nhã đau thương.
Bao nhiêu năm tháng chờ đợi Ðấng Cứu Thế đến, trải dài trong Cựu Ước vậy mà khi Ngài đến con người đã không nhận ra Ngài. Mỗi người chúng ta đôi lúc cũng đã không nhận ra Ngài trong cuộc sống, chúng ta vẫn nhớ Lời Chúa nhắc với chúng ta: "Ai làm cho một kẻ bé mọn nhất trong anh em ấy là làm cho chính Ta".
Những kẻ bé mọn đó là ai? Thưa, họ là những người mà Chúa Giêsu đã nói::Ta đói các con cho Ta ăn, Ta khát các con cho Ta uống. Ta rách rưới các con đã cho áo mặc. Khi Ta ở tù các con đã viếng thăm". Lời nói của Chúa Giêsu làm mỗi người trong chúng ta suy nghĩ và tự nhận: Ailà anh em tôi? Không phải những ai xa lạ, không phải là những ai ở xa để rồi chúng ta không thấy được. Không phải là những bậc giàu có sang trọng trong xã hội, những người thiếu thốn, những người chạy gạo ăn bữa hôm lo bữa mai, những người không có thân nhân bà con, không mái nhà che mưa che nắng vào những trưa hè nóng oi bức, vào những cơn mưa tàn tã của thời tiết thu đông.
Mỗi người trong chúng ta tự hỏi như người luật sĩ và biệt phái trong Phúc Âm hỏi Chúa Giêsu: "Nhưng ai là anh em tôi?" Chúng ta cùng nhau xin Chúa cho chúng ta biết rõ, cảm nhận một cách sâu xa hơn câu trả lời của mình trong Mùa Vọng này để chúng ta đi đến niềm nở với người anh chị em, cùng nhau nắm chặt bàn tay thân ái đón mừng Chúa đến.
Lạy Chúa, Gioan Tẩy Giả đến để chuẩn bị cho Chúa mang ơn cứu độ đến. Xin cho mỗi người trong chúng con chuẩn bị tâm hồn trong sáng hân hoan để đón Chúa đến trong chúng con và trong gia đình thân yêu của chúng con. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con biết yêu thương nhau, chia sẻ cho nhau tất cả tinh thần và vật chất để trọn niềm vui mừng đón chờ Chúa đến. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 4: Êlia sẽ đến lại.
Ngày 10/11/1948, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã long trọng công bố bản Tuyên ngôn nhân quyền. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Gia nhập Liên hiệp quốc có nghĩa là ký tên vào bản tuyên ngôn này và đương nhiên cam kết bênh vực quyền con người.
Thật ra, chỉ Thiên Chúa là Đấng có thể ban cho con người quyền và phẩm giá được làm người mà thôi. Trong tác phẩm: “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” Đức Gioan Phaolô II đã viết:
“Thật hiển nhiên là quyền con người đã được Đấng sáng tạo ghi khắc trong trật tự của công cuộc sáng tạo. Như vậy chúng ta không thể nói đến những ban nhượng từ phía các tổ chức của con người. Những tổ chức này không làm gì khác hơn là diễn tả những gì chính Thiên Chúa đã ghi khắc trong trật tự Ngài đã tạo dựng: trong lương tâm hay trong quả tim con người như Phaolô đã giải thích trong thư Rôma. Tin Mừng là sự khẳng quyết trọn vẹn nhất về mọi quyền con người. Không có Tin Mừng, chúng ta rất dễ xa lạc với chân lý về con người. Thật thế, Tin Mừng cho thấy các luật thần linh đang bảo toàn trật tự luân lý của vũ trụ và củng cố nó, nhất là qua cuộc Nhập thể. Con người là ai mà Con Thiên Chúa mặc lấy bản tính con người. Con người phải là ai nếu Con Thiên Chúa đã phải trả một giá đắt nhất cho phẩm giá của nó. Mỗi năm, phụng vụ diễn tả sự thán phục sâu xa của mình khi chiêm ngắm chân lý và mầu nhiệm này trong lễ Giáng sinh cũng như trong đêm Vọng Phục Sinh. “Ôi tội hồng phúc vì ngươi đã mang lại cho chúng ta Đấng Cứu chuộc cao cả”. Đấng Cứu chuộc khẳng quyết quyền con người bằng cách tái lập sự toàn ven của phẩm giá mà con người đã lãnh nhận khi Thiên Chúa tạo dựng nó theo và giống hình ảnh Thiên Chúa.
Những lời trên đây giúp chúng ta hiểu được sứ điệp Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói đến Êlia, Gioan Tẩy giả và chính thân phận của Ngài. Êlia là hiện thân của một cuộc tranh đấu không ngơi nghỉ cho công bằng và quyền con người, Ngài mở ra một thế hệ các tiên tri luôn lên tiếng tố cáo những bất công và kêu gọi tôn trọng phẩm giá con người, nhất là những người cùng khổ, bị áp bức. Chúng ta cũng bắt gặp dung mạo ấy trong vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước là Gioan Tẩy giả. Lời kêu gọi sám hối của Gioan cũng là một cảnh cáo trước những bất công xã hội và vi phạm nhân quyền, nhất là những người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Chúa Giêsu xuất hiện trong truyền thống tiên tri ấy. Ngài là tiên tri của các tiên tri, Ngài không những lên tiếng tố cáo bất công, mà còn đề cao quyền và phẩm giá cao trọng của con người nơi những kẻ bé mọn, bị đẩy ra bên lề xã hội. “Con Người cũng phải đau khổ như thế”. Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá trước hết là một điển hình cho những vi phạm tôn giáo, nhân danh quyền lợi dân tộc và theo một hình thức tố tụng tùy tiện và độc đoán nhất, người ta đã kết án Ngài phải chết cách bỉ ổi nhất. Tuy nhiên, cũng qua cái chết ấy, Chúa Giêsu đã thể hiện phẩm giá cao cả của con người.
Chân lý của con người đã được thể hiện trong cái chết của Chúa Giêsu. Cái chết ấy là một lời ngỏ của Thiên Chúa với con người. Con người cao cả đến độ Thiên Chúa đã thí ban người Con Một của Ngài. Dù muốn hay không, không ai chối cãi được rằng ý niệm về nhân quyền như được đề cao trong bản Tuyên ngôn nhân quyền đã cắm rễ sâu trong mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc của Kitô giáo. Người ta không thể hiểu và chấp nhận phẩm giá cũng như các quyền con người, nếu không nhìn nhận nền tảng là con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa và được cứu chuộc bằng chính cái chết của Chúa Giêsu.
Ước gì cái nhìn ấy luôn là động lực thúc đẩy các kitô hữu nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá và quyền con người trong cuộc sống từng ngày nhất là phẩm giá và quyền của những người cùng khổ bị đẩy ra bên lề xã hội.
Suy Niệm 5: Tranh cãi của luật sĩ
Nhưng Thầy nói cho anh em biết: Ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo như ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.” Bấy giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gioan Tẩy Giả. (Mt. 17, 12-13)
Dân Ít-ra-en cứ tưởng rằng Thiên Chúa sẽ sai Ê-li-a đến dọn đường cho Đấng Thiên sai. Ma-la-ki-a, vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước đã viết: “Đây Ta sai Ê-li-a làm sứ giả đến trước ngày quang minh chính đại lạ lùng của Đức Chúa. Ông sẽ hướng con tim của cha ông về cùng con cháu, và hướng con tim của con cháu về những con tim của cha ông kẻo Ta đến chúc dữ xứ này” (3, 23-24). Điều gì sẽ xảy ra nếu lời tiên tri này không thực hiện?
Chính lối tranh luận về lời tiên tri trên mà người ta thường phi bác thái độ cứu thế của Đức Giêsu. Người đã sẵn sàng mất thời gian chịu đựng cách phi thường lối sống cuồng tín lầm lẫn đáng sợ đó.
Đối với môn đệ, Người quả quyết cho các ông biết rằng Ê-li-a đã đến và đã phục hưng tất cả, nhưng Người thêm rằng: Người ta đã không nhận biết ông và còn xử tệ với ông như đã hãm hại tất cả các tiên tri. Ông đã san phẳng những con đường, đã lấp đầy những thung lũng, đã bạt thấp những núi đồi … Ông đã loan báo Đấng đến sau ông. Ngài lớn hơn ông, cầm sàng sẵn trong tay, xẩy sạch các hạt lúa phơi trong sân, đốt sạch rơm rạ, đưa cất những lúa tốt vào kho lẫm của Thiên Chúa … Bấy giờ các môn đệ hiểu Người nói về Gioan tẩy giả.
Đức Giêsu nói về các luật sĩ rằng họ đã không nhận ra dấu chỉ của thời đại, nên họ không thể nhận ra đặc tính của Đấng Cứu thế. Cho nên Con Người sẽ phải chịu khốn khổ bởi họ.
Nếu các luật sĩ cố chấp không hiểu, thì các môn đệ đã hiểu sứ vụ của Người và các ông bắt đầu tìm hiểu lời tiên báo về thập giá.
Chúng ta dễ thấy bực mình về những rắc rối của luật sĩ, vậy chúng ta cần phải thi hành lời Chúa để đáp lại những lý luận của những kẻ mê muội đó. Đức Giêsu đã không ngừng rao giảng sự cứu độ cho cả những tối dạ không biết suy nghĩ đó. Người cũng không ngừng bị cám dỗ chỉ nói cho những kẻ đón nhận lời Người thôi. Chúng ta tuy vào số những người hiểu lời Chúa, nhưng lại nhốt lời Chúa như nhốt tù, không lo sống và rao giảng lời Chúa.
G.M
Suy Niệm 6: Đau khổ vì sứ vụ
Trong Mùa Vọng, người được nhắc nhiều nhất chính là Gioan Tẩy Giả. Bởi vì Ngài vừa là vị tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước, vừa là người loan báo, chuẩn bị dọn đường trực tiếp cho Đấng Cứu Thế. Có thể nói: Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri kết thúc thời Cựu Ước, và khai mào cho thời Tân Ước.
Mặc dù ngài là người sống trong sa mạc, tuy nhiên, những lời giảng của ngài đã lay động nhiều tâm hồn, và ngày càng đông người đến để xin thụ huấn.
Sứ mạng của Gioan đến là để canh tân các tâm hồn, kêu gọi sám hối để được ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế. Sứ mạng này cũng chính là của Êlia thời Cựu Ước.
Thật vậy, Êlia đến để loan báo về tình thương của Thiên Chúa trên dân Người, ngài cũng trở thành trung gian để khẩn cầu lòng thương xót của Thiên Chúa, làm nguôi cơn thịnh nộ của Người. Ngài còn đóng vai trò làm người giao hòa giữa mọi người với nhau, xây dựng sự hiệp nhất và bình an trong xã hội. Đến thời Gioan cũng vậy. Ông đến để kêu gọi dân quay trở lại đường chính nẻo ngay để chuẩn bị tâm hồn, dọn lòng thanh sạch để đón mừng Đức Giêsu đến. Hai con người nhưng cùng chung một sứ mạng. Hai thời điểm, nhưng cùng hướng về một mục đích. Vì thế, nếu Êlia đã phải chịu bách hại vì sứ vụ, thì Gioan cũng không thoát khỏi cảnh tù đầy và bị giết chết. Đặc biệt, chính Đức Giêsu, Ngài cũng đồng số phận với các tiên tri khi thực thi sứ mạng cứu chuộc nhân loại.
Điều này đã được Đức Giêsu nhắc lại trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài nói: “Êlia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông, nhưng đã đối xử với ông như ý họ. Cũng vậy, Con Người sẽ phải đau khổ bởi họ".
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối, ăn năn vì những lỗi lầm thiếu sót của chính mình.
Noi gương Gioan Tẩy Giả, sống cuộc sống hy sinh để làm gương cho dân chúng noi theo. Đồng thời, chia sẻ bác ái cho những người khó khăn. Sẵn sàng loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người bằng nhiều cách, nhất là bằng gương sáng.
Nếu có phải nguy hiểm đến tính mạng thì hãy nhớ rằng: đây chính là số phận của Êlia, Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu cũng như những môn đệ của Ngài trên khắp thế giới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi gương thánh Gioan Tẩy Giả mà hăng say vì sứ vụ, sẵn sàng dấn thân vì Chúa. Ước mong sao Mùa Vọng này, chúng con có được một tâm hồn mới, nhờ sự sám hối chân tình để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng Sinh sắp tới. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa đến với ta trong cuộc sống hằng ngày
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đứng trước lịch sử hoặc các sự kiện xảy ra trong đời, chúng ta thường hời hợt và cắt nghĩa nông cạn. Ta cần phải tìm hiểu Thánh Ý Chúa. Hãy đến để hỏi Chúa Giêsu như các môn đệ xưa.
Cầu nguyện: Chúa ơi, Chúa có đau lòng không, khi Chúa đến giữa Dân Chúa mà Dân Chúa không nhận ra Chúa là Đấng phải đến? Chỉ vì họ đã cắt nghĩa lời hứa của Chúa Cha một cách hẹp hòi. Họ cứ chờ đợi Ê-li-a phải đến trước.
Trong cuộc sống con, chắc chắn con không từ chối tiếp nhận Chúa đến với con dưới hình ảnh một vị Vua uy nghi. Nhưng hằng ngày Chúa đến với con thật sự, mà con lại dửng dưng. Con không thấy hấp dẫn và cần thiết mấy. Nhiều khi con còn coi như bị mất giờ nữa. Nếu con hiểu được sự hiện diện cao siêu của Chúa trong Bí Tích Thánh Thể, chắc mỗi lần đến với Chúa, con phải chuẩn bị kỹ lưỡng. Nếu con hiểu được sự hiện diện của Chúa trong những người nghèo khổ, chắc con đã không khinh miệt họ. Chúa đang đến với con qua những lần con gặp gỡ những ai bệnh tật, nhưng con ít khi nhìn ra Chúa.
Vâng, lạy Chúa Giêsu, các thánh khác chúng con ở chỗ: các ngài luôn nhận ra Ý Chúa trong bất cứ cảnh sống nào, và luôn nhận ra khuôn mặt của Chúa trong bất cứ người nào.
Xin cho Mùa Vọng năm nay mang lại cho con sự khôn ngoan chân thật của Chúa để con biết nhận ra Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Xin cho con luôn thấu hiểu Thánh Ý Chúa đầy tình yêu thương trong mọi cảnh sống. Amen.
Ghi nhớ: “Elia đã đến rồi, và họ không nhận biết ông”.
Suy Niệm 8: Cách nhìn và đánh giá các biến cố
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Văn mạch: đoạn trước là chuyện Chúa Giêsu biến hình. Khi ấy Người trở nên vinh quang, có Môsê và Êlia hiện đến đám đạo với Ngài (17,1-8).
Vì đã thấy Êlia cho nên khi thấy trò từ núi đi xuống, các môn đệ thắc mắc: tại sao Êlia chỉ xuất hiện trong chốc lát rồi biến mất, trong khi các kinh sư lại nói Êlia phải đến trước Chúa Giêsu để dọn đường cho Ngài. Người do thái tin rằng xưa kia Êlia được đưa lên trời, để rồi sẽ trở xuống trần thế dọn đường trước khi Đấng Messia tới. Sở dĩ người ta nghĩ như vậy vì người ta đã hiểu quá sát nghĩa đen câu tiên tri của Malakhi 3,23-24.
Đáp lại, Chúa Giêsu ngầm nói phải hiểu câu tiên tri ấy theo nghĩa bóng chỉ về kẻ tiền hô cho Đấng Messia. Đấng Messia ấy chính là Chúa Giêsu, còn người tiền hô chính là Gioan Tẩy giả.
Vì dân do thái đã không hiểu như thế cho nên khi Gioan đến thì họ bách hại, và khi Chúa Giêsu đến, họ cũng bách hại.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. “Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử tệ với ông theo ý họ muốn” (câu 12). Ngày xưa dân do thái không nhận ra Gioan Tiền Hô là kẻ dọn đường cho Đấng Messia, lại còn giết hại ông. Ngày nay cũng có nhiều kẻ đang dọn đường cho Chúa nhưng người ta cũng không nhận ra, có khi còn thù ghét. Những Êlia ấy của thời nay là ai? Là gì?
2. “Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử tệ với ông theo ý họ muốn” (câu 12).
Lời của Chúa Giêsu trên đây mở ra cho chúng ta một cách nhìn và đánh giá các biến cố. Nên nhìn theo tinh thần hơn là quá cứng rắn theo chữ nghĩa.
Gioan Tiền hô không mang tên là Êlia, thậm chí ông đã từng tuyên bố mình không phải là Êlia (Ga 1,21), nhưng ông lại là hiện thân của Êlia, ông đóng vai trò của Êlia, ông nói lên tinh thần của Êlia.
3. Gioan Tiền hô là Êlia mới. Nếu Êlia đã xuất hiện, thì Đấng Thiên Sai và “Ngày của Giavê” mà dân Chúa hằng mong đợi đã bắt đầu. Chính bản thân của Gioan Tiền hô đã là một dấu chỉ, là một thời điềm.
- Tôi có là một dấu chỉ, một thời điềm để đưa anh chị em tôi tới với Chúa?
- Tôi có nhận ra Chúa nơi anh chị em tôi không? (Gặp Chúa: - qua Lời Chúa - qua nơi con người - qua biến cố).
4. “Thầy nói cho anh em biết: Ông Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn đối xử với ông theo ý họ muốn” (Mt 17,12)
Ngôn sứ Êlia đã đến, nhưng dân Israel không nhận ra ngài. Đức Giêsu cũng đã đến, tệ hơn, họ đã đóng đinh Người vào Thập giá. Còn tôi, tôi đã đón nhận Chúa thế nào trong cuộc sống? Có lần, một cậu bé khẩn khoản xin tôi giúp đỡ. Tôi lạnh lùng quan sát cậu từ đầu đến chân. Vì nghi ngờ, tôi đã đuổi cậu. Cậu bé đi rồi, nhưng hình ảnh cậu cứ lởn vởn mãi trong tâm trí tôi. Và tôi bắt đầu cảm thấy ray rứt vì đã nhẫn tâm khước từ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con đã không nhận ra Người khi thản nhiên khước từ một người bé mọn, vì đã quên: mỗi lần như thế là con đã làm cho chính Chúa. (Epphata)
Suy Niệm 9: Êlia phải đến trước
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Theo tiên tri Malakia loan báo: ông Elia sẽ đến dọn đường cho Đấng Cứu thế đến, người Do thái tin như thế và cứ mong chờ Đấng Cứu thế, mặc dầu ông Êlia đã đến rồi. Nhưng khi ông Gioan rao giảng về Ngài, họ lại không chấp nhận. Điều làm họ không nhận ra vì họ nghĩ Đấng Cứu Thế đến theo nghĩa chính trị, sẽ giải thoát họ khỏi cái khổ trần gian. Cái nhìn hẹp hòi và lối nghĩ thiển cận khiến con người khó chấp nhận sức điệp của Đức Giêsu.
2. Các nhà thông luật dựa vào lời tiên tri Malakia loan báo thắc mắc: Êlia phải đến trước để dọn đường cho Chúa để đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu, và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông (Ml 3,1.24).
Đức Giêsu trả lời họ khi khi nhấn mạnh: “Êlia đã đến rồi, và họ đã không nhìn nhận ông, nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn (Mt 17,12). Êlia mà Chúa nói chính là Gioan Tẩy Giả vậy. Đức Giêsu có ý ngầm nói với họ là phải hiểu câu tiên tri ấy theo nghĩa bóng chỉ về kẻ tiền hô cho Đấng Messia. Đấng Messia ấy là Đức Giêsu, còn người tiền hô chính là Gioan Tẩy Giả. Vì người Do thái đã không hiểu như thế cho nên khi Gioan đến thì họ bách hại, và khi Đức Giêsu đến , họ cũng bách hại.
3. Vì thế, Gioan trong vai trò Êlia mà tiên tri Malakia loan báo, ông đến để chỉnh đốn mọi sự: kêu gọi lòng sám hối ăn năn, sửa chữa tâm hồn để đón Đấng Cứu Thế. Dân chúng đã đổ xô đến với ông như đến với một tiên tri, để thú tội và nhận phép rửa của ông ở sông Giođan. Nhưng các luật sĩ và biệt phái không chấp nhận và còn chống đối. Sau này ông bị cầm tù và chết thảm thương trong ngục. Gioan đã chu toàn nhiệm vụ tiên tri Êlia.
4. Thánh Gioan Tẩy giả làm gương cho chúng ta trong việc dọn đường, chúng ta hãy theo gương Ngài mà dọn đường cho Chúa bằng chính đời sống khắc khổ để khơi dậy lòng sám hối trong mọi người. Chúng ta, người tông đồ của Chúa, cũng phải làm chứng bằng đời sống khó nghèo, bác ái, yêu người và khổ chế để nêu gương cho các Kitô hữu biết ăn năn sám hối trong tinh thần Mùa Vọng để chuẩn bị cho Chúa đến bằng ơn thánh trong cuộc sống hằng ngày.
5. Đức Giêsu nói với các môn đệ ràng: “Ông Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ bị đau khổ vì họ như thế”Mt 17,12).
Trong tác phẩm “Đường Hy vọng”, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận nói: “Thông thường người ta rất quí trọng những người mang dấu thánh của Chúa, nhưng lại sợ chính mình phải mang những dấu thánh ấy”. Đức Giêsu, dẫu là Con Thiên Chúa, nhưng đã phải trải qua đau khổ và cái chết mới được đến với vinh quang phục sinh.
Người Kitô hữu không bao giờ tôn sùng đau khổ, nhưng sẵn sàng đón nhận đau khổ vì tình yêu. Đức Giêsu đã được phục sinh cùng với những dấu thánh của mình, thì cũng vậy, chúng ta sẽ chỉ được phục sinh, một khi chúng ta được giương lên cao cùng với thánh giá đời mình. Điều này nhắc nhở mọi người hãy vác thánh giá cuộc đời trong tâm tình vui vẻ, đồng thời kết hợp với đau khổ của Đức Giêsu trên Thánh giá năm xưa, hầu đền tội cho mình và cầu nguyện cho mọi người (Học viện Đa Minh).
6. Chúng ta hãy cầu nguyện nhiều trong Mùa Vọng này, xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng ta để xứng đáng chờ Chúa đến. Xin Mẹ Maria cũng hãy giúp chúng ta là con cái Mẹ để có tâm tình như Mẹ khi chờ đợi Chúa giáng trần. Chúng ta hãy nóng lòng chờ đợi Chúa đến hằng ngày , nhất là trong dịp lễ Giáng Sinh. Maranatha: Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
7. Truyện: Muốn gặp Chúa.
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo, có một câu truyện sau đây:
Một đệ tử đến thưa vị linh sư của mình: - Thưa thầy, con muốn gặp Chúa.
Vị linh sư chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau người môn sinh trở lại và bầy tỏ cùng một ước muốn. Vị linh sư cũng chỉ mỉm cười và tiếp tục giữ thinh lặng.
Rồi một ngày đẹp trời, ông dẫn người đệ tử đến một dòng sông. Thầy trò cùng dìm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát. Bất thần vị linh sư mới túm lấy cổ anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để ngóc đầu lên khỏi mặt nước.
Bấy giờ vị linh sư mới hỏi anh:
- Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?
Không chút suy nghĩ, người đệ tử đáp ngay:
- Thưa, con cần không khí để thở.
Lúc bấy giờ vị linh sư mới giải thích:
- Con có cảm thấy ước ao được gặp Chúa như vậy không? Nếu con khao khát Chúa như vậy con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không có ước muốn ấy, thì cho dù có vận dụng hết cả tài năng và sức lực con sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài.
Suy Niệm 10: Biết nhìn biến cố theo tinh thần của Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Lời Chúa chúng ta vừa nghe, mở ra cho chúng ta một cách nhìn và đánh giá mới về các biến cố. Hãy biết nhìn các biến cố theo tinh thần của Chúa muốn.
Gioan Tiền Hô tuy không mang tên là Êlia, nhưng ông lại là hiện thân của Êlia. Ông xuất hiện trong vai trò của Êlia. Ông đã sống và đã nói lên tinh thần của Êlia.
Như vậy, có thể nói: Gioan Tiền Hô là Êlia mới. Và nếu Êlia xuất hiện, thì Đấng Thiên Sai và "Ngày của Giavê" mà dân Chúa hằng mong đợi cũng đã bắt đầu. Chính bản thân của Gioan Tiền Hô đã là một dấu chỉ, là một thời điểm.
Vâng! Đấng mà Gioan loan báo: Ngài đã đến rồi. Đó là Đức Giêsu Kitô Chúa của chúng ta.
Chúng ta đã biết rõ nơi Ngài đã sinh, những nơi Ngài đã sống.
Chúng ta đã biết những lời Ngài đã dạy dỗ chúng ta.
Chúng ta đã biết những việc Ngài đã làm, những đau khổ Ngài đã chịu.
Chúng ta đã biết cái chết đau thương của Ngài ở trên cây Thánh Giá.
Chúng ta đã biết sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài.
Trước khi về trời Ngài còn tuyên bố một lời mà tất cả chúng ta vẫn còn nhớ: "Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20)
Đức Giám mục Curtis giáo phận Wilington và Đức Hồng Y Newman là hai người bạn thân thiết. Cả hai trước kia là Anh giáo, nhưng đã trở lại công giáo. Một bữa nọ, Đức Giám mục Curtis đến thăm Đức Hồng Y. Trong câu chuyện, Đức Hồng Y cho biết Ngài đã được đặc ân của Tòa Thánh giữ Mình Thánh Chúa trong nhà ngài ở. Ý nghĩ Thiên Chúa ở với các ngài trong cùng một nhà đã gây xúc động nhiều cho Đức Giám mục Curtis, nhưng khi Đức Hồng Y mời ngài ở lại đêm với mình, ngài từ chối và nói: "Con sẽ không chợp mắt được tí nào trong đêm, nếu con nghĩ và biết rằng Chúa đang ở cùng một nhà với con".
2. Chúa đã đến, nhưng chúng ta đã gặp được Chúa chưa? Muốn gặp được Chúa tôi phải làm gì?
Trong kho tàng truyện ngụ ngôn của người Tây Phương có câu chuyện này:
Vào buổi sáng nọ, bác thợ giầy thức dậy thật sớm. Bác quyết định sửa soạn chiếc xưởng nhỏ của bác cho tươm tất rồi vào phòng chờ cho được vị khách quí. Và người khách đó không ai khác là Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ, Ngài đã hiện ra và báo cho bác biết Ngài sẽ đến thăm bác trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng vừa rọi qua khung cửa, bác đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng bác hồi hộp, sung sướng, hẳn là Chúa đã đến. Bác ra mở cửa. Thế nhưng, người đang đứng trước mặt bác không phải là Chúa mà là người phát thư.
Sáng hôm đó là ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi, tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để ông run lẩy bẩy ngoài cửa. Bác mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giày trở vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn ra cửa sổ bác thấy có một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Bác gọi em bé đó lại để hỏi cho biết lý do. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy tờ giấy viết vài chữ để trên bàn, báo cho người khách quí biết là mình phải đi ra ngoài.
Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà. Mãi đến chiều tối bác ta mới tìm thấy nhà đứa bé, và khi bác về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà bác thấy có người đang đợi, nhưng không phải là Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Suốt mấy ngày nay, bà đã không có gì bỏ bụng. Vì bị đói như thế cho nên bà cũng không còn sữa cho con bú. Bác thợ giầy tận tụy lo lắng cho cả hai mẹ con.
Công việc xong xuôi thì đã quá nửa đêm. Mệt quá bác để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà chưa thấy Chúa đến, nhưng đột nhiên trong giấc ngủ người thợ giày nghe thấy tiếng Chúa nói với bác:
- Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống.
- Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà.
- Cám ơn con đã săn sóc ủi an Ta.
- Cám ơn con đã tiếp đón Ta trong ngày hôm nay.
Giáng Sinh lại sắp về với chúng ta. Chúa đã đến và Ngài đang đến với mỗi người, đến qua Lời của Ngài, qua những biến cố và qua những con người. Ai là người sẽ gặp được Chúa? Đó là những con người có một trái tim quảng đại, đôi bàn tay giang ra, với cặp mắt cảm thông. Ngài cần một tách trà, một chén cơm, một ly nước, một lời khích lệ, một sự đồng cảm, tha thứ.
Lạy Chúa xin mở đôi mắt con thật to để con có thể nhìn thấy Chúa. Xin mở tâm hồn con thật rộng để con có thể đón Chúa vào lòng. Amen.
10/12 Chủ quan, phiến diện.
- Viết bởi Mt 11, 16-19
Chủ quan, phiến diện.
Thứ Sáu tuần 2 mùa vọng.
"Họ không nghe lời Gioan và lời Con Người".
LỜI CHÚA: Mt 11, 16-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta sẽ so sánh thế hệ này với ai? Họ giống như bọn trẻ ngồi nơi phố chợ, gọi lũ trẻ khác mà rằng: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!" "Vì Gioan đến, không ăn không uống, thì họ nói: "Ông ta phải quỷ ám!"
Con Người đến, ăn uống giống như thường, thì họ nói: "Ðó là người mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi".
Nhưng sự khôn ngoan được biện minh bằng các công việc của mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lũ trẻ ngồi ngoài chợ
(Lm.Ant.Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài
với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc.16-17).
Một nhóm bày trò chơi đám cưới,
thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.
Nhưng nhóm kia đã chẳng tham gia.
Nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.
Nhưng nhóm kia cũng không giả vờ than khóc.
Thế hệ của Đức Giêsu cũng có nét tương tự như lũ trẻ.
Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,
sự khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).
Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.
Lối sống của Gioan phù hợp với lời ông giảng về Nước Trời gần đến.
Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.
Người ta đã coi ông là bị quỷ ám (c.18),
nên cuối cùng đã không tin ông (Mt 21, 32).
Ngược lại, khi Đức Giêsu đến với thế hệ này,
Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.
Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.
Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,
một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải thoát.
Ngài tiếp đón những ai bị xã hội loại trừ.
Ngài ăn chung một bàn với những tội nhân cần xa tránh.
Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn,
họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa và hoán cải.
Tiếc thay, Đức Giêsu cũng bị nhiều người từ khước như Gioan.
Ngài bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c.19).
Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này.
Sống thế nào cũng không chiều được họ.
Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng cố tìm ra lý do để biện minh.
Để khỏi phải đối diện với chân lý, con người trở nên ngụy biện.
Đức Giêsu dám ví thế hệ của Ngài với đám con nít ngồi ngoài chợ.
Ngài sẽ ví thế hệ chúng ta với ai?
Nơi một số nước, người ta cho phép ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính.
Ở nhiều nơi vẫn còn sự kỳ thị về giới tính, màu da, tôn giáo, chủng tộc.
Bao giờ người ta cũng tìm đủ lý do để làm những điều trên.
Nguy cơ của con người thuộc mọi thời đại, là ở lại trong sự ấu trĩ,
khăng khăng với những ngang bướng ích kỷ của mình.
Cả Gioan và Đức Giêsu đều đã bị loại trừ và bị giết.
Mùa Vọng mời chúng ta dám tin vào lời chứng của Gioan và Giêsu.
Tin luôn đòi chúng ta hoán cải, không được sống như xưa.
Tiếng kêu từ hoang địa của Gioan kéo ta ra khỏi mọi dính bén trần tục.
Thái độ bao dung nơi bàn ăn của Giêsu mời tội nhân ra khỏi bóng tối.
Làm sao con người hôm nay nghe được tiếng kêu của Gioan và Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng con
đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn,
vào những lối mòn quen thuộc,
nhưng xin canh tân
và tái tạo chúng con mỗi ngày.
Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới,
cho chúng con khám phá ra
những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô
và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống,
thế giới hôm nay luôn bị đe dọa
bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh;
mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống,
và gieo vãi sự sống khắp nơi.
Ước gì Chúa ban cho nhân loại
một lễ Hiện Xuống mới
để con người có thể hiểu nhau hơn
và đón nhận nhau trong yêu thương.Amen
Suy Niệm 2: Mùa Vọng: sống hài hòa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Để đón nhận Đấng Cứu Thế, phải sống hài hòa.Hài hòa với mọi người.Và quan trọng nhất là hài hòa với Thiên Chúa.Nói về hài hòa, chẳng cảnh tượng nào đáng mơ ước hơn cảnh Ađam và Eva sống trong vườn Địa Đàng.Hai ông bà sống chan hòa với trời đất, cỏ cây và súc vật.Ngày ngày Thiên Chúa xuống đi dạo trong vườn đàm đạo với hai ông bà.Nhưng đáng tiếc hai ông bà đã phá vỡ sự hài hòa đó khi trái lệnh Thiên Chúa.
Chương trình của Thiên Chúa luôn là hạnh phúc cho con người.Nhưng con người chỉ muốn làm theo ý riêng.Phá vỡ kế hoạch của Chúa.“Con người giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác và nói: “Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than”.Mang tâm thức trẻ con.Không trưởng thành.Thiếu chín chắn.Chỉ biết làm theo những ý muốn ngây ngô khờ dại của mình.Không biết gì đến tình yêu thương của cha mẹ, những chương trình đem đến cho chúng tương lai và hạnh phúc.Cư xử con người giống thái độ chợ búa.Chỉ hời hợt nhất thời.Những lý luận thực dụng không có nền tảng sâu xa.Tìm đạt đến ý riêng.Nên thế giới luôn mâu thuẫn bất hòa.Nguy hiểm nhất là phá vỡ sự hài hòa với kế hoạch của Thiên Chúa.Phê phán những kế hoạch của Thiên Chúa khi con người tự cho mình là khôn ngoan.Nhưng khôn ngoan chỉ có trong Thiên Chúa mà thôi.
Đó chính là điều Isaia khuyên nhủ ta.Con người muốn hạnh phúc, muốn phát triển, chẳng có đường nào khác hơn là sống hài hòa với chương trình của Thiên Chúa, lắng nghe và thực hành Lời Chúa: “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì sự bình an của ngươi sẽ chan chứa như dòng sông, sự công chính của ngươi sẽ dạt dào như sóng biển.Dòng dõi ngươi sẽ đông như cát, con cái ngươi sinh ra sẽ hằng hà sa số; tên tuổi ngươi sẽ chẳng bao giờ bị hủy diệt, chẳng bao giờ bị xóa bỏ khỏi mắt Ta”.
Mùa Vọng ta mong chờ Thiên Chúa.Chúa đến để cứu độ ta.Thiên Chúa có chương trình hạnh phúc cho ta.Hãy đi vào chương trình của Thiên Chúa.Hãy để cho chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nơi ta.Đó chính là thái độ khôn ngoan nhất.Đó chính là sống mùa Vọng ý nghĩa nhất.
Suy Niệm 3: Pharisiêu cứng lòng
Một vị quan văn nổi tiếng vào thời nhà Tống ở Trung Quốc có câu chuyện Giáp Ất tranh luận như sau:
Giáp hỏi Ất: - Nếu lấy đồng đúc thành chuông, đẽo gỗ làm cái dùi, lấy dùi đánh vào chuông, nó lêu boong boong.Vậy tiếng kêu là do gỗ hay do đồng.
Ất đáp:
- Lấy dùi gõ vào tường vách không kêu, gõ vào chuông lại kêu.Vậy tiếng kêu ở đồng.
Giáp lại hỏi: - Lấy dùi gõ vào tiền trinh bằng đồng không kêu, thế thì có chắc tiếng kêu là do ở đồng mà ra không?
Ất lại đáp:
- Ðồng tiền đặc, cái chuông rỗng.Vậy tiếng kêu là do các đồ vật rỗng mà ra.
Giáp hỏi tiếp: - Lấy gỗ, lấy đất sét làm thành chuông đánh cũng chẳng nghe tiếng kêu boong boong, thế thì chắc gì tiếng là do các vật rỗng mà ra.
Cuộc tranh luận giữa Giáp và Ất sẽ kéo dài mãi thì chẳng thể nào có một giải đáp đúng nghĩa nếu họ chỉ giải đáp một cách phiến diện và chủ quan, chỉ giải quyết vấn đề theo từng góc cạnh riêng lẻ.Tâm trạng chủ quan và cái nhìn phiến diện của họ phần nào cũng giống như cái nhìn của người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng mà thánh Matthêu ghi lại.
Thật vậy, sống trong một thế giới đầy màu sắc và ánh sáng thì chẳng ai lại không lo sợ và đề phòng về chứng tật mù lòa.Nhìn người mù không ai mà lại không cảm thấy xót thương, động lòng trắc ẩn, vì mắc phải bệnh mù con người gần như mất một phân nửa cuộc đời, và không những họ mất hết niềm vui do cái nhìn đem lại mà trước một sự việc họ cũng chẳng hiểu được tường tận nếu chỉ đón nhận bằng đôi tai, chưa nói đến những điều đòi phải được đón nhận bằng đôi mắt.
Tuy nhiên, dù cho thiệt thòi như vậy bệnh mù lòa vẫn chưa nguy hiểm bằng căn bệnh của những người Do Thái được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là óc phê phán chủ quan và họ cứ tưởng mình sáng hóa ra lại chẳng thấy gì.Vì nếu người mù biết mình tối thì họ sẽ cố gắng tìm hiểu sự việc trước mắt khi không nhìn được sự khác.Còn người chủ quan và phiến diện thì muôn đời sẽ tăm tối trước chân lý, vì khi chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý mà họ cứ tưởng là đã đạt được chân lý để rồi cứ thế mà cố chấp trước những vẻ đạp của chân lý.Họ chẳng khác gì năm người mù đi xem voi, người thì cho con voi là cái cột đình to tướng, kẻ lại nói con voi là chiếc quạt khổng lồ, người khác lại cho con voi là quả núi đồ sộ.
Khi thánh Gioan Tẩy Giả đến rao giảng ơn cứu độ, người không ăn uống thì được gán cho nhãn hiệu là bị quỉ ám.Ðức Kitô đến, Người ăn uống như bình thường thì bị kết án là người mê ăn uống, là bạn của quân thu thuế và tội lỗi.Họ chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ nhìn Ðấng Messia theo cái nhìn phiến diện nên người Do Thái đã khép chặt cửa lòng trước lời mời gọi của ơn cứu rỗi.Với cái nhìn phiến diện đã nảy sinh những phe phái chủ quan chẳng khác gì bọn trẻ nít ngồi nơi phố chợ: "Chúng tôi thổi sáo sao các bạn không nhảy múa.Chúng tôi than vãn sao các bạn không than khóc?" Chính vì thế mà ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng nhận ra: "Ngài đã đến trong nhà Ngài nhưng người nhà đã không nhận ra Ngài, không đón tiếp Ngài".
Trong Giáo Hội ngày nay cũng không thiếu những trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái.Ðức Kitô được trình bày trọn vẹn trong Kinh Thánh, qua Phụng Vụ và qua Giáo Hội, thế mà người ta lại giới hạn Ðức Kitô trong cái nhìn của họ.Họ cũng giới thiệu Ðức Kitô cho người khác nhưng đây chỉ là một Ðức Kitô bị bóp méo cho hợp với chủ trương của họ, có lợi cho họ.Và nếu có một ai giới thiệu Ðức Kitô khác với chủ trương và đi ngược lại với quyền lợi thì họ sẵn sàng kết án hoặc bôi nhọ làm sao để đừng mất đi quyền lợi của mình.
Lạy Chúa, khi nhìn lại bản thân chắc chắn không ít lần con đã hành động như người Do Thái, nhìn Chúa bằng một cái nhìn phiến diện.Chỉ đón nhận Thiên Chúa hợp với sở thích, quyền lợi, giới thiệu cho người khác hoặc Thiên Chúa bị uốn nắn theo những điều con nghĩ tưởng, và nếu có điều nào khác quyền lợi của con, con sẽ sẵn sàng kết án dù cho đó là chân lý, là sự thật.
Trong Mùa Vọng này, xin Chúa cho con được biết vượt qua các thành kiến hẹp hòi mà vươn lên khỏi những ràng buộc của quyền lợi để rộng mở tâm hồn đón tiếp Chúa, vì Chúa đang đến trong từng giây phút qua các biến cố cuộc đời cũng như qua người anh em bên cạnh con.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 4: Chủ quan, phiến diện.
Âu dương tử, một học giả Trung hoa có viết câu chuyện sau:
Giáp hỏi Ất: Lấy đồng đúc thành chuông, đẽo gỗ làm cái dùi, lấy dùi đánh vào chuông, thì tiếng kêu phát ra đó do gỗ hay do đồng?
Ất đáp: Lấy dùi gõ vào tường vách thì không kêu, mà gõ vào chuông lại kêu, vậy tiếng kêu do bởi đồng.
Giáp lại hỏi: Lấy dùi gõ vào đồng tiền bằng đồng thì không kêu, vậy có chắc tiếng kêu là do đồng chăng?
Ất đáp: Đồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu phát ra là do các vật mỏng.
Giáp hỏi tiếp: Lấy gỗ, lấy đất sét khoét làm chuông, đánh lên đâu có boong boong, thế thì có chắc gì tiếng kêu phát ra là do đồ vật rỗng?
Cuộc tranh luận nếu cứ đà ấy sẽ kéo dài lẩn quẩn và chẳng có câu giải đáp nào thỏa đáng, nếu họ chỉ nhìn vấn đề một cách chủ quan, phiến diện, chỉ giải quyết vấn đề từng góc cạnh riêng rẽ.
Sống trong một thế giới đầy màu sắc và ánh sáng, thì ai cũng lo đề phòng chứng tật mù lòa.Nhìn người mù, ai lại không xót thương và trắc ẩn.Mắc phải mù lòa, con người cảm thấy như mất nửa cuộc đời.Không những mất niềm vui do cái nhìn mang lại, họ còn chịu bao thiệt thòi khi không cảm nhận được những sự việc xảy ra chung quanh.
Tuy nhiên, bệnh mù lòa vẫn chưa nguy hiểm cho bằng căn bệnh của người Do Thái như được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là tâm trạng chủ quan và cái nhìn phiến diện.Bởi vì nếu người mù biết mình tối họ sẽ cố gắng hiểu sự vật trước mắt bằng những giác quan khác; còn người chủ quan, phiến diện sẽ muôn đời tăm tối trước chân lý, chỉ nhìn được một khía cạnh của chân lý, họ tưởng mình đã đạt tới chân lý, để rồi cứ thế trở thành cố chấp.Gioan Tẩy giả đến rao giảng ơn cứu độ, ngài không ăn không uống thì bị gán cho là người bị quỷ ám; Chúa Giêsu đến, Ngài hòa nhập với mọi người, ăn uống bình thường, thì bị chê bai là người mê ăn uống, bạn bè với quân thu thuế và tội lỗi.
Chỉ hiểu ơn cứu độ theo quan điểm riêng của mình, chỉ hiểu Đấng Mêsia theo cái nhìn phiến diện, người Do Thái đã khép lòng trước lời mời gọi hoán cải để đón nhận ơn cứu độ.Ơn cứu độ đến và qua đi mà người Do Thái chẳng có cơ may nhận ra và đón tiếp.
Trong Giáo Hội hôm nay cũng không thiếu trường hợp mắc phải căn bệnh của người Do Thái xưa.Chúa Kitô được phô bày trong Kinh Thánh qua phụng vụ, thế mà người ta lại giới hạn Ngài trong cái nhìn của họ, hợp với chủ trương của họ, và nếu có ai tin thờ một Chúa Kitô đi ngược với quan điểm của họ, thì họ sẵn sáng phủ nhận, kết án, bôi nhọ.
Trong Mùa vọng này, chúng ta xin Chúa cho chúng ta biết vượt khỏi thiên kiến và ràng buộc của quyền lợi, để đón nhận Chúa đang đến qua từng biến cố cuộc đời và nơi mỗi người anh em.
Suy Niệm 5: Một trái tim cảm thương
Con Người đến, cũng ăn cũng uống, thì thiên hạ bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.(Mt.11, 19)
Một số người luôn luôn có tính ngang ngược.Tin mừng hôm nay vạch cho chúng ta thấy tính ngang ngược của chính chúng ta.Nếu có ai đi lễ nhiều, chúng ta nghĩ xấu họ là kẻ tốt thế đó, chẳng đứng đắn đâu.Nếu có ai siêng năng xưng tội rước lễ, thì bị coi là đạo đức ủy mị.Chúng ta luôn luôn bài bác người khác về bất cứ cái gì.
Gần đây, tôi gặp một gã thanh niên khổ sở vì một cô gái trẻ yêu thích bạn nó hơn nó.Nó không còn vui gì khi gặp bạn nó.Nó không còn trái tim muốn nhảy nhót nữa.
Và khi xảy đến một tai họa, một vụ giết người, hay có ai chết, có ai bệnh, có ai bị trừng phạt … chúng ta sẵn sàng nói: đó không phải là việc của tôi, tôi bận việc, tôi bị đau, kệ thây nó, nó phải tự lo lấy.
Chúng ta trở nên kẻ hoặc ghen ghét, hoặc lãnh đạm, nhưng lại không dám nói thẳng thắn.Thế là chính chúng ta đang bị Tin mừng phanh phui về chúng ta.
May thay, Tin mừng vẫn mời gọi chúng ta đi vào con đường hạnh phúc: “Phúc cho những ai biết cảm thương.Phúc cho trái tim biết thương xót”.
Đó là hiến chương nước trời, của triều đại đáng được mong chờ và đáng được loan báo trong mùa vọng này.Để được như thế, cần phải tước bỏ cái tôi, cần phải có con tim cảm thương nhạy bén: “Vui với người vui, khóc với người khóc”, sẵn sàng nâng đỡ nỗi cực khổ của người khác.
Ai trong các người lân cận của bạn, đã sống trong hoàn cảnh sung sướng hay khổ sở trong những ngày này? Họ cần bạn chia sẻ niềm vui nỗi buồn của họ.Họ cần tấm lòng thông cảm nhạy bén của bạn.
Và trong lễ tế Thánh Thể này, chúng ta có thể dự phần vui mừng của chính Thiên Chúa được không? Hãy vui mừng sung sướng vì Ngài sống trong Con yêu dấu của Ngài?
Hãy ngợi khen Thiên Chúa, đã cho phép chúng ta được vui sướng với Ngài, đã cho phép chúng ta được thông phần nguồn hoan lạc của Ngài.
J.Y.G
Suy Niệm 6: Tại sao?
Tin Mừng hôm nay tiếp nối bài Tin Mừng trước.Nếu hôm qua, Đức Giêsu khen ngợi sự xuất hiện và vai trò cũng như sứ mạng của thánh Gioan Tẩy Giả, thì hôm nay, Ngài khiển trách nặng nề đối với các vị lãnh đạo tôn giáo thời của Gioan.Tại sao vậy? Thưa vì Gioan đã kêu gọi dân chúng sám hối để đón chờ Đấng Cứu Tinh đến.Dân chúng đã tỏ lòng sám hối, xin chịu phép rửa thanh tẩy, còn những người lãnh đạo thì cứng lòng, ích kỷ và không chịu tin.Vì thế, Đức Giêsu đã mượn một trò chơi hát đối của trẻ em thời đó, nhằm diễn tả về thế hệ này vì sự cố chấp, kém tin của họ:
Các trẻ em thường chia làm hai phe.Bên xướng bên đáp.Nếu bên xướng hát những điệu buồn hay đưa đám thì bên đáp phải khóc lóc, than vãn..., còn nếu bên xướng hát lên những điệu nhạc vui, thì bên kia phải nhảy múa hân hoan....
Nếu đôi bên không hiểu ý nhau thì cuộc chơi mất vui.Tuy nhiên, trong thực tế, không phải lúc nào bọn trẻ cũng thành công trong trò chơi này, vì gặp phải những “đầu biếu” cố tình chọc ngoáy làm cho cuộc chơi mất vui.Vì vậy, bên chủ động bực tức nên mới nói: "Chúng tôi thổi sáo, sao các bạn không múa nhảy; chúng tôi than vãn, sao các bạn không khóc lên!".Tệ hơn nữa là nhóm trẻ không chịu chơi đó lại còn trách móc đủ điều....
Sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả cũng vậy.Lời mời gọi của ngài không được giới lãnh đạo đáp ứng, mà ngược lại, họ còn coi ông như là: người bị quỷ ám.Đức Giêsu cũng chung số phận với Gioan vì Ngài cũng đã từng bị họ lên án là người “mê ăn mê uống, là bạn của quân thu thuế và những kẻ tội lỗi".
Tin Mừng hôm nay được đọc trong bối cảnh của Mùa Vọng, hẳn sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy noi gương dân chúng thời Gioan khi xưa là: hãy hoán cải đời sống, ăn năn sám hối, trở về với Chúa trong phẩm giá người Kitô Hữu, để chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Giáng Sinh.Bên cạnh đó, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta hãy thực thi tinh thần sám hối cách thiết thực hơn nữa chính là những việc hy sinh, hãm mình, khổ chế, làm việc bác ái…, để nêu gương sáng cho hối nhân sám hối trở về với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết đáp lại lời mời gọi của thánh Gioan để ăn năn sám hối, canh tân đời sống, ngõ hầu tâm hồn chúng con được xứng đáng đón tiếp chính Chúa Giáng Sinh hằng ngày qua việc đón nhận chính Mình và Máu Chúa.Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chối bỏ đường lối khôn ngoan của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Những người DoThái tự đắc cho mình là khôn ngoan, nên cứng lòng không tin theo Chúa Giêsu.Họ tìm cách chống chế để chối bỏ đường lối khôn ngoan của Thiên Chúa.Chúa dạy ta đừng bắt chước họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, sau hai ngàn năm rao giảng Tin mừng mà vẫn còn quá ít người tin theo Chúa.
Con cầu xin Chúa cho những người chưa được nghe Tin mừng.Xin Chúa sai nhiều thợ lành nghề đến với cánh đồng trần gian để mọi người được nghe rao giảng Tin mừng.
Nhưng Chúa ơi, con phải cầu nguyện cho chính con nhiều hơn, vì với cái nhìn của Chúa, con là đứa trẻ ngỗ nghịch luôn đòi mọi người làm theo ý con, mà con thì từ chối ngay cả lời mời gọi của Chúa.Con thường áp đặt quan điểm của con trên tư tưởng người khác và đánh giá người khác theo tiêu chuẩn của riêng con.Thậm chí đôi khi con còn nghi ngờ cả đường lối của Chúa và đòi Chúa thực hiện theo suy nghĩ của con.Con thường viện ra nhiều lý do để thoái thác, để bào chữa cho những lỗi lầm sai trái của con, để khước từ những lời mời gọi của Chúa.Có nhiều lúc con đã cứng lòng, không muốn sám hối và tin vào Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con một tâm hồn thiện chí, xin mở lòng trí con, xin giúp con khiêm tốn nhận ra thân phận nhỏ bé của mình để con dễ dàng đón nhận sự khôn ngoan của Tin mừng.Xin ban cho con ơn can đảm để con thực thi tiếng Chúa mời gọi và dấn thân đi trên đường lối Chúa.Con xin trao phó bản thân con, gia đình con cho tình yêu thương và sự khôn ngoan vô cùng của Chúa.Amen.
Ghi nhớ: “Họ không nghe lời Gioan và lời Con Người”.
Suy Niệm 8: ,,,,
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A.Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu so sánh thế hệ của Ngài với lũ trẻ trái tính trái nết: khi chúng chơi trò đám cưới (có “thổi sáo”) thì đòi người ta cũng chơi theo trò đó (“sao các anh không nhảy múa”); khi chúng chơi trò đám ma (có “bài hát đưa đám”) thì cũng thế.Nghĩa là chúng chỉ muốn bắt người ta theo ý riêng của chúng, ai không theo thì chúng phê phán, trách móc.
Cả Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu đều đến để dạy dân do thái con đường cứu độ.Nhưng vì điều đó không hợp với sở thích của họ nên họ luôn khước từ và còn phê phán, hai ngài làm gì cũng bị họ chê: Gioan sống khắc khổ thì họ chê là “bị quỷ ám”; Chúa Giêsu sống hoà mình ăn uống với mọi người thì họ chê là “tay ăn nhậu”.
“Nhưng đức Khôn ngoan được biện minh bằng hành động”: giá trị thật của một người không tuỳ vào lời phê phán của người khác về người đó, nhưng tuỳ vào chính hành động, vào lối sống của người đó.Người ta nói Gioan tẩy giả “bị quỷ ám”, nói Chúa Giêsu là “tay ăn nhậu”.Không sao, hành động và lối sống của hai Ngài sẽ biện minh cho hai Ngài.Dân do thái tự xưng là khôn ngoan ư? Chúa chắc, hãy coi họ sống và hành động ra sao.
B.Suy niệm (...nẩy mầm)
1.Ý hướng của bài đọc Cựu Ước: “Đấng dẫn dắt ngươi trong con đường phải đi”.Câu đáp trong bài Đáp ca: “Lạy Chúa, ai theo Chúa sẽ được ánh sáng sự sống”.
Sang bài Tin mừng, dân Chúa đã thực hiện những ý hướng đó ra sao? Lời than phiền của Chúa Giêsu (được ghi thành câu tóm tắt ở đầu đoạn Tin mừng) nói lên tình trạng thật đáng buồn: “Họ không nghe lời Gioan và lời Con Người”.
2.Nhiều người có lối sống đạo ngược đường: chỉ muốn Chúa theo ý họ chứ không bao giờ để ý tìm hiểu ý Chúa để mà theo.
3.Cách sống đạo càng ngày càng thịnh hành trong thời đại văn minh hưởng thụ này là: chuyện gì trái với ý thích của mình thì đòi Giáo Hội phải xét lại.Thí dụ hôn nhân bất khả phân ly, phá thai, luật ăn chay kiêng thịt v.v.Có lẽ ta cần nhớ lời Chúa: “Ai muốn vào Nước Trời hãy qua cửa hẹp mà vào...Con đường rộng thênh thang dẫn đến hư mất” (Mt 7,13).
4.Nhiều khi trong đời sống đạo tôi quen đi theo con đường của ý riêng khi đánh giá con người và sự việc.Tôi cứ cầm sẵn một cái khung tiền chế sắc bén, như cầm cái khuôn để nhấn xuống cắt bánh lễ.Tôi sẵn sàng nhấn xuống để cắt thật gọn trên mọi người anh chị em.Bất cứ ai sống ra ngoài cái khuôn lập trường của tôi, tôi sẵn sàng cắt bỏ họ.Dầu là sở thích, dầu là tay chân đầu cẳng của họ… tôi đều sẵn sàng cắt bỏ cho vừa đúng cái khuôn của tôi.(Lời trong Kinh Hoà Bình cảnh tỉnh chúng ta: “Lạy Chúa xin hãy dạy con, tìm hiểu biết người…”).
5.“Ông Gioan đến, không ăn không uống thì thiên hạ bảo: Ông ấy bị quỷ ám.Con Người đến, cũng ăn cũng uống thì thiên hạ nói: Đấy là kẻ mê ăn, chè chén” (Mt 11,18-19)
Tôi thường tự ái, và tự ái thường làm cho tôi xa cách mọi người.Những lần như thế, tôi rất sợ đối diện với sự thật, đặc biệt khi sự thật chống lại với mình.Biết mình sai, tôi vẫn cố chấp, vẫn quyết hơn thua, thay vì khiêm tốn đón nhận sự thật.Tôi đã cư xử y hệt như cách thiên hạ đối xử với Gioan và Đức Giêsu, để rồi xa dần Đấng “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết khiêm tốn lắng nghe và đáp lại lời Chân Lý của Ngài, để luôn sống trung thực trước mặt Chúa và mọi người.(Epphata)
Suy Niệm 8: Chúa trách những kẻ cứng lòng
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1.Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại lời Đức Giêsu mượn trò chơi của trẻ em Do thái để khiển trách những kẻ kém lòng tin.Ngài so sánh dân chúng thời đó như đám trẻ em khó tính, khó nết, nay rầy mai khác, không sao làm vừa lòng họ được.Khi thấy thánh Gioan Tẩy Giả không ăn không uống thì họ cho là bị quỉ ám.Còn Đức Giêsu ăn uống như mọi người thì họ bảo là mê ăn ham uống, là bạn với kẻ tội lỗi!.Nhưng không vì thế mà Thiên Chúa bỏ chương trình cứu độ của Người.Người vẫn tiếp thục hoạt động cách khôn ngoan trên thế giới.
2.Chúa lấy trò chơi của trẻ em Do thái để nói lên ý của Ngài: Các em thường được chia làm hai phe, một bên xướng câu tiểu khúc điệu vui hoặc điệu buồn, rồi bên kia đáp lại: Nếu xướng điệu ca buồn giả làm đám ma, thì bè bên kia than khóc, đấm ngục rên xiết.Nếu bè bên này xướng ca vui giả vờ làm đám cưới thì phe bên kia vui hát nhảy múa hòa nhịp.Nếu hai bên xướng đáp hòa hợp như vậy thì trò chơi rất vui.Nhưng nhiều khi gặp những kẻ khó nết lì lợm, hay theo ý riêng, không hòa hợp thì làm cho trò chơi mất vui: vì “chúng tôi thổi sáo mà các anh không nhảy múa”...!
3.Qua dụ ngôn trò chơi của trẻ em Do thái này, chúng ta thấy người Do thái khước từ Gioan Tẩy Giả cũng như khước từ Đức Giêsu vì những lý do trái ngược nhau.Sự thật là vì họ không muốn nghe lời Chúa cũng như thánh Gioan Tẩy Giả mà ăn năn thống hối tội lỗi, trở về tin tưởng Chúa, cả hai vị đều đưa ra hai đường lối để giúp họ hoán cải: thánh Gioan chỉ vạch con đường khắc khổ hy sinh, còn Đức Giêsu lại nêu lên cách sống giản dị đơn sơ.Do đó, mỗi người chúng ta đều có thể dùng hai phương cách đó mà cải thiện đời sống, đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
4.Người Do thái cố chấp và chủ quan, họ bắt mọi người phải có cái nhìn và lối suy luận của họ.Họ là những người thiếu thiện chí, chỉ tim cách bắt bẻ, lên án người khác.Cái xấu không phải là ở nơi người khác, nhưng là ở chính họ.Vì con mắt họ xấu, vì lòng họ không ngay chính, nên họ đoán xét mọi việc cách sai lạc.
Ngày nay, nhiều người có lối sống đạo ngược đường: họ chỉ muốn Chúa theo ý họ chứ không bao giờ để ý tìm hiểu ý Chúa để mà theo.
Cách sống ngày nay là cách sống hưởng thụ, người ta chỉ ưa nhũng gì hợp với ý mình còn cái gì không hợp với mình thì chống đối, ví dụ họ chống đối Giáo hội về hôn nhân bất khả phân ly, phá thai, luật ăn chay kiêng thịt v.v.họ đòi Giáo hội phải xét lại, phải sửa đổi.
5.Trong một lá thư gửi các chủng sinh, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết như sau: ”Đời sống tập thể không chỉ cần thái độ quảng đại, bao dung và chịu đựng lẫn nhau, nhưng điều quan trọng là làm cho nhau được thêm phong phú, đến độ mỗi người có thể đóng góp năng khiếu riêng của mình cho tập thể, trong khi tất cả đều phục vụ cùng một Giáo hội, cùng một Chúa”.
Hôm nay, Đức Giêsu phê phán những người Do thái vì thái độ tự cho mình là chuẩn mực và bắt người khác phải làm theo ý mình, lấy mình làm khuôn vàng thước ngọc bắt người khác noi theo.Khi dựng nên con người, Thiên Chúa trao cho mỗi chúng ta những “nén bạc” khác nhau (x.Lc 19,13).Chắc chắn rằng, mỗi người sẽ đáp lại hồng ân ấy theo những cách thức khác nhau, tùy theo khả năng Chúa ban.
6.“Nhưng đức Khôn ngoan được chứng minh bằng hành động”.
Câu này khó hiểu.Đức Giêsu muốn nói rằng giá trị thật của một người không tùy thuộc vào lời phê phán của người khác về người đó, nhưng tùy vào chính hành động, vào lối sống của người đó.
Vì vậy Đức Giêsu quả quyết là cả hai người (là Gioan và chính Người) với hai nếp sống khác nhau, đều phục vụ một chính nghĩa của Thiên Chúa.Bằng chứng là cả hai đều thực hiện những công việc của Thiên Chúa đầy khôn ngoan, là công việc của Gioan trong sứ vụ tiền hô và công việc của Đức Giêsu trong sứ vụ cứu thế đều thể hiện thánh ý của Thiên Chúa.
Vì vậy người ta nói Gioan Tẩy Giả “bị quỉ ám”, nói Đức Giêsu là “tay ăn nhậu” thì cũng không sao.Chính hành động và lối sống của hai Ngài sẽ biện minh cho hai Ngài.
7.Truyện: Phải biết đánh giá trị.
Một hôm, hoàng tử gọi vào đền vua một người lái buôn chuyên nghề bán ngựa.Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử hai con ngựa bạch đã được huấn luyện rất kỹ đề hoàng tử kén chọn.Bề ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau, nhưng con này gấp đôi giá con kia.Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến mà bảo:
- Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết tại sao con ngựa này giá gấp đôi giá con ngựa kia?
Các quan cận thần đến gần hai con ngựa và quan sát thật kỹ, nhưng không một ai nhận ra có điều gì khác biệt.Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người lính hầu đến và sai họ cưỡi lên hai con ngựa, hy vọng rằng các quan cận thần sẽ nhận ra giá trị của mỗi con.Sau mấy vòng phóng ngựa chung quanh sân, không ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về giá trị của hai con ngựa.Cuối cùng, hoàng tử phải lên tiếng giải thích cho họ:
- Chắc các ngươi đã nhận ra rằng: trong khi ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất không để lại dấu vết gì đằng sau, nó chạy cách nhẹ nhàng như bay.Trái lại, con ngựa thứ hai để lại lớp bụi bay ngợp trời, chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá trị gấp đôi con ngựa thứ hai.
Suy Niệm 9: Sống cố chấp và chủ quan
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1.Phải nói rằng, thời đại nào cũng có những người như Chúa nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay.Nhiều người có lối sống đạo ngược đời: chỉ muốn Chúa theo ý mình chứ không để ý đến việc tìm theo ý Chúa.
Nếu quả thực chúng ta cũng sống như thế thì đâu còn là theo đạo hay đi đạo của Chúa nữa.Hãy coi chừng kẻo chúng ta sẽ bị xếp vào loại Đức Phaolô VI gọi là những người Công giáo không có Thiên Chúa.
2.Ngày xưa người ta gọi những người đi theo Chúa là Kitô-hữu.Kitô-hữu là người có Chúa Kitô trong mình.Có Chúa Kitô cũng có nghĩa là luôn biết sống theo Ngài.Nhưng việc sống cho Chúa và sống như Chúa quả không phải là việc dễ dàng.
Đại văn hào Rabbindranath Tagore mặc dù không phải là người Công giáo nhưng ông rất yêu mến Chúa Giêsu.Đây là câu chuyện ông viết ra để cho người ta biết khi theo Chúa thì người ta phải sống như thế nào.
"Sáng hôm nay, con được làm bạn đường cùng đi với Chúa về làng.Con cứ thắc mắc mãi: ở nhà quê thì có cái gì vui đâu mà lại đi tổ chức...du lịch?
Vậy mà ngang qua một bờ đê, Chúa đã dừng lại để lội xuống ruộng, đón lấy tay cày đằng sau con trâu gầy còm của một bác nông dân.Rồi Chúa lại còn cùng tát nước với họ vào một mảnh ruộng khác đang khô nước.Chúa làm một cách say mê vui vẻ trong khi nắng đã lên cao, trời nóng dần đến mức như đổ lửa...Con cũng đành phải làm theo Chúa mà miệng thì cứ lẩm bẩm: đúng là đang đâu lại đi chuốc vào thân những vất vả cực nhọc! Rõ khổ!
Đến quá trưa, Chúa chia tay với những người dân cày chất phác và vui tính sau khi uống một bát nước vối họ mời.Chúa quay lại bảo con: "Nào, chúng mình về một khu ngoại thành đi!" Con cứ ngỡ Chúa sẽ vào một quán nước có máy lạnh dành cho khách du lịch để nghỉ ngơi...
Vậy mà, vừa gặp một tốp thợ đang thi công một đoạn quốc lộ, Chúa lại ghé vào, xắn tay áo xin cùng làm với họ.Chúa cũng xúc đá, cũng gánh sọt cát trên vai hoặc lăn một thùng hắc ín đến lò nấu dã chiến bên vệ đường với họ...Cứ thế, Chúa vừa làm vừa trò chuyện thân tình với họ, mặc cho mồ hôi muối túa ra ướt đẫm cả lưng áo.Con lại cũng đành phải làm theo Chúa, cố tình chọn một việc nhẹ nhất cho đỡ mệt.Hơi sức đâu mà đánh liều với thứ công việc khổ sai như thế.
Sập tối, Chúa chia tay với cánh thợ bộc trực và gân guốc, sau khi rít một điếu thuốc rê với họ.Chúa lại bảo con đi tiếp đến một thị trấn nhỏ gần đó.Con cứ ngỡ phen này Chúa sẽ tìm một khách sạn để nghỉ ngơi và dùng cơm tối....Đói bụng lắm rồi còn gì.
Thế mà khi ngang qua một vùng ven thị trấn, Chúa lại bảo con ghé vào thăm một làng phong.Ở đây, Chúa đã ngồi xuống bên những bệnh nhân tật nguyền, xúc cơm, đổ thuốc, lau mặt, thay áo cho họ, mặc cho những vết thương lở loét của họ bốc lên mùi hôi tanh ghê sợ.Chúa còn đến tận giường để an ủi nâng đỡ một cụ già đang hấp hối sau cả một đời gánh chịu căn bệnh đau đớn cùng với những nỗi tủi nhục vì bị con cháu và xã hội xua đuổi.Con cũng đành phải làm theo Chúa, nhưng chỉ là phụ giúp giặt khăn, rót nước hoặc lấy bông băng đưa cho Chúa mà thôi.
Mãi đến khuya, Chúa mới chịu chia tay với những người phong cùi sau khi vuốt mắt cho cụ già vừa qua đời.
Về lại thành phố, con đang thầm lo: không biết Chúa còn định đi những đâu nữa đây, khổ quá đi mất! Du lịch mà cứ như là một chuyến công tác xã hội từ thiện.Biết vậy, hôm nay con đã chẳng nhận lời theo Chúa đi lang thang vật vã như thế này.
Thế rồi, ngang qua một nguyện đường nhỏ bé của một dòng tu, Chúa bảo con: "Mình cùng vào cầu nguyện một chút nhé" Con thở phào yên tâm.Nhưng tối khuya thế này, ai mà mở cửa cho vào? Không ngờ Chúa dừng lại trước cánh cửa lớn nhà thờ, quỳ xuống thềm và bắt đầu cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha của Ngài: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha giấu không cho các người khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha..." (Lc 10,21)
Đến lúc này thì con mới chợt hiểu tất cả...để lặng lẽ quỳ xuống bên Chúa, lòng bật lên lời tâm nguyện:
"Con cố gắng cúi mình khiêm nhu,
xuống dấu chân nơi Ngài dừng lại
nhưng sâu hút vô ngần Ngài ơi,
vẫn không sao chạm được..." (Thơ R.Tagore)
Vâng! Chúa Giêsu đã có lần tuyên bố: Ta là đường, là sự thật và là sự sống.Con đường Giêsu là con đường không dễ đi, nhưng ai dám đi vào con đường đó thì sẽ gặp được sự thật có sức mạnh giải phóng khỏi những mê muội lầm lạc và nhất là sẽ có được sự sống sung mãn ở đời này và sự sống vĩnh cửu mai sau.Amen.
09/12 Gioan Tẩy giả được Chúa khen.
- Viết bởi Mt 11, 11-15
Gioan Tẩy giả được Chúa khen.
Thứ Năm tuần 2 mùa vọng.
"Chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả".
LỜI CHÚA: Mt 11, 11-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông.
Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Tất cả các tiên tri và lề luật đã tuyên sấm cho đến Gioan và nếu các ngươi muốn hiểu, thì chính Gioan là Elia, kẻ phải đến.
Ai có tai, thì hãy nghe!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Gioan chính là Êlia
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đã từ lâu dân tộc Do Thái không có vị ngôn sứ nào xuất hiện.
Thiên Chúa thinh lặng như chẳng muốn nói với dân Ngài.
Người ta thường coi vị ngôn sứ cuối cùng là Malaki.
Ông sống trước công nguyên gần năm thế kỷ.
Ông đã mạnh mẽ phê phán những bê bối của các tư tế và dân Do Thái
sau khi họ trở về từ nơi bị lưu đầy ở Babylon.
Malaki tiên báo ngày đoán phạt của Đức Chúa gần đến.
Nhưng trước khi Ngài đến, sẽ có người đi trước để dọn đường (Ml 3, 1).
Êlia chính là người làm công việc đó:
“Này đây Ta sẽ sai đến với ngươi Êlia, vị ngôn sứ” (Ml 3, 23).
Gioan Tẩy giả là người đã làm nhiệm vụ của Êlia,
tuy ông không phải là một Êlia từ cõi chết sống lại.
Gioan xuất hiện như một ngôn sứ khắc khổ nơi sa mạc hoang vu.
Ông đã cất tiếng mời gọi mọi người sám hối và chịu phép rửa.
để dọn lòng đón Đấng Mêsia sắp đến.
Thế là sau bao thế kỷ mong chờ, Thiên Chúa lại ngỏ lời với dân Ngài.
Gioan Tẩy giả luôn là nhân vật nổi bật trong Mùa Vọng.
Đức Giêsu khẳng định ông còn trọng hơn một ngôn sứ nữa (Mt 11, 9).
Đã có bao ngôn sứ trong Cựu Ước xuất hiện trước ông,
loan báo về Đấng Cứu độ mà Thiên Chúa hứa ban.
Nhưng Gioan là người duy nhất đã chỉ cho dân thấy Đấng ấy là ai.
Chính là Đức Giêsu, người ông đã ban phép rửa.
Gioan cao trọng vì ông là cầu nối giữa hai giai đoạn của lịch sử cứu độ.
Ông vừa thuộc nhóm những ngôn sứ của giai đoạn trước (c. 11),
vừa là người đã chạm đến Nước Trời ở giai đoạn sau (cc. 12-13).
Giai đoạn trước của những lời Thiên Chúa hứa,
và giai đoạn sau khi Thiên Chúa thực hiện những lời hứa này.
Đức Giêsu là Đấng khai mở giai đoạn sau.
Nhưng Ngài cần Gioan để làm người trực tiếp giới thiệu.
Chúng ta không thánh thiện hơn Gioan Tẩy giả,
nhưng chúng ta có phần hạnh phúc hơn ông,
vì được sống trong giai đoạn lời hứa của Thiên Chúa nên thành tựu.
Ơn cứu độ đã đến, Nước Trời đã ở ngay bên.
“Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (c. 11).
Cao trọng hơn vì những kho tàng mới do Đức Giêsu mang lại.
Ngài đem đến ơn cứu độ toàn diện cho từng người,
vượt xa những gì mà các ngôn sứ thời xưa mong đợi.
Gioan hẳn sẽ có mặt trong bữa tiệc cánh chung (Mt 8, 11).
Ông đã chiếm được Nước Trời bằng sức mạnh phấn đấu (c. 12).
Ông đã sống bất khuất và đã chết anh hùng.
Mỗi lần Mùa Vọng, chúng ta lại gặp Gioan.
Đức Giêsu mãi mãi cần những Gioan cho đến ngày tận thế,
để bắc một nhịp cầu, để làm người môi giới trung gian
để tình yêu cứu độ được mọi người đón nhận.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ?
Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa. (Helder Câmara)
Suy Niệm 2: Mùa vọng: sống mạnh mẽ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Gioan Tẩy giả là mẫu gương đáng mơ ước của Mùa Vọng.
Ông là tiên tri cao cả nhất vì các vị tiên tri khác chỉ loan báo theo linh hứng của Chúa. Trong khi Gioan là tiên tri duy nhất được thấy Đấng Cứu Thế xuất hiện. Ông cao cả nhất trong số nam nhân vì được Chúa tha tội nguyên tổ ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Ông cao cả nhất vì được chính Đấng Cứu Thế đến tận nhà viếng thăm.
Ông là người phấn đấu vào Nước Trời là nước phải chiếm đoạt bằng sức mạnh. Gioan tràn đầy sức mạnh không chỉ vì lời rao giảng của ngài mạnh mẽ, cương trực, nhưng còn vì đời sống của ngài thật mạnh mẽ. Mạnh mẽ khi đối đầu với cái ác. Dám gọi những bậc vị vọng trong dân như phái Phariseu là “nòi rắn độc”. Dám lên án đời sống vô luân của vua Hêrôđê. Mạnh mẽ đáng khâm phục trong đời sống từ bỏ. Từ bỏ nơi phồn hoa đô hội để sống trong sa mạc. Từ bỏ những hoạt động bên ngoài để chìm sâu trong cầu nguyện. Từ bỏ tìm ý riêng để tìm thánh ý Chúa. Từ bỏ những gì phụ thuộc để tìm điều cốt yếu. Biết rằng sự sống quí hơn của ăn nên ngài chỉ ăn uống đơn sơ cho đủ sống trong sa mạc. Biết rằng thân thể quí hơn áo mặc nên ngài chỉ cần tấm da thú che thân. Nhất là dám từ bỏ mạng sống vì làm chứng cho chân lý. Biết quên mình vì Chúa. Biết bảo vệ giáo lý chân chính của Chúa. Phục vụ Chúa đến quên thân mình, đến máu chảy đầu rơi vì Chúa.
Gioan Tẩy giả là chiếc bừa mà Isaia loan báo. Được Chúa ban sức mạnh lưỡi bừa đã bừa nát những giả trá, hư ảo của trần gian, đã làm cho những giá trị phù phiếm tan tành bay tơi tả như trấu trong cơn gió, để xuất hiện những giá trị chân thực vĩnh cửu.
Chúng ta chỉ là loài sâu bọ hèn kém, là người dân bé nhỏ tầm thường, cần được ơn Chúa ban để trở nên mạnh mẽ, để nên như chiếc bừa của Chúa, mới mẻ, sắc nhọn và mạnh mẽ. Và chỗ cần cầy bừa nhất là chính linh hồn ta. Cần có chiếc bừa nhọn sắc của Chúa. Cần có sức mạnh của Chúa. Để ta cầy xới linh hồn. Phá bỏ những giả trá, phù vân trong tâm hồn. Như thế ta mới mong gặp được Chúa và chiếm đoạt được Nước Trời trong mùa Vọng này.
Suy Niệm 3: Người Ðược Chúa Khen
Nhìn vào các chi tiết đã xảy ra cho Gioan Tẩy Giả mà Thiên Chúa đã làm, chúng ta thấy cũng là một chuyện lạ lùng. Zacharia, cha của Gioan Tẩy Giả, là người thuộc ban Abina, tức là một tư tế phục dịch trong Ðền Thờ; và Elizabeth, mẹ của ngài, thuộc dòng dõi Aaron. Cả hai ông bà là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở tuân giữ mọi giới răn và lề luật của Ngài. Nhưng cả hai người không có con và tuổi đã già cả. Zacharia đến phiên mình vào dâng hương trong Ðền Thờ khi trúng thăm. Khi vào Ðền Thờ dâng hương, ông thấy thiên thần Gabriel hiện ra bên phải hương án và cho ông biết: Bạn ông sẽ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Gioan Tẩy Giả, và con trẻ này sẽ nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa, ngài sẽ không uống rượu và thức có men, sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ trong lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Và thiên thần Gabriel còn cho biết thêm: Con trẻ là người đi trước dọn đường cho Ðấng Cứu Thế đến.
Rồi khi Mẹ Maria đến thăm bà Elizabeth, lúc ấy bà đang mang thai Gioan Tẩy Giả được sáu tháng thì con trẻ trong lòng bà cũng đã nhảy mừng và được khỏi tội tổ tông.
Sau khi Gioan Tẩy Giả sinh ra, cả hai ông bà muốn đặt tên cho con trẻ là Gioan Tẩy Giả, nhưng bấy giờ Zacharia đang bị câm không nói được nên ông ra hiệu là đặt tên cho con trẻ là Gioan Tẩy Giả. Mặc dù mọi người trong dòng họ đều không bằng lòng, vì không ai trong họ hàng có tên đó.
Từ những sự kiện trên cho ta thấy Gioan Tẩy Giả được sinh ra một cách khác thường và khắp các miền núi phía Giuđêa lúc bấy giờ đều nghĩ thầm rằng: Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực bàn tay Thiên Chúa đã ở với con trẻ này.
Ðiều đó đã được Chúa Giêsu xác nhận trong bài Tin Mừng hôm nay: "Thật, Ta bảo các ngươi hay, trong con cái do người nữ sinh ra chưa có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả". Con người có lẽ ai cũng mong ước được như Gioan Tẩy Giả. Chúng ta cũng thấy trong một đoạn Tin Mừng khác, lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy thì có một người đàn bà buột miệng nói rằng: "Phúc thay dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng::Ai nghe và giữ lời Chúa thì còn có phúc hơn nhiều". Hoặc chúng ta cũng thấy trong lúc Chúa Giêsu đang thi hành sứ mệnh công khai của Ngài, Mẹ Maria và các người thân thuộc tìm đến nghe, nhưng vì dân chúng quá đông không chen vào được, có mấy người thấy thế nói với Chúa Giêsu: "Kìa Mẹ và anh em Thầy đến tìm Thầy", Chúa Giêsu liền trả lời: "Ai là Mẹ Ta, ai là anh em Ta? Ðó là những kẻ nghe và giữ lời Ta".
Qua những lời trên, Chúa Giêsu cho chúng ta một cái nhìn mới, một ý nghĩa mới: thân thuộc, bà con bằng máu mủ không quan trọng cho bằng thân thuộc bà con thiêng liêng: "Ai theo Ta mà không từ bỏ cha mẹ anh em thì chưa xứng đáng là môn đệ Ta". Nói thế không phải chúng ta không tôn kính hay không yêu mến cha mẹ chúng ta, vì giới răn thứ tư trong Mười Ðiều Răn, Ðức Kitô dạy rằng: "Hãy thảo kính cha mẹ". Giới răn này nằm sau giới răn thứ nhất: "Thờ phượng Ðức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự".
Chúng ta đừng đặt nặng vấn đề gia đình, vấn đề tình thân thuộc máu huyết mà chúng ta quên mất việc thờ Thiên Chúa. Chúng ta cũng đừng tìm danh giá, giàu sang bên ngoài mà quên mất lương thực Thần Linh nuôi sống chúng ta, đó là Mình và Máu Chúa. Mình Máu Chúa nuôi sống phần hồn, lương thực Lời Chúa nuôi sống tinh thần chúng ta.
Từ Gioan Tẩy Giả trở về sau, tức là từ khi Chúa Giêsu Kitô đem ơn cứu rỗi của Thiên Chúa đến cho nhân loại thì Nước Trời phải dùng sức mạnh mới chiếm lấy được và kẻ nào mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Trước Chúa Kitô chưa ai có được ơn cứu rỗi cho đến khi Chúa Kitô chết trên Thánh Giá Ngài mới kéo tất cả mọi sự lên cùng Ngài. Ai muốn nhận được ơn cứu rỗi đó phải qua cửa hẹp, phải vác thập giá mình mà theo Chúa mới vào được Nước Trời, vì ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy.
Theo Chúa để vào Nước Trời, chúng ta phải chiến đấu với chính bản thân mình, phải từ bỏ những đam mê, những thói quen không tốt, những việc làm không chính đáng, phải hy sinh cho người thân quen thuộc trong gia đình, cho tha nhân và làm tất cả những gì khi có thể để giúp đỡ người khác mới thực sự là dấn thân thi hành giới răn "Mến Chúa Yêu Người".
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn hiểu rõ được giá trị của sự yêu thương, tránh tìm những gì hào nhoáng bên ngoài nhưng thực sự sống cảm thông, yêu thương nhau và tha thứ khoan dung hơn để mong chờ Ðấng Cứu Thế đến. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 4: Gioan Tẩy giả.
Lustiger là người Do Thái đã từng chứng kiến cảnh phân biệt chủng tộc và việc Đức quốc xã tiêu diệt người Do Thái. Là người Do Thái, nhưng có bạn là người Công giáo, một hôm theo bạn đến nhà thờ và từ đó muốn trở lại Công giáo. Anh muốn thuộc về Chúa và dâng hiến cuộc đời cho Chúa. Mặc dù ông bố không chấp thuận, nhưng anh nhất quyết đi tu để phục vụ người nghèo khổ, yếu đuối.
Năm 1954, thụ phong linh mục. Năm 1964 được chọn làm Giám mục và được đề cử về làm Tổng Giám mục Paris. Bị một số người bất bình phản đối, nhưng ngài vẫn kiên vững trong đức tin và quan tâm phục vụ mọi người.
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến một con người đặc biệt, có sứ mệnh chuẩn bị tâm hồn người Do Thái đón nhận Chúa, con người ấy là Gioan Tẩy giả. Kể từ khi gặp Chúa Giêsu, nhất là từ khi bị Hêrôđê tống ngục, cố gắng quan trọng của Gioan là làm sao cho môn đệ của ông nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên sai. Dù tống giam Gioan, nhưng Hêrôđê vẫn còn nể Gioan, nên cho ngài được liên lạc với bên ngoài, bằng chứng là các việc Chúa Giêsu làm đều đến được tai Gioan và các môn đệ vẫn được tiếp xúc với ngài. Chúa Giêsu cũng đã từng ca tụng Gioan với dân chúng đi theo và nghe Ngài giảng dạy. Bằng lối văn đặt câu hỏi dồn dập, Ngài nhấn mạnh đến một số đức tính của Gioan. Trước hết, là thái độ cứng rắn không chịu thua sự dữ: “Các người đi ra sa mạc để coi cái gì? Cây sậy rung trước gió ư?” Gioan không phải là cây sậy. Gioan đã dám đương đầu với sự xấu. Gioan không nể vua Hêrôđê khi khuyến cáo vua không được lấy vợ của người anh cùng cha khác mẹ với mình là Philip. Thứ đến là việc từ bỏ mọi sự để sống nghèo khó. Gioan không ăn mặc mịn màng và sống xa hoa. Gioan chỉ vận tấm da thú, ăn những thức ăn đơn sơ tìm được nơi rừng hoang, như châu chấu, mật ong. Sau cùng Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sứ mệnh của Gioan: “Các người đi xem một tiên tri ư? Ta bảo các người: và còn hơn một tiên tri nữa”. Về ông đã có viết: “Này Ta sai sứ thần đi trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi”.
Tuy nhiên, nếu vai trò của Gioan cao trọng, thì Nước Trời còn cao trọng hơn, vì người nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn Gioan. Sở dĩ Nước Trời có giá trị lớn lao vì có sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô. Nước Trời được mô tả như vương quốc của sức mạnh và chỉ những kẻ mạnh mới dành được phần thắng.
Ước gì chúng ta biết sống trọn vẹn ơn gọi của chúng ta và tìm gặp được Đức Giêsu là Đấng cứu độ và niềm vui của chúng ta nơi trần gian này.
Suy Niệm 5: Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả
“Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì sẽ chiếm được. Cho đến ông Gioan, tất cả các ngôn sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Ê-li-a, người phải đến. Ai có tai thì nghe. (Mt. 11, 11-12)
Trong mùa vọng, hình ảnh Gioan tẩy giả nổi bật, ông là nhân vật tích cực hoạt động: rao giảng, loan báo, làm phép rửa, kêu gọi ăn năn trở lại. Người ta cảm thấy ông rất lo lắng, rất vội vã thúc bách khẩn trương: “Có Đấng đang đến, đang ở giữa các anh chị em, anh chị em hãy cải thiện con tim gấp lên … Chiếc rìu đã kề gốc cây”.
Gioan tẩy giả là ngôn sứ cuối cùng. Mọi người kéo đến với ông, đến với sứ điệp của ông. Quả thực suốt dòng lịch sử dân Ít-ra-en, những lời tiên tri đã lan sâu rộng và được tập trung vào một Đấng. Tất cả mọi hy vọng đều đổ dồn vào một Đấng: Đấng thực hiện lời giao ước. Ngày nay, chúng ta suy nghĩ và tự hỏi xem thời hạn của Gioan đã chấm dứt chưa?
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói kẻ bé mọn nhất trong nước trời còn cao trọng hơn Gioan. Nghĩa là, một đàng, sứ mệnh của Gioan đã kết thúc vì có Đấng đã đến phục hưng nước Thiên Chúa. Nhưng đàng khác, nước trời còn chịu nhiều bạo lực, nước trời này chưa đến thời toàn hảo, Đức Kitô chưa được hoàn toàn biểu lộ. “Từ thời Gioan tới chúng ta ngày nay, nước trời phải chịu đau khổ vì bạo hành”. Chính vì thế, Gioan tẩy giả đã sát nhập với tất cả những ai khẩn cấp kêu gọi đổi mới tâm can trong thế giới đang chịu đau khổ vì bạo lực, như: chiến tranh do chủng tộc, chiến tranh do chủ thuyết, chiến tranh do nội chiến, chiến tranh do phân hóa quốc tế.
Gioan tẩy giả, một lần nữa, sát nhập với những người hô hào cần phải ăn năn trở lại với Đấng đến giải phóng, chỉ có Người mới có thể xây dựng công trình hòa bình toàn hảo thôi.
Còn chúng ta, dâng tế lễ Thánh Thể là tiếp tục vai trò của Gioan, vì tế lễ Thánh Thể là tuyên xưng sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cộng đoàn tụ họp để chia sẻ với Người trong công trình cứu độ cho tới khi Người đến hoàn tất thế giới.
Cử hành Thánh lễ, chính là tuyên xưng quyền phép ban hòa bình của Đức Kitô, là loan báo hoàng tử hòa bình và nước trời bình an.
J.Y.G
Suy Niệm 6: Gioan Tẩy giả là người cao trọng
Trong các cuộc diễn nguyện, lời dẫn phải đi sâu vào nội dung, và người dẫn chương trình phải là người biết truyền cảm hứng cho thính giả thì nội dung mới được toát lên và hấp dẫn. Nhưng điều quan trọng là làm sao cho người tham dự rút ra được bài học từ những cuộc diễn xuất đó mới là điều đáng nói!
Thánh Gioan Tẩy Giả đã xuất sắc trong vai trò này khi ngài trở thành người tiền hô loan báo về Đấng Cứu Thế, và, ngài cũng thành công trong việc truyền cảm cho những người đương thời về tinh thần sám hối, chuẩn bị cho giáo huấn của Đức Giêsu. Ngoài những lý do trên, ngài còn là tiên tri cuối cùng của thời Cựu Ước, là người loan báo trực tiếp về Đức Giêsu. Cuối cùng, Gioan đã thực hiện thành công xuất sắc sứ mạng của mình bằng cái chết để làm chứng cho sự thật. Như vậy, ngài xứng đáng được Đức Giêsu khen ngợi: "Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy noi gương Gioan Tẩy Giả: sẵn sàng lên tiếng loan báo Đức Giêsu cho mọi người, dù thuận tiện hay không thuận tiện. Sẵn sàng sống sự khiêm tốn để cho nội dung lời loan báo có hồn và vui lòng nhường lại sân khấu cho diễn viên chính là Đức Giêsu. Có thế, chúng ta mới hy vọng Đức Giêsu khen ngợi là người có phúc như Gioan Tẩy Giả khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, thánh Gioan khi xưa đã hết lòng vì sứ vụ và đã sống chết cho sự thật. Xin Chúa cũng ban cho chúng con hôm nay biết làm chứng cho Chúa bằng sự khiêm tốn, can đảm và trung thành như Gioan khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Dũng cảm chiến đấu với bản thân
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thánh Gioan Tẩy Giả là người cuối cùng chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến thiết lập triều đại Thiên Chúa. Ai muốn vào Nước Trời phải biết dũng cảm chiến đấu với bản thân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Thánh Gioan Tẩy Giả là một chân tu đúng nghĩa: sống khắc khổ với thức ăn là châu chấu và mật ong rừng, cái mặc là đồ bằng da thú, nhà ở là rừng, là sa mạc. Suốt đời ông đã hy sinh mọi sự để loan báo, dọn đường cho Chúa Giêsu đến.
Chúa ơi, con biết tìm đâu ra một hình ảnh Gioan trong đời sống xã hội hôm nay, khi mà nhiều người đang sống trong ích kỷ, chạy theo lợi nhuận cho riêng mình. Trong thời buổi kinh tế thị trường, người ta quảng cáo rầm rộ bằng những lời lẽ hấp dẫn, ngọt ngào. Còn Gioan, ông đã đòi hỏi quyết liệt những ai muốn sống theo Tin mừng. Ông đã loan báo Nước Trời bằng lời lẽ cứng rắn: “Ai mạnh sức thì mới chiếm được”.
Lạy Chúa, liệu rằng con có can đảm để đón nhận lời Thánh Gioan kêu gọi hay không? Liệu con có dám bắt chước cuộc sống của Thánh Gioan trong hoàn cảnh hôm nay hay không? Con biết con yếu đuối, con bất lực. Nhưng con cũng ý thức rằng: nếu những người kitô hữu chúng con mà không can đảm sống theo Lời Chúa, thì nói gì đến những người khác.
Lạy Chúa, Thánh Gioan luôn lập đi lập lại như một điệp khúc: “Hãy dọn đường cho Chúa”. Xin Chúa cho con biết quay về với Chúa. Xin ban cho con nguồn sống thiêng liêng để con dám sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, mất mát, hầu có thể bước theo con đường mà Thánh Gioan mời gọi. Amen.
Ghi nhớ: “Chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”.
Suy Niệm 8: Muốn được cứu độ, phải cố gắng, sám hối quay về đường chính
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A. phân tích (Hạt giống...)
Đoạn này nói về Gioan Tẩy giả:
- Ông là người cao trọng hơn tất cả mọi người phàm từ trước tới nay (nghĩa là tới lúc Chúa Giêsu đến khai mở thời Tân Ước, thiết lập Nước Trời), vì ông được vinh dự dọn đường cho Đấng Messia, và khi Ngài đến, ông còn được vinh dự giới thiệu Ngài cho người ta biết.
- Nhưng từ nay trở đi, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời vẫn còn cao trọng hơn Gioan, bởi vì dù sao Gioan cũng thuộc thời Cựu Ước và phải dừng lại ở ngưỡng cửa Nước Trời, không hạnh phúc bằng kẻ ở trong thời Tân Ước và ở trong Nước Trời.
- “Từ thời Gioan Tẩy giả đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được”.
Câu này có thể hiểu 2 cách:
a/ muốn vào Nước Trời thì phải dũng cảm chiến đấu với bản thân.
b/ có nhiều điều cản trở người ta vào Nước Trời, cho nên muốn vào đó thì phải cố gắng rất nhiều.
- “Ông Gioan chính là Êlia”: xưa kia ngôn sứ Êlia kêu gọi người ta sám hối để quay về thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất. Việc đó Gioan tẩy giả cũng đã làm để chuẩn bị người ta đón Đấng Messia.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu nói chúng ta hạnh phúc hơn cả Gioan Tẩy giả, vì chúng ta sinh ra vào thời Tân Ước, sinh ra là con của Giáo Hội. Hai hạnh phúc lớn đó lại phát sinh nhiều hạnh phúc khác nữa...
2. Nhưng ta đừng ỷ lại. Muốn được cứu độ thì vẫn phải cố gắng, phải luôn sám hối quay về đường chính.
3. “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được”. Trong đời sống đạo, cái quý là làm sao sống trọn vẹn được cả hai khía cạnh sau đây:
- Vừa êm ái dịu dàng, bình an, thoải mái.
- Vừa hăng say, quyết liệt, chiến đấu.
Một người ươn lười, ẻo lả, xười xĩnh, ngại phấn đấu chẳng có hy vọng chiếm được nước Trời. Cần phải “khó với mình, và dễ với người”.
Một người lúc nào cũng hung hăng, quyết liệt chiến đấu, duy ý chí sẽ có nguy cơ chẳng bao giờ hưởng được sự bình an. Dễ sống bất mãn với người, với mình. Dễ biến thành kiểu sống đạo của mình, hơn là kiểu sống đạo Chúa muốn.
4. “Từ thời ông Gian Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương dầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11,12)
Nhà giam chìm ngập trong khói lửa. Gió xô rạp những cành cây khẳng khiu, ngập ngụa trong khói đen dầy đặc. Bọn quan, lính chạy lăng xăng canh giữ mọi cửa nhà giam. Làng xóm lịm đi trước cuộc tàn sát dã man. Ba trăm giáo dân xứ Thơm tỉnh Bà Rịa bị thiêu đốt trong lửa đỏ. Họ đã chiến thắng và chiếm lĩnh Nước Trời bằng chính mạng sống mình.
Có những lúc tôi đã không dám làm dấu thánh một cách nghiêm túc trước bữa ăn ở nơi có đông người. Tôi vẫn thường yếu đuối như thế khi phải tuyên xưng lòng tin, lòng cậy trông nơi Chúa của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con là kẻ yếu đuối. Xin nâng đỡ con bằng cánh tay mạnh mẽ của Người. Xin cho con biết vươn mình lên cao mãi, mặc cho mọi cơn gió tung hoành, để đáng được ở bên Người và được Người chia xẻ vinh quang. (Epphata)
Suy Niệm 9: Chúa khen Gioan Tẩy giả
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Gioan Tẩy Giả từ trong ngục tù đã sai các môn đệ đến phỏng vấn Đức Giêsu có phải là Đấng Cứu Thế không. Sau khi đã trả lời, Đức Giêsu khen và so sánh Gioan Tẩy Giả với mọi người thì Gioan cao trọng hơn hết, vì ông đã giúp dọn đường cho Chúa đến cứu nhân loại, đã làm phép rửa giúp mọi người thống hối. Nhưng nếu so sánh Gioan với người ở trong Nước Trời, thì người nhỏ nhất trong nước này còn cao trọng hơn ông: phần thưởng ở đó rất lớn lao vì luôn có Chúa hiện diện.
2. Đức Giêsu khen Gioan Tẩy Giả về chức vụ tiền hô của ông vì ông đã thi hành rất hoàn hảo. Ông là người cao trọng hơn tất cả mọi người phàm từ trước tới nay, vì ông được vinh dự dọn đường cho Đấng Cứu Thế, và khi Ngài đến, ông còn được vinh dự giới thiệu Ngài cho mọi người biết.
Quả vậy, sánh với đạo cũ, ông là tiên tri trọng hơn các tiên tri vì ông đã giúp vào việc dọn đường cho Đấng Cứu Thế ra đời gần hơn các tiên tri khác, và vì ông đã được thấy Chúa cũng như các việc Người làm.
Nhưng ông vẫn là người thuộc đạo cũ, bởi vậy, tuy là trọng nhất trong các tín đồ đạo cũ, nhưng lại nhỏ hơn hết sánh với các tín đồ thời đạo mới, vì trong luật đạo mới Thiên Chúa ban các ân huệ cao quí cho loài người cách rộng rãi hơn.
2. ”Cuộc lữ hành khám phá thật sự không phải là nhìn những cảnh tượng mới, nhưng là nhìn bằng đôi mắt mới”(M. Proust).
Gioan Tẩy Giả đi trước dọn đường với lòng nhiệt thành nóng bỏng như Êlia ngày nào, rồi Đức Giêsu xuất hiện với quyền năng của Đấng Cứu Thế, y như cảnh tượng các tiên tri loan báo từ xa xưa. Thế nhưng, người Do thái chỉ quen nhìn với đôi mắt cũ: Đấng Cứu Thế phải đáp ứng mong mỏi của họ, phải là người giải phóng họ khỏi ách đô hộ của đế quốc Rôma. Vì thế, họ khước từ Gioan, người Thiên Chúa sai đến. Họ cũng chối bỏ Đức Giêsu, không chấp nhận tư cách Thiên Sai của Ngài. Với đôi mắt cũ, họ không nhận ra sự thật, một “sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32) (5 phút Lời Chúa).
3. Có câu: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được”.
Người ta chỉ có thể chiếm được Nước Trời bằng sức mạnh. Chúng ta có thể hiểu câu này bằng hai cách:
- Ai muốn vào Nước Trời thì phải dũng cảm chiến đấu với bản thân. Muốn vào Nước Trời để nên cao trọng thì phải can đảm chiến đấu với ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt.
- Những người ở trong Hội thánh luôn luôn bị người đời chèn ép và chống đối, người ta dùng áp lực để ngăn cản việc gia nhập Nước Trời, nên ai mạnh sức thì mới vượt thắng được những cản trở để vào Nước Trời.
4. Theo đó, người ta phải can đảm mới chiếm được Nước Trời.
Thánh Gioan Tẩy Giả là người quả cảm không bao giờ chịu lùi bước và chịu thua sự dữ. Ông dám can đảm ngăn cản vua Hêrôđê không được lấy vợ của người anh cùng cha khác mẹ với mình. Ông đã từ bỏ mọi sự, sống đời khó nghèo và sám hối trong hoang địa. Và sau cùng đã chịu cho người ta chặt đầu bỏ trên đĩa.
Đức Giêsu đã từng bảo chúng ta: “Muốn vào được Nước Trời phải “qua cửa hẹp”.
Khi Đức Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bỏ, từ bỏ hết mọi của cải trần gian, từ bỏ những gì cản bước chúng ta trên đường theo Chúa. Bước qua cửa hẹp còn có nghĩa là giữ và sống Lời Chúa, thi hành giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh. Bước qua cửa hẹp còn là nhìn vào chính con người của mình như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta bước đi dưới con mắt của Ngài, vì biết rằng Chúa luôn luôn làm chủ cuộc sống của ta.
5. Truyện: Muốn vào hàng trai tráng.
Trong nhiều bộ lạc Da Đỏ Mỹ Châu, họ hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng. Người ta tổ chức như sau: Khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ: “con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.
Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rợn rùng. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của con chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.
Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ bừng sáng. Nỗi sợ hãi của đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện: cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên: “Bố đã trở lại”. Người cha sẽ hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.
Để trở thành chiến binh anh dũng trên mặt trận đức tin, lắm khi chúng ta cũng phải chấp nhận biết bao thách đố trong bóng đêm cuộc đời. Những đe dọa của sự dữ, gầm rú của đau khổ, rình chờ của xác thịt như những phương thế giúp tinh luyện lòng ta thêm can trường dũng mãnh. Và trong suốt chiều dài của bóng đêm đó, dù ta có ý thức hay không, Thiên Chúa vẫn luôn ở bên cạnh dõi mắt trông nhìn chúng ta.
Suy Niệm 10: Nước Trời phải dùng sức mạnh mới chiếm được
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Vâng! Quả là bài Tin Mừng hôm nay nói đến một con người đặc biệt, có sứ mệnh cũng đặc biệt, con người đó là Gioan Tẩy Giả. Chúa Giêsu ca tụng ông vì ông có một số đức tính cao cả mà ít ai có được như ông.
Trước hết, ông là một người quả cảm không bao giờ chịu lùi bước và chịu thua sự dữ: "Các người đi ra sa mạc để coi cái gì? Cây sậy rung trước gió ư?" (Mt 11,7) Gioan không phải là cây sậy. Gioan đã dám đương đầu với sự xấu. Gioan không nể vua Hêrôđê khi khuyến cáo vua không được lấy vợ của người anh cùng cha khác mẹ với mình..
Thứ đến là ông dám hy sinh vì sứ mạng.
Một nông dân đi xe ngựa ra phố. Đến một cửa tiệm, ông dừng xe vào mua đồ. Ông vừa tới cửa thì con ngựa hí lên và bỏ chạy. Ông vội vàng chạy ra xiết chặt dây cương.
Con ngựa càng hoảng sợ hơn và chạy tứ tung trên đường, kéo theo người nông dân tội nghiệp. Dân chúng đổ xô ra, đến khi ghìm được ngựa thì người nông dân bê bết máu và thoi thóp thở. Một người nói:
- Sao mà ông dại dột hy sinh đời mình vì con ngựa và chiếc xe như thế?
Ông thều thào:
- Cứ nhìn vào trong xe thì biết!
Họ nhìn vào và thấy đứa con nhỏ của ông còn đang ngủ.
Người nông dân hy sinh vì đứa con. Gioan Tẩy Giả hy sinh vì sứ mạng. Vì sứ mạng, Gioan từ bỏ mọi sự để sống cuộc sống nghèo khó. Cuộc sống của ông rất đơn giản và đạm bạc: thức ăn là những thứ tìm được ở rừng, đồ mặc thì làm bằng những tấm da thú; dép ông mang ở dưới chân cũng như vậy.
Và sau cùng, ông dám lãnh nhận một sứ mệnh mà ông biết là rất khó khăn: "Các ngươi lên rừng xem gì? Xem một tiên tri ư? Ta bảo các ngươi: còn hơn cả một tiên tri nữa." (Mt 11,9) Về ông đã có lời chép: "Này Ta sai sứ thần đi trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi".
Vâng! Gioan quả xứng đáng với lời ca tụng của Chúa..
2. Thế nhưng, Chúa lại nói thêm: "Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông" (Mt 11,11).
Gioan cao trọng nhưng chỉ cao trọng hơn những người ở trần gian. Còn một thực tại khác cao trọng hơn. Đó là Nước Trời và những người được ở trong Nước đó. Sở dĩ Nước Trời có giá trị lớn lao như vậy vì có sự hiện diện của Chúa. Cho nên những người ở trong Nước đó dù có nhỏ cũng còn cao trọng hơn Gioan.
Nhưng ai là người xứng đáng được ở trong Nước đó? Chúa Giêsu đã chẳng dấu diếm gì những điều Ngài đòi hỏi: "Nước Trời phải dùng sức mạnh mới chiếm được" (Mt 11,12).
Trong một cuốn sách nổi tiếng viết cho giới trẻ, Đức Cha Tiamer Toth đã để lại những lời như thế này: "Nam tướng J. Eotvos, một nhà tư tưởng có tiếng của Hungary đã nói:
"Giá trị chân chính của con người không phải bởi trí năng, nhưng là bởi sức mạnh của chí khí"
Một mùa xuân, anh nông dân đứng bên cạnh thửa ruộng, đưa mắt nhìn những luống cày thân yêu đang phơi mình dưới ánh sáng và tự hỏi:
- Năm nay, hỡi mảnh ruộng của ta, mi có đem lại cho ta cái gì chăng?
Những mảnh ruộng kia lại trả lời bằng một câu hỏi khác:
- Nhưng thưa ông, trước hết ông hãy cho tôi biết ông định cho tôi cái gì đã?
Người bạn trẻ cũng dừng bước trước cánh cửa nhiệm mầu của đời sống và cũng hỏi một lời tương tự:
- Hỡi đời sống, mi có dành cho ta cái gì không? Cái gì sẽ chờ đợi ta từ năm này sang năm khác?
Nhưng đời sống sẽ đáp lại chàng trẻ tuổi:
- Hỡi anh, điều đó còn tùy ở những gì anh cho tôi, phần của anh sẽ được xứng với công việc của anh. Anh sẽ hái quả của hạt giống anh gieo.
Vào thời kỳ cấm đạo đẫm máu trong thế kỷ thứ nhất của đạo Thiên Chúa, một người dân quê tên là Barlaam bị bắt và bị dẫn ra trước tượng thần Jupiter.
Người ta giục anh: "Hãy bỏ hương vào lửa rồi dâng cúng cho Thần Linh chúng ta đi!"
- "Không"! Anh trả lời.
Người ta bắt đầu hành hạ anh, nhưng anh vẫn đứng im. Người ta nâng tay anh lên trên ngọn lửa, người ta nhét hương vào bàn tay anh và bảo anh chỉ có việc bỏ rơi hương xuống lửa:
- Hãy bỏ hương xuống, mày sẽ được tự do!
- Không.
Barlaam, người dân quê đó vẫn trả lời như thế. Anh vẫn đứng im, tay giơ lên... ngọn lửa bốc mạnh liếm hẳn vào bàn tay anh, hương bắt đầu bén khói, nhưng anh vẫn không động đậy...
Bàn tay anh bị cháy xém với hương, nhưng Barlaam thà chịu chết vì Đạo còn hơn chối Chúa.
Vâng, một quả tim quả cảm, biết chịu đựng! Đó chính là sức mạnh để chiếm Nước Trời.
Lạy Chúa, chúng con là những kẻ yếu đuối. Xin nâng đỡ chúng con bằng cánh tay mạnh mẽ của Người. Xin cho chúng con biết vươn mình lên, mặc cho những sóng gió tung hoành, để đáng được ở bên Người và được Người chia sẻ vinh quang. (Epphata).
08/12 Xin Vâng.
- Viết bởi Lc 1, 26-38
Xin Vâng.
Thứ Tư tuần 2 mùa vọng – ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Chào Trinh Nữ đầy ân sủng, Chúa ở cùng Trinh Nữ".
* Ngay từ giây phút đầu tiên trong đời, Đức Maria đã được gìn giữ khỏi vương bất cứ tội lỗi nào, nhờ ân sủng do cái chết của Con mình. Như vậy, tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội được đặt căn bản trên đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa.
Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, cũng như được cất lên trời là hình ảnh tiên báo Hội Thánh. Thiên Chúa muốn cho Hội Thánh không tỳ ố, không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm nào.
LỜI CHÚA: Lc 1, 26-38
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc hơn các người nữ".
Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp và triều đại Người sẽ vô tận!"
Nhưng Maria liền thưa với Thiên Thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và Thiên Thần cáo biệt trinh nữ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Ngày 25-3-1858 tại Lộ Đức, Đức Mẹ lại hiện ra cho Bernadette,
một cô bé mười bốn tuổi, nhà nghèo, quê mùa.
Vào lần hiện ra thứ mười sáu, khi cô gặng hỏi tên của Bà đẹp,
Bà đã trả lời: Que soy era Immaculada Conception,
Ta là sự Thụ thai vô nhiễm.
Một câu trả lời khó hiểu và khó nhớ đối với một cô bé ít học.
Dĩ nhiên cô không hề biết rằng bốn năm trước đó,
Đức Piô IX đã công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm nguyên tội.
Mừng lễ Đức Maria Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ.
Thiên Chúa muốn Con Một của mình làm người trăm phần trăm,
nên cần tuyển chọn một phụ nữ để sinh ra người Con ấy.
Maria chính là người được chọn, hoàn toàn như một ân huệ.
Khi chọn Maria, Thiên Chúa đã ban cho Mẹ mọi sự tốt đẹp nhất có thể,
vì ơn gọi quá vĩ đại là làm Mẹ Con Thiên Chúa.
Maria được Thiên Chúa bao bọc
và bảo vệ bằng ân sủng tuyệt vời.
Ngài cho Mẹ được hưởng trước công nghiệp của Người Con,
nên gìn giữ Mẹ khỏi vết nhơ của nguyên tội.
Mừng lễ Vô nhiễm là mừng lễ một con người, một phụ nữ,
ngay từ giây phút đầu tiên được thụ thai,
đã trọn vẹn và tuyệt đối nằm trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Khi nói Mẹ không nhiễm vết nhơ của nguyên tội
là chỉ mới nêu lên một khía cạnh có phần tiêu cực.
Theo Công Đồng Vaticanô II, từ giây phút hiện diện đầu tiên của cuộc sống,
Mẹ đã được rạng ngời một sự thánh thiện hoàn toàn độc nhất vô nhị.
Giáo Hội Đông Phương gọi Mẹ là Đấng toàn thánh (panagia).
Sự thánh thiện của Mẹ đã được sứ thần Gabrien diễn tả qua lời chào:
”Mừng vui lên, hỡi Đấng được đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà.”
Maria được Thiên Chúa ban đầy tràn ân sủng,
nghĩa là được Thiên Chúa yêu thương,
và được đẹp lòng Thiên Chúa,
từ trước khi Mẹ nói tiếng Xin Vâng.
Nhưng ân sủng không bóp chết sự tự do và trách nhiệm.
Mẹ đã đáp lại tình yêu đó với sự cởi mở không ai sánh bằng.
Tiếng Xin Vâng trên môi của cô thiếu nữ Maria
là cử chỉ đón lấy Đấng Cứu Độ vào đời mình, vào lòng dạ mình.
Maria đã suốt đời trung tín với tiếng Xin Vâng đầu tiên
bằng việc nói muôn tiếng Xin Vâng khác cho đến tận thập giá.
Những gì Mẹ Maria được hưởng, chúng ta cũng được chung phần.
Chúng ta cũng được chọn, được tẩy xóa tội nguyên tổ, được ban ơn.
Chúng ta cũng được mời gọi đáp lại bằng những tiếng Xin Vâng nho nhỏ.
Sống Mùa Vọng là để cho Con Thiên Chúa đi vào đời mình.
Như Đức Maria, chúng ta được mời gọi cưu mang Con Thiên Chúa,
làm cho Ngài lớn lên mỗi ngày và sinh Ngài ra thế giới.
Chúng ta cũng muốn cưu mang Giêsu với trái tim cuộc đời vô nhiễm.
Xin Chúa cho chúng ta được chia sẻ ơn Vô Nhiễm giữa cuộc đời ô nhơ.
Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ, mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại, hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
Suy niệm 2: Nhớ lại và lắng nghe
(ĐGM. Bùi Tuần )
Mừng lễ Đức Mẹ Vô nhiễm là một niềm vui của các con cái Đức Mẹ. Có nhiều cách mừng.
Riêng tôi, khi cuộc đời đã sang thu, sắp bước vào mùa đông, tôi mừng lễ Đức Mẹ vô nhiễm một cách cũng rất riêng tư.
Tôi mừng lễ bằng cách vừa nhớ lại Đức Mẹ trong Phúc Âm, vừa nhìn lại Đức Mẹ trong đời tôi. Để rồi lắng nghe Mẹ nhắn nhủ hôm nay.
Nhớ lại.
Tôi thấy Đức Mẹ thuở xưa trong Phúc Âm cũng là Đức Mẹ trong chuyến đi dài đời tôi.
Đức Mẹ dạy tôi bằng Phúc Âm. Đức Mẹ cũng dạy tôi bằng những dắt dìu trong dòng lịch sử.
Nếu cần tóm tắt, thì xin vắn gọn thế này:
Đức Mẹ, tuy được ơn vô nhiễm, nhưng cũng chịu nhiều đau đớn, để góp phần vào công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu. Đúng như lời tiên tri Simeon đã báo trước: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà” (Lc 2,25).
Những con cái Mẹ, nhất là tôi, mình đầy ô nhiễm, càng không được phép miễn khỏi thánh giá. Ít là phần nào.
Chúa Giêsu là con Mẹ, xưa “đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thánh giá” (Pl 2,8).
Đức Mẹ nên giống Chúa cứu thế không phải ở sự chịu đóng đinh, nhưng ở sự Mẹ chịu những lưỡi gươm đâm vào lòng. Những lưỡi gươm vô hình, với những nhát đâm vô hình, cùng những vết thương vô hình. Vô hình, nhưng thực sự đau đớn.
Chẳng nói hết được những đau đớn đó của Mẹ.
Còn những con cái Mẹ, thì kẻ cách này, người cách nọ, họ cũng được thanh luyện bằng trải qua những đớn đau lớn nhỏ. Đớn đau của họ tự nó chẳng có gì là giá trị. Nhưng nhờ Mẹ nhuộm nó vào tình yêu của Mẹ, nên nó trở thành bông hoa.
Những bông hoa như thế nơi tôi chẳng nhiều. Nếu muốn tìm nó, thì phải tìm ở những dòng nước mắt.
Trước hết là hoa sám hối trong những nước mắt ở cuộc chiến nội tâm.
Cuộc chiến nội tâm của tôi cũng đã có một người xưa trải qua và diễn tả rất rõ. Đó là thánh Phaolô. Ngài phơi bày như những tiếng nức nở nghẹn ngào: “Vẫn biết rằng Lề luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu, vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm..
Bởi đó tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí. Nó giam cầm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,14-25).
Cuộc chiến nội tâm giữa thiện và ác nơi thánh Phaolô chỉ được tả là rất cam go. Còn chiến thắng hay chiến bại thì không thấy ngài nói. Phần tôi, có lúc thắng và cũng có lúc bại. Vì thế mà tôi sám hối. Sám hối là bông hoa đầu tiên tôi dâng lên Mẹ vô nhiễm. Mẹ đã thương giúp tôi trở về, như Mẹ đã giúp kẻ trộm lành xưa chịu treo trên thập giá.
Bên cạnh bông hoa sám hối trồng trong dòng nước mắt ăn năn, tôi có thể lượm được một bông hoa khác. Tôi tạm gọi nó là hoa cảm thương trôi trong dòng nước mắt bất lực không thể phục vụ.
Biết bao lần, tôi cảm thấy đau đớn vì bất lực trong việc loan báo Tin Mừng. Tôi nghĩ Đức Mẹ xưa đã khóc khi phải chấp nhận âm thầm bồng con trốn sang Ai Cập và ở lại đó ẩn mình trong cảnh nghèo khó (Mt 2,13-18).
Đức Mẹ chắc cũng đã khóc, khi phải chứng kiến cảnh con mình bị hành hạ và bị giết (Ga 19,25-27). Mẹ đã không cứu được con mình. Nhưng Chúa lại muốn như vậy. Sự vâng lời như thế còn đau hơn là chết.
Chương trình cứu độ của Chúa rất khác ý nghĩ của con người. Chúng ta tưởng sẽ cứu được các linh hồn và làm vinh danh Chúa, nhờ những phô trương quyền bính, cao rao chức tước, thổi phồng uy tín, tổ chức lễ lạt linh đình. Nhưng tất cả sẽ không có giá trị bằng sự vâng phục ý Chúa. Ý Chúa là muốn ta chấp nhận hạ mình xuống, đi theo con đường Chúa cứu thế đã đi, và Đức Mẹ vô nhiễm cũng đã vâng ý Chúa bước theo từng bước.
Ngoài ra, biết bao lần, tôi cảm thương đau đớn vì bất lực trong việc cứu giúp những người cần được giúp đỡ, hoặc về vật chất hoặc về tinh thần. Tôi muốn giúp. Nhưng ý muốn của tôi đụng vào những giới hạn khắp nơi của tôi. Những giới hạn đó càng ngày càng lớn, khi tuổi tác bệnh tật càng tăng lên. Phục vụ trong những tình trạng này sẽ chỉ còn là tập trung vào cầu nguyện và dâng đau khổ với tình yêu siêu nhiên lên Chúa giàu lòng thương xót, qua trái tim Mẹ vô nhiễm, để góp phần nào vào việc loan báo Tin Mừng.
Chính trong những tình trạng này, mà tôi được thu hút nhiều hơn đến việc lắng nghe Đức Mẹ nhắn nhủ con cái Mẹ đang sống trong thời điểm hiện nay.
Lắng nghe.
Thời điểm hôm nay là một thời điểm rất đáng ngại. Ngại vì ma quỉ và thế tục xấu đang cố tình tạo ra một môi trường ô nhiễm. Tôi không muốn nói về môi trường ô nhiễm sinh thái, mà về môi trường phong hoá và luân lý.
Ô nhiễm khắp nơi. Ai cũng phải sống chung với ô nhiễm. Nhưng khả năng và mức độ chịu ảnh hưởng ô nhiễm sẽ tuỳ theo ba cái mốc này:
Nơi chốn, lứa tuổi và giới phái.
Nơi chốn là một nước, một vùng, hoặc một văn hoá, một tôn giáo hay không tôn giáo, hoặc một giai cấp, một mức sống, một tổ chức. Có nơi ô nhiễm hơn nơi khác.
Lứa tuổi là lớp già, lớp thanh niên, lớp thiếu nhi, lớp trẻ thơ. Có lớp tuổi dễ bị ô nhiễm hơn lớp tuổi khác.
Giới phái là nam, là nữ. Có giới phái dễ bị ô nhiễm hơn giới phái khác.
Hiện nay, làm sóng ô nhiễm mạnh nhất về phong hoá là hưởng thụ độc hại. Người ta tìm mọi cách để tìm hưởng thụ đó. Hưởng thụ nhờ danh vọng, chức tước, địa vị, quyền lợi, tiền bạc, ăn uống, tiện nghi, giải trí, sắc dục, vv.... Nếu không cảnh giác, thì cả những gì vốn được tôn trọng là thánh thiêng, cũng có thể bị lợi dụng cho mục đích hưởng thụ xấu xa.
Trước một nguy cơ lớn mạnh và tinh vi có khả năng tiêu diệt những giá trị thiêng liêng, đẩy các linh hồn vào tay thần dữ, để chúng tha hồ lôi xuống hoả ngục, Đức Mẹ vô nhiễm đã hiện ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở Mễ Du và nhiều nơi khác, để tha thiết kêu gọi nhân loại sám hối, khiêm tốn đi vào đàng thiện. Kẻo sẽ quá muộn.
Vậy ta hãy lắng nghe Mẹ, mà vâng phục ý Chúa. Chính bản thân ta hãy trở thành đền thờ Chúa Thánh Thần, trong đó ta được hưởng thụ những gì là chân thiện mỹ, bình an, hạnh phúc đích thực và bền vững.
Tôi có cảm tưởng là nhiều người hiện nay đang sống như không có lương tâm, hoặc với một cái tâm đã lạnh cứng. Không còn khả năng rung cảm với những nỗi đau của Chúa, của Đức Mẹ, của Hội Thánh, của những kẻ khốn cùng đang dở sống dở chết xung quanh mình.
Nhưng tôi vẫn tin vững vàng lời Chúa phán trong Phúc Âm: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Nhất là với lời cầu bầu của Đức Mẹ vô nhiễm. Nên sự phục hưng lại Hội Thánh giữa một thế giới đầy ô nhiễm sẽ thực hiện được.
Nhưng đừng quên sự phục hưng như thế phải bắt đầu từ mỗi người chúng ta, con cái của Mẹ vô nhiễm.
Trong mỗi người, việc phục hưng sẽ bắt đầu và nhấn mạnh ở cái tâm. Cái tâm làm sao giữ không bị nhiễm, sẽ dẫn đưa tất cả con người về đàng thiện. Không bị nhiễm là nhờ thánh giá. Hoặc bị nhiễm mà được rửa sạch cũng là nhờ thánh giá.
Chúng ta ít là hãy ước muốn việc đó, và dâng ước muốn chân thành đó lên trái tim Mẹ vô nhiễm. Người là Mẹ Chúa Cứu thế và cũng là mẹ chúng ta. Người là hy vọng của những ai sống bé mọn và tín thác nơi trái tim vô nhiễm đầy tình mẫu tử dịu dàng xót thương của Người. Người là nơi trú ẩn của những kẻ lỗi lầm biết sám hối. Người là Đấng cầu bầu đắc lực nhất trước toà Chúa cho tất cả những ai tin tưởng nơi Người.
Suy niệm 3: Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
(http://tgpsaigon.net)
Một trong những lễ đẹp lòng trái tim Mẹ Maria nhất, chắc hẳn là lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Thánh lễ này nhằm tôn kính đặc ân riêng cho Mẹ là đã được thụ thai trong lòng Thánh Anna một cách tinh tuyền không vương tì ố. Thiên Chúa đã giữ gìn Mẹ khỏi tội tổ tông, tội mà vì mọi người chúng ta khi sinh ra đều vướng mắc vì thuộc dòng giống Adam. Đức Maria, do một đặc ân duy nhất, từ lúc hình thai, vẫn luôn tinh tuyền xinh đẹp trước mặt Chúa. Bởi vậy, do ơn thánh và do cuộc sống, Mẹ luôn là đối tượng đẹp mắt Chúa, theo như lời Thánh Kinh đã được quy về Mẹ: Mẹ tuyệt mỹ, không hề vương vấn tội tình.
Người ta có thể tự hỏi, làm sao lại có đặc ân này? Để trả lời cho trường hợp đặc biệt này, chúng ta chạy đến ơn phúc của Chúa Giêsu Kitô. Ơn cứu chuộc của Chúa Kitô đã có sức mạnh toàn năng để cứu nhân loại khỏi tội nguyên tổ, cũng đã giữ gìn cho Mẹ khỏi tội tổ tông. Các nhà thần học đã chứng minh điều đó, các giáo phụ đã giảng dạy, các nhà giảng thuyết đã phổ biến... nhưng thời đại của chúng ta được thấy sự vinh quang cao cả này trở thành tín điều trong đức tin Kitô giáo, ngày 8-12-1854, trước sự hiện diện của 54 hồng y, 42 tổng giám mục và 92 giám mục cùng đoàn người đông đảo, Đức Giáo hoàng Piô IX, vị đại diện Chúa Kitô, đã tuyên bố tín điều từ bao thế kỷ đợi trông.
Dưới đây là những lý do khiến Giáo Hội công bố tín điều Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.
1. Chúa Giêsu Kitô, vì sự thánh thiện của Ngài, phải được sinh ra bởi người mẹ vô nhiễm nguyên tội. Đấng tuyệt đối thánh thiện, lại chịu sinh ra từ một thân thể bị nhơ nhớp vì tội lỗi được sao? Thân xác của Chúa Kitô là xác thân bởi Mẹ Maria. Vậy nếu Mẹ Maria thụ thai trong tội, hẳn Ngài đã thông truyền cho Chúa Giêsu một xác thể bị nhơ uế vì tội lỗi: Quả là một điều ô nhục cho Chúa!
2. Vinh quang của Chúa Giêsu đòi hỏi phải giữ cho Mẹ Người khỏi vết nhơ tội nguyên. Mục đích của Chúa Con khi xuống trần gian này là để huỷ diệt quyền lực của quỷ dữ và tội lỗi. Người đã thắng ma quỷ khi nhờ phép rửa tội, đưa các Kitô hữu ra hỏi vòng tội lỗi, thanh tẩy các tội nhân nhờ phép giải tội. Người đã thắng ma quỷ cả trước khi Người nhập thể, như khi thánh hoá từ lòng mẹ tiên tri Giêrêmia, Thánh Gioan Tẩy Giả, Thánh Giuse bạn Đức Trinh Nữ. Nhưng những chiến thắng này chưa hoàn toàn. Còn một lúc mà quyền lực hoả ngục khoe khoang rằng: có thể làm cho ơn thánh bị vô hiệu, đó là lúc thụ thai. Vậy sự chiến thắng sẽ hoàn hảo nếu Mẹ Maria được ơn vô nhiễm nguyên tội; đặc ân này thể hiện lời hứa đã được loan báo từ trước: “Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp nát đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St 3,15).
Niềm tin vào ơn vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria đã được chính Đức Mẹ chứng thực. Năm 1858, nghĩa là chỉ bốn năm sau ngày tuyên bố tín điều, Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức và tuyên bố: Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội ngay từ buổi đầu thai.
Việc mừng trọng thể lễ Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội vào Mùa Vọng có một ý nghĩa đặc biệt, như mừng “cuộc chuẩn bị căn bản cho Đấng Cứu Thế xuất hiện, vầng đông sáng tươi của một Hội Thánh không tì vết” (Marialis Cultus 3).
Suy niệm 4: Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm
(Lm Giuse Đinh lập Liễm)
I. LÒNG SÙNG KÍNH QUA THỜI GIAN
Thánh Kinh không minh nhiên nói về việc Đức Maria ngay từ thưở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ, nhưng lòng sùng kính cá nhân hay trong cộng đoàn địa phương đã có từ lâu. Giáo dân với lòng thành thật đã tin rằng Đức Maria đã được ơn vô nhiễm nguyên tội và lòng sùng kính mỗi ngày một tăng thêm.
Về phụng vụ, chúng ta thấy đã có những thánh lễ kính Đức Mẹ vô nhiễm từ thế kỷ thứ 9, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền nam nước Ý. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập Thánh lễ này vào giáo phận của Ngài.
Vào năm 476 Đức Giáo hoàng Sixtô IV xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem lễ này vào Giáo hội La mã.
Tuy Thánh lễ kính Đức Mẹ Vô nhiễm đã được mừng trọng thể trong toàn Giáo hội, nhưng lòng tin vào đặc sủng này còn bỏ ngỏ để các nhà thần học tự do nghiên cứu và thảo luận.
Riêng Giáo phận Bùi chu, năm 1845 là thời kỳ cấm đạo gay gắt nhất, Đức cha Valentinô Vinh coi sóc Giáo phận đã thay mặt cho giáo phận khấn với Đức Mẹ Vô Nhiễm: “Nếu cơn bách hại tan đi thì Giáo phận sẽ xây dâng kính Đức Mẹ một ngôi thánh đường xứng đáng.”.
Nhờ ơn Đức Mẹ, cơn bắt đạo qua đi, và thánh đường khấn hứa đã bắt đầu được xây cất vào năm 1917 tại làng Phú nhai (Bùi chu) và hoàn thành vào năm 1923. Nhưng mùa hè năm 1929 một cơn bão lớn đánh sập và năm 1938 việc tái thiết được hoàn thành.
Đây là ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ, theo kiểu gothique, với chiều dài 83 mét, rộng 28 mét và tháp chuông cao 30 mét. Mới đây thánh đường Phú nhai mới được nâng lên thành “tiểu vương cung thánh đường” dâng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm.
II. TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
Sự kiện
Suốt một thời gian dài lòng sùng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm vẫn triển nở. Mãi đến ngày 08/12/1854, cũng trong ngày lễ hôm nay, Đức Giáo hoàng Piô IX, sau khi tham khảo ý kiến các Giám mục trên khắp thế giới, đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên Tội bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus”, trong đó Ngài tuyên bố: “Rất thánh Trinh nữ Maria nhờ Thiên Chúa toàn năng và nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại ban cho ân phúc đặc biệt là ngay từ khi thụ thai đã được gìn giữ khỏi hết mọi bợn nhơ của tội nguyên tổ. Đó là tín điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế buộc mọi người phải tin vững vàng mãi mãi”.
Có lẽ Đức Mẹ muốn củng cố cho tín điều mà Đức Giáo hoàng Piô IX mới tuyên bố, thì ngày 11/02/1858 Đức Mẹ đã hiện ra tại hang đá Massabielle ở Lộ đức với một thiếu nữ 14 tuổi quê mùa dốt nát hay đau yếu nhưng đơn sơ trong trắng tên là Bernadette.
Hôm đó, Bernadette đang đi chặt củi với mấy đứa bạn thì một bà lạ mặc áo trắng như tuyết đã hiện ra với em. Bà lạ đó đã hiện ra tất cả 18 lần. Có lần em đã kể với cha sở là bà lạ muốn xây một thánh đường ở đây. Nhưng cha sở đã bảo em rằng hãy hỏi xem bà là ai? Tên là gì? Nhiều lần em đã hỏi nhưng bà im lặng. Cuối cùng vào ngày lễ Truyền Tin (25/03), sau khi Bernadette hỏi bà là ai thì bà chắp tay trước ngực, ngước mắt lên trời mỉm cười đáp: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Đây là tín điều mà Đức Giáo hoàng Piô IX đã long trọng công bố trước đó gần 4 năm.
Lý do
Tin mừng hôm nay kể lại: Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Trinh nữ Maria biết Thiên Chúa đã chọn Trinh nữ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sứ thần bắt đầu báo tin trọng đại ấy bằng một lời chào có vẻ rất tầm thường, nhưng lại chứa đựng đầu mối của mọi đặc ân nơi Đức Maria.
“Kính chào Trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc ơn mọi phụ nữ”. Lời chào này đã gián tiếp đề cập đến mầu nhiệm và đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria. Bởi vì “đầy ơn phúc” (gratia plena) thì tất nhiên là không có tội. Cũng như một gian phòng, nếu đầy ánh sáng, dĩ nhiên bóng tối không còn có thể xâm nhập vào được nữa.
Chúng ta có thể tóm tắt trình bầy Đức Maria được khỏi tội tổ tông theo Thánh Kinh và thần học để hiểu rõ thêm, dĩ nhiên đây chỉ là suy nghĩ cá nhân, còn các nhà thân học có những suy nghĩ khác.
Theo Thánh Kinh
Sách Sáng thế cho biết: sau vụ rắn quỉ cám dỗ hai tổ tông phạm tội và Thiên Chúa đã ra hình phạt cho cả hai bên, Ngài còn phán tiếp với con rắn quỉ: “Ta sẽ đặt mối thù giữ mi và người đàn bà, giữa miêu duệ mi và miêu diệu người đàn bà, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi”(St 3,15).
Người đàn bà này là ai? Chắc chắn không phải Evà, vì lẽ Evà đã phạm tội. Và theo Thánh Kinh, kẻ phạm tội thì làm tôi cho sự tội (Ga 8,34). Và kẻ làm tôi sự tội dĩ nhiên làm tôi ma quỉ. Đã làm tôi ma quỉ lại đạp nát đầu ma quỉ thì cả là một sự vô lý, khác nào con ở đánh phạt chủ nhà vậy.
Cho nên, người nữ đây phải hiểu là Đức Maria – người có quyền đạp đầu con rắn quỉ. Nhưng việc Đức Maria đạp đầu rắn quỉ không thể cắt nghĩa được nếu không nhận Ngài có quyền trên rắn quỉ, cũng không cắt nghĩa được nếu không công nhận Đức Maria không mắc tội tổ tông, vì lẽ tội tổ tông mới làm cho rắn quỉ có quyền như thế.
Theo Thần học
“Thiên Chúa ở cùng Trinh nữ”. Thiên Chúa là Đấng thánh vô cùng. Tội lỗi không thể ở chung với Thiên Chúa. Tội lỗi chống lại sự thánh thiện của Thiên Chúa như bóng tối và ánh sáng. Vậy, nếu Thiên Chúa ở cùng Đức Maria, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm đền thờ cho Ngài ngự, thì tội lỗi còn ở trong Đức Maria thế nào được?
Như đã nói Thiên Chúa và tội lỗi xung đột nhau như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Nếu Đức Maria mang tội tổ tông trong lòng một trật lại cưu mang Thiên Chúa, hóa ra Người là vật hy sinh chứa đựng hai sự xung đột như trên sao?
Thứ nữa, Thiên Chúa là Đấng vô tội – và gớm ghét sự tội, nay lại xuống thai trong lòng một người mang tội, thì chẳng ra con người có tiếng là thanh sạch mà lại gieo mình vào đống bùn nhơ sao?
Đàng khác, Chúa xuống thế gian để kêu mời kẻ có tội (Mc 2,17; Lc 5,32) nghĩa là làm cho kẻ có tội sạch tội và nên thánh thì tại sao lại không làm cho Mẹ mình sạch tội và nên thánh, nếu thật sự Mẹ mình ít nhất là có tội tổ tông? Do đó phải kết luận rằng Đức Maria được khỏi tội nguyên tổ là một đặc ân Thiên Chúa ban cho để Người cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu chuộc loài người.
Tuy nhiên, đặc ân vô nhiễm nguyên tội này không có lý do nào khác ngoài tình thương Thiên Chúa ban cho Đức Maria vì Thiên Chúa đã chọn Ngài làm Mẹ mình. Ngài làm cho Mẹ mình “có phúc hơn các người nữ”, nghĩa là từ người nữ đầu tiên cho đến người nữ cuối cùng đều thua kém Đức Maria.
Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy: “Suốt dòng lịch sử, Hội thánh ý thức rằng Đức Maria vì được Thiên Chúa ban cho “đầy ơn phúc” (Lc 1,28), nên được cứu chuộc ngay từ lúc tượng thai. Đó là nội dung tín điều VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI do Đức Piô IX công bố năm 1854.
Sách Denzinger cũng còn trưng lại: “Đức Trinh nữ diễm phúc Maria đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc tượng thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ loài người”(DS 2803)
III. SỐNG TRONG SẠCH THEO GƯƠNG MẸ MARIA
Đặc ân vô nhiễm nguyên tội đã chuẩn bị cho Đức Maria một sứ mạng cao quí là được làm mẹ Đấng Cứu thế, làm Mẹ Thiên Chúa xuống thế làm người và làm mẹ của tất cả chúng ta.
Ngày nay, qua Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên tội, Chúa Cứu thế đã đến với chúng ta và đã thực hiện ơn cứu độ trong thế giới. Ngài đã trả lại cho con người tình trạng ơn nghĩa đã bị đánh mất vì tội nguyên tổ. Như thế, chúng ta tuy không được đặc ân vô nhiễm nguyên tội như Đức Mẹ nhưng chúng ta đã được khỏi tội nguyên tổ trong bí tích Thánh tẩy. Và khi được rửa sạch tội lỗi trong bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã được sự sống mới, sự sống của Chúa và được có “Chúa ở cùng chúng ta” như đã ở cùng Đức trinh nữ Maria. Chúng ta không được làm mẹ Thiên Chúa, nhưng qua bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, làm em của Đức Giêsu Kitô và con của Mẹ Maria.
Trong bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã được tha tội tổ tông, nhưng hệ lụy của tội nguyên tổ vẫn còn ảnh hướng xấu đến chúng ta. Con người chúng ta trở nên yếu đuối dễ hướng chiều về tội lỗi. Chúng ta vẫn bị ma quỉ các dỗ nhất là lỗi đức trong sạch. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria mà giữ hồn xác trong sạch, xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa.
Truyện: Bị chém đầu vì bàn tay nhơ nhớp
Người ta kể rằng: một ngư phủ nghèo nàn ở Huế ngày xưa đã rất sung sướng khi anh ta lượm được chiếc sọ của vua Gia Long (1800-1820) nổi lềnh bềnh trên dòng sông Hương (vì lăng tẩm nhà vua bị lấy trộm).
Bác ngư phủ lập tức đi tới Hoàng cung để trình bầy xương sọ của vua Gia Long cho các vị Thượng thư, dĩ nhiên, bác nghĩ rằng mình sẽ được trọng thưởng.
Và bác đã được trọng thưởng thật.
Trọng thưởng thế nào?
Đầu tiên bác ngư phủ được nâng lên hàng Đại thần. Con cái của bác ta được hoàng gia che chở, tiền nong tha hồ tiêu. Rồi triều đình lập tức cho xây cất một đền thờ ngư phủ, hiện nay vẫn còn ngôi đền này tại Huế.
Tại sao lại phải xây cất đền thờ cho ngư phủ?
Đó là vì: bác ngư phủ sau các tưởng thưởng kể trên đã bị điệu ra Ngọ môn để chém đầu. Bác ta bị hành quyết vì can tội dùng hai bàn tay nhơ nhớp hèn hạ của mình mà sờ vào hài cốt của một vị vua!
Ôi! Vua Gia Long là gì mà một người nhà quê đụng tới hài cốt lại phải bị chém đầu! Người ta đã quá kính trọng hài cốt của một con người đã chết mà khinh thường mạng sống của một con người. Nhưng dù sao câu chuyện đó cũng để lại cho chúng ta một bài học: đó là chúng ta phải dọn linh hồn chúng ta cho trong sạch để hằng ngày chúng ta xứng đáng rước Chúa ngự vào long.
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta hãy hạ quyết tâm: Hãy tôn sùng Đức Maria với tước hiệu “Vô nhiễm Nguyên Tội”. Hãy lấy Mẹ làm gương, sống trong sạch.
Họa sĩ Fra Angelico, một lần vẽ mặt Đức Mẹ thì suy gẫm và cầu nguyện trước, mặc dầu không bao giờ hài lòng và phải đề thêm vào bức họa: Virgo Maria, non est similis tui ( Trinh nữ Maria, không ai giống được như Mẹ). Ta cố gắng theo gương Mẹ. Mặc dầu sẽ không bao giờ giống Mẹ hoàn toàn, nhưng cũng như Mẹ đã mỉm cười với Fra Angelico, thì cũng sẽ in vào lòng ta một hai nét của các nhân đức Người, nhất là đức trong sạch.
Suy niệm 5: Mẹ Maria Vô Nhiễm
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ Maria được làm Mẹ của Thiên Chúa. Để chuẩn bị cho sứ mạng ấy, Thiên Chúa cho Mẹ đầy ân sủng. Cuộc đời Mẹ luôn có Chúa ở cùng, không một giây phút dính vết nhơ tội lỗi, dù là tội nguyên tổ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thờ lạy Chúa là Đấng Thánh Thiện tuyệt đối. Vì yêu thương, Chúa không quản ngại làm người mang thân phận yếu đuối mỏng giòn như mọi người. Tuy nhiên, Chúa là Đấng Thánh, Chúa chỉ thực sự hiện diện nơi những tâm hồn trong sạch.
Lạy Chúa, nhân loại ngày xưa có được một Mẹ Maria trong sạch để đón tiếp Chúa. Còn ngày nay nhân loại ngụp lặn trong tội lỗi, có tìm được mấy ai xứng đáng đón tiếp Chúa? Con chẳng được ơn vô nhiễm nguyên tội, nhưng con đã được bí tích Rửa Tội xóa tội tổ tông và thánh hiến hồn xác con nên đền thánh cho Chúa ngự. Nhưng rồi con lại làm hoen ố cung thánh tâm hồn. Con đi xưng tội nhưng rồi lại cứ tái phạm, làm nhơ bẩn chiếc áo trắng Rửa Tội. Và cứ thế, tội lỗi chồng chất lên đời con và lan tràn ảnh hưởng sang người khác.
Con thành tâm thống hối xin Chúa tha thứ và thanh tẩy tội lỗi con. Xin Chúa làm cho con nên trong trắng để xứng đáng đón Chúa mỗi ngày, nhất là trong dịp giáng sinh này. Giữa cuộc đời nhiều cạm bẫy cám dỗ, xin Chúa giúp con can đảm vững vàng trong đường lối Chúa. Xin cho con khôn ngoan tránh xa dịp tội.
Lạy Mẹ Maria, con trao phó hồn xác con cho Mẹ giữ gìn. Xin giúp con sạch tội, để như Mẹ, con được mang Chúa trong mình và ban tặng Chúa cho anh chị em con. Amen.
Ghi nhớ: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”.
Suy niệm 6: Evà mới
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
Trong Kinh Thánh không có chỗ nào nói rõ Đức Mẹ được ơn Vô Nhiễm, nhưng qua thời gian, Giáo Hội đã học hỏi Kinh Thánh và dùng quyền người quản lý kho tàng của Thiên Chúa, đã hiểu được rằng: Ngay từ thuở ban đầu, Đức Trinh Nữ Maria, Thân Mẫu của Chúa cứu thế và đồng thời cũng là Thánh Mẫu của Thiên Chúa, đã được giữ gìn khỏi tội nguyên tổ.
Trong bài đọc 1, sách Sáng Thế cho chúng ta thấy Thiên Chúa muốn chia sẻ tình bạn, sự cận thân và lòng yêu mến với con người, nhưng con người đã phản bội. Tuy vậy bản án của Thiên Chúa không phải là lời cuối cùng của Người. Qua lời tuyên phạt con rắn -hình ảnh của Xatan- con người được ân hứa nâng đỡ để chiến thắng ác quỷ, để trở về với Thiên Chúa, với cuộc sống hạnh phúc: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó; người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi.” Đó chính là lời hứa chuẩn bị cho Đấng cứu thế ra đời. Đấng cứu thế đó, chính là Con Thiên Chúa giáng sinh làm người.
Nhưng người phụ nữ nào sẽ là bà Evà mới -mẹ của chúng sinh, mẹ của một nhân loại mới- xứng đáng với sự thánh khiết của Ngôi Con Thiên Chúa? Chắc chắn không có người phàm nào ở trần thế này có thể cưu mang Con Đấng Chí Thánh, bởi tất cả đã thuộc giòng giống loài người bất xứng vì tội phạm của Ađam. Cho nên chỉ còn cậy dựa vào tình thương yêu vô hạn của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thừa khả năng và minh trí, thánh thiện để tạo cho Ngôi Con của mình một cung điện xứng đáng. Vì vậy Thiên Chúa đã chuẩn bị cho Đức Trinh Nữ Maria làm người mẹ cưu mang và sinh hạ Chúa Cứu thế. Lời của thiên sứ Gáprien chào kính: “Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ”... “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Trinh Nữ và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Trinh Nữ. Vì thế Đấng Trinh Nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,28.35).
Như thế, từ thuở đời đời Trinh Nữ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn và Thiên Chúa đã gìn giữ Người, để Người có đủ điều kiện xứng đáng cho “Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ” cũng như “Trinh Nữ đầy ơn phúc”, nghĩa là trong Trinh Nữ có Thiên Chúa hiện diện, vì Thiên Chúa là nguồn cội của mọi ơn phúc. Trong Chúa Kitô, với Thánh Ý của Thiên Chúa, Đức Maria đã được cứu chuộc một cách siêu việt, nghĩa là Đức Mẹ được Chúa cứu chuộc trước thời gian. Đối với Thiên Chúa, thời gian làm sao có thể cản trở Người? Như thế, vì tính chất phong phú của ơn phúc Con chí ái cứu thế của Thiên Chúa mà Đức Maria đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ.
Ngoài thông điệp của Đức Giáo Hoàng Piô IX tuyên tín về việc Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, Công đồng Vatican II, ngày 24.11.1964 đã xác nhận: “Đức Trinh Nữ Maria được gìn giữ tinh sạch khỏi vết tội nguyên tổ và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên trời hưởng vinh quang cả hồn và xác và được Thiên Chúa tôn làm Nữ Vương vũ trụ” (LG 59).
Chúng ta cảm tạ tình yêu Thiên Chúa đã ban ơn Vô Nhiễm nguyên tội cho Đức Mẹ, để nhờ Mẹ mà Đức Kitô được giáng sinh cách thanh khiết, thánh thiện, hầu đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Xin Đức Mẹ phù hộ cho chúng ta sống trong sạch, công chính, đừng bao giờ cố tình sai phạm tội lỗi, để luôn xứng đáng trước mặt Mẹ là Đấng Thánh của Thiên Chúa, và có thể vào hàng ngũ con cái Mẹ ra nghinh đón Chúa Cứu Thế ngự đến.
Suy niệm 7: Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (Lc 1,26-38)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Lý do: Tin mừng hôm nay kể lại: Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Trinh nữ Maria biết Thiên Chúa đã chọn Trinh nữ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sứ thần bắt đầu báo tin trọng đại ấy bằng một lời chào có vẻ rất tầm thường, nhưng lại chứa đựng đầu mối của mọi đặc ân nơi Đức Maria.
“Kính chào Trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc hơn mọi phụ nữ”. Lời chào này đã gián tiếp đề cập đến mầu nhiệm và đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria. Bởi vì “đầy ơn phúc” (gratia plena) thì tất nhiên là không có tội. Cũng như một gian phòng, nếu đầy ánh sáng, dĩ nhiên bóng tối không còn có thể xâm nhập vào được nữa.
Chúng ta có thể tóm tắt trình bày Đức Maria được khỏi tội tổ tông theo Thánh kinh và thần học để hiểu rõ thêm, dĩ nhiên đây chỉ là suy nghĩ cá nhân, còn các nhà thần học có những suy nghĩ khác.
Theo Thánh kinh
Sách Sáng thế cho biết: sau vụ rắn quỷ cám dỗ hai tổ tông phạm tội và Thiên Chúa đã ra hình phạt cho cả hai bên, Ngài còn phán tiếp với con rắn quỷ: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa miêu duệ mi và miêu diệu người đàn bà, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi” (St 3,15).
Người đàn bà này là ai? Chắc chắn không phải Evà, vì lẽ Evà đã phạm tội. Và theo Thánh kinh, kẻ phạm tội thì làm tôi cho sự tội (Ga 8,34). Và kẻ làm tôi sự tội dĩ nhiên làm tôi ma quỷ. Đã làm tôi ma quỷ lại đạp nát đầu ma quỷ thì cả là một sự vô lý, khác nào con ở đánh phạt chủ nhà vậy.
Cho nên, người nữ đây phải hiểu là Đức Maria – người có quyền đạp đầu con rắn quỷ. Nhưng việc Đức Maria đạp đầu rắn quỷ không thể cắt nghĩa được, nếu không nhận Ngài có quyền trên rắn quỷ, cũng không cắt nghĩa được nếu không công nhận Đức Maria không mắc tội tổ tông, vì lẽ tội tổ tông mới làm cho rắn quỉ có quyền như thế.
Theo Thần học
“Thiên Chúa ở cùng Trinh nữ”. Thiên Chúa là Đấng thánh vô cùng. Tội lỗi không thể ở chung với Thiên Chúa. Tội lỗi chống lại sự thánh thiện của Thiên Chúa như bóng tối và ánh sáng. Vậy, nếu Thiên Chúa ở cùng Đức Maria, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm đền thờ cho Ngài ngự, thì tội lỗi còn ở trong Đức Maria thế nào được?
Như đã nói Thiên Chúa và tội lỗi xung đột nhau như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Nếu Đức Maria mang tội tổ tông trong lòng một trật lại cưu mang Thiên Chúa, hoá ra Người là vật hy sinh chứa đựng hai sự xung đột như trên sao?
Thứ nữa, Thiên Chúa là Đấng vô tội – và gớm ghét sự tội, nay lại xuống thai trong lòng một người mang tội, thì chẳng ra con người có tiếng là thanh sạch mà lại gieo mình vào đống bùn nhơ sao?
Đàng khác, Chúa xuống thế gian để kêu mời kẻ có tội (Mc 2,17; Lc 5,32), nghĩa là làm cho kẻ có tội sạch tội và nên thánh, thì tại sao lại không làm cho Mẹ mình sạch tội và nên thánh, nếu thật sự Mẹ mình ít nhất là có tội tổ tông? Do đó phải kết luận rằng: Đức Maria được khỏi tội nguyên tổ là một đặc ân Thiên Chúa ban cho, để Người cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu chuộc loài người.
Tuy nhiên, đặc ân vô nhiễm nguyên tội này không có lý do nào khác ngoài tình thương Thiên Chúa ban cho Đức Maria, vì Thiên Chúa đã chọn Ngài làm Mẹ mình. Ngài làm cho Mẹ mình “có phúc hơn các người nữ”, nghĩa là từ người nữ đầu tiên cho đến người nữ cuối cùng đều thua kém Đức Maria.
Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy: “Suốt dòng lịch sử, Hội thánh ý thức rằng: Đức Maria vì được Thiên Chúa ban cho “đầy ơn phúc” (Lc 1,28), nên được cứu chuộc ngay từ lúc tượng thai”. Đó là nội dung tín điều VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI do Đức Piô IX công bố năm 1854.
Sách Denzinger cũng còn trưng lại: “Đức Trinh nữ diễm phúc Maria đã được gìn giữ khỏi mọi tỳ ố nguyên tội ngay từ lúc tượng thai, do ân sủng và tình thương đặc biệt của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ loài người” (DS 2803)
SỐNG TRONG SẠCH THEO GƯƠNG MẸ MARIA
Đặc ân vô nhiễm nguyên tội đã chuẩn bị cho Đức Maria một sứ mạng cao quý là được làm mẹ Đấng Cứu thế, làm Mẹ Thiên Chúa xuống thế làm người và làm mẹ của tất cả chúng ta.
Ngày nay, qua Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên tội, Chúa Cứu thế đã đến với chúng ta và đã thực hiện ơn cứu độ trong thế giới. Ngài đã trả lại cho con người tình trạng ơn nghĩa đã bị đánh mất vì tội nguyên tổ. Như thế, chúng ta tuy không được đặc ân vô nhiễm nguyên tội như Đức Mẹ, nhưng chúng ta đã được khỏi tội nguyên tổ trong bí tích Thánh tẩy. Và khi được rửa sạch tội lỗi trong bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã được sự sống mới, sự sống của Chúa và được có “Chúa ở cùng chúng ta” như đã ở cùng Đức trinh nữ Maria. Chúng ta không được làm mẹ Thiên Chúa, nhưng qua bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được làm con cái Thiên Chúa, làm em của Đức Giêsu Kitô và con của Mẹ Maria.
Trong bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã được tha tội tổ tông, nhưng hệ luỵ của tội nguyên tổ vẫn còn ảnh hưởng xấu đến chúng ta. Con người chúng ta trở nên yếu đuối dễ hướng chiều về tội lỗi. Chúng ta vẫn bị ma quỷ cám dỗ nhất là lỗi đức trong sạch. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ Maria mà giữ hồn xác trong sạch, xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa.
Suy niệm 8: Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
A. Thánh Luca thuật lại một cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ: người mẹ già và người mẹ trẻ.
- Người mẹ trẻ là người đến thăm. Người đó chính là Đức Maria, người đang mang Chúa Giêsu trong lòng, người được gọi là người “có phúc hơn mọi người nữ”, và là người có một niềm tin tuyệt vời.
- Người mẹ già là người được thăm: Đó là bà Êlizabeth. Bà cũng đang cưu mang. Người con bà cưu mang là người con của ân sủng. Người mẹ già và cả con người con của mình đều cảm thấy được diễm phúc trước sự xuất hiện của người mẹ trẻ “Bởi đâu tôi được diễm phúc là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy! Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng chị”.
+ Cuộc viếng thăm mà thánh Luca thuật lại là cuộc viếng thăm tuyệt đẹp: dẹp trong ý nghĩa và đẹp trong thành quả.
Đẹp trong ý nghĩa bởi vì đây là cuộc viếng thăm của hai người mẹ đang cưu mang trong mình những con người thánh.
Và đẹp trong thành quả vì cuộc viếng thăm này đã đem lại những kết quả tuyệt vời: Gioan Tẩy giả được thánh hóa ngay từ trong lòng mẹ và Mẹ Maria đã để lại cho hậu thế một bài ca, một bài ca thánh, có một không hai trong Lịch sử ơn Cứu độ, để nói lên tâm tình tạ ơn và ca tụng lòng nhân từ của Thiên Chúa+ Chúng ta cầu xin cho cuộc viếng thăm này trờ thành mẫu mực cho các cuộc viếng thăm nhau của chúng ta.
B. Quả vậy khi nhìn vào cuộc sống xô bồ ngày nay, chúng ta thấy chuyện đi thăm viếng nhau ngày càng ít dần, nhất là những người sống nơi thành thị. Có khi hai người ở sát nhà nhau mà không gặp nhau suốt cả tháng trời. “Tình nghĩa láng giềng” ngày càng lợt lạt, thay vào đó là “đèn nhà ai nhà nấy sáng”, và “sống chết mặc bây”. Linh mục Azevedo nhận xét: ngay cả những tu sĩ ở cùng một cộng đoàn mà nhiều khi chỉ “sống bên cạnh nhau” chứ không phải “sống với nhau”. Câu chuyện Đức Mẹ lặn lội đường xa đến thăm và giúp đỡ bà Êlisabeth là một lời nhắc nhở những người sống cạnh nhau hãy nhớ đến nhau.
Hơn nữa khi chúng ta thăm nhau, thử hỏi chúng ta đã đem lại được gì tốt đẹp cho những người chúng ta viếng thăm hay chỉ là những chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hoặc là ngồi lê đôi mách. Việc thăm viếng nhau như thế chẳng những không giúp ích gì cho nhau mà còn làm dịp tội cho nhau và là dịp để nói xấu người khác.
Có lẽ chúng ta cũng phải thành thực kiểm tra lại những cuộc thăm viếng của chúng ta xem: Tôi có mang Chúa đến cho người tôi thăm viếng hay không? Những điều tôi nói có phải là Tin Mừng khiến người được tôi thăm cảm thấy được bình an và hạnh phúc hơn không?
Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền hình phỏng vấn Mẹ.Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:
- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.Ông ta trả lời hững hờ:- Tôi đã quen sống như vậy rồi.- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp. Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?Ông la trả lời cộc lốc:- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả. Tôi hỏi ông:- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không? - Dĩ nhiên. Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi. Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.
Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.
Suy niệm 9: Lễ Vô Nhiễm
Để nhấn mạnh lễ Mẹ Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội, phụng vụ trích đoạn Tin Mừng Truyền Tin. Đoạn này dẫn chúng ta vào mục đích của Thiên Chúa, Đấng được loài người đoán nhận.
Thực vậy, từ đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã loan báo ngày Ngài đến. Và suốt dòng lịch sử, Ngài không ngừng nhắc lại, biết bao nhiêu lần trong thời cựu ước. Trước cuộc tuyền tin cho Đức Ma-ri-a, Thiên Chúa đã tự loan báo cho loài người. Thời kiên nhẫn chờ đợi đã viên mãn vì đã có người hoàn toàn biết nghe lời Thiên Chúa, Người ấy là Đức Ma-ri-a.
Trong Đức Ma-ri-a, hơi thở thần khí của Thiên Chúa không bị sức nặng của tội lỗi, sức nặng của từ chối ngăn cản. Trong Đức Ma-ri-a không còn bị sai biệt giữa lời loan báo của Thiên Chúa với người lắng nghe, giữa lời đề nghị với lời đón nhận.
Còn chúng ta, chúng ta gọi đó là sự cưu mang Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vô Nhiễm là không có vết nhơ tội nguyên tổ, nói kiểu tích cực Ma-ri-a tinh tuyền trong sạch ngay lúc ở trong lòng bà Anna, đó là hành động của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta vẫn không hiểu được rõ ràng.
Thiên Chúa, Đấng thương yêu quảng đại vô cùng đối với loài người, đã muốn mọi sự tốt lành cho một con tim loài người biết đón nhận. Thiên Chúa đã làm cho Đức Ma-ri-a được như vậy, cho đôi tai Ma-ri-a luôn lắng nghe lời Chúa trọn vẹn. Không ai lấy làm sững sờ khi Ngài làm cho Ma-ri-a nên nơi Ngài ngự. Vô Nhiễm thai của Ma-ri-a chính là lời Chúa được thực hiện hoàn toàn nơi một người trong loài người, chấm dứt sự xa cách giữa lời mời của Chúa với sự nhận lời của loài người. Đây chính là sự chuẩn bị một khu vườn mầu mỡ cho Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, xuống thế làm người.
Thiên Chúa lại tiếp tục cuộc hành trình với loài người trong mọi thế kỷ, và Ngài hằng theo dõi kế hoạch cứu độ của Ngài nơi loài người cho đến tận thế, nên Đức Giê-su Ki-tô đã loan báo ngày Người đến lần thứ hai nữa. Chúng ta đón tiếp kế hoach của Người thế nào? chúng ta có thái độ gì? chúng ta có chuẩn bị sẵn sàng để hiện diện trọn vẹn trước Đấng lại đến không? hay là lại mặc một bộ áo giáp sắt nhơ bẩn che chắn việc đón nhận Thiên Chúa tái sinh chúng ta và làm cho chúng ta nên thánh để được hoàn toàn nên giống Người.
JM.
Suy niệm 10: Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
(‘Suy niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Trong quyển “Tiểu Sử Ðời Sống Của Thánh Don Boscô” có thuật lại một sự việc sau đây:
Hôm ấy là ngày 8 tháng 12 năm 1841, ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Cha Don Boscô vị tân Linh Mục đang mặc áo sửa soạn dâng Thánh Lễ, bỗng từ trong phòng áo Cha nghe tiếng ồn ào từ phía ngoài cửa. Cha bước ra và gặp thấy Ông Từ coi phòng áo nhà thờ đang cầm chổi lông gà đánh đuổi một cậu bé nghèo ăn mặc rách rưới, chỉ vì cậu dám bén mảng đến phòng áo và lại không biết giúp lễ. Cha Don Boscô tỏ vẻ không bằng lòng và bảo Ông Từ phải đi tìm cậu bé đem trở lại phòng áo cho Cha. Cha lại còn quả quyết rằng đó là bạn thân của Cha.
Vâng! Tất cả các thanh thiếu niên nghèo bị bỏ rơi đều là bạn thân của Cha hết.
Một lúc sau, Ông Từ trở lại phòng áo, dẫn theo cậu bé bị đánh đuổi. Cha bảo cậu ngồi đợi một chút, sau lễ ngài sẽ nói với cậu về một điều mà cậu rất vui thích. Có lẽ đó chỉ là cách Cha muốn bù đắp lại sự tàn nhẫn của Ông Từ hoặc xóa bỏ đi những mặc cảm và ấn tượng xấu đã gây nên trong tâm hồn cậu.
Nhưng đường lối của Chúa còn đi xa hơn nữa, vì chính trong ngày lễ Kính Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đó, Thiên Chúa muốn ngài khởi công một sứ mệnh Tông Ðồ cao cả mà vẫn còn hiện hữu cho tới ngày nay tại mọi dân tộc, mọi nền văn hóa. Ðiều gì đã xảy ra trong cuộc gặp gỡ đó? Như lời đã hứa, sau lễ Cha bắt đầu cuộc đối thoại thân mật với cậu bé, đó là cậu Bartolômêo Galendy. Don Boscô bắt đầu bằng những câu hỏi thân mật từ gia đình cậu, cha mẹ cậu.
Cậu đáp lại là cả hai đều đã qua đời.
Cha hỏi tiếp về tuổi của cậu, về công ăn việc làm và nơi ăn chốn ở của cậu.
Tuy nhiên câu hỏi đó, cậu chỉ đáp lại bằng tiếng “không” hơi cọc cằn.
Tuy nhiên, Cha vẫn không nản lòng. Sau cùng Cha hỏi: Con có biết huýt sáo không? Mắt cậu sáng lên và cậu bắt đầu mỉm cười gật đầu. Ðó là điều duy nhất Cha mong ước. Cậu đã bị chinh phục và đã trở nên bẹn thân của Cha. Từ đó, cha bắt đầu đối thoại bằng những câu hỏi về đời sống người công giáo của cậu. Ðáng thương thay, tuy cậu đã lên 16 tuổi nhưng chỉ được xưng tội lần đầu mà thôi. Còn về giáo lý thật không biết gì hết, vì không được ai chỉ bảo cho. Ngay cả đến việc làm dấu Thánh Giá và đọc một kinh Kính Mừng cậu cũng không biết. Và cha Don Boscô quì gối đọc kinh Kính Mừng phó thác cho Mẹ Maria và nhân danh Mẹ bắt đầu sứ mệnh Tông Ðồ của Cha, cầu xin Mẹ giúp Cha cứu rỗi linh hồn cậu bé này.
Trước khi cho cậu ra về, Cha tặng cậu một mẩu ảnh Ðức Mẹ và cậu hứa sẽ trở lại tuần tới đem theo chúng bạn của cậu để cùng được học giáo lý nữa.
Nhân dịp toàn thể Dòng Con Cái Don Boscô mừng kỷ niệm một trăm năm mươi năm cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Don Boscô và cậu bé Bartolômêo Galendy, ngày khởi đầu sinh hoạt Khánh Lễ Viện mà Don Boscô là Vị Sáng Lập và cậu bé Bartolômêo là viên đá đầu tiên. Nơi cậu Bartolômêo, Don Boscô đã nhìn thấy trước hàng ngàn thanh thiếu niên bị bỏ rơi cần được nhận biết tình thương của Chúa và ngài đã hiến trọn đời mình để giáo dục niềm tin trong tâm hồn các em. Hơn nữa, ngài còn đào luyện các em trở thành tông đồ giữa chúng bạn, dẫn đưa chúng bạn về với Chúa qua đời sống bí tích và việc học hỏi giáo lý. Một trăm năm mươi năm đã qua và sứ mệnh tông đồ của Don Boscô đã được các con thiêng liêng của ngài tiếp tục tới ngày nay trên khắp Năm Châu. Hàng ngàn hàng triệu thanh thiếu niên qua nhiều năm đã nhận biết, yêu mến Chúa và dấn thân để Chúa cũng được nhận biết, yêu mến và tôn thờ.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, một tấm gương tinh tuyền và tràn đầy ơn thánh Chúa. Cám ơn Chúa đã làm phong phú Giáo Hội Chúa với ơn đặc sủng của Tu Hội Salésien. Xin Chúa chúc lành cho sứ mệnh tông đồ mà ngài đã hiến thân phục vụ đến hơi thở cuối cùng, để giới trẻ qua mọi thời đại và trong mọi môi trường văn hóa tìm được thầy chỉ dẫn, nhận được sự hiểu biết tình thương của Chúa và trở nên vị tông đồ khác giữa giới trẻ, dẫn đưa chúng bạn gặp gỡ Chúa, xa tránh tội lỗi và gìn giữ luôn mãi vẻ đẹp trong sáng của tâm hồn là bí quyết niềm an vui và hạnh phúc thật. Amen.
Suy niệm 11: Đặc Ân Vô Nhiễm
Sau khi Adong Eva phản bội, Thiên Chúa đã phán với con rắn, tượng trưng cho uy quyền của ma quỷ rằng: Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người phụ nữ. Dòng dõi người phụ nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi thì chỉ rình cắn trộm gót chân Người.
Lời tiên tri này trước hết muốn nói tới Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ đến đập tan uy quyền hoả ngục để cứu độ chúng ta. Nhưng đồng thời cũng giới thiệu với chúng ta, khuôn mặt Đức Trinh Nữ Maria.
Thực vậy, sứ thần Gabriel đã đến viếng thăm Mẹ với lời chào kính lạ lùng: Kính chào Bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Bà. Trước lời chào kính lạ lùng ấy, Mẹ đã cảm thấy bối rối. Sứ thần Gabriel đã cắt nghĩa, nhưng đồng thời lại đề nghị một tin vui lạ lùng khác nữa: Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên lá Giê su. Ngài sẽ nên cao cả và sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao. Tin vui này khiến cho Mẹ không khỏi băn khoăn nêu lên câu hỏi: Việc đó xảy đến thế nào được vì tôi không biết tới người nam. Thiên thần liền trả lời: Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà. Vì thế con trẻ được sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là con Thiên Chúa. Sau khi biết được thánh ý Thiên Chúa là như thế, Mẹ đã trả lời một cách đơn sơ: Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Qua hình ảnh của sách Sáng Thế Ký cũng như qua câu chuyện của Phúc Âm thánh Luca chúng ta thấy được vai trò của Mẹ Maria đối với nhân loại, đồng thời cũng thấy được đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Mẹ, ít nữa là một cách gián tiếp.
Jean Guitton trong cuốn “Vie de la Vierge Marie”, cuộc đời Đức Trinh Nữ Maria, đã viết: Mẹ như một thửa vườn khép kín, đến nỗi ma quỷ và tội lỗi không thể nào ảnh hưởng và để lại những dấu vết. Cho dù bầu khí tội lỗi đã bao trùm nhân loại ngay từ thuở ban đầu, thì vẫn còn có một nơi không hề bị ô nhiễm. Nơi đó được dành cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Phúc Âm cũng cho thấy: Gioan Tiền Hô mà còn được thánh hoá từ trong lòng mẹ, huống chi nữa Đấng cưu mang Ngôi Lời, Đấng cưu mang chính Thiên Chúa.
Từ những suy tư như thế, người tín hữu đã tin chắc đặc ân vô nhiễm của Mẹ Maria, để rồi cuối cùng Đức Thánh Cha Piô IX, vào năm 1854 đã long trọng công bố và ấn định thành một tín điều phải tin. Sau đó bốn năm tức là vào ngày 25.3.1858, chính Mẹ đã hiện ra tại Lộ Đức và xác quyết với chị Bernadette: Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội. Mừng lễ Vô Nhiễm, chúng ta hãy mang lấy tâm tình vui mừng và hy vọng, bởi vì hiện giờ ở trên trời, chúng ta có được một người mẹ vừa thánh thiện lại vừa quyền năng để bầu cử cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Nhất là chúng ta hãy ra sức khử trừ tội lỗi, để nhờ đó tâm hồn chúng ta được trở nên giống Mẹ, là một cánh sen vô nhiễm, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Suy niệm 12: Đóa hồng đời Mẹ
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền )
Đã từ lâu tôi vẫn thích dâng hoa Hồng cho Đức Mẹ. Hoa hồng được tượng trưng cho tình yêu và được nhiều người yêu thích. Nó cũng rất quen thuộc với mỗi con người Việt Nam. Nó là một loài hoa rất giản dị, có rất nhiều màu như màu đỏ, màu hồng, màu cam, màu vàng. Loài hoa này nở quanh năm bốn mùa như thể mùa nào cũng là mùa của tình yêu.
Nguồn gốc của hoa hồng được kể rằng: Nữ thần tình yêu được sinh ra cùng lúc với hoa hồng trắng. Nàng xinh đẹp và trong trắng như đóa hoa thơm ngát tinh khiết đó.
Tuổi ấu thơ trôi qua, cô thiếu nữ như bông hồng ngày một xinh đẹp và trưởng thành hơn, rồi nàng đã yêu một chàng trai và hôn lễ đã cử hành…
Nàng là một người vợ đẹp lại chung thủy hết mức. Yêu chồng còn hơn cả mọi thứ trên đời. Nhưng thật không may chồng nàng lại ra đi trong lúc tuổi còn trẻ, cũng không ai biết chồng nàng chết vì lí do gì…
Trong lễ tang của chàng, nàng do đau khổ quá đã khóc lóc rất nhiều. Cũng do không để ý vô tình nàng đã bị gai của bông hồng đâm vào tay rất sâu, máu ở tay nàng nhỏ xuống thấm vào bông hoa hồng trắng. Vâng, chỉ vài giọt máu thôi mà bông hồng tự nhiên đỏ rực lên rồi càng ngày càng thẫm lại…
Cuộc đời Mẹ Maria cũng tinh khôi vẹn tuyền như đóa hoa hồng trắng. Và trái tim Mẹ cũng nhuộm thắm máu đào để cùng con cứu chuộc nhân gian. Mẹ đã hiệp thông với con yêu trong hiến tế thập giá. Trái tim Mẹ đã đỏ son của tình yêu sắt son thủy chung dành cho con người.
Tình yêu của Mẹ cũng hao mòn theo năm tháng đời con như bao bà mẹ chốn dương gian. Tận tụy hy sinh, mưa nắng không sờn miễn sao con khôn lớn thành tài.
Thế nên, nếu có ngắt bông hồng cho Mẹ ta vẫn thấy một tình yêu bao la luôn dạt dào xuống cho nhân loại chúng ta. Vì mẹ chính là bông hoa đẹp nhất mà tạo hóa đã tạo dựng cho nhân loại chúng con.
Hoa hồng tặng mẹ sớm mai
Cài lên vạt áo, áo phai bạc màu
Nắng mưa mẹ chẳng sờn lòng
Mong con khôn lớn thỏa lòng mẹ mong.
Phúc âm kể rằng tại thôn làng Nagiaret có một trinh nữ tinh khôi vẹn tuyền. Một thôn nữ tài sắc vẹn tuyền được nồng bởi sự trong trắng, đoan trang hiền thục. Một thôn nữ đạo hạnh mà từ trời cao Thiên Chúa luôn hài lòng về người, nên đã được chọn là Mẹ của Thiên Chúa. Đó là Đức Trinh nữ Maria. Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Đấng cứu thế vì tâm hồn Mẹ thanh khiết vẹn toàn lại nồng thêm hương thơm của lòng bác ái bao dung.
Giáo Hội nhìn nhận Mẹ được ơn Vô Nhiễm ngay tứ lúc trinh thai, nhưng điều quan yếu là Mẹ đã giữ được vẻ thanh khiết vẹn toàn giữa thế gian tội lụy. Mẹ đã thắng mọi cám dỗ để có thể toả ngát hương thơm giữa trần đời. Mẹ là người phụ nữ đẹp rạng ngời giữa muôn ngàn người phụ nữ, tựa như bông hồng trinh nguyên luôn tỏa hương thơm dịu dàng. Mẹ hoàn toàn xứng đáng là đóa hoa hồng giữa thảo nguyên nhân gian như câu thơ viết rằng:
Đẹp lắm hoa hồng tận thảo nguyên.
Thanh trong ánh nắng dịu trên miền.
Dẫu cuộc đời Mẹ có lắm truân chuyên, gai góc lại càng làm nên vẻ thanh cao nơi con người Mẹ không vấn vương tội truyền.
Xương rồng mắc cỡ gai ứ mộng.
Cỏ bụi xanh vờn ngọn gió yên.
Nhìn ngắm đóa hồng đời Mẹ mà con cảm thấy nhẹ vơi mọi ưu phiền. Vì từ nơi Mẹ con đã hiểu được hương vị của tình yêu luôn pha chút ngọt đắng
Cát bụi cuồng phong vùi lấp nỗi.
Cơn mưa nhẹ rắc phủi tan phiền.
Hoa hồng bỗng đẹp chiều đâu hỡi.
Lãng tử say nồng mãi chẳng quên.
Chúng con cám ơn Chúa đã ban cho nhân loại chúng con một đóa hồng trinh khiết vẹn tuyền. Cám ơn Mẹ lại nhận chúng con làm con của mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng con biết gìn giữ nét đẹp cao quý nơi phẩm giá làm người và làm con Chúa. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen
Suy niệm 13: Vô Nhiễm vì được Thiên Chúa đoái thương
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Niềm tin vào sự kiện Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội quả là quan trọng, nhưng nó không hề xa vời mà gần gũi với Ki-tô hữu chúng ta hơn bất kỳ sự kiện nào khác. Trong niềm tin của tôi, ‘vô nhiễm’ không còn phải là một luật trừ dành riêng cho Đức Ma-ri-a, mà là một định luật phổ quát áp dụng cho hết thảy mọi người, trong đó có cả tôi và bạn nữa. Mời bạn cùng tôi khám phá nguyên lý thâm sâu của đặc ân vĩ đại này.
Lu-ca thuật lại giai thoại truyền tin và nhấn mạnh một điều không thể tin được, nếu chỉ căn cứ vào suy luận tự nhiên: Ma-ri-a thụ thai và sinh con mà vẫn đồng trinh. Và để dẫn chứng điều không thể đó là có thể, thiên sứ đã đưa ra sự kiện một phụ nữ khác là Ê-li-sa-bét hiếm muộn và già nua mà cũng đã thụ thai. Cả hai trường hợp này đều là phản tự nhiên, phản lại với định luật bất di bất dịch của trời đất và con người. Nếu nó có xảy ra được thì âu là có một sức mạnh vô song nào đó mà Đức Chúa muốn tỏ bày. Nhưng tôi tự hỏi: đó là sức mạnh nào? Chẳng lẽ chỉ là một ‘show’ về quyền phép là điều Ngài muốn biểu lộ sao cho con người phải nể phục, tương tự như các tai ương Ngài đã dùng Mô-sê mà giáng họa xuống đất nước Ai-cập xưa? “Đối với Thiên Chúa, không có gì mà không thể làm được!” điều đó là đương nhiên rồi, nhưng một khi thực hiện cái không thể đó Ngài phải có một lý do gì rất chính đáng chứ! Về điều này tôi muốn được nghe chính những nhân vật trong cuộc là Ma-ri-a và Ê-li-sa-bét (hay chồng của bà là Gia-ca-ri-a, người thân thiết và hiểu rõ bà hơn hết) nói về những cảm nghiệm thâm sâu nhất họ có. Đàng sau những sự kiện ‘không thể’ đó chính họ đã nghiệm thấy rõ quyền năng mà Thiên Chúa đang muốn thực hiện thực sự là cái gì.
Ma-ri-a thoáng nhận ra một điều gì đó vô cùng vĩ đại đang xảy đến với mình “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”. Sự vĩ đại này quá đỗi to lớn tới độ con người, hoặc chỉ còn biết câm nín, hoặc bị thôi thúc phải cất tiếng ngợi khen. Đó chính là trường hợp của Ma-ri-a và Da-ca-ri-a khi được loan báo. Nhưng để biết điều vĩ đại họ nghiệm ra cụ thể là gì thì chúng ta hãy lắng nghe các bài ca Magnificat và Benedictus mà họ đã cất lên tự đáy lòng mình:
• “Đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót”
• “Vì Người nhớ lại lòng thương xót… đến muôn đời”
• “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn…”
• “Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên”
• “Người sẽ nhớ lại lòng thương xót dành cho Ap-ra-ham và con cháu đến muôn đời”
Thì ra lòng thương xót mới chính là quyền năng đứng đàng sau tất cả những gì là ‘không thể’ này. Lòng từ bi thương xót là quyền năng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đang muốn biểu lộ cho tất cả những ai tin vào Đức Giê-su Ki-tô, khởi đầu là Ma-ri-a, là Da-ca-ri-a … Lòng từ bi thương xót cứu độ đó đã đạt tới cao điểm nhất khi nó làm cho sự sống phục sinh mãnh liệt bừng lên từ nấm mồ chết chóc lạnh lùng và hủy diệt. Sự kiện Phục Sinh cho thấy từ bi thương xót có sức mạnh làm đảo lộn tất cả: nó làm cho thụ thai mà không mất đồng trinh, sinh con trong tuổi già hiếm muộn, được thưởng phúc vinh khi chỉ đáng hình phạt đọa đầy, được làm nghĩa tử khi phản nghịch chống đối, thánh thiện khi tội lỗi, mạnh mẽ khi yếu đuối, vô nhiễm khi là con cháu E-va vướng mắc tội nguyên tổ… Ai chấp nhận cho nổi những điều này? Nó thật phi lý quá, ngoại trừ những kẻ bé mọn mà “Cha Ta muốn mạc khải cho”!
Và như thế, đón nhận lòng Thương Xót của Thiên Chúa chính là điều quan trọng nhất mà con người ta có thể làm. Sự vĩ đại nhất của Ki-tô hữu chúng ta chính là mở rộng cõi lòng đón lấy lòng Nhân Hậu Chúa. Tôi không cần biết Thiên Chúa sẽ hay đã làm cho tôi những ‘điều trọng đại’ nào (…có lẽ cũng nhiều lắm chứ), nhưng quan trọng và vĩ đại nhất trong đời vẫn phải là: trở thành Ki-tô hữu, tức là tôi trở thành một người có khả năng hiểu biết và tiếp nhận lòng thương xót vô biên của Chúa. Ngay cả Mẹ Ma-ri-a cũng chưa chắc đã ý thức mình được Thiên Chúa ban cho đặc ân vô nhiễm nguyên tội, nhưng có một điều chắc chắn là Mẹ đã biết rất rõ và rộng mở cõi lòng đón nhận hơn bất cứ ai khác; đó là Thiên Chúa là Đấng xót thương.
Mừng kính Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trong khi cất tiếng ca ngợi đặc ân Chúa ban cho Mẹ, tôi có bị thôi thúc cùng Mẹ cất tiếng hát khen “Chúa hằng thương xót… hết đời nọ tới đời kia” không? Và tôi có xác tín rằng chính quyền năng thương xót đó cũng đang đổ tràn trên tôi, và biến đổi số phận thấp hèn của tôi cách sung mãn nhất hay không?
Lạy Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, xin cho con được bắt chước Mẹ, không cần quan tâm nhiều tới bất kỳ đặc ân nào con nhận được, kể cả ơn gọi tu sĩ và linh mục, sự tốt lành đạo đức thánh thiện… nếu có, nhưng tập trung trí lòng để nhận biết Chúa Từ Ái xót thương con vô bờ bến. Con xin chúc mừng Mẹ về đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhưng con còn muốn chúc tụng Mẹ nhiều hơn vì Chúa đã xót thương đến phận hèn của Mẹ. Xin cho con được cùng Mẹ Vô Nhiễm ca ngợi lòng Thương Xót Chúa đến muôn đời. A-men.
Suy niệm 14: Mầu nhiệm thâm sâu vượt ra ngoài trí khôn loài người
(JM. Lam Thy)
Trong bài giảng ngày đại lễ kính Đức Mẹ Vô Nhiễm và khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót (8/12/2015), ĐTC Phan-xi-cô thuyết giảng: “Trước hết, Đức Maria đã được thôi thúc để vui mừng về tất cả những gì mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Ân sủng của Thiên Chúa đã bao phủ Mẹ, và làm cho Mẹ trở nên xứng đáng làm Mẹ Chúa Ki-tô. Đối với Mẹ, khi Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel bước vào nhà Mẹ, một mầu nhiệm thẳm sâu mà nó vượt ra ngoài bất cứ dung lượng nào của trí khôn, cũng đã trở nên nguyên cớ dẫn tới niềm vui, dẫn tới Đức Tin và dẫn tới sự trao hiến trọn vẹn cho Lời vừa được mạc khải cho Mẹ. Sự tràn đầy ân sủng có khả năng biến đổi con tim, và làm cho nó có khả năng thực hiện một bước đi, mà bước đi ấy rất vĩ đại vì nó làm thay đổi lịch sử nhân loại.” (nguồn: Vatican.net). Thử tìm hiểu xem “bước đi làm thay đổi lịch sử nhân loại” là thế nào?
Bài đọc 1 hôm nay (St 3, 9.15-20) trình thuật việc ông bà Nguyên tổ nghe lời con rắn xúi giục đã ăn trái cấm, khiến “Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cầy cấy đất đai, từ đó con người đã được lấy ra. Người trục xuất con người và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh.” Đến bài Tin Mừng (Lc 1, 26-38), Thánh sử Lu-ca trình thuật sự kiện “Truyền tin cho Đức Maria”. Nghe lời chào và chúc mừng của sứ thần, Đức Mẹ rất bối rối và hỏi lại: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng.” Sau khi được sứ thần giải thích thỏa đáng sự băn khoăn thắc mắc trước việc thụ thai Chúa Giê-su, Đức Maria đã trả lời sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Như vậy, hai bài đọc làm nổi bật hai cuộc đối thoại mà đối tượng chính là hai người phụ nữ, đã làm đảo lộn lịch sử loài người, thay đổi hẳn cục diện thế giới.
Cuộc đối thoại thứ nhất giữa sứ giả của ma quỷ (con rắn) với bà E-và trong vườn địa đàng: Rắn nói với Eva: “Có thật Thiên Chúa bảo: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” Người đàn bà trả lời: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: “Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết.” Rắn nói: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác.” E-và nghe bùi tai, lại “thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.” Kết quả là: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng; họ mới kết lá vả làm khố che thân.” (St 3, 1-7).
Và hậu quả tất yếu đến cho ông bà Nguyên tổ: “Với người đàn bà, Chúa phán: “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.” Với con người, Chúa phán: “Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: “Ngươi đừng ăn nó”… Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (St 3, 16-19).
Cuộc đối thoại thứ hai giữa sứ giả của Thiên Chúa (sứ thần Gáp-ri-en) với E-và Mới là Đức Maria nơi thành Na-da-ret (miền Ga-li-lê): “Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì? Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.” Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-za-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Kết quả là: ”Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” (Lc 1, 28-38)
So sánh hai cuộc đối thoại, thấy rõ một bên là sứ giả của quỷ dữ (con rắn) đầy ranh ma quỷ quyệt ẩn trong thái độ ngạo mạn coi thường cả Thiên Chúa lẫn đối tượng bị cám dỗ (E-và), còn một bên là sứ giả của Thiên Chúa (sứ thần) chân thành biểu lộ trong thái độ khiêm cung, kính trọng Thiên Chúa và cả người đối diện (Đức Maria). Cả hai đối tác đều gật đầu ưng thuận (Bà E-và thì mau mắn hái trái cây ăn và cón đưa cho chồng cùng ăn; Đức Maria tuy tỏ dấu băn khoăn, nhưng khi được giải thích đã khiêm tốn xưng mình là nữ tì của Thiên Chúa và “xin vâng”). Cái gật đầu mau mắn của E-và đã làm đảo lộn lịch sử loài người: Thay vì được an vui thảnh thơi sống trong vườn địa đàng thì bị đuổi ra ngoài, xa lìa Thiên Chúa, phải tự vật lộn với cuộc mưu sinh và đối mặt với biết bao ác hiểm của kẻ thù muôn kiếp là ma quỷ. Không những chỉ hai ông bà Nguyên tổ mà còn truyền tử lưu tôn tội lỗi tày trời đến thiên thu vạn đại. Còn cái gật đầu ưng thuận của Đức Maria bằng tiếng “xin vâng” thì lại thay đổi hẳn cục diện thế giới, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử loài người: Kỷ nguyên Cứu Độ.
Cũng là gật đầu để đón nhận lương bổng hay ân hụê mà sao kết quả lại trái ngược nhau đến lạ lùng? Ấy cũng bởi vì “Lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Ki-tô Giê-su.” (Rm 6, 23). Có tin thì mới gật đầu ưng thuận. Con người ta sống trên đời cần phải có niềm tin, bởi nếu thiếu nó thì cuộc sống thật vô vị. Có tin thì mới yêu đời, nên hai chữ “tin yêu” luôn đi đôi với nhau thành một từ ghép diễn tả tâm trạng vui sống của con người. Đến ngay cả những kẻ chán đời tìm đến cái chết cũng vẫn có một niềm tin. Họ tin rằng cái chết sẽ giúp họ giải thoát cơn bĩ cực sầu khổ tột cùng. Chính vì thế nên vấn đề đặt ra là lòng tin của người gật đầu đã đặt đúng chỗ chưa? Nên tin vào một vị Thần duy nhất là “Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa” hay là nên tin vào thần sông thần núi, thần cây đa cây đề, thần mưa thần gió, thần sấm thần chớp, thần bếp thần đất …?
Nói đến vấn đề tin vào thần linh là nói đến thái độ cực đoan của những người tin. Họ tôn thờ những đối tượng mà họ tin như một ông chủ và sẵn sàng làm tôi tớ để mua chuộc cảm tình. Ấy cũng bởi vì con người được tự do tuyệt đối chọn cho mình một lối sống, hoặc chạy theo bả vinh hoa vật chất, hoặc sống một cuộc đời công bình chính trực. Nếu chẳng vậy thì vị Vua Công Chính, Vua Tinh Yêu đã chẳng dạy: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được.” (Mt 6, 24). Hoá cho nên chỉ vì một niềm tin đặt không đúng chỗ, vì một cái gật đầu ưng thuận của “một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết” (Rm 5, 12). Nhưng Thiên Chúa cũng không vì thế mà bỏ rơi loài người. Người vẫn thương yêu đàn con cái trầm luân trong tội lỗi nhuốc nhơ, nên đã ban cho nhân loại một Người Nữ đặt niềm tin tuyệt đối vào Đấng Toàn Năng hằng hữu, để từ cái gật đầu khiêm nhường ưng thuận bằng hai tiếng “xin vâng”, đã đón nhận vào cung lòng một Trưởng Tử Thiên Cung nhập thể làm người cứu chuộc nhân thế. Thật đúng là: “Nếu chỉ vì một người duy nhất sa ngã, mà sự chết thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ được sống và được thống trị.” (Rm 5, 17).
Càng suy gẫm càng thấy rõ ràng 2 cái gật đầu của 2 người nữ đã quyết định vận mệnh con người. Chính vì thế nên xin đừng nghi ngờ, phân vân gì nữa, mà hãy mừng vui lên cùng với cái gật đầu thứ hai trong lịch sử loài người của “nữ tì Thiên Chúa”. Ấy cũng bởi vì “một mầu nhiệm thẳm sâu mà nó vượt ra ngoài bất cứ dung lượng nào của trí khôn con người” (Bài giảng của ĐTC Phan-xi-cô như đã dẫn trên). Từ niềm hoan lạc được mạc khải, hãy cất cao giọng vinh tụng ca: “Vinh danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mạc khải mầu nhiệm vốn được giữ kín tự ngàn xưa, nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. A-men.” (Rm 16, 25-27). Người Ki-tô hữu hãy hoan hỉ ngẩng cao đầu cất tiếng ngợi khen, để tiếp liền sau đó khiêm cung cúi đầu “xin vâng” theo Thánh ý Đấng Toàn Năng Hằng Hữu.
Muốn được như vậy, xin hãy chạy đến cùng Đức Mẹ như lời khuyên của ĐTC Phan-xi-cô trong bài giảng ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhễm (–nt–): “Xin hãy chạy đến nép mình trong áo Mẹ, cũng bởi vì ”Dưới áo choàng của Mẹ có chỗ cho tất cả mọi người, vì Mẹ là Mẹ Thương Xót. Trái tim Mẹ đầy dịu dàng đối với mọi con cái của Mẹ: sự dịu dàng của Thiên Chúa, Đấng đã nhận xác thể từ Mẹ, và trở thành người Anh của chúng con, là Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ mọi người nam nữ. Lạy Đức Mẹ Vô Nhiễm, khi nhìn lên Mẹ, chúng con nhận ra chiến thắng của Lòng Chúa Xót Thương trên tội lỗi và mọi hậu quả của nó; trong tâm hồn chúng con bừng lên niềm hy vọng một cuộc sống tốt đẹp hơn, được giải thoát khỏi mọi nô lệ, oán hận và sợ hãi. Lạy Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng con cảm tạ Mẹ vì trong hành trình hòa giải này, Mẹ không để chúng con đi một mình, nhưng tháp tùng chúng con, ở cạnh và nâng đỡ chúng con trong mọi khó khăn. Chúc tụng Mẹ bây giờ và mãi mãi. Amen.”
Ôi! “Lạy Thiên Chúa chí thánh, Chúa đã làm cho Trái Tim Ðức Trinh Nữ Ma-ri-a nên cung điện xứng đáng của Chúa Thánh Thần, vì lời Ðức Trinh Nữ chuyển cầu, xin thương giúp chúng con cũng trở nên đền thờ Chúa ngự. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. (lời nguyện lễ Trái rim Vô nhiễm Đức Mẹ – 8/12)
Suy niệm 15: Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội Lc 1, 26 – 38
(Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Nói về Mẹ quả là một điều vô cùng hạnh phúc. Bởi vì, ai chẳng yêu thương Mẹ mình, ai chẳng muốn đền ơn báo hiếu Mẹ Cha. Mẹ Cha ở đời đã sinh ra chúng ta, đã ẵm bồng, dưỡng dục, nuôi nấng chúng ta. Cha Mẹ đã đổ biết bao mồ hôi nước mắt vì chúng ta. Công ơn ấy chúng ta đền đáp biết bao cho vừa, đến khi nào mới cân xứng! Mẹ Cha trần thế còn như vậy, huống chi đối với Đức Mẹ, người Mẹ trên mọi người Mẹ thế trần. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ của Hội Thánh và là Mẹ của mỗi Kitô hữu chúng ta. Do đó, nói về Mẹ, Hội Thánh đã có biết danh hiệu để ca tụng Mẹ,tất cả Kitô hữu đã có biết bao lời tôn vinh Mẹ. Nói cho cùng, mọi danh hiệu Hội Thánh dùng để tôn vinh Mẹ nhằm ca tụng lòng từ bi của Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương Mẹ từ đời đời, đã gìn giữ Mẹ sạch mọi vết bùn nhơ của tội lỗi, Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội…
NHỮNG ƠN CAO CẢ THIÊN CHÚA DÀNH CHO MẸ MARIA:
Mẹ Maria đã được đắc sủng nơi Thiên Chúa, chính vì thế, Thiên Chúa đã gìn giữ Đức Mẹ và cho Đức Mẹ những hồng ân cao quí nhất mà không một ai trên trần thế đã được như Mẹ. Thiên Chúa đã ban cho Mẹ bốn đặc ân vô cùng quí giá, nhân loại khi nghe đều cúi đầu khâm phục: ơn vô nhiễm nguyên tội, ơn khiết trinh, ơn khỏi tội và ơn hồn xác lên trời. Thiên Chúa quả thực đã yêu thương Mẹ, đã cất nhắc Mẹ và để chọn Mẹ làm Mẹ Thiên Chúa, chính Ngài đã gìn giữ Mẹ ngay từ giây phút đầu tiên của đời Mẹ, đã không để cho Mẹ vướng mắc bất cứ một chút bợn nhơ nào dù đó là do ông bà nguyên tổ đã lỗi phạm. Mẹ đã có ơn thánh trong tâm hồn ngay từ giây phút đầu tiên trong đời của Mẹ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nên việc Mẹ thụ thai hoàn toàn do ý định của Thiên Chúa. Mẹ Maria đã được ơn trinh khiết ngay khi thụ thai Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần. Mẹ hoàn toàn thuộc trọn Thiên Chúa. Do đó, Thiên Chúa luôn gìn giữ Mẹ, luôn nâng đỡ Mẹ và luôn chở che, phù trì Mẹ để Mẹ không hề mắc một tội nào dù đó là tội riêng do mình gây ra. Nên, Thiên Chúa đã đưa Mẹ cả hồn lẫn xác về trời khi Mẹ lìa cõi thế này. Tất cả những ơn cao trọng ấy, Thiên Chúa dành riêng cho Mẹ theo kế hoạch tình yêu của Ngài như lời thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Êphêsô: ”Chúc tụng Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước Thánh Nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người»(Ep 1, 3 – 4).
ƠN VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI:
Mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta không đề cập đến tính chuyên môn của Thánh Mẫu Học, nhưng mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội là để chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì muôn ơn cao quí Thiên Chúa dành cho Mẹ và qua Mẹ, nhờ Mẹ chúng ta cũng được hưởng những ân huệ quí giá này. Mẹ được Thiên Chúa yêu thương, nên Ngài đã ban cho Mẹ một quà tặng, một món quà vô giá không ai có được. Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội nghĩa là Mẹ được Thiên Chúa đón nhận ngay từ đầu như một ân sủng, và nó được diễn tả ra trong suốt cuộc đời Mẹ bằng sự vâng phục tuyệt đối của Mẹ. Đây quả thực là hoa trái của tình yêu của Thiên Chúa. Và đây cũng là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương Mẹ từ đời đời. Ngôn từ đời đời nói lên chiều kích thâm sâu, bí nhiệm của Thiên Chúa. Đây cũng là mầu nhiệm tuyệt vời của lòng thương xót Chúa. Bởi vậy ơn vô nhiễm nguyên tội mà Mẹ Maria thụ đắc nói lên ý nghĩa vô cùng thâm sâu của trang đầu sách Khởi Nguyên và lời chào của sứ thần Gabriel trong ngày truyền tin: ”Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn phúc» (Lc 1, 28). Chính lời chào của sứ thần Gabriel đã cho chúng ta nhận ra rằng Mẹ Maria đã được vô tội ngay trong cung lòng bà thánh Anna. Ơn Vô Nhiễm nguyên tội còn do Mẹ xác nhận khi Mẹ hiện ra với Bernadette ở Lộ Đức vào ngày 25 tháng 3 năm 1854 nghĩa là vào lần hiện ra thứ 16, Mẹ đã xác nhận công khai: ”Ta là Đấng Vô Nhiễm nguyên tội“. Do đó, Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội là một kiệt tác tối cao của Thiên Chúa, một tác phẩm hết sức khôn ngoan của Thiên Chúa và đây cũng là tác phẩm của tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa.
LỄ MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI DO AI TUYÊN BỐ VÀ CÓ Ý NGHĨA GÌ?
Giáo Hội đã mừng lễ này từ lâu, nhưng phải đợi mãi đến ngày 8 tháng 12 năm 1854, Đức Giáo Hoàng Piô IX mới tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, Ngài đã ban hành bửu sắc Ineffabilis Deus tuyên bố rằng: ”Chúng tôi tuyên xưng, công bố, và định tín giáo lý xác nhận Đức Trinh Nữ Maria-ngay từ giây phút đầu tiên được đầu thai, nhờ một ơn thánh cá biệt và đặc ân của Thiên Chúa toàn năng, dựa trên những công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại – đã được gìn giữ khỏi mọi tơ vương của tội nguyên tổ là một giáo lý đã được Thiên Chúa mặc khải, và vì thế, phải được mọi tín hữu tin nhận vững vàng và bền vững“.
Chính vì thế, Mẹ là mẫu gương tuyệt vời trên mọi tuyệt vời của mọi Kitô hữu bởi Mẹ đã được Thiên đặt làm Đấng bầu cử cho chúng ta. Chính vì Mẹ thuộc trọn về Thiên Chúa qua việc tận hiến của Mẹ, nên Thiên Chúa không thể từ chối với Mẹ điều gì, đến với Mẹ chúng ta sẽ được Mẹ dẫn tới Chúa. Thánh Germanô, Giám mục Constantinople đã nói: ”Hô hấp không phải chỉ là triệu chứng mà còn là nguyên nhân của sự sống. Cũng thế, danh hiệu Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội, Mẹ Thiên Chúa, nếu được các con cái Mẹ nói lên ở mọi nơi và trong mọi lúc, sẽ bảo đảm an toàn cho đời sống“.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ:
Tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm nhỏ của tôi. Cuộc đời tôi luôn được gắn bó mật thiết với Đức Mẹ. Mỗi lần tôi mệt mỏi, mỗi lần tôi đang gặp thử thách lời đầu tiên của tôi bao giờ cũng là xin Mẹ hãy giúp con và tôi không quên đọc ba kinh Kính Mừng để ca ngợi ân huệ cao vời của Mẹ. Mỗi lần như thế tôi luôn cảm thấy được bình an. Khi làm việc truyền giáo cho người Dân tộc tôi vẫn luôn động viên, thúc giục họ hãy cậy trông vào Mẹ, vì Mẹ là người Mẹ luôn gần gũi và cảm thông với con người. Thứ bảy tuần nào cũng vậy, tôi luôn dành riêng để chia sẻ về Mẹ. Tôi cảm thấy vững dạ, an lòng dù rằng cuộc đời tôi không phải lúc nào cũng thẳng cánh cò bay, vì tôi hay bị đau những cơn đột xuất thập tử nhất sinh. Nhưng tôi luôn cậy trông vào Mẹ, quả thực Mẹ đã cứu tôi nhiều lần…Tôi xác tín lời thánh vịnh: ”Bạn hãy ký thác đường đời cho Chúa… Chính Chúa, Ngài sẽ ra tay…”. Tôi có thể an tâm và cùng với những tâm hồn tôi được sai tới phục vụ, luôn vững lòng tin, cậy bởi tôi có thể nói cứ vững lòng cậy trông vào Mẹ, Mẹ sẽ dẫn chúng ta đến với Chúa và chính Chúa, Ngài sẽ ra tay…
Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội, xin cho chúng con được hưởng nếm hương thơm thánh thiện của Mẹ và để chúng con luôn biết chạy đến với Mẹ trong mọi biến cố của cuộc đời. Amen.
Suy niệm 16: Người phụ nữ thánh thiện
P.Trần Đình Phan Tiến
Vâng, thưa quý vị, thưa các bạn, người Công Giao trên khắp thế giới tôn kính Mẹ Maria là điều hiển nhiên rồi. Nhưng, người Hồi giáo cũng tôn kính Mẹ Maria không thua kém. Như vậy, cùng với hơn một tỷ người Công giáo và Hồi giáo chúng ta hân hoan mừng kính trọng thể Lễ Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vâng, “Người Nữ đạp nát đầu satan”.
Thưa quý vị, thưa các bạn, Người Phụ Nữ được Thiên Chúa chúc phúc để “đạp nát đầu satan”, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria. Vâng, không ai có thể đạp nát đầu satan được, nếu không được Thiên Chúa ban cho cái “quyền “ấy.
Người phụ nữ đầu tiên đã “bị” satan gài bẫy, sự bất lực nơi con người không thể chống lại stan. Nhưng, với ơn Chúa và sự vâng lời của con người, thì con người mới chống lại satan được.
Satan: kẻ phản nghịch. Vậy muốn chống lại satan, con người phải “vâng lời” Thiên Chúa. Vậy, ai là người đầu tiên thực thi được điều ấy. Thưa, đó là ”DỨC TRINH NỮ MARIA”, Lời Thiên Sứ Truyền Tin đứng sau “Lời tiền định” từ Thiên Chúa, Lời mà Thiên Chúa đồng thời lên “án phạt” satan, tức con rắn xưa.
Như vậy, “Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội” được ban cho Đức Trinh Nữ Maria chính là “ngay từ giây phút” Lời Tiền Định từ Thiên Chúa. (St 3, 15) trong Cựu Ứơc. “ … người phụ nữ sẽ đạp nát đầu mi..” Còn trong Tân Ứơc chính là câu: “ Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà …” (Lc 1, 35)
Đồng thời lời thưa “ Xin Vâng” của Mẹ nói lên sự “ưng thuận tuyệt đối”, sự tín thác chân thành của thụ tạo, mà Mẹ là người đại diện.
Tiếng “Fiat” của Mẹ là tiếng thưa của cả nhân loại, dâng lên Thiên Chúa là Cha, để đáp lại “Hồng ân của lòng tin “. Để đồng lòng cùng Đấng Tạo Thành lên án satan. Như vậy, Người Phụ Nữ duy nhất ấy phải Thánh Thiện, phải trỗi vượt trên tất cả loài thụ tạo, để Mẹ xứng đáng được đón nhận một “dòng dõi mới”, đó là Tân Ứơc, một Giao Ứơc mới. Một Giao Ứơc mà Thiên Chúa đã “lập ra” dành cho một “Người Mẹ”, để làm Mẹ một dòng dõi mới, dòng dõi Tân Ứơc. Vì, “… Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa ” ( c 35)
Vâng, Đấng Thánh được sinh ra bởi một Người Mẹ, mặc nhiên người Mẹ ấy phải thánh thiện trỗi vượt. Vì, Người Mẹ ấy được gọi là “ MẸ THIÊN CHÚA “.
Như vậy, “Đặc ân vô nhiễm nguyên tội” nơi Đức Mẹ thật là có cơ sở vậy. Bởi vì, “ Từ Nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở nơi Thiên Chúa Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, vì Ngôi Lời là Thiên Chúa” ( Ga 1, 1).
Mặc nhiên, người được Thiên Chúa tiền định để cộng tác vào Mầu Nhiệm Cứu Độ loài người bởi Thiên Chúa, thì Người Phụ Nữ ấy phải là “ Nguyên tuyền thánh thiện” vậy.
Vâng, đó là nguyên lý đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” nơi Đức Trinh Nữ Maria vậy.
Không ai được gọi là “Thánh “ ngoài Thiên Chúa, nhưng chính Đấng Thánh ấy, là Thiên Chúa cực Thánh, Chí Thánh, ngàn trùng Chí Thánh đã muốn “Tiền Định” sự “Thánh Thiện “ ấy cho một thụ tạo, thì ai ngăn cản được.
Xin mượn lời nhạc sĩ để cất lên lời chúc tụng Mẹ: “ Cung chúc Trinh Vương, Mẹ quyền phép khôn lường, vì Mẹ đầy ơn Thiên Chúa, Mẹ khiết trinh trọn đời …”
Lạy Thiên Chúa là Cha, xin chúc tụng ngợi khen Danh Cha, xin cùng Đức Trinh Nữ Maria cảm tạ Cha muôn vàn cao cả, Cha đã ban cho một thụ tạo được trở nên Mẹ của Đấng Cứu Thế, để muôn đời nhân thế tôn vinh Cha, vì những kỳ công tuyệt mỹ. Xin Cha thương ban cho mọi loài thọ sinh biết nhận ra tình Cha cao vời, mà phượng thờ cho xứng hợp. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu- Kitô./. Amen.
Suy niệm 17: Đệ nhất thánh nữ
Trầm Thiên Thu
HỒNG ÂN CAO CẢ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
THÁNH MẪU GIỮ MÌNH TRINH KHIẾT TRỌN ĐỜI
Vô nhiễm là một trong tứ ân đặc biệt mà Thiên Chúa dành riêng cho Đức Mẹ (*), thụ tạo đặc biệt của Thiên Chúa – Đệ Nhất Thánh Nữ với nhiều thánh hiệu được Giáo hội tôn vinh (x. Kinh Cầu Đức Bà). Theo ngữ nghĩa “nhiễm” là “nhuộm” – nghĩa bóng là lây lan, thấm sang, vương, vướng, dính – nhưng thường được dùng ở thể thụ động và mang nghĩa xấu. Nói ngắn gọn, “vô nhiễm” nghĩa là không bị nhiễm. Qua Tông sắc “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa Bất Khả Ngộ) ban hành ngày 8-12-1854, ĐGH Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Trong cuộc sống đời thường có nhiều dạng “nhiễm”: Nhiễm khuẩn, nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm xạ, nhiễm bệnh,… Về thể lý, chắc chắn không ai miễn nhiễm, nghĩa là ai cũng đã từng bị bệnh, bị nhiễm một dạng virus nào đó, với mức độ khác nhau. Vì thế, người ta rất cần bảo vệ hệ miễn nhiễm của cơ thể, đặc biệt là cố gắng làm mạnh sức đề kháng. Thật kỳ diệu là đối với một số người Phi châu, họ miễn nhiễm với HIV (Human Immunodeficiency Virus), người ta gọi là “căn bệnh thế kỷ”, thường nói theo Pháp ngữ là SIDA (Anh ngữ là AIDS – Acquired Immune Deficiency Syndrome), Việt ngữ gọi là “bệnh liệt kháng”. Đó là một dạng thiếu khả năng miễn nhiễm của cơ thể. Tuy nhiên, có một số người Phi châu không bị nhiễm HIV, đúng là dạng “vô nhiễm” rất kỳ lạ!
Theo giáo sử, Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm đã có tại Ðông phương từ giữa thế kỷ VII và VIII. Các vị giảng thuyết đã nói về sự Vô Nhiễm, thai sinh thánh thiện, nhưng không nêu lên vấn đề gì khác. Thời Trung cổ, lễ này được đưa vào Tây phương, rồi nhiều dòng tu ở Ðức và Rôma cũng đã mừng lễ này từ thế kỷ IX.
Các tu sĩ đưa lễ này vào Anh quốc năm 1060, rồi lễ này được lan rộng khắp Âu châu trong thời gian 1127-1128, dù Thánh Bênađô vẫn tỏ ra dè dặt trước “sự mới lạ” đó. Lúc đầu, đó là một phong trào sùng kính sốt sắng nhưng thiếu suy tư, nhất là bị ảnh hưởng những ý kiến mù mờ của thời đó.
Sau đó, cùng với Thánh GM TS Augustinô, người ta cho rằng việc giao hợp vợ chồng là hành động trác táng lưu truyền tội tổ tông. Như vậy, Đức Maria sinh bởi sự giao hợp của cha mẹ thì cũng không thoát khỏi “định luật thông thường” đó. Vả lại, thời đó người ta có quan niệm phi khoa học về việc thai sinh, như thể xác được cưu mang trước rồi linh hồn đến trong khoảng thời gian sau: Linh hồn con trai trước 40 ngày, linh hồn con gái phải lâu hơn mới hợp với thể xác vì bản tính con gái yếu kém. Ui da!
Trong cái “vòng lẩn quẩn” đó, các thần học gia cũng không biết làm sao thoát khỏi với điều này: Chúa Kitô là Ðấng cứu chuộc hết mọi người. Như vậy, nếu nói rằng Ðức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, dù chỉ nói đến tội tổ tông, thì Chúa Kitô không còn là Ðấng cứu chuộc toàn thể nhân loại. Các nhà thần học thế kỷ XIII, kể cả Thánh TS Thomas Aquinô, đều cho rằng Ðức Mẹ vẫn có phần lệ thuộc tội lỗi, ít nhất là về thể lý trong thời gian mang thai.
Đến cuối thế kỷ XIII, thần học gia tu sĩ Gioan Duns Scott và tu sĩ William Ware (Dòng Phanxicô) đã có công tìm hiểu và đảo ngược lý luận trên. Chân phước tu sĩ Duns Scott lý luận rằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Ðức Mẹ chẳng những không làm tổn thương đến vinh dự Đức Kitô và Công Cuộc Cứu Chuộc của Ngài, nhưng càng làm tỏ rạng sự sung mãn của công cuộc ấy. Nhân loại thực sự được thoát khỏi Nguyên Tội khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Nơi Đức Maria, công việc của Chúa Giêsu có sức ngăn ngừa tội lỗi. Vì Ðấng Cứu Chuộc hoàn hảo phải là Ðấng không chỉ có thể CHỮA LÀNH tội lỗi mà còn NGĂN NGỪA tội lỗi. Lý luận thật tuyệt vời, và Thánh Ý Chúa thật là mầu nhiệm! Thật vậy, vào ngày 25-3-1858, chính Đức Mẹ đã hiện ra với Thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức và xác nhận: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Điều này cho thấy Chúa Thánh Thần thực sự tác động mạnh trong đời sống Giáo hội Lữ hành và minh chứng ơn bất khả ngộ của Đấng kế vị Thánh Phêrô, vì lúc đó Giáo hội mới công bố tín điều Mẹ Vô Nhiễm được gần 4 năm.
Qua trình thuật St 3:9-15, chúng ta thấy đó là một cuộc “xưng tội công khai” của Ông Bà Nguyên Tổ trước Tôn Nhan Thiên Chúa.
Sách Sáng Thế cho biết: Thuở hồng hoang, Đức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”.
Lạy Chúa tôi, con người thật chua ngoa và tồi tệ! Đó là một dây-chuyền-tội-lỗi: Ông đổ lỗi cho bà, bà đổ lỗi cho con rắn. Cuộc đời người ta “chết” vì những cái VÌ, BỞI, TẠI, NẾU, GIÁ MÀ, GIẢ DỤ,… và không phục thiện. Thật nguy hiểm vô cùng!
Chàng Adam được Thiên Chúa ban cho “mỹ nhân” (chắc là xinh đẹp và dễ thương lắm) nên chàng Adam nhà ta khoái chí lắm, liền đặt tên cho “vợ yêu” là Eva – tên này có nghĩa là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20). Như một chuỗi lô-gích liên quan lẫn nhau, người ta có một câu danh ngôn thú vị thế này: “A-xít làm CHÁY tiền, tiền làm CHÁY tim đàn bà, nước mắt đàn bà làm CHÁY tim đàn ông”. Ôi chao, thú vị mà cay cú, nhưng cũng chí lý đấy chứ!
Người ta gọi phụ nữ là “liễu yếu đào tơ”, nhưng đôi khi quên rằng phụ nữ mềm mà cứng, yếu mà mạnh. Quả thật, chính sự yếu mềm đó lại chính là thế mạnh của họ, nhất là họ vừa trẻ vừa đẹp, ngày nay còn “chân dài” nữa, nó “khoèo” một cái là lũ đàn ông té hàng loạt như bão mạnh thổi tung vậy. Khốn thay! Thật vậy, giọng cô ả chỉ “nhựa” một chút và ẻo lả một chút khi nói “Anh ơi!”, thì hỡi ôi, chàng chợt mềm nhũn như bún thiu ngay thôi. Chẳng thế mà Samson khỏe như voi cũng “chết ngắc” chỉ vì một phụ nữ, đường đường là một quốc vương như Đa-vít mà cũng “tiêu” chỉ vì một phụ nữ, và rồi gã Hê-rô-đê cũng sẵn sàng “làm liều” chỉ vì một phụ nữ, dám “thí” nửa nước như một món đồ chơi vậy. Đúng vậy, chỉ MỘT phụ nữ mà quý ông đã “tiêu diêu miền tình ái” chứ chưa cần nhiều phụ nữ đâu. Thật khủng khiếp quá chừng!
Xưa nay người ta vẫn ví von thế này: “Phụ nữ muốn là trời muốn”. Và người ta cũng so sánh: “Nhất vợ, nhì trời,…”. Trời còn đứng hàng thứ chứ nói gì phàm phu tục tử. Đáng sợ là khoảng giữa “cái có” và “cái không” ở phụ nữ thì dù một sợi tóc cũng không thể lọt vào. Tinh vi quá đỗi! Đàn ông là sóng cồn nhưng đàn bà là sóng ngầm. Sóng ngầm không thấy mà tránh và có sức cuốn mất hút dù trời không hề giông bão.
Tuy nhiên, Thiên Chúa không làm ngơ. Chỉ vì một phụ nữ tội lỗi mà nhân loại chịu kiếp đọa đày, đó là Bà Cố Tổ Eva; nhưng lại nhờ một phụ nữ thánh thiện, nhu mì và tuân phục, mà nhân loại được giải án tuyên công, người đó chính là Đức Maria. Thật diễm phúc cho phàm nhân chúng ta!
Khi đã thực sự nhận ra “cái may” to lớn như thế thì người ta phải biết tạ ơn chân thành và không ngừng. Thật vậy, Thánh Phaolô đã bày tỏ tâm tình đó: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Ep 1:3). Không chỉ vậy, Thánh Phaolô còn xác định chi tiết: “Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người. Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu”(Ep 1:4-6). Rất rõ ràng, mạch lạc, và dễ hiểu.
Và rồi Thánh Phaolô còn nói thêm: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:11-12). Quả thật, hồng ân Thiên Chúa quá bao la, cao vời và khôn ví. Chúng ta chỉ còn biết suốt đời cúi đầu mà cảm tạ liên lỉ từng phút, từng giây, trong suốt cuộc đời này.
Ơn là ơn, ân sủng là ân sủng, hồng ân là hồng ân, chúng ta không thể xác định ơn nào to hay nhỏ – đại ân hoặc tiểu ân. Chỉ có Thiên Chúa mới là người xác định mức độ, vì chỉ một mình Ngài là người thi ân giáng phúc. Đức Mẹ và các thánh chỉ là những người cầu thay nguyện giúp, đại diện cầu xin thay cho chúng ta (vì họ “uy tín” hơn chúng ta), họ là “ống dẫn” để chuyển ơn thánh từ Thiên Chúa tới chúng ta.
Trình thuật Lc 1:26-38 nói về cuộc Truyền Tin, ngày khởi đầu quan trọng đối với công trình cứu độ. Thánh sử Luca kể: Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
Vừa gặp Trinh Nữ Maria, Sứ thần liền nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, Cô Maria rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần biết Cô Maria đang lo lắng nên trấn an ngay: “Cô Maria ơi, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Cô sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
Chu choa, răng mà kỳ vậy hè? Người ta đã khấn giữ đồng trinh mà tự dưng nói chuyện mang thai và sinh sản. Kỳ ghê đi, mắc cỡ thí mồ, ngại hết sức! Thế nên Cô Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Sứ thần liền giải thích cặn kẽ và minh chứng cụ thể: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Thì ra là thế! Nói đến Thiên Chúa thì miễn bàn, vì Cô Maria hết lòng tin kính Ngài. Thế là hai năm rõ mười. Tỏ rõ khúc nhôi. Chắc hẳn Cô Maria nhà ta thở phào nhẹ nhõm. Và rồi Cô Maria dịu dàng nói ngay với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa CỨ LÀM cho tôi như lời sứ thần nói”. Nghe vậy, sứ thần cũng “an tâm” mà từ biệt ra đi…
Alleluia! Thế là “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người”, và ở cùng chúng ta… Ngài chính là Đấng Thiên Sai, mệnh danh Emmanuel (Is 7:14; Mt 1:23). Đức Maria tự nhận là một Nữ Tỳ hèn mọn nhưng lại thật là vĩ đại, đã trở thành Đấng Theotókos (Θεοτόκος – God-Bearer – Người-Mang-Thiên-Chúa). Xin kính chào Đấng Emmanuel, và xin “kính mừng Maria đầy ơn phước”… Tạ ơn Thiên Chúa – Deo gratias!
Lạy Mẹ Maria
Đấng Vô nhiễm Nguyên tội
Luôn tin yêu tuyệt đối
Nơi Thiên Chúa tình yêu
Mẹ sáng rực ngàn sao
Trắng trong như Bạch Huệ
Nêu gương cho hậu duệ
Trinh nguyên cả xác hồn
Lạy Thánh Mẫu từ nhân
Xin chở che, nâng đỡ
Dẫu đời bao sóng gió
Vẫn một lòng tin yêu
Lạy Thiên Chúa quan phòng và tiền định, xin làm mạnh hệ miễn nhiễm tâm linh để con đủ sức đề kháng cái xấu. Lạy Thánh Nữ Vô Nhiễm, xin giúp con can đảm khi noi gương Mẹ sống khiêm nhu và tuân phục vô điều kiện. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
(*) 1. Thánh Mẫu Thiên Chúa [01-01], 2. Mông Triệu [15-08, Hồn Xác Lên Trời], 3. Đồng Trinh Trọn Đời [22-08, Maria Trinh Vương], 4. Vô nhiễm Nguyên tội [08-12].
Suy niệm 18: Đóa hoa Maria
LM Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi nói đến hoa là người ta nói đến sắc, đến hương. Hương sắc mỗi loài hoa lại khác nhau. Sự khác nhau tạo nên sự phong phú, đa dạng của muôn loài hoa và tạo nên cái riêng của từng loài hoa. Hương sắc càng rạng rỡ càng làm nên vẻ cao sang quyền quý cho loài hoa.
Con người yêu hoa thích hoa vì nó dễ nhìn, dễ gần. Có người thích gần, thích nhìn hoa để tìm sự thanh thản cho tâm hồn. Ngắm nhìn hoa và thưởng thức mùi hoa đề tìm cảm giác dễ chịu đến nỗi quên hết mệt nhọc hay ưu phiền.
Hôm nay chúng ta tôn vinh Mẹ Maria. Chúng ta tôn vinh Mẹ như là một đóa hoa thanh cao nhất được dâng lên Thiên Chúa. Mẹ như loài hoa Sen cũng mang những đặc tính vô nhiễm, thanh lọc, thuần khiết, kiên nhẫn và hương thơm thùy mị vì “gần bùn mà chẳng hôi tành mùi bùn”. Là thu tạo được Thiên Chúa dựng nên, nhưng Mẹ đã trở nên thụ tạo hoàn hảo nhất của Thiên Chúa. Nơi Mẹ không hề vướng mắc tội lỗi. Cuộc đời của Mẹ đã họa lại hình ảnh của Thiên Chúa hoàn toàn trong sạch, hằng yêu thương nâng đỡ mọi người. Mẹ đẹp cách hoàn hảo cả về thân xác và tâm hồn. Mẹ còn toả hương thơm ngào ngạt qua những nhân đức ma Mẹ luôn sống: trong sạch, mến Chúa và yêu người.
Tin mừng hôm nay cho ta thấy sự thanh khiết và nét đẹp trinh trong của Mẹ được bảo toàn bằng ân sủng và tình thương của Thiên Chúa. Tin mừng khởi đầu với lời chào thật kính cẩn của sứ thần: “Kính chào Bà đầy ơn sủng”. Đầy ơn sủng nghĩa là cuộc đời Mẹ đã được bao trùm bằng ân sủng của Chúa ngay từ lúc thụ thai. Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ bằng ân sủng của Ngài để Mẹ không vấn vương tội đời, không tỳ ố trong xác phàm để cung lòng Mẹ xứng đáng là đền thờ cho Con Chúa Trời ngự trị.
Nói như thế, không phải là Mẹ không có công trạng gì, vì cuộc đời Mẹ đã được định đoạt từ ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa chọn Mẹ nhưng Ngài vẫn tôn trọng ý chí và tự do của Mẹ. Mẹ vẫn sống một kiếp người bình thường như bao người khác, có khác chăng là tấm lòng Mẹ luôn thanh khiết, luôn toả sáng bằng việc chọn Chúa hơn là chọn những tạo vật trần gian. Chính vì vậy, mà từ Thiên cung Thiên Chúa đã nhìn thấy Mẹ như đóa hoa đẹp nhất trần gian. Sứ thần đã nói cùng Mẹ vì “Mẹ hằng đẹp lòng Chúa”. Mẹ đẹp rực rỡ không phải là vẻ đẹp kiêu xa bên ngoài mà là vẻ đẹp của một tâm hồn thanh khiết dành trọn vẹn cho Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta tạ ơn Chúa đã tạo dựng cho nhân loại một đóa hoa rạng ngời luôn tỏa hương thơm ngát là Mẹ Maria. Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một đóa hoa luôn thanh thoát, cao quý bởi tình yêu hiến dâng cho Chúa để phục vụ cho đời. Tạ ơn Chúa và nguyện cầu cùng Mẹ giúp chúng ta biết trở thành một đóa hoa thơm ngát dâng tặng cho đời và ca tụng Thiên Chúa.
Cuộc đời hôm nay rất cần những bông hoa tô thắm cho trần gian. Hoa bác ái để bớt đi những gai góc cũng tham sân si mù quáng. Hoa yêu thương rải ngập trán lối đi của danh lợi thú đang làm mất tình người. Hoa thủy chung để xây dựng lại những giá trị của gia đình đang mất dần bởi lối sống thực dụng đầy phóng túng.
Đây là những loài hoa mà Chúa đang cần trên trần gian. Ước gì đời sống ky-tô không chỉ nở hoa thơm ngát tô thắm cho trần gian mà còn là những người vun trồng, chăm sóc để dâng hiến cho đời những bông hoa tươi thắm là con cái, là bạn bè, là đồng nghiệp đang sống tốt nhờ gương sáng của chúng ta. Ước gì đời sống của chúng ta cũng luôn nở hoa bác ái yêu thương để từ trời cao Chúa luôn hài lòng về chúng ta.
Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ là đóa hoa đẹp nhất trần gian. Bông hoa đời Mẹ thanh khiết, không tì ô luôn đẹp lòng Chúa. Chúng con xin nương nhờ công đức của Mẹ để ơn Chúa xuống trên gia đình chúng con. Xin Mẹ cũng luôn ban phước lành cho nhân gian chúng con được bình an. Amen.
Suy niệm 19: Ôi Mẹ đầy ơn phúc!
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay toàn thể Hội Thánh tôn vinh Mẹ Maria, Ðấng Tuyệt Ðẹp “ Tota Pulchra”, Ðấng đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Một Ngài, Đấng được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của Ân sủng Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết.
Tín điều Mẹ Maria Đầu Thai Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức Chân phước Piô IX Giáo hoàng long trọng tuyên bố bằng sắc lệnh “Ineffabilis Deus” vào ngày Lễ Mẹ Vô Nhiễm, 8/12/1854, rằng: “Để vinh danh Ba Ngôi thánh thiện duy nhất, để tôn kính và hiển danh Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, để phấn khởi đức tin Công Giáo và phát triển Kitô Giáo; bằng quyền bính của Chúa Giêsu Kitô, của các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và bằng thẩm quyền của mình, Tôi tuyên xưng, công bố và xác nhận rằng: tín lý cho rằng rất Thánh Nữ Trinh Maria, ngay từ giây phút đầu thai của mình, nhờ ơn sủng cùng với đặc ân chuyên nhất của Thiên Chúa toàn năng, và dựa vào công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc loài người, đã được gìn giữ vô nhiễm khỏi mọi tì vết của nguyên tội, là điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế, tất cả mọi tín hữu đều phải mạnh mẽ và liên lỉ tin tưởng”. (DS 2803)
Như thế, Mầu nhiệm Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội nhắc nhớ chúng ta hai chân lý căn bản của đức tin, đó là tội nguyên tổ và nhất là sự chiến thắng của ơn thánh Chúa trên tội này, chiến thắng ấy được phản chiếu tuyệt vời nơi Đức Maria chí thánh.
Chúng ta cảm thấy sự hiện diện của tội nguyên tổ quanh chúng ta và nhất là trong chúng ta. Kinh nghiệm về sự ác thật tỏ tường đến độ khơi lên trong ta câu hỏi: sự ác ấy từ đâu mà tới? Các trang đầu tiên của sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo cả con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư? ” Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ” Và Thiên Chúa phán bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa sẽ có người con của một phụ nữ đập dập đầu con rắn xưa (St 3,5); “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,5).
Nhìn vào Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp cứu độ trần thế: vẻ đẹp của Thiên Chúa chiếu tỏ rạng ngời nơi tôn nhan Chúa Kitô. Nơi Mẹ Maria vẻ đẹp này hoàn toàn tinh tuyền, khiêm tốn, được giải thoát khỏi mọi kiêu căng và tự phụ.
“Kính chào trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ! ” (Lc 1, 28). Lời của sứ thần Gabriel, chúng ta không ngớt dâng lên Đức Mẹ nhiều lần trong ngày. Hôm nay chúng ta lặp lại với niềm vui không tả, trong ngày lễ Đức Maria Vô nhiễm Nguyên Tội, một mầu nhiệm cao cả, chúng ta trình bày trong Phụng vụ hôm nay! Một mầu nhiệm không ngừng thu hút sự chiêm niệm của các tín hữu và truyền cảm hứng cho sự suy tư của các nhà thần học. “Ðấng đầy ơn phúc”, đây là tên mà Thiên Chúa, qua sứ thần, muốn gọi Đức Trinh Nữ. Đó là cách Thiên Chúa đã nghĩ và nhìn đến từ trước muôn thủa.
Trong bài thánh thi của Thư gửi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô ca ngợi Thiên Chúa Cha vì Ngài “ đã chúc phúc cho chúng ta bằng mọi phúc lộc thiêng liêng ở trên trời trong Đức Kitô” ( 1, 3 ). Thiên Chúa đã gửi cho Đức Maria phúc lành thiêng liêng ấy! Mẹ là thực sự được chúc phúc hơn các người phụ nữ (x. Lc 1: 42)! Chúa Cha đã chọn Mẹ trong Đức Giêsu Kitô từ trước khi tạo thành vũ trụ, ngõ hầu Mẹ trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Người. Trong tình thương, Người đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với Người, qua Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1 4-5).
Tiền định của Đức Maria, như tất cả chúng ta, trong tương quan với tiền đình của Chúa Con. Chúa Kitô là chổi non mọc lên để đạp dập đầu con rắn xưa, theo sách Sáng Thế (x. St 3, 15) là Con Chiên không tì vết (x. Xh 12, 5, 1 P 1, 19) tự hiến tế để cứu chuộc con người khỏi tội lỗi.
Với tiên đoán về cái chết cứu cứu chuộc của Ngài, Đức Maria đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ và mọi tội lỗi khác. Trong chiến thắng của Adam mới, đó cũng là của Eva mới, mẹ của những người đã được cứu chuộc. Do đó Đức Maria Vô Nhiễm là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả chúng sinh, những người đã chiến thắng Sa-tan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12, 11).
Hôm nay chúng ta chiêm ngưỡng người thôn nữ khiêm hạ Nazareth thánh thiện và vô nhiễm trước nhan Thiên Chúa trong tình yêu (x. Ep 1: 4), tình yêu mà trong đó suối nguồn là chính Thiên Chúa Ba Ngôi, nhờ đó Đức Maria được Vô Nhiễm Nguyên Tội và làm Mẹ Đấng Cứu Chuộc!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người đầu tiên được cứu chuộc bởi Con Mẹ, được tham gia vào sự viên mãn rất thánh thiện của Con Mẹ, là niềm ước mơ và hy vọng của Hội Thánh, là hình ảnh cánh chung của Giáo Hội. Mẹ là Trạng Sư của chúng con, Mẹ của Vua Hòa Bình, Ðấng đạp đầu con rắn, xin phù giúp chúng con biết chống lại những cám dỗ của sự dữ; Xin Mẹ làm sống lại trong chúng con, đức tin, đức cậy và đức mến, ngõ hầu, trung thành với ơn gọi của mình, chúng con biết sống làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô, bất chấp mọi hy sinh. Và như ngôi sao sáng, xin Mẹ hướng dẫn bước đường chúng con đến gặp Chúa đang ngự đến. Amen.
Suy niệm 20: Vô Nhiễm cho hết thảy mọi người
(Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Ki-tô hữu chúng ta mừng gì trong ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội? Mừng một đặc ân dành riêng cho Mẹ? hay để chúc mừng một trường hợp biệt lệ có một không hai mà quyền phép Thiên Chúa đã thực hiện cho một mình Đức Mẹ mà thôi? với mục đích làm vui lòng Mẹ, và nhờ đó sẽ được Mẹ thương ban cho nhiều ân huệ ta cầu xin? Vậy thì lễ Mẹ Vô Nhiễm có liên quan gì tới mỗi chúng ta, hoặc giả ta long trọng mừng lễ để khích lệ mình sống trong sạch và thánh thiện như Mẹ?… Những câu hỏi tương tự như thể đã lởn vởn trong đầu tôi từ lâu lắm rồi, nhưng chỉ ngại công khai nói ra. Thú thực, tôi vẫn né tránh đi tìm một giải đáp thỏa đáng vì sợ đụng chạm tới một tín điều đã từng gây quá nhiều tranh cãi trong lịch sử.
Thế nhưng âm thầm tôi vẫn tin rằng tín điều Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội phải là một gì đó liên quan rất chặt chẽ tới niềm tin của mình. Trong câu chào của Sứ thần: “Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà!” tôi vẫn thấy có một thực tế nào đó đụng chạm tới chính bản thân mình, và tới từng con người sống trên trần gian này. Phải, Đức Ma-ri-a đâu phải là người duy nhất đầy ân sủng, vì đơn giản Thiên Chúa đã cống hiến ân huệ tình yêu tha thứ của Ngài cách sung mãn cho hết thảy mọi người. Đức Chúa đâu chỉ duy nhất ở cùng Đức Maria, vì Ngài “ở cùnganh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Trong thư gửi giáo đoàn Rô-ma, Thánh Phao-lô đã khảng định nhiều lần một tư tưởng rất căn bản: “Nếu chỉ vì một người, một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua một người duy nhất là đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy, những ai được Thiên Chúa ban ân sủng đồi dào và cho trở nên công chính, thì được sống và được thống trị” (Rm 5, 17, và toàn chương 5). Như vậy, giữa một bên là A-đam phạm tội để mọi người bị nhiễm tội tổ tông, và bên kia là Đức Giê-su Ki-tô cứu chuộc để mọi người được trở nên công chính, ta phải làm nổi bật (highlight) bên nào? Theo Phao-lô thì vế thứ hai phải được nhấn mạnh hơn, vì nó “lớn lao hơn biết mấy”. Không những cần làm nổi bật Giê-su Cứu Chúa hơn là tổ tông A-đam lỗi phạm, mà còn cần phải đề cao “ân sủng … còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người” hơn là trên “muôn người phải chết”. Quả thật, theo Phao-lô, “sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa” (Rm 5, 15).
Dưới nhãn quan đó, ta sẽ chiêm ngắm Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội như thế nào? Nếu ta chủ yếu nhìn lên Mẹ như một trường hợp được đặc ân miễn trừ khỏi vế thứ nhất ‘mọi người mắc tội nguyên tổ’, thì dù có cao đẹp tới mấy đi chăng nữa thì ơn cứu độ Đức Ki-tô thực hiện vẫn còn là rất đơn độc và nghèo nàn. Còn nếu ta dùng con mắt Tin Mừng để nhận ra đây là một trường hợp điển hình (prototype chứ không phải unique) của ‘muôn người được trở nên công chính nhờ ân sủng’, thì ta mới thật sự khám phá ra được ‘cái lớn lao’ mà Phao-lô muốn nhắc nhở. Nếu tâm trí chỉ tập trung vào Ma-ri-a như một người nữ con cháu E-va, độc đáo vì không bị vướng mắc tội nguyên tổ, để rồi nhạt nhòa hình ảnh một Giê-su – A-dam mới hoàn lại sự sống, sự công chính cho muôn người cách rất căn cơ và mạnh mẽ, thì đúng là ta đã chọn lấy cái yếu hơn cái mạnh, cái nhỏ mọn hơn cái lớn lao, cái biệt lệ hơn cái phổ quát. Trong Ma-ri-a Vô Nhiễm Nguyên Tội, ta tìm thấy có cả hình ảnh một Ma-ri-a Mác-đa-la sám hối, một tên cướp bị án phạt đóng đinh kêu cầu được Chúa xót thương; có cả hình ảnh của tôi khi quì gối ăn năn sám hối, của hết thảy mọi người trong cuộc sống ngụp lặn nơi dương thế… và nói chung của toàn thể nhân loại tội lỗi. Vô Nhiễm Nguyên Tôi không mang một nội dung biệt loại (exclusive: chỉ Ma-ri-a thôi chứ không một ai khác), mà phải mang tính bao hàm (inclusive: Ma-ri-a và mọi tín hữu, trong đó có cả mỗi chúng ta). Vô Nhiễm Nguyên Tôi phải nói được cho tôi rằng: ‘Mừng vui lên, hỡi người được đầy ân sủng, Đức Chúa xót thương và cứu độ luôn ở với bạn!’.
Ma-ri-a Vô Nhiễm phải là đại lễ của tất cả mọi người, vì Mẹ không phải là người duy nhất trên trần gian đã gắn kết cuộc đời mình cách bền chặt với Giê-su Ki-tô, mà cả tôi và mọi Ki-tô hữu cũng đã được gắn kết bền chặt qua bí tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận. Vô Nhiễm không chỉ mang nội dung thụ động ‘không vướng mắc tội nguyên tổ’ mà chứa đựng một nội dung tích cực và động hơn nhiều, đó là ‘mở rộng tâm hồn đón nhận ơn cứu độ’ và ‘nỗ lực gắn kết bền chặt hơn nữa với lòng lân tuất Chúa’, điều mà Đức Ki-tô Giê-su đã giáng thế để mạc khải và thực hiện (xem kinh tiền tụng lễ Mẹ Vô Nhiễm).
Lạy Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cho con được cùng Mẹ không ngừng cất lời ca tụng Đức Chúa xót thương và cứu độ như Mẹ đã từng cất lên trong bài ca Magnificat. Nếu trinh trong / vô nhiễm đối với Mẹ trước hết là không ngừng rộng mở cõi lòng đón lấy ân sủng hải hà của Thiên Chúa, thì xin cho con cũng được bắt chước Mẹ không ngừng đón nhận và gắn kết bền chặt với lòng thương xót cứu độ đó trong suốt cuộc sống Ki-tô hữu, cho dầu rất yếu hèn và tội lỗi của con. A-men.
Suy niệm 21: Lễ Mẹ Vô Nhiễm
(Lm. Antôn)
Ông bà anh chị em thân mến. Hôm nay, cùng với Giáo hội, chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Vô nhiễm nguyên tội có nghĩa là từ lúc thụ thai trong lòng mẹ là bà thánh An-na Trinh nữ Maria được gìn giữ khỏi tội tổ tông, do một ơn sủng đặc biệt của Thiên Chúa tặng ban. Và cũng từ lúc đó, Đức Maria được tràn đầy ơn phúc của Thiên Chúa, như lời tuyên xưng của Thiên thần khi báo tin được chọn làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa “Kính mừng Maria đầy ơn phúc.”
Chúng ta nhận biết Kinh thánh không ghi rõ việc Đức Maria được thụ thai trong lòng mẹ vô tội, nhưng có ám chỉ trong sách Sáng thế qua việc Thiên Chúa tuyên án phạt con rắn đã cám dỗ ông A dong và bà E-và phạm tội không vâng lời Chúa ăn trái cấm: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người nữ… dòng giống người nữ sẽ đạp vào đầu mi.” Con rắn đó được ám chỉ là ma quỉ, còn người nữ được ám chỉ về Đức Maria.
Lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được mừng vào đúng chín tháng trước ngày sinh nhật của Mẹ Maria. Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được Đức giáo hoàng Pi-ô thứ 9 công bố năm 1854 như sau: “Từ lúc thụ thai, trinh nữ Maria được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ nguyên tội do ân sủng và đặc ân siêu việt mà Thiên Chúa ban tặng xét theo công nghiệp Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng cứu chuộc nhân loại.”
Chúng ta biết trước khi Đức giáo hoàng Pi-ô công bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội thì Giáo hội đã mừng lễ này vào những thế kỷ trước đó, như vậy, Đức giáo hoàng chỉ tái khẳng định tín điều giáo dân đã tin và mừng kính từ lâu đời, chứ không đơn phương tuyên bố tín điều này mà không tham khảo ý kiến của Giáo hội. Vào năm 1846, Hội dồng Giám mục Hòa kỳ đã xin Tòa thánh nhận Đức Trinh Nữ Maria dưới tước hiệu Vô Nhiễm Nguyên Tội làm bổn mạng của quốc gia, và vào năm 1847 đã được Đức giáo hoàng Pi-ô thứ 9 phê chuẩn. Khi Đức Maria hiện ra với Bơ-na-đét tại Lộ Đức, nước Pháp, vào ngày 25 tháng 3 năm 1854, nghĩa là vào lần hiện ra thứ 16 trong tổng cộng 19 lần, Đức Maria đã công khai tuyên bố xác nhận: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.” Điều này càng làm cho chúng ta xác tín vào việc Đức Maria không hề mắc tội tổ tông truyền.
Chúng ta có thể tự hỏi: “Tại sao Thiên Chúa phải gìn giữ trinh nữ Maria khỏi mắc tội tổ tông?” Lý do là vì: nếu Thiên Chúa muốn cho Con Thiên Chúa sinh ra làm người trong cung lòng của người đàn bà mắc tội thì đó là điều ô nhục cho Ngôi Hai Thiên Chúa. Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đã mang thai Đấng Cứu Thế một cách kỳ diệu do quyền phép của Chúa Thánh Thần, vì vậy Mẹ Maria đã đóng một vai trò quan trọng trong công trình cứu chuộc loài người.
Ông bà anh chị em thân mến. Đức Maria là Mẹ của Giáo hội và là Mẹ của tất cả chúng ta. Mẹ đã để lại cho chúng ta những tấm gương sáng cho chúng ta noi theo để chúng ta cũng nhận được ân sủng của Chúa ban như Mẹ. Mẹ đã sống một cuộc sống mật thiết với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện. Mẹ mở rộng tâm hồn để đón nhận Lời Chúa, và trung thành sống theo ý Chúa như lời Mẹ thưa cùng Thiên thần Chúa trong bài Tin mừng hôm nay: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.”
Một nhân đức khác mà chúng ta có thể noi gương và học từ Mẹ là đức khiêm tốn. Trinh nữ Maria không nuôi tham vọng làm mẹ Đấng cứu thế như những bà, cô Do thái bấy giờ. Nhưng nhìn thấy thấy rõ lòng khiếm tốn và đơn sơ nơi trinh nữ Maria, Thiên Chúa đã cất nhắc trinh nữ lên địa vị làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ Maria cũng muốn chúng ta noi gương yêu thương, hy sinh phục vụ giúp đỡ tha nhân và nhất là quảng đại. Sau khi được truyền tin, Mẹ đã mau mắn lên đường để hy sinh giúp đỡ bà Elizabeth, lúc đó cũng đang cứu mang Gioan trong lòng. Và sau khi sinh Con Thiên Chúa, Mẹ đã không giữ cho mình, nhưng đã quảng đại dâng hiến Chúa để chịu chết cứu chuộc nhân loại. Vì thế Mẹ Maria muốn chúng ta là con cái của Mẹ, biết noi gương và sống những nhân đức của Mẹ.
Trong ngày kính Đức Maria Vô Nhiễn Nguyên Tội, chúng ta nhớ lại ơn tái sinh khỏi tội tổ tông trong Bí tích Rửa tội hay Thanh tẩy của chúng ta. Chúng ta nhận biết trong cuộc sống Ki-tô hữu, vì phải đối diện với những thử thách và cám dỗ, chúng ta không gìn giữ được ơn vô nhiễm khỏi tội khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta cầu xin Đức Maria là Ngôi Sao Sáng dẫn lối và giúp để chúng ta cố gắng phục hồi ơn Chúa bằng cách sống theo thánh y lời Chúa dạy.
Cũng như Mẹ Maria mong đợi Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất trong lịch sử nhân loại, chúng ta đang sống trong mùa Vọng và cũng mong chờ ngày Chúa đến lần thứ hai, ngày cuối cùng của lịch sử nhân loại. Giữa hai cuộc thăm viếng này, Chúa thường đến trong tâm hồn của mỗi người chúng ta bằng ơn thánh. Cùng với Mẹ Maria, chúng ta cầu xin Chúa thánh hóa tâm hồn chúng ta thành nơi xứng đáng cho Chúa đến và ngự trị để chúng ta luôn trung thành và can đảm vâng theo và sống lời Chúa dạy bảo, và trở thành sứ giả đem tin vui mừng của Chúa đến cho những người chung quanh.
Suy niệm 22: Nguyện xin vâng
(Trầm Thiên Thu)
Ngôn sứ Samuel đã đặt vấn đề: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, VÂNG PHỤC thì TỐT HƠN là DÂNG HY LỄ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1 Sm 15:22). Để dễ nhớ, người ta thường nói ngắn gọn: “Vâng lời trọng hơn của lễ”.
Đức vâng lời đã được tuân thủ tuyệt đối bởi một Nữ Tỳ đặc biệt của Thiên Chúa: Đức Maria, Đấng Vô Nhiễm Nguyên tội.
Động từ “nhiễm” có nghĩa là “nhuộm”. Theo nghĩa bóng, “nhiễm” là lây lan, lan truyền, thấm sang, thường ở thể thụ động và mang nghĩa xấu, Việt ngữ gọi là “lây nhiễm” – nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm cái xấu,… Vô nhiễm nghĩa là không bị nhiễm.
Có những sinh vật truyền nhiễm – như vi khuẩn, virus, ký sinh, nấm,… Sức đề kháng yếu kém thì cơ thể sẽ dễ bị nhiễm trùng, bị bệnh. Sức đề kháng là khả năng phòng vệ và chống lại các tác nhân xâm nhập vào cơ thể con người. Hệ miễn dịch là một hệ thống gồm các tế bào phức tạp, các tế bào này sẽ giúp bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân gây bệnh. Muốn sống khỏe thì phải bảo vệ hệ miễn nhiễm bằng các hoạt động tốt (vệ sinh, thể dục, ngủ nghỉ,…).
Cuộc sống có nhiều thứ “nhiễm”, nhất là trong cuộc sống ngày nay: Nhiễm trùng, nhiễm độc, nhiễm xạ, nhiễm bệnh,… Về thể lý, chắc chắn không ai miễn nhiễm, nghĩa là ai cũng đã từng bị bệnh, bị nhiễm một dạng virus nào đó. Vì thế, người ta rất cần bảo vệ hệ miễn nhiễm của cơ thể, làm mạnh sức đề kháng. Thật kỳ diệu đối với một số người Phi châu, họ miễn nhiễm với HIV (Human Immunodeficiency Virus), căn bệnh thế kỷ này quen gọi theo Pháp ngữ là SIDA (Anh ngữ là AIDS). Đó là một dạng thiếu khả năng miễn nhiễm của cơ thể. Quả thật, người Phi châu có dạng “vô nhiễm” kỳ lạ biết bao!
Ngày 8-12-1854 là ngày quan trọng, mang tính lịch sử, vì đó là ngày ĐGH Piô IX đã công bố Tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội qua Tông sắc “Ineffabilis Deus” (Thiên Chúa Bất Khả Ngộ). Thánh Ý Chúa thật là mầu nhiệm, vì ngày 25-3-1858, chưa đầy 4 năm sau khi Giáo Hội công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, chính Đức Mẹ đã hiện ra xác nhận với Thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội” (Je suis la conception immaculée, I am the immaculate conception, Ego sum immaculata conceptio, Soy la inmaculada concepción). Dĩ nhiên khi đó Bernadette chưa thể hiểu ngay, về sau mới có thể hiểu thế nào là Vô Nhiễm Nguyên Tội. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn tác động trong đời sống Giáo hội Lữ hành.
Trong cuộc sống đời thường, khi người ta “có tật” thì cũng dễ bị “giật mình”, và người ta còn thường đổ lỗi cho nhau theo “dây chuyền” bằng nhiều dạng tinh vi: Vì A, tại B, bởi C, nếu D, giá mà E,… Lỗi tại X, lỗi tại Y,… có lẽ hiếm khi dám nhận: “Lỗi tại tôi”. Cái kiểu “đổ rô, đổ trê” thế này thì nguy hại lắm, bởi vì tội lỗi cũng có tính liên đới, xảy ra theo “dây chuyền”.
Kinh Thánh hôm nay (St 3:9-15) cho chúng ta biết lý do “giật mình” của Ông Bà Nguyên Tổ. Lúc đó, Thiên Chúa gọi con người và hỏi: “Ngươi ở đâu?”. Con người thưa: “Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn”. Trước đó thì Ông Bà thường xuyên chuyện vãn với Thiên Chúa, bây giờ thì lủi đi như chim cút, mắt liên láo và không thích gặp mặt Ngài nữa. Và rồi Ngài hỏi: “Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?”. Con người thưa: “Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn”. Đức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: “Ngươi đã làm gì thế?”. Người đàn bà thưa: “Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn”. Ngài hỏi không phải là Ngài không biết, mà Ngài muốn tự con người xác nhận, nhưng chẳng ai dám nhận lỗi, Ông đổ lỗi cho Bà, Bà đổ lỗi cho con rắn.
Sau đó, hệ lụy tất yếu đã xảy ra, đó là lúc Thiên Chúa nói thẳng thắn với con rắn: “Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó”. Đó là cách Thiên Chúa đề cập một phụ nữ vĩ đại nhất trong nữ giới và cả nhân loại này: Trinh Nữ Maria.
Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng, sau khi được Thiên Chúa trao cho một mỹ nhân, Chàng Ađam thích lắm, cứ ngỡ mình nằm mơ. Và trong khi phấn khởi khôn tả, Chàng gọi Nàng là Êva, Kinh Thánh giải thích rằng Chàng “đặt tên” cho Nàng như vậy vì Nàng là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20).
Người phụ nữ đầu tiên và là người mẹ đầu tiên của nhân loại đã hư hỏng vì thiếu đức vâng lời – bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Thế là nhân loại mất Người Mẹ thứ nhất: Bà Êva, nhưng nhân loại lại được Thiên Chúa ban cho Người Mẹ thứ nhì: Đức Maria. Thật là mầu nhiệm đối với sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cảm thấy hạnh phúc lắm, không thể không cảm tạ Thiên Chúa theo lời mời gọi của tác giả Thánh Vịnh: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công. Người chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Người” (Tv 98:1).
Và còn rất nhiều lý do khác để chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa. Đây là một trong các lý do đó: “Chúa đã biểu dương ơn Người cứu độ, mặc khải đức công chính của Người trước mặt chư dân; Người đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ítraen. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98:2-3). Niềm vui của chúng ta cứ tăng dần, trách nhiệm của chúng ta cũng phải tăng dần, và không thể không chia sẻ với người khác: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát” (Tv 98:4).
Từ Cựu Ước tới Tân Ước có vô vàn các kỳ công của Thiên Chúa khiến chúng ta phải tâm phục khẩu phục và không ngừng tạ ơn Ngài. Thánh Phaolô đã lên tiếng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1:3-4).
Dâng lời tạ ơn cũng là một cách cầu nguyện, chứ không phải chỉ là cầu xin, van nài. Để cầu nguyện có hiệu quả và đẹp lòng Thiên Chúa, Thánh Faustina cho biết: “Khi cầu nguyện, chúng ta ĐỪNG NÀI ÉP Chúa ban cho điều chúng ta muốn, mà chúng ta NÊN TUÂN PHỤC Thánh Ý Ngài” (Nhật Ký, số 1525). Nghĩa là có những điều chúng ta xin nhưng không được vì không đúng Thánh ý Chúa. Thánh Phaolô giải thích: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1:5-6). Rõ ràng việc tạ ơn vô cùng quan trọng trong đời sống hằng ngày của chúng ta – những người mệnh danh là Kitô hữu.
Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn trí, nhân từ, yêu thương vô hạn, giàu lòng thương xót, Ngài chỉ muốn những gì tốt lành nhất cho chúng ta, dù đôi khi chúng ta cảm thấy trái ý, không vừa lòng. Thánh Phaolô cho biết: “Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã TIỀN ĐỊNH cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng THEO KẾ HOẠCH của Người, để chúng tôi là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô, chúng tôi ngợi khen vinh quang Người” (Ep 1:11-12).
Không gì ngoài Thánh Ý Chúa, dù chỉ là một sợi tóc nhỏ nhoi cũng được Ngài quan phòng và tiền định rạch ròi (x. Mt 5:36; Mt 10:30; Lc 21:18; Cv 27:34). Trình thuật Lc 1:26-38 nói về việc Sứ thần Gáprien loan báo Hỉ Tín cho Trinh nữ Maria, một Thôn nữ đoan trang, duyên dáng, nết na và thùy mị.
Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một chính nhân là Giuse, thuộc dòng dõi Hoàng tộc Đavít. Đó là trinh nữ Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Vâng, Thôn nữ Maria rất khiêm nhường, thế nên rất ngại khi được người khác đề cao mình, nói mình là người nhân đức.
Lúc đó Sứ thần liền nói: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Cái “vụ” kia đã thấy ngại rồi, cái “vụ” này còn ngại hơn. Ui da, kỳ thí mồ đi! Bụng muốn đánh lô-tô rồi đó.
Thế nên Cô Maria ngạc nhiên lắm, Cô phân trần: “Mèn ơi! Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Nhưng Sứ thần xác định ngay: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị. Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa, Cô Êlisabét, người họ hàng với Chị, tuy già rồi mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Nghe xong nhẹ cả mình. Vâng Thôn nữ Maria hiền thục và luôn một niềm tín thác nơi Thiên Chúa. Bấy giờ, Trinh nữ Maria không cần đắn đo, nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Thế là hoàn thành sứ vụ, rồi sứ thần từ biệt ra đi…
Chắc hẳn trình thuật Tin Mừng hôm nay như một thước phim hay, chúng ta đã biết rõ và quá quen thuộc, hầu như thuộc lòng, thế mà chúng ta vẫn không cảm thấy nhàm chán. Thật là kỳ diệu quá chừng! Ước gì mỗi chúng ta cũng biết luôn tín thác vào sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa để có thể mau mắn “xin vâng” như Đức Mẹ, vâng lời ngay trong những đoạn đường tối tăm gian khổ nhất của cuộc đời.
Cùng với Đức Mẹ, đặc biệt trong niềm hân hoan kính mừng Đức Mẹ Vô Nhiễm, mỗi chúng ta hãy chân thành thân thưa với Thiên Chúa: “Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ” (Tv 119:34).
Lạy Thiên Chúa toàn năng và chí ái, chúng con cảm tạ Ngài đã thương ban cho chúng con một Người Mẹ nhân đức tuyệt vời, xin giúp chúng con luôn biết tuân phục Thánh Ý Ngài mọi nơi và mọi lúc, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Lạy Thánh Mẫu Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin nguyện giúp cầu thay chúng con còn đang lưu lạc nơi thung lũng nước mắt trần gian này, xin bảo vệ chúng con cũng được “miễn nhiễm” với tội lỗi và mọi mưu ma chước quỷ, xin thương cầu bầu cùng Chúa cho chúng con bây giờ và trong giờ lâm tử.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Suy niệm 23: Giây phút nhập thể
(P.Trần Đình Phan Tiến)
Kính thưa quý vị, thưa các bạn có lẽ không ai xa lạ với Đoạn Lời Chúa ( Lc 1, 26 -38) hôm nay, được Giáo Hội chọn đọc cho ngày LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI. Điều nầy, một lần nữa Giáo Hội xác tín “Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội”, mà Thiên Chúa ban cho Đức Trinh Nữ Maria qua định tín bởi Đức Thánh cha Piô IX ngày 08/12/1854.
Như chúng ta biết, Tín Điều “VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” là một trong bốn tín điều cao trọng nhất, mà Thiên Chúa ân ban cho Đức Trinh Nữ Maria.
Một là: Vô Nhiễm Nguyên Tội
Hai là: Trọn Đời Đồng Trinh
Ba là: Hồn Xác về Trời
Bốn là: Mẹ Thiên Chúa
Vâng, hôm nay hiệp cùng muôn vàn thần thánh trên trời, Giáo Hội toàn cầu long trọng một lần nữa tuyên tín và cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho người “ Tỳ Nữ ” của Chúa một đặc ân trọng đại, đó là Đức Trinh Nữ Maria, ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI.
Vâng, mỗi lần nhắc lại “Định Tín “ trên, là mỗi lần mừng kính trọng thể một đặc ân thật cao trọng mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ.
Vâng, “Bà gồm mọi phước lạ, và GIÊSU, Con lòng Bà gồm phước lạ…”
“Tỳ Nữ” có nghĩa là: “ người tớ gái”, vâng, Đức Mẹ xác tín cách tỏ tường như vậy, mặc nhiên, ngoài Ngôi Hai Nhập Thể ra, thì không một thụ tạo nào có được diễm phúc như Đức Mẹ. Vì sao? Thưa quý vị. Thưa, vì Đức khiêm nhường thẳm sâu, từ một thụ tạo “thấp hèn “, vâng, Mẹ, thưa như vậy, và quả thật như vậy. Từ đó, “giây phút ” Mẹ nhận Truyền Tin, đồng thời, là “ giấy phút ” Mẹ thưa Tiếng “ XIN VÂNG”, (Fiat) chính là “GIÂY PHÚT NHẬP THỂ” của Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người.
Mặc nhiên, “giây phút “ ấy chính là “Giây Phút “ Mẹ nhận được “ Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Vì sao vậy? Thưa, bởi vì: “Mẹ đã đáp Lời Thiên Chúa” một cách chân thành tuyệt đối, một thụ tạo thấp hèn mặc nhiên, chưa “khỏi tội nguyên tổ ”. Nhưng, Mẹ hoàn toàn tín thác cách trọn vẹn vào Lời “Hứa” ban Đấng Cứu Độ. Tiếng thưa “XIN VÂNG” của Mẹ không phải chỉ lấy lệ, cho qua, mà là một “ kỳ công”, bởi vì, một sự “ lạ lùng” được trao cho một người “thấp hèn” như Mẹ. vì, đây là ”quyền năng ” bởi Thiên Chúa tối cao, chứ không do phàm nhân.
Chúng ta thấy, tâm tình của Mẹ thật xứng hợp, Mẹ không tự hào là: “ Mẹ xứng đáng” lãnh nhận sự trọng đại ấy. Bởi vì, Mẹ cảm nghiệm được ơn Chúa thật bao la, quá đỗi cao cả, Mẹ không hề biết được những gì là “trọng đại”, mà Thiên Chúa sẽ thực hiện, nhưng tâm hồn “thấp hèn” của Mẹ, Mẹ đã “ ưng thuận “. Vâng, sự đồng ý ở đây là, Mẹ muốn cho “công trình” của Thiên Chúa được thực hiện. Điều ấy, có nghĩa là: “Tâm hồn “ thánh kiết vẹn tuyền của Mẹ tuy chưa nhận được đặc ân “ Vô Nhiễm Nguyên Tội” trước lúc thưa tiếng: “ XIN VÂNG ”. Và, ngay khi thưa tiếng “xin vâng”, thì như chúng ta biết, “ mọi sự “ đã trở nên kỳ diệu”, bởi vì ngay “GIÂY PHÚT “ ấy, Ngôi Hai đã “từ trời xuống thế”, Bởi Phép Chúa Thánh Thần. và, mặc nhiên là ” THÁNH THAI “ đã ngự vào cung lòng của Mẹ. Như vậy, Đặc Ân khỏi tội Nguyên Tổ của Mẹ đã nghiễm nhiên trở thành hiện thực. Như vậy, đặc ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” ngay từ giây phút đó đã dẫn đưa Mẹ đến với ơn “Cứu Độ ”. bởi vì, Mẹ cũng phải được cứu độ bởi Đấng Cứu Thế. Chúng ta đừng “lầm” tưởng rằng: Đức Mẹ được ơn “Vô Nhiễm Nguyên Tội” trước lúc thưa “Tiếng xin vâng”, không phải vậy, bởi vì, Mẹ được lãnh nhận “Đặc Ân” “Vô Nhiễm Trinh Thai” là như vậy, chứ không phải là Mẹ nhận lãnh “ ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội” trước khi thưa “ tiếng Xin Vâng”.
Vì, Đặc Ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” được ban cho Đức Mẹ, là một ơn hoàn toàn nhưng không, hoàn toàn tự do, và như thế, Thiên Chúa không ban cho Đức Mẹ đặc ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” trước khi Đức Mẹ” tự nguyện “ ưng thuận cộng tác vào ơn Cứu Độ bởi Thiên Chúa.
Vì như vậy, mầu nhiệm Truyền Tin, đồng thời là mầu nhiệm tràn đầy ân sủng dành cho bất cứ “ người nào” có “tâm hồn “ như Mẹ. vì, giả sử Đức Mẹ không thưa “ tiếng xin vâng”, thì Đức Mẹ vẫn có quyền như thế, nhưng, mặc nhiên, ân sủng không đến với Mẹ. Từ đó, suy ra “ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội” nơi Đức Mẹ không có trước “Tiếng Xin Vâng”.
Như vậy, Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận nhận Chúa Cứu Thế, thì mặc nhiên, Mẹ được nhận lãnh: ” Bốn đặc ân “ trên, nhưng, một trong bốn đặc ân đó là: Đặc Ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI “ là đặc ân “dẫn đầu” cao trọng nhất.
Giáo Hội sắp xếp thật phù hợp, lễ kính trọng thể Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Mùa Vọng, là mùa “sám hối” sự sám hối của Mùa Vọng khác với sự sám hối của Mùa Chay. Sự “dọn đường” cho Đấng Cứu Thế đến trong Lễ Giáng Sinh, mặc nhiên phải là một tâm hồn “ vô nhiễm”. Đức Mẹ được nhận lãnh Ơn Vô Nhiễm hoàn toàn là Mẹ đã chuẩn bị “tâm hồn “ để đón Chúa. Một tâm hồn trong trắng, thuần khiết tự nhiên của Mẹ cùng với sự đón nhận “Thánh Thai “là Đấng Cứu Thế là ơn VÔ NHIỄM siêu nhiên, mặc nhiên Mẹ được nhận lãnh đặc ân “ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI” là điều hợp lẽ.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, chúng con xin cảm tạ Thiên Chúa vì Hồng Ân diễm phúc là Đặc Ân Vô Nhiễm Nguyên Tội đã ban cho Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của Ngôi Hai Nhập Thể, đồng thời là Mẹ loài người chúng con, xin thương ban cho chúng con, nhờ lời cầu bàu cùa Mẹ, biết noi gương bắt chước tâm tinh của Đức Mẹ mà vâng theo Thánh Ý Chúa trong mọi sự, hầu đán
Suy niệm 24: Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tôn vinh Mẹ Maria được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ.
Đặc Ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là bằng chứng về sức mạnh của Ân Sủng trên tội lỗi và sự chết. Phụng vụ đang ở giữa chặng đường Mùa Vọng. Thời gian chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trần gian. Giữa “màu tím đợi chờ và hy vọng” chợt bừng lên “màu trắng tinh tuyền” của ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ý nghĩa phụng vụ gắn liền với thời điểm quan trọng của lịch sử cứu rỗi. Cánh cửa thiêng liêng mở ra cho Dân Chúa bước tới cử hành mầu nhiệm Nhập Thể.
Trong hai thế kỷ sau cùng của thiên niên kỷ thứ hai, liên tiếp có hai chân lý về Đức Maria đã được Giáo Hội định tín. Đó là: tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” (8.12.1854) và tín điều “Đức Maria Hồn Xác Lên Trời” (1.11.1950). Qua hai tín điều này, Giáo Hội tuyên tín và khái quát về toàn bộ chương trình cứu độ của Thiên Chúa ở hai tận cùng của lịch sử. Một khởi đầu sáng tạo với vẽ đẹp “Vô Nhiễm Nguyên Tội”, và cuối cùng, với công trình Nhập Thể – Cứu Chuộc của Chúa Con, toàn thể nhân loại lại được nâng lên trong ánh quang phục sinh như “Đức Maria hồn xác lên trời”.
Lòng sùng kính Đức Maria là cả một cảm nghiệm sâu xa của niềm tin Dân Chúa qua dọc dài lịch sử với nền tảng Thánh Kinh và Thánh Truyền.
Sách Sáng thế kể rằng: con người được tạo dựng trong yêu thương và được ân ban cuộc sống hạnh phúc ngay từ thuở ban đầu. Tuy nhiên, địa đàng hạnh phúc ấy không may đã khép lại với nguyên tổ. Đánh mất địa đàng, con người cũng mất luôn hạnh phúc được chia sẻ sự sống thân mật và vĩnh hằng với Thiên Chúa. Cái chết đã trở thành một bản án chí tử. Thiên Chúa tình yêu đã hé mở chân trời hy vọng: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó. Người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi”. Đó chính là “Tin Mừng đầu tiên”, Tin Mừng nguyên thủy. Niềm hy vọng trải dài xuyên suốt lịch sử con người từ buổi hồng hoang cho đến ngày Lời hứa được thực hiện.
Từ cuộc “đỗ vỡ ban đầu” của Nguyên tổ, Thiên Chúa đã quyết định thực hiện một chương trình cứu rỗi diệu kỳ. Đức Maria đã được chọn từ muôn thưở: “Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ”. Thánh Phaolô đã khẳng quyết: “Khi đến thời viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con của Người, sinh bởi người nữ, sinh dưới quyền lề luật, để cứu chuộc những kẻ dưới quyền lề luật, ngõ hầu ta được chịu lấy quyền nghĩa tử” (Gl 4,4). Chính người Con đó, Đức Giêsu Kitô, sẽ thực hiện lời hứa “đạp dập đầu con rắn” mà Thiên Chúa đã công bố thuở xưa. Người nữ đó chính là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Đấng Cứu Chuộc. Đức Trinh Nữ ấy đã được Đức Piô IX long trọng công bố trong tín điều Vô Nhiễm: “Ta tuyên bố rằng Đức Trinh Nữ rất thánh đã được gìn giữ khỏi mọi tì ố tội tổ tông… ngay từ buổi đầu tượng thai”.
Như thế, rõ ràng mầu nhiệm “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là một lộ trình đức tin của Dân Chúa. Đặc Ân này, huyền nhiệm này nắm giữ một vai trò, một ý nghĩa, một điều kiện có tính quyết định trong con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh hằng của nhân loại. Nói cách khác, Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” của Đức Trinh Nữ Maria chính là “Tin mừng về cuộc chiến thắng của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa”.
Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội bắt nguồn từ trong Thánh Kinh và lớn lên trong đức tin đơn thành và bình dân của tín hữu thời Giáo Hội Sơ Khai. Ngay từ thế kỷ thứ II, các Thánh Giáo Phụ Justinô và Irénée de Lyon đã ngợi khen sự thánh thiện của Đức Maria. Giáo Hội Đông Phương đã mừng Lễ Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ VII. Vào năm 1432, công đồng Bâle đã coi mầu nhiệm này như một tâm điểm của lòng tin.
Vào thế kỷ XIX, sau khi Đức Mẹ hiện ra với Thánh Catherine Labouré tại nguyện đường nhà Dòng Nữ Tử Bác Ai năm 1830, sau đó Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng ban bố tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội vào ngày 8.12.1854. Bốn năm sau đó, vào ngày 25.3.1858, Đức Mẹ hiện ra tại hang đá Massabielle Lộ Đức, với thánh nữ Bernadette Soubirous. Đức Mẹ đã xác nhận tín điều trên đây khi tự xưng mình là “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” tô thắm vẽ đẹp tuyệt mỹ của Đức Mẹ. Mẹ đầy ơn Chúa. Sứ Thần cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Ðấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Tước hiệu “Bà đầy ơn phước” xác nhận lòng Đức Mẹ không có chổ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa.
“Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa.
“Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ” vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông. Mẹ đẹp thánh thiện. Mẹ đẹp cao quý. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Đặc ân “Vô Nhiễm Nguyên Tội” là một biểu hiện cụ thể và tròn đầy kết quả viên mãn của ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại cho phần tử ưu tú nhất của nhân loại. Đức Maria gắn bó mật thiết với mầu nhiệm “Con Chúa xuống thế làm người” như sách Giáo Lý đã viết: “Để làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria “đã được Chúa ban cho nhiều ơn xứng với nhiệm vụ cao cả ấy”. Những đặc ân của Đức Maria có được là kết quả đi trước nhờ cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, như sách Giáo Lý xác tín: “Mẹ có được sự thánh thiện tuyệt vời, có một không hai “ngay từ lúc tượng thai” hoàn toàn là do Đức Kitô: Mẹ được cứu chuộc cách kỳ diệu nhờ công nghiệp Con của Mẹ” (GLCG # 56). Ngoài ra, Đặc ân Vô Nhiễm cũng còn tiên báo hình ảnh đích thực của Hội Thánh vào ngày cánh chung, ngày mà Dân Chúa sẽ được tác thành như “một trinh nữ vẹn toàn”. Tất cả những nội dung đó đã được tóm kết trong Kinh Tiền Tụng ngày lễ hôm nay: “Chúa đã gìn giữ Đức Trinh Nữ Maria rất thánh khỏi mọi vết nhơ nguyên tội, để chọn Người đầy ơn phúc xứng đáng làm Mẹ Con Chúa, và chỉ cho chúng ta thấy nơi Người là khởi điểm Hội Thánh xinh đẹp, không vết nhăn, là bạn Con Chúa”.
Mẹ Maria chính là thụ tạo đầu tiên hưởng được lời hứa cứu độ mà Thiên Chúa công bố ngay buổi đầu với Nguyên tổ.
Với Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria trở thành một chứng nhân cụ thể cho tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại. Chính vì thế, trong ngày lễ hôm nay, Giáo Hội đã mượn lời Thánh Vịnh 97 để cùng hát lên trong hân hoan cảm tạ: “Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới.Vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng…Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân…mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta…”
Với Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ Maria được quyền năng và tình yêu Thiên Chúa đổ tràn. Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng Mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi… khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Đặc ân cao trọng này chính là sự thánh thiện tinh tuyền của Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Giáo Hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Mẹ Vô Nhiễm là một dấu chỉ niềm hy vọng cho tất cả nhân loại, những người đã chiến thắng Satan nhờ máu của Con Chiên (x. Kh 12, 11).
Năm 1492, hơn 500 năm trước đây Colombô đã khám phá ra Châu Mỹ. Ông đã dùng con tàu mang tên: Maria Vô Nhiễm. Colombô đặt tên cho hòn đảo đầu tiên ông đặt bước chân là San Salvador để tôn kính Đấng Cứu Thế. Hòn đảo thứ nhì mang tên Conception, Mẹ Vô Nhiễm để tôn kính Mẹ Chúa Kitô.
Vào năm 1673, hơn 300 năm trước, cha Monquette, một linh mục thám hiểm gan dạ, người đầu tiên tới sông Mississipi, một thác nước khổng lồ chạy dài 3.000 km xuyên qua 10 tiểu bang Hoa Kỳ. Ngài đặt tên cho con sông miền Tây này là “Maria Vô Nhiễm”.
Balboa và Cortez, hai nhà thám hiểm nổi tiếng cũng có lòng tôn sùng Maria Vô Nhiễm.
Giáo dân Việt Nam rất sùng kính Đức Maria Vô Nhiễm. Năm 1960 khi thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam, các Giám mục đã dâng đất nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm.
Cử hành lễ Mẹ Vô Nhiễm giữa Mùa Vọng, cộng đoàn chúng ta được nhắc nhở thêm nữa về thái độ sửa dọn tâm hồn xứng đáng để đón mừng mầu nhiệm Giáng Sinh, nhất là để từng ngày cộng tác với Ân Sủng hầu biến cuộc sống trở thành một mãnh đất tốt để Lời Chúa kết trái đơm hoa, như mãnh đất tâm hồn trong trắng của Đức Maria, tinh hoa của bao ngàn năm mong đợi. Đức Mẹ đã chuẩn bị một lễ Giáng sinh đẹp nhất, công phu nhất, dài nhất bằng chín tháng cưu mang trong tình yêu.
Xin Mẹ cũng giúp chúng con chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh với tâm tình yêu mến như Mẹ. Amen.
Suy niệm 25: Cuộc đời có Mẹ
(Lm. Jos. DĐH)
Ca dao tục ngữ có câu: canh suông khéo nấu thì ngon, mẹ già khéo nói thì con đắt chồng. Lại cũng có câu: con hư tại mẹ, cháu hư tại bà. Đúng là vị trí của người mẹ trong cuộc sống thật quan trọng, mẹ là nải chuối buồng cau, mẹ là ngọn gió đưa êm, mẹ là dòng suối mơ huyền bao la. Cuộc đời đầy người tốt, nhưng tốt hơn cả vẫn là “mẹ”, gian khổ cuộc đời ai cũng có, mà khổ nhất là “mất mẹ”, chẳng thế mà dân gian có câu: mồ côi mẹ liếm lá gặm xương!
Sinh ra làm người, ai cũng có mẹ; sinh ra làm con Chúa, chúng ta còn biết đến người Mẹ thiêng liêng nữa: Mẹ Maria. Mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm, chúng ta lại được nhắc nhớ đến ví trí quan trọng của người mẹ trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Người phụ nữ duyên dáng xinh đẹp, thời nào cũng có; nhưng phụ nữ hoàn hảo, đức độ, Thiên Chúa đã gặp nơi Trinh Nữ Maria. Xem ra tiêu chí đẹp toàn diện chưa đủ, Sứ thần của Chúa còn cần thiếu nữ Maria thể hiện được niềm tin, phải tự do nói và sống lời thưa vâng trong suốt cuộc đời trần thế.
Trinh Nữ Maria chính thức làm Mẹ Đấng Cứu Thế, sau lời khiêm tốn thưa vâng. Đức Maria chính thức là Mẹ Hội Thánh, là Mẹ của chúng ta trước khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng trên cây thập giá. Người đời ví von rằng: có cha có mẹ thì hơn, không cha không mẹ như đờn đứt dây. Đức Giêsu thật là hạnh phúc, vì cả cuộc đời của Ngài là có Mẹ có cha, dù các ngài rất âm thầm nơi mái nhà Nagiarét, hoặc đầy lo lắng trong khi thất lạc và tìm thấy trẻ Giêsu ở Giêrusalem.
Để diễn tả tình mẹ con, người xưa nói rằng: dù con lớn vẫn là con của mẹ, đi hết cuộc đời lòng mẹ vẫn theo con. Khi hay Đức Giêsu có dấu hiệu bất thường, mất trí, Mẹ Maria vội vã tìm gặp Con, rồi trên đường thập giá, đứng dưới chân thập giá, người Mẹ dù tan nát cõi lòng, nhưng không bỏ cuộc. Ở đời vẫn quan niệm: càng cao danh vọng, càng nhiều gian nan; tương lai càng sáng, cạm bẫy càng nhiều. Với Đức Maria, Sứ thần truyền tin đã chào chúc, đã trấn an: “Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa cùng Chúa”. Như vậy, phải chăng càng dồi dào ơn Chúa, càng bớt gian khổ? Hay càng ngập tràn tình Chúa, càng bớt ưu tư sợ hãi? Mỗi người hãy suy tư và cầu nguyện đi? Câu trả lời sẽ thuộc về mỗi chúng ta.
Thế giới này, vốn dĩ chứa đựng rất nhiều đau khổ, mỗi người đều phải đối mặt và kinh qua đau khổ, nhất định không ai là ngoại lệ. Về cuộc đời có Mẹ, hẳn Chúa Giêsu là rõ nhất, còn kinh nghiệm có Mẹ Maria, hẳn mỗi tùy mỗi người mỗi khác. Chỉ biết rằng, chân lý đau khổ ở đời này là có thật, dù là người thông thái, hoặc là kẻ khờ dại nhất, không thể có sự khác biệt. Đức Maria dù đã thưa vâng, đã xác tín vào tình yêu Chúa, nhưng không phải không có đau khổ và nước mắt trong ơn gọi làm Mẹ Đấng Cứu Thế.
Hành trình đời người Kitô hữu chúng ta hôm nay thì sao? đau khổ và hạnh phúc sẽ không phân tách để ta chọn lựa! Thiên Chúa ở cùng Đức Maria và theo Đức Maria suốt hành trình đức tin, dù Maria đã sống lời thưa vâng trọn vẹn nhất, dù tâm trí Đức Maria lúc đó chưa thể hiểu hết thập giá vinh quang là gì. Thiên Chúa có thể làm những điều kỳ diệu nơi mỗi người chúng ta, như đã thực hiện nơi thiếu nữ mang tên Maria, nhưng Ngài luôn tôn trọng tự do của con người. Cuộc đời của chúng ta luôn có Mẹ, nhưng ngoài việc thể hiện niềm tin qua đau khổ thập giá đến vinh quang phục sinh, mỗi người hãy cùng Mẹ Maria nói và sống lời thưa vâng. Amen.
Suy niệm 26: Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên)
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay cộng đoàn chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria vô nhiễm nguyên tội. Niềm tin, Mẹ Maria là Đấng vô nhiễm tội, trước tiên là niềm tự hào cho chúng ta. Vì trên thiên quốc, chúng ta đang có một người Mẹ vừa kiều diễm vẻ bề ngoài vừa xinh đẹp trong tâm hồn. Mẹ là hình ảnh của Hội Thánh, Hiền thê của Đức Kitô, xinh đẹp lộng lẫy, không vết nhơ, không tì ố.
Niềm tin, Mẹ Maria là Đấng vô nhiễm tội, còn là động lực rất nhiều giúp chúng ta hướng lòng lên cao, sống noi gương Mẹ vô nhiễm giữa dòng đời vốn có quá nhiều thứ ô nhiễm.
Thực ra, niềm tin vào Đức Mẹ là Đấng Vô nhiễm tội trong truyền thống đã có từ lâu. Ngay từ những thế kỷ đầu, người ta đã tin rằng Đức Maria được ơn vô nhiễm nguyên tội ngay từ lúc thụ thai trong cung lòng bà Cố Anna. Thế nhưng, phải mãi đến năm 1854, Tín điều Đức Maria vô nhiễm tội mới được ĐGH Piô IX tuyên bố rộng rãi trên toàn thế giới. Tín điều ghi rõ: “Rất thánh Trinh nữ Maria nhờ Thiên Chúa toàn năng và nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại ban cho ân phúc đặc biệt là ngay từ khi thụ thai đã được gìn giữ khỏi hết mọi bợn nhơ của tội nguyên tổ. Đó là tín điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế buộc mọi người phải tin vững vàng mãi mãi”.
Như để củng cố cho tín điều mà Đức Giáo hoàng Piô IX mới tuyên bố, ngày 11.02.1858, Đức Mẹ đã hiện ra tại Lộ đức với một thiếu nữ 14 tuổi. Mẹ khẳng định: “Ta là Đấng Vô nhiễm nguyên tội”
Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, sau khi ông bà Nguyên Tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại Đấng Cứu Thế qua lời Ngài phán bảo với con rắn, còn được coi là lời Tiền Tin Mừng: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ. Giữa dòng giống mi và giòng giống người ấy. Người giòng giống ấy sẽ đạp nát đầu mi. còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người”.
Người nữ ấy là ai vậy? Tất nhiên, sẽ không phải là bà Evà, vì chính bà Evà đã phạm tội, thì làm sao có thể đạp đầu con rắn tượng trưng cho thế lực sự dữ được? Qua dòng lịch sử, Giáo Hội suy ngắm, cân nhắc và dẫn đến xác tín rằng, người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn là thần dữ đó không ai khác, mà chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Tin mừng hôm nay kể lại: Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Trinh nữ Maria biết Thiên Chúa đã chọn Trinh nữ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Sứ thần bắt đầu báo tin trọng đại ấy bằng một lời chào có vẻ rất tầm thường, nhưng lại chứa đựng đầu mối của mọi đặc ân nơi Đức Maria.
“Kính chào Trinh nữ đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ, trinh nữ có phúc ơn mọi phụ nữ”. Lời chào này đã gián tiếp đề cập đến mầu nhiệm và đặc ân vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria. Bởi vì người được “đầy ơn phúc” và có Thiên Chúa ở cùng thì tất nhiên là không có tội. Cũng như một gian phòng, nếu đầy ánh sáng, dĩ nhiên bóng tối không còn có thể xâm nhập vào được nữa.
Con người ngày nay âu lo vì sống trong môi trường ô nhiễm: ăn rau thì lo dư lượng thuốc trừ sâu, mua trứng thì sợ trứng gà nhân tạo, thậm chí ăn chay với nước tương cũng sợ chất gây ung thư… Nạn ô nhiễm môi trường sinh học cảnh báo một sự ô nhiễm khác đang tàn phá ở tầng sâu hơn của đời sống con người, đó là sự ô nhiễm tinh thần, bị lộ diện qua tình trạng gian dối bất công tràn lan trong môi trường giáo dục, qua tính chất bạo lực và khiêu dâm trong lĩnh vực truyền thông và giải trí…
Phải chăng con người bó tay trước vấn nạn nhức nhối này bởi vì biết bao nhiêu biện pháp khắc phục mà dường như không có hiệu quả? Đức Maria làm chứng và củng cố niềm hy vọng cho chúng ta bằng chính đời sống mẫu gương của Mẹ: sống vô nhiễm ở giữa môi trường ô nhiễm để thanh luyện và thánh hoá nó bởi vì ngài luôn phó thác trong niềm tin tưởng rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Khi mừng lễ Đức Maria vô nhiễm, chúng ta thường lầm tưởng rằng, Đức Mẹ đã vô nhiễm thì không thể phạm tội. Thực ra, Mẹ được ơn vô nhiễm, nhưng vẫn có đủ tự do để lựa chọn phạm tội hay không phạm tội; lựa chọn làm theo ý Chúa hay sống bất tuân luật của Ngài. Bởi vì, ân sủng không phá hỏng tự nhiên. Thế nên, để lựa chọn sống theo thánh ý Thiên Chúa, quả thực Mẹ Maria đã phải chiến đấu rất nhiều.
Khi nói lời xin vâng đối với Sứ Thần Thiên Chúa, Mẹ đâu đã biết Mẹ được ơn vô nhiễm. Có người đã hình dung rằng, lúc đó cả vũ trụ như dừng lại để lắng nghe lời đáp trả của Mẹ. Bởi vì, Mẹ hoàn toàn có thể từ chối lời mời gọi của Sứ Thần.
Khi phải sống trong cảnh đời thường tại Nazaret hay tại Aicập – đất khách quê người – Mẹ đâu có biết rằng mình được ơn vô nhiễm. Thế nên, có thể nói rằng, từng phút từng giây trong đời sống của Mẹ là từng phút giây phải lựa chọn theo thánh ý Chúa.
Đối với chúng ta hôm nay, sống vô nhiễm giữa cuộc sống đầy ô nhiễm này quả là một thách đố không nhỏ. Làm sao tôi không tham ô, giữa một tập thể đều tham ô? Làm sao tôi không lươn lẹo, mánh khóe trong buôn bán, giữa một tập thể toàn người gian lận? Làm sao tôi trung thực trong làm ăn, giữa một tập thể toàn những người thích lừa lọc, dối trá? Làm sao tôi không quay cóp bài, giữa một tập thể toàn người thích quay cóp? v.v..
Mặc dù khó, nhưng đó lại là điều mà Chúa muốn chúng ta thực hiện, bởi vì theo lời Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô hôm nay: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ. Để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền, thánh thiện” (Ep 1,4).
Mừng kính lễ Đức Mẹ vô nhiễm hôm nay, Lời Chúa cũng nhắc nhở chúng ta hãy noi gương của Mẹ. Vì mỗi lần trung ta nghiêm túc trong công việc, đứng đắn trong làm ăn, ngay thẳng trong thi cử, trung thủy trong tình yêu… là mỗi lần chúng ta sống làm chứng cho Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ được ơn vô nhiễm nguyên tội và Mẹ đã sống trọn vẹn ơn phúc ấy trong suốt cuộc đời Mẹ. Xin Mẹ hãy giúp chúng con biết sống như Mẹ, như đóa sen giữa lầy, “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Chỉ có như thế, chúng con mới thực sự là môn đệ của Đức Giêsu Kitô và là con của Mẹ.
Suy niệm 27: Này tôi là nữ tì Chúa
(Lm. G.B. Trần Văn Hào SDB)
Ngày 08 tháng 12 năm 1854 Đức Thánh Cha Piô IX đã long trọng công bố tín điều Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội qua thông điệp ‘Ineffabilis Deus’. Bốn năm sau, khi hiện ra với Thánh nữ Bernadette tại hang đá Lộ đức, chính Đức Mẹ đã khẳng định: “ Ta là Đấng Vô nhiễm nguyên tội”. Cũng vào ngày này năm 2015, Giáo hội khai mở năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. Không phải tình cờ mà Giáo hội cử hành phụng vụ tôn kính Mẹ Vô nhiễm thai trong mùa vọng, và cũng không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà Đức Thánh Cha Phanxicô chọn ngày lễ hôm nay để mở cửa năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. Mẹ Maria Vô nhiễm chính là Evà mới đã chiến thắng con rắn xưa, mở ra cho chúng ta kỷ nguyên cứu độ, để cùng với Giáo hội chúng ta sống tâm tình mùa vọng mong chờ Đấng Cứu thế, Đấng sẽ đến trong ngày cánh chung để hoàn tất ơn cứu độ theo hoạch định của Chúa Cha. Đồng thời Mẹ cũng được gìn giữ khỏi vết nhơ nguyên tội để cưu mang Đức Giêsu, Đấng đã đến trần gian nhằm diễn bày lòng thương xót cho nhân loại tội lỗi. Mẹ Đấng Cứu thế cũng chính là Mẹ của Lòng Thương Xót (Mater Misericordiae).
Sống trong Thần khí
Thiết nghĩ, chúng ta không cần trưng ra những lý chứng thần học dẫn đến việc Giáo hội công bố tín điều Mẹ Vô nhiễm thai mà chúng ta mừng kính hôm nay. Giáo hội chọn các bài đọc trong phụng vụ của ngày lễ để mời gọi chúng ta chiêm ngắm dung mạo Đức Maria như một nữ tỳ khiêm hạ, sống dưới tác động Thần khí và luôn để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Mẹ là khuôn mẫu tuyệt hảo giúp chúng ta đi sâu vào tâm thức mùa vọng chờ mong Chúa đến. Bài Tin mừng hôm nay thuật lại biến cố truyền tin, một sự kiện quan trọng mở ra cho nhân loại một trang sử mới, đó là kỷ nguyên ơn cứu độ. Đức Maria chỉ là một cô thôn nữ quê mùa chất phác, không học thức, không quyền quý cao sang. Vì vậy Mẹ hoàn toàn ngỡ ngàng trước lời cầu ngỏ của thần sứ Gabriel: “ Việc ấy xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34). Có vẻ như Đức Maria bối rối và thoáng chút sợ hãi. Nhưng thần sứ nói với Mẹ: “ Hỡi Maria đừng sợ, vì cô đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1,30). Trong Tin mừng, khá nhiều lần Chúa Giêsu cũng nói với các học trò để trấn an các ông: “Đừng sợ, vì Ta đã thắng thế gian” (Ga 16,33); “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn anh em” (Mt 10, 28); “Hãy trỗi dậy, đừng sợ” (Mt 17, 8)… Đây không phải là những liệu pháp mang tính tâm lý, nhưng đó là lời Chúa Giêsu mời gọi các học trò đi sâu vào cảm thức đức tin, tín thác vào Thiên Chúa và quyền năng của Ngài. “Thầy đây, có phải ma đâu, đừng sợ” (Mt 14, 27). Chỉ những tâm hồn thực sự sống trong ân sủng và tin tưởng nơi Chúa mới có được bình an và thoát khỏi sợ hãi. Ngược lại, nếu chúng ta bị cuốn hút bởi những bóng ma của tiền bạc, của lạc thú hay danh vọng phù vân, chúng ta sẽ luôn ngập chìm trong khiếp sợ. Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô đã viết: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an”(Rm 8,6). Đức Maria đã được Thánh thần phủ ngập và Mẹ hoàn toàn để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối cao sẽ phủ bóng trên cô” (Lc 1,35). Vì thế, khi mở lòng ra đón nhận Thần khí và ngoan thuần để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Mẹ đã hoàn toàn quy thuận thánh ý Thiên Chúa và luôn sống trong bình an. “ Xin hãy thực hiện nơi tôi những gì Chúa muốn” (Lc 1,38).
Đây chính là khuôn mẫu đức tin tuyệt hảo để chúng ta sống tinh thần mùa vọng mà Giáo hội mời gọi. Sách Tông đồ công vụ cũng thuật lại bầu khí cầu nguyện của Đức Maria cùng các tông đồ sau khi Chúa Giêsu về trời. Kết quả, Thánh Thần đã xuống trên các Ngài, để từ đó, các tông đồ ra đi quảng bá Tin mừng Phục sinh, và Giáo hội bắt đầu khai sinh từ đây.
Khi bắt đầu triều đại Giáo hoàng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 cũng gửi đi bức thông điệp đầu tay với tựa đề ‘Đừng sợ’. Ngài cũng muốn lập lại tâm tình tín thác của Đức Maria, luôn để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, và Ngài không bao giờ sợ hãi giữa bao sóng gió dồn dập xảy đến. Ngài cũng mời gọi chúng ta khi đang sống trong mùa vọng lớn, chúng ta cũng hãy sống khiêm tốn như Đức Maria để chờ mong Chúa đến với tâm hồn ngập tràn niềm vui và an bình (xem Tông huấn Tertio Milennio Adveniente).
Đức Maria, Evà mới
Trong thư Rôma, thánh Phaolô đã nhắc đến tội nguyên tổ: “ Vì một người duy nhất mà tội lỗi đã xâm nhập thế gian, và tội lỗi gây nên sự chết” (Rm 5, 12). Tội đầu tiên do chính Ađam gây ra với sự đồng thuận của Evà. Nhưng khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã đóng vai trò của một Ađam mới để khai mào kỷ nguyên ơn cứu độ với sự đồng thuận của Evà mới là chính Đức Maria. Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách khởi nguyên thuật lại cho chúng ta câu chuyện về tội nguyên tổ mà Giáo hội trong đêm Thứ Bảy tuần thánh vẫn gọi là ‘Tội hồng phúc’ (bài Exultet). Tại sao Giáo hội lại khẳng định như thế? Những trang đầu tiên của bộ Kinh thánh đã công bố cho chúng ta một tin mừng: ‘Dòng dõi người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn’. Những trang cuối cùng trong bộ Kinh thánh cũng nhắc lại cho chúng ta Tin mừng này: ‘Người nữ khải huyền sẽ chiến thắng con rồng lửa và ném nó xuống biển sâu’. Hình ảnh cuộc chiến thắng của ‘Người Phụ Nữ’ là biểu tượng nói về cuộc vinh thắng cuối cùng của Con chiên Khải hoàn, trong đó, vai trò của Đức Maria rất cần thiết và quan trọng, giống như vai trò của Đấng Đồng Công Cứu chuộc. Mẹ đã tự nguyện quy thuận thánh ý Chúa với lời thưa xin vâng để kế hoạch cứu thế được thực hiện, và cuộc chiến thắng con rồng lửa khởi đầu từ đây. Vì thế, trình thuật truyền tin Giáo hội đọc lại trong phụng vụ hôm nay mang chở ý nghĩa sâu xa của tin mừng này. Hình ảnh người nữ trong sách Khải Huyền ám thị Giáo hội là hiền thê của Đức Giêsu, nhưng cũng không sai khi chúng ta áp dụng vào vai trò của Đức Maria. Ơn cứu độ mà Đức Giêsu khai mở chính là cách diễn bày lòng thương xót của Thiên Chúa đối với nhân loại. Đoạn thánh thi thánh Phaolô viết trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô mà Giáo hội đọc lên hôm nay diễn tả mầu nhiệm cao cả này: “ Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Ngài ta trở nên tinh tuyền thánh thiện nhờ tình thương của Ngài”. Vì thế đặc ân Vô nhiễm nguyên tội gắn liền với chức phận làm Mẹ Đấng Cứu chuộc, và Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã không ngần ngại gọi Mẹ là ‘Mater Misericordiae’, Mẹ của Lòng Thương xót. Có lẽ đây cũng chính là lý do mà Đức Thánh Cha Phanxicô chọn ngày lễ Mẹ Vô nhiễm để mở cửa năm thánh tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa.
Kết luận
Vào năm 1989, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 tiếp ông Gorbachop và bà Raissa, phu nhân của ông ta tại điện Vatican. Lúc bấy giờ Gorbachop là Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên xô, lãnh tụ của một cường quốc. Sau buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha trao tặng ông Tổng bí thư một cuốn Kinh thánh với hàng chữ bên ngoài: ‘Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Chúng ta biết dụng ý của Đức Thánh Cha muốn ám thị điều gì. Quay sang bà Raissa, vị Thánh Giáo hoàng tặng bà một cỗ tràng hạt với hàng chữ đi kèm: ‘Nữ Vương ban sự bình an’. Đức Thánh Cha muốn nói cho cả thế giới biết rằng, hòa bình thật sự nhân loại có thể kiến tạo được, không phải do tiền bạc, do vũ khí hay sức mạnh quân sự. Nhưng chúng ta phải học hỏi nơi Đức Maria và sống khiêm tốn như Ngài, để có được hòa bình trên thế giới cũng như sự bình an nơi tâm hồn mỗi người. Thánh Phaolô rất có lý khi diễn tả: “Hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6). Mẹ đã hoàn toàn để Thần Khí hướng dẫn, vượt qua mọi sợ hãi, luôn sống ‘đẹp lòng Thiên Chúa’ và ngập tràn bình an trong tâm hồn. Đó là khuôn mẫu nội tâm cho tất cả mọi người chúng ta noi theo.
Lạy Đức Maria Vô nhiễm nguyên tội là Mẹ Đấng Cứu thế, cũng là Mẹ của Lòng Thương xót, xin cầu cho chúng con.
Suy niệm 28: Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương
(‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
Ðời người, có lẽ ai cũng có một lần trải qua một biến cố lớn trong lịch sử thế giới hay dân tộc...
Một ít cụ già hiện còn sống sót có lẽ đã trải qua cuộc đại chiến thứ nhất. Nhiều người đã có thể chứng kiến những tàn phá khốc liệt của thời đệ nhị thế chiến, cộng với nạn đói kinh hoàng ở Bắc Việt năm 1945. Và đa số chúng ta đã trực tiếp hay gián tiếp chứng kiến không biết bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu cuộc chiến trong nước cũng như tại các nước khác trong những năm gần đây... Thêm vào đó, còn có biết bao nhiêu thiên tai và tai nạn khủng khiếp đã xảy ra cho con người.
Chiến tranh và sự sa đọa của con người có lẽ mang lại cho chúng ta cái cảm tưởng rằng sự dữ, tội ác đã lan tràn khắp cả mặt đất; thế giới ngày nay không còn biết đến Thiên Chúa nữa. Cùng với tất cả một đoàn người mà Ðức cố Giáo Hoàng Gioan 23 gọi là “các tiên tri chuyên loan báo thảm họa”, có lẽ chúng ta chỉ nhìn vào thế giới bằng đôi mắt của bi quan, thất vọng, chúng ta chỉ nhìn thấy thảm họa, tang tóc... để rồi loan báo ngày tận cùng của thế giới như kề bên.
Thế giới có tội lỗi đó, thế giới có tang thương đó, thế giới có nhiều thảm họa đó, nhưng chúng ta đừng quên rằng chương trình của Thiên Chúa đang được thực hiện dọc theo chiều dài của lịch sử nhân loại. Giữa hai cực: một bên là sự sa ngã ở khởi đầu lịch sử và một bên là ngày tận cùng của thế giới, đã có cuộc nhập thể làm người của Con Thiên Chúa: Ngài đã làm người ngay giữa lòng của một nhân loại tội lỗi của thời đại Ngài...
Thế giới của chúng ta đầy dẫy tội lỗi, Thiên Chúa vẫn yêu thương thế giới ấy. Thay vì chỉ nhìn thấy hận thù, bạo động và sa đọa dưới mọi hình thức, chúng ta hãy cố đọc được những dấu chỉ của thời đại để thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong lịch sử con người, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.
Mừng lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, hôm nay Giáo Hội cũng muốn lập lại với chúng ta chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương con người và không có gì Thiên Chúa không làm được.
Thiên Chúa đã tạo dựng Mẹ và gìn giữ Mẹ khỏi mọi tỳ vết của tội lỗi. Mẹ là nền tảng của niềm hy vọng của chúng ta, Mẹ là bình minh của nhân loại mới, một nhân loại được Thiên Chúa cứu chuộc và ban cho sức mạnh để vươn lên không ngừng.
Chúng ta hãy chiêm ngắm Mẹ với tất cả niềm cậy trông và lạc quan ấy. Qua Mẹ, Thiên Chúa muốn tỏ bày tình yêu không hề lay chuyển của Ngài cho nhân loại và qua Mẹ, Ngài cũng muốn chúng ta bước đi trong vâng phục và yêu mến, cậy trông.
Thân phận yếu hèn của chúng ta được dệt bằng những vấp ngã và chỗi dậy không ngừng. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ không tỳ vết để chúng ta không ngừng ngước mắt nhìn lên. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ luôn “Thưa, xin vâng!” giữa muôn ngàn đớn đau thử thách, để chúng ta tiếp tục chỗi dậy sau những lần vấp ngã.
Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ. Mẹ luôn có đó để giúp chúng ta khỏi vấp ngã và nếu chúng ta có vấp ngã, Mẹ sẽ đỡ chúng ta dậy và giúp chúng ta tiếp tục “Thưa, xin vâng!” với Chúa để chúng ta bước đi theo Chúa Giêsu...
Suy niệm 29: Lạy Mẹ là ngôi sao sáng
(Lm. Tạ Duy Tuyền)
Ðôi khi trong thanh vắng chúng ta nghe lòng mình rộn lên bài hát thật du dương về Mẹ Maria: “Lạy Mẹ là ngôi sao sáng, soi lối cho con lúc vượt biển thế gian”. Lời văn đã nhân cách hoá Mẹ như một ngôi sao sáng soi giữa cuộc đời tựa như biển đêm đầy rợn rùng, hiểm nguy. Nhưng dù cuộc đời có bao trùm một bóng đêm dầy đặc, ở giữa bầu trời vẫn còn đó đôi bàn tay từ mẫu của Mẹ đang rộng tay ban phát ơn lành, và sẵn lòng nâng đỡ những người con thân yêu đang phải vật lộn với phong ba bão tố cuộc đời.
Ánh sao sáng là Mẹ giữa trời đêm được cha ông ta gọi là sao Bắc Ðẩu. Sao Bắc Ðẩu định hướng cho ngư dân biết đường đến bến bình yên. Sao Bắc Ðẩu còn là điểm báo về thời gian như dân gian có câu: “ Bắc thần đã mọc xê xê, chị em thức dậy lo nghề đi buôn”. Bên cạnh đó, ngôi sao đối với người phương đông còn mang một ý nghĩa là định mệnh của một con người. Người ta cho rằng mỗi người sinh ra trên cuộc đời này đều mang cung mệnh của một vì sao. Cuộc sống thăng trầm cũng theo điềm của mỗi vì sao. Có những vì sao sáng, có những vì sao mờ và có những vì sao tối và đã tắt, nó cũng giống như cuộc đời của con người, có người sống vinh hiển như chòm sao sáng, có những cuộc đời bình thường như những ngôi sao mờ nhạt, và buồn hơn có những cuộc đời lầm lũi như vì sao đã tắt và như vì sao chết. Cuộc đời càng thanh thoát, càng đầy phúc thì ngôi sao chiếu mệnh càng sáng. Ngôi sao sáng trên hết vì sao trên vòm trời là chòm sao Bắc Ðẩu, thế nên người ta gọi Mẹ là ngôi sao Bắc Ðẩu là ánh sao sáng nhất trong muôn loài thọ tạo được Chúa dựng nên.
Tin mừng hôm nay tường thuật lại cuộc gặp gỡ giữa sứ thần và Mẹ Maria. Mẹ là một thôn nữ miền quê, thế nhưng Mẹ đã được tạo dựng trở thành một ngôi sao Bắc Ðẩu cho nhân gian. Tin mừng khởi đầu với lời chào thật kính cẩn của sứ thần: “Kính chào bà đầy ơn sủng”. Ðầy ơn sủng nghĩa là cuộc đời Mẹ đã được bao trùm bằng ân sủng của Chúa ngay từ lúc thụ thai. Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ bằng ân sủng của Ngài để Mẹ không vấn vương tội đời, không tỳ ố trong xác phàm để cung lòng Mẹ xứng đáng là đền thờ cho Chúa Ngôi Hai. Nói như thế, không phải là Mẹ không có công trạng gì, vì cuộc đời Mẹ đã được định đoạt từ ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa chọn Mẹ nhưng Ngài vẫn tôn trọng ý chí và tự do của Mẹ. Mẹ vẫn sống một kiếp người bình thường như bao người khác, có khác chăng là tấm lòng Mẹ luôn thanh khiết, luôn toả sáng bằng việc chọn Chúa hơn là chọn những tạo vật trần gian. Chính vì vậy, mà từ Thiên cung Thiên Chúa đã nhìn thấy ánh sao bắc Ðẩu mà Ngài đã tạo dựng luôn toả sáng giữa bóng đêm tội luỵ. Sứ thần đã nói cùng Mẹ vì “Mẹ hằng đẹp lòng Chúa”. Mẹ đẹp rực rỡ không phải là vẻ đẹp kiêu xa bên ngoài mà là vẻ đẹp của một tâm hồn thanh khiết, sống giữa đời nhưng không hoen ố tội đời, tựa như đoá sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, chúng ta tạ ơn Chúa đã tạo dựng cho nhân loại một ánh sao sáng giữa trời đêm tội lụy là Mẹ Maria. Một ngôi sao Bắc Ðẩu luôn toả sáng để hướng dẫn những ai đang lầm đường lạc lỗi hãy mau quay về với Chúa tình thương. Tạ ơn Chúa đã tặng ban cho đời một ánh sao luôn toả sáng bởi sự trong sạch, bởi tình yêu hiến dâng cho Chúa để phục vụ cho đời. Tạ ơn Chúa và nguyện cầu cùng Mẹ giúp chúng ta biết trở thành một ánh sao soi dẫn bước cho anh chị em của mình.
Thế giới hôm nay rất cần đến ánh sao dẫn đường của Mẹ. Vì có mấy ai không một chút quyến luyến tội lối? Có mấy ai không vương vấn tội đời? Thế giới hôm nay rất cần sự dẫn lối của Mẹ, vì nhiều người còn mải mê với đam mê trần thế mà quên đi hướng đi về trời. Họ sống như thể chỉ ngụp lặn trong thú vui trần thế đến nỗi đánh mất phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Họ quá bận rộn với chuyện cơm áo gạo tiền đến nỗi quên rằng mục đích của đời người là tìm kiếm Nước Thiên Chúa, là trở thành ánh sao cho tha nhân, vì chưng Chúa đã từng mời gọi chúng ta “anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên trời”.
Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, Mẹ là ngôi sao sáng xin dẫn lối chúng con bước về nẻo chính đường ngay, xin gìn giữ chúng con khỏi sa vòng tội lũy và ban phước lành cho nhân gian chúng con luôn được bình an. Amen
07/12 Con chiên lạc đàn
- Viết bởi Mt 18, 12-14
Con chiên lạc đàn.
Thứ Ba tuần 2 mùa vọng. – Thánh Amrôxiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Chúa không muốn những kẻ bé nhỏ phải hư đi".
* Thánh Amrôxiô chào đời ở Trêvêrô khoảng năm 340 trong một gia đình người Rôma. Thánh nhân theo học ở Rôma và bắt đầu sự nghiệp hiển hách ở Xiếcmiô.
Năm 374, lúc đang ở Milanô, thánh nhân bất ngờ được bầu làm giám mục và được tấn phong ngày 7 tháng 12. Người trung thành thi hành bổn phận, nổi bật nhất về lòng bác ái đối với mọi người. Đối với các tín hữu, người vừa là mục tử, vừa là tôn sư. Người đã can đảm bênh vực các quyền của Hội Thánh, người vừa viết lách, vừa hoạt động để bênh vực giáo lý đức tin chân thật, chống lại những người theo phái Ariô. Người qua đời thứ bảy tuần thánh, ngày 07 tháng 04 năm 397.
LỜI CHÚA: Mt 18, 12-14
Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, thì quả thật, Thầy bảo các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc.
Cũng vậy, Cha các con ở trên trời không muốn để một trong những kẻ bé nhỏ này phải hư đi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Không muốn ai hư mất
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chăn chiên là một nghề đã có từ lâu.
Nhiều nhà lãnh đạo dân Do Thái như Môsê, Đavít, đều làm nghề này.
Trên những đồng cỏ mênh mông, giữa trời và đất, chỉ có chiên và mục tử,
nên giữa đôi bên có một sự thân thiết và hiểu biết nhau thật gần gũi.
Chính vì thế trong Cựu Ước, Thiên Chúa hay ví mình với người chăn chiên.
Đàn chiên là dân Do Thái, là dân riêng Ngài rất mực quý yêu:
“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa…
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
bầy chiên mẹ cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11).
Như Thiên Chúa, Đức Giêsu cũng ví mình với người mục tử tốt lành.
“Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14).
Sự hiểu biết thân thương này mạnh đến độ
Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 15).
Sau khi chết và phục sinh, Đức Giêsu muốn ông Simon nhận sứ mạng mục tử.
Ngài mời ông chăm sóc và chăn dắt chiên của Ngài (Ga 21, 15-17).
Như thế đoàn chiên mới của Đức Giêsu lúc nào cũng được bảo vệ.
Qua bao thế kỷ Giáo Hội vẫn không ngừng có những mục tử mới,
nối gót Simon Phêrô để phục vụ và hiến mạng vì đoàn chiên.
Nhưng Đức Giêsu không dạy người mục tử chỉ lo cho cả đoàn,
mà quên chăm sóc cho từng con chiên một.
Ngài mời ta để ý đến tập thể lớn, nhưng không được quên từng cá nhân nhỏ.
Có khi chỉ một con chiên lạc lại khiến người mục tử bận tâm lo lắng
đến nỗi để chín mươi chín con trên núi mà đi tìm con bị mất (c. 12).
Không phải vì coi thường chín mươi chín con không bị lạc,
nhưng vì người mục tử không muốn mất con nào.
Con chiên lạc lại có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim mục tử.
Chúng ta ai cũng có kinh nghiệm về chuyện tìm lại được điều đã mất.
Khi mất thì đứng ngồi không yên,
khi tìm thấy thì bình an và niềm vui òa vỡ.
Người mục tử lo âu, vất vả tìm kiếm con chiên lạc,
nhưng khi tìm được rồi thì niềm vui là vô bờ.
Có thể nói còn vui hơn chuyện chín mươi chín con không bị lạc (c. 13).
Dường như người ta bắt đầu quý một điều từ khi mất điều đó.
Có khi một người bắt đầu hiện diện từ khi người ấy vắng mặt và mất đi.
Cha không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất (c. 14).
Cha muốn cho mọi người được cứu độ và không muốn mất một ai (1 Tm 2, 4).
Mùa Vọng là thời gian chúng ta nhìn lại những người bé mọn quanh ta,
những người từ lâu đã bỏ nhà thờ, những người mất lòng tin vào Chúa.
Mỗi người chúng ta phải là mục tử cho nhau, chăm sóc nhau, quý nhau,
khởi đi từ những người trong gia đình, trong nhóm bạn thân quen.
Chúng ta quý nhau vì Thiên Chúa quý từng người chúng ta.
Chúng ta chẳng thể mừng Lễ Giáng sinh nếu còn một người đang lạc ở đâu đó.
Nếu chịu mất công đi tìm về, chúng ta mới được hưởng niềm vui trọn vẹn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương.
Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời.
Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch,
và bầu trời vắng tiếng chim,
thì đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người,
vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói,
bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời,
bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương,
vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình.
Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi.
Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi.
Đó là lỗi của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu ở Belem,
Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ,
nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu.
Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan.
Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc.
Đó là lỗi của chúng con.
Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại,
và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu.
Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem,
xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa
để yêu trái đất lạnh giá này hơn,
và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
Suy Niệm 2: Giêsu Thiên Chúa an ủi
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con chiên lạc. Lạc lõng. Lạc loài. Lạc lối. Hay lầm lạc? Ta cảm thấy lạc lõng khi phải sống nơi xứ lạ quê người, không người thân thiết. Ta như lạc loài không ở đúng nơi, đúng thời, đúng người ta phải ở với. Ta lạc lối vì không biết đường. Vì bị mê hoặc khiến quên lối về. Vì bị sa vào cạm bẫy không thể thoát ra. Ta lầm lạc khi tâm hồn mê muội không có ánh sáng chân lý.
Con chiên lạc ở trạng thái nào cũng cần được tìm về. Về đúng mái nhà của mình. Về đúng con đường của mình. Được ấp ủ chăm sóc trong vòng tay của người cha người mẹ thân thương. Nhưng con chiên không biết đường về, không đủ sức đứng dậy đi về. Nó yếu mệt. Chung quanh chỉ là bóng tối. Tuyệt vọng chờ chết.
Chúa Giêsu là người chăn chiên tốt lành đi tìm con chiên. Người là Thiên Chúa hùng dũng quang lâm. Người thắng vượt mọi gian nan khốn khó. San phẳng đồi cao. Lấp đầy thung lũng. Phá tan bóng tối. Chiến thắng lớn nhất là chiến thắng cơn thịnh nộ. Sức mạnh lớn nhất là lòng thương xót, tha thứ.
Lòng thương xót biểu lộ trong sự ngọt ngào, niềm an ủi. Hãy chiêm ngắm Người tha thiết đi tìm con chiên bé bỏng. Tìm được rồi Người bồng bế trên tay. Xem xét vết thương. Vỗ về an ủi. Và cảm động xiết bao Người vác con chiên gầy gò bé nhỏ đói khát và bẩn thỉu trên vai. Con chiên đang lạnh lẽo được hơi ấm của Người ấp ủ. Con chiên đang run sợ được sức mạnh của Người đỡ nâng. Con chiên đang yếu mệt được bờ vai của Người làm nơi nương tựa.
Tin mừng lớn lao của thời đại hôm nay là Tin mừng về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Nhân loại hôm nay buồn phiền cần được an ủi. Lầm lạc cần được đưa về. Thương tích cần được băng bó. Yếu đuối cần được nâng đỡ. Tội lỗi cần được tha thứ. Tất cả tìm thấy giải đáp nơi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa chúng con bất lực không thể đứng lên để trở về với Chúa. Xin Chúa hãy đến tìm chúng con. Băng bó vết thương. An ủi buồn phiền. Và đưa chúng con về. Chúng con trông đợi Chúa. Lạy Chúa, xin hãy đến cứu chúng con.
Suy Niệm 3: Phải tha thứ luôn luôn
Sống ở trên đời, ai cũng mong ước mình gặp được nhiều sung túc, hạnh phúc và nhất là gặp được nhiều may mắn thành công. Ai cũng muốn là mình gặp được mối tình thông cảm cho đến đỉnh cao của tiền tài, danh vọng. Ai cũng sợ thất bại, sợ gian khổ cùng cực cất đầu không lên được với những người xung quanh. Dù rằng ai cũng tự an ủi mình bằng câu: "Thất bại là mẹ thành công". Ðau khổ nhiều, con người mới thấy giá trị đích thực của hạnh phúc. Có gian nan vất vả nhiều, con người mới cảm thấy giá trị của đau khổ, mới đánh giá chính xác về sự thành công từ những nhẫn nhục, chịu đựng, âm thầm làm việc sau bao nhiêu ngày tháng. Nếu như con người từ nhỏ đến lớn sống hoàn hảo như một vị thánh, người ấy chưa chắc đã cảm thấy mình hạnh phúc nếu không phải là người đặc biệt Thiên Chúa gìn giữ. Vì thế theo thông thường chúng ta không ai thoát khỏi những lầm lỗi, không khía cạnh này thì vướng mắc khía cạnh khác, không nặng thì nhẹ, không phải khuyết điểm lầm lỗi nặng hay nhẹ, cố tình hay vô tình nhưng quan trọng là chúng ta có nhận ra được khuyết điểm sai lỗi của chính mình hay không? Và khi nhận ra được khuyết điểm sai lỗi ấy, chúng ta có sửa đổi, rút kinh nghiệm cho lần sau hay không?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các ngươi có một trăm con chiên mà bị lạc mất một con thì người đó không bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc ấy sao?" Ðó là điều an ủi cho chúng ta, vì khi lầm lỗi, con người thường ít khi tha thứ hoặc có tha thứ cho nhau thì vẫn có thành kiến không tốt về người đó, nghĩa là chúng ta có ý nghĩ không tốt, bớt sự niềm nở tự nhiên trước đó.
Từ thái độ đó thường làm cho người có lỗi mang một tâm trạng tự ti mặc cảm, vì dù sao đi nữa thì trong tâm trạng đó con người cũng không có cái nhìn hồn nhiên, vui vẻ lạc quan yêu đời như trước khi họ chưa lầm lỗi. Khi đã sống trong tình trạng nghi kỵ lẫn nhau, nhìn nhau không thân thiện, chúng ta sẽ mắc vào một câu nói của một triết gia nọ: "Tha nhân là hỏa ngục của tôi". Ai cũng nhìn nhau bằng cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hận thù, ganh tị, hững hờ, chê bai lẫn nhau. Bao nhiêu cặp mắt hình như cứ soi mói vào chúng ta, xét xem để rồi bắt lỗi chúng ta thì chẳng hỏa ngục là gì? Có bị như thế chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu bao la dung thứ của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay: "Người chăn chiên sẽ bỏ chín mươi chín con trên núi để đi tìm con chiên lạc, khi tìm được rồi người chăn chiên sẽ vui mừng vì con chiên đó hơn chín mươi chín con chiên không bị lạc".
Thiên Chúa đã dạy chúng ta không những phải tha thứ cho nhau bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha thứ luôn luôn. Và trong một đoạn Tin Mừng khác Chúa Giêsu nói: "Nếu trong một ngày người anh em con phạm đến con bảy lần và bảy lần người ấy đến nói với con rằng tôi hối hận thì con cũng phải tha cho nó". Khi thấy điều đó khó thực hiện được nên người môn đệ của Chúa đã thưa: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con". Ðó là Lời Chúa nhắn nhủ dạy bảo chúng ta, còn đối với Thiên Chúa Ngài càng phải khoan dung tha thứ hơn, yêu thương chúng ta nhiều hơn nữa bằng một tình thương tha thứ vô cùng.
Trong dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng Trở Về" sau những tháng ngày ăn chơi trác táng thì bấy giờ nó suy nghĩ và thành tâm ăn năn thống hối trở về để xin cha tha thứ. Nhưng khi nhìn thấy con từ đàng xa, chưa kịp nghe con nói lên lời xin lỗi thì người cha đã bảo gia nhân đem áo mặc cho cậu, lấy nhẫn đeo vào tay cậu. Qua những cử chỉ yêu thương mặn nồng như thế đã nói lên tình thương của cha vẫn luôn luôn yêu thương con cái và người cha vẫn coi cậu như người con trong nhà. Vì thế, ông nói với gia nhân hãy làm thịt con bê béo để mừng con đã chết nay được sống lại. Tình thương của người cha bao la đã bỏ qua tất cả mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng trở về.
Trong đoạn Tin Mừng nói về một người mắc nợ ông vua như sau: Có một người mắc nợ ông vua kia đến mười ngàn nén bạc nhưng anh không có gì để trả nợ. Chủ ra lệnh bán anh và vợ con cùng tất cả gia sản anh để trả nợ. Anh liền sấp mình xuống dưới chân chủ mà van lơn: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn rồi tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương trả tự do và tha nợ cho anh ta. Khi ra về anh ta gặp một người bạn mắc nợ anh ta một trăm nén bạc, anh ta tóm lấy bóp cổ người ấy mà nói:Hãy trả nợ cho ta, khi ấy người bạn sấp mình dưới chân và nói: Cho tôi khất một kỳ hạn. Nhưng anh ta không nghe, bắt người bạn đó tống giam vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Người xung quanh thấy cảnh tượng thương tâm đó thuật lại với người chủ và người chủ đã bắt trao anh cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ một ngàn nén bạc của anh.
Chúng ta đôi khi cũng thế, lòng Chúa khoan dung yêu thương, tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu, vậy mà đối với anh em ta lại xét nét, chê bai, xử tệ, không tha thứ cho nhau dù chỉ là những lầm lỗi không đáng kể gì trước mặt Chúa là người Cha đầy tình thương dung thứ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con cảm nhận được lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa để chúng con đáp lại tình thương nhỏ bé của chúng con đối với Ngài. Xin Chúa cho chúng con biết tha thứ cho nhau không những bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ cho nhau luôn luôn trong suốt cuộc sống. Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ - Radio Veritas Asia)
Suy Niệm 4: Chiên lạc
Một nhà truyền giáo trong vùng Thái bình dương có kể lại sự kiện như sau: Ngày nọ có một người đàn bà bước vào lều của Ngìa với đôi bàn tay nắm chặt cát ướt. Bà hỏi ngài:
- Cha có biết cái gì trong tay con không?
Vị linh mục đáp:
- Hình như chị đang cầm cát trong tay thì phải?
Người đàn bà lại hỏi tiếp:
- Cha có biết tại sao con mang cát ấy đến đây không?
Nhà truyền giáo lắc đầu.
Người đàn bà liền giải thích:
- Thưa cha, đây là tội lỗi của con, tội con nhiều như cát biển, làm sao con có thể được tha thứ?
Lúc bấy giờ vị linh mục mới an ủi:
- Có phải chị lấy cát từ bờ biển không, vậy chị hãy quay trở lại bờ biển và giống như các em bé vẫn thường làm, chị hãy xây một núi cát, rồi chị ngồi đó và ngắm những đợt sóng biển, sóng biển sẽ vỗ vào bờ và cuốn đi ngọn núi cát của chị. Ơn tha thứ của Chúa cũng giống như thế, lòng nhân từ của Ngài bao la như đại dương, chị hãy thành tâm thống hối và Chúa sẽ tha thứ cho chị.
Một lần nữa, Giáo Hội lại tha thiết kêu gọi chúng ta quay trở về với Chúa. Với hình ảnh người mục tử bỏ 99 con chiên khỏe mạnh về tìm một con chiên lạc, trước hết Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta về lòng nhân từ bao la của Thiên Chúa đối với con người. Chúng ta chỉ có thể tin tưởng quay về với Chúa, nếu chúng ta ý thức được tình yêu và lòng tha thứ của Ngài.
Tuy nhiên, con người chỉ có thể cảm nhận được lòng tha thứ của Thiên Chúa khi biết tha thứ cho anh em mình mà thôi. Đó là điều Chúa Giêsu muôn nêu bật trong Tin Mừng hôm nay. Thật thế, dụ ngôn người mục tử bỏ 99 con chiên khỏe mạnh để tìm một con chiên lạc được nhắm trước tiên đến những người biệt phái. Họ khó chịu khi thấy Chúa Giêsu kết thân với những người tội lỗi. Đề ra những khoản luật nghiêm nhặt về sự thanh tẩy, đặc biệt là thanh tẩy trước khi ăn, những biệt phái đã loại trừ nhiều tội nhân và những người thu thuế. Qua cử chỉ này, Ngài không những muốn nói với các tội nhân rằng Thiên Chúa yêu thương họ, Thiên Chúa đi tìm kiếm họ, Thiên Chúa tha thứ cho họ, nhưng Ngài còn mời gọi chính những người biệt phái, tức là những kẻ tự cho mình là lành thánh cũng phải hoán cải. Hoán cải trong quan niệm của họ về lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhất là hoán cải trong cái nhìn của họ đối với người tội lỗi. Con người chỉ cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa khi họ biết cảm thông và tha thứ cho tha nhân. Điều đó cũng có nghĩa là lòng nhân từ của Thiên Chúa không hề làm cho con người ra vong thân, nhưng biến nó trở thành người hơn, có trách nhiệm và dấn thân hơn. Con người chỉ thực sự thống hối khi nó biết thực thi lòng nhân ái với tha nhân.
Mỗi lần bước ra khỏi tòa giải tội ai trong chúng ta cũng cảm thấy như trút được một gánh nặng và tìm được bình an và niềm vui. Quả thực, như đại dương, lòng nhân từ Chúa sẽ xóa sạch tội lỗi chúng ta. Tuy nhiên để được tắm gội trong đại dương của lòng nhân từ ấy, chúng ta được mời gọi sống lòng nhân từ đối với tha nhân. “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”. Lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình cũng được lặp lại cho mỗi người chúng ta. Bước ra khỏi tòa giải tội là được sai đi để thể hiện lòng nhân từ với tha nhân. Và đó là món quà cao đẹp và ý nghĩa mà chúng ta có thể gửi cho nhau trong mùa vọng này.
Suy Niệm 5: Đón rước Đấng Cứu Thế là đón kẻ bé mọn
“Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con không bị lạc. Cũng vậy, Cha anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất. (Mt. 18, 12-14)
Nếu người ta đọc lại đầu chương 18 Tin mừng theo thánh Mát-thêu, người ta thấy rằng dụ ngôn chiên lạc được tiếp sau câu hỏi của các môn đệ: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong nước trời?” (18, 1). Đức Giêsu không trả lời ngay mà lần lượt trả lời theo ba nhịp độ sau:
1) Câu 2-5: Theo kiểu các ngôn sứ xưa, Đức Giêsu trả lời trước hết bằng một cử chỉ tượng trưng: “Người gọi một em bé đến, đặt giữa các ông và bảo: Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại nên như trẻ em, thì chẳng sẽ được vào nước trời” (c. 3). Qua cử chỉ này, Đức Giêsu đảo lộn thứ bậc theo quan niệm của môn đệ. Tiếp theo, Người tự giới thiệu mình như trẻ nhỏ trước mặt Chúa Cha, môn đệ cũng phải trở nên nhỏ bé như em này, thì mới là người lớn nhất trong tình yêu của Chúa Cha.
2) Câu 6-9: Vì thánh ý của Chúa Cha là muốn cho mỗi người lớn lên trong tình yêu của Ngài, cho nên điều quan trọng là phải chăm lo săn sóc những bé nhỏ này, bằng cách tránh mọi gương mù và mọi khinh thường có thể làm chúng sa ngã.
3) Câu 10-14: Dụ ngôn chiên lạc nói đến kẻ bé mọn và gương mù (c. 6) hay cảm thấy bị khinh bỉ (c. 10) và hậu quả là dần dần xa cộng đồng vì cộng đồng không tiếp nhận nó vào cuộc sống cụ thể hằng ngày, và ngăn cản nó lớn lên trong tình yêu của Chúa Cha. Chính ra mỗi phần tử trong cộng đồng đều được đón nhận thánh ý của Chúa Cha đã muốn cho tất cả đều lớn lên trong tình yêu của Ngài, để không còn thấy mình bị xa lạc nữa, nhưng luôn luôn được đón tiếp, được tôn trọng như một nhân vị độc nhất.
Chúng ta cũng theo gương các môn đệ, cần thiết phải thanh tẩy óc địa vị của mình. Chúng ta có luôn luôn ý thức mình phải hoạt động theo tiếng gọi của Chúa Cha để thi hành trách nhiệm, mà Ngài đã trao phó cho chúng ta với danh nghĩa là môn đệ của Chúa Con và là phần tử của nước trời không?
Trong đời sống thực tế cụ thể hằng ngày, chúng ta có biết tránh mọi gương mù, gương xấu cho những kẻ bé mọn không? Có giúp chúng khám phá và lớn lên trong tình yêu của Chúa Cha không?
Hãy nhớ rằng Đức Giêsu đã tự đồng hóa mình với những kẻ bé mọn: “Ai tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy” (c. 5).
J.M.R
Suy Niệm 6: Tất cả vì tình yêu
Đức Giêsu thường làm những chuyện gây “sốc” cho những người xung quanh. Vì thế, người đương thời với Ngài và đôi khi cả chính chúng ta cũng có lối suy nghĩ rằng: Ngài chuyên làm những chuyện ngược đời, nghịch lý và khó hiểu...!
Quả thật, nếu xét theo kiểu con người thì Đức Giêsu có rất nhiều những khuyết điểm. Những khuyết điểm đó là:
Ngài kém trí nhớ. Khi cả một đời tội lỗi ngập đầu, đến giờ chết xin Ngài tha thứ tội lỗi thì lại cho họ lên Thiên Đàng trước nhất: "Tôi bảo thật với anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23, 42-43).
Ngài cũng là một người không giỏi luận lý. Có đời thủa nào lại bày cho chủ tiệc đi mời những người nghèo nhất đến dự tiệc cưới của con mình: “...hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì để đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc...” (Lc 14, 12-14).
Ngài còn là một người không biết tổ chức công việc. Người làm đầu tiên cũng như người làm giờ chót, tất cả đều được một đồng! (x. Mt 20, 1-16).
Trong mối liên hệ, bạn số một của Ngài lại là những người tội lỗi (x. Mt 9, 11. 12-13; Lc 15, 2; 19, 2. 5.7. 9...)
Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại một sự nghịch lý đó ngang qua việc Đức Giêsu bỏ 99 con chiên lại để đi tìm một con chiên lạc. Điều này chứng tỏ Ngài không biết tính toán, là người dốt toán hạng chót...!
Nếu chúng ta đứng về phía những người làm kinh tế, hẳn chúng ta sẽ kết luận Đức Giêsu là kẻ điên khùng vì những điều bất thường trên!
Tuy nhiên, Đức Giêsu muốn dùng những nghịch lý đó để làm sáng tỏ chân lý. Chân lý đó chính là: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài cho mưa xuống trên kẻ dữ cũng như người lành. Ngài đến để cứu những gì đã mất. Ngài yêu thương đặc biệt những người tội lỗi....
Thật vậy, vì yêu thương, Đức Giêsu không để ý đến quá khứ tội lỗi của con người. Cũng vì yêu thương, Ngài đã chấp nhận chuộc những kẻ tội lỗi bằng tình yêu và cái chết.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn như Chúa, hành xử như Chúa. Hãy tin tưởng cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa như Maria Mađalêna; Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld.... Thiên Chúa không kết án con người vì tội lỗi quá khứ của họ. Nhưng Thiên Chúa nhìn vào thực tại của chúng ta như chúng ta là... trong giây phút hiện tại này.
Mùa Vọng là Mùa mời gọi chúng t(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
a quay về với lòng thương xót của Thiên Chúa bằng thái độ sám hối để được Đức Giêsu “vác lên vai, đưa về nhà”.
Mặt khác, Mùa Vọng cũng mời gọi chúng ta noi gương Đức Giêsu để “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an bình vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm...”.
Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh Chúa đi tìm con chiên lạc, khi tìm được, Chúa đã vác lên vai và yêu thương chúng đặc biệt, điều này đã khích lệ chúng con rất nhiều, bởi vì mỗi người chúng con đều cần đến sự tha thứ của Chúa như con chiên lạc khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Dụ ngôn con chiên lạc
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Kinh thánh nói rất nhiều hình ảnh Thiên Chúa là Mục tử. Thánh vịnh ca ngợi Thiên Chúa là mục tử của Dân: “Chúa là mục tử tôi, tôi không thiếu gì” (Tv 22,1).
Tiên tri Isaia còn nhấn mạnh hình ảnh mục tử Giavê: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11). Tiên tri Giêrêmia đã loan báo Vua Giuđa sẽ mang trách nhiệm người mục tử (Gr 3,15).
2. Đức Giêsu là hiện thân của Chúa Cha nên Ngài cũng xưng mình là mục tử: “Ta là mục tử nhân lành”(Ga 10,1-18, 27-28). Ngài là mục tử nhân lành hiến thân cho đoàn chiên. Ngài còn nhận chính Ngài mà mục tử cho Israel – một đàn chiên bị bỏ rơi (x.Mt 9,36). Ngài khẳng định sứ vụ mục tử của Ngài là tìm kiếm những con chiên lạc (Mt 10,6), điều đó biểu lộ Thiên Chúa luôn nhân hiền, bao dung, xót thương những con người tội lỗi sa ngã.
3. Ngài cũng mời gọi tất cả các mục tử trong cộng đoàn thi hành sứ vụ tìm kiếm những con chiên lạc khi dẫn đưa những kẻ lầm đường lạc lối trở về, vì Ngài không muốn bất cứ kẻ mọn hèn nào trong cộng đoàn bị hư mất: “Chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn” và ý Cha trên trời là: “Không muốn một ai trong những kẻ bé mọn phải hư mất” (Mt 18,14).
4. Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót kết thúc nhưng hẳn bạn vẫn chưa quên khẩu hiệu “Misericordes Sicut Pater” (Thương xót như Chúa Cha) cùng với biểu tượng Đức Giêsu vác trên vai một con người trông như đang vác con chiên, hai con người nhưng chỉ có ba con mắt. Đó là “ánh mắt đầy yêu thương của Chúa” đã giúp Giakêu, Matthêu, Madalena đổi đời, đã đánh động tâm hồn của Phêrô và bao người lầm đường lạc lối được ơn hoán cải. Ánh mắt bộc lộ tấm lòng thương xót của Chúa Cha trên trời “không muốn một ai phải hư mất”. Chúng ta cũng phải nhìn nhau bằng “con mắt thứ ba”, nhìn nhau bằng cái nhìn của Chúa, cái nhìn yêu thương tha thứ, cái nhìn cảm thông, quảng đại, và từ ánh mắt đó, chúng ta sẵn sàng bằng hành động dấn thân phục vụ (5 phút Lời Chúa).
5. Trong dụ ngôn có một chi tiết làm chúng ta thắc mắc: “Để 99 con trên núi mà đi tìm con chiên lạc”! Ta sẽ không thể hiểu được những câu này nếu ta chỉ suy nghĩ theo luận lý tính toán vụ lợi. Trái lại ta sẽ hiểu rất dễ nếu suy nghĩ theo lý lẽ của con tim, như Blaise Pascal nói: “Con tim có lý lẽ của nó” như: một người mẹ lạc con, phải chăng bà để các đứa con khác ở nhà và tất cả đi tìm đứa bị lạc.
Người mục tử bỏ 99 con chiên lành để đi tìm con chiên lạc không phải vì lý do kinh tế vì một con không đáng giá gì, nhưng chỉ vì tình thương thôi.
6. Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những người lầm lỗi; nhưng Ngài chỉ có thể tha thứ khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ để trở nên một vị thánh. Kẻ trộm trở nên thánh không phải vì là người tội lỗi, nhưng vì người trộm nhận biết mình là kẻ có tội.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
7. Chúng ta cũng phải bắt chước Chúa mà thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hóa nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra mà bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, và biết cầu nguyện cho anh em.
8. Truyện: Tình mẹ tha thứ.
Ở Batna, có một gia đình nằm vào địa điểm hẻo lành, gồm bà mẹ với các con, mà thằng con lớn phản bội vô số kể, tên là Sidi Melkassen, ưa a tùng với côn đồ du đãng, bị mẹ khiển trách hằng ngày. Mất tự do, thằng đó bực tức, nhất định hai mẹ con không đội trời chung. Liền bắt mẹ đem giam cầm vào một nhà cô tịch tăm tối. Lấy sợi xích lớn mà xiềng hai chân mẹ nó lại, đoạn đục vào tường gắn móc khóa lại và giữ chìa khóa trong túi. Đành lòng đóng cửa lại trước những tiếng kêu la, khóc lóc, van nài của mẹ.
Trên ba năm trời tồi túng, nóng nực, lạnh lẽo, không mền, không chiếu, bữa no bữa đói, người mẹ than khóc đã khô nước mắt, kêu không ai nghe, buồn không một lời an ủi.
Chiều nọ, một nàng dâu thảo giật được chìa khóa và mở cửa, tháo xiềng giải thoát cho người mẹ vô phúc. Bà đi ra giữa thanh thiên bạch nhật, không còn hình tượng người nữa, ai nấy đều thương hại. Việc này thấu đến tai nhà chức trách, thằng con bất hiếu bị bắt và kêu án sáu tháng tù ở. Ai nấy đều ca tụng công lý. Chỉ có bà mẹ quên tội của con, cất tiếng lên vừa than khóc vừa xin tòa đừng tống giam con mình tội nghiệp.
Ôi, Tình mẹ bao la!
Suy Niệm 8: Tìm con chiên lạc
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A. Hạt giống...
Ta cần lưu ý tới văn mạch của đoạn Tin Mừng này là Mt chương 18 trong đó Mt gom chung những lời Chúa Giêsu dạy về nếp sống trong cộng đoàn Giáo Hội: phải phục vụ nhau (cc 1-4), đừng làm cớ cho anh chị em mình vấp ngã (cc 5-11), tìm cứu những anh chị em lầm lạc (đoạn này), sửa lỗi cho nhau (cc 15-18) v.v.
Trong một tập thể nhiều người, dĩ nhiên có người lầm lạc. Nếu không thương nhau thì tập thể sẽ bỏ mặc kẻ lầm lạc đó. Còn nếu thương nhau thực thì phải tiếc vì một người anh chị em mình bị lạc và do đó cố gắng tìm về.
Do đó, có thể nói rằng tập thể nào không tiếc xót một thành viên trong tập thể bị lầm lạc và không tận tình tìm cứu thành viên đó thì không phải là một tập thể yêu thương, không phải là tập thể có tính Giáo Hội.
B.... nẩy mầm.
1. Người ta chỉ cố sức tìm lại cái bị mất khi người ta thấy cái đó có giá trị. Người mục tử mới lặn lội đi tìm con chiên lạc vì vẫn coi con chiên đó là quý mặc dù nó đi lạc. Đối với Thiên Chúa, người nào cũng có giá trị, cho dù người đó là tội nhân. Bởi thế Ngài vẫn yêu thương, vẫn quý chuộng và lặn lội tìm cứu: “Con người đến để tìm cứu những gì hư mất” (Lc 19,10). Khi tôi không tìm cứu người lầm lạc trong cộng đoàn của tôi là tôi không còn coi người đó là anh chị em mình nữa, nhưng coi đó là đồ bỏ.
2. “Để 99 con trên núi mà đi tìm con chiên lạc”... “Vui mừng vì con chiên đó hơn là vì 99 con không bị lạc”. Ta sẽ không thể hiểu được những câu này nếu ta chỉ suy nghĩ theo luận lý tính toán vụ lợi. Trái lại ta sẽ hiểu rất dễ nếu suy nghĩ theo lý lẽ của con tim. Như một người mẹ lạc con, phải chăng bà để các đứa con khác ở nhà và tất tả đi tìm đứa bị lạc!
3. Việc để 99 con chiên kia trên núi để đi tìm con chiên lạc chứng tỏ trong tình cảnh đó trong đầu người mục tử không còn nghĩ gì khác, và trong lòng ông cũng không còn tâm tình gì khác ngoài nỗi lo lắng cho con chiên lạc: nó rất khổ, nó đói khát, nó phải gặp biết bao nguy hiểm... Càng thương nó, người mục tử càng thấy lòng mình như bị kim châm, lửa đốt...
4. Một trong những ý của bài đọc Cựu Ước: “Ngài chăn dắt đoàn chiên Ngài như một mục tử. Ngài ẵm những con chiên trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ”.
Nhiều khi tôi quen sống trái ngược với tâm tình của Chúa. Tôi vô tâm, bám vào khẩu hiệu “thiểu số phục tùng đa số”. Do đó có những cá nhân bơ vơ lạc lõng giữa công đoàn, họ trở thành vô danh giữa đám đông vô tình, chẳng ai ngó ngàng dìu họ về với nếp sống cộng đoàn.
Lạy Chúa, về một khiá cạnh nào đó, con cũng lại là một con chiên lạc. Vì ham vui, vì dại dột, vì cố ý… con đã tách rời khỏi bầu khí của cộng đoàn. Con trở nên lạc lõng bơ vơ giữa cộng đoàn đông người. Nhưng Chúa hằng lưu tâm tới mỗi cá nhân. Xin Chúa thương dắt con về với cộng đoàn.
5. “Người chăn chiên để 99 con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc” (Mt 18,12)
Đã có lần tôi cảm thấy ngao ngán khi phải đến thánh đường. Tất cả những sinh hoạt tôn giáo đối với tôi chỉ mất thời gian và vô nghĩa. Chúa ở đâu? Tôi chẳng cần biết nữa. Và tôi tự giải thoát bằng đam mê học tập, lo toan kiếm sống và chạy theo những thú vui… Cuộc sống vẫn trôi, vẫn vui.
Rồi một ngày, trên đường đến trường, tôi gặp đám tang của một bạn trẻ. Sau quan tài, bà mẹ được hai người dìu bước, khóc nức nở… Cảnh tượng ấy làm tôi hết sức xúc động. Nhìn gương mặt tươi trẻ của anh trong khuôn ảnh, tôi tự hỏi: Cuộc sống chỉ có thế thôi sao? Bạn ấy sẽ đi về đâu? Còn tôi? Chẳng lẽ cuộc sống lại kết liễu dễ dàng như vậy sao? Tôi cảm thấy băn khoăn, trống rỗng. Chẳng biết phải làm gì nữa, tôi lại tìm đến Chúa… Nhìn lên thập giá, Chúa Giêsu đang dang tay, đầu gục xuống, như mong mỏi, chờ đợi tôi từ lâu. Trong thinh lặng, tôi đã nhận ra chính Ngài đã kiếm tìm tôi qua sự kiện bất ngờ ấy.
Lạy Chúa, xin cho con luôn cảm nhận được tình Ngài luôn dõi bước theo con, kiếm tìm con, chờ đợi con, dẫu có những lúc con đã quên Ngài (Epphata).
06/12 Chữa người bất toại và quyền tha tội
- Viết bởi Lc 5, 17-26
Chữa người bất toại và quyền tha tội.
Thứ Hai tuần 2 mùa vọng.
"Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng".
LỜI CHÚA: Lc 5, 17-26
Ngày ấy, Chúa Giêsu đang ngồi giảng, có cả những người biệt phái và tiến sĩ luật từ các làng mạc xứ Galilêa, xứ Giuđêa và Giêrusalem đến nghe Người, và Người dùng quyền lực của Thiên Chúa chữa nhiều người. Người ta khiêng một người bất toại đến, họ tìm cách vào nhà để đặt người bất toại trước mặt Người. Nhưng không tìm được lối vào, vì dân chúng quá đông, họ liền trèo lên sân thượng và thả người bất toại xuống giữa cử toạ trước mặt Chúa Giêsu. Thấy lòng tin của họ, Người nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!"
Các luật sĩ và biệt phái bắt đầu lý luận rằng: "Người này là ai mà dám nói phạm thượng? Trừ một mình Chúa, ai có quyền tha tội?" Chúa Giêsu biết rõ điều họ suy tính, liền nói với họ: "Sao các ngươi lại nghĩ trong lòng như vậy? Nói rằng: "Các tội của ngươi đã được tha", hay nói: "Ngươi hãy đứng dậy mà đi", đàng nào dễ hơn? Song (như thế là) để các ngươi biết Con Người có quyền tha tội ở dưới đất". Người nói với người bất toại rằng: "Ta bảo ngươi, hãy chỗi dậy vác giường về nhà".
Tức thì anh ta chỗi dậy vác giường đi về nhà và ca tụng Thiên Chúa. Ai nấy đều sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa; họ kinh sợ và nói: "Hôm nay chúng ta đã thấy những việc lạ lùng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đứng dậy mà đi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bệnh tật nơi thân xác con người
có thể tượng trưng cho một thứ bệnh tật nào đó nơi tinh thần.
Ít người mắc bệnh câm, nhưng ai cũng có kinh nghiệm về sự câm nín,
do sợ hãi của chính mình hay do bị đe dọa bắt phải im.
Ít người mắc bệnh điếc, nhưng lại có quá nhiều cuộc đối thoại
mà hai bên chẳng hiểu nhau, vì mất khả năng nghe.
Người mù không phải chỉ là người không thấy ánh mặt trời,
nhưng còn là người không dám thấy ánh sáng của sự thật,
không nhận ra hình ảnh người anh em nơi khuôn mặt kẻ thù.
Không phải ai cũng có bàn tay khô bại, không duỗi ra được,
nhưng ai cũng có lần thấy mình khó đưa tay ra để bắt tay người khác.
Đức Giêsu đã chữa cả thảy bao nhiêu bệnh nhân, chúng ta không biết.
Nhưng chắc Ngài đã không dừng lại ở việc chữa lành thân xác.
Ngài muốn một sự lành mạnh nơi toàn diện con người.
“Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai” (Is 35, 6).
Lời của ngôn sứ Isaia trong bài đọc 1 đã ứng nghiệm.
Khi anh bại liệt trỗi dậy, vác giường và đi một mạch về nhà,
chúng ta thấy niềm vui bừng tỏa trên khuôn mặt của anh và các bạn.
Cả gia đình của anh cũng sẽ ngập tràn hạnh phúc
khi thấy anh trở về, đi đứng như một người bình thường.
Nhưng có điều họ không nhận ra đó là chuyện anh được tha tội.
Đức Giêsu đã tha tội cho anh dù anh không xin,
vì điều anh quan tâm chỉ là sự bất toại thể lý.
Nhưng tâm hồn anh đã bước đi,
trước khi đôi chân anh đi được.
Sự trỗi dậy của anh là sự trỗi dậy của cả hồn lẫn xác.
Đức Giêsu có cơ hội để tỏ cho nhóm các luật sĩ và Pharisêu thấy
không nhất thiết phải đi gặp tư tế và dâng lễ đền tội mới được tha.
Chỉ bằng một lời nói đơn sơ và dễ dàng, Ngài có quyền ban ơn tha thứ.
Chính việc anh bất toại được chữa lành làm chứng về quyền năng này.
Ngược lại với thái độ tin tưởng táo bạo của anh bất toại và các bạn,
là thái độ thụ động ngồi của các luật sĩ và Pharisêu.
Họ cứng nhắc trong suy nghĩ truyền thống của mình :
chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha tội.
Họ không tin Đức Giêsu được chia sẻ quyền ấy từ Cha,
dù họ đã tận mắt thấy anh bất toại đi được.
Mùa Vọng là thời gian trỗi dậy, ra khỏi sự bất toại và bước đi.
Có những bệnh bất toại về mặt thiêng liêng,
khiến tôi không đến gần được Chúa, cũng không dám đến với anh em.
Có những bất toại về trí tuệ khiến tôi bị kẹt
trong những định kiến, thiên kiến, thành kiến,
không dám mở ra để đón nhận những sự thật bất ngờ và đáng sợ.
Có những bất toại về tình cảm khiến tim tôi như bị cầm tù,
không sao thoát khỏi được chuyện yêu ghét oán hờn dai dẳng.
Xin Giêsu giải phóng tôi, cho tôi khỏi bất toại, để tôi được tự do.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Suy Niệm 2: Giêsu Thiên Chúa cứu độ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúng ta đang mong chờ Chúa đến. Chúa đến mang theo ơn cứu độ. Tội lỗi giam hãm, trói buộc, khiến ta trở thành bại liệt không thể làm được điều mình muốn, què quặt không thể đi đàng lành, đui mù không nhìn thấy chân lý, điếc lác không nghe được Lời Chúa. Tội lỗi tàn phá khiến thiên nhiên thành sa mạc chẳng còn cây cỏ xanh tươi, đất đai trở thành khô cằn không còn trổ sinh hoa trái, ruộng vườn trở thành sỏi đá chẳng còn hoa mầu tươi tốt. Tội lỗi làm cho thế giới nhiễu nhương, khiến cho kẻ ác ức hiếp người lành, kẻ giầu bóc lột người nghèo, kẻ mạnh đàn áp kẻ yếu. Thế giới tội lỗi là thế giới què quặt, tàn lụi, tự hủy diệt. Chỉ có Chúa mới có thể đem ơn cứu độ. Vì chỉ có Chúa mới có ơn tha tội.
Bài Tin mừng và bài Sách Thánh cho ta thấy, Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ đến giải thoát ta khỏi tội lỗi khi tha tội cho ta, giải thoát ta khỏi tội lỗi trói buộc, cho ta khỏi bị tê liệt, có thể đứng thẳng lên, sống tự do, khỏe mạnh để có thể làm việc lành. Được Chúa hướng dẫn, mắt ta mở ra nhìn thấy chân lý, tai ta nghe được những tiếng gọi thanh cao, chân ta thẳng đường đi trên đường ngay nẻo chính, miệng ta vang lời ca tụng Thiên Chúa.
Được ơn cứu độ không chỉ con người phấn khởi mà cả thiên nhiên cũng reo mừng. Sa mạc khô cằn trở thành phì nhiêu mầu mỡ cho cỏ cây xanh tốt, hoa lá xinh tươi. “Và đất chúng ta trổ sinh hoa trái”.
Được ơn hoán cải, thú dữ sẽ trở nên hiền lành, người ác sẽ hoàn lương, mọi người đi trên đường hạnh phúc tiến về Nhà Chúa vì Chúa đã mở ra thánh lộ.
Được ơn cứu độ, ta sẽ không còn phải khóc lóc than van, nhưng sẽ reo vui hớn hở vì những ngày đau khổ đã qua.
Lạy Chúa, thế giới còn chìm trong đau khổ vì cái ác vẫn hoành hành. Bản thân con muốn làm điều lành nhưng con như bị tê liệt chỉ biết làm điều ác. Cuộc sống con thật khô tàn héo úa. Tâm hồn con là một sa mạc thiếu vắng sự sống. Xin Chúa mau đến giải thoát con khỏi tội lỗi, đem đến giòng nước trong lành tưới cho linh hồn con để linh hồn con trổ sinh hoa trái. Xin mau đến hoán cải để thế giới không còn cái ác, để mọi người sống với nhau trong tình huynh đệ chân thành.
Suy Niệm 3: Tâm hồn bình an.
Một buổi sáng tháng 7/1971, tại một thành phố bên Hoa kỳ, một người đàn ông đã đến nộp mình tại một trạm cảnh sát gần nhà. Ông thú nhận đã giết một người đàn bà cách đó 21 năm. Ông cho biết trong 21 năm qua, ông không bao giờ chợp mắt được mỗi khi màn đêm phủ xuống. Ông nói: “Chỉ vì một phút say sưa, tôi đã biến 21 năm qua thành một cơn ác mộng. Giờ đây sau khi thú nhận tội lỗi, tôi cảm thấy thanh thản trong lương tâm, tôi cảm thấy như được tái sinh”.
Những câu chuyện nộp mình và thú nhận tội lỗi như trên đây không phải là chuyện hiếm có trong lịch sử nhân loại. Riêng với người Kitô hữu, đó là một phần của cuộc sống đức tin. Trong những cao điểm của năm phụng vụ, lời nhắc nhở của Giáo Hội về nghĩa vụ này lại càng tha thiết hơn. Đặc biệt mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội khẩn khoản kêu mời chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa Giáng sinh, Chúa của Hòa bình. Làm sao chúng ta cảm nhận được bình an trong tâm hồn, nếu tội lỗi vẫn còn đè nặng lương tâm của chúng ta?
Có lẽ, vì muốn nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết của Bí tích giao hòa, mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe việc Chúa Giêsu chữa lành một người bất toại. “Này anh, tôi anh đã được tha rồi”. Lời khẳng quyết của Chúa Giêsu với người bất toại cho chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của niềm tin được tuyên xưng bởi chính miệng anh và đám đông khiêng anh đến trước mặt Chúa. Thật thế, tuyên xưng niềm tin trước tiên là nhìn nhận thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Ngày nay, nhiều người đã có lý để liên kết cơn khủng hoảng đức tin với việc đánh mất ý thức tội lỗi. Quả thực khi con người không còn ý thức về tội lỗi nữa, thì điều đó cũng có nghĩa là trong sâu thẳm của tâm hồn, con người cũng không còn cảm nhận được mối liên kết của mình với Thiên Chúa nữa. Đánh mất ý thức về tội lỗi cũng có nghĩa là gạt bỏ Thiên Chúa và chối bỏ những giá trị siêu việt trong cuộc sống.
Tuyên xưng đức tin không những là nhận ra thân phận tội lỗi, bất toàn của mình, nhưng còn là nhìn nhận quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa. Chỉ một mình Thiên Chúa Đấng tạo dựng con người mới có thể tái tạo, nghĩa là tha thứ cho con người. Tha thứ đối với con người là tái lập một quan hệ đã bị phá vỡ. Còn đối với Thiên Chúa, tha thứ chính là tái tạo, là ban lại một sức sống mới đã bị đánh mất. Quyền năng tái tạo ấy của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện qua các phép lạ của Ngài, nhất là các phép lạ chữa bệnh tật con người. Qua các phép lạ ấy, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho con người, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tái tạo con người. Đó là lý do tại sao trong phép lạ chữa người bất toại, Ngài đã nói đến hành động tha thứ của Thiên Chúa.
Được Thiên Chúa tha thứ, được Thiên Chúa cứu rỗi, được Thiên Chúa tái tạo để biến thành một tạo vật mới, đó là sứ điệp quan trọng nhất mà Chúa Giêsu đã mang đến cho con người. Ngày nay, qua Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng không ngừng nói với chúng ta sứ điệp ấy. Qua Giáo Hội, Ngài không ngừng nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với các bệnh nhân và những người tội lỗi đương thời của Ngài: “Hãy can đảm lên, tôi con đã được tha”. “Ta cũng không kết án con”.
Mùa Vọng, tâm hồn chúng ta cảm thấy rạo rực hân hoan vì bầu khí chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh. Những chuẩn bị bên ngoài là cần thiết để gợi lên cho chúng ta ý nghĩa đích thực của Lễ Giáng sinh. Chúa Giêsu đã Giáng sinh là để chúng ta được sinh lại, được tái sinh. Chúng ta cần được Ngài tha thứ và tái tạo, do đó không có chuẩn bị nào cần thiết hơn là đến với Ngài trong Bí tích giải tội để được ơn tha thứ.
Vào cuối đời, Đức Gioan XXIII đã ghi lại trong nhật ký của Ngài: “Có hai ngõ dẫn chúng ta vào thiên đàng: một là tấm lòng trong sạch, hai là sự thống hối. Là những con người yếu đuối mỏng dòn, không ai trong chúng ta dám nghĩ đến ngõ thứ nhất, tuy nhiên chúng ta có thể tin chắc vào ngõ thứ hai, Chúa Giêsu đã đi qua ngõ ấy”. Ngài đã mang lấy Thập giá để đền bù tội lỗi chúng ta và mời gọi chúng ta bước theo Ngài. Nhưng theo Ngài cũng có nghĩa là sám hối, chấp nhận mỗi ngày cần được thanh tẩy thêm.
Ước gì Bí tích giải tội mà chúng ta sốt sắng lãnh nhận trong mùa vọng này đem lại cho chúng ta bình an đích thực, bình an mà các Thiên thần loan báo trong đêm Giáng sinh:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm”
Suy Niệm 4: Vì ghen tức mà trở thành bất nhân
Ghen ăn tức ở hay không ăn được thì đạp đổ vốn là thói xấu thường trực trong xã hội mọi thời. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì vào thời Đức Giêsu, tình trạng này lại càng rõ nét nơi những người Pharisiêu và các Luật sĩ khi họ thấy Đức Giêsu được lòng dân và uy tín của Ngài ngày càng lan rộng. Vì thế, họ sinh ra căm phẫn và tức tối, nên muốn loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi cuộc sống và xã hội.
Tuy nhiên, họ khó lòng kết tội cho Đức Giêsu khi Ngài làm việc thiện, việc tốt hay đứng lên bảo vệ công lý, công bình, giúp đỡ người nghèo, người không nơi nương tựa.... Bởi lẽ, nếu họ chống đối ra mặt những việc Đức Giêsu đã làm trên thì họ sẽ bị dân chúng phản đối và đương nhiên, khuôn mặt giả hình nhân đức của họ bị bại lộ. Như thế, hoàn toàn không có lợi cho bản thân và mưu kế của những người này. Chỉ có một cách là họ ghép Đức Giêsu vào tội lộng ngôn hay phản động thì sẽ dễ dàng hơn.
Thua keo này, họ bày keo khác…. Và, hôm nay là cơ hội để họ thực thi điều ác tâm đó với Đức Giêsu.
Tin Mừng thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chữa người bất toại cách công khai và nhân đây Ngài cũng mặc khải Thiên Tính của mình khi nói: "Hỡi người kia, tội ngươi đã được tha!". Khi nói như thế, Đức Giêsu bị những nhà lãnh đạo tôn giáo kết án Ngài nói lộng ngôn vì tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa khi tha tội cho người ta. Theo quan niệm của người Dothái thì những người mắc bệnh tật là do bị Thiên Chúa phạt vì tội lỗi của họ. Và đương nhiên, chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Khi họ không tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì hẳn là họ phủ nhận quyền tha tội của Ngài, như thế, họ có lý do để loại trừ Đức Giêsu bằng cái chết.
Về phía Đức Giêsu: khi Ngài bày tỏ uy quyền của mình bằng việc tha tội, ngay lập tức, người bất toại được lành, điều này cho thấy quyền năng và lòng thương xót của Đức Giêsu đã chứng minh sứ vụ Thiên Sai Con Thiên Chúa nơi Ngài, Ngài đến là để cứu chữa và ban ơn cứu độ cho mọi người.
Mặt khác, niềm tin của những người khiêng anh bại liệt cũng như niềm tin của chính người bại liệt đã để lại cho chúng ta bài học:
Tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, vì Ngài làm được mọi chuyện và Ngài biết điều gì tốt nhất cho ơn cứu độ của ta thì Ngài sẽ ban ơn.
Đức tin cần phải đi đôi với việc làm. Nếu người bại liệt đã tin vào Chúa, và khi được giải phóng khỏi tội lỗi là quyền lực của Ma Quỷ, anh ta đã cất tiếng ngợi ca Thiên Chúa, thì chúng ta, khi cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trên cuộc đời, hãy có tâm tình tạ ơn.
Đức tin cần được biểu lộ qua đức ái. Vì thế, noi gương những người Dothái khi xưa, hãy sẵn sàng giúp đỡ những người nghèo đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Nhất là những người cô thế, cô thân, để tăng thêm niềm tin nơi họ ngang qua những việc thiện chúng ta làm.
Tránh những kiểu kỳ thị như những người Pharisiêu và Luật sĩ. Đừng vì ích kỷ hay hình thức bề ngoài mà ngăn cản ơn Chúa đến với mọi người, cũng như căm tức những người vì lòng tốt mà làm được nhiều việc thiện hơn ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con ơn đức tin để chúng con biết tin tưởng vào Chúa. Xin cũng cho chúng con luôn biết tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh và sống đức ái với nhau cách chân tình. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu chữa người bất toại
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Người ta đã khiêng người bại liệt đến cùng Chúa Giêsu. Họ dỡ ngói và thả người ấy xuống. Thấy họ có lòng tin, Chúa Giêsu đã tỏ dấu yêu thương người bại liệt ấy. Chúa vẫn hằng sống, Ngài sẵn sàng tỏ dấu yêu thương chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con đến với Chúa đem theo những người thân trong gia đình. Con đến với Chúa đem theo mọi người trên thế giới: những con người mỏng dòn và đầy khuyết điểm. Con đang rẽ qua các lo toan, qua các công việc, qua mọi cảnh huống, qua cả những mệt nhọc sau một ngày lao động, và qua cả những khuynh hướng muốn an nhàn nghỉ ngơi thoải mái, con rẽ qua và cố gắng vượt mọi khó khăn để đến với Chúa. Con biết Chúa đến không phải vì mục đích trần tục, vật chất, nhưng vì yêu chúng con và muốn giải thoát chúng con khỏi chứng bại liệt thiêng liêng, khỏi những tính hư tật xấu. Như Chúa đã tha tội cho người bại liệt, thì xin Chúa cũng thương tha thứ những yếu đuối của con và những người con yêu mến.
Chính vì Chúa nhìn thấy tình thương và lòng tin của những người khiêng, mà Chúa đã làm cho người bại liệt được khỏi. Con cũng muốn thực sự yêu thương và hy sinh giúp đỡ, để đưa người khác đến với Chúa. Xin Chúa giúp con.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến để tỏ cho con biết bộ mặt thật của Thiên Chúa: bộ mặt “Yêu thương tha thứ” chứ không phải bộ mặt hình sự hay bộ mặt kết án. Ngày ngày biết bao người thuộc mọi lứa tuổi và bậc sống hằng được Chúa cho “chỗi dậy” nhờ quyền năng vô hình của ân sủng cứu độ. Xin cho con luôn biết tin tưởng và đầy lòng thống hối mà đến cùng Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Hôm nay chúng tôi đã thấy những việc lạ lùng”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu chữa người bại liệt
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Đoạn Tin mừng này tường thuật phép lạ của Chúa Giêsu chữa một người bại liệt:
- Người bại liệt này gặp rất nhiều cản trở khiến khó mà tới gần được Chúa Giêsu: liệt không đi được, thân nhân khiêng thì bị đám đông dầy quá không vào nhà được. Nhưng thân nhân anh đã giúp anh vượt qua tất cả những cản trở đó: khiêng anh trên chõng, leo lên gở mái nhà, thòng anh xuống. Chúa Giêsu đánh giá những cố gắng ấy là những thể hiện của lòng tin.
- Trước khi chữa bệnh, Chúa Giêsu tha tội: vì theo Ngài, tội còn nguy hại hơn bệnh tật phần xác nữa.
- Mà vì tha tôi là độc quyền của Thiên Chúa, cho nên việc náy cũng chứng minh Đức Giêsu là Thiên Chúa.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Một buổi sáng tháng 7/1971, tại một thành phố bên Hoa Kỳ, một người đàn ông đến nộp mình tại một trạm cảnh sát gần nhà. Ông thú nhận đã giết một người đàn bà cách đó 21 năm. Ông cho biết trong 21 năm qua, ông không bao giờ chợp mắt được mỗi khi màn đêm phủ xuống. Ông nói: “Chỉ vì một phút say sưa, tôi đã biến 21 năm qua thành một cơn ác mộng. Giờ đây sau khi thú nhận tội lỗi, tôi cảm thấy thanh thản trong lương tâm. Tôi cảm thấy như được tái sinh”.
Những câu chuyện nộp mình và thú nhận tội lỗi như trên đây không phải là chuyện hiếm có trong lịch sử nhân loại. Riêng với người Kitô hữu, đó là một phần của cuộc sống đức tin. Trong những cao điểm của năm phụng vụ, lời nhắc nhở của Giáo Hội về ý nghĩa này lại càng tha thiết hơn. Đặc biệt mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội khẩn kêu mời chúng ta chuẩn bị tâm hồn đón Chúa giáng sinh, Chúa của hoà bình. Làm sao chúng ta cảm nhận được bình an tâm hồn, nếu tội lỗi vẫn còn đè nặng lương tâm của chúng ta ? ("Mỗi ngày một tin vui")
2. Tội lỗi làm hại con người hơn bệnh tật phần xác.Thế mà khi mắc bệnh, tôi rất lo lắng và tìm đủ cách để chữa trị; còn khi có tội, tôi không mấy quan tâm sám hối để được tha.
3. Có lẽ câu chuyện này cũng muốn nói rằng tội lỗi làm cho người ta bị bại liệt. Mà thật vậy, chẳng hạn tội ích kỷ khiến người ta bại liệt không đến được với tha nhân, tội ham mê vật chất khiến người ta bị bại liệt phần tinh thần, tội xác thịt làm bại liệt phần thần khí v.v.
4. “Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo: “Này anh, anh đã được tha tội rồi” (Lc 5,20)
Trên đường về nhà, tôi đã nhìn thấy những người không nhà, không cửa, không cơm ăn áo mặc, nhưng vẫn vui tươi, lạc quan và hy vọng. Còn tôi, có đủ mọi thứ cho một cuộc sống hạnh phúc, vậy mà cứ trách mình, cứ như một kẻ bất đắc chí. Gặp khó khăn là chán nản buông xuôi, và lòng tin cũng chẳng còn. Tôi ngày càng xa Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho con, để con có thể đến với Chúa với niềm hân hoan và vượt mọi thử thách với lòng dũng cảm (Epphata).
Suy Niệm 8: Chúa chữa người bất toại
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đang lúc Đức Giêsu ngồi giảng dạy trong nhà, người ta khiêng một người bất toại đến. Vì dân chúng quá đông, họ không khiêng vào được đã dỡ ngói mái nhà rồi thòng chiếc chõng người bệnh xuống trước mặt Người. Chúa thấy họ có lòng tin mạnh mẽ như thế nên nói với người bệnh : “Này anh, anh đã được tha tội rồi”. Nhóm biệt phái và luật sĩ không tin nhận Người là Thiên Chúa nên cho lời nói đó là phạm thượng, vì chỉ có mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Để chứng tỏ mình là Thiên Chúa có quyền tha tội. Chúa bảo người bất toại chỗi dậy vác giường mà về, tức thì anh chỗi dậy vác chõng ra về trước sự kinh ngạc của mọi người.
2. Bệnh bất toại hay bại liệt thường do đứt hay tắc mạch máu não do những chứng áp huyết cao, đau màng óc, chấn thương sọ não, sưng bướu óc, sưng cơ tim, kinh phong hay do vi khuẩn phá hủy tủy sống. Y học ngày nay có thể giải phẫu để nối mạch máu, lấy bướu máu, chạy điện trị liệu vật lý để chữa bệnh tê liệt nhẹ. Đối với chứng bất toại nặng thì khoa học hoản toàn bất lực. Hiện nay có nhiều người bán thân bất toại hay bất toại hoàn toàn chỉ còn chờ chết thôi.
3. Đức Giêsu cũng tỏ lòng trắc ẩn đối với những bệnh nhân ấy nên đã chữa lành cho một người bị bại liệt. Nhưng cách chữa bệnh của Ngài hôm nay hơi khác thường : thay vì chữa bệnh như thường lệ, Ngài lại tha tội cho bệnh nhân trước rồi mới chữa bệnh sau. Việc làm này khiến các luật sĩ và biệt phái rất tức giận.
Tuy nhiên, Đức Giêsu làm như thế là ngầm bảo họ rằng Ngài có quyền tha tội vì Ngài là Thiên Chúa. Việc làm này cũng nhắc nhở chúng ta phải chữa bệnh bại liệt tâm hồn . Phải chú trọng đến sứ khỏe phần hồn hơn phần xác.
4. Ai cũng biết bại liệt là bất lực, vừa là nỗi khổ cho chính mình vừa là gánh nặng cho thân nhân. Chắc chắn Đức Giêsu thấy nơi người bại liệt nỗi đau khổ về thể xác. Nhưng tại sao câu đầu tiên Ngài nói với anh ta là lời tha tội ? Anh ta có tội gì chăng nên mới bị bại liệt như vậy ? Người Do thái vẫn có quan niệm như thế : bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Ai mắc bệnh là người có tội, trường hợp của ông Gióp đã nói lên điều đó. Bệnh càng nặng tức là lỗi càng nhiều, và càng nặng thì bệnh càng phát ra bên ngoài tương xứng.
Chắc chắn là Đức Giêsu không đồng ý với quan niệm này. Nhưng chỉ sau này người ta mới tìm ra mầu nhiệm của đau khổ và bệnh tật. Tội lỗi và bệnh tật là hai vấn đề riêng biệt, không liên can gì với nhau; bởi vì có người vừa có bệnh vừa có tội, có người bệnh mà không có tội, có người có tội mà không bệnh. Cho nên khi Chúa nói :”Tội con được tha rồi” là Chúa muốn minh chứng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền tha tội.
5. Hành động của những người thân của người bại liệt đáng để mỗi Kitô hữu suy nghĩ trong Mùa Vọng này. Họ yêu thương người thân của mình, dù con người ấy không có khả năng hoạt động. Họ tìm cách cứu chữa, không thất vọng, mà công việc ấy chẳng phải dễ dàng. Đám đông không còn là trở ngại không thể vượt qua, bởi tình yêu giúp họ thêm sáng kiến, mở lối đưa người thân của mình đến cùng Đấng Chữa Lành. Dĩ nhiên, Chúa vẫn luôn đòi hỏi người được chữa lành phải có đức tin. Nhưng ở đây, đức tin của những người thân và sự phục vụ đầy yêu thương của họ nâng đỡ đức tin yếu ớt và làm sống lại niềm hy vọng nơi con người bị bệnh tật chôn vùi trong nhiều năm tháng. Những người thân của anh đã giúp anh gặp lại được Đức Giêsu (5 phút Lời Chúa).
6. Qua phép lạ này, chúng ta thấy Chúa thường đáp lại lòng tin và lòng bác ái của người đến kêu xin như Ngài thường nói :”Đức tin của con đã chữa con”. Hôm nay chúng ta phải chân nhận rằng : những người khiêng người bại liệt có lòng tin sâu sắc, lòng tin ấy được biểu lộ qua lòng bác ái chân thật, một tình thương sáng ngời, những việc làm của họ có sức lay động cả trái tim của Đức Giêsu. Và kết quả hết sức tốt đẹp như Tin Mừng hôm nay đã trình bầy cho thấy.
7. Truyện : Phép lạ ở Lộ Đức
Serge Francois mắc chứng thoát vị đệm (hernia) từ nhiều năm và được giải phẫu hai lần, khiến cho chân trái gần như hoàn toàn tê liệt. Ngày 12/4/2002, ông đến hang đá Massabielle tại Lộ Đức để cầu nguyện. Ông đã bị một cơn đau khủng khiếp khiến ông tưởng như sắp chết. Sau những giây phút cầu nguyện chỉ vài phút sau đó, cơn đau đã nhường chỗ cho một cảm giác khỏe khoắn và ấm áp. Chân trái ông hết đau và từ từ cử động được.
Ngày 01/12/2008, sau nhiều năm nghiên cứu hồ sơ, Ủy ban Khoa học quốc tế trung tâm hành hương Lộ Đức, gồm khoảng 20 bác sĩ (có cả thành viên không Công giáo và vô thần), nhìn nhận rằng việc khỏi bệnh của Francois không thể giải thích được về mặt y khoa, vì diễn ra bất ngờ, toàn diện và lâu bền mà không qua bất cứ một trị liệu y khoa.
Thiên Chúa chọn Lộ Đức để biểu lộ tình thương của Ngài qua trung gian nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ. Qua đó, Ngài đã bầy tỏ vinh quang cho nhân loại, khi chữa lành nhiều bệnh tật của nhiều anh chị em được đem đến Lộ Đức.
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu tha tội trước khi chữa bệnh
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu tha tội trước khi chữa cho người bại liệt được khỏi vì theo Chúa tội lỗi cũng là một thứ bệnh. Hơn nữa, nó còn là một thứ bệnh nguy hiểm, nhiều khi còn nguy hiểm hơn cả bệnh phần xác. Lý do vì tội làm cho con người phải xa lìa Thiên Chúa nên không thể có hạnh phúc.
Tờ New York Times ngày 17.3.1994 có đăng câu chuyện có thật của một phạm nhân tên là Ricardo Caputo như sau:
Ông ta là một tội phạm nghiêm trọng của tòa án liên bang. Ông đã cưới và ăn ở với 4 người vợ trong suốt 20 năm trời và đặc biệt là ông đã giết chết cả bốn người vợ đó. Rồi bằng nhiều thủ đoạn khéo léo, ông đã trốn thoát khỏi tất cả những mạng lưới bao vây lùng bắt của pháp luật. Tuy nhiên, sau 20 năm, ông ta đã tự ra đầu thú tại sở cảnh sát Mineola, New York. Bởi vì lương tâm ông cắn rứt làm ông không thể chịu nổi. Khi đầu thú, ông cho biết, ông thà bị giam cầm trong ngục còn sướng hơn bị lương tâm cắn rứt và tội lỗi dày vò.
Những câu chuyện như thế này không thiếu. Có thể nói là có rất nhiều.
2. Tin Mừng thuật lại: khi Chúa Giêsu thấy lòng tin của họ (nghĩa là lòng tin của những người đưa người bất toại đến với Chúa), Người đã làm phép lạ. Không có chi tiết cụ thể nào đề cập đến lòng tin của người bại liệt mà chỉ thấy nói đến lòng tin của những người bạn của anh ta. Họ đã khắc phục những trở ngại tưởng chừng như không thể vượt qua. Họ đã gan lì, đã thắng vượt mọi trở ngại bằng sự quyết tâm. Điều quan trọng là làm sao cho người bạn của họ được gặp Đức Giêsu. Họ đã sử dụng mọi phương tiện có trong tầm tay để cuộc gặp gỡ ấy được diễn ra.
Vâng, đó là lòng bác ái hết sức đặc biệt, một tình thương rất sáng ngời, những việc làm có sức lay động được cả trái tim của Chúa. Và kết quả tốt đẹp như thế nào thì Tin Mừng đã cho chúng ta hay.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta cũng có được tấm lòng biết quan tâm đến những người khác chung quanh chúng ta, nhất là những người cần đến sự giúp đỡ của chúng ta như những người tốt bụng trong Tin Mừng hôm nay.
Xin được trích ra đây một câu chuyện có thực lấy từ Internet để mọi người chúng ta cùng suy nghĩ.
Tại một phòng cấp cứu khoa tim mạch, người ta mới chuyển đến một gã đàn ông tóc dài, râu tua tủa, vừa dơ bẩn vừa béo ị một cách bệnh tật. Ông khoác hờ hững một chiếc áo jacket bằng da đã cáu bẩn và rách tươm. Toàn thân ông toát ra mùi nồng nặc của rượu và mồ hôi, và nhất là cái mùi của những bãi rác mà ông thường lê la ở đó.
Thoạt nhìn thấy ông được đẩy vào phòng, những nữ y tá đã giật mình và bối rối nhìn nhau. Và dường như những y tá đang muốn nói với nhau qua ánh mắt của mỗi người:
- Không, tôi không muốn chăm sóc người này.
Họ lấm la lấm lét nhìn Bonnie, người y tá trưởng vốn nổi tiếng nghiêm khắc và nguyên tắc. Ai cũng sợ bị phân công tắm rửa cho người đàn ông mới được chuyển vào. Bonnie nhìn quanh một lượt rồi quyết định một điều mà không ai có thể nghĩ đến: - Đây sẽ là bệnh nhân của tôi.
Bonnie nhanh nhẹn mang găng tay cao su và một mình chuẩn bị xà phòng, thuốc sát trùng, dao cạo...
Dịu dàng và dè dặt, Bonnie vừa tẩy rửa, vừa giúp người đàn ông đáng thương này. Cô nhẹ nhàng nói:
- Vào những ngày lễ chúng tôi rất bận. Nhiều khi việc vệ sinh cho các bệnh nhân cũng được làm qua loa. Ông hãy thư giãn cơ thể và cảm nhận làn nước mát này. Nó sẽ làm ông cảm thấy dễ chịu vì bệnh viện là nơi làm cho người ta thấy yêu cuộc sống hơn.
Thân thể người đàn ông đầy những vết sẹo nham nhở. Có thể ông đã nghiện rượu, nghiện ma tuý, đã từng tham gia trong các băng đảng... Bonnie vừa chùi rửa vừa cầu nguyện cho một linh hồn bị vùi dập trong cuộc đời khắc nghiệt.
Công đoạn cuối cùng của Bonnie là xoa sữa làm ấm cơ thể và thoa phấn trẻ em lên người bệnh nhân. Ngược với vóc dáng dữ tợn, khi úp mặt vào gối để được xoa bóp ở lưng, người đàn ông không giấu được sự cảm động. Ông tấm tức khóc. Khi quay lại, đột nhiên ông ta nhìn Bonnie với một ánh mắt xanh lơ đẹp kỳ dị:
- Cám ơn cô. Đã lâu lắm rồi, không có ai chạm vào người tôi một cách dịu dàng thế này! Dường như trái tim tôi cũng đang liền sẹo!
Mẹ Têrêsa đã có lần nói: "Nghèo khó, không chỉ là đói ăn thiếu mặc, mà còn là sự cô độc và thiếu tình thương."
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho con, để chúng con có thể đến với những anh em của chúng con vì biết rằng, làm như thế là chúng con làm vui lòng Chúa, là chúng con góp phần làm nên những phép lạ cho cuộc sống này và làm như thế là làm cho trái tim của chúng con được trở nên giống trái tim Chúa hơn. Amen.
05/12 Dọn đường cho Chúa
- Viết bởi Lc 3, 1-6
Dọn đường cho Chúa.
CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG năm C.
"Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Lời Chúa: Lc 3, 1-6
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ðời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế; có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.
Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG C
Lời Chúa: Br 5,1-9; Pl 1,4-6. 8-11; Lc 3,1-6
1. Hãy dọn đường cho Chúa---Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta muốn tự định nghĩa về mình.
Chúng ta tự hỏi mình là ai.
Đây là một câu hỏi quan trọng và cần thiết.
Gioan Tẩy Giả cũng đã đặt cho mình câu hỏi tương tự.
Nhiều người nghĩ rằng ông là đấng Mêsia, là Êlia...
Còn ông, ông biết rõ ông là ai.
Gioan không đánh lừa mình hay đánh lừa người khác.
Ông tự định nghĩa: "Tôi là tiếng kêu trong sa mạc.
Hãy dọn đường cho Chúa đến" (Ga 1, 23).
Cả cuộc đời Gioan là một tiếng kêu.
Tiếng kêu ấy đã vang lên từ khi ông được thụ thai,
một cuộc thụ thai lạ lùng khi cha mẹ ông đã luống tuổi.
Tiếng kêu ấy rõ dần qua cuộc sống đặc biệt của ông:
nơi hoang địa, mặc áo lông thú, ăn châu chấu và mật ong rừng.
Tiếng kêu ấy vang động khắp vùng ven sông Giođan.
Một tiếng kêu khẩn thiết: hãy sám hối.
Một tiếng kêu cấp bách: hãy dọn đường cho Chúa đến.
Tiếng kêu cuối cùng của Gioan đã đưa ông đến cái chết:
"Vua không được phép lấy bà ấy làm vợ" (Mt 14,4).
Gioan hấp dẫn vì ông sống điều ông giảng:
ông sống khổ hạnh và mời gọi người ta sám hối.
Gioan mãi mãi hấp dẫn vì ông không bao giờ tìm mình.
Ông sống vai trò của người mở đường,
người giới thiệu cho Đấng đến sau ông
nhưng lại quyền thế hơn ông.
Ông vui mừng tự xóa mình đi để Đức Giêsu được nổi bật.
Chính vì thế mà ông trở nên cao trọng.
Con người chỉ cao trọng khi sống cho Thiên Chúa.
Mỗi lần mùa Vọng trở về,
chúng ta có dịp gặp lại Gioan, người dọn đường.
Chúa Giêsu hôm nay vẫn cần những Gioan Tiền Hô mới
biết tiếng kêu thức tỉnh nhân loại,
biết dạy cho họ chờ đợi và nhận ra ơn cứu độ đã đến.
Dọn đường là lội ngược dòng,
là chấp nhận bị khai trừ, bị từ chối.
Gioan đã dọn đường bằng cả cuộc đời
để cuộc hôn nhân giữa Chúa Kitô và nhân loại thành tựu.
Hội Thánh vẫn cần những người dám sống điều mình nói,
và dám nói điều mình sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giáo Hội mời gọi chúng ta lội ngược dòng trước sự lôi kéo của vật chất, hưởng thụ. Có khi nào bạn dám đi ngược với tập thể, vì muốn sống theo ý Chúa?
Trong cuộc sống của Gioan Tẩy Giả, điều gì đánh động bạn hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, Khi đến với Chúa
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con;
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con;
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con;
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con;
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ đeo kính vào để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa.
2. Có Lời Thiên Chúa phán-– Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Mỗi lần mùa Vọng đến, ta lại gặp Gioan.
Một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường.
Hoang địa là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống.
Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành
trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình,
nhưng ông đã kiên nhẫn chờ đợi nhiều năm tháng,
cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông.
Lời của Ngài đưa ông ra khỏi hoang địa
để đến với mọi vùng ven sông Giođan mà gặp con người.
Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố.
Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.
Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông
sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ.
Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời:
một hoàng đế Tibêriô, hai thượng tế Khanna và Caipha,
một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng trấn vùng Giuđê,
một Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này.
Gioan đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy.
Lịch sử dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ.
Gioan biết mình là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế,
và ông cố làm tròn sứ mạng của mình trước lịch sử.
Gioan mời dân chúng sám hối.
Không thể tiếp tục sống như xưa nữa.
Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ.
Ông kêu gọi cả nước hãy sửa sang đường sá,
để đón lấy Vua Mêsia, đấng ông không dám cởi dây giày.
Đường quan trọng là đường vào cõi lòng.
Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc.
Có những lũng sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu.
Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn.
Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người.
Phải sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay.
Phải san cho phẳng, bạt cho thấp...
Sám hối là dọn con đường của lòng mình
và mời mọi người cùng dọn các con đường thành đại lộ.
Điều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau đớn.
Vấn đề không phải chỉ là đi xưng tội qua loa,
nhưng là dẹp bỏ những chướng ngại trong tâm hồn,
để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.
Gioan đã là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu.
Chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối.
Làm ngôn sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình:
đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu chẳng trừ ai
Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống.
Ơn cứu độ đã đến từ hai mươi thế kỷ nay,
nhưng vẫn thiếu những con đường phẳng phiu, ngay thẳng,
để Thiên Chúa có thể đến gặp con người.
Xin Thánh Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới
trên những nẻo đường quen thuộc của nhân loại.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôn sứ là người nói lời của Thiên Chúa. Có khi nào bạn dám nói một điều do lương tâm đòi buộc, nhưng đem lại cho bạn nhiều thiệt thòi, nguy hiểm không?
Đường sá là cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc phát triển. Bạn đã làm gì trong mùa Vọng này để dọn đường cho Chúa đến?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con;
xin cho chúng con biết thường xuyên
điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.
3. Con đường nội tâm---TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng mở đầu thật long trọng khi nêu tên tất cả những vị lãnh đạo cao cấp thời đó. Từ Tibêriô, hoàng đế của đế quốc La mã, quyền uy phủ trên toàn thế giới thời ấy, đến Philatô, tổng trấn, đại diện cho hoàng đế cai trị nước Do Thái. Từ Hêrôđê, dù là bù nhìn, cai trị miền Bắc, đến em ông cai trị miền Nam. Từ Anna đến Caipha cùng trong gia đình làm thượng tế nắm giữ quyền đạo Do Thái. Tên tuổi những vị lãnh đạo cao cấp đầy quyền uy nói lên thực trạng của đất nước Do Thái thời đó: bị nô lệ. Chính vì thế, hơn bao giờ hết người Do Thái mong chờ Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân Người. Chúa đã đến, không phải bằng con đường phô trương nhưng bằng con đường nội tâm. Thánh Gioan Baotixita hôm nay khi kêu gọi mở đường cũng nhắm đến con đường nội tâm. Chỉ những ai đi đường nội tâm mới gặp được Chúa. Qua lời rao giảng của Thánh Gioan Tiền Hô, đường nội tâm có những đặc điểm sau:
Đường nội tâm đi trong cô tịch. Thật lạ lùng. Một chương trình cứu thế lớn lao như thế mà Chúa chẳng ngỏ lời với các vị lãnh đạo cao cấp uy quyền, nhưng lại ngỏ với Thánh Gioan Baotixita. Một chương trình lớn lao như thế không khởi đầu từ thủ đô đất nuớc nhưng lại phát xuất từ vùng hoang địa xa xôi. Thực ra Chúa vẫn ngỏ lời với nhân loại. Nhưng tiếng Chúa nói âm thầm, sâu thẳm. Các vị lãnh đạo cao cấp sống trong ồn ào của đô thị phồn hoa, bị tiếng thét gào của đam mê, dục vọng, quyền lực lấn át, nên không nghe được tiếng Chúa. Thánh Gioan Baotixita nghe được tiếng Chúa nhờ đi vào con đường cô tịch. Sống ẩn thân nơi hoang địa. Chuyên chăm cầu nguyện trong tu viện. Bỏ ngoài tai tất cả những tiếng ồn ao thế tục. Chỉ khao khát lắng nghe Lời Chúa. Nên đã gặp được Chúa và được biết chương trình cứu độ của Chúa.
Đường nội tâm đi trong đi trong khiêm nhường. Chúa là Đấng vô cùng khiêm nhường. Chỉ những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa. Các vị lãnh đạo uy quyền nói trên rất tự mãn. Tự mãn vì Tự mãn vì quyền uy bao trùm khắp mặt đất. Tự mãn vì dinh thự đền đài nguy nga. Tự mãn vì quần áo lụa sang trọng. Tự mãn yến tiệc linh đình. Thánh Gioan Baotixita thật khiêm nhường. Khiêm nhường trong đời sống âm thầm nơi hoang địa. Khiêm nhường trong tu viện đơn sơ. Khiêm nhường trong thực phẩm tự nhiên rất đạm bạc: chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Khiêm nhường trong trang phục giản dị bằng da thú, chỉ có mục đích che thân. Khiêm nhường xưng mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ thế đã gặp được Chúa, được Chúa tuyển chọn trở thành người mở đường cho Chúa.
Đường nội tâm đi trong chiến đấu. Không phải chiến đấu với người khác. Nhưng chiến đấu với chính mình. Cuộc chiến đấu được Thánh Gioan Tiền Hô dùng lời tiên tri Isaia diễn tả trong việc sửa chữa con đường. Con đường là tâm hồn. Sửa chữa con đường vật chất tuy khó mà dễ. Sửa chữa con đường tâm hồn khó biết bao. Tâm hồn có những núi đồi kiêu ngạo tự mãn. Để sửa chữa phải bát núi đồi xuống. Phải cắt đi một phần tâm hồn không phải dễ dàng. Tâm hồn có những khúc quanh co, để uốn nắn lại phải vạt bớt chỗ quanh co. Gọt dũa tâm hồn đau đớn lắm. Từ bỏ mình là một cuộc chiến khốc liệt. Thắng được mình khó hơn thắng vạn quân.
Đời sống ta quá lo lắng bon chen nên thiếu chiều sâu nội tâm. Hôm nay ta hãy nghe lời Thánh Gioan Tiền Hô dạy, biết ăn năn sám hối trở về với Chúa. Biết rửa sạch tội lỗi. Biết đổi mới tâm hồn bằng cuộc sống đi vào nội tâm. Tìm những giờ phút thanh vắng cô tịch để lắng nghe tiếng Chúa. Sống đơn sơ khiêm nhường để nên giống Chúa. Muốn được như thế ta phải chiến đấu để từ bỏ ý riêng. Chúa đã đến ở đầu đường. Ta chưa nhìn thấy chỉ vì con đường tâm hồn còn lồi lõm quanh co. khi nào ta cắt bỏ được hết những lồi lõm quanh co trong tâm hồn, ta sẽ được thấy Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đường nội tâm có những đặc điểm nào? Cô tịch, khiêm nhường và chiến đấu, đặc điểm nào cần thiết nhất cho đời sống bạn hiện nay?
2. Thánh Gioan Tiền Hô có sống những lời Ngài rao giảng không?
3. Con đường nội tâm của bạn còn phải sửa chữa ở những đoạn nào? Có dễ không? Tại sao?
4. Dọn đường cho Chúa---TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong những trận bão lụt tại miền Trung nước Việt, nhiều làng bị nước ngập; nhiều đoạn đường bị nước lũ cuốn đi hay bị sạt lở, xe cộ không đi lại được… Dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn xử dụng được nữa. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có đường đi, nên đành chịu bó tay.
Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ. Đường đi nối liên lạc giữa người với người.
Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật tốt.
* * * * *
Bạn thân mến, Con đường vật lý đã cần, nhưng “con đường thiêng liêng” còn cần hơn…Con đường thiêng liêng có thật tốt mới giúp ta lãnh nhận Ơn Chúa và nhất là đón nhận chính Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta chưa đón nhận được Ngài vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư hỏng.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo, luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo danh lợi, thú vui dục vọng
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì sự lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những hố sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta.. Trong Mùa vọng này, chúng ta được mời gọi hãy sửa chữa con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta cho tốt đẹp hơn để đón Chúa đến
Hãy bạt đi những thói kiêu căng tự mãn; tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đầy những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà; những đam mê, dục vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá, giả hình. Hãy san bằng những lượn sóng gồ ghề độc ác; những câu nói hành nói xấu trong cuộc sống hằng ngày.
* * * * *
Lạy Chúa,
Đổi mới một con đường bằng cách lấp đầy những hố sâu, uốn thẳng những khúc quanh thì thật dễ, dọn dẹp cho sạch sẽ một con đường thì dễ hơn… Nhưng đổi mới tâm hồn, dọn dẹp con đường thiêng liêng trong tâm hồn thì không dễ chút nào. Để chuẩn bị cho ngày Con Thiên Chúa lại đến, xin ban ơn giúp sức cho con trên con đường phấn đấu bản thân, để mỗi ngày con biết "bắt đầu lại" công việc dọn dẹp đổi mới con đường thiêng liêng trong tâm hồn con. Amen.
5. Hãy dọn đường cho Chúa---Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
Chúa đang đến! Hãy nhìn để thấy, hãy chuẩn bị tâm hồn, Chúa sẽ hoàn tất những gì người đã khởi sự nơi mỗi người chúng ta.
1. Hãy đứng lên cao và hãy quan sát, để thấy...
Dân chúng, số sót lại tại Yêrusalem thời Barúc rất bi quan vì vua quan và những người tài giỏi đã phải đi đày ở Babylon. Đất nước tiêu điều tang thương. Làm sao mà vui được khi đất nước trong hoàn cảnh như vậy!
Chính trong hoàn cảnh âu sầu đó, tiên tri loan báo cho dân một tin mừng: dân con Do Thái sẽ trở về từ khắp đông tây. Chính Thiên Chúa sẽ đem con dân Ngài trở về quê hương thoát cảnh lưu đày biệt xứ.
Vui mừng trên toàn đất nước, cả đến suối nước rừng cây cũng cùng dân vui mừng hoan hỉ, vì chính Thiên Chúa lãnh đạo dân và tình thương lan toả trên khắp đất nước.
2. Thiên Chúa đã và đang làm những điều vĩ đại
Đưa dân Do Thái trở về từ nơi lưu đày, làm sao người có thể làm được. Làm sao người Do Thái có thể mạnh, để đánh thắng nước đang bắt những người Do Thái lưu đày để giải phóng họ, khi "số sót" những người không bị lưu đày là những người hèn yếu kém tài? Thiên Chúa đã sai Đấng Kitô của Ngài tới để giải phóng dân Do Thái đang bị lưu đày trở về, đó là vua Kyrô, một vua ngoại không phải là người Do Thái, đã ban lệnh cho người Do Thái lưu đày được trở về quê hương, và được phép tái thiết đền thờ đã bị vua Babylon phá hủy (Is.45, 1). Điều con người không thể ngờ, không dám mong chờ thì Thiên Chúa vẫn làm cho con người. "Đức Chúa đã làm những điều trọng đại cho chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan"!
"Tin vào Tin Mừng, tin rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, là Thiên Chúa làm người", là điều vô cùng khó đến độ có thể nói, không ai có thể làm được. Ấy thế mà Thiên Chúa vẫn làm; Ngài đã cho chúng ta và bao người tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu.
Yêu người, cũng là những điều khó mà Thiên Chúa vẫn giúp chúng ta thực hiện. Người ta có kinh nghiệm yêu thương khó đến mức nào, khi người đó bị xúc phạm hay bị làm hại nặng nề. Con người không thể làm được, thì Thiên Chúa vẫn có thể và luôn giúp con người thực hiện.
3. Chúa đang tới
Những nhân vật quan trọng trước khi đến đâu, thường có những người tới trước để dọn đường, để chuẩn bị. Chúa sắp tới, nên Gioan Tẩy Giả đã được sai tới để chuẩn bị cho dân đón Chúa. Điều Gioan Tẩy Giả hô hào dân chúng chuẩn bị đón mừng Đấng Thiên Sai, là "hãy dọn đường cho Chúa trong tâm hồn mỗi người, hãy uốn cho thẳng những chỗ quanh co không ngay thẳng, san bằng những hố sâu ngăn cách".
Chỉ khi nào con người chuẩn bị sẵn sàng đón Chúa, con người mới có thể nhận ra Chúa mà thôi. Ngày xưa dân Bêlem không nhận ra Chúa tới với họ, nên Chúa đã phải được sinh trong chuồng chiên cừu; dân chúng không nhận ra Chúa, nên đã không tin theo và còn đóng đinh Ngài vào thập giá.
Hôm nay, tôi có nhận ra Chúa tới với tôi qua những "dấu chân" không? Tạo vật và mỗi người chúng ta, cũng có thể trở thành "dấu chân" của Chúa.
Nếu tôi không biết nhìn, không biết trèo lên nơi cao để nhìn, hoặc không biết vào nơi kín đáo để thấy, hoặc không sẵn sàng, thì không thể thấy Ngài được. Xin cho chúng ta cũng biết lên núi (cầu nguyện) để nhận ra Chúa đang tới, đang ở với chúng ta.
Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt cho bằng, hãy uốn cho ngay....! Nếu không làm vậy, không thể nhận ra Chúa được. Xin Chúa giúp chúng con chuẩn bị bằng từ bỏ chính mình, để nhận ra và đón mừng Chúa.
6. Sám hối – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Gioan con Zacaria xuất hiện rao giảng sám hối. Đây là sứ điệp tiên tri Barúc đã từng loan báo: “hãy dọn đường cho Chúa, thung lũng hãy lấp đầy, đồi núi hãy san phẳng…”. Dân Do Thái mong chờ Chúa, hàm chứa, Chúa sai vị Thiên Sai (Kitô) để giải phóng họ khỏi cảnh lưu đầy ở Babylon. Tiên tri đã loan báo phải bạt các núi đồi, san phẳng những thung lũng để dân Chúa trở về. Người ta sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa qua việc Ngài đưa dân từ nơi lưu đầy trở về quê hương. Điều này xảy ra khi vua Kyrô người Ba Tư ban hành chiếu chỉ cho dân Do Thái lưu đầy được trở về quê cha đất tổ. Dân Do Thái vui mừng. Họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ. Mỗi người đều được mời gọi trở về để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
I. Sám hối để có thể sống hạnh phúc
Sám hối hàm chứa nhận ra mình chưa sống như phải sống. Thiên Chúa vẫn yêu thương và mời gọi con người sống tốt hơn, sống như Thiên Chúa muốn. Thiên Chúa muốn tôi sống hạnh phúc. Tôi có hạnh phúc như Thiên Chúa muốn không? Tại sao tôi không hạnh phúc?
Phải chăng tôi đang quá bận tâm lo lắng về cơm ăn áo mặc? Phải chăng tôi muốn có nhiều tiền, tôi muốn có những gì cần thiết về của ăn áo mặc cho tôi và những người thân yêu trong khoảng thời gian an toàn? Phải chăng tôi muốn có sự an toàn của người phú hộ ”hãy ngủ nghỉ yên vì ngươi có nhiều của” (Lc.12, 13-21)? Phải chăng tôi lo lắng mọi sự và không biết rằng Thiên Chúa yêu tôi, Ngài sẽ cho tôi những thứ tôi thật sự cần (Mt.6, 25-34)?
Tôi có buồn bực vì không được người tôi yêu đáp trả? Tôi có thông cảm nỗi lòng của người tôi yêu, có thể họ cũng yêu ai đó mà cũng không được đáp trả? Tôi có muốn người khác yêu tôi, và tôi không cần biết những bận tâm và ao ước của người tôi yêu? Nếu tôi không chấp nhận con người của tôi, và nếu tôi không tôn trọng tự do của người khác, thì làm sao tôi có thể sống hạnh phúc đích thực?
II. Yêu thương để sống hạnh phúc
Con người tùy thuộc nhiều yếu tố để sống hạnh phúc. Có lẽ khi dân lưu đầy trở về, sẽ gặp nhiều vấn đề phát sinh: chẳng hạn vấn đề nhà cửa, cơm bánh hằng ngày, vấn đề tương giao giữa con người với nhau, vấn đề phát triển tối đa con người của mình. Chỉ cần không dung hợp hài hòa những điều trên, con người cũng không cảm thấy hạnh phúc; hoặc nữa, nếu con người muốn một điều gì “quá mức” mà không có được, họ cũng không cảm thấy hạnh phúc. Đức Phật đã đề xuất lý thuyết “diệt dục”, đừng muốn nữa, thì sẽ không khổ. Đức Yêsu dạy con người: hãy yêu thương nhau (Ga.13, 34), nghĩa là, muốn điều tốt cho người khác, vui với người vui khóc với người khóc, giúp người khác triển nở và hạnh phúc.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm tất cả vì yêu. Con người được mời gọi để trở nên giống Thiên Chúa, được mời gọi để chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa. Chính khi con người nên giống Thiên Chúa, thì con người được hạnh phúc. Con người được mời gọi để sống yêu thương như Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi con người sống yêu thương, thì con người được hạnh phúc. Cho đi thì hạnh phúc hơn là nhận. Con người hạnh phúc khi phục vụ và giúp người khác triển nở.
Hãy lấp bằng những hố sâu ngăn cách, hãy bạt những núi đồi kiêu kỳ làm ngăn trở mình sống yêu thương như Thiên Chúa. Mỗi người được mời gọi để nhìn lại chính mình, để thấy mình chưa sống như Thiên Chúa muốn, để thấy mình chưa yêu thương như Thiên Chúa mời gọi, để trở lại với Thiên Chúa là Đấng làm tất cả vì yêu thương.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Chính khi yêu thương là đã hạnh phúc! Bạn có kinh nghiệm về điều này không?
2. Yêu là làm đẹp mình, bạn có đồng ý với câu nói này không? Xin dẫn chứng.
7. Dọn đường cho Chúa đến---Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lẽ ra con người phải tìm đến với Chúa, thế mà chính Chúa tìm đến với con người. Chúa đến với chúng ta, đó là một vinh dự và là một ơn lành trọng đại. Nhưng vì không ý thức về vinh dự và ơn lành trọng đại đó nên chúng ta không thiết tha mấy với việc Chúa đến, và cũng chẳng quan tâm chờ đón Ngài.
Xin Chúa giúp chúng ta hiểu được tình thương của Ngài và tích cực đón tiếp Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Chúa biết chúng con khốn khổ nên muốn đến cứu chúng con. Vậy mà chúng con cứ muốn ở lì trong khốn khổ và không cần tới Chúa.
Chúa chính là Ðấng cứu độ duy nhất của chúng con. Vậy mà chúng con vẫn coi tiền tài, danh vọng và lạc thú của thế gian này như là cứu tinh của đời mình.
Chúa luôn chờ đón chúng con, nhưng chúng con ít khi tìm đến với Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Br 5,1-9)
Ba-rúc là thư ký của ngôn sứ Giêrêmia. Quyển sách mang tên ông cũng được viết vào thời dân Do thái đang bị lưu đày.
Trong trích đoạn này, tác giả an ủi dân bằng cách loan báo ngày giải thoát:
Ðó sẽ là một ngày đổi đời: "Hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu"
Là ngày con cái Israel sẽ được quy tụ lại và trở về Giêrusalem thân yêu: "Kìa xem con cái ngươi từ Ðông sang Tây tụ họp về"
Tất cả mọi điều tốt đẹp đó đều là việc làm của Thiên Chúa: "Thiên Chúa sẽ dẫn Israel đi trong hoan lạc, dưới ánh vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Ngài"
2. Ðáp ca (Tv 125)
Tâm tình hân hoan của người thoát cảnh lưu đày trở về quê hương. Kèm theo tâm tình hân hoan này là tâm tình cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa: "Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ... Bấy giờ trong dân ngoại người ta bàn tán: việc Chúa làm cho họ vĩ đại thay"
3. Tin Mừng (Lc 3.1-6)
Thánh Luca viết đoạn Tin Mừng này nhằm 3 ý:
a. Muốn cho thấy Chúa Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử. Bởi thế Luca liệt kê những nhân vật lịch sử đang hành quyền lúc Gioan Tẩy giả bắt đầu rao giảng. Trong số những nhân vật ấy,
Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực chính trị, như Hoàng đế Tibêriô, Tổng trấn Phonxiô Philatô, các Tiểu vương Hêrôđê, Philípphê, Lyxania.
Có những người đang nắm quyền thuộc lãnh vực tôn giáo, như các thượng tế Khanna và Caipha.
Lãnh địa mà họ đang hành quyền vừa là phần đất Do Thái (như Giuđê, Galilê), vừa là phần đất lương dân (như Iturê, Trakhônít, Abilên).
b. Khi kê khai những nhân vật đang cầm quyền vừa trong lãnh vực tôn giáo lẫn lãnh vực chính trị, vừa ở đất Do Thái vừa ở đất lương dân, Thánh Luca còn muốn nói Chúa Giêsu là Ðấng Cứu Ðộ phổ quát, chẳng những cho người Do Thái mà còn cho mọi dân tộc.
c. Và Gioan Tẩy giả chính là kẻ tiền hô dọn đường cho Ngài.
4. Bài đọc II (Pl 1,4-6.8-11)
Philipphê là giáo đoàn được Phaolô yêu thương đặc biệt, bởi họ luôn trung thành thực hiện những lời ông khuyên nhủ. Trong trích đoạn hôm nay, Phaolô khuyến khích họ gia tăng lòng mến, tiếp tục hoàn thành điều tốt đẹp Thiên Chúa đã khởi sự nơi họ, để trở nên tinh tuyền không có gì đáng trách trong ngày Chúa lại đến.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Thiên Chúa không quên dân Ngài
Không ai trong chúng ta muốn bị người ta quên lãng. Dù vậy ai trong chúng ta cũng có chút ít kinh nghiệm về cảm giác bị lãng quên.
Người ta tổ chức một cuộc họp có liên quan đến chúng ta, thế mà người ta quên mời chúng ta. Chúng ta đã đóng góp công sức rất nhiều vào một công trình nào đó, nhưng dường như chẳng ai biết đến phần đóng góp ấy. Ngày sinh nhật của chúng ta đã đến, nhưng không ai nhớ mà mừng cả. Thực ra những trường hợp vừa kể chỉ là chúng ta bị quên vì người ta sơ ý mà thôi. Vậy mà chúng ta cũng rất buồn, vì chúng ta nghĩ rằng người ta đã không nhớ đến chúng ta, người ta không coi chúng ta ra gì.
Có một loại quên khác trầm trọng hơn, đó là người ta hoàn toàn không còn nhớ đến chúng ta nữa. Chẳng còn ai quan tâm tới chúng ta, mọi người như không nhớ là chúng ta vẫn còn hiện hữu. Nghĩa là không những chúng ta bị quên mà còn bị bỏ rơi nữa. Bị cảm giác như thế này thì đau khổ hơn nhiều.
Một linh mục kia được các linh mục bạn và các giáo dân ngưỡng mộ, quý mến. Thế rồi ngài mắc một chứng bệnh nên bị buộc phải về hưu, cả quãng đời còn lại phải ngồi trên chiếc xe lăn. Ban đầu, người ta đến nhà hưu thăm ngài rất đông. Nhưng năm tháng trôi qua, dòng người tuôn đến thăm viếng ngày càng giảm bớt và cuối cùng khô cạn hẳn. Không một bức thư, không một cú điện thoại. Tuyệt đối không còn gì cả, mà chỉ toàn là cô độc, lặng thinh, trống vắng. Ngài buồn nản vô cùng, nhất là những khi nhớ lại bao nhiêu công sức mình đã nhiệt tình đổ ra để phục vụ mọi người.
Rồi một hôm có một linh mục cùng lớp ngày xưa ghé thăm. Vị linh mục về hưu mừng rỡ vô hạn. Hai người đã nói chuyện huyên thuyên với nhau rất lâu. Cuối cùng vị linh mục về hưu hỏi: "Anh nghĩ là có ai còn nhớ đến tôi không?" Vị linh mục bạn không trả lời. Mà biết trả lời thế nào đây!
Quả thực, bị quên lãng là điều chẳng tốt đẹp gì cả, trái lại còn cực kỳ đau khổ. Chúng ta cũng có thể nghĩ như thế về Chúa. Khi một điều gì xấu xảy đến cho ta thì ta nghĩ "Chúa đã quên tôi rồi". Và chúng ta nghĩ tiếp: "Chúa không còn thương tôi nữa, Ngài không chăm sóc tôi nữa".
Ðó cũng là cảm nghĩ của dân Do Thái thời ngôn sứ Ba-rúc, thế kỷ II trước công nguyên. Ðất nước họ đã rơi vào tay quân thù, thành thánh của họ bị tàn phá, Ðền thờ chỉ còn là một đống gạch vụn, con cái họ bị lưu đày. Bởi thế họ hỏi nhau "Thiên Chúa ở đâu rồi? Ngài có còn nhớ đến những lời đã hứa chăng?" Và họ kết luận: Chúa đã quên chúng ta!
Nhưng ngôn sứ Ba-rúc trấn an rằng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài, những đau thương sầu khổ của họ sẽ sớm chấm dứt, Thiên Chúa sẽ mang con cháu họ trở về quê hương. Họ cần phải dọn đường cho Ngài đến cứu họ. Những lời này có sức an ủi rất lớn lao, và dân chúng lại hồ hỡi. Quả thực, những tù nhân lưu đày đã trở về cố hương. Dù vậy, lời Chúa hứa vẫn chưa thực hiện trọn vẹn mà phải chờ tới khi Ðấng Messia đến.
Gioan Tẩy Giả là người loan báo rằng Ðấng Messia đã đến. Chúa Giêsu chính là Ðấng Messia ấy, và còn là Con Thiên Chúa. Việc Con Thiên Chúa đến với loài người là bằng chứng rõ ràng Thiên Chúa không bao giờ quên dân Ngài. Dù khi mọi người đều đã quên chúng ta, nhưng Thiên Chúa vẫn nhớ đến chúng ta. Ngài không thể nào không nhớ đến chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái yêu dấu của Ngài.
Hơn nữa, vì chúng ta thích được người khác nhớ đến, nên chúng ta cũng hãy nhớ đến người khác, nhất là nhớ đến những người đã làm điều tốt cho chúng ta và những người đã từng hy sinh cho chúng ta. Mùa Giáng sinh là thời gian nhớ đến tha nhân. Những cách thức nho nhỏ biểu lộ lòng mình nhớ đến người khác là gởi một món quà, hay một tấm thiệp, đi kèm với một lời chúc xuất phát tự tấm lòng và củng cố bằng lời cầu nguyện cho nhau. (FM)
* 2. Mở rộng lòng ra đón nhận ơn cứu độ
Ơn cứu độ là một đề tài lớn của Mùa Vọng. Hôm nay phụng vụ hô lớn cho mọi người nghe rằng: "Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng, thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi phải san cho phẳng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Chúa". Thật là những lời rất an ủi vì chúng cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương con người.
Thế nhưng có người nghĩ rằng để được Chúa yêu thương thì mình phải hoàn hảo. Nghĩ thế nên họ cố gắng luyện tập mọi nhân đức và tránh không bao giờ phạm tội. Tuy nhiên đó là dựa vào sức mình. Phần Thiên Chúa thì khó mà cứu độ những kẻ dựa vào sức mình như vậy.
Có một thầy tu kia tên là Ambrôsiô, rất đạo đức, rất thông minh, và cũng rất cần cù. Thầy được mời đi giảng tĩnh tâm nhiều nơi, và ai nấy đều kinh ngạc vì kiến thức và uy tín của Thầy. Thầy sung sướng vì đã làm chủ được mọi việc mình làm.
Nhưng đột ngột thầy ngã bệnh, không còn làm gì được nữa. Ban đầu thầy rất tuyệt vọng. Nhưng sau một thời gian, thầy chợt nghĩ phải biết cách dùng cơn bệnh của mình để hiểu được những khổ đau của người khác. Thế là thầy vui sống với cơn bệnh của mình. Khi có ai đến với thầy, thầy chia xẻ những suy nghĩ của mình và an ủi, khuyến khích họ. Kết quả là thời gian nằm bệnh của thầy còn sinh hoa quả nhiều hơn thời gian thầy còn khoẻ mạnh. Trước khi chết, Thầy viết: "Trước đây tôi đã đi theo một hướng, rồi thình lình tôi bị buộc phải đi theo một hướng khác. Nhưng nhờ đó tôi đã học biết về bản thân mình và về người khác nhiều hơn gấp bội so với những gì tôi học biết trong những năm trước khi bệnh".
Có rất nhiều hoàn cảnh lạ lùng mở lòng chúng ta ra đón nhận những điều Chúa muốn ban cho chúng ta. Khi chúng ta đến với Chúa trong tư thế của người tự mãn và hùng mạnh, thì khi đó chúng ta đẩy Ngài ra xa. Còn khi chúng ta đến với Ngài mà cảm thấy yếu đuối, nghèo nàn, thì khi đó chúng ta mời Ngài vào lòng mình. Chính những sự bất toàn của linh hồn chúng ta mở rộng lòng chúng ta đón nhận ơn ban của Chúa, vì đó là những vết thương thu hút cặp mắt nhân từ của Chúa, làm cho chúng ta đáng được Ngài thương xót và chữa lành. Chúa Giêsu đã nói: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần". (FM)
*3. Sám hối canh tân
Ðời chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang Nước sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.
Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.
Vua Sở bảo:
- Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?
Tô Tần thưa:
- Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?
Vua Sở khẩn khoản nói:
- Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.
Một đất nước mà vật giá đắt đỏ: "Củi quế gạo châu", vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.
Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Ðó chính là Gioan Tẩy Giả: "Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa sửa lối cho thẳng để Người đi" (Lc 3,4).
Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn sứ của dân tộc Do Thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời: Từ hoàng đế Tibêriô đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị thượng tế Hanna và Cai pha; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố sâu, núi đồi hiểm trở.
Gioan nhắc lại lời ngôn sứ Isaia: "Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, p hải san cho phẳng (Lc 3,5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng:
Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn tự kiêu.
Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.
Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn Cứu Ðộ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.
Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm.
Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến mang nguồn vui ơn Cứu Ðộ. Amen. (Thiên Phúc)
*4. Cách dọn đường cho Chúa ngày hôm nay
Nếu chúng ta muốn đón Chúa - dù Ngài đến bằng cách nào chăng nữa - thì chúng ta cũng phải chuẩn bị, phải dọn đường cho Ngài đến với chúng ta. Ngôn sứ Ba-rúc cũng như Gioan Tiền Hô đều nhắc lại lời Kinh Thánh dạy chúng ta cách dọn đường cho Chúa: “Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nồng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa”. Và “Hãy dọn sẵn con đường cho Ðức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng”.
Cách nói đầy hình tượng của Thánh Kinh thật đơn sơ dễ hiểu: Công việc dọn đường cho Chúa của chúng ta là chấn chỉnh đời sống, là điều chỉnh tư tưởng, lời nói, việc làm của mình. Ðó chính là ý nghĩa của từ “metanoia”, nghĩa là hoán cải, thay đổi, trở lại, không chỉ trong hành động vi phạm các nguyên tắc luân lý, mà cả trong lời nói và suy nghĩ, não trạng, trong hiểu biết của chúng ta nữa.
Ngày nay việc chuẩn bị đón Chúa trong Mùa Vọng dễ bị “nhiễu” bởi những cách chuẩn bị bề ngoài và nặng tính thương mại. Hang Ðá, Máng Cỏ đủ kiểu đủ mầu, đèn hoa rực rỡ, cờ xí tung bay... đẹp thì đẹp thật đấy, nhưng là những hình ảnh rất xa lạ với cảnh Bê-lem đích thực. Tệ hơn nữa, có không ít người lại bị nhiễm cách người đời mừng Lễ Thiên Chúa giáng trần, bằng những hàng hóa “de luxe” (=sang trọng) và những bữa tiệc linh đình, phung phí, thậm chí tội lỗi nữa.
Vì thế, mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn Kitô hữu chúng ta hãy tự kiểm điểm một cách chân thành và khiêm tốn:
Sự hiểu biết của tôi về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống Ðạo và rao giảng Tin Mừng đã tạm đủ và phù hợp với Tin Mừng và Giáo Huấn của Giáo Hội chưa? Tôi phải làm gì để có được một hiểu biết đầy đủ hơn về Thiên Chúa, về Giáo Hội, về cách sống Ðạo, về cách rao giảng Tin Mừng?
Cách suy nghĩ, cách đánh giá con người và sự việc của tôi dựa vào Phúc Âm và Giáo Huấn của Giáo Hội hay dựa vào dư luận và thói thường của thế gian?
Mọi hành động của tôi (làm ăn, buôn bán, việc đạo, việc đời...) nhằm mục đích làm đẹp lòng Thiên Chúa và sinh ích sinh lợi (vật chất, tinh thần, tâm linh) cho bản thân tôi và những người chung quanh (gia đình, bạn bè, lối xóm, khu vực... xã hội) hay chỉ nhằm thỏa mãn lòng ích kỷ và các dục vọng xấu trong tôi?
Chắc chắn khi thành thật trả lời các câu hỏi trên mỗi người, mỗi cộng đoàn chúng ta sẽ thấy “thung lũng” phải lập đầy, “núi đồi” phải san bằng, “đường quanh co” cần phải uốn ngay trong tư tưởng, lời nói, hành động thường ngày của mình.
***
Lạy Chúa, xin hãy đến với con! với gia đình, với giáo xứ và với dân tộc con! Lạy Chúa, xin hãy tu sửa lòng trí và cách sống của chúng con! (Giêrônimô Nguyễn văn Nội)
* 5. Lạc quan
Biết bao người bi quan với cuộc đời và với thế giới. Chúng ta đã nghe quá nhiều những nhận định chán chường, như: Ðời là bể khổ; đời là con đường đi vào ngõ cụt; tha nhân là hỏa ngục v.v.
Nhưng giọng điệu của Lời Chúa hôm nay khác hẳn: "Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của Ngài" (bài đọc 1); Ngay cả những người đang "nghẹn ngào ra đi gieo giống" cũng có thể mong chờ "mùa gặt mai sau khấp khởi mừng" (Ðáp ca); "Ðấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó cho tới chỗ hoàn thành" (bài đọc 2); "Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa" (Tin Mừng)
Người đời bi quan là vì họ không có đức tin. Kitô hữu thì phải lạc quan vì có đức tin. Ánh sáng đức tin giúp chúng ta giúp chúng ta thoát khỏi kiểu nhìn những biến cố một giới hạn và cục bộ, nhưng mở rộng tới tầm nhìn toàn diện lịch sử diễn tiến theo chương trình của Thiên Chúa.
* 6. Bài giải thích của Origène (+ 253)
Câu Cựu Ước được trích dẫn là của ngôn sứ Isaia: "Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Ðức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi" (Is 40,3) Con đường mà chúng ta phải dọn cho Chúa là con đường nào? Phải chăng là con đường vật chất? Thế nhưng Lời Chúa có cần đi con đường này không? Hay là phải dọn cho Chúa con đường nội tâm và thu xếp trong tâm hồn chúng ta những con đường ngay thẳng và liền lạc? Vâng, đây chính là con đường mà Ngôi Lời Thiên Chúa vạch trong tâm hồn con người để nó có khả năng đón nhận Lời Ngài.
Tâm hồn con người thật rộng rãi và dễ đi, miễn là nó thanh sạch. Bạn có muốn biết con đường ấy rộng lớn thế nào không? Hãy xem nó có thể chứa đựng biết bao hiểu biết thần linh. Chính tâm hồn con người thố lộ: "Quả chính Ngài ban cho tôi trí tri cách vật, biết được cơ cấu càn khôn và năng lực của ngũ hành, mối đầu, mút cuối và khoảng giữa các thời, đông chí hạ chí đắp đổi và thời tiết tuần hoàn, tần niên chu kỳ, vị trí tinh sao, bản tính loài vật, bản năng mãnh thú, sức mạnh tinh thần, tâm tư người thế, phân loại thảo mộc, dược tính rễ cây. Mọi điều ẩn tàng hay minh bạch, tôi đều đã biết. Phải, chính tay thợ làm ra mọi sự đã dạy dỗ tôi, sự khôn ngoan" (Kn 7,17-23). Bạn thấy đấy, tâm hồn con người đâu phải là nhỏ vì có thể chứa đựng bấy nhiêu điều ấy. Bạn phải hiểu rằng nó rộng lớn không phải về những chiều kích thể chất, mà về năng lực của tư tưởng, có thể ôm trọn những hiểu biết chân lý to lớn dường ấy.
Ðể giúp những người đơn sơ nhận biết sự to lớn của tâm hồn con người, tôi sẽ đưa ra những thí dụ quen thuộc. Tất cả mọi thành thị chúng ta đi qua, chúng ta đều giữ lại trong tâm trí: những nét đặc thù của chúng, hoàn cảnh ở các nơi, những tường lũy, những dinh thự... Tất cả đều ở lại trong tâm hồn chúng ta. Con đường mà chúng ta đã đi qua, nó cũng ở lại như vẽ như in trong trí nhớ của chúng ta. Biển cả mà chúng ta đã bơi lội, chúng ta vẫn còn giữ lại trong ý tưởng một cách thầm lặng. Tôi xin lặp lại, chẳng nhỏ bé đâu cái tâm hồn có khả năng ôm ấp biết bao điều như thế ấy! Và nếu nó không nhỏ vì có thể ôm ấp bao điều như vậy, ta có thể dọn đường cho Chúa và sửa thẳng lối lại để cho Ðấng là Lời và Khôn ngoan có thể đi. Hãy dọn đường cho Chúa bằng một cách sống đáng khen, bằng những việc làm tuyệt hảo; hãy san phẳng con đường để Ngôi Lời có thể đi mà không gặp cản trở nào. Rồi Ngài sẽ ban cho bạn được hiểu biết về những mầu nhiệm và về việc Ngài ngự đến, "kính dâng Ngài vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời" (1 Pr 4,11)
7. Chuyện minh họa ý nghĩa Mùa Vọng
Tôi đưa một người bạn mù ra sân bay. Khi đến nơi, tôi bảo người đó "Tôi đi lo chút việc. Anh đứng đây chờ tôi nhé. Ðừng đi đâu cả". Rồi tôi đi mua vé, gởi một lá thư và đọc thông báo về các chuyến bay. Khi tôi quay lại, tôi thấy người bạn mù vẫn đứng đấy. Người ta chen lấn chung quanh anh, một người phu khuân vác đây xe trước mặt anh, một đứa bé ngạc nhiên nhìn anh chăm chăm, một người bán báo rao inh ỏi trước mặt anh... Nhưng anh vẫn đứng yên, nét mặt bình thản, không chút nghi ngờ, không hề sợ sệt. Anh tin chắc tôi sẽ trở lại đón anh.
Cảnh một người mù nhắm mắt đứng yên chờ tôi trở lại khiến tôi liên tưởng tới thái độ người tín hữu phải có trong Mùa Vọng để đón chờ Chúa đến. (Willi Hoffsuemmer).
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa mời gọi con người hiệp thông với Chúa và với nhau. Ðể đáp lại lời mời gọi đó, con người phải hoán cải con tim, rồi suốt cuộc đời, phải ăn năn sám hối. Với lòng thống hối chân thành vì những lỗi lầm đã phạm, chúng ta cùng khiêm tốn nguyện xin:
1. Sứ điệp của thánh Gioan Tẩy giả được đúc kết trong lời mời gọi; / Anh em hãy sám hối / vì Nước Trời đã đến gần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình / và quyết tâm đổi mới đời sống / để xứng đáng đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh.
2. Trên thế giới ngày nay / tội ác vẫn lan tràn khắp nơi / đặc biệt là tội buôn bán phụ nữ và trẻ em / Chúng ta hiệp lời cầu xin hiệp lời cầu xin cho các nhà lãnh đạo của hết thảy mọi quốc gia / tìm được những biện pháp thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng ghê tởm này.
3. Ngày nay có một số người hầu như mất hết ý thức về tội lỗi / họ coi việc phạm tội là bình thường / vì lương tâm họ đã trở nên xơ cứng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn soi sáng / để mọi người biết cố gắng lánh xa tội lỗi / và tích cực làm nhiều việc thiện.
4. Trong một thế giới còn nhiều bạo lực / bất công / hận thù / chia rẽ / cần có những người dám xả thân / mang sứ điệp yêu thương của Chúa đến cho mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những chứng nhân của Thiên Chúa là tình yêu / bằng chính đời sống bác ái yêu thương của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha nhân hậu từ bi, để hết thảy mọi người có thể nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa, chúng con phải sống gương mẫu trong đời sống tin cậy mến. Vì thế, xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con biết sống theo lời dạy dỗ của Chúa Giêsu Kitô, Con Chúa, là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy hướng lòng về Cha trên trời và tha thiết cầu xin Ngài khấng cho Con của Ngài đến thăm viếng chúng ta.
Trước lúc Rước Lễ: Chúa Giêsu sắp đến với tâm hồn chúng ta bằng chính Mình và Máu Thánh Ngài. Chúng ta hãy dọn con đường tâm hồn mình cho ngay thẳng và thanh sạch để đón rước Ngài.
VII. Giải tán
Ðáp lại lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy giả, tuần này chúng ta hãy dọn dẹp con đường tâm hồn của mình: lấp đầy những chỗ trũng, san bằng những mô cao, uốn thẳng những quanh co. Có như thế chúng ta mới có thể lãnh nhận ơn cứu độ Chúa ban.
8. Dọn đường cho Chúa đến--- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng Giáo Hội dạy chúng ta hãy trông đợi chúa đến. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày kết thúc vũ trụ hay ngày kết thúc của đời mình. Trong ngày đó, chúng ta đừng sợ, hãy đứng dậy và ngẩng cao đầu lên vì ơn cứu rỗi của chúng ta đã gần đến.
Chúa nhật thứ hai Mùa Vọng hôm nay, thêm một bước nữa, Giáo hội dạy chúng ta hãy dọn đường để đón tiếp Chúa. Trông đợi và dọn đường là hai sự việc móc nối với nhau, để việc Chúa đến sẽ gây một chú ý đặc biệt nơi chúng ta.
Ra vào phải có cửa, qua lại phải có đường là lẽ cố nhiên. Nhưng đối với Chúa đường lối Ngài đến với chúng ta có điều hơi khác. Chúa đến với chúng ta bằng con đường thiêng liêng, hay nói cách khác, con đường Chúa đến phải là con đường lòng của chng ta. Tiên tri Barúc cũng như Gioan Tiền hô đều nhắc lại lời Kinh thánh dạy chúng ta cách dọn đường cho Chúa: “Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nỗng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Israel tiến bước an toàn dưới ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa”. Và “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Br 5,1-9
Đối với cộng đoàn Do thái tha phương, Giêrusalem tượng trưng cho thành đô lý tưởng, nơi qui tụ những người lưu lạc khắp nơi dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
Tuy còn sống trong cảnh lưu đầy xa quê hương, tiên tri Barúc, thư ký của tiên tri Giêrêmia, đã loan báo tin mừng cho dân và phác họa ra một quang cảnh chứa chan hy vọng và phấn khởi: đã đến lúc Thiên Chúa chấm dứt cảnh lưu đầy đau thương, để đưa dân trở về quê hương trong danh dự và vinh quang:”Con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về, chúng hớn hở vui mừng, chúng được kiệu vinh quang rực rỡ khác chi một ngai vàng”.
Thiên Chúa sẽ thay đổi sống phận Israel. Do đó, Israel sẽ là dân mới có thành Giêrusalem mới. Thật ra quang cảnh này chỉ thành hiện thực trong nước Chúa Kitô thôi.
+ Bài đọc 2: Pl 1,4-6.8-11.
Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô viết thư gửi cho tín hữu Phlilipphê nhiều điều tương tự như ngài đã viết cho tín hữu Thessalonica tuần trước. Ngài khen ngợi lòng quảng đại của tín hữu Philipphê, đồng thời cũng nhắc nhở cho họ hãy tỏ ra xứng đáng đón tiếp Đức Kitô
vào ngày Người trở lại. Ngài khuyên họ hãy gia tăng tình bác ái, sống tinh tuyền và đừng để có gì đáng trách:”Tôi cũng xin cho anh chị em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm” (Pl 1,10).
Vì thế, cả đời người Kitô hữu là ngóng đợi ngày Chúa quang lâm. Cả đời người Kitô hữu là chuẩn bị, là dọn dường cho Chúa đến. Đấy chính là những điều mà Giáo hội mượn lời thánh Tông đồ để khuyên chúng ta.
+ Bài Tin mừng: Lc 3,1- 6
Khi nhắc lại cho chúng ta hoàn cảnh lịch sử trong đó Đức Giêsu giáng sinh, thánh Luca cho thấy Đức Giêsu là một nhân vật có thật trong lịch sử, một Đấng Cứu thế phổ quát mà Thiên Chúa hứa ban từ xưa và dân Israel đã chờ đợi qua muôn thế hệ, đã đến. Thánh Gioan Tẩy giả chính là kẻ tiền hô dọn đường cho Ngài.
Thánh Gioan phải mượn lời tiên tri Isaia mà lớn tiếng rao giảng và kêu gọi mọi người tỏ lòng sám hối bằng cách chấp nhận được rửa trong dòng sông Giođan để đợi chờ Chúa Cứu thế, vì Ngài sắp xuất hiện.
Sứ mạng mà Gioan phải thực hiện là “Hãy dọn con đường cho Đức Chúa; sửa lối cho thẳng để Người đi; mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; mọi núi đồi phải bạt cho thấp; quanh co phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho bằng”. Chúng ta phải sống theo lời thánh Gioan khuyên bảo, để có thể đón Đấng Cứu thế đến với chúng ta hôm nay.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Hãy dọn đượng cho Chúa đến
I. NHU CẦU DỌN ĐƯỜNG
Trên thế giới ngày nay có rất nhiều con đường để di chuyển vừa dài vừa rộng lại đẹp đẽ
tối tân, để giúp cho việc di chuyển được nhanh chóng, tiết kiệm được thời giờ và tiền của. Nhưng từ những con đường rộng rãi thênh thang ấy cũng cần có những con đường nhỏ để dẫn tới từng ngôi nhà. Nhà nào mà không có đường vào? Vì thế, trước khi xây nhà, người ta phải tính chuyện mở con đường vào nhà trước, nếu không có đường vào, không ai xây nhà cả.
Sách có chữ rằng:”Thùy năng xuất tất do hộ, nhi bất hành tất do đạo”: ai ra vào phải qua cửa, cũng như đi lại tất phải có đường. Có đường đi là một điều cần, không có đường đi thì việc di chuyển bị bế tắc. Đường đi thì có muôn ngàn lối và cần phải sửa sang cho việc di chuyển được dễ dàng. Chúng ta cũng đã có con đường đến với Chúa và Chúa đến với chúng ta, nhưng con đường đó nhiều khi bị bỏ hoang, gây khó khăn cho việc di chuyển nên cần phải sửa sang lại cho việc di chuyển được dễ dàng.
Chúa nhật tuần trước chúng ta đã nghe Giáo hội dạy phải ngửa mặt lên để mong chờ Chúa. Chúa nhật hôm nay Giáo hội lại dạy chúng ta phải dọn đường để đón tiếp Ngài. Mong chờ và dọn đường là hai sự việc móc nối với nhau, để việc Chúa đến gây một sự chú ý đặc biệt nơi chúng ta. Bài Tin mừng hôm nay hô hào chúng ta dọn đường cho Chúa, tất nhiên dạy chúng ta phải dọn lòng để đón rước Chúa:”Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi: Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề, hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
1. Dọn đường cho vua chúa đến
Gioan là sứ giả được Thiên Chúa sai đến hô hào cho dân chúng dọn đường cho Chúa đến.
Sau một thời gian tôi luyện bằng đời sống khắc khổ trong sa mạc, ông đã xuất hiện với một sứ điệp quả quyết từ Thiên Chúa lôi cuốn quần chúng đông đảo đến thung lũng Giođan, để nghe giảng đạo và tiếp nhận lễ rửa như một dấu hiệu và dấu chứng cho lòng ăn năn. Bản chất của chức vụ ông là làm ứng nghiệm lời báo trước của tiên tri Isaia “Tiếng kêu trong hoang địa”, người được Thiên Chúa sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu thế đến.
Sự chuẩn bị này có tính cách Đông phương, khi một vị vua định đi tuần tra một vùng nào trong vương quốc mình thì sai một vị quan đi trước để hô hào dân chúng sửa sang đường sá. Chỗ trũng phải lấp đầy, chỗ cao phải bạt xuống, đường quanh co phải nắn lại cho thẳng, đường gồ ghề phải sửa cho êm. Như vậy, muốn cho người ta sẵn sàng tiếp nhận Chúa Kitô, những trở ngại đạo đức cần phải dẹp sạch, phải sám hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Luca đã kết thúc câu trích Isaia rằng:”Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” để phù hợp với tính cách phổ thông của Tin mừng.
2. Lời kêu gọi vẫn còn tính thời sự
Đức Giêsu đã đến trần gian thực hiện công cuộc cứu độ loài người từ 2000 năm nay rồi. Vậy phải chăng lời loan báo của Gioan Tẩy giả đã trở thành quá cũ kỹ với tín hữu chúng ta ngày hôm nay chăng? Vâng, quả thực Đức Kitô đã đến và làm mọi sự để cứu độ con người và lẽ ra với sự hy sinh tuyệt vời của Ngài, nhân loại đã được giải thoát mọi tội lỗi để sống trong yêu thương và hạnh phúc. Thế nhưng, chính sự tôn trọng phẩm giá, tự do và ý thức của con người nên Thiên Chúa đã không dùng bất cứ một hình thức cưỡng chế nào để bắt con người phải chấp nhận chân lý của Ngài. Nên thực tế là sự lầm lạc, tội lỗi và đau khổ vẫn còn tồn tại.
Gioan Tẩy giả đến rao giảng sự thống hối bằng việc chịu phép rửa để xin ơn tha tội. Chịu phép rửa là nói lên quyết tâm sám hối, thay đổi cuộc sống. Sám hối hay hoán cải mà chúng ta nói ở đây (Metanoia: sự trở lại) là một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học thuyết khác, có khi lại còn không hoàn hảo bằng những học thuyết đó. Nhưng đúng ra là ta “quay trở lại với Chúa” cùng với những hậu quả luân lý và xã hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng. Thái độ chế ngự kẻ khác (Quesson).
II. NHỮNG CON ĐƯỜNG TRẦN THẾ
1. Những con đường tinh thần
Thánh Gioan không nhọc công hô hào sửa đường cho vua chúa - việc đó thuộc về xã hội – mà muốn chúng ta chú trọng vào con đường thiêng liêng: những con đường ấy ở ngay trong lòng chúng ta, những con đường ấy bị bom đạm của tội lỗi làm hư hỏng, đã trở nên con đường kinh hoàng mà thánh Matcô đã mô tả:”Từ lòng con người, phát xuất những ý định xấu, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”(Mc 7,21-22).
Người Pharisêu và Saducêu cho rằng chỉ cần giữ Lề luật là đủ, là hết bổn phận với Thiên Chúa. Gioan khẳng định rằng điều cần thiết là cần phải có sự đổi mới tâm hồn:”Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp hố sâu (tội lỗi), hãy bạt núi đồi, con đường gồ ghề hãy san cho bằng”.
Dọn đường có nghĩa là sám hối canh tân. Muốn sám hối cần phải biết mình, biết những sở trường sở đoản của mình. Một mình mình biết, một mình mình hay là một điều tốt, nhưng chưa đủ, còn cần những lời của người khác thức tỉnh, con người mới thoát ra khỏi cảnh u mê lầm lạc. Lời thánh Gioan là những nhắc nhở mà Giáo hội muốn chúng ta thực hiện trong Mùa Vọng này.
Truyện: Tô Tần và vua nước Sở.
Đời Chiến quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang nước Sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.
Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.
Vua Sở bảo:
- Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quí như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. May tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?
Tô Tần thưa:
Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?
Vua Sở khẩn khoản nài:
- Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.
Một nước mà vật giá đắt đỏ:”Củi quế gạo châu”, vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.
(Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm C, tr 13).
Đọc xong câu truyện nhà du thuyết Tô Tần với vua nước Sở, chúng ta cũng phải suy nghĩ về hoàn cảnh của chng ta: có cái gì nhắc nhở chúng ta trong dịp mừng lễ Giáng sinh không? Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc nhở chúng ta sám hối canh tân. Đó chính là Gioan Tẩy giả”(Lc 3,4).
2. Những con đường phải sửa.
Nghe theo lời kêu gọi của thánh Gioan, chúng ta hãy dùng Mùa Vọng này như là bầu khí thuận tiện để sám hối và quay về với Chúa bằng cách:
a) Hy lấp đầy những hố sâu.
Hố sâu hay lũng sâu bao giờ cũng tượng trưng cho hố thẳm của mọi nguy hiểm, mọi bất trắc. Hố sâu tượng trưng cho túi tham vô đáy của con người. Vì gian tham, con người có thể thực hiện được mọi tội ác để vơ vét. Tưởng rằng càng vơ vét nhiều, mình càng giầu, càng đầy. Nhưng oái oăm thay, mình lại cng thấy cuộc đời trống rỗng. Hành động “lấp đầy” theo nghĩa siêu nhiên ở đây là lấp đầy những hố thẳm mênh mông (những khát vọng vô biên) của con người bằng đạo đức, bằng công chính, bằng chính Thiên Chúa, là Đấng Cội nguồn sự sống, là chính Chân, Thiện, Mỹ.
Truyện: Lòng tham vô đáy.
Người Trung hoa có câu truyện ngụ ngôn nói lên được cái dục vọng thầm kín của con người muôn thuở:
Một người bị giam ở địa ngục, sắp được đi đầu thai. Anh ta tâu với Diêm Vương:
- Như quả thật Đại Vương muốn cho tôi trở về dương thế, thì xin cho tôi được mấy đặc ân.
Diêm Vương hỏi:
- Ngươi xin điều chi?
Anh ta đáp:
- Tôi xin đầu thai làm con một vị tể tướng, làm cha một vị trạng nguyên. Tôi xin được một ngôi nhà ở giữa một khu đất vạn mẫu, có ao thả cá, có cây trái đủ thứ. Tôi xin có một người vợ tuyệt sắc, nhiều tì thiếp diễm lệ, tất cả đều chung tình ngoan ngoãn chiều chuộng tơi. Tôi xin được châu báu chất đầy phòng, lúa thóc đầy lẫm, tiền bạc đầy rương. Tôi xin được làm một vị quan công khanh, suốt đời vinh hoa phú quí, sống lâu trăm tuổi. Chỉ bấy nhiêu thôi.
Diêm Vương đáp:
- Trần thế mà có được người như vậy, thì ta đây đã đầu thai thế cho ngươi rồi.
(Nguyễn văn Y, Có chí thì nên, tr 100-102)
b) Hãy bạt núi đồi xuống.
Đồi núi đây là tính kiêu ngạo. Chúng ta thường nghe câu: “Tam sơn tứ hải nhất phần điền”, nhưng đọc Thánh kinh không nghe nói Chúa đã dựng nên đồi núi lúc nào cả. Có người đoán: có lẽ đồi núi đã mọc lên sau ngày nguyên tổ Adong Evà phạm tội kiêu ngạo, do đó kiêu ngạo lại là của gia truyền.
Con người mãi mãi chỉ là tạo vật, không phải là “Chúa”. Phải biết mình là con người bất toàn như người ta nói:”Nhân vô thập toàn” nên phải ý thức sự bất toàn và giới hạn của mình, hay đúng hơn, “biết mình để đừng tự cao tự đại, để cải quá tự tân”.
Truyện: Giỏi gì đâu.
Trần-nghiêu-Tử làm quan tiết độ sứ đời Tống, là người tài bắn, thiên hạ khen phục, Nghiêu Tử cũng lấy làm kiêu căng tự đắc.
Nghiêu Tử thường bắn ở trong vườn nhà mình. Một hôm có ông lão bán dầu đi qua, thấy Nghiêu Tử bắn, đặt gánh xuống, ngấp nghé đứng xem. Ông lo thấy Nghiêu Tử bắn 10 phát trúng 7, 8 thì hơi gật gù và mỉm miệng cười.
Nghiêu Tử thấy thế, gọi vào bảo:
- Nhà ngươi cũng biết bắn chứ? Người cười ta bắn không được phải không?
ông lão đáp:
- Giỏi gì đâu, chẳng qua là quen tay đấy thôi.
Nghiêu Tử giận, nói:
- A, nhà ngươi dám khinh ta không bắn giỏi có phải không?
Ông lão bán dầu đáp:
- Khinh hay không ngài cứ xem, tôi rót dầu đây thì biết !
Nói xong, ông lão lấy ngay cái bầu đặt xuống đất, trên miệng bầu để một đồng tiền rồi từ từ rót dầu qua lỗ mà không nhiễu một tí dầu nào ra lỗ đồng tiền cả.
Rót đoạn, ông lão ngẩng mặt lên Trần nghiêu Tử:
- Như tôi đây cũng chẳng giỏi gì đâu, chỉ quen tay đó thôi.
Nghiêu Tử cười, khen phải và từ đó không lên mặt là tay bắn giỏi nữa.
(Thái Bạch, Đông tây kim cổ tinh hoa, 1971, tr 84-85)
c) Đường con queo phải uốn cho thẳng.
Cong queo đây là thiếu ngay thẳng. Nhiều người suốt đời đã sống bằng mưu mô, bằng thủ đoạn, chỉ cốt mưu lợi cho mình, bất chấp tội phúc và sự thiệt hại cho người khác.
Đường quanh co đây còn có thể là gian dối, tính tự phụ, kiêu căng, thích khoe khoang, coi mình hơn kẻ khác, coi khinh người ta. Vì thế, phải tập sống lương thiện, sống hồn nhiên tự tại theo “nhân chi sơ tính bản thiện” như trẻ thơ (x. Mt 18,3) mới có thể vào Nước trời.
Truyện: Bán cam thối.
Lưu Cơ một danh sĩ nước Tầu về đời nhà Minh có viết một bài văn kể lại câu chuyện sau đây. Chuyện kể rằng:
Ở Hàng Châu (bây giờ là tỉnh Chiết giang) có người bán các thứ hoa quả, anh ta để dành cam rất khéo, để lâu không ủng, vỏ vẫn đỏ tươi, trông đẹp như vàng ngọc. Anh đem ra chợ bán rất đắt người người tranh nhau mua.
Ta thấy vậy, cũng lại mua một quả đem về. Nhưng bóc ra thì hơi xông lên mũi như xác bông nát. Vì thế, ta phải ra chợ tìm người bán cam, trách rằng:
- Anh bán cam cho người ta để làm cúng lễ, để đi khách khứa, hay là chỉ làm cho choáng bề ngồi để đánh lừa người ta. Tệ thật, sao anh làm người mà giả dối như vậy?
Người bán cam cười đáp:
- Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán, thiên hạ mua chẳng ai nói gì chi nhiều. Ông ơi, người đời giả dối nhiều, há phải một mình thằng tôi đâu. Sao ông trách tôi mà không nghĩ. Kìa người đeo hổ phù ngồi da cọp, hùng dũng trông thật đáng quan võ, nhưng xét sự thật được bằng Tôn Tẫn, Ngô Khởi hay không? Người đội mũ cao, thắt đai dài, đường hoàng ra vẻ quan văn lắm, nhưng xét sự thật hỏi được như Y Doãn, Cao Dao hay không? Than ôi, giặc giã không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ mục nát không biết sửa, ngồi rồi ăn lương không biết xấu. Thế mà lúc ở công đường ăn của quí, uống rượu ngon, đi xe ngựa, trông thật oai vệ, thật vô cùng hách dịch. Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc mà trong như bông nát là gì? Sao ông không xét những người ấy lại chỉ chú ý vào quả cam của tôi.
Ta nghe nói, nín lặng không trả lời sao được, và nghĩ người ấy có giọng khôi hài nên có cảm tưởng:
- Dễ chừng anh ta ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục, mới nhận chuyện bán cam để dạy mình đây chăng? (Thái Bạch, Đông tây cổ kim tinh hoa, tr 194-195).
d) Đường lồi lõm san cho bằng
Đường lồi lõm đây là những tính xấu như cáu kỉnh, nóng nảy, nhẹ dạ, gây gỗ, nghi kỵ, ghen tương, cố chấp, vị kỷ, giận hờn, bất hòa. Phải nỗ lực chỉnh đốn và sửa sang lại những chỗ “lồi lõm”. Chính là những tính mê nết xấu lớn nhỏ, những sỏi đá làm cho lời Chúa không thể đâm chồi nảy lộc và đâm rễ sâu vào trong tâm hồn.
III. MÙA VỌNG VÀ VIỆC DỌN ĐƯỜNG
Đây là giờ phút phải lựa chọn và quyết định, phải đắm mình vào tầm sâu của nội tâm sám hối, để tính toán việc loại bỏ đi những chướng ngại cản đường Chúa tới giải phóng.
Cái đáng ăn thua là được trở thành một thọ tạo mới, trở nên những con người đã được tôi luyện và can trường…
Vậy để cho Thiên Chúa có thể đi đến được, ta hãy khai mở những con đường thênh thang của tâm hồn rộng mở và chan hoà yêu thương, hãy đạp đổ những bức tường cách ngăn kỳ thị và phân biệt chủng tộc, hãy cất đi những rào chắn của tư lợi nhỏ nhen, hãy đập tan những xiềng xích bất công và bất bình đẳng mà người ta đang la ó đả đảo, hãy để cho lưỡi gươm Lời Chúa được thảnh thơi tung hoành, hãy thức dậy và đứng thẳng người lên (Fiches dominicales, C, tr 11).
1. Dọn đường mừng lễ Giáng sinh
Hôm nay bước vào tuần lễ thứ hai của Mùa Vọng, phần đông thế giới đang chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, các cửa tiệm tràn ngập những thiệp Giáng sinh, cây thông Giáng sinh, bao nhiêu quà Giáng sinh, món ăn, quần áo, đồ chơi Giáng sinh. Ở Việt nam chúng ta tuy còn nghèo khó nhưng bầu khí Giáng sinh đã tới, mọi người đang nô nức mua sắm, dọn dẹp nhà cửa, nhạc Giáng sinh đã vang rộn khắp nơi, lòng người đã thấy rạo rực.
Nhưng phải dọn mừng lễ Giáng sinh thế nào cho xứng đáng, đúng theo Tin mừng của Chúa hôm nay mà thánh Gioan đã hô hào:”Hãy dọn đường cho Chúa đến”. Con đường lòng của chúng ta đã tốt chưa? Và lòng chúng ta đã trở nên thửa đất mầu mỡ để đón ơn Chúa chưa? Hay lòng chúng ta lại trở nên một sa mạc cằn cỗi?
Nếu biết biến sa mạc thành đất tốt, có sự sống, con người phải mất sức, mất của, và chấp nhận nhiều khó khăn. Cũng vậy, dọn đường tâm hồn là chấp nhận biến đổi sa mạc của cõi lòng thành miền đất trù phú, miền đất thắm đẫm ơn Chúa. Bởi vậy, người ta phải chấp nhận sự hao mòn sức lực, chấp nhận tự gọt giũa chính mình, chấp nhận nhiều khó khăn khác nhau. Vì biến đổi như thế là sám hối. Và sám hối thật lòng đòi phải có dấn thân thực sự để tự mình từ nay dám cắt bỏ một thói quen, một đam mê, một tật xấu… để lòng mình biết yêu hơn, khiêm nhường hơn, sống phục vụ hơn, vị tha hơn…
Chỉ khi nào dám chối từ những rườm rà chung quanh mình, con người ta mới dám mong ước thuộc về Thiên Chúa. Thái độ sám hối tận căn ấy, mới là sám hối đúng nghĩa. Điều đó không dễ chút nào, vì nó làm ta đau đớn, xót xa, mất mát. Chỉ có sám hối trọn vẹn mới sống đúng nghĩa hai chữ “dọn đường”. Chúa cần một thái độ dọn đường một cách tự nguyện, dứt khoát như thế, để Ngài đi vào tâm hồn, và tâm hồn có chỗ chứa đựng ơn thánh của Ngài. Khi tâm hồn có Chúa, tâm hồn không còn àl sa mạc và cũng chẳng hề sợ sa mạc hĩa, nếu biết giữ mọi ơn Chúa trong tâm hồn mình bằng một đời sống tốt lành, vươn lên trong sự thánh thiện (JKN).
2. Dọn đường chờ đợi Chúa đến
Mùa Vọng là thời gian chờ đợi Chúa đến, Chúa sẽ đến lần thứ hai trong vinh quang của Ngài, nhưng Ngài cũng âm thầm đến gọi chúng ta ra về với Ngài. Cũng có thể nói Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn chúng ta đến giờ chết. Đó là thời gian để chúng ta hồi tâm và chuẩn bị. Đây là thời gian để tự vấn chính mình: chúng ta có sẵn sàng đón tiếp Chúa Giêsu vào giờ chết không? Lúc này chúng ta đã sẵn sàng chưa?
Truyện: Sẵn sàng về với Chúa.
Vài năm trước đây, tạp chí This Week có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé 17 tuổi người Ha lan đã từng trốn khỏi trại tập trung Đức quốc xã, nhưng đã bị bắt lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành hình, cậu đã gửi cho bố cậu lá thư sau đây. Xin trích lại:”Bố thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho bố lá thư này, nhưng con vẫn phải cho bố hay rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo léo bảo cho mẹ biết dùm con… Chẳng bao lâu nữa, lúc đúng 5 giờ, điều đó sẽ xẩy đến cho con… chỉ một chốc thôi thế là con sẽ về với Chúa, Nói cho cùng đấy có phải là cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi không?...Con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ cái chết… Con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn bố nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng hết tội lỗi, và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản… Ký êtn: “Kless”.
3. Dọn đường còn là làm chứng cho Chúa
Mừng lễ Giáng sinh là chúng ta kỷ niệm việc Chúa đã xuống trần và sẽ còn đến nữa. Chúng ta có trách nhiệm làm cho người biết Chúa để cùng mừng lễ Giáng sinh. Nếu thánh Gioan Tiền hô đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói, bằng việc làm và bằng chính đời sống của Ngài. Ngày hôm nay cũng vậy, chúng ta phải làm chứng cho Chúa trong môi trường của chúng ta. Nhưng muốn cho lời chứng hay bằng chứng của chúng ta có hiệu quả, trước hết chúng ta phải có đời sống xứng đáng, đoạn tuyệt với tội lỗi và những tính mê nết xấu và thể hiện một đời sống bác ái yêu thương. Đó là những việc chúng ta cần làm để chuẩn bị mừng Chúa Giáng sinh.
9. Hãy dọn sẵn con đường--- Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Hàng năm, cứ vào Mùa Vọng, Giáo Hội lại giới thiệu cho chúng ta một nhân chứng sống động là thánh Gio-an Tiền Hô, để thúc đẩy chúng ta bắt chước thái độ của ngài, trước sứ điệp cứu độ. Có lẽ đôi khi chúng ta có cái nhìn "hơi hà tiện" đối với thánh Gio-an, và cho rằng đời ngài chỉ là thứ "quét dọn mở đường". Dĩ nhiên đó là hình ảnh trước Chúa Cứu Thế. Nhưng thật ra danh hiệu và sự nghiệp của ngài gắn liền với chương trình cứu chuộc của Chúa Giêsu, thậm chí không thể nào nói đến Chúa Giêsu mà không nhắc đến vị Tiền Hô của Người. Chính phụng vụ đã để cả Mùa Vọng nhắc đến ngài.
Ngài là con hiếm muộn duy nhất của ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Ngay từ trong lòng mẹ ngài đã được thánh hiến cho Thiên Chúa, nghĩa là được Thiên Chúa cho khỏi tội tổ tông khi còn trong lòng mẹ và được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Lớn lên, ngài sống một cuộc đời khắc khổ: vào trong "hoang địa" tu thân, ăn châu chấu với mật ong rừng và mặc áo nhặm. Tới tuổi trưởng thành, ngài được Thiên Chúa thúc đẩy đi hành nghề ngôn sứ: vào năm 15, thời hoàng đế Ti-bê-ri-ô là vị vua uy hùng lúc ấy. Trong bối cảnh lịch sử đó còn có tổng trấn Phi-la-tô, vua Hê-rô-đê, quan Phi-líp-phê, tiểu vương Ly-xa-ni-a làm mốc thời gian. Về phần tôn giáo có thượng đế Kha-nan và Cai-pha làm nhân chứng cho ngài.
Ngài xuất hiện trong lịch sử Do Thái sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ngài hành nghề khắp vùng sông Gio-đan. Dân chúng từ khắp Giê-ru-sa-lem và cả miền Giu-đê tuôn đến với ngài. Ngài rao giảng kêu gọi thống hối và làm phép rửa cũng nhắm tới sự thống hối. Ngài tha thiết kêu gọi dân chúng trở về với Chúa bằng cách đoạn tuyệt với tội lỗi.
Sứ mạng của ngài là dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, nên ngài kêu gọi mọi người hãy thay đổi đời sống: "Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng".
Cụ thể, bạt núi đồi là hãy dẹp bỏ tính kiêu ngạo, khoe khoang, tự hào, tự phụ, khoác lác ba hoa. Lấp mọi hố sâu là hãy điều chỉnh lại cho tròn đầy những thiếu sót bổn phận đối với Chúa, đối với người, đối với gia đình và với chính bản thân mình. Uốn nắn lại những quanh co, cong queo là hãy sửa chữa lại những gian dối, giả hình, ăn không nói có, thay trắng đổi đen, thay đen đổi trắng, ngôn hành bất nhất, lời nói và việc làm không đi đôi với nhau. San phẳng những gồ ghề lồi lõm là từ bỏ những tính khó nết, khó sống, chẳng sống được với ai và cũng chẳng ai sống được với mình v.v...
Thánh Gio-an đã lãnh sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho ngài trong một khung cảnh của lịch sử thời ngài, và làm tròn sứ mạng là chuẩn bị tâm hồn mọi người đón Chúa Cứu Thế đến. Chúng ta cũng lãnh nhận sứ mạng Ki-tô hữu trong thời đại chúng ta. Sứ mạng của chúng ta vẫn là dọn đường cho mọi người được thấy, được biết ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thánh Gio-an đã dạy cho người thời ngài: bạt đồi lấp hố, uốn nắn cong queo, san bằng lồi lõm để dọn đường cho Chúa. Chúng ta hôm nay cũng phải dọn đường cho Chúa như thế. Đâu là những đồi cao, những hố sâu, những cong queo, những lồi lõm gồ ghề nơi bản thân, trong gia đình, trong cộng đoàn, trong xã hội. Và chúng ta phải quyết tâm sửa chữa những sai lầm, những thiếu sót ấy.
Mùa Vọng là dịp nhắc nhở chúng ta hãy xét mình, kiểm điểm đời sống qua lời kêu gọi của thánh Gio-an Tiền Hô, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm tốt đẹp hơn. Mỗi người chúng ta đều có một giấc mơ về một thế giới tốt đẹp hơn, đầy yêu thương và an hòa. Nhưng phương thế duy nhất để xây dựng một thế giới tốt đẹp là xây dựng con người chúng ta tốt đẹp hơn, thiện hảo hơn.
Đối với chúng ta hôm nay, ơn kêu gọi của chúng ta cũng là làm chứng cho Chúa. Thánh Gio-an Tiền hô đã làm chứng cho Chúa trong thời đại của ngài bằng lời nói, bằng việc làm và bằng chính đời sống của ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải làm chứng cho Chúa trong môi trường chúng ta sống. Nhưng muốn cho lời chứng hay bằng chứng của chúng ta có hiệu quả, trước hết chúng ta phải có một đời sống xứng đáng, đoạn tuyệt với tội lỗi và những tính mê nết xấu và thể hiện một đời sống bác ái yêu thương. Đó là những việc chúng ta cần làm để chuẩn bị mừng Chúa giáng sinh.
Tóm lại, dù chúng ta sống trong hoàn cảnh nào thì lời Chúa hôm nay vẫn là một lời khẩn thiết. Xin mỗi người hãy lắng nghe và thực thi để kinh nghiệm được ơn lộc của Mùa Vọng năm nay như cách đây hai ngàn năm, những người Do Thái đã nghe lời Gio-an Tiền Hô. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta đều hăng say nhiệt tình thực hiện lời Chúa hôm nay để đổi mới cuộc đời mình, vừa chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh vừa lãnh nhận được nhiều hồng ân của Chúa.
10. Gioan Tẩy Giả rao giảng – Lm. PX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Giai đoạn đầu của công cuộc rao giảng của Đức Giêsu được khoanh vùng rõ ràng. Giai đoạn này gồm một loạt các dấu chỉ loan báo và một khối tường thuật các việc Đức Giêsu làm và các lời Người nói tại Galilê. Kể từ 9,51, Đức Giêsu mới đi ngang qua Samari mà tiến lên Giêrusalem.
Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại cái chặng của Tin Mừng Máccô: Gioan Tẩy Giả (3,1-20), phép Rửa và việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), Cám dỗ (4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ, ngài ghép gia phả của Đức Giêsu vào (3,23-28).
Đoạn 3,1-6 là phần mở chính thức củaTin Mừng Luca.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (3,1-2a);
2) Hoạt động của Gioan Tẩy Giả (3,2b-3);
3) Lời bình của tác giả theo Is40,3-5 (3,4-6).
3.- Vài điểm chú giải
- Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô (1): Hai câu đầu của đoạn văn khiến ta vừa nhớ đến các lời tựa của các sử gia Hy Lạp (Thucydide, Polybe …) vừa nhớ đến mở đầu sách Giêrêmia(1,1-2 LXX). Điều này gợi ý là tác giả Lc có ý viết trong tư cách sử gia, và cũng gợi lên ý nghĩa thánh thiêng của biến cố ngài khám phá ra nơi biến cố ông tường thuật. Ngài nêu lên nhiều điểm quy chiếu liên kết biến cố này với lịch sử thời ngài: khi lần lượt kể ra hoàng đế Rôma, tổng trấn của hoàng đế, ba tiểu vương và hai thượng tế,ngài nêu bật tính long trọng đặc biệt của sự kiện.
Là chúa tể thế giới thời đó, hoàng đế Tibêriô kế vị hoàng đế Augúttô ngày 19-8-14 kỷ nguyên chúng ta (năm 767 của Rôma). Vậy “năm thứ mười lăm” có thể chạy từ 19-8-28 đến 18-8-29. Nhưng đa số các nhà phê bình hiện nay cho rằng tác giả Lc tính các năm trị vì của hoàng đế theo kiểu người Xyri, mà với họ, năm dân sự bắt đầu vào ngày 1-10. Như thế, họ xác định năm đầu của triều Tibêriô đi từ 19-8 đến 30-9-14, còn năm thứ mười lăm thì đi từ ngày 1-10-27 đến 30-9-28. Khoảng thời gian này phù hợp với thời gian được ghi trong Ga 2,20 là câu đặt lễ Vượt Qua đầu tiên thuộc sứ vụ của Đức Giêsu vào mùa xuân năm 28.
- Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê (1): Ông này làm tổng trấn Giuđê từ năm 26 đến năm 36. Các tác giả Do Thái nhận định ông là con người “không khoan nhượng và tàn nhẫn” (đây là câu vua Hêrôđê Ácríppa I viết trong thư gửi cho hoàng đế Caligula, được Philon ghi lại, Legatio ad Caium, 38); còn các Tin Mừng thì vĩnh viễn nối kết ông với cuộc xử án Đức Giêsu (Tacite cũng làm như thếtrong các Annales, III, 15,44). Ông cai trị miền Giuđê, Bắc Samari và Nam Iđumê.
- Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê (1): Ông là con của Hêrôđê đại đế, có tên là Antipa, đã được làm tiểu vương cai trị miền Galilê và Pêrê sau khi vua cha qua đời, vào năm 4 tr CG. Ông chỉ lấy tên Hêrôđê sau khi đã hạ bệ anh là Áckhêlao vào năm 6 CN. Ông xuất hiện nhiều lần trong các Tin Mừng: như là ngườiđã giết Gioan Tẩy Giả (Mt 14,3-12; Mc 6,17-29; x. Lc3,19-20), rồi như là đối thủ của Đức Giêsu (Mc 6,14-16; Lc13,31-32; 23,6-12). Cuối cùng ông sẽ bị hoàng đế Caligula đưa đi lưu đày bên xứ Gôn, vào năm 39, sau khi bị cháu là Hêrôđê Ácríppa I tố cáo.
- Philípphê làm tiểu vương miên Iturê và Trakhonít: Ông là người con khôn ngoan nhất trong số tất cả các con của Hêrôđê đại đế. Triều đại bình an của ông kéo dài từ năm 4 tCN đến khi ông chết vào năm 34 CN. Thật ra ông cai trị tất cả vùng đông bắc hồ Tibêriát (miền Gaulanít, Batanêa, Trakhonít, Auranít và vùng Panêa, nơi ông đã xây dựng kinh đô với tên Xêdarê Philípphê: x. Mt 16,13; Mc 8,27). Tác giả Lc cố tình kể tên những miền đất ít có người Do Thái nhất, tức là tượng trưng cho lãnh địa ngoại giáo.
- Lyxania làm tiểu vương miền Abilên: Chỉ có một Lyxania, vua dân Iturê ở Khanxi, bị đại tướng Antôniô giết vào năm 36 tCN để trừng phạt ông đã liên minh với người Pácti. Vị tiểu vương mờ nhạt này với miền đất xa lạ với Paléttina được tác giả Lc nhắc đến có lẽ do những lý do sau: 1) Lc thích các cấu trúc song đối và danh hiệu “tiểu vương” (tetrarchês, trongđó có tetras, “ngày thứ tư trong tháng”) hẳn đã gợi ý cho ông giới thiệu ra ở đây bốn miền đất lân cận; 2) Lý do lịch sử: vào lúc TM Lc được viết, tức năm 80-85, lãnh thổ của Lyxania đã thuộc về một ông hoàng Do Thái (Hêrôđê Ácríppa II, trị vì từ năm 53 cho đến cuối thế kỷ, kế vị vua cha là Hêrôđê Ácríppa I, trị vì từ năm 37 đến năm 44). 3) Nhưng có lẽ lý do chính là lý do thần học: miền Giuđê của quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Lc gợi ý là việc loan báo ơn cứu độ liên hệ đến người Do Thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này cũng được diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vịthượng tế của Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này.
- Khanan và Caipha làm thượng tế (2): Công thức này gây ngạc nhiên do chỗ gán danh hiệu thượng tế cho hai nhân vật, có tên tuổi rõ ràng, mà trong thực tế chức vụ này chỉ luôn luôn được thực thi bởi một người mà thôi. Ở đây, tác giả Lc muốn nói lên một hoàn cảnh có thật. Khanan đã được Quiriniô đặt làm thượng tế vào năm 6 CN, và chín năm sau, vào năm 15, bị Valerius Gratus truất phế. Nhưng do chỗ các tổng trấn Rôma cho năm con trai và con rể Caipha của ông kế vị, ta hiểu ông vẫn có một uy tín đặc biệt nơi giới tư tế và dân chúng. Dường như chính ông mới là người lãnh đạo cộng đồng Do Thái dưới các đời thượng tế sau ông. Các tác giả Tân Ước gán cho ông một vai trò quan trọng trong việc thẩm cứu vụ án Đức Giêsu (Ga 18,13-24).
Caipha là thượng tế từ năm 18 đến năm 36. Vai trò của ông trong cuộc xét xử Đức Giêsu đã được Mátthêu (26,3.57.63-65) và Gioan (11,49; 18,24-28) ghi lại. Trong vụ án này cũng như trong mọi sinh hoạt của ông, hẳn là ông làm việc hài hòa với và dưới ảnh hưởng của nhạc phụ.
- Công bố một phép rửa sám hối hướng tới ơn tha tội (3): Lời công bố này nối dài lời rao giảng của các ngôn sứ Cựu Ước: y như vị Tẩy Giả, các ngôn sứ đã kêu gọi dân Thiên Chúa“trở lại” với Đức Chúa của mình bằng cách đoạn tuyệt với tội lỗi. Nét mới mẻ đầu tiên của Gioan là đóng ấn sự hoán cải này bằng một phép rửa. Nhưng ông còn thêm vào một nét mới thứ hai: ông chỉ ban phép rửa này một lần mà thôi, bởi vì Cuộc Phán Xét đang đến gần (Lc3,7-9.17); chỉ còn chỗ cho một cuộc hoán cải duy nhất mà thôi để được ơn cứu độ (x. Gr 31,31; Ed 36,25). Phép rửa của Gioan không phải là phép rửa Kitô giáo có khả năng xóa tội (Cv 2,38; 22,16): “Đấng mạnh thế hơn … sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”(3,16). Vai trò chính yếu của Gioan là “bảo cho dân Chúa biết rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội khiên” (1,77). Do đó dịch “hướng tới ơn tha tội” thì tốt hơn là dịch “để được ơn tha tội”.
- như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia (4): So với các tác giả Tin Mừng khác, Lc nối dài bản văn trích để nêu bật những yếu tố ngài coi là quan trọng. Trước tiên là Is 40,3 (x. Lc 3,5) giúp Lc nhắc lại mối quan tâm của ngài đối với việc đề cao những người nghèo hèn và hạ thấp những kẻ kiêu căng (Lc 1,52; 14,11; 18,14). Nhưng nhất là Is 40,5 (Lc 3,6) mới là mối quan tâm chính của ngài: loan báo ơn cứu độThiên Chúa muốn ban cho “mọi xác phàm”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Sau hai chương tác giả Lc dành cho cuộc chào đời và thời tơ ấu của Đức Giêsu, hai chương dầy đặc những quy chiếu về Cựu Ước, nay độc giả gặp lại Gioan Tẩy Giả ra đi thi hành sứ mạng.
- Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (1-2a)
Chương 3 bắt đầu bằng một cái nhìn chăm chú vào lịch quốc tế, quốc gia và địa phương. Năm của triều đại hoàng đế, của quyền lực dân sự và quyền lực tôn giáo được nêu ra. Với khởi đầu long trọng này, độc giả được lưu ý là các biến cố được kể ra ở đây, tuy có màu sắc hoàn cảnh địa phương, đặt bên cạnh biên cương đế quốc, thật ra có một sắc thái vũ hoàn. Chi tiết quy chiếu về hai tên Thượng Tế có hàm ẩn một chút châm biếm tế nhị: trên ngai là Caipha, nhưng người vẫn điều khiển là Khanan, cha vợ ông.
Sau phần dẫn nhập lịch sử, tác giả Lc dùng giọng văn long trọng để giới thiệu Gioan: “Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa” (c. 2b). Bản văn giới thiệu ơn gọi ngôn sứ của Gioan Tẩy Giả. Nhưng do giọng long trọng, ta cảm được là bản văn này muốn đi xa hơn vị Tẩy Giả. Bên kia vị Tiền Hô, tác giả loan báo Đức Giêsu và đặt Người vào giữa lòng lịch sử nhân loại. Chúng ta khẳng định được như thế nhờ một số những nhận xét: 1) Thật đáng ngạc nhiên là tác giả đã dành nhiều quy chiếu về lịch sử như thế để mở đầu hoạt động của Gioan, mà lại không nói gì để định vị cho hoạt động của Đức Giêsu (3,21), mà chắc chắn Đức Giêsu mới là nhân vật trọng yếu. Ta giải thích được sự bất thường này khi nhớ rằng ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả đã bàn về Gioan và Đức Giêsu song song và liên đới với nhau. 2) Việc liệt kê ra hoàng đế, tổng trấn và các tiểu vương chỉ thật sự cần thiết nếu hướng về cuộc xuất hiện của Đức vua Giêsu. 3) Tác giả Lc trích sấm ngôn Is 40 như các tác giả Tin Mừng khác để đưa lại ý nghĩa cho sứ mạng của Gioan. Nhưng khi kéo dài câu trích cho tới tận lời loan báo sự tỏhiện của ơn cứu độ của Thiên Chúa, ngài cho thấy rằng trước tiên ngài nghĩ tới cuộc xuất hiện của Đức Giêsu.
Ở đây khi nêu tên vị chúa tể ngoại giáo của thế giới, cũng như vào dịp Đức Giêsu giáng sinh, khi nhắc đến hoàng đế Âugúttô (2,1), tác giả Lc giữ thói quen đặt vương quốc trần gian đối diện với Vương quốc của Thiên Chúa đã đến nơi Đức Giêsu.
Còn lý do chính là lý do thần học: Miền Giuđê của quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, tác giả Lc gợi ý là việc loan báo ơn cứu độ liên hệ đến người Do Thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này cũng được diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vị thượng tế của Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này. Còn khi nhắc đến cả Khanan lẫn Caipha, tác giả Lc cho hiểu rằng thực quyền nằm nơi thượng tế đã bi truất phế.
- Hoạt động của Gioan Tẩy Giả(2b-3)
Giọng văn của c. 2b rất cổ, như kiểu giới thiệu một ngôn sứ thời Cựu Ước. Có lẽ tác giả Lc đã cảm hứng từ Cựu Ước và đặc biệt từ ơn gọi của các ngôn sứ (x. Is 1,1; Gr 1,1-3; Hs 1,1; Ed 1,2). Gr 1,1 LXX). Như thế,với việc Gioan Tẩy Giả ra làm việc, tác giả cho thấy đã xuất hiện một ngôn sứ, vị đầu tiên sau một thời gian thinh lặng gần năm thế kỷ (Tv74,9; l Mcb 4,46; 9,27; 14,41). Ơn gọi của vị Tẩy Giả được thể hiện trong hoang địa, là nơi ông đã sống thời trai trẻ “cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en”(1,80). Nhiều dấu chỉ cho thấy là ông có quan hệ với phái tư tế ở Qumrân: ông thuộc dòng dõi tư tế, ông sống trong hoang địa, ông đi rao giảng một phép rửa và cả bốn Tin Mừng đều xác định sứ mạng của ông khởi đi từ lời sấm Is40,3 mà Luật Qumrân dùng đề diễn tả lý tưởng của họ (1 QS 8,14). Cho dù thế nào, kể từ nay Thiên Chúa kêu gọi ông thực hiện một sứ mạng của riêng ông.
Theo Mt (3,1-6) và Mc (1,4-5) la hai bản văn theo sát bản Is 40,3, Gioan rao giảng trong hoang địa và làm phép rửa tại sông Giođan ở bìa sa mạc; hoang địa là nơi thử thách và cũng là nơi gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Các đoàn người đã từ Giêrusalem và miền Giuđê kéo đến với ông (Mc1,5; x. Mt 3,5). Không như tác giả Mc còn nói đến lối sống khắc khổ của Gioan, tác giả TM III cho thấy tức khắc hoạt động của vị Tiền Hô: Gioan rời hoang địa để rao giảng khắp vùng sông Giođan như là lãnh địa riêng của ông. Rất có thể tác giả Lc đã nghĩ rằng phép rửa ban trong hoang địa có thể khiến các độc giả ngạc nhiên, vì họ không biết địa lý của xứ Paléttina. Trong thực tế, hai bờ sông Giođan là vùng hoang địa. Ông đã kêu gọi dân chúng đến nhạn phép rửa để bày tỏ lòng sám hối, hầu có thể nhận lấy ơn cứuđộ mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trong sứ vụ Vượt Qua (Lc 24,47; Cv3,19; 5,31; 10,43; 13,38; 26,18). Như trong Cựu Ước, điều quan trọng hơn là lời của vị ngôn sứ (cũng là Lời Thiên Chúa), tác giả Lc cho thấy Gioan đi rao giảng sứ điệp ông đã nhận. Lời rao giảng của ông có những cử chỉ kèm theo, đây là phép rửa. Nhưng cử chỉ này vừa thuộc về vị Tẩy Giả vừa thuộc về hối nhân. Như thế, tác giả nêu bật rằng lời rao giảng mang tính ngôn sứ của Gioan đưa đến một hành vi biểu tượng chất chứa sự thống được gợi lên bởi lời và giúp hoán cải.
- Lời bình của tác giả theo Is 40,3-5 (4-6)
Như các tác giả Tin Mừng khác (Mt 3,3; Mc 1,3; Ga 1,23), tác giả Lc xác định ý nghĩa của sứ vụ Gioan đảm nhận khởi đi từ sấm ngôn Is 40 (cc. 3-5). Nhưng ngài đặt lời sấm này vào cuối phần giới thiệu Gioan, để dẫn độc giả đi từ biến cố lịch sử đến lời giải thích biến cố trong khung cảnh lịch sử cứu độ. Và ngài nối dài câu trích để nêu bật các yếu tố ông coi là quan trọng.
TM Lc đã bỏ đi lời loan báo mở đầu của Is40,5: “Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện”. Đối với ngài, trách nhiệm của vị Tẩy Giả không phải là loan báo vinh quang này, vì vinh quang này chỉ được tỏhiện vào cuộc Vượt Qua bởi Đức Giêsu thôi. Ngài nói ngay đến đích điểm của sấm ngôn, cũng là đỉnh điểm của sứ điệp của Gioan: loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đây mới là nhiệm vụ của Gioan (Lc1,77). Lc ưa thích nhấn mạnh trên đềtài “ơn cứu độ”: Cụ Simêôn (Lc 2,30); Phaolô (Cv 28,26); ngài là tác giả nhất lãm duy nhất gọi Thiên Chúa và Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ (Lc 1,47) và nói đến ơn cứu độ nơi Đức Giêsu (Lc1,69.71.77; 19,9).
Có lẽ lý do chính đã thúc tác giả kéo câu trích Is đến tận c. 5 là vì câu này có công thức Kinh Thánh “mọi xác phàm”. Hẳn là ngài thấy từ này là một lời loan báo kín đáo ơn cứu độ được cống hiến cho tất cả mọi người. Thuật ngữ mơ hồnày đáp lại ý muốn của ngài là ghi dấu các chặng trong việc mạc khải tính phổ quát của Đức Giêsu, là đặc tính đã được cụ Simêôn công bố (Lc 2,30-32): không phải là Gioan có nhiệm vụ loan báo rõ ràng ơn cứu độ Dân ngoại, nhưng là Đức Giêsu.
+ Kết luận
Bản văn đã đặt hoạt động của Vị Tiền Hô trong khung cảnh lịch sử của nó. Thời gian của hoạt động này không còn được quy định theo triều đại của một vị vua Giuđa hay Israel, như đối với các ngôn sứ ngày xưa (x. Is 1,1; Ge 1,2; Ed 1,2; Hs 1,1; Am 1,1; Mk 1,1; Xp 1,1), mà là theo triều đại của Vị Chúa tể thế giới, của hoàng đế Xêda Rôma. Như thế, ngay khi được loan báo, Tin Mừng đã mang tính phổ quát.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Cũng như ơn gọi của Gioan Tẩy Giả, ơn gọi của chúng ta được Thiên Chúa ban cho chúng ta vào thời đại của chúng ta. Do đó, chúng ta phải sống “trong ngày hôm nay của Thiên Chúa” (Dt 4,7); đối với chúng ta, thời đại chúng ta đang sống là thời đại thuận tiện duy nhất giúp phát triển tư cách Kitô hữu của chúng ta. Cũng như Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa gọi chúng ta khởi đi từ một khung cảnh đang quy định tất cả phong thái và cuộc sống chúng ta: giống nòi, gia đình, xứ sở, khí hậu. Cách thức duy nhất để đáp trả ơn gọi chúng ta với cùng một lòng trung thành như Gioan Tẩy Giả, đó là chấp nhận dứt khoát thời đại và môi trường chúng ta, để làm nơi phục vụ Lời Chúa, làm khung cảnh cho cách thức ứng xử Kitô hữu theo gương Đức Kitô.
2. Theo quan điểm của Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là những cuộc chinh phục ngoạn mục của các hoàng đế Rôma hay các mánh khoé của tiểu vương Hêrôđê, mà điều quan trọng là Lời của Thiên Chúa phải được ngỏ với Gioan, con Dacaria. Trong bình diện thiêng liêng, bình diện duy nhất hệ trọng đối với cuộc sống con người, các dáng vẻ bề ngoài hùng mạnh và vinh quang chẳng là gì cả. Bởi vì Thiên Chúa thực hiện những dự phóng lớn của Ngài trên thế giới bằng cách dùng những cái yếu đuối và nhỏ bé theo thế gian. Đối với chúng ta cũng thế, dù chúng ta có nhỏ bé, giới hạn đến đâu, Thiên Chúa vẫn có thể dùng chúng ta mà thay đổi bộ mặt thế giới, nếu chúng ta nghe tiếng Ngài kêu gọi và hoán cải mỗi ngày.
3. Trong sa mạc cuộc đời chúng ta hôm nay, Lời Chúa đang vang lên trên chúng ta nhờ lời rao giảng, khi chúng ta đi dự thánh lễ. Khi đó, chúng ta không chỉ gặp gỡ các anh chị em trong cùng giáo xứ, mà là gặp gỡ tất cả các tín hữu trên thế giới, mặc cho họ theo thể chế nào, nghi thức nào … Chúng ta được mời gọi điều chỉnh các nẻo đường quanh co của lòng ta: tức là hãy để ý đến ý hướng và cách tiến hành ngay thẳng; hãy kiên vững bước đi theo con đường thẳng của bổn phận, không ngẫu hứng, không thối lui; hãy lấp đầy các thung lũng của lòng ta, nếu chúng còn thiếu quảng đại và lý tưởng Kitô hữu. Hãy san bằng các đồi núi kiêu ngạo. Hãy dũa bớt những sù sì của tính tình chúng ta và chấm dứt những chia rẽ.
4. Gioan Tẩy Giả có thể được mệnh danh là “Nhà rao giảng của Mùa Vọng”. Mỗi năm, Phụng vụlại giới thiệu sứ điệp của ngài cho chúng ta. Cũng như ngài đã chuẩn bị cho dân Israel đón tiếp Đấng Mêsia ngự đến, ngài cũng có thể chỉ cho chúng ta cách thức chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Lời lẽ của ngài đôi khi rất mạnh. Nhưng thế giới hôm nay cần những con người giống vị Tẩy Giả, để nhắc cho chúng ta nhớ lại tầm mức hệ trọng của đời sống trần gian,để tố giác sự dữ, và để đứng thẳng trước các kẻ quyền thế khi họ xử sự bất công.
5. Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho “mọi xác phàm”. Chúng ta nên nghĩ đến đoàn người bao la chưa biết Đức Kitô. Hãy cầu nguyện cho họ và xin Thiên Chúa ban cho nhiều ơn gọi truyền giáo. Chúng ta cũng hãy trở thành các nhà thừa sai theo gương vị Tiền Hô, ít ra bằng việc cầu nguyện và chu toàn trung thành nhiệm vụ cá nhân, tại nơi Chúa Quan phòng đặt để chúng ta.
11. Sửa đường Chúa cho ngay thẳng để đón Người đến--- Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA:
Ý CHÍNH: “Mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ” (Lc 3,6).
Bài Tin mừng hôm nay mô tả khung cảnh thời gian và không gian, khi Gio-an, con ông Da-ca-ri-a bắt đầu thi hành ơn gọi làm tiền sứ của Đấng Thiên Sai.. Lời sấm ngôn của I-sai-a về việc dọn đường cho Đức Chúa đến để cứu thoát dân Ít-ra-en khỏi cảnh lưu đầy, giờ đây được ứng nghiệm nơi Gio-an Tiền sứ. Ông tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, đi trước loan báo Đấng Thiên Sai sắp đến. Ong cũng kêu gọi mọi người hãy chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến bằng việc ăn năn sám hối tội lỗi, và chịu phép rửa do ông thực hiện trong dòng nước sông Gio-đan.
CHÚ GIẢI:
- HỎI 1: Tin Mừng cho biết gì về thân thế, sứ mệnh và cuộc đời của vị Tiền Sứ Gioan Tẩy Giả?
ĐÁP: Gioan là con của hai ông bà Da-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét (hay I-sa-ve), và đã được hòai thai cách khác thường (x. Lc 1,57-68). Từ nhỏ, ông đã sống khắc khổ chay tịnh trong hoang địa như ngôn sứ Ê-li-a (x. Mc 1,6). Sau đó ông được kêu gọi làm ngôn sứ để loan báo tin mừng Đấng Thiên Sai (x. Lc 1,76). Ông thi hành sứ mệnh tại vùng sông Gio-đan. Chính ông đã làm phép rửa cho Đức Giê-su và đã được chứng kiến cuộc Thần hiện xảy ra sau khi Người chịu phép rửa (x. Mt 3,16-17). Sau đó ông bắt đầu giới thiệu Người là Chiên Thiên Chúa (x. Ga 1,29), và khuyến khích hai đồ đệ bỏ mình đi theo làm môn đệ Người (x. Ga 1,35-37.43). Ông cũng loan báo về Đấng Thiên Sai sắp đến (x. Mc 1,7-8) và khiêm tốn nói rằng: “Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người... Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,28.30). Cuối cùng Gio-an đã kết thúc cuộc đời tiền sứ bằng cái “chết vì lẽ công chính” ở trong nhà ngục (x. Mt 14,3-12), vì đã dám khiển trách tội loạn luân của vua Hê-rô-đê (x. Lc 3,19). Đức Giê-su đã khen Gio-an: “Trong số các phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không ai cao trọng hơn Gio-an” (Lc 7,28).
- HỎI 2: Kỷ nguyên chung hay Công nguyên là gì? Công nguyên có từ khi nào và do ai sáng lập? Kỷ nguyên chung dựa trên mốc thời gian là ngày sinh của ai? Việc tính toán thời điểm ấy đúng sai thế nào?
ĐÁP:
Công Nguyên, Anno Domini, viết tắt AD, nghĩa là Kỷ nguyên Ki-tô. bắt đầu bằng năm sinh của Chúa Giê-su. Các năm trước đó được gọi là trước Công Nguyên (TCN).
Từ xa xưa, mỗi nước đều sử dụng lịch riêng của nước mình, không có sự thống nhất nên rất khó giao thương với nhau. Do đó các nhà lãnh đạo đều mong muốn có một lịch chung, một kỷ nguyên chung hay cũng gọi là công nguyên cho toàn thế giới.
Vào thế kỷ thứ VI, một tu sĩ tên là Dionysius Exiguus đặt ra vào thế kỷ 6 khi ông tính lịch cho ngày lễ Phục Sinh. Ông đã chọn Đức Giê-su làm nhân vật trung tâm của lịch sử nhân lọai. Dựa vào các thông tin về cuộc đời của Đức Giê-su trong các sách Tin mừng như: sinh ra dưới thời Hê-rô-đê Đại vương (x. Mt 2,1); trong lúc Rô-ma đang làm sổ kiểm tra dân số và Qui-ri-nô làm toàn quyền xứ Sy-ri-a (x. Lc 2,2); Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su trạc độ 30 tuổi (x. Lc 3,23); Gio-an Tẩy giả thi hành sứ mệnh tiền sứ vào năm thứ 15 triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô (x. Lc 3,1)... Tu sĩ Di-o-ny-si-us đã so sánh các chi tiết trên với lịch sử của đế quốc Rô-ma để tìm ra năm sinh của Đức Giê-su tương ứng với lịch Rô-ma tính từ ngày thành lập thành Rô-ma, và chọn năm này là năm thứ nhất của Kỷ Nguyên Chung. Từ đó mọi nước trên thế giới đều thống nhất dùng lịch chung này. Như vậy năm 2012 nghĩa là năm thứ 2012 tính từ năm Chúa Giê-su giáng sinh.
Tuy nhiên, ngày nay người ta đã khám phá ra có sự sai sót trong cách tính của Dionysius. Hầu hết các học giả Kinh Thánh hiện nay cho rằng Di-o-ny-si-us đã tính sai, và rằng trên thực tế Chúa Giê-su sinh trong khoảng từ năm 8 TCN tới năm 4 TCN (tức vào khoảng năm 748-750 tính từ ngày thành lập thành Rô-ma). Có như vậy sự giáng sinh của Chúa Giê-su mới trùng hợp với cái chết của Hê-ro-đê Đại Đế (x Mt 2,15) vào năm 4 TCN.
Nhưng sai sót này không quan trọng và không ảnh hưởng đến lịch chung đang được sử dụng trên thế giới hiện nay.
- HỎI 3: Có mấy thứ phép rửa và phân biệt với nhau thế nào?
ĐÁP: Tin mừng Gio-an cho thấy có hai thứ phép rửa: Một là “phép rửa trong nước” của Gio-an Tiền Sứ (x Ga 1,26.31), và hai là “phép rửa trong Chúa Thánh Thần” của Đức Giê-su (x Ga 1, 32-34).
Phép rửa của Gio-an chỉ là một nghi lễ, giúp người ta tỏ lòng sám hối để cầu xin Chúa xá tội. Còn phép rửa do Đức Giê-su thiết lập đem lại ơn cứu độ cho người lãnh nhận như sau: Một là được ơn tha tội tổ tông truyền và các tội đã phạm từ khi có trí khôn, nhờ công nghiệp chết và sống lại của Chúa Giê-su. Hai là được tái sinh làm con Thiên Chúa nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Hãy sửa lối cho thẳng để Người đi” (Lc 3,4b).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Ai là kẻ khờ dại nhất?
Kho truyện cổ Tây Phương có kể tích truyện một anh hề ở cung điện vua, được vua trao cho phủ việt, biểu tượng của vương quyền, để làm cho nhà vua giải phiền. Một hôm nhà vua gọi anh hề lại và truyền cho anh: "Ngươi hãy giữ lấy phủ việt nầy cho đến khi ngươi tìm được một người nào ngây ngô và khờ dại hơn ngươi thì ngươi trao lại cho nó". Từ đó, mỗi khi có thết đãi triều, anh hề đến với phủ việt trong tay, dáng điệu vênh váo, ngông nghênh, cốt chọc cười mua vui cho nhà vua.
Mấy năm sau, nhà vua lâm bệnh nặng. Biết mình sắp chết, nhà vua cho gọi anh hề lại. Vua buồn bã nói: "Ta sắp sửa đi du lịch ở một nơi xa lắm".
- "Nhà vua đi tận đâu lận?", anh hề hỏi.
- "Ta chẳng biết nữa".
- "Nhà vua đi có lâu không?".
- "Đi hoài và không trở về đây nữa".
- "Nhà vua đã chuẩn bị hành trang chưa?"
- "Chưa hề".
Bấy giờ anh hề liền cười hóm hỉnh và lễ phép tâu vua: "Vậy xin Hoàng Thượng cầm lấy phủ việt nầy. Hạ thần xin trao lại cho Hoàng Thượng, bởi vì nay hạ thần đã tìm được một người ngây ngô và khờ dại hơn hạ thần rồi".
Lời Chúa nhắc nhở mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng này: "Hãy sẵn sàng, vì lúc anh em không ngờ thì Con Người sẽ đến"
2) Giải Nôben hòa bình
AN-PHỚT NÔ-BEN (ALFRED NOBEL) sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 tại SÌ-TỐC-KHÔM (Stockholm) Thụy Điển, là con trai thứ ba của nhà khoa học Imanuel Nobel. Từ nhỏ Nobel đã theo gia đình đến sinh sống tại Le-nin-grad nước Nga.
Nobel đặc biệt thích văn học, nhưng vâng lời cha, ông theo học ngành khoa học kỹ thuật và nghiên cứu về thuốc súng và thuỷ, địa lôi. Ông đã phát minh ra chất nổ và cũng nhờ bán đi bằng sáng chế này mà ông đã trở thành một nhân vật nổi tiếng giàu có nhất thế giới thời bấy giờ.
Vào ngày 3 tháng 9 năm 1864, nhà máy Nobel phát nổ, rất nhiều công nhân bị thiệt mạng, trong đó có cả Emil Nobel là em út của Nobel. No-ben bàng hoàng khi ngay từ sáng sớm hầu hết các tờ báo phát hành đều loan tin sai lạc về cái chết của chính ông, người mà họ mô tả là kẻ đã sáng chế ra cốt mìn, một thứ vũ khí giết người hàng loạt. Các bài viết mang những tựa đề lớn như: “Nhà buôn cái chết đã chết” – hoặc: "Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ hết, đã qua đời ngày hôm qua". Thực ra báo chí đã hiểu lầm về bản chất con người ông. Việc phát minh ra chất nổ của No-ben ban đầu chỉ là công trình khoa học nhằm phục vụ cho nhân lọai. Chẳng hạn: Phá đá làm đường hầm xuyên qua núi, hoặc lấy đá làm nguyên liệu xi măng xây dựng đường xá, cầu cống, nhà cửa và các công trình phục vụ công ích. Nhưng về sau khi chiến tranh nổ ra, chính quyền đã lạm dụng phát minh của No-ben chế tạo mìn sát thương trái với ý muốn nhân đạo của ông.
Ngay sáng hôm đó, Nô-ben đã quyết định nhờ luật sư làm di chúc để tình nguyện hiến toàn bộ tài sản to lớn phục vụ nhân lọai. Đó là nguồn gốc của giải thưởng Nô-ben được công bố hằng năm ngày nay. Mỗi năm, số tiền lời phát sinh từ tài sản kếch xù ban đầu của No-ben đã được sử dụng làm giải thưởng có giá trị cao cho bất cứ ai, không phân biệt quốc tịch, có công sáng chế phục vụ nhân lọai về năm lãnh vực: vật lý, hoá học, y học, văn học và đấu tranh cho hòa bình.
3) Cách ứng xử bác ái khôn ngoan của một ông trùm họ đạo?
Trong một xóm đạo ở miền quê nọ, các nhà trong xóm đều được thiết kế liền kề, cách nhau vài ba chục mét. Nhà này thường phân cách nhà kia bằng một hàng phên tre sơ sài. Có nhà nuôi gà nhốt trong chuồng cẩn thận, nhưng cũng có nhà cho gà tự do sang bên hàng xóm đào bới kiếm ăn. Một ông trùm họ sống trong xóm có trồng thêm vài luống rau ăn hằng ngày trong khu vườn sau nhà. Tuy nhiên hầu như ngày nào ông cũng mất công đi đuổi lũ gà hàng xóm, chui qua rào vào vườn nhà ông đào bới lung tung, làm hư hại mấy luống rau ông đang chăm sóc. Ông trùm đã vài lần sang nói chuyện phải trái với mấy nhà giáp ranh để yêu cầu họ nhốt gà lại, nhưng họ không mấy quan tâm và chuyện đâu vẫn còn đó. Vốn là một người sống đạo đức có chiều sâu, ông trùm luôn chủ trương sống Lời Chúa dạy và không muốn chuyện nhỏ biến thành chuyện lớn, nên ông đành im lặng chịu đựng. Một hôm ông đã tìm ra một giải pháp ổn thỏa như sau: Trong nhà ông cũng có nuôi được ít gà mái đang thời đẻ trứng trong chuồng và ngày nào chúng cũng đẻ được một hai quả trứng. Cứ cách vài ba ngày, ông trùm lại sai con mang mấy quả trứng gà nhà mới đẻ sang trao cho bên hàng xóm với lời giải thích: đó là mấy quả trứng do gà ai đó đẻ rơi trong vườn nhà mình. Ông làm như thế vài lần thì đã có được kết quả tốt đẹp: các nhà hàng xóm giáp ranh đều đã rào giậu cẩn thận để tránh gà nhà sang đẻ rơi bên nhà ông. Thế là chỉ mất một ít trứng gà mà ông trùm đã tránh được tranh chấp có thể gây thành chuyện lớn.
4) Chúa đến gõ cửa lòng mỗi người chúng ta:
Trong một cuộc triển lãm, họa sĩ VANGOG có trưng bày một bức tranh rất đẹp với tựa đề ‘Chúa đến’. Ông vẽ Chúa Giêsu đang đứng gõ cửa trước một căn phòng. Một người bạn xem tranh và tấm tắc khen tài nghệ xuất chúng của ông, nhưng sau đó anh chân thành góp ý với họa sĩ: “Này anh Vangog, bức tranh của anh tương đối đã hoàn hảo rồi. Nhưng tôi thấy còn thiếu xót một chi tiết nhỏ mà có lẽ anh đã quên không để ý tới là: Căn phòng Chúa đứng gõ cửa còn thiếu một nắm đấm để mở ra”. Bấy giờ Vangog liền trả lời: “ Không phải thế đâu anh bạn. Chúa đang đứng gõ cửa phòng tâm hồn của mỗi người chúng ta. Còn bạn hay tôi, chúng ta có sẵn sàng mở cửa lòng mình ra hay không là do chính chúng ta quyết định. Nắm đấm để mở cửa căn phòng nằm ở phía bên trong, chứ không nằm phía bên ngoài”.
Trong mùa vọng, chúng ta đợi chờ Chúa đến. Người đang đến gõ cửa tâm hồn từng người. Cửa phòng có được mở ra hay không, và Chúa có đi vào được căn phòng tâm hồn của chúng ta hay không, là tùy thuộc vào chính mỗi người chúng ta như lời Chúa phán trong sách Khải huyền: “Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa tối với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa tối với Ta” (Kh 3,20).
3. THẢO LUẬN: Từ các câu chuyện trên, bạn rút ra bài học gì để chuẩn bị tâm hồn đón Chúa đến trong Mùa Vọng này?
4. SUY NIỆM:
1) Bài học từ Nôben: Chính nhờ có cái tâm bác ái quảng đại, sẵn sàng hy sinh toàn bộ tài sản phục vụ công ích, cũng như nhờ biết ứng xử khôn ngoan, mà No-ben đang từ một kẻ bị người đời nguyền rủa là tác nhân gây ra chết chóc... trở thành một nhân vật được cả thế giới ngưỡng mộ, và được công nhận là ân nhân của nhân lọai, vì đã cổ võ hòa bình, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho các dân tộc trên thế giới. Còn bạn, bạn sẽ làm gì trong những ngày này để phục vụ công ích và gây hòa thuận giữa các thành viên trong gia đình, khu xóm và nơi làm việc của bạn?
2) “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”: Trong Mùa Vọng này Giáo Hội mời gọi các tín hữu chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh bằng việc thực hành theo lời thánh Gioan Tiền Sứ: “Sửa đường cho ngay thẳng đón Chúa đến” như sau:
* Mọi thung lũng phải lấp cho đầy: Cần lấp đầy tâm hồn bằng sự tha thứ, hoà giải trong tình huynh đệ yêu thương thay cho chia rẽ, thù ghét lẫn nhau...
* Mọi núi đồi phải bạt cho phẳng: Cần tránh khoe khoang thành tích, làm việc để tìm tiếng khen. Cần tỏ lòng kính trọng tha nhân bằng cách xưng hô xứng hợp với địa vị mỗi người. Tránh tự cao khi nghĩ mình hơn kẻ khác và khinh thường những ai không bằng mình về trình độ, địa vị, tiền bạc, tài năng….
* Đường quanh co phải uốn cho ngay: Cần tránh những lời nói thiếu trung thực, dối trá, chua cay hay tục tĩu.
* Đường lồi lõm phải san cho bằng: Phải tránh tính nóng giận bằng sự làm chủ bản thân, thay nét mặt cau có bằng nụ cười thân ái. Tránh tranh cãi to tiếng. Tránh thói ganh tị nhỏ nhen, gàn dở cố chấp và ích kỷ hại nhân...
3) Hãy ăn năn sám hối: Nội dung chính trong lời kêu gọi của Gio-an Tiền sứ là “Hãy sám hối”. Sám hối bao gồm sự nhìn nhận tội lỗi của mình, hối tiếc vì tội đã phạm tội, và quyết tâm chừa cải để quay về xin lỗi làm hòa với Chúa. Thiếu một trong ba yếu tố trên thì không còn là sám hối. Giu-đa biết tội của mình, hối tiếc vì tội đã phạm và lẽ ra phải quay về xin Chúa tha thứ, thì ông ta lại đi treo cổ tự tử! (x. Mt 27,5) nên ông đã bị Chúa trách: “Thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (x. Mc 14,21). Còn thánh Phê-rô sau khi ý thức tội chối Thầy của mình, đã hồi tâm sám hối (x. Mt 26,75) và trông cậy vào lòng khoan dung của Chúa, nên đã được Chúa tha tội. Cũng nhờ đã yêu mến Chúa nhiều, nên ông còn được trao quyền chăn dắt đòan chiên (x. Ga 21,15-17).
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Sám hối không phải là điều dễ thực hiện, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận ra lầm lỗi của mình. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúa là Đấng trong sạch thánh thiện, thế mà lại tình nguyện đến xếp hàng, đứng chung với các tội nhân để xin Gio-an làm phép rửa. Tuy vô tội, nhưng Chúa đã muốn trở nên bạn đồng hành của lòai người chúng con khi mang lấy thân phận mỏng dòn yếu đuối của chúng con.
- Lạy Chúa. Xin cho chúng con biết điều chỉnh cách suy nghĩ và lối sống của chúng con: Luôn tỉnh thức để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để không tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con được ơn sám hối thực sự trong mùa Vọng này. Cho chúng con quyết tâm làm những việc lành cụ thể, và can đảm chấp nhận những lời phê bình của tha nhân để ngày một nên tốt hơn, như người đời thường nói: “Thuốc đắng dã tật”.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
12. Dọn tâm hồn sửa lối sống
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Thời gian mùa vọng đặt chúng ta trong một lối sống "Chờ đợi", là thời gian đặc biệt chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Đây là thời gian của hồng ân, nhưng đây cũng là thời gian của thách đố.
- Thời gian của hồng ân là những khoảnh khắc chờ đợi với nhớ nhung và nóng lòng. Trong Kinh Thánh, sự chờ đợi là thời gian tham dự vào niềm vui và bồn chồn chờ mong. Điều này ta cũng đã trải nghiệm trong cuộc sống của mình. Để chuẩn bị cho một cuộc đón tiếp, niềm vui và sự tưởng tượng thường xâm chiếm con người của ta và nếu sự chuẩn bị kéo dài, ta sẽ đoán trước ra khung cảnh gặp gỡ như thế nào và đặt ta ở trong tâm tình hy vọng, hân hoan. Ta sẽ cảm nhận một cảm xúc thật dễ thương trong khi ước mong cuộc hội ngộ sớm hiện thực.
Đây là thời gian của hồng ân khi ta tin rằng Thiên Chúa đang thực hiện kế hoạch của Người là đem hạnh phúc đến cho nhân loại. Thiên Chúa hy vọng được thấy chúng ta hạnh phúc nên Người gởi Con Một đến cho ta. Tình yêu của Thiên Chúa có một khuôn mặt và Người mong muốn chúng ta nhận biết khuôn mặt của Người. Niềm vui của chúng ta chỉ được nhân lên tột đỉnh khi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện và lúc ấy chúng ta không ngừng thán phục về một Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta từ thuở đời đời và chúng ta được yêu thương mãi mãi trong suốt hành trình cuộc sống của mình vì "Cha đã khắc ghi tên con trong lòng bàn tay Cha" như ngôn sứ Isaia xác định.
Đây là thời gian của hồng ân để ta nhận diện, ta thấy rõ mình và nhận ra ta đã chuẩn bị đời ta thế nào cho cuộc gặp gỡ Ngôi Lời của Thiên Chúa? Thời gian trầm lắng của chờ đợi cũng là lúc ta nhận dạng căn phòng hồn ta, căn phòng nội tâm ấy có còn là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần, còn là nơi cầu nguyện; là nơi Thiên Chúa gặp gỡ ta hay không? Hay với thời gian... chốn ấy đã trở thành thung lũng của tội lỗi, núi đồi của kiêu căng, hay quanh co của gian dối... (x Lc 3,5-6) mà ta cần phải sửa đổi, hoán cải.
- Thời gian của thách đố, của sám hối tận căn là lúc "Dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi." (Lc. 3,4) Dọn đường, sửa lối cho Chúa đi là những thách đố vì nó dẫn đến sự sửa chữa, cắt tỉa, gọt dũa, thay đổi tâm hồn và cả con người.
Đó là lúc ta phải nhận ra cái thung lũng tội lụy trong con đường tâm hồn mà lâu nay ta đã xúc phạm tới Chúa và tha nhân, đã sai lỗi trong tình yêu với Chúa và thiếu yêu thương với anh em. Là lúc ta cần bồi đầy thung lũng ấy bằng cầu nguyện, tham dự Thánh Lễ, làm các việc lành, bác ái... Thung lũng ấy được bồi phẳng bằng tình yêu vì để cho chính Đấng là Tình Yêu sẽ đi lên.
Đó là khi ta nhận ra cái núi đồi kiêu ngạo tự mãn trong con đường tâm hồn cần phải bạt xuống bằng chuyên chăm đọc, suy niệm Lời Chúa và đem ra thực hành, học sống khiêm nhường như Chúa Giêsu trong hành xử và trong mọi lối sống hằng ngày của ta. Vì Đấng sẽ đến trên con đường ấy chính là Đấng tự hạ, hiền lành và khiêm nhường. Và chỉ những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa.
Đó cũng là giờ phút ta xét lại con đường tâm hồn mình có những khúc quanh co của gian dối nào cần uốn nắn lại hay phải vạt bỏ đi. Chỗ lồi lõm nào nên san lại cho bằng. Cắt bỏ hay uốn nắn con đường tâm hồn không dễ chút nào, cần phải có quyết tâm và ơn Chúa giúp. Phải từ bỏ mình, từ bỏ những thói quen không tốt làm lồi lõm tâm hồn và đó như là một cuộc chiến đấu cần lắm sức mạnh trợ giúp của Chúa.
Đó là lúc mà ta cần ý thức thân phận yếu đuối tội lỗi của mình và thật lòng sám hối bằng việc cải thiện đời sống, bằng cách đổi mới toàn diện con người của mình. Sám hối là việc hoán cải nội tâm nên đòi hỏi ta phải khiêm tốn nhìn nhận những lầm lỗi thiếu sót của mình và quyết tâm trở về với Chúa, lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải để được Chúa thứ tha. Khi chúng ta ý thức được thân phận của mình, chúng ta mới cần đến ơn cứu độ và lòng xót thương của Thiên Chúa. Như vậy lòng sám hối là nền tảng của ơn cứu độ, là con đường để con người gặp gỡ được Thiên Chúa như Lời Chúa Giêsu đã mời gọi "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 4, 17)
Lắng nghe lời thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi: "Tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội... Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa... Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa." (Lc 3,3-4.6) Ta có muốn thấy ơn cứu độ và gặp gỡ Đấng Emmanuel hay không? Đây là sự tự do chọn lựa của mỗi người. Ơn cứu độ đã bắt đầu khởi sự ngay nơi trần gian này khi mỗi ngày Chúa vẫn đến với ta bằng nhiều cách, nhưng nhiều lần ta đã cố tình tránh gặp Chúa. Vậy ta hãy quyết tâm sửa đổi con đường tâm hồn, ăn ăn hoán cải về những yếu đuối tội lỗi để rồi ngày Chúa đến trong vinh quang, ta sẽ hân hoan như lời thánh Phaolô khuyên "Vui lên anh em... Chúa đã đến gần" (Pl 4,4-5) và ngẩng cao đầu đón Chúa vì trong đời thường ta đã quen gặp gỡ Người, đã chuẩn bị kỹ con đường cho Người ngự đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin thanh tẩy tâm hồn chúng con theo lòng thương xót của Chúa và xin hãy đến ban ơn cứu độ chúng con. Amen.
13. Dọn lòng đón Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Trên vách núi của Chùa Huyền Không Thượng ở Huế có ghi: “Ta còn hơi thở nụ cười, là còn bát ngát một trời hương xuân”. Câu thơ muốn nói lên một thái độ thường hằng và là động lực giúp ta vượt qua bao gian khổ để đi tới phía trước với tất cả niềm hy vọng. Qủa thế, khi chúng ta hy vọng nghĩa là hướng tới một thực tại, một điều gì đó tốt rất xa, có khi vượt qua cái chết và dĩ nhiên hy vọng như thế sẽ chi phối toàn bộ hành động, lời nói, việc làm trong cuộc sống hiện tại của chúng ta để đạt được điều chúng ta đang hy vọng. Vâng, các bài Lời Chúa hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rằng chúng ta có niềm hy vọng rằng hết mọi người phàm sẽ thấy, gặp gỡ và đón nhận ơn cứu độ, là chính Chúa Giêsu đến trong đời mỗi người chúng ta dù chúng ta có bất toàn và bất xứng, dù chúng ta hạnh phúc hay đau khổ, mạnh khỏe hay bệnh tật. Chính vì vậy mà ông Gioan tẩy giả kêu gọi: hãy dọn đường, sửa lối cho thẳng để Chúa đến làm cho đời ta tươi sáng, bình an và hạnh phúc bát ngát một trời hương xuân.
Lời Chúa mời gọi hãy dọn đường? Đường nào, và dọn bằng cách nào? Đường đó chính là con đường tấm lòng ra cung cách sống của chúng ta, nó bằng phẳng êm đềm (là bình an, sự thánh thiện, sự siêu thoát vật chất) hay quanh co gồ ghề, lồi lõm (là sự buồn bả thất vọng hay tội lỗi). Cho nên, nếu chúng ta đặt tất cả niềm hy vọng vào tiền bạc, danh vọng, dục vọng và quyền lực, chúng ta làm mọi cách dù phải gian xảo mưu mô độc ác gian tà miễn sao có được chúng thế là đủ rồi, còn chuyện sống yêu thương hay sự sống đời sau không quan tâm, tội lỗi mặc kệ. Ngược lại, nếu không có những thứ đó thì mình đau khổ, tủi hổ bực tức khó chịu, chua cay gắt gỏng. Nếu đặt niềm hy vọng vào sức khỏe, trí thức hay nhan sắc, chúng ta tìm mọi cách đạt cho được, không được thì tuyệt vọng.
Đó chỉ là niềm hy vọng của tính xác thịt, của nhục vọng. Chúa nói tất cả những thứ đó không xuất phát từ Thiên Chúa, nhưng xuất phát từ lòng người, từ thế gian, mà thế gian sẽ qua đi cùng với dục vọng của nó, chẳng có gì bền vững. Ngược lại, nếu chúng ta đặt niềm hy vọng vào cuộc sống hiệp nhất và yêu thương, sẻ chia và đồng hành với nhau, xử sự công bằng và đồng tâm xây dựng hạnh phúc bình an cho nhau, thì chắc chắn chúng ta sẽ nhận Chúa làm gia nghiệp và Lời Chúa làm lẽ sống và kim chỉ nam cho mọi lời nói và hành vi luân lý của chúng ta trong đời sống. Cho nên, Thánh Phaolô trong bai đọc 2 khẳng định với chúng ta rằng: “Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh chị em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang lâm. Như thế, anh chị em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 1,6.11).
Chúng ta đã đặt niềm hy vọng vào Chúa và mục đích của chúng ta nhắm đến là Thiên Chúa và sự sống đời sau, hạnh phúc thiên đàng: đúng đấy, đẹp đấy nhưng con đường và phương tiện chúng ta dùng để tới không đúng và hợp với ý Chúa, Lời Chúa và Giáo lý của Hội Thánh. Chẳng hạn, vì cuộc sống vợ chồng tối ngày sào xáo, chửi bới la lối thóa mạ, gây đau khổ cho nhau dù có một hai ba mặt con, thôi ly dị cho rồi, đường ai nấy đi để tìm hạnh phúc khác và đỡ mắc tội Chúa phạt chết, còn con cái ai nuôi cũng được, nếu không thì cho nó vào trung tâm trẻ em đường phố hay vào cô nhi viện của các Bà Sơ là xong. Chúa và Giáo Hội đâu dạy như thế! Rồi chuyện trai gái yêu nhau thời yêu cuồng sống vội, chưa cưới đã sống chung trước, lỡ mang thai, thôi kéo nhau đi phá cái thai lỡ lầm này cho rồi vừa đỡ khổ nhục vừa không bị tai tiếng gì đến bà con, họ hàng hay Đạo hạnh nữa. Chúa và Giáo hội đâu bảo làm thế! Chưa hết, vì chuyện phụng dưỡng ông bà, cha mẹ già bệnh tật mà vợ chồng phải khổ cực, mất giờ, mất tiền, cãi cọ phân bì… thôi gửi ông bà vào viện dưỡng lão có người chăm sóc kỹ hơn; nếu đau nặng nói bác sĩ tiêm một liều thuốc chết êm dịu đỡ kéo dài sự đau khổ ông bà, cha mẹ tội nghiệp. Đó đâu phải là ý Chúa và Giáo Hội dạy! Và cuối cùng, vì thất tình, vì thất bại làm ăn, vì gặp đau khổ thể xác tinh thần bệnh tật triền miên thôi tự tử cho rồi sống chi cho thêm đau lòng. Chúa và Giáo hội đâu cho phép làm thế!
Tất cả những con đường ấy đâu phải con đường của Chúa vì trái với Tin Mừng, không hợp ý Chúa, và cũng chẳng đúng với Giáo huấn của Hội Thánh. Bài đọc hai, Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng anh chị em phải có lòng mến trong Chúa Giêsu Kitô, hãy làm việc thiện, ăn ở ngay lành, biết cái gì là tốt hơn nên làm và cái gì xấu nên từ bỏ hay tránh đi để trở nên tinh tuyền, thánh thiện trong mọi việc chúng ta làm. Đó là con đường chắc chắn dẫn ta đến một đời sống công chính nhờ Đức Giêsu Kitô và một lối sống phù hợp với ý Thiên Chúa và Lời Ngài, Ngài sẽ đảm bảo cuộc sống bình an, trường thọ và hạnh phúc đích thực. Cho nên, Lời Chúa của Chúa nhật thứ 2 Mùa Vọng này mời gọi chúng ta dọn đường có nghĩa rằng phải sám hối, thay đổi cái nhìn về tiền của, thay đổi lối cư xử thiếu đạo đức, có cái nhìn khách quan khi các biến cổ xảy đến trong cuộc sống hằng ngày, nhất là luôn hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả để rồi dẫn đến lối sống phù hợp với ý Thiên Chúa và Giáo Hội. Và khi chúng ta chấp nhận san bằng đồi núi kiêu căng, lấp hô sâu tự ái, uốn thẳng tính gian tham và làm sạch tội lỗi trong tâm hồn nhờ cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa Giải, chắc chắn chúng ta sẽ thấy, gặp và nhận được Chúa nguồn bình an hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc đời này và đời sau.
Chúng ta đang sống trong năm phụng vụ với lời mời gọi của Các Đức Giám Mục Việt Nam năm nay: Đồng hành với các gia đình gặp khó khăn. Ước gì Lời Chúa hôm nay thúc đẩy mỗi người trong chúng ta cố gắng sống tâm tình sám hối, sửa lại những tính hư tật xấu từ trong ra ngoài để xứng đáng được ơn cứu độ của Thiên Chúa đến ngự trong tâm hồn của chúng ta làm cho chúng ta hạnh phúc và bình an đồng thời thúc bách chúng ta hăng hái đồng hành sẻ chia, giúp đỡ và an ủi với các gia đình đang sống quanh chúng ta gặp khó khăn, khủng hoảng trong cuộc sống hầu họ cũng được Thiên Chúa đồng hành và ban niềm vui và hy vọng làm cho họ cảm thấy cuộc đời nở hoa chứ không bao giờ bế tắc. Amen.
14. Dọn đường đón Lòng Thương Xót Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Trên vách núi của Chùa Huyền Không Thượng ở Huế có ghi: “Ta còn hơi thở nụ cười, là còn bát ngát đất trời nguyên xuân”. Câu thơ nói lên tất cả niềm hy vọng, một thái độ thường hằng và là động lực giúp ta vượt qua bao gian khổ để đi tới phía trước. Qủa thế, khi chúng ta hy vọng nghĩa là hướng tới một thực tại, một điều gì đó rất xa, có khi vượt qua cái chết. Và dĩ nhiên nó sẽ chi phối toàn bộ cuộc sống hiện tại của chúng ta. Các bài Lời Chúa hôm nay soi sáng cho chúng ta thấy rằng phải có niềm hy vọng đó là hết mọi người phàm sẽ thấy, gặp gỡ và đón nhận ơn cứu độ, là Lòng Thương Xót của Chúa, là chính Chúa Giêsu đến trong đời chúng ta. Chính vì vậy mà ông Gioan tẩy giả kêu gọi: hãy dọn đường, sửa lối cho thẳng để Lòng Thương Xót Chúa đến làm cho đời ta tươi sáng và bình an.
Con đường đó chính là lối sống của chúng ta, nó bằng phẳng, êm đềm hay quanh co gồ ghề, lồi lõm tùy thuộc vào niềm hy vọng mà chúng ta đang ấp ủ trong tâm hồn. Nếu chúng ta đặt tất cả niềm hy vọng vào tiền bạc, danh vọng và quyền lực thì chúng ta làm mọi cách dù phải gian xảo mưu mô độc ác gian tà miễn sao có được chúng thế là đủ rồi, còn ai sống chết mặc kệ. Đó chỉ là niềm hy vọng của tính xác thịt, của nhục vọng. Chúa nói tất cả những thứ đó không xuất phát từ Thiên Chúa Cha, như xuất phát từ thế gian, mà thế gian sẽ qua đi cùng với dục vọng của nó, chẳng có gì bền vững. Ngược lại, nếu chúng ta đặt niềm hy vọng vào cuộc sống hiệp nhất và thương xót nhau, xử sự công bằng và đồng tâm xây dựng hạnh phúc cho nhau, thì chắc chắn chúng ta sẽ lấy Lời Chúa làm lẽ sống ngay trong cuộc đời mình. Cho nên, Thánh Phaolô trong bai đọc 2 khẳng định với chúng ta rằng: “Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 1,11).
Nhiều khi chúng ta đặt niềm hy vọng vào Chúa nhưng cuộc sống hiện tại chúng ta đâu phải thế! Mục đích của chúng ta nhắm đến là Thiên Chúa và hạnh phúc thiên đàng: đúng đấy, đẹp đấy nhưng con đường và phương tiện chúng ta dùng để tới không đúng và hợp với ý Chúa. Chẳng hạn, vì cuộc sống vợ chồng tối ngày sào xáo, đánh đập nhau, gây đau khổ nhau dù có một hai mặt con, thôi ly dị cho rồi, đường ai nấy đi để tìm hạnh phúc khác và đỡ mắc tội Chúa phạt chết, còn con cái ai nuôi cũng được, nếu không thì cho nó vào trung tâm trẻ em đường phố hay vào cô nhi viện của các Bà Sơ là xong. Chúa đâu dạy như thế! Rồi chuyện trai gái yêu nhau thời yêu cuồng sống vội, chưa cưới đã mang thai, thôi kéo nhau đi phá cái thai lỡ lầm này cho rồi vừa đỡ khổ nhục sau này vừa không bị tai tiếng gì đến bà con, họ hàng hay đạo hạnh nữa. Giáo hội đâu bảo làm thế! Chưa hết, vì chuyện phụng dưỡng ông bà, cha mẹ già bệnh tật mà vợ chồng phải khổ cực, mất giờ, mất tiền, cãi cọ phân bì… thôi gửi ông bà vào viện dưỡng lão có người chăm sóc kỹ hơn; nếu đau nặng nói bác sĩ tiêm một liều thuốc chết êm dịu đỡ kéo dài sự đau khổ ông bà, cha mẹ tội nghiệp. Đó đâu phải là ý Chúa!
Tất cả những con đường ấy đâu phải con đường của Chúa vì trái với Tin Mừng, không hợp ý Chúa, và cũng chẳng đúng với giáo huấn của Hội Thánh. Bài đọc hai, Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng anh em phải có lòng mến trong Chúa Giêsu Kitô, hãy làm việc thiện, ăn ở ngay lành, biết cái gì là tốt hơn nên làm và cái gì xấu nên từ bỏ hay tránh đi để trở nên tinh tuyền, thánh thiện trong mọi việc chúng ta làm. Đó là con đường chắc chắn dẫn ta đến một đời sống công chính nhờ Đức Giêsu Kitô và một lối sống phù hợp với Lời Thiên Chúa, Ngài sẽ đảm bảo cuộc sống trường thọ, thịnh vượng và hạnh phúc đích thực của chúng ta. Cho nên, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta dọn đường có nghĩa rằng sám hối, thay đổi cái nhìn về tiền của, thay đổi lối cư xử thiếu đạo đức, không có lòng thương xót nhau trong cuộc sống hằng ngày để rồi dẫn đến lối sống phù hợp với ý Chúa, là anh em phải thương xót nhau. Và khi chúng ta chấp nhận san bằng đồi núi kiêu căng, lấp hô sâu tự ái, uốn thẳng tính gian tham và làm sạch đường tội lỗi nhờ cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Hòa Giải, chắc chắn chúng ta sẽ thấy, gặp và nhận được Lòng Thương Xót của Chúa ngay trong cuộc đời này.
Chúng ta sắp bước vào Năm Thánh Lòng Thương Xót, ước gì Lời Chúa hôm nay thúc đẩy mỗi người trong chúng ta cố gắng sống tâm tình sám hối, sửa lại những tính hư tật xấu từ trong ra ngoài để xứng đáng được ơn cứu độ của Thiên Chúa, Lòng Thương Xót của đến ngự trong tâm hồn của chúng ta trong Mùa Vọng này và Mùa Giáng Sinh sắp đến. Lúc ấy chính Chúa Giêsu Kitô chính là dung nhan Lòng Thương Xót của Thiên Chúa ở cùng chúng ta làm cho chúng ta hạnh phúc và bình an đồng thời thúc bách chúng ta hăng hái ra đi loan báo, sống và làm chứng cho Lòng Thương Xót của Chúa cho mọi người trong xã hội chúng ta biết thương xót nhau. Amen.
15. Mở đường để Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Tiếp tục chủ đề Tỉnh Thức Chờ Đợi Chúa Đến của Chúa nhật I Mùa Vọng năm C, Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta: Mở Đường.
Khi đề cập đến sự cần thiết của con đường, người ta thường hay nói: “Đường, trường, trạm”. Thật vậy, con đường rất cần thiết trong cuộc sống. Có con đường thì mới tới được Trường, có con đường thì mới đến được Trạm. Con người muốn gặp gỡ, giao lưu buôn bán với nhau cần có những con đường. Vì vậy, người ta đã tạo ra biết bao con đường: Đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không. Đường càng tốt đi lại càng dễ dàng. Đó là những con đường cao tốc: bằng phẳng, thẳng thắn, rộng rãi. Gần đây chúng ta nghe nói tới dự án “Đường bay vàng” từ Hà Nội tới Sài Gòn nhằm đem lại những lợi ích về thời gian và kinh tế.
Từ sự cần thiết của con đường vật chất giúp chúng ta liên tưởng tới sự cần thiết của con đường thiêng liêng, là tâm hồn mỗi người chúng ta. Cũng như con đường vật chất, Chúa muốn chúng ta mở những “Con đường vàng”. Có hai con đường thiêng liêng cần thiết chúng ta cần phải mở. Đó là con đường giữa ta với Chúa và con đường giữa ta với tha nhân.
Thứ nhất, để Chúa dễ dàng đến với chúng ta và chúng ta dễ dàng đến với Chúa: Cần phải lấp đầy những hố sâu ích kỷ; Phải làm thẳng những lối suy nghĩ quanh co; Phải san phẳng những núi đồi kiêu ngạo; Phải bạt cho thấp những bất công; Phải loại bỏ những thói hư tật xấu. Đó là nội dung lời mời gọi của tác giả sách Barúc và của Gioan Tẩy Giả: “Phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu” (Br 5,7). Và, “Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng”(Lc 3,5). Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng mời gọi chúng ta trong khi chờ đợi Chúa đến cần phải “Tăng cường lòng mến” và “Không làm gì đáng trách”, Ngài nói: “Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm”(Pl 1, 9-10).
Thứ hai, để mở những con đường giữa ta với tha nhân: Cần phải loại bỏ những hận thù ghen ghét, hờn giận; Cần phải bắc những chiếc cầu cảm thông tha thứ, giải toả những hiểu lầm, nghi kỵ: Có thể giữa làng xóm láng giềng với nhau, có thể giữa cha mẹ với con cái, có thể giữa vợ chồng, hoặc giữa anh chị em ruột thịt với nhau. Khi gỡ bỏ được những bức tường ngăn cách đó, chúng ta sẽ gặp được sự bình an và niềm vui. Câu chuyện cảm động sau đây đáng chúng ta suy nghĩ.
Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình.
Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất…
Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách. Khi quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất.
Người em hỏi người anh: – “Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không?”. – “Không!”, người anh đáp.
Tuy thế, người em vẫn không ngừng tìm kiếm và gạn hỏi: – “Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó!”
Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bất đầu tăng lên giữa hai anh em. Sự oán giận cũng theo đó mà len vào.
Không lâu sau, một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng không làm chung với nhau, và một bức tường ngăn cách đã được xây ngang giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình họ.
Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước của hàng. Ông bước vào và hỏi người bán hàng: - “Anh đã ở đây bao lâu rồi?”. Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp: - “Tôi phải nói với anh điều này 20 năm trước tôi đang đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó vì tiền khô cháy túi tôi đã phải chịu đói khát suốt 3 ngày trời. Khi tôi đến đây bằng cửa sau thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh tha thứ lỗi.”
Người đàn ông ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.
“Ông có vui lòng sang cửa hàng bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không”. Anh ta đề nghị.
Rồi người khách lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng.
Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.
Lạy Chúa, xin cho con biết dọn dẹp con đường tâm hồn mình: Lấp đầy những hố sâu, san phẳng những mô cao, uốn thẳng những khúc quanh co, để Chúa dễ dàng đến với con và con dễ dàng đến được với Chúa. Xin cho con biết đập bỏ những bức tường thù hận, ghen ghét, nghi kỵ, biết xây những chiếc cầu yêu thương tha thứ giữa con với anh chị em con. Amen.
16. Gioan Tiền Hô
Bên bờ sông Giocđan, Gioan đã chu toàn sứ mạng của mình. Ông đã rao giảng sự sám hối ăn năn, đó chính là điều kiện để được đón nhận vào Nước Trời. Nước Trời hiện giờ là đời sống ân sủng, là trở nên phần tử của Giáo Hội. Còn Nước Trời mai sau chính là niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Gioan đã rao giảng bằng những lời nói đơn sơ, không văn hoa bóng bảy: Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần đến. Hãy dọn đường cho Chúa: quanh co uốn chon gay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho nay và nơi cao phải bạt xuống. Ông không phải chỉ rao giảng bằng lời nói suông, mà còn bằng chính đời sống của mình. Và như vậy, lời nói của ông luôn đi đôi với việc làm. Ông sống, ông làm trước đã, rồi sau đó ông mới giảng, mới dạy, nên lời giảng dạy của ông luôn có một sức lôi cuốn và hấp dẫn.
Thực vậy. Đời sống của ông là một đời sống khắc khổ: Ông mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Thái độ và cung cách của ông là thái độ và cung cách của một kẻ khiêm nhường: Tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài. Ông chỉ biết một việc, đó là tìm mọi cách để làm vinh danh Chúa: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi. Ông đã sai các môn đệ đến với Chúa Giêsu, có ý cho các ông nhận biết Chúa. Dù các môn đệ có từ bỏ mình mà đi theo Chúa, thì ông cũng không buồn. Chính ông đã giới thiệu Chúa Giêsu cho đám đông: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Và dù dân chúng có tin theo Chúa, thì ông cũng không bao giờ tỏ ra hậm hực và tức tối. Ông sẵn sàng rút vào bóng tối, để Chúa được nhận biết, và ông đã chết một cách đau thương trong ngục tù của vua Hêrôđê.
Sau cùng, đời sống của ông là một đời sống cầu nguyện. Thực vậy, ông đã ở trong hoang địa ngay từ thời còn niên thiếu, để được lắng nghe tiếng Chúa và để được kết hiệp mật thiết với Ngài. Ông đã chu toàn sứ mạng của một vị tiền hô, như lời tiên tri Isaia đã loan báo: Đây ta sai sứ thần của Ta đi trước mặt ngươi, để dọn đường cho ngươi.
Chúng ta cũng vậy. Mỗi người chúng ta cũng phải trở nên một vị tông đồ nhiệt thành, một vị tiền hô hăng hái của Chúa. Cái nguyên tắc hướng dẫn cho mọi hành động của chúng ta, đó là ở mọi nơi và trong mọi lúc, với bất kỳ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng hãy tìm vinh danh Chúa và lợi ích của các linh hồn. Vì thế, hãy thực thi tinh thần của Gioan: Ngài can phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi. Hãy làm mọi việc, miễn sao Đức Kitô được rao giảng và được nhận biết.
Muốn chu toàn sứ mạng ấy, thì lời nói mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải sống niềm tin của chúng ta. Hay nói cách khác: Hãy làm rồi mới giảng, như Chúa Giêsu. Ngài đã khởi sự thi hành trước đã, rồi sau đó mới loan truyền, chứ không như bọn biệt phái, đã bị Chúa kết án: Họ nói mà không làm.
Mỗi người chúng ta phải là một Gioan tiền hô của Chúa, thế nhưng chúng ta đã nói gì và nhất là đã làm gì để chuẩn bị cho những người chung quanh đón nhận Chúa? Hay chỉ vì những gương mù gương xấu của chúng ta với một đời sống khô khan và nguội lạnh, đã làm thui chột hạt giống Tin Mừng đã nảy mầm trong cõi long những người anh em.
17. Hãy dọn đường Chúa đến - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Phần đông thế giới đang chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, các cửa tiệm tràn ngập những thiếp mừng Giáng Sinh, cây thông Giáng sinh bao nhiêu quà Giáng sinh, món ăn, quần áo, đồ chơi Giáng sinh. Ở Việt Nam chúng ta nghèo khó, nhỏ bé, chỉ có hơn 6 triệu dân người Công giáo, thế mà đâu đâu cũng chuẩn bị Giáng sinh, nhiều cửa tiệm đã trình bày đầy dẫy những bông hoa và cây thông tuyệt đẹp, những cây thông giả lấp lánh ánh điện màu, những cành lá xanh tươi, mềm dịu hơn những cây thông thật rất nhiều. Tôi nghĩ những cây thông đó rất đắt tiền, tôi không dám hỏi chỉ đứng ngẩn người chiêm ngắm hồi lâu, rồi đành bỏ đi, lòng trí thầm khao khát có một cây về trưng hang đá.
Các thương gia vì lợi lộc tiền của đã dọn đồ mừng lễ Giáng sinh từ lâu và rất công phu, khó nhọc, còn các con Chúa mang tiếng đạo dòng thì sao?
Tôi tới một số nhà thờ vẫn im lìm, chưa thấy có gì là chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Một hai nhà thờ thông báo chương trình Tĩnh tâm Giới trẻ từ ngày 12-15 tiếp theo là gia trưởng, hiền mẫu, bô lão, nghĩa là chỉ chuẩn bị sơ sơ dọn mình mừng lễ Giáng sinh trước một hai tuần.
Nhưng phải dọn mừng lễ Giáng sinh thế nào cho xứng đáng, đúng theo Tin Mừng của Chúa hôm nay mà thánh Gioan đã hô hào: “Hãy dọn đường Chúa đến”.
Khung cảnh đế quốc Rôma và đất nước Do thái đã biểu hiện cả thế giới. Thánh Gioan tiền hô đã dấn thân vào đó để hô hào dọn đường cho Chúa Cứu thế đến với nhân loại. Sứ mệnh của ông thật lớn lao, nhưng đầy chông gai khó khăn. Ông đã thấy từ Hoàng đế Tibêriô đến Tổng trấn Philatô, các vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria và cả các Thượng tế Hanna, Caipha, đạo cũng như đời, quan cũng như dân, lòng người như những con đường trong hoang địa, đầy những thung lũng hố sâu, những núi đồi hiểm trở, những khúc quanh co, gồ ghề, lồi lõm. Làm sao có thể sửa cho thẳng, lấp cho đầy, bạt cho thấp, uốn cho ngay, san cho phẳng, những con đường đó làm ách tắc giao thông với Thiên Chúa mà còn gây nhiều tai nạn kinh khủng cho con người.
Chúng giống như con đường 13 từ Pleiku về Nha Trang không ai quên được cả một Quân đoàn II thời Cộng hòa đầu năm 1975 đã chạy tháo lui theo con đường đá xuyên qua núi đồi, thung lũng, hố sâu, gồ ghề, quẹo khúc quanh co giữa rừng rậm mịt mù, hàng trăm ngàn người, hàng ngàn xe cộ bít nghẽn kẹt cứng lối đi, hàng chục ngàn người chạy loạn, hỗn độn, xô đẩy, bơ vơ, chết mất xác trên con đường kinh hoàng đó. Con đường chỉ dài gần 200 cây số nếu nó được sửa cho ngay thẳng, lấp cho đầy, bạt cho thấp, uốn cho ngay, san cho phẳng thì đoàn xe, đoàn người đó chỉ mất độ 2-3 giờ là thoát chết mà còn an bình vô sự nữa.
Hình ảnh con đường kinh hoàng ngoài mặt đất phản ảnh con đường bên trong tâm hồn, nó còn kinh hoàng tai hại hơn nhiều như Đức Giêsu đã nói rõ: “Từ lòng con người, phát xuất những ý định xấu như tà đâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mc.7,21-22). Cho nên thánh Gioan đã khẩn thiết kêu gọi những núi đồi kiêu ngạo phải bạt xuống lòng tham không đáy phải lấp đầy, những gian dối quanh co, phải uốn cho ngay, những chia rẽ hận thù phải san cho an hòa, những bất công gồ ghề phải cho sòng phẳng. “Rồi hết mọi người sẽ được thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”. “Những nòi rắn độc hại không thể trốn được cơn thịnh nộ Thiên Chúa sắp giáng xuống, đừng tự phụ mình là con cháu Abraham, cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt, đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Lc. 3, 7-9).
Lời kêu gọi của Thánh Gioan rất cấp bách: Nếu không mau mau dọn đường Chúa đến thì cơn thịnh nộ Thiên Chúa sắp giáng xuống, cái rìu đã đặt sẵn vào gốc cây rồi, nếu biết mau mau dọn đường cho Đấng Cứu thế đến thì mọi người sẽ được ơn cứu độ, “sẽ được cởi bỏ áo tang khổ nhục và muôn đời được mặc lấy ánh huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa, sẽ được đội lên đầu vinh quang của Đấng vĩnh cửu..” (Bài đọc I). Đấng mà bao nhiêu tiên tri đã dọn đường cho Ngài đến, Đấng mà dân chúng đã trông chờ hàng ngàn năm rồi và tiên tri Isaia đã hô hào đón rước từ hơn 500 năm trước. Nay Ngài đang đến rồi: thật là một công việc rất vĩ đại sắp xảy ra, thật vinh phúc cho mọi người đang sống mà các tổ phụ, các tiên tri, các ông cha họ khát mong mà không được đón rước. Ngài đã đến rồi, chỉ còn chốc lát nữa Gioan sẽ chỉ cho họ được thấy: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng cứu độ trần gian”. Ngài sẽ đến giải phóng cho họ khỏi cảnh đui mù, câm điếc, tàng tật, tê liệt, quỷ ám, khỏi cảnh tối tăm sự chết. “Ngài sẽ dẫn họ đi trong niềm hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng thương xót và sự công chính của Ngài” (Bài I)
Lạy Chúa, xin cho tâm hồn con trở nên chính lộ “rộng rãi bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục nhân hậu, từ tâm trung tín, hiền hòa tiết độ” (Gal.5,22-23) mới mong được đón rước Chúa đến.
18. Sám hối canh tân – Thiên Phúc-- ‘Như Thầy đã yêu’
Ðời chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang Nước sở, phải đợi suốt ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.
Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay.
Vua Sở bảo:
- Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là cớ làm sao?
Tô Tần thưa:
- Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc, củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc thổi quế, nhờ ma thấy trời hay sao?
Vua Sở khẩn khoản nói:
- Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã hiểu rõ quá rồi.
Một đất nước mà vật giá đắt đỏ: "Củi quế gạo châu", vua quan xa cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.
*****
Mỗi lần Mùa Vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Ðó chính là Gioan Tẩy Giả: "Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa sửa lối cho thẳng để Người đi" (Lc 3,4).
Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn sứ của dân tộc Do Thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời: Từ hoàng đế Tibêriô đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị thượng tế Hanna và Cai pha; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố sâu, núi đồi hiểm trở.
Gioan nhắc lại lời ngôn sứ Isaia: "Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, p hải san cho phẳng (Lc 3,5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính là đường vào cõi lòng:
Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn tự kiêu.
Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.
Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn Cứu Ðộ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng tay đón nhận.
*****
Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm.
Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa đến mang nguồn vui ơn Cứu Ðộ. Amen.
19. Hãy dọn đường cho Chúa ngự đến
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Lc 3:1-6: Mùa Vọng là mùa mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn chúng ta hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em...
Hoang địa thường được nhắc đến trong Thánh Kinh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong hoang địa. Môsê đã phải lẩn trốn vào hoang địa để biết Ý Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm trong hoang địa là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào Đất Hứa. Truyền thống đi vào hoang địa đã không ngừng được các tiên tri làm sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.
Chính vì thế từ trong hoang địa, thánh Gioan Tẩy Giả không những đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm hô lớn cho mọi người được nghe thấy: "hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng."
Hưởng ứng lời kêu mời của thánh Gioan, chúng ta cũng phải sửa lại những con đường trong tâm hồn cho ngay thẳng, sạch đẹp. Nghĩa là tâm hồn ta phải luôn ngay thẳng, chính trực, không quanh co, gian dối, giả tạo… Ngay thẳng là một trong những yếu tố chính yếu của sự công chính, thánh thiện. Thiết tưởng người Kitô hữu cần phải tạo cho mình một tư cách ngay thẳng chính trực, nói hay làm gì cũng phải "công minh chính đại", không lén út, không quanh co. Tư cách của người Kitô hữu là phải tôn trọng sự thật, nghĩ thế nào, nói thế ấy; “hễ có thì phải nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ” (Mt 5,37). Nghĩ một đàng nói một nẻo là thói của bọn tiểu nhân, của phường gian ác. Nguyên nhân biến con người thành quanh co, giả hình, mưu mô…chính là tâm địa ích kỷ, nhiều tham vọng, muốn phình to bản ngã. Tâm địa này khiến người ta cố gắng đạt được những điều mình ham muốn như danh vọng, quyền lực, tiền bạc - với bất cứ phương tiện nào, kể cả những phương tiện xấu xa, và bằng bất cứ giá nào, kể cả tội ác. Tệ hơn nữa, nhiều khi chúng ta còn cam tâm hãm hại tha nhân, làm phương hại đến của cải cũng như danh thơm tiếng tốt của người khác. Hủy hoại danh thơm tiếng tốt của người khác, Trời Đất sẽ không dung tha như nhân gian kể lại câu truyện của Tôn Nham như sau:
"Lý Thúc Khanh là một vị quan thanh liêm chính trực, nhưng lại bị một đồng sự là Tôn Nham ghen ghét đố kỵ. Nhằm mục đích hủy hoại danh tiết của Lý Thúc Khanh, Tôn Nham đã tung tin đồn rằng: “Lý Thúc Khanh bề ngoài thì có vẻ đạo đức đấy, nhưng tôi thấy ông ta thật không bằng súc vật.” Mọi người hỏi tại sao ông lại có những lời lẽ như thế, thì ông ta ngang nhiên nói rằng: “Lý Thúc Khanh và em vợ có quan hệ bất chính với nhau, thử hỏi ông ta có còn là con người nữa không?” Thế là lời vu khống đã lan truyền đi khắp nơi.
Sau khi Lý Thúc Khanh nghe được, ông muốn hỏi em vợ cho ra lẽ nhưng lại không dám, cuối cùng , không hiểu tại sao mình lại bị dèm pha như vậy, nên ông đã chết vì quá uất ức. Về phần người em vợ, khi nghe được lời đồn đại cũng đau khổ khôn xiết, không giải được nỗi oan nên cũng đã thắt cổ tự vẫn.
Chỉ vài ngày sau khi hai người mất, trời bỗng nhiên mưa to dữ dội, sấm chớp đùng đùng một cách lạ thường. Tôn Nham đã bị bị sét đánh chết. Ngay cả sau khi được mai táng rồi Tôn Nham vẫn còn bị sét đánh nữa. Mộ phần và quan tài bị sét đánh bật tung ra, thi thể lộ ra ngoài.
Chỉ vì sự ghen ghét đã hủy hoại thanh danh của người khác, làm hại đến sinh mạng con người là một tội ác tày trời. Tôn Nham buông lời xấu xa đã làm tổn hại đến danh tiết và sinh mạng của hai người, bị Thiên Thượng trách phạt, vì thế nên Tôn Nham bị sét đánh đến hai lần. Thế nhân hãy lấy đây làm tấm gương cảnh tỉnh bản thân, không được ghen ghét tung tin mê hoặc, hủy hoại danh thơm tiếng tốt của người khác.”
Kính thưa cộng đoàn,
Mùa Vọng là mùa mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn chúng ta hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn chúng ta làm chứng cho Chúa. Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, chúng ta lại chỉ lo mở đường cho chính những tham vọng của chúng ta. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, chúng ta lại lo làm chứng cho một cái gì đó. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, chúng ta lại chỉ giới thiệu “cái tôi” của chính bản thân mình.
Hôm nay thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta dọn đường cho Chúa ngự đến: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng." Amen.
20. Sa mạc.
Sa mạc vốn là một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Thực vậy, những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Maisen phải lẩn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và lãnh nhận sứ mạng giải phóng dân tộc. Dân Do Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm trời, đây là thời gian thanh luyện cần thiết trước khi được đặt chân vào miền đất hứa. Và điển hình hơn cả đó là 40 đêm ngày trong sa mạc của Chúa Giêsu. Tại đây, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Qua phim ảnh, chúng ta thấy sa mạc đồng nghĩa với nắng cháy, nghèo nàn và trơ trụi. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bỏ bớt đi những cái không cần thiết, chúng ta mới lắng nghe được tiếng Chúa và thanh luyện được niềm tin?
Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi, Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết va làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.
Từ trong sa mạc, Gioan đã nghe được tiếng Chúa, đã lãnh nhận sứ mạng của ngài và đã loan truyền cho mọi người: Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống. Lời kêu gọi này, Chúa chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị nữa.
Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố cáo hành vi tội ác của Hêrôđê. Số phận của Gioan cho chúng ta thấy ông đã đi đến tận cùng sứ mạng đã lãnh nhận. Ông đã dám nói thẳng và nói thật bởi vì ông không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy, không có gì để mất mát.
Còn chúng ta thì khác. Chén cơm manh áo hay một ít vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thoả hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta trong thời buổi hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi và dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến nhiều người nếu không bán đứng lương tâm, nếu không uốn cong miệng lưỡi, thì cũng chấp nhận thoả hiệp bằng một thái độ yên lặng.
Mùa Vọng là mùa của sa mạc. Có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới dễ dàng nhận ra tiếng Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ nghị lực để gióng lên tiếng của Chúa: Hãy dọn đường Chúa đến.
21. Chết.
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng của năm phụng vụ cũng như mùa vọng của cuộc đời chúng ta. Chúng ta không phải chỉ đón nhận việc Chúa đến như một biến cố lịch sử trong đêm Giáng sinh, cũng không phải chỉ đón nhận việc Ngài đến mỗi lần chúng ta lên rước lễ, mà đặc biệt là còn đón nhận việc Ngài đến vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta, cũng như vào ngày sau hết của vũ trụ vật chất này. Vậy để đón mừng Chúa đến, chúng ta đã chuẩn bị như thế nào?
Chúng ta nên thực thi sứ điệp Gioan Tiền Hô đã gởi đến cho người Do Thái bên bờ sông Giócđan, đó là hãy ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi để quay trở về cùng Chúa. Ông đã thẳng thắn cảnh cáo họ: Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ cõi lòng sám hối của các ngươi, bằng không thì này đây cái rìu đã được đặt dưới gốc cây. Và cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị chặt và ném vào lửa.
Chúng ta hãy nghiêm chỉnh tự vấn lương tâm xem: nếu như lúc này Chúa đến với tôi, thì liệu tôi có sẵn sàng để trình diện, để tính sổ cuộc đời với Ngài hay không?
Có một cậu bé 17 tuổi, người Hoà Lan, đã từng trốn khỏi trại tập trung của Đức Quốc Xã hồi thế chiến lần thứ II, nhưng rồi cậu bị bắt trở lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành quyết, cậu đã gởi cho bố cậu lá thư như thế này:
“Thưa bố quý yêu!
Thật là khó khăn lắm con mới viết được những hàng chữ này cho bố, để báo tin rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, điều đó sẽ xảy đến với con. Và chỉ trong thoáng chốc, thế là con sẽ về với Chúa. Nói cho cùng đấy có phải là một cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi hay không? Con cảm thấy rõ ràng mình đang ở gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị mọi sự cần thiết để đón chờ cái chết. Con nghĩ rằng con sẽ đỡ đau khổ hơn bố nhiều vì con biết rằng mình đã xưng thú hết mọi tội lỗi và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản.
Con của bố”.
Ước chi vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, chúng ta cũng nói lên được như vậy. Mùa Vọng là thời gian thuận tiện để chúng ta chuẩn bị những hành trang cần thiết cho cuộc gặp gỡ định mệnh với Chúa. Thế nhưng cho đến lúc này, chúng ta đã làm được những gì để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mạng ấy.
22. Sứ điệp của Gioan Tẩy Giả
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Lc 3:1-6: Bản văn Tin Mừng ghi lại ơn gọi của Gioan và sứ điệp ông muốn gửi đến cho dân chúng.
Khuôn mặt Gioan Tẩy giả nổi bật trong thời gian Mùa Vọng, vì ông là vị Tiên Tri cuối cùng của Cựu Ước. Ông không chỉ loan báo mà con chứng kiến sự khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu và giới thiệu Ngài là Đấng Cứu Độ cho mọi người. Hoạt động của Gioan trong một bối cảnh lịch sử không gian, thời gian cụ thể căn cứ vào vị Hoàng đế bá chủ hoàn cầu lúc bấy giờ là César, như là một sự kiện cho thấy tính phổ quát của Tin Mừng được Gioan loan báo. Bản văn Tin Mừng ghi lại ơn gọi của Gioan và sứ điệp ông muốn gửi đến cho dân chúng.
I. Tìm hiểu Lời Chúa: Lc 3, 1-6
Thánh Luca đưa chúng ta tham dự vào sự khởi đầu sứ mạng của Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan: Gioan, quả nhiên, đã được trao sứ mạng chuẩn bị cho đồng bào của mình đón Đấng Messia sắp ngự đến.
Trước hết, bằng sự am hiểu lịch sử, Luca tham chiếu nhiều đến các dữ liệu lịch sử đương thời cả đạo lẫn đời "thời Hoàng Đế Tibêriô năm thứ 15, Philatô làm Toàn Quyền xứ Giudêa, Hêrôđê làm Thủ Hiến xứ Galilêa... Anna và Caipha là Thượng Tế..." cho thấy sứ mạng của Gioan và của Chúa Giêsu không phải chỉ dành riêng cho dân Do Thái mà còn cho mọi dân tộc cả đạo lẫn đời. Tất cả các nhân vật lịch sử này đều liên quan đến cuộc đời Chúa Cứu thế sau này...Luca quan tâm ghi các mốc thời gian đương thời để đánh dấu việc khởi đầu sứ vụ của Gioan Tẩy Giả và sự xuất hiện công khai của Đức Giêsu Kitô. Khi đánh dấu thời gian xuất hiện của Gioan và của Đức Giêsu Kitô với các Vua và Thượng Tế bấy giờ, Luca muốn xác định thời gian của hai sự xuất hiện này trong lịch sử trần thế. Tất nhiên, khi đưa những mốc thời gian sử liệu, Luca không chú tâm đến lịch sử trần thế mà chủ đích là muốn lồng lịch sử này vào trong lịch sử Cứu độ.
Tiếp theo, Luca trình bày vắn tắt tổng quát về lời rao giảng sám hối của Gioan. Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả bắt đầu tạo nên một giai đoạn chuẩn bị cận kề vì Đấng Cứu Thế đã đến. Lấy lại lời Tiên tri Isaia loan báo, Luca minh chứng Gioan xuất hiện là giai đoạn cuối cùng của Cựu ước. Giai đoạn này, Dân Chúa được kêu gọi trở về với Thiên Chúa của mình trong tinh thần sám hối và khiêm nhường. Sứ mạng của Gioan là loan báo lần cuối cùng về ơn Cứu độ của Thiên Chúa và bắt nối vào Đức Giêsu Kitô, Đấng đến thực hiện ơn Cứu độ.
Trong bối cảnh mùa vọng, Bản văn này được chọn đọc nhằm mục đích cho thấy rõ điều thiết yếu trong nỗ lực sống đức tin của Kitô hữu là phải khai mở trong tâm hồn một con đường cho Vương quốc của Đấng Cứu Thế ngự đến. Khai mở bằng việc chỉnh sửa lại ý hướng bản thân, bằng việc quyết tâm chống lại những tính hư tật xấu, và bằng việc chấm dứt những mối bất hòa với anh em.
II. Gợi ý sống Lời Chúa
1. Từ Gioan Tẩy Giả đến Kitô hữu ngày nay, cùng chia sẻ một sứ mạng:
Gioan Tẩy Giả có sứ mạng chuẩn bị dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến với dân Ngài. Sứ mạng của ông gắn liền với một bối cảnh lịch sử cụ thể như Thánh Sử Luca đã tỉ mỉ ghi lại những dữ liệu lịch sử, mốc thời gian mà Gioan Tẩy Giả xuất hiện. Chắn chắn không phải là việc thừa thãi khi Luca cố ý ghi lại những nhân vật lịch sử, mốc thời gian: "Đời Hoàng Đế Tibêriô năm thứ 15, Phongxilô Philatô làm Tổng trấn xứ Giuđêa… có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa". Chúa kêu gọi một con người gắn liền với một không gian, thời gian cụ thể để làm một việc Chúa muốn trong chương trình Cứu độ của Ngài, chương trình trải dài suốt lịch sử nhân loại này. Từng thời gian, từng không gian Chúa sẽ chọn gọi những người Chúa muốn để loan báo sứ điệp Cứu độ của Ngài cho mọi người. Nói cách khác, Gioan đã chấm dứt sứ mạng của mình cách tốt đẹp. Ngày nay, sứ mạng đó lại được tiếp nối qua ơn gọi Kitô hữu của mỗi người. Chúng ta không phải là những người của quá khứ, cũng không phải là những người được chọn cho tương lai mà là những con người của ngày hôm nay. Những Kitô hữu của Việt Nam, thời thế kỷ thứ XXI, sống trong đất nước Xã Hội Chủ Nghĩa… Thiên Chúa đã muốn như thế. Ngài đã chọn mỗi người chúng ta là những Gioan Tẩy Giả cho ngày hôm nay, cho những anh chị em thời đại của mình, nơi chốn của mình.
Như thế, trách nhiệm của mỗi Kitô hữu là phải xây dựng niềm tin và ý thức sứ mạng: mỗi tín hữu là một Gioan Tẩy Giả được sai đến trong gia đình, xứ đạo và môi trường xã hội của mình. Từ đó, biết mình phải làm gì, nói gì? để chuẩn bị cho anh chị em chung quanh biết đón nhận Chúa. Để Thực Sự là Gioan Tẩy Giả chính bản thân phải biết hối cải và sống niềm hy vọng chờ đón Chúa. Cần phải chuẩn bị thích đáng cho vai trò Tiền hô của mình. Chuẩn bị bằng mọi cách: từ cách mạng thông tin, đấu tranh chống khủng bố, ủng hộ phong trào hoà bình, đến xây dựng nền văn minh sự sống để chờ Chúa đến.
2. Sứ điệp của Gioan Tẩy Giả, một thông điệp thời sự cho Kitô hữu ngày nay:
Gioan kêu gọi mọi người sám hối, dọn đường cho Chúa ngự đến. Sứ mạng của ông đã kết thúc khi Đức Giêsu Kitô xuất hiện công khai để loan báo Tin Mừng, thực hiện công trình cứu độ. Gioan là Tiên tri cuối cùng của Cựu ước, là bản lề nối thời Cựu ước với Tân ước, nhưng không vì thế mà sứ điệp của ông không còn gia trị nữ. Đành rằng ngày nay, Đức Giêsu Kitô đã hoàn tất công trình cứu độ của Ngài, ơn cứu độ đã tuôn đổ cho nhân loại, nhưng để đón nhận được ơn cứu độ thì chính mỗi người phải biết chuẩn bị tâm hồn để lãnh nhận. Trên bình diện cá nhân cũng như trên bình diện xã hội ngày nay, Thiên Chúa muốn đến với con người, đến giữa lòng nhân loại cũng vẫn đang phải đi vào những con đường quanh co khúc khuỷu của lòng người thâm hiểm, những con đường đầy vực thẳm hố sâu của tệ nạn xã hội, những con đường cụt không lối ra của lòng hận thù, chiến tranh và bạo lực trong thế giới. Cho nên, sứ điệp của Gioan vẫn còn đó tính thời sự của nó. Con người và xã hội hôm nay rất cần phải dọn đường để Chúa ngự đến. Dọn từ tâm hồn mỗi người cho đến toàn xã hội. Bên cạnh đó, tuy dẫu ơn Cứu độ của Chúa đã được thực hiện, đã được trao ban nhưng vẫn còn rất nhiều người, nhiều nơi chưa được thấy.
Nhận ra tính thời sự trong sứ điệp của Gioan tẩy Giả sẽ giúp mỗi người sống mùa vọng này ý nghĩa hơn thiết thực hơn. Mùa vọng không chỉ là khoảng thời gian trong chu kỳ của niên lịch phụng vụ, đến hẹn lại lên để rồi làm mọi sự như một thói quen máy móc, thành một nếp sống nhàm chán. Nhưng nhờ đó, sống tích cực hơn, mùa vọng sẽ như làm một điểm mốc để kiểm điểm bản thân, làm mới lại sức sống đức tin; mùa vọng sẽ như là một dấu nhấn để can đảm dấn bước lên đường và mùa vọng sẽ như là một cánh cửa hy vọng mở ra một giai đoạn mới trong hành trình đức tin.
3. Canh tân cuộc sống theo lời Gioan Tẩy Giả, một đòi hỏi khần thiết:
Gioan tẩy Giả kêu gọi sám hối canh tân cuộc sống để chuẩn bị đón Chúa, nhưng bây giờ Chúa đã đến rồi, ơn cứu độ đã trao ban rồi. Mùa vọng chỉ là thời gian nhắc nhớ đến việc Chúa đến lần thứ nhất để hướng lòng chờ đón Chúa đến lần thứ hai. Vậy thì không còn thời gian để lần lữa, để trì hoãn hay để chuẩn bị mà bây giờ là thời gian dứt khoát đón nhận hay không đón nhận Chúa và ơn cứu độ của Ngài. Chính vì thế, lời mời gọi sám hối, canh tân cuộc sống là một đòi hỏi khẩn thiết. Chúa đã đến nhà và Ngài đang đứng gõ cửa chờ đợi mỗi người mở cửa để Ngài vào. 'Hãy lấp mọi hố sâu, hãy san mọi núi đồi, sám hối canh tân là một đòi hỏi của lòng trong sạch, phải loại bỏ mọi tư tưởng tội lỗi xấu sa thấp hèn, mọi dục vọng bất chính. Chính chúng là cội rễ của mọi tính hư tật xấu: kiêu ngạo, ích kỷ, ghen tuông, hung hăng, bạo lực… Đức Kitô không thoả hiệp với sữ xấu, không ở chung với chúng. 'Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng', sám hối canh tân là một đòi hỏi về sự công chính, sự công chính trong chiều cao đối với Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng và là Chủ tể muôn vật; là Cha đầy lòng nhân từ, chúng ta sống công chính với Ngài khi tôn thờ và đón nhận Ngài với tất cả tình yêu mến. Sự công chính trong chiều ngang đối với anh chị em, họ là những người cùng chung sống, cùng đồng hành với chúng ta. Biết bao người anh chị em của chúng ta đang lâm vào cảnh bất hạnh, khó nghèo, mồ côi. Sống công chính với họ là chúng ta phải biết yêu thương cảm thông và làm sao mang lại cho họ phẩm giá và sự giải thoát, làm sao chia sẻ cho họ hạnh phúc của mình. ' Con đường gồ ghề hãy san cho bằng", sám hối canh tân là một đòi hỏi về đời sống nội tâm. Tâm hồn chúng ta gồ ghề bởi biết bao những chi phối, lo toan của cuộc sống hàng ngày. Cơm áo gạo tiền, danh vọng, quyền lợi… chiếm hữu tất cả tâm trí, tình cảm của cá nhân, khiến cho tâm hồn không còn chỗ cho Chúa nữa. Chúa đã đến, chúng ta phải liên kết chặt chẽ với Ngài. Trong tâm khảm phải níu giữ Lời Ngài, trong cuộc sống phải thực thi Lời Ngài.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã đến để ban tặng cho chúng ta hồng ân cứu độ. Trong tâm tình chúc tụng, ngợi khen Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Hội Thánh có sứ mạng loan báo Tin mừng cứu độ. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần Hội Thánh luôn biết đồng hành, hiện diện với con người và xã hội hôm nay để làm cho thế giới này ngày càng phát triển những gía trị Tin Mừng.
2. Chúa đã đến hơn hai ngàn năm qua nhưng thế giới ngày này vẫn còn biết bao nhiêu tệ nạn xã hội, chiến tranh, hận thù và bất công. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia luôn biết đối thoại, cộng tác với nhau xây dựng một thế giới văn minh, hòa bình và tràn đầy tình người.
3. Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, đặc biệt trong năm thánh Giáo Hội Việt Nam được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần để ai nấy biết nỗ lực canh tân đổi mới cuộc sống theo những giá trị của Tin Mừng.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót, Chúa đã yêu thương cho Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến để cứu độ, giải thoát chúng con khỏi kiếp nô lệ cho tọi lỗi, ma quỉ và sự chết. Xin thương đoái nhận những ý nguyện chân thành của chúng con, cho chúng con biết dọn mình sẵn sàng đón chờ ngày Đức Kitô ngự đến trong vinh quang. Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
23. Sa mạc.
Thomas Morton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Mặc dù theo Anh giáo, nhưng khi còn trẻ, chàng đã sống như một kẻ vô thần. Sau khi trở lại, chàng đã vào dòng khổ tu. Chàng đã ghi lại biến cố làm đảo lộn cuộc đời chàng như sau:
Hôm đó tình cờ tôi bước chân vào một nhà thờ Công giáo. Điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là một cô gái duyên dáng đang quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng, không để ý tới những gì xảy ra chung quanh. Tôi tự hỏi: Tại sao một thiếu nữ trẻ đẹp lại có thể quỳ cầu nguyện trong một ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm như thể bị hút hồn?
Dĩ nhiên cô gái vào nhà thờ không phải là để cho người ta nhìn ngắm, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Cuộc gặp gỡ thân tình của cô gái với Thiên Chúa trong khung cảnh vắng lặng ấy đã là một trong những yếu tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này.
Ngôi thánh đường, trong bầu khí trang nghiêm và thinh lặng ấy, phải chăng là hình ảnh của một sa mạc, nơi con người có thể gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa giữa dòng chảy của một cuộc đời nhiều bon chen và dao động này.
Thực vậy, theo Kinh Thánh sa mạc vừa là nơi con người chịu thử thách, vừa là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa. Như chúng ta thường thấy: sa mạc thì khô cằn sỏi đá. Ban ngày thì nắng cháy, còn ban đêm thì lạnh buốt.
Đó chính là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng và sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói khát và lạc hướng. Thảm trạng ấy sẽ giúp con người ý thức được cái bé bỏng của thân phận, cái vô nghĩa của đời mình, bởi vì con người là gì nếu không phải chỉ là cát bụi.
Nhận thức này sẽ giúp chúng ta từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng và ngạo mạn, đồng thời mở rộng tâm hồn mình cho ơn sủng của Chúa hoạt động.
Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con người đến điểm hẹn, gặp gỡ với Thiên Chúa và đón nhận những ơn phúc của Ngài.
Trong cuộc sống thiêng liêng, càng biết vào sa mạc, nghĩa là càng sống thinh lặng và cầu nguyện, thì càng cảm nghiệm được sự gặp gỡ với Thiên Chúa một cách mật thiết và gắn bó hơn.
Dân Do Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm trời. Trong thời gian này, họ đã phải gặp nhiều thử thách, nhưng cũng đã được chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm vì yêu thương họ.
Chúa Giêsu trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, cũng đã vào sa mạc suốt bốn mươi đêm ngày. Và Phúc âm đã ghi nhận trong thời gian này, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Còn chúng ta thì sao? Giữa những bon chen của cuộc sống, chúng ta có biết vào sa mạc, có biết dành lấy những giây phút thinh lặng để thực sự cầu nguyện, gặp gỡ và kết hiệp mật thiết với Chúa hay không?
24. Tiếng kêu trong sa mạc
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Lc 3:1-6: Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta hãy cày xới và vun trồng cho sa mạc tâm hồn chúng ta nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế: "Có tiếng kêu trong sa mạc: 'Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi".
Một mẩu chuyện của người Phi Châu kể lại rằng: Một người Ả-Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát từng giờ lâu. Có người hỏi tại sao làm thế. Anh ta giải thích như sau: "Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được làm một ngôi vườn xinh tươi".
Sa mạc mong mỏi được trở thành ngôi vườn, cũng vậy tâm hồn con người luôn hướng về điều thiện. Khoảng cách giữa sa mạc và ngôi vườn xinh tươi đó là nước non, điều kiện thời tiết và nhất là công lao của con người. Không có sự chăm sóc của con người, sa mạc vẫn tiếp tục là bãi cát khô cằn. Cõi lòng con người cũng sẽ mãi mãi là một sa mạc cằn cỗi nếu nó không được vun xới và tưới bằng cố gắng, phấn đấu, hy sinh và tình yêu. Phải tốn biết bao là kiên nhẫn, biết bao chống đỡ, biết bao cương nghị, biết bao mồ hôi… để biến sa mạc của tâm hồn thành một khu vườn tươi tốt… Sa mạc tâm hồn của chúng ta sẽ khóc mãi nếu chúng ta không ra tay cày xới và vun trồng mỗi ngày.
Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta hãy cày xới và vun trồng cho sa mạc tâm hồn chúng ta nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế: "Có tiếng kêu trong sa mạc: 'Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi". Đó là tiếng kêu của Gioan Tiền Hô. Là tiếng kêu trong sa mạc, Gioan không thể vắng bóng trong Mùa Vọng Giáng Sinh, vì đời sống của Gioan đã gắn liền với đời sống của Chúa Cứu Thế như "tiếng kêu" gắn liền với Đấng là "Lời của Thiên Chúa". Đàng khác, đời sống của vị Tiền Hô chỉ có lý do khi có Đấng Cứu Thế xuất hiện phía sau; và đời sống của vị Tẩy Giả làm phép rửa sám hối chỉ có ý nghĩa khi có Chúa Giêsu, Đấng sáng lập bí tích Thánh Tẩy để tha tội.
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã làm xuất phát những tiếng kêu qua các Ngôn Sứ trong Cựu Ước để tiên báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến. Là Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước, tiếng kêu của Gioan Tiền Hô đã đúc kết, tổng hợp mọi tiếng kêu của các Ngôn Sứ khác, như tiếng kêu của Isaia, tiếng kêu của Êlia, tiếng kêu của Giêrêmia, của Barúc (Bđ.1). Chính vì vậy "Tiếng kêu trong sa mạc" là tên gọi của Gioan, một tên rất mông lung, có vẻ vô danh, nhưng lại rất súc tích: "Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ".
Thưa anh chị em,
Ngày nay, khi nói "Tiếng kêu trong sa mạc", người ta thường hiểu là tiếng kêu vô ích, lời hô hào không được ai hưởng ứng, không được đón nghe. Nhưng tiếng Gioan đã kêu lên trong sa mạc không phải là "tiếng kêu trong sa mạc" theo nghĩa đó. Trái lại, tiếng kêu ấy đã lôi kéo đủ thứ mọi hạng người từ khắp sứ Palestine đến với Gioan trên bờ sông Giođan. Tiếng ấy mặc dù kêu lên trong sa mạc nhưng đã vang vọng tới tận thủ đô Giêrusalem và một phái đoàn chính thức đã được các vị lãnh đạo tôn giáo sai đến chất vấn Gioan tận nơi sa mạc.
Tiếng kêu của Gioan không vô ích và cũng không lỗi thời, vì ngày nay, sau gần 2000 năm, tiếng kêu ấy vẫn còn tác động mạnh mẽ trong lòng nhiều người. Những điều xưa kia Gioan nói với dân chúng, hiện nay vẫn còn hợp thời, vẫn còn có giá trị. Và trong thực tế, ở khắp nơi trên thế giới, bao lâu hỗn loạn, tranh chấp, hận thù vẫn còn thì công cuộc dọn đường cho Chúa đến vẫn còn cấp bách. Như vậy, tiếng kêu của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết để con người thay đổi đời sống cho tốt đẹp hơn.
Mỗi Mùa Vọng, tiếng kêu của Gioan trong sa mạc lại lay động, thức tỉnh chúng ta; đặt chúng ta đối diện trước một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã hội, để chúng ta xét mình, kiểm điểm nếp sống, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm trọn hảo, để dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa Cứu Thế ngự đến. Tuy nhiên, đối với một số người, tiếng kêu của Gioan đã trở thành thực sự là "tiếng kêu trong sa mạc", không được họ lắng nghe và hưởng ứng; bởi vì lòng họ là những đô thị ồn ào, nhộn nhịp, hỗn độn, ô nhiễm…, lòng họ thiếu sự thanh vắng, cô tịch của sa mạc, nên họ không nghe được tiếng kêu của Gioan: hãy dọn đường cho Chúa. Tiếng kêu của Gioan không gặp được một âm vang nào trong lòng họ, hoặc có đi nữa thì cũng chỉ là nhất thời và hời hợt như "hạt giống rơi vào bụi gai" mà Chúa đã giải thích là "những hạng người nghe lời Chúa, rồi bị những mối bồn chồn lo lắng, đam mê khoái lạc trên đời làm nghẽn đi mà không sinh hoa kết quả được" (Mt 13,18-23).
Vì vậy, muốn nghe được tiếng kêu của Gioan Tiền Hô thì phải tạo cho lòng mình trở nên sa mạc. Sa mạc là nơi thuận tiện cho cuộc hẹn hò gặp gỡ thân tình để nghe rõ tiếng Chúa hơn và để nhận lãnh sứ mạng của mình. Như ngôn sứ Hôsê đã viết: "Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israen vào sa mạc, vào nơi thanh vắng, để ở đó, lòng kề lòng, Ta sẽ tâm tình với nó" (Hs 2,16). Ở sa mạc Sahara ngày nay, người ta vẫn còn thấy có những cộng đoàn tu sĩ, như các Tiểu đệ, Tiểu muội Chúa Giêsu, theo tinh thần Cha Charles de Foucauld, các tu sĩ ấy dù ở đâu cũng phải qua một thời gian tu luyện sống với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa gọi giữa sa mạc, giữa cảnh cô tịch, nghèo khó, để sau khi đã có kinh nghiệm cụ thể về sa mạc các tu sĩ ấy có thể tạo cho lòng mình trở nên sa mạc trong khi dấn thân phục vụ con người ở giữa lòng đời. Đó chính là công việc vun xới cho sa mạc nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta không đi vào sa mạc như các tu sĩ Tiểu đệ, Tiểu muội của Chúa Giêsu được, nhưng chúng ta cần phải tạo cho lòng mình trở thành một sa mạc, một nơi trầm lặng, yên tĩnh, bình an, để dễ dàng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi giữa cuộc sống ồn ào, nhộn nhịp, bề bộn, căng thẳng nầy. Có nghe được tiếng Chúa nói qua tiếng kêu của Gioan Tiền Hô hôm nay, chúng ta mới bắt tay vào việc dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa ngự đến: Phải sửa lại đường xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay thẳng những lối đi quanh co theo sở thích trái chướng của mình, lúc thế này khi thế khác… Phải trung thành trước sau như một, thi hành mọi đòi hỏi của Tin Mừng. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa, với tha nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình Chúa, tình người đến với hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần trở thành huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn, sẵn sàng cho Chúa đến, rồi cuối cùng như Gioan loan báo: "Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ".
25. Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa
MINH HỌA LỜI CHÚA - Nguyễn Hiếu
1. Điều gì thúc đẩy tôi?
Theo truyền thuyết, lúc nhà danh họa Leonardo da Vinci vẽ bức tranh “Bữa Tiệc ly” của Chúa Giêsu, ông có việc cải vã với một người và đi đến xô xát nhau. Sau đó, ông vào phòng làm việc, cầm cọ lên định vẽ gương mặt của Chúa, nhưng ông không phác họa được nét nào. Ngồi mãi không vẽ được, buộc lòng ông phải quyết định làm một việc mà ông tin chắc nó sẽ giúp ông vẽ được gương mặt Chúa… Ông đặt cọ xuống, đi thẳng đến gặp người ông vừa ẩu đả và làm hòa. Sau đó, ông trở lại phòng làm việc, và vẽ được gương mặt Chúa dễ dàng.
***
Có bao giờ tôi trải qua một kinh nghiệm như ông Leonardo không? Điều gì thúc đẩy tôi thống hối tội lỗi?
Điều khiến tôi thống hối tội lỗi, không những vì tội lỗi đưa đến hỏa ngục, mà nhất là vì tội lỗi ngăn cản Chúa đến với tôi, không thể đem ơn cứu rỗi cho tôi và mọi người cũng như ngăn cấm ông Leanardo vẽ gương mặt Chúa. (Theo “Vision 2000”). Trong mùa Vọng, thánh Gioan Tiền hô mời gọi chúng ta dọn đường cho Chúa đến: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt xuống thắp…” Thung lũng, núi đồi chính là tội lỗi chúng ta. Chúng ta phải lo sám hối ăn năn, để dọn đường cho Chúa đến cứu thoát chúng ta và mọi người.
2. Cú sút này sẽ trật đích
Một buổi chiều Chúa nhật, hàng triệu người Mỹ đang theo dõi truyền hình trận tranh giải toàn quốc môn Golf. Vào một phút gay go, máy thu hình tập trung vào cầu thủ Jack Nicklaus. Anh đang giữ banh, chuản bị sút, nhưng đột nhiên anh bỏ mặc quả banh và thốt to: “Cú sút này sẽ trật đích!...” Về sau Nicklaus giải thích tại sao anh làm thế. Anh nói: Trước mỗi cú sút bóng, tôi sắp xếp trong trí tôi thế nào cho nó trúng đích. Nếu thấy nó không thể trúng đích được, tôi phải ngưng và sắp xếp lại…
***
Điều Jack Nicklaus thực hiện trên sân Golf chính là điều Chúa dạy chúng ta làm hằng ngày, nhất là trong Mùa Vọng này. Chúng ta phải sắp đặt tâm hồn xứng đáng đón rước Chúa hằng ngày, nhứt là trong ngày Người Giáng Sinh và ngày Người phán xét. Nếu thấy tâm hồn không thể đón rước Chúa được vì tội lỗi, chúng ta phải thay đổi cách làm cách sống, như Jack Nichlaus sắp xếp lại các sút bóng cho trúng đích. (Theo Cha M. Link)
3. Con đã chuẩn bị sẵn sàng
Tạp chí This Week có thuật câu chuyện cảm động của cậu trẻ 17 tuổi, người Hòa Lan, trốn trại tập trung Đức Quốc Xã, nhưng đã bị bắt lại và bị kết án tử hình. Trước khi bị hành hình, cậu viết thơ gởi cho bố cậu với mấy lời sau đây: “Bố thân mến, con đã bị kết án tử hình!... chẳng bao lâu nữa, điều đó sẽ xảy đến với con, và con sẽ được về với Chúa. Con cảm thấy con đang ở gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ Chúa đến với con… Con đã xưng hết tội lỗi, và hiện giờ tâm hồn con hoàn toàn thanh thản… Ký tên: Kless
***
Phúc cho tôi, nếu tôi nói được như cậu Kless: “Con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ Chúa đến với con…” Nếu Chúa đến giờ này, tôi có xứng đáng đón rước Chúa không? Nếu không, tôi sẽ làm như cậu Kless: “Con đã xưng hết tội lỗi, và hiện giờ tâm hồn con hoàn toàn thanh thản…”
4. Người giàu có nhất
Một chủ nông trài về nhà sau một chuyến du lịch. Sau khi gặp gỡ gia đình mừng rỗ, ông đi thăm nông trại và người đầu tiên ông gặp là người tá điền trung thành nhất của ông. Ông gặp ngay lúc người tá điền vào bàn ăn, và trước khi ăn, người đó đọc kinh cầu nguyện và cám ơn Chúa.
Thấy vậy, ông ta nói: - Nếu Chúa ban cho tôi bữa ăn tồi tệ như thế, tôi không bao giờ cám ơn Chúa.
Nghe vậy, người tá điền liền nói: - Tôi rất mừng được gặp lại ông hôm nay, vì tối qua tôi mơ thấy người giàu nhất trong làng này sẽ qua đời trong đêm nay.
Người chủ nông trại nghe nói thế thì hết sức bối rối lo sợ, vì có ai là người giàu nhất trong làng nầy.
Thế là tối hôm đó ông ta mời bác sĩ đến khám sức khỏe. Bác sĩ bảo ông rất khỏe mạnh, dù vậy ông vẫn ăn ngủ không yên. Đêm đó ông nằm mãi vẫn không ngủ được, bỗng có tiếng gõ cửa. Ông hé cửa ra, một gương măt hớt hải loan báo:
- Thưa ông, người tá điền của ông vừa qua đời:
Người chủ ông nông trại thở ra nhẹ nhõm, vì tử thần chưa gõ cửa nhà ông. Nhưng ông lại chợt nghĩ: “Người giàu nhất trong làng này không phải là ta…”
***
Chúng ta mong đợi Chúa Cứu Thế đến giải thoát chúng ta khỏi khốn khổ. Một trong những khốn khổ của con người là nghèo khó, nhứt là nghèo khó tâm hồn. Vì thế thánh Phaolô nói Chúa đến ban cho chúng ta sự giàu có: “Sự giàu có mà Thiên Chúa mang đến cho con người là gì nếu không phải là những giá trị vĩnh cửu, những gì sẽ mãi mãi tồn tại bên kia cái chết. Chính người tá điền trên đây đã được Chúa Cứu Thế đến ban cho sự giàu có đó. Thế nên ông ta là người giàu có nhiều còn ông chủ nông trại trên đây tuy có nhiều của cải vật chất, nhưng lại là người nghèo về tinh thần, về ơn Chúa!... (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1)
5. Tìm Chúa
Một thiếu nữ nghe nói Chúa ở trên ngọn núi tận cùng trái đất. Nàng muốn tìm gặp Chúa để Chúa cứu giúp nàng. Nàng đi lên ngọn núi đó. Nhưng ngay lúc nàng khởi sự leo lên thì Thiên Chúa tự nhủ:
- Làm thế nào Ta chứng tỏ cho loài người biết Ta thương mến họ. Ta biết rồi: Ta sẽ xuống núi ở giữa họ.
Thế là khi cô thiếu nữ leo lên đến đỉnh núi, thì Chúa không còn ở đó nữa. Nàng nghĩ:
- Thiên Chúa không có ở đây, như thế là chẳng có Thiên Chúa.
***
Câu chuyện trên muốn nói với chúng ta: Nhiều khi chúng ta tìm Chúa sai chỗ: Thiên Chúa đã xuống thế làm ngời ở giữa chúng ta. Ngạn ngữ Do thái có câu: “Thiên Chúa ngự ở bất cứ nơi nào chúng ta để cho Ngài vào ở”.
Muốn Chúa đến ở với chúng ta, cứu vớt chúng ta, chúng ta phải nghe tiếng Người: “hoán cải tâm hồn”, phải nghe lời thánh Gioan Tiền hô: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Rồi mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”
(Theo “Phút Cầu nguyện cuối ngày”, tập 1).
26. Suy niệm của Lm. Anfonso
Tin mừng Lc 3:1-6: lời mời gọi của vị Gioan Tiền hô có còn hữu hiệu cho chúng ta ngày nay không? Chúng ta đang sống trong mùa Vọng, không phải là mùa đợi chờ một biến cố đã xảy ra trong quá khứ, cũng không phải là mùa để trang hoàng cây thông, ông già tuyết...
Suy niệm:
Niên lịch chúng ta sử dụng tới nay đã là năm thứ 2018. Vậy đâu là mốc điểm để bắt đầu tính niên lịch cho đến năm hiện nay? Đó là cách tính lịch được tu sĩ Dionysius Exiguus đặt ra vào thế kỷ thứ VI khi ngài tính lịch cho các ngày lễ Phục Sinh và được dùng với các lịch Julius và Gregory. Theo đó, Công Nguyên là kỉ nguyên theo truyền thống được bắt đầu bằng năm của Chúa Giêsu sinh ra. Các năm trước đó được gọi là trước Công Nguyên hay trước Tây lịch. Điều này cho thấy, việc sinh hạ của Chúa Giêsu không phải là một huyền thoại mà có tính chất lịch sử. Và lịch sử ấy được Thiên Chúa hoạch định với một chương trình cứu độ nhân loại, nên còn được gọi bằng lịch sử cứu độ.
Bài đọc I trình bày về tiên tri Barúc xuất hiện vào sau thời kỳ dân Chúa được hồi hương sau thời gian lưu đày. Nhưng dân chúng lại thất vọng vì thấy cảnh khó khăn trong việc tái thiết Đền thờ và xây dựng lại đất nước. Trong bối cảnh đó, tiên tri Barúc đã khích lệ dân Chúa với một niềm hân hoan về việc dân được Thiên Chúa đưa từ một cuộc sống đau khổ lầm than trở về quê cha đất tổ. Như vậy, giữa bao thăng trầm lịch sử, Thiên Chúa không hề bỏ rơi nhưng luôn đồng hành và dẫn dắt dân.
Thiên Chúa còn ở với dân qua Người Con Một. Chính thánh sử Luca cũng đã trích lại sự kiện mang tính cụ thể thời gian chuẩn bị cho cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu. Ðời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế. Vào thời điểm này, Chúa đã kêu gọi Gioan, con ông Giacaria, trong hoang địa rao giảng phép rửa sám hối xin ơn tha tội. Gioan mời gọi dân chúng thực hành những việc cụ thể: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” như lấp mọi hố sâu, bạt mọi núi đồi, sửa cho thẳng con đường cong queo, san cho bằng con đường gồ ghề...
Và liệu lời mời gọi của vị Gioan Tiền hô có còn hữu hiệu cho chúng ta ngày nay không? Chúng ta đang sống trong mùa Vọng, không phải là mùa đợi chờ một biến cố đã xảy ra trong quá khứ, cũng không phải là mùa để trang hoàng cây thông, ông già tuyết, những dây kim tuyến với đèn màu nhấp nháy như ở tại các cửa hiệu người ta trang trí thật rực rỡ, trang bị những chiếc nón ông già noel cho nhân viên bán hàng để bắt mắt khách hàng, hy vọng khách tới cửa hiệu họ đông hơn. Thưa không! Mùa Vọng mời gọi chúng ta về một sự thống hối với niềm hy vọng và hướng về phía trước, hầu có thể sẵn sàng để đón nhận ơn cứu độ khi Chúa đến.
Câu chuyện “Tìm Chúa” trích từ Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập 1 kể về một chàng thanh niên nọ nghe nói Chúa ở trên ngọn núi tận cùng trái đất. Anh muốn tìm gặp Chúa để Chúa xin Chúa cứu giúp. Nhưng ngay lúc anh khởi sự hành trình leo núi thì Thiên Chúa tự nhủ:
- Làm thế nào Ta chứng tỏ cho loài người biết Ta thương mến họ? Ta biết rồi: Ta sẽ xuống núi và ở lại giữa họ.
Khi leo đến đỉnh núi, tìm Chúa không gặp, anh thanh niên kia bèn nghĩ: Chẳng có Chúa, vì nếu có thì Chúa đã ở đây.
Vâng, nhiều khi chúng ta tìm Chúa sai chỗ: Thiên Chúa đã đi bước trước, xuống thế làm ngời ở giữa chúng ta. Ngài muốn cứu vớt chúng ta, và chờ đợi chúng ta nghe tiếng Người để “hoán cải tâm hồn” để thấy ơn Thiên Chúa cứu độ.
Lời thánh Gioan Tiền hô trong đoạn Tin Mừng mời gọi mỗi chúng ta đi vào sa mạc hoang vắng để có thể dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa. Đi vào nơi hoang vắng không phải là tìm mua một vé máy bay qua Sahara hay leo lên dãy Hoàng Liên Sơn. Ở giữa sự nhộn nhịp của chốn phồn hoa đô hội cũng có thể có những sa mạc lòng. Đó chính là khi chúng ta dành ít phút có thể đầu ngày sống, hay trước khi đi ngủ, khi lái xe một mình trên phố, hoặc quỳ lại bên Chúa ít phút sau giờ Lễ…
Chúng ta được mời gọi đến nơi hoang vắng để gặp Chúa bằng cách ra khỏi nếp sống bon chen thường nhật, bỏ qua một bên những lo lắng bộn bề của cuộc mưu sinh, khỏi con người cũ cùng những tính cố hủ, khỏi những lời kinh nhẩm đi nhẩm lại theo một thói quen mà có khi đọc cách máy móc. Và với chính kinh nghiệm cá nhân của mỗi người, chúng ta có thể cảm nhận được Chúa còn hoán cải chúng ta khỏi những tâm tư, thái độ và lời nói đầy kiêu ngạo, nóng giận và ghen ghét, trước những ước muốn chứng tỏ quyền lực làm tổn thương biết bao người trong cuộc sống hàng ngày, khỏi những tật xấu đam mê, khỏi những yếu đuối đòi hỏi tính xác thịt, lòng ham mê của cải, hay khỏi tính ù lì lười biếng, khỏi sự nguội lạnh trong đời sống đức tin…
Trong bài giảng Thánh lễ sáng thứ ba mồng 4/12/2018 tại nhà nguyện Santa Marta, Đức thánh cha Phanxicô mời gọi tín hữu đừng nói xấu, gây hại cho những người khác, khiêm nhường hạ mình như chính Chúa Giêsu đã hạ mình xuống trên chúng ta. Người Kitô hữu hoán cải tâm hồn, xây dựng hòa bình phải là người luôn tiến về phía trước, bắt chước Thiên Chúa, đi bước trước trao tặng Con Ngài đến để làm hòa chúng ta với Chúa, vậy chúng ta cũng hãy trở nên những Kitô hữu biết lấp đi những hố sâu ngăn cách nhau, thay vì xây những bức tường, chúng ta hãy xây những cây cầu để nối lại tình thân với nhau.
Lạy Chúa Giêsu là Hoàng Tử Bình An, xin cho chúng con biết sửa cho ngay những nẻo đường quanh co trong con người mình để có thể sẵn sàng đón Chúa đến. Amen.
27. Lá phải thay đi
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Khoa Toàn)
Cứ thử tưởng tượng khuôn mặt của bạn bị dị hình vì bẩm sinh, hoặc do tai nạn, và bạn đuợc 'ráp' một khuôn mặt khác của ai đó đã... chết rồi! Thân hình "quanh co uốn cho ngay" hoặc "lồi lõm san cho phẳng" thì còn có thể tin đuợc, nhưng thay cả khuôn mặt thì cứ như trong chuyện thần thoại hoang đuờng.
Mà không thần thoại hoang đuờng làm sao đuợc vì chỉ cách đây vài thập niên, đã có ai dám nghĩ dám tin rằng tim gan mình đuợc thay bằng tim gan người khác! Hoặc phẩu thuật mà chẳng cần kéo cần dao! Và với những tiến bộ vượt bực về y khoa, chuyện tưởng chừng như không thể kia sẽ trở thành hiện thực một ngày không xa lắm.
Nhưng thay hình đổi dạng bên ngoài không phải là trọng tâm và chủ đích của mùa Vọng. Mùa mong "trời cao đổ sương xuống" và mùa đợi "mây mưa Đấng Cứu Tinh" đòi buộc sự lột xác toàn diện của mỗi một người. Một thay đổi từ tận nguồn căn. Từ trong ra và từ đáy rễ.
Như tiên tri Ba-rúc bắt đầu bằng thay đổi xiêm y: "Hỡi Giêrusalem! Hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và muôn đời mặc lấy ánh huy hoàng của vinh quang Thiên Chúa, hãy khoác vào mình đức công chính của Thiên Chúa như tấm áo choàng, đội lên đầu vinh quang của Đấng vĩnh cửu.."
Và thay đổi ngay cả tên gọi mình: "Mãi mãi Người sẽ gọi tên ngươi là 'Bình-an-xây-dựng-trên-công-chính' và 'Vinh-quang-phát-xuất-tự-lòng-tôn-sùng-Thiên-Chúa." Từ nơi hoang địa, Gioan Tiền Hô chân đất mình trần kêu gọi mọi người quanh bờ sông Giođan trù phú hãy vuợt ra khỏi những sa mạc hoang vắng đời mình. Thật thế, tuy sống thảnh thơi trong dinh thự lầu cao giữa những phố phường ngựa xe tấp nập, chúng ta dễ tự tạo cho mình những sa mạc xa vắng cách ly. Với gia đình. Với bà con chòm xóm. Với bạn hữu thân quen...
Và điều cực kỳ nguy hiểm là khi sống cô lập trong những hoang địa tự tạo kia, chúng ta xem thường và dần quen với ngàn muôn thú dữ. Thú dữ của ganh tỵ ghen tương. Thú dữ của đua đòi thèm muốn. Thú dữ của quyền bính tham lam.
Mùa Vọng, vì thế, không phải là thời gian thụ động bó gối chờ mong mưa mây và sương mai từ trời cao đổ xuống, mà là lúc tay áo xắn cao vượt ra khỏi những tháp ngà cao đóng khung vị kỷ. Hãy xẻ núi phân chia và hãy bạt đồi hiềm khích. Hãy uốn nắn những dối trá quanh co và hãy san bằng những đảo điên lồi lõm.
Thật dễ dàng khi thản nhiên sống nhỡn nhơ trong sa mạc cô vắng đời mình. Nhưng một đời sống xiềng xích không biết người chỉ biết mình kia không mang nghĩa "tốt lành" theo ý Đấng Tạo Thành. Mùa Vọng không chỉ là mùa của đợi chờ. Đó là mùa lá vàng phải rụng xuống. Là mùa cây cỏ phải khô đi...
28. Chúa Nhật II Mùa Vọng
"Mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa" (Lc 1,6)
Thánh Gioan Tẩy Giả là một trong những nhân vật nổi bật vào các ngày của Mùa Vọng. Bối cảnh cuộc đời và chính cách sống của ngài đã nói lên tâm tình của Mùa Vọng. Ngài đóng vai trò Tiền Hô, sống chay tịnh và kêu gọi mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng, chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón Chúa Kitô, Đấng cứu độ loài người. Chúa Nhật II Mùa Vọng, Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi chúng ta thực hành tâm tình cầu nguyện thiết thực và sâu sắc hơn. Tâm hồn hướng về Chúa với việc dọn đường, sửa lối, lấp đầy, san bằng để có thể đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
Lời mời gọi của Thánh Gioan nhắc lại lời của tiên tri Iasia với những từ ngữ rất tượng hình và hổn độn. Đó cũng chính là tình trạng tâm hồn của mỗi chúng ta, do khuấy động của cuộc sống bên ngoài và tội lỗi của chúng ta.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn luôn có những tâm tình và thời giờ dành cho Chúa cũng như nhìn lại những gì mình đã sống, đã làm. Nhưng có lẻ chưa đủ nó còn rất nhiều thứ chi phối những tác động của môi trường bên ngoài ồn ào, bề bộn do những nhu cầu hằng ngày cũng như những cám dỗ làm cho chúng ta không trung thành với Chúa. Nhưng nhất là tình trạng tâm hồn của chúng ta với những lo toan của cuộc sống âu lo, buồn phiền và tội lỗi. Giờ đây với tâm tình Lời Chúa của Chúa Nhật II Mùa Vọng chúng ta nhìn lại chính tâm hồn mình và quyết tâm điều chỉnh lối sống của mình. Chuẩn bị, sửa sang mảnh đất tâm hồn của mình để đón Chúa để nó là nơi tốt đẹp, sạch trong cho ơn cứu độ của Chúa.
Mùa Vọng là thời gian quý báu để chỉnh sửa tâm hồn mình. Một thời gian chờ đợi trong niềm vui và tin tưởng vì chúng ta biết rằng chắc chắn ơn cứu độ sẽ dành chúng ta nếu chúng ta thật tâm quay về với Chúa. Thời gian này cũng mời gọi chúng ta dành thời giờ cho Chúa nhiều hơn, lắng động nhiều hơn và hướng lòng lên Chúa nhiều hơn.
Sống với tâm thế của một tâm hồn khao khát và ước mong thật sự Chúa đến ngự vào tâm hồn ta. Tư thế của người cầu nguyện, chờ đợi và thiện chí muốn sửa đổi đời sống của mình. Một đời sống nội tâm kết hợp với Chúa mật thiết không chỉ trong giây phút hiện tại mà còn liên lỉ trong mỗi ngày sống và suốt hành trình đời người của chúng ta.
29. Dọn đường, dọn lòng - Anmai, CSsR
Hơn bao giờ hết, người Việt Nam đang phải đối diện với "văn hoá giao thông" vì lẽ mở mắt bước chân ra đường lúc nào thì đều ngán ngẫm với cảnh kẹt xe. Nguyên nhân kẹt xe do lòng đường thu hẹp bởi các công trình đang thi công. Thế nhưng, nguyên nhân chính vẫn không phải là nguyên nhân ấy nhưng lại là nguyên nhân do lòng con người bị thu hẹp lại. Khi ra đường, ai cũng giành đi trước thì ai sẽ nhường cho ai để rồi kẹt xe là chuyện dĩ nhiên. Người ta càng gào càng thét nhưng lòng người ta không lay chuyển, không biến đổi thì muôn đời vẫn bị kẹt xe.
Để đi đến một nơi nào đó thì cần lắm một cái lòng đường thông thoáng cộng với lòng người vui tươi hớn hở. Đối diện với cái cảnh kẹt xe thì chẳng tìm thấy một nụ cười trên môi được. Có chăng là những tiếng xì xầm khó chịu. Lòng đường và lòng người có cái gì đó đi đôi với nhau thì phải. Lòng người đủ lớn thì lòng đường mới lớn lên được. Lòng đường lớn lên thì người đi trên đường cảm thấy thoải mái và vui tươi.
Để đón một ai nào đó đến chơi nhà, điều hết sức tự nhiên là ta phải dọn con đường dẫn vào nhà ta được thông thoáng cũng như lòng ta phải rộng mở. Đơn giản thế thôi.
Để đón Chúa vào nha thì ta cũng cần có một lòng đường đủ lớn và lòng ta cũng đủ rộng.
Thánh Luca có nét đặc biệt hơn các thánh sử khác đó chính là khai mở sứ vụ rao giảng của Gioan. Sứ vụ rao giảng ấy được Luca mô tả trong một bối cảnh lịch sử khá chi tiết của thế giới ngoại giáo và của thế giới dân thánh. Mục đích của thánh sử nhằm đánh dấu thời gian bắt đầu sứ mệnh của Chúa Giêsu mà Gioan chỉ là kẻ dọn đường.
+ Hoàng đế Cêsarê Tibêriô kế nghiệp Augustô lên ngôi trị vì ngày 19 tháng 8 năm 14 sau Công nguyên. Như vậy năm thứ 15 của vua này là khoảng tháng 8 năm 28 hay năm 29. Nhưng hầu chắc Thánh Luca sử dụng niên lịch của người Syriên: theo lịch Syriên, năm mới bắt đầu ở đầu tháng 10. Vì thế từ tháng 9 trở về trước, được kể như là thuộc năm trước. Như vậy năm thứ 15 ở vào khoảng ngày 1 tháng 10 năm 27 hay 30 tháng 9 năm 28: lời rao giảng của Gioan cũng như khởi đầu sứ mệnh của Chúa Giêsu xảy ra khoảng năm 27 hay 28 (sau Công nguyên).
+ Philatô cai quản xứ Giuđêa với tước hiệu tổng trấn (thái thú), vào năm 26 đến 36 (sau Công nguyên). Ông thuộc quyền quan toàn quyền xứ Syria. Lãnh thổ của ông còn bao gồm cả Samaria và Idumêa.
+ Hêrôđê Antipa con của Hêrôđê Đại đế và của Malthakê. Đây là kẻ mà sau này Chúa Giêsu gọi là "con cáo già" (Lc 13,32). Arkêlaô cũng là con của Hêrôđê Đại đế và Malthakê song bị truất phế vào năm 6 (trước Công nguyên). Hêrôđê Antipa làm quận vương xứ Galilêa và Pêrêô vào năm thứ 4 (trước Công nguyên). Ông cai trị cho đến năm 39 (sau Công nguyên). Tước hiệu quận vương chỉ một thứ phó vua cai quản một phần lãnh thổ của Hoàng đế Thánh sử Maccô (6,14) gọi Hêrôđê là Vua theo cách xưng hô bình dân.
+ Philip cũng là con của Hêrôđê Đại đế và Clêopâtre (không phải hoàng hậu Ai Cập), tức là anh em cùng cha khác mẹ với Hêrôđê Antipas. Làm quận vương xứ Iturê và Trakhônitô, cũng như gồm cả Auranitô, Batanêa, Gaulinitô. Philip cai quản năm 4 trước Công nguyên cho đến chết vào năm 34 sau Công nguyên. Vì không có con nối ngôi, vua Tibêriô sáp nhập phần đất này vào miền Syria.
+ Lysania, không thuộc về gia đình Hêrôđê. Làm quận vương xứ Abilênê. Vùng này Chúa Giêsu ít qua lại.
+ Anna và Caipha: vị thượng tế chính thức là Giuse tên gọi Caipha. Ông làm thượng tế từ năm 18 đến năm 36 (sau Công nguyên). Anna là cha vợ của Caipha, làm thượng tế trước đó, từ năm 6 (trước Công nguyên) đến năm 15 thì bị hoàng đế Gratô bãi chức. Tuy thế, uy tín của ông vẫn còn lớn đối với dân Do Thái.
Các ngôn sứ trước hoạt động trong khung lịch sử của Guđêa hay Israel (x. Is 1,1; Gr 1,2; Ed 1,2; Hs 1,1; Am 1,1 v.v...). Chắc hẳn Thánh Luca có dụng ý khi nới rộng khung cảnh lịch sử trong toàn đế quốc Rôma nhắm đến sự phổ quát của ơn cứu độ. Đấng Cứu thế sẽ đem ơn cứu độ đến cho mọi dân không trừ ai, trong mọi lãnh thổ và dưới mọi sinh hoạt xã hội khác nhau.
Để được cứu độ thì con người phải thay đổi con người cũ của mình, phải ăn năn thống hối như Gioan mời gọi.
Gioan, con của Giacaria (câu 2b): Thánh Luca quy chiếu vào Gr 1,1: "Xảy đến lời của Thiên Chúa cho Giêrêmia, con của kelkiel...". Thánh sử đặc biệt lưu ý tới sứ mệnh của Gioan tiếp tục vai trò ngôn sứ của Giêrêmia. Được thánh hiến từ trong dạ mẹ (Gr 1,1; Lc 1,13) vị ngôn sứ loan báo cuộc phán xét cánh chung (Gr 1,10; Lc 3,9t) công bố vinh quang Đấng Thiên Sai (Gr 31; Lc 1,14; 3,15t) và giao ước mới của Thiên Chúa ký kết với mọi người dù họ là kẻ thấp hèn nhất (Gr 31,31-34; Lc 7,18-23).
Mọi xác phàm sẽ thấy sự cứu thoát của Thiên Chúa (câu 6): Đối với Thánh Luca, điều quan hệ không phải là những niên biểu chi tiết của lịch sử trần tục mà Thánh sử nêu ra. Ngài sử dụng khung cảnh đó để trình bày lịch sử cứu độ.
Khi trích dẫn lời ngôn sứ Isaia 40,3-5 Thánh Luca minh chứng rằng nơi những sự việc này đã hoàn tất lời tiên báo của Cựu ước. Thánh sử cho thấy tầm vóc chính xác: sứ mệnh của Gioan chính là loan báo lần cuối về ơn cứu rỗi của Thiên Chúa. Và sứ mệnh của Chúa Giêsu: Người là "Con Thiên Chúa đến ban ơn cứu rỗi cho mọi xác phàm".
Qua những lời tiên báo trên của Isaia, độc giả Tin mừng, nhờ ánh sáng phục sinh chiếu dọi, có thể nhận ra thiên tính của Chúa Giêsu cũng như ơn cứu rỗi Người mang đến cho mọi người.
Bởi vì ơn cứu rỗi được mời gọi đón nhận một cách phổ quát, nên Thánh Luca đặt nó vào trong bối cảnh lịch sử dân Chúa (ở Giuđêa, Galilê khắp vùng quanh sông Gardan dưới thời thượng tế Caipha v.v...) cũng như trong lịch sử dân ngoại (ở Iturê, Abilênê, dưới thời hoàng đế Tibêriô Gêdarê v.v...)
Tất cả những ai nghe lời hối cải, "hạ thấp đồi cao, lấp hố sâu", thì sẽ nhìn thấy Đấng Thiên Sai. Hay nói cách khác, điều kiện ắt có của ơn cứu độ là phải thay đổi tâm hồn. Gioan Tẩy giả cũng như các ngôn sứ Cựu ước đều rao giảng sứ điệp đó.
Ngôn sứ Baruc trong bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe cũng thấp thoáng tâm tình hạ đồi lấp hố hay đơn giản là dọn đường và dọn lòng để Chúa đến:
Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao
và gò nổng có tự lâu đời,
phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu,
để Ít-ra-en tiến bước an toàn
dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa.
Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng xanh và đủ loại quế trầm
sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en,
vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc,
dưới ánh sáng vinh quang của Chúa,
cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người. (Br 5, 7-9)
Sứ điệp, tâm tình của Baruc và của Gioan Tẩy giả gửi đến chúng ta hết sức rõ ràng. Chúa thật sự đã đến trong cuộc đời này rồi, Chúa đã vào nhà của Người nhưng hình như người nhà không đón tiếp.
Dừng lại một chặng đường để nhìn lại cuộc đời, đôi lần đôi lúc chúng ta đã để những hố thật sâu, những núi thật cao của tiền tài và danh vọng trong cuộc đời của ta che lấp lối đi cũng như chỗ của Chúa trong lòng chúng ta. Chúa thì đã sẵn, phần còn lại lại của chúng ta. Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết thay đổi lòng dạ chúng ta, biến dọn đường trong cuộc đời chúng ta để Chúa đến và ở lại trong cuộ đời chúng ta. Chỉ có Chúa mới là nguồn bình an đích thực và là Chúa của cuộc đời chúng ta mà thôi.
30. Hãy dọn đường – Lm. GB. Trần Văn Hào
Khi thành phố bắt đầu về đêm, dòng người và xe cộ trở nên thưa thớt, người ta thấy xuất hiện những công nhân cặm cụi đi ra quét dọn các con đường. Niềm vui của họ là nhìn những con đường sạch bóng cho ngàn người đi qua. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một bài hát cũng mượn những vần thơ diễn tả hình ảnh người phu quét rác: “Người phu quét lá bên đường, quét cả nắng vàng quét cả chiều thu”. Có một vị chính khách nọ khi ra tranh cử tổng thống cũng nói với mọi người: “Nếu tôi được bầu chọn làm nguyên thủ quốc gia, công việc đầu tiên tôi sẽ làm là cho xây dựng những con đường”.
Cũng vậy, Giáo hội ngày hôm nay mời gọi chúng ta đóng vai người phu quét lá để dọn con đường trong tâm hồn đón Chúa đến. Giáo hội trích mượn lời hiệu triệu của Thánh Gioan tiền hô để nhắn gửi chúng ta: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi. Mọi thung lũng phải lấy cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng (Lc 3, 4)”.
Nhưng dọn đường như thế nào?
Đạo là đường. Đạo Công giáo không phải là một pháo đài gồm chứa những luật lệ cứng ngắc để chúng ta rút lui vào đó cố thủ. Đạo mà Chúa Giêsu khai sáng là một con đường rộng mở thênh thang để chúng ta bước tới, đi đến gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng chính là con đường đưa dẫn chúng ta tiến về ánh sáng và sự sống vĩnh cửu. Nhưng con đường đó nhiều khi ngập đầy bụi bặm và rác rưởi của tội lỗi mà chúng ta cần phải quét dọn hằng ngày.
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã viết “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy anh em hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương” (Rm 13, 12.13). Bóng tối của màn đêm là hình tượng biểu trưng tội lỗi và sự chết. Vũ khí của sự sáng mà Thánh Phaolô nhắc bảo chính là sức mạnh Thiên Chúa ban cho những ai được Thần khí hướng dẫn để không sống theo xác thịt. Điều mà Thánh Phaolô nói tới cũng tương hợp với lời hiệu triệu của thánh Gioan mà chúng ta nghe trong bài Tin mừng hôm nay. Con đường cong queo của những luồn lẹo gian dối phải uốn cho ngay. Lũng sâu chất chứa những thù hận và cách ngăn phải lấp cho đầy. Núi cao của tham vọng và ích kỷ phải bạt cho bằng. Muốn sửa lại những con đường đó, chúng ta phải đi vào hành trình hoán cải nội tâm một cách sâu xa.
Hoán cải và trở về
Có một người đàn ông nọ vô tình đọc thấy một bản cáo phó trên một trang báo. Người ta nhầm lẫn đưa tin ông vừa mới chết. Ông xúc động, nhưng bàng hoàng hơn cả vì bản cáo phó xem ông như một kẻ giết người hàng loạt, vì ông đã chế tạo nhiều vũ khí để sử dụng trong chiến tranh. Bản cáo phó đã đánh động tâm hồn ông, và ông quyết định chuyển hướng. Thay vì phục vụ chiến tranh như trước đây, ông bắt đầu dấn thân phục vụ cho hòa bình. Ông đã hiến dâng toàn bộ tài sản ông sở hữu để cổ vũ cho công lý và hòa bình trên khắp thế giới. Người đàn ông ấy chính là Alfred Nobel, người đã khai lập giải Nobel hòa bình để phục vụ cho mục đích này. Đó là một con người đã biết thức tỉnh và trở về trong sám hối.
Hoán cải (metanoia) theo nguyên ngữ Hy lạp chính là trở về, trở về với Chúa và trở về với anh em. Trong mùa vọng cũng như trong mùa chay, chúng ta được nhắc nhở thực hành việc sám hối. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì trong suốt cuộc lữ hành trần thế, chúng ta vẫn luôn cần phải trở về liên tục, bởi vì đây là thái độ nội tâm căn bản thể hiện đức tin của mọi tín hữu quy hướng về Thiên Chúa. Sám hối không phải chỉ là nhớ lại một vài lỗi phạm và đến tòa cáo giải xưng thú để lương tâm được thanh thản. Sám hối trước hết và trên hết chính là một tư thế nội tâm để quay trở về. Cuộc lữ hành đức tin chúng ta giống như một con thuyền nhỏ trên dòng sông chảy ngược. Con thuyền không thể đứng yên một chỗ mà phải tiến tới, nếu không, con thuyền sẽ bị dòng nước cuốn ngược lại. Vì thế cuộc hành trình trở về được Giáo hội nhắc nhở trong mùa vọng như một động thái cần thiết để đón chờ Chúa đến. Chúng ta không thể trở về với Chúa mà lại không biết cách trở về làm hòa với nhau. Cũng thế, sự hoán cải mà thánh Gioan Tiền hô nói đến, đòi hỏi chúng ta phải phá đổ bức tường cách ngăn của những thù hận, phải uốn lại cho ngay những luồn lẹo gian dối trong cách hành xử thường ngày làm phương hại đến cận nhân chung quanh.
Có lẽ chúng ta đều biết bức tranh nổi tiếng vẽ bữa tiệc ly của danh họa Leonardo da Vinci. Ông tập trung cao độ để phác họa dung mạo Chúa Giêsu ngồi giữa các học trò trong giờ phút ly biệt đầy thân thương và quyến luyến. Nhưng cầm cọ lên, ông lại buông xuống vì không thể vẽ nổi. Nguyên nhân vì chiều hôm trước, ông mới cự cãi kịch liệt với anh hàng xóm bên cạnh và tâm hồn trở nên bất an. Cuối cùng ông quyết định gác bút, đi làm hòa với người bạn ấy rồi mới trở về xưởng vẽ. Chúng ta thấy dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh rất sống động và toát lên một tình yêu vô hạn. Không có bình an trong tâm hồn, Leonardo da Vinci không tài nào thể hiện được chân dung Đức Giêsu trong bức họa nổi tiếng ấy. Cũng vậy, chúng ta không thể nào đến với Chúa mà tâm hồn vẫn còn những rào chắn khổng lồ cách ngăn chúng ta với anh chị em chung quanh mình.
Hình mẫu nơi Gioan tiền hô
Gioan tiền hô là người gác cổng dẫn vào Tin mừng. Ngài là nhịp cầu nối giữa cựu ước và tân ước. Gioan mời gọi dân chúng sám hối để trở về, nhưng ông tự thú ông không phải là đấng Messia, mà chỉ là người phu quét đường, còn Đức Giêsu mới chính là con đường để chúng ta bước tới. Ông chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc vọng lại lời, còn Đức Giêsu mới chính là ‘Lời’, là ngôi Lời đã trở thành xác phàm. Vì thế Gioan tóm kết sứ mạng của mình trong câu châm ngôn ‘Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại. Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài’. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình, chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.
Kết luận
Trong một cuộc triển lãm, họa sĩ Vangog có trưng bày một bức tranh tuyệt đẹp với tựa đề ‘Chúa đến’. Ông vẽ Chúa Giêsu đang đứng gõ cửa trước một căn phòng. Một người bạn đến xem tranh, tấm tắc khen ngợi tài nghệ của ông, nhưng anh bạn góp ý: “Này Vangog, bức tranh của anh khá hoàn hảo nhưng còn thiếu xót một chi tiết, có lẽ anh quên không để ý tới. Căn phòng Chúa đứng gõ cửa còn thiếu một nắm đấm để mở ra”. Vangog trả lời: “ Không phải thế đâu. Chúa đang đứng gõ cửa căn phòng tâm hồn mỗi người chúng ta. Còn bạn hay tôi, chúng ta có mở hay không là do chúng ta quyết định. Nắm đấm để mở cửa phòng nằm ở bên trong, chứ không nằm phía bên ngoài”.
Trong mùa vọng, chúng ta đợi chờ Chúa đến. Ngài đang đến gõ cửa tâm hồn từng người. Cửa phòng có được mở ra hay không, và Chúa có đi vào được căn phòng tâm hồn chúng ta hay không, còn tùy nơi cá nhân mỗi người.
31. Dọn đường cho Chúa đến – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Có vô vàn ngăn trở khiến con người không thể đến được với nhau.
Trước đây, những ngăn cách vì tường cao, luỹ sâu, vì đồi núi chập chùng hiểm trở… đã từng là những trở ngại lớn cản trở con người qua lại với nhau; hôm nay những ngăn cách như thế không còn đáng kể.
Ngăn cách vì đường xa vạn dặm đã dần dần bị thu ngắn lại; hai người ở cách nhau nửa quả địa cầu có thể gặp nhau sau vài ngày du hành bằng máy bay. Thậm chí ngăn cách giữa các hành tinh xa xôi diệu vợi cũng đã được bắc cầu.
Bên cạnh những ngăn cách về không gian, về đường sá thì ngăn cách về quan điểm, về ý thức hệ đáng quan ngại hơn nhiều.
Đã có thời, ngăn cách bởi ý thức hệ (cộng sản và tư bản), bởi những quan điểm đối nghịch và những chủ trương khác nhau, đã tạo nên những chia cắt rất sâu sắc giữa cộng đồng nhân loại, tạo nên những khoảng cách tưởng chừng không bao giờ có thể vượt qua. Vậy mà hôm nay những ngăn cách như thế xem ra đã được thu hẹp rất nhiều.
Rốt cuộc, chỉ còn ngăn cách vô hình trong lòng người, do lòng hận thù, do ghen tị, do hiểu lầm nhau mới là ngăn cách đáng quan ngại nhất và tồn tại lâu dài nhất trong lịch sử loài người.
Những ngăn cách loại nầy đã khiến cho hai người láng giềng cách nhau một bức vách không thể đến với nhau được; khiến cho hai người bạn cùng chung sở làm không nhìn mặt nhau; thậm chí hai anh em ruột thịt, hai vợ chồng chung sống dưới một mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa nhau vạn dặm.
Con người đã xây dựng được nhiều nhịp cầu thật dài và kiên cố, bắc qua những dòng sông rộng mênh mông, để nối kết đôi bờ; nhưng ai có thể xây dựng những nhịp cầu thiêng liêng để kết nối những tâm hồn xa cách?
Thánh Gioan Tẩy Giả là người được sai đến để dựng xây những nhịp cầu như thế.
Theo Tin Mừng hôm nay, Ngài được sai đến làm tiền hô, làm kẻ bắc cầu, dọn đường cho Chúa đến: "Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng." (Lc 3, 4-5)
Phải dọn đường đón tiếp Chúa thế nào đây?
Người con cái Chúa rất sùng mộ Thiên Chúa uy linh ngự trên cõi trời cao thẳm nhưng lại hay thờ ơ, lạnh nhạt, thậm chí bạc đãi chính Thiên Chúa đang hiện diện nơi những người chung quanh; Thế nên việc mở cửa lòng đón tiếp anh chị em chung quanh vốn là hiện thân của Chúa là điều phải ưu tiên thực hiện mỗi ngày.
Chúa Giêsu luôn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng Ngài đang hiện diện trong các anh chị em chung quanh và những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho chính Chúa. (Mt 25, 40)
Vậy thì dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là tiếp nhận, yêu thương, phục vụ Chúa đang hiện diện nơi người cha, người mẹ, nơi người láng giềng đang sống quanh ta.
Chính khi các chủ quán Bê-lem hôm xưa khước từ hai người lữ hành lạc lõng đi tìm chỗ trọ (thánh Giu-se và Mẹ Maria) là họ trực tiếp khước từ Thiên Chúa.
Chính khi các chủ quán Bê-lem không cho hai người khách lạ trọ nhà là họ từ khước không cho Hài Nhi Giêsu được sinh ra trong nhà mình. Chính Chúa Giêsu thường cảnh báo chúng ta về điều đó: "Ta là khách lạ mà các ngươi không tiếp rước" (Mt 25, 43)
Vậy thì đón tiếp Chúa là sẵn lòng tiếp nhận mọi người không trừ ai.
Dọn đường đón Chúa là xoá bỏ đi những ngăn cách do chúng ta dựng lên giữa mình với tha nhân mà chúng ta giáp mặt hằng ngày.
Chỉ khi nào giữa chúng ta và mọi người chung quanh không còn phân li ngăn cách, ấy mới là lúc đường sá đã dọn xong và Chúa mới có thể đến được với mình.
32. Làm người dọn đường đón Chúa
Hàng năm, cứ vào Mùa Vọng là chúng ta có dịp nhắc nhiều đến Gioan Tẩy Giả, người dọn đường cho Đấng Cứu Thế ngự đến.
Gioan tẩy giả sống trong thời kỳ đất nước Do thái bị chia năm xẻ bảy, chịu sự cai trị của những kẻ thân Rôma, ngay cả vị thượng tế cũng do Rôma đặt lên chứ không phải là người xứng đáng trong hàng tư tế được bầu chọn! Chính lúc đó, Thiên Chúa kêu gọi Gioan Tẩy Giả đi dọn đường cho Đấng Cứu Thế.
Bên dòng sông Giođan, Gioan Tẩy Giả kêu gọi mọi người lấp mọi hố sâu hằn thù ghen ghét, bạt đi những kiêu căng tự phụ, chỉnh sửa lối sống mình cho ngay chính và nhận phép rửa tỏ lòng sám hối.
Chắc chắn, thánh Gioan Tẩy Giả đã gặp nhiều khó khăn trong nhiệm vụ tiền hô vì trong dân Do thái có quá nhiều phe phái với chủ trương có phần trái nghịch nhau: Phái Sađôc phần lớn thân Rôma, họ không tin vào sự sống lại và chỉ lo tìm chức tước, quyền lợi của Rôma ban bố hơn là lo cho dân nước. Trong khi đó, Biệt Phái và Luật sĩ công nhận có đời sau nhưng lại kiêu căng mù quáng, họ quá tự hào về sự chính thống của mình, cho rằng mình hiểu biết lề luật và đạo đức hơn mọi người nên chẳng cần nghe ai. Chính Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo về sự kiêu căng và giả hình của họ trong đời sống đạo nhưng họ bịt tai, nhắm mắt trước những lời giảng dạy của Ngài! Ngoài ra còn phe theo hêrôđê, phe theo đế quốc Rôma và những nhóm chủ trương giải phóng dân tộc.
Giữa những phức tạp của xã hội đó, Gioan Tẩy Giả tẩy giả đươc kêu mời làm người dọn đường, giúp mọi thành phần dân Do thái biết trở về với Chúa, biết hoán cải thật lòng để xứng đáng đón Đấng Thiên Sai ngự đến. Thánh Gioan Tẩy Giả tẩy giả đã đón nhận một nhiệm vụ hết sức khó khăn, không đơn giản chút nào. Thế nhưng, Gioan Tẩy Giả xem ra không lo sợ trước những khó khăn đó vì ngài đã dâng trót thân mình cho Chúa và công cuộc dọn đường này. Từ lúc thiếu thời, ngài đã tôi luyện mình trong hoang địa, đêm ngày cầu nguyện, ăn chay, từ bỏ mọi quyến luyến thế gian, bỏ của cải vật chất, danh vọng và cả gia đình vì bổn phận Tiền Hô. Trong dòng nước Giođan, ngài đã giúp cho biết bao người sám hối trở về cùng Chúa. Tuy nhiên, cũng chính vì nhiệt tình với luật Chúa mà ông phải thiệt thân. Ông đã không ngần ngại nói sự thật về tội của Hêrôđê và mong vua hoán cải, nhưng vua đã không nghe, lại còn ỷ quyền ỷ thế tống giam Gioan Tẩy Giả vào ngục và chiều theo ý mụ hêrôđiađê mà giết người công chính.
Gioan Tẩy Giả đã hết mình chu toàn nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Messia và ông làm chứng cho Chúa bằng mạng sống của mình.
Đối với chúng ta ngày hôm nay, chúng ta cũng được Chúa kêu mời làm những Gioan Tẩy Giả trong thời đại hôm nay, chúng ta cũng có bổn phận sống gương mẫu để kêu mời mọi người đến với Chúa, chúng ta hãy là những tiếng kêu cho mọi người thức tỉnh, biết hoán cải thật lòng để xứng đáng đón Chúa ngự đến lần thứ hai trong uy quyền và vinh quang.
Để tiếng kêu của chúng ta được rõ ràng và mạnh mẽ, chúng ta hãy gia tăng cầu nguyện, sửa đổi chính mình, hãm dẹp tính hư tật xấu và nhất là tập các nhân đức như bác ái, khôn ngoan, tiết độ...để chúng ta mỗi ngày một nên giống Chúa Giêsu hơn. Đó cũng là những món quà chúng ta dâng lên Chúa Hài Đồng trong dịp lễ Giáng Sinh sắp tới.
33. Sửa đường Chúa đến – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mùa vọng luôn mời gọi: hãy dọn đường cho Chúa - hãy sửa lối cho thẳng để Chúa ngự đến. Hành vi dọn đường và sửa lối cho thẳng được thánh Gioan tiền hô mời gọi là hãy "Sám Hối". Sám hối bao gồm nhận biết tội mình, hối tiếc vì đã phạm tội, và trông cậy vào ơn Chúa giúp mình chừa bỏ nó. Thiếu một trong ba yếu tố đó thì việc sám hối xem ra chưa trọn vẹn. Giuđa biết tội, hối tiếc vì tội đã làm nhưng ông thiếu niềm tin tưởng cậy trông vào sự tha thứ của Chúa, nên ông đã treo cổ tự vẫn. Thánh Phêrô cũng biết tội, cũng hối tiếc tội, nhưng thánh nhân còn trông cậy vào ơn Chúa nên đã trở lại với tình thương của Ngài.
Chúng ta thử nhìn lại lối đường của chúng ta là thẳng ngay hay quanh co để sám hối những lối đường lầm lỗi của mình. Chúng ta có khúc quanh co, lồi lõm nào cần uốn nắn, sửa đổi. Lối mòn của chúng ta đang đi là nhân đức hay tội lỗi thành thói quen không thể sửa? Nhìn lại con đường chúng ta đang đi để uốn nắn sửa đổi cho phù hợp với tin mừng của Chúa.
Trước tiên chúng ta cùng nhìn vào thế giới hôm nay, một thế giới có quá nhiều những lối mòn sai lầm nhưng người ta cố tình không nhìn nhận và không chịu sửa đổi như gian dối trong mọi lãnh vực: thông tin, giáo dục, thương trường. Tình trạng đó dẫn đến sự phá sản khắp nơi và trong mọi lãnh vực từ vật chất đến tinh thần.
Thực vậy, trong những năm gần đây, người ta thường hay xôn xao về những vụ phá sản, bể nợ, thua lỗ và mất khả năng chi trả của rất nhiều công ty xí nghiệp. Song song với những phá sản về tài chính, chúng ta cũng chứng kiến những phá sản về đạo đức và tinh thần. Khủng bố, chiến tranh, bắt cóc, giết người, các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng: xì ke, ma tuý, mại dâm. Mỗi ngày xem tivi chúng ta lại đau buồn khi thấy biết bao người đã chết do chiến tranh, khủng bố, cướp bóc, đói nghèo, bệnh tật. Ở Việt Nam còn có một vụ phá sản về tình người, ngay giữa gia đình vẫn không có tình yêu chân thành. Cụ thể: mỗi ngày hơn 1 người tự tử vì thiếu tình yêu từ gia đình. Vợ chồng thiếu chung thuỷ vơi nhau. Con cái thiếu tin tưởng nơi cha mẹ. Anh em lừa dối nhau.
Trước sự phá sản về đạo đức, về giá trị làm người, Đức Piô X đã nói một cách xót xa: "Con người hôm nay đã đánh mất ý thức về tội". Nghĩa là họ không còn sống theo lẽ phải, họ cố tình làm ngơ trước tiếng cảnh tỉnh của lương tâm, họ quá quen với khuynh hướng tuyệt đối về tự do nên họ không còn thấy những điều gì là cấm. Họ muốn, họ thích và họ làm mà không cần suy xét có hợp với luân thường đạo lý hay không?
Có lẽ đây là lúc phải trực diện với một trong những chủ đề then chốt nhất của mầu nhiệm cứu độ: vấn đề sự dữ, tức là tội. Tại sao sự dữ vẫn hoành hành, tỗi lỗi vẫn tràn lan? Đâu là nguyên nhân đưa đến sự xấu hiện diện trong thế giới hôm nay?
Trước tiên cũng nên nhớ lại: tội là toàn bộ những hành vi ác hại, sai quấy, mất trật tự của con người; đó là hành động ác hại làm đổ máu hoặc xúc phạm đến danh dự, là trộm cướp, vu khống, phẫn nộ, lười biếng, là kiêu căng chà đạp người khác, là đam mê nhục dục, v.v... mà truyền thống gọi là bảy mối tội đầu. Như vậy nguồn gốc sự dữ hệ tại ở chính lòng người. Chính lòng dạ con người là nguyên nhân dẫn đến những sự dữ ở trần gian.
Căn nguyên của tội chính là con người đã dùng sai sự tự do. Sự tự do đích thực là tự do hướng về sự thiện, là điều khiển hành vi nhân linh của con người theo lề luật tự nhiên, theo những quy tắc của luân thường đạo lý, hay nói cách khác chính là biết sử dụng tự do để điều khiển hành vi của mình theo lẽ phải. Nhiều người lầm tưởng rằng, tự do là muốn làm gì thì làm, nhưng thực ra họ đã đánh mất tự do khi buông mình theo những đam mê thấp hèn, những thói hư tật xấu. Họ bị lệ thuộc vào đam mê nghĩa là họ mất tự do đích thực. Họ trở thành nô lệ của những thói hư tật xấu mà các nhà luân lý gọi là nô lệ tội lội. Adam tưởng đã sử dụng tự do theo ý mình nhưng thực ra ông đã đánh mất tự do khi không chế ngự được bản tính kiêu căng của mình. Cain đã đánh mất tự do khi để sự ghen tương làm chủ dẫn đến án mạng mà hậu quả là cả đời trốn chạy, bất an và lo sợ. Con người ngày hôm nay tưởng rằng mình có khả năng làm ra vật chất và tận hưởng theo ý mình, nhưng thực ra họ đã để mình lệ thuộc vào những tiện nghi vật chất, trở thành nô lệ cho vật chất một cách mù quáng đến độ, số tiền làm ra chỉ đủ để trang trải cho những tiện nghi, những trò vui chơi giải trí. Rốt cuộc vẫn cảm thấy thiếu thốn vì chẳng bao giờ con người thỏa mãn những nhu cầu vật chất tầm thường.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần xét lại con đường chúng ta đang đi có phải là con đường quanh co, thiếu chân thành với nhau, thế nên, vẫn còn đó sự gian dối, thiếu cởi mở, với nhau không? Con đường chúng ta vẫn còn đó khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt xét lương tâm nên hành động hồ đồ và làn thương tổn đến tha nhân. Con đường chúng ta đang đi là con đường gồ ghề bởi những lời nói thiếu suy nghĩ, thiếu bác ái, thiếu xây dựng, luôn chỉ trích nặng lời với nhau, dẫn đến một đời sống thiếu hoà nhã với mọi người, thiếu khiêm tốn nên luôn bẳn gắt, luôn khó chịu về người khác một cách vô cớ, đôi khi nóng giận một cách hồ đồ mà không có nguyên do. Con đường chúng ta vẫn còn những thung lũng của những tư tưởng lỗi đức trong sạch, những ước muốn lầm lạc, luôn làm chúng ta quyến luyến các tạo vật mà xa lìa Chúa, vẫn còn đó những hố sâu của chia rẽ, hận thù, luôn gây ra bất hoà, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ với nhau. Con đường chúng ta đang đi, vẫn còn đó những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn đề cao mình quá đáng đến coi khinh anh em, không bao giờ chịu thua kém người khác.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Vì thế mùa vọng, là thời gian mời gọi chúng ta hãy sửa chữa lại con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa đến. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những sự trống vắng Thiên Chúa nơi tâm hồn bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá và giả hình. Hãy san bằng những nghi kỵ, ganh ghét, bất hoà. Hãy san bằng những lượn sóng gồ ghề nói hành, nói xấu nhau nhưng hãy luôn nói tốt, nghĩ tốt về nhau.
Đó là cách duy nhất để dọn lòng Chúa đến, để Chúa giáng sinh mang lại niềm vui cho tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, xin hãy cất khỏi chúng con tất cả những gì làm cho chúng con xa lìa Chúa, và xin ban cho tâm tình thống hối ăn năn để sửa đổi con người theo tinh thần phúc âm của Chúa. Amen.
34. Thế gian này ta là ai?---Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Tình vẫn phân vân về bài thơ: “tôi là ai”?
“Thử hỏi một lần ta là ai?
Mà sao mộng mãi giữa đêm dài
Đêm dài quên ngủ trong sinh tử
Thử hỏi một lần ta là ai?”
Ta là ai vậy nhỉ? Ta có phải là cái tên người ta vẫn gọi không? Không rồi, cái tên là do cha mẹ đặt cho, nên nó không thuộc về mình. Ta là ai phải chăn glà thân xác này? nhưng thân xác này rồi cũng không ra khỏi vòng sinh lão bệnh tử, sẽ có ngày trở về cát bụi. Ta là ai mà giữa trốn hồng trần này, cứ mải miết, mải miết trong những vòng xoáy cuộc đời, và rồi cứ luẩn quẩn trong kiếp sinh tử cát bụi.
Và như thế, ta chẳng là gì, chỉ là cát bụi hư vô. Và một khi ta trở về hư vô thì chẳng ai biết ta và ta cũng chẳng còn quan trọng với ai?
Nhưng có một Đấng biết ta, và ta thuộc về Đấng ấy. Đó chính là Đấng tạo thành ta. Một mai ta sẽ trở về hư không, chẳng ai biết ta, cần đến ta, nhưng lại là thời gian ta ở trọn vẹn bên Đấng đã tạo thành nên ta. Đấng đã nuôi dưỡng ta và mãi mãi yêu ta, thế nên, ở đời này ta chẳng là gì nhưng với Đấng đã sinh ra ta thì ta mãi mãi là hình ảnh của Ngài, là con cái thần linh của Ngài.
Như vậy, cuộc đời này ta thuộc về Đấng tạo Hoá. Ta đang sống sự sống của Ngài, và cũng được mời gọi phải sống làm theo thánh ý Ngài. Nếu ta làm theo ý Ngài hôm nay thì sẽ là công phúc cho ta khi trở về với Ngài. Đấng đó theo niềm tin Ky-tô giáo chính là một Thiên Chúa toàn năng, đấng sáng tạo mọi loại, Đấng điều khiển vũ trụ vạn vật và con người.
Trình thuật tin mừng hôm nay cho ta thấy ý Ngài là muốn ta hãy mở một con đường cho Ngài đến với nhân loại. Như Gioan đã mời gọi con ngừời thời đại ông: hãy mở một con đường cho Chúa đến. Con đường mà Gioan muốn nói là lối sống của chúng ta. Hãy sống và loan báo về lòng thương xót của Chúa. Hãy làm chứng cho nhân loại thấy một chân dung đầy yêu thương của Chúa. Hãy mang Chúa đến một cách cụ thể cho những mảnh đời bất hạnh quanh ta. Họ có thể là người nghèo, là người già nua, là người bệnh tật... Họ có thể là những người đang cô đơn vì ly dị, hay bị giầy vò lương tâm khi đang sống rối vợ rối chồng... Họ có thể là những người nam người nữ đang túng thiếu tình cảm lẫn tiền bạc... Họ có thể là những đứa trẻ đang bị lạm dụng khi phải bươn chải bán vé số, đánh giày, nhặt ve chai...
Họ là những người bất hạnh mà năm nay Giáo hội đang mời gọi chúng ta hãy đồng hành với họ. Đồng hành có nghĩa là cùng chờ nhau bước đi, cũng có thể cần phải nắm tay dìu nhau cùng bước. Đồng hành nghĩa là không để ai ở lại phía sau, nhất là họ đang bị tai nạn, bị đói lả, bị bệnh tật hoành hành... hãy quay lại để cứu giúp họ, hãy dìu họ qua khó khăn.
Đây là con đường yêu thương, con đường mà nhân loại hôm nay đang cần phải mở rộng và mở nhiều hơn nữa. Vì thế giới vật chất càng để cao thì tình người càng bị lu mờ. Con đường của kinh tế càng phát triển thì đường tình yêu lại bí đóng vào.
Người ta nói: con đường là do lối mòn đi nhiều sẽ thành. Thế nên, người ky-tô hữu hãy quảng đại dấn thân mở lối mòn tình yêu đến cho mọi người. Hãy mở một con đường tình yêu, lòng cảm thông, quan tâm, chia sẻ tới tha nhân. Hãy mở con đường của tình người không biên giới bằng việc phá bỏ bức tường của ích kỷ hưởng thụ cho bản thân đến hướng tới đồng loại. Ước gì Chúa sẽ đến với tha nhân qua lối mòn yêu thương mà các tín hữu đã tạo ra nên trong cuộc sống hôm nay. Amen.
35. Hãy Mở Đường Thương Xót Chúa---Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời là một chuỗi những đợi chờ. Có đợi chờ đương nhiên sẽ đến. Có đợi chờ hoài cổ mà chẳng bao giờ thấy! Có đợi chờ mang lại niềm vui như chờ người yêu, chờ nhận quà, nhưng cũng có đợi chờ chỉ mang lại thất vọng chán chường như chờ kết quả xét nghiệm khi khám bệnh...
Vì có đợi chờ nên cũng có chờ hụt, hay còn gọi là leo cây. Ngày xưa Hồ Zếnh chắc cũng từng bị cô bồ cho leo cây nên mới sáng tác bài thơ:
Em cứ hẹn nhưng em đừng tới
Để lòng buồn anh dạo mãi quanh sân
Cầm điếu thuốc trên tay cháy lụi dần
Anh khẽ nói gớm sao mà lâu thế!
Rồi cũng có biết bao lần chúng ta chờ đợi trong hụt hẫng, “tưởng là thế nhưng không phải thế” như những câu chuyện vui sau:
Mẹ ơi! Sáng nay có cô Mười ở bên Mỹ mới đến nhà chơi. Cô tặng cho nhà mình một món quà và nói rằng: “Món quà của cô tuy nhỏ nhưng cũng đủ cho gia đình cháu dùng trong một năm”.
Nghe thế, mẹ cu Tý mừng quýnh, hỏi ngay:
- Món quà gì thế con?
- Dạ, một quyển lịch!
Hoặc câu chuyện khác:
Chàng: Anh sẽ tặng em một món quà làm cho ngón tay em xinh thêm
Nàng: (tưởng là những chiếc nhẫn kim cương hay cũng ít là hột xoàn bèn nói) Anh đừng tặng những thứ mắc quá.
Chàng: Em vớ vẩn, cái cắt móng tay có cái nào mắc đâu!
Dân Do Thái ngày xưa cũng đã chờ đợi. Họ chờ đợi rất nhiều thế kỷ rồi mới tới ngày Con Chúa hạ sinh như ai đó đã từng nói:
Giê-su Giê-su không bỗng dưng mà có
Cả pho cựu ước còn đó
Trăn trở bao đời mới sinh hạ Giê-su.
Nhưng họ cũng mừng hụt vì Đấng Messia không đến theo ý họ. Theo ý họ là một Đấng Messia đánh đông dẹp tây, hùng dũng nhưng Chúa lại đến trong thân phận một hài nhi yếu đuối. Họ thất vọng và đáng tiếc là đã không chấp nhận sự thật ấy. Họ đã để niềm vui trôi qua vì không nhận được hồng ân Con Chúa giáng trần.
Thế nên, khởi đầu mùa vọng chúng ta thường nghe Gioan mời gọi: hãy mở một con đường cho Chúa đến. Con đường mà Gioan muốn nói là lối sống của chúng ta. Hãy sống và loan báo về lòng thương xót của Chúa. Hãy làm chứng cho nhân loại thấy một chân dung đầy yêu thương của Chúa. Hãy mang Chúa đến một cách cụ thể cho những mảnh đời bất hạnh quanh ta. Họ có thể là người nghèo, là người già nua, là người bệnh tật... Họ có thể là những người đang cô đơn vì ly dị, hay bị giầy vò lương tâm khi đang sống rối vợ rối chồng... Họ có thể là những người nam người nữ đang túng thiếu tình cảm lẫn tiền bạc... Họ có thể là những đứa trẻ đang bị lạm dụng khi phải bươn chải bán vé số, đánh giày, nhặt ve chai...
Họ là những người bất hạnh. Họ không chờ đợi một vì Thiên Chúa ở trên trời hay nơi nào xa xăm. Họ đang chờ một Thiên Chúa xót thương đang ở giữa họ, đang cùng họ chia sẻ gánh nặng cuộc đời và nâng đỡ, ủi an họ.
Thế nên, hãy mang Chúa đến để thăm viếng nâng đỡ họ. Có thể Thiên Chúa của chúng ta không mang đến cho con người sự giầu có tiền bạc, sự trường sinh bất tử, nhưng mang đến cho nhân loại những tín hữu đang hăng hái “đi ra” xoa dịu nỗi đau cho anh em.
Người ta nói: con đường là do lối mòn đi nhiều sẽ thành. Ước mong mọi người ky-tô hữu hãy can đảm mở lối cho mọi người. Hãy mở một con đường tình yêu, lòng cảm thông, quan tâm tới tha nhân. Hãy mở con đường chân thiện mỹ bằng chính đời sống của mình. Ước gì Chúa sẽ đến với tha nhân qua lối mòn yêu thương mà các tín hữu đã tạo ra nên trong cuộc sống hôm nay. Amen.
36. Nhập thể dọn đường
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Mùa Vọng là Mùa đợi trông Đấng Thiên Sai Cứu Thế, Đấng mang đến cho chung loài người và riêng dân Do Thái Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Bởi vì, từ sau nguyên tội, loài người đã sống trong đau thương, về cả tâm hồn lẫn thể xác, đến độ, đúng như cảm nghiệm của Phật giáo: "đời là bể khổ".
Thế nhưng, vì Thiên Chúa dựng nên con người là để được sống đời đời, để được hưởng phúc trường sinh bất diệt, mà họ không thể nào chấp nhận được thân phận khổ đau bất hạnh của mình. Theo giòng lịch sử, họ đã tìm đủ cách để làm sao có thể "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Gioan 5:24).
Đó là là lý do mới có các "đạo" giáo khác nhau, tức là có những "con đường", những "đạo lộ" khác nhau để con người vừa có thể thoát khổ vừa có thể được đạt được hạnh phúc. Một trong những "con đường" hay "đạo lộ" rõ ràng có chủ trương "cứu độ" con người như "đạo" Do Thái và "đạo" Thiên Chúa (Kitô giáo) đó là "đạo" Phật (Phật giáo).
Tuy nhiên, trong khi "đạo" Phật chủ trương "tự độ", nghĩa là tự cứu mình, bằng cách diệt dục là tham sân si khi còn sống trên đời này cũng như bằng đường lối đầu thai luân hồi sau khi chết nếu chưa hoàn toàn diệt dục, cho tới khi giác ngộ mới được siêu thoát vào cõi niết bàn, thì Do Thái giáo và Kitô giáo lại trông chờ "Ơn Cứu Độ" từ Trời Cao.
Thật vậy, tự bản tính thụ tạo của mình, một tạo vật hữu hình và hữu hạn, so với Thiên Chúa Hóa Công là Đấng tự hữu, toàn thiện và toàn năng, con người chẳng là gì ngoài bản chất bất toàn và bất lực của mình, chỉ có thể trở thành viên mãn nhờ Ngài và trong Ngài, như họ đã được thông phần vào sự hiện hữu của Ngài nhờ được Ngài dựng nên.
Thậm chí khi mới được tạo dựng, còn sống trong tình trạng công chính nguyên thủy, chưa biết đến tội lỗi là gì: "trần truồng không biết xấu hổ" (Khởi Nguyên 2:25), loài người còn sa ngã phạm tội, huống chi bởi nguyên tội họ lại càng mù quáng, sai lạc và yếu nhược hơn nữa, làm sao có thể "tự độ", tự cứu được bản thân mình như lòng mong ước.
Đó là lý do, ngay từ ban đầu, nghĩa là ngay sau nguyên tội, Thiên Chúa chẳng những đã tự động hứa ban Ơn Cứu Độ cho con người qua Đấng Thiên Sai Cứu Tinh của Ngài (xem Khởi Nguyên 3:15), mà còn khôn ngoan không để con người có thể "tự độ", bằng cách đuổi họ ra khỏi địa đường, kẻo họ hái cây sự sống mà ăn (xem Khởi Nguyên 3:22).
Thế là lịch sử của loài người nói chung và lịch sử của dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn nói riêng đã trở thành Lịch Sử Cứu Độ, lịch sử đợi trông Ơn Cứu Độ, một Mùa Vọng đợi trông cho được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết là những gì liên lỉ chẳng những hành hạ con người mà còn giúp cho con người càng có lý do sâu xa chính đáng mãnh liệt trông chờ Đấng Thiên Sai Cứu Thế mau đến.
Lời Chúa qua miệng Tiên Tri Barúc trong Bài Đọc 1 cho Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng hôm nay đã cho thấy Thiên Chúa không quên lời hứa cứu độ của Ngài từ ban đầu, trái lại, Ngài vẫn hiện diện trong giòng lịch sử của loài người nói chung và Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái nói riêng. Bởi thế, trong Bài Đọc 1 hôm nay, Ngài đã phấn khởi dân Ngài chẳng những ở chỗ kêu gọi họ sống cả về mặt tiêu cực lẫn tích cực mà còn hướng họ về một tương lai sáng lạn tràn đầy sự sống như sau:
Trước hết, Thiên Chúa đã phấn khởi dân Ngài sống cả về mặt tiêu cực lẫn tích cực:
"Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi ("vượt qua sự chết" - Gioan 5:24), hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi ("mà vào sự sống" - Gioan 5:24). Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý ("được sự sống" - Gioan 10:10), và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi ("và được sự sống viên mãn" - Gioan 10:10). Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian (ám chỉ việc Thiên Chúa tỏ mình ra qua Con của Ngài nơi dân Do Thái: "Ơn cứu độ xuất phát từ dân Do Thái" - Gioan 4:22). Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa".
Sau nữa, Thiên Chúa hướng họ về một tương lai sáng lạn tràn đầy sự sống:
"Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông (là hướng mặt trời mọc, mặt trời Công Chính là Chúa Kitô - xem Luca 1:78). Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây (ám chỉ cả dân ngoại, cả loài người cũng được thừa hưởng giao ước Thiên Chúa đã thiết lập với dân Do Thái)họp lại theo lệnh của Ðấng Thánh ("Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ" - 1Timothêu 2:4), họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tử (có thể là ám chỉ loài người bị ngụy thần bắt cóc, sống nô lệ cho hắn, nhưng được lấy lại chức phận con cái Thiên Chúa). Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ (bằng cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô) mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa (có thể là ám chỉ các thứ quyền lực sự dữ), lấp đầy những hố sâu (có thểlàám chỉ các cám dỗ gian tà dối trá lừa đảo), để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang".
Theo chiều hướng được Thiên Chúa cứu độ kêu gọi và phấn khích trong Bài Đọc 1 hôm nay, dân Do Thái cảm thấy hân hoan vui sống với tràn đầy những tâm tình hứng khởi được chất chứa trong Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
2) Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng: Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng. Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
3) Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
4) Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo. Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Phải, lịch sử của loài người nói chung và của dân Do Thái nói riêng là một Mùa Vọng trông chờ Ơn Cứu Độ, trông chờ Ngày Giải Thoát, một thời điểm quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại và Do Thái, như thể tất cả mọi sự đều chẳng những hướng về thời điểm định mệnh ấy, thời điểm được Tiên Tri Giêrêmia của Cựu Ước trong Bài Đọc 1 của Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng tiên báo một cách trống trống là "Ngày ấy" (liên quan đến lần đến thứ nhất của Chúa Kitô), mà còn từ thời điểm quyết liệt ấy, thời điểm được Thánh Tông Đồ Phaolô của Tân Ước xác định rõ 2 lần trong Bài Đọc 2 hôm nay là "ngày của Ðức Giêsu Kitô" (liên quan đến lần đến thứ hai của Chúa Kitô): "anh em đã thông phần vào việc rao giảng Phúc Âm từ ngày đầu cho tới nay. Tôi tin tưởng rằng Ðấng đã khởi đầu việc lành đó trong anh em, cũng sẽ hoàn tất cho đến ngày của Ðức Giêsu Kitô..."
Đúng thế, đối với Kitô hữu thì Chúa Kitô đã tới rồi, như mặt trời công chính chiếu tỏa khắp nhân gian, như một "Ngày" vô tận. Bởi thế, khi lãnh nhận Phép Rửa, tức khi họ chấp nhận Chúa Kitô "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12), họ đã mặc lấy Người và nhờ đó cũng trở nên "ánh sáng trần gian" (Mathêu 5:14), trở thành "con cái sự sáng, con cái ban ngày" (1Thessalonica 5:5), ở chỗ, như Thánh Phaolô viết trong Bài Đọc 2 hôm nay: "Lòng bác ái của anh em ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, nhờ đó anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Ðức Kitô".
Vẫn biết là Ơn Cứu Độ được ban nhưng không cho con người từ Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu qua Đấng Thiên Sai Cứu Thế Con của Ngài. Thế nhưng, về phần mình, con người phải làm sao để có thể lãnh nhận và xứng đáng hoan hưởng Ơn Cứu Độ nhưng không và vô cùng cao quí đó nữa.
Trong việc sửa soạn cho con người có thể đón nhận Ơn Cứu Độ vô cùng cao quí này, tức là đón nhận chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế được Thiên Chúa sai đến, Thiên Chúa đã phải cho xuất hiện vào một thời điểm lịch sử trong "đời hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế", một Vị Tiền Hô của Con Ngài và cho Con Ngài là "Gioan, con Giacaria, trong hoang địa", như được Bài Phúc Âm Thánh Luca hôm nay đề cập tới.
Nhân vật lịch sử Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này xuất hiện với mục đích "đi trước Chúa để sửa soạn đường lối ngay thẳng cho Người, bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ là tha cho họ hết mọi tội khiên" (Luca 1:76-77). Bằng cách, như Phúc Âm hôm nay cho biết: "Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: 'Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Vâng, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, với tư cách là "tiếng kêu trong hoang địa", được Thiên Chúa sai đến trước Chúa Kitô là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) để thực hiện sứ vụ "sửa soạn đường lối ngay thẳng cho Chúa" nơi dân Do Thái, nhờ đó "dân Chúa" mới có thể nhận biết Đấng Thiên Sai Cứu Thế của họ. Và ngài đã "sửa soạn đường lối ngay thẳng cho Chúa" nơi dân Do Thái, ở chỗ "rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội", bằng cáchngài ra tay "lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy uốn cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng".
Điển hình là thành phần Pharisiêu và Saducê đến chịu phép rửa với mình, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đãthẳng thắn "lấp... bạt" và "uốn... san" như thế này: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: 'Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.' Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa" (Mathêu 3:7-10).
"Hỡi Chúa Hài Đồng, xin cho con biết hạ mình xuống, khiêm nhượng và đơn sơ như trẻ con, để con được làm bạn thân của Chúa!" (Lời nguyện tắt của Linh Mục Đaminh Maria Trần Đình Thủ, CRM).
37. Để mọi người nhận biết ơn cứu độ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Ngày khai mạc năm thánh nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam vừa qua tại Sở Kiện, những ai trực tiếp tham dự hay theo dỏi cách nào đó đêm diễn nguyện, hẳn ít nhiều cũng cảm thấy xúc động về phần sám hối của giáo hội Việt Nam. "Giáo Hội chúng con xin chân thành thú tội. Giáo hội chúng con xin cúi đầu tạ tội." Câu ca thú lỗi lặp đi lặp lại sau những lời xưng thú với từng đối tượng về những lỗi lầm cụ thể khiến lòng người chìm hẳn xuống trong sự khiêm nhu. Một trong những lỗi lầm mà đoàn con Chúa dân Việt cần xưng thú đó là thái sống đạo ích kỷ, nghĩa là chỉ biết lo giữ đạo cho mình mà quên, đúng hơn là xao nhãng nghĩa vụ chia sẻ hồng ân tin mừng cứu độ mình đã lãnh, cụ thể là chưa tạo điều kiện để cho mọi người nhận biết ơn cứu độ.
Các bài trích đọc lời Chúa trong Chúa Nhật II Mùa Vọng C, đặc biệt bài trích sách Tiên tri Baruc và bài Tin mừng theo thánh Luca hướng cái nhìn của chúng ta đến hạnh phúc của tha nhân. Để cho đoàn dân đã bị lưu đày khắp cõi Đông Tây hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ, đem họ trở về Giêrusalem trong vinh dự như các ông hoàng, Thiên Chúa ra lệnh hãy triệt hạ mọi núi cao, lấp bằng mọi hố sâu (x. Bar 5,7). Thánh Gioan Tẩy Giả đã lấy lại lời ngôn sứ Isaia để xác định sứ vụ của mình là kêu gọi người ta "hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghế hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa." (Lc 3, 4-6)
Mùa Vọng về, chúng ta vốn quen với nhiều lối suy tư mang tính luân lý như hãy bạt đi những núi đồi của sự cao ngạo, hống hách; hãy lấp đầy các hố sâu chia rẽ hay hố sâu của lòng tham vô đáy; hãy sửa cho ngay các con đường gian dối, xảo trá, bất công...Tuy nhiên cần để ý rằng những suy tư này thường mang tính cá nhân vị kỷ, nghĩa là hãy sửa lại những tâm tư, lối sống sai lạc, bất chính của mình để bản thân mình có khả năng hay gọi là xứng đáng đón nhận Đấng Cứu Độ.
Xin được hướng cái nhìn ra khỏi lòng mình để đến với tha nhân theo thánh ý Chúa là muốn cho mọi người nhận biết chân lý hầu được hưởng ơn cứu độ (x.1Tim 2,4). Theo viễn kiến này thì việc bạt núi đồi, lấp hố sâu, sửa đường quanh co... không hạn chế ở chiều kích cá nhân mà còn mang chiều kích xã hội.
Bạt đi núi đồi kiêu căng, ngông cuồng: Chước cám dỗ thưở ban đầu sáng tạo vẫn còn đó. Nhân loại hôm nay dường như tiến bộ vượt bực trong các lãnh vực khoa học kỹ thuật. Dù còn nhiều hạn chế và bất cập, nhưng có thể nói rằng con người ngày nay có thể làm chủ các quy luật tự nhiên một cách nào đó. Và rồi đã có lúc con người những tưởng rằng mình có thể không chỉ thay trời làm mưa mà có thể tự mình làm ra cả trời. Việc kiếm tìm sự thiện, việc phân biệt điều thiện ác, lành dữ là việc đáng làm và phải làm hầu xứng với phận người. Tuy nhiên con người lại bị cám dỗ lấy bản thân mình làm điểm quy chiếu cho sự thiện sự ác. Khi chủ trương rằng không có sự thiện sự ác khách quan mà chỉ có điều dữ, điều lành theo sự thẩm định chủ quan của mình thì vô tình hay hữu ý con người muốn tự phong thần phong thánh cho bản thân. Cái nguy hiểm của sự kiêu ngạo còn nhân lên gấp bội khi được khoác chiếc áo tập thể. Biết rằng cái đa số chưa hẳn là chân lý, thế nhưng người ta cũng dễ an tâm khi thuộc về số đông ngay cả trong những điều nghịch lý hay vô luân. Người ta lại còn dễ bị cám dỗ đề cao cái tập thể của mình lên hàng muôn năm để rồi cá nhân của mình trở thành bất diệt. Chúng ta đừng quên bất cứ tập thể nào cũng do từng cá nhân gộp lại.
Khi nói đến các hố sâu, chúng ta dễ liên tưởng đến lòng tham lam vô đáy của con người. Thánh Kinh đã từng ví sự tham lam là một hình thức thờ ngẫu tượng. Cần nhìn nhận rằng sự tham lam khi mang tính cá nhân thì dễ bị trách cứ hay lên án, thế nhưng khi nó mang tính tập thể thì rất dễ được châm chước hay được biện minh, cho dù lắm khi chỉ là sự ngụy biện. Xin được nói đến các hố sâu của sự chia rẽ. Cần phải lấp đầy những hố sâu chia rẽ do hận thù, do bất đồng quan điểm, do khác nhau về niềm tin, về chính kiến. Ở đây không bàn đến những khác biệt mang tính cá nhân. Những sự khác biệt mang chiều kích tập thể, xã hội rất có thể là nguyên nhân phát sinh nhiều sự tranh chấp, loại trừ khủng khiếp. Các cuộc chiến tranh mang tính tôn giáo hay mang tình ý thức hệ mà lịch sử ghi lại cho chúng ta xác tín sự thật này.
Và cuối cùng là hình ảnh con đường quanh co. Với cá nhân thì có thể nghĩ đến sự thiếu ngay thẳng trong tâm tư, ý nghĩ và hành động của con người. Tuy nhiên dưới chiều kích xã hội thì chúng ta có thể nói đó là sự thiếu công minh trong các chủ trương, đường lối, chính sách, luật lệ. Hoặc nếu có luật lệ, chủ trương chính sách xem ra công minh nhưng việc áp dụng lại không công bình. Hiện tương "quan xử tình, dân xử nhặt" là một đan cử. Chính cái quanh co của các thể chế luật lệ đã hình thành nhiều tệ nạn như gian dối, tham ô, hối lộ, cửa quyền... mà không dễ gì diệt trừ ngày một ngày hai.
Phải sửa, phải lấp, phải bạt những gì cần bạt, cần lấp, cần sủa nơi con người mỗi người chúng ta. Thánh Gioan Tẩy giả đã nói với đám đông dân chúng là: "Ai có hai áo thì chia cho người không có; ai có của ăn cũng hãy làm như vậy". Với người thu thuế thì rõ ràng "đừng thu thuế quá mức ấn định" Với binh lính thì "đừng hà hiếp dân, hãy bằng lòng với lương bổng của mình" (x. Lc 3,-14). Thế nhưng với nhiều người Pharisiêu và nhóm Sađốc thì Ngài mạnh mẽ vạch mặt: "Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?" (Mt 3,7).
Đọc Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu rất độ lượng, khoan dung với những người bé mọn, yếu đuối và cả tội lỗi, thế nhưng Người lại có vẻ cương quyết và nghiêm khắc với nhiều người lãnh đạo Do Thái giáo, hoặc có vai vế, có ảnh hưởng trên dân thời bấy giờ. Cái nguyên nhân chính đó là vì không chỉ cung cách sống của họ bất minh mà còn vì lề lối hướng dẫn, sự chỉ đạo của họ không ngay thẳng khiến cho nhiều người lầm lạc. "Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisiêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại không để họ vào...Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các ngươi lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi các ngươi..." (Mt 23, 13-32; x. Lc 11,39-48).
Sự cao ngạo, xấu xa, bất minh, quanh co...trong đời sống cá nhân là điều đáng trách nhưng cũng có thể đáng thương vì ít nhiều còn vấn vương sự yếu đuối. Sự xấu xa, quanh co, bất chính, bất minh, ngông cuồng trong các chủ nghĩa, chủ trương, đường lối, chính sách...và cơ chế vận hành của chúng thì cần phải mạnh mẽ lên án và loại trừ, không nguyên chỉ vì chúng được hình thành bằng sự chủ ý, mà con vì hậu quả khôn lường mà chúng di hại cho xã hội, đặc biệt cho những người bé mọn.
Vừa qua, giám mục Thomas J. Tobin, giám mục Providence đã mạnh mẽ khẳng định rằng trong việc tranh luận" (bàn về chân lý), thì không thể chấp nhận chuyện đưa má bên kia cho người ta tát, nghĩa là luôn luôn tỏ ra dịu dàng, dễ thương. " Khi đối chứng với điều ác, Chúa Giêsu đã không dễ chịu, tử tế, nhẹ nhàng, và dịu ngọt ". " Chuá đã sống trong một thế giới thô bạo và đảo ngược và Người đã tuyên xưng thông điệp của Người trên đường phố." (x. Chân dung một Giám Mục Mỹ: Khi tranh luận, sẽ không đưa ra má bên phải -VietCatholic News (12 Nov 2009 18:17)
Để mọi người nhận biết ơn cứu độ, thì còn đó rất nhiều việc Kitô hữu chúng ta, con chiên lẫn chủ chiên, cần phải làm, và lắm khi phải can đảm lội ngược dòng. Dĩ nhiên khi đã làm thì chúng ta khó tránh khỏi chuyện phải vác thập giá. Và chuyện cũng đương nhiên đó là có vác thập giá mình đi theo Đấng đã bỏ trời xuống làm người để làm chứng cho sự thật thì mới đích thực là môn đệ của Người (x. Lc 14,27; Ga 18,37).
38. Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
(Suy niệm của Lm. Giacobê Tạ Chúc)
Lời của ca khúc: “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, của cố nhạc sỹ họ Trịnh, mang âm vọng của những ca từ mộc mạc, lạc quan và yêu đời cho mọi người. Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn không phải là người công Giáo, thế nhưng bài hát của ông, dòng nhạc của ông trên một bình diện hết sức là con người, cũng có thể mời gọi người Kitô hữu hãy mang tâm tình của một con người đầy hoan hỉ, để mặc lấy chiếc áo cưới huy hoàng, diễm lệ và thật lộng lẫy mà đón mừng Mầu Nhiệm Nhập Thể, Cứu Thế của Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta. Mùa Vọng đã khai mở một kỷ nguyên mới và đã dần khép lại với những sợi tơ lòng run rẫy, bởi những niềm vui, và vui mãi trong cuộc đời có Chúa và có nhau.
Chứng minh điều này không khó, Tiên tri Sô-phô-ni-a trong bài đọc thứ nhất đã gợi lên: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà It-ra-el hỡi! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3,14). Thánh Phao-lô Tông đồ cũng hồ hỡi bảo mọi người rằng: “ Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4,4). Như thế niềm vui và nối tiếp những niềm vui trong Chúa Nhật thứ 3 mùa vọng, không phải là màu tím buồn mà là màu hồng hớn hở và hân hoan. Niềm vui trong lòng, niềm hạnh phúc sung sướng sẽ toát ra trên khuôn mặt, trong giọng nói và trong những nụ cười rạng rỡ trên môi. Vui vì Chúa sắp đến, vui vì một đại lễ Giáng sinh, chất chứa biết bao là ân tình, là tín thác, là bác ái, sẻ chia. Người Kitô yêu đời và nhìn đời dưới lăng kính của đức tin. Một làn gió, một sợi sương, một nghĩa cử yêu thương, bốn phương xa gần là anh em, là hình ảnh của Đấng Tạo thành vạn vật. Không lạ gì mà Gioan Tẩy Giả, một con người của sa mạc lại là người có sức mạnh giảng thuyết để thu hút đám đông lũ lượt kéo nhau đến xin đón nhận đức tin. Niềm hạnh phúc của mỗi người không chỉ giữ riêng mình, mà phải biết trao ban. Thánh Gioan Tẩy Giả đề nghị những người đến với ông: “ Ai có hai áo, thì chia cho những người không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Người Kitô hữu không sống với một đức tin sáo rỗng, không có hành động cụ thể. Trái lại, niềm vui vủa Tin mừng luôn là một xác tín, một hướng đi cho mọi người thực ý Thánh ý Chúa. Những người dân, hay những người thu thuế, hoặc binh sỹ, phải biết thực thi trách nhiệm với toà án lương tâm của mình.
Chúng tôi phải làm gì? Biết và làm chẳng phải là hai thái độ của con người trước những sức công phá của chủ thuyết hoài nghi, hưởng thụ, của những lối sống hẹp hòi, ích kỷ. Tin Mừng đòi hỏi những việc làm cụ thể, những trách nhiệm liên đới và yêu thương. Mong đợi Chúa đến, đón mừng ngày Chúa Quang lâm là một biểu hiện của những người có niềm tin vào sự xuất hiện của Chúa trong thế giới ngày hôm nay. Cuộc sống có Chúa thì niềm vui mới trường tồn mãi được. Đó chính là những đòi buộc đầy thách đố của Tin Mừng, mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã đề nghị với từng lớp người đến với ông qua trang Tin Mừng, của Chúa Nhật Mùa Vọng thứ 3, Phụng vụ năm C.
Lời Chúa là Tin vui mang con người thoát khỏi những nỗi sầu thương, những đoạn trường khổ đau. Trong mọi hoàn cảnh rất thực của cuộc đời, niềm tin vào sự yêu thương của Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người, anh em hãy vui luôn, hãy hân hoan và ca hát, hãy lạc quan vì Chúa đến và vì luôn có Chúa trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
39. Mẫu gương mùa vọng
Ba nhân vật tiêu biểu cho tinh thần mùa vọng là ngôn sứ Isaia, ngôn sứ Gioan Baotixita và Đức Trinh nữ Maria. Và trong mùa vọng ta thấy kinh tiền tụng số 2 ca lên rằng: "Người là Đấng các tiên tri loan báo, Đức Mẹ Đồng Trinh đã cưu mang với tình yêu khôn tả, thánh Gioan đã loan tin sắp đến và đã chỉ cho thấy khi xuất hiện". Nếu xét về tầm quan trọng thì Gioan Baotixita là khuôn mặt nổi hạng nhì của mùa vọng. Chính phúc âm cho ta biết về thời thế xã hội khi ông ra đời, cho ta hiểu gia cảnh thân thế và chức vụ của ông"Tiền hô" làm nổi bật lên sứ điệp ông rao giảng. Ông đi khắp vùng ven sông rao truyền sự ăn năn thống hối, làm phép rửa. Nhất là chấp nhận bị lãng quên, và ví mình như một ngọn đèn bị lu mờ để Đấng Cứu Thế sáng lên. Đời sống của ông hầu hết là ẩn dật trong hoang địa và chỉ xuất hiện khi sứ mệnh đòi hỏi, để rồi lại tự xóa mình đi khi sứ mệnh chấm dứt. Ông thật chẳng khác nào một tiếng kêu nơi hoàng địa, vẳng lên không trung để rơi vào hư vô. Nếu nhìn toàn bộ cuộc đời của Gioan.B ta dễ dàng nhận thấy cả đời ông là chứng nhân cho Chúa Kitô và kêu gọi người ta ăn năn sám hối trở về với Chúa. Tất cả những công việc của Gioan Baotixita làm cũng chỉ nhằm "dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi". Gioan Baotixita thật là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta chiêm ngắm qua hành động:
1. Kêu gọi thống hối
Phép rửa của Gioan Baotixita tuy không phải là Bí Tích nhưng nó cũng có giá trị thật lớn lao. Phép rửa đó chính là dấu chỉ của lòng thống hối. Nếu con người không khước từ những khuynh hướng tội lối, không làm một cuộc đổi thay hoàn toàn đưa đến việc trở lại, và không thể đón nhận được Đấng Cứu Thế nếu không có lòng ao ước, không có sự thống hối như đòi buộc bước đầu. Vì sự thống hối là cốt lõi của ơn cứu Độ. Đó là một đòi hỏi mà con người không bao giờ muốn tự ý nhắc nhở mình, nhưng lại rất cần thiết cho họ
2. Sửa đường cho ngay thẳng
Lời Tin Mừng được chen vào như để làm trọn lời ngôn sứ Isaia: "Hãy dọn đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay đường lồi lõm phải sang cho thẳng. Rồi hết người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa". Bản văn ngôn sứ bàn về việc tái trở về từ nơi lưu đày của dân Do Thái. Giavê trở lại dẫn đầu dân Ngài trong sa mạc để vào đất hứa. Vì thế, đám rước khải hoàn đi qua thì đường sá phải bằng phẳng, không còn ghồ ghề nữa. Đến lúc này, lời tiên tri đã nên trọn vẹn với một ý nghĩa cao cả và nặng về tinh thần hơn. Nó không còn nói về sứ sở hay chỉ về con đường trần tục, mà nói về một hành trình thiêng liêng. Con người đã thoát khỏi cảnh lưu đày tội lỗi lên đường về Nước Chúa với một thái độ cương quyết, vá chính Đức Giêsu Đấng Cứu Thế sẽ dẫn đầu đoàn rước. Vì thế con đường thiêng liêng ắt hẳn sẽ phẳng lì, do việc sử soạn tinh thần và tâm hồn. Do đó, mà ta không có gì ngạc nhiên sau lời kêu gọi của Gioan Baotixita dân chúng đã bị lay chuyển và lũ lượt kéo đến với Ngài.
3. Gioan Baotixita mẫu gương trong mùa vọng
Sau khi nghe tiếng "hô" của Gioan Baotixita người ta đã lũ lượt kéo đến với ngài. Còn chúng ta ngày nay không những chỉ kéo đến với ông, mà còn phải trở nên giống ông, để trông chờ Chúa và được đón rước Chúa. Người Kitô hữu cũng phải bắt chước như ông Gioan Baotixita vậy. Ai muốn tìm gặp Chúa mà không phải lui vào sa mạc của tâm hồn để nghe Chúa nói rót vào lòng, giữa thinh lặng? Ai muốn gặp Chúa mà không phải noi gương Gioan Baotixita, sống bản tính khắc khổ. Ai muốn được chiếm hữu Thiên Chúa mà không phải bắt chước Gioan Baotixita, xóa bỏ con người cũ tội lỗi của mình đi? Ai muốn được kết hợp với Chúa mà không phải mô phỏng Gioan Baotixita, để hy sinh mạng sống mình vì Chúa, vì chân lý, vì anh em. Gioan Baotixita là ngôn sứ được Chúa khen thưởng bởi đã sống khiêm tốn, khắc khổ, âm thầm, đã nhiệt tình rao giảng sự ăn năn thống hối, đã chấp nhận hy tình cảm và mạng sống để dọn đường cho Chúa ngự đến. Tóm lại, mầu nhiệm Gioan Baotixita đang còn tiếp tục nơi trần thế, vì ông là gương mẫu cho ta trong mùa vọng nói riêng, và cả trong cuộc đời trông đợi Chúa nói chung.
Lạy Chúa, trong một xã hội bon chen nhiều náo động. Xin cho con biết học theo Gioan Baotixita, biết ăn năn thống hối, biết rửa sạch tội lỗi, đổi mới tâm hồn để đón Chúa trong mùa vọng này. Amen.
40. Hãy sám hối và đổi mới
Mỗi khi mùa vọng tới, chúng ta như được đánh động bởi mẫu gương của Gioan Tẩy Giả. Một con người sống đời sống đơn giản và được trao cho sứ mạng dọn đường cho Đấng Cứu Thế: "Có tiếng kêu trong hoang địa.Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi " (Lc 3, 4). Gioan Tẩy Giả đã chứng kiến cuộc đời muôn mặt và lòng người thì đầy nham hiểm, hố sâu, lồi lõm. Do đó, thánh nhân đã mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối, canh tân đổi mới để đón chờ Đấng Cứu Độ.
Đọc kỹ đoạn Tin Mừng của thánh sử Luca 3, 1-6, chúng ta sẽ thấy bối cảnh chính trị khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện. Tin Mừng vạch rõ đủ mặt các vị vì vọng như hoàng đế Tibêriô, Phongxiô Philatô, các tiểu vương vùng Palettin là Hêrôđê, Philip, Lysiana, sau cùng là các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái: Ông Anna và ông Caipha. Gioan chỉ là một người vô danh tiểu tốt, một người khó nghèo, khiêm tốn và đơn sơ. " Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa...".Vâng, đã từ lâu từ thời các ngôn sứ, dân Israen không được nghe chính Thiên Chúa trực tiếp dạy bảo. Nay, Thiên Chúa lên tiếng qua một con người xem ra rất dân dã, hoang dã mình khoác mảnh da lạc đà. Thiên Chúa không lên tiếng trong đền thờ nhưng Ngài lên tiếng trong hoang địa, gần sông Giođanô.Gioan Tẩy Giả là người hoang dã, nhưng ông được Thiên Chúa ban ơn. Nên, ông thông minh, ăn nói lưu loát, miệng lưỡi đầy Thần Khí của Chúa. Thánh nhân trưng dẫn lời ngôn sứ Isaia rằng dân Israen đã được Thiên Chúa giải thoát ra khỏi cảnh lưu đầy ở Babylon, họ được trở về quê hương cũ và được chính Thiên đến nâng đỡ, an ủi, vỗ về. Gioan Tẩy Giả đã loan báo rằng: " Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng " (Lc 3, 5). Thánh Gioan đã làm phép rửa thống hối. Ngài đã dìm những hối nhân xuống nước để họ chết đi cho tội lỗi và tâm hồn được sạch hầu đón nhận ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa sẽ ban cho họ. Đây là nghi thức nói lên rằng con người phải thay đổi tận gốc rễ.Con người phải ăn năn sám hối, đổi mới con tim, chia sẻ với tha nhân và chờ đợi Chúa Kitô đến.
Hậu quả việc làm của Gioan là làm cho cả xã hội lúc đó biến đổi khiến những nhà lãnh đạo đời và cả đạo đâm ra lo lắng, hoang mang. Gioan Tẩy Giả bị hành hình, nhưng " Đấng đến sau Gioan quyền năng hơn ông đến nỗi ông nói không sợ hãi rằng ông không xứng đáng cỏi giây giầy cho Ngài ". Đấng đến sau là Chúa Kitô lại tiếp tục đương đầu với bọn cầm quyền đạo đời khiến họ cũng theo một sách lược là kiếm cách khử trừ Ngài để tránh hậu họa.
Tuy nhiên,trước mặt họ những nhà cầm quyền đạo đời lúc đó chỉ thấy một vị vua phục vụ: " Đến để hầu hạ chứ không để được hầu hạ ". Nhưng họ vẫn cam tâm khử trừ Ngài.
Gioan Tẩy Giả luôn lớn tiếng kêu mời mọi người sửa sang đường sá. Nhưng ý của Gioan Tẩy Giả là đường vào tâm hồn mới thật quan trọng:
Con người phải lấp cho đầy những tỵ hiềm, tham lam, ích kỷ hẹp hòi, nông cạn. Con người phải uốn cho những lối nghĩ đúng theo suy nghĩ của Chúa. Phải san cho bằng những nẻo đi trệch đường của ngạo mạn, tự tôn, tự đắc. Phải bạt cho thấp, cho bằng những gồ ghề của bất chính, bất công, bất nghĩa.
Những chướng ngại ngăn cản con người đến với Chúa, chúng ta phải thật lòng ăn năn sám hối, đổi mới tâm hồn để Chúa có thể đến và ngự lại trong tâm hồn chúng ta. Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ đến dọn đường cho nhân loại đón Chúa lần đầu, chúng ta là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến từng ngày trong cuộc sống của tha nhân.
Chúa Kitô chỉ có thể đến với con người trên những con đường ngay nẻo chính. Ơn cứu độ của Chúa cũng chỉ được ban cho những con tim, những tâm hồn, những bàn tay biết mở rộng.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nhận ra những lỗi lầm của chúng con để chúng con biết ăn năn, sám hối hầu Chúa thứ tha và thi ân giáng phúc cho chúng con. Amen.
41. Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Mỗi người hãy tự hỏi: Mùa Vọng này là Mùa Vọng thứ mấy trong đời tôi?
Mùa Vọng đến và đi khi nào tôi không mấy để ý, như mùa thu hay mùa hạ. Vì thế, tâm hồn tôi luôn là bãi cát dài, trống trải. Bao nhiêu mùa vọng qua đi không để lại một dấu vết nào. Tâm hồn tôi vẫn như không thấy có gì mới lạ. Mọi sự đều bình thường. Nếu như thế thì dù thiên đàng hay hỏa ngục cũng không làm tôi chú ý.
Chúng ta quá quen thuộc với những lễ nghi phụng vụ đến độ không còn biết chú ý. Vì thế, sống bao nhiêu năm, tâm hồn chúng ta vẫn lơ đãng, không thay đổi gì. Những lời kêu gọi của Chúa không thấm nhập vào trí não. Giữ đạo như chuyện bình thường. Tất cả đều mang một màu như nhau. Chú ý đến những lễ nghi, mùa vọng hay mùa nào cũng vậy thôi. Đó là tâm trạng của rất nhiều người Công giáo. Sống đối với họ là lo làm giàu, lo cho gia đình đầy đủ tiện nghi, mọi sự khác chỉ là thứ yếu, không quan trọng. Đa số đã bị duy vật hóa.
Không, không thể sống duy vật như thế được, Giáo hội luôn nhắc nhở chúng ta: cuộc sống của chúng ta không chỉ có trần gian này. Sống là hướng về hạnh phúc mai sau, là hướng về Chúa. Chúa mới là hạnh phúc thật, tất cả chỉ là phù du, mong manh. Chúng ta biết điều đó, nhưng cám dỗ hưởng thụ vẫn là một cám dỗ triền miên.
Mùa Vọng là lúc chúng ta tìm về Chúa, Đấng đã đi tìm chúng ta trong trần gian này, trong vũng lầy tội lỗi của chúng ta. Ngài mới là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta. Cuộc đời chỉ có ý nghĩa khi nó được sống trong Chúa. Những người không tin, dù giàu có đến mức độ nào đi nữa, cũng không thể nào hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, không biết sống để làm gì. Họ chỉ biết kiếm tiền và hưởng thụ trần gian mà thôi. Người tín hữu chúng ta không thể bằng lòng với những phù phiếm nay còn mai mất. Khi mọi sự tan rã, chỉ còn Chúa thôi.
Chúa vẫn không thôi kêu gọi chúng ta trở về với Ngài, vì chỉ có Ngài mới là sự bình an cho tâm hồn, là hạnh phúc mà chúng ta đang mơ ước.
Trong Cựu Ước, dân Do Thái vẫn được gọi là một dân cứng cổ, thế nhưng Chúa không bao giờ bỏ dân, Ngài tìm hết mọi cách để đem nó về trong tình yêu của Ngài, dù đôi khi Ngài cũng mạnh tay, cho chúng nếm mùi đau khổ, lưu đày… Con người không trung tín, nhưng Chúa vẫn trung thành.
Khi thời gian viên mãn, Con Chúa sắp ra đời để thực hiện ý định yêu thương của Chúa, Ngài sai Gioan Tẩy Giả đến dọn đường bằng cách kêu gọi mọi người trở về với Ngài.
Gioan đã đến, trong một khung cảnh lịch sử chính xác. Thánh Luca, tuy không là một sử gia đúng nghĩa như thời nay, nhưng ngài không quên định vị Gioan trong thời điểm mà chúng ta có thể tìm lại và hiểu được hoàn cảnh địa dư, chính trị, tôn giáo.
Gioan đã nghe tiếng Chúa và đã đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Gioan tiếp nối truyền thống các tiên tri: ông là tiếng người hô trong sa mạc: Hãy dọn sẵn đường cho Đức Chúa.
Tiếng gọi ấy hôm nay được Giáo hội lặp lại, kêu gọi chúng ta dọn con đường tâm hồn để đón mừng Chúa đến.
Chúng ta có lắng nghe không? Chúng ta có chú ý không?
Chúa đến tìm chúng ta, cứu vớt chúng ta, chúng ta có xem như một hồng ân không? Hay chỉ là một tin ngắn trên mặt báo?
Thánh Luca dùng lời tiên tri Isaia kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, hoán cải con người, trở về với nguồn cội của ơn cứu độ: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng, và hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Ai trong chúng ta cũng cần phải hoán cải, trở về với Chúa, nguồn sống thật của chúng ta. Chúng ta mãi mãi là một dân tộc được hoán cải, được gọi để sống trong tình yêu Chúa. Hoán cải là từ bỏ Satan và những việc làm của nó để thuộc trọn về Chúa.
Hoán cải là bẻ gãy xiềng xích đang trói buộc chúng ta. Chúng ta đang bị ràng buộc như thế nào? Chúng ta có thấy được những xiềng xích đó không? Ích kỷ, tham lam, kiêu căng, nóng giận… Rất nhiều xiềng xích đang trói buộc chúng ta mà chúng ta không biết, vì rất ít khi chúng ta nhìn về bản thân mình. Khi đi xưng tội, việc xét mình chỉ là một thủ tục làm cho có lệ, làm sao đào bới được đống rác đang chất đầy trên tâm hồn chúng ta? Chúng ta không còn tự do nữa, thế nhưng chúng ta đã quá quen với xiềng xích đó rồi. Cần phải can đảm bứt đi những trói buộc đó. Chúng ta có đủ can đảm không? Vì thế bao nhiêu mùa vọng qua rồi, tâm hồn chúng ta vẫn tê liệt, cuộc sống chúng ta tầm thường, không có gì đáng chú ý, không có màu sắc Phúc Âm.
Hoán cải tức là đổi mới tâm hồn và cuộc sống, như thế chúng ta góp phần đổi mới thế giới. Chúng ta phải sống để xây dựng một thế giới mới trong đó con người không còn là đối thủ mà là anh em. Là anh em, để xây dựng một tình huynh đệ đích thực. Chúng ta không đủ quyết tâm vì thế, thế giới này càng lún sâu vào tội ác.
Nói như thế, chúng ta có ảo tưởng không? Chắc chắn không. Nếu đa số người Công giáo dám đi vào hoán cải thì mọi sự sẽ đổi mới. Mỗi người có thể đóng góp vào việc canh tân thế giới bằng những cố gắng hằng ngày của mình và không bao giờ vô ích. Lúc ấy mọi người phàm mới nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Chúng ta đang hướng nhìn về Đấng đang đến, Vị Cứu Tinh của nhân loại, Con Thiên Chúa. Hãy xin Ngài thương xót chúng ta đang kêu cầu Ngài, đang chờ mong Ngài đến đem bình an cho mỗi người, cho toàn thể nhân loại. Hãy tha thiết tìm Ngài khi còn tìm được. Hãy trở về trong tin yêu.
Ngài vẫn có mặt đây, mặc dù chúng ta còn phải đợi chờ. Ngài đến hằng ngày dưới hình thức một của ăn, Ngài không bao giờ quên chúng ta, chỉ có chúng ta quên Ngài. Hãy đến ăn lấy Ngài như Ngài vẫn bảo chúng ta. Ăn lấy Ngài để trở thành tình yêu như Ngài. Con đường hạnh phúc chỉ có một: tình yêu.
42. Cú sút trật đích rồi - Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Mùa Vọng là thời gian chuẩn bị chào đón Chúa Kitô. Chúng ta hãy chấn chỉnh lại cuộc sống của mình."
Một ngày chúa nhật vào tháng sáu oi ả, hàng triệu người Mỹ đang theo dõi truyền hình trận tranh giải toàn quốc môn Golf tổ chức trên sân cỏ lộ thiên. Ở phút gay go của trận đấu: máy thu hình tâp trung vào Jack Nicklaus. Anh đang giữ banh ở khu đất lởm chởm và đang chuẩn bị sút bóng. Chậm rãi nhưng quả quyết, anh giơ chiếc gậy nhắm vào quả banh, và suốt 20 giây trên màn hình người ta thấy anh chần chừ, chuẩn bị sút bóng. Nhưng rồi đột nhiên vào giây cuối cùng anh bỏ mặc qủa bóng và nói to cho mọi người nghe: "Cú sút này trật đích rồi." Bình luận viên thể thao trận đấu bối rối thốt lên: "Nhưng anh đã không sút bóng: không hiểu chuyện gì xảy ra với anh?" … và cuộc tranh giải lại tiếp tục.
Về sau Nicklaus giải thích rõ ràng tại sao như vậy trong cuốn sách của anh nhan đề: Golf My Way (lối chơi gôn của tôi). Anh mô tả cách thức anh chuẩn bị cho từng cú sút bóng như thế nào: đầu tiên, anh sắp xếp các cú sút trong trí, nghĩa là anh tưởng tượng ra trước từng cú sút, sau đó anh mới vung gậy đánh thực sự trên sân. Anh nói: "Y hệt một cuộn phim màu, trước hết tôi mường tượng trái banh tôi sắp vung gậy đánh, trái banh trông xinh xắn, trắng trẻo đang nằm trên sân cỏ xanh thắm, rồi hình ảnh trong trí chuyển biến thật lẹ làng và tôi thấy đường banh đang lăn, và thấy cả cách thức nó chạm đất ra sao nữa, rồi cảnh ấy nhoà đi nhường cho cảnh tiếp theo. Cảnh này chỉ cho tôi cách vung gậy để đưa những hình ảnh đã mường tượng trước đó trở thành hiện thực.
Điều mà Jack Nicklaus thực hiện trên sân golf vào trưa chúa nhật nóng bức ấy chính là điều Giáo Hội khuyên chúng ta nên làm trong suốt Mùa Vọng này, nghĩa là chúng ta phải chuẩn bị tâm trí để đón tiếp Chúa Kitô. Đây chẳng phải chỉ là sự đón tiếp liên quan đến cuộc giáng lâm có tính cách lịch sử của Ngài thường được chúng ta tưởng niệm vào dịp lễ Giáng Sinh, cũng không phải chỉ liên quan đến cuộc giáng lâm mầu nhiệm của Ngài nơi bí tích Thánh Thể, mà đặc biệt là cuộc giáng lâm sau cùng của Ngài ngày tận thế. Chúng ta hãy nói đến cuộc giáng lâm cuối cùng này của Chúa Giêsu.
Để đón Chúa Giêsu đến, chúng ta đã chuẩn bị thế nào? Chúng ta nên vâng theo lời dạy của thánh Gioan tẩy giả khi ông chuẩn bị cho dân Do Thái thời ông đón chờ Đức Giêsu đến với thế gian lần đầu tiên. Ông dạy bảo họ ăn năn thống hối từ bỏ tội lỗi. Có một vài câu Tin Mừng hôm nay. "Hãy sinh hoa trái tốt lành để chứng tỏ lòng ăn năn thống hối của các ngươi" (Lc 3: 8). Đây là điều Giáo Hội mời gọi chúng ta thực hiện trong mùa chờ đợi này. Chúng ta hãy từ bỏ tội lỗi và bắt đầu sống đúng như Chúa Giêsu từng dạy chúng ta; chúng ta hãy nghiêm chỉnh tự vấn xem "Liệu chúng ta có thể trình diện trước Chúa ngay lúc này không?"
Có lẽ sau khi hồi tâm dò xét kỹ, chúng ta cũng sẽ làm giống như Jack Nicklaus trên sân golf, đó là rời bỏ quả bóng và thốt lên: "cú sút trật đích rồi!" để sau đó, chúng ta sẽ phải thay đổi một số điều trong cuộc sống.
Vài năm trước đây, tạp chí This Week có thuật lại câu chuyện cảm động về một cậu bé 17 tuổi người Hoà Lan đã từng trốn khỏi trại tập trung Đức Quốc Xã, nhưng đã bị bắt lại và bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành hình, cậu đã gởi cho bố cậu lá thư sau đây. Tôi xin trích lại: "Bố thân yêu, thật khó khăn lắm con mới viết được cho bố lá thư này, nhưng con vẫn phải cho bố hay rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết dùm con… chẳng bao lâu nữa, đúng 5 giờ, điều đó sẽ xảy đến cho con… chỉ một chốc thôi thế là con sẽ về với Chúa. Nói cho cùng đấy có phải là cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi không?… con cảm thấy rõ ràng rằng mình đang ở gần bên Chúa, con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ cái chết… con nghĩ rằng con còn đỡ đau khổ hơn bố nhiều, vì con biết rằng mình đã xưng hết tội lỗi, và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản.. ký tên "Kless".
Phúc cho ai vào giờ chết có thể nói được như cậu ta. Mùa vọng là thời gian chuẩn bị tâm hồn anh chị em để đến giờ chết anh chị em có thể nói được như thế. Đó là thời gian để anh chị em hồi tâm tỉnh trí và chuẩn bị; đây là thời gian tự vấn chính mình;chúng ta có sẵn sàng đón tiếp Chúa Giêsu vào giờ chết không? Chúng ta có sẵn sàng đón Chúa Giêsu vào ngày tận thế không? Chúng ta có sẵn sàng gặp Chúa Giêsu ngay lúc này không? Chúng ta có nói được như cậu bé trên không? "con cảm thấy rõ ràng con đang ở gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị sẵn sàng đón chờ cái chết… con đã xưng hết tội lỗi và tâm hồn con hoàn toàn thanh thản".
Vậy nếu hiện giờ chúng ta chưa có thể nói lên câu ấy thì liệu đến cuối Mùa Vọng chúng ta có thể thốt lên được câu nói ấy không?
43. Sám hối, hoán cải tâm lòng – Radio Veritas Asia.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Thomas Merton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng lan rộng khắp thế giới. Vào thập niên 60, chàng theo Anh giáo, nhưng sống như người vô thần. Một ngày nọ, tình cờ đi ngang một nhà thờ Công Giáo, chàng được Chúa thúc đẩy ghé vào nhà thờ trong chốc lát. Từ trước tới nay Thomas Merton cũng đôi lần đi nhà thờ đó, nhưng vì tò mò, vì theo anh em bạn cho vui hơn là vì lòng tin, dầu chàng đã được cha mẹ cho rửa tội ngày còn nhỏ. Sau này, khi đã theo đạo Công Giáo và nhập vào Trappiste khổ tu, Thomas Merton đã kể lại biến cố ấy như sau:
"Khi bước vào trong nhà thờ, điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là, tôi trông thấy một cô gái duyên dáng tuổi chừng 15, 16 đang quì cầu nguyện một cách vô cùng sốt sắng, không để ý đến chuyện gì khác xảy ra chung quanh. Khi cả lúc tôi bước vào nhà thờ, tôi rất đỗi ngạc nhiên trước sự kiện, một thiếu nữ từng ấy tuổi lại quì cầu nguyện trong ngôi thánh đường lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm trong lời cầu, như thể bị hút hồn. Dĩ nhiên, là cô gái nọ vào nhà thờ không phải là để cho người ta ngắm nghía, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Và nàng đã cầu nguyện chăm chú, sốt sắng như các thánh trong một ngôi thánh đường thanh vắng. Cuộc gặp gỡ và thân tình ấy của thiếu nữ đó với Thiên Chúa trong khung cảnh hoàn toàn vắng lặng của ngôi thánh đường hôm đó, đó là một trong các nhân tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này".
Ngôi thánh đường công giáo vắng lặng ấy, đó là một bãi sa mạc nơi con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa giữa lòng xã hội loài người nhiều bôn chôn, dao động này. Qua các bài đọc Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo Hội cũng kêu mời chúng ta hãy biết tạo ra sa mạc trong tâm lòng mình khi nào đó để gặp gỡ Thiên Chúa. Chương 5,1-9 sách tiên tri Barúc, là một lời sấm liên quan đến ơn cứu độ theo truyền thống Kinh Thánh. Barúc đã là bạn kiêm thư ký của tiên tri Giêrêmia, nhưng thật ra sách Barúc là một tổng hợp các văn bản thần học góp nhặt đó đây và được soạn chung lại bằng tiếng Hy Lạp vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch. Tiên tri Barúc muốn khẳng định với dân Do Thái rằng: Cuộc sống và niềm hạnh phúc là những điều có thể thực hiện được sau những năm tháng họ phải sống trong cay đắng, tủi nhục, đen tối của kiếp sống lưu vong. Để diễn tả sứ điệp hy vọng và tin tưởng ấy, tiên tri dùng một số hình ảnh biểu tượng như chiếc áo, tên gọi, và các kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Chiếc áo đó ám chỉ phẩm giá của con người khi giới thiệu thành thánh Giêrusalem, là biểu tượng của toàn dân Chúa. Trong chiếc áo mới rực rỡ của mừng vui, chớ không phải chiếc áo tang của sầu buồn mà tiên tri Barúc cố ý loan báo cho dân chúng biết, Thiên Chúa sẽ trao ban trở lại cho họ phẩm giá làm dân riêng Chúa chọn và chấm dứt sự sống khổ nhục họ phải chịu trong thời lưu đày. Chiếc áo tang của sầu thương diễn tả thời gian và khung cảnh sống lưu đày tủi nhục. Hình ảnh chiếc áo mới mừng vui trên đây hé mở cho chúng ta thấy ý nghĩa việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử nhân loại khi cho Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người. Chúa Giêsu Kitô mặc lấy chiếc áo yếu hèn của thân phận làm người, mặc lấy chiếc áo rách nát, tả tơi, hôi thúi của tội lỗi từng biến dạng con người khiến cho nó không còn giống Thiên Chúa nữa, vì đã đánh mất đi phẩm giá làm con Thiên Chúa và là thụ tạo tuyệt diệu nhất trong mọi loài thụ tạo. Chúa Giêsu mặc lấy nó để đánh đổi cho loài người chiếc áo mới, chiếc áo mừng vui được làm con cái Thiên Chúa và giống hình ảnh Ngài. Với phẩm giá mới ấy, thành thánh Giêrusalem đại diện cho dân Chúa, cũng mang một tên gọi mới trong ngôn ngữ của Kinh Thánh.
Đặt tên cho một người, một vật, có nghĩa là tuyên bố người đó hay vật đó thuộc quyền sở hữu của mình. Nó cũng có nghĩa là người đó hay vật đó được che chở yêu thương và săn sóc. Giêrusalem từ nay, Thiên Chúa sẽ đặt tên cho là Hòa Bình, Công Chính và Vinh Quang của lòng thương xót. Dân riêng của Thiên Chúa từ nay, sẽ làm một dân tộc diễn tả sự an bình, công chính, lòng nhân từ, thương xót và vinh quang mà Thiên Chúa hiện thực trong vương quốc thiêng linh của Ngài. Vương quốc mà Thiên Chúa cống hiến cho nhân loại ngay từ bây giờ, trên trần gian này, với biến cố Đấng Thiên Sai nhập thể làm người. Trong tên gọi mới này cũng tiềm ẩn tên gọi Giêsu mà Thiên Chúa sẽ dành riêng cho Đấng Cứu Thế. Chúa Giêsu là ơn cứu rỗi, là sự che chở Thiên Chúa gởi đến cho loài người luôn bị sự dữ cám dỗ và thường bị tội lỗi chiếm hữu. Công trình cứu độ và giải phóng ấy được Thiên Chúa ra tay hiện thực và trao ban cho dân Người, với sự cộng tác của mọi loài, mọi vật, y như trong biến cố xuất hành khỏi Ai Cập thời xa xưa. Thiên Chúa sẽ ra tay gạt bỏ mọi chướng ngại, khó khăn. Đường vào sa mạc dẫn đưa dân Ngài vào Đất Hứa sẽ thẳng băng, không còn gò cao. Sa mạc nắng cháy khô cằn sẽ nở hoa xanh tươi.
Trong chương 3 Phúc Âm của mình, thánh sử Luca ghi lại các biến cố ấy trong khung cảnh lịch sử của thế giới chính trị và tôn giáo thời bấy giờ. Ơn gọi và hoạt động loan báo Tin Mừng của thánh Gioan Tẩy Giả xảy ra vào năm thứ 15, dưới thời hoàng đế Tibêriô, năm 28, sau Tây lịch, bởi vì hoàng đế lên ngôi năm thứ 14. Quan toàn quyền Giuđêa lúc đó là Phongxiô Philatô, Palestine hồi ấy cũng gồm 3 châu quận do 3 quận vương cai trị là Hêrôđê Antipa, Philipphê và Lysania. Hai thượng tế vào thời này là thượng tế Anna (vào năm thứ 6 đến năm 14 sau Tây lịch) và thượng tế Caipha (trị vì từ năm 18 đến năm 36 sau Tây lịch).
Tuy nhiên, điểm thánh sử Luca cố ý nêu bật ở đây chẳng phải là các biến cố lịch sử chính trị và xã hội, mà là ý nghĩa thần học của lịch sử. Thánh Luca muốn khẳng định rằng, chính Lời của Thiên Chúa tạo ra lịch sử. Tất cả mọi biến cố, mọi nhân vật, mọi thời đại, cách tiếp nối của các quyền bính và giới lãnh đạo trần gian, chỉ là khung cảnh trong đó Ngôi lời của Thiên Chúa nhập thể làm người để cống hiến ơn cứu độ cho nhân loại. Lời thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng diễn tả trước sứ điệp mà Chúa Giêsu Kitô loan báo sau này: Muốn được ơn cứu độ, con người phải lãnh nhận bí tích rửa tội, sám hối, hoán cải tâm lòng, thay đổi lối sống, canh tân tư tưởng và cung cách hành sự của mình, bởi vì Đấng Thiên Sai đã hiện diện giữa lòng trần gian.
Sa mạc nơi thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối là một điểm thần học nổi bật khác của truyền thống Kinh Thánh. Trong Kinh Thánh, sa mạc là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Sa mạc khô cằn, nóng bỏng ban ngày, giá buốt ban đêm, là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng và không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói khát và lạc hướng. Những tình trạng đó giúp con người ý thức được cái bé bỏng hư không, vô nghĩa của đời mình. Bởi vì nó chỉ là gì, nếu không phải là cát bụi, hư vô? Nhận thức ấy khiến cho con người từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng, ngạo mạn, mọi chủ trương coi mình là thần thánh và có thể tự giải thoát lấy mình. Thái độ và tâm tình ấy khiến cho con người rộng mở tâm lòng mình, cho hành động và ơn thánh cứu độ của Thiên Chúa. Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con ngươì về đến chỗ gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ Ngài ban. Trong cuộc sống thiêng liêng càng biết năng vào sa mạc, chúng ta càng sống cảm nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa sâu đậm hơn.
Sông Giođan, cũng là hình ảnh thần học nổi bật khác. Như tường thuật Phúc Âm thánh Luca, Giođan là con sông của hai thời giao ước, nó là chứng nhân của các biến cố lịch sử ý nghĩa của dân Do Thái. Nước sông Giođan là nước thanh tẩy của cuộc sống phục sinh và của bí tích rửa tội.
Hình ảnh nổi bật sau cùng trong tường thuật Tin Mừng của thánh Luca là hình ảnh thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri của hai thời giao ước, người đã nhận được Lời Chúa trong sa mạc, Thánh nhân loan báo rằng chính Ngôi Lời của Thiên Chúa là động lực hướng dẫn dòng lịch sử của nhân loại, chớ không phải con người và các chương trình loài người đưa ra. Do đó, càng biết san bằng các chướng ngại ngăn cách chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta càng dễ nhận ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu trong đời ta, giữa lòng thế giới.
Trong chương 1 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta một con đường, một cách thế giúp chuẩn bị hữu hiệu cho ngày Chúa trở lại. Đó là luôn kiên trì sống tình yêu thương, bác ái, biết vun trồng lòng tin, cậy, mến và khả năng bén nhạy giúp nhận ra đâu là thánh ý Chúa và điều đẹp lòng Ngài. Sống được như thế, là tín hữu sinh hoa trái thiêng liêng phong phú và hiện thực nơi con người điều gọi là con cái Chúa và là dân riêng của Ngài.
44. Hãy dọn lòng ngay thẳng!
Trong những ngày gần đây, chúng ta nghe tin tức trên các đài phát thanh, trang báo đều nói về những việc chuẩn bị cho ngày đại lễ Giáng sinh sắp tới. Nhiều nước trên thế giới đang chuẩn bị thật tốt để mừng lễ Giáng sinh. Người ta chuẩn bị các cây thông và còn trang trí trên đó nhiều đèn đèn sao, thiệp mừng, quà mừng giáng sinh... Các cửa tiệm cũng đã bày bán đầy những món hàng phục vụ cho dịp lễ Giáng sinh, nào là thiệp chúc mừng Giáng sinh đủ màu đủ loại, rồi cây thông, đèn sao, tượng Chúa để làm hang đá, rồi đèn màu, đèn chớp, rồi những kiểu chữ Noel, chữ mừng Chúa Giáng sinh, rồi những dây treo đủ màu lấp lánh. Rồi cũng phải kể đến những chiếc mũ Noel, những bộ quần áo để làm ông già Noel... rồi trong các tiệm bánh cũng đã có bánh Sinh nhật, ai muốn chọn loại nào thì họ có đủ để cung cấp loại đó...
Những tin tức nghe được, và ở ngoài xã hội, người ta đã chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh rồi, đặc biệt các nhà kinh doanh họ đã chuẩn bị cho lễ Giáng sinh từ lâu rồi, chuẩn bị một cách chu đáo, chuẩn bị bằng nhiều công sức, và còn phải đầu tư vào đó với rất nhiều tiền bạc.
Ngoài xã hội, người ta đã đầu tư vào dịp lễ Giáng sinh với nhiều công sức như vậy, còn chúng ta, chúng ta đã vào mùa vọng được một tuần rồi, vậy chúng ta có chuẩn bị gì cho lễ Giáng sinh của chúng ta chưa?
Còn các họ đạo Công gáo mừng lễ Giáng sinh cũng lớn lắm, nào là làm văn nghệ, làm nhạc cảnh canh thức, nào là rước kiệu Chúa Hài đồng cách trọng thể, nào là làm lễ ngoài trời. Cũng có họ đạo chỉ tổ chức lễ đơn sơ hơn tổ chức vài ngày cho giáo dân xưng tội, làm hang đá, treo cờ, treo đèn sao là được rồi. Như vậy, có họ đạo thì mừng Giáng sinh thật lớn, có họ đạo cũng chỉ mừng lễ Giáng sinh đơn sơ vậy thôi.
Hôm nay, đọc qua bài Phúc âm, chúng ta thấy Lời Chúa đã hướng dẫn chúng ta một cách thức để chúng ta chuẩn bị lễ Giáng sinh cho thật đúng, cách thức đó đã được Thánh Gioan nói lại lời của tiên tri Isaia một cách rõ ràng rằng:"Hãy dọn đường cho Chúa ngự đến,hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng,những thung lũng sâu, hãy lấp cho đầy,những núi đồi hãy bạt xuống,những khúc quanh co, hãy làm lại cho ngay thẳng,và mọi chỗ lồi lõm, hãy sửa lại cho bằng". Như vậy, cách thức mà Thánh Gioan nói tới ở đây, là dọn những con đường cho Chúa ngự đến, mà phải dọn những con đường đó cho ngay thẳng, nhưng những con đường phải dọn, đó là những con đường nào? Đó chính là những con đường để mỗi người chúng ta đi đến gặp gỡ Chúa, và cũng là những con đường để chúng ta đi đến gặp gỡ những anh chị em của chúng ta. Vậy thì phải dọn những con đường đó như thế nào? như Thánh Gioan đã gợi trong bài Phúc âm thì:
Trước hết, những thung lũng sâu, hãy lấp cho đầy, nghĩa là hãy lấp đầy những hố sâu là sự ngăn cách giữa tôi và tha nhân, lấp đầy những ngăn cách do mặc cảm tội lỗi, do hận thù, do tranh chấp với nhau, lấp đầy những ngăn cách do đầu óc bè phái, do ganh tỵ, do phân biệt giai cấp, do sự chênh lệch về giàu nghèo.
Tiếp đến, Thánh Gioan kêu gọi mỗi người hãy bạt xuống những đồi núi, nghĩa là hãy bạt xuống những đồi núi của tính kiêu căng, của sự tự mãn, của thói giả hình giả bộ; rồi cũng phải bạt xuống những núi đồi của thành kiến, của sự "ta đây", của lòng tự ái, của sự hơn người, của óc kỳ thị khinh bỉ kẻ khác.
Tiếp theo nữa, Thánh Gioan kêu gọi hãy sửa lại cho ngay thẳng những khúc quanh co, sửa lại, có nghĩa là hãy dẹp bỏ mọi trở ngại trên lối đi, dẹp bỏ mọi ngăn cách, dẹp bỏ mọi lối suy nghĩ quanh co, dẹp bỏ những tính toán sai lầm, dẹp bỏ mọi cái nhìn sai lạc về người khác.
Cuối cùng, Thánh Gioan cũng kêu gọi, hãy sửa lại cho bằng mọi chỗ lồi lõm, những chổ lồi lõm đó, chính là những sự chênh lệch giữa người với người, đó cũng là những lối phân biệt trong đối xử, đó là những sự chênh lệnh giữa những người không cùng giai cấp, địa vị trong xã hội. Sửa lại cho bằng phẳng, tức là mở lối cho Chúa đến với tôi, mở lối cho tôi đến với Chúa; mở lối cho mọi anh chị em đến được với tôi, và cũng là mở lối để tôi đến được với mọi anh chị em trong tình yêu thương chan hòa.
Trong cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta, thường có rất nhiều những hoàn cảnh trái ngang, làm cho con người thường hay hiểu lầm và nghi kỵ lẫn nhau, có khi đối với những người mà chúng ta thân thích nhất, trong cả môi trường mà chúng ta thấy thân thuộc nhất.
Trong Mùa Vọng, nhiều người nghĩ đến việc chỉ cần đi xưng tội trước lễ Giáng sinh thì tôi đã dọn được một đại lộ rộng thênh thang, tha hồ mà đi thoải mái trên đó để vui với lễ Giáng sinh. Nhưng khi nhìn lại, thì ta mới thấy được rằng: trong cuộc sống này, không phải chỉ có đi xưng tội là xong, nhưng chúng ta còn phải dẹp bỏ những chướng ngại trên con đường đi, nhưng đến nay vẫn còn thiếu những con đường ngay thẳng, vẫn còn rất nhiều những núi đồi kiêu căng, còn rất nhiều những hố sâu ngăn cách giữa người với người... Trái lại, càng ngày lại càng xuất hiện thêm những con đường cong queo, những con đường ngoằn ngoèo, những con đường giả dối, những con đường chia rẻ có từ trong thẳm sâu cõi lòng của các con người trong xã hội...
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết nghe theo lời của Thánh Gioan trong bài Phúc âm hôm nay là "Hãy dọn đường Chúa", để chúng ta can đảm dẹp bỏ mọi con đường quanh co, để từ tôi đến với Chúa, từ tôi đến với mọi anh chị em sẽ có những con đường thẳng tắp, để rồi tất cả chúng ta đều đến được với nhau trong yêu thương hoà thuận, và trong tình nghĩa thật chân thành.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa mau đến với chúng con. Amen.
45. Khẩn trương dọn đường để Chúa đến--- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa Nhật II Mùa Vọng, với hai viễn tượng mà chúng ta đang sống là tưởng niệm biến cố nhập thể làm người của Đức Giêsu, hiện thân của Lòng Thương Xót, sinh bởi Ðức Trinh Mữ Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót và chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để “phán xét kẻ sống và kẻ chết”, như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Phụng vụ Lời Chúa đề nghị chúng ta suy gẫm về Gioan Tẩy Giả, Vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế và nghe lời ông khẩn trương “dọn đường Chúa” (Lc 3,4).
Gioan Tẩy Giả
Gioan là người được Isaia nhắc đến trong lời sấm: “Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng” (Lc 3, 4-5). Ngay từ khi còn ở trong lòng mẹ, Gioan đã được gọi làm Tiền Hô cho Đấng Mêsia. Việc loan báo việc ông sinh ra đã khiến nhiều người phải ngạc nhiên: Dacaria cha Gioan đã bị câm vì đã không tin lời của sứ thần Thiên Chúa. “Láng giếng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđa” (Lc 1, 65).
Gioan Tẩy Giả thực thi sứ mạng Tiền Hô của mình một cách thầm lặng. Trước hết, ông lui vào trong hoang địa, ăn châu chấu, uống mật ong rừng, mặc áo lông để chuyên tâm cầu nguyện, hãm mình và sám hối. Chúng ta biết, hoang địa tượng trưng cho sự từ bỏ hoàn toàn, là nơi con người không thấy gì khác ngoài sự yếu hèn, nhỏ bé, giới hạn, bất lực của mình trước sự cao cả của Đấng Tạo Hóa. Chính trong hoang địa mà Gioan Tẩy Giả nâng hồn lên tới Chúa và sống hiệp thông mật thiết với Ngài để kín múc lấy sức mạnh cho sứ mạng tương lai. Sau một thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng, Gioan Tẩy Giả mới công bố Phép Rửa sám hối để được tha tội. Ông là người mà Chúa Giêsu đã nói: “Cho đến thời ông Gioan, thì có Luật và các ngôn sứ, còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào” (Lc 16,16).
Sống trong cảnh nghèo, Gioan Tẩy Giả muốn nói: “Chứng tá Kitô đích thực là hết sức cần thiết cho ngày hôm nay, vì con người thời nay tin các chứng nhân hơn là các thầy dạy” (Tông huấn Giáo hội tại Á Châu, 42). Bằng đời sống khắc khổ, Gioan giúp chúng ta hiểu rằng, chứng tá của đời sống Kitô đích thực là phó thác đời mình cho Thiên Chúa và hiệp thông với Ngài. Gioan Tẩy Giả đã kêu gọi người ta “hãy dọn đường Chúa” (Lc 3,4).
Dọn đường Chúa
Khi chiêm ngắm sứ vụ Tiền Hô của Gioan Tẩy Giả, sứ vụ mà ông phải hy sinh đến cả mạng sống. Nhận mình chỉ là một “tiếng kêu” (Lc 3,4) trong hoang địa để dọn đường cho Đấng Mêsia đến, Đấng mà ông “không xứng để cởi dép cho Người” (Lc 3,16). Toàn bộ cuộc sống và sứ mạng như ống nói là cho Đấng Mêsia: “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi”. Chúa Giêsu càng xuất hiện thì Gioan ngày càng tự nguyện biến đi. Dựa vào chỉ dẫn của ông, những môn đệ tốt nhất của Gioan đã đi theo Chúa Giêsu. Đó chính là sứ vụ, là cách sống và là con người của Gioan Tẩy Giả. Đó cũng là sứ vụ, cách sống và con người của chúng ta: “Tất cả cho Chúa!”
Bổn phận của chúng ta hôm nay là chỉ cho người khác biết Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa Cha, Đấng giầu lòng thương xót và chuẩn bị giúp người khác tin theo Chúa. Đây là cốt yếu của việc tông đồ mà chúng ta phải thực hành trong cuộc sống: biểu lộ Chúa Giêsu cho bạn bè, cho người láng giềng. Điều quan trọng là Chúa Giêsu “khuôn mặt của lòng thương xót Chúa Cha” (Ep 2, 4) được nhận ra và đón rước, “một Thiên Chúa nhân từ và đầy thương xót, chậm bất bình, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34, 6), đã không ngừng thể hiện bằng nhiều cách khác nhau trong suốt lịch sử, bản tính Thiên Chúa của Ngài (Tông thư “Misericordiæ Vultus – Khuôn Mặt Xót Thương, số 1).
Làm chứng cho lòng thương xót Chúa
Dịp Đại hội Giới Trẻ thế giới lần III ngày 27.3.1988. Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: Đức Maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, chỉ cho chúng ta Con của Mẹ: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5), có nghĩa là chúng ta hãy đón rước Chúa Giêsu, vâng lời Chúa Giêsu, tuân giữ các giới răn của Người và tin tưởng nơi Người. Người là phương án duy nhất của một cuộc sống thật sự thành công và hạnh phúc. Người cũng là nguồn mạch duy nhất về ý nghĩa cuộc đời của chúng ta.
Thực vậy, Trước Tin Mừng của một Vị Thiên Chúa vì yêu thương chúng ta đã tự hạ chính mình và mặc lấy thân phận con người, chúng ta không thể nào không mở rộng tâm hồn, ăn năn hối cải, càng không thể nào đóng kín mình trong sự kiêu ngạo và giả hình, làm cho chúng ta không thể nào tìm gặp Hoàng Tử Bình An. Hơn bao giờ hết, chúng ta được mời gọi trở nên người loan báo Chúa Kitô bằng lời nói và đời sống chúng ta, làm chứng cho một Chúa Kitô tốt lành, khiêm nhường, nghèo khó và nhân từ; một Chúa Kitô đã đến trần gian vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên cậy thập giá; một Chúa Kitô nhập thể làm người, giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi; một Chúa Kitô đến để hầu hạ chứ không phải để được hầu hạ, một Chúa Kitô xót thương nhân loại cho đến chết.
Chúng ta còn được mời gọi san phẳng đường lối cho Chúa, nghĩa là dẹp tan lòng kiêu ngạo, chia rẽ, hận thù, bất hòa, giận dữ trong chúng ta; xóa bỏ ranh giới còn tồn tại trong não trạng của nhiều người; tinh luyện tâm hồn; chiến đấu cho công lý, hòa bình, bác ái, tình huynh đệ và liên đới; khước từ Satan, tội lỗi và tất cả những gì đưa chúng ta đến tội lỗi; là sống thánh thiện nơi thân xác và tâm hồn (1 Cr 7,34).
Ngày 8 tháng 12 sắp tới, lễ Ðức Maria Vô Nhiễm, toàn thể Giáo hội bước vào Năm Lòng Thương Xót. Chúng ta hãy xin với Đức Maria, Nữ Vương Lòng Thương Xót, Ðấng đầy ơn phúc, Mẹ của Ðấng Cứu Thế được gìn giữ khỏi mắc tội, và được đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa dạy cho chúng ta biết thương xót như Chúa Cha và dẫn dắt chúng ta bước vào Năm Thánh và nhất là trở nên khí của của Lòng Thương Xót Chúa nữa. Amen.
46. Đổi mới – Lm Nguyễn Nguyên
Có thể nói, cuộc đời của mỗi người chúng ta được ví như một con đường. Và trên con đường ấy, mỗi người phải tiến về cùng đích của mình. Cuộc đời chỉ có ý nghĩa nếu ta biết chọn cho mình đường đi đúng đắn. Cho nên, cuộc sống mỗi người cũng là quyết định của một sự chọn lựa tự do. Chúa muốn mỗi người trong chúng ta hãy tự quyết định phần rỗi cho chính mình. Ngài là Người Cha đầy yêu thương và cũng ban đủ mọi phương thế để giúp chúng ta chọn lựa con đường đúng đắn nhất để chúng ta có thể trở về với Ngài. Cũng có những chọn lựa thật đúng đắn, khôn ngoan; nhưng cũng có những chọn lựa lệch lạc, chủ quan dẫn tới những sai lầm, khiến chúng ta ngày càng xa Thiên Chúa, lắm khi trở thành kẻ đối nghịch với Ngài. Vì thế, mỗi năm vào mùa vọng chúng ta luôn được nghe lại lời kêu mời của Thánh Gioan Tẩy Giả là “hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” để nhắc nhở chúng ta hãy uốn nắn con đường tâm hồn, cách sống cho thích hợp, để sẵn sàng đón chào ngày Chúa đến.
Chúa muốn chúng ta “hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”, bởi Ngài không thích và không muốn chúng ta đi trong sự quanh co, sống trong sự lừa đảo và lệch lạc. Thiên Chúa, Ngài muốn con cái của mình luôn sống và đi trong đường lối của Ngài, con đường dẫn đến sự sống. Gioan Tẩy giả đã dùng lời tiên tri Isaia mà kêu gọi “hãy lấp mọi hố sâu, bạt mọi núi đồi, nắn lại con đường cong queo, san bằng con đường gồ ghề”. Chúa muốn chúng ta hãy sống trong sự công chính, trong sự thánh thiện và cũng đừng chậm trễ thi hành những giới luật của Chúa, vì “ngày của Chúa đến như kẻ trộm”. Chúa muốn ta sống trong sự trung thực, thẳng thắn.
“Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Chúa đang đến gần và thực sự Ngài đang bên cạnh, ngày đêm chờ đợi sự sám hối, ăn năn của mỗi người chúng ta. Chúa không muốn chúng ta đánh mất cuộc đời mình bằng “sự thiếu hiểu biết”. Chính Ngài đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, để chỉ mong chúng ta sống và đi trong đường lối của Ngài, con đường sự thật dẫn đến sự sống. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta biết nắn lại cho thẳng những gì đang quanh co của gian dối, lừa đảo; lấp đi mọi hố sâu đam mê, ích kỷ, tham vọng; bạt đi mọi gò nổng kiêu ngạo, tự mãn, để tâm hồn chúng ta thật xứng đáng và bình an đón nhận tin mừng cứu rỗi của Chúa.
“Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” Chúa muốn đến với tất cả chúng ta bằng con đường thẳng, ngắn nhất, bởi con đường mà Ngài giới thiệu và sống chính là con đường của tình yêu, của tha thứ và cứu độ. Chính bản thân Ngài đã không chọn lựa con đường nào ngoài con đường của thí mạng, để làm gương cho tất cả chúng ta. Chính khi yêu thương là lúc chúng ta đang đi đúng con đường của Chúa. Chính khi yêu thương và tha thứ cho anh em, là chúng ta đang đến gần hồng ân cứu rỗi và thuộc trọn về Ngài.
Lời mời gọi “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” đang đặt ra cho chúng ta sự lựa chọn: ưu tiên cho những gì thuộc về Chúa, loại trừ ra khỏi tâm hồn chúng ta sự dối trá, quanh co. Uốn nắn những gì lệch lạc, điều đó luôn đòi hỏi mỗi chúng ta phải nỗ lực hằng ngày để cải thiện cuộc sống, đổi mới cách sống để xứng đáng hơn với tình thương của Chúa. Chúa đã và đang đến thật gần với từng người chúng ta, đừng chậm trễ, đừng ươn hèn trong chính những lẫm lỗi của mình, nhưng can đảm và quảng đại để ngày càng xứng đáng hơn với tình yêu của Thiên Chúa.
Dọn đường cho Chúa bằng cách lấp đầy những thung lũng, bạt những núi cao ấy và sửa lại những con đường quanh co hiện đang ở trong tâm hồn từng người chúng ta. Đó là những trở ngại khiến cho Chúa không đến được với ta. Những trở ngại ấy ở từng người không ai giống ai. Nhưng chắc chắn có chung một điểm: để chuẩn bị một con đường cho Chúa ngự đến trong tâm hồn mỗi người chúng ta không gì khác hơn là chúng ta phải luôn ý thức được tình trạng yếu đuối và tội lỗi của mình để sám hối và thay đổi. Thay đổi cuộc sống, thay đổi lối nhìn, thay đổi cách suy nghĩ. Chúng ta thường nhìn người khác bằng những định kiến, những nhãn hiệu do chính chúng ta tạo nên. Những định kiến đó là những lũng sâu tăm tối, nơi thiếu vắng ánh sáng tình yêu làm chúng ta không thể đến với tha nhân.
Chúng ta thường vô cảm trước những nhu cầu của người khác, nhưng chỉ lo toan tính tìm lợi ích cho bản thân mình. Những toan tính ích kỷ đó, là những khúc quanh co, những mấp mô, lồi lõm của tâm hồn khiến chúng ta không thể mở rộng cõi lòng để cảm nhận và chia sẻ những nhu cầu của người khác.
Chúng ta thường tự mãn về những khả năng và thành quả mình thủ đắc được. Chúng ta luôn xem mình là “trung tâm”, luôn muốn áp đặt quan điểm, suy nghĩ của mình trên người khác nhằm thỏa mãn khát vọng thống trị của bản thân. Những khát vọng đó, là những núi đồi ngạo nghễ của tự cao, tự mãn làm chúng ta không thể khiêm nhường đến với người khác.
Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ chút nào. Đổi nơi sinh sống thì dễ, nhưng thật khó mà thay đổi lối sống. Ước gì qua lời Chúa hôm nay, xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức rằng: con đường sám hối và thay đổi bản thân mỗi ngày chính là con đường xứng đáng để Chúa ngự vào tâm hồn mỗi người chúng ta, để từ đó chúng ta biết từ bỏ những ham muốn ích kỷ của bản thân để có thể nhạy cảm hơn trước những nhu cầu của người khác và khiêm nhường mở rộng tâm hồn chia sẻ với tha nhân. Amen.
47. Dọn đường ngay thẳng để đón Chúa
(Suy niệm của Đoàn Quang, CRM)
1. Bài Tin Mừng hôm nay chỉ có 6 câu nhưng Thánh Luca cho biết rõ về lịch sử hoàng đế, tổng trấn, thượng tế, tên cha mẹ vị tiền hô, sứ mệnh của ông có căn cớ trên sách tiên tri Isaia đoạn nào câu nào...
2. Ông Gioan Tiền hô là nhà ẩn tu trong hang núi vắng vẻ, khi đến thời Chúa muốn, ông đã đi ra "khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội".
Ông làm trọn lời tiên tri Isaia đã nói trước trong Cựu ước là: "Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
3. Phần chúng ta: Chúng ta sẽ làm gì để dọn tâm hồn đón mừng lễ Giáng sinh? Tuần vừa qua, nhiều người đã để ý làm hang đá tinh thần bằng "yêu mến, hy sinh, nguyện cầu, đã làm nhiều tác động mến yêu "Giêsu Maria Giuse con mến yêu xin cứu rỗi các linh hồn".
Tuần này bài Tin Mừng gợi ý cho ta sửa đường ngay thẳng cho Chúa đi trong 4 cách:
- Thung lũng là đường lõm, đường ổ gà, là những thiếu sót trong bổn phận mình, như ta vẫn đọc trong kinh Tôi thú nhận lúc đầu lễ "và những điều thiếu sót", lỗi tại tôi mọi đàng.
- Núi đồi là những cậy mình, kiêu ngạo, tự mãn, khinh người, chê người, khó tính, chủ quan, độc tài, đòi hỏi.
Truyện vui: Nói về cậy mình, kiêu ngạo, ta có chuyện vui sau:
"Một ngày đẹp trời, hai người rủ nhau đi dạo phố. Một người có tính hay nói và mắt hay nhìn lung tung, nhưng anh ta mắc phải tật cà lăm. Người kia tính trầm lặng và hay cúi mặt xuống đất tỏ ra vẻ suy tư.
Anh cà lăm đưa mắt nhìn đường phố, xe cộ, người người đi lại. Anh thấy một chiếc xe thật đẹp, thật mới, anh nói:
- Coi, coi, kìa kìa, xe xe , đẹp, đẹp.
Anh bạn nghe vậy ngước mắt lên nhìn, nhưng xe đã chạy qua, nên anh tỏ vẻ bực mình. Đi thêm một quãng, anh cà lăm thấy một người đẹp, anh lại nói:
- Coi, coi, kìa, kìa, người, người, đẹp, đẹp.
Anh bạn ngước mắt lên nhìn, nhưng quá trễ, không thấy người đẹp, chỉ thấy toàn người đen, khiến anh ta lại bực mình. Thế rồi anh quyết định, từ bây giờ, anh sẽ ngước mắt lên, chứ không cúi xuống như trước. Đi một quãng, có một bãi phân bò. Anh cà lăm hô to: Coi, coi kìa, kìa...
Anh bạn muốn tỏ ra mình đã thông biết, không cần ai phải nhắc, anh nói: - Thấy dồi, khỏi phải nói.
Anh cà lăm trả lời:- Thấy dồi sao còn đạp dô.
Anh bạn kia nhìn xuống, thấy chân mình đã lấm lem đầy phân bò.
- Khúc quanh co là những lượn lẹo, gian dối, không thật thà, không ngay thẳng, không công bằng trong gia đình, ngoài xã hội, giấu diếm, tham nhũng, đút lót, che đậy, loáng thoáng, cẩu thả, sơ sài.
- Đường lồi lõm tuy không cao như núi, không thấp như thung lũng ở trên, nhưng cũng gồ ghề không ngay ngắn, không bằng phẳng, không đẹp mắt. Đó là những thay đổi, vô kỉ luật, vô trật tự, vô chương trình, làm việc theo hứng, ba hồi thế nọ, ba hồi thế kia, "Khi vui thì muốn sống dai, Khi buồn thì muốn thác mai cho rồi. Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
Lồi lõm đây Có thể là những khuyết điểm, những tội nhẹ, cần sửa lại để đón Chúa Kitô, Người sắp đến ban bình an cho những người thiện tâm như các thiên thần hát: Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm."
4. Tôi sẽ làm gì?
- Mùa Vọng đã qua 1 tuần, tôi phải gấp rút sắm cho Chúa Hài đồng một món quà, dọn một máng cỏ sạch sẽ, thơm tho, ấm áp là Xét mình, ăn năn sám hối, chừa cải, và xưng tội để đón Chúa. Dọn cho Chúa một con đường ngay thẳng...
- Xin Mẹ Maria và Thánh Cả giúp con...
48. Dọn đường đón Chúa
Chúa Giêsu đã từng công khai tuyên bố với mọi người: "Thầy là Đường". Ngài là con đường dẫn đưa con người đến với Thiên Chúa. Đồng thời, Ngài cũng là con đường để Thiên Chúa đến với con người. Con đường Chúa đến với con người là con đường từ "trái tim đến trái tim". Bởi lẽ, Thiên Chúa là Tình yêu. Thánh Gioan Tẩy giả loan tin cho mọi người hãy chuẩn bị con đường cho Chúa đến. Con đường đó chắc chắn phải là con đường tình yêu. Vì Gioan tẩy Giả đã loan báo rằng: "Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng; con đường gồ ghề hãy san cho bằng" (Lc 3,4-5). Con đường Chúa đi là con đường bằng phẳng của tình yêu; không có hố sâu của chia rẽ của hận thù, không có núi đồi của sự cố chấp, kiêu căng, tự mãn; không có chỗ quanh co của tội lỗi và không có chỗ gồ ghề của những tính mê nết xấu cáu kỉnh, nóng nảy, nhẹ dạ, ghen tương, bất hòa, tranh chấp... Khi con đường không còn những chướng ngại vật đó nữa thì đó quả là con đường của tình yêu, con đường được lót bằng hoa thơm của lòng bát ái yêu thương, rất êm ái và mát mẻ. Chúa sẽ đến với từng người chúng ta bằng con đường như thế và Ngài cũng sẽ dẫn dắt chúng ta đi trên con đường ấy để về lại Nhà Cha trên trời.
Khi yêu thương nhau rồi, con người ta sẽ có nhiều sáng kiến hay và tuyệt vời lắm. Người ta kể về sáng kiến độc đáo của một nông dân như sau. Ngày nào người nông dân cũng phải khàn cả tiếng để đuổi đám gà của những người hàng xóm chúng cứ chui qua hàng rào vả bới nát cả vườn tược của ông. Người nông dân này đã xin những người láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Thế nhưng không ai thèm chú ý đến lời yêu cầu của ông, đám gà cứ thản nhiên chui qua hàng rào và phá nát hoa màu của ông ta. Là một con người ưa chuộng hòa bình, người nông dân không muốn ăn miếng trả miếng. Ông liền nghĩ ra một giải pháp độc đáo: ông đi mua một ít trứng gà, cho vào trong giỏ và cứ vài ngày lại mang sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà đám gà của họ đã đẻ trong vườn của ông. Ông làm như thế liên tiếp ba lần, và quả thật kết quả đã diễn ra nhanh chóng: Chỉ trong một tuần lễ người láng giềng nào cũng rào dậu cẩn thận để giữ không cho gà của mình sang đẻ bên nhà bác nông dân nữa. Chỉ mất một ít trứng gà mà người nông dân đã tránh được những tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm láng giềng.
Người biết tạo dựng tinh thần hòa thuận và yêu thương nơi mọi người chính là hình ảnh của người dọn đường cho Chúa ngự đến. Anh nông dân trong câu chuyện mà chúng ta vừa nghe quả đã có một sáng kiến tình yêu rất tuyệt vời. Anh chính là mẫu gương rất đẹp về hình ảnh của người dọn đường đón Chúa ngự đến. Xây đắp tình thương, tạo sự cảm thông và tha thứ cho nhau mới là khó; còn đạp đổ và phá hủy thì dễ dàng lắm! Chúa Giêsu là Đấng không muốn "dập tắt tiêm đèn còn leo lét khói, không nở bẻ gãy cây lao bị giập". Ngài cũng muốn mời gọi mọi người chúng ta hãy dùng mọi khả năng Chúa ban để kiến tạo sự hòa thuận và xây đắp tình yêu.
Nhưng trong thực tế, con người ngày nay xem ra không thích giải hòa với nhau khi có những bất đồng xảy ra, mà chỉ muốn chiến tranh, thích trả thù, thích dùng bạo lực để giải quyết những bất đồng đó. Thung lũng sâu của sự thù hằn trong lòng con người xem ra ngày càng quá rộng, quá sâu, khiến nhiều người không thể ngồi lại với nhau nhưng có khuynh hướng muốn loại trừ mà thôi. Thế giới ngày nay tuy văn minh, tiến bộ về khoa học kỹ thuật, nhưng là một thế giới bất ổn hơn bao giờ hết. Tệ nạn khủng bố, đánh bom tự sát, xử nhau theo kiểu Mafia...đang lan tràn lan khắp nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, nạn xã hội đen, đâm thuê chém mướn diễn ra hằng ngày nơi những khu dân cư đông đúc... Gần đây nhất (ngày 27/11/2009) là vụ đánh bom trong chiếc xe lửa dài 14 toa ở nước Nga, một đất nước được coi là "quốc gia hòa bình", đã cướp đi sinh mạng của 40 người và 130 người khác bị thương! Hố sâu nơi tâm hồn con người xem ra quá rộng, quá sâu, quá đen tối!
Trong lớp bồi dưỡng kiến thức Quốc Phòng - An Ninh dành cho các nhà chức sắc, nhà tu hành vừa được tổ chức tại Tỉnh Bến Tre vừa qua, người ta đánh giá rằng: những xứ đạo có đông người có đạo như Cái Mơn chẳng hạn, thì tệ nạn xã hội ít xảy ra, nhất là tệ nạn hành xử theo lối xã hội đen. Nghe điều đó, tôi rất mừng và rất hãnh diện vì những người con cái Chúa sống tốt lành như thế. Đó là những tấm gương sáng, là ngọn đèn soi rọi vào chốn tối tăm của thế giới hôm nay. Chúng ta hãy tiếp tục là ánh sáng cho trần gian như lời Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: "Các con là muối đất, là ánh sáng của thế gian". Chúng ta hãy siết chặt tay nhau để xây đắp hòa bình và yêu thương. Chúng ta hãy tiếp tục chiếu sáng như "những vì sao trên bầu trời" vào một thế giới sa đọa và tối tăm. Hãy trở thành những người mở đường và dọn đường cho Chúa ngự đến- con đường của TÌNH YÊU!
49. Dọn đường cho Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Gioan Tiền hô có sứ mạng dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến.
Luca, như một sử gia, nhập đề một cách trang trọng. Người viết: “Đời Hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm…” Bằng sáu mốc điểm, Người định vị trí cuộc rao giảng Tin Mừng cho thế giới được coi như những trang đầu của lịch sử nhân loại mới. Năm thứ 15 thời Vua Tibêriô (14-17) khởi đầu tháng 10 năm 27. Vậy Gioan “xuống núi” như một nhà đạo sĩ, bắt đầu rao giảng vào cuối mùa thu năm ấy và việc Chúa Giêsu chịu phép rửa đã xảy ra vào đầu tháng giêng năm 28 kỷ nguyên.
Gioan xuất hiện như một nhà ẩn sĩ, mình mặc áo da thú, ăn châu chấu, uống mật ong rừng và bắt đầu rao giảng. Ông là một nhà tiên tri chuyển tiếp từ đạo cũ Do-thái sang đạo mới của Chúa Giêsu và đề tài rao giảng cũng là đề tài của các nhà tiên tri, là “Hãy ăn năn trở lại, hãy dọn đường Chúa”.
Qua đoạn Phúc âm này, chúng ta chú trọng đến hai điểm.
Một là “Lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, từ trong hoang địa”. Nói một cách chung, chúng ta thấy rằng trong Thánh Kinh, Thiên Chúa thường kêu gọi các vị sứ giả từ trong hoang địa, sau một thời gian sống trong thinh lặng, suy tư và cầu nguyện. Moisê lùa đàn chiên của nhạc phụ ở Madian đi vào sa mạc đến núi của Chúa là Koreb (X.H. 3,1). Isaia kêu lên: “Tôi phải nín thinh, vì môi tôi nhơ uế” (Is. 6,5).
Sống suy tư, thinh lặng và cầu nguyện vẫn là đòi hỏi hiện nay của mọi Kitô hữu; không phải đòi hỏi sống đời tu trì, nhưng phải có những lúc đi vào nội tâm, suy tư cầu nguyện, nhất là đối với những ai giữ trọng trách trong Giáo hội, những người làm việc Tông đồ. Phaolô, trong thư gửi giáo đoàn Philiphê (bài đọc II) đã minh xác như vậy. Lời kinh đó ôm choàng cả Giáo hội hoàn vũ. Lời kinh chiêm ngắm ca tụng và “ngày đêm, trong mọi lúc”. Không phải chỉ đọc máy móc bên ngoài mà là, như lời Thánh Augustinô, “một sự cầu mong, ước muốn là cầu nguyện, lời kinh liên lỉ, vì yêu mến”.
Mùa Vọng là mùa mong đợi, ước muốn và cầu nguyện sốt sắng. Thánh Gioan, Cha sở họ Ars, nhìn thấy một giáo dân ngồi cầu nguyện lâu trước nhà Chầu, đến gần và hỏi:
-“Ông nói gì với Chúa?”
-“Tôi nhìn Ngài và Ngài nhìn tôi” (Je l’avise et II m’avise).
Đó là lời kinh Mùa Vọng.
Điểm thứ hai: Gioan rao giảng một “phép rửa xám hối, cầu ơn tha tội”. Người Biệt phái và Saducêô cho rằng chỉ cần giữ Lề Luật là đủ, là hết bổn phận với Thiên Chúa. Gioan khẳng định rằng điều cần thiết là phải có một sự đổi mới tâm hồn: “hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu (tội lỗi), hãy bạt mọi núi đồi, con đường gồ ghề hãy san cho bằng”. Sau này, Chúa Giêsu sẽ nói: điều làm cho con người nên dơ bẩn là những điều xuất phát từ tâm hồn như thù oán, ghen tương, dâm ô, bất chính, sống vật chất trụy lạc, và Chúa dạy phải rửa sạch và đổi mới tâm hồn.
Vậy, mùa Vọng là mùa “dọn đường Chúa” (Isaia); khi một vị Thượng khách đến, người ta trải thảm đỏ, khánh thành đại lộ mới. Chúng ta hãy canh tân đời sống, dọn tâm hồn đón Chúa đến trong thân phận thấp hèn.
“Thuở ấy có một Hoàng đế, thuở ấy có một Hài nhi. Suốt ngày Hoàng đế đến đếm đi đếm lại số người dân, số súc vật, số vàng bạc của cải. Còn Hài nhi niềm nở đón tiếp các mục đồng, đám chiên cừu, đoàn thần thiêng…
Hoàng đế không còn nữa, chỉ còn lại Hài nhi. Ai cũng có thể đến gần Người. Thời đại nào cũng có Người, vì thế mà có Giáng Sinh”. (Trích “Prier”)
50. Sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa---Radio Veritas Asia
(‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Với Chúa nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta gia tăng niềm hy vọng bằng cách chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến cứu chuộc con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Barúc gợi lên niềm hy vọng cho dân chúng Israel đang tản mác khắp nơi. Sau khi thành thánh Giêrusalem bị thất thủ, ông với một số người cùng với tiên tri Giêrêmia chạy trốn sang Ai Cập. Barúc kêu gọi dân chúng đừng mất niềm tin, niềm hy vọng vào Thiên Chúa. Ông phác họa cho dân lưu đày thời gian nô lệ, lưu vong sắp kết thúc. Một thời đại huy hoàng của Giêrusalem đang gần kề. Và Giêrusalem sẽ vui mừng thấy mình trút bỏ được áo tang chế, mặc lấy áo vinh quang, đầu đội vương miện và hớn hở mở rộng tầm mắt, dang rộng đôi tay để nhìn xem và đón nhận con cái từ các nơi trở về. Đó là hình ảnh của Giêrusalem thiên quốc. Nơi đó, Chúa Giêsu Kitô là vua hiển trị các dân. Các nước tôn thờ Người, trở về với Người sau khi đã bị tội lỗi và sự dữ phân tán tản mác khắp nơi. Và muốn cho sự trở về được dễ dàng, cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người được nhanh chóng: "Hãy san bằng những núi cao và những đồi gồ ghề. Hãy lấp đầy những hố sâu, những vực thẳm. Uốn cho ngay những con đường quanh co, hiểm trở, để mọi người vững vàng bước đi và cao rao vinh quang của Thiên Chúa".
Qua hình ảnh tiên tri đó, Barúc kêu gọi chúng ta hãy hoán cải tâm hồn bằng cách hồi tâm, suy nghĩ về những việc hiện tại mình đang làm, để xem con đường của mình có ngay thẳng không? Không những quanh co, lên đèo, xuống hố, mà nhất là có phải là đường hầm không, con đường đi trong tối tăm và mờ ám?
Nơi bài đọc thứ hai trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, thánh Phaolô mở ra con đường lạc quan trong công cuộc trở về cùng Thiên Chúa. Thánh nhân tin tưởng rằng Thiên Chúa đã hứa, để thực hành lời hứa thì việc gì Thiên Chúa đã bắt đầu, Người sẽ hướng dẫn cho đến hoàn thiện, nhất là trong đời sống của những kẻ tin nơi Người. Tin tưởng vào Thiên Chúa thì thánh Phaolô hết lòng tin tưởng. Nhưng điều ngài lo, ngài ao ước, ngài cầu nguyện, là làm sao cho mọi người biết thương yêu nhau, biết thông minh sáng suốt và biết phán đoán mọi sự. Việc yêu thương nhau còn gọi là bác ái, còn gọi là yêu người, sẽ dễ dàng thực hiện khi tất cả mọi người trong một cộng đoàn, một tập thể biết suy nghĩ đến hạnh phúc của nhau, biết sống vì ích lợi, vì sự thăng tiến của tập thể mình đang sống. Bao lâu còn những kẻ lộng hành, chèn ép, bóp nghẹt người khác, thì thánh Phaolô muốn mọi người phải biết sáng suốt phán đoán mọi việc. Một người bị ức hiếp một cách bất công mà tôi bảo người đó cố gắng bằng lòng chịu vì Chúa, yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho kẻ làm khốn mình, tức là tôi đồng lõa với kẻ làm điều gian ác, là tôi dùng tôn giáo như á phiện ru ngủ con người. Đành rằng Chúa đã dạy: "Chúng con hãy yêu kẻ ghét chúng con và làm lành cho kẻ làm khốn cho chúng con", nhưng phải sáng suốt phán đoán như thánh Phaolô dạy, để phân biệt con người và điều ác người đó đang làm hại cho kẻ khác. Con người thì phải yêu thương cầu nguyện cho họ, mong cho họ cải tà qui chánh, sống trong tình anh em con một Cha trên trời. Nhưng điều ác họ đang thi hành là nọc độc tác hại cho người khác, phải tận diệt những nọc độc đó mới là yêu thương nhau thật sự.
Dầu vậy, thánh Phaolô cũng khuyên tất cả, trong hoàn cảnh nào cũng hãy sống không có gì đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô. Và thánh nhân đưa ra bằng chứng đời sống của ngài để làm gương nơi câu 7 của đoạn thánh thư này. Nhưng rất tiếc, không hiểu sao khi chọn làm bài đọc phụng vụ thánh lễ, người ta lại bỏ câu 7. Từ câu 6 nhảy đến câu 8 ngay, trong câu 7 đó thánh Phaolô nói: "Tôi cầu xin anh em như thế là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ơn sủng tôi đã nhận được". Nói thế, tức là trong mọi hoàn cảnh, thánh Phaolô đều dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn, sướng khổ để cầu nguyện cho nhau.
Nơi bài Phúc Âm, thánh Luca ghi lại rất rõ ràng ngày tháng, niên hiệu hẳn hoi của những nhà lãnh đạo Rôma cũng như Do Thái, đạo cũng như đời, lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng. Một phần vì thánh Luca chú ý đến khía cạnh lịch sử, nhưng dựa vào đó chúng ta thấy rằng, ơn cứu độ bắt đầu thực hiện ngay trên trần gian này, đừng chờ đâu nữa. hãy bắt đầu ngay và dĩ nhiên là đã bắt đầu từ thời xa xưa trong Cựu Ước. Nhưng thời kỳ quyết liệt bắt đầu, với sứ mạng của Gioan Tẩy Giả để cho thấy Cựu Ước và Tân Ước cũng là một công cuộc chuẩn bị. Gioan đã lấy lại lời tiên tri của Barúc trong Cựu Ước mà chúng ta đọc thấy trong bài đọc thứ nhất: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa soạn đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Trong khoảng ba tuần nữa, chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh của Đấng Cứu Thế. Ước gì lễ Chúa Giáng sinh không qua đi như bao ngày lễ tết khác trong năm. Nhưng phải làm sao để Chúa Giêsu sinh lại trong đời sống, trong gia đình, trong cộng đoàn của mỗi người chúng ta. Đó là ý nghĩa của Mùa Vọng và sống được như thế tức là chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi nhìn lại xem, trong những công việc mệt nhọc hằng ngày của tôi, cái gì giúp tôi càng ngày càng gần Chúa hơn? Để được thế, tôi cũng hãy tìm xem chỗ nào trên con đường nối kết Chúa với cá nhân tôi cần được sửa chữa, để khỏi cản trở việc Chúa đến với tôi. Và nếu được, cũng hãy chuẩn bị tham dự một nghi thức thống hối và coi đó là một sự khai thông bế tắc giữa tôi với Đấng tôi yêu mến và Người luôn yêu tôi hết lòng.
51. Hãy dọn lòng mừng Chúa đến!
Chúa nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của Mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta gia tăng niềm hy vọng bằng cách chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến cứu chuộc con người.
Để đón khách người ta phải chuẩn bị. Vị khách quan càng quý thì việc chuẩn bị lại càng quan trọng hơn. Chúa Cứu Thế hẳn là vị khách vô cùng đáng quý trọng, Ngài là Ngôi Hai đến trần gian để cứu chuộc nhân loại. Nhân loại đang khao khát đón chờ Ngài, hy vọng vào Ngài. Chính trong bài Phúc âm hôm nay, Thánh Luca cho chúng ta thấy ơn cứu chuộc của Ngôi Hai quan trọng vì có liên quan đến không gian và thời gian của nhân loại. Ngài đến trong không gian cụ thể là nước Do thái và thời gian có những vị lãnh đạo cả đời lẫn đạo: "Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế" (Lc 3, 1 - 2). Như thế, thánh Luca ghi lại rất rõ ràng ngày tháng, niên hiệu hẳn hoi của những nhà lãnh đạo Rôma cũng như Do Thái, đạo cũng như đời, lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng. Một phần vì thánh Luca chú ý đến khía cạnh lịch sử, nhưng dựa vào đó chúng ta thấy rằng, ơn cứu độ bắt đầu thực hiện ngay trên trần gian này. Thánh Luca dẫn chúng ta vào trong thời gian mà người dọn đường là Gioan Tẩy Giả và con Đường là Đức Giêsu đưa ta tới ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ơn cứu độ diễn ra ngay trong chính cuộc sống hằng ngày.
Con đường mà Phúc âm chỉ cho chúng ta để gặp Thiên Chúa không ở đâu xa nhưng nằm ngay trong lòng mỗi người. Chúa Giêsu đã đến, không bằng sức mạnh của quyền thế cũng như không phải ở nơi giàu sang. Chúa đến một cách âm thầm và đơn sơ. Con người cũng chỉ có thể gặp được Chúa khi con người biết quay về với lòng mình trong sự khiêm nhường và chiến đấu. Đời sống và lời loan báo của Gioan Tẩy Giả mời gọi ta đến gặp Chúa qua những con đường ấy.
Ta chỉ có thể gặp Chúa khi trở lại với lòng mình. Thật vậy, ơn cứu độ của Thiên Chúa không được mạc khải cho những vị lãnh đạo quyền đời và tôn giáo, nhưng được mạc khải cho một con người bé nhỏ là Gioan Tẩy Giả. Cuộc sống ồn ào náo nhiệt của đô thị phồn hoa làm cho các vị lãnh đạo không còn nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếp sống văn minh đô thị, tiếng kêu mời của dục vọng quá lớn làm các vị ấy không thể gặp được Chúa. Ngược lại, Gioan Tẩy Giả đã từ bỏ tất cả để vào trong hoang địa, xa rời sự náo nhiệt của thế giới bên ngoài. Chính sự tĩnh lặng của hoang địa đã giúp Gioan Tẩy Giả quay về với lòng mình. Đời sống cầu nguyện trong hoang địa giúp Gioan nuôi dưỡng bầu nhiệt huyết. Từ đó ông nhận ra lời mời gọi của Chúa. Chính sự từ bỏ và quay về với lòng mình giúp Gioan gặp được Chúa và nhận ra chương trình cứu độ của Người. Chỉ những ai dám từ bỏ, dám quay về trong sâu lắng của lòng mình trong cầu nguyện thì mới có thể nhận ra được tiếng Chúa và gặp được Người. Chính thái độ tự mãn, tự kiêu làm con người đóng kín lòng mình lại trước lời mời gọi của Thiên Chúa. Gioan Tẩy Giả sống âm thầm trong hoang địa, khiêm nhường mở lòng mình ra và đã khám phá được ý định của Thiên Chúa. Ông sống đơn sơ trong áo lông lạc đà và thắt lưng bằng dây da; ăn uống đơn sơ bằng những gì có sẵn trong hoang địa như châu chấu và mật ong.
Còn các vị lãnh đạo sống trong giàu sang, yến tiệc linh đình... Thái độ kiêu căng tự mãn làm các vị lãnh đạo quên mất cõi lòng đơn sơ và khiêm nhường của mình. Uy quyền và địa vị làm các vị quên đi lòng khiêm nhường cần có của người lãnh đạo. Gioan khiêm nhường nhìn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ vậy Gioan đã gặp được Chúa và hoàn thành sứ mạng của mình.
Ta cũng chỉ gặp được Chúa trong tinh thần phấn đấu không ngừng, chiến đấu với bản thân, trong tâm hồn của mỗi người.
"Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ". (Lc 3, 5 - 6). Gioan Tẩy Giả mời gọi mọi người chúng ta hãy sửa lại cho thẳng lối đi quanh co. Lối đi ấy là cách sống của mỗi người. Có thể đó là lối sống chỉ quy về của cải, vật chất hay địa vị và quyến thế nên bất chấp tất cả. Đó cũng có thể là thái độ sống gây nên chia rẻ, bất hoà trong cộng đoàn. Sửa lại cho thẳng lối quanh co trên là một cuộc chiến cam go. Đó là cuộc chiến với lòng mình mà chúng ta chỉ có thể thắng được khi chúng ta nhận ra và dám sống yêu thương. Gioan Tẩy Giả còn mời gọi chúng ta lấp cho đầy những thung lũng và san cho bằng con đường lồi lõm trong lòng mỗi người. Thung lũng và con đường lồi lõm có thể đó là lối sống thờ ơ, thiếu tinh thần quảng đại của mỗi người. Chiến đấu với lối sống như trên đòi hỏi mỗi người chúng ta phải dám đi ra khỏi ốc đảo của lòng mình để thấy, để thông cảm và chia sẻ nhu cầu tha nhân. Để có thể lấp đầy thung lũng và sửa cho ngay khúc quang co trước hết chúng ta cần bạt đi những núi đồi lòng ta. Đó là thái độ tự mãn, kiêu căng. Chính thái độ này làm cản trở con đường Chúa đến với chúng ta cũng như tạo ngăn cách làm cho lòng ta khó gặp được Chúa và qua tha nhân.
Nghe lời Gioan kêu gọi, chúng ta dùng thời gian của mùa vọng này như là bầu khí thuận tiện để sám hối và quay về với Thiên Chúa bằng cách: sửa đường Chúa ngay cho thẳng. Ngay thẳng về tư tưởng: không có ý tưởng xấu, quanh co, gian dối, lừa đảo...Ngay thẳng về lời nói: không ăn gian nói dối, không chửi mắng. Ngay thẳng về việc làm: chu toàn tròn bổn phận hằng ngày, làm đến nơi đến chốn chứ không làm dối trá. Ngay thẳng trong tâm hồn: sống tình cảm chính đáng trong tương quan với tha nhân, không chạy theo tiếng gọi bừa bãi của con tim, nhưng giữ vững niềm tin cậy mến theo ơn Chúa gọi. Hãy lấp mọi hố sâu, mọi chia rẽ, hận thù ghen ghét...phải được lấp đầy bằng sự tha thứ hoà giải trong tình huynh đệ yêu thương. Tâm hồn trống rỗng khô khan phải được lấp đầy bằng lý tưởng yêu mến Thiên Chúa và đời sống hăng say làm việc Tông Đồ. Hãy làm cho ngay thẳng những điều quanh co, cần uốn nắn những tính tự phụ, kêu căng thích khoe khoang, coi mình hơn kẻ khác, phải sống khiêm nhường để dám sống từ bỏ tính háo danh, lợi lộc...Đồng thời, con đường ghồ ghề hãy san cho bằng, sửa chữa những tính nết xấu: cáu kỉnh, nóng nảy, nhẹ dạ, gây gỗ, nghi kỵ, ghen tương, cố chấp, ích kỷ, giận hờn, bất hoà...Sống tâm tình yêu thương của Chúa.
Hãy lòng mừng Chúa đến. Khiêm tốn trở về với lòng mình giúp chúng ta nhận ra con người mình. Khi nhận ra con người yếu đuối bất toàn của mình thì chúng ta mới dám khiêm nhường và chạy đến với Chúa, để cầu khẩn Người sửa đổi và uốn nắn con người chúng ta. Cùng với ân thánh Chúa giúp, chúng ta dám quay lại, dám từ bỏ và sống đời sống mới, sống đức tin mạnh mẽ trong ân sủng. Như thế, chúng ta sẽ gặp Chúa trong cuộc sống và nhận ra con đường mà Người dành cho mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quyết tâm dọn lòng mừng Chúa đến bằng những việc thiết thực, sống đức tin và đức ái trong đời sống thường ngày của chúng con. Ước gì từng giây phút, từng nhịp đập của quả tim con là lời ca tụng Chúa, sống đẹp lòng Chúa để đón mừng lễ Chúa Giáng sinh sắp đến. Amen.
52. Chúa Nhật II Mùa Vọng
Anh chị em thân mến.
Trong thời gian gần đây, chúng ta nhìn thấy những con đường đã được mở rộng, cảnh quang đô thị mỗi ngày được đổi mới, trật tự giao thông cũng được chỉnh đốn tốt đẹp hơn. Để có được quang cảnh như thế, chắc anh chị em biết, có nhiều người phải hy sinh. Trước tiên là những người buôn bán trên vỉa hè, kế đến là những ngôi nhà lấn chiếm lòng lề đường, còn những ngôi nhà trước kia được ở hợp pháp, nhưng vì ích lợi chung của xã hội, giờ đây cũng phải chịu nhường bước để cho con đường được ngay thẳng, được mở rộng tốt đẹp. Chính vì những hy sinh, phải di dời, phải tháo dở, phải dẹp bỏ đi những gì cản trở, mà chúng ta mới có được quang cảnh tốt đẹp của ngày hôm nay. Nếu mọi người cứ ngoan cố, cứ tùy tiện lấn chiếm, không muốn theo trật tự chung; thử nghĩ xem, xã hội sẽ như thế nào.
Trong tâm tình của mùa vọng, Gioan xuất hiện, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để được ơn tha tội. Ngài mượn lời Ngôn Sứ Isaia:
"Hãy dọn đường Chúa, hãy sữa đường Chúa cho ngay thẵng, Thung lũng phải lấp cho đầy, núi đồi hãy bạt xuống, Đường quanh co hãy sữa cho ngay, Đường lồi lõm hãy san cho bằng ".
Gioan kêu gọi mọi người chuẩn bị đón tiếp Thiên chúa qua việc chuẩn bị con đường tâm hồn, không để một chướng ngại vật nào làm ngăn bước đi của Thiên Chúa đến với tâm hồn của mỗi người.
Chúng ta đang sống trong một xã hội ngày càng văn minh hơn, trật tự hơn. Đó là vì con người ngày càng sống có xã hội tính nhiều hơn, biết từ bỏ đi những gì là riêng tư không cần thiết. Chính vì thế mà con người ngày càng đến với nhau dễ dàng hơn
Nhưng ngày hôm nay, Thiên Chúa muốn đến với con ngưới có dễ dàng không? Thiên Chúa muốn đến với từng người trong chúng ta, Ngài muốn viếng thăm, an ủi, yêu thương và đem chúng ta về với Ngài.. Nhưng không biết bao nhiêu chướng ngại vật, bao nhiêu rào cản, bao nhiêu vực thẩm ngăn cách, khiến Ngài không thể đến gần tâm hồn chúng ta được. Cứ nhìn vào cuộc sống đã qua của mỗi người, chúng ta sẽ thấy tại sao Chúa không thể đến với tâm hồn của mình được.
Trong tâm hồn chúng ta, có những dãy trường sơn ngăn cách ngọn gió yêu thương, che chắn những cơn mưa hồng ân mà Thiên Chúa muốn tưới xuống tâm hồn khô cằn của chúng ta. Những ngọn núi cao ngất ngưởng cũng che chắn không cho chúng ta nhìn thấy được ánh sáng chân lý, không cho chúng ta hưởng được hơi nắng ấm của tình yêu thương đồng loại qua những người bên cạnh. Đó là những ngọn núi cao của tự phụ kiêu căng. Tự phụ về con người của chính mình, cho dù chúng ta chẵng có gì đáng tự phụ. Tự phụ về những gì mình đang có, cho dù những thứ đó xét cho cùng chẵng đáng là gì. Đôi khi còn tự phụ về những điều mình không có, nhưng do trí tưởng tượng vẽ nên, hoặc do người khác gán ghép cho mà chúng ta cảm thấy vui thích mặc dù những điều không có thật, nhưng không muốn từ chối nó. Chính những thứ đó đã che chắn, bao vây không cho chúng ta nhìn thấy Chúa và làm cho Chúa không thể nào đến gần chúng ta được.
Còn những hố sâu ngăn cách của sự nghi kỵ, hận thù, tìm cách loại trừ nhau. Những hố sâu của sự ích kỷ hẹp hòi. Đó là những hố sâu khi chúng ta lo sợ hao tốn đi một chút sức lực, của cải, quyền lợi, để rồi chỉ biết có mình và không bao giờ có thể nhìn thấy Chúa trong những người anh em, thì làm sao chúng ta có thể tiếp nhận, nhưng rất nhiều lần đã xua đuổi, loại trừ khi Chúa đến với chúng ta qua những người anh em thân cận.
Tâm hồn chúng ta có là một con đường thẳng, hay toàn là những khúc quanh co gập ghềnh, với những toan tính mưu mô để lừa lọc, để che giấu, để hại ngưới khác. Với con đường như thế thì làm sao Chúa có thể thong dong mà đến với tâm hồn mỗi người chúng ta.
Lời kêu gọi của gioan Tẩy giả từ 2000 năm qua vẩn còn vang động, khẩn thiết và cấp bách cho những con người của thời đại hôm nay, cho từng người trong chúng ta: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng để Người đến".
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết chuẩn bị tâm hồn, biết sửa đổi con người của mình thật sự, để xứng đáng đón rước Chúa.
53. Lỗi tại tôi – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Ông Baruc là vị thơ ký của tiên tri Giêrêmia cũng đang bị lưu đầy tại Babylon. Vào thời quân Canđê đánh chiếm và phóng hỏa thành Giêrusalem, ông đã đứng ra qui tụ mọi người cùng đến để nghe đọc sách thánh, ăn chay cầu nguyện và đóng góp tiền bạc gởi về Giêrusalem. Ông đã cầu khẩn và gióng lên niềm hy vọng vào quyền năng can thiệp của Thiên Chúa. Ông dùng những cảnh thiên nhiên sống động để diễn tả hình ảnh nội tâm bên trong: Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa (Bar 5, 7). Dân tin tưởng vào lượng từ bi của Thiên Chúa sẽ dẫn dắt họ trở về trong vinh quang.
Từ bảy trăm năm trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, ngôn sứ Isaia đã tiên báo rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (Lc 3, 4). Tiếng hô trong hoang địa chính là lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả. Gioan xuất hiện mời gọi mọi người sám hối trở về. Gioan đã dùng lại lời của tiên tri Isaia: Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng (Lc 3, 5). Sám hối là một cách chữa lành bệnh tật cả tâm bệnh lẫn thân bệnh. Ai trong chúng ta cũng vương vấn với sai lầm, tội lỗi và bệnh tật thể xác. Lời mời gọi sám hối là phương cách chữa lành.
Con người gồm có xác và hồn. Xác hồn kết hợp và hòa lẫn trong nhau. Nên sự mạnh khỏe của xác hồn luôn cuốn quyện lấy nhau. Xác khỏe thì hồn cũng thư thái. Hồn an vui thì thân xác cũng thảnh thơi. Chúng ta cần chú tâm đến cả hai phương diện thể xác và tâm hồn. Nếu chúng ta chỉ chú tâm lo lắng cho thân xác mà quên phần bổ dưỡng tâm linh, cuộc sống sẽ bị khập khễnh. Vì kết hợp với thân xác nên tâm linh con người cũng không thoát khỏi các thứ bệnh tật. Chúng ta gọi là tâm bệnh. Tâm bệnh cũng cần tìm thầy và tìm thuốc chữa trị. Tâm bệnh khởi đi từ tâm. Từ trong tâm phát xuất ra những sự xấu xa. Chúa Giêsu nói: Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế (Mc 7, 20).
Chúng ta hãy tìm cội nguồn của bệnh tật cả hồn lẫn xác để chữa lành. Trước hết là thân bệnh có trăm ngàn thứ. Chúng ta không biết có bao nhiêu phương thuốc để chữa lành. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy người trẻ kẻ già, người giầu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn, ai ai cũng có thể mắc bệnh. Có các loại bệnh nặng, bệnh nhẹ, bệnh mãn tĩnh hay cấp tính, nan y hay sơ cấp, bệnh ngoại tạng hay nội tạng và thân bệnh hay tâm bệnh. Đã có bệnh thì phải chữa. Chúng ta có thể uống thuốc, tập tành, kiêng cữ và chay tịnh. Trong các tiệm bán thuốc có muôn vàn thứ thuốc chữa muôn ngàn loại bệnh. Chúng ta có thuốc Bắc, thuốc Nam, thuốc Tây và thuốc gia truyền đủ loại. Bệnh nào thuốc đó. Có nhiều bệnh về phần xác chúng ta không thể phát hiện. Biết rằng không có thuốc nào trị bá bệnh. Thuốc nào chữa lành bệnh, đó là thuốc tốt. Đây là những môn thuốc chữa về thân bệnh.
Xét mình, ai trong chúng ta cũng bị con bệnh quấy rầy. Chỉ khi mắc bệnh, chúng ta mới nhận ra sự yếu đuối, khổ đau và lệ thuộc của thân phận con người. Thân bệnh thì dễ chữa hơn là tâm bệnh. Tuy nhiên có những bệnh chết người như ung thư, tai biến và đột qụy. Thân bệnh có thể đưa đến cái chết tự nhiên vì hết sinh lực. Tâm bệnh thì nguy hiểm hơn nhiều. Tâm bệnh cũng có thể xuất hiện nơi mọi tâm hồn. Không phải những người nghèo đói, tàn tật và già cả mới có tâm bệnh. Chúng ta được biết có nhiều người quyền cao chức trọng và giầu sang phú quí cũng ngã đủ thứ bệnh. Những cặp trai trẻ khỏe mạnh đầy sức sống cũng tự quyên sinh vì tâm bệnh. Bệnh về tâm linh là những đột phá thất vọng và tuyệt vọng, đưa đến khổ tâm. Tâm bệnh rất cần các phương thuốc hữu hiệu là sự thức tỉnh tìm giải thoát.
Bệnh tâm linh là các thứ tật bệnh nội tâm, thói hư tật xấu, tội lỗi, mê lầm cả trong tư tưởng, lời nói và việc làm sai trái. Làm sao chúng ta có thể biết được các tật bệnh trong tâm hồn? Có nhiều triệu chứng giúp chúng ta nhận ra các loại bệnh này: Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo và ngông cuồng (Mc 7, 21-22). Bệnh nào cũng nguy hiểm xói mòn cuộc sống. Chúng ta cần tìm thầy chạy chữa cho kịp thời. Có nhiều toa thuốc giúp chữa lành tâm linh. Chữa cho dứt các mầm bệnh trong ngoài. Đôi khi chúng ta bị đánh lừa vì những xuất hiện da non bên ngoài, nhưng bên trong còn âm ỷ mưng mủ đau nhức.Thánh Phaolô viết: Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm (Phil 1, 10).
Bệnh là khổ đế. Bệnh cũng là phương pháp giúp tu học. Một người suốt đời khỏe mạnh không đau bệnh thì tâm tư dễ ngang tàng kiêu ngạo. Khi mắc bệnh, chúng ta mới thấy đời sống mỏng manh, thời gian ngắn ngủi và mọi sự đều thay đổi mau qua chóng hết. Người bệnh cần thức tỉnh nhận biết ý nghĩa cuộc đời để sống vui. Nhờ có bệnh, chúng ta mới biết dừng lại. Chúng ta biết rằng nếu sống không hạnh phúc thì chết không được an vui. Cuộc sống lê thê thì cái chết sẽ đau khổ. Khi con người mang bệnh thì người ta thường có mặc cảm, rồi lo âu sợ hãi bệnh nặng hay nhẹ, chết sớm hay muộn. Họ không dám tiếp xúc với bạn bè, người thân và xa lánh mọi người. Thân tâm ray rứt khổ sở.
Lời mời gọi thung lũng lấp cho đầy. Nơi cao phải bạt xuống. Quanh co uốn cho ngay. Đây là những đòi hỏi cấp bách trong qúa trình sám hối. Muốn có một tâm hồn thanh thản và an vui, chúng ta phải chữa lành mọi tật bệnh. Chẩn đúng bệnh. Tìm đúng thầy. Chữa đúng cách. Cả thân tâm được lành mạnh. Dù thuốc tiên cũng không thể chữa hết mọi bệnh về tâm linh và thể xác. Chúng ta hãy đặt niềm tin vào Đấng có thể chữa lành mọi loại bệnh hoạn tật nguyền. Cầu nguyện để nhận lãnh ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin ơn can đảm, ơn chịu đựng và ơn tha thứ để tâm hồn của chúng ta được gội sạch vết nhơ của kiêu căng, bất tín và gian tà. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Philipphê đã tha thiết nài van: Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn (Phil 1, 9).
Sám hối được khởi đi từ tâm. Vượt qua mọi thách đố để giữ tâm an lạc. Đời sống nội tâm mỗi người khác xa nhau rất nhiều. Để tiến bước trên con đường nhân đức, chúng ta nên bớt bỏ nhưng vấn vương cuộc đời. Đừng quá chấp nhất, đừng gieo hận thù, đừng gây chia rẽ, đừng gian dối hại người và đừng nuôi lòng oán giận. Khi đó tâm hồn chúng ta sẽ tìm được niềm an vui trên con đường thẳng tắp ngút ngàn. Chúng ta không thể lừa dối lương tâm sống đạo bằng những hình thức phô trương bên ngoài làm cho đầy đủ lệ bộ, giống như khi chuẩn bị đón tiếp những vị chính khách. Đời sống tâm linh của chúng ta cần đâm rễ sâu. Các nhân đức cần có nền móng vững chắc. Đời sống đức tin mới có thể tăng triển vững mạnh.
Lạy Chúa, tâm hồn con tội lỗi. Thân xác con bệnh hoạn. Ý chí của con yếu đuối. Trí khôn con chậm chạp. Đức tin con yếu kém. Lỗi tại con. Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng con biết cách dọn đường Chúa cho ngay thẳng. Xin giúp chúng con dọn tâm hồn thanh sạch để hân hoan mừng đón Con Chúa đến viếng thăm.
54. Con đường tâm hồn
"Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi... rồi hết mọi người sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ" (Lc 3, 4-6)
Trên đời này, nói về đường đi, có rất nhiều từ để diễn tả về: "đường đi" như: đường nhựa - xa lộ - quốc lộ - đường sông - đường biển - đường núi - đường đèo - đường nhỏ - đường đất - lối đi - lối mòn (đường rất nhỏ)....
Cũng có một con đường siêu nhiên, theo nghĩa tinh thần: đó chính là con đường tâm hồn, là cách sống, cách ở đời.... Vd. như nói: anh chàng đó khi xưa là tay đầu trộm đuôi cướp, nhưng nay đã bỏ đường xấu, đường tà mà theo đường chánh, đường sáng rồi; tất nhiên muốn nói anh chàng này nay đã sửa đổi cuộc sống, ăn ngay ở lành rồi... Con đường này chính là con đường ngày xưa, cách nay 20 tk, thánh Gioan Tiền Hô đã kêu mời mọi người đi theo, mời mọi người chuẩn bị con đường đó để đón mời Đấng Cứu Thế đến. Mỗi năm khi Mùa Vọng đến, ta đều nghe vang lời kêu mời này. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Mùa Vọng là mùa Hội Thánh kêu mời chúng ta sẵn sàng, chuẩn bị, dọn đường cho Đức Kitô ngự đến, không phải dọn dẹp làm Máng cỏ bên ngoài cho đẹp, sạch sẽ, điều cần hơn cả là dọn con đường tâm hồn mình... Thánh Gioan Tiền hô chính là người đi trước dẫn đường, người hô vang lên trong sa mạc: hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa lối Người đi cho ngay thẳng. chính thánh Gioan đã thực hiện lời đã được loan báo trước từ tiên tri Isaia, cách đó 8 thế kỷ, thường người ta giải thích: Mùa Vọng là mùa trông đợi Đấng Cứu Thế đến; giải thích như thế chưa đủ, vì Mùa Vọng không phải chỉ có ý nghĩa trông chờ Đấng Cứu Thế mà thôi, mà còn phải là mùa của mọi người, khi muốn nhận Đấng Cứu Thế, phải dọn con đường tâm hồn của mình trước, như lời Isaia nói: thung lũng phải lấp đầy, núi đồi phải bạt xuống, quanh co phải uốn cho ngay, lồi lõm phải ban cho bằng.... và khi mọi việc chuẩn bị xong, mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ...
b. Có một số câu hỏi: Gioan Tiền Hô đã loan báo 20 thế kỷ rồi, lời loan báo đó ngày nay còn thực tế không, có cần thiết không? Đức Kitô đã đến 20 tk rồi, vậy tại sao hôm nay vẫn phải chờ đón, không lẻ chúng ta chỉ chờ đón Ngài trong đêm Giáng sinh thôi sao?
Thực ra, lời loan báo này của Thánh Gioan Tiền hô, đã vang động từ 20 tk qua, vì thế có người đã nại vào đó mà nói: nó cũ kỹ quá rồi, nhất là hôm nay nhân loại đã lên tới Mặt trăng, và còn sửa soạn lên Sao Hỏa nữa, phải nói cái gì mới hơn chứ! Lời loan báo này lại nói về Đức Kitô sẽ đến, nhưng mà Ngài cũng đã đến trong lịch sử, trong trần gian từ lâu rồi, cả 2000 năm nay, vậy hôm nay ta cần gì phải nói lại?
Để trả lời cho các vấn nạn trên có hai câu hỏi tôi muốn đặt ra cho người hoài nghi lời loan báo của Gioan, đó là: 1. Đức Kitô đã đến rồi, nhưng Người có đến với bạn, đến trong tâm hồn bạn không? 2. Thánh Gioan đã loan báo: hãy dọn đường cho Chúa đến, thực ra câu này bạn nghe gần nhàm tai, nhưng bạn đã dọn đường để Chúa đến chưa? Hay bạn đã dọn thế nào rồi?
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* Đức Kitô đã đến rồi, không phải chỉ đến sau Mùa Vọng, nhưng cụ thể nhất là Người có đến trong bạn trong tôi không?
* Thánh Gioan đã loan báo: hãy dọn đường cho Chúa đến...có phải vì cố chấp, lầm lạc mà tôi cho rằng lời loan báo này xưa cũ quá, hay là tại tôi không muốn dọn đường tâm hồn cho Chúa đến? Thực tình tôi có muốn không?
* Tôi đã dọn đường cho Chúa đến thế nào? Tôi có muốn bạt núi đồi xuống là tính kiêu căng tự phụ không? Tôi có muốn lấp đầy thung lũng là những ước muốn, đam mê xác thịt không? Đường nẻo quanh có, tôi có muốn sửa cho ngay, đó là các tội gian tà, tham lam, ganh tị, xảo trá không?
55. Hoá đất tốt - Lm. Vũ Xuân Hạnh
Để sa mạc thành nơi có sự sống, điều kiện cần thiết trước hết là nước. Bên cạnh đó là sự chăm sóc, lao công vất vả của con người để cải tạo sa mạc. Không thể tìm được một khu vườn xinh tươi nơi sa mạc nếu trước hết người ta không tính đến hai điều kiện tiên quyết này. Không có nước, không có sự khai phá và chăm sóc của con người, đời đời sa mạc vẫn chỉ là sa mạc khô cằn. Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, hiện tượng phá rừng đã làm cho đất canh tác bị thu hẹp, hiện tượng sa mạc hóa đất đai ngày càng gia tăng. Để kiến tạo thảm xanh và chống sa mạc hóa, hai điều kiện trên đây cũng lại là hai điều kiện hàng đầu.
Cũng vậy, tâm hồn con người ví như sa mạc. Vì thế sa mạc tâm hồn cũng cần những điều kiện tối ưu. Nếu so sánh điều kiện nước như là ơn Chúa; điều kiện cải tạo sa mạc và sự ra công chăm sóc tưới bón của con người là nỗ lực sống thánh thiện, là sự cố gắng vun bồi cho đời Kitô hữu của mình bằng cộng tác với ơn Chúa, bằng vâng phục thánh ý Chúa và yêu thương con người, đó chính là lúc ta hóa sa mạc lòng mình thành nơi tươi tốt, nơi mang sức sống của hoa trái thánh thiện, của ơn Chúa.
Bởi đó, để có thể mở lòng đón nhận ơn Chúa và để tiếp sức cho sự kiến tạo lòng mình thành mảnh đất tốt tươi, ta hãy lắng nghe Lời Chúa hôm nay thúc giục. Đó là “Tiếng kêu trong sa mạc”. Tiếng kêu ấy thúc giục ta hãy khẩn trương lên, thúc giục lòng ta đừng cố chấp, đừng ở lỳ trong tình trạng thoái hóa, đừng để lòng mình vốn đã là sa mạc, bị sa mạc hóa nhiều hơn. Vì thế: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho bằng”. Ta cần phải thực hiện lời mời gọi ấy không phải ngày một hoặc ngày hai, mà là cả một đời. Có như thế, kết quả cuối cùng sẽ là một kết quả vui mừng lớn lao: “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.
Nhưng sa mạc mà chúng ta đề cập, có hai nghĩa. Thông thường, trong tu đức, sa mạc có nghĩa rất tốt. Sa mạc là nơi thanh vắng, và sa mạc tâm hồn là một nội tâm trầm lặng, yên tĩnh, bình an, nơi mà lòng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa. Nhiều tu sĩ, nhiều vị ẩn tu đã tìm đến sa mạc để đi vào sa mạc tâm hồn sống với Chúa trọn vẹn. Thánh Gioan Tẩy Giả đã từng tu luyện nơi sa mạc để hiệp thông với Chúa như thế. Nhưng khi vào trong làng mạc để mời gọi sám hối, thì sa mạc mà thánh Gioan đề cập, lại là một thứ hoang địa thiếu sự sống. Đó là nơi gió quay cuồng, đất khô cằn, nắng nóng cháy. Đúng hơn, khi khẳng định “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc” (Ga 1, 23), thánh Gioan muốn nói rằng “tôi là tiếng kêu trong lòng người”, vì lòng người đã bị sa mạc hóa. Bởi đó, sa mạc của lòng người cũng sẽ là nơi tối tăm, chứa đầy nguy hiểm, là nơi thiếu ơn Chúa, thiếu tình yêu và đầy tham vọng, mưu mô, đam mê xấu… Chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sa mạc theo nghĩa thứ hai này.
Mỗi mùa Vọng, ta lại gặp khuôn mặt đáng yêu của thánh Gioan Tẩy Giả, người đã từng có một cuộc sinh ra kỳ diệu, một lối sống khác thường. Sa mạc là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống, lại là nơi thánh Gioan sinh sống, lớn lên và trưởng thành. Cũng chính nơi sa mạc đầy dẫy sự khắc nghiệt, lại là nơi thánh Gioan gặp gỡ Thiên Chúa. Bên cạnh sự lớn lên về thể lý, thánh Gioan còn được sống trong ơn Chúa, lớn lên trong tình yêu của Chúa và trưởng thành trong thánh ý Người. Thánh Gioan đã lắng nghe Lời Chúa đúng như Tin Mừng hôm nay cho biết: “Có Lời Chúa phán cùng con ông Giacaria là ông Gioan trong sa mạc”. Lời của Chúa đã đưa thánh gioan ra khỏi sa mạc, đến mọi vùng ven sông Giodan mà gặp gỡ con người. Lời Chúa thánh nhân đã nghe, giờ đây trở thành Lời Chúa thánh nhân công bố. Tiếng Chúa mời gọi thánh nhân, trở thành tiếng thánh nhân mời gọi mọi người. Thánh Gioan đúng là tiếng kêu trong sa mạc như chính người đã khẳng định.
“Tiếng kêu trong sa mạc” đòi chúng ta hãy sửa đường cho Chúa. Nhưng không phải con đường đất, đường nhựa, mà chính là con đường của cõi lòng người, đường đi vào tâm hồn. Bởi đó, bằng những cách nói đầy gợi ảnh: thung lũng; núi đồi; đường quanh co; lối đi lồi lõm…, thánh Gioan kêu mời chúng ta ăn năn sám hối: Hãy cải đổi nếp sống, nếp nghĩ, nếu cần, cải đổi toàn diện, cải đổi cả não trạng của mình. Vì tận trong tâm hồn ta, có ai lường hết bao nhiêu lối suy nghĩ quanh co, sự tính toán lệch lạc. Tận trong tâm hồn ta có bao nhiêu hố sâu tăm tối, vì thiếu ánh sáng của tình yêu. Hoặc chính nơi ấy, có bao nhiêu núi đồi của sự ngạo ngễ, của tự kiêu, tự mãn… Vì thế, Ta đừng tiếp tục sống như xưa nữa, nhưng hãy uốn nắn những quanh co, lấp bằng những lồi lõm của tội lỗi, của thói hư tật xấu, của những tham vọng và dục vọng thiếu ngay chính… Bạn và tôi hãy sám hối. Vì sám hối là dọn con đường của lòng mình.
Dọn đường tâm hồn là để đón chờ Chúa đến. Chúa cần tâm hồn xứng đáng để làm nơi trú ngụ. Chúa cầm tâm hồn rỗng, không chứa đầy tội lỗi để tuôn đổ ơn của Người. Nhưng để dọn tâm hồn thật lành thánh như thế, chỉ cần đi xưng tội qua loa, xưng tội để trấn an lương tâm mà thôi chưa đủ. Vì như thế chưa phải là cải đổi tâm hồn, chưa đi tới hoàn thiện chính mình. Xưng tội như thế là xưng cho có, cho rồi. Xưng tội như thế là biến bí tích giải tội thành phương tiện cho mình lạm dụng, và lợi dụng để tự đánh lừa bản thân. Đó là một sự cố chấp, là ở lỳ trong tội.
Nếu biến sa mạc thành đất có sự sống, con người phải mất sức, mất của, và chấp nhận nhiều khó khăn. Cũng vậy, dọn đường tâm hồn là chấp nhận biến đổi sa mạc của cõi lòng thành miền đất trù phú, miền đất thấm đẫm ơn Chúa. Bởi vậy, người ta phải chấp nhận sự hao mòn sức lực, chấp nhận tự gọt giũa chính mình, chấp nhận nhiều khó khăn khác nhau. Vì biến đổi như thế là sám hối. Và sám hối thật lòng đòi phải có dấn thân thật sự để tự mình từ nay dám cắt bỏ một thói quen chưa hay, một đam mê thiếu trong sáng, một tật xấu… để lòng mình biết yêu hơn, khiêm nhường hơn, sống tinh thần phục vụ hơn, vị tha hơn… Vì chỉ khi nào dám chối từ những rườm rà xung quanh mình, con người ta mới dám mong ước thuộc về Thiên Chúa. Thái độ sám hối tận căn ấy, mới là sám hối đúng nghĩa. Điều đó không dễ chút nào, vì nó làm ta đau đớn, xót xa, trầy trụa, mất mát. Chỉ có sám hối trọn vẹn mới sống đúng nghĩa hai chữ “dọn đường”. Chúa cần một thái độ dọn đường một cách tự nguyện, dứt khoát như thế, để Người đi vào tâm hồn và tâm hồn có chỗ chứa đựng ơn thánh của Người. Khi tâm hồn có Chúa, tâm hồn không còn là sa mạc và cũng chẳng hề sợ sa mạc hóa. Chỉ có thể đong đầy Thiên Chúa trong chính mình, nếu biết giữ mãi ơn Chúa trong tâm hồn bằng một đời sống tốt lành, vươn lên trong sự thánh thiện.
Vậy chúng ta hãy đi vào sa mạc như các nhà ẩn sĩ (chứ không phải sa mạc thiếu sự sống), nghĩa là biết trở về với nội tâm của mình, xua đi những ồn ào, những lo toan của cuộc sống. Ta hãy đi vào sự tĩnh mịch của sa mạc lòng mình mà lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe những đòi hỏi của Tin Mừng: Phải sửa đường xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay thẳng những lối đi quanh co theo sở thích trái chướng của bản thân, lúc thế này, khi thế khác. Mọi gồ ghề ngăn cản các liên hệ tốt đẹp với Chúa, với tha nhân hãy bạt xuống và san phẳng để hiến dâng tình yêu của mình đến với anh em và với Thiên Chúa. Có như thế, ta mới “Thấy ơn Thiên Chúa cứu độ” như lời thánh Gioan loan báo.
56. Đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát---Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Tin Mừng hôm nay giống như một bức tranh với hai cảnh trí đối nghịch nhau. Trên một cái phông lờ mờ, chúng ta như thấy được cảnh đô thị giàu sang nơi ngự trị của hoàng đế Lamã, người đại diện của ông là tổng trấn Phongxiô Philatô, và các thứ vua bù nhìn là Hêrôđê và Philipphê. Cũng trong cái phông lờ mờ ấy, người ta còn thấy được như hai cái bóng ẩn tàng là Anna và Caipha, hai vị thượng tế lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, Trên cái phông lờ mờ ấy, thánh Luca như muốn tô đậm một cảnh trí khác đó là cảnh sa mạc vắng vẻ, nơi cư ngụ của môt kẻ nghèo nàn ấy là Gioan, con của Giacaria. Thánh Luca có lẽ đã muốn làm nổi bật cái cảnh sa mạc nghèo nàn vắng vẻ ấy, để nói với chúng ta rằng chỉ có trong sa mạc vắng vẻ nghèo nàn, con người mới lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa.
Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã phải lẫn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào đất Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.
Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.
Tư trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể rút ra được một bài học khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được nghe thấy: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng". Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị trong cả nước nữa. Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố gaíc hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.
Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Đó là lý do tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta quen gọi là Hồng Y. "Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào". Lời nhắc nhở này chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho dẫu phải hy sinh mạng sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu gọi san bằng bất công. Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để mất. Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ nào.
Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của các tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: "Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng".
Khi cuộc sống của các tín hữu trở thành một lời mời gọi, khi miệng lưỡi của họ nói lên những lời can đảm chân thực, thì lúc đó như Tin Mừng nói với chúng ta, mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa.
57. Dọn đường
Một đất nước được coi là phồn thịnh, một thành phố được xem là phát triển thì một trong những yếu tố mà người ta đánh giá đó là hệ thống giao thông của đất nước đó, của thành phố đó có thông thoáng và hiện đại không? Để chuẩn bị đón một nhân vật quan trọng đến thăm đất nước hay một thành phố nào đó thì người ta phải chuẩn bị nhiều thứ: an ninh công cộng, vệ sinh môi trường, giao thông đi lại.... Thế nên chuẩn bị đón Chúa trở lại ta cũng phải dọn con đường trong tâm hồn cho quang đãng, bằng phẳng để Chúa có thể đến được với tâm hồn ta.
Chủ đề của Chúa Nhật trước, Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng mời gọi ta chuẩn bị sẵn sàng, tỉnh thức chờ đón Chúa trở lại. Tin Mừng thánh Luca hôm nay cho ta thấy cách thức đón Chúa trở lại theo lời rao giảng của Gioan Tiền hô là hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi, mọi thung lũng hãy lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng. Con đường mà Gioan kêu gọi hãy sửa lối đó chính là tâm hồn mỗi người chúng ta. Thế ta phải chuẩn bị thế nào để đón Chúa? Thiết tưởng có nhiều cách thế nhưng ở đây tôi chỉ đưa ra 3 cách thế tiêu biểu.
Thứ nhất: Hãy hoán cải. Hoán cải là đổi chiều, là từ bỏ con đường lầm lạc để quay về nẻo ngay. Gioan mời gọi hãy dọn có hoang đãng con đường tâm hồn, dọn sạch những vướng víu của những đam mê, sửa cho thẳng những quanh co gian dối, lấp cho đầy những tỵ hiềm ghen ghét, bạt cho phẳng những ích kỷ tự kiêu...Nhưng để được hoán cải trước tiên phải là một ân ban của Thiên Chúa sau là con người thật của mình. Thiên Chúa thì luôn tha thứ cho con người nên việc hoán cải tùy thuộc vào mỗi người chúng ta. Hoán cải phải được thực hiện liên lỷ vì khi còn sống trong thân xác ta vẫn còn phải chiến đấu với ba thù đang rình rập chống lại ta. Hoán cải chính là nhận ra con người thật của mình.
Thứ hai: Thiên Chúa muốn cho mọi người được ơn cứu độ. Thiên Chúa hằng yêu thương con người, Người chẳng bao giờ khước từ đến cư ngụ trong tâm hồn người khao khát. Đây là một ý thức quan trọng vì ta được nên tốt không phải bởi công nghiệp ta lập được nhưng là do lòng nhân từ của Thiên Chúa. Lễ vật của Abel không được chọn vì Abel công chính nhưng Abel công chính vì đã được chọn. Thế nên, ơn gọi người Kitô hữu là ơn gọi nên thánh trong bậc sống, trong hoàn cảnh của mình nhờ ơn Chúa trợ giúp. Chắc chắn với tấm lòng quảng đại Thiên Chúa sẽ lấp đầy những yếu đuối còn thiếu trong ta.
Thứ ba: Sống chứng nhân cho thời đại. Gioan đã có một thời gian dài cô tịch trong hoang địa để đón nhận Lời Chúa và hôm nay ông rao giảng cho những người cùng thời với ông. Ông đã thâm tín lời dạy của các tiên tri xưa hôm nay ông nhắc lại. Giống như ơn gọi của Gioan, ơn gọi Kitô hữu của chúng ta là trở nên chứng nhân cho thời đại chúng ta. Con người ngày nay muốn nhìn thấy những chứng nhân hơn là những thầy dạy suông. Thế nên cách thế để đón Chúa trở lại là cầm đèn sáng chính là thực thi ý Chúa trong đời sống hằng ngày và chiếu tỏ ánh sáng đó cho mọi người chung quanh.
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy hoán cải tâm hồn, sửa đổi những quanh co, lồi lõm, những nghi kỵ ghét ghen...biến đổi con người để xứng đáng là một con người mới, một con người đã được Đức Kitô cứu chuộc. Nhưng việc đổi mới này không phải là một việc làm vu vơ nhưng phải được thực hiện hằng ngày trong cuộc sống của ta, phải nâng cấp con người của ta hầu xứng đáng đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa.
58. Dọn đường đón Chúa
Gioan Tẩy Giả là anh em bà con với Chúa Giêsu, là con ông Dacaria và bà Êlisabét. Ông xuất hiện như một ngôn sứ, để công bố sự thật, nhiệm vụ của ông là dẫn đường chỉ lối cho dân chúng đi về sự sống. Gioan rất ý thức về vai trò tiền hô của mình, là dọn đường cho Đấng Messia sắp đến nay mai. Ông mặc áo lông lạc đà, chứ không mặc áo rộng thùng thình như các ông Pharisêu, ông ăn châu chấu với mật ong rừng, ông dốc toàn lực rao giảng, kêu gọi dân chúng chuẩn bị dọn đường để Chúa đến. Ông cảnh cáo rằng: nếu ai không thay đổi đời sống, không ăn năn sám hối, thì sẽ bị trừng phạt, bị lửa thiêu rụi.
Lời kêu gọi của Thánh Gioan xem ra thật gay gắt, không thay đổi đời sống nên tốt hơn, không nhận lỗi, không sám hối sẽ phải chết. Nhưng phải thay đổi đời sống như thế nào đây? Đó là: "Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uống cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng".
Hãy dọn sẵn con đường, nhưng con đường nào đây? Có phải đó là những con đường nhựa, những con đường "Xi-măng", chưa khánh thành đã hư chăng? Hay là những con đường sắt kém chất lượng đã làm hại sinh mạng nhiều người trong những năm qua? Hoặc những con đường lầy lội, trơn trượt hằng năm trong mùa mưa bão?
Con đường mà lời Chúa qua miệng thánh Gioan, là con đường của cõi lòng con người, đường đi vào tâm hồn chúng ta. Con đường mà lầy lội, trơn trượt, con đường mà quanh co, con đường mà đầy núi đồi hay thung lũng sâu sẽ rất khó đi và đầy nguy hiểm, có thể sẽ không lưu thông được nữa. Đường quanh co, núi đồi làm cản trở và gây nguy hiểm trong lưu thông.
* Trong tâm hồn ta cũng đầy những cản trở:
Của những suy tính quanh co, không ngay thật, không trong sáng, những ước muốn tham lam, chiếm đoạt;
Của những núi đồi của sự kiêu ngạo chẳng xem ai ra gì, coi mình là Chúa để xét xử phê phán anh chị em, mà quên mình cũng đẩy dẫy tội lỗi;
Của những thung lũng tối tăm tội lỗi thầm kín, những ham muốn bất chính, những dục vọng ngông cuồng...
Rất nhiều người đã nghe lời thanh Gioan kêu gọi, từ Giêrusalem đến các vùng phụ cận đều tuôn đến để được Gioan thanh tẩy, họ thú nhận sự bất trung đối với Thiên Chúa và những tội ác đã phạm. Mỗi người chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta có nghe lời kêu gọi sám hối và sửa đổi đời sống của Gioan không? Sám hối là dọn con đường của lòng mình để Chúa ngư đến"trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi biết ăn năn sám hối", tâm hồn đẹp nhất là tâm hồn biết ăn năn sám hối vì vậy sẽ làm cho các triều thần thánh trên trời vui mừng hoan hỷ (Lc 15, 10). Biết mình sai lầm, rồi chấp nhận thay đổi bằng một hành động thiết thực, đó là điều Thiên Chúa mong muốn nơi mọi người chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta biết "tiên trách kỷ, hậu trách nhân" để luôn nhận ra lỗi lầm của mình, cố gắng sửa sai, tránh mọi tật xấu, để dễ dàng đón nhận ơn Chúa.
59. Cản trở - Lm. Vũ Đình Tường
Ngày kia tôi đứng trên đồi cao phóng tầm mắt tận chân trời. Hàng hàng lớp lớp núi non bao bọc, ngọn này che khuất ngọn kia. Hùng vĩ mấy cũng có ngọn khác hùng vĩ hơn. Tôi thấy cây cao phủ bóng che nắng của cây thấp và cây thấp cố vươn lên hút ánh nắng trời cho lá thêm xanh. Những tia sáng mặt trời dọi chiếu trên cành lá tạo ra những mảng màu sắc khác nhau. chỗ ươm vàng óng ả, chỗ lại sáng chói chang, chỗ màu xanh lục gần như tím thẫm. Đảo mắt quanh chỗ nào cũng gợi lên cảm giác hữu tình, ngây ngất lòng người, tâm thanh thản, lòng trải rộng và trí bay bổng tận cao xanh. Lồng trong rừng lá xanh tươi có những đường mòn chân thú chạy ngược, xuôi, lớn nhỏ, đan chéo chằng chịt. Bỗng một cơn gió bay đến làm rung động cành lá, cành lá vươn dài che khuất lối mòn như trò chơi trốn, bắt của gió rừng. Phía kia là đại dương xanh ngắt mang nhiều lớp sóng bạc thi nhau vỗ bờ. Hết lớp này đến lớp khác thi nhau nhảy múa trên sóng nước. Mỗi lớp sóng đến tạo thành một sợi chỉ nhỏ màu trắng lăn theo chiều gió, lúc hai lớp sóng hợp, khi xé ra. Cảnh hợp tan xảy ra trong nháy mắt. Gần hơn nữa trên đỉnh đầu là lớp mây nhảy múa, thành quả nước biển bốc hơi tạo thành.
Khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời trên sẽ giảm sức thu hút lòng người nếu núi có chiều cao như nhau, nếu các đồi đều là đồi trọc, nếu cây cối cùng màu sắc và các đường mòn thẳng tắp như kẻ. Thử hỏi làm sao còn tạo được sức hấp dẫn nữa. Đây không phải í nghĩa những gì thánh Gioan Tẩy Giả kêu gọi trong bài Phúc Âm thánh Luca 3,4
Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đuờng cho Đức Chúa, sửa lối thẳng để Người đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Lời nguyện nhập lễ Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng giải thích làm sáng tỏ điều Gioan kêu gọi.
Xin phá vỡ những gì ngăn cản chúng con được vui mừng đến gần Chúa, để chúng con chia sẻ ơn khôn ngoan Chúa ban và được liên kết khi Ngài đến trong vinh quang.
Có ai ngờ cảnh rừng xanh bao la tuyệt vời làm rung động lòng người ẩn dấu bao hiểm nguy. Ẩn nấp sau vỏ cây khô là những con bò cạp rừng. Dưới hốc đá nào đó có rắn hổ ẩn mình và đâu đó nhện cắn độc đang rình rập con mồi. Không ai đoán biết khi nào chết chóc xảy đến, đâu đâu cũng có hiểm nguy. Gioan Tiền Hô dùng kinh nghiệm hoang địa bản thân cho biết cảnh rừng bao la, bát ngát là nơi thanh tĩnh để ngắm nhìn, không phải là chốn an toàn để náu thân bởi vì rắn độc, bò cạp và khí độc đến lúc chúng ta không ngờ. Gioan liệt kê một số những chứng bệnh thời đại làm hại đến tâm hồn con người, ngăn cản con người đến gần Chúa, ngăn cản con người đón nhận Lời Chúa. Thánh nhân kêu gọi con ngưòi sống đường lối ngay thẳng, đừng quanh co, uấn éo, lươn lẹo trong lối sống. Gioan hy vọng con người sống đường lối công chính, thật thà. Gioan mời gọi con người hãy san bằng gánh nặng cuộc đời, đừng để công việc chồng chất trên đôi vai gầy, đừng để gánh nặng mối lo làm còng lưng son trẻ. Gioan hướng dẫn cuộc sống mới bằng cách cân bằng thời gian giữa làm việc và cầu nguyện, dành thêm giờ cho tâm linh và biết để giờ cho việc truyền bá Phúc Âm, Tin Mừng. Quan trọng hơn hết là hãy làm cho tình yêu Chúa mỗi ngày mỗi lớn lên trong cuộc sống. Làm được những điều trên con người sẽ cảm thấy cuộc sống nhiều í nghĩa hơn và ơn cứu độ là điều nằm trong tầm tay với.
60. Sửa lại con đường tâm hồn
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)
Khi thánh Gioan Tẩy giả đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, cầu ơn tha tội, thì ngài dùng lời trong sách Tiên tri Isaia nói rằng:
"Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Đoạn Tin mừng này thì rất quen thuộc với chúng ta. Nhưng, khi suy nghĩ đến việc dọn đường Chúa, sửa lại đường Chúa cho ngay thẳng, thì chúng ta có thể tự hỏi: Con đường của Chúa là con đường nào?. Và con đường nào cần sửa lại?.Tại sao Gioan Tẩy Giả đi rao giảng trong hoang địa lại kêu dân chúng dọn đường?. Từ những vấn đề được đặt ra, tôi thiết nghĩ chúng ta sẽ có một cái nhìn thấu đáo hơn về ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay. Đó là: Thiên Chúa không cần chúng ta sửa đường cho Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng, nhưng chính chúng ta mới cần sửa lại những con đường quanh co, gồ ghề và hố sâu nơi trong tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Trở về bối cảnh của Tin mừng, chúng ta nhận thấy rằng, dân Do thái phải sống nô lệ, lầm than khốn khổ bởi các vua chúa quan quyền. Thánh Luca đã thuật lại như sau:" Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế". Điều này nói lên rằng, lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả lúc bấy giờ là rất quan trọng và cấp bách. Nó không chỉ cho những dân Do thái đang sống trong cảnh nô lệ, lầm than, đói khổ mà là cho các vua chúa quan quyền hãy sửa lại lối sống của họ. Sự thống trị kiêu căng, độc tài, gian ác của họ trên dân chúng. Hình ảnh con đường là lối minh họa dẫn chúng ta đi vào con đường của nội tâm, con đường của tâm hồn đang mắc phải bởi hố sâu của tội lỗi, bởi những dục vọng ham muốn của con người. Những đam mê dục vọng đang lôi kéo chúng ta vào thế giới của hưởng thụ, trụy lạc và ích kỷ. Hơn nữa, khi đồi núi của thói kiêu ngạo, tự mãn đang lấp đầy nơi tâm hồn, thì làm sao Thiên Chúa có thể ngự trị. Khi lòng người quanh co, giả dối, gian xảo, thì làm sao Con Thiên Chúa có thể đến viếng thăm.
Nếu chúng ta so sánh hoàn cảnh của thánh Gioan Tẩy Giả với cuộc sống chúng ta ngày nay, thì có sự khác biệt rất lớn. Gioan thì sống trong hoang địa đơn sơ, nghèo nàn, đói khát, lam lũ. Con đường thì đồi núi, gồ ghề, sỏi đá. Trái lại, ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới có đầy đủ phương tiện vật chất. Con đường thì bằng phẳng, rộng thênh thang, nhưng lòng người thì hẹp lại. Con đường đến nhà thờ thì không xa, nhưng lòng người thì ngại ngùng và không muốn đến. Thánh lễ ngày càng vắng bóng người trẻ. Khi tôi hỏi các bạn trẻ: "Thánh lễ có ý nghĩa đối với bạn", thì họ cho biết rằng, họ đi lễ là vì bị bắt buộc hơn là yêu mến. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận sự thật trong bối cảnh sống của chúng ta ngày nay. Cho nên, Lời Chúa hôm nay không phải là dọn đường cho Chúa đến ở đâu xa xôi, mà là ngay chính nơi cõi lòng mỗi người chúng ta đang còn có những khúc quanh của bóng tối và tội lỗi bởi dục vọng, gian ác, tham lam, tính toán, lọc lừa, giả dối, ích kỷ. Giá trị đời sống thiêng liêng đang bị đảo lộn. Sự thánh thiện đang bị tha hóa bởi đồng tiền, thú vui, danh vọng và quyền lực. Từ đó, đời sống tâm linh của chúng ta đang bị xuống dốc, bấp bênh, chơi vơi giữa dòng đời và mất đi định hướng sống.
Đổi mới một con đường thì dễ, uốn thẳng khúc quanh co thì không khó, nhưng đổi mới tâm hôn, bỏ đi một tật xấu, dọn lại con đường thiêng liêng thì không dễ chút nào. Con đường ngắn nhất để cho chúng ta làm lại cuộc đời, sửa lại những vết thương của tâm hồn, chính là tin vào tình yêu thương khoan dung của Thiên Chúa, và chúng ta quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy. Chính thái độ khiêm tốn và vâng phục giúp cho chúng ta nhận ra yếu đuối và tội lỗi của mình.
Mùa vọng là thời gian cho ta sửa lại con đường của tâm hồn đang còn thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng lòng khoan dung, yêu thương và tha thứ cho nhau. Những hố sâu của hận thù, ghen ghét đang dằn xé cõi lòng.
Hãy học nơi Chúa Giê-su, Ngài yêu thương chúng ta để đến trong thế gian sống kiếp con người và chết và giải thoát tội lỗi cho chúng ta.
Hãy học nơi thánh Gioan Tẩy Giả, ngài đã cái chết để chống lại sự giả trá, lọc lừa và gian ác.
Hãy học nơi Mẹ Maria, Mẹ đã chấp nhận sống vâng theo thánh ý Chúa để nói lên hai tiếng: "Xin Vâng". Nhờ đó, mọi người đã thấy được ơn cứu độ của Thiên Chúa.
61. Dọn đường Chúa đến
Cuộc sống hôm nay có nhiều phương tiện giúp con người có thể đến với nhau và gần nhau dễ dàng. Hệ thống giao thông đường bộ thì có các loại xe từ bình dân đến đắt tiền. Muốn nhanh hơn thì có máy bay. Còn muốn nhanh và đỡ mất thời gian hơn thì có các loại phương tiện thông tin liên lạc hiện đại hơn như điện thoại, internet...Nói chung phương tiện không thiếu nhưng điều cần là đường để nối lại phải thông thoáng. Chẳng hạn trên đường bộ, xe có hiện đại cách mấy mà gặp phải đường gồ ghề và chật hẹp thì cũng phải chịu.
Là con Thiên Chúa, cần nhất là ta nên giữ cho mình mối liên lạc thật tốt với Ngài. Thiên Chúa đã dọn sẵn đường cho, nhưng nhiều khi ta lại tạo nên những trở ngại khiến sự liên lạc quý báu ấy không còn tốt nữa. Điều đáng nói bấy lâu để mất liên lạc với Chúa do những trở ngại ấy thì ta sẽ phải đi trong mù tối. Muốn được ánh sáng Chúa soi dẫn nhất thiết ta cần phải khai thông. Như vậy, ta phải khai thông bằng cách nào?
Rất may mắn, Thánh Gioan đã chỉ cho ta: "Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa." (Lc 3, 4 - 6)
Đây là việc làm của mỗi cá nhân, không ai có thể giúp ai được. Bởi lẽ, con đường nối kết giữa ta với Chúa là con đường riêng tư. Vả lại, trên con đường ấy mỗi người tự biết mình cần phải khai thông những gì và chỗ nào.
Có khi ta đang gặp trở ngại bởi thung lũng ngăn cách tình người. Sự ngăn cách ấy có thể xảy ra giữa ta với bạn bè, lối xóm hay đồng nghiệp. Có khi sự ngăn cách ấy lại xảy ra với chính những người thân thuộc hay chính trong gia đình ta.
Có khi ta gặp trở ngại bởi núi đồi kiêu căng. Kiêu căng từ trong suy nghĩ đến việc làm. Sự kiêu căng ấy thể hiện ở chỗ tự cho mình là nhất và không coi ai ra gì. Nguy hiểm hơn, thái độ này ta lại đem áp dụng với cả Thiên Chúa. Bất cần ơn Chúa là thái độ hết sức nguy hiểm.
Có khi ta lại gặp trở ngại bởi những lời nói và cách sống gian dối. Câu "Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt. Lươn lẹo luồn lách lại lên lương"dường như là châm ngôn sống cho mình.
Trên đây chỉ là một vài trở ngại trong vô số những trở ngại khác. Ước mong nhờ ơn Chúa giúp mỗi người sẽ thấy được những trở ngại của mình. Khi đã thấy được những trở ngại, hãy can đảm và mạnh dạn dẹp bỏ nó. Hãy luôn nhớ, bao lâu những trở ngại ấy còn lại trong ta thì bấy lâu ánh sáng Chúa không thể soi bước đường ta đi. Mà nếu như không được ánh sáng Chúa soi dẫn, thì có lẽ ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ khó mà đến được với ta.
62. Tuân giữ luật Chúa từ trong lòng – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Sứ vụ thánh Gioan Tẩy Giả là chuẩn bị việc Đấng Cứu Thế đến. Ông rời bỏ hoang địa sau thời gian tĩnh tâm lâu ngày. Để trả lời cho những kẻ nghĩ rằng cứ giữ đúng những nghi thức Lề Luật là được Thiên Chúa thương yêu, ông giảng về sự cần thiết phải hồi tâm và thay đổi nếp sống. Thật ra, ông chỉ tiếp nối lời giảng dạy của các ngôn sứ. Ông là người cuối cùng, đến trước Đức Kitô, trong chuỗi dài những ngôn sứ không ngớt nhắc nhở Israel về sự cần thiết chuẩn bị nghênh đón Chúa. Công việc chuẩn bị này là nhiệm vụ toàn dân cũng như của mỗi người. Sửa soạn đón Đức Giêsu là không được quên lãng việc thờ phượng Thiên Chúa, là xua đuổi ngẫu tượng, là uốn thẳng những đường ngõ bị bất công và ích kỷ làm cho cong queo khúc khuỷu.
Chúng ta có thể từ đoạn Phúc Âm trên đây rút ra hai câu quan trọng:
1) Thiên Chúa phán với Gioan Tẩy Giả trong hoang địa.
Nói chung, người ta nhận thấy trong Kinh Thánh điều này: Thiên Chúa chuẩn bị những sứ giả của Người bằng một thời gian tĩnh tâm vắng vẻ lâu dài. Trong thế giới hiện tại, lối chuẩn bị như thế vẫn có giá trị đối với bất cứ Kitô hữu nào. Không phải tất cả các tín đồ đều phải dành nhiều ngày giờ để sống trong cô tịch. Nhưng chính trong chừng mực mà, theo ơn gọi, Kitô hữu nào đảm nhận một trách vụ trong Giáo Hội, thì phải sắp đặt thời giờ cần thiết để cầu nguyện mặt đối mặt với Chúa.
2) Gioan Tẩy Giả rao giảng một sự thanh tẩy bằng sám hối, trở lại để lĩnh ơn tha thứ.
Biệt phái và Sa đốc là giới thính giả được thánh Gioan chú trọng đặc biệt. Họ dễ tin rằng hễ tuân giữ đúng Lề Luật là giữ đạo cách đầy đủ. Nhưng ông nói với họ: Điều chủ yếu là phải đổi mới tâm hồn. Ít lâu sau, Đức Giêsu sẽ phán dạy rằng những điều làm cho người ta ô uế, chúng xuất phát từ trái tim: Đó là thù hận, tà dâm, ghen ghét, bất công, là chủ trương duy vật thực tế của thế gian. Để chuẩn bị nghênh đón Đức Giêsu, thánh Gioan Tẩy Giả loan báo sự cần thiết phải thanh luyện tâm hồn. Chúng ta có thể ghi lấy điều sau đây: Tuân giữ giới răn Chúa mới chỉ là bề ngoài; còn phải kèm theo một nội tâm thật sự xua đuổi sự tội. Tâm tình ấy chính là thái độ thành thật đối với Thiên Chúa.
63. Suy niệm của McCarthy.
Suy Niệm 1. CHUẨN BỊ CON ĐƯỜNG CHO CHÚA
Có một nhà giảng thuyết nổi tiếng, cứ hết Chúa nhật này đến Chúa nhật khác, đều đến giảng tại một cộng đoàn rộng lớn. Họ rất chăm chú lắng nghe. Vào một Chúa nhật, khi ông đang đi đến bục giảng, thì những lời trong Tin Mừng vang bên tai ông: “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Một ý tưởng bất chợt đến với ông: “Thiên Chúa không cần chúng ta phải sửa đường cho Người, nhưng chính chúng ta mới cần”.
Từ trên bục giảng, ông nhìn vào các gương mặt đang chờ đợi của giáo dân, và tự hỏi không biết những lời đó có ý nghĩa gì đối với họ. Những điều cần phải chấn chỉnh trong cuộc sống của họ là gì? Ông nhận ra rằng chỉ bản thân họ mới có thể trả lời câu hỏi này. Tuy nhiên, có một lãnh vực mà ông cảm thấy đáng nói đến: các mối quan hệ thường xuyên bị bóp méo và rối loạn của họ.
Ông đã quen biết những người này cả một thời gian dài. Họ đã từng đến với ông, để được giúp đỡ và hướng dẫn qua những vấn đề của họ. Ông biết những đố kỵ nhỏ nhặt làm cho tâm hộn họ bực bội, những hận thù khiến cho người này chống lại người kia, những cuộc cãi vã vặt vãnh vẫn còn tồn tại, những ghen tỵ và hiểu lầm, sự tự hào xuẩn ngốc.
Ông quyết định gởi một thông điệp cho những con người cố chấp, đầy cay đắng, không chịu tha thứ và bỏ qua đó. Ông sẽ ghi khắc nơi họ ý tưởng rằng cuộc đời vốn dĩ quá ngắn ngủi rồi, không ai nên gây hận thù và bất mãn cho nhau nữa. Ông sẽ van nài họ nên cư xử trong sự hiểu biết và khoan dung đối với nhau. Ông sẽ nói với họ từ tận tâm hồn của ông, như thể ông đang nói riêng với từng người vậy. Thế là ông bắt đầu:
Anh chị em thân mến, tôi xin được nhắc lại những lời trong Tin Mừng: “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Thiên Chúa không cần chúng ta phải sửa đường cho Người, nhưng chính chúng ta cần.
Chúng ta cứ để mặc cho những chuyện hiểu lầm diễn ra từ năm này sang năm khác, với ý nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ khai thông chúng. Chúng ta cứ để cho những cuộc cãi vã tiếp tục tồn tại, bởi vì chúng ta không thể sắp xếp tư tưởng, để dẹp bỏ và chấm dứt lòng tự hào của chúng ta.
Chúng ta đi ngang qua những người khác với vẻ mặt sưng sỉa, không hề nói với họ một lời nào, mà không có một vài thái độ đố kỵ vớ vẩn, mặc dù chúng ta biết rằng mình sẽ hối hận và xấu hổ nếu nghe tin rằng ngày mai một trong những người đó sẽ qua đời.
Chúng ta cứ để mặc cho người đồng loại của mình bị đói khát, cho đến khi chúng ta nghe tin rằng người đó đang chết đói, hoặc chúng ta làm cho người bạn của mình bị đau lòng, vì một lời đánh giá mà một ngày nào đó chúng ta đã nói với họ.
Nếu chúng ta nhận ra rằng “thì giờ ngắn ngủi”, thì câu nói này sẽ gây ảnh hưởng mạnh đến thế nào. Làm sao để chúng ta có thể ra đi ngay tức khắc, và làm được những điều, mà có thể không bao giờ chúng ta có cơ hội khác để thực hiện.
“Tôi xin nhắc lại: Thiên Chúa không cần chúng ta phải sửa đường cho Người nhưng chính chúng ta cần. Vì thế, nếu chúng ta có thái độ quanh co, hoặc lối sống không ngay thẳng, hoặc mối quan hệ không chân thật nào đó cần được chấn chỉnh lại, thì chúng ta hãy sửa đổi ngay. Sau đó, chúng ta sẽ thực sự chuẩn bị đường cho Chúa đến với chúng ta”.
Ông kết thúc bài giảng của mình ở đó. Nhưng lời nói của ông thật đáng suy gẫm. Đối với những người đang đi trên một con đường quanh co, thì quả thật mọi sự đều khó khăn. Nhưng mọi sự đều trở nên dễ dàng, đối với những người đi trên đường ngay nẻo chính –đường lối của sự thật, lương thiện và tốt đẹp. Nhưng để đi trên một con đường ngay thẳng, người ta cần có sức mạnh, sự khôn ngoan và chân thật.
Thiên Chúa không hề từ bỏ con người, khi chúng ta bị lạc khỏi đường lối ngay thật. Người vẫn mời gọi chúng ta rời bỏ con đường quanh co, để đến với đường ngay nẻo chính. Mùa Vọng là một thời gian tuyệt vời, để chúng ta biết nhắm bản thân đến đường hướng ngay thẳng, và tự mình cam kết đi trên đường lối đúng đắn. Chúng ta phải cầu xin Chúa cất đi sự mù lòa khỏi cặp mắt chúng ta, sự yếu đuối khỏi ý chí chúng ta, và sự cứng cỏi trong tâm hồn chúng ta, để sao cho cuộc sống chúng ta được tràn đầy ân sủng trong ngày Người đến.
Suy Niệm 2. TỰ MỞ LÒNG RA CHO ƠN CỨU ĐỘ
Ơn cứu độ là một trong những chủ đề lớn của Mùa Vọng. Hôm nay, một lời mời gọi lớn lao xuất phát từ Phụng vụ “Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy. Mọi núi đồi, phải bạt cho thấp; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”.
Đây là những lời tuyệt vời. Đây là lời tuyên bố về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Nhưng ở đây, có thể phát sinh ra một vấn đề. Một số người cứ nghĩ rằng để được Thiên Chúa yêu thương, thì họ phải hoàn hảo. Họ nói: “Thiên Chúa không bao giờ muốn gặp tôi trong tình trạng tội lỗi và bất toàn của tôi”. Vì thế, họ nỗ lực trở nên con người hoàn hảo, nhằm đạt được tình yêu của Thiên Chúa. Điều này đưa đến hậu quả là họ cứ cố gắng tự mình xoay sở lấy. Thiên Chúa khó cứu độ những người như vậy.
Lần kia, có một tu sĩ tên là Ambrose. Vốn là một chuyên gia về đời sống thiêng liêng, tu sĩ Ambrose rất đòi hỏi trong cách nói chuyện và suy niệm. Ông còn là một người rất thông minh, và chăm chỉ làm việc. Vì là một con người ưa sự triệt để hoàn hảo, nên ông luôn luôn thích được sắp xếp và kiểm soát mọi sự. Ông làm cho mọi người lóa mắt thán phục về năng lực và kiến thức của ông.
Nhưng khi đang ở trên đỉnh cao của sự nổi tiếng, thì ông bị một căn bệnh ở giai đoạn cuối làm cho ông quỵ ngã. Dường như thể sứ mạng của ông đã kết thúc. Tuy nhiên, sự việc lại không diễn ra như vậy. Trái lại, chính khi ông trở nên yếu đuối, và hoàn toàn không kiểm soát được mọi sự, thì ông lại trở nên có hiệu quả nhất.
Điều này diễn ra như thế nào? Ông quyết định sử dụng căn bệnh của mình để tiếp cận với những người đau khổ khác. Và nhờ đó, ông đã quá thành công, đến nỗi chính căn bệnh ở giai đoạn cuối của ông lại chuyển thành một giai đoạn hiệu quả nhất. Trước khi qua đời, ông nói “Tôi đã đi theo một phương hướng, thì đột nhiên, tôi lại bị bắt buộc phải đi theo một hướng khác. Nhưng trong quá trình đó, tôi được học hỏi về bản thân mình, và về tấm lòng tốt của người khác, nhiều hơn là tôi đã từng học hỏi được trong suốt những năm tháng trước đây của cuộc đời tôi”.
Và về mức độ cá nhân, thì tu sĩ Ambrose đã trải qua một sự biến đổi tuyệt vời. Dường như thể cái vỏ bọc bảo vệ nào đó đã nứt vỡ ra, và làm nổi bật lên một con người thực sự có sức quyến rũ. Trước đây, ông là một người có vẻ cô độc trong cộng đoàn. Bây giờ, ông đã tự đặt mình vào giữa cộng đoàn, cùng ăn uống với các tu sĩ bạn, nhưng cũng đóng góp một cách rộng rãi vào tinh thần của cộng đoàn, nhờ sự dịu hiền và an bình mà ông tỏa ra. Đây là công trình của ân sủng, và điều này chứng tỏ sự thật trong vài câu ngắn sau đây:
Hãy rung lên những hồi chuông nào vẫn còn có thể vang vọng được.
Hãy quên đi sự hiến thân hoàn hảo của bạn.
Trong tất cả mọi sự, đều có một vết nứt.
Đó là cách để ánh sáng thâm nhập vào.
Những hoàn cảnh làm cho chúng ta mở lòng mình ra, để đến với điều mà Thiên Chúa mong muốn ban cho chúng ta quả thật lạ lùng. Khi chúng ta đến với Thiên Chúa từ trạng thái đầy đủ và mạnh mẽ của bản thân, thì chúng ta đặt Thiên Chúa sang một bên. Nhưng khi chúng ta đến với Thiên Chúa từ tình trạng yếu đuối và có nhu cầu, là chúng ta mời gọi Người đi vào tâm hồn của mình. Thông qua sự bất toàn của mình, mà tâm hồn của chúng ta được mở ra cho ân sủng của Thiên Chúa. Sự bất toàn của chúng ta chính là những vết thương thu hút sự chú ý của Thiên Chúa, khiến chúng ta xứng đáng được Người thương xót và chữa lành.
Trong cuộc sống chúng ta, có một thái độ quanh co, hoặc cách cư xử không ngay thẳng cần được chấn chỉnh lại, chúng ta hãy cố gắng làm điều đó. Nhưng chúng ta không được suy nghĩ rằng Chúa sẽ không đến với chúng ta, trừ phi chúng ta vẹn toàn. Nếu chúng ta đã hoàn hảo rồi, thì Thiên Chúa không đến với chúng ta nữa. Thiên Chúa đến, bởi vì chúng ta là những tội nhân cần được cứu độ. Người đến, bởi vì chúng ta là những đứa con bị thương tích, cần được chữa lành. Điều mà chúng ta cần, đó là lòng khiêm tốn và sự chân thành, để tỏ cho Người thấy những tội lỗi và vết thương của chúng ta.
Có những người nói rằng chúng ta không nên bộc lộ sự yếu đuối, bởi vì điều này không tạo ra được sự kính trọng, và do đó, tốt hơn là nên mang lấy gánh nặng của bản thân mình trong sự bí mật. Nhưng chính sự am hiểu về nỗi đau khổ của cá nhân, lại càng làm cho chúng ta có khả năng cống hiến kinh nghiệm bản thân mình, như một nguồn suối để chữa lành cho người khác. Những ai không che đậy sự đấu tranh của họ, nhưng biết sống bằng chính con người thật, nhờ sự trợ giúp của Thiên Chúa, thì có thể mang lại niềm hy vọng cho người khác.
64. Suy niệm của André Sève.
THIÊN CHÚA MUỐN CỨU ĐỘ MỌI NGƯỜI
Luca là tác giả Tin Mừng của lịch sử cứu độ mà ông triển khai thành ba điệp khúc như trong đoạn rất súc tích này chẳng hạn: “Cho đến thời ông Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào” (Lc 16,16)
Luca muốn xây dựng những chiếc cổng qua đó ông làm cho chúng ta đi vào trong lịch sử một cách long trọng. Vào lúc hạ sinh Chúa Giêsu: “Hồi ấy Xêda đại đế ra chiếu chỉ …”. Và đối với bước đầu công khai của Ngài, cùng với Gioan tẩy giả vén màn lịch sử: “Năm thứ mười lăm triều đại vua Xêda Tibê…” Đây là tiếng chuông lớn của lịch sử.
Có một lời loan báo phi thường: “Mọi người sẽ được ơn cứu độ”. Đây là điều ông già Simêon đã công bố một cách âm thầm hơn: “Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài". Chúng ta thường quá thu hẹp các chân trời này, loại bỏ những chân trời này, quên lãng những chân trời kia. Và chúng ta luôn có nguy cơ mất đi trên các con đường của lịch sử điều phải là nỗi ám ảnh của chúng ta: Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, Ngài muốn cứu độ tất cả những người ấy.
Người Do thái thời bấy giờ mong chờ Đấng Cứu Thế đến độ trái tim họ rung động khi nhìn vị tiên tri mới xuất hiện là Gioan Tẩy giả: “Có phải người này là Đấng Cứu Thế hay không?”.
Điều này sẽ còn khó tin hơn nữa! Sẽ phải có toàn bộ Tin Mừng, sự phục sinh và hiện xuống để người Do thái độc thần triệt để lòng trí mở ra (một cách khó khăn!) cho điều không thể tưởng tượng được: Đấng Cứu Thế chính là Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa.
Gioan Tẩy giả phác hoạ chân dung đầu tiên đó: “Có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa”.
Nhưng cũng sẽ phải có các thần học gia giám mục vĩ đại của các thế kỷ đầu tiên, kinh nghiệm của các thánh, nhất là Chúa Thánh Thần để nói lên điều không thể được trình bày: Thiên Chúa duy nhất là Cha, Con và Thánh Thần; và Chúa Con đã làm người, dưới thời Xêda đại đế, dưới triều vua Tibê.
Mùa vọng lại đặt chúng ta trước những chân trời rộng lớn của việc cứu độ tất cả mọi người mà Chúa Cha đã sai phái Con của Ngài cho họ. Còn việc tiếp nhận: Gioan Tẩy giả yêu cầu chúng ta chuẩn bị cho Ngài một con đường. Hai hình ảnh giải toả và tẩy sạch có thể giúp chúng ta hình dung công việc này một lần nữa: làm bung ra những cái cửa quá rỉ sét và làm sập đổ sự từ chối mà chúng ta đã làm cho chai cứng nơi chúng ta, những núi đồi do dự và bác bẻ. Nói với Chúa: “Xin hãy vào trong con” đòi buộc một sự hoạt động tích cực.
Tôi có đi quá nhanh từ lời loan báo lớn lao của Gioan Tẩy giả “tất cả mọi người sẽ xem thấy ơn cứu độ” đến những lo toan cá nhân nhỏ nhặt hay không? Chúng không nhỏ nhặt đâu, những cái nhìn rộng lớn trên thế giới không được làm cho chúng ta quên đi khu vườn của chúng ta. Trả lời cho một lãnh chúa người Tây Ban Nha, thánh Pierre ở Alcantara nói: “Ông hãy tỏ ra có tấm lòng tốt, thì đó đã là một phần của thế giới sẽ trở nên tốt đẹp”. Nói với Chúa trong mùa vọng: “Hãy đến cứu độ tất cả chúng con” sẽ là một lời nguyện của kẻ mơ mộng nếu lời nguyện đó không hướng chúng ta về điều phải được cứu độ nơi mỗi người trong chúng ta.
65. Hãy dọn đường cho Chúa.
Người ta kể lại rằng, một khoa học gia và cũng là họa sĩ nổi danh Leonardo da Vinci vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly, bức tranh được rất nhiều người khen ngợi cho đến ngày hôm nay. Ông có một tranh chấp mạnh mẽ với người láng giềng, tâm tình thù hận trong tâm hồn không cho phép ông vẽ một chân dung nhân từ dịu dàng của Chúa Giêsu. Ngồi trong phòng vẽ hàng giờ, nhưng Leonardo da Vinci không thể nào tập trung tinh thần để vẽ chân dung. Cuối cùng, ông quyết định đi tìm để làm hòa với người đang có tranh chấp, rồi với tâm hồn an bình thư thái, ông đã vẽ được dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly, và dung mạo của Chúa Giêsu do ông vẽ ra đó thể hiện tuyệt vời đặc sắc tinh thần của Chúa Giêsu mà cho đến ngày hôm nay chưa có hay ít có họa sĩ nào theo kịp.
Hơn Leonardo da Vinci, mỗi người chúng ta được mời gọi không phải chỉ vẽ chân dung Chúa Giêsu trên trang giấy trong bức họa mà thể hiện chính Chúa Giêsu, trở thành một Chúa Giêsu Kitô thứ hai. Chúng ta không thể nào thành công làm công việc này, nếu tâm hồn chúng ta còn tích chứa những tật xấu, những tội lỗi, những tâm tình thù hận, ganh tị với anh chị em. Mỗi người chúng ta cần thực hiện điều mà thánh Phaolô tông đồ gọi là lớn lên trong đức bác ái: “Lòng bác ái của anh em càng ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô ngự đến”. Đây có thể nói là mục tiêu chính của Mùa vọng chúng ta đang cử hành, mùa chuẩn bị tâm hồn của chúng ta hay đúng hơn tẩy sạch tâm hồn chúng ta khỏi những gì là tiêu cực xấu xa, nghịch lại sự thật của Chúa, để chúng ta có thể không phải là họa lại mà là trở thành chính Chúa Giêsu, đón nhận hoàn toàn ân sủng cứu rỗi của Ngài. Đây cũng là điều mà Gioan tiền hô trong bài Phúc âm hôm nay lớn tiếng nhắc lại cho mọi thành phần dân Do thái thời Ngài đang bị cám dỗ bỏ quên Thiên Chúa, hoặc làm méo mó dung mạo Thiên Chúa mà họ đã được mời gọi làm chứng giữa muôn dân. Bí quyết đó là việc ăn năn thống hối, thay đổi nội tâm đã được Gioan rao giảng. Đón tiếp một vị khách phàm trần, người ta chỉ cần chưng diện treo hoa đèn, biểu ngữ, chào đón, chúc tụng và hô to những khẩu hiệu ngoài môi miệng cho qua lượt, nhưng để đón Chúa đến và họa lại chân dung của Chúa trong chính đời sống của mình thì con người phải thay đổi thực sự tâm hồn, phải thực hiện cuộc canh tân thay đổi nội tâm khỏi những tâm tình xấu xa tội lỗi.
Ước chi trong Mùa vọng này giúp chúng ta lắng nghe lời mời gọi của Gioan tẩy giả và nhất là lời mời gọi của chính Chúa đang đứng ngoài gõ cửa chờ ta để trở nên hiện ảnh, hiện thân của Chúa Giêsu giữa anh chị em, làm vinh danh Thiên Chúa và cũng vừa xây dựng được một xã hội tốt đẹp xứng đáng với con người mỗi ngày một hơn.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết hoán cải, canh tân đời sống trở về với Chúa mỗi ngày một nhiều hơn, thiết thực hơn. Amen.
66. Tiếng kêu trong sa mạc---‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một mẩu chuyện của người Phi Châu kể lại rằng: Một người Ả Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát từng giờ lâu. Có người hỏi tại sao làm thế. Anh ta giải thích như sau: “Tôi nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được làm một ngôi vườn xinh tươi”.
Sa mạc mong mỏi được trở thành ngôi vườn, cũng vậy, tâm hồn con người luôn hướng tới về điều thiện. Khoảng cách giữa sa mạc và ngôi vườn xinh tươi đó là nước non, điều kiện thời tiết và nhất là công lao của con người. Không có sự chăm sóc của con người, sa mạc vẫn tiếp tục là bãi cát khô cằn. Cõi lòng con người cũng sẽ mãi mãi là một sa mạc cằn cỗi nếu có không được vun xới và tưới bằng cố gắng, phấn đấu, hy sinh và tình yêu. Phải tốn biết bao là kiên nhẫn, biết bao chống đỡ, biết bao cương nghị, biết bao mồ hôi… để biến sa mạc của tâm hồn thành một khu vườn tươi tốt… Sa mạc tâm hồn của chúng ta sẽ khóc mãi nếu chúng ta không ra tay cày xới và vun trồng mỗi ngày.
Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta hãy cày xới và vun trồng cho sa mạc tâm hồn chúng ta nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế: “Có tiếng kêu trong sa mạc: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi”. Đó là tiếng kêu của Gioan Tiền Hô. Là tiếng kêu trong sa mạc, Gioan không thể vắng bóng trong Mùa Vọng – Giáng Sinh, vì đời sống của Gioan đã gắn liền với đời sống của Chúa Cứu Thế như “tiếng kêu” gắn liền với Đấng là “Lời của Thiên Chúa”. Đàng khác, đời sống của vị Tiền Hô chỉ có lý do khi có Đấng Cứu Thế xuất hiện phía sau; và đời sống của vị Tẩy Giả làm phép rửa sám hối chỉ có ý nghĩa khi có Chúa Giêsu, Đấng thiết lập Bí tích Thánh Tẩy để tha tội.
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã làm xuất phát những tiếng kêu qua các Ngôn Sứ trong Cựu Ước để tiên báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến. Là Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước, tiếng kêu của Gioan Tiền Hô đã đúc kết, tổng hợp mọi tiếng kêu của các Ngôn Sứ khác, như tiếng kêu của Isaia, tiếng kêu của Êlia, tiếng kêu của Giêrêmia, của Baruc (Bđ.1). Chính vì vậy “Tiếng kêu trong sa mạc” là tên gọi của Gioan, một tên rất mông lung, có vẻ vô danh, nhưng lại rất súc tích: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lung, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.
Thưa anh chị em,
Ngày nay, khi nói “Tiếng kêu trong sa mạc”, người ta thường hiểu là tiếng kêu vô ích, lời hô hào không được hưởng ứng, không được đón nghe. Nhưng tiếng Gioan đã kêu lên trong sa mạc không phải là “tiếng kêu trong sa mạc” theo nghĩa đó. Trái lại, tiếng kêu ấy đã lôi kéo đủ thứ mọi hạng người khắp xứ Palestine đến với Gioan trên bờ sông Giođan. Tiếng ấy mặc dù kêu lên trong sa mạc nhưng đã vang vọng tới tận thủ đô Giêrusalem đến nỗi một phái đoàn chính thức đã được các vị lãnh đạo tôn giáo sai đến để chất vấn Gioan tận nơi sa mạc.
Tiếng kêu của Gioan không vô ích và cũng không lỗi thời, vì ngày nay, sau gần 2000 năm, tiếng kêu ấy vẫn còn tác động mạnh mẽ trong lòng nhiều người. Những điều xưa kia Gioan nói với dân chúng, hiện nay vẫn còn hợp thời, vẫn còn có giá trị. Và trong thực tế, ở khắp nơi trên thế giới, bao lâu hỗn loạn, tranh chấp, hận thù vẫn còn thì công cuộc dọn đường cho Chúa đến vẫn còn cấp bách. Như vậy, tiếng kêu của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết để con người thay đổi đời sống cho tốt đẹp hơn.
Mỗi Mùa Vọng, tiếng kêu của Gioan trong sa mạc lại lay động, thức tỉnh chúng ta, đặt chúng ta đối diện trước một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã hội, để chúng ta xét mình, kiểm điểm nếp sống, để cải thiện đời sống mỗi ngày thêm trọn hảo, để dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa Cứu Thế ngự đến. Tuy nhiên, đối với một số người, tiếng kêu của Gioan đã trở thành thực sự là “tiếng kêu trong sa mạc”, không được họ lắng nghe và hưởng ứng bởi vì trong lòng họ là những đô thị ồn ào, nhộn nhịp, hỗn độn, ô nhiễm…, tâm hồn họ thiếu sự thanh vắng, cô tịch của sa mạc khiến họ không nghe được tiếng kêu của Gioan: Hãy dọn đường cho Chúa. Tiếng kêu của Gioan không gặp được một âm vang nào trong lòng họ, hoặc có đi nữa thì cũng chỉ là nhất thời và hời hợt như “hạt giống rơi vào bụi gai” mà Chúa đã giải thích là “những hạng người nghe lời Chúa, rồi bị những mối bồn chồn lo lắng, đam mê khoái lạc trên đời làm nghẽn đi mà không sinh hoa kết quả được” (Mt 13,18-23).
Vì vậy, muốn nghe được tiếng kêu của Gioan Tiền Hô thì phải tạo cho lòng mình trở nên sa mạc. Sa mạc là nơi thuận tiện cho cuộc hẹn hò gặp gỡ thân tình để nghe rõ tiếng Chúa hơn và để nhận lãnh sứ mạng của mình. Như ngôn sứ Hôsê đã viết: “Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israen vào sa mạc, vào nơi thanh vắng, để ở đó, lòng kề lòng, Ta sẽ tâm tình với nó” (Hs 2,16). Ở sa mạc Sahara ngày nay, người ta vẫn còn thấy có những cộng đoàn tu sĩ, như các Tiểu đệ, Tiểu muội Chúa Giêsu, theo tinh thần Cha Charles de Foucauld, các tu sĩ ấy dù ở đâu cũng phải qua một thời gian tu luyện sống với Chúa, lắng nghe Chúa gọi giữa sa mạc, giữa cảnh cô tịch, nghèo khó, để sau khi đã có kinh nghiệm cụ thể về sa mạc, các tu sĩ ấy có thể tạo cho lòng mình trở nên sa mạc trong khi dấn thân phục vụ con người ở giữa lòng đời. Đó chính là công việc vun xới cho sa mạc nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta không đi vào sa mạc như các tu sĩ Tiểu đệ, Tiểu muội của Chúa Giêsu được, nhưng chúng ta cẩn phải tạo cho lòng mình trở thành một sa mạc, một nơi trầm lặng, yên tĩnh, bình an, để dễ dàng lắng nghe tiếng Chúa mời gọi giữa cuộc sống ồn ào, nhộn nhịp, bề bộn, căng thẳng nầy. Có nghe được tiếng Chúa nói qua tiếng kêu của Gioan Tiền Hô hôm nay, chúng ta mới bắt tay vào việc dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa ngự đến: Phải sửa lại đường xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay thẳng những lối quanh co theo sở thích trái chướng của mình, lúc thế này khi thế khác… Phải trung thành trước sau như một, thi hành mọi đòi hỏi của Tin Mừng. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa, với tha nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình Chúa, tình người chan hòa đến với hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần trở thành huynh đệ hơn, tốt đẹp hơn, sẵn sàng cho Chúa đến, và cuối cùng để đón nhận ơn cứu độ từ chính Đấng Cứu Độ như Gioan loan báo: “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.
67. Người phu quét lá – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong tác phẩm “Người phu quét lá”, ĐGM Nguyễn Khảm đã ví von, đời Linh mục như người phu quét lá: “Người phu quét lá bên đường. Quét cả nắng chiều quét cả mùa thu” (Ns. Trịnh Công Sơn).
Người phu quét lá, hàng ngày dù mưa dầm hay nắng hạn, vẫn luôn có mặt từ sáng sớm tinh sương trên mọi nẻo đường thành phố để dọn đường sạch sẽ cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Linh mục, mỗi ngày cũng dọn đường tâm hồn cho con người đi đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người.
Trong ý nghĩa đó, có thể nói Gioan Tiền Hô cũng là “Người phu quét lá” dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.
Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người. Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa, Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế: ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu sứ mạng mới bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà Cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo hãy san cho thẳng. Những gì cao cao, cần bạt xuống thấp. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chinh là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Tâm hồn Mẹ bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng, tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường, thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Cả cuộc đời Gioan chỉ một tâm nguyện là làm “Người phu quét lá” dọn lòng người khác cho Chúa đến. Mỗi người chúng ta cũng theo mẫu gương của Gioan trở thành “Người phu quét lá” cho chính tâm hồn mình, cho gia đình mình và rồi cho người khác nữa. Dọn đường cũng chính là lên đường theo Chúa Cứu Thế, cho nên dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.
68. Sứ giả của Chúa Kitô.
Gioan là vị tiên tri được linh hứng đầu tiên đến đập tan sự yên lặng của bao thế kỷ trôi qua từ đời tiên tri Malaki. Sự quan trọng của chức vụ của ông được Luca nêu ra bằng cách liệt kê những chi tiết xác thực định vị thời kỳ của ông. Khi nói đến tên những nhà cầm quyền chính trị và tôn giáo, ông đã cho biết trong thời ấy có sáu cuộc bổ nhiệm, để đưa dần tới tính cách phổ thông của Tin Mừng. Với thiên tài của một sử gia, Luca đã liên kết câu chuyện ông kể với các biến cố của thế giới. Trước hết, ông phải nêu tên vị hoàng đế đang trị vì đế quốc La mã là Xêda Tibêriô, rồi ông kể đến Philatô, tổng đốc xứ Giuđê, người đã mang một vết nhơ muôn đời là kẻ lên án tử cho Chúa Giêsu, Hêrôđê Antipa, con người quyến dụ và sát nhân, con của Hêrôđê đại vương, được bổ nhiệm cai trị xứ Galilê, Philipphê và Lyxania làm tổng đốc các xứ lân cận.
Về phương diện giáo quyền, ông nhắc tới Anna và Caipha. Chưa bao giờ có hai thượng tế cùng một lúc. Vậy Luca có ý gì khi nêu ra hai tên? Thượng tế là người đứng đầu Do thái cả về phương diện tôn giáo lẫn chính trị. Ngày xưa chức thượng tế được cha truyền con nối và mãn đại, nhưng khi người La mã đến, chức vị đó làm đầu mối cho đủ thứ gian lận. Kết quả là từ khoảng năm 37TC-26SC đã có đến hai mươi tám thầy thượng tế khác nhau. Anna hành chức thực thụ từ năm 7TC-14SC. Cho nên khi ấy ông đã mãn nhiệm, nhưng kế vị ông là bốn người con trai và Caipha là con rể ông. Do đó, tuy Caipha là thượng phẩm đương chức, nhưng thực quyền vẫn ở trong tay Anna. Vì thế, sau khi Chúa Giêsu bị bắt đã phải điệu đến chỗ ông trước tiên, dẫu lúc đó ông không còn tước vị gì. Luca đem ghép tên ông vào với Caipha để muốn nói lên tình trạng “bất thường” về tôn giáo thời ấy.
Một bản danh sách của những lãnh tụ như thế cho ta thấy sự thoái hoá tột bậc về đạo đức lẫn tôn giáo lúc bấy giờ và sự cần thiết phải có một người kêu gọi Israel trở lại thờ phượng và phụng sự Thiên Chúa.
Vị sứ giả ấy đã đến trong con người của Gioan, con Giacaria. Sau một thời gian dài tôi luyện bằng kỷ luật khắc khổ trong sa mạc, ông đã xuất hiện với một sứ điệp quả quyết từ Thiên Chúa, lôi cuốn quần chúng đông đảo đến thung lũng Giođan, để nghe giảng đạo và tiếp nhận phép rửa như một dấu hiệu và ấn chứng cho lòng ăn năn. Bản chất của chức vụ ông làm ứng nghiệm lời báo trước của tiên tri Isaia “Tiếng kêu trong hoang địa”, người được Thiên Chúa sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Sự chuẩn bị này có tính cách Đông phương: khi một vị vua định đi tuần tra một vùng nào trong vương quốc mình thì sai một vị quan đi trước để hô hào dân chúng sửa sang đường sá. Chỗ trũng phải lấp đầy, chỗ cao phải bạt xuống, đường quanh co phải nắn lại cho thẳng, đường gồ ghề phải sửa cho êm. Cũng thế, Gioan được coi như sứ giả của Vua, nhưng sự sửa soạn của ông nhấn mạnh là sự sửa soạn tâm hồn và đời sống. Như vậy, muốn cho người ta sẵn sàng tiếp nhận Chúa Kitô, những trở ngại đạo đức cần phải dẹp sạch, phải sám hối ăn năn và từ bỏ tội lỗi. Luca đã kết thúc câu trích Isaia rằng: “Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa”, để phù hợp với tính cách phổ thông của Tin Mừng.
Vicka là một trong sáu thị nhân tại Mễ du, được chính Đức Mẹ dạy dỗ, khi có người hỏi: “Theo cô biết, ăn năn trở lại là thế nào?”.
- Ăn năn hối cải là ý thức rằng chúng ta đang sống trước mặt Thiên Chúa, đêm cũng như ngày, và chúng ta chịu trách nhiệm về tất cả những gì thuộc bản thân ta, cũng như những gì thuộc quyền sở hữu của ta. Mẹ đã đến kêu gọi mọi người thế hãy nghe theo các sứ điệp của Mẹ mà ăn năn hối cải. Sống trong tội quả là điều nguy hiểm! Những tai hoạ ghê gớm đang chờ đợi những kẻ không quay trở về cùng Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho ta, dầu tội lỗi đến như thế nào đi nữa. Không có tội nào quá lớn đến nỗi Thiên Chúa không tha thứ được. Tình yêu Thiên Chúa luôn mãi lớn hơn tội lỗi chúng ta. Tất cả những gì ta có thể làm là nài xin. Đức Mẹ đến để bảo ta nài xin Chúa tha thứ ngay bây giờ. Mẹ nhắc lại cho ta rằng Thiên Chúa không bao giờ từ chối tha thứ cho bất cứ ai xin Người.
- Và khi được hỏi về mức độ khẩn trương phải ăn năn, Vicka đáp: “Đức Mẹ phải khóc vì những đứa con của mình không biết Thiên Chúa, hoặc quay lưng với Thiên Chúa, hoặc bất tuân các giới răn của Người.
- Rồi sau khi được Đức Mẹ dắt đi tham quan thiên đàng, luyện ngục và hoả ngục, cùng với Jakov, trong một cuộc phỏng vấn, có người hỏi: “Từ khi thấy hoả ngục lời cầu nguyện của cô có khác gì không?” Vicka đáp ngay: “Ồ! Dĩ nhiên là có. Bây giờ tôi cầu nguyện cho kẻ tội lỗi ăn năn hối cải. Tôi biết cái gì đang chờ đợi họ, nếu họ từ chối quay trở về.
- Vậy điều gì xảy ra đối với kẻ phạm tội?
- Hết thảy chúng ta đều phạm tội. Đó là lý do Đức Mẹ kêu gọi ta làm hoà lại với Thiên Chúa và với anh em ta, chị em ta, ngay từ bây giờ. Ta càng cứng đầu chống nghịch đường lối của Thiên Chúa, thì ta càng rời xa Nước Thiên Chúa. Và khi được hỏi: “Làm sao để chúng ta quay trở lại?”. Vicka cho biết: “Đức Mẹ bảo rằng bao lâu còn sống trên trần, ta còn có thể trở lại với Thiên Chúa mọi giờ mọi phút, bằng cách ăn năn sám hối. Và cũng vì thế, ăn năn hối cải không phải là một việc nhất thời, làm một lần là xong. Đó là con đường xuyên suốt đời người, và lúc đầu, người ta có thể gặp nhiều khó khăn, vì satan rất mạnh, nó tìm mọi cách để cản trở việc ăn năn hối cải của ta. Càng gặp khó khăn ta càng phải cầu nguyện. Ăn năn hối cải không thể là chuyện trên đầu môi chót lưỡi, song bằng hành động, bằng tình yêu, một công việc kiên trì mỗi ngày”.
- Còn Jakov, khi được hỏi ăn năn hối cải có ý nghĩa thế nào đối với cậu? Cậu trả lời: “Khi em còn nhỏ, em chỉ biết sơ sơ về Thiên Chúa. Cũng có đi dự lễ, đi nhà thờ, nhưng không bao giờ thực sự cảm nghiệm được Thiên Chúa. Đi là chỉ do sự thúc đẩy. Cần nhất là Thiên Chúa phải sống trong ta. Em không cảm nghiệm được điều ấy cho đến khi các cuộc hiện ra xảy ra. Em có thể nói ăn năn trở lại là Thiên Chúa sống trong em và em nhận biết sự ấy”.
- Rồi khi được hỏi: “Làm thế nào để cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong đời sống? Jakov được Đức Mẹ dạy, trả lời: nhờ cầu nguyện. Và như vậy, phương thế để ăn năn trở lại đó là: dành thời giờ để cầu nguyện.
Bạn đã sám hối như thế nào? Và quyết định mỗi ngày dành ra bao nhiêu thời giờ để cầu nguyện?
69. Sám hối và cải thiện đời sống – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Thiên Chúa nói với Gioan, mời gọi ông cộng tác với Ngài vào kế hoạch cứu độ của Ngài. Thế còn chúng ta? Ngài có mời gọi ta làm gì không? Ta có nghe thấy Ngài mời gọi ta làm gì không? Nếu không thì tại ta hay tại Ngài?
2. Gioan mời gọi mọi người sám hối. Sám hối là gì? Sám hối chỉ hoàn toàn mang tính cá nhân hay còn mang tính tập thể nữa?
Suy tư gợi ý:
1. Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa kêu gọi
Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa kêu gọi một cách rất đặc biệt. Trước khi ông sinh ra, đã có những biến cố kỳ lạ liên quan đến ông. Cha ông đã gặp thiên sứ hiện ra trong Đền Thờ báo tin việc ra đời của ông, rồi cha ông bị câm vì cứng tin; mẹ ông mang thai ông trong tuổi già; và cha ông chỉ hết câm khi đặt tên cho ông (x. Lc 1,5-25.57-80). Khi ông đến tuổi trưởng thành, Kinh Thánh viết về ông: “Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa”. Và ông đã đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa ra đi, rao giảng về Nước Trời, chuẩn bị hay dọn đường cho Đức Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại, đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi một cách hết sức nhiệt thành, đến nỗi đã chết một cách rất anh hùng vì ơn gọi của mình (x. Mt 14,3-12; Mc 6,17-29).
2. Thiên Chúa cũng kêu gọi chúng ta
Ơn gọi của Gioan thì như thế. Còn ơn gọi của chúng ta thì sao? Để cứu rỗi nhân loại và làm cho con người được hạnh phúc, để thiết lập Nước Trời, Thiên Chúa cần rất nhiều người cộng tác. Ai cộng tác thì Ngài cũng đều kêu gọi và thánh hóa. Nhưng Ngài không kêu gọi một cách minh nhiên, rõ rệt bằng lời nói theo kiểu một người cao cấp ngoài đời mời gọi một ai đó cộng tác với mình. Người được Ngài mời gọi, ban đầu, thường cảm thấy một cách mơ hồ có một khuynh hướng hướng về Ngài, về công việc của Ngài. Khuynh hướng ấy ngày càng trở nên mạnh mẽ và rõ nét cho đến một hôm nó trở thành một lời mời gọi rõ rệt từ bên trong. Khuynh hướng này có trở nên mạnh mẽ và rõ rệt hay không, điều ấy còn tùy thuộc vào lòng nhiệt thành và quảng đại của ta trong những lần Chúa mời gọi ta thực hiện những công việc nho nhỏ trong những tình huống xảy ra thường ngày. Người không làm theo tiếng lương tâm, không đáp lại tiếng Ngài trong những trường hợp cụ thể của đời sống, sẽ không cảm thấy Ngài gọi mình trong những công việc lớn hơn.
Rất nhiều người không được mời gọi cộng tác với Ngài trong công việc của Ngài chỉ vì họ không nghe được tiếng Ngài. Sở dĩ ta không nghe được tiếng Ngài chính vì ta chẳng mấy khi chịu im lặng để lắng nghe tiếng Ngài vang vọng trong thâm tâm ta. Thực ra Ngài vẫn nói, vẫn kêu gọi mọi người, nhưng nhiều người chẳng thèm nghe vì còn bận quan tâm đến những chuyện của trần gian. Nhiều lần như thế, tiếng Ngài ở trong ta ngày càng yếu ớt và đến một lúc nào đó tiếng Ngài như tắt hẳn. Như vậy, không phải Ngài không nói mà vì lỗ tai tâm linh của ta đã bị điếc, không còn khả năng nghe thấy tiếng Ngài nữa. Và ta bị điếc cũng là tại ta không muốn nghe, hay không muốn đáp lại lời mời gọi của Ngài.
3. Gioan Tẩy Giả kêu gọi sám hối
Trước khi Đức Giêsu đến với trần gian, Thiên Chúa kêu gọi Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Ngài, bằng cách mời gọi mọi người sám hối, và biểu lộ lòng sám hối bằng một nghi thức bên ngoài là rửa tội. Sám hối là nhận ra những tội lỗi, khuyết tật của mình để quyết tâm sửa đổi hầu trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Nếu sám hối không dẫn đến tình trạng tốt đẹp hơn, thì sám hối đó chỉ là sám hối hời hợt, ngoài miệng… Nếu thực hiện nghi thức sám hối ở bên ngoài (như rửa tội, xưng tội…) mà trong lòng không thật tâm sám hối thì đó chỉ là việc làm lấy lệ hay giả dối.
Sám hối để đón Chúa đến không chỉ mang tính cá nhân mà còn phải mang tính xã hội nữa. Nghĩa là người thật sự sám hối không chỉ làm cho bản thân mình, tâm hồn mình nên tốt đẹp hơn, mà còn phải tìm cách làm cho tập thể, cộng đoàn hay xã hội của mình nên tốt đẹp nữa.
Việc sám hối ấy căn bản là ở trong nội tâm. Và nếu đó là sám hối thật sự thì nó phải hướng đến hành động, hay tất yếu dẫn đến hành động thật sự. Ngôn sứ Isaia mô tả sự sám hối ấy bằng những hình tượng khác nhau: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng”.
4. Sám hối một cách cụ thể là gì?
Điều quan trọng để đón Chúa đến là phải có tinh thần sám hối. Nhưng tinh thần sám hối đích thực thì luôn phải được thể hiện thành hành động, nghĩa là nó phải dẫn đến sự chừa cải, tu sửa, cải thiện… Nói khác đi, có gì sai thì phải sửa cho đúng, xấu thì sửa cho tốt, cho đẹp, cong thì thành thẳng, gồ ghề thành phẳng, cao thì bạt xuống, thấp phải đôn lên… Việc sám hối và tu sửa phải được thực hiện không chỉ nơi cá nhân mà còn trong giáo hội và xã hội.
- nơi cá nhân: cá nhân nào cũng đều có những tật xấu, khuyết điểm, sự vị kỷ, tính kiêu căng, tham lam, đố kỵ, ghen ghét, lười biếng, hèn nhát, v.v…
- trong giáo hội và xã hội: giáo hội hay xã hội nào cũng đều có bất công, những cơ chế phát sinh bất công, những luật lệ phi lý, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ nạn… tất cả đều làm cho con người trong tập thể đau khổ, trì trệ, không phát triển, v.v…
Hiện nay, trong đời sống tâm linh và tu đức, rất nhiều kitô hữu chỉ nghĩ tới việc nên thánh cá nhân, sự cứu rỗi cá nhân, mà quên đi chiều kích giáo hội và xã hội của ơn cứu rỗi và sự nên thánh. Họ quan niệm việc nên thánh hay cứu rỗi của họ có thể thực hiện một mình, độc lập với những người chung quanh… Nghĩa là họ có thể nên thánh, được cứu rỗi mà không cần nghĩ gì đến xã hội và giáo hội, bất chấp đến những bất công, trì trệ hay những thành quả tốt đẹp của giáo hội và xã hội. Họ cho rằng họ có thể nên thánh và được cứu rỗi mà không cần nghĩ đến những người chung quanh xem họ có nhu cầu gì, đau khổ hay hạnh phúc ra sao.
Thiết tưởng tinh thần cốt yếu của Kitô giáo là tình yêu, một tình yêu trải rộng đến mọi người không phân biệt bạn thù, giàu nghèo, giai cấp, v.v… Tiêu chuẩn cuối cùng để Thiên Chúa xét đoán sự công chính của mỗi người là tình yêu họ dành cho tha nhân (x. Mt 25,31-46). Nên sự sám hối cũng như sự tu sửa của người kitô hữu để đón Chúa đến phải chủ yếu nhắm đến tình yêu, đến sự quan tâm của mình đối với tha nhân, đối với giáo hội, xã hội, quê hương, đất nước và toàn nhân loại.
Trong chiều hướng đó, câu “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” cần phải được hiểu không chỉ áp dụng cho bản thân mỗi cá nhân mà còn cho cả giáo hội và xã hội nữa.
5. Ý thức sám hối mang tính giáo hội và xã hội
Tất cả mọi kitô hữu đều có trách nhiệm biến cải giáo hội và xã hội nên tốt hơn, nghĩa là phải sửa sai, phải thay đổi những gì chưa đúng, hoặc có hại trong giáo hội và xã hội. Trong dân gian có câu: “Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh”, hay “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” (kẻ kém cỏi nhất trong đất nước cũng có trách nhiệm về sự thịnh suy của đất nước). Cũng thế, mọi kitô hữu dù là giáo dân hay linh mục tu sĩ, là người thất học hay trí thức đều có trách nhiệm đối với sự phát triển hay suy thoái của giáo hội và xã hội. Những kitô hữu tỏ ra vô tâm, vô tình, vô trách nhiệm đối với tha nhân, với xã hội, đất nước, thế giới, với giáo hội địa phương, cũng như với giáo hội hoàn vũ, cần phải suy xét lại thái độ vô tình ấy của mình. Rất có thể ta chưa phải là kitô hữu đích thực, chưa có đủ tình yêu đối với tha nhân, một phẩm tính căn bản của người kitô hữu.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin Cha giúp con thực hiện lời kêu gọi sám hối của Gioan Tẩy Giả, cụ thể là mở rộng tấm lòng hẹp hòi của con ra. Xin cho con biết ôm cả thế giới, cả giáo hội, cả quê hương vào lòng, để con biết quan tâm đến những vấn đề rộng lớn, biết ý thức chia sẻ trách nhiệm chung với mọi người trước lịch sử của đất nước, của giáo hội và thế giới. Xin đừng để con quá hững hờ, làm ngơ hay dửng dưng vô trách nhiệm trước những biến cố đau thương hay sự hưng thịnh của đất nước, của giáo hội và thế giới.
70. Chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Nếu bây giờ đi thăm một thành phố lớn, chúng ta sẽ thấy những gian hàng thật lộng lẫy, những cây thông, những ông già Noel và những ánh đèn màu nhấp nháy. Nếu hỏi tại sao, lập tức chúng ta sẽ ghi nhận được câu trả lời:
- Lễ Giáng sinh đã gần tới.
Lễ Giáng sinh đối với nhiều người là một dịp để mua sắm, để tặng quà và để ăn nhậu. Họ tích cực chuẩn bị cho ngày lễ lới, nhưng chỉ là những sự chuẩn bị bên ngoài và mang tính cách phù phiếm. Đối với chúng ta thì khác. Lễ Giáng sinh là ngày chúng ta mừng kính biến cố trọng đại nhất của lịch sử: biến cố con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, Ngài sinh ra trong yếu đuối như một hài nhi bé bỏng, Ngài sinh ra trong nghèo túng nơi máng cỏ Bêlem.
Là một biến cố trọng đại nhất của lịch sử nhân loại, nên chúng ta không thể không chuẩn bị. Nhưng việc chuẩn bị cần thiết và quan trọng nhất chính là việc chuẩn bị cõi lòng của mình: Hãy gột rửa tâm tư, hãy thanh tẩy con tim. Thế nhưng, nhiều khi chúng ta lại quên lãng sự cần thiết và quan trọng ấy.
Chúng ta chống lại khuynh hướng tục hóa những sự kiện linh thiêng. Sự tục hóa này mỗi ngày một lan rộng trong thế giới hôm nay, nhưng lại chạy theo thời trang, về phe với đám đông để không còn nhận ra sự thật. Chúng ta hô hào trở về nguồn, nhưng lại không hiều trờ về nguồn là như thế nào. Đoạn Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Ông vào sa mạc để sống cảnh nghèo túng và khắc khổ: ăn châu chấu với mật ong rừng. Trong chốn hoang vu ấy, ông đã chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế. Lời ông nói thật thẳng thắn và cứng rắn, không đưa đẩy theo kiểu ngoại giao:
- Hỡi nòi rắn độc, ai sẽ cứu các ngươi khỏi cơn thịnh nộ sắp tới. Hãy đâm bông kết trái theo như lòng thống hối. Cái rìu đã đặt dưới gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Dân chúng ta thắc mắc về những lời cảnh cáo ấy:
- Vậy chúng tôi phải làm gì?
Và Gioan đã không ngần ngại trả lời:
- Ai có hai áo, hãy chia sẻ cho người không có. Ai có của ăn cũng hãy làm như thế.
Với bọn biệt phái và lính tráng, ông đòi hỏi nơi họ sự thành thật và công bằng. Ông lặp lại lời tiên tri Isaia:
- Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Để ngày Chúa đến đem lại niềm vui mừng và hy vọng, mỗi người chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn, cụ thể là hãy ăn năn sám hối, chạy đến nơi tòa cáo giải và xưng thú mọi tội lỗi để được ơn tha thứ.
Nếu chúng ta khô khan nguội lãnh, hãy xin Chúa giúp chúng ta cảm nghiệm được tình thương Chúa đã dành cho chúng ta qua màu nhiệm Giáng sinh, để rồi chúng ta cũng sẽ quì gối thờ lạy Hài nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem như mẹ Maria và thánh Giuse, như các mục đồng và ba nhà đạo sĩ phương đông. Nếu đầu óc chúng ta còn chất chứa nhiều hận thù, thiên kiến và bè phái, hãy xin Chúa giúp chúng ta biết yêu thương và trở nên anh em của tất cả mọi người. Nếu chúng ta còn nóng nảy, tức tối và giận hờn, hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên hiền dịu và khiên nhường, như chính Chúa đã xác quyết:
- Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Rồi trong những sắm sửa cho ngày lễ Giáng sinh, hãy nghĩ đến những người nghèo khổ, bằng cách dành một ngân khoản nào đó để làm phúc bố thí và giúp đỡ họ, bởi vì Đức Kitô đang ở trong họ, như lời Ngài đã phán:
- Sự gì các con làm cho một kẻ bé mọn nhất là các con đã làm cho chính Ta vậy.
Có chuẩn bị như vậy, thì ngày lễ Giáng sinh mới đem lại cho chúng ta niềm an bình và hanh phúc. Niềm an bình và hạnh phúc ấy các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
71. Lời mời gọi.
Đôi khi chúng ta thinh lặng, trong lúc lẽ ra phải nói, vì chúng ta cho là tôn trọng kẻ khác, không muốn làm cho họ tổn thương và tức giận. Ta hãy nhìn nhận điều này: Ngày nay thật là hiếm hoi những tiếng nói mạnh mẽ, dứt khoát, thúc bách và có uy tín kêu gọi vươn lên; và không những vươn lên mà còn hoán cải nữa.
Ta hiểu rằng bản thân chúng ta có những lý do chính đáng để đừng lên tiếng lớn quá và không trách móc kẻ khác trước khi xem xét đến bản thân mình. Nhưng không được nên ngăn cản Thiên Chúa lên tiếng. Vậy ta hãy lắng nghe Gioan tẩy giả nói nhân danh Ngài và ta hãy tự nhủ rằng những lời của ông nói với mỗi người chúng ta, trước khi nói với những người lân cận ta. Hãy để những người lân cận ta lo công việc họ, còn ta hãy lo công việc mình.
“Hãy dọn đường cho Chúa, hãy san bằng lối đi của Ngài. Hãy hoán cải, hãy vứt đi những gì làm chậm bước tiến của bạn hướng về Chúa. Nếu bạn đã lầm đường, thì hãy trở lui và đi vào con đường đưa tới cõi sống”. Đó là những tiếng kêu của Gioan tẩy giả, những tiếng kêu của chính Thiên Chúa. Ta đừng hiểu chúng như những lời kết án nhưng như những lời mời gọi lớn lên. Ta đừng nghĩ rằng những tiếng gọi này được ngỏ với chúng ta để khiến chúng ta u buồn; nhưng chính là để chúng ta được vui mừng mà vị ngôn sứ đã lên tiếng.
Chúng ta đừng để cho mình bị lừa dối. Ta đừng tưởng rằng, bất chấp những gì người ta nói, ta vẫn có thể lớn lên mà không cần cố gắng, ta có thể đạt được những đỉnh cao mà không phải hụt hơi, ta có thể tự chủ và thực hiện những điều lớn lao mà không trầy da tróc vẩy.
Muốn đến với Thiên Chúa, bao giờ cũng phải đấu tranh, hoán cải, liên lỉ tự điều chỉnh và dứt khoát nhắm vào điều chính yếu, không để cho mình bị sao lãng bởi những gì không có giá trị và giả dối.
Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Philipphê: “Tôi xin anh em hãy nhận định những gì là quan trọng nhất”. Lời khuyên này thật chí lý vào thời đại ấy, và có lẽ còn thích hợp hơn nữa cho ngày hôm nay khi chúng ta rất thường xuyên và rất dễ dàng bỏ qua những gì thật sự quan trọng và quá chú trọng đến những gì ít hoặc không quan trọng chút nào cả.
Điều quan trọng là hướng về Thiên Chúa, là vì Ngài mà can đảm xua đuổi sự dữ và thi hành điều thiện. Điều quan trọng là dành cho tiền bạc, các thú vui dễ dàng và gây thất vọng, quyền bính và những thứ phô trương bên ngoài vị trí thích hợp cho chúng: vị trí phụ thuộc hoặc rốt hết, hoặc không có chỗ nào hết.
“Hãy san bằng… hãy chỉnh đốn… hãy hoán cải…” không phải dễ đâu! Ta có lý mà lặp lại rằng: Đáp “xin vâng” trước những tiếng gọi của Chúa thật là cam go. Nhưng ta cũng phải nhắc đi nhắc lại rằng lời xin vâng này là nguồn mạch phát sinh niềm vui. Tôi rất thích câu kết thúc đoạn sách Ngôn sứ Baruc mà chúng ta vừa nghe: “Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israel đi trong niềm vui, dưới ánh sáng vinh quang của Ngài”.
Việc bước đi hướng về Chúa dù có lúc khó khăn, thậm chí đau khổ nữa, nhưng đó là một cuộc mạo hiểm vui tươi. Làm sao có thể khác được! Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta là Thiên Chúa của niềm vui. Thiên Chúa Đấng đang đến với chúng ta, là Chúa của niềm hoan lạc. Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta gặp được sau những cuộc hoán cải lớn nhỏ của chúng ta, là Thiên Chúa của niềm vui. Vậy khi để cho Ngài lôi cuốn, khi tìm cách đến với Ngài và chuẩn bị đón tiếp Ngài, ta chỉ có thể bước đi trong niềm vui mà thôi.
Niềm vui được lớn lên, niềm vui được thoát khỏi sự dữ, niềm vui được chiến thắng sự tầm thường, niềm vui được mỗi ngày trở nên con cái xứng đáng hơn của Chúa Cha, niềm vui được yêu mến đến nỗi chịu đau khổ như Chúa Giêsu, Đấng đang đến với chúng ta, đã dạy cho chúng ta.
Người ta thường nói mùa vọng là một mùa sám hối. Đúng vậy, nhưng với điều kiện là ta đừng quên rằng nó cũng là, và đặc biệt là một thời gian của niềm vui. Làm sao không vui khi chúng ta được tiếng gọi của Chúa lôi cuốn?
72. Tiếng kêu
Một khuôn mặt quen thuộc của Mùa vọng đó là khuôn mặt của thánh Gioan tiền hô. Thánh Luca trong bài Tin mừng hôm nay đã viết: “Có tiếng người kêu trong hoang địa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
Tiếng người kêu trong hoang địa ấy là của thánh Gioan tiền hô. Và con đường mà Người nhắc tới không phải là một con đường trong không gian, nhưng là con đường nội tâm của mỗi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Con Thiên Chúa làm người. Sửa đường cho Chúa đến là điều cần thiết và hợp lý. Bởi khi đón tiếp một vị khách quí, người ta thường sửa sang đường sá, quét dọn những nơi vị khách sẽ đi qua, trang trí đẹp đẽ tại những nơi vị khách sẽ đến. Làm như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách.
Thiên Chúa là một vị khách cao cả không ai sánh bằng. Người đã hạ cố đến thăm và ở lại sống với những thần dân thấp hèn của Người. Vậy mà Người chẳng được đón tiếp như Người đáng được. Thánh Gioan thánh sử đã viết: “Người đã đến nhà Người, nhưng người nhà đã không chịu đón tiếp Người”. Vì thế mà lời kêu gọi của thánh Gioan tiền hô trở thành một tiếng kêu trong sa mạc. Tiếng kêu trong sa mạc là tiếng kêu không có người nghe, là tiếng kêu vang vọng vào không trung rồi bay đi, bởi sa mạc là nơi hoang vắng, nơi không có người để tiếp nhận tiếng kêu.
Không phải chỉ dân Do thái ngày xưa không chịu đón tiếp Con Thiên Chúa làm người. Con người thời đại hôm nay cũng thế. Trong thời đại hôm nay, Lời Chúa đã được Hội thánh loan báo không phải ở trong sa mạc nhưng ở nơi đô hội, ở chốn đông người, vậy mà lời loan báo ấy cũng không khác gì tiếng kêu trong sa mạc. Có nhiều thứ sa mạc ở nơi chính cõi lòng con người hôm nay:
- Sa mạc của sự lãnh đạm, thờ ơ. Rất nhiều người đã sống như thể không có Chúa và không cần Chúa. Đối với những người này thì sống như vậy sẽ thoải mái hơn nhiều, bởi họ có thể tự do làm mọi sự theo ý mình, theo sự thúc đẩy của bản năng mà không có gì khuấy động lương tâm làm họ phải day dứt cả. Tin Chúa chỉ bận lòng thêm thôi.
- Sa mạc của sự vô cảm về mặt tâm linh và luân lý. Đối với nhiều người, Thiên Chúa của họ là cái bụng, là tiền bạc, là danh vọng, là lạc thú xác thịt. Bận tâm duy nhất của họ là làm sao kiếm cho thật nhiều tiền bằng bất cứ cách nào. Và khi đã có tiền trong tay thì họ tìm cách để hưởng thụ. Hưởng thụ trong vấn đề ăn uống. Hưởng thụ trong vấn đề nhục dục… Ngoài ra không còn gì nữa cả. Không còn niềm tin, không còn luân thường đạo lý, không còn lương thiện, không còn đạo đức, không còn nhân phẩm, không còn nhân ái, không còn vị tha, không còn công bình, không còn trung tín…
Chính vì vậy mà Lời Chúa vẫn mãi mãi chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc. Chính vì thế mà giữa Thiên Chúa và con người không có đường để đi đến với nhau. Mà nếu có thì cũng chỉ là những con đường đầy thung lũng, đầy vực thẳm, đầy núi cao không thể vượt qua được.
Điều cần suy nghĩ và tự vấn lương tâm là: ta có mặt trong số những người sống như trên không?
Thiên Chúa đang ân cần kêu gọi ta trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Chúng ta có nghe thấy tiếng Người hay không?
73. Tiếng động tĩnh lặng – Trầm Thiên Thu
Trước đây, khi làng xã có điều gì cần thông báo thì có mõ làng cầm loa đi khắp nơi để thông báo. Thời nay, xã hội văn minh hơn, người ta gọi là văn hóa thông tin, và phương tiện thông báo cũng tiện lợi và mau hơn nhiều.
Thuở “giao thời”, chuyển tiếp từ Cựu ước sang Tân ước, ngôn sứ Gioan Tẩy Giả được Thiên Chúa trao cho công việc “mõ làng” để kêu gọi người ta canh tân và chờ đón Đấng Thiên Sai. Ông có nickname là “Tiếng Kêu Trong Hoang Địa”. Tiếng kêu trong hoang địa thì hiệu quả gì chứ? Đó là dạng tiếng vang thầm lặng. Vang mà thầm lặng ư? Đúng vậy. Và tiếng kêu đó đã và đang vang đến tận cùng trái đất.
Ngôn sứ Ba-rúc kêu gọi: “Hỡi Giêrusalem, hãy cởi bỏ áo tang khổ nhục, và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh cửu Thiên Chúa ban cho ngươi; hãy khoác vào mình áo choàng công chính của Thiên Chúa; và đội lên đầu triều thiên vinh quang Đấng Vĩnh Hằng ban tặng. Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn cầu thấy hào quang rực rỡ của ngươi” (Br 5:1-3). Được cởi bỏ “áo tang khổ nhục” thì còn gì vui hơn? Không chỉ vậy, chúng ta còn được khoác “áo choàng công chính”. Đúng là trên cả tuyệt vời!
“Áo choàng công chính” đó do Thiên Chúa trao ban, và chúng ta còn được Người gọi tên là “Bình An Xây Dựng Trên Công Chính” và “Vinh Quang Phát Xuất Từ Lòng Kính Sợ Thiên Chúa” (Br 5:4). Cái tên “lạ” lắm, nhưng hay và ý nghĩa.
Ngôn sứ Ba-rúc tiếp tục kêu gọi một hơi dài: “Vùng lên, Giêrusalem hỡi, hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn về phía đông: Kìa xem con cái ngươi từ đông sang tây tụ họp về theo lời Đấng Thánh đã truyền dạy. Được Thiên Chúa nhớ đến, chúng hớn hở mừng vui. Xưa chúng bị quân thù áp giải, phải rời ngươi, không xe không ngựa. Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở về với ngươi, chúng được kiệu đi vinh quang rực rỡ, khác chi một ngai vàng. Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa” (Br 5:5-7). Cũng có những lời tương tự Thánh Gioan Tẩy Giả: Bạt thấp các núi, gò, và lấp đầy thung lũng.
Theo lệnh của Thiên Chúa, “rừng xanh và đủ loại quế trầm sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en, vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi trong hoan lạc, dưới ánh sáng vinh quang của Chúa, cùng với lòng từ bi và sự công chính của Người” (Br 5:8-9). Có Thiên Chúa cứu thoát, kiếp-người-khốn-khổ trở nên hạnh phúc biết bao!
Niềm vui sướng tột cùng khiến con người như không dám tin vào thực tế, nhưng là sự thật 100%: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ” (Tv 126:1). Nhưng rồi vẫn “vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Tv 126:2a). Đến nỗi dân ngoại phải xì xầm bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2b).
Không lạ sao được, không ngạc nhiên sao được, phàm ngữ chẳng đủ lời để mà diễn tả về kỳ công của Thiên Chúa, quá vĩ đại và quá sức con người có thể tưởng tượng! Rồi cũng chỉ biết cười và nói được rằng: “Ta thấy mình chan chứa một niềm vui” (Tv 126:3). Thấy người ta hp quá đỗi nên chúng ta cũng khao khát mà cầu xin: “Lạy Chúa, xin dẫn tù nhân chúng con về, như mưa dẫn nước về suối cạn miền Nam” (Tv 126:4). Quả thật, “ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126:5), nghĩa là: “Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126:6).
Cuộc đời là thế. Trong những điều xảy ra, điều hợp ý mình thì mình bảo là “hên”, điều không hợp ý mình thì mình cho là “xui”. Nhưng chính đau khổ là “viên ngọc quý” mà các thánh đã luôn trân quý từng ngày khi còn sinh thời. Hạnh phúc mà không có nước mắt thì hạnh phúc đó chưa thực sự trọn vẹn niềm vui. Đau khổ cũng là những tiếng-động-tĩnh trong mỗi con người chúng ta. Vâng, tiếng động đó rất tĩnh lặng!
Thánh Phaolô bày tỏ: “Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, vì từ buổi đầu cho đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. Tôi tin chắc rằng Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô Giêsu quang lâm” (Pl 1:4-6). Mùa Vọng, thánh nhân nhắc nhớ việc chờ Chúa quang lâm là chính chứ không chờ gì khác rồi bối rối, hoang mang, run sợ. Thật chứ không đùa. Thánh Phaolô nói rõ: “Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Kitô Giêsu. Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô quang lâm” (Pl 1:8-10). Vấn đề là vậy, cần hiểu đúng đắn và chính xác, đừng mơ hồ hoặc nhẹ dạ cả tin, không khéo lại hóa mê tín dị đoan!
Rồi thánh nhân kết luận: “Như thế, anh em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giêsu Kitô, để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 1:8-11).
Thánh sử Luca kể: Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê, Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên, Khanan và Caipha làm thượng tế, có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan trong hoang địa. Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc 3:4-5). Một đoạn sử ngắn gọn nhưng súc tích. Chủ yếu là câu 4 và câu 5.
Và nếu ai cũng thi hành đúng như vậy, chắc chắn mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Khi biết tin hoàng đế hoặc vua quan đi tới đâu thì dân chúng phải quỳ mọp xuống mà rước “thiên tử” đi qua; khi một vị nguyên thủ quốc gia đến, người ta sửa soạn nhiều ngày trước, an ninh được kiểm soát nghiêm ngặt; khi một đại sứ tới một nơi nào đó thì cũng thế; khi giáo hoàng kinh lý một nước nào đó cũng được người ta nghing đón long trọng, một giám mục tới một giáo xứ hoặc một tu viện nào thì cũng được đón tiếp tương tự; thậm chí chỉ là một nghệ sĩ nổi tiếng đi tới đâu cũng được người hâm mộ chờ chực để chỉ mong được nhìn dung mạo “thần tượng”.
Tuy nhiên, mệnh danh là Đấng Thiên Sai, nhưng có lẽ chỉ có Chúa Giêsu là chẳng ai thèm để ý chứ đừng nói tiền hô hậu ủng. Ngài đến mà không ai hay biết, Ngài là Tiếng Động cực mạnh thế mà cũng chẳng khác hơn sự Tĩnh Lặng. Thậm chí có Gioan Tẩy Giả hô hào và kêu gọi mà cũng chẳng mấy người quan tâm lưu ý.
Thật vậy, mỗi khi chúng ta rước lễ là chúng ta đón tiếp một Quân vương Tối thượng, Vua Vũ Trụ, Thiên Tử đích thực, thế mà nhiều lần chúng ta vẫn không chuẩn bị tâm hồn cho đúng mức, vẫn rước lễ cho chiếu lệ, như một thói quen, thậm chí còn rước lễ vì… sĩ diện. Chúa buồn lắm, nhưng Ngài không hề nói gì vì Ngài luôn tôn trọng quyền tự do của chúng ta.
Với Chúa, chúng ta đã tệ; với tha nhân, chúng ta còn tệ hơn. Phàm nhân thật là yếu đuối, thế nên cứ bạt mãi mà mảnh-đất-tâm-hồn vẫn gồ ghề, lởm chởm, đầy ổ gà và ổ voi, san mãi không phẳng phiu, và con-đường-tâm-hồn vẫn cứ quanh co, không uốn cho thẳng được!
Lạy Thiên Chúa, xin mau ban Đấng Thiên Sai đến mà bạt chúng con cho bằng phẳng và uốn chúng con cho thẳng thắn. Chắc chắn thiếu Ngài thì chúng con không thể làm được gì hết (Ga 15:5). Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
74. Hãy dọn đường.
Năm cùng tháng tận, chúng ta sắp giã từ một năm cũ. Cũng như mọi năm, tôi có cảm tưởng là trước khi lật sang trang sử mới, con người ghi vội vào cuối trang sử cũ một vài nghĩa cử để nói lên thiện chí của mình, cũng như để bày tỏ niềm hy vọng về cuộc sống ấm no hạnh phúc, một cuộc sống được xây dựng trên nền tảng của công lý và hòa bình.
Một trong các nghĩa tử ấy là việc phóng thích các người bị giam cầm, như việc trả lại tự do cho các con tin Tây phương bên Trung đông chẳng hạn. Quả tim của con người không khỏi bị giao động khi nhìn thấy trên màn ảnh truyền hình những gương mặt hớn hở hân hoan của những người được trả lại tự do. Hay những nụ cười hòa lẫn nước mắt của họ và của những người thân thương của mình trong những giây phút hội ngộ. Đối với những người bị bắt làm con tin ấy cũng như đối với những ai bị giam cầm ở bất cứ nơi nào dưới hình thức nào đi chăng nữa, thì sự phóng thích mang một ý nghĩa của một kinh nghiệm mãnh liệt về sự tự do. Khung cảnh sống bị giới hạn trong bốn bức tường chật hẹp của nhà giam bây giờ là cả một bầu trời rộng thênh thang, cuộc sống tưởng chừng như bị bóp nghẹt, giờ đây có thể được phát triển với bao dự án, bao hy vọng, bao giấc mơ. Tương lai dường như bị chặn đứng giờ đây lại được tự do tiến tới.
Chúa nhật thứ II mùa vọng của phụng vụ năm C cũng có thể gọi được là “Chúa nhật giải phóng”. Với những hình ảnh tràn đầy hân hoan trong bài đọc 1 nơi ngôn sứ Baruk diễn tả công việc Thiên Chúa giải phóng và đưa dân Chúa từ một cuộc sống đau khổ lầm than trở về quê cha đất tổ của họ trong vui mừng và trong vinh dự.
Rồi trong bài Phúc âm, thánh Gioan tẩy giả tiếp tục rao truyền Tin mừng giải phóng và lập lại lời kêu gọi của ngôn sứ Baruk: “Hãy sửa đường cong queo cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi làm cản trở công việc hồi hương của dân Chúa và gây chướng ngại cho Đấng Cứu Thế đến ở giữa dân người để giải phóng và cứu rỗi họ”. Nhưng làm sao mọi người cảm thấy Thiên Chúa thực sự đến tại đây và trong lúc này để giải thoát họ không những hoàn cảnh lúc họ đang sống, và làm thế nào để mọi người có thể cảm nghiệm rằng thánh Gioan tẩy giả vẫn còn đang tiếp tục rao giảng về sự ăn năn thống hối để chuẩn bị cho ngày Chúa đến mà tất cả mọi người chúng ta trong Chúa nhật hôm nay cũng đang hướng về ơn cứu độ.
Câu trả lời cho hai vấn nạn trên nằm trong ý nghĩa của mùa vọng, bởi lẽ mùa vọng không phải là đợi chờ một biến cố đã xảy ra trong quá khứ xưa, mùa vọng càng không phải là mùa đợi chờ để mừng kỷ niệm Giáng sinh như mừng sinh nhật của Đức Giêsu diễn ra cách đây hơn 2000 năm. Không! Mùa vọng phải là mùa chuẩn bị tích cực để Thiên Chúa qua Đức Giêsu đến giải phóng và cứu rỗi mọi người trong hoàn cảnh cụ thể của ngày hôm nay. Đó là lý do tại sao thánh sử Luca ghi thật rõ ràng niên lịch và nhân vật lịch sử làm bối cảnh chính trị của một biến cố Ngôi hai giáng trần.
Hoàng đế Rôma thống trị khắp vùng Trung đông, Palestine bị lực lượng ngoại xâm chiếm đóng. Giuđêa nằm dưới quyền cai quản của quan trấn thủ Phongxiô Philatô, còn các vùng khác được trao cho các tay sai của hoàng đế Rôma giám quản. Cả tình trạng tôn giáo cũng bị lũng đoạn, vị Anna và Caipha đã cố gắng dung hòa giữa tôn giáo và chính trị để giữ vững địa vị thượng tế của mình. Trong bối cảnh chính trị, xã hội và tôn giáo đen tối ấy, Thiên Chúa đã bắt đầu hành động, qua đó một lần nữa Thiên Chúa chứng tỏ rằng công cuộc giải phóng và cứu rỗi của Người không phải được diễn ra trên trời, nhưng thực sự được diễn tiến trên mặt đất, giữa con người và trong dòng lịch sử. Quả thật, Thiên Chúa đã bắt đầu cuộc giải phóng để mang ơn cứu rỗi cho con người qua lời kêu gọi và rao giảng của thánh Gioan đã được Chúa Giêsu trao phó cho ngài để dọn đường cho Chúa đến và chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ngày Chúa đến.
Để chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa trao phó, thánh Gioan tẩy giả đã đi vào sa mạc hoang vắng. Thánh Gioan muốn lôi kéo các thính giả của ngài và lôi kéo chúng ta ra khỏi nếp sống bon chen thường nhật, ra khỏi những lo lắng hằng ngày, ra khỏi những thói quen tật xấu, những đam mê và ra khỏi con người cũ để đi vào sa mạc vắng vẻ là nơi con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa. Và cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đúng nghĩa nào cũng phơi bày con người thật và biết sống thật của mỗi cá nhân.
Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đích thực nào cũng kêu mời con người phải ăn năn, phải thống hối, có nghĩa là kêu mời con người trở về với Thiên Chúa. Vì thế, sau thời gian vào hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa, để biết rõ con người và nếp sống thật của mình, thánh Gioan tẩy giả hướng dẫn chúng ta trở về cuộc sống hằng ngày, xuyên qua dòng sông Jordan để lãnh nhận phép rửa thống hối là dấu chỉ bên ngoài của một quyết định nội tâm dứt khoát trở về với Chúa. Một Thiên Chúa từ thuở tạo thiên lập địa đã luôn gắn liền lời nói với hành động.
Vì thế, công cuộc thống hối đúng nghĩa của con người không thể chỉ diễn ra bằng lời nói: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và việc làm…”, nhưng phải kèm theo những hành động cụ thể, những hành động cụ thể này đã được thánh Gioan loan báo hôm nay: “Hãy dọn đường Chúa đến”. Hãy sửa đường cong queo của tinh thần vô trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung lừa đảo bằng những con đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật thà, biết tôn trọng sự thật. Hãy lấp mọi hố sâu của chia rẽ hận thù, của thiên kiến nghi kỵ bằng sự khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí và tin tưởng vào khả năng của nhau. Hãy bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, của óc địa phương bằng tinh thần khiêm nhu, và biết đặt công ích lên trên quyền lợi của cá nhân, quyền lợi của đảng phái. Hãy san bằng những con đường bi quan yếm thế của những thất vọng, của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng những cái nhìn tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác và nơi cuộc sống. Đó là những hành động cụ thể, những điều kiện cần phải thực hiện trong ngày Chúa đến, thực hiện trong ngày giải phóng và cứu rỗi của Người, xây dựng trên công lý, hiệp nhất hòa bình và tình thương giữa lòng xã hội của ngày hôm nay.
Vậy! Bạn và tôi sẽ làm gì trong mùa vọng năm nay để chung tay đẩy mạnh tiến trình giải phóng và cứu rỗi của Thiên Chúa trong gia đình, trong làng xóm, trong giáo xứ và trong xã hội chúng ta đang sống?
75. Sám hối và dọn đường – Anmai
Chúng ta vừa nghe niềm vui của dân Do Thái khi họ được thoát khỏi cảnh tù đày qua tâm tình của Thánh Vịnh 135:
Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về,
chúng tôi dường như người đang mơ,
bấy giờ miệng chúng tôi vui cười,
lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng:
Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng.
Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi,
nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con,
như những dòng suối ở miền nam.
Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo.
Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Họ cứ ngân nga mà hát với nhau: Chúa đối xử đại lượng với chúng tôi nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. Cũng bình thường thôi vì Thiên Chúa luôn luôn yêu thương dân của Ngài và Ngài cũng muốn cứu độ dân của Ngài chứ Ngài có bao giờ bỏ rơi.
Lời hứa cứu độ đó tự ngàn xưa và cứ tiếp nối từ người này qua người khác, từ ngôn sứ này đến ngôn sứ kia.
Hôm nay chúng ta cũng bắt gặp lời hứa của Chúa qua môi miệng của ngôn sứ Baruc:
Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi. Chúa sẽ mặc cho ngươi áo công lý, và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi. Vì chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian. Vì Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong hiếu nghĩa.
Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây họp lại theo lệnh của Ðấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tử. Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa.
Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang.
Thế đó, Thiên Chúa, Đức Chúa sẽ tỏ ánh huy hoàng, tỏ ơn cứu độ của Ngài xuống dân Israel.
Thế nhưng, chuyện quan trọng hơn cả đó là mặc lấy tâm tình gì để đón ơn cứu độ?
Dân Do Thái cứ lầm lũi trong tội lỗi của mình, cứ lầm lũi trong sự cứng đầu của mình để rồi không chuẩn bị cho mình một tâm tình đón ơn cứu độ.
Để chuẩn bị cho Đấng Cứu Độ - Con Thiên Chúa đến trần gian, Thiên Chúa đã tiên báo để cho mọi người dọn đường. Bằng chứng hết sức cụ thể là có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.
Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Không cần phải nói nhiều hay giải thích nhiều. Chuyện hết sức đơn giản là để đi từ điểm này đến điểm nọ, chúng ta cần có một con đường thẳng để mà đi. Nếu gặp hố sâu, nếu gặp núi đồi và gặp đường quanh co thì không thể nào ta đi được.
Hôm nay, Gioan cũng mời gọi chúng ta là chúng ta cũng phải sửa con đường nhà chúng ta để Chúa đến. Gioan không muốn nhắm đến con đường đi nhưng Gioan muốn nhắm đến cõi lòng, nhắm đến tâm hồn của chúng ta.
Nếu như cõi lòng chúng ta còn qúa nhiều đố kỵ, hờn ghe, kiêu căng, thù oán … e rằng Chúa hay nói khác đi là Đấng Cứu Độ không thể nào đến với chúng ta được.
Với lời mời gọi của Gioan, trong tâm tình chờ Chúa đến, mỗi người chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa và xin Chúa thương giúp chúng ta nhìn ra con người thật của chúng ta và xin Chúa cũng thương chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn chúng ta. Để có thể đến lúc Chúa đến với chúng ta, chúng ta có một tâm hồn ngay thẳng, có một tấm lòng sạch trong để mời Chúa đến vào trong tâm hồn chúng ta.
76. Quo Vadis.
Trong cuốn truyện Quo Vadis có kể về một chàng thanh niên người Lamã tên là Vinicius đã yêu một người con gái trẻ đẹp người Kitô giáo. Tuy thế, người con gái đã không mấy yêu thích anh chàng Vinicius, bởi hai người có hai cuộc sống khác biệt nhau.
Vinicius đã trở nên tò mò không biết các Kitô làm gì khi họ họp nhau cầu nguyện. Nên một buổi tối nọ, anh đã đi theo cô gái anh yêu thích và đến chỗ các Kitô họp nhau cầu nguyện. Anh đến không phải vì đạo nghĩa gì nhưng vì nàng.
Khi Thánh Phêrô giảng lời Chúa Giêsu thì một sự lạ đã xảy ra cho Vinicius. Anh đón nhận những lời của Chúa Giêsu một cách chân thành. Anh đã suy nghĩ làm sao để có thể trở thành một Kitô hữu. Anh phải cởi bỏ cuộc sống cũ. Anh phải bắt đầu một cuộc sống mới, cuộc sống hoàn toàn khác biệt với cuộc sống cũ. Đó là điều mà người Do thái ngày xưa gọi là sự trở lại.
Từ ngữ "trở lại" có nghĩa là ngừng cuộc du hành trên con đường sai và bắt đầu đi con đường mới.
Thánh Gioan Tiền Hô đã kêu gọi người ta hãy trở về từ con đường tội lỗi dẫn đến sự diệt vong và bắt đầu ra đi trên con đường nhân đức dẫn đến cuộc sống mới.
Như thế, sự trở lại liên quan đến việc chấp nhận rằng cuộc sống của chúng đang trên đà tiến đến sự xấu, và quyết tâm để đổi mới về một hướng tốt.
Ngài nhắc nhở cho dân chúng thời đó đến xin Ngài chịu phép rửa: "Tôi rửa các anh với nước. Đấng sắp đến sẽ rửa các anh trong Thánh Thần." Phép rửa của Gioan là phép rửa sám hối. Nó chuẩn bị cho phép rửa của Chúa Giêsu.
Khi chúng ta đón nhận phép rửa tái sinh của Chúa Giêsu, chúng ta đón nhận Chúa Thánh Thần và bắt đầu một cuộc sống mới hoàn toàn. Đó là chúng ta bắt đầu ra đi trên một con đường đúng.
Nói tóm lại, Thánh Gioan Tiền Hô đã kêu gọi dân chúng trong bài Phúc Âm làm hai điều sau: Thứ nhất, họ chịu phép rửa sám hối, tức là từ bỏ lối sống cũ của tội lỗi. Thứ hai, họ phải chịu phép rửa tái sinh, tức là đón nhận cuộc sống mới trong Thánh Thần.
Vậy chúng ta phải áp dụng làm sao bài học đó hơn 2000 năm sau? Chúng ta cần phải áp dụng làm sao trong Mùa Vọng này?
Tất cả mọi người chúng ta đều có thể nói rằng chúng ta đã ở trong tình trạng giống như chàng thanh niên Vinicius, hoặc đám dân chúng trong bài Phúc Âm hôm nay.
Cho dù là chúng ta đã lãnh nhận phép rửa tội trong Thánh Thần, tuy nhiên chúng ta không ít thì nhiều đã vấp ngã lại vào vũng bùn tội lỗi.
Tất cả mọi người chúng ta đều cần phải thu lượm lại những điều xấu trong cuộc sống của chúng ta và đốt chúng đi. Tất cả mọi người chúng ta cần phải phục hồi sự sống Thần Linh trong chúng ta.
Mùa Vọng là thời gian để chúng ta làm những điều đó, và vì lý do đó mà Giáo Hội sắp xếp cho chúng ta nghe về Thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi con người hãy trở lại và chuẩn bị chờ đón Chúa Giêsu.
Giáo hội biết rằng tất cả mọi người chúng ta đều cần phải trở lại, cho dù là một ít, để chuẩn bị cử hành kỷ niệm biến cố Giáng Sinh. Và khi chúng ta làm như thế, chúng ta sẽ chuẩn bị cho mình để chào đón sự Chúa sẽ đến lần thứ hai.
Thiên Chúa nói với tất cả chúng ta hôm nay qua lời của tiên tri Isaia: "Hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy mình đi... Khi tội lỗi các ngươi đỏ như nhiễu điều, họa chăng chúng sẽ gột trắng được như tuyết?" (Is 1,16. 18).
77. Hóa đất tốt - Lm Vũ Xuân Hạnh.
Để sa mạc thành nơi có sự sống, điều kiện cần thiết trước hết là nước. Bên cạnh đó là sự chăm sóc, lao công vất vả của con người để cải tạo sa mạc. Không thể tìm được một khu vườn xinh tươi nơi sa mạc nếu trước hết người ta không tính đến hai điều kiện tiên quyết này. Không có nước, không có sự khai phá và chăm sóc của con người, đời đời sa mạc vẫn chỉ là sa mạc khô cằn. Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, hiện tượng phá rừng đã làm cho đất canh tác bị thu hẹp, hiện tượng sa mạc hóa đất đai ngày càng gia tăng. Để kiến tạo thảm xanh và chống sa mạc hóa, hai điều kiện trên đây cũng lại là hai điều kiện hàng đầu.
Cũng vậy, tâm hồn con người ví như sa mạc. Vì thế sa mạc tâm hồn cũng cần những điều kiện tối ưu. Nếu so sánh điều kiện nước như là ơn Chúa; điều kiện cải tạo sa mạc và sự ra công chăm sóc tưới bón của con người là nỗ lực sống thánh thiện, là sự cố gắng vun bồi cho đời Kitô hữu của mình bằng cộng tác với ơn Chúa, bằng vâng phục thánh ý Chúa và yêu thương con người, đó chính là lúc ta hóa sa mạc lòng mình thành nơi tươi tốt, nơi mang sức sống của hoa trái thánh thiện, của ơn Chúa.
Bởi đó, để có thể mở lòng đón nhận ơn Chúa và để tiếp sức cho sự kiến tạo lòng mình thành mảnh đất tốt tươi, ta hãy lắng nghe Lời Chúa hôm nay thúc giục. Đó là “Tiếng kêu trong sa mạc”. Tiếng kêu ấy thúc giục ta hãy khẩn trương lên, thúc giục lòng ta đừng cố chấp, đừng ở lỳ trong tình trạng thoái hóa, đừng để lòng mình vốn đã là sa mạc, bị sa mạc hóa nhiều hơn. Vì thế: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho bằng”. Ta cần phải thực hiện lời mời gọi ấy không phải ngày một hoặc ngày hai, mà là cả một đời. Có như thế, kết quả cuối cùng sẽ là một kết quả vui mừng lớn lao: “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.
Nhưng sa mạc mà chúng ta đề cập, có hai nghĩa. Thông thường, trong tu đức, sa mạc có nghĩa rất tốt. Sa mạc là nơi thanh vắng, và sa mạc tâm hồn là một nội tâm trầm lặng, yên tĩnh, bình an, nơi mà lòng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa. Nhiều tu sĩ, nhiều vị ẩn tu đã tìm đến sa mạc để đi vào sa mạc tâm hồn sống với Chúa trọn vẹn. Thánh Gioan Tẩy Giả đã từng tu luyện nơi sa mạc để hiệp thông với Chúa của mình như thế. Nhưng khi vào trong làng mạc để mời gọi sám hối, thì sa mạc mà thánh Gioan đề cập, lại là một thứ hoang địa thiếu sự sống. Đó là nơi gió quay cuồng, đất khô cằn, nắng nóng cháy. Đúng hơn, khi khẳng định “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc” (Ga 1, 23), thánh Gioan muốn nói rằng “tôi là tiếng kêu trong lòng người”, vì lòng người đã bị sa mạc hóa. Bởi đó, sa mạc của lòng người cũng sẽ là nơi tối tăm, chứa đầy nguy hiểm, là nơi thiếu ơn Chúa, thiếu tình yêu và đầy tham vọng, mưu mô, đam mê xấu… Chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sa mạc theo nghĩa thứ hai này.
Mỗi mùa Vọng, ta lại gặp khuôn mặt đáng yêu của thánh Gioan Tẩy Giả, người đã từng có một cuộc sinh ra kỳ diệu, một lối sống khác thường. Sa mạc là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống, lại là nơi thánh Gioan sinh sống, lớn lên và trưởng thành. Cũng chính nơi sa mạc đầy dẫy sự khắc nghiệt, lại là nơi thánh Gioan gặp gỡ Thiên Chúa. Bên cạnh sự lớn lên về thể lý, thánh Gioan còn được sống trong ơn Chúa, lớn lên trong tình yêu của Chúa và trưởng thành trong thánh ý Người. Thánh Gioan đã lắng nghe Lời Chúa đúng như Tin Mừng hôm nay cho biết: “Có Lời Chúa phán cùng con ông Giacaria là ông Gioan trong sa mạc”. Lời của Chúa đã đưa thánh gioan ra khỏi sa mạc, đến mọi vùng ven sông Giodan mà gặp gỡ con người. Lời Chúa thánh nhân đã nghe, giờ đây trở thành Lời Chúa thánh nhân công bố. Tiếng Chúa mời gọi thánh nhân, trở thành tiếng thánh nhân mời gọi mọi người. Thánh Gioan đúng là tiếng kêu trong sa mạc như chính người đã khẳng định.
“Tiếng kêu trong sa mạc” đòi chúng ta hãy sửa đường cho Chúa. Nhưng không phải con đường đất, đường nhựa, mà chính là con đường của cõi lòng người, đường đi vào tâm hồn. Bởi đó, bằng những cách nói đầy gợi ảnh: thung lũng; núi đồi; đường quanh co; lối đi lồi lõm…, thánh Gioan kêu mời chúng ta ăn năn sám hối: Hãy cải đổi nếp sống, nếp nghĩ, nếu cần, cải đổi toàn diện, cải đổi cả não trạng của mình. Vì tận trong tâm hồn ta, có ai lường hết bao nhiêu lối suy nghĩ quanh co, sự tính toán lệch lạc. Tận trong tâm hồn ta có bao nhiêu hố sâu tăm tối, vì thiếu ánh sáng của tình yêu. Hoặc chính nơi ấy, có bao nhiêu núi đồi của sự ngạo ngễ, của tự kiêu, tự mãn… Vì thế, Ta đừng tiếp tục sống như xưa nữa, nhưng hãy uốn nắn những quanh co, lấp bằng những lồi lõm của tội lỗi, của thói hư tật xấu, của những tham vọng và dục vọng thiếu ngay chính… Bạn và tôi hãy sám hối. Vì sám hối là dọn con đường của lòng mình.
Dọn đường tâm hồn là để đón chờ Chúa đến. Chúa cần tâm hồn xứng đáng để làm nơi trú ngụ. Chúa cầm tâm hồn rỗng, không chứa đầy tội lỗi để tuôn đổ ơn của Người. Nhưng để dọn tâm hồn thật lành thánh như thế, chỉ cần đi xưng tội qua loa, xưng tội để trấn an lương tâm mà thôi chưa đủ. Vì như thế chưa phải là cải đổi tâm hồn, chưa đi tới hoàn thiện chính mình. Xưng tội như thế là xưng cho có, cho rồi. Xưng tội như thế là biến bí tích giải tội thành phương tiện cho mình lạm dụng, và lợi dụng để tự đánh lừa bản thân. Đó là một sự cố chấp, là ở lỳ trong tội.
Nếu biến sa mạc thành đất có sự sống, con người phải mất sức, mất của, và chấp nhận nhiều khó khăn. Cũng vậy, dọn đường tâm hồn là chấp nhận biến đổi sa mạc của cõi lòng thành miền đất trù phú, miền đất thấm đẫm ơn Chúa. Bởi vậy, người ta phải chấp nhận sự hao mòn sức lực, chấp nhận tự gọt giũa chính mình, chấp nhận nhiều khó khăn khác nhau. Vì biến đổi như thế là sám hối. Và sám hối thật lòng đòi phải có dấn thân thật sự để tự mình từ nay dám cắt bỏ một thói quen, một đam mê, một tật xấu… để lòng mình biết yêu hơn, khiêm nhường hơn, sống tinh thần phục vụ hơn, vị tha hơn… Vì chỉ khi nào dám chối từ những rườm rà xung quanh mình, con người ta mới dám mong ước thuộc về Thiên Chúa. Thái độ sám hối tận căn ấy, mới là sám hối đúng nghĩa. Điều đó không dễ chút nào, vì nó làm ta đau đớn, xót xa, trầy trụa, mất mát. Chỉ có sám hối trọn vẹn mới sống đúng nghĩa hai chữ “dọn đường”. Chúa cần một thái độ dọn đường một cách tự nguyện, dứt khoát như thế, để Người đi vào tâm hồn và tâm hồn có chỗ chứa đựng ơn thánh của Người. Khi tâm hồn có Chúa, tâm hồn không còn là sa mạc và cũng chẳng hề sợ sa mạc hóa, nếu biết giữ mãi ơn Chúa trong tâm hồn mình bằng một đời sống tốt lành, vươn lên trong sự thánh thiện.
Vậy chúng ta hãy đi vào sa mạc như các nhà ẩn sĩ (chứ không phải sa mạc thiếu sự sống), nghĩa là biết trở về với nội tâm của mình, xua đi những ồn ào, những lo toan của cuộc sống. Ta hãy đi vào sự tĩnh mịch của sa mạc lòng mình mà lắng nghe tiếng Chúa, lắng nghe những đòi hỏi của Tin Mừng: Phải sửa đường xưa lối cũ, uốn nắn cho ngay thẳng những lối đi quanh co theo sở thích trái chướng của bản thân, lúc thế này, khi thế khác. Mọi gồ ghề ngăn cản các quan hệ tốt đẹp với Chúa, với tha nhân hãy bạt xuống và san phẳng để hiến dâng tình yêu của mình đến với anh em và với Thiên Chúa. Có như thế, ta mới “Thấy ơn Thiên Chúa cứu độ” như lời thánh Gioan loan báo.
78. Tiếng kêu trong hoang địa – AM Trần Bình An
Vua Hêrôđê không thể làm điều gì có thể khiến ông được thần dân Giuđê yêu mến, ngay cả việc chi tiền không tiếc cho công trình xây Đền Thờ. Người ta không bao giờ quên ông là người gốc Êđôm. Nếu ông là một người Giuđa về mặt tôn giáo, đã xây lại Đên thờ Giêrusalem, thì điều đó cũng không ngăn ông xây dựng các đền thờ cho các thần ngoại giáo khắp nơi. Trên hết, việc ông tiêu diệt dòng dõi Hasmonaean là điều không thể tha thứ được.
Trên thực tế, hành động thẳng tay này đã không chấm dứt được những bất ổn trong hoàng gia. Có sự xích mích giữa họ hàng bên ngoại với những người vợ của ông, và giữa những người con của các bà vợ. Hai người con của ông và Mariamne, là Alexander và Aristobulus, được dưỡng dục tại La Mã, và được chọn làm thừa kế. Chúng vốn thuộc dòng dõi Hasmonaean (họ mẹ) nên được dân Giuđa chấp nhận. Nhưng sự ưu ái đó làm những anh em khác mẹ ghen tỵ, đặc biệt là Antipater, con cả của Hêrôđê, đã quyết tâm gieo cho cha mình ý tưởng chống lại họ. Cuối cùng, năm 7 TCN, họ bị khép vào tội âm mưu chống lại cha và bị xử tử. Antipater cũng chẳng lợi lộc gì từ cái chết của hai em. Ba năm sau ông cũng là nạn nhân của sự nghi ngờ của vua cha, và đã bị xử từ, chỉ vài ngày trước khi Hêrôđê băng hà, năm 4 TCN.
Bản chất đa nghi của Hêrôđê được minh chứng bằng chuyến thăm viếng của ba vua, và các hài nhi Bêlem bị giết hại. Bất cứ tin đồn nào về sự dấy lên của một vị vua dân Giuđa cũng làm ông sợ hãi tột cùng. Sự nghi ngờ này đã lên đến mức điên cuồng. Hậu quả là Hêrôđê được nhớ đến qua cơn cuồng sát hài nhi, hơn là vì khả năng cai trị. (Flavius Josephus, Ant, A.H.M. Jones, The Herods of Judea)
Trước bối cảnh lịch sử máu me ghê tởm, tràn đầy những âm mưu, thù hận, nghi kỵ, hãm hại, giết chóc, từ nội tình lãnh đạo đế quốc La Mã đến hoàng gia chư hầu Giuđa, Israel, thì ngôn sứ Gioan Tiền Hô xuất hiện như một niềm hy vọng giải phóng dân Israel khỏi lầm than.
Trong khi quyền lực thế gian tập trung trong tay các hoàng tộc kiêu căng, độc đoán, gian manh, ác độc thì lịch trình Cứu Độ của Thiên Chúa lại khởi sự từ sự khiêm nhường, nhân ái, tràn đầy tình yêu.
Chúa nói trong nơi thinh lặng
Chính trong hoang địa, chứ không phải tại đền đài cao sang, ồn ào, nguy nga, tráng lệ, Thiên Chúa phán dạy, trao sứ vụ cho ông Gioan, vốn là con của hai người công chính, thầy tư tế Dacaria và bà Êlisabet. Chúa gần gũi thân mật với người thành tâm nơi cô tịch. Ngài không khoe khoang, không quảng cáo, không tiếp thị nơi phồn hoa, đô hội. Chúa luôn ẩn dấu trong mọi sự, dưới nhiều sự kiện, trong mọi biến cố, mà chỉ thổ lộ tâm tình trong cô liêu, tĩnh lặng.
Ông Gioan theo gương Chúa, cũng đi rao giảng trong hoang địa, cũng chẳng chọn nơi phố xá đông đúc, thị tứ xô bồ, náo nhiệt, ô nhiễm, ồn ào. Thế nhưng, bấy giờ người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giô đan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giô đan. (Mt 3, 5)
Do vậy, sẽ thất vọng khi tìm nghe tiếng Chúa nói với mình trên làn sóng radio, TV, trên báo chí, truyền thông, hoặc trên internet. Tất cả những phương tiện đó, nếu có, chỉ là tiếng vang vọng của Chúa. Bởi vì Chúa chỉ nói muốn chuyện tay đôi trong thinh lặng, tĩnh mịch, khi chúng ta giũ bỏ được mọi lo toan, đam mê, hay dục vọng thấp hèn.
Chúa nói cho tâm hồn khiêm nhu
Phần đầu bài Tin Mừng hôm nay có hai ý nghĩa. Trước hết ý nghĩa lịch sử về thời điểm Chúa Giêsu đến thế gian. Ý nghĩa thứ hai, chương trình cứu chuộc của Chúa hoàn toàn trái ngược với khuynh hướng thế gian. Không cần uy lực, không cần vinh quang phù du, không cần bá quyền, lẫn vương quyền. Ngài chỉ dùng đến con người tầm thường, nhỏ bé, khiêm hạ, nhân ái, để loan truyền Ơn Cứu Độ.
Vì thế, Chúa phán truyền sứ vụ cho ông Gioan Tiền Hô, khiêm tốn, ẩn dật trong hoang địa, ăn mặc xuềnh xoàng thô thiển, không khoác áo da thú đắt điền, như quý bà giàu sang bây giờ, không ăn ngon thỏa thuê, thừa mứa như các đại gia, thừa bạc lắm tiền, mà chỉ chay tịnh chấu chấu và mật ong rừng.
Chúa kêu gọi cải tà quy chánh
Khi nêu ra các hoàng gia đương thời, qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Lời Chúa muốn nhắc nhở chúng ta, đừng bắt chước, học đòi những thủ đoạn dã tâm của họ, để củng cố địa vị, để hưởng giàu sang phú quý, mà chà đạp, hay hãm hại người khác.
Trái lại, phải dọn đường cho thẳng, công tâm, chánh trực, phải lấp đầy thung lũng ham muốn, tham lam chức tước, của cải, tiện nghi, phải bạt cho thấp núi đồi kiêu căng, cao ngạo, tự phụ, tự cao, tự đại, phải uốn cho ngay khúc quanh co gian tà, lưu manh, dối trá, phải san cho phẳng đường lồi lõm, đam mê, hưởng lạc thú vui xác thịt…, mới có thể nhận ra Chúa đang đến, mà hưởng được Ơn Cứu Độ.
“Canh tân không phải chỉ đổi nước mã bên ngoài, đổi một số nghi thức cho ngoạn mục…Thánh Phaolô nói rõ: Hãy cởi con người cũ, mặc lấy người mới, là Chúa Giêsu.” (Đường Hy Vọng, 635)
Lạy Chúa Giêsu, hãy cho con thoát ra khỏi tiếng ồn ào, huyên náo danh lợi, cám dỗ xác thịt, để nghe được tiếng Thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi canh tân đổi mới.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết ăn năn, sám hối, cũng như khiêm nhường, vâng phục và phó thác noi gương Mẹ, để có thể đón mừng Chúa đến. Amen.
79. Gioan tiền hô.
Hài nhi nhảy mừng trong lòng bà.
Hài nhi ở đây chính là Gioan Tẩy giả, cũng được gọi là Gioan Tiền hô. Sở dĩ chúng ta gọi ngài là Gioan Tẩy giả, vì ngài trao ban phép rửa sám hối. Còn gọi ngài là Gioan Tiền hô, bởi vì ngài có nhiệm vụ đi trước để hô hào mọi người chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Nhìn vào cuộc đời của ngài, chúng ta nhận thấy được bàn tay yêu thương của Chúa luôn hướng dẫn. Thực vậy, Phúc âm kể lại rằng:
Bà Êlisabeth và ông Giacaria sống chung với nhau trong bậc vợ chồng đã già rồi mà vẫn chưa có con. Một hôm ông vào đền thờ làm nhiệm vụ tư tế của mình. Thiên thần Chúa đã hiện ra cùng ông và cho biết: bạn ông sẽ sinh con. Ông không tin bởi vì cả hai đã cao niên, nên yêu cầu một bằng chứng. Thiên thần Chúa trả lời: Kể từ nay ông sẽ bị câm và sự thực đã xảy ra như thế.
Được tin bà Elisabeth, người chị họ của mình, đã có mang, Đức Maria liền vội vã lên đường thăm viếng. Trước sự hiện diện của Mẹ Maria và Chúa Giêsu, dù mới chỉ là một thai nhi, Gioan cũng đã nhảy mừng.
Rồi sau khi Gioan đã mở mắt chào đời, người ta hỏi ý kiến ông để đặt tên cho con trẻ, và ông đã trả lời bằng chữ viết: tên con trẻ là Gioan…Và cũng từ lúc ấy ông nói được và không còn câm nữa.
Lớn lên, Gioan vào trong hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ. Mặc áo da thú, ăn châu chấu với mật ong rừng. Tiếng tăm về sự thánh thiện của ngài được loan truyền, thế là người ta kéo đến với ngài. Ngài khuyên mọi người sám hối ăn năn, dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lúc nào ngài cũng tỏ ra khiêm nhường, tự xưng mình chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc và không xứng đáng cởi dây giày cho Đấng Cứu Thế.
Ngày kia Chúa Giêsu trà trộn với đám đông dân chúng đến xin Gioan làm phép rửa. Lúc đầu Gioan đã từ chối vì ngài biết Chúa Giêsu là ai. Nhưng sau cùng ngài cũng vui lòng trao ban phép rửa. Và lúc đó một sự kiện lạ lùng đã xảy ra: Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên Đức Kitô và từ trời có tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Sau đó Gioan đã long trọng giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ và đám đông: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian. Ngài vui mừng khi thấy các môn đệ và dân chúng tin theo Đức Kitô. Chính ngài đã nói: Đức Kitô cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi. Có lần ngài đã sai hai môn đệ thân tín đến hỏi Chúa Giêsu: có phải là Đấng sẽ đến hay là còn phải chờ đợi một Đấng nào khác. Thâm ý của Gioan là muốn để cho các môn đệ của mình được nghe chính Chúa Giêsu xác quyết. Chúa Giêsu đã nói với họ: Hãy về nói với Gioan những điều các ngươi đã ghi nhận: người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong cùi được lành sạch và kẻ nghèo túng được đón nhận Tin Mừng.
Với một tính tình ngay thẳng, Gioan đã lên tiếng can ngăn Hêrôđê không được phép lấy vợ của anh mình. Chính vì thế mà ngài đã bị tống ngục và sau cùng đã bị lấy đầu.
Nhìn thoáng qua cuộc đời của Gioan Tiền hô, chúng ta thấy ngài đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó, đó là chuẩn bị mọi người đón nhận Chúa đến, và khi Chúa đến, ngài đã giới thiệu Chúa cho mọi người được nhận biết.
Với chúng ta cũng thế, trong mùa vọng, chúng ta phải uốn nắn sửa đổi lại những thói hư tật xấu để Chúa đến trong tâm hồn chúng ta, đồng thời hãy biết dùng lời nói và việc làm, nhất là những hành động bác ái yêu thương, để giới thiệu Chúa cho những người chung quanh.
Lời hay ý đẹp:
Bài giảng phải biểu lộ tốt ý nghĩa cử chỉ phụng vụ phù hợp để dẫn dắt giáo dân tham dự đầy đủ vào việc thờ phượng đức tin. Sửa soạn tâm hồn họ thấm nhuần phụng vụ, ngõ hầu hiệu quả của Thánh Thể vượt qua việc cử hành hiện tại mà vươn tới mọi lãnh vực của cuộc sống và của toàn thể Hội Thánh.(Fr. John Burke, op. trong Gospel Power tr.79.)
80. Dọn đường cho Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Louis Minh Nhiên, CMC)
Một chiều gần áp ngày lễ Giáng Sinh, quan tòa hỏi một tù nhân: "Anh bị cáo về tội gì?" Bị cáo đáp: "Dạ thưa vì tội shopping đồ Giáng Sinh quá sớm." "Cái gì? Shopping sớm đâu có phải là tội," Quan tòa hỏi tiếp: "Anh nói sớm vậy sớm như thế nào?" Bị cáo giải thích: "Dạ, dạ, dạ thưa sớm là trước khi tiệm mở cửa."
Chưa đến lễ Giáng Sinh, nhưng đó đây đã thấy đầy dẫy những cửa tiệm, các dịch vụ quảng cáo hấp dẫn mời gọi mua sắm chuẩn bị mừng lễ.
Hôm nay Giáo Hội dùng lời Chúa mời gọi chúng ta dọn lòng để đón mừng Chúa đến: "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu, và hãy bạt mọi núi đồi' con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng." Khi còn giúp xứ ở Buffalo và Rochester, NY, một lần tôi có dịp trở lại Boston, và trong lúc kẹt xe trên đường, ngồi suy nghĩ lẩn thẩn: Như những thành phố khác, Boston cũng có những đồi núi và thung lũng. Là một trong những thành phố cổ kính nhất nước Mỹ ngày xưa có những con đường mòn nhỏ hẹp đơn sơ, ngày nay vì dân số gia tăng, nhu cầu xã hội văn minh đòi hỏi, người ta đã phải xây thêm cầu, thêm những con đường hầm vậy mà vẫn còn kẹt xe nhất là vào những giờ đến sở và tan sở. Nếu dân chúng biết hy sinh sắp xếp đi xe chung với nhau và chỉ đi khi cần thiết thôi thì có lẽ việc kẹt xe sẽ đỡ hơn nhiều.
Liên tưởng tới cuộc sống tâm linh, có lẽ tâm hồn mỗi người chúng ta cũng giống như thành phố Boston, do ảnh hưởng của tội nguyên tổ, chúng ta đã có những đồi núi kiêu ngạo, những thung lũng ích kỷ hẹp hòi, ngày xưa khi còn bé tâm hồn chúng ta đơn sơ, nhưng rồi lớn lên chung đụng và do ảnh hưởng của xã hội, chúng ta đã xây thêm cho mình những cây cầu tự ái khoe khoang, đã làm thêm những con đường hầm u tối của tội lỗi kỳ thị thiên lệch, đã tạo nên những con đường quanh co của gian dối thiếu công bằng. Chúng ta đã mua sắm đưa vào tâm hồn chúng ta thêm nhiều xe cộ đồ đạc dư thừa không cần thiết để rồi làm cản trở lưu thông, cản trở chúng ta đến với Chúa.
Một lần khác, đi từ Toronto, Canada về Mỹ phải đi qua một cây cầu nối giữa hai nước. Nếu không có cây cầu này thật khó mà qua lại với nhau. Tuy rằng có được cây cầu nối liền hai nước là một chuyện cần thiết nhưng có sang đến được với nhau hay không lại là một chuyện khác, vì đến trạm kiểm soát thấy có những người Canada phải quay xe trở lại không vào Mỹ được, có lẽ vì thiếu giấy tờ hay trục trặc chuyện chi đó nên nhân viên an ninh di trú của Mỹ không cho vào, sợ vào rồi ở lậu làm thiệt hại cho nước Mỹ.
Liên tưởng tới ơn cứu chuộc, Chúa Kitô đã đến trần gian bắc một cây cầu nối liền giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và nhân loại, để nhân loại và Thien Chúa có thể gặp gỡ nhau, nhưng điều đáng buồn là Thiên Chúa đến, nhưng con người, vì lý do nào đó, nhiều khi đã không để cho Thiên Chúa nhập cảnh, không cho phép Thiên Chúa định cư sống với con người, trái ngược lại với lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong năm Thánh 2000: Hãy mở rộng cửa đón nhận Chúa Kitô.
Rồi mới đây, có dịp từ Houston đi Port Arthur, Texas để thăm hai cha bạn chúc mừng và chung vui với các ngài có được ngôi thánh đường mới. Một điều làm ngạc nhiên thích thú là con đường 73 dẫn tới Port Arthur nay được mở rộng chạy hai chiều bằng phẳng thoải mái. Trước đây, đoạn đường Houston-Port Arthur phải chạy mất khoảng 1 giờ 45 phút hoặc 2 giờ đồng hồ xe hơi, nhưng nay thời gian đã có thể rút ngắn đi nhiều. Câu hỏi được nêu lên là con đường từ ta đến với Chúa và đến với anh chị em phải chăng cũng đã được mở rộng để chúng ta có thể gặp Chúa và anh chị em một cách mau lẹ hơn, an bình hơn đem lại nhiều niềm vui niềm hạnh phúc? Để có được con đường tốt, bằng phẳng rộng rãi dễ đi, người ta đã phải tốn nhiều tiền bạc, thời giờ, cũng như nhân lực... Để con đường dẫn đến với Chúa được dễ dàng, phải chăng chúng ta cũng đã đang can đảm hy sinh dấn thân?
Mùa Vọng là thời điểm thuận lợi mời gọi mỗi người chúng ta kiểm điểm lại con đường dẫn đến tới Chúa. Nếu khi Chúa đến, Chúa thấy con đường chúng ta không còn "hố sâu, núi đồi, cong queo, gồ ghề, và mọi người đã gặp thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa" thì Năm nay sẽ là một Năm đầy ý nghĩa.
81. Dọn Đường Tâm Hồn
(Suy niệm của Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CRM)
Trong Mùa vọng, có lẽ một nhân vật được nhắc đến nhiều nhất trong các bài đọc đó là Gioan Tẩy Giả, và có thể nói ông là một trong những mẫu gương sống Mùa Vọng tuyệt vời nhất.
Tuổi đời chỉ sống hơn 30 năm, nhưng ông từ bỏ gia đình mà vào trong sa mạc để tìm thánh ý Chúa, và sống liên kết mật thiết với Chúa. Nhờ đó ông trở thành vị tiền hô cho Đấng Cứu Thế, kêu gọi dân chúng đổi mới tâm hồn, để đón mừng Đấng Cứu Độ trần gian.
Chúng ta biết, hoang địa là nơi vắng bóng người ở, một nơi trơ trụi, thiếu sự sống, khí hậu khắc nghiệt, nhưng chính nhờ môi trường thanh vắng này, mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành hơn trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa. Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng tiền hô của mình, nhưng ông vẫn kiên nhẫn chờ đợi cho đến thời, đến buổi ông nghe thấy tiếng Chúa ngỏ lời với ông.
Tiếng Chúa thúc đẩy ông ra khỏi hoang địa, để đi trước Chúa mở lối cho Ngài.
Tiếng Chúa ông nghe trong hoang địa, đã trở thành Lời Chúa ông công bố nơi phố thị.
Tiếng Chúa gọi ông nghe trong thầm lặng, nay trở thành tiếng hô lớn, mời gọi dân chúng hoán cải, thay lối đổi đường.
Ông kêu gọi dân chúng sám hối sửa lại con đường tâm hồn, để chào đón Vua Giêsu ngự đến.
Việc sám hối không chỉ là một vài giờ tĩnh tâm, hay đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ tận căn những tính hư tật xấu, để Chúa có thể dễ dàng ngự đến và ở lại với chúng ta.
Thật ra Chúa đã đến trần gian từ lâu rồi, nhưng nhiều khi chúng ta chưa đón nhận được Ngài, bởi vì con đường tâm hồn chúng ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo thích nâng mình lên, tự hào về khả năng của mình, luôn cho mình là tài giỏi hơn người khác, không bao giờ chịu thua kém bất cứ ai. Nếu có ai khen thì vui vẻ, còn ngược lại ai chê một chút thì tự ái khó chịu. Xin hãy hạ mình uống với lòng khiêm tốn như Gioan Tẩy Giả.
Để Chúa được vinh quang, Gioan phải khiêm nhường. Để Chúa được nhận biết, Gioan phải quên mình. Để Chúa được nổi lên, Gioan phải chìm xuống. Gioan hiểu rõ điều đó, nên ông không ngừng hạ mình khiêm nhường trong lời nói cũng như trong cách ứng xử.
Khi uy tín của ông lan rộng, người ta tưởng là Đấng Cứu Thế, nhưng ông khiêm tốn nhìn nhận: “Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc. Đấng đến sau tôi uy quyền hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Ngài; Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ bé đi”.
Tâm hồn chúng ta có những hố sâu ích kỷ, chỉ lo vun đắp cho mình, mà không hề biết quan tâm giúp đỡ người khác. Chúng ta không phải là “đấng toàn năng”, làm được mọi sự. Do đó chúng ta cần sự giúp đỡ của người khác. Không ai dám vỗ ngực là mình không cần đến ai. Vì thế, nhu cầu cần được người khác giúp đỡ đó là nhu cầu của mọi người.
Noi gương Gioan Tẩy Giả, chúng ta biết nhỏ đi mỗi ngày trong cái tôi ích kỷ, trong những tính hư tật xấu; biết quên mình khi phụng sự Chúa và quảng đại giúp đỡ nhau.
Tâm hồn chúng ta đôi khi có những khúc quanh co dối trá, trong lời ăn, tiếng nói và việc làm, sống không thành thật với Chúa; không thành thật với nhau. Xin hãy uốn lại với lòng thành thật theo Tin Mừng Chúa dạy.
Tâm hồn chúng ta có những lượn sóng gồ ghề, khó tính khó nết, khó sống với người khác, hay than thân trách phận, không bằng lòng với số phận của mình. Xin hãy noi gương Gioan Tẩy Giả đã bỏ thành phố ồn ào náo nhiệt, vào sống trong sa mạc thanh vắng thiếu thốn mọi sự, để sống thân mật với Chúa.
Mùa Vọng, chúng ta cũng cần vào trong sa mạc tâm hồn, nghĩa là sống nội tâm hơn, để sống kết hiệp với Chúa qua đời sống cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận các Bí Tích.
Gioan Tẩy Giả đã khước từ những thức ăn cao lương mỹ vị, ông chỉ dùng những thức ăn đơn sơ đạm bạc của núi rừng. Ngài từ bỏ quần áo lụa là, chỉ khoác trên mình tấm da thú che thân.
Noi gương ông, chúng ta cũng phải vui lòng chấp nhận mọi hoàn cảnh mà Chúa an bài gửi đến, như bị bệnh tật, bị con cháu bỏ rơi, bị thiếu thốn cách này, cách khác, để nên giống Chúa Giêsu Đấng là giàu có nhưng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta.
Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô chuẩn bị cho Chúa đến lần thứ I. Chúng ta phải là những tiền hô thời đại mới chuẩn bị cho Chúa đến lần thứ II. Làm tiền hô cho quê hương của mình, cho môi trường mình đang sinh sống, đó là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu chúng ta. Ơn cứu độ đã đến từ hơn hai ngàn năm nay rồi, nhưng vẫn thiếu vắng những con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp gỡ con người. Vì thế, chúng ta cầu nguyện cho nhau, và xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nỗ lực sửa lại mọi sự trong ngoài chúng ta. Biến chúng ta thành những con đường mới bằng phẳng trong tâm hồn, để Chúa dễ dàng đến ở cùng chúng ta, đồng thời chúng ta cũng dễ dàng đến với nhau.
82. Đại lượng đón Chúa – Lm. Phạm Quốc Hưng
Đón tiếp người khác hay tiếp khách là một trong việc chúng ta vẫn thường làm trong đời sống hàng ngày. Điều này xảy ra trong mọi lãnh vực của xã hội từ việc đón tiếp một người thân yêu, một ân nhân hay bằng hữu trong sinh hoạt cá nhân hay gia đình, cho đến việc đón tiếp các bậc vị vọng trong đạo hay ngoài đời trong các đoàn thể xã hội hay tôn giáo, trong phạm vi quốc gia hay quốc tế. Cách thức chúng ta chuẩn bị để đón tiếp một người tùy thuộc rất nhiều vào yếu tố người ấy là ai, người ấy liên hệ thế nào với chúng ta, người ấy đã làm gì cho chúng ta, và việc đón tiếp của chúng ta dành cho người ấy sẽ ảnh hưởng thế nào đến liên hệ giữa người ấy và chúng ta.
Một trong những chủ đề nổi bật trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay là lời mời gọi Dân Chúa phải chuẩn bị đón Chúa. Đây cũng là chủ đề then chốt của Mùa Vọng. Thật vậy, ngày xưa Dân Chúa trong Cựu Ước được các ngôn sứ kêu mời để trông mong Đấng Thiên Sai, Đấng nhân danh Chúa sẽ đến để giải phóng họ. Bài đọc một trích sách Ngôn Sứ Barúc nhắc cho chúng ta biết một chân lý thật cảm động: đó là khi mời gọi Dân Chúa chuẩn bị dọn đường mừng đón Chúa nơi Đấng Thiên Sai thì chính Chúa đã thương yêu và dọn đường cho Dân Chúa đi đến vinh quang: “Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây tập họp lại theo lệnh của Đấng Thánh, họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã đưa họ về cho ngươi trong vinh dự như những hoàng tử.
Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa. Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm đã cho Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn dắt Israel đến ánh vinh quang” (Br 5:5-9).
Cũng vậy, trong Thánh Vịnh 125 được trích dẫn để dùng trong phần đáp ca của Phụng Vụ hôm nay, Thánh Vịnh Gia đã diễn tả niềm vui lớn lao của Dân Chúa khi Chúa đưa dẫn họ từ chốn lưu đầy về quê cha đất tổ, đã thay đổi số phận của họ, đã cư xử với họ một cách hết sức quảng đại và đầy tình thương. Câu điệp ca tóm gọn lý do đem lại niềm vui của Dân Chúa như sau: “Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi, nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan” (Tv 125:3).
Chúa Giêsu Kitô-Đấng Cứu Chuộc Nhân Thế mà các tổ phụ và ngôn sứ hàng trông mong -đã đến và hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại bằng việc nhập thể, giáng sinh, cuộc đời rao giảng, cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người. Như vậy, nơi Chúa Kitô lòng thương yêu đại lượng của Thiên Chúa dành cho nhân loại đã được thể hiện cách trọn vẹn. Vì vậy, tin vào lời Chúa hứa ngày nay Hội Thánh tiếp tục nhắc nhở và mời gọi chúng ta phải tha thiết trông mong và nỗ lực chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại lần thứ hai trong vinh quang.
Chúng ta phải đón tiếp Chúa Giêsu như thế nào? Người là vị khách cao cả và quyền uy trên mọi vị khách, Đấng hằng thi ân cho chúng ta hơn mọi ân nhân khác, Đấng luôn yêu thương chúng ta hơn mọi người thân yêu khác, và Đấng sẽ có thể làm cho chúng ta những điều tốt lành quý giá hơn cả những gì chúng ta có thể mơ ước và cầu xin!
Chính Thiên Chúa đã giúp chúng ta thực hiện việc đón tiếp Chúa Cứu Thế một cách xứng hợp như lòng Người mong muốn qua ơn gọi và sứ mạng của Thánh Gioan Tiền Hô. Tin Mừng hôm nay tóm gọn ơn gọi và sứ mạng của Gioan bằng những lời sau của ngôn sứ Isaia: “Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng; hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3:4-6).
Lời mời gọi chuẩn bị đón Chúa ở đây không gì khác hơn là lời mời gọi sám hối và hoán cải. Lời mời gọi này sẽ được chính Chúa Giêsu lập lại trong lời rao giảng công khai đầu tiên của Người: “Thời kỳ đã mãn. Nước Thiên Chúa đã đến gần! Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15).
Việc hoán cải này được ngôn sứ Isaia diễn tả cách cụ thể bằng những hình ảnh với những ý nghĩa sau:
1. “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” và “đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng”: phải chấm dứt lối sống tà vạy, gian dối, quanh co, hai lòng để sống với lòng đơn sơ ngay thật.
2. “Hãy lấp mọi hố sâu”: phải lấp đầy hố sâu của lòng tham lam bằng tinh thần nghèo khó và chia sẻ; lấp đầy hố sâu của lòng ganh ghét hận thù bằng lòng yêu thương chân thật; lấp đầy hố sâu của thành kiến và chia rẽ bằng tinh thần đối thoại và hiệp nhất.
3. “Hãy bạt mọi núi đồi”: phải bạt mọi núi đồi của tính tự kiêu tự đại và những tham vọng bất chính bằng tinh thần khiêm nhu tự hạ của Chúa Giêsu, để ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân.
4. “Con đường gồ ghề hãy san cho bằng”: phải san bằng con đường gồ ghề của ý riêng và lòng tự ái, để ta có thể sống bình an với Thiên Chúa và tha nhân qua việc chuyên chăm thực thi Thánh Ý Chúa với tinh thần xả kỷ vị tha.
Con đường phải sửa chữa ở đây để đón Chúa chính là tâm hồn, con người và cuộc sống của mỗi người chúng ta. Con đường ấy phải được sửa chữa lại theo khuôn mẫu của chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên ngôn: “Ta là Đường là Sự Thật và là Sự Sống”(Jn 14:6). Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta phải hoán cải tâm hồn để chúng ta có được nơi mình “tâm tư như đã có nơi Đức Kitô” (Pl 2:5). Đó là con đường duy nhất đưa đến sự sống thần linh của tình yêu và sự thật.
Vì thế, tất cả nỗ lực chuẩn bị đón Chúa phải được thực hiện trong tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Đây chính là lý do khiến Thánh Phaolô trong bài đọc hai của Phụng Vụ hôm nay đã tha thiết cầu xin cho các tín hữu của người. Thánh nhân viết:
“Vì Thiên Chúa làm chứng cho tôi rằng: tôi yêu mến tất cả anh em với tâm tình của Đức Giêsu Kitô. Điều tôi cầu nguyện cho anh em là lòng bác ái của anh em ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu, để anh em xác định những điều quan trọng hơn, để anh em được trong sạch và không có gì đáng trách cho đến ngày của Đức Kitô, anh em được Đức Giêsu Kitô ban cho dư đầy hoa quả công chính, hầu tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa” (Pl 4:8-11).
Cũng vậy, một tác giả trong thứ kỷ thứ hai xác quyết rằng lòng yêu thương giúp đỡ tha nhân kèm với tinh thần cầu nguyện hãm mình luôn gắn liền và chiếm chỗ nhất trong việc hoán cải để dọn đường cho Chúa đến: “…bố thí là một cách sám hối rất tốt.
Ăn chay tốt hơn cầu nguyện, nhưng bố thí tốt hơn cả hai. Lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi, nhưng lời cầu nguyện phát xuất từ lương tâm ngay lành sẽ giải thoát cho khỏi cái chết. Phúc cho ai được coi là hoàn hảo trong những việc ấy, vì bố thí sẽ làm cho cho gánh tội nhẹ đi” (Kinh Sách Thứ Sáu tuần XXXII thường niên).
Tóm lại, Thiên Chúa đã tỏ ra đại lượng vô cùng trong việc đối xử với chúng ta trong việc đã ban tặng chúng ta Con Một Người là Chúa Giêsu Kitô. Cũng vậy, Người cũng muốn chúng ta noi gương Người trong việc đại lượng chuẩn bị đón Chúa Giêsu trở lại lần thứ hai qua việc tận tình hoán cải để trở nên giống Chúa Giêsu, bằng cách chuyên chăm cầu nguyện hãm mình và thực thi bác ái với tha nhân. Đó chính là cách chuẩn bị đón Chúa tốt đẹp nhất. Và đó cũng là cách thức để đón nhận niềm vui ơn cứu độ mà Chúa Cứu Thế đã mang lại cho chúng ta.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy con biết quảng đại và nồng nhiệt trong việc chuẩn bị đón Chúa Giêsu Con Mẹ trở lại trong vinh quang, bằng đời sống chuyên chăm cầu nguyện, hy sinh xả kỷ và yêu thương phục vụ tha nhân. Amen.
83. Sự khiêm nhường đích thực
(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến - ‘Bước theo’)
Chương 3 Tin Mừng (Lc 1-6) hôm nay, giới thiệu Gioan Tẩy giả, sứ giả của Đấng Cứu Thế, được trình bày từ câu 1 – 6. Diễn tả hai ý nghĩa quan trọng:
- Một là: -thời gian và hoàn cảnh lịch sử, địa điểm có thật trong nước Do-thái, những sự kiện ấy chứng minh sự thật về Gioan Tẩy giả, và Gioan Tẩy giả là chứng về Đấng Cứu Thế.
Hai là: - kêu gọi sự sám hối và phép rửa.
Như vậy, khi Đấng Cứu Thế đến là lúc người ta sắp được đón nhận một sự kiện trọng đại từ thời cựu ước. Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu chuộc cho con người. Một tâm trạng háo hức và đón chờ. Đón chờ Đấng cứu chuộc đến bằng một thái độ sám hối.
Vậy sám hối có ý nghĩa gì? Tại sao phải sám hối?
Thưa sám hối là một tâm trạng cần thiết để đón nhận tình thương của Thiên Chúa, vì ơn tha thứ và cứu chuộc của Thiên Chúa không phải là những hình thức bên ngoài, mà là chính nội tâm của con người. Ta thử đặt mình vào hòan cảnh lúc bấy giờ của người Do- thái khi họ sống tâm trạng mong đợi Đấng Cứu Thế. Lúc đầu họ lầm tưởng Gioan Tẩy giả là Đấng Cứu Thế.
Nhưng Gioan Tẩy Gỉa không mạo nhận, vì sao? Thưa vì ,ông làm chứng cho sự thật, chứ ông không phải là sự thật. Sự thật chính là Đấng Cứu Thế. Như vậy cho thấy sự mong đợi Đấng Cứu Thế đến, của người Do- thái như thế nào? Họ háo hức, chờ mong rất mãnh liệt, nhưng sự chờ mong ấy không bằng nội tâm mà bằng hình thức. Nên chi, khi Gioan Tẩy Gỉa làm phép rửa cho họ, thì họ chen chúc nhau để được làm phép rửa. Phép rửa mà Gioan Tẩy giả làm cho họ, không phải là ơn cứu độ, mà là hình thức để sám hối. Nhưng họ chen chúc nhau để lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả, nhưng ông đã mắng họ:”
Hỡi những loài rắn độc kia, ai chỉ cho các ngươi trốn khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, sắp giáng xuống trên các ngươi vậy?” (c 7). Rõ ràng là họ không ý thức được ơn Cứu Độ. Nhưng sự kêu gọi của Gioan Tẩy giả chính là phải thay đổi nội tâm từ bên trong con người. Nội tâm, bên trong của con người rất đáng sợ vì “Bên ngoài thì thơn thớt nói cười, nhưng bên trong nham hiểm giết người không đao” hay là “sông sâu còn có chổ dò, nhưng ai lấy thước mà đó lòng người.”. Nên chi, nội tâm là điều quan trọng, điều mà Thiên Chúa muốn là nội tâm của con người. Đấng Cứu Thế, chính là ơn cứu độ đến, Nhưng Đấng Thiên Sai đến không phải bằng quân đội hùng mạnh, không phải bằng những phương tiện hiện đại của trần thế mà là bằng một sự khiêm nhường rốt cùng, bằng một kiếp người đơn sơ, khiêm hạ.
Như vậy, tiếng kêu trong hoang địa của Gioan Tẩy giả là một phương tức sám hối.Sám hối là một tâm trạng cần thiết để đón chờ Ngôi Hai NhậpThể. Vì nếu con người không có tâm trang đón chờ từ bên trong, thí ơn cứu độ không có ý nghĩa gì. Lúc đó, lãnh nhận phép rửa ở bên ngoài, khác gì hòn đá bị bám bụi, được ta rửa bên ngoài, còn bên trong vẫn là đá. Sự sám hối bắt đầu bằng sự nhận thức khiêm nhường, chỉ có khiêm nhường mới nhìn nhận giá trị đích thực của thân phận con người mà thôi. Vì khiêm nhường càng thẳm sâu, thì đón nhận càng nhiều. Khiêm nhường chính là nhìn nhận sự thật, nhìn thấy đâu là thân phận mỏng giòn, đâu là Thiên Chúa, đâu là nhân thế?
Như vậy, đón chờ lễ Giáng Sinh của Con Thiên Chúa làm Người, là đón chờ một mầu nhiệm của sự nội tâm ,của sám hối, của tình thương bằng sự khiêm nhường đích thực như Ngôi hai nhập thể và nhập thế, chứ không phải bằng những hình thức bên ngoài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến và đang đến trong thế gian bằng con đường khiêm hạ và vâng lời. Đó là điều mà Chúa muốn cho chúng con noi theo, xin thương ban cho chúng con biết nhận ra giá trị đích thực của Chúa bằng con đường khiêm tốn và sám hối. Amen.
84. Sám hối là món quà quý giá nhất
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Lc 3:1-6: Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị con đường tâm hồn, để trở nên trong sạch, thênh thang nhờ gạt bỏ những vẩn đục của tham lam, ích kỷ, gian dối, kiêu ngạo...
Người Hồi Giáo Ảrập có kể một giai thoại nói về sám hối rất hay: một ngày kia, Đức Thánh Ala cho gọi một thiên sứ đến và bảo: "Ngươi xuống trần gian kiếm cái quý giá nhất của con người và mang về đây cho Ta". Thiên sứ ra đi thi hành mệnh lệnh.
Lần đầu tiên, ngài mang về cho Đức Thánh Ala một bình máu của các chiến sĩ mà ngài hứng được trong trận chiến giữa người Hồi và người Ấn Giáo (đó là máu của các vị tử đạo theo quan niệm của người Hồi Giáo). Lần thứ hai thiên sứ mang về là hương thơm của lòng biết ơn mà người dân dành cho vị trưởng làng qua cái chết của ông. Cả hai lần, Đức Thánh Ala rất vui, vì đó là những điều quý ở trần gian mà sứ thần tìm kiếm được. Tuy nhiên, đây vẫn không phải là món quà quý giá mà Đức Thánh Ala muốn tìm. Và, Ngài lại sai thiên sứ đi lần thứ ba. Lần này, thiên sứ vừa đi vừa suy nghĩ, điều quý giá nhất ở trần gian là cái gì? Bỗng nhiên, từ đàng xa, thiên sứ nghe thấy tiếng khóc của một phụ nữ. Đến gần, thiên sứ cảm thương hỏi: "sao cô khóc"? Không có tiếng trả lời! cô gái lại càng khóc nức nở hơn trước. Bấy giờ vị thiên sứ tiến lại gần nắm lấy tay cô và hỏi: "sao cô khóc nhiều đến thế, có gì nói cho tôi nghe với"? Bấy giờ có tiếng nói từ miệng cô thoát ra hòa lẫn tiếng nấc cùng với dòng nước mắt tuôn rơi. Cô gái nói: "thưa ngài con đau khổ quá, con đau khổ vì lỗi lầm của con, con đã xúc phạm đến nhiều người và làm trái với lòng mình... Bây giờ con hối hận lắm...". Thật cảm động! thiên sứ liền hứng những giọt nước mắt của cô mang về cho Đức Thánh Ala. Lần này Ngài vui mừng và reo lên: "đây chính là điều Ta mong muốn. Giọt nước mắt của lòng sám hối chính là món quà quý giá nhất mà Ta cần".
Bài Tin Mừng hôm nay, thuật lại việc Gioan Tiền Hô loan báo và kêu gọi dân chúng ăn năn sám hối, vì ơn cứu độ đã gần đến. Vậy ăn năn sám hối là gì?
Trước tiên, sám hối là quay trở về với Chúa, xin ơn tha thứ và từ bỏ con đường tội lỗi. Sám hối là một động tác gột rửa tâm hồn, để sống cho hợp với ý Chúa, đem lại bình an nội tâm và liên đới với mọi người.
Thứ đến, sám hối còn là hành vi mong chờ ơn cứu độ: "Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến". Phải chăng vì thế mà động từ "gần đến" của Gioan ở đây có thể hiểu được là sắp đến lễ Giáng Sinh. Và, cũng có thể hiểu là ngày "gần đến" của ơn cứu độ, ngày cánh chung của mỗi người chúng ta.
Tiếp theo, sám hối là làm mới lại tinh thần, canh tân đời sống và thay đổi não trạng cũ để đổi lấy tâm tình mới.
Tinh thần đó, được thánh Gioan vạch ra cho những người đương thời với ngài, và cũng là cho mỗi người chúng ta: "Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng" (Lc 3,5).
Thung lũng ở đây là những tham lam ích kỷ, hẹp hòi nhỏ nhen, ăn chơi vô độ, chỉ biết thu góp cho mình, bất chấp mọi điều bất chính. Đồng thời phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Có thì nói có, không thì nói không. Thêm điều bịa đặt là do Ma Quỷ. Mặt khác, phải san cho phẳng những núi đồi của sự kiêu ngạo và tự mãn. Ai kiêu ngạo thì sẽ chết trên đỉnh cao của sự tự phụ. Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và nâng đỡ những người khiêm nhường. Và, phải bạt cho bằng những gồ ghề, lồi lõm của bất công, bất chính.
Thiết nghĩ, hành động cụ thể nhằm đáp lại lời mời gọi của thánh Gioan hôm nay và cũng là thể hiện lòng sám hối chân thành, chính là: phải lấp thật đầy những hố sâu ngăn cách bằng sự quan tâm, chia sẻ với những người bất hạnh, người khổ đau, nghèo đói. Sẵn sàng đến với những người bé mọn, kém may mắn để nâng đỡ, yêu thương và lắng nghe họ.... luôn trung thành với lương tâm và đứng về phía sự thật, dầu có phải chết. Quyết không bao giờ đứng về phía bất công, không vì lợi nhuận trước mắt mà bán đứng anh chị em đồng loại, đồng thời cũng đừng bao giờ lên án cách bất công người khác. Và, hãy ý thức những giới hạn của bản thân, để cần đến ơn Chúa trợ giúp.
Nếu Gioan là vị Tiền Hô kêu gọi sám hối để chuẩn bị đón Chúa ngự đến, thì chúng ta là những người sống lời loan báo ấy và làm cho tiếng hô của Gioan âm vang trong xã hội và lòng người hôm nay.
Tắt một lời, sám hối là trở về với Chúa và xin ơn tha thứ của Người. Sám hối là để nhận ra những thiếu sót của mình. Biết khiêm tốn sửa sai, để liên đới, lắng nghe và yêu thương anh chị em đồng loại. Cuối cùng, sám hối là canh tân, là đổi mới để đón nhận ơn cứu độ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị con đường tâm hồn, để trở nên trong sạch, thênh thang nhờ gạt bỏ những vẩn đục của tham lam, ích kỷ, gian dối, kiêu ngạo...để trở thành đại lộ yêu thương, xứng đáng đón Chúa ngự đến trong đêm Giáng Sinh và ngày cánh chung của mỗi người chúng ta.
Như vậy, sám hối là món quà quý giá nhất mà chúng ta dâng lên cho Chúa trong Mùa Vọng này.
Lạy Chúa, xin cho con có được tâm tình sám hối. Sám hối với Chúa và tạ lỗi với anh chị em mình. Biết khiêm tốn nhìn nhận mình yếu đuối để canh tân, đổi mới. Ước gì con đường tâm hồn chúng con không còn những thung lũng, gồ ghề, cong queo, nhưng thay vào đó là một con đường khiêm nhường, trong sạch và chân thật, để đón Chúa ngự đến. "Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến". Amen.
85. Dọn đường cho ơn cứu độ phổ quát
(Suy niệm của Lm. Phêrô Phan Văn Lợi)
Luca là tác giả phúc âm về lịch sử cứu độ, ông triển khai lịch sử này thành ba phân cảnh hay thành một bức tam bình, chẳng hạn như trong câu rất cô đặc sau đây: "Cho đến thời ông Gioan, thì có Luật và các ngôn sứ (Israen); từ thời đó thì Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo (Đức Giêsu), và ai cũng dùng sức mạnh mà vào (Giáo Hội)" (16,16). Luca cũng thích dựng lên nhiều hàng hiên (trụ lang) qua đó ông đưa chúng ta long trọng đi vào lịch sử. Khi Đức Giêsu sinh ra thì: "Thời ấy, hoàng đế Augustô ra chiếu chỉ..." (2,1). Khi Người khởi sự cuộc sống công khai, với Gioan Tẩy giả kéo màn, như trong bài Tin Mừng hôm nay, thì: "Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn, Hêrôđê làm tiểu vương... Khanan và Caipha làm thượng tế..."
1. Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người...
Tại sao Luca đã quy tụ cả một loạt nhân vật lịch sử như vậy chung quanh chân trời từ đó Đức Giêsu sắp nổi lên? Đó là vì ông muốn trình bày cho thấy chúng ta chẳng phải sắp trải qua một kinh nghiệm thần bí, khôn tả và nội tâm, nhưng sắp chứng kiến một sự xâm nhập của Thiên Chúa vào bên trong những năm tháng và những con đường của loài người, nghĩa là vào bên trong lịch sử nhân loại. Trung tâm điểm và độc đáo tính của Kitô giáo là thế, sự lạ bất ngờ ta phải loan báo là thế. Như một triết gia Kitô giáo Đan mạch thế kỷ vừa qua là Soren Kierkegaard đã viết, hai thế giới của Thiên Chúa và của con người, của trời và của đất trong Đức Kitô đã đụng chạm nhau, không phải để nổ tung nhưng là để kết hợp. Hầu thực hiện một công trình vĩ đại là ban bố ơn cứu độ phổ quát.
Quả thế, lời mở đầu với những nhân vật đương thời vừa thấy là tiếng cồng lớn nhất của lịch sử, công bố một chuyện phi thường: "Mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa". Điều mà cụ già Simêon đã loan báo cách âm thầm hơn: "Chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho mọi người: Israen và dân ngoại". Chúng ta đã thường quá thu hẹp các chân trời này, lãng quên hạng người đầu, loại bỏ hạng người sau. Và chúng ta luôn liều mình đánh mất, trên các con đường của lịch sử, cái lẽ ra phải là nỗi ám ảnh của chúng ta: Thiên Chúa là Thiên Chúa của mọi người, Người muốn cứu họ tất cả. Như Đức Gioan-Phaolô II nói trong số 5 sứ điệp Truyền giáo năm 2000: "Viễn cảnh cuộc Đại Toàn xá chúng ta đang cử hành, cũng dẫn chúng ta tới một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ hơn cho muôn dân. Hai ngàn năm sau khi việc truyền giáo khởi sự, vẫn còn nhiều khu vực địa lý, văn hóa, nhân loại và xã hội rộng lớn trong đó Đức Kitô và Tin mừng của Người chưa xâm nhập vào... Chúng ta phải xác tín sâu xa rằng phúc âm hóa là một việc phục vụ tuyệt hảo làm cho nhân loại, vì nó chuẩn bị cho nhân loại thực hiện chương trình của TC, Đấng muốn tất cả mọi người kết hiệp với mình, để biến họ thành một dân gồm những anh chị em được giải thoát khỏi những bất công và được sinh động bởi những tâm tình liên đới đích thực".
Người muốn thực hiện tất cả những điều ấy nhờ Đấng Mêsia. Dân Do thái thời ấy nóng lòng chờ đợi vị này tới độ trái tim họ bắt đầu đập khi nhìn nhà ngôn sứ mới, Gioan Tẩy giả: "Biết đâu ông ta lại chẳng là Đấng Mêsia!" Thế nhưng, sẽ có điều lạ thường hơn nữa! Rồi đây, nhờ Tin Mừng, nhờ cuộc Phục sinh và nhờ cuộc Hiện xuống, những người Do thái độc thần cách quyết liệt sẽ thấy mở ra trước mắt cũng như được mời gọi đón nhận điều không thể tưởng tượng: Đấng Mêsia, ấy là Đức Giêsu, và Đức Giêsu lại là Thiên Chúa. Và Gioan Tẩy giả đã phác họa chân dung đầu tiên về Người: "Một Đấng quyền thế hơn tôi đang đến...". Nhưng cũng sẽ phải cần các đại thần học gia của những thế kỷ đầu, kinh nghiệm của các thánh, và nhất là Thánh Thần, mới ấp úng được điều không thể trình bày: Thiên Chúa độc nhất là Cha, Con và Thánh Thần; và Ngôi Con đã nhập thể, dưới triều hoàng đế Augustô và hoàng đế Tibêriô.
2.... qua việc hoán cải bản thân chúng ta.
Mùa Vọng đặt ta lại trước các chân trời bao la ấy của ơn cứu độ, ơn cứu độ dành cho mọi người mà Chúa Cha đã sai Con mình đến với. Nhưng còn phải đón nhận Người Con đó! Và Gioan Tẩy giả, con người trần trụi trước đám nhân vật tai to mặt lớn trong thiên hạ đương thời, đã yêu cầu chúng ta chuẩn bị cho Người một con đường, một lời yêu cầu không khoan nhượng, đầy thách thức. Muốn hiểu con đường này, ta hãy lên lại bài đọc thứ nhất hôm nay, trong đó ngôn sứ Barúc (5,7), bắt chước Isaia, đã viết: "Thiên Chúa đã ra lệnh bạt thấp mọi núi cao và gò nổng có tự lâu đời, lấp đầy các thung lũng, cho mặt đất trở nên bằng phẳng, để Israen tiến bước vững vàng dưới ánh vinh quang của Thiên Chúa". Thành thử con đường ấy là con đường thẳng, hướng đến một mục tiêu có ánh sáng tràn ngập. Đó là "con đường thiêng" (thần lộ) mà ở Tây Á cổ vẫn thường được xây dựng trước các đền thờ: chúng phải thật bằng phẳng và thẳng tắp, dấu chỉ sự hoàn hảo và niềm hân hoan.
Đây là một hình ảnh nhắc cho kitô hữu chúng ta nhớ rằng để gặp Đấng Mêsia đang đến, gặp ánh sáng của tương lai, gặp niềm vui của tự do trọn vẹn, chúng ta phải mở cho được một con đường thẳng giữa bao chuyển động quanh co của lịch sử, bao mưu toan mờ ám nhằm áp đặt ách toàn trị độc tài; phải kiên trì phá hủy các ngọn núi của chủ nghĩa vô thần hay của thói thờ ngẫu tượng vốn án ngữ chân trời của chúng ta; phải lấp đầy vực sâu của phi lý, của vô nghĩa, của trống rỗng nội tâm tạo nên bởi một não trạng duy vật hưởng thụ. Cụ thể nơi bản thân và trong hoàn cảnh chúng ta, "giải tỏa" và "dọn sạch" thần lộ là làm bay tung những cánh cửa gài then quá chặt vì sợ hãi, chẳng dám công khai lên tiếng trước quyền lực bất công, là phá hủy những ngọn núi ngập ngừng và vấn nạn, chẳng muốn dấn thân để làm chứng nhân cho chân lý, lý luận rằng chỉ cần làm chứng nhân cho bác ái đã đủ, là lấp đầy những hố sâu ích kỷ, chỉ tìm an thân và dễ dãi cho chính mình, tìm ân huệ từ những kẻ nắm quyền lực, bất chấp chuyện anh em mình đang đau khổ vì mất những điều kiện căn bản để làm con người và làm con Chúa. Như Đức Gioan-Phaolô II đã nói trên đây: "Chương trình TC là muốn tất cả mọi người kết hiệp với mình, để biến họ thành một dân gồm những anh chị em được giải thoát khỏi những bất công và được sinh động bởi những tâm tình liên đới đích thực". Đây là một công việc đầy kiên nhẫn và can đảm, vì đòi trả giá bằng mồ hôi và nước mắt; nhưng cuối cùng trên con đường ấy, sẽ đi vào một đoàn người thật đông đảo "thuộc mọi dân, mọi nước, mọi chi tộc và mọi ngôn ngữ", như Khải huyền sẽ mô tả (7,9).
Thưa với Chúa mùa Vọng: "Xin đến cứu hết thảy chúng con!" sẽ là một lời cầu nguyện của kẻ mơ mộng nếu nó không làm ta nhớ tới cái phải được cứu trong mỗi người chúng ta.
Nghe một lãnh chúa Tây Ban Nha phàn nàn: "Mọi chuyện ra tồi tệ!", thánh Phêrô Alcantara đã trả lời: "Nếu ông tạo cho mình một con tim nhân lành, thì chính một phần của thế giới đã nên tốt đẹp".
Bà Elisabeth Leseur, một giáo dân sắp được Giáo Hội đưa lên bàn thờ, cũng trong hoàn cảnh tương tự. Chồng bà là một nhà trí thức vô thần hết sức cực đoan. Không làm sao khuyên nhủ được chồng, bà đã cố gắng làm một người vợ rất hiền thảo và làm một tín hữu rất thánh thiện. Bao nhiêu tâm sự chẳng bày tỏ được với chồng, bà đã bày tỏ với Chúa trong nhật ký. Sau khi bà chết, ông Leseur không khỏi tiếc thương người vợ có tâm hồn quảng đại dịu dàng của mình, và vì muốn "đập cổ kính ra tìm lấy bóng, xếp tàn y lại để dành hơi", ông đã lục tìm những tập nhật ký của bà để đọc. Ông đã say sưa theo dõi từng hàng chữ tâm sự và đã hiểu ra ước vọng tha thiết của vợ là thấy ông nhìn nhận trở lại tình yêu của Thiên Chúa. Cuối cùng thì ông đã hồi tâm, xin học giáo lý và chịu bí tích Thánh tẩy năm 1915. Không bao lâu sau đó, ông xin vào nhà tập dòng Đa Minh, nơi đây ông thành tâm kiên nhẫn theo đuổi cuộc sống tu trì và được thụ phong linh mục. Khi gương sống thánh thiện của bà Elisabeth Leseur bắt đầu có ảnh hưởng rộng và sâu sắc trên xã hội thì bề trên dòng đã mạnh dạn chỉ định linh mục Leseur lên đường đi diễn thuyết ở nhiều nơi về đời sống gương mẫu của người vợ đã chết trước đây của mình. Lúc đầu, cha Leseur rất e ngại chần chừ, nhưng cuối cùng cha đã vâng lời. Năm 1930, cha soạn cuốn "Hạnh bà Elisabeth Leseur" trong khi tập Nhật ký trước đây của bà đã xuất bản tới hàng trăm ngàn cuốn.
86. Chúa Nhật II Mùa Vọng
(Suy niệm của Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu)
Tin Mừng của Chúa Nhật Thứ 2 Mùa Vọng năm C theo thánh sử Luca đã đặc biệt ghi lại bối cảnh lịch sử và địa dư lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu thi hành sứ vụ "dọn đường cho Đức Chúa: "Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô, thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđêa, Herôđê làm tiểu vương miền Galilê". Chúng ta nên lưu ý đến những nhân vật lịch sử cùng thời với vị Sứ giả của Chúa Giêsu và cũng sẽ có liên quan tới cuộc đời Chúa Cứu Thế sau này.
Đoạn kết của Tin Mừng Chúa nhật hôm nay đã mở ra một viễn tượng mới thật huy hoàng, thật an ủi cho bạn, cho tôi và cho mọi chúng sinh: Rồi hết mọi phàm nhân sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Hết mọi người phàm sẽ được "thấy" ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. "Thấy" Thiên Chúa tận mắt (Isaia 52,8) vẫn là niềm mơ ước sâu xa nhất của mọi chúng sinh. Ai cũng mong được "thấy" ơn cứu độ của Chúa như cụ già Simeon ẵm Hài Nhi Giêsu trên đôi tay và ca lên rằng: "Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ". (Lc 2, 27-32).
Ước mơ lớn lao nhất của bạn và của tôi vẫn là được sống hạnh phúc, được sống mãi không phải chết. Nhưng thực tế và kinh nghiệm sống hé mở cho chúng ta thấy "cuộc đời là bể khổ". Từ khi ta cất tiếng khóc oe oe chào đời, cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay xuống, mấy ai được hưởng hạnh phúc trọn vẹn?! Lúc nào tâm trí ta cũng lo âu khắc khoải với những câu hỏi vẫn ám ảnh con người trong mọi nơi và mọi thời: tôi sinh ra đời để làm gì? Tại sao cuộc đời của tôi bị đau khổ triền miên? Sau khi chết tôi sẽ đi về đâu? Tôi có thể tự giải thoát và tự cứu mình khỏi chết không? Chả nhẽ cuộc đời là vô nghĩa như các triết gia vô thần đã chủ trương: con người sinh ra để rồi chết. Mỗi tôn giáo đã đem đến cho con người một câu giải đáp, một lóe sáng hy vọng, đồng thời đề nghị những phương dược để được trường sinh bất tử. Ở đây, Gioan Tẩy Giả loan báo một sứ điệp cứu rỗi mới và đề nghị một giải đáp căn bản để đạt tới cứu cánh: "Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội". Gioan Tẩy Giả tiếp tục sứ mệnh của ngôn sứ Isaia: kêu gọi con người "dọn đường cho Đức Chúa", tức là chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Thiên Sai đến.
Ở ngưỡng của Tân Ước, sứ điệp hoán cải của các Ngôn Sứ trong Cựu Ước đã được kết tinh lại trong lời giáo huấn của Gioan Tẩy Giả, vị Ngôn Sứ sau cùng: "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần" (Mt 3,2). Dân Do Thái xưa bị các Ngôn Sứ cho là một "dân cứng đầu cứng cổ" (Mt 13,15, Is 6,10), lòng chai dạ đá, không thèm lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa. Thử hỏi, lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả vang vọng cách đây 2000 năm, cũng đã là lời kêu gọi của các ngôn sứ bao ngàn năm trước Chúa giáng sinh được lập đi lập lại cho dân của Chúa chọn, có còn giá trị bạn, cho tôi, cho thời đại văn minh ngày nay nữa không?
Câu trả lời thật rõ ràng: sứ điệp "Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần" vẫn còn hiện thực và càng khẩn thiết hơn bao giờ hết, nhất là trong Năm Toàn Xá 2000 này. Bạn và tôi cứ thử đưa mắt nhìn vào cuộc sống cá nhân của mình, cuộc sống của gia đình bạn, của xóm làng mình sinh sống, của môi trường và công xưởng bạn làm việc, nói rộng ra của xã hội và thế giới hôm nay... Bạn sẽ thấy chính bạn, chính gia đình bạn, chính cộng đòan và xã hội thụ hưởng vật chất hôm nay, đang cần được giải thoát, đang cần được cứu độ. Thánh Gioan Tẩy Giả mời gọi bạn, mời gọi tôi, mời gọi con người hôm nay hãy bắt tay vào việc bằng các việc sám hối cụ thể sau:
1. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy: Lũng sâu bao giờ cũng là tượng trưng cho hố thẳm của mọi nguy hiểm, mọi bất trắc. Hố sâu tượng trưng cho túi tham vô đáy của con người. Vì gian tham, con người có thể thực hiện đủ mọi tội ác để vơ vớt. Tưởng rằng càng vơ vét nhiều, mình càng giầu, càng đầy. Nhưng oái oăm thay, mình càng thấy cuộc đời trỗng rỗng. Hành động "lấp đầy" theo nghĩa siêu nhiên ở đây là lấp đầy những hố thẳm mênh mông (những khát vọng vô biên) của con người bằng đạo đức, bằng công chính, bằng chính Thiên Chúa, là Đấng Cội Nguồn sự sống, là chính Chân Thiện Mỹ.
2. Mọi núi đồi phải bạt cho thấp: Mãi mãi con người chỉ là tạo vật, không phải là "Chúa", dù có cố gắng bắt chước con ếch để hít hơi phình bụng, nhưng ếch vẫn là ếch! Ý thức được sự bất toàn và giới hạn của mình, hay đúng hơn "biết mình" để đừng tự cao tự đại, để "cải quá tự tân". Từ bỏ tính kiêu căng, "coi trời bằng vung" của mọi tạo vật, biết nhìn nhận thân phận yếu đuối mỏng dòn của mình. "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" (Lc 18,13). Nước mưa chỉ có tuôn chảy xuống lũng sâu và ở lại đó làm cho cây cối quanh bờ sinh hoa kết trái. Ơn Thiên Chúa cũng như dòng nước tuôn trào vào lòng kẻ khiêm nhu, để nhuần thấm, để tưới gội và làm cho cuộc sống con người đâm chồi nẩy lộc và đơm bông kết trái, hức hẹn một mùa gặt phong phú.
3. Khúc quanh co phải uốn cho ngay: Phải sống lương thiện. Con tim phải trở nên "nhân chi sơ tính bản thiện" của một trẻ em (Mt 18,3) mới có thể vào được Nước Trời. Sống quanh co lươn lẹo vì tự ái, vì danh lợi dục chỉ làm cho mình xa người khác và xa Thiên Chúa.
4. Đường lồi lõm phải san cho phẳng: Phải nỗ lực chỉnh đốn và sửa sang lại những chỗ "lồi lõm" chính là các tính mê tật xấu lớn nhỏ, những sỏi đá làm cho Lời Chúa không thể đâm chồi lẩy lộc và đâm rễ sâu vào tâm hồn. Luật Mới của Nước Thiên Chúa đòi hỏi con người phải "san cho phẳng" những gì là "lồi lõm". Lòng "ăn năn sám hối" hoán cải nội tâm và luân lý (metanoia) buộc con người phải "từ bỏ" các đam mê và các tà thần để quay về với Thiên Chúa hằng sống và chân thật.
5. Lãnh nhận Phép Rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội: Lãnh nhận Phép Rửa để được ơn tha thứ mọi tội lội và được thánh hóa (Lc 24,47). Chúa Giêsu, trước khi lên trời, đã ra lệnh cho các môn đệ rao giảng Tin Mừng cho khắp thế giới và rửa tội muôn dân: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án" (Mc 16, 15-16).
Sám hối để nhập tịch Nước Thiên Chúa, bước theo Thầy Giêsu như vị Sư Phụ chí thánh và thực hành linh đạo của Ngài: Đức Giêsu không những đến để loan báo Nước Thiên Chúa, nhưng Ngài còn khai mở với quyền năng (Mt 1,15; Mt 4,17). Ngài đã đến, chính là để " kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" (Luca 5,32). Nhưng lời kêu gọi "sám hối ăn năn" của Chúa Giêsu gặp nhiều ngáng trở: tính tự mãn và ngoan cố của người dưới mọi hình thức, mọi đam mê danh lợi dục, như những dây chằng chịt trói buộc con người lại. Còn con người ngày nay, còn Bạn, còn tôi? Lòng của mỗi người chúng ta ra sao trước lời mời gọi hoán cải nội tâm của Thiên Chúa.
87. Lời mời gọi xám hối của Gioan
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Lc 3:1-6: Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô...
Gioan là một con người đặc biệt và rồi một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Hoang địa là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành, trong sự gặp gỡ thâm trầm với Thiên Chúa. Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên nhẫn chờ đợi nhiều năm tháng, cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với ông. Lời của Ngài đưa ông ra khỏi hoang địa để đến với mọi vùng ven sông Giođan mà gặp con người.
Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người. Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô, hai thượng tế Khanna và Caipha, một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng trấn vùng Giuđê, một Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này. Gioan đón nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy. Lịch sử dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ. Gioan biết mình là Tiền Hô cho Ðấng Cứu Thế, và ông cố làm tròn sứ mạng của mình trước lịch sử.
Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã phải lẫn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân tộc. Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để dân riêng được vào đất Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi vắng vẻ.
Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.
Từ trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể rút ra được một bài học khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc Gioan đã nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được nghe thấy: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Ðường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng". Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị trong cả nước nữa. Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố gaíc hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.
Từ trong sa mạc, Gioan đã nghe được tiếng Chúa, đã lãnh nhận sứ mạng của ngài và đã loan truyền cho mọi người: Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống. Lời kêu gọi này, Chúa chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị nữa.
Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố cáo hành vi tội ác của Hêrôđê. Số phận của Gioan cho chúng ta thấy ông đã đi đến tận cùng sứ mạng đã lãnh nhận. Ông đã dám nói thẳng và nói thật bởi vì ông không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy, không có gì để mất mát.
Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Ðã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Ông kêu gọi cả nước hãy sửa sang đường sá, để đón lấy Vua Mêsia, đấng ông không dám cởi dây giày. Ðường quan trọng là đường vào cõi lòng. Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc. Có những lũng sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu, tự mãn. Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người. Phải sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay. Phải san cho phẳng, bạt cho thấp... Sám hối là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người cùng dọn các con đường thành đại lộ. Ðiều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau đớn. Vấn đề không phải chỉ là đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ những chướng ngại trong tâm hồn, để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.
Gioan đã là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu. Chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối. Làm ngôn sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình: đó là ơn gọi của mọi Kitô hữu chẳng trừ ai. Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống. Ơn cứu độ đã đến từ hai mươi thế kỷ nay, nhưng vẫn thiếu những con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp con người. Xin Thánh Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới trên những nẻo đường quen thuộc của nhân loại.
Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Ðó là lý do tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Ðức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta quen gọi là Hồng Y. "Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào". Lời nhắc nhở này chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho dẫu phải hy sinh mạng sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu gọi san bằng bất công. Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để mất. Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ nào.
Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá. Ðó cũng có thể là cơn cám dỗ của các tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng nói của Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: "Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi. Ðường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng".
Gioan tiền hô là người gác cổng dẫn vào Tin mừng. Ngài là nhịp cầu nối giữa cựu ước và tân ước. Gioan mời gọi dân chúng sám hối để trở về, nhưng ông tự thú ông không phải là đấng Messia, mà chỉ là người phu quét đường, còn Đức Giêsu mới chính là con đường để chúng ta bước tới. Ông chỉ là tiếng kêu giữa sa mạc vọng lại lời, còn Đức Giêsu mới chính là ‘Lời’, là ngôi Lời đã trở thành xác phàm.
Gioan tóm kết sứ mạng của mình trong câu châm ngôn ‘Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại. Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài’. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình, chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến. Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.
Sám hối, canh tân đời sống là một yêu cầu của đời sống đức tin. Bởi lẽ con người không thể đón nhận giáo lý của Chúa Giêsu và đến với Ngài nếu không thay đổi suy nghĩ và lối sống xa lạ với giáo lý của Chúa. Tiếng kêu của Gioan gọi mời dọn đường cho Chúa đến, được vang lên trong Mùa Vọng, nhắc nhở chúng ta về điều ấy. Đây cũng chính là nền tảng thâm sâu của niềm vui Giáng Sinh, khi Con Thiên Chúa làm người, ngài lấp đầy những khát vọng nhân loại, một khát vọng được diễn tả qua nỗ lực canh tân cuộc sống.
88. Dọn đường cho Chúa - Huệ Minh
Vọng là chờ và chờ thì phải có tinh thần sẵn sàng, chuẩn bị, đón...
Là người, ai trong chúng ta cũng có tâm thức, cũng có cảm thức về sự chờ đợi. Có thể là chờ đợi một chuyến xe, có thể là chờ đợi một con đò hay có thể chờ người mẹ thân thương đi chợ về. Mỗi sự chờ đợi đều có kết quả nhất định của nó. Chờ xe để ta được đến nơi ta đến, chờ đò để được sang bờ bên kia và chợ mẹ đi chợ về chắc chắn không ít thì nhiều ta cũng có bịch chè táo xọn hay túi chè bà ba.
Ngoài sự chờ đợi thường ngày, chờ đợi mang tính con người, mang tính vật chất như chờ mẹ về có quà chợ thì người Kitô hữu lại có sự chờ đợi lớn hơn những chờ đợi thường ngày đó. Chờ đợi này của con người mang tính cách thiêng liêng, mang tính cách quyết liệt và quyết định cho đời của con người.
Chính vì vậy với Mùa Vọng, Hội Thánh kêu mời chúng ta sẵn sàng cho cuộc chờ đợi thiêng liêng, chờ đợi ơn cứu độ, chờ đợi, chuẩn bị, dọn đường cho Đức Kitô ngự đến.
Sự chờ đợi này hẳn nhiên là quan trọng hơn đợi đò, đợi xe, đợi mẹ bởi lẽ đợi xe không có thì đợi chuyến sau, đợi đò không được thì đợi thêm chuyến nữa và có thể hôm nay mẹ đi chợ về không có gì và mẹ hẹn ngày mai bởi lẽ mẹ... hết tiền. Sự chờ đợi này hẳn nhiên căn cốt cũng không phải là dọn dẹp làm hang đá cho đẹp, hoành tráng, mà là dọn con đường tâm hồn mình.
Trang Tin Mừng rất ngắn hôm nay thánh Luca gợi lên cho ta thấy cách thức đón Chúa trở lại theo lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả là “hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,4-6).
Chúa Giêsu Kitô đang ngự đến. Chúa đã đến rồi đó nhưng rồi có rất nhiều ‘núi cao, hố sâu’ ngăn cản giữa ta và Chúa và giữa Chúa với ta để Chúa khó đến hay thậm chí với chúng ta.
Đơn giản một con đường đang đi thênh thang bỗng dưng có hố sâu và có những đồi cao thì không tài nào qua được dù con người có cố gắng cách mấy. Với hố sâu, qua thì lọt tỏm xuống hố ngay và với đồi cao thì không tài nào đi qua được dù có đổ mồ hôi sôi con mắt.
Hố sâu ngăn cách làm cho con người khó và không gặp được Chúa đó chính là hố sâu tội lỗi và núi đồi kiêu căng, tự phụ. Và hẳn nhiên, dễ hiểu đó là để Chúa đến được với ta và ta đến được với Chúa chỉ có một cách thế duy nhất là phải bạt mọi núi đồi, san phẳng mọi hố sâu để Chúa ngự đến chiếm lĩnh tâm hồn ta.
Khởi đi bằng hành động sám hối. Sám hối là dọn con đường của lòng mình để Chúa ngự đến như có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5,14).
Rất khó để con người biết mình sai lỗi đó là căn bệnh thời đại của con người ngày hôm nay. Chính vì thế, khởi đầu là mình biết mình sai lỗi, rồi chấp nhận lỗi của mình để mình hoán cải bằng một hành động thiết thực.
Hành động thiết thực nhất ta có thể làm đó là ta quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi, ăn năn dốc lòng chừa vì lòng mến Chúa và lãnh nhận Bí tích Hòa Giải để ta hòa giải với Chúa.
Tâm tình hòa giải đó là tâm tình mà Thiên Chúa mong muốn, Thiên Chúa mời gọi nơi mọi người chúng ta. Ta, một khi được giải thoát khỏi tội lỗi, ta được trở nên thánh thiện và được sống đời đời (x. Rm 6,22-23).
Trở lại với những trang đầu của Thánh Kinh và lịch sử cứu độ, ta không thể nào quên được cái biến cố định mệnh tách lìa ta với tình yêu Thiên Chúa đó là do con người kiêu ngạo. Chỉ vì tưởng chừng ta bằng với Thiên Chúa để rồi kiêu căng huênh hoang như ông bà nguyên tổ giơ tay hái trái cấm.
Khởi đi sự kiêu căng của ta từ trong suy nghĩ đến việc làm. Sự kiêu căng ấy thể hiện ở chỗ tự cho mình là ‘cái rốn của vũ trụ’, không coi ai ra gì, dần dần dẫn đến một tình trạng nguy hiểm hơn cả là cũng chẳng còn kính sợ Thiên Chúa. Sống tự phụ, cứ nghĩ rằng mình có thể làm được tất cả mà chẳng cần ơn Chúa, và đây là một thái độ hết sức nguy hiểm, vì người đó loại Chúa ra khỏi cuộc sống của mình.
Khi ta kiêu căng, chắc chắn Chúa không đến được với ta và ngược lại tha nhân cũng chẳng đến với ta được.
Khi ta kiêu căng, ta sẽ cô độc trong sự tự phụ của mình. Kết quả là ta đi đến chỗ bất mãn với tất cả và tự diệt vong (x. 2Tx 1,7-9). Cho nên phải bạt những núi đồi kiêu căng này.
Và chính khi ta biết khiêm nhường, ta mới thấy được rằng nếu không có Chúa thì tất cả những gì mình có, mình làm ra được chỉ là con số không. Chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm được điều này khi ngài nói: “Tôi rất vui mừng và tự hào về những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi” (2Cr 12,9).
Chúa Giêsu đến với ta hàng ngày không phải dưới hình ảnh Hài nhi Giêsu hay hình ảnh vị Thẩm phán cánh chung trong ngày Quang Lâm, nhưng dưới hình ảnh những người anh em thân cận, những người Chúa gởi đến với ta trong cuộc sống.
Có vô vàn ngăn trở khiến chúng ta không thể gặp Chúa nơi tha nhân. Đức Giêsu đã nói rõ: “Từ lòng con người, phát xuất những ý định xấu như tà đâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng” (Mc 7,21-22).
Vì những ngăn trở như thế này đã khiến cho hai người láng giềng cách nhau một bức vách không thể đến với nhau được, khiến cho hai người bạn cùng chung sở làm không nhìn mặt nhau; thậm chí cha mẹ, con cái, anh em ruột thịt... chung sống dưới một mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa nhau vạn dặm.
Dặt mình trước mặt Chúa trong mùa Vọng này, ta nhớ lại chính Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Ngài hiện diện trong các anh chị em chung quanh nên những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho chính Ngài (Mt 25,40).
Khi cảm nhận được điều đó, dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là dọn đường cho anh chị em chung quanh có thể đến được với mình, là xoá bỏ đi những ngăn cách giữa ta với tha nhân mà ta giáp mặt hằng ngày. Chỉ khi nào giữa chúng ta và mọi người chung quanh không còn phân ly ngăn cách, thì lúc con đường mới dọn xong và Chúa mới có thể đến được với ta.
“Hãy dọn đường Chúa đến” bằng những hành động cụ thể: sửa đường cong queo của tinh thần vô trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung lừa đảo bằng những con đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật thà, biết tôn trọng sự thật; lấp mọi hố sâu của ganh ghét, chia rẽ, hận thù, thiên kiến, nghi kỵ bằng sự khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí vào nhau; bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, thói kiêu căng tự mãn bằng tinh thần khiêm nhu; lấp đi những hố sâu lòng tham lam, vơ vét, bất hoà bằng cách đặt lợi ích chung lên trên quyền lợi của cá nhân; san bằng những lượn sóng gồ ghề nói hành, nói xấu nhau bằng nói tốt, nghĩ tốt về nhau; san bằng những con đường bi quan yếm thế của những thất vọng, của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng những cái nhìn tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác và nơi cuộc sống... Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể đón Chúa đến nơi tha nhân giữa lòng xã hội của ngày hôm nay.
Trong sâu lắng của tâm hồn, ta hãy xin Chúa hãy cất khỏi chúng ta tất cả những gì làm cho chúng ta xa lìa Chúa, và xin ban cho chúng ta tâm tình thống hối ăn năn để hoán cải theo tinh thần Tin mừng, để ngày Chúa đến chúng ta hân hoan đón tiếp Ngài.
89. Chú giải của R. Gutzwiller.
SỰ XUẤT HIỆN CỦA VỊ TIỀN HÔ.
Sau những biến cố quá ư là đặc biệt đi kèm với việc truyền tin và sinh ra của Gioan và của Chúa Giêsu, tất cả đã trở lại yên tĩnh. Suốt trong ba mươi năm, người ta không nghe nói gì nữa. Cảnh cậu bé mười hai tuổi trong đền thờ không được ai nhắc tới. Những tiếng đồn thổi trong nhân gian về các điềm lạ quanh việc truyền tin đã bị quên đi từ lâu. Vì thế, khi vị tẩy giả xuất hiện và Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy đã gây ngạc nhiên không ít. Vị Tiền Hô vào cuộc trước, rồi sau đó mới tới Thày Chí Thánh.
1. Thời kỳ
Tin mừng đã đánh dấu thời kỳ này cách uy nghiêm và trang trọng. Những thời biểu lịch sử được nhắc đến ở đây che dấu một thảm kịch sâu xa:
‘Năm thứ mười lăm thời hoàng đế Tibêriô-Xêda’. Hoàng đế Augustô mà vì chiếu chỉ của ông, Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem thay vì Nagiarét, đã băng hà ngay vào lúc đó. Tất cả mộng ước mà vị hoàng đế Rôma xây dựng đã theo Ngài xuống mồ. Ngài đã không trở thành ‘vị cứu tinh nhân loại’ như người ta hy vọng ở ông. Các con trai ông cũng vậy, đều đã qua đời. Và như vậy, triều chính phải trao cho người ông nhận làm con nuôi, Tibêriô, con người bẳn gắt và đa nghi, nên ít người còn trông đợi ông sẽ mang lại hạnh phúc cho họ. Vinh quang của Rôma bắt đầu lạt dần, và trong cái khung nhà của hoàng đế đã có những tiếng gẫy răng rắc.
‘Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa’. Dưới những tiếng này, như muốn che đậy những biến cố đáng lưu ý. Trong thời gian trên, Hêrôđê, vị đại sư của người Do thái cũng đã chết. Sự thống nhất của vương quốc bị đổ vỡ…. chia làm bốn quận vương nhỏ. Dù cho các vị cầm quyền vẫn còn mang tước hiệu ‘vương’, nhưng đó chỉ là tia sáng mờ nhạt và phần đất quan trọng nhất, miền Giuđêa và Giêrusalem, đã bị mất cho dù tới lúc này bên ngoài vẫn mang bộ mặt tự trị. Vì thực ra người kế vị Hêrôđê, Archelaus đã do người Rôma đặt lên. Miền Giuđêa đã trực thiếp bị khuất phục quyền Rôma và được cai trị bằng một vị toàn quyền Rôma.
Trong pháo đài Antônia đã có những toán quân Rôma. Binh lính Rôma đi tuần trên đường phố và coi sóc miền này. Dân Chúa đã tùng phục dân ngoại và phải đóng thuế. Vẻ hào hùng và sự tự do đã mất.
Ngoài ra, Philatô còn là một cao uỷ cứng rắn và không biết kiêng nể. Để biết những chuyện xảy ra, ông đã cho một toán quân mặc thường phục, trang bị gậy ngắn, lẫn lộn vào dân chúng, rồi còn để quân sĩ của ông can thiệp thẳng thừng nếu cần… ông không hề nể vì gì tập tục Tôn giáo của người Do Thái. Ông bãi bỏ tuỳ ý và chỉ muốn làm giàu.
‘Hêrôđê làm quận vương xứ Galilêa, còn em ông là Philiphê làm quận vương vùng Iturêa và Tracônitiđê; Lisania làm quận vương xứ Abilêna’. Hêrôđê Antipas là người phóng đãng. Ông muốn làm thân với người Rôma và vì muốn tâng bốc, ông đã đặt tên cho công thự mà ông xây trên bờ hồ Giênêsarét là Tibêriađê, để tỏ lòng tôn kính hoàng đế Tibêrio, nhưng ông vẫn còn nể nang người Do Thái, còn dự các buổi lễ ở Giêrusalem hầu chứng tỏ mình đạo đức. Hơn nữa, ông còn có những đội quân bí mật dùng để chống lại sức mạnh này khác nếu thấy cần. Miền Galilêa nơi mà Chúa Giêsu hoạt động lại thuộc quyền nhân vật đáng buồn này.
Quận vương thứ ba là một người thân Hy lạp, hoà hoãn nhưng lại quá bình thường. Còn quận vương thứ bốn là một nhân vật không được biết đến. Như vậy, xứ sở thì bị phân chia, dân chúng thì bị trao vào cho các quan quyền chuyên chế chỉ nghĩ tới thân họ và cuộc sống xa hoa, tiện nghi của riêng họ. Chẳng còn gì vẻ lớn lao của một đất nước cựu trào. Vương miện đã rớt khỏi trán Israel.
‘Dưới thời thượng tế Anna và Cai pha’. Israel là một dân tộc tư tế. Đền thờ là nơi cần thiết nhất. Tư tế và vua chúa đều được Giavê xức dầu, đặt tên và trao phó việc phục vụ. Nhưng sự thánh thiện của chức Tư tế tinh tuyền đã mất đi. Vị thượng tế được gọi phục vụ trong cả cuộc đời, là nhân vật được thánh hiến trong dân chúng. Thế mà người Rôma lại không để ý gì đến tập tục này, họ tự gọi và đặt lên tuỳ ý họ. Sứ vụ thánh được trao phó cho dân ngoại và người ta còn có thể mua chức đó nữa. Hai vị thượng tế đã được đặt lên như thế đó: Anna và rể ông là Caipha. Anna đã lãnh trách vụ, rồi lần lần tới năm người con và bây giờ thì tới con rể ông.
Như vậy quyền thế tạm thời và thiêng liêng không còn nữa, và tất cả hình ảnh lịch sử được gợi lên bằng những hàng chữ này chỉ nói lên một kỷ niệm buồn của một dĩ vãng vàng son đồng thời với ảo ảnh hiện tại thất vọng hoàn toàn.
‘Lời Chúa được phán ra’. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa chỉ bắt đầu ở điểm mà khôn ngoan của con người sắp kết thúc. Khi sức mạnh của con người ngừng lại, sức mạnh của Thiên Chúa mới tỏ hiện. Ân sủng giả thiết phải có bản tính và liên kết với bản tính, nhưng không thể bị đầy đoạ ở đó. Lời của Thiên Chúa có thể được phán ở nơi và vào lúc mà người ta ít chờ đợi nhất.
Thiên Chúa có thể dùng Xêda và hoàng đế Rôma để thống nhất nhân loại, dùng con đường Rôma để dễ giảng truyền Tin mừng và để trao sứ điệp cho thế giới. Ngài cũng có thể dùng các binh lính và thương gia. Rồi Ngài có thể từ khước sự sửa soạn tự nhiên đó và can thiệp bằng một cách hết sức bất ngờ dựa vào chính sức mạnh của lời Ngài. Ngài hoàn toàn tự do, toàn quyền quyết định khi nào, ở đâu, trao cho ai, trong mục đích nào Ngài sẽ phán.
Đó là lý do khiến con người không bao giờ phải thất vọng vì cái có thể ấy là Thiên Chúa phán bảo và hoạt động, lời Ngài vẫn luôn sẵn sàng. Lại là lúc Israel được nâng cao nhất. Khi mà yếu kém cả về chính trị lẫn Tôn giáo, thì Đấng Mạnh Mẽ, Quyền Năng lại đến.
Một dòng dõi suy tàn đã nảy sinh trong Đấng Messia, vị tạo Thành thế giới mới.
2. Nơi chốn
‘Lời Thiên Chúa được phán với Gioan con Giacaria, trong hoang địa. Và ông đi khắp vùng xung quanh sông Giođan’.
Hai địa danh được nhắc đến:
Hoang địa: Môisen đã được Chúa gọi, và sai đi trong hoang địa. Dân chúng đã được dẫn dắt vào đây và giáo dục ở đây. Êlia đã đến đây. Chúa Giêsu đã chuẩn bị ở nơi này. Thánh Phaolô cũng tới đây sau khi trở lại. Có hàng triệu và hàng chục triệu người nối gót theo gương này. Trong im lặng, người ta thấm Lời Chúa rõ hơn, và cuộc sống khắc khổ làm cho người ta thấy tỏ tình thương Chúa hơn.
Sông Giođan: Dòng sông không phải chỉ làmột lãnh giới để dân địa phương và người từ hoang địa về gặp gỡ nhau. Nhưng Giođan là dòng sông mà những người Do Thái đã vượt qua để chiếm Đất Hứa: bây giờ, họ phải từ bỏ một hoang địa thiêng liêng và phải bước vào nước Thiên Chúa.
Ở Giođan, nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, tường thành Giêricô đã bị sập xuống; thì bây giờ tới lượt tường luỹ thiêng liêng của Satan đã ngăn lối vào nước Chúa cũng sẽ bị đổ như vậy.
Do đó, hoang địa và sông Giođan đều có ý nghĩa. Đấy là những nơi mà Lời của Chúa được vang vọng đặc biệt, được đón nhận tốt, là những miền của ân phúc nơi mà dân chúng hành hương tới, là những nơi thuận tiện cho hoạt động của Thiên Chúa, nơi có đền thờ vì Thiên Chúa là Đấng Thánh đã tới gần.
3. Hoạt động
Ba sự việc đáng được để ý đặc biệt.
Thánh Gioan rao giảng: đã qua nhiều thế kỷ, từ ngày Thiên Chúa phán với Israel, nay mới lại thấy xuất hiện, lần đầu, một trong các đại nhân của Thiên Chúa mà ngày xưa thật dễ gặp thấy trong dân được Chọn. Từ nay không còn là lời của Thiên thần mà là Lời của Thiên Chúa, không qua trung gian nào cả, phán bảo với Gioan và Ngài sẽ truyền đi.
Trong bài giảng, người ta đâu được công bố sự hiểu biết riêng hay kết quả của nghiên cứu thần học hoặc truyền bá kinh nghiệm nội tâm, mà là giảng Lời Chúa. Vị giảng thuyết chỉ là dụng cụ, là trung gian. Cá nhân Ngài hoàn toàn giữ vai trò thứ yếu. Ngài chỉ biết lắng nghe và truyền lại. Như vậy, cùng một lúc phải mở lòng ra với Thiên Chúa (từ trên xuống) và với dân chúng (từ dưới lên), Ngài không được giữ gì cho mình, nhất là không được thay đổi gì, giảm bớt hay làm sai lạc đi.
Loan báo Lời Chúa, người ta không thể tìm thấy nơi mình sự bất trắc hoà lẫn với sự hoài nghi, sự phức tạp và một tình trạng thua sút của một người yếu kém, vì tất cả đều không đảm bảo cho công việc của mình. Nhưng họ cũng không được cậy vào một thế lực, phát sinh từ một khoa học kiêu hãnh và thấm nhuần tư tưởng này, vì lời giảng với sức mạnh và theo Thần Trí đã đủ xứng với Lời Chúa rồi.
Gioan tẩy giả: cử điệu thêm vào với tiếng nói, nghi lễ đi với lời giảng. Con người không phải là một hữu thể tinh thần thôi. Vì thế, họ phải nhờ vào những dấu thấy được để suy niệm cái chẳng thấy.
Chúa Giêsu đã lập các bí tích đi theo lời giảng dạy. Nơi thánh Gioan cũng vậy, bên cạnh những từ ngữ mang tính cách nhất thời là những dấu hiệu, những điềm báo về các bí tích. Rửa tội là một cuộc thanh tẩy vì từ nay tội lỗi sẽ được xoá sạch. Một dân tộc nhơ nhuốc sẽ được rửa sạch. Thanh tẩy là trầm mình xuống nước rồi lên lại, vì tạo vật phải trầm mình với Đức Kitô để chết cho cái chết của con người tội lỗi cũ và được nâng lên nhờ Đức Kitô Phục sinh để sống cuộc sống mới trong ân sủng. Thanh tẩy, nước trôi chảy… Vì từ đây nước Thần Linh sẽ đổ tràn và vọt lên ngập đồng.
Thanh tẩy của Gioan, như vậy cũng có giá trị lớn lao. Gioan kêu gọi thống hối. Nếu con người không khước từ những khuynh hướng tội lỗi, không làm một cuộc đổi thay hoàn toàn đưa tới việc trở lại. Họ không thể tiếp nhận Lời Chúa. Sự thánh hoá giả thiết và đòi buộc phải có sự thống hối như bước đầu, khước từ tội phạm, ra khỏi mình, và hướng về Thiên Chúa. Sự thay đổi trong những định hướng của tư tưởng và sự sẵn sàng thâm sâu, đã thấy được khi Chúa giáng sinh và lúc thiếu nhi mười hai tuổi giảng dạy trong đền thờ, bây giờ rõ ràng là một đòi hỏi đối với với chúng ta. Sự thống hối là cốt cán của ơn cứu độ. Đó là một đòi hỏi mà con người không bao giờ tự ý muốn nhắc nhở mình, nhưng lại rất cần thiết cho họ.
4. Hoàn tất.
Tin mừng thêm vào ở đây như để làm trọn lời tiên tri Isaia:
‘Có tiếng kêu trong hoang địa, hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Hãy lấp mọi hố sâu, và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa’.
Bản văn ngôn sứ bàn về cuộc tái trở về từ nơi lưu đầy của dân Do thái. Giavê trở lại dẫn đầu dân Ngài qua hoang địa vào Đất Hứa. Để đám rước khải hoàn đi qua thì đường xá phải bằng phẳng và có sửa soạn đàng hoàng. Lời tiên tri đã được nên trọn lúc này với một ý nghĩa cao cả và nặng về tinh thần hơn. Nó không còn nói về xứ sở hay về đường xá trần tục. Rời bỏ cuộc lưu đầy và tôi đòi thiêng liêng con người lên đường về nước Chúa với một thái độ cương quyết. Và chính Thiên Chúa sẽ là đầu đoàn rước: nhưng xác đáng hơn phải nói là Đức Giêsu Kitô Thiên Chúa nhập thể, Đấng Messia.
Vì thế, những con đường thiêng liêng hẳn sẽ phải phẳng lì do việc sửa soạn tinh thần và tâm hồn. Gioan là tiếng kêu, là người tiền hô đến kêu gọi dọn đường vì sắp có vị Đại Vương tới.
Không có gì ngạc nhiên cả khi thấy sau lời kêu gọi đó, dân chúng bị lay chuyển và lũ lượt kéo về Giođan để nghe lời giảng và theo sát các biến cố này.
Hoạt động cứu độ đã bắt đầu nhập cuộc.
90. Chú giải của Noel Quesson
Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô
Luca muốn loan báo tác vụ của Gioan Tẩy Giả, người dấn thân khai mở cho tác vụ của Đức Giêsu. Đây là sự can thiệp rõ ràng của Thiên Chúa trong lịch sử. Hành động của Thiên Chúa không "ở bên ngoài” thế gian, trên mây gió, nhưng hành động này diễn ra, một cách ẩn kín bên trong những biến cố thế tục. Một "lịch sử Thánh" phát triển giữa những biến cố thế giới. Như Luca chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa "nói" và "hành động" trong những biến cố của chúng ta, trong hiện tình kinh tế chính trị, xã hội và văn hóa ngày nay không?
Luca kỹ lưỡng nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu đã sinh ra dưới thời Hoàng đế Xê-da Au-gút-tô (Lc 2,1). Bây giờ ông lại nói với chúng ta, Chúa bắt đầu tác vụ, như một người trưởng thành, vào năm 15 Triều Đại Tibêriô, nghĩa là khoảng năm 28 hay 29.
Đức Giêsu, một người Do Thái thấp cổ bé miệng, vô danh tiểu tốt đang đối diện với Hoàng đế đầy uy quyền của Rôma! Đối diện với kẻ đang bá chủ thế giới! Đế quốc của Tibêriô bắt đầu từ bờ Bắc Hải đến cùng tận Địa Trung Hải, hiện nay được 15 quốc gia vây quanh nhưng lúc bấy giờ như một biển hồ của Rôma. Tất cả những gì Luca bàn đến đâu minh chứng cho chúng ta thấy, "Tin Mừng", phát xuất từ Giêrusalem, sẽ đến tận Rôma: Ở đó, sẽ kết thúc “Công vụ Tông Đồ" (29,16-31). Trong lúc này, ta mới chỉ gợi lên tầm lớn rộng của chương trình Thiên Chúa: Đức Giêsu... Hoàng đế Tibêriô.
Thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giu-đê
Cùng với Đức Maria, ông Phongxiô Philatô, là người duy nhất có chỗ đứng trong kinh Tin Kính của chúng ta: “Đức Giêsu, sinh bởi đức Nữ Đồng Trinh Maria đã chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô... Phongxiô Philatô, tổng trấn Rôma tại Giêrusalem giữa năm 26 và 36, là con người "cứng rắn và không xót thương", theo người lân cận của ông là Hêrôđê Ác-ríp-pa I đã nói. Ong bị Rôma cất chức vì đã sát hại hàng ngàn người Samari tụ họp trên núi Garizim. Các sử gia thới đó (Plavius Josèphe và Philon) mô tả ông như người cai trị xứ sở của mình bằng tham nhũng, khủng bố, cướp bóc do chính cảnh sát của mình tra tấn và hành quyết.
Ngày nay, chúng ta thường than phiền về những khó khăn của thời đại chúng ta: Thế mà Đức Giêsu đã sống trong một miền đất bị kẻ thù chiếm đóng và đàn áp không chút nương tay thế đó!
Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên
Đó chỉ là những ông vua chư hầu bù nhìn, và là những người "hợp tác". Uy quyền thực sự vẩn thuộc Rôma. Luca nhất mạnh đến lãnh thổ mà Tin Mừng sẽ được phổ biến: ông để ý nêu rõ hai miền có đông dân cư là "con cái Israel" (Giuđê và Galilê), và hai miền có dân "ngoại giáo" (Iturê - Trakhonít và Abilên). Đối với Luca, đệ tử của Phaolô thì đây là một chỉ dẫn "thần học": Sứ điệp của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho một số người nào đó! Tôi có tự giam mình trong một khu riêng biệt Kitô giáo nhỏ bé không? Và như vậy tôi đâu còn ở trong luồng khí Tin Mừng nữa.
Khanan và Caipha làm thượng tế
Sau những lãnh tụ chính trị, đây là những lãnh tụ tôn giáo, chịu trách nhiệm về Do Thái giáo thời bấy giờ, mà vài năm sau Đức Giêsu sẽ gặp lại.
Đó là bối cảnh lịch sử và tôn giáo. Những dữ kiện hoàn toàn chính xác, đã được các sử gia thời cổ xác nhận. Người ta đã tìm được tại Xêdarê chỗ ngồi của Philatô trong một nhà hát: Một hàng chữ được khắc ghi vào băng đá dành cho Tổng trấn ngồi, giữa hí trường hình tròn.
Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan
Không phải những chức sắc nêu trên sẽ làm nên lịch sử thực sự: mà là một "phát ngôn viên", một "ngôn sứ", Gioan Tẩy Giả, vị ngôn sứ cuối cùng, nhân chứng đầu tiên của Đức Giêsu Kitô. Chính từ "bên trong” những thực tại của con người mà sự thay đổi được thực hiện, nhưng tất cả những động lực của sự thay đổi đó không thể đến từ sự tôn thờ những ý thức hệ và những người đang nắm quyền lực, cũng không từ cơ cấu chính trị. "Chúa lật đổ những người quyền thế xuống khỏi ngai vàng" (Lc 1,52). Một “lời”, từ nơi khác đến từ Thiên Chúa, sẽ tạo nên sự mới lạ thực sự làm thay đổi dòng lịch sử - Tôi có để cho Lời Chúa nắm bắt tôi, như Gioan Tẩy giả không?
Trong hoang địa
Đôi khi ta có cảm tưởng về hoang địa như cái gì trống rỗng. Sự cô tịch khó chịu này không phải là điều ngược đời sao? Xa thế gian quay cuồng, xa những tiếng ồn ào náo động, để có thể nghe thấy một Lời mầu nhiệm? “Hãy nghe đây! nghe đây! ngươi chớ có gây tiếng động? gần ngươi, có người đang đi trên đường, có người đang đến gặp ngươi!". Vậy thì, riêng tôi, tôi đã dành cho sự cô tịch, tình trạng hoang vắng thế nào trong cuộc sống náo nhiệt của tôi?
Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan
Lời Chúa, phải vận hành. Đó là một chuyển động. Gioan là một nhà giảng thuyết di động, cũng như Đức Giêsu sắp thể hiện như vậy. Còn chúng ta thì sao?
Gioan đã rời hoang địa hạnh phúc của ông, nơi ông dùng để chuẩn bị, để lắng nghe Lời Chúa, để đi gặp các đám đông, để làm việc này, ông chọn một nơi mà có đủ mọi thứ người qua lại: Chỗ cạn của một dòng sông, nơi mà mọi người phải ngang qua; lối nhỏ giao lưu cho cả đoàn người; bến Bêthama, trên tả ngạn sông Giođan, phía đông thành Giêrikhô (Ga 1,28), nơi mà người Anh đã xây cầu Allenby chỗ duy nhất có thể vượt sông được. Sau khi sống cô tịch, tôi có tìm cách để tiếp gặp kẻ khác không?
Rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối
Dựa vào nguyên ngữ Hy Lạp có thể dịch câu trên – như sau: "Ông kêu gọi người ta dìm mình xuống nước để quay trở lại".
Người phát ngôn của Chúa không phải là một con người nhỏ bé trầm tĩnh, nhưng đó là một cái "loa phóng thanh" với âm lượng được vặn tối đa. Chữ Hy Lạp "Kérygme" có nghĩa là "tiếng la", lời “tuyên bố”. Cuộc sống của tôi có kêu lên điều gì không?
Không thể có ảo tưởng được. Người ta không thể gặp Chúa "như thế", nghĩa là không biết Ngài, hay không muốn Ngài. Về phía Chúa, phải "lao mình" vào Ngài! Chữ “batisma" phép rửa, gọi lên hình ảnh những kiểu tắm rửa theo nghi thức, mà những thành viên cộng đoàn lân cận Qumran thường thi hành mỗi ngày để thanh tẩy thân thể mọi nhơ bẩn và thôi thúc tâm hồn họ cũng phải thanh tẩy thiêng liêng: Người ta dìm toàn thân mình trong hồ bơi hay dòng sông. Hoán cải không phải chỉ lâ một tư tưởng thầm kín, không thuộc phạm vi trí não, nhưng đó là một bước đi có ý nghĩa, được thể hiện ra bên ngoài đối với mọi người qua một hành vi công khai theo nghi lễ: "Tôi muốn thay đổi cuộc sống... và trước mặt các bạn, tôi thực hiện cử chỉ tượng trưng, biểu hiện sự trở lại của tôi. Tôi dìm xuống nước cuộc sống trước của tôi, cho nó chết chìm để một sự sống mới phát sinh".
Phép rửa là một tự nguyện dìm chết "con người cũ” để cho "con người mới" tái sinh (Rm 6,6-7,6 - Ep 4,22 – Cl 3,9). Đó là hình ảnh thực sự của Bí tích sám hối là phép rửa thứ hai... mà có thể chúng ta muốn lãnh nhận để cử hành lễ Giáng sinh.
Và hoán cải mà chúng ta đang nói ở đây (metnoia: Sự trở lại) là một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học thuyết khác, có khi lại không hoàn hảo bằng chứng học thuyết đó. Nhưng đúng ra là ta "quay trở lại với Chúa" cùng với những hậu quả luân lý và xã hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng, thái độ chế ngự kẻ khác, v.v...
Phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Sự tha thứ? Hành vi của Thiên Chúa luôn luôn tặng ban cho tất cả mọi người, nhưng chỉ hữu hiệu nếu chúng ta đón nhận sự tha thứ đó cách tự do. Luật trời phong bao giờ ngừng chiếu sáng, nhưng chúng ta có thể đóng cửa nhà chúng ta. Hành vi của Thiên Chúa được thể hiện do "thừa tác viên" thi hành bí tích, nói "nhân danh chính Chúa Kitô" (in persona Christi). Hành vi tự do của con người được thể hiện qua thái độ hối nhân, đặc biệt qua sự thú nhận cá nhân hay tập thể.
Mỗi cử hành Thánh Thể cũng giúp chúng ta thông hiệp với Đức Giêsu trong chính hành vi Người "Tự hiến để tha thứ tội lỗi", trong hành vi cứu chuộc nhờ thái độ triệt để sẵn sàng và hoàn toàn vâng phục Chúa Cha: Đó là hành vi Ngài hoàn toàn và triệt để "hướng về" Thiên Chúa.
Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.
Máy ủi to lớn làm sao! Công trường sửa đường vĩ đại làm sao! Công trình thật là quá sức tưởng tượng! Và chúng ta thì chỉ có "xưng tội riêng", không đau đớn gì?
Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây là mục tiêu phổ quát, rất đặc trưng của Luca, người đồng hành với thánh Phaolô. Công trình của Thiên Chúa không phải là lên án, mà là "Cứu chuộc". Lịch sử Thánh, lịch sử con người mà trong đó Chúa hành động, không thể kết thúc không lối thoát. Cho dù chúng ta “hôm nay đang gieo trong nước mắt, nhưng sẽ gặt trong ca mừng".
91. Chú giải mục vụ của William Barclay.
SỨ GIẢ TIỀN TRẠM CỦA VUA
Đối với Luca, sự xuất hiện của Gioan Tẩy Giả là một trong các bản lề của lịch sử thế giới. Vì thế ông đã dùng sáu cách khác nhau để ghi dấu thời gian cho việc đó.
1. Tibêriô là người kế vị Auguttô, là hoàng đế thứ hai của Rôma. Vào năm 11-12 SCN, Luca bắt đầu bằng cách đặt sự xuất hiện của Gioan vào trong một bối cảnh thế giới, bối cảnh của đế quốc Rôma.
2. Còn ba mốc thời gian kế tiếp của Luca thì liên quan đến các tổ chức chính trị tại Palestine. Danh hiệu của vua chư hầu nghĩa là “thống đốc của một phần tư”. Những tỉnh như Thessaly và Galat, bị chia thành bốn miền hay gọi bốn khu vực, vị thống đốc của mỗi miền đó được gọi là vua chư hầu, nhưng về sau danh từ đó được mở rộng, dùng để chỉ thống đốc của bất cứ nơi nào. Hêrôđê đại đế băng hà năm 4 TCN sau khi cai trị khoảng 40 năm. Ông chia nước cho 3 con, và Rôma trong giai đoạn đầu đồng ý quyết định của ông. (a) Hêrôđê Antipa lãnh xứ Galilê và xứ Perea. Ông cai trị từ năm 4 TCN đến 39 SCN, vì vậy cuộc đời của Chúa Giêsu nằm trong thời gian cai trị của vua này và phần lớn sống trong lãnh địa của ông tại Galilê. (b) Hêrôđê Philipphê nhận xứ Yturê và xứ Tracônit, ông cai trị từ năm 4 TCN đến 39 SCN, thành Xêdarê được chính ông xây dựng nên được gọi theo tên ông. (c) Akhêlaô nhận xứ Giuđê, xứ Samari và xứ Êđôm. Ông là một vị vua tệ hại. Sau cùng, người Do Thái đã phải xin triều định Rôma cách chức ông. Rôma đã quá chán cảnh nổi loạn ở xứ Giuđê, liền đặt một quan tổng trấn, là vị thống đốc người Rôma. Đó là lý do tại sao người Rôma đã trực tiếp cai trị xứ Giuđê. Bấy giờ Phitatô người Rôma làm tổng trấn, cầm quyền từ năm 25 SCN đến 37 SCN. Như vậy, chỉ trong một câu Kinh Thánh, Luca cho ta thấy tổng quát về sự phân chia vương quốc đã từng một thời thuộc Hêrôđê đại đế.
3. Về Lysania là ai thì chúng ta không biết gì thêm.
4. Sau khi nói về tình hình thế giới và tình trạng chính trị của xứ Palestine, Luca quay về tình hình tôn giáo, và ghi dấu thời gian Gioan xuất hiện là đương thời của Khanan và Caipha giữ chức vụ thượng tế. Chưa bao giờ có hai thượng tế cùng một lúc. Vậy Luca có ý nói gì khi nêu lên hai vị này? Thầy thượng tế là người đứng đầu xã hội Do Thái cả về phương diện tôn giáo lẫn chính trị. Ngày xưa chức thượng tế được cha truyền con nối và mãn đại. Nhưng khi người Rôma đến, chức vị đó làm đầu mối cho đủ thứ gian lận. Kết quả là từ khoảng 37 TCN đến 26 SCN đã có đến 28 thầy thượng tế khác nhau. Khanan hành chức tế lễ thực thụ từ năm 7 TCN đến 14 SCN. Cho nên khi ông ấy mãn nhiệm, nhưng kế vị ông là bốn người con và Caipha là con rể ông. Do đó, tuy Caipha là thầy thượng tế đương chức, Khanan vẫn có quyền hành. Vì thế sau khi Chúa Giêsu bị bắt đã phải điệu đến chỗ ông trước tiên (Ga 18,13), dù lúc đó ông không còn tước vị gì. Luca đem tên ông ghép vào với Caipha mặc dù Caipha là thầy thượng tế đương nhiệm, Khanan vẫn còn là một nhân vật tư tế rất có ảnh hưởng trong nước.
Các câu 4-6 được trích từ Isaia 40,3-5. Bên phương Đông, khi một vị vua định đi tuần tra một vùng nào đó trong vương quốc mình thì sai một vị sứ giả đi trước để bảo dân chúng sửa sang đường sá. Cũng thế, Gioan được coi như sứ giả của Vua. Nhưng sửa soạn mà ông nhấn mạnh ở đây là sửa soạn tâm hồn và đời sống. Ông nói: “Vua đang đến, đừng lo sửa soạn đường sá, hãy chuẩn bị đời sống các ngươi”. Mỗi chúng ta đều có bổn phận liên tục phải gắng sức làm cho đời sống mình xứng đáng trước mặt Vua đời đời.
04/12 Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít
- Viết bởi Mt 9,35 - 10,1.6-8
Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 1 mùa vọng.
"Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ".
LỜI CHÚA: Mt 9,35 - 10,1.6-8
Khi ấy, Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn, Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Và Người triệu tập mười hai môn đệ, ban cho họ quyền năng trên các thần ô uế, để họ xua đuổi chúng, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người bảo: "Các con hãy đi đến cùng chiên lạc của nhà Israel trước đã, và rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người liệt, phục sinh kẻ chết, chữa lành người phung, và xua trừ ma quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chạnh lòng thương
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thiên Chúa của Do Thái giáo là Thiên Chúa gần gũi với con người.
Thiên Chúa của Ítraen có thể trừng phạt dân vì sự bất trung của họ,
nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa giàu lòng tha thứ.
Khi đọc bài đọc 1 của ngôn sứ Isaia, chúng ta ngạc nhiên
khi thấy một Thiên Chúa tỉ mỉ quan tâm đến hạnh phúc của con người.
Ngài nghe và đáp lại tiếng dân kêu than, khóc lóc (c. 19).
Ngài dạy dỗ và chỉ đường cho người lưỡng lự phân vân (c. 21).
Nhưng hơn nữa, Ngài còn để ý đến đời sống vật chất của dân chúng.
Ngài làm cho mưa thuận gió hòa,
cho khe suối róc rách vì có dòng nước chảy.
Nhờ đó hạt giống được gieo trở thành lương thực,
súc vật chăn nuôi được gặm cỏ thỏa thuê,
bò cầy ruộng sẽ được ăn cỏ khô trộn muối (cc. 23-24).
Con người có đủ bánh ăn và nước uống trong lúc ngặt nghèo.
Qua cuộc sống của mình, Đức Giêsu cũng muốn cho ta thấy
một Thiên Chúa nhân từ bằng xương bằng thịt,
một Thiên Chúa bị thu hút bởi con người, mê say phục vụ con người.
Không rõ trong sứ vụ công khai, trong gần ba năm rong ruổi,
Đức Giêsu đã đi bộ bao nhiêu cây số của xứ Paléttin,
đôi chân dẻo dai của Ngài đã đến với bao nhiêu làng mạc, thành phố.
đôi tay của Ngài đã chạm đến bao nhiêu thương tích của nhân gian.
Chỉ biết trái tim của Ngài là trái tim bằng thịt,
cứ nhói đau và chạnh thương trước bể khổ của phận người.
Bệnh tật thân xác là gánh nặng kéo con người xuống.
Đức Giêsu đã trở nên như vị lương y đối diện với đủ thứ bệnh tật.
Mù lòa, câm điếc, bất toại, phong hủi đều được Ngài chữa lành,
thậm chí Ngài còn hoàn sinh kẻ chết.
Ma quỷ cũng là một mãnh lực làm con người mất tự do.
Khử trừ ma quỷ và thần ô uế, là dấu cho thấy Nước Trời đã đến.
Mọi sự Đức Giêsu đã làm thì Ngài sai các môn đệ tiếp tục (cc. 6-8).
Hôm nay chúng ta cũng được sai để tiếp tục việc của Ngài ngày xưa:
loan báo Tin Mừng Nước Trời, chữa lành thế giới khỏi mọi bệnh tật,
giải phóng con người khỏi những xích xiềng mới do chính họ tạo nên,
và loại trừ thần ô uế ra khỏi mọi nơi con người sinh sống.
Công việc này thật bao la,
vì không giới hạn trong mảnh đất Paléttin nhỏ hẹp.
Công việc này không dễ,
vì ta phải đối diện với sức đề kháng mạnh mẽ của ác thần.
Nhưng với quyền năng Chúa ban, chúng ta tin mình sẽ thắng (c. 1).
Lễ Giáng Sinh là lễ mừng ơn cứu độ cho con người.
Chúng ta được mời nhìn thế giới hôm nay bằng cái nhìn của Giêsu,
yêu thế giới bơ vơ hôm nay bằng trái tim của Giêsu,
đến với thế giới xa xôi hôm nay bằng đôi chân của Giêsu.
Ước gì tay chúng ta chạm đến người nghèo, người yếu đau, sa ngã.
Và ước gì chúng ta cho không những gì đã nhận được nhưng không.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Suy Niệm 2: Thiên Chúa chạnh lòng thương
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thời lưu đày dân chúng sống trong đau khổ: đói khát, nhục nhã. Chân lý thuộc về kẻ mạnh. Thấp cổ bé miệng chẳng ai lắng nghe. Nhưng Isaia loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến giải phóng dân Người. Sẽ lắng nghe tiếng kêu than. Sẽ ban đủ cơm bánh. Sẽ hướng dẫn sự thật. Thiên Chúa yêu thương đầy tế nhị. Người còn cho mưa để hạt giống mọc lên. Cho súc vật béo tốt. Băng bó vết thương. Chữa lành bệnh tật. Cho cả mặt trời mặt trăng sáng hơn gấp bảy lần. Đúng là yêu nhau yêu cả đường đi.
Tình yêu tế nhị đó được Matthêu gọi đúng tên là Chạnh Lòng Thương. Vâng đến thời Chúa Giêsu thì ta được thấy rõ Thiên Chúa có trái tim nhân loại. Trái tim đó biết thổn thức bồi hồi xúc động. Trái tim đó biết quặn lên đau đớn. Vì trái tim đó đặt mình vào hoàn cảnh của tha nhân. Đau nỗi đau của họ. Buồn nỗi buồn của họ. Khổ nỗi khổ của họ.
Vì để lòng mình gần với lòng mọi người. Nên Chúa đã ra tay cứu giúp. Một cứu giúp có kế hoạch lâu dài. Chúa tuyển chọn và sai các tông đồ ra đi tiếp tục công việc Chạnh Lòng Thương của Chúa.
Nhân loại ngày nay không khác gì thời Isaia. Con người bị lưu đầy, xa cách Thiên Chúa bởi biết bao lý thuyết độc hại. Con người bị áp bức rên xiết chẳng ai nghe. Con người bị nô lệ cho thú tính. Bị giam cầm trong nhu cầu, trong dục vọng, trong hưởng thụ. Con người đang bị thương tích. Xã hội bị thương tích vì những ngăn cách giầu nghèo. Gia đình bị thương tích vì biết bao đổ vỡ. Con người bị thương tích vì những lỗi lầm tự gây ra cho mình. Con người rất cần Lòng Thương Xót của Chúa.
Chúa sai chúng ta vào trong thế giới hôm nay để rao truyền Lòng Thương Xót của Chúa. Lòng Thương Xót sẽ đưa con người trở lại với Thiên Chúa. Lòng Thương Xót sẽ giải phóng con người. Lòng Thương Xót sẽ chữa lành những vết thương. Lòng Thương Xót sẽ phục hồi nhân phẩm. Lòng Thương Xót sẽ đem đến cho các vấn để của thế giới này một giải pháp tối ưu và rốt ráo.
Sống mùa Vọng chính là rèn luyện một trái tim biết thương xót. Lạy Chúa, xin tạo cho con một trái tim biết Thương Xót.
Suy Niệm 3: Sứ Mệnh Tông Ðồ
Chú ý đến những thái độ trên của Chúa Giêsu, chúng ta có thể khám phá ra những sự thật hữu ích cho cuộc đời theo Chúa của mỗi người, nhất là của những ai dấn bước theo Chúa, cách đặc biệt hơn là những kẻ "Tận Hiến" cuộc đời làm chứng cho Chúa. Dung mạo tinh thần xung quanh và trước mặt Chúa Giêsu thời Ngài cũng như của thời đại chúng ta hôm nay được Chúa mô tả như lầm than, vất vả, bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt, bị lạc mất lý tưởng sống, đang tự tranh đấu để sống còn.
Trong đoạn này những điểm tiêu cực nhiều hơn là tích cực, như bơ vơ, lạc lõng, đã bỏ mất hay không biết gì đến giá trị nhân bản Kitô. Ðó là đoàn người của một xã hội bị trần tục hóa trầm trọng của ngày hôm nay. Diễn phác môi trường như thế, Chúa Giêsu không có chút trách móc, khinh thị, tránh né mà nhìn đó như một lời mời gọi dấn thân yêu thương, đó là mùa lúa chín một cơ hội ngàn vàng để biểu lộ tình yêu thương đối với anh chị em.
Sự nhỏ mọn tầm thường nơi tâm hồn có thể làm cho chúng ta có một thái độ tranh chấp, khinh thị, rút lui, nhưng đó không phải là thái độ của chính Chúa Giêsu khi Ngài nhìn thấy đoàn người khủng hoảng tinh thần như đoàn chiên không người chăn dắt, vả lại Chúa Giêsu đã yêu thương họ. Ðây không phải là một sự chạnh lòng thương, không phải là một tâm tình thương hại, tôi nghiệp chóng qua nhưng là một tình thương sâu thẳm từ đáy tâm hồn của Chúa Giêsu.
Qua đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy tâm hồn Chúa Giêsu tràn đầy tình thương khi nhìn thấy nhu cầu dân chúng đang bị lạc hướng như đàn chiên không người chăn dắt. Tâm hồn Ngài xúc động tận trong thâm tâm, vì Ngài tràn đầy tình thương đối với họ, Ðó là bí quyết của đời sống Tông đồ của mọi đồ đệ theo Chúa. Ðược Chúa mời gọi làm chứng nhân của tình thương cho tình thương thì những sự dữ, những tiêu cực của môi trường chúng ta sinh sống ngày nay là những cơ hội ngàn vàng để chúng ta sống tình thương mà Chúa đã ban tặng cho các đồ đệ của Ngài.
Tư tưởng thứ hai mà bài Phúc Âm gợi lên cho chúng ta là những hành động của Chúa Giêsu: Chúa gọi các Tông đồ, ban cho họ quyền hành như Chúa, trừ các tà thần, giải phóng con người khỏi làm nô lệ cho sự dữ, cho ma quỉ, chữa lành các bệnh tật, thăng tiến cuộc sống con người. Chúa sai các Tông đồ đi rao giảng bằng các chỉ thị, mặc dù đây mới chỉ là sai các ngài đi thử nghiệm lúc ban đầu. Cuộc sai đi chính thức sau này sẽ được thực hiện khi Chúa đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc của Ngài sau biến cố Phục Sinh.
Những hành động của Chúa phát đi từ tình thương của Ngài đối với con người. Nhìn công việc của người khác chúng ta có thể nói trọn vẹn sứ mạng của Giáo Hội, mọi thành phần của Giáo Hội, mọi thành phần đích thực của Chúa đều phát sinh từ tình yêu Thần Linh hiện diện nơi con tim phàm trần. Người đồ đệ của Chúa cần phải được thanh luyện, cần phải được biến đổi, được thay thế quả tim xác thịt bằng một quả tim mới tràn đầy tình yêu thương thần thiêng. Toàn thể cơ cấu Giáo Hội trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng được xây dựng trên nền tảng tình yêu thương thần thiêng này. Chính nơi đây, chúng ta được hiểu thêm hay hiểu lại câu nói của thánh Phaolô Tông đồ viết về bí quyết đời sống Tông đồ của ngài: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi".
Chúa Giêsu thấy đám đông liền chạnh lòng thương. Tâm hồn Ngài tràn ngập tình thương, Ngài xúc động tận thâm tâm trước nhu cầu của dân chúng đang bị lạc hướng như đoàn chiên không người chăn dắt. Ngài lên tiếng mời gọi các Tông đồ, những con người tầm thường hãy theo Ngài, hãy để Ngài biến đổi thành những chứng nhân tình yêu. Thái độ đáp trả duy nhất của mỗi người chúng ta là để cho tình yêu thần thiêng Chúa biến đổi và thôi thúc chúng ta hành động: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi".
Trong khiêm tốn và trong thinh lặng của Ðức Tin, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, hãy bắt chước cuộc đời của Chúa Giêsu trên trần gian này: "Thầy đến để mang lửa yêu thương đến trần gian và Thầy không có mong ước nào khác hơn là cho lửa ấy cháy lên, tỏa sáng khắp nơi, soi sáng mọi người, mang tin vui tỏa sáng khắp nơi, soi sáng mọi người, mang tin vui tỏa sáng cho con người". Hãy khiêm tốn lắng nghe và hãy để cho tình yêu Chúa biến đổi và thôi thúc.
Lạy Chúa, xin đổ tràn tình yêu Chúa trên chúng con và biến đổi chúng con thành những chứng nhân cho tình yêu Chúa, chứng nhân kiên trung trong Ðức Tin sống động qua đức Bác Ái. Amen.
Suy Niệm 4: Nhà truyền giáo đích thực
Vào thời Trung cổ, một số tín hữu giàu có muốn sống theo tinh thần của thánh Benado đã từ bỏ mọi tiện nghi và ngay cả ngôi thánh đường ấm cúng của họ để đến cư ngụ trên một đỉnh núi cao. Mục đích của họ là để cảm thông với những khách bộ hành lạc lối giữa núi rừng, nhất là vào mùa đông tuyết rơi. Những tín hữu này quyết định ngày đêm túc trực ở đó để kịp thời cứu vớt những ai kêu cứu. Để làm việc đó, họ đã huấn luyện một đàn chó đi tìm người lạc lối, đưa về nhà Dòng để được tận tình săn sóc.
Sự cảm thông không chỉ là một cảm xúc trong tâm hồn, mà còn là đến gần để lắng nghe, chia sẻ, trao ban. Thiên Chúa là Đấng cảm thông đích thực: Ngài không thể hiện sự cảm thông duy chỉ bằng cái nhìn từ trời cao, nhưng Ngài đã hoá thân làm người, chia sẻ hoàn toàn kiếp sống khốn cùng của con người. Tin mừng hôm nay nói lên sự cảm thông của Thiên Chúa bằng câu: “Ngài động lòng xót thương họ”. Chúa Giêsu quả thực chính là Trái tim của Thiên Chúa, một Trái tim không những rung động trước nỗi khốn khổ của con người, mà còn đến ở bên con người.
Chúa Giêsu xuất hiện như một tôn sư. Nhưng trong khi các bậc thầy khác qui tự một số môn sinh trong một ngôi trường hoặc chỉ giảng dạy tại cổng thành, thì Chúa Giêsu đã ra đi khắp nơi, chiêu mộ môn sinh để họ cùng đi với Ngài tìm đến những người bị bỏ rơi nhất trong xã hội.
Qua cung cách thể hiện sự cảm thông ấy, Chúa Giêsu phác hoạ ra mẫu người truyền giáo đích thực: ra đi và tìm đến với người khác. Ra đi dĩ nhiên không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này đến nơi khác, mà thiết yếu là thái độ ra khỏi chính mình, ra khỏi vỏ ốc của mình để đến với tha nhân.
Chúa Giêsu đã đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ. Ngài đã phục vụ bằng một tình yêu vừa bao la, vừa cụ thể, đến với từng con người trong từng nỗi đau của họ để băng bó, xoa dịu.
Ước gì sự đồng hành cảm thông của Chúa Giêsu cũng hiện thực hoá trong cuộc sống mỗi Kitô hữu, để mọi người chung quanh nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với họ.
Suy Niệm 5: Chứng nhân của niềm vui (Mt. 9,35 - 10,8)
Rồi Đức Giêsu gọi mười hai môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa các bệnh hoạn tật nguyền (Mt.10,1)
Không ai không biết câu châm ngôn này: “Một ông thánh buồn là điều đáng buồn”. Lời Chúa trong tất cả các trang Tin mừng mời gọi chúng ta sống vui mừng sâu thẳm và trở nên nhân chứng Tin mừng của Đức Giêsu.
Đức Giêsu trao phó cho các môn đệ một sứ điệp không hề có một chút bất hạnh nào. Người làm cho họ nên những người ban phát sự sống và mời gọi họ đi loan báo Tin mừng nước trời, kèm theo những dấu chỉ: Những dấu chỉ vui mừng chiến thắng buồn sầu, sự sống chiến thắng sự chết, hạnh phúc của Thiên Chúa chiến thắng tội lỗi: “Các con hãy đi chữa lành các bệnh nhân, phục sinh những kẻ chết, thanh tẩy những kẻ phong cùi”.
Niềm vui người tông đồ của Đức Kitô còn hơn cảm tính vui mừng tâm lý con người. Niềm vui đó bắt nguồn sâu xa trong sự gặp gỡ sống động với tình yêu Thiên Chúa. Ai cảm thấy được yêu mãnh liệt bởi Đức Chúa Cha và được sống đổi mới bởi Chúa Thánh Thần thì không thể bị lôi cuốn lâu trong buồn sầu. Dù có bị chôn vùi trong những hố sâu nguy khó, họ sẽ nhận ra Đấng đầy quyền năng phá tan đen tối (Is. 30, 20 và 26). Môn đệ quyết tâm nhận lãnh sứ mệnh đưa Tin mừng tình yêu vô hạn cho những kẻ đang tìm ngụp lặn trong những thú vui tạm bợ giữa lòng thế giới chồng chất buồn sầu lai láng. Mỗi cá nhân và tập thể chúng ta phải biết gieo những mầm sống và hy vọng của Tin mừng. Cùng nhau và chính mình chúng ta phải tìm mọi cách xua đuổi những thế lực sự dữ còn đang hiện diện trong thế giới chúng ta. Tìm mọi cách trao ban hương vị tự do cho những ai đã quàng vào cổ mình ách nô lệ, tìm mọi cách rao giảng Đức Giêsu Kitô cho kẻ không nhận biết Người là Chúa sự sống của họ, là Chúa các ngày lễ. Nếu chúng ta quyết tâm hợp tác vào công cuộc cứu độ thế giới, thì chúng ta phải là những sứ giả mang Tin mừng có sức biến đổi bộ mặt trái đất này.
Chúng ta có ý thức rõ như thế không?
C.G
Suy Niệm 6: Mục tử đích thực
Lời mời gọi truyền giáo là đề tài xuyên suốt của Đức Giêsu trong hành trình sứ vụ của Ngài. Từng lời nói, hành động đều làm toát lên đặc tính này.
Hôm nay, một lần nữa Đức Giêsu quan sát và thấy dân chúng lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt và Ngài đã chạnh lòng thương đám đông này.
Thực ra thì dân chúng có người lãnh đạo, nhưng điều thua thiệt cho họ là họ lại bị sống dưới sự thống lãnh của những kẻ độc tài, kiêu ngạo, hình thức, dối trá là những Luật Sĩ và Pharisiêu. Vì thế, họ bị những người này dẫn đi sai đường trật lối, bởi vì người đang dẫn dắt họ chính là những mục tử dởm.
Chính vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã sống hoàn toàn khác với những người lãnh đạo thời bấy giờ, để làm hiện lên dung mạo một vị Mục Tử nhân lành, biết từng con chiên của mình, để con nào ốm đau, Ngài chữa trị; con nào gãy chân, què tay, Ngài băng bó; con nào đi lạc, Ngài đi tìm..., nói chung, Ngài đã “ngửi thấy mùi của từng con chiên” để yêu thương chúng xứng với nhân phẩn của từng con.
Hôm nay, Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu một lần nữa thi hành sứ vụ Mục Tử của mình khi “chạnh lòng thương” để chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ và giải thoát họ khỏi những sự kiềm chế của tội lỗi.
Kế đó, Đức Giêsu đã mời gọi các môn đệ ra đi thi hành cùng một sứ vụ như Ngài và đồng thời trao ban cho các ông những quyền năng cần thiết để hỗ trợ việc rao giảng như khả năng chữa bệnh, trừ quỷ, khuất phục thiên nhiên.... Tuy nhiên, vì Ngài biết rõ sự nguy hại của kẻ kiêu ngạo, nên không quên nhắc các ông: “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có thái độ như Đức Giêsu là phải có tình yêu thương, trách nhiệm và hết lòng phục vụ con người cách vô vị lợi, không tìm lợi lộc, danh vọng thấp hèn cho mình, nhưng tất cả để cho danh Cha được cả sáng và Nước Cha mau ngự trị.
Có thế, Mùa Vọng mới thực sự là Mùa của tình thương, sự tha thứ, bao dung. Được như thế, chúng ta sẽ có những món quà trân quý để dâng lên cho Chúa Hài Đồng trong dịp lễ Giáng Sinh sắp tới.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên người môn đệ đích thực nhờ học và noi theo gương Chúa đã làm. Xin cho anh chị em giới trẻ biết mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa để ra đi và làm môn đệ cho Chúa. Amen.
Ngọc Biển, SSP
Suy Niệm 7: Chạnh lòng thương xót
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Trái tim Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót trước những khổ đau bệnh tật của con người. Chúa tỏ lộ tình thương cứu độ bằng cách rao giảng Tin mừng và chữa lành mọi bệnh tật.
Cầu nguyện: Chúa ơi, trên thế giới này, có ai mà chẳng có lúc ốm đau bệnh tật. Có ai mà không bao giờ đau khổ. Bước chân ra khỏi nhà, con gặp ngay một người tàn tật ăn xin, áo quần rách nát. Trên đường đi, bên vỉa hè, ngoài phố chợ, trong bệnh viện, nơi gia đình, lạy Chúa, bao nhiêu kẻ bệnh hoạn tật nguyền: có những kẻ la lối than thân trách phận, lắm người rên rỉ chịu đựng bất đắc dĩ.
Con biết Chúa thương chúng con đau khổ. Trái Tim của Chúa giàu lòng thương xót luôn chia sẻ với bệnh tật của chúng con. Con xin Chúa cho các bệnh nhân và mọi người đau khổ được nhận ra Tin mừng lớn lao này là: chính họ đang được Chúa yêu thương, chính Chúa đang âm thầm cứu vớt nâng đỡ họ qua bàn tay ân cần của những người chung quanh họ, và chính Chúa đang ban sức mạnh để họ can đảm và vui tươi đón nhận gánh nặng bệnh tật. Và hơn nữa, xin cho họ hiểu rằng chính những đau khổ bệnh tật là cơ hội cho họ thông phần vào Thánh giá cứu độ của Chúa. Và như vậy cuộc sống họ dường như là tàn phế, là đồ bỏ đi, nhưng thực ra lại là sự cộng tác lớn lao để chống đỡ, thanh luyện và đền tội cho thế giới tội lỗi này. Hội Thánh luôn tìm thấy nơi họ một nguồn trợ lực và sức mạnh thiêng liêng cho hoạt động tông đồ của mình.
Con xin Chúa biểu lộ quyền năng và tình thương cứu độ họ. Và con cũng xin Chúa cho con biết góp phần mình để xoa dịu những nỗi đau thương của anh chị em con. Amen.
Ghi nhớ: “Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ”.
Suy Niệm 8: Sai tông đồ đi truyền giáo
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Đoạn Tin mừng hôm Thứ Tư (Mt 15,29-37) đã cho ta biết 2 hoạt động của Chúa Giêsu vì “chạnh lòng thương” dân chúng, đó là cứu chữa những người bệnh và nuôi những người đói. Đoạn Tin mừng hôm nay cho biết thêm một hoạt động nữa của sự “chạnh lòng thương” ấy, đó là sai các tông đồ của mình đi truyền giáo cho dân chúng.
B.... nẩy mầm.
1. Chủ đề bài đọc Cựu Ước, và sẽ được ứng nghiệm rõ ràng trong đoạn Tin mừng: “Người động lòng thương ngươi, lắng nghe lời ngươi kêu xin”.
2. Khi thấy dân chúng lầm than như bầy chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu “chạnh lòng thương” nên sai các tông đồ đi loan Tin mừng cho họ. Chỉ khi nào chúng ta “chạnh lòng thương” trước những người lương thì chúng ta mới hăng say loan Tin mừng cho họ.
3. “Chúa Giêsu phác họa ra một mẫu người truyền giáo đích thực: ra đi và tìm đến với người khác. Ra đi dĩ nhiên không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này đến nơi khác, mà thiết yếu là thái độ ra khỏi chính mình, ra khỏi vỏ ốc của mình để đến với tha nhân”. (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
4. “Thấy đoàn lũ bơ vơ”: Cái thấy, cái nhìn của Chúa Giêsu đáng chúng ta chiêm ngắm. Một cái nhìn bao la bát ngát, “mình vì mọi người”, khác hẳn cái nhìn thiển cận, bo bo ích kỷ chỉ lo thu quén cho bản thân của chúng ta.
5. “Thấy dân chúng đông đảo, Đức Giêsu chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36)
“Trước đây tôi không phải là một kitô hữu. Tôi sống trong tuyệt vọng vì số phận đã bị kết án bởi sida. Thế rồi, nhờ một người bạn, tôi đã gặp Chúa. Bắt đầu từ một ánh mắt nhìn tôi, và tôi đã tin vào Chúa. Tôi đã tìm ra ý nghĩa của cuộc sống, và nhận thức được giá trị đời mình ngay trong quãng đời vắn vỏi còn lại” (Thư của một bạn trẻ bị bệnh sida).
Chính sự cảm thông đã bừng lên niềm hy vọng và làm sống lại một cộc đời tưởng như đã bế tắc.
6. Mầm khác:
Hồi đó, Hoàng Đế Sabat cai trị vương quốc Ba Tư và rất được toàn dân mến phục. Nhà vua thường cải trang như một thường dân để tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà vua cải trang như một nhân công nghèo khổ lần mò các bậc thang để xuống tận dưới hầm tối của lâu đài là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ là đống tro tàn và lương thực hàng ngày là mẩu bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ già và bắt đầu gợi chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng thấm mềm trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.
Nhà vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua nhiều lần cải trang để đến thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai, nhưng vẫn tiếp tục đáp trả cử chỉ nhân đạo của nhà vua. Sau cùng, nhà vua tự nhủ: ta sẽ tỏ lộ cho cụ già này biết ta là ai, để xem ông ta sẽ xin ta điều gì. Ít hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói:
- Bấy lâu nay có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân ngèo khổ như ông, nhưng nay ta nói thật ta là vua, ta rất qúi mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói, ta sẽ ban.
Nhà vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng ông chỉ ngồi yên lặng. Tưởng cụ già không hiểu mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm.
- Có lẽ ông chưa hiểu rằng ta là vua, ta có thể làm cho ông lên giàu sang, danh vọng.
Cụ già cúi đầu đáp:
- Tâu Hoàng Thượng, con đã hiểu tấm lòng của Hoàng Thượng trong những lần đến hầm tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước lạnh. Đó là món quà cao qúi nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa, con chỉ xin một điều là Hoàng Thượng đừng bao giờ lấy lại món qùa quí giá ấy bao lâu con còn sống trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con một con tim rộng mở, luôn biết cảm thông và trân trọng anh em đồng loại, để thế giới tràn đầy niềm hy vọng (Epphata)
Suy Niệm 9: Sứ mệnh truyền giáo
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu đi khắp nơi từ thành thị đến thôn quê, rao giảng dạy dỗ, hướng dẫn và đem bình an cho thân xác và tâm hồn con người. Ngài đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho dân chúng để đem lại ơn cứu độ cho họ. Mối ưu tư hàng đầu của Ngài là làm cho mọi người được nghe biết Tin Mừng. Mối ưu tư ấy đã được diễn tả trong lúc thổ lộ tâm tình với các môn đệ: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về”.
2. Trong năm thứ nhất đời công khai, Đức Giêsu đã đi rao giảng nhiều nơi. Đi đến đâu Người cũng thấy dân chúng ở vào trường hợp đáng thương, vì họ bị những người lãnh đạo bắt giữ những luật khắt khe, và không dẫn họ đến hạnh phúc đích thực. Vì thế Đức Giêsu động lòng thương họ và gọi thêm các cộng sự viên để cùng với Người chăm sóc dân chúng trong công việc truyền giáo.
3. Đức Giêsu thi hành sứ vụ cứu thế bằng cách đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Người thi hành sứ vụ cứu thế như vậy là để trung thành với thánh ý của Chúa Cha và đồng thời trở nên gương mẫu cho các Tông đồ, và cho những người làm việc tông đồ sau này trong công tác truyền giáo. Đức Giêsu đi rao giảng nhiều nơi: có ý dạy những ai làm tông đồ truyền giáo phải biết di chuyển hết nơi này đến nơi khác chứ không được cắm chốt một nơi nào như một độc quyền.
4. Theo Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã phác họa ra một mẫu người truyền giáo đích thực: Ra đi và tìm đến với người khác. Ra đi dĩ nhiên không chỉ có nghĩa là rời bỏ nơi này đến nơi khác, mà thiết yếu là thái độ ra khỏi chính mình, ra khỏi vỏ ốc của mình để đến với tha nhân (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
Đức Giêsu nhắc cho các môn đệ, trong khi đi đến với những người khác, phải luôn có tinh thần xả kỷ quên mình vì Chúa đã nói: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”. Vì thế, Giáo hội luôn ý thức sứ vụ mục tử “chạnh lòng thương” và việc loan báo Tin Mừng (x. Ad Gentes).
5. Ra đi loan báo Tin Mừng còn có nghĩa là ra đi khỏi con người của mình. Ra khỏi con người thiển cận, ích kỷ của mình để mặc lấy cái nhìn nhậy cảm hơn trước sự hiện diện của tha nhân đang cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.
Đây là bức thư của một bạn trẻ bị bệnh sida: “Trước đây tôi không phải là một Kitô hữu. Tôi sống trong tuyệt vọng vì số phận đã bị kết án bởi sida. Thế rồi, nhờ một người bạn, tôi đã gặp Chúa. Bắt đầu từ ánh mắt nhìn tôi, và tôi đã tin vào Chúa. Tôi đã tìm ra ý nghĩa của cuộc sống, và nhận thức được giá trị đời mình ngay trong quãng đời vắn vỏi còn lại”.
Hãy xin Chúa cho chúng ta một con tim rộng mở, luôn biết cảm thông và trân trọng anh em đồng loại, để thế giới tràn đầy niềm hy vọng (Epphata).
6. Giáo hội không ngừng nhắc nhở con cài mình tập trung góp phần vào việc truyền giáo, đồng thời phải nỗ lực thích ứng để có thể đem Tin Mừng cho nhân loại trong thời đại mới. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mời gọi mọi thành phần trong Hội thánh hãy “ra khơi truyền giáo” (x. Novo Millennio Ieunte).
Người Kitô hữu ra khơi truyền giáo bằng đời sống bác ái, dấn thân cho người nghèo, người cô thế cô thân, bằng gương sáng việc thiện giữa thế giới hôm nay. Đây là bằng chứng:
Một nhóm bạn trẻ từ nhiều quốc gia đang bàn thảo về cách làm cho Tin Mừng của Chúa được lan rộng. Họ nói về sự truyên truyền, về tài liệu và tất cả những cách phổ biến Tin Mừng trong thế kỷ 20 này.
Một cô gái Phi châu nói: “Khi muốn truyền đạo cho một làng chúng tôi, chúng tôi không cho họ sách. Chúng tôi gửi một gia đình Kitô giáo đến sống trong làng. Và họ sẽ làm cho mọi người thành Kitô hữu”.
7. Truyện: Đức tin sống động.
Felix Frankfurter là một quan tòa nổi tiếng của tòa án tối cao của Hoa Kỳ. Một lần kia ông được đưa vào bệnh viện, ở đó ông quen biết một y tá có tên là Lucy. Họ có những lúc ngồi nói chuyện thân mật và ông biết nhiều điều về Lucy.
Trước đó, chưa bao giờ ông gặp được người nào có lòng quảng đại và nhân hậu như chị. Và ông đã bắt đầu tự hỏi và suy nghĩ, cố gắng khám phá suối nguồn của thái độ của chị. Điều ông khám phá như sau: Suối nguồn ấy không có gì là bí ẩn. Nó đơn giản, chỉ là sự áp dụng thực hành đức tin của chị.
Lucy không bao giờ biết đức tin sống động của chị có ảnh hưởng như thế nào, nhưng chị đã làm cho Đức Giêsu hiện diện cụ thể trong bệnh viện này. Chị đem đến đôi bàn tay mà Đức Giêsu cần đến. Đức Giêsu cần những nhân chứng cho người ta như chị Lucy đến nỗi Người có thể thành Đấng an ủi như Người muốn làm.
Một quan hệ thật sự với Đức Giêsu sẽ có một ảnh hưởng cả khi người có mối quan hệ ấy không đề cập đến Đức Giêsu. Dĩ nhiên, những người tin vào Đức Giêsu và yêu mến Người, cũng sẽ, khi thuận lợi, nói về Đức Giêsu một cách rõ ràng cởi mở (Flor McCarthy).
Suy Niệm 10: Chúa động lòng trắc ẩn
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Tin Mừng hôm nay ghi lại: “Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố và làng mạc để dạy dỗ và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Khi nhìn đoàn lũ dân chúng, Ngài động lòng thương xót họ” (Mt 9, 36).
Chúa nhìn và sau cái nhìn là “Ngài động lòng thương”. Tin Mừng đã ghi lại nhiều lần như thế. Rồi từ chỗ động lòng thương Chúa sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng cho họ.
Tại sao Chúa lại động lòng trắc ẩn như thế?
Thưa vì Ngài thấy dân chúng là những con người đang “tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn” (Mt 9, 36).
Chúa nhìn thấy tình trạng đó, nên Chúa động lòng thương dân. Lòng thương của Chúa không dừng lại ở nơi tình cảm chóng qua, mà còn thôi thúc Chúa đi đến chỗ hành động để biểu lộ tình thương. Tin Mừng ghi: Ngài kêu gọi các môn đệ lại và nói với họ: “Các con hãy xin với chủ ruộng sai thợ gặt đi gặt lúa của Ngài” (Mt 9, 38).
Rồi cụ thể hơn nữa, Ngài tập hợp các môn đệ lại, ban cho các ông quyền năng trên các thần ô uế, và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền rồi sai các ông đi đến với những con chiên đang bơ vơ lạc lõng ấy.
2. Chúa Giêsu đối xử với con người như thế, còn chúng ta thì sao?
Chắc chắn là không phải lúc nào chúng ta cũng có được cái nhìn giống như Chúa. Ngay cả những người được coi là thông minh và khôn ngoan nhất trên trần gian này cũng thế. Trường hợp của vua Salomon là một thí dụ.
Lịch sử kể lại rằng, vì phải xử quá nhiều vụ oan ức, nên nhà vua càng ngày càng trở nên vô cảm, vô tình. Đôi mắt của ông không còn được sáng như trước nghĩa là không còn có cái nhìn thông cảm như xưa.
Một hôm khi Salomon ngồi lên ngai và sắp sửa xử một vụ án, thì chiếc vương miện trên đầu vua bỗng tuột xuống che cả hai con mắt. Nhà vua lấy tay đẩy nó lên, nhưng chỉ một phút sau là nó lại sụp xuống. Sự việc tái diễn đến 8 lần như thế. Cuối cùng, nhà vua bực quá nói với nó:
- Tại sao mày cứ sụp xuống che mắt tao mãi như thế?
Chiếc vương miện trả lời:
- Tôi phải làm thế để nhắc cho Ngài biết rằng: khi mà quyền hành đã mất đi sự cảm thông thì người cầm quyền sẽ bị che mắt như thế.
Nói cách khác, khi cái nhìn không còn đi cùng với con tim thì cái nhìn đó sẽ trở thành khô cằn, vô cảm và chai đá.
“Thấy dân chúng đông đảo, Đức Giêsu chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9, 36).
Đó là cái nhìn được trộn lẫn bằng những dòng máu của con tim.
Hồi đó, hoàng đế Sabat cai trị vương quốc Ba Tư và được toàn dân mến phục. Nhà vua thường cải trang như một thường dân để tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà vua cải trang như một nhân công nghèo lần mò đến các bậc thang, xuống tận hầm tối của một lâu đài là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ chẳng khác gì một ổ rác và lương thực hàng ngày là vài mẩu bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ và bắt đầu gợi chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng đã được làm mềm trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.
Nhà vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua đã nhiều lần cải trang đến thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai, nhưng vẫn tiếp tục đáp trả bằng những thái độ rất chân thành đối với người đến thăm mình. Sự việc cứ diễn ra như thế, nhưng rồi một ngày kia nhà vua quyết định phải cho cụ già biết mình là ai, để xem cụ sẽ xin điều gì. Ít hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói:
- Bấy lâu nay, có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân nghèo khổ như ông, nhưng nay ta nói thật ta là vua. Ta rất quí mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói, ta sẽ ban.
Nhà vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng cụ chỉ ngồi yên lặng. Tưởng cụ già không hiểu ý mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm.
- Có lẽ ông chưa hiểu rằng, ta là vua, ta có thể làm cho ông lên giàu sang, danh vọng.
Cụ già cúi đầu đáp:
- Tâu Hoàng Thượng, con đã hiểu tấm lòng của Hoàng Thượng trong những lần đến hầm tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước lạnh. Đó là món quà cao quí nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa. Con chỉ xin một điều là Hoàng Thượng đừng bao giờ lấy lại món quà quí giá ấy bao lâu con còn sống trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.
Lạy Chúa, xin cho con một con tim rộng mở, luôn biết cảm thông và trân trọng anh em đồng loại, để thế giới tràn đầy niềm hy vọng. (Epphata)
03/12 Rao giảng cho mọi dân tộc
- Viết bởi Mc 16, 15-20
Rao giảng cho mọi dân tộc.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 1 mùa vọng – THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, linh mục. Bổn mạng các xứ truyền giáo. Lễ kính.
"Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng".
* Thánh Phanxicô chào đời tại Tây Ban Nha năm 1506. Khi đang học văn chương ở Pa-ri, người nhập đoàn với thánh I-nha-xi-ô. Người chịu chức linh mục ở Rôma năm 1537 và chăm lo thực hành việc bác ái. Năm 1541, người lên đường sang phương Đông. Trong mười năm, người can đảm loan báo Tin Mừng cho người Ấn Độ và Nhật Bản, giúp cho nhiều người hoán cải mà đón nhận đức tin. Người qua đời năm 1552 ở đảo Xanxian, cửa ngõ vào Trung Quốc.
LỜI CHÚA: Mc 16, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận phạt.
Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Rao giảng cho mọi dân tộc
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Chúa Giêsu phục sinh hiện ra để củng cố đức tin của các môn đệ,
để ban bình an cho họ sau những biến cố buồn đau,
nhưng cũng là để sai các môn đệ lên đường đi sứ vụ.
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).
“Hãy đi và làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ…” (Mt 28, 19-20).
“Phải nhân danh Đức Kitô mà rao giảng cho mọi dân tộc” (Lc 24, 47).
“Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho mọi thọ tạo” (Mc 16, 15).
Thế hệ các Kitô hữu đầu tiên rất trân trọng mệnh lệnh này.
Bao vị tông đồ đã chịu tử đạo chỉ vì tuân giữ mệnh lệnh ấy.
Ước mơ của Chúa Giêsu phục sinh thật lớn lao.
Ước mơ ấy muốn ôm cả trái đất với muôn dân tộc.
Ngài đã sống, đã chết và đã sống lại, chính là để cứu độ cả loài người.
Ngài đã đem lửa đến trên mặt đất,
và Ngài muốn chúng ta tiếp tục làm cho ngọn lửa ấy bùng lên (Lc 12, 49).
Phanxicô Xaviê đã muốn sống mệnh lệnh này cách đặc biệt.
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (c. 20).
Phanxicô cũng muốn đi khắp nơi để nói về Chúa Giêsu cho ai chưa tin.
Một năm trời lênh đênh trên biển để đi từ Bồ Đào Nha đến Ấn Độ.
Ba mươi sáu tuổi bắt đầu công việc của một nhà truyền giáo ở Goa,
Phanxicô chịu mọi lao nhọc để giảng dạy và rửa tội cho người bản xứ.
Rồi Phanxicô lại lên đường đi Malaixia, Inđônêsia.
và là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên tại Nhật Bản.
Nhưng trái tim Phanxicô vẫn chưa dừng ở đó.
Ngài còn muốn đặt chân đến Bắc Kinh để gặp Hoàng đế Trung Quốc.
Phanxicô chết vì kiệt sức khi đang chờ trên hòn đảo Thượng Xuyên,
mắt vẫn hướng về Quảng Đông chỉ cách đó 14 cây số.
Hôm ấy là ngày 3-12-1552, khi Phanxicô mới bốn mươi sáu tuổi.
Mừng lễ thánh Phanxicô, Bổn mạng các xứ truyền giáo,
chúng ta nhớ Việt Nam vẫn là nơi cần được loan báo Tin Mừng,
và Trung Quốc vẫn là nơi gần như Kitô giáo chưa được biết đến.
Hơn 90% người dân Việt chưa nhận biết Đức Kitô.
Hơn một tỷ người Trung Quốc cần được nghe lời rao giảng.
Có ai còn nhớ đến những mệnh lệnh của Chúa phục sinh không?
Có người nghĩ rằng chẳng cần phải loan báo Tin Mừng nữa,
vì đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành, dạy sống theo lương tâm,
vì các tôn giáo đều có nét hay riêng, đều là những con đường cứu độ,
vì Đức Kitô Giêsu chẳng phải là Đấng Trung Gian duy nhất!
Anh em hãy đi khắp thế giới, hãy làm cho muôn dân thành môn đệ!
Lời ấy của Đức Giêsu phải là lời nhắc nhở Hội Thánh.
Loan báo Tin Mừng hôm nay thuận lợi hơn xưa rất nhiều.
Chúng ta không phải đi thuyền buồm để mà sợ đứng gió.
Chỉ gửi một email, làm một trang web, là nhiều người nghe được Tin Mừng.
Điều chúng ta thiếu lại là chút nhiệt thành nóng bỏng của Phanxicô.
Xin cho tôi hiểu và yêu Ngài hơn, để dám giới thiệu Ngài cho thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái tim Chúa,
ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày,
nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau,
và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ
mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng
của những thất bại đắng cay trên đường đời.
Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành
để hết lòng phụng sự Nước Chúa,
lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa
để chúng con đi khắp địa cầu
loan báo về Tình yêu và gieo rắc Tình yêu khắp nơi. Amen.
Suy niệm 2: Loan báo Tin Mừng cho mọi thọ tạo
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Được sống hạnh phúc trong tình yêu Thiên Chúa là ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống con người. Không thể có hạnh phúc đích thực, khi con người chỉ biết nghĩ đến cuộc sống đời tạm này, mà không thiết tha với đời sống vĩnh cửu mai sau trên Nước Trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, thánh Phanxicô Xaviê đã cảm nếm được hạnh phúc đích thực trong Chúa, nên thánh nhân đã hy sinh vất vả, đi nhiều nơi, vượt biển khơi, gặp gỡ mọi hạng người, làm sao để cho họ biết được giá trị thật của cuộc sống. Bởi vì: “Nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có ích lợi gì.”
Lạy Chúa, tâm hồn con luôn bị giằng co giữa sứ điệp của Tin Mừng và cuộc sống cụ thể từng ngày. Con vẫn biết rằng: được cả thế giới mà mất mạng sống, thì chẳng có ích lợi gì. Thế nhưng “mất mạng sống” thì còn xa quá, ở mãi tận cuối kiếp người, còn thế gian thì lại luôn hiện diện thật gần, ngay trong con người của con.
Lạy Chúa, có được những giây phút bình an khi thinh lặng, cầu nguyện, kết hiệp mật thiết với Chúa, thật là hạnh phúc khôn tả, đến nỗi, lúc đó chẳng tha thiết sự gì trên trần gian này nữa. Nhưng thật là hiếm và nhất thời. Khi con trở về với cuộc sống hằng ngày, đầy dẫy những bon chen, gian dối, con lại bị xoáy vào cơn lốc của chủ nghĩa hưởng thụ, chỉ biết có vật chất, rồi sống cho qua ngày, mà không thấy được một ý nghĩa nào cho cuộc sống của mình. Xin Chúa ban sức mạnh để con nhìn vào cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê mà bước đi trong chân lý của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”
Suy niệm 3: Cuộc sống theo tinh thần Phúc Âm
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Đây là đoạn cuối của Phúc Âm theo Thánh Máccô, ghi lại chỉ thị cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi về trời:
- Chúa chỉ thị: “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Phúc Âm cho mọi loài thụ tạo”.
- Ngài hứa tích cực hỗ trợ những sứ giả loan truyền Phúc Âm bằng những dấu lạ kèm theo.
- Các tông đồ đã làm theo chỉ thị đó: rao giảng Phúc Âm khắp nơi, và “dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
Ý nghĩa “Những dấu lạ kèm theo”: Những dấu lạ như trừ quỷ (x. Cv 5, 12-16; 8, 7; 16, 16-18), nói tiếng lạ (x. Cv 2, 4-13; 10, 44-46; 1Cr 14, 2-40), đặt tay chữa bệnh (x. Cv 4, 30; 9, 10-17), cầm rắn mà không sao cả (x. Cv 28, 3-6) v.v… là bảo đảm có Chúa Giêsu trợ giúp các ông để chiến thắng mọi thế lực gian tà.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Thánh Phanxicô Xaviê được Giáo Hội đặt làm bổn mạng của các xứ truyền giáo. Ngài là người thực hiện đúng đoạn Phúc Âm hôm nay.
2. Người truyền giáo vừa rao giảng vừa “dùng những dấu lạ kèm theo” để củng cố lời rao giảng của mình. Trong bối cảnh thời nay, “những dấu lạ kèm theo” là một cuộc sống “lạ lùng” trước con mắt người đời nhưng đúng với tinh thần Phúc Âm.
3. Thiên Chúa, Đấng Cứu Rỗi muốn muôn dân đến với Người. Phần chúng ta, hãy cộng tác với Người: hãy đi đến muôn dân để rao giảng Phúc Âm cho họ. Đến với muôn dân (Ad Gentes) là chủ đề lớn, là đầu đề của một sắc lệnh của Vatican II.
4. Một mục sư nói chuyện với một tín đồ lười biếng:
- Anh có thường đến nhà thờ không?
- Không. Người trộm lành hấp hối trên thập giá đâu cần đến nhà thờ thế mà vẫn lên thiên đàng.
- Có khi nào anh nói về Chúa cho bạn bè nghe không?
- Không. Người trộm hấp hối ấy đâu có nói về Chúa cho ai nghe.
- Anh có đi truyền giáo không?
- Không. Người trộm hấp hối ấy đâu có truyền giáo cho ai.
- Anh tưởng mình giống người trộm ấy ư? Không đâu. Có một khác biệt cơ bản: anh ta là một tên trộm đang hấp hối, còn anh là một tên trộm còn sống nhăn. (Ottobein Teacher)
5. Khuôn vàng thước ngọc: “Hãy nói về Chúa cho những người quanh bạn nghe; và hãy nói về những người quanh bạn cho Chúa nghe”.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, con tin rằng trong cuộc sống của con, bất cứ sự việc gì, ở đâu, lúc nào, Chúa vẫn tiếp tục công trình của Chúa. Con tin rằng con được mời gọi để nhận biết và hợp tác với Chúa, đồng thời đem công trình của Chúa, cũng như giới thiệu Chúa cho bạn bè thân thích, cho những người chung quanh con.
Lạy Chúa, xin ban cho con hiểu rõ trách nhiệm này, cho con lòng tin và can đảm, để thực hiện. Amen.
Suy niệm 4: Thánh Phanxicô Xaviê
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Loan báo trực tiếp hay gián tiếp
Có những người trực tiếp đi rao giảng Tin mừng cho người ta, ví dụ các nhà truyền giáo chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, các Linh mục, họ có thể loan báo một cách trực tiếp. Còn hầu hết mọi người chúng ta không có khả năng loan báo trực tiếp, mà chỉ bằng cách gián tiếp nhưng rất hữu hiệu như cầu nguyện, tham gia các hội đoàn, nâng đỡ các nhà truyền giáo, đóng góp vào qũy truyền giáo, nhất là bằng gương sáng.
Loan báo bằng cách sống đời thường
Chỉ có một cách loan báo Tin mừng thích hợp với mọi người, mọi nơi, mọi lúc, đó là loan báo bằng cách sống đời thường với châm ngôn: “Các con là ánh sáng thế gian. Các con là muối đất. Các con là men trong bột”. Các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã loan báo bằng cách này và đã được một tác giả cổ xưa mô tả và gửi cho ông Thêôphilê như sau:
“Các Kitô hữu không khác người ta về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một đời sống khác biệt. Giáo lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do loài người chủ xướng như một số người kia.
“Họ ở trong các thành phố văn minh cũng như bán khai, tuỳ theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin. Họ sống ở quê hương mình mà như người khách kiều cư. Họ có chung mọi thứ như công dân, nhưng phải gánh chịu đủ thứ như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, nhưng quê hương nào cũng là đất khách đối với họ. Họ lập gia đình và sinh con cái như mọi người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn, nhưng không chồng chung vợ chạ”(Trích Các Bài đọc Kinh sách, tập 2, tr 354).
Truyện: Đọc Thánh kinh hằng ngày
Có một người Kitô hữu tầm thường, thấy bên cạnh mình có một người tự xưng mình là vô thần. Lòng nhiệt thành đã thúc đẩy họ tìm cách giới thiệu Chúa cho họ. Người này đi mua một cuốn Thánh kinh biếu cho người láng giềng ấy, hy vọng họ đọc và sẽ nhận ra Thiên Chúa. Người láng giềng vui vẻ đón nhận và hứa sẽ đọc…
Sau một thời gian, người Kitô hữu sang chơi nhà láng giềng, tình cờ thấy cuốn Thánh kinh nằm trong sọt rác. Người Kitô hữu ngạc nhiên hỏi người láng giềng:
- Sao ông không đọc Kinh thánh? Nếu đọc, ông sẽ nhận ra Thiên Chúa.
Người láng giềng lạnh nhạt trả lời:
- À suốt trong 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh!!!
Câu chuyện kết thúc ở đây. Chúng ta hãy suy nghĩ về câu trả lời của người láng giềng vô thần ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, người vô thần ấy muốn nói gì?
Có một bài viết ngắn về điều này:
“Tôi là cuốn sách Kinh thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh thánh qua cuộc đời của tôi” (Flor McCarthy).
Suy niệm 5: Thánh Phanxicô Xaviê
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
I. Lịch sử:
* Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê trong một gia đình quyền quý của Vương quốc Navarre nhỏ bé miền Bắc nước Tây ban Nha ngày nay. Khi Ngài 5 tuổi, nước Tây ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre khiến gia đình Ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi Ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris Ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Favre, và sau đó với Thánh Ingatio. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ingatio thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của Thánh Ingatio khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi ngài chịu chức Linh mục tại Venezia miền Bắc nước Ý. Năm 35 tuổi ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
* Tháng 4 năm 1541 ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau mới đến được Goa bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở vùng Mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó đến Inđônêsia. Là vị Giám mục đầu tiên của Tỉnh Dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục Thánh Ingatio, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội Thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551) ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản; trước khi ra đi, ngài trao lại cho một Linh mục Bồ đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người. Cuối cùng vì muốn vào Trung Hoa truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
* Thánh Phanxicô qua đời ngày 3.12.1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ingatio vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Thánh Phanxicô Xaviê là vị truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời mới. Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến; ngài sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.
B. TRÊN ĐUỜNG TRUYỀN GIÁO.
* Động lực thúc đẩy Ngài đi truyền giáo
Con đường truyền giáo của Ngài bắt nguồn từ lòng yêu mến Chúa và các linh hồn. Đây chúng ta hãy nghe chính tâm tư của Ngài. Tâm tư được bộc lộ trong lá thư Ngài gửi cho thánh Ignatio
“Có rất nhiều người tại những nơi này hiện giờ chưa trở thành người có đạo, chỉ vì thiếu người làm cho họ nên người có đạo.
Nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc đi tới các Đại học bên Châu Âu, nhất là ở Paris, để điên cuồng kêu lên khắp đó đây và thúc bách những kẻ chỉ biết lý thuyết hơn là thực hành rằng: “Khốn thay, có vô số linh hồn, vì lỗi của các ông mà phải trục xuất khỏi trời và bị đẩy xuống hỏa ngục”.
Chớ gì những người đó chuyên chú vào việc tông đồ này như họ đã chuyên chú vào văn chương để có thể trả lẽ cho Chúa về đạo lý và những nén bạc đã uỷ thác cho họ” (CGKPV trang 535)
* Phương pháp của Ngài là luôn kết hiệp mật thiết với Chúa.
Ở thành phố Yamaguchi miền Nam nước Nhật, Ngài dựng được một túp lều nhỏ để làm nhà nguyện. Ngài vẫn dâng lễ và cầu nguyện ở đó hàng ngày. Nhiều buổi sáng sớm người ta phát hiện Ngài ngủ say mê ngay cạnh bàn thờ.
Người ta nói rằng có nhiều ngày Ngài làm việc say mê đến mức độ không có đến cả giờ để đọc sách nguyện. Tuy nhiên, dù đêm khuya, Ngài vẫn muốn đến chia sẻ gian khổ và hy vọng của mình với người bạn chí thân là Chúa Giêsu. Lịch sử kể lại rằng một lần kia ngài quì gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, nhưng vì quá mệt mỏi nên ngài ngủ gục ngay trên bục bàn thờ. Biết rằng làm như thế là không phải nên ngài đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa"
Rồi ngài đã lăn ra ngủ thiếp đi cho đến sáng.
* Và không quên cuộc sống của một chứng nhân.
Một ngày kia Thánh Phanxicô Xaviê đang giảng trong một thành phố Nhật bản, một người đến gặp ngài và muốn nói chuyện riêng với ngài. Ngài cúi đầu xuống để nghe cho rõ, thì bỗng nhiên kẻ kiêu ngạo đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Không có một lời hay có cử chỉ phản đối, ngài lấy khăn tay lau mặt và tiếp tục cuộc nói chuyện. Chàng kia kinh ngạc, tỏ vẻ kính phục thánh nhân. Một trong những người trí thức nhất thành phố có mặt một hôm ấy nhận định rằng đức tính khiêm hạ như thế nâng cao đạo đức, lòng can đảm và tự chủ, chỉ xuất phát từ Thiên Chúa cho các tôi trung của Chúa. Củ chỉ khiêm hạ của Thánh Phanxicô đã đánh động lòng ông, ông trở lại đạo công giáo và lôi cuốn rất nhiều người khác theo đạo. Đức khiêm hạ của nhà truyền giáo đã mang lại biết bao thành công cho việc mở mang nước Chúa.
Đây là lời dạy của Chúa Giêsu: “Hãy học cùng ta, vì ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29). Và lời Đức Mẹ: “Chúa hạ kẻ quyền thế khỏi địa vị của họ và nâng các kẻ khiêm nhường lên” (Lc 1,52)
Suy niệm 6: Giác ngộ
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”... Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.
Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.
Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.
Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...
“Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”... Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.
Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành...
Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ... Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê...
Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ...
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại... Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.
Suy niệm 7: Cuộc đời và tiếng gọi
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: “Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: “Hãy theo Thầy!”.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu… Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí, mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).
Đọc Phúc Âm, ta nghe âm vang lời mời gọi: “Hãy theo Thầy!”. Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.
Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy!”.
1. Cuộc đời
Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre, khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi, ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris, ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó, với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô, khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 04.1541, ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau, mới đến được Goa bên Ấn độ.
Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số.
Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó, đến Indonésia.
Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản. Trước khi ra đi, ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người.
Cuối cùng, vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên, ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây, ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh, chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3/12/1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).
2. Tiếng gọi.
Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).
a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.
Đức Giêsu hỏi: “Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?” (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Sinh ra trong gia đình quyền quý, nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.
Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng, dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?” và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị: lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng, không có gì, thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết, thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ, mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.
Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn, đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống.
b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.
Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt: Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng, đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm 1534, ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.
Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Đó là tiếng gọi thứ hai.
Ở Paris, sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì quá uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”.
Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh, có sức công phá, không gì có thể cầm lại được. “Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó, cùng với Ignaxiô, thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu “cho vinh danh Chúa hơn”.
Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo.
- “Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi” (Bt 48,1: bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1);
- “Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại” (Bt 20,14);
- “Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình” (Bt 55,10).
- “Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau” (Bt 48,1).
- “Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài” (Bt,16).
- “Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau”. Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm” (Bt 97,1).
- “Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách được” (Bt 1,7).
c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.
Ban đầu, nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn, là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo.
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó, ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Tới Goa ngày 6/5/1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay” như thánh nhân viết.
Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên kinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.
Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu. Tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quảng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3/12/1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo “thói thế gian”, đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dở… Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại, chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân: “Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người” (Bt 78,2).
Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẵn sàng lên đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.
Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng, nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới làm no thỏa.
3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban
Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo, cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.
Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.
Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi.
Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước đi lên.
Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.
Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi “Hãy theo Thầy” để “ra đi và rao giảng cho muôn dân” (Mt 28,19).
Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta.
Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác.
Món quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh Phanxicô đã đón nhận hồng ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng truyền giáo. Lời khuyên và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: “Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng Ơn Chúa ban cho mình” (Bt 90,8.9).
Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc “Chúa đến viếng thăm”, là tiếng gọi trong hành trình cuộc đời.
Suy niệm 8: Thánh Phanxicô Xaviê, quan thầy các xứ truyền giáo
(Lm. Đinh Lập Liễm)
Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, thuộc giáo phận Pampelune, nước Tây ban nha. Năm 17 tuổi đến Paris theo học tại trường đại học danh tiếng Sorbonne nước Pháp. Tám năm sau Phanxicô tốt nghiệp và được tuyển làm giáo sư triết học tại đại học này. Nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian.
Ngài có một người bạn thân là Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo lời Chúa vào tai Phanxicô: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì nào có ích gì”(Mt 16,26). Được ơn thánh Chúa tác động, Phanxicô đã cùng 7 anh em bạn đến Montmartre thành lập dòng Chúa Giêsu (ngày nay là dòng Tên) do Inhaxiô Loyola đứng đầu, cùng khấn khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ.
Năm 31 tuổi ngài chịu chức Linh mục tại Venetia miền bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tầu từ Lisbonne (Bồ đào nha) đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức thánh Cha Phaolô III.
Suốt 11 năm ngài đã đi giảng đạo tại Ấn độ, Tích lan, qua Nhật và còn dự định vào Trung quốc. Tại Ấn độ ngài rửa tội cho nhiều bậc quân vương. Tại Nhật ngài cũng được Nhật hoàng Bungolu hết sức cảm phục. Ngài đã vượt hàng ngàn cây số đường bộ nhất là đường biển và đã đem lại cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn. Ngoài thánh Phaolô chắc có ít vị thánh nào có hành trình truyền giáo như thánh Phanxicô.
Lòng nhiệt thành cứu các linh hồn còn thôi thúc ngài tới lục địa Trung quốc bao la để truyền giáo, nhưng đang trên cuộc hành trình tới đó, ngài đã qua đời tại đảo Tân châu (Trung quốc) ngày 03/12/1552. Xác ngài được đưa về mai táng tại Goa (Ấn độ). Năm 1622, tức sau 70 năm, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã phong thánh cho ngài cùng với thánh Inhaxiô và được đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Chúa Giêsu đã từng nhắn nhủ các môn đệ: “Các con hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và con và Thánh Thần”(x. Mt 16,16). Sau khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ chia nhau đi khắp nơi để rao giảng Tin mừng. Việc rao giảng Tin mừng ấy còn phải được kế thừa trong Giáo hội. Như vậy, mọi người đều có trách nhiệm phải rao giảng Tin mừng trong hoàn cảnh thực tế của mình.
Thánh Phanxicô đã ý thức về điều đó. Ngài thấy rằng không có gì quí trọng bằng một linh hồn, bởi vì “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì có ích gì” (Mt 16,16). Ngài thấy cánh đồng truyền giáo còn rộng rãi bao la, nhiều người đang sẵn sàng đón nhận Tin mừng, nhưng tiếc thay, không có người đi rao giảng cho họ. Mối thao thức của ngài được diễn tả trong bức thư ngài gửi về cho thánh Inhaxiô:
“Có rất nhiều người tại những nơi này hiện giờ chưa trở thành người có đạo, chỉ vì thiếu người làm cho họ trở nên người có đạo.
Nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc đi tới các đại học bên châu Âu, nhất là ở Paris, để điên cuồng kêu lên khắp đó đây và thúc bách những kẻ chỉ biết lý thuyết hơn là thực hành rằng: “Khốn thay, có vô số linh hồn vì lỗi của các ông mà phải trục xuất khỏi trời và bị đẩy xuống hỏa ngục.
Chớ gì những người đó chuyên chú vào việc tông đồ này như họ đã chuyên chú vào văn chương để có thể trả lẽ cho Chúa về đạo lý và những nén bạc đã ủy thác cho họ (Các giờ kinh Phụng vụ, tr 535).
Thượng hội đồng Giám mục Á châu đã cho thấy mối ưu tư của các Giáo hội ở Á châu. Về việc truyền giáo cho các dân tộc Á châu. Nhìn vào bản đồ Á châu, chúng ta thấy đây là một lục địa đông dân cư nhất, nhưng lại là lục địa có con số Công giáo thấp nhất, khoảng 2,6%. Đây là một thách đố lớn cho công việc truyền giáo. Giáo hội Á châu là một Giáo hội bé nhỏ trong một lục địa mênh mông được mời gọi rao giảng về sứ mạng tình yêu và phục vụ của Chúa Giêsu Kitô tại Á châu.
Thánh Phanxicô đã làm gương cho chúng ta về lòng nhiệt thành truyền giáo vì yêu Chúa và các linh hồn, ngài đã hy sinh tất cả bởi vì như ngài nói: “Tất cả đau khổ phiền muộn là nguồn vui sướng cho tôi”. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Ở đâu có tình yêu ở đó không còn khó nhọc nữa. Mà nếu có khó nhọc thì họ lại yêu thích chính sự khó nhọc đó”.
Vì thế, sau khi rửa tội cho một bà già đau nặng, ngài đã kêu lên: “Lạy Chúa, bỏ cha mẹ, quê hương, vượt trùng dương để cứu một linh hồn mà thôi thì con cũng thỏa mãn lắm rồi. Nay có chết con cũng vui lòng”. Điều đó chứng tỏ ngài yêu các linh hồn như thế nào.
Gương truyền giáo của thánh Phanxicô thật tuyệt vời, còn chúng ta thì sao? Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để “đi rao giảng cho muôn dân” (x. Mt 28,19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hằng ngày.
Một cách cụ thể, chúng ta thực hiện việc truyền giáo trước hết bằng lời cầu nguyện và bằng những việc hy sinh hãm mình. Chỉ có Chúa mới làm cho người khác tin Chúa mà thôi. Chứ người phàm không có khả năng làm được điều đó vì Chúa đã phán: “Hãy xin thì sẽ được” (Mt 7,7-8; Lc 11,9-10; Ga 14,13-14).
Thứ đến phải sống một đời sống tốt lành thánh thiện để làm gương sáng cho người khác vì như người ta nói: “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo”. Gương sáng có tính cách thuyết phục và hấp dẫn hơn lời nói như Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Người thời này không thích những thầy dạy cho bằng nhân chứng”.
Chúng ta chỉ có thể truyền giáo bằng gương sống của chúng ta qua việc sẵn sàng giúp đỡ mọi người, qua việc thực thi bác ái của Tin mừng mà thôi. Ước gì đời sống mỗi người, mỗi gia đình là tấm gương tốt lành, công bằng, yêu thương minh chứng cụ thể cho đức tin và lòng yêu mến Chúa của chúng ta.
Suy niệm 9: Thánh Phanxicô Xaviê, Linh Mục
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Thánh Phanxicô Xaviê được mệnh danh là Phaolô thế kỷ XVI. Thánh nhân có tinh thần truyền giáo cao độ. Ngài luôn hướng tới Chúa và yêu mến các linh hồn. Phanxicô đi đi mãi tới các nước Châu Á. Ngài đến với Á Châu, đến với những con người chưa biết Chúa. Ngài luôn mang trong mình Ngài hai tình yêu đã nên một: tình yêu Ðức Giêsu Cứu Thế và tình yêu các linh hồn.
CON NGƯỜI ÐẶC BIỆT
Thánh Phanxicô sinh năm 1506 tại miền Xaviê thuộc địa phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình giầu sang, quyền quí, vị vọng. Thánh nhân có trí thông minh đặc biệt, nên vào năm Ngài lên 19 tuổi, cha mẹ Ngài gửi Ngài qua Paris để tiếp tục công việc đèn sách. Tám năm sau đó, Ngài tốt nghiệp đại học và trở thành giáo sư danh tiếng tại nước Pháp. Thánh nhân lúc đó miệt mài chạy theo danh vọng trần tục. Ngài coi trần gian là tất cả. Ý Chúa nhiệm mầu, cao sâu, huyền bí nào ai hiểu nổi. Một lời của Chúa đã khiến Phanxicô thay đổi tất cả: "Ðược lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?". Chúa đã dùng miệng lưỡi của thánh Ignatiô cũng là thầy dạy Ngài để nói lên điều đó. Chính lời Chúa đã biến đổi cuộc đời của Ngài tận căn. Chúa đã chiếm đoạt con tim của Ngài toàn vẹn. Thánh nhân đã trở thành khí cụ bình an đem Tin Mừng cho người Á Châu. Năm 1539, Ðức Thánh Cha Phaolô III đã sai Ngài đi truyền giáo cho dân tộc Ấn Ðộ.
Thánh Phanxicô đã miệt mài với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ðâu đâu Ngài cũng nghe tiếng thúc bách của các linh hồn: Ấn Ðộ, Macao, Nhật Bản, Trung Hoa cũng nằm trong trí óc và hiện ra trước mắt Ngài. Ngài đi mãi, đi hoài không mệt mỏi, không lo âu, sợ sệt và do dự. Mười một năm ròng rã loan báo Tin Mừng, cuộc đời thánh nhân là một cuộc hành trình dài không ngừng. Ngài lúc nào cũng được thúc bách bằng tấm lòng nồng cháy các linh hồn. Ngài đã đem không biết bao người về với Chúa, với Giáo Hội. Ngài có lòng khiêm nhượng tuyệt đối, Ngài luôn yêu mến và kính trọng bề trên của Ngài là thánh Ignatiô. Chúa đã giúp Ngài bằng nhiều phép lạ phi thường vì lòng nhiệt thành hăng say của Ngài đối với các linh hồn.
CHÚA ÐỘI MŨ TRIỀU THIÊN CHO PHANXICÔ XAVIÊ
Lòng hăng say nhiệt thành của Phanxicô, quên bản thân mình để cho nhiều người được hạnh phúc. Thánh nhân nhìn nước Trung Hoa với tình thương lênh láng, Ngài ước mong đem Tin Mừng và Giáo lý của Chúa Giêsu cho một dân tộc đông dân nhất thế giới. Ước mơ của Ngài chưa thể thực hiện thì ngày 02/12/1552, Ngài qua đời khi trên đường gần tới nước Trung Hoa, tại cửa ngõ bước vào Trung Hoa tại đảo Tân Châu. Xác thánh nhân được đem về an táng tại thành Goa nước Ấn Ðộ. Năm 1622, Ðức thánh cha Grêgoriô XV đã phong Ngài lên bậc hiển thánh và đến năm 1904, Ðức Giáo Hoàng Piô X đã đặt Ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Lạy Thánh Phanxicô Xaviê, xin ban cho mọi người chúng con ơn nhiệt thành, lòng quảng đại và tinh thần truyền giáo, để chúng con đem nhiều người về với Chúa và với Giáo Hội.
Suy niệm 10: Thánh Phanxicô Xaviê, Tông đồ Ấn Độ và Nhật Bản
Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Favre, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được tuyên thánh trong thời gian gần đây theo thể thức “tuyên thánh tương đương”. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhaxiô thành Loyola.
Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì."
Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".
Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.
Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartres, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn Thánh Kinh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến giây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.
Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venitia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuộc hành hương đi thánh địa. Đức Thánh Cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhaxiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.
Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.
Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh Cha gửi các thừa sai sang Ấn Độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.
Ngài bộc lộ cho một người bạn: "Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la: "Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa" không? Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa".
Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.
Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại: "Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo".
Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của "ông cha" cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.
Phanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế Ngài đi khắp Ấn Độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo Kitô hữu, khiến "xuôi tay vì mệt mỏi". Người nói: "Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai".
Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.
Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc...
Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trước đây sao?
Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại: - "Thì tôi bơi tới vậy".
- Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao?
Ngài nói: - "Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.
Rồi Ngài thêm: "Ôi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi".
Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhaxiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.
Năm 1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.
Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản.
Phanxicô trở lại Ấn Độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: - Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.
Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: "Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con".
Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh.
Năm 1619, Đức Thánh Cha Phaolô V đã tuyên chân phước cho Ngài. Năm 1622, Đức Thánh Cha Grêgôriô XV đã ghi tên Ngài vào sổ bộ các vị hiển thánh. Ngài được tuyên thánh cùng với thánh Inhaxiô. Thánh Phanxicô Xaviê được đặt làm bổn mạng các xứ (vùng, miền) truyền giáo.
Suy niệm 11: Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng các xứ truyền giáo
(Linh mục Nguyễn Trung Thành)
Thánh Lm Phanxicô Xavie (Francis Xavier), vị Đại Thánh bổn mạng các xứ truyền giáo, trong đó có Việt Nam, được Giáo Hội mừng kính ngày 3-12 hàng năm, và cũng là ngày giỗ của ngài, vì ngài mất ngày 3-12-1552.
Ngài sinh ngày 7-4-1506 tại Xavier, thuộc Vương quốc Navarre (nay là Tây Ban Nha). Tên khai sinh của ngài là Francisco de Jasso y Azpilicueta. Ngài là con út của ông Juan de Jaso, cố vấn riêng của Vua John III (Jean d’Albret, cai trị Navarre) và bà Doña Maria de Azpilcueta y Aznárez. Ngài có bà con với thần học gia và triết gia Martín de Azpilcueta danh tiếng.
Ngài là học trò của Thánh Inhaxiô Loyola (lập Dòng Tên, Society of Jesus= SJ), đồng sáng lập viên của Dòng Tên, là nhà truyền giáo và là một trong bảy tu sĩ đầu tiên của Dòng Tên tại Montmartre năm 1534. Ngài làm trưởng nhóm truyền giáo tại Á châu. Ngài có công truyền bá và duy trì Công Giáo ở Ấn Độ, kể cả Nhật, Borneo, quần đảo Maluku, và những vùng chưa có dấu chân các nhà truyền giáo. Tại những vùng này, ngài tiên phong và cố gắng học tiếng bản xứ, ngài thành công nhất ở Ấn Độ. Thật lòng ngài muốn tới Việt Nam, nhưng Chúa có kế hoạch khác, nên Việt Nam không được đón tiếp ngài.
Năm 1525, ngài học ĐH Sainte-Barbe ở Paris (Pháp). Năm 1530, ngài nhận bằng thạc sĩ văn chương và dạy triết học Aristotes tại ĐH Beauvais, tương lai rộng mở, danh vọng hứa hẹn. Ngài gặp Inhaxiô Loyola và Pierre Favre tại ĐH Sainte-Barbe. Thánh Inhaxiô đặt vấn đề với ngài: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Thế là ngài bỏ tất cả để đi tu và làm linh mục, rồi tình nguyện đi truyền giáo.
Thánh Inhaxiô cùng với Thánh Phanxicô Xavie và năm anh em khác thành lập Dòng Tên ngày 15-8-1534 tại một nhà nguyện ở Montmartre, cùng nhau khấn đức nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời, đồng thời khấn hoán cải người Hồi giáo ở Trung Đông. Dòng Tên đã được Đức Giáo Hoàng phê chuẩn, khi đó tu sĩ Phanxicô Xavie tới Venice (Ý) để thụ phong linh mục vào ngày 24-6-1537. Đến cuối tháng 10, bảy anh em tới Bologna và cùng làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie phục vụ một thời gian ngắn tại Rôma với tư cách thư ký của Thánh Inhaxiô. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie dành phần nhiều cuộc đời để truyền giáo tại Á châu, chủ yếu qua lại bốn nơi là Malacca, Amboina, Ternate (Nhật) và Trung Hoa.
Ngài rời Lisbon ngày 7-4-1541 lúc ngài 35 tuổi, đi cùng hai tu sĩ Dòng Tên khác. Từ tháng 8-1541 tới tháng 3-1542, ngài tới Goa, lúc đó là thủ phủ của Ấn Độ (thuộc địa của Bồ Đào Nha), ngày 6-5-1542, 35 tháng sau khi rời Lisbon. Mùa Xuân năm 1545, Lm Phanxicô Xavie đi Malaca (cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha). Khoảng tháng 1-1546, ngài rời Malacca đi quần đảo Maluku, nơi ngài truyền giáo 1 năm rưỡi cho dân đảo Ambon. Ngay sau lễ Phục Sinh năm 1546, ngài trở lại Malacca.
Tháng 12-1547, tại Malaca, Lm Phanxicô Xavie gặp một người Nhật tên là Anjirō. Chính Anjirō cũng đã nghe nói về Lm Phanxicô Xavie từ năm 1545. Sau khi bị kết tội sát nhân, Anjirō trốn khỏi Nhật. Ông hết nói với Lm Phanxicô Xavie về quá khứ của mìn, về văn hóa và văn chương Nhật. Anjiro làm thông dịch cho Lm Phanxicô Xavie để giao tiếp với người Nhật. Và rồi Anjirō trở thành Kitô hữu người Nhật đầu tiên và lấy tên là Paulo de Santa Fe.
Sau khi qua đời, thi hài Thánh Phanxicô Xavie được an táng trên đảo Shangchuan. Tháng 1-1553, người ta khai quật mộ ngài và thấy thi hài ngài còn nguyên vẹn. Rồi người ta đưa thi hài ngài tới Nhà thờ Thánh Phaolô tại đảo Malaca vào ngày 22-3-1553. Ngày 11-12-1553, thi hài ngài lại được chuyển tới Goa. Hòm thánh tích của ngài được chuyển tới Nhà thờ Chúa Giêsu Giáng Sinh tại Goa từ ngày 2-12-1637.
Cánh tay phải, đã từng chúc lành và rửa tội cho nhiều người, được Tổng bề trên Claudio Acquaviva tách ra từ năm 1614 để trưng bày cho mọi người kính viếng tại Nhà thờ Il Gesù ở Rôma. Cánh tay trái của ngài được đưa về Macau. Cuối cùng được chuyển tới Nhà thờ Thánh Giuse năm 1978, rồi lại chuyển tới nhà nguyện Thánh Phanxicô Xavie trên đảo Coloane. Mới đây, thánh tích của ngài được chuyển tới Chủng viện Thánh Giuse và Viện bảo tàng Nghệ thuật Thánh (Sacred Art Museum).
Lm Phanxicô Xavie được ĐGH Phaolô V tôn phong chân phước ngày 25-10-1619, và được ĐGH Grêgôriô XV tôn phong hiển thánh ngày 12-3-1622, cùng với Thánh Inhaxiô Loyola. Cuối cùng, ĐGH Piô XI tôn phong Thánh Phanxicô Xavie làm bổn mạng các xứ truyền giáo (Patron of Catholic Missions).
Suy niệm 12: Nhiệt thành tông đồ
(dongten.net)
Đọc các thư của thánh Phanxicô Xavier, ai cũng phải nhìn nhận đó là một con người hoàn toàn vị tha. Ngài luôn luôn nghĩ đến người khác, không màng đến lợi lộc, danh vọng, địa vị, và cả đến mạng sống mình nữa. Có khi ngài quan tâm đến một thanh niên cần chút vốn để về quê; có khi là một cô gái mồ côi vô danh cần lấy chồng. Tuy nhiên, quan tâm lớn nhất của ngài là phần rỗi linh hồn người ta. Chúa Giêsu nói: “Được lời lãi cả thế gian mà đánh mất sự sống mình thì nào được ích gì?” (Mt 16,26). Tính cách triệt để của câu nói ấy hẳn là đã thôi thúc trái tim vị tha của thánh Phanxicô Xavier. Ngài coi việc cứu rỗi các linh hồn là tối quan trọng và khẩn cấp, không gì có thể thay thế được. Chính vì vậy, ngài đi hết nơi này đến nơi khác, làm như không biết mệt mỏi và sợ hãi. Phải nói là ngài đã gào thét ‘như kẻ mất trí’ để kêu gọi giới học thức đừng chỉ vùi đầu vào sách vở để ủm kiếm vinh hoa phú quí, nhưng biết dấn thân cứu vớt các linh hồn. Ngài đòi các quan chức Bồ Đào Nha, và cả vua João III, phải tích cực giúp đỡ công cuộc truyền giáo. Trước mắt nhiều người, hẳn ngài là một kẻ quấy rầy dai dẳng. Tuy nhiên, ngài không chỉ kêu gào: chân trời góc biển nào ngài cũng có thể đến, bất chấp mọi khó khăn và nguy hiểm.
Ngài không chỉ là một tông đồ đơn độc. Mở được một con đường, ngài tìm người đến địa điểm mới để giúp đỡ các linh hồn ở đó. Dĩ nhiên người đặc biệt để ý đến Dòng Tên, dù mới khai sinh, nhưng rất năng động. Ngài xin Dòng ở Châu Âu gửi người sang tăng cường. Ngài tiếp nhận Học viện Thánh Phaolô ở Goa, rồi mở các trường học khác, để chuẩn bị cho tương lai. Gửi anh em đến các nơi, ngài hướng dẫn cách sống và cách làm việc, an ủi khi gặp khó khăn, khích lệ khi có kết quả, sửa bảo khi cần thiết. Ngài thấy điều quan trọng nhất nơi các thừa sai ở Ấn Độ là sức khỏe dẻo dai và đức hạnh vững chắc, để đối diện với hoàn cảnh hết sức khó khăn, để vượt qua những thử thách và cám dỗ, và để nêu gương sáng cho mọi người. Ngay từ đầu, ngài đã nghĩ đến việc gầy dựng hàng giáo sĩ bản xứ. Mặc dầu kinh nghiệm nhiều lần cho thấy là khó khăn, nhưng ngài vẫn quyết tâm theo đuổi. Cũng có lúc ngài hầu như ngã lòng, nhưng được thánh I-nhã khích lệ, ngài lại dứt khoát hơn. Đây là một trong những lý do chính khiến xảy ra bất đồng giữa ngài với cha Antonio Gomes, để rồi cuối cùng ngài phải khai trừ cha này ra khỏi Dòng Tên.
Đứng trước mọi vấn đề, quan điểm của ngài luôn luôn là quan điểm tông đồ. Trên tàu từ Bồ Đào Nha đi Ấn Độ, người ta khuyên ngài nên nhận một người giúp việc, nhưng ngài từ chối. Ngài tự giặt quần áo lấy. Phần ăn, ngài nhận từ bàn vị Tổng Trấn, dùng vừa đủ, những gì còn lại chia cho người nghèo. Phòng dành cho ngài, ngài cho người bệnh ở, còn chính mình ra nằm ngủ ở đống thừng chão, bên cạnh những thanh niên nghèo đi tha phương cầu thực. Khi có người bệnh, ngài chăm sóc phần xác và phần hồn. Con tàu chở ngài vượt biển được ngài biến thành giáo điểm. Ở Goa, trong lúc chờ đợi hai bạn đồng hành đến sau, ngài đi dạy giáo lý cho trẻ em, đi giảng cho người lớn, đi thăm bệnh viện, trại giam và trại phong. Chưa làm tông đồ ở địa điểm của mình được, ngài làm tông đồ ngay tại nơi lẽ ra người khác chỉ ngồi chờ. Khi xảy ra tranh chấp giữa các tiểu vương địa phương, ngài luôn luôn chủ trương chính quyền Bồ Đào Nha phải can thiệp để giúp đỡ công việc truyền giáo. Trong khi ngài chỉ chú tâm vào việc giúp đỡ các linh hồn, các quan chức Bồ Đào Nha thường lại chỉ chú tâm vào lợi lộc vật chất, do đó nảy sinh bao mâu thuẫn. Khi thấy ở Ấn Độ hoạt động tông đồ gặp nhiều trở ngại, không tiến lên được, vì các tín hữu bản xứ ‘bị mẹ Ấn Độ ruồng rẫy, cha Bồ Đào Nha khinh bỉ’, trong khi ở các nơi khác như Maluku, Nhật Bản, Trung Hoa, lại có triển vọng, ngài ra đi.
Vừa để duy trì vừa để phát triển hoạt động tông đồ, những người được sai đi phải giữ bầu khí yêu thương. Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em thương yêu nhau” (Ga 13,15). Chúa cũng cầu nguyện với Chúa Cha: “Xin cho chúng nên một để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,23).
Hàng ngũ giáo sĩ và tu sĩ ở Ấn Độ lúc ấy có Đức Giám Mục, vị Tổng Đại Diện, các đại diện giám mục ở mỗi địa điểm quan trọng, các linh mục triều khác, các thừa sai dòng Thánh Phanxicô và dòng Thánh Đaminh, cuối cùng là Dòng Tên. Phải hợp tác với nhau, thăm viếng giúp đỡ nhau, không nói xấu nhau, tránh làm gương xấu cho giáo dân. Đặc biệt phải tôn trọng Đức Giám Mục và các đại diện của ngài. Riêng trong nội bộ Dòng Tên, một mặt phải giữ kỷ luật chặt chẽ, mặt khác, và hơn nữa, phải giữ cho được bầu khí yêu thương. Thánh Phanxicô Xavier đưa ra một định nghĩa thời danh: “Dòng Tên là dòng yêu thương”. Không có cưỡng ép, nhưng phải chia sẻ. Ngài luôn luôn muốn biết tin tức về từng anh em ở Ấn Độ cũng như ở Châu Âu. Đặc biệt là lòng yêu mến ngài dành cho thánh I-nhã và các bạn đầu tiên của Dòng: lúc ngài qua đời, người ta thấy trên cổ ngài đeo một gói nhỏ, trong đó có bản lời khấn của ngài và chữ ký của các bạn ngài cắt từ các lá thư nhận được.
Thánh Phanxicô Xavier là một tông đồ di động. Ngài không phải là người có máu du lịch. Trước khi gặp thánh I-nhã, ngài ước mơ làm giáo sư, làm bác sĩ hay làm giám mục… để được hưởng vinh hoa phú quí. Ngài không hề ước mơ theo vết chân Christophe Colombo sang Châu Mỹ hay Vasco da Gama sang Châu Á, như cha Cosma de Torres chẳng hạn. Hơn nữa, là dân miền đồi núi, ngài xa lạ với biển. Một trong những điều gây ấn tượng mạnh nhất đối với ngài là những nguy hiểm trên biển. Dầu vậy, ngài đã vượt gần 100.000 cây số đường biển. Theo tính toán của cha X. Léon-Dufour, S.J., trong mười hai năm hoạt động truyền giáo, thánh Phanxicô Xavier ở trên biển ba năm bảy tháng, tức là cứ ba ngày thì có một ngày trên biển, và mỗi ngày di chuyển trung bình 60 km. Ngài tự coi mình là người mở đường cho anh em, Dòng Tên cũng như các thừa sai khác. Và khi mở ra được một con đường, ngài vui mừng, rồi lại đi mở con đường khác. Một cha Dòng Tên cùng ở Ấn Độ với ngài nói: ngài không ở đâu yên được quá hai tuần lễ! Một cha khác nói: ngài không ngồi yên được bao giờ!
Chúng ta chỉ có thể lấy lời của Thánh Phaolô để hiểu được sự thôi thúc thâm sâu và mãnh liệt trong trái tim thánh Phanxicô Xavier: “Chúng tôi có điên thì cũng vì Thiên Chúa; chúng tôi có khôn thì cũng vì anh em: Tình Yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5, 13-14)
Suy niệm 13: Thánh Phanxicô Xaviê: nghiệt ngã phận người, nhưng vinh quang cho tôi tớ Chúa
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, có đoạn (1 Cr 9, 16-19.22-23) thánh Phao-lô muốn chia sẻ ý thức trách nhiệm và thái độ cần phải có của một người ra đi rao giảng Lời Chúa. Ngài rao giảng không phải để tự hào, nhưng đó là sự cần thiết mà lương tâm bắt buộc ngài phải làm. Ngài rao giảng với thái độ của một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tự nguyện chấp nhận trở thành nô lệ của mọi người vì phần rỗi của họ, và theo lời Thầy Giêsu mời gọi: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo." (Mc 16, 15).
Như vậy Lời Chúa đã chỉ rõ, việc rao giảng Tin Mừng không hề có biên giới, cũng không phân biệt màu da hay chủng tộc, tầng lớp giai cấp hay chính kiến xã hội...Tất cả mọi người đều có quyền được thông chia phần phúc của Tin Mừng.
Và trao ban, theo Tin Mừng không phải là một việc tùy tiện. Muốn trao ban hay không tùy ý. Nhưng đó là ơn gọi bẩm sinh của con người. Không thể trao ban những thứ thừa thãi, hay những thứ không còn sử dụng được nữa. Mà là trao ban chính mình. Việc trao ban chỉ ý nghĩa và có giá trị khi được trao ban với ý thức và liên đới với tha nhân. Một hành động trao ban nhưng không, như Thầy Giêsu đã trao ban chính mạng sống mình, không vì tư lợi cá nhân hay vì mục đích nào khác, ngoài tình yêu thương. Mà sau này Người cũng truyền lại cho chúng ta: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." (Ga 15, 12)
Nhận ra ý nghĩa cuộc đời mình, từ lời thách thức của Tin Mừng:"Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?", đã khiến một vị giáo sư trẻ tuổi nhiều tham vọng, từ bỏ tương lai đầy hứa hẹn, chỉ để đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của tha nhân.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo. Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến gần, Phanxicô Xaviê đã nhận được lời thách thức trên đây từ một người bạn thân Ignaxiô.
Không thể cưỡng lại với Lời Chúa, Phanxicô đã đến Montmartre để cùng với Ignaxiô sống đời khó nghèo, khiết tịnh và phục vụ tông đồ theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha.
Đến năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô Xaviê lãnh chức Linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisbon của Bồ Đào Nha để lên dường đi truyền giáo tại Ấn Độ.
Trong 10 năm ngắn ngủi (1542-1552), Phanxicô Xaviê đã rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai, Indonésia và Ấn Độ. Chưa đạt được giấc mơ đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức vì bệnh tật tại một hải đảo xa xôi, cách Hồng Kông 100 cây số.
Thánh Phanxicô Xaviê là hiện thân của Tin Mừng phổ quát, không biên giới. Ngài nhận ra giá trị đích thực của Tin Mừng, và bổn phận của người tôi tớ Chúa. Từ giã vinh hoa phú quí, thánh nhân rong ruổi trên những nẻo dường Châu Á xa lạ. Cuộc đời của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ, bất hạnh thuộc mọi chủng tộc, mọi quốc gia. Ngài phục vụ họ suốt hành trình không biết mệt mỏi, nhưng luôn tràn ngập niềm vui, mà chỉ những người phục vụ trong yêu thương mới có được.
Như sự nghiệt ngã của rừng thiêng nước độc ở vùng đất xa xôi hẻo lánh, đã lấy đi mạng sống của ngài trong trơ trụi nghèo nàn.Thì sự nghiệt ngã mà ngày nay vẫn còn kéo dài và đang hằn sâu trên gương mặt khắc khổ của những con người, vì sự thật: bị cầm tù, bị nhục mạ, và chịu nhiều bất công, đói nghèo trên mảnh đất Châu Á nhỏ bé này Nghiệt ngã phận người, nhưng vinh quang cho tôi tớ Chúa.
Mừng kính thánh Phanxicô Xaviê, với tâm tình cảm tạ Chúa và tri ân, vì nhờ ngài chúng ta được biết Chúa để tôn thờ và mến yêu, được biết chân lý Sự Thật. Chúng ta xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh nhân, cho mỗi người Việt Nam hôm nay luôn ý thức trách nhiệm người thợ gặt của Chúa, trên cánh đồng truyền giáo mênh mông tại quê hương mình. Đặc biệt, xin Chúa ban ơn can đảm và bền đỗ đến cùng, cho những người đang bị bách hại vì sự công chính, xin cho họ biết đón nhận mọi thử thách, như dấu chỉ của lòng tín thác và niềm hy vọng cậy trông vào ngày Chúa quang lâm.
Suy niệm 14: Thánh Phanxicô Xaviê với sứ vụ truyền giáo
(Lm. Nguyễn ngọc Long)
Ngày xưa con tầu là phương tiện vận chuyển người cùng vật dụng, hay trong dịch vụ buôn bán, từ nước này sang nước khác vượt sông biển xa xôi ngàn dặm, rất phổ thông trong đời sống.
Ngày nay, tuy có những phương tiện vận chuyển mới khác nhanh lẹ hơn, nhưng phương tiện bằng tầu thủy vẫn còn thích hợp.
Một con tầu không chỉ là phương tiện vận chuyển đồ trên thủy lộ, nhưng tầu còn là phương tiện đưa con người đi du lịch tham quan thắng cảnh trên sông ngòi, biển cả từ vùng này tới vùng khác, từ nước này sang nước khác. Phương tiện du lịch bằng tầu thủy ngày nay phát triển mạnh, đưa con người đến miền có nhiều cảnh thiên nhiên mới lạ thi vị mơ mộng.
Hình ảnh một con tầu có liên quan gì tới đời sống đức tin của chúng ta không?
Theo Kinh Thánh thuật lại ( St 7,1-24) khi nạn lụt đại hồng thủy dâng lên bao phủ khắp mặt đất 40 ngày đêm, gia đình Ông Noe đã vào sống trong một con tầu. Và nhờ sống trong tầu gia đình Ông mới sống sót không bị nước cuốn tiêu diệt như bao người khác.
Hình ảnh con tầu lịch sử Noe thầm nói lên ý nghĩa: Một ngôi nhà dùng để vượt qua những nguy hiểm trong đời sống. Ngôi nhà đó là Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Trong ngôi nhà đó, các Bí tích là nguồn nước sự sống, là nguồn lương thực đời sống đức tin cho con người.
Vì thế, xưa nay nhiều thánh đường được xây cất theo mô hình nhà thờ dài như một con tầu.
Khi sang loan truyền Tin mừng tình yêu nước Thiên Chúa, mang con tầu Giáo Hội Chúa đến cho vùng đất xa lạ, các nhà Truyền Giáo cũng đã dùng phương tiện di chuyển bằng tầu vượt qua biển cả từ Âu châu sang tới Á châu, sang Việtnam. Trong số những vị đi truyền giáo đó có Thánh Phanxico Xaviê.
Thánh Phanxicô Xavie không chỉ dùng tầu vượt biển sóng nước đến Á Châu, nhưng Ông còn xây dựng con tầu Giáo Hội ở nơi đó nữa.
Sử sách không thấy nói đến Ông xây những ngôi thánh đường nguy nga lộng lẫy theo mô hình con tầu. Nhưng chỉ nói đến sứ vụ truyền giáo rao giảng Tin mừng với lòng nhiệt thành hăng say của ông thôi. Sứ vụ truyền giáo của Thánh nhân qui vào việc xây dựng ngôi nhà Giáo Hội nơi tâm hồn con người. Những ngôi nhà thờ tâm hồn con người, mà Thánh nhân đã xây dựng, để lại “ dấu vết ngàn xưa lưu ký”.
Cũng theo sử sách thuật lại, Thánh nhân đã mang làn nước Bí tích Rửa tội đến cho hàng chục ngàn người bên Trung Hoa bên Ấn Độ.
Làn nước Bí tích rửa tội Thánh nhân mang đến cho những con người đó, là chỉ lối cho họ đi vào ngôi nhà Giáo Hội của Chúa, nơi có nguồn nước sự sống, nguồn lương thực tâm linh cho tâm hồn con người.
Làn nước Bí tích rửa tội, Thánh Phanxico Xaviê đã mang đến cho họ, không chỉ có ánh sáng đức tin soi đường tới ngôi nhà con tầu Giáo Hội của Chúa, nhưng họ còn tiếp nhận một con đường, đúng hơn một truyền thống, giáo dục đào tạo Kitô giáo nữa.
Nền giáo dục đào tạo đó thể hiện theo chiều thẳng đứng: Trời và đất, Thiên Chúa và con người liên kết với nhau; theo chiều ngang nền chân trời: con người với nhau, con người với thiên nhiên, với quê hương đất nước, nơi sinh ra nơi sinh sống, cùng trong tương quan liên đới với nhau.
Nền giáo dục đào tạo đó đặt nền tảng trên Tám mối phúc thật:
"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.”(Mt 5,2-12)
Nền giáo dục đào tạo đó lấy bác ái, khiêm nhường làm mẫu mực cho đời sống: “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.” (Kinh hòa bình của Thánh Phanxico)
Thánh Phanxicô Xaviê đã về trời từ hằng trăm năm nay, nhưng ngôi nhà đền thờ tâm hồn con người, qua làn nước Bí tích rửa tội, ngài đã xây dựng vẫn còn đó và tiếp tục phát triển nơi con người.
Thánh nhân không còn sống trên trần gian từ hàng thế kỷ nay. Nhưng nền giáo dục đào tạo Kiô giáo, mà ngài đã gieo trồng nơi những con người xưa kia, vẫn ăn rễ sâu nơi đời sống tin thần con người, vẫn luôn vang vọng ảnh hưởng đến suy nghĩ cùng cách sống của những thế hệ con người.
Nền Giáo dục đào tạo Kitô giáo đã giúp nhiều người xây dựng đời sống, tìm được niềm vui cùng bình an trong đời sống.
Suy niệm 15: Thánh Phanxicô Xaviê, Linh Mục
(Nhóm Châu Kiên Long)
Phanxicô sinh năm 1506 tại Xaviê thuộc giáo phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài sang Ba Lê để tiếp tục việc học. Tám năm sau, ngài tốt nghiệp và trở thành giáo sư đại học đó. Ðược nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng thế tục.
Nhưng một ngày kia, Chúa đã dùng miệng lưỡi thánh Ignatiô, cũng là thầy dạy, để nói cùng ngài: “Ðược lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi?”. Và Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt trái tim thánh nhân, biến ngài trở thành một khí cụ tuyệt vời cho cánh đồng truyền giáo. Năm 1539, Phanxicô hăng hái lãnh sứ mệnh nơi Ðức Giáo Hoàng Phaolô III là đem ánh sáng Phúc Âm đến cho dân tộc Ấn Ðộ.
Mười một năm trường nhiệt thành với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đời sống thánh nhân là một cuộc hành trình không ngừng. Bước chân ngài len lỏi qua khắp các thành thị cũng như thôn quê để rao giảng Phúc Âm Chúa Giêsu. Tiếng ngài vang vọng từ Ấn Ðộ, Tích Lan đến Nhật Bản. Riêng tại Ấn Ðộ, ngài đã đem về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn và Rửa Tội cho nhiều bậc quân vương. Dù vậy, ngài luôn ấp ủ một tâm hồn khiêm nhượng hiếm có: Ngài thường quỳ gối để viết thư cho thánh Ignatiô là Bề Trên của mình. Chúa đã hỗ trợ lòng nhiệt thành của thánh nhân bằng nhiều phép lạ phi thường.
Ngày 02/12/1552, khi đang trên đường tới gần Trung Hoa thì ngài ngã bệnh và từ trần tại đảo Tân Châu (Sancian). Xác ngài được đem về mai táng tại thành Goa bên Ấn Ðộ.
Ðúng 70 năm sau, Ðức Grêgôriô XV đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh (1622).
Và đến năm 1904, Ðức Thánh Cha Piô X đặt ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
03/12 Tin vào Chúa Giêsu, hai người mù được chữa lành
- Viết bởi Mt 9, 27-31
Thứ Sáu Tuần I Mùa Vọng Năm lẻ
BÀI ĐỌC I: Is 29, 17-24
“Ngày đó mắt người mù sẽ được xem thấy”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Đây Chúa là Thiên Chúa phán: Không còn bao lâu nữa, Liban sẽ trở nên lùm cây, và lùm cây sẽ trở nên cánh rừng. Ngày đó, người điếc sẽ được nghe lời Sách Thánh, và từ bóng tối, mắt người mù sẽ được xem thấy. Những người hiền lành sẽ càng thêm vui mừng trong Chúa, và những kẻ nghèo khó sẽ nhảy mừng trong Đấng Thánh của Israel. Vì chưng, người ỷ thế sẽ thất bại, kẻ khinh người sẽ bị hổ ngươi, người mưu toan gian ác sẽ bị tiêu diệt. Đó là kẻ dùng lời nói để cáo gian người khác, kẻ ra cửa thành mà đánh lừa người xử kiện, kẻ lấy sự nhỏ nhoi mà hiếp đáp người công chính. Vì thế, Chúa, Đấng cứu chuộc Abraham, phán cùng nhà Giacóp lời này: Từ đây Giacóp sẽ chẳng còn phải hổ ngươi và đỏ mặt; nhưng khi xem thấy con cháu mình là công trình của tay Ta, đang ca ngợi danh thánh Ta giữa nhà Giacóp, thì chúng sẽ ngợi khen Đấng Thánh của Giacóp và tuyên xưng Thiên Chúa Israel. Và tâm trí lầm lạc sẽ được hiểu biết; người lẩm bẩm sẽ học biết lề luật. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 26, 1. 4. 13-14
Đáp: Chúa là sự sáng và là Đấng cứu độ tôi (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Đấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Đấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? – Đáp.
2)Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Ngài. – Đáp.
3)Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa. – Đáp.
ALLELUIA: Is 45, 8
Alleluia, alleluia! – Hỡi các tầng trời, hãy đổ sương mai; hỡi ngàn mây, hãy mưa Đấng Công Chính, đất hãy mở ra và trổ sinh Đấng Cứu Chuộc. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 9, 27-31
“Tin vào Chúa Giêsu, hai người mù được chữa lành”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: “Hỡi Con vua Đavít, xin thương chúng tôi”. Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: “Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?” Họ thưa: “Lạy Thầy, có”. Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: “Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy”. Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: “Coi chừng, đừng cho ai biết”. Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy. Đó là lời Chúa.
- 02/12 Người Khôn Ngoan thực sự
- 01/12 Hóa bánh ra nhiều lần 2
- 30/11 Ngư phủ lưới người
- 29/11 Niềm tin đích thực
- 28/11 Tỉnh thức và cầu nguyện luôn.
- 27/11 Tỉnh thức cầu nguyện
- 26/11 Nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố
- 25/11 Giờ cứu rỗi gần đến.
- 24/11 Làm chứng cho Chúa Giêsu
- 23/11 Gắn bó với Chúa từng giây phút