Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
24/05 Này là Mẹ con
- Viết bởi Ga 19, 25-27
Này là Mẹ con.
Thứ Hai sau lễ Hiện Xuống.
Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Này là Con Bà. Này là Mẹ con."
Lời Chúa: Ga 19, 25-27
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan
Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người, cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas và Maria Mađalêna.
Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: “Thưa Bà, này là Con Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”. Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về nhà mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đứng gần thập giá
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Khi Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá,
các Tin Mừng Nhất Lãm đều nhắc đến các phụ nữ Galilê.
Họ chỉ đứng nhìn Thầy từ xa (Mt 27,55; Mc 15,40; Lc 23,49).
Còn Tin Mừng Gioan lại mô tả nhóm phụ nữ đứng gần thập giá.
Người phụ nữ đầu tiên được kể tên là thân mẫu Đức Giêsu.
Mẹ đã theo Con đến tận núi Sọ,
dám chứng kiến và cảm nghiệm mọi nỗi đau của Con.
Mẹ can đảm nhận mình là mẹ của người tử tội,
đang ở trong giây phút cuối đời, đang đối diện với cái chết.
Người gần chết thường hay trối trăng một điều quan trọng,
một điều cần phải làm sau khi họ nhắm mắt.
Đức Giêsu trên thập giá cũng muốn để lại một lời trối.
Từ trên cao, Ngài nhìn thấy thân mẫu của mình
và người môn đệ mình yêu dấu đứng kề bên,
Ngài muốn tạo một tương quan thân thiết giữa họ.
Ngài nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà.”
Rồi nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” (Ga 19,26-27).
Hai người không ruột thịt máu mủ, bây giờ thành mẹ con.
Có người nghĩ chuyện Đức Giêsu làm ở đây cũng thường thôi.
Vì biết mình sắp chết, nên Ngài giao phó Mẹ cho môn đệ,
để anh này thay mình chăm sóc Mẹ cho tròn chữ hiếu.
Thật ra lời trăng trối của Đức Giêsu mang tầm vóc lớn hơn nhiều.
Chúng ta không rõ khi Ngài lên đường đi sứ vụ, ai đã lo cho Mẹ.
Ngài để lại Mẹ ở nhà, và Ngài đòi các môn đệ cũng làm như thế.
Không rõ lúc cuối đời, Ngài có thấy cần người chăm sóc Mẹ không?
Dù sao trước khi Ngài nói với anh môn đệ: “Đây là mẹ của anh”
thì Ngài đã giới thiệu anh với Mẹ: “Đây là con của bà.”
Ngài xin Mẹ nhận anh này làm con và chăm sóc anh.
Sau đó Ngài mới giới thiệu Mẹ với anh: “Đây là Mẹ của anh.”
Người môn đệ đã nhận bà làm mẹ, và đã đón bà về nhà mình.
Đức Giêsu đã làm xong chuyện cuối cùng mà Ngài phải làm,
đó là tạo lập một tương quan mẫu tử giữa Mẹ và anh môn đệ.
Với sự bình an thanh thản của người đã hoàn thành sứ mạng,
Ngài nói: “Thế là đã hoàn tất !” (Ga 19,28.30).
Có người nghĩ rằng Thầy Giêsu trên thập giá
chỉ muốn nối kết Mẹ Ngài và người môn đệ Ngài mến thương.
Đó là chuyện thuần túy riêng tư giữa hai người.
Anh môn đệ này không đại diện cho các kitô hữu,
nên cũng chẳng có tương quan nào giữa Mẹ Maria và chúng ta.
Truyền thống Công giáo nghĩ không nghĩ như thế,
nhưng coi cử chỉ trăng trối cuối cùng này của Đức Giêsu
đã kết nên mối dây giữa Mẹ Ngài với mọi kitô hữu.
Đức Giêsu đã chia sẻ tương quan làm con của Mẹ cho chúng ta.
để chúng ta cũng có thể coi Mẹ Maria là Mẹ của mình.
Đây là món quà quý giá Ngài ban cho ta lúc gần kề cái chết.
Chẳng thấy Mẹ hay anh môn đệ nói gì sau lời của Đức Giêsu,
nhưng chúng ta biết cả hai đã sống tương quan mới sau đó.
Đức Maria đã trở nên mẹ của từng kitô hữu.
Mẹ đã là môn đệ trung tín theo Con mình đến tận thập giá.
Người môn đệ Chúa yêu đứng gần cũng theo Thầy đến cùng.
Cả hai làm nên một gia đình thiêng liêng.
Khi vào một nhà thờ Công giáo, chúng ta thấy lòng ấm lại,
vì có sự hiện diện cảm thông của một Người Mẹ,
Người đã ở với Đức Giêsu hơn ba mươi năm,
đã sinh dưỡng, dạy dỗ, chở che, và làm cho Ngài lớn lên.
Đức Maria là thành viên và là Mẹ của Hội Thánh,
là người đứng dưới chân thập giá với nhóm phụ nữ ở Galilê,
nhưng cũng là người có phúc hơn mọi phụ nữ,
là người cầu nguyện với các môn đệ chờ Thánh Thần đến,
nhưng cũng là người được Thánh Thần ngự từ lúc truyền tin.
Chúng ta mong Chúa Giêsu cứ nói với Mẹ: “Đây là các con của Bà.”
Và nói với chúng ta: “Đây là Mẹ của anh chị em.”
Và chúng ta cũng mong Mẹ nhắc nhở chúng ta nhiều lần:
“Hãy làm những gì Người bảo!”
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
Chúng con tạ ơn Chúa Giêsu
đã ban cho chúng con một người mẹ
như quà tặng vô giá lúc Người sắp lìa đời.
Mẹ được chọn làm thân mẫu của Chúa
và được ban đầy ân sủng siêu phàm,
khiến muôn thế hệ phải ngợi khen chúc tụng.
Nhưng Mẹ cũng là tỳ nữ mọn hèn
luôn mau mắn thi hành ý định của Thiên Chúa,
dù Mẹ chẳng hiểu hết được mầu nhiệm cao sâu.
Chúng con tưởng Mẹ sẽ đi trên con đường đầy hoa,
nhưng thật ra Mẹ đã đi con đường của Chúa,
con đường gập ghềnh và trắc trở,
với lưỡi gươm sắc đâm thấu tâm hồn.
Trong đời Mẹ có bao tiếng xin vâng trên môi,
từ tiếng xin vâng đầu tiên đến tiếng xin vâng trên núi Sọ.
Những tiếng xin vâng này hợp với tiếng xin vâng của Con Mẹ
để Người đem ơn cứu độ cho chúng con.
Lạy Mẹ Maria,
là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng con.
Mẹ đã sống trọn phận người như chúng con,
và đã chiến thắng sau khi kết thúc cuộc đời trần thế.
Mẹ hiểu chúng con cần lời cầu bàu của Mẹ biết bao
đang khi phải chiến đấu giữa trần gian đầy sóng gió.
Ước gì chúng con cũng có phúc vì đã tin như Mẹ,
có phúc vì đã làm cho Con của Mẹ được sinh ra,
và được lớn lên trong thế giới hôm nay. Amen.
Suy Niệm 2: Vai trò Mẹ thiêng liêng của Đức Maria.
(Ngọc Yến – Vatican)
“Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. (Ga 19, 25-27).
Chính đoạn Tin Mừng này chỉ cho thấy tước hiệu Đức Maria, Mẹ Hội Thánh. Ở đây, Chúa Giêsu ủy thác thánh Gioan cho Đức Mẹ như người con được tái sinh vào đời sống thiêng liêng mà chỉ có Mẹ mới làm được. Như thế đây không phải đơn giản là lòng sùng kính Mẹ, cầu nguyện với Đức Trinh Nữ với tước hiệu này, nhưng là tuân theo ý muốn của Chúa Giêsu, vì điều này được truyền lại cho chúng ta từ Kinh thánh: Chúa Giêsu, với những lời tuyên bố ngay lúc cận kề cái chết, xin Đức Maria chăm sóc mỗi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đòi hỏi mỗi người phải cảm thấy được ở trong mối tương quan tình con thảo với Mẹ.
Đức Maria trung tâm giáo lý về ơn Cứu độ
Lòng sùng kính đối với Đức Maria - giống như tôn kính Thánh giá và Bí tích Thánh Thể - luôn luôn là một trụ cột cơ bản của đức tin, nhưng với lễ nhớ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh được thiết lập vào năm 2108, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn làm nhiều hơn nữa. Trước hết, ĐTC muốn làm thế nào để lòng sùng kính này có thể là điều tốt cho Giáo hội và có thể làm gia tăng ý nghĩa vai trò làm Mẹ trong Hội Thánh của Đức Maria, nhưng trên tất cả là đặt Đức Maria ở trung tâm giáo lý về ơn cứu độ. Thực tế, trong mối tương quan với Chúa Kitô, lòng đạo đức đối với Đức Maria xuất phát trực tiếp từ đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Bởi vì Chúa muốn Mẹ, một người phụ nữ, là Mẹ của Con Thiên Chúa, qua mẹ, con người có thể đạt tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Vai trò làm mẹ của Đức Maria bắt đầu bằng việc Truyền tin: Với lời xin vâng, Đức Mẹ ưng thuận để Chúa đi vào lịch sử. Và vì thánh ý Thiên Chúa, việc làm mẹ của Đức Maria không kết thúc dưới chân Thánh giá, mà trở nên vĩnh cửu. Hơn nữa, trong ngày Lễ Ngũ Tuần Mẹ còn hiện diện cùng với các tông đồ - các tín hữu đầu tiên chờ đợi Chúa Thánh Thần: đây là mối liên kết giữa việc kính nhớ Mẹ Hội Thánh với Lễ Chúa Thánh Thần mà Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn nhấn mạnh.
Lòng sùng kính Đức Trinh Nữ trong giáo huấn của các Giáo hoàng
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Hội Thánh có nguồn gốc xa xưa và đã hiện diện trong Giáo Hội thời của Thánh Augustinô và Thánh Leo Cả. Trong nhiều thế kỷ, lòng sùng kính Đức Mẹ với nhiều tước hiệu, nhưng với tước hiệu Mẹ Hội Thánh xuất hiện trong một số văn bản của các tác giả thiêng liêng và trong giáo huấn của ĐTC Benedict XIV và Leo XIII. Tuy nhiên, phải đợi đến ĐTC Phaolô VI mới có bước ngoặt; đó là ngày 21 tháng 11 năm 1964, khi kết thúc phiên thứ ba của Công đồng Vatican II, Đức Giáo hoàng tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria “Mẹ Hội Thánh”, nghĩa là của mọi Kitô hữu". Với quyết định này, ĐTC Phaolô VI lấy nội dung chủ yếu trong Tín điều của Công đồng Nicea năm 325 và trên hết là các quyết định của các giáo phụ Công đồng Êphêsô (430), xác định Đức Maria là "Mẹ Thiên Chúa". Trong Năm Thánh (1975), có Thánh lễ tạ ơn sùng kính Đức Maria, Mẹ Hội Thánh, sau đó lễ này được đưa vào Sách lễ Rôma, nhưng chưa phải là lễ nhớ bắt buộc trong lịch phụng vụ. Tuy nhiên, ở một số quốc gia - ví dụ Ba Lan và Argentina - và trong một số hội dòng, lễ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh được đưa vào lịch riêng. Vào năm 1980 ĐTC Gioan Phaolô II đưa lòng sùng kính Đức Maria, Mẹ Hội Thánh vào trong kinh nguyện. Và đến ngày 11 tháng 02 năm 2018, kỷ niệm 160 năm lần đầu tiên Đức Trinh Nữ hiện ra tại Lộ Đức. Nhân dịp này, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ấn định lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo hội, được ghi vào Lịch Rôma và được cử hành hàng năm, vào thứ hai sau Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Suy Niệm 3: Hội Thánh Cùng Mẹ Tiến Bước (St 3,9-15.20; Ga 19, 25-27)
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Với Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích ký ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Đức Mẹ Lộ Đức truyền dạy chúng ta cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh. Thứ Hai, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Hội Thánh cử hành với niềm vui khôn tả, khởi đi từ: “Khi đón nhận Lời Chúa với tâm hồn trong trắng, Mẹ đã cưu mang Ngôi Lời trong cung lòng khiết trinh, và khi hạ sinh Đấng thiết lập Hội Thánh, Mẹ đã cộng tác trong việc khai sinh Hội Thánh. Khi đứng bên thập giá, Mẹ đón nhận lời trối đầy yêu thương của Con Chúa, và đã nhận tất cả mọi người làm con, những người được tái sinh vào đời sống siêu nhiên nhờ cái chết của Đức Kitô” (Kinh Tiền tụng: Đức Maria là khuôn mẫu và là Mẹ của Hội Thánh).
Trong ngày này Hội Thánh dâng lời ngợi khen tung hô Chúa, đồng thời tôn vinh Mẹ là Ðấng Tuyệt Ðẹp “Tota Pulchra”, vì Mẹ đã được Thiên Chúa Cha yêu thương và tuyển chọn làm Mẹ Chúa Con. Mẹ được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của tình thương Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết, khi đạp nát đầu con rắn đã cám dỗ Adong và Evà phạm tội.
Thiên Chúa là Cha nhân từ
Thiên Chúa khôn ngoan và nhân từ, nên mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài, cho họ sống tình thân với Chúa. Vậy Sự Dữ do đâu mà có ? Đâu là nguyên nhân khiến cho tình thân nghĩa thiết giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau bị phá vỡ?
Sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?” Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ” Evà trả lời: “Con rắn đã cám dỗ tôi” (x. St 3, 11-13).
Là thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân ấy khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Ðiều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ “vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết” (St 2, l7). Bị ma quỉ cám dỗ, con người đánh mất lòng tín thác vào Ðấng Sáng Tạo, lạm dụng tự do, bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Ðó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Hậu quả là Adong và Evà đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7-l9). Sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, ll-l3); tình huynh đệ tương tàn (x. St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cuối cùng, vì bất tuân: “Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro” (St 3, l9).
Sau khi sa ngã, Thiên Chúa không lỡ bỏ rơi con người. Trái lại, vì tình thương, Thiên Chúa nâng con người lên. Chúa bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa: “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,15).
Ðoạn sách Sáng Thế trên được gọi là "Tiền Tin Mừng" vì đó là lời loan báo đầu tiên về Ðấng Cứu Thế, về cuộc chiến đấu giữa con rắn với người nữ và chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với nhân loại được biểu lộ “Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3, 20).
Mẹ Hội Thánh
Đức Maria đã được Thiên Chúa tiền định từ muôn thủa trong yêu thương và chọn Mẹ làm Đấng cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và đồng hành cùng Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình cứu chuộc loài người, Mẹ đã cộng tác trong việc khai sinh Hội Thánh. Trong tình thương, Ngài đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với Ngài, qua Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1 4-5). Do đó, Đức Maria là Mẹ chúng ta.
Thật hiển nhiên: “Lúc bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu nói với môn đệ Người yêu: Này là Mẹ con” (Ga 19, 26-27). Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã trở nên người mẹ từ ái của Hội Thánh đã được tác sinh trên Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó, cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Đức Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo hiếu kính yêu” (Sắc Lệnh về việc cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh). Vì thế, Mẹ là Mẹ Hội Thánh.
Hội Thánh cùng với Mẹ tiến bước
Trong diễn từ của Đức Giáo hoàng Phaolô VI ngày bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II – 21.11.1964 viết: “Thiên chức Thánh Mẫu đã làm cho Mẹ có những mối liên hệ đặc biệt với Chúa Kitô và hiện diện trong công trình cứu rỗi nhân loại do Chúa Giêsu Kitô thực hiện, cũng chính thiên chức đó tạo nên mối tương quan giữa Đức Maria và Hội Thánh; vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Kitô, Đấng đã nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng khiết trinh của Mẹ, Đấng là Đầu của Nhiệm thể là Hội Thánh. Vì thế Đức Maria, Mẹ của Chúa Kitô, cũng là Mẹ của tất cả các tín hữu và mục tử, nghĩa là của Hội Thánh”.
Vì là Mẹ của Hội Thánh, nên suốt cuộc đời Mẹ luôn là máng thông ơn Thiên Chúa xuống cho Hội Thánh. Để sống tốt hành trình dương thế, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, cầu xin Mẹ, để có thể khám phá ra niềm vui về sự dịu dàng của Thiên Chúa. Không ai đã bước vào mầu nhiệm sâu xa của việc nhập thể như Mẹ Maria. Toàn bộ cuộc sống Mẹ được hun đúc theo Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ minh chứng rằng tình yêu của Con Mẹ là vô cùng vô tận và mở rộng cho tất cả mọi người, không một ngoại lệ nào. Chúng ta hãy tiếp bước theo Mẹ.
Lạy Đức Mẹ Hội Thánh, xin cầu cho chúng con. Amen.
Suy Niệm 4: Mẹ Hội Thánh
Sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, mừng long trọng vào Chúa nhật sau lễ Thăng Thiên, Giáo Hội mừng lễ Mẹ Hội Thánh. Việc phụng vụ Hội Thánh mừng lễ này liền kề với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cho thấy Hội Thánh nhận thức được vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội.
Từ sau Công đồng Vatican II, hạn từ Mẹ Hội Thánh được sử dụng rộng rãi, không chỉ vì đây là gợi ý của Đức Phaolô VI, mà còn là một kinh nghiệm đức tin được soi dẫn qua dòng lịch sử Hội Thánh. Điều này cũng mặc nhiên nói cho các tín hữu về một viễn kiến đầy hy vọng mà sách Khải huyền đã nêu lên, trong một cuộc chiến không khoan nhượng giữa con rồng và người nữ. Người nữ ấy chính là hình ảnh Đức Maria, tượng trưng cho Hội Thánh.
Cơ sở cho kinh nghiệm đức tin này là đoạn Thánh Kinh mà chúng ta đọc và suy niệm hôm nay. Hội Thánh đã được Chúa Giêsu thiết lập. Đã được khai sinh từ cạnh sườn bị đâm thủng, từ đó máu và nước chảy ra. Nhiều nhà thần học đã cho đây là hình ảnh tượng trưng cho giây phút Hội Thánh được sinh ra giống như trẻ sơ sinh được sinh ra từ cung lòng người mẹ. Máu và nước tượng trưng cho sự sống. Đó cũng là hình ảnh mang tính Thánh Thể của mầu nhiệm Hội Thánh, mà từ Thánh Thể, Hội Thánh được nuôi sống do chính Mình và Máu Chúa. Hội Thánh lại tiếp tục mọi ngày làm cho hình ảnh của hy tế Chúa Kitô được sống động qua việc hiện tại hóa mầu nhiệm yêu thương này trong mỗi thánh lễ cử hành.
Thế nên, một Hội Thánh non trẻ được Chúa Giêsu sinh ra và cưu mang, rồi trong giây phút Người chết trên thập giá đến việc trao phó thánh Gioan làm con Đức Mẹ, gợi lên cho chúng ta đầy hình ảnh mang tính biểu trưng về Hội Thánh. “Này là con Bà” và “Đây là mẹ con”, hai câu nói này hàm chứa một nội hàm sâu xa. Rằng Hội Thánh thực sự là con của Mẹ Maria. Chúa Giêsu chuyển giao Hội Thánh non trẻ và nhỏ bé ấy cho Đức Mẹ trông nom. Và “Đây là mẹ con”, đây thực sự là lời căn dặn, Hội Thánh chính là mẹ của chúng ta, Hội Thánh đó bao hàm tất cả mọi người chúng ta, những kẻ tin và cử hành mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô Con Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và Mẹ của mỗi chúng con. Xin ban ơn nâng đỡ Hội Thánh Chúa trong mọi cơn nguy khó, và cũng xin nâng đỡ đức tin cho mỗi người chúng con. Amen.
Suy Niệm 5: ĐỨC MARIA – MẸ GIÁO HỘI
Bài Tin Mừng hôm nay xác nhận vai trò làm mẹ trong bình diện cứu độ của ân sủng đạt tới đỉnh cao, đó là lúc hy tế thập giá của Đức Kitô, cũng là mầu nhiệm vượt qua của Người, được hoàn tất.
Đọc kỹ đoạn tường thuật, thoạt đầu chỉ thấy đó là một sự lo lắng của Đức Giêsu dành cho mẹ mình, người mẹ mà Người để lại trong một nỗi đau khổ tận cùng. Thế nhưng, ý nghĩa bản tường thuật này có thể đi xa hơn vì hai lý do:
Thứ nhất “môn đệ thương mến” ở đây còn là một ẩn số, không chắc chắn là Gioan, theo các nhà Thánh Mẫu Học thì có thể là một biểu trưng (symbol): người được Chúa Giêsu yêu là nghe và tuân giữ Lời (x. Ga 14,21). Mặt khác, nếu trên thập giá, Đức Giêsu chỉ coi Gioan là một cá nhân, thì Đức Giêsu không phải lo, vì Gioan vẫn còn đầy đủ cha mẹ là ông bà Dê-bê-đê. Chính vì vậy, có thể hiểu hình ảnh “người môn đệ được Chúa yêu” là đại diện cho loài người nhận Đức Maria làm mẹ.
Thứ hai, trong thứ tự của lời trối, rõ ràng mang ý nghĩa Đức Giêsu chính thức đặt Đức Maria làm mẹ nhân loại hơn là một sự nhờ cậy “người môn đệ thương mến” nhận chăm sóc Đức Maria. Đức Giêsu nói với Đức Maria trước rồi nói với môn đệ sau. Theo lẽ thường nếu muốn gởi gắm Đức Maria cho “môn đệ thương mến” thì Đức Giêsu phải nói với “môn đệ thương mến” trước xem môn đệ có đồng ý không. Như vậy, nghĩa là Đức Giêsu trao cho Đức Maria một sứ mệnh là làm mẹ “môn đệ thương mến” đại diện cho các tín hữu, nghĩa là Đức Maria sẽ là Mẹ của chúng ta.
“Vai trò làm mẹ thật mới mẻ này” của Đức Maria, được thiết lập trong đức tin, là hoa trái của tình yêu “mới mẻ”, một tình yêu thấm sâu vào Mẹ dưới chân thập giá, qua việc Mẹ chia sẻ vào tình yêu cứu độ của Đức Kitô.
1. Giờ hiến tế: đặc trưng của sự hy sinh.
Việc Đức Giêsu ngỏ lời với Đức Maria dưới chân thập giá, đặt trong một hoàn cảnh hết sức rất long trọng được lồng trong cái chết của Đức Giêsu vào giờ Người được tôn vinh. Hôm nay, giờ Đức Giêsu đã đến, đó là “giờ” Người được tôn vinh vì Người đã vâng ý Cha mà chịu hiến tế hy sinh. Đức Maria được liên kết với giờ hiến tế này và trái tim Mẹ cũng chịu hiến tế như lời tiên báo của Simêon là “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Mẹ” (x. Lc 2,35). Điều này cũng cho thấy Đức Maria là “thiếu nữ Sion” nên cuộc đời của Mẹ sẽ mang dấu ấn của số phận dân Người. Vì là Mẹ Đấng Messia, Đức Maria nằm trong cuộc chiến, chia sẻ mọi đau khổ với con mình. “Lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” gợi lên lưỡi gươm trong sách ngôn sứ Ezechiel 14,17, cắt đứt Israel, chỉ còn để lại một “số sót”. Lưỡi gươm nói lên sự đau khổ nội tâm của người mẹ, đau khổ ở đây là đau khổ của người mẹ nhìn người ta ruồng bỏ con mình. Lưỡi gươm trong Ezechiel vừa cắt đứt Israel vừa sinh ra số sót; ngay dưới chân thập giá, Đức Maria là “Mater dolorosa” đau xót vì sự phủ nhận của nhân loại đối với Đức Giêsu, nhìn Con chết tức tưởi, sự cắt đứt này cũng làm cho Mẹ buốt xót, sinh ra “số sót” cho nhân loại, đó là những kẻ tin vào Đức Kitô. Lưỡi gươm đâm thấu lòng Mẹ để Mẹ luôn chia sẻ khổ đau với Con, vừa đứng về phía những kẻ tin vào Đức Giêsu, ôm lấy tất cả vì Đức Giêsu đã gửi gắm tất cả cho Mẹ: “Này là Con của Mẹ”. Giờ phút hiến tế dưới chân thập giá là đỉnh điểm của lời “xin vâng”, và cả cuộc đời xin vâng của Đức Maria hướng về giờ phút hy sinh này. Cùng với Chúa Giêsu, Đức Maria đã chịu sát tế tâm hồn và làm cho lời “xin vâng” viên mãn khi Đức Giêsu kêu lên: “mọi sự đã hoàn tất”.
2. Đặc trưng hiện diện và hiệp thông cứu chuộc.
Đức Maria rõ ràng đã đóng vai trò trổi vượt trên bất cứ phàm nhân nào trong sự hiệp thông với Đức Giêsu cứu chuộc. “Hiệp thông cứu chuộc” không phải “tự thân cứu chuộc” mà là cộng tác hoặc tháp nhập vào sự cứu chuộc đó. Chỉ có một mình Đức Giêsu là Đấng Cứu Chuộc duy nhất, nhưng khi sinh hạ Hội Thánh trên thập giá, Đức Giêsu không chỉ có một mình, mà Người còn có Đức Maria đứng dưới chân thập giá, để cùng chia sẻ sự đau khổ và giúp Người chấp nhận hiến dâng. Và sau hết là “hiệp thông cứu chuộc” vì Đức Maria đã tham gia vào công trình sinh hạ Hội Thánh.
Thánh Alberto Cả viết: “Đức Maria đã tham dự vào cuộc khổ nạn để cứu nhân loại. Khi mà những Tông Đồ và môn đệ bỏ trốn, thì Người ở lại đứng dưới chân thập giá và chịu trong lòng những vết thương Chúa Giêsu phải chịu ngoài thân; chẳng phải lúc đó lưỡi gươm đã đâm thấu qua tâm hồn Mẹ sao?”
Chính sự liên kết những đau khổ và ý chí Mẹ với những đau khổ và ý chí của Đức Giêsu, và cũng chính nhờ sự từ bỏ những quyền lợi của một người mẹ mà Đức Maria đã cùng với Đức Giêsu cứu chuộc nhân loại: Sự liên kết những đau khổ của Đức Maria với những đau khổ của Đức Giêsu đã làm cho người nên Mẹ đau thương cũng như Đức Giêsu đau khổ. Có thể nói, Đức Giêsu phải chịu những đau khổ nào trong thân xác và linh hồn thì Đức Maria cũng phải chịu những đau đớn ấy trong lòng người. Và cũng như Đức Giêsu đã muốn gánh chịu những đau khổ thể xác và tinh thần tới tột độ khả năng chịu đựng của Người, thì cũng như Người, Mẹ Người cũng phải chịu trong lòng tất cả những đau khổ mà trái tim vô nhiễm người có thể chịu được. Mặt khác, ý chí của Đức Maria vốn kết hiệp với ý chí của Con, tức là ý chí của người luôn kết hiệp với ý chí Thiên Chúa. Đức Giêsu nhập thể là để hồi phục vinh quang Thiên Chúa và cứu chuộc thế gian bằng cuộc khổ nạn – chết – phục sinh của Người. Và Đức Maria cũng muốn cho vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi của nhân loại nhờ cùng cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Đó là một sự tuân phục tuyệt đối… Ngoài ra, khi dâng hiến người Con thì cũng đồng nghĩa với việc “từ bỏ” quyền lợi của một người mẹ của người, vì con là lẽ sống của mẹ, lấy mạng sống của con thì chẳng khác nào huỷ lẽ sống của mẹ. Đó là sự dâng hiến cao cả trong việc hiệp thông cứu độ.
Sau cùng, trên thập giá, lúc Đức Giêsu tưởng chừng như đã bị bỏ rơi hoàn toàn, thậm chí Chúa Cha dường như vắng bóng, thì còn đó Mẹ Người đứng dưới chân thập giá như là một động lực cuối cùng nâng đỡ Người – Thiên Chúa Cha giờ này đang ở trong sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Thần vẫn phủ bóng trên Đức Maria để trợ lực Người trong giờ hiến tế…
Lạy Mẹ Maria là Mẹ chúng con, xin cho chúng con biết “xin vâng” như Mẹ trong mọi biến cố của cuộc đời, để cộng tác với Chúa trong việc sinh thêm nhiều con cái cho Giáo hội bằng đời sống chứng nhân truyền giáo của mình. Amen.
Suy Niệm 6: ĐGH Phanxicô thiết lập lễ nhớ Đức Maria là Mẹ Giáo Hội
(G. Trần Đức Anh OP)
ĐTC Phanxicô đã quyết định thiết lập lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.
Trong sắc lệnh công bố hôm 3-3-2018, DHY Robert Sarah, Tổng trưởng Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích cho biết ĐTC đưa ra quyết định trên đây xét vì việc thăng tiến lòng sùng kính này có thể giúp gia tăng cảm thức của các vị mục tử, các tu sĩ và tín hữu về Mẹ Giáo Hội, cũng như lòng kính mến chân thành đối với Đức Mẹ.
Chính Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, ngày 21-11 năm 1964, khi bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2 đã tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria là ”Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể dân Kitô giáo, các tín hữu cũng như các vị Chủ Chăn, họ gọi Đức Maria là Mẹ rất quí mến” và Ngài thiết định rằng ”toàn thể dân Kitô giáo ngày càng gia tăng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa dưới danh hiệu rất dịu dàng này”.
Sắc lệnh của Bộ Phụng tự khẳng định: Lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, do ĐGH Phanxicô ấn định, ”sẽ giúp chúng ta nhớ rằng đời sống Kitô, để tăng trưởng, cần phải ăn rễ sâu nơi mầu nhiệm Thánh Giá, nơi hy tế của Chúa Kitô trong Tiệc Thánh Thể, nơi Đức Trinh Nữ hiến dâng, Mẹ Đấng Cứu Chuộc và Mẹ của những người được cứu chuộc”.
Vì thế, lễ này cần được ghi trong tất cả các lịch và sách phụng vụ để cử hành thánh lễ và phụng vụ các giờ kinh. Các văn bản phụng vụ liên hệ được đính kèm, sắc lệnh này và các bản dịch, được các HĐGM chấp thuận, sẽ được công bố sau khi Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích phê chuẩn. Tại những nơi nào lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Giáo Hội đã được cử hành theo luật riêng được phê chuẩn, vào một ngày khác, với bậc phụng vụ cao hơn, thì trong tương lai vẫn được cử hành theo cùng thể thức ấy”.
Theo quyết định trên đây, thứ hai 21-5-2018 sẽ là lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. (Rei 3-3-2018)
Suy Niệm 7: Đức Maria – Mẹ Giáo hội
(Michael R. Heinlein //Văn Việt chuyển ngữ từ simplycatholic.com)
WHĐ (31-05-2020) – Vào ngày 11 tháng 2 năm 2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định thêm vào lịch chung Rôma một lễ mới về Đức Mẹ, lễ Đức Maria - Mẹ Giáo hội. Trước đây lễ này đã được cử hành ở cấp độ địa phương tại một số giáo phận và dòng tu. Bây giờ lễ này được cử hành trong toàn thể Giáo hội hoàn vũ, và được ghi trong Nghi thức Sách Lễ Rôma. Lễ mới này không có ngày cố định trong năm Dương lịch, vì nó phụ thuộc vào chu kỳ lễ Phục sinh. Lễ được cử hành vào ngày thứ Hai sau Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Người ta có thể tự hỏi danh hiệu mới này của Đức Maria có nghĩa gì? Và tại sao chúng ta mừng lễ này? Như câu thành ngữ cổ: “de Maria numquam satis” (về Đức Maria, thì nói không bao giờ đủ). Lý do theo nhà Thánh Mẫu học, Linh mục Hugh Rahner, SJ, giải thích là vì “bất cứ điều gì được nói về sự khôn ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa, đều có thể được áp dụng theo nghĩa rộng đối với Giáo hội, theo nghĩa hẹp hơn đối với Đức Maria, và theo một cách cụ thể đối với mọi tâm hồn tín hữu.”
Có nhiều ý nghĩa thần học từ việc thiết lập lễ nhớ này. Những ý nghĩa đó bắt nguồn từ việc nhận biết Giáo hội là Thân thể của Chúa Kitô và vai trò của Đức Maria trong đời sống các tín hữu.
Vai trò của Đức Maria
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chính thức dành cho Đức Maria danh hiệu “Mẹ Giáo hội” khi bế mạc kỳ họp thứ III của Công Đồng Vatican II, vào năm 1964. Truy nguyên về nguồn gốc từ thế kỷ thứ IV với Thánh Ambrôsiô, thì tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” gợi lên mẫu tính thiêng liêng của Đức Mẹ, một đặc tính gắn liền với bản tính của Giáo hội.
Phần lớn quan điểm Giáo hội học của Công Đồng Vatican II, đặc biệt trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), được phát triển nhờ sự nhận biết cách phong phú về quan điểm thần học của Thánh Phaolô. Trong đó, các tín hữu nhận biết sự liên kết giữa họ với Đức Kitô như là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Ngài. Thánh Phaolô đã nói rõ ràng và hùng hồn về chân lý này, và đây cũng là chân lý mà Thánh Phaolô nhận biết trước tiên sau khi trở lại. Khi bị ngã xuống đất và bị mù lòa, Phaolô - Kẻ bắt bớ Kitô giáo lúc đó – nghe thấy một giọng nói hỏi mình: “Saul, Saul, tại sao ngươi lại bắt bớ Ta? (Cv 9: 4). Qua câu nói này, rõ ràng Đức Kitô đã xác định mối hiệp nhất nên một giữa Ngài với những người theo Ngài. Cả hai cùng tạo thành một khối, một thể thống nhất – đó là những gì mà Thánh Augustinô sau này mô tả là “Chúa Kitô toàn thể” (totus Christus) – vì Đức Kitô và người được rửa tội là một thân thể.
Thánh Augustinô đã áp dụng chân lý này vào bối cảnh Thánh Mẫu học một cách rất thích hợp: Đức Maria là “mẹ của những chi thể thuộc về Đức Kitô... những ai tin vào Ðức Kitô, vì được kết hợp chặt chẽ với Người, nhất là trong Bí tích Thánh Thể, thì cũng kết hợp với nhau nhờ đức ái, tạo thành một thân thể duy nhất là Giáo hội, có Đức Kitô là đầu... Đức Maria đã sinh ra Người Con Một, và Giáo hội sinh ra những người mà nhờ Người Con Một mà nên một”.
Vì Đức Maria là mẹ của Đức Kitô, và chúng ta là chi thể của thân thể Đức Kitô – tức Giáo hội – nên chúng ta cũng là con của Đức Maria. Lễ nhớ mừng mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội được cử hành hàng năm là dịp để suy ngẫm về chân lý rất ý nghĩa này và những hệ lụy từ đó. Và cũng vì tầm quan trọng của mối liên hệ mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội mà những nghị phụ của Công Đồng Vatican II đã quyết định để phần suy tư dài về Đức Maria ở trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), chớ không tách ra để viết thành một tài liệu riêng về Đức Mẹ.
Mẫu gương và sự trợ giúp cho Giáo hội
Sự liên kết của Đức Maria với Con mình là không thể tách rời. Lễ nhớ mới này cũng thúc đẩy lòng sùng kính Đức Mẹ, bởi vì lễ này giúp chúng ta hướng về Đức Mẹ là mẫu gương cho cả nhân loại, đặc biệt là các tín hữu. Mẹ là chi thể “ưu tú nhất... và nguyên tuyền nhất của Giáo hội” (LG, số 53).
Thiên chức làm mẹ của Đức Maria được tìm thấy trong sự vâng lời, đức tin, đức cậy và đức ái của Mẹ. Những đặc điểm này là mảnh đất màu mỡ, ở đó Lời Chúa được gieo vào và trổ sinh sự sống dồi dào. Sự sống siêu nhiên đã đến với thế giới qua tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ. Đó là tiếng thưa đem lại sự sống mới cho thế giới. Do đó, Đức Maria là Evà mới. Như sự chết đã đến thế giới qua Evà củ thế nào, thì sự sống đã đến thế giới qua Evà mới như vậy.
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố rằng, “với mẫu tính trong Chúa Thánh Thần, Đức Maria ôm lấy từng người trong Giáo hội, và ôm lấy từng người qua Giáo hội. Theo nghĩa này, Đức Maria – Mẹ Giáo hội cũng là gương mẫu của Giáo hội” (Redemptoris Mater, số 47).
“Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.” (LG, số 61). Vì toàn bộ cuộc đời của Đức Maria là một niềm ước mong của các tín hữu, nên Đức Mẹ lôi cuốn chúng ta đến với ơn cứu rỗi. Đồng thời, qua tấm gương và sự chuyển cầu từ thiên đàng, Đức Mẹ giúp chúng ta vượt qua tội lỗi và biết làm điều tốt. Mẹ không mong muốn gì khác hơn, ngoài ước mong dẫn chúng ta đến với Con của Mẹ.
Sự mẫu mực trong đức vâng phục, đức tin, đức cậy và đức ái được tỏ bày nơi Đức Maria cũng cần được tỏ bày nơi các Kitô hữu. Hay nói một cách đơn giản như Chúa Giêsu: “Đúng hơn phải nói: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11:28).
Nhờ sự vâng lời của Đức Maria, Giáo hội có một gương mẫu để sống theo ý muốn của Chúa Cha. Nhờ đức tin của Mẹ, Giáo hội học được cách đưa Đức Kitô đến với thế giới. Nhờ đức cậy của Mẹ, Giáo hội học được cách trông cậy vào Chúa (xem Tv 130: 5). Và nhờ đức ái của Mẹ, Giáo hội học được con đường cứu rỗi.
Các Kitô hữu đã hướng về Đức Maria vì những ân sủng đặc biệt và sự chuyển cầu từ thiên đàng của Mẹ trong suốt nhiều thế kỷ, “đã được Giáo hội kêu cầu với nhiều danh hiệu như Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian” (LG, số 62). Việc thiết lập lễ Đức Maria – Mẹ Giáo hội mang đến một cơ hội nữa cho các chi thể trong thân thể Con của Mẹ, hân hoan kêu cầu trong tình yêu mẹ hiền của Mẹ - Đấng là gương mẫu và sự trợ giúp của chúng ta.
Suy Niệm 8: Đức Maria Là Mẹ Giáo Hội
Mẹ Giáo Hội (tiếng La-tinh: Mater Ecclesiae) là một trong nhiều tước hiệu của Đức Maria. Với tước hiệu này, Mẹ Thiên Chúa được tôn kính với tư cách là Mẹ của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV, tước hiệu này đã được Giáo Phụ Am-brô-xi-ô nhắc tới. Ngài đã liên kết hình ảnh Mẹ Giáo Hội với Đức Maria như là nguyên mẫu „có tính hiện thân“ của Giáo hội. Vào giữa thời Trung Cổ, tước hiệu trên của Đức Maria đã được phổ biến khá rộng rãi trong Giáo hội.
Vào ngày 11 tháng 02 năm 2018, nhân ngày Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã bổ sung ngày Lễ Kính Đức Mẹ là Mẹ Giáo hội vào trong lịch chung của Giáo hội Rô-ma. Và Ngài ấn định rằng, ngày Lễ này sẽ được cử hành trên toàn Giáo hội vào ngày thứ Hai ngay sau Đại Lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như Tòa Thánh Vatican đã công bố vào ngày 03 tháng 03 năm 2018. Theo đó, thứ Hai ngày 21 tháng 05 năm 2018 sẽ là ngày đầu tiên Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội được cử hành trên toàn Giáo hội với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III.
Từ trước tới nay, ngày Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo hội chỉ được cử hành riêng lẻ trong một số Giáo phận và một số cộng đoàn Dòng Tu, và được cử hành vào những ngày khác nhau!
Hiến Chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium của Công Đồng Vatican II đã mô tả Đức Maria chính là thành phần của Giáo hội và là „Mẹ đáng mến“ của Giáo hội.
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội đã luôn luôn được sử dụng bởi nhiều Đức Giáo Hoàng, trong đó có cả Đức Bê-nê-đíc-tô XIV (1748), Đức Lê-ô XIII (1885), Đức Gio-an XXIII, Đức Phao-lô VI và Đức Gio-an Phao-lô II. Vào năm 1944, Hugo Rahner mới khám phá ra rằng, ngay từ thế kỷ thứ IV, Thánh Am-brô-xi-ô cũng đã sử dụng tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội rồi. Khoa Thánh Mẫu học của Hugo Rahner được đặt nền tảng trên Thánh Am-brô-xi-ô cũng như trên các Giáo Phụ khác, và khoa Thánh Mẫu học của ông đã có một ảnh hưởng rất lớn trên Đức Phao-lô VI và Công Đồng Vatican II. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1964, tức Lễ Kính Đức Trinh Nữ thành Giê-ru-sa-lem, trong diễn văn bế mạc phiên họp thứ III của Công Đồng trên, Đức Phao-lô VI đã chính thức công bố tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Vào năm 1980, tước hiệu này đã được bổ sung vào trong Kinh Cầu Đức Bà, cụ thể là vào vị trí thứ hai sau tước hiệu Đức Bà là Mẹ Chúa Ki-tô.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã diễn giải tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội như sau: Đức Maria không chỉ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng còn là Mẹ của tất cả các tín hữu nữa, như Thánh Augustinô đã trình bày trong tác phẩm De sancta virginitate: „Mẹ đồng cộng tác trong Đức Mến để các tín hữu được sinh ra trong Giáo hội, mà các tín hữu ấy chính là chi thể của Đầu“, tức Chúa Ki-tô.
Theo cách trình bày của Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, thì nhờ vào việc Mẹ được tôn kính với tư cách là Mẹ ơn Cứu Độ, Mẹ Sự Sống, Mẹ ân sủng, Mẹ của những kẻ được cứu chuộc và Mẹ của những kẻ sống, Đức Maria thực sự là Mẹ của toàn Giáo hội.
Đức Bê-nê-đíc-tô XVI lưu ý rằng, ngay từ đầu, Công Đồng Vatican II đã hiểu về Thánh Mẫu Học như là một phần của Giáo Hội Học, và vì thế, trong thực tế, một trong những đặc tính có tính nội tại nhất của Giáo hội, đó là sự đồng nhất hóa với Đức Maria, đã được diễn tả tại Công Đồng này.
Suy Niệm 9: Đức Mẹ Hội Thánh, cầu cho chúng con
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Thứ Hai, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội truyền dạy chúng ta cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh với niềm vui khôn tả.
Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan khi muốn thực hiện công việc cứu chuộc thế giới vào thời cuối cùng, “đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4,4), và Người Con đó “đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria” (Kinh Tin Kính).
Đức Mẹ Chúa Kitô
Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa không?Chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Chúa Kitô?
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria được gọi là Mẹ Chúa Kitô.
Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã tuyên dương Mẹ là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ”. Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”.
Đức Mẹ Hội Thánh
Hiến chế tín lý Lumen Gentium, số 53 của Công Đồng Vatican ô II viết: Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Giêsu, đã dâng Con lên Chúa Cha trong đền thánh, và cũng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng. Ngài thật là Mẹ chúng ta” (LG 61).
“Thật vậy, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a… được nhận biết và tôn kính với tư cách là Mẹ thật của Thiên Chúa là Đấng Cứu Chuộc… Mẹ cũng ‘thật là Mẹ các chi thể của Đức Ki-tô’… bởi vì đã cộng tác bằng đức mến để các tín hữu được sinh ra trong Hội Thánh, được làm chi thể của Đức Kitô là Đầu của Hội Thánh.” 525 “Đức Ma-ri-a,… Mẹ Đức Ki-tô, cũng là Mẹ… Hội Thánh” (x.GLHTCG số 963).
Công việc cứu chuộc vẫn tiếp tục trong Hội Thánh, là thân thể Chúa Kitô. Trong thân thể này, Ðức Maria có mặt như một chi thể trổi vượt, liên kết mật thiết với Ðầu, và hằng yêu thương, bảo vệ hướng dẫn các chi thể khác là các tín hữu, với lòng của người Mẹ hiền.
Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống Giáo Hội lễ kính Mẹ
Việc sùng kính Mẹ vào thứ Hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống nhắc nhớ chúng ta rằng, sau khi Ðức Giêsu lên trời, Ðức Maria đã ở giữa các Tông đồ, như người Mẹ “giữa một đàn em đông đúc” của Ðức Giêsu (Rm 8,29), Con của Mẹ. Đức Mẹ cùng cầu nguyện với Hội Thánh sơ khai: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Ðức Giêsu, và với anh em của Ðức Giêsu” (Cv 1,14). Hơn nữa: “Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Người trong ngày Truyền Tin” (LG 59), và “ai nấy được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2-4) trong ngày lễ Ngũ Tuần. Sau cuộc đời trần thế, Ðức Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác để hưởng vinh quang thiên quốc. Mẹ là người đầu tiên được tham dự vào cuộc Phục Sinh của Con Mẹ, và như vậy Mẹ là dấu chỉ báo trước và bảo đảm cho các Kitô hữu được sống lại với Chúa Kitô. Mẹ ở trên trên vẫn tiếp tục thiên chức làm mẹ bằng việc chuyển cầu cho tới khi Hội Thánh đạt tới quê trời (LG 62).
Hội Thánh luôn dành cho Ðức Maria lòng yêu mến và tôn kính rất đặc biệt, vượt trên các thiên thần và các thánh. Mẹ là mẫu mực của Hội Thánh trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô” (GH 63). Là hình ảnh của Hội Thánh tại thế “Hội Thánh vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng” (GH 8) hướng nhìn lên Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, một phần tử ưu tú của mình, đã chiến thắng tội lỗi, nhờ hồng ân Chúa Kitô. Vì thế, Hội Thánh luôn luôn kiên trì và tin tưởng trong hành trình đức tin trên trần gian. “Ngày nay, trên trời Mẹ Ðức Giêsu đã được vinh hiển cả hồn và xác, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh phải hoàn thành đời sau; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr. 3,10).
Lạy Mẹ Hội Thánh, trong hoàn cảnh bi đát hiện nay, đầy đau khổ và lo lắng đang bao trùm cả thế giới vì đại dịch, chúng con cầu xin Mẹ, chúng con tìm nương ẩn dưới sự che chở của Mẹ. Xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện trong cơn gian nan khốn khó, xin giải thoát chúng con khỏi mọi hiểm nguy.
Đức Mẹ Hội Thánh, cầu cho chúng con. Amen.
Suy Niệm 10: Mẹ đau khổ
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại các nước châu Mỹ La Tinh được cử hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó người ta sống lại sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các phụ nữ tập trung lại dưới chân thập giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.
Các tín hữu còn giữ một truyền thống khác gọi là “chia buồn”. Truyền thống này được cử hành sau nghi thức phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ. Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi đau buồn này là bức tượng của người phụ nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá, khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập giá, thì bức tượng của người phụ nữ được đặt ở đầu chiếc quan tài.
Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước thái độ phản bội của dân chúng, và của những người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả mọi người… (Theo R. Veritas).
Suy niệm
Cuộc đời Đức Maria là cuộc đời của Bà Mẹ sống trong trăm nghìn đau khổ nối tiếp. Chính trong đau khổ Mẹ sống đức tin thông phần mầu nhiệm cứu độ của Con Mẹ.
Mẹ sầu khổ khi bạn đời Giuse cùng thề hứa trinh khiết chưa hiểu Mẹ khi Mẹ mang thai Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,27-38) theo ý Thiên Chúa. Khi Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Chúa vào đền thánh theo Luật của Môisê, Maria lo âu khi cụ già Simêon nói tiên tri về Chúa Giêsu Con Mẹ, còn Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ xuyên thấu hồn bà, nhờ vậy mà ý nghĩ trong những tâm hồn khác được phơi bày” (x. Lc 2,33-35).
Mẹ sợ hãi, lo lắng, khổ đau khi cùng thánh Giuse đem Chúa Giêsu trốn qua Ai Cập tránh sự truy bức của Hêrôđê (x. Mt 2,13-14). Mẹ càng đau khi Con Mẹ ở lại Giêrusalem, khi hai bậc phụ huynh Giuse và Maria cứ tưởng con mình đã bị lạc mất vất vả tìm kiếm đến ba ngày (x. Lc 2,41-50). Mẹ ngạc nhiên đau khổ tột bậc khi nhìn Con Mẹ vác thập giá tiến lên núi Sọ trong cuộc hành trình cứu độ nhân loại. Nhất là còn gì đau đớn hơn khi Mẹ đứng dưới chân thập giá, nhìn Giêsu, Con Mẹ chết tả tơi, trần trụi trong tư cách tên tử tội (x. Ga 19,25-28). Khi hạ xác Con xuống khỏi cây thập giá, lòng Mẹ tan nát vì Mẹ chỉ còn ôm một cái xác lạnh ngắt, mình mẩy đầy vết thương bầm tím mà các bức tượng Pièta trong lịch sử đã diễn tả lại.
Khi Con Mẹ được các đồ đệ an táng trong huyệt đá, nấm mồ tuyệt vọng mang khoảng cách trời, đất (x. Ga 19,38-42) làm Mẹ cảm thấy mất tất cả…
Dưới chân thập giá Chúa Giêsu và trong mọi sầu khổ, Mẹ Maria ôm lấy tất cả mọi con cái nhân loại, tất cả đều được ủy thác cho Mẹ như Chúa đã uỷ thác Mẹ cho thánh Gioan (x. Ga 19,25-27). Mẹ đang đứng bên cạnh tất cả những ai đang đau khổ. Mẹ âm thầm chia sẻ và chịu đựng nỗi khổ đau của từng người như thể của riêng Mẹ với tình liên đới và cảm thông trong đau khổ.
Mẹ đau khổ, nhắc nhở chúng ta: Ðời của người Kitô hữu gắn liền với thập giá của Chúa Giêsu: “Hạt giống có mục nát đi mới sinh nhiều hoa quả” (Ga 12,24). Cùng với Mẹ, chúng ta tin tưởng như thánh Phaolô xác quyết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai mến yêu Người” (Rm 8,28).
Ý lực sống :
‘‘Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can” (Trích Ca Tiếp Liên Stabat Mater).
Suy Niệm 11: Mẹ khả ái của Giáo Hội.
(P.K.M,CMC)
Đức Maria luôn là Mẹ khả ái của Giáo Hội, là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta:
Dù ta đi suốt cuộc đời,
Cũng không đi hết những lời mẹ ru.
Dù ta đi trọn kiếp người,
Cũng không đi hết những lời mẹ khuyên.
Mẹ hằng cầu xin tuôn đổ tràn đầy ân sủng Chúa Thánh Thần và hướng dẫn nhắn nhủ các môn đệ và dân Chúa tới gần Chúa Giêsu hơn.
Công Đồng Vaticanô II trong hiến Chế Lumen Gentium sau khi tuyên bố Đức Maria là “thành viên trổi vượt” là “kiểu mẫu” và ‘gương sáng” của Giáo Hội, Công Đồng dạy tiếp: “Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Người tình con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu (LG 53).
Khi mô tả những tình cảm con thảo của mình, Giáo Hội nhìn nhận Đức Maria là người Mẹ yêu quý nhất của mình, gián tiếp tuyên bố người là Mẹ Giáo Hội, vì những lý do sau:
- Mẹ làm Mẹ Giáo Hội khi nhận làm Mẹ Chúa Giêsu: “Đức Maria, với tư cách là Mẹ Đức Kitô cũng là Mẹ của tất cả mọi tín hữu và các chủ chăn, nghĩa là Mẹ Giáo Hội” (Đức Phaolô VI).
- Mẹ làm Mẹ Giáo Hội khi đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô: “Đây là con Bà… Đây là mẹ con” (Ga 19,26-27).
- Mẹ là Mẹ Giáo Hội khi ở nhà Tiệc Ly, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ chính toà Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử toạ như sau: "Ai trong anh chị em có thể nói cho tôi biết Đức Mẹ là ai?" Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: "Thưa Cha, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa".
Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: "Đúng thế, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria". Liền sau đó, cử toạ liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Đàng, Mẹ là Đấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Đấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Đấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v...
Sau khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Đức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nối tiếp: "Đức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn nói thêm về Đức Maria...". Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: "Tôi xin được nói với anh chị em Đức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Đó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Đàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria...".
Tước hiệu nói lên tương quan mẫu tử của Đức Maria với Giáo Hội.
Tước hiệu này ít được sử dụng trong quá khứ, nhưng mới đây trở nên phổ biến hơn trong những công bố của huấn quyền Giáo Hội và trong sự sùng kính của dân Kitô hữu. Đầu tiên, người tín hữu kêu cầu Đức Maria với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, “Mẹ tín hữu” hay là “Mẹ chúng con” để nhấn mạnh tới tương quan với từng đứa con của mình.
Về sau, do sự chú ý nhiều hơn tới mầu nhiệm Giáo Hội và mối tương quan của Đức Maria với Giáo Hội, nên Đức Trinh Nữ Rất Thánh bắt đầu được kêu cầu thường hơn là “Mẹ Giáo Hội”.
Trước Công Đồng Vat. II, kiểu nói này được huấn quyền Đức Lêo XIII sử dụng, quả quyết rằng Đức Maria “đúng thật là Mẹ Giáo Hội” (Acta Leonis XIII, 15, 302). Tước hiệu này về sau được sử dụng nhiều lần trong các bài giảng của Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI.
Cho dù tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” được gán cho Đức Maria mới đây thôi, nhưng tước hiệu ấy lại diễn tả tương quan mẫu tử giữa Đức Trinh Nữ Rất Thánh và Giáo Hội như nhiều bản văn Tân ước đã chứng minh.
Khởi từ ngày Truyền Tin, Đức Maria đã được kêu mời thuận ý khai mở Vương quốc cứu thế mà sau này sẽ xuất hiện với sự hình thành của Giáo Hội (Lc 2, 26-35).
Tại Cana (Jn 2, 2-11), khi xin Con mình thi hành quyền năng cứu thế của Người, Đức Maria đã góp phần cơ bản vào việc ghi dấu đức tin trong cộng đoàn các môn đệ đầu tiên và hợp tác trong việc khai mở Nước Chúa, một nước đặt “mầm giống” và “khởi điểm” nơi Giáo Hội (LG 5).
Trên Núi Sọ (Jn19, 27-27), Đức Maria kết hợp với hy lễ của Con và đã góp phần hợp tác mẫu tính của mình vào công trình cứu chuộc dưới hình thức của cơn đau đẻ, sinh ra nhân loại mới.
Khi nói lời: “Thưa Bà, nầy là con Bà” Đấng chịu đóng đinh tuyên bố Người là Mẹ không những đối với tông đồ Gioan mà còn với tất cả các môn đệ. Chính tác giả Tin mừng, khi nói Chúa Giêsu chết “để qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11, 52), đã chỉ rõ sự sinh ra Giáo Hội như là hoa quả của hy lễ cứu chuộc mà Đức Maria đã kết hợp với mẫu tính.
Về điểm này chúng ta cùng nhau chiêm ngắm sâu hơn về mẫu tính của Mẹ dưới chân Thập giá.
Chính lúc Đức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Đức Maria mới sinh hạ chúng ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.
Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác. Sự độc ác tột cùng mà người Do Thái và La Mã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa Giêsu qua thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình thức khác. Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người chà đạp người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.
Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội ác của mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng chiến đấu chống lại tội lỗi.
Sứ điệp của Đức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung: đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn đau, ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.
Thánh sử Luca nhắc tới sự hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu trong cộng đoàn đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 1, 14; 2, 3-4). Như vậy Thánh sử nhấn mạnh vai trò người mẹ của Đức Maria trong Giáo Hội mới sinh; bằng cách so sánh vai trò đó với vai trò của Người khi sinh ra Đấng Cứu Thế. Chiều kích Mẹ như thế trờ thành một yếu tố cơ bản trong tương quan của Đức Maria với Dân mới được cứu chuộc.
Căn cứ theo Kinh Thánh, giáo huấn của các giáo phụ nhìn nhận chức làm Mẹ của Đức Maria trong công trình Chúa Kitô và do đó, trong công trình của Giáo Hội.
Theo thánh Irênê, Đức Maria “trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho toàn dòng giống loài người” (PG 7, 959), và lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ “tái sinh người ta trong Thiên Chúa” (PG 7, 1080). Điều đó được thánh Ambrôsiô lặp lại: “Một Trinh Nữ đã sinh ra Đấng cứu rỗi cho thế gian, một Trinh Nữ đã mang đến sự sống cho mọi sự” (PL 16,1198), và nhiều giáo phụ khác cũng lập lại khi gọi Đức Maria “Mẹ của sự cứu rỗi”.
Thời trung cổ, thánh Anselmô thưa với Đức Maria thế này: “Mẹ là Mẹ của sự công chính hoá và cả những kẻ được công chính hoá, là Mẹ sự hoà giải và cả những kẻ được hoà giải, là Mẹ sự cứu rỗi và cả những kẻ được cứu rỗi” (PL 158, 957), còn nhiều tác giả khác lại gán cho Người tước hiệu “Mẹ ân sủng” và “Mẹ sự sống”.
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội”
Như thế tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của người tín hữu Kitô, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống, thì thật chính đáng khi tuyên bố Người là Mẹ Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã muốn Công Đồng Vaticanô II tuyên bố “Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể Dân Chúa, của người tín hữu và các mục tử của họ”. Chính Đức Giáo Hoàng thực hiện điều đó khi đọc bài diễn văn bế mạc khoá thứ 3 Công Đồng (21.11.1964), Người cũng bảo: “từ nay toàn thể dân Kitô hữu hãy tôn kính và kêu cầu Đức Trinh Nữ Rất Thánh với tước hiệu này”.
Tâm tình con thảo
Trong cuốn sách tựa đề “Đồng Hành” có thuật lại câu chuyện về cuộc đời của một nhà thừa sai Canada, Giám mục Emile Crôa, Ngài thú nhận: Ngay từ thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm, phá phách và cứng đầu, lười biếng. Có một lần thầy giáo đã phải giận dữ thốt lên rằng: “Chưa bao giờ tao thấy một học sinh nào quá quắt như mày”. Ngày nọ, thay vì đến trường, tôi lại trốn học ra đồng. Cha tôi biết được, ông giận dữ và thay vì đưa tôi về nhà, ông lại dẫn tôi vào một nhà nguyện. Ông xô tôi đến trước bàn thờ Đức Mẹ đang mỉm cười và quát: “Thằng khốn nạn, qùy xuống”. Và rồi ông ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ và nói: “Xin Mẹ nhận lại thằng nhỏ này, vì quả thực con không còn biết phải làm gì với nó nữa. Xin Mẹ lo lắng cho nó để một ngày kia, nó khỏi trở thành một tướng cướp, bị treo cổ trên dây”.
Nhưng lời nói của cha tôi như một làn roi quất mạnh vào tôi. Tôi cảm thấy đau hơn tất cả các trận đòn từng bị đánh trước đây. Và nhìn lên Đức Mẹ đang mỉm cười tôi tự nhủ: “Nếu cha tôi đã phó thác tôi cho Đức Mẹ thì tôi phải minh chứng được Đức Mẹ đã làm điều gì đó tốt đẹp cho tôi’. Với sự trợ giúp của Đức Mẹ, Emile đã thay đổi, đi tu, thụ phong Linh mục, Giám mục và truyền giáo ở vùng thổ dân ngoại giáo ở Canada.
Kể lại câu chuyện này, đức cha không chỉ muốn dạy cho chúng ta cách thức hay nhất để chúng ta có thể dạy dỗ, uốn nắn sửa sai con cái, nhất là những đứa ngỗ nghịch, khó dạy hay bướng bỉnh quậy phá như Emile. Điều mà Chúa muốn xác tín với chúng ta cũng như với tất cả các gia đình Công giáo: “Mẹ Maria rất gần gũi, gắn bó và quan tâm đến những nhu cầu, khó khăn và cay cực của các gia đình”.
KẾT LUẬN
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của cộng đoàn Dân Chúa, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống… và là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta.
P.K.M,CMC (Nguồn: timung.net)
23/05 Thánh Thần ngự xuống
- Viết bởi Ga 20, 19-23
Thánh Thần ngự xuống.
CHÚA NHẬT CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG năm B. Lễ Trọng. Lễ HỌ.
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Lời Chúa: Ga 20, 19-23
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa.
Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".
Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm LỄ HIỆN XUỐNG – Năm B
Lời Chúa: Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23
1. Nói được các thứ tiếng.
(Trích trong ‘Manna’)
Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái.
Nhiều người Do Thái sùng đạo từ nước ngoài về Giêrusalem dự lễ.
Còn Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ, trong đó có Đức Maria,
thì cầu nguyện tại lầu trên một căn nhà trong thành.
Chính trong bầu khí của một cộng đoàn cầu nguyện
mà Thánh Thần, Đấng Cha hứa ban, đến với họ.
Thánh Thần chẳng có một khuôn mặt để ta ngắm nhìn
nhưng ta vẫn nhận ra Ngài nhờ những dấu chỉ khả giác:
một tiếng từ trời như tiếng gió thổi dữ dội,
những lưỡi lửa tản ra và đậu xuống từng người.
Bổng chốc Thánh Thần đầy tràn mọi người hiện diện.
Có cái gì đó được mở tung, để tự do bay bổng.
Có ngọn gió ùa đầy nhà làm căng buồng phổi.
Có ngọn lửa ấm lan tỏa trong trái tim.
Có cái gì thôi thúc người ta mở cửa, đi ra và cất tiếng.
Phải kêu to cho mọi người, chẳng có gì phải sợ,
về những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho Thầy Giêsu.
Trước mặt mười hai ông đánh cá quê mùa ít học,
người từ khắp nơi trên thế giới đổ về.
Họ là những người Do Thái sinh sống ở nước ngoài,
nên họ đã kinh ngạc, sửng sốt, thán phục,
khi họ nghe các ông nói được tiếng của vùng đất họ sống.
Ơn nói được nhiều thứ tiếng là ơn của Thánh Thần,
nhằm giúp cho việc loan báo Tin Mừng nơi mọi dân tộc.
Tin Mừng bằng tiếng mẹ đẻ giúp người nghe cảm thấy gần gũi.
Rồi Tin Mừng ấy lại trở thành gạch nối liên kết mọi người,
thuộc mọi ngôn ngữ, màu da, xã hội, văn hoá khác biệt.
Như thế Thánh Thần làm con người hiểu nhau, gần nhau,
và giúp Hội Thánh trở thành Hội Thánh của mọi dân tộc.
Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành.
Đã có lúc những người nói cùng một thứ tiếng
mà vẫn không hiểu nhau.
Lễ Hiện Xuống là lễ khai sinh một Hội Thánh truyền giáo.
Đức Giêsu đã chào đời tại Châu Á từ 2,000 năm.
Làm sao để người Châu Á hiểu được Tin Mừng:
đó là vấn đề mà tất cả chúng ta hết sức quan tâm.
Hiểu được là bước đầu để đón nhận và tin theo.
"Chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta
mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa" (c.11).
Làm sao chúng ta sử dụng nhuần nhuyễn các ngôn ngữ Á Châu
để trình bày mặc khải của Đức Giêsu Con Thiên Chúa?
Phong tục, văn hoá, tín ngưỡng, luân lý, truyền thống của họ
cũng là những thứ ngôn ngữ mà ta cần trân trọng tìm hiểu.
Xin Thánh Thần giúp ta học được ngôn ngữ Việt Nam hôm nay,
để nói cho người Việt hiểu và hiểu được điều họ nói.
Xin cho Hội Thánh biết khiêm tốn và can đảm
học lại ngôn ngữ của những người mà Chúa sai ta đến.
Kinh Thánh đã được dịch ra 2,197 ngôn ngữ.
Chúng ta còn cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu,
đó là ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhờ sức mạnh Thánh Thần, những ông đánh cá đã mạnh dạn đứng lên loan báo Tin Mừng. Bạn đã nhận Thánh Thần khi được rửa tội và thêm sức; có khi nào bạn dám can đảm nói lên niềm tin của bạn không?
Gia đình, cuộc sống, nghề nghiệp của bạn cũng là những thứ ngôn ngữ. Bạn có thấy mình nói về Chúa qua những ngôn ngữ ấy không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu,
xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống;
để con sống vì tình yêu Thiên Chúa,
để con yêu vì cuộc sống muôn loài.
Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý
và biết ghét những điều đê tiện, xấu xa.
Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu,
và dám chết vì những điều mình ghét.
Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống
để mỗi giây phút sống
con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.
Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu
để từng giây phút yêu, con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.
Cuối cùng, xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một:
để sống là yêu và yêu là sống,
vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống
cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.
2. Hãy nhận lấy Thánh Thần
(Trích trong ‘Manna’)
Lúc đến Êphêsô, Phaolô hỏi một số môn đệ ở đó:
"Khi vào đạo, các ông đã nhận lãnh Thánh Thần chưa?".
Họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần,
chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói tới" (Cv 19,1-2).
Chúng ta đã được nghe nói và đã lãnh nhận Thánh Thần,
nhưng có thể Ngài vẫn là Đấng xa lạ với ta.
Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp,
nhưng nó không làm ta ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần,
Đấng đang ở trong ta và sai ta đi làm chứng.
Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ,
Ngài đã làm một việc quan trọng,
đó là mời họ tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã bắt đầu.
"Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19).
"Hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15).
Trong Tin Mừng hôm nay, Đấng phục sinh nói với các môn đệ:
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21)
Đức Giêsu cho các môn đệ được tham dự vào sứ mạng của mình.
Chỉ có một sứ mạng duy nhất
là sứ mạng Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha.
Sứ mạng của các môn đệ nối dài sứ mạng duy nhất ấy.
Ai sẽ giúp các ông thực hiện sứ mạng này?
Ai sẽ cho các ông sức sống
để dám mở toang cánh cửa
mà lên đường loan báo Tin Mừng phục sinh?
Sức sống ở nơi hơi thở.
Đức Giêsu phục sinh đã trao hơi thở của mình,
hơi thở của sức sống thần linh cho các môn đệ.
Khi được trao ban Thánh Thần,
họ trở thành con người mới, sẵn sàng lên đường.
Thánh Thần chẳng ở xa mỗi người chúng ta.
Ngài có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa,
và muốn sống Lời Chúa trong đời thường.
Ngài có mặt khi ta gọi tên Chúa Giêsu trên môi (1Cr 12,3),
và gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15).
Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới
trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng.
Thánh Thần chẳng ở xa Giáo Hội.
Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất
bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người
để họ phục vụ lợi ích chung.
Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội,
nhưng Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân.
Ngài hiện diện trong các bí tích, trong mỗi thánh lễ.
Ngài thánh hóa bánh rượu để chúng trở nên Mình và Máu Đức Kitô.
Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội;
không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu đáng ngờ.
Nếu chúng ta mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt,
nếu chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân,
nếu chúng ta đừng dập tắt tiếng của Ngài,
thì chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn có thấy Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ bạn trong cuộc sống hàng ngày không? Ngài có hoạt động trong nhóm của bạn không?
2. Trong thế giới hôm nay, thế giới gồm cỏ lùng và luau, bạn có thấy hoạt động âm thầm nhưng hiệu quả của Chúa Thánh Thần không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin Ngài hãy đến như cơn gió mát thổi vào đời con,
thổi vào Giáo Hội, thổi vào thế giới,
để đem lại cho chúng con sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát.
Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong chảy vào đời con,
chảy vào Giáo Hội, chảy vào thế giới,
để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi,
và làm bật dậy những mầm xanh sự sống nơi chúng con.
Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng chiếu sáng đời con,
chiếu sáng Giáo Hội, chiếu sáng thế giới,
để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm,
nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng,
đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu.
3. Thánh Thần đổi mới lòng ta - Huệ Minh
Cao điểm kết thúc cho mùa mừng lễ Vượt Qua là ngày lễ tạ ơn vì Thiên Chúa đã cho mùa màng tốt tươi. Mừng ngày này cũng để kỷ hiệm ngày Chúa công bố lề luật qua Môsê trên đỉnh núi Sinai. Trở về với Cựu Ước, ta thấy Lễ hiện xuống chính là ngày lễ 50 của Cựu Ước.
Hôm nay, cử hành Lễ Hiện Xuống là ta cũng cử hành cao điểm kết thúc cho mầu nhiệm Phục sinh. Hẳn ta còn nhớ ngày Lễ Hiển Linh đối với ngày Giáng Sinh thế nào thì ngày lễ Hiện Xuống cũng vậy đối với lễ Phục Sinh như vậy.
Trở về với Cựu Ước, ta thấy vài hình ảnh thật mù mờ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi Đức Kitô, người Con duy nhất của Thiên Chúa đến và mạc khải, chúng ta mới thấy được cái đặc tính cốt yếu của Thiên Chúa đó là một Thiên Chúa của tình yêu.
Chúa Thánh Thần mà ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính là Ngôi Ba Thiên Chúa cũng là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần là kết quả của tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình yêu của Ngài cho chúng qua chính người con duy nhất của Ngài là Chúa Con. Thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin nơi Con Một Ngài thì sẽ có sự sống vĩnh cửu. Ngay từ thuở đời đời, Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con và sợi dây liên kệ thắm thiết và đầy yêu thương ấy chính là Chúa Thánh Thần.
Qua thật, Chúa Thánh Thần chính là sợi dây yêu thương nối kết Chúa Cha và Chúa Con, chi phối nhịp điệu của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như toả lan cho tất cả chúng ta. Như thế, qua Chúa Thánh Thần chúng ta hiểu được bản chất tình yêu của Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Thánh Thần cũng đã trực tiếp cộng tác vào công trình cứu độ, một công trình của tình thương yêu mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn thuở trước.
Đức Kitô vâng theo thánh ý của Chúa Cha và với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần đã chết đi để đem lại sự sống cho trần gian. Kể từ khi được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, chúng ta đã được Ngài yêu thương như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Nhờ Chúa Thánh Thần mà tình yêu Thiên Chúa được toả lan trong tâm hồn chúng ta. Chính vì lẽ đó, tất cả những tình yêu trong lành nhất của chúng ta đều là một tia sáng, một phản ánh trung thực cho tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta chỉ có thể yêu thương một cách đúng nghĩa khi liên kết với Ngài.
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta lại thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Ngài đã đổi mới lòng trí các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học hay còn nữa là quê mùa.
Ròng rã 3 năm dài ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy rất nhiều điều nhưng rồi các ngài không hiểu. Thế nhưng, có điều lạ là sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí hiểu của các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Thánh Thần là Đấng tiếp tục công trình của Đức Giêsu trong thế giới và Giáo Hội. Ngài luôn luôn thúc đẩy sự đổi mới trong Giáo Hội, để Giáo Hội ảnh hưởng tốt đến thế giới. Nhưng để được làm điều ấy, Thánh Thần luôn luôn phải hoạt động trong mỗi cá nhân. Cá nhân có thay đổi thì Giáo Hội mới thay đổi, cá nhân có nên thánh thì Giáo Hội mới thánh thiện. Tất cả mọi đều bắt đầu từ những cá nhân, và lan truyền từ cá nhân này sang cá nhân khác.
Kế hoạch của Thiên Chúa để xây dựng Nước Trời là chiến lược “men trong bột” (Mt 13, 33), “muối ướp đời” (Mt 5, 13) hay “đèn sáng cho trần gian” (Mt 5, 14).
Men là một chất có hoạt tính, có khả năng biến đổi chất bột tiếp xúc với mình trở nên giống như mình. Mất hoạt tính này, men không còn là men nữa, nó trở thành một thứ bột vô dụng. Muối hay đèn cũng có hoạt tính tương tự. Một hình ảnh khác là lửa, nhưng lửa có tác dụng lan truyền mạnh mẽ và nhanh chóng. Chính vì thế, Thánh Thần khi hiện xuống trên các tông đồ đã lấy hình lưỡi lửa làm biểu trưng cho mình.
Ngài đã đổi mới tâm trí các Tông đồ. Các Tông đồ sống trong sợ hãi từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án. Các ngài đã trốn chạy và có ngài còn chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái. Thế nhưng từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Dẫu rằng mạng sống bị đe doạ nhưng các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Chúa Thánh Thần đã đổi mới con tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động.
Trong ngày lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng kính Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mừng kính tình yêu của Thiên Chúa, được tượng trưng qua hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ. Giáo Hội cũng muốn chúng ta thành khẩn kêu xin: Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy ngập tràn tâm hồn các tín hữu Chúa và xin thắp lên trong chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa. Ngài không phải là một vị Thiên Chúa vô danh và bị quên lãng. Trái lại Ngài luôn ở giữa chúng ta và hoạt động.
Hàng năm, Giáo Hội cử hành Lễ Hiện xuống không phải là để nhớ một ký ức, nhớ một kỷ niệm trống rỗng nhưng để nhắc nhớ ta rằng đây là một ngày lễ đổi mới chúng ta trong quyền năng và hoạt động của Thánh Thần. Và rồi, lòng ta có mở ra để đón nhận Ngài hay không? Những gì Chúa Thánh Thần đã làm nơi các tông đồ xưa kia, bây giờ Ngài cũng thực hiện nơi chúng ta.
Chúa Thánh Thần đem lại đức tin và tình yêu. Chính đức tin và tình yêu sẽ tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn mới.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Ngài bằng cách thắp lên một ngọn lửa yêu thương, bởi vì chỉ có tình yêu mới có thể làm tiêu tan thù hận, thất vọng và tăm tối.
4. Chúa Thánh Thần - Tôn sư nội tâm
(Suy niệm của Dã Quỳ)
Trong chương trình tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, Chúa Cha đã yêu thương đến nỗi ban chính Con Một là Chúa Giêsu đến ở cùng và cứu độ chúng ta. Sứ vụ của Chúa Giêsu kết thúc nhưng Người yêu thương các môn đệ và Giáo hội đến cùng. Thế nên Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần được sai đến để tiếp nối sứ vụ huấn luyện các môn đệ. Người sẽ dạy dỗ, hướng dẫn, làm cho các môn đệ và tất cả chúng ta nhớ, hiểu, làm những gì Chúa Giêsu đã nói.
Sau biến cố Tử Nạn của Chúa Giêsu, các môn đệ quá sợ hãi! Sợ nên mới đóng kín cửa. Cái sợ tột cùng nhất là sợ mất mạng sống. Biết rõ tâm trạng của môn đệ, sau khi sống lại Chúa đã đến với họ. Chúa không chỉ trấn an mà còn ban cho họ chính bình an của Chúa. Tâm hồn có bình an thì sợ hãi sẽ rời xa. Khi các môn đệ đã tin, nhận ra Chúa thực sự sống lại và được bình an; Chúa tiếp tục trao ban Thánh Thần của Chúa cho môn sinh và sai các ông ra đi tiếp nối sứ mạng của Người nơi trần gian.
Chính Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần đến với các môn đệ "nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em." (Ga 16,7c) Thánh Gioan mô tả Chúa thổi hơi vào các môn đệ và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20, 22) Vậy từ nay, Chúa Thánh Thần có một sứ vụ đặc biệt trong Giáo Hội, trong mỗi tâm hồn người môn đệ và Kitô hữu.
+ Chúa Thánh Thần là Đấng gợi hứng và hành động. Người hướng dẫn chúng ta cách rõ ràng, mạc khải cho chúng ta biết ý muốn của Thiên Chúa và tất cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa, vì Người là Thần Trí của Thiên Chúa và phát xuất từ Chúa Cha (x. Ga 15,26)
Chính vì thế, khi nói về Thiên Chúa hay Lời của Người, chúng ta không dùng lời lẽ từ trí khôn của mình nhưng là lời do Thánh Thần Chúa soi sáng linh hứng và là những gì ta đã học được từ Chúa.( x. 1Cr 2, 10-16) Thế nên, Thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu hãy nhớ "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao?"( 1Cr 3,16-17). Một khi xác tín chúng ta là Đền Thờ và Chúa Thánh Thần luôn ngự trị, là tôn sư hướng dẫn, chúng ta sẽ tín thác vào Chúa và lắng nghe Người chỉ dạy.
Ma quỉ làm chúng ta bối rối, lo lắng và đưa ta đến thất vọng. Còn Chúa Thánh Thần, Người sẽ hướng dẫn ta cách thực hiện thánh ý Thiên Chúa, biết hy sinh. Người khiển trách ta cách nghiêm nghị nhưng luôn nâng đỡ ta trong dịu êm như người cha, như thầy thuốc. Những tư tưởng tốt lành trong ta đều đến từ Chúa Thánh Thần. Người gợi hứng, chỉ dạy chúng ta mọi điều như lời Chúa Giêsu dặn "Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều."( Ga 14,26)
Khi ta biết bàn hỏi với Chúa Thánh Thần trong những công việc, những quyết định, ta sẽ nhận được ơn bình an và tinh thần sáng suốt. Chính vì thế, Thánh Phaolô đã dặn dò mỗi Kitô hữu chúng ta hãy sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và khi ấy ta sẽ được tràn đầy hoa trái của Người là: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ." (Gl 5,22) Vậy ta hãy năng trò chuyện với Chúa Thánh Thần và lắng nghe Người.
+ Chúa Thánh Thần là Đấng dạy chúng ta yêu và cầu nguyện. Chúa Thánh Thần luôn ở giữa chúng ta và ở trong chúng ta. (x. Ga 14,17) Người dạy chúng ta biết yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau và chúng ta yêu bằng tình yêu của chính Người ở trong tim ta. Người biến đổi con tim của chúng ta. Mọi sự thánh thiện, mọi nhân đức và mọi hành động tốt lành của ta đều do Người hình thành và hoàn thiện vì Người là Thánh Thần thánh hóa.
Người còn dạy chúng ta biết cầu nguyện, tôn vinh chúc tung Thiên Chúa thế nào cho phải vì lời lẽ của ta không xứng hợp và chính Người cầu thay nguyện giúp cho ta. (x. Rm 8,26-27) Hơn thế nữa, người biển đổi chúng ta thành con của Thiên Chúa, chứng thực chúng ta có quyền gọi Thiên Chúa là Cha và được quyền đồng thừa kế với Chúa Kitô. (x. Rm 8,15-17)
+ Chúa Thánh Thần là Đấng đào luyện. Người huấn luyện, làm cho chúng ta trở nên những Kitô hữu và là chứng nhân của Chúa Kitô "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20, 21-22) Khi có Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên con người mới và tràn đầy ân sủng.
Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi các môn đệ từ những con người nhút nhát nay dám mở toang cửa ra, vững tin và can đảm hăng say ra đi loan báo Tin Mừng. Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong Giáo Hội, là Đấng không ngừng hướng dẫn đoàn dân Chúa. Người luôn hiện diện và soi dẫn trong từng lời môn đệ rao giảng "Chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần." (Cv 5,32) hay trong những quyết định "Thánh Thần và chúng tôi quyết định."(Cv 15,28) Hơn nữa, Người là Đấng luôn kiện toàn và hiệp nhất Giáo Hội, hiệp nhất chúng ta.
Hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn luôn đào luyện mỗi chúng ta trở nên Kitô hữu thực sự và là sứ giả Tin Mừng giữa lòng đời. Người giúp chúng ta biết nhìn thực tại thế giới này trong ánh sáng của Chúa và Người dạy ta biết phân định, nhận ra những dấu chỉ thời đại. Chúa Thánh Thần cũng không ngừng canh tân chúng ta và ban sức mạnh giúp ta vượt thắng được những khó khăn trong cuộc sống ơn gọi Kitô hữu. Nhưng quan trọng chúng ta cần kết hợp với Người và cộng tác với Người, cách cụ thể là cầu nguyện và thân thưa với Người. Hãy đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và chúng ta sẽ biết phải làm gì, sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần được gọi là ngày khai sinh Giáo Hội. Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến trong mỗi người chúng ta, trong Giáo Hội và trên toàn Thế giới, như một ngọn gió mới tái tạo trái đất và Giáo Hội Chúa. Để rồi nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta biết sống hiệp nhất, yêu thương và trở nên một thân thể duy nhất trong Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ bến nên đã gởi Chúa Thánh Thần đến. Xin Chúa Thánh Thần luôn là Tôn Sư ở trong chúng con, dạy dỗ và biến đổi chúng con mỗi ngày thành Kitô hữu đích thực và thành chứng nhân của Chúa Kitô. Amen.
5. Chúa Thánh Thần.
Có một phóng viên đã đặt câu hỏi với một chuyên viên Kinh Thánh như sau: Nếu nhờ khoa học tiến bộ, người ta sáng chế ra đươc một máy quay phim ngược thời gian. Máy này có thể thu lại tất cả hình ảnh và lời giảng dạy của Chúa Giêsu cách đây hơn 2000 năm. Vậy bộ phim ấy có khả năng thay thế được bốn sách Tin Mừng hay không? Nhà chuyên viên trả lời: Không thể được, bởi vì đức tin không phải do mắt thấy tai nghe, nhưng là do ơn Chúa Thánh Thần tác động.
Thực vậy bọn biệt phái ngày xưa đã từng nhìn thấy Chúa, nghe lời Chúa giảng, chứng kiến những việc Chúa làm thế mà họ không những không tin mà còn thù ghét và cuối cùng đã đóng đinh Chúa vào thập giá. Còn các tông đồ mặc dù đã theo Chúa, nhưng cũng chỉ thực sự có đức tin và dám sống chết cho Ngài sau biến cố tử nạn và phục sinh nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động trong ngày lễ Ngũ Tuần. Vậy Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông đồ, Giáo Hội và người tín hữu như thế nào?
Trước hết Chúa Thánh Thần đổi mới các tông đồ. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và phán: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu nhắc lại công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa được diễn tả bằng hình ảnh: sau khi nắn đất sét thành người, Ngài đã thở hơi ban sự sống để nó trở thành người sống. Qua việc thở hơi trên các tông đồ, Chúa Giêsu muốn làm một cuộc sáng tạo mới. Ngài ban Chúa Thánh Thần để biến đổi các ông nên những con người mới, có đủ khả năng chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Sách Tông đồ công vụ cho hay trong ngày lễ Ngũ Tuần, người ta thấy một cơn gió lốc ùa vào nhà các tông đồ đang ở và có cái gì giống hình lươi của lửa xuất hiện trên đầu mọi người và lập tức các ông được đổi mới. Trước kia các ông u mê dốt nát thì nay các ông được thống suốt giáo lý của Chúa. Trước kia các ông nhát đảm sợ hãi thì nay các ông được can đam, sẵn sàng rao giảng Tin Mừng, tuyên xưng đức tin và chấp nhận chịu khổ cực và chịu chết vì danh Đức Kitô.
Tiếp đến Chúa Thánh Thần đổi mới Giáo Hội. Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và không ngừng tác động đe canh tân Giáo Hội tuỳ theo nhu cầu thời đại, chẳng hạn như Augustinô, Đôminicô, Phanxicô, Ignatio, Têrêsa... nhờ các ngài Giáo Hội vượt qua được những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất. Và gần đây hơn, Công đồng Vatican II cũng được coi là một lễ Hiện Xuống mới vì Công đồng này mà Giáo Hội có dịp nhìn lại mình để lau sạch những tì vết và bụi bặm do lịch sử để lại, đồng thời đổi mới Giáo Hội về nhiều phương diện để nhờ đó đi sát với Tin Mừng mà vẫn thích nghi với một thế giới không ngừng biến động và tiến bộ hơn.
Sau cùng Chúa Thánh Thần đổi mới mỗi người chúng ta. Thực vậy ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục tác động nơi các tín hữu, tuy âm thầm, nhưng không kém phần hậu quả. Vậy chúng ta phải làm gì?
Việc thứ nhất là hãy tạo cho mình một bầu khí thinh lặng nội tâm, tránh đi những lo toan thái quá về vật chất đời thường như cơm áo gạo tiền. Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa trước còn những sự khác, Ngài sẽ ban cho chúng ta sau. Việc thứ hai là phải chăm chỉ lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và tham dự nghi thức bẻ bánh, như hai môn đệ làng Emmaus ngày xưa. Việc thứ ba là phải đồng tâm nhất trí, chuyên tâm cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ trong đó có Đức Mẹ Chúa Giêsu và với những anh em của Ngài. Nhờ đó, mà cuộc đời và bản thân chúng ta mỗi ngày một đổi mới.
6. Ơn đổi mới
Qua Kinh Thánh chúng ta được biết sau khi Chúa Giêsu lên trời các môn đệ thường họp nhau cầu nguyện. Nơi họp là một nhà tư và khi họp thì cửa đóng kín. Thế nhưng khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông đã ra khỏi nhà và bắt đầu rao giảng cho mọi người về Đức Kitô. Từ đó chúng ta nhận thấy dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một sự đổi mới đã xảy ra trong tâm hồn các môn đệ. Sự đổi mới này chính là tinh thần cởi mở với hai đường hướng rõ rệt.
Trước hết, nhờ ơn Chúa Thánh Thần đổi mới, tâm hồn các ông đã mở ra hướng về Đức Kitô như trung tâm điểm của đời sống đức tin. Các ông nhận ra Đức Kitô là nguồn ơn cứu độ, là đường, là sự thật và là sự sống. Các ông xác tín về mọi lời Ngài dạy. Lời Ngài là Tin Mừng. Và loan báo Tin Mừng là bổn phận của người tin theo Đức Kitô. Các ông không rao giảng một giáo lý nào khác, ngoài giáo lý của Đức Kitô. Các ông không đưa ra hình ảnh nào khác về Thiên Chúa ngoài hình ảnh Đức Kitô, là hình ảnh trung thực nhất của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Cùng với sự đổi mới này, các ông tỏ ra lạc quan và lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa. Thực vậy, trước khi các ông đang lo âu sợ hãi, thì giờ đây các ông sống trong hoan lạc và giờ cầu nguyện chính là giờ các ông ngợi khen Thiên Chúa. Các ông giống như người đã tìm thấy một kho tàng quý giá. Đúng thế, một khi đã thấy được vẻ đẹp tuyệt vời của niềm tin vào Đức Kitô, các ông chỉ còn ca tụng, và cảm tạ Chúa. Niềm tin là một khám phá lạ lùng. Cả những trường hợp các ông bị bắt bớ khổ nhục vì Đức Kitô các ông vẫn có những phản ứng chan chứa bình an. Các ông vui mừng khi bị oan ức vì Đức Kitô. Các ông coi những dịp xảy ra như thế là một hạnh phúc phải han hoan đón nhận với tất cả tâm tình cảm tạ. Nguồn hoan lạc của các ông là Đức Kitô. Chính nhờ Ngài với Ngài và trong Ngài mà các ông dấn thân.
Tiếp đến các môn đệ nhờ ơn Chúa Thánh Thần đổi mới, đã mở ra hướng về tình bác ái yêu thương. Sách Tông đồ Công vụ kể lại: Sau khi Giáo Hội của Đức Kitô được thành lập với nhóm nhỏ các tông đồ. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, tình thương đã trở thành dấu chỉ thực sự của những người thuộc về Giao Hội. Họ để mọi của cải làm của chung. Họ nâng đỡ nhau một cách chân thành và quảng đại. Đối với họ Giáo Hội là hiệp thông một cách sống động. Họ nhìn những người ngoài Giáo Hội với cái nhìn kính trọng, đầy khiêm tốn. Giáo Hội nói chung và từng tín hữu nói riêng đã tỏ ra mình là khí cụ bình an của Chúa. Họ sống như một dấu chỉ của sự hoà giải. Giáo Hội lúc đó không bao giờ cho mình là một thế lực, và tổ chức của Giáo Hội cũng nhẹ nhàng, đơn giản hơn nhằm mục đích phục vụ với tinh thần bác ái.
Hai định hướng trên đây có thể gợi ý cho chúng ta trong thời điểm hiện nay là thời điểm của cởi mở. Đây là cơ hội có nhiều tiềm năng. Nếu được vận dung hướng về cái tốt thực sự, thì sự cởi mở sẽ giúp cho đạo đức đi lên. Còn nếu để mặc cho tự do trôi dạt, hoặc hướng về những điều xấu, thì cởi mở sẽ là như một cái đà cho phong trào phá hoại đạo đức.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
7. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Thiên Chúa có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần. Trong thực tế, chúng ta thường hay nói về Chúa Con, ít nói tới Chúa Cha, và rất hiếm khi nói về Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là dịp thuận tiện để chúng ta nói về Chúa Thánh Thần: Ngài là ai? Hoạt động của Ngài như thế nào? Bổn phận của mỗi người Kitô hữu chúng ta đối với Ngài?
1. Chúa Thánh Thần là ai?
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Ngài là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như Chúa Cha và Chúa Con. Ngài còn được gọi là “Đấng ban Sự Sống” (Ga 6, 63), “Đấng Bảo Trợ” (Ga 15,26 ) và “Thần Chân Lý” (Ga 16,13).
Kinh Thánh thường dùng những hình ảnh sau đây để chỉ về Chúa Thánh Thần: Nước, Lửa, Xức dầu, Áng mây và Ánh sáng, Dấu ấn, Bàn tay, Ngón tay và Chim bồ câu.
Mỗi hình ảnh đều mang một ý nghĩa biểu tượng: Nước: Tượng trưng cho sự tái sinh; Lửa: Tượng trưng cho năng lực biến đổi của các hành vi Chúa Thánh Thần; Xức dầu: Đồng nghĩa với danh xưng Chúa Thánh Thần; Áng mây và Ánh sáng: Vừa mạc khải Thiên Chúa vừa che khuất vinh quang siêu việt của Người; Dấu ấn: Đóng ấn ơn Chúa Thánh Thần vào người lãnh nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức và Truyền chức thánh; Bàn tay: Tượng trưng cho sự chữa lành; Ngón tay: Tượng trưng cho quyền năng tác động; Chim bồ câu: Tượng trưng cho bình an, hoà bình.
2. Hoạt động của Chúa Thánh Thần
Thời Cựu Ước, Chúa Thánh Thần hiện diện trong mọi hoạt động quan trọng như: Khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, khi Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ, trong các cuộc thần hiện và trong niềm mong đợi Đấng Cứu Thế.
Sang Tân Ước, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn đời sống và hoạt động của Chúa Kitô từ khi nhập thể cho đến phục sinh: Đức Trinh Nữ Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1, 35); Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan(x. Lc 3,22); Chúa Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Lc 4,1; Mt 4,1; Mc 1,12); Quyền năng của Chúa Thánh Thần đã toả ra trong các hành vi của Chúa Giêsu để chữa lành các bệnh tật và ban ơn cứu độ (x. Lc 6,19; 8,46); Chúa Thánh Thần cũng làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết (x. Rm 1,4).
Chúa Thánh Thần hoạt động cách mạnh mẽ nơi các môn đệ trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. Ga 20, 22-23). Ngày lễ Ngũ Tuần cũng là ngày khai sinh của Giáo Hội. Chính trong ngày này, các môn đệ được biến đổi, nói được các thứ tiếng lạ, can đảm loan báo Tin mừng và sẵn sàng làm chứng cho Chúa Kitô. Trong việc xây dựng Hội Thánh và loan báo Tin Mừng, các Tông Đồ đều khẳng đinh rằng: "Thánh Thần và chúng tôi làm chứng" (Cv 5, 32).
Chúa Thánh Thần không những khai sinh nên Giáo Hội mà còn xây dựng và làm cho Giáo Hội được hình thành. Ngài cư ngụ trong Giáo Hội và trang bị cho Giáo Hội bằng Lời Chúa. Nhờ đó, Giáo Hội tin Lời Chúa, thực hành Lời Chúa và dùng Lời Chúa để giáo huấn. Thánh Thần còn trang bị cho Giáo hội bằng các Đặc Sủng, Ngài ban ơn cho các chi thể tuỳ theo ý muốn của Ngài. Thánh Syrilô nói: “Thánh Thần dùng miệng người này để giảng sự khôn ngoan, lấy lời ngôn sứ mà soi trí lòng người kia, ban cho kẻ này quyền xua trừ ma quỷ, cho kẻ kia ơn giải thích Thánh Kinh, thêm sức cho kẻ này sống tiết độ, dạy cho kẻ kia biết thương người, cho người này biết ăn chay và tập sống đời khổ hạnh, cho người kia biết khinh chê những thú vui thể xác, cho kẻ khác nữa ơn chuẩn bị tử đạo. Khác nơi những kẻ khác, còn Người không bao giờ khác với chính mình như có lời chép: Thánh Thần tỏ mình ra cho mỗi người một cách, là vì ích chung”.
Nơi các Kitô hữu, Chúa Thánh Thần là Thần khí Tái Sinh, Thánh Hoá và làm cho họ được Vinh Hiển.
Chúa Thánh Thần là Thần khí Tái Sinh: Vì Ađam, con người trở thành nô lệ tội lỗi, trở nên kẻ thù của Thiên Chúa, bất tuân Thiên Chúa dẫn đến sự hư mất đời đời. Tự con người không thể thay đổi được tình trạng đó. Thánh Thần Thiên Chúa đã can thiệp để thay đổi con người. Trước hết, bằng việc tái sinh qua Bí tích Rửa tội (x. Ga 3, 5-6). Sau đó, bằng việc tái sinh qua bí tích Giao Hoà. Nghĩa là, Chúa Thánh Thần soi sáng để người kitô hữu nhận ra mình là kẻ có tội, cần được thanh tẩy để hưởng ơn cứu độ. Chúa Thánh Thần còn giúp các kitô hữu biết hoán cải để lãnh nhận Bí tích Giao Hoà.
Chúa Thánh Thần là Thần Khí Thánh Hoá: Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chiến thắng con người cũ, giết chết việc làm của xác thịt (Rm 8,13) để chúng ta xứng đáng là đền thờ của Ngài. Thánh Phaolô kê khai các việc của xác thịt như: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (x. Gl 5, 19-21). Chúng ta không thể chiến thắng được, nếu không nhờ Thần Khí. Khi chúng ta nhờ Thần Khí mà chiến thắng các việc của xác thịt trên, thì chúng ta sẽ thu lượm được những hoa quả dồi dào của Thần Khí, đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (x. Gl 5,11-23). Chúa Thánh Thần còn cho chúng ta biết sự thật, dạy chúng ta biết cầu nguyện, thúc đẩy chúng ta sống mến Chúa yêu người và làm chứng cho Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Kitô được phục sinh vinh hiển, thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại vinh quang. Con người và thân xác của chúng ta không còn nô lệ sự hư nát, nhưng sẽ sáng láng vinh hiển, thông phần sự sống bất diệt của Thiên Chúa Ba Ngôi (1Cr 15,42-45).
3. Bổn phận của chúng ta đối với Chúa Thánh Thần
Người Kitô hữu chúng ta cần xa tránh các tội phạm đến Chúa Thánh Thần, có bốn tội phạm đến Chúa Thánh Thần:
Thứ nhất, lộng ngôn chống lại Thánh Thần (Mt 12, 31-32). Đó là tội “Cứng tin”, không chấp nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần trong công trình cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Thứ hai, dập tắt Thần Khí (1Tx 5,19-22) thường được giải thích theo nghĩa “không biết tôn trọng các đặc sủng” mà Thánh Thần ban cho để xây dựng Hội Thánh.
Thứ ba, đối đầu với Thần Khí. Đó là chiều theo xác thịt, để các khuynh hướng xấu đưa tới hành vi xấu, nghĩa là phạm tội thực sự. Mỗi lần để cho xác thịt làm động lực chi phối hay làm chủ cuộc sống là một lần đối đầu với Thánh Thần.
Thứ tư, làm phiền lòng Thánh Thần. Khi mọi hành vi và các cư xử không phù hợp với cương vị của người Kitô hữu đều làm mất lòng Thiên Chúa làm phiền lòng Thánh Thần (Ep 4,30).
Tóm lại, Thánh Thần là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban cho những kẻ tin vào Đức Kitô. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đặc biệt là khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức. Vì vậy, chúng ta không những cần phải xa tránh các tội phạm đến Chúa Thánh Thần, mà còn cần phải tin kính, thờ phượng, năng cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng để chúng ta biết sống theo lương tâm ngay thẳng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người (x. 1Cr 6,19).
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, xin tiếp tục đồng hành với chúng con trong bổn phận xây dựng Giáo Hội và loan báo Tin Mừng. Xin giúp chúng con biết xa tránh tội lỗi tôn trọng thân xác là đền thờ của Người. Amen.
---------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Khái Quát về Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh, ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc
2. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 683-747
8. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Có thể nói, đa số các Tông đồ bắt đầu đi theo Đức Giêsu đều nhằm mục đích trần thế: Mong muốn Đức Giêsu làm vua thế gian để được làm ông nọ bà kia trong nước của Ngài. Bằng chứng là việc bà mẹ của Gioan và Giacôbê đã có lần xin cho hai con được ngồi một đứa bên hữu một đứa bên tả trong nước của Ngài (x. Mt 20, 20-21). Còn các Tông đồ khác thì lại tranh dành xem ai lớn ai bé? (x. Mc 9,34).
Trong suốt ba năm theo Đức Giêsu, các Tông đồ chưa hiểu thấu những giáo huấn và những phép lạ Ngài làm. Chẳng hạn, khi Đức Giêsu nói với những người Do thái hãy phá hủy đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xâu dựng lại (x. Ga 2,19). Những người Do thái và chính các Tông đồ không hiểu điều Đức Giêsu nói. Thánh Gioan cho biết: “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói”(Ga 2,21-22). Khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của mình, các môn đệ chẳng hiểu điều Ngài muốn nói và họ sợ hãi không dám hỏi Ngài (x. Mc 9,31-32).
Chính vì không hiểu hết về giáo huấn của Đức Giêsu nên các môn đệ khó chấp nhận, đặc biệt là những giáo huấn đó đòi hỏi sự hy sinh, từ bỏ. Cụ thể, Thánh Phêrô đã bị Đức Giêsu mắng cho một trận “đồ Sa-tan,” vì ông dám ngăn cản Ngài bước vào cuộc khổ nạn (x. Mc 8,32-33). Cũng vì không hiểu được ý nghĩa của cuộc khổ nạn Thầy mình phải chịu nên Phê-rô đã chối Thầy ba lần trước một tớ gái (x. Mt 26,69-75). Các Tông đồ còn lại thì bỏ trốn hết. Vì chưa hiểu hết giáo huấn của Đức Giêsu nên khi Đức Giêsu chịu chết, các ông đã vào phòng đóng kín cửa lại vì sợ người Do Thái, sợ mình cũng chung với số phận của Thầy.
Tại sao các Tông đồ lại mê muội, không thấu hiểu hết giáo huấn và phép lạ Đức Giêsu? Vì các ông chưa được ban Chúa Thánh Thần. Chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16, 12-14). Ngài còn cho biết thêm: “Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và sẽ nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).
Nhưng khi được ban Chúa Thánh Thần, các Tông đồ được biến đổi, trở thành những con người mới, những con người của Tin mừng. Thật vậy, sau khi sống lại, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và ban Thánh Thần cho các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha, các con cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Đặc biệt, hôm nay trong ngày lễ Ngũ Tuần, khi mà các môn đệ đang tề tựu một nơi, có cả những người Do thái từ khắp nơi tụ về, một hiện tượng kỳ lạ đã xảy đến như chúng ta vừa nghe sách Công Vụ Tông đồ kể lại: “Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói” (Cv 2,2-4). Đây là một đặc sủng ngôn ngữ: Chúa Thánh Thần tác động trực tiếp trên các Tông đồ để các ông nói được các ngôn ngữ. Bởi vì, chính các thính giả hôm đó làm chứng rằng họ hiểu những gì các Tông đồ nói: “Chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Chúa” (Cv 2,11).
Từ khi được ban Chúa Thánh Thần, các Tông đồ hiểu thấu đáo về giáo huấn và phép lạ của Đức Giêsu, nên họ có một cái nhìn khác về Đức Giêsu và về sứ mạng của Ngài. Vì thế, các Tông đồ can đảm thực hành những gì mà Đức Giêsu đã trao phó. Thánh Phê-rô công khai rao giảng Tin mừng Đức Giêsu đã chết và phục sinh. Bài giảng đầu tiên của Ngài đã có khoảng 3000 người xin lãnh nhận Bí tích Rửa Tội (Cv 2,41). Sau đó, các ngài phân chia nhau đi khắp mọi nơi rao giảng Tin mừng và làm chứng về Đức Giêsu. Đi liền với lời rao giảng và làm chứng đó là sự bắt bớ, tù đày. Dẫu bị cấm cách, bắt bớ, tù đày, nhưng các Ngài không sợ hãi. Trái lại, lòng họ còn cảm thấy hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su (x. Cv 5, 41). Cuối cùng, các Tông đồ đã can đảm chấp nhận cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng.
Nhờ đâu, các Tông đồ làm được như vậy? Đó là nhờ sự tác động của Chúa Thánh Thần. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”(Ga 16,13). Chúa Thánh Thần “sẽ tố cáo thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt. Về tội lỗi vì họ đã không tin vào Thầy. Về sự công chính, vì Thầy về cùng Cha, và các con sẽ không còn thấy Thầy. Về án phạt, vì thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử”(Ga 16,8-11). Chúa Thánh Thần còn nói thay cho các Tông đồ, nhất là những khi bị bắt bớ tù đày: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em” (Mt 10,19-20).
Tóm lại, Chúa Thánh Thần đã làm thay đổi đời sống nơi các Tông đồ. Chúa Thánh Thần giúp các Tông đồ hiểu thấu những giáo huấn và phép lạ của Đức Giêsu đã làm. Chúa Thánh Thần tiếp tục thực hiện vai trò đó nơi Giáo hội cho đến tận thế.
Mỗi người chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu Phép rửa tội. Đặc biệt, chúng ta được lãnh nhận một cách sung mãn với bảy ơn cả Chúa Thánh Thần trong ngày chịu Phép Thêm Sức. Chắc chắn Chúa Thánh Thần đã, đang và sẽ giúp chúng ta như xưa Ngài đã giúp các Tông đồ. Vì vậy, chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần, nghe theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong mọi suy nghĩ, lời nói và việc làm để Ngài cũng biến đổi chúng ta trở thành những người của Tin mừng giống như khi xưa Ngài đã biến đổi các Tông đồ.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và canh tân đời sống chúng con. Amen.
9. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Bài Tin mừng hôm nay Thánh Gioan tường thuật lại sự kiện Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các Tông đồ đang khi họ ngồi trong phòng và đóng kín cửa lại. Đức Giêsu lần lượt thực hiện những việc sau đây:
Thứ nhất, Đức Giêsu ban bình an cho các Tông đồ. Đây là một ơn đặc biệt và rất có ích cho các Tông đồ trong lúc này, bởi vì từ khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, các Tông đồ bắt đầu cảm thấy lo lắng và sợ hãi. Nhất là sau khi Đức Giêsu chết và được mai táng trong mồ thì các Tông đồ lại càng lo lắng và sợ hãi hơn. Bằng chứng: hầu hết các ông bỏ trốn, Phêrô thì chối Thầy ba lần, các ông vào phòng đóng kín cửa lại. Đức Giêsu hiểu thấu điều đó, nên khi hiện ra, hành động đầu tiên của Ngài là ban bình an cho các ông. Ngài nói: “Bình an cho các con”.
Thứ hai, Đức Giêsu cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Đây cũng là một sự trấn an cho các Tông đồ. Vì Tin mừng kể lại có lần Đức Giêsu phục sinh hiện ra thì các ông tưởng là ma. Thậm chí, khi nghe các Tông đồ khác kể lại việc Đức Kitô phục sinh hiện ra, thì ông Tôma đã không tin, ông còn đòi xem tay và cạnh sườn Ngài. Vì thế, giờ đây Đức Giêsu cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn của mình, Ngài muốn khẳng định chắc chắn với các ông rằng “chính Thầy đây.” Thầy đã sống lại thật rồi. Các ông hãy tin tưởng để làm chứng cho Thầy.
Thứ ba, Đức Giêsu sai các ông đi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.” Như vậy, sau khi ban bình an và cho các ông xem tay và cạnh sườn của mình, Đức Giêsu sai các ông đi thi hành nhiệm vụ. Nhiệm vụ mà Đức Giêsu muốn sai các Tông đồ thi hành cũng là nhiệm vụ của chính Ngài. Đó là nhiệm vụ loan báo Tin mừng. Ngài mời gọi các ông ra khỏi căn nhà đóng kín để đến với muôn dân. Các Tông đồ đã vâng lời Đức Giêsu ra đi thi hành nhiệm vụ. Bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô có khoảng 3 ngàn người trở lại. Sau đó, các ông phân chia nhau đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi. Cuối cùng các ông đã dùng cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng.
Thứ tư, Đức Giêsu thổi hơn và ban Chúa Thánh Thần. Trong ba năm sống với các Tông đồ, Đức Giêsu đã nhiều lần hứa ban Thánh Thần cho các ông. Giờ đây Ngài bắt đầu thực hiện lời hứa đó. Thực ra, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ ngay sau khi Ngài sống lại, nhưng ngày lễ Ngũ Tuần hôm nay Ngài ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ một cách sung mãn và đầy đủ hơn. Nhờ được ban Chúa Thánh Thần nên các Tông đồ thêm sức mạnh để can đảm ra đi rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Thầy khắp mọi nơi. Sự can đảm đó được thể hiện nơi lời nói cảu Thánh Phêrô và các Tông đồ rằng: “thà vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.” Sự can đảm đó cũng được thể hiện nơi cái chết Tử Đạo của các Ngài.
Thứ năm, Đức Giêsu ban cho các Tông đồ quyền tháo cởi và cầm buộc. Chính Ngài đã nhiều lần gặp gỡ và tha thứ tội lỗi cho nhiều người. Ngài tha thứ tội lỗi cho ông Giakêu. Ngài tha thứ tội lỗi cho ông Mathêu. Ngài tha thứ tội lỗi cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Ngài tha thứ tội lỗi cho người bất toại. Ngài tha thứ tội lỗi cho bà Maria Mađalêna. Ngài tha thứ tội lỗi cho kẻ trộm lành. Ngài tha thứ tội lỗi cho những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá. Ngài còn dạy Thánh Phêrô phải tha thứ không phải 7 lần mà là 70 lần 7. Sau khi sống lại, Ngài tha thứ tội lỗi cho Phêrô và các Tông đồ. Hôm nay, Ngài còn ban cho các Tông đồ quyền tha thứ tội lỗi. Quyền đó cũng được trao cho Giáo hội mãi cho đến tận thế.
Như vậy, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay là ngày lễ Tình thương. Vì yêu thương nên Đức Giêsu mới ban bình an cho các Tông đồ. Vì yêu thương nên Ngài mới cho các Tông đồ xem tay và cạnh sườn Ngài. Vì yêu thương và tin tưởng nên Ngài mới trao cho các ông tiếp tục sứ mạng của Ngài. Vì yêu thương nên Ngài mới ban Thánh Thần cho các ông. Vì yêu thương nên Ngài mới trao cho các ông quyền tháo cởi và cầm buộc.
Mỗi người chúng ta và các kitô hữu qua mọi thời đại cũng được thông phần vào những ơn mà Đức Kitô phục sinh ban cho các Tông đồ khi xưa. Đặc biệt, chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta nhận Chúa Thánh Thần một cách sung mãn và đầy đủ khi lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Mỗi lần chúng ta phạm tội nhưng với lòng sám hối ăn năn và đi xưng tội thì chúng ta được Giáo hội tháo cởi. Vì thế, chúng ta hãy cảm tạ Chúa. Đồng thời, chúng ta hãy góp phần mình làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh như các Tông đồ đã làm. Để làm được điều đó, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thấn ban ơn để chúng ta biết sống hiệp thông liên kết với nhau trong Chúa Thánh Thần giống như những người tham dự ngày lễ Ngũ tuần khi xưa. Bài đọc I, cho chúng ta thấy, hôm ngày lễ Ngũ Tuần có rất nhiều người, ở khắp mọi nơi, thuộc các dân tộc khác nhau trở về Giêrusalem vì nhân dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Tất cả trong số họ đều nghe rõ và hiểu những lời các Tông đồ rao giảng. Đó là một điều lạ lùng vô tiền khoáng hậu, nên chính những người tham dự hôm đó nêu lên thắc mắc rằng: “Tại sao mỗi người chúng tôi lại nghe họ nói tiếng bản xứ của chúng tôi: Chúng tôi là người Parthi, Mêđi, Êlam, Mésopotamia, Giuđêa, Pontô, Tiểu á, Phrygia, Pamphilia, Ai cập, Lybia, cận Cyrênê, và người Rôma cư ngụ tại đây , là Do thái và tòng giáo, là người Crêta và Ảrập, chúng tôi đều nghe họ nói tiếng của chúng tôi mà ca tụng những kỳ công của Thiên Chúa”(Cv 2, 8-11). Như vậy, chính Chúa Thánh Thần là nguyên lý làm nên sự hiệp nhất giữa các dân tộc và mọi người với nhau. Bởi vì, chính Chúa Thánh Thần là nguyên nhân giúp họ nghe và hiểu những lời các Tông đồ rao giảng.
Sự hiệp nhất đó cũng được Thánh Phaolô mời gọi chúng ta qua nội dung bài đọc II hôm nay, Ngài nói: “Cũng như chỉ có một thân thể, nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần” (1 Cr 12,12-13). Ngài nói tiếp: “Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa, có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng hoàn thành mọi sự trong mọi người”(1Cr 12,3).
Tóm lại, Chúa Giêsu đã ban nhiều ơn cho các Tông đồ, đặc biệt là Ngài ban Chúa Thánh Thần cho họ. Xin Ngài cũng ban Chúa Thánh Thần cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta để mọi thành phần trong Giáo hội sống hiệp thông liên kết với nhau tiếp tục làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
10. Thực hiện nhiệm vụ hiệp nhất - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
1) Lễ Chúa Thánh Thần chính là lễ hiệp nhất muôn dân. “Ngài hiện xuống nơi họ tụ họp... Chúng ta từ các dân thiên hạ trở về Giêrusalem, đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan truyền những kỳ công của Thiên Chúa” (Bài đọc I - Cv. 2, 1-11).
a) Chính sức mạnh của Thánh thần đã hiệp nhất các môn đệ lại nhà Tiệc ly, đã hiệp nhất các dân thiên hạ lại Giêrusalem, chính Thánh thần đã cho họ nghe tiếng nói của mình về những kỳ công của Thiên Chúa. Tiếng nói đó chính là tiếng nói của Thánh thần.
Tại sao muôn dân nghe được tiếng nói của Thánh Thần? Thưa Thánh Thần đã hiệp nhất họ nên một thân thể của Đức Kitô. Trong Bài đọc II Thánh Phaolô đã giải thích: “Tất cả chúng ta là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đều đã chịu phép rửa nhờ một Thánh Thần để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (1Cr. 12, 13). Đức Kitô và Thánh thần hiệp nhất nên một, thì tất cả các bộ phận trong Đức Kitô cũng tràn đầy Thánh thần nên họ đều nghe, đều hiểu, đều lãnh nhận được tiếng của Thánh thần.
b) Thánh Phaolô còn cho thấy rõ: Đây là sự hiệp nhất trong đa dạng, không phải thứ hiệp nhất trong đơn điệu, gò ép, buồn tẻ: Có nhiều đặc trưng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần, có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Đức Chúa, có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa hoạt động trong mọi người. Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung.
Người thì được ơn khôn ngoan để giảng dạy
Người thì được ơn hiểu biết để trình bày
Người thì được ơn Đức tin để hoạt động mạnh mẽ
Người thì được ơn chữa bệnh
Người thì được ơn làm phép lạ
Người thì được ơn nói tiên tri
Người thì được ơn nói tiếng lạ
Người thì được ơn giải thích tiếng lạ
Nhưng chính Thánh Thần duy nhất làm tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách theo ý Ngài (1Cr. 12, 4-11)
Chỉ có Thánh thần mới đầy sức mạnh quy tụ được muôn dân thiên hạ, làm cho muôn bản chất, sắc thái văn hóa của muôn người khác nhau nên một trong Đức Kitô.
Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ vạn vật với muôn hình vạn trạng tinh vi kỳ diệu khác nhau, nhưng hòa điệu duy nhất với nhau để hòa tấu nên một bài ca chúc tụng quyền năng lạ lùng của Thiên Chúa.
Trong công trình cứu độ, còn hơn nữa, Chúa Thánh thần tuôn tràn sức sống mãnh liệt của Thiên Chúa, như tiếng gió ào ào vang dội khắp muôn phương để thánh hóa muôn dân sống thể hiện bản chất văn hóa thiêng liêng cao quý của mình, của dân tộc mình, làm rạng rỡ vinh quang Thiên Chúa như muôn loài hoa phô bày hương sắc riêng của chúng làm đẹp thiên nhiên, làm thơm môi trường.
2) Trước những chuyển biến của thời đại ngày nay, Đức Giáo Hoàng Gioan 23 cùng với Công đồng Vatican II đã cầu xin cho Giáo hội, cho thế giới “một lễ Hiện xuống mới”. Công đồng Vatican II, một Công đồng vĩ đại nhất trong lịch sử Giáo hội, cũng là một hội nghị hiệp nhất vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới, vì trong hội nghị của Công đồng, ngay kỳ họp I năm 1962 đã có 2.152 nghị phụ, cho đến kỳ họp IV năm 1965 đã có 2.391 nghị phụ gồm Hồng Y, Giám mục từ khắp nơi trên thế giới về Rôma để họp, chưa kể hàng ngàn chuyên gia lỗi lạc khác.
Công đồng đã chứng tỏ cho thế giới thấy tầm quan trọng và khẩn thiết của sự hiệp nhất, đề cao sự hiệp nhất lên hàng đầu, cho nên có 4 kỳ họp thì 3 kỳ của 3 năm đầu đều nói đến hiệp nhất.
Kỳ họp I từ 11 tháng 10, đến 8 tháng12 năm 1962 đã thảo luận đến sự hiệp nhất Kitô hữu và Giáo hội.
Kỳ họp II từ 29 tháng 9 đến 4 tháng 12 năm 1963 bàn về lược đồ hiệp nhất.
Kỳ họp III từ 14 tháng 9 đến 21 tháng 11 năm 1964 chung quyết và công bố các sắc lệnh hiệp nhất với 2137 phiếu thuận, 11 phiếu không đồng ý và không có phiếu nào chống đối.
Chính Đức Giáo Hoàng Gioan 23 lúc hấp hối, miệng Ngài đã liên lỉ lập lại câu này: “Làm sao để trở nên một” (Lữ Hành Hy Vọng 556).
3) Tại sao phải trở nên một?
Bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất đã sai “Con Một mình đến thế gian để cứu chuộc nhân loại, đoàn tụ họ nên một. Trước khi tự hiến làm lễ vật tinh tuyền trên Thánh giá, Người đã cầu cùng Chúa Cha cho các tín hữu rằng: “Xin cho hết thảy được hiệp nhất như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để chính họ cũng được nên một trong Ta, cho thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga. 17, 21). Người đã thiết lập trong Giáo hội của Người nhiệm tích Thánh Thể kỳ lạ vừa là dấu chỉ, vừa thể hiện sự hiệp nhất của Giáo hội. Người ban cho các môn đệ một giới răn mới là tình thương yêu nhau và ban Thánh thần an ủi, bảo trợ và sự sống để ở với họ mãi mãi (Sắc Lệnh Hiệp Nhất - số 2).
Thế giới cũng đang đi về hướng hiệp nhất: Hiệp nhất Châu Âu, hiệp nhất Đông Nam Á, Thái Bình Dương, Trung Đông... để sống hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, đúng câu “đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
Chúa Thánh thần hiện xuống đã thúc đẩy các môn đệ mở tung căn phòng đóng kín, ra đi thực hiện nhiệm vụ hiệp nhất muôn dân như Chúa Giêsu đã trao phó cho các ông trước lúc Người lên trời “Hãy nhận lấy Thánh thần để đến với muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần để muôn dân trở nên môn đệ Thầy” (Mt. 28, 29).
Không còn thứ hiệp nhất nào hơn nữa: Một sự hiệp nhất Thiên Chúa với loài người, một sự hiệp nhất nên một gia đình Thiên Chúa, một sự hiệp nhất trời và đất. Không có gì phá vỡ sự hiệp nhất đó, trừ có tội lỗi. Chính tội lỗi đã cắt đứt dây tình yêu hiệp nhất giữa Thiên Chúa và loài người.
Nay Con Thiên Chúa đã chiến thắng tội lỗi, rửa sạch tội lỗi trong Thánh thần, cho nên bài Tin mừng hôm nay nói: “Hãy nhận lấy Thánh thần, hãy tha tội cho họ”, để thực hiện một kỳ công hiệp nhất, “cho họ nên một trong Chúng Ta” (Ga. 17, 21).
Lạy Cha, xin ban cho Giáo hội “một lễ Hiện xuống mới” để canh tân bộ mặt trái đất, xin Thánh thần Tình yêu xuống đốt lửa kính mến trong lòng chúng con và mọi người để thực hiện sự hiệp nhất, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha muôn dân.
11. Xin đổi mới - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Một người tội lỗi (Henri Ghéron) trong thế chiến thứ hai, đã kể lại lúc xưng tội của ông như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác… Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho Linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về bình an, Thánh Thần đã ngự trong con!”. Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tội lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi: Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”. Bởi đâu người xưng tội này được chan chứa niềm vui như vậy?
Thưa, bởi Đức Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để tha tội cho ai xưng tội, như Người nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha”. Lần khác, trong một đêm gió mát trăng thanh, ông Nicôđêmô, một thủ lãnh Do Thái, đến gặp Đức Giêsu. Người cũng tỏ cho ông biết thế này: “Thật, tôi bảo thật ông: Không có ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu không sinh bởi nước và Thánh Thần. Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; cái gì mà bởi Thánh Thần mà sinh ra, thì là linh thánh” (Ga. 3, 5-6).
Xác thịt sinh ra những cái gì? Thánh Phaolô cho giáo đoàn Galata biết: “Những việc do xác thịt gây ra thì ai cũng rõ: Đó là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, phù phép, thờ quấy, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy” (Galata 5, 19-21) Đó là những thứ làm cho con người ra ô uế, hư hỏng, hư thối.
Thánh Thần sinh ra những gì? Là “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Galata 5, 22-23) Đó là những hoa quả của Thần khí làm cho con người sống tươi mới, xinh đẹp, thanh khiết thánh thiện.
So sánh hai lối sống, ta thấy khác nhau như cũ với mới, như chết với sống: “Những ai sống theo xác thịt thì hướng về xác thịt. Những ai sống theo thần khí thì thuộc về thần khí. Hướng về xác thịt là sự chết, hướng về thần khí là sự sống và bình an” (Rm. 8, 5-6)
Các môn đệ từ trước đến giờ vẫn sống theo hướng xác thịt. Thánh Luca đã chứng tỏ cho ta thấy rõ điều đó: Sau khi Chúa sống lại: “Trong bốn mươi ngày, Người hiện ra nói chuyện với các ông về nước Thiên Chúa” và lúc Người sắp sửa lên trời, “bấy giờ những người đang tụ họp ở đó mới hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Phải chăng đã đến lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel?”. Người phải cực lòng trả lời: “Anh em không cần phải biết thời giờ và kỳ hẹn Chúa đã toàn quyền sắp đặt” (Cv. 1, 6-7). Lối sống hướng về xác thịt của các ông chỉ mong muốn được Thầy cai trị nước Israel, cai trị nước thế gian để các ông được làm Thủ tướng, bộ trưởng, đầy giầu sang, danh vọng, quyền quý.
Phải chờ đến Chúa Thánh Thần hiện xuống thổi một luồng gió mới vào tận tâm hồn các ông, biến đổi các ông nên mới, đốt một ngọn lửa mới soi sáng tâm trí các ông hướng về thần khí mà từ bỏ hướng xác thịt. Lúc đó: “Hết thảy các ông được tràn đầy ơn Thánh Thần và bắt đầu nói nhiều tiếng nước ngoài, tùy theo Thánh Thần ban cho”.
Ơn Thánh Thần ban xuống trên các tông đồ qua các tác động mạnh mẽ như: Tiếng gió ào ào, lưỡi lửa, và nhiều thứ tiếng nói.
1- Tác động của gió ào ào: Đây là sức sống thần khí, khi Thiên Chúa dựng nên con người, Thiên Chúa đã thổi hơi vào thằng người được nặn bằng bùn đất. Hơi thở thần khí đã biến bùn đất thành Adam sống động. Từ đó Adam trở thành người đầy sức sống tốt lành và tràn đầy sinh lực hạnh phúc. Luồng gió mới của thần khí nay cũng thổi vào khắp các cơ thể xác thịt của tông đồ biến đổi các ông thành chi thể mới của Đức Kitô chứa đầy những đặc sủng để các ông phục vụ nhiều việc khác nhau vì ích chung nhờ Thánh Thần đang hoạt động trong các ông.
2- Tác động của lưỡi lửa: Đấy là ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa làm thành hào quang trên đầu Môsê, để Môsê lãnh nhận mười điều răn trên núi Sinai, để ông soi sáng dậy dỗ dân Chúa sống trong đường lối công chính và thánh thiện của Ngài. Nay các môn đệ được hào quang đó, để đi rao giảng lời Chúa chiếu sáng khắp muôn dân từ Giêrusalem đến tận cùng thế giới. Các ông đã thực hiện lời Thầy dậy: “Các con là ánh sáng thế gian” mà “Thầy đã đem ánh sáng đó đến thế gian. Thầy mong muốn cho nó cháy sáng lên soi mọi người”.
3- Tác động của các thứ tiếng nói: Đây là đặc sủng riêng của các tông đồ, Thánh Thần ban cho các ông, từ trước tới nay chưa hề có, để các ông qui tụ muôn dân. Muôn dân đã bị chia rẽ, phân tán khi tổ tiên họ kiêu ngạo đòi xây cây tháp Babel chọc trời và đã bị Thiên Chúa phạt: mỗi người nói một thứ tiếng. Họ không còn hiểu nhau, mỗi người một phách, họ đoạn tuyệt với nhau và trở nên hận thù đàn áp xâm chiếm lẫn nhau. Nay Thánh Thần hiện xuống tái lập sự hợp nhất: Ban cho các tông đồ nói một thứ tiếng lạ cho muôn dân hiểu biết Thiên Chúa, hiểu biết nhau, đoàn kết nên một dân mới, tuyên xưng một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha nhân ái và mọi người đều là anh em trong một thân thể của Đức Giêsu Kitô.
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến đổi mới chúng con, cho tâm hồn chúng con, dùlà Do Thái hay chư dân, tự do hay nô lệ, đều được nhuần thấm sức sống mạnh mẽ của Thánh Thần và cháy lửa yêu mến Ngài”.
12. Lễ Hiện Xuống Mới - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
1. Sách Công vụ Tông đồ mô tả ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như một biến cố vĩ đại làm rung chuyển từ căn nhà gia đình đến rung chuyển cả thành Giêrusalem, làm chấn động đoàn môn đệ đến vang dội cả thiên hạ. Đó là ngày lễ lớn của gia đình, của dân tộc và cả thiên hạ.
- Trong gia đình: Mọi người đang tụ họp đều nghe thấy tiếng vang dội từ trời xuống, mãnh liệt như gió bão ào ào. Tất cả đều thấy những hào quang xuất hiện tỏa sáng trên đầu mỗi người. Cả gia đình đều được tràn đầy Thánh Thần và nói nhiều thứ tiếng.
- Trong thành thánh: Người ta thấy ồn ào, mọi người tuôn đến. Họ kinh ngạc, sửng sốt và thán phục. Họ sốt sắng lắng nghe những lời chân lý lạ lùng do mot tập đoàn đang rao giảng.
- Từ khắp muôn phương thiên hạ: Người Rôma, người Hy Lạp, người Ai Cập đến những người trung đông đều được nghe loan báo những kỳ công của Thiên Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của mình, bằng văn hóa dân tộc địa phương mình.
2. Ai đã làm rung chuyển cả thế giới như thế? Thưa là “Chúa Thánh Thần”. Thánh Phaolô đã trả lời cho giáo đoàn Corintô như thế (1Cr. 12, 3-7): “Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta đã được tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, biết được chỉ có một Thiên Chúa, nhờ Thánh Thần, chúng ta được thanh tẩy để xứng đáng trở nên chi thể của Đức Kitô.
Thánh Thần đã tạo dựng một cộng đoàn mới, một dân tộc mới, một thế giới mới, một nhân loại mới, sống thành một gia đình tuyên xưng Thiên Chúa là Cha mình. Họ sống thành tông đồ đoàn, thành giáo đoàn, thành Giáo Hội, thành dân tộc của Thiên Chúa, lan rộng muôn phương. Tất cả đều uống một Thánh Thần với nhiều đặc sủng, nhiều việc khác nhau, tất cả đều hợp nhất với nhau nên một thân thể Đức Kitô, tất cả đều hoạt động cho muôn dân thấy những kỳ công của Thiên Chúa đang thương yêu cứu độ họ.
Ngày nay, trước một thế giới đầy biến động và phân hóa khôn lường. Đức Giáo Hoàng Gioan 23 đã kêu gọi họp Công Đồng Vaticano II để cầu nguyện cho Giáo Hội và thế giới “Một lễ Hiện xuống mới”. Tất cả các Hồng Y, Giám Mục và Viện Phụ từ khắp mặt đất đều đồng tâm nhất trí về họp tại Vatican từ năm 1962 đến năm 1965. Có bốn kỳ họp, mỗi kỳ hơn hai tháng gồm từ 2152 đến 2391 nghị phụ với hàng ngàn chuyên gia lỗi lạc: linh mục, tu sĩ và giáo dân, soạn thảo hàng tram văn kiện, được thảo luận đúc kết, và bỏ phiếu tán thành bốn Hiến Chế: Phụng Vụ, Tín Lý Giáo Hội, Tín Lý Mặc Khải và Mục Vụ Giáo Hội trong thế giới ngày nay, với 9 Sắc Lệnh về Truyền thông xã hội, về các Giáo Hội: Công giáo, Đông Phương, về Nhiệm vụ Giám Mục, về đời sống Dòng tu, về đào tạo Linh mục, về Tông đồ giáo dân, về Hoạt động truyền giáo, về Chức vụ Linh mục, về Hiệp nhất, và 2 Tuyên ngôn: về Giáo dục Kitô giáo, ve liên lạc Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo.
Đó là một Lễ Hiện xuống mới để trở về với Đức Kitô, thực hiện tin mừng tình thương cứu độ của Ngài cho muôn dân. Muôn dân đã được nghe lời Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của mình trong Thánh lễ, trong các phép Bí tích, không còn cảnh ngơ ngác phải nghe tiếng Latinh xa lạ.
Từng gia đình đã được gần gũi lời Hằng sống bằng những cuốn Kinh thánh quý giá in chữ viết của mình. Từng thánh đường được thấm nhuần lời Thánh ca bằng những âm điệu bản sắc văn hóa của mình.
“Họ đã được nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần … Thánh Thần đã tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung … để tất cả đeu được tràn đầy một Thánh Thần duy nhất” (Bài đọc 2).
Muôn lạy Chúa Thánh Thần, xin mau mau ngự đến, cho tâm hồn tín hữu cháy lửa yêu mến Ngài, cho Giáo Hội trinh trong hiệp nhất muôn thế hệ, cho trần gian thấm nhuần muôn ơn phúc. Lạy Ngài xin đổi mới lòng trí con. Amen.
13. Đổi mới
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổi mới tâm hồn chúng con. Bài đọc thứ nhất, trích sách Tông đồ Công vụ cho chúng ta thấy: Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông đồ như thế nào. Các tông đồ mặc dù đã được tiếp xúc với Chúa Giêsu sống lại, nhưng xem ra vẫn chưa được an tâm cho đủ, bởi vì các ông còn âu lo, còn dao động về những sự việc đã xảy ra cho Thầy mình mà các ông đã chưng kiến. Những tiếng la ó của đám đông thù địch như vẫn còn văng vẳng đâu đây, khiến các ông phải thu mình lại trong một căn phòng mà cửa thì đóng kín. Thế nhưng các ông đã trở nên những con người hoàn toàn khác sau khi Chúa Thánh Thần đến với các ông dưới hình lưỡi lửa.
Hôm ấy là ngày lễ Ngũ tuần được mừng 50 ngày sau lễ Vượt qua của người Do Thái, để tưởng nhớ giao ước tại Sinai giữa Thiên Chúa và dân của Ngài. Từng đoàn người Do Thái từ nhiều nước khác nhau kéo về Giêrusalem vào dịp này. Như thế, việc ban Chúa Thánh Thần được diễn ra trong một khung cảnh có thể nói được là hùng vĩ. Hiện tượng ấy diễn ra dưới hình thức các tông đồ nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho các ông nói, khiến mọi người nghe đều bỡ ngỡ vì mọi người đều nghe các tông đồ nói tiếng thổ âm của mình. Hiện tượng này còn khiến chúng ta nhớ lại biến cố xảy ra tại tháp Babel, làm cho nhân loại bị phân rã. Hôm nay Chúa Thánh Thần lập lại sự thống nhất ngôn ngữ đã bị phá huỷ vì ngọn tháp kiêu căng ấy. Thời cứu độ sẽ là thời quy tụ muôn dân và các tông đồ cũng như các môn đệ của Chúa có sứ mang loan báo Tin Mừng cho mọi người thuộc mọi ngôn ngữ, mọi tiếng nói.
Tiêu biểu cho sự đổi mới dưới tác động của Chúa Thánh Thần là thánh Phêrô tông đồ. Ông đã mở toang cửa nhà họp, đối diện với đám đông mà ông đã từng e ngại. Ông ngỏ lời với họ và nói lên niềm xác tín của mình về Đức Kitô, Đấng mà người Do Thái đã đóng đinh cách đây không lâu. Những kẻ chứng kiến không hiểu nổi sự việc đã cho rằng ông say. Đúng là Chúa Thanh Thần đã làm cho ông ra như say. Nhưng không phải là say rượu mà là say với Thần Khí của Chúa, say với niềm tin, say với lý tưởng. Hiệu lực của việc ban Chúa Thánh Thần quả là rõ ràng, nhưng đó cũng mới chỉ là điểm khơi đầu của một công cuộc hết sức to lớn, kéo dài cho tới ngày hôm nay.
Người Kitô hữu hôm nay cũng được mời gọi trở nên say như Phêrô trong ngày lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Bởi đó, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đến và đổi mới con người chúng ta, nhờ đó chúng ta trở nên hăng say với Tin Mừng cứu độ, với lý tưởng xây dựng một xã hội, một cuộc đời tốt đẹp hơn, trong lành hơn.
14. Chúa Thánh Thần.
Lễ hiện xuống chính là ngày lễ 50 của Cựu Ước. Đó là cao điểm kết thúc cho mùa mừng lễ Vượt Qua, ngoài ra đó còn là ngày lễ tạ ơn vì Chúa đã cho mùa màng tốt tươi, cũng như để kỷ hiệm ngày Chúa công bố lề luật qua Môsê trên đỉnh núi Sinai.
Đối với chúng ta hôm nay, thì lễ Hiện Xuống cũng chính là cao điểm, kết thúc cho mầu nhiệm Phục sinh. Như ngày Hiển Linh đối với ngày Giáng Sinh thế nào thì ngày lễ Hiện Xuống cũng vậy đối với lễ Phục Sinh. Tôi xin đưa ra một vài hình ảnh để so sánh.
Trong ngày lễ Phục sinh, Đức Kitô như mặt trời hừng đông ló dạng. Còn trong ngày lễ Hiện xuống thì mặt trời ấy đã đứng bóng, chói loà và đem lại sức sống. Trong ngày lễ Phục sinh thửa vườn của Giáo Hội nở bông với những tín hữu mới được lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Còn trong ngày lễ Hiện xuống, những bông hoa ấy đã kết thành trái chín vàng trên cành cây. Người làm vườn là Đức Kitô đã trồng những mầm non mới. Còn mặt trời làm cho trái chín vàng đó là Chúa Thánh Thần. Trong ngày lễ Phục sinh chúng ta mới chỉ là những trẻ nhỏ của Thiên Chúa, chúng ta cần đến sữa mẹ là Chúa Thánh Thần. Chúng ta lớn lên trong nhà mẹ là Giáo Hội, một cách vô tư và hạnh phúc như những em nhỏ. Nhưng khi chúng ta trưởng thành, Giáo Hội, người Mẹ hiền của chúng ta, không ngần ngại bảo cho chúng ta biết rằng khoảng thời gian êm đẹp và thơ mộng ấy đã qua đi, giờ đây chung ta là những lữ khách, sẽ gặp phải nhiều đau khổ, nhiều buồn phiền. Với lễ Hiện xuống, chúng ta trở nên là những người trưởng thành. Với lễ hiện xuống Chúa Thánh Thần làm việc và tác động.
Trước khi về trời Chúa Giêsu đã hứa không để cho chúng ta phải mồ côi, Người sẽ gởi đến cho chúng ta một Đấng an ủi, để nhắc lại những điều Người đã giảng dạy. Ngày hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động trong Giáo Hội cũng như trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy nghĩ tưởng đến Ngài, và chúng ta có thể gặp gỡ Ngài ở khắp mọi nơi. Ngài ngự trị trong tâm hồn chúng ta kể từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để biến tâm hồn và thể xác chúng ta thanh đền thờ cho Thiên Chúa, như lời thánh tông đồ đã khuyên nhủ: Anh em không nhớ rằng thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần hay sao. Hãy mang lấy Thiên Chúa và hãy tôn vinh Người trong thân xác anh em. Chúng ta sẽ dễ dàng trở nên thánh thiện, nếu chúng ta luôn ý thức rằng Chúa Thánh Thần đang ngự trị trong chúng ta. Còn đối với Giáo Hội, Chúa Thánh Thần luôn thánh hoá và hoạt động bằng các bí tích. Chúa Giêsu đã về trời và trở nên vị trung gian bầu cử cho chúng ta trước toà Đức Chúa Cha. Nhưng Giáo Hội trên trần gian hằng được Chúa Thánh Thần giúp đỡ và hướng dẫn. Trong bí tích Thánh Thể Chúa Giêsu thực sự hiện diện, nhưng Ngài không thể tiep nối những hành động mà ngày xưa Ngài đã thực hiện ở Palestin. Trong bí tích Thánh Thể Người chỉ là của lễ và của ăn cho chúng ta,. Thế nhưng, bí tích Thánh Thể lại chính là một dụng cụ Chúa Thánh Thần dùng để thánh hoa chúng ta.
Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Và như chúng ta đã biết Giáo Hội là nhiệm thể của Đức Kitô. Thân xác muốn sống thì phải có linh hồn. Vai trò của linh hồn thật là quan trọng, nó là nguyên lý của sự sống, nếu linh hồn lìa khỏi thì thân xác sẽ phải chết. Cũng vậy Chúa Thánh Thần là linh hồn của nhiệm thể Giáo Hội, chính Ngài trao ban và bảo tồn đời sống ơn sủng trong chúng ta. Nhờ Ngài mà chúng ta có thể cầu nguyện và làm được những việc tốt lành. Bởi đó, trong ngày mừng kính Ngài hôm nay, chúng ta hãy mặc lấy ba tâm tình sau đây: Tâm tình thứ nhất là tâm tình vui mừng. Chính vì thế mà Giáo Hội đã mời gọi chúng ta qua lời kinh Tiền Tụng: Trong niềm hân hoan chứa chan, toàn thể vũ trụ đều nhảy mừng. Tâm tình thứ hai là tâm tình tin tưởng vào sự hiện diện và vào quyền năng của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội cũng như trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta phải cảm nghiệm và nhận ra quyền năng ấy. Và sau cùng chúng ta hãy mong mỏi xin Ngài ngự đến như lời Giáo Hội tha thiết nguyện cầu: Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và đổ tràn đầy trong lòng các tín hữu những hong ân của Ngài.
15. Chúa Thánh Thần – canh tân cuộc sống
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Khi nói đến hình ảnh Chúa Thánh Thần, Thánh Kinh thường nói đến: Hơi thở, Gió, Lửa, Nước, chim bồ câu, dầu. Cụ thể, trong các bài đọc hôm nay chúng ta thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống với chúng ta bằng hình ảnh: GIÓ – NƯỚC VÀ LỬA. Gió,lửa, nước là những thứ mềm nhất và bình thường nhất, nhưng lại mạnh nhất và quan trọng nhất, và thiết yếu nhất cho cuộc sống chúng ta. Cho nên, Chúa Thánh Thần là vị Chúa không thể thiếu cuả cuộc sống tâm linh chúng ta.
Gió là không khí. Không khí là thứ tối cần thiết, vì thiếu không khí trong vài phút thì người ta không thể sống nổi. Lửa làm người ta ấm áp trong mùa đông giá lạnh, hay có thể làm chín thức ăn cho ta. Nước để ta uống hay tắm rửa… Điều đáng chú ý ở đây: Gió, Lửa và Nước luôn luôn hoạt động để có ích cho con người. Nếu không khí không có khí oxy, thì con người tắt thở. Nếu nước không chảy, đó là nước tù, nước dơ bẩn. Lửa không cháy, thì tối um và vô dụng. Vậy, nước lửa gió là những nguyên tố tự nhiên luôn hoạt động để mưu ích cho cuộc sống từ muôn ngàn đời. Và Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa xuống thế mang những hình ảnh đó để nói rằng Ngài luôn hoạt động để cuộc sống của chúng ta thêm phong phú, tươi sáng và hạnh phúc.
Chúa Thánh Thần như luồng gió cường tráng, ngọn lửa bừng bừng, dòng nước trào tràn. Luồng gió, dòng nước và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi các thánh tông đồ đầy sợ sệt, nhút nhát. Chúa Thánh Thần làm cho các ông hoạt động mạnh mẻ thay vì quyền rủa bóng đêm. Ngài khơi thông nước tù của họ là sợ chết, ích kỷ, nay thành dòng nước đem lại sức sống mới cho các tông đồ và bây giờ họ ra đi và loan báo Tin Mừng cứu độ. Ngài thổi luồng gió sức mạnh vào sự kém lòng tin của các ông để các ông sẵn sàng tha thứ. Cuối cùng, Ngài đốt lên ngọn lửa tình yêu, và họ đã ra đi biến đổi chính mình và cả thế giới đang chìm trong bòng đêm tội lỗi và sự chết thành một thế giới đầy tình thương và sự sống. Vì vậy, các tông đồ xưa và chúng ta hôm nay đón nhận Đức Chúa Thánh Thần đồng thời lãnh nhận sứ mạng hoạt động của Chúa Thánh Thần đó là làm chứng, yêu thương và đặc biệt là tha thứ.
“Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Trong cuộc sống gia đình, cộng đoàn, xã hội hay Giáo hội luôn xảy ra những chuyện bất hòa, chúng gây ra những mối hận thù, ghen ghét và đố kỵ nhau. Con người là bất toàn, hơn nữa sống chung đương nhiên là có bất đồng, xung khắc hay đụng nhau. Nhưng, nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Không ai là một hòn đảo, mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần. Và một khi đã có ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được hai việc đó một các dễ dàng và bình an. Cụ thể, sau khi bình phục sức khỏe, Thánh giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã vào tận nhà tù để tha thứ cho kẻ ám sát mình. Rồi, để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh 2000, Thánh Giaó Hoàng Gioan Phaolô II đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.
Trong Tông Sắc về Năm về Năm Lòng Thương Xót tới đây, Đức Thánh Cha phanxicô nói rằng: “Lòng thương xót không phải chỉ là hành động của Chúa Cha, nhưng còn trở thành tiêu chuẩn để hiểu ai là những người con đích thực của Chúa. Trong thực hành, tất cả chúng ta đều được kêu gọi sống lòng thương xót vì lòng thương xót đã được áp dụng cho chúng ta trước tiên: vì thế, tha thứ những xúc phạm người ta làm cho chúng ta chính là một mệnh lệnh mà các tín hữu Kitô không thể tránh né hoặc bỏ qua. Tha thứ dường như là điều khó khăn, nhưng tha thứ chính là phương tiện đặt trong những bàn tay mong manh của con người để đạt tới sự thanh thản trong tâm hồn, để sống hạnh phúc”.
Ước gì, sức mạnh của Lời Chúa và với ơn Chúa Thánh Thần chúng nhận được mỗi ngày, xin cho mỗi người chúng ta có nhiều lửa tình yêu, nước bình an và gió sức mạnh để chúng ta sẵn sàng xin lỗi nhau, tha thứ cho nhau hầu cộng đoàn chúng ta, gia đình và xã hội chúng ta được hạnh phúc, bình yên và tươi mới. Amen.
16. Ra đi-tha thứ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Hôm nay, Chúa Giêsu tóm tắt sứ mạng hành động đó qua 2 nhiệm vụ: Ra đi và Tha thứ.
Nhiệm vụ thứ nhất mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là RA ĐI: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nhận lãnh Chúa Thánh Thần là được sai đi. Chúa Thánh Thần là sức mạnh hành động. Người không thể bị giam hãm trong những căn phòng đóng kín cửa. Người không ưa thích những tâm hồn khép kín trong ủ rũ điêu tàn. Người đến đâu là mở tung cửa nhà ra đến đấy. Mở ra để đón lấy những luồn gió mới tươi mát. Mở ra để đón nhận mọi người đến với mình. Và nhất là mở ra để mình đến với mọi người. Một cuộc sống không giao tiếp sẽ trở nên nghèo nàn, tàn lụi. Một tâm hồn chỉ quy hướng về bản thân sẽ chẳng khác một vũng ao tù, ô nhiễm. Ra đi sẽ giúp ta nên phong phú, mạnh mẽ. Ra đi không phải là lang thang không mục đích, nhưng là đi đến những địa chỉ Thánh Thần muốn gửi ta đến. Những địa chỉ Thánh Thần muốn ta đến đó là “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Người sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Người sẽ củng cố những tâm hồn nhút nhát. Người sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Người sẽ đổ tràn vào hồn ta nguồn nhựa sống mới giúp ta hăng hái lên đường.
Nhiệm vụ thứ hai mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là THA THỨ: “Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Tha thứ, hoà giải luôn là một vấn đề lớn của thế giới. Trên thế giới, những cuộc chiến tranh, chia rẽ, xung khắc xảy ra hầu như hằng ngày. Con người là bất toàn, nên sống chung là có bất đồng, xung khắc. Nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì có lẽ cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Người ta khong thể sống một mình. Mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần, ở đây, ta phải nhìn vào Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô như tấm gương sáng chói. Người là tấm gương sáng về sự ra đi. Cuộc đời Người là một cuộc ra đi không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu, nhưng Người vẫn lên đường đi đến với mọi dân tộc, mọi đất nước. Người tiếp xúc với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chính kiến, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ. Người đi đến với cả những kẻ chống đối, bất hoà và thù nghịch với Người. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh, Ngươi đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.
Ta hãy biết noi gương Đức Thánh Cha. Hãy biết ra đi, không chỉ là đi hành hương viếng nhà thờ để lãnh ơn toàn xá, nhưng còn là ra đi đến với những người bé nhỏ, nghèo hen, những người bị bỏ rơi, những người kém may mắn ở đời, những người ta không ưa thích, những người chống đối ta, cả những người làm hại ta nữa. Nhất là hãy gieo rắc sự tha thứ. Tha thứ cho anh em để anh em cũng tha thứ cho ta, để chúng ta xứng đáng trở thành con Thiên Chúa. Đức Chúa Thánh Thần muốn đổi mới Giáo Hội. Nhưng việc đổi mới phải bắt đầu từ mỗi tâm hồn. Đức Chúa Thánh Thần sẽ canh tân bộ mặt thế giới, nhưng việc canh tân phai khởi đi từ mỗi con người. Ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhân ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Người.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới tâm hồn con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Chúa Thánh Than mời gọi bạn ra đi đến với người khác. Bạn có thường đi thăm viếng những người nghèo hèn, nhất là những người bạn không có cảm tình không?
2- Bạn có muốn tha thứ, làm hoà với người khác không? Bạn đã có cố gắng nào để làm hoà trong Năm Thánh?
3- Bạn nghĩ gì về việc Đức Thánh Cha xin lỗi?
4- Bạn có sẵn sàng để Đức Chúa Thánh Thần biến đổi bạn không?
17. Lễ Hiện Xuống mới
1. Sách Công vụ Tông đồ mô tả ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như một biến cố vĩ đại làm rung chuyển từ căn nhà gia đình đến rung chuyển cả thành Giêrusalem, làm chấn động đoàn môn đệ đến vang dội cả thiên hạ. Đó là ngày lễ lớn của gia đình, của dân tộc và cả thiên hạ.
- Trong gia đình: Mọi người đang tụ họp đều nghe thấy tiếng vang dội từ trời xuống, mãnh liệt như gió bão ào ào. Tất cả đều thấy những hào quang xuất hiện tỏa sáng trên đầu mỗi người. Cả gia đình đều được tràn đầy Thánh Thần và nói nhiều thứ tiếng.
- Trong thành thánh: Người ta thấy ồn ào, mọi người tuôn đến. Họ kinh ngạc, sửng sốt và thán phục. Họ sốt sắng lắng nghe những lời chân lý lạ lùng do một tập đoàn đang rao giảng.
- Từ khap muôn phương thiên hạ: Người Rôma, người Hy Lạp, người Ai Cập đến những người trung đông đều được nghe loan báo những kỳ công của Thiên Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của mình, bằng văn hóa dân tộc địa phương mình.
2. Ai đã làm rung chuyển cả thế giới như thế? Thưa là “Chúa Thánh Thần”. Thánh Phaolô đã trả lời cho giáo đoàn Corintô như thế (1Cr. 12,3-7): “Nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta đã được tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, biết được chỉ có một Thien Chúa, nhờ Thánh Thần, chúng ta được thanh tẩy để xứng đáng trở nên chi thể của Đức Kitô.
Thánh Thần đã tạo dựng một cộng đoàn mới, một dân tộc mới, một thế giới mới, một nhân loại mới, sống thành một gia đình tuyen xưng Thiên Chúa là Cha mình. Họ sống thành tông đồ đoàn, thành giáo đoàn, thành Giáo Hội, thành dân tộc của Thiên Chúa, lan rộng muôn phương. Tất cả đều uống một Thánh Thần với nhiều đặc sủng, nhiều việc khác nhau, tất cả đều hợp nhất với nhau nên một thân thể Đức Kitô, tất cả đều hoạt động cho muôn dân thấy những kỳ công của Thiên Chúa đang thương yêu cứu độ họ.
Ngày nay, trước một thế giới đầy biến động và phân hóa khôn lường. Đức Giáo Hoàng Gioan 23 đã kêu gọi họp Công Đồng Vaticano II để cầu nguyện cho Giáo Hội và thế giới “Một lễ Hiện xuống mới”. Tất cả các Hồng Y, Giám Mục và Viện Phụ từ khắp mặt đất đều đồng tâm nhất trí về họp tại Vatican từ năm 1962 đến năm 1965. Có bốn kỳ họp, mỗi kỳ hơn hai tháng gồm từ 2152 đến 2391 nghị phụ với hàng ngàn chuyên gia lỗi lạc: linh mục, tu sĩ và giáo dân, soạn thảo hàng trăm văn kiện, được thảo luận đúc kết, và bỏ phiếu tán thành bốn Hiến Chế: Phụng Vụ, Tín Lý Giáo Hội, Tín Lý Mặc Khải và Mục Vụ Giáo Hội trong thế giới ngày nay, với 9 Sắc Lệnh về Truyền thông xã hội, về các Giáo Hội: Công giáo, Đông Phương, về Nhiệm vu Giám Mục, về đời sống Dòng tu, về đào tạo Linh mục, về Tông đồ giáo dân, về Hoạt động truyền giáo, về Chức vụ Linh mục, về Hiệp nhất, và 2 Tuyên ngôn: về Giáo dục Kitô giáo, về liên lạc Giáo Hội với các tôn giao ngoài Kitô giáo.
Đó là một Lễ Hiện xuống mới để trở về với Đức Kitô, thực hiện tin mừng tình thương cứu độ của Ngài cho muôn dân. Muôn dân đã được nghe lời Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của mình trong Thánh lễ, trong các phép Bí tích, không còn cảnh ngơ ngác phải nghe tiếng Latinh xa lạ.
Từng gia đình đã được gần gũi lời Hằng sống bằng những cuốn Kinh thánh quý giá in chữ viết của mình. Từng thánh đường được thấm nhuần lời Thánh ca bằng những âm điệu bản sắc văn hóa của mình.
“Họ đã được nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần… Thánh Thần đã tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung… để tất cả đều được tràn đầy một Thánh Thần duy nhất” (Bài đọc 2).
Muôn lạy Chúa Thánh Thần, xin mau mau ngự đến, cho tâm hồn tín hữu cháy lửa yêu mến Ngài, cho Giáo Hội trinh trong hiệp nhất muôn thế hệ, cho trần gian thấm nhuần muôn ơn phúc. Lạy Ngài xin đổi mới lòng trí con. Amen.
18. Khai sinh Giáo Hội truyền giáo – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Giải Nobel Hòa bình năm 2000 đã được trao cho Tổng Thống Hàn Quốc Kim Dae-Jung, một con người đã từ 30 năm nay đấu tranh không mệt mỏi cho công bằng, dân chủ và hòa hợp.
Tổng Thống Kim là một người Công giáo, được Đức cố TGM Seoul rửa tội vào năm 1956. Trong một đất nước chỉ có 10% dân số là Công giáo thì sự kiện này cũng đang nhắc nhở về sự dấn thân của Giáo Hội Công Giáo tại lục địa Á Châu này.
Phần thưởng này đã được các vị lả đạo và chức sắc tôn giáo ở Hàn Quốc hân hoan chúc mừng. Một vị Hòa thượng lãnh đạo một Tông phái Phật giáo lớn nhất ở Hàn Quốc nhận định như sau: “Tổng thống Kim Dae-Jung sẽ được ghi nhớ như một vị lãnh đạo nổi bật của thế giới”.
***
Lễ Hiện xuống là lễ khai sinh một Giáo hội truyền giáo. Và nỗ lực đấu tranh cho công bằng, dân chủ và hòa bình với danh nghĩa là người Công giáo như Tổng thống Kim Dae-Jung chính là một công cuộc truyền giáo.
“Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Rồi Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22). Các Tông đồ đã nhận lãnh Thánh Thần để ra đi truyền giáo. Chính Thánh Thần đã làm cho các ngài hoàn toàn đổi mới.
Từ chỗ không hiểu gì cả, thì nay các ngài đã hiểu rõ tất cả.
Từ sự nhát đảm run sợ, cửa đóng then cài, thì nay các ngài mạnh dạn can đảm mở toang cửa ra.
Từ những dân chài ít họ, thì nay các ngài nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Bằng chứng là Pherô, trước đây run sợ trước câu hỏi của một cô đầy tớ, thế mà nay dám đứng lên rao giảng giữa những người đã giết chết Thầy mình, khiến cho 3000 người gia nhập Giáo hội với chỉ một bài giảng duy nhất.
Không những các ngài can đảm rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, mà còn dám hy sinh cả tính mạng vì danh thánh ấy. Tất cả các ngài đều đã chịu tử vì đạo. Và sau Pherô, 39 vị Giáo hoàng tiên khởi đều anh dũng chết vì đạo thánh.
Người ta tưởng các ngài say rượu, nhưng thật sự thì các ngài đang say Chúa.
Người ta nghĩ các ngài điên dại, nhưng quả thật thì các ngài đang đầy tràn Thánh Thần.
Lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khia sinh Giáo hội, mà Lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo Hội. Người ta gọi Công đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống mới, một luồng gió mới đã thổi vào Giáo Hội để canh tân cho thích hợp với độ chóng mặt của thế giới ngày nay. (năm nay 1963-2013 kỉ niệm 50 Công đồng Vatican II, năm Đưc Tin của Giáo Hội Công giáo do Đức Thánh Cha Bênedictô XVI công bố)
Công đồng đã long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Gioan Phaolô II nhận định: “Đã đến lúc phải dốc toàn lưc trong Giáo Hội vào một cuộc loan báo Tin Mừng mới và vào sứ vụ đến với muôn dân. Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).
Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ sau khi tham dự Hội nghị toàn thể lần thứ bảy liên Hội đồng Giám mục Á Châu đã có cảm nhận rất sâu sắc này: “Giáo Hội tại Châu Á phai là một giáo hội truyền giáo”. Ngài giải thích: “Vì Chúa Giêsu là người châu Á, Giáo Hội Thiên Chúa đã được phát sinh tại châu Á, và ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, thế mà hôm nay lại rất ít người châu Á biết Chúa và tin theo Chúa” (CGDT số 1250). Quả thật, tại châu Á, đông dân nhất năm châu mà chỉ có 3% dân số tin theo Chúa. Đó là nỗi ray rứt của mỗi người chúng ta, mà cũng là thách thức từng ngày của mỗi tín hữu Kitô.
***
Lạy Chúa, xin hãy thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, văn minh và an bình cho tha nhân, nhất là khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới; nhưng trước hết, là cho những người bên cạnh chúng con bằng đời sống phục vụ và yêu thương. Amen.
19. Chứng nhân cho Chúa – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Ngày 12 tháng 10 năm 1999, một cậu bé nặng 3,55 kg đã chào đời lúc 00:03 tại Sarajevo, Bosnia. Cậu đã được Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Anna chào đón như là biểu tượng của người dân thứ 6 tỷ của Thế giới (C 6 B: Day of 6 billionth person). Sự chọn lựa này chỉ là ngẫu nhiên, do ông Tong Thư ký đang công tác ở Bosnia.
Chỉ trong ngày 12-10, ước tính có khoảng 370.000 trẻ em trên thế giới chào đời, phân nửa trong số đó là trẻ em Châu Á. Các chuyên gia dân số thế giới chào đón ngày này với sự … lo lắng, vì hầu hết số trẻ ấy sẽ sống trong nghèo đói và thất học… Chỉ trong thế kỷ 20, dân số thế giới đã tăng gấp ba và nếu tính trong vòng 12 năm, dân số thế giới tăng độ một tỷ người. LHQ ước đoán dân số thế giới sẽ là 8,9 tỷ vào năm 2050. Nhà sinh thái học David Pimentel của Đại học Cornell cảnh báo: “Đến năm 2100, sẽ có 12 tỷ con người khốn khổ chịu đựng cuộc sống khó khăn trên trái đất”.
Nhưng không phải ai cũng đồng tình với nỗi lo ve “ngày ảm đạm, u tối”, khi dân số thế giới đạt đến con số 6 tỷ. Nhà kinh tế học Stephen Moore lại cho rằng: “Dân số thế giới đạt 6 tỷ là món quà tặng cho sự khéo léo và khả năng sáng tạo của con người”.
***
Mỗi Lễ Hiện Xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Người hằng huy động, hướng dẫn, hiệp nhất dể xây dựng Giáo Hội. Giáo hội đã có một lịch sử dài suốt 20 thế kỷ. Cần một luồng gió mạnh thổi đến, lùa vào, đổi mới mọi sự.
Công đồng Vatican II, chính là ngày “Lễ Hiện Xuống mới” của Giáo hội. Nếu ngày xưa thánh Phero đã mở tung cửa đón nhận Thánh Thần Thiên Chúa, thì ngày nay đức Thánh Cha Gioan 23 cũng đã khai mở Công đồng như một ngày “lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một luồng sinh khí mới, một bộ mặt mới. Để rồi từ đó, muôn dân nước được nghe Lời chúa bằng tiếng mẹ đẻ trong Thánh lễ và trong các Bí tích, được hát Thánh ca bằng ngôn ngữ dân tộc mình. Với 4 Hiến Chế, 9 Sắc Lệnh và 3 Tuyên Ngôn, giáo hội đã mở rộng ra với thế giới, để bắt kịp đà tiến triển của thời đại văn minh.
Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, hôm nay chúng ta cũng trở nên chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Thế giới hôm nay đã bước sang thế kỷ 21, với 6 tỷ người chen chúc trong đó, nhưng chỉ có trên 1 tỷ người Công giáo. Đó là trách nhiệm của mỗi người chúng ta, là nỗi trăn trở và day dứt khôn nguôi của người tín hữu: những chứng nhân của Nước Trời.
Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta ngồi lại với nhau, giải quyết tranh chấp, xây dựng hòa bình.
Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta chăm lo cho người nghèo, quan tâm đến trẻ thơ và người già yếu.
Chúng ta là chứng nhân cho Chúa, khi chúng ta đem niềm vui đến cho những người bất hạnh, mang lại nụ cười cho những kẻ khổ đau.
Thiên Chúa rất cần những chứng nhân như thế, để đổi mới bộ mặt trái đất, làm tươi mát khuôn mặt địa cầu.
Thiên Chúa rất cần những chứng nhân đi xây dựng một thế giới, nơi đó con người yêu thương nhau hơn.
Thiên Chúa rất cần những chứng nhân đi thánh hóa trần gian bằng đời sống tin tưởng, tràn đầy niềm vui.
***
Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con gặp được Người trong những nụ cười trao cho nhau, trong những hy sinh vô vị lợi, và trong nỗi thao thức xây dựng một thế giới huynh đệ hơn. Amen.
20. Ý nghĩa cuộc sống.
Chúa Thánh Thần đem lại gì cho chúng ta. Đó là câu hỏi chúng ta cùng nhau tìm hiểu. Và ơn huệ đầu tiên Ngài đem lại đó là đức tin. Chính đức tin sẽ tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn mới.
Kể từ nay, chúng ta không còn cúi mặt nhìn xuống đất, mà còn có thể ngước mắt nhìn lên trời. Và qua những thực tại trần gian, chúng ta sẽ tìm thấy những giá trị siêu nhiên. Chúa Thánh Thần sẽ mở ra một chân trời mới, sẽ hướng dẫn chúng ta bước vào cõi sống đời đời. Hẳn rằng đã hơn một lần chúng ta băn khoăn và tự hỏi: Hỡi người, người là ai? Tại sao người lại sống trên mặt đất này. Rồi người sẽ đi về đâu? Mục đích cuộc sống của người là gì? Ý nghĩa cuộc sống của người là gì?
Có một nhà hiền triết nọ cũng đã suy tư như thế. Hôm đó, ông đi lang thang trong rừng, miệng không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn con vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối.
Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cu tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.
Nhà hiền triết hốt hoảng và chạy trốn khỏi khu rừng để không còn nghe tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn chưa được giải quyết.
Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc, không tìm ra đáp số cho bài toán.
Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Với ơn Chúa Thánh Thần chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm an bình và nỗi mừng vui, bởi vì chúng ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không phải ở mặt đất này, nhưng là ở chốn trời cao. Cuộc sống tạm bợ phù du này sẽ kết thúc để rồi mở ra một chân trời hạnh phúc, kéo dài tới vĩnh cửu. Nhờ đức tin lãnh nhận, chúng ta có được cái nhìn mới và biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian, biết xử dụng chúng để xây dựng cuộc sống siêu nhiên.
Thánh Cyrillo đã so sánh: Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta như ánh sáng mặt trời tác động trên con mắt. Nếu đi từ bóng tối ra ánh sáng, chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều vật trước kia chúng ta không nhìn thấy. Cũng vậy, với Chúa Thánh Thần chúng ta sẽ nhìn xem tất cả bằng cặp mắt siêu nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra những giá trị thiêng liêng cho cuộc sống tạm gửi này, để rồi chúng ta sẽ không dừng lại, sẽ không đầu tư cho những vui thú chóng qua, nhưng sẽ tìm kiếm và đầu tư cho hạnh phúc vĩnh cửu.
Ngày xưa Chúa Thánh Thần bay lượn trên nước và đã biến cái đám hỗn mang thành một vũ trụ có trật tự thế nào, thì bây giờ Ngài cũng bay lượn, cũng hiện diện trong tâm hồn để biến con người tội lỗi, vô trật tự của chúng ta thành một Kytô hữu đích thực, Ngài sẽ cởi bo con người cũ của chúng ta, biến chúng ta trở nên một tạo vật mới, một con người mới. Vậy con người mới ấy là như thế nào? Chắc hẳn bề ngoài chúng ta vẫn như trước vẫn giống với mọi người, có đầu, có mắt, có trái tim, nhưng cách thức chúng ta nhìn ngắm, cách thức chúng ta suy nghĩ, cách thức chúng ta yêu mến thì lại hoàn toàn thay đổi, như lời tiên tri Êgiêkiel đã diễn tả: Ta sẽ rảy nước tinh tuyền trên các ngươi và các ngươi sẽ được trong sạch. Ta sẽ cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá, nhưng sẽ ban cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới và một thần khí mới.
Với Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn, chúng ta sẽ nhìn cuộc sống, nhìn những người anh em, nhìn thế giới, nhìn dòng lịch sử một cách khác. Chúng ta sẽ nhìn những khổ đau, những thử thách và những đắng cay một cách khác. Chúng ta sẽ tìm thấy được những giá trị siêu nhiên của chung.
Bởi đó, hãy mở cửa đón nhận Chúa Thánh Thần, hãy lắng nghe tiếng nói của Ngài, hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài, hãy sống theo những gì Ngài chỉ bảo. Đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài, để nhờ đó, Ngài sẽ hun đúc đức tin, để nhờ đó chúng ta biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian.
21. Bình an giữa chốn phong ba – Thiên Phúc
(Trích “Như Thầy Đã Yêu”)
Báo Tuổi Trẻ Chúa nhật số ra ngày 29-4-2001 có đăng bài “sự bình an” như sau: Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.
Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình an thật hoàn hảo.
Bức tranh kia cũng có những ngọn núi nhưng những ngọn núi này trần trui và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình an chút nào.
Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ong thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ cua mình. Bình an thật sự.
Nhà vua công bố: “Ta chấm bức tranh này! Sự bình an không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cự nhọc. Bình an có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cam thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của bình an.
***
Sau khi Đức Giêsu chịu chết, các tông đồ sợ người Do Thái lùng bắt, nên đã trốn vào phòng, cửa đóng then cài.
Giữa cơn phong ba bão táp, Đức Giêsu sống lại, hiện ra với các ông, như chim mẹ an nhiên đậu trên tổ canh giữ bầy con, Người mang lại cho các ông sự bình an đích thực: “Bình an cho anh em!”
Bình an của Đấng Phục Sinh không phải là thứ bình an không có sóng gió. Bình an của Người là bình an trong tâm hồn. Bình an ấy không loại trừ phải đối đầu với kẻ thù. Bình an ấy giúp ta đối diện với khổ đau và nỗi chết. Chính vì thế mà sau khi trao bình an, Đức Giêsu đã cho các môn đệ “xem tay và cạnh sườn” Người. Đó là bằng chứng của một cuộc chiến đấu đầy gian truân mà các môn đệ sẽ phải đi tới.
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,21-22). Nhận được bình an, lòng tràn ngập hân hoan, các môn đệ không còn nhát sợ. Với sức mạnh của Thánh Thần các ngài mạnh dạn tung cửa ra ngoài, hiên ngang rao giảng về Đức Giêsu, Đấng đã bị người ta giết chết, nhưng Thiên Chúa đã cho Người sống lại. Người đang hiện diện sống động giữa các ngài và đang hoạt động mãnh liệt trong các ngài.
Lễ Hiện Xuống nhắc nhở người tín hữu về một Thánh Thần bình an đã hoạt động trong lòng Giáo Hội suốt hơn 2000 năm qua. Người cũng đang hiện diện trong những người đã lãnh nhận Bí tích Thêm Sức để sai họ đi làm chứng nhân cho Tin Mừng.
Làm chứng cho Tin Mừng là để Thánh Thần mở toang cánh cửa tâm hồn, không còn nhát sợ nhưng can đảm chiến đấu với thử thách, khổ đau trong cuộc sống.
Làm chứng cho Tin Mừng là để Thánh Thần dẫn dắt chúng ta đến với người nghèo khổ, bất hạnh, để tận tình yêu thương và kính trọng họ cho xứng với phẩm giá con người.
Làm chứng cho Tin Mừng là để Thánh Thần là để Thánh Thần thúc đẩy chúng ta đến với những người chưa nhận biết Chúa bằng đời sống dấn thân phục vụ trong hân hoan.
Nếu mỗi người tín hữu biết mềm mại để Thánh Thần canh tân đổi mới, nếu mỗi chúng ta biết lắng nghe tiếng nói thầm lặng nhưng mạnh mẽ của Thánh Thần, thì mọi người sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu trên toàn thế giới.
***
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới để cả trái đất này được thay da đổi thịt trong cùng một Thánh Thần Tình Yêu. Amen!.
22. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và đồng hành với con người. Ngài hiện diện cách sống động và xuyên suốt trong cuộc đời mỗi người nhưng nhiều khi danh Ngài không được nhắc đến với đầy đủ ý thức của con người. Qua giáo lý ta biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa. Đôi khi vô tình ta đóng khung Ngài trong 7 ơn mà ta lãnh nhận trong ngày chịu Bí tích Thêm sức. Trong các giờ kinh cũng thế, ta chỉ kêu cầu danh Ngài lúc khởi sự nhưng về sau thì không khi nào nhắc đến danh Ngài nữa. Nếu như ta chỉ nhớ và kêu cầu Chúa Thánh Thần cách vắn tắt ở đầu giờ kinh hay chỉ giới hạn hoạt động của Chúa Thánh Thần trong một vài Bí tích đó là điều vô cùng thiếu sót.
Chúa Thánh Thần đã xuất hiện ngay từ buổi đầu cuộc tạo dựng. Trong suốt lịch sử dân Chúa, Ngài luôn hiện diện, trong cuộc đời Chúa Giêsu Ngài luôn đồng hành, và nhất là trong hội thánh Ngài luôn hoạt động, dạy dỗ, ủi an, đổi mới con người. Bài Tông Đồ Công Vụ trình bày sư kiện Chúa Thánh Thần xuất hiện cách bất ngờ và biến đổi cuộc sống các tông đồ đến tận gốc rễ. Tiếng gió ùa mạnh vào cả căn nhà, những hình lưỡi lửa lần lượt đậu trên đầu các ông, ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần.
Ngày nay mỏ dầu, mỏ than là nhưng nguồn năng lượng đang cạn dần trên thế giới và sẽ biến mất đi. Nhưng gió và lửa là nguồn năng lượng vật chất vô cùng phong phú, không bao giờ cạn và luôn mới mẻ. Gió và lửa là biểu tượng cho những nguồn sức mạnh tinh thần, là ơn lành của Chúa Thánh Thần trao ban. Chúa Thánh Thần đến để làm mới lại bộ mặt trái đất. Đổi mới tâm hồn con người để họ rao truyền Nước Thiên Chúa. Hoạt động của Ngài liên lĩ không lúc nào gián đoạn, nghỉ ngơi.
Chúa Thánh Thần đổi mới ý chí các tông đồ.
Từ ngày Chúa Giêsu bị bắt và bị giết chết, các tông đồ sống trong sợ hãi. Các ông đã chối thầy và đã trốn chạy. Cửa nha lúc nào cũng khoá chặt, đóng kín. Chúa Thánh Thần xuất hiện, giờ đây các ông mạnh dạn mở toang cửa phòng, ra đi rao giảng Tin mừng Phục sinh cho hết mọi người. Bị bắt bớ, các ông không sợ. Bị đánh đòn các ông vẫn kien trung. Sau cùng các ông đã dùng chính máu mình làm chứng cho nhưng lời rao giảng. Chúa Thánh Thần hoạt động thật lạ lùng nơi những con người yếu đuối.
Chúa Thánh Thần đổi mới những toan tính bất chính
Làm môn đệ Chúa Giêsu, các ông đều ấp ủ cho riêng mình những ước mơ trần tục. Theo Chúa để được chức trọng quyền cao, theo Chúa để được ngồi bên tả, bên hữu. Ai cũng muốn là người lớn nhất, quan trọng nhất. Các ông theo thầy mà không yêu mến thầy, trái lại chỉ yêu chính bản thân mình. Từ khi được ơn Chúa Thánh Thần các ông đã không còn tranh giành hơn kém, cao thấp nữa. Từ nay các ông hoạt động cho Thiên Chúa và sẵn sàng chết đi vì yêu mến Chúa. Chúa Thánh Thần đã hướng những ước mơ thấp hèn nơi các ông thành những ước mơ cao thượng. Biến đổi những trái tim chai đá thành trái tim bằng thịt. Biến đổi những trái tim chỉ biết yêu mình giờ đây biết yêu rung động yêu thương người khác.
Chúa Thánh Thần biến đổi trí khôn các tông đồ.
Các ông là những người chài lưới, ít học, một chữ cắn đôi cũng không biết. Suốt những năm theo thầy, các ông được dạy nhiều điều nhưng hiểu thì chẳng bao nhiêu. Chúa Thánh Thần hiện đến, trí khôn các ông như bừng tỉnh sau cơn mê kéo dài. Các ông hiểu biết về Chúa, hiểu biết về giáo lý của Chúa và có thể ra đi giảng dạy cho nhiều người thuộc mọi dân tộc khác nhau. Chúa Thánh Thần cho các ông có khả năng nói nhiều tiếng lạ. Các ông say sưa rao giảng đến nỗi nhiều người bảo “họ đầy rượu rồi”. Các ông không say rượu nhưng là đang say Chúa, đang say sưa rao giảng Tin mừng Nước Chúa. Người ta nghĩ các ông điên dại nhưng thực ra các ông đang tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Anh chị em thân mến, Giáo hội được khai sinh từ ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo hội đã có một trang sử kéo dài đã 20 thế kỷ rồi. Giáo hội vẫn tiếp tục cần những luồng gió mạnh của Chúa Thánh Thần ùa đến, lùa vào để đổi mới mọi sự. Mỗi dịp mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một dịp khai sinh mới của Giáo hội. Qua làn hơi, Chúa Thánh Thần trao ban sự sống cho chúng ta. Qua hình lưỡi lửa Chúa Thánh Thần tẩy xoá tâm hồn ta khỏi mọi tội lỗi. Đồng thời Ngài ban sức mạnh để ta trở nên những chứng nhân của Chúa đến tận cùng trái đất.
Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động và biến đổi không ngừng bộ mặt trái đất. Như xưa Ngài biến đổi các tông đồ thế nào, thì hôm nay Chúa Thánh Thần tiếp tục làm cho cuộc sống con người thêm mới bằng cách biến đổi cuộc sống từng người.
Các tông đồ từ chỗ không hiểu biết gì, Chúa Thánh Thần cho các Ngài hiểu biết tất cả. Chúa Thánh Thần cùng sẽ mở trí khôn để ta hiểu biết Lời Chúa, nhận biết thánh ý của Thiên Chúa.
Các tông đồ từ chỗ nhát đảm, sợ sệt, suốt ngày cửa đóng then cài. Khi Chúa Thánh Thần xuất hiện các Ngài đã mở tung cửa và đi rao giảng. Chúa Thánh Thần cũng sẽ thôi thúc ta thi hành điều tốt đẹp cho người khác, mạnh dạn làm chứng cho Chúa ở trần gian.
Các tông đồ từ một trái tim chỉ biết sống cho mình, Chúa Thánh Thần cho các tông đồ một trái tim biết sống cho Chúa và cho người khác. Chúa Thánh Thần đến biến đổi trái tim chúng ta luôn biết yêu thương, gắn kết với hết mọi người trong niềm vui, niềm hy vọng và sự cảm thông.
Anh chị em, cho dù ta muốn hay không muốn, tin hay không tin thì Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong Giáo Hội và biến đổi từng người. Chớ chi ta biết mở mắt tâm hồn để nhận ra bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình. Biết mở rộng tâm hồn để sống theo ơn Ngài thôi thúc hầu cuộc sống được Chúa Thánh Thần không ngừng đổi mới trong yêu thương, sẵn sàng làm chứng cho Tin Mừng Nước Chúa ở trần gian.
23. Anh em biết Người, vì Người luôn ở trong anh em
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Trước khi về với Chúa Cha, và trong quyền năng của Đấng Phục Sinh, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ Thần Khí của Người, ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần!”; vậy thì Thánh Thần là ai mới được?
Phúc âm ghi lại hai từ vựng Đức Giêsu dùng để chỉ nhân vật này: ‘Thần Khí’ (Divine Spirit) có nguồn gốc Cựu Ước, và ‘Đấng Bảo Trợ’ (Paraclet) một danh xưng hoàn toàn mới.
Trong Cựu Ước thần khí Chúa có nghĩa là ‘sức mạnh của Đức Chúa’, tức đơn thuần là một thuộc tính của Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ Tân Ước của Đức Giêsu, Thần Khí là một nhân vật biệt lập: Thánh Thần (Holy Spirit) xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Và còn hơn thế nữa, khi chuyển từ Cựu Ước qua Tân ước, chính nội dung của thuộc tính ‘sức mạnh’ cũng đã bị thay đổi hầu như hoàn toàn: từ sức mạnh của quyền uy biến thành sức mạnh của lòng thương xót, từ sức mạnh của phán quyết xét xử trở thành sức mạnh của cứu độ thứ tha. Chính vì lẽ đó mà một danh xưng mới cần được chế tác để biểu thị nhân vật này đó là: ‘Đấng Bảo Trợ’.
Đương nhiên là hiểu được nội dung của từ vựng mới này (nguyên ngữ Hy Lạp là parakletos) không phải chuyện đơn giản; đây đã từng là điều gây tranh cãi giữa các nhà chú giải và dịch thuật Thánh Kinh. Tác giả Gio-an đã sử dụng từ vựng này cả trong cuốn Phúc âm thứ tư lẫn trong lá thư thứ nhất của ngài (xem Ga 14:16.26, 15:26,16:7, 18:36; và 1 Ga 2:1). Danh xưng này được áp dụng cho chính Đức Giêsu trước hết, và cho nhân vật sẽ được Người phái đến sau này: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một ‘Parakletos’ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16). Parakletos có thể hiểu là người bênh vực, là trạng sư, là cố vấn, là người an ủi đỡ nâng, là người đứng về phe kẻ tin trước tòa án tối cáo để khỏi bị kết án… Trong 1 Ga 2:1 chính Đức Giêsu được gọi bằng danh xứng Parakletos: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha; đó là đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính”. Do đó, Thánh Thần chỉ là ‘Đấng Bảo Trợ khác’ (Allon Parakleton) được phái đến sau khi Đức Giêsu trở về nhà Cha.
Thánh Thần chính là: ‘khí lực cứu độ và thứ tha của Đức Kitô Giêsu’. Hiểu biết Thánh Thần trong nội dung đó quả là điều tối quan trọng. Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu, suốt cuộc sống và nhất là qua cái chết thập giá của Người, chỉ là biệu hiện và thực thi lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa là Cha; do đó chỉ trong Thần Khí, Kitô hữu mới thật sự thấu hiểu được một Thiên Chúa từ nhân, như Đức Giêsu muốn mạc khải cho biết: “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều” (Ga 14:26). Sau ngày Đức Giêsu về trời, điều kiện tối cần để trở thành môn đệ chính là nhận lãnh Đấng Bảo Trợ này, “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”; về điều này Đức Giêsu khảng định cách thẳng thắn: “Thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14:17). Như vậy, Thánh Thần không phải là một nhân vật xa lạ gì đối với các tín hữu: Người hòa nhập vào niềm tin của mỗi Kitô hữu đặt nơi Đức Giêsu - Parakletos. Thánh Phao-lô đã hiểu và diễn tả Thánh Thần như thế trong tất cả các thư của ngài (đặc biệt xem Rm 8:15 và Gl 4:6).
Đức Giêsu trước khi ra đi để về với Cha, đã hứa ban Đấng Bảo Trợ của Người cho các môn đệ; sau khi sống lại từ cõi chết Người đã thổi hơi Thánh Thần trên môn đệ; trong ngày lễ Ngũ Tuần, Parakletos - Thánh Thần đã bốc cháy dữ dội trên các tông đồ và mọi kẻ tin (với tâm điểm hiện diện là Đức Maria); và thế là niềm tin vào Giêsu - Paracletos bắt đầu bùng lên trên khắp mặt đất. Kể từ ngày đó, Hội thánh trở thành một tập thể những người được Thánh Thần tác động, để có thể tuyên xưng và loan truyền cho mọi người, mọi thế hệ biết: “Giêsu Kitô là Cứu Chúa”, là Thiên Chúa - Đấng từ nhân.
Rồi cũng trong tác động của cùng một Thánh Thần này, mà Đức Maria - đệ nhất tín hữu đã được các thế hệ Kitô hữu sau này cầu khẩn dưới danh xưng ‘trạng sư’ (advocata nostra); tước hiệu này quả xác đáng lắm thay! Nhưng không chỉ Đức Maria, mà toàn thể Hội Thánh và mỗi Kitô hữu chúng ta, đặc biệt các linh mục của Đức Kitô trong Thần Khí, cũng phải trở thành người bảo trợ - trạng sư (parakletos - advocatus) cho những người nghèo khổ và tội lỗi nhất, để minh chứng cách cụ thể rằng Thánh Thần Chúa vẫn còn tiếp tục hiện diện cách sinh động giữa lòng nhân thế. Don Bosco đã từng là như thế đối với các thanh thiếu niên nghèo và bị bỏ rơi; do đó ngài đòi các tu sĩ Sa-lê-diêng của mình chính xác điều này: ‘trở thành dấu chỉ và người mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Cũng vậy, rất nhiều vị thánh khác như cha sở họ Ars - thánh Jean Marie Vianney, hay Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta đã đối sử với các tội nhân đớn hèn và những kẻ cùng khổ, thông qua việc trao ban bí tích giải tội và các việc bác ái phục vụ. Chính qua việc thể hiện mình là ‘parakletos’ mà chúng ta có thể đo lường được đức tin của mình và sức sống Thánh Thần trong ta!
Lạy Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, xin hãy ở lại trong con bằng sức mạnh yêu thương mà chính Người đã nhận được từ Đức Kitô Giêsu; xin Người nối kết con với Đức Giêsu Thập Giá, để con có thể đón nhận cách trọn vẹn sự bảo trợ thần linh của Người. Trong và nhờ sự dẫn dắt của Mẹ Maria, xin hãy biến đổi con, và mọi phẩm trật trong Hội Thánh Chúa, được trở thành các tác nhân mang lại niềm hy vọng và cậy trông cho hết thảy mọi người, đặc biệt những ai tội lỗi, yếu đuối và nghèo hèn nhất… trong tác động mãnh liệt của Người là Thánh Thần bảo trợ và là Đấng ủi an. Amen.
24. Thần Khí sự thật và sự thật toàn vẹn
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Tôi vẫn thường thắc mắc về ý nghĩa hay nội dung đích thực của ‘sự thật toàn vẹn’. Nhiều bản văn Thánh Kinh Anh ngữ dùng các từ ‘all truth, whole truth, all the truth’ để dịch từ ‘aletheia pase’ tiếng Hy Lạp. Đối với tôi, vấn đề chính ở đây là xác định được nội dung của ‘sự thật’ hay ‘chân lý’ mà Đức Giê-su nhiều lần đề cập tới, thậm chí có lúc còn tự đồng hóa mình với aletheia (xem Ga 14:6). Nói như thế vì tôn giáo nào cũng thường cho mình là dạy dỗ sự thật, hoặc mình thủ đắc chân lý duy nhất đúng, và đề ra cả một hệ thống thuyết giáo phức tạp để quảng diễn chân lý hay sự thật đó. Trong lãnh vực này, thiết tưởng đạo Công giáo chúng ta cũng không là ngoại lệ.
Thế nhưng nếu có thứ chân lý của hiểu biết, thì cũng có chân lý hay sự thật của cứu rỗi. Khi tuyên bố với các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô rằng: ông đã rao giảng cho họ ‘tất cả ý định của Thiên Chúa’, Phao-lô chỉ đơn thuần khảng định rằng, ông rao truyền cho họ tất cả những hiểu biết cần thiết để tiến tới ơn cứu độ (Cv 20:17-35). Ông cũng nói với các tín hữu Cô-rin-tô rằng: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu… mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì!” (1 Cr 13:2). Chính Đức Giê-su đã từng khảng định rằng: có sự thật giải thoát, có chân lý thánh hóa’ (Ga 4:22; 17:17-19). Trong cuộc đối đáp giữa Người với Phi-la-tô, thuật ngữ ‘sự thật’ đã được hai người hiểu rất khác nhau là thế. Rõ ràng ‘chân lý toàn vẹn’ không thể chỉ là hiểu biết, mà phải là ‘sự thật cứu rỗi’.
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Có điều gì các môn đệ không chịu nổi hay chậm hiểu? Các lý luận thần học hay các tín lý trong đạo chăng? Đương nhiên là mấy ông môn đệ đó khó có thể hiểu nổi…, nhưng Đức Giê-su đâu có đòi điều này nơi những người bình dân chất phác như các ông. Không, tất cả các ông đều đang đi tìm sư cứu rỗi cho mình và cho toàn dân Ít-ra-en; tuy nhiên cũng như phần đa các người Do Thái khác, các ông cho rằng sự cứu rỗi rõ ràng hệ tại ở việc tuân giữ lề luật. Thực hiện Giao Ước với Gia-vê như thể con đường duy nhất dẫn tới giải thoát, cả về mặt chính trị lẫn thiêng liêng. Vấn đề ở đây là, làm sao các ông chịu hiểu ra rằng, sự cứu rỗi và giải thoát duy nhất phải tới từ Đức Ki-tô, từ cuộc tử nạn của Người, vì qua đó Thiên Chúa mới biểu lộ được trọn vẹn tình yêu và lòng nhân ái của Người?
Rõ ràng, khi giáo huấn các môn đệ bằng các dụ ngôn và lời giảng dạy, Đức Giê-su cố giải thích cho các ông hiểu nội dung cứu rỗi này. Người coi việc thực hiện trước mắt các ông nội dung này, qua việc chính các ông phải là những chứng nhân của cuộc tử nạn và thập giá Người chịu, là điều tối quan trọng. Tiếp theo, trong suốt thời gian sau khi sống lại, Người vẫn không ngừng giải thích cho các ông hiểu sự thật giải thoát này. Tuy nhiên xem ra các ông vẫn chưa thấm; đúng là các ông không có sức chịu nổi, và sẽ chẳng bao giờ chịu nổi, bao lâu còn bị truyền thống xã hội và tôn giáo ngàn năm bao vây. Do đó Đức Giê-su thấy cần phải “sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha… một Đấng Bảo Trợ”. Công việc chính của Đấng này là ‘làm chứng về Thầy’, là làm cho Đức Giê-su được nhận biết, nhất là qua cuộc tử nạn thập giá và phục sinh Người, như dấu chỉ chân thực nhất của mạc khải vĩ đại ‘Thiên Chúa đã yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một Người…’ (Ga 3:16). Phải chăng ‘sự thật toàn vẹn – all truth - aletheia pase’ hệ tại chính ở điều này, đó là sự thật của cứu rỗi giải thoát, chứ không chỉ là sự thật của hiểu biết suy tư? Và sự thật này thì chỉ Thần Khí Chúa mới ‘dẫn’ tới được! Phao-lô từng khảng định với các Ki-tô hữu gốc Do Thái đang sinh sống tại Rô-ma rằng: không có Thần Khí này, họ vẫn chỉ là ‘nô lệ và phải sợ sệt như xưa’, nhưng một khi lãnh nhận Thần Khí “Anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên Áp-ba! Cha ơi!” (Rm 8:14-17). Chính vì thế mà Đức Giê-su gọi Chúa Thánh Thần là ‘Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha’ (Ga 15:26). Và công việc của Thánh Thần không chỉ là dạy dỗ các tín hữu biết mọi lẽ đạo, mà phải là ‘làm chứng về Thầy…’, và ‘cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu’.
Thần học hay giáo lý, chủ yếu vẫn là công việc của trí tuệ và hiểu biết của con người. Điều mà cá nhân tôi và mọi ki-tô hữu thực sự cần là ‘sự thật toàn vẹn’, có sức cứu roi và giải thoát. Vì thế sống Thánh Thần liên tục là điều kiện thiết yếu để tôi vun trồng niềm tin yêu vào Thiên Chúa cứu độ trong Đức Ki-tô Giê-su… và biến đời tôi thành nhân chứng sống động của tình yêu nhân hậu đo. Vì từng là một linh mục của thần học và trí tuệ, tôi càng có khuynh hướng coi sự thật chỉ là hiểu biết và lý luận; chính vì thế mà tôi càng cần xác tín về ‘sự thật cứu rỗi’ này và nhận ra sự cần thiết tuyệt đối cua nó, nhất là cho chính mình.
Lạy Đấng Bảo trợ là Thánh Thần Thiên Chúa đang hiện diện nơi thẳm sâu cõi lòng con, xin không ngừng dẫn con tới ‘sự thật toàn vẹn’ mà rất nhiều khi con bị trí tuệ làm cho quên lãng. Trong mọi hoàn cảnh, nhất là giữa những thử thách yếu đuối và sa ngã, xin hãy cứ tiếp tục ‘rên siết khôn tả’ trong con (Rm 8:26), cho tới khi con dám chân thành mở miệng thốt lên từ đáy lòng mình: ‘Áp-ba! Cha ơi!’ Amen.
25. Đấng Bao trợ – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Một câu chuyện vui kể lại, có anh thanh niên đang học giáo lý dự tòng, khi học kinh Chúa Thánh Thần, anh học mãi mà không thuộc. Khó nhất là nhiều lần cứ lặp đi lặp lại “Chúa Thánh Thần xuống… Chúa Thánh Thần lại xuống….”. Anh sốt ruột nói với bà xơ dạy giáo lý: “Sao không thấy Chúa Thánh Thần lên mà thấy cứ xuống hoài?” Bà xơ trả lời: “Nếu Chúa Thánh Thần mà lên thì thế giới này sẽ bị hủy diệt còn ghê gớm hơn là bom nguyên tử!”
Kinh Chúa Thánh Thần nhắc lại một biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ: đó là ngày lễ Ngũ Tuần, khi Chúa Thánh Thần đến để canh tân Giáo Hội. Kể từ ngày ấy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện để nâng đỡ và bảo trợ Giáo Hội. Sở dĩ người tín hữu cầu xin Chúa Thánh Thần, vì họ xác tín rằng, mọi hoạt động, nếu muốn thành công, cần có ơn của Chúa Thánh Thần, vì Ngài là Đấng Bảo trợ.
“Thày sẽ sai Đấng Bao trợ đến với anh em” (x.Ga 16, 7). Chúa Thánh Thần đã đến để quy tụ nhóm các môn đệ đang hoang mang sợ hãi, biến đổi lòng họ và làm cho họ trở thành những nhân chứng trung kiên của Đấng Phục Sinh.
Lịch sử Giáo Hội, nhất là mở miền Bắc Việt Nam, chứng minh sức mạnh kỳ diệu của Chúa Thánh Thần. Trong những năm tháng khó khăn, thiếu vắng linh mục, không có lớp giáo lý, không có những hoạt động tông đồ, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn âm tham hoạt động. Ngài tác động nơi những ông trùm, bà quản, văn hóa rất khiêm tốn, nhưng lại mạnh mẽ lạ thường. Lý lẽ của họ rất đơn giản mà mang tính thuyết phục. Kiến thức của họ rất sơ sài mà lại là nền tảng cho một đức tin chắc chắn. Có những cụ ông cụ bà đạo đức thánh thiện truyền lại đức tin cho con cháu chỉ bằng những lời kinh đơn sơ. Nhờ những “chứng nhân đức tin” này mà biết bao ngôi thánh đường được gìn giữ, biết bao cộng đoan đức tin được duy trì, tồn tại ….. Chúa Thánh Thần hoạt động nơi người tín hữu và ban cho họ sức mạnh, soi sáng cho họ biết những gì cần phải làm. Giáo Hội tồn tại là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, thông qua những con người bình dân và trung tín ấy. Là Đấng Bảo trợ, Chúa Thánh Thần luôn hướng dẫn và làm cho Giáo Hội phát triển.
Và hôm nay, hai mươi thế kỷ sau sự kiện Ngũ Tuần, Ngôi Ba Thiên Chúa vẫn đang từng giờ từng phút bảo trơ Giáo Hội và làm cho Giáo Hội sống. Cũng như Chúa Thánh Thần luôn làm cho vũ trụ được sống, Ngài cũng luôn luôn thông truyền sức sống siêu nhiên cho Giáo Hội “Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất” (Tv 103,29). Nếu một ngày nào đó, không có ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ, Giáo Hội sẽ trở thành xác không hồn. Chính Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội của Chúa Ki-tô lan tỏa một vẻ đẹp diệu kỳ. Vẻ đẹp ấy thể hiện qua tình hiệp nhất giữa các tín hữu, qua sức mạnh của đức tin, qua tính linh thiêng của những nghi thức phụng vụ. Chúa Thánh Thần còn làm cho vẻ đẹp Giáo Hội rạng ngời nơi khuôn mặt và cuộc đời các tín hữu, giúp họ dấn thân hy sinh, kiên vững trung thành sống chết vì Chúa.
Sách Giáo lý của Giáo Hội công giáo đã liệt kê những biểu tượng chỉ Chúa Thánh Thần như: nước, sự xức dầu, lửa, áng mây và ánh sáng, dấu ấn, bàn tay, ngón tay, chim bồ câu. Tất cả những biểu tượng trên diễn tả những nhu cầu cần thiết để con người có thể sống trên trần gian. Thế gian sẽ vắng bóng sự sống nếu không có Chúa Thánh Thần. Cuộc sống con người sẽ mất định hướng nếu không có Chúa Thánh Thần.
Ca Tiếp liên của phụng vụ hôm nay cũng diễn tả những hoạt động đa dạng của Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài luôn thực thi sứ mạng “bảo trợ” trong suốt đời sống con người và đời sống đức tin “Nếu không có Chúa hộ phù, trong con người còn chi thanh khiết?”.
Nhờ sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần mà các tín hữu được liên kết với nhau trong tình hiệp thông. “Tất cả chúng ta đã lãnh nhận cùng một Thần Khí duy nhất là Thánh Thần, nên một cách nào đó chúng ta được kết hợp với nhau và với Thiên Chúa. Mặc dầu chúng ta nhiều người và mặc dầu Đưc Ki-tô đã làm cho Thần Khí của chúa Cha và của Người cư ngụ trong mỗi người chúng ta” (thánh Cyrillô thành Alexandria). Bài đọc I và bài đọc II trong Phụng vụ đều diễn tả vai trò của Chúa Thánh Thần là Đấng liên kết moi tín hữu nên một. Lễ Ngũ Tuần hàn gắn những chia rẽ đổ vỡ của thời Ba-ben trong Cựu ước. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội sống động như một thân thể, gồm nhiều chi thể khác nhau, nhưng cùng chung một sự sống.
Việc nhận lãnh Chúa Thánh Thần giúp người tín hữu thực hiện được biết bao điều kỳ diệu. Khi Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần cho các môn đệ, Người cũng ủy thác cho các ông quyền tha tội và cầm buộc và biết bao quyền năng khác, đến nỗi các ông có thể làm được phép lạ, như chính Chúa Giêsu đã làm. Khi chúng ta được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ thực hiện được những “phép lạ” trong cuộc sống, đó là vượt lên sự chết, canh tân đổi mới cuộc đời để sống cuộc sống mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến canh tân cõi lòng chúng con. Xin soi sáng cho chúng con và mọi người trong thế giới hôm nay, để hết thảy cùng chung tay xây dựng một thế giới an bình hạnh phúc. Amen.
26. Tặng phẩm Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hãng tin Catholic News Service cho biết: Một trong rất nhiều khoảnh khắc thu hút sự chú ý của báo giới là lúc trao đổi quà lưu niệm giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và tổng thống Obama.
Tổng thống Mỹ tặng Đức Thánh Cha một hộp đầy hạt giống các loại cây và rau được trồng khu vườn của Nhà Trắng.
Ngoài ra, tổng thống Mỹ còn chuyển tới Đức Thánh Cha món quà của tổ chức Thomas Jefferson’s Monticello. Đó là số hạt giống đủ để sản xuất vài tấn sản phẩm. Quà này sẽ được Đức Thánh Cha giao lại cho bất kỳ tổ chức nhân đạo nào mà Đức Thánh Cha chọn.
“Mòn quà là ghi nhận những nỗ lực của Đức Thánh Cha khi gieo trồng những hạt giống hòa bình cho các thế hệ tương lai”. Phát ngôn viên Tòa Thánh cho biết như vậy.
Đức Thánh Cha tặng lại tổng thống hai huy chương lớn bằng đồng, có hình một thiên thần- biểu tượng cho sự đoàn kết và hòa binh. “Vị thiên thân đang ôm ấp và bảo vệ trái đất trước sự lấn tới của con quái thú”. Vatican cho biết như vậy.
Chúa Giêsu cũng tặng cho nhân loại một quà tặng vô giá là Chúa Thánh Thần. Ngài chính là sứ giả của hòa bình, của hiệp nhất yêu thương. Ngài là biểu tượng của hòa bình. Ngài là hạt giống của hòa bình được gieo vào nhân gian.
Chúa Thánh Thần là món quà vô giá vì Ngài là chính Chúa Ngôi Ba, là một trong Ba Ngôi hằng có đời đời. Ngài hiện diện sống động trong hoàn vũ, trong mọi công trình tạo dựng đều có sự tác động của Ngài. Ngài cũng trở nên sống động nơi mỗi người nếu biết đón nhận Ngài và để cho Ngài hoạt động theo chương trình của Ngài.
Chúa Thánh Thần được ban cho Giáo Hội. Giáo Hội thông ban Chúa Thánh Thần đến cho các tín hữu. Các tín hữu có bổn phận làm cho ơn ban là Chúa Thánh Thần được sinh hoa kết trái trong chính đời sống hằng ngày của mình. Mỗi người tín hữu đều được lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong bí tích Rửa Tội và được lãnh nhận một cách tròn đầy qua bí tích Thêm sức. Nhờ đó mỗi người sẽ được Chúa Thánh Thần tác động trở nên chứng nhân cho Tin mừng.
Trong công trình tạo dựng mọi sự đều tốt đẹp là nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Trong việc khai sinh Hội Thánh cũng nhờ Chúa Thánh Thần đã biến đổi các tông đồ nên một con người mới, có khả năng canh tân thế giới. Chính nhờ Chúa Thánh Thần đã thổi tan những sợ hãi nơi các môn đệ để các ngài dấn thân rao giảng Tin mừng.
Thực vậy, các tông đồ là những người yếu đuối, đầy bất toàn, thế nhưng nhờ ơn Chúa Thánh Thần các ngài trở nên mạnh mẽ, can trường. Các ngài còn trở nên tác nhân chính để canh tân bộ mặt trái đất. Thử hỏi, nếu không có ơn Chúa Thánh Thần làm sao các tông đồ có thể chu toàn sứ vụ Chúa trao trong thời kỳ bách hại đầy nguy nan. Có những cuộc bách hại đẫm máu nhưng các ngài vẫn xác tín: “Máu của các thánh tử đạo sẽ trổ sinh muôn vàn các tín hữu”. Các ngài đã vượt qua nỗi sợ hãi để can trường làm chứng cho Tin mừng. Nhất là nhờ Chúa Thần Thần đã bù đắp những khiếm khuyết bất toàn nơi các Tông đồ để các ngài có đủ năng lực chu toàn sứ vụ Chúa Giêsu đã trao.
Hôm nay, mừng kính Chúa Thánh Thần là dịp nhắc nhở chúng ta về hồng ân cao quý này. Hãy biết đón nhận Chúa Thánh Thần. Hãy để Chúa Thánh Thần canh tân đổi mới cuộc đời chúng ta. Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng canh tân bộ mặt trái đất. Hãy cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để đoi mới trần gian. Ước gì mổi người chúng ta đều được Chúa Thánh Thần thánh hóa thành con cái Chúa thì cũng được Chúa Thánh Thần thúc đẩy ra đi loan báo tin mừng. Ước gì chúng ta cũng trở thành chứng nhân cho thế giới về tình yêu, sự hiệp nhất, bình an mà Chúa Thánh Thần sẽ mang đến cho trần gian. Amen.
27. Thần Linh nối kết trời đất
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có ai đó nói rằng: “Nếu cuộc đời vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách”.
Nhưng nhờ Thánh Linh, Thiên Chúa đã ngỏ lời với con người. Ngài hiện diện giữa con người. Ngài trở nên gần gũi với con người. Nhờ Thánh Linh mà con người có thể tiếp xúc với Thiên Chúa một cách thân tình, gần gũi trong tình cha con.
Lần giở lại những trang đầu của Kinh Thánh, nhờ thần khí Chúa mà thế gian hết u minh. Bóng tối bị đẩy lùi. Thiên Chúa đã viếng thăm trái đất và ở lại cùng trái đất. Thần Linh Chúa đã làm nên sức sống cho địa cầu. Thần Linh Chúa bay lượn trong cõi u minh và nhờ đó mà mọi loài được đi vào trật tự, vào quy trình của sự sống, và Thiên Chúa đã và đang hoạt động trên mọi loài Ngài đã dựng nên nhờ Thần Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Qua Tân ước, cũng nhờ quyền năng của Thánh Linh mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã hiện diện trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Từ nay, Thiên Chúa trở nên con người giống như con người. Thiên Chúa lưu lại nơi con người qua thân xác con người. Thiên Chúa trở thành Emanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Thiên Chúa trở nên mọi sự cho mọi người, khi Ngài dấn thân phục vụ mọi người, khi Ngài ban phát ơn lành đến cho mọi người. Nhờ Thánh Linh mà con người nhận lãnh được biết bao ơn huệ của Thiên Chúa ban xuống cho con người. Cũng chính nhờ Thánh Linh đã phục sinh Đức Ky-tô từ cõi chết sống lại. Nhờ Thánh Linh mà Đức Ky-tô đã vinh thăng khải hoàn về trời.
Ở thời đại này, người ta tin ở tài năng của con người, ở kỹ thuật của con người, ở tiền vàng đô la hơn là tin ở quyền năng vô biên của Chúa Thánh Linh. Thế nhưng, Giáo hội vẫn tin rằng: sự hình thành và phát triển của mình là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Linh. Thử hỏi, sau khi Đức Kitô về trời, Hội Thánh tiên khởi vỏn vẹn chỉ có 12 tông đồ, với hai bàn tay trắng và một số vốn kiến thức không đáng gì, nhưng các ông đã ra đi trong lòng tin vào Chúa Thánh Linh. Thế mà chưa đầy ba mươi năm sau, Tin Mừng đã đi đến tận cùng trái đất khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem – dọc Địa Trung hải – lan tỏa khắp Châu Âu... Dù rằng nhân sự không được đào tạo như hôm nay, để trở thành một linh mục cũng mất hơn mười năm, Thế nhưng, ngày đó: “Trong mỗi Hội Thánh các ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, các ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin” (Cv 14,23), vì các tông đồ tin rằng chính Thiên Chúa đã mở cửa đức tin cho dân ngoại chứ không phải các ngài. Chính Chúa Thánh Linh đào tạo con người tông đồ và sai đi.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải tin vào sự hiện diện của Thánh Linh đã làm nên Hội Thánh. Một Hội Thánh kiên vững giữa thế gian đầy gian ác luôn muốn loại trừ Hội Thánh. Một Hội thánh tinh tuyền dù rằng sống giữa thế gian đầy bóng tối của dâm ô, sa đọa. Chúa Thánh Linh đã được ban xuống cho các tông đồ qua Đức Giê-su. Chính Đức Giêsu Phục Sinh đã “thổi hơi trên các Tông Đồ, ban Thánh Thần và bình an”. Và nhờ Thánh Thần liên kết họ lại với nhau trong một Giáo hội Công giáo - Duy nhất - Thánh thiện và Tông truyền. Nhờ Chúa Thánh linh mà Giáo hội đã quy tụ muôn dân gồm đủ mọi sắc tộc, màu da thành một cộng đoàn những người tin theo Chúa Ky-tô và cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa.
Như thế, sứ mạng của Chúa Thánh linh là nối kết con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Nhờ Thánh linh mà con người được dìm mình trong lòng thương xót của Chúa. Nhờ Thánh Linh mà con người được sống sung mãn trong nguồn ân thánh của Thiên Chúa. Cũng nhờ Thánh Linh mà con người trở nên một gia đình của Thiên Chúa, là anh chị em với nhau và cùng tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Bên cạnh đó, hoa trái của Thần Khí chính là: “yêu mến, vui mừng, bình an, quảng đại, tốt lành, lương thiện, tín trực…” Kitô hữu nào đón nhận Thánh Thần Chúa Kitô, thì có khả năng thông ban sự vui mừng, bình an của ơn cứu độ sang người khác. Vì thế, nơi nào có Thần Khí Chúa Kitô Phục Sinh, thì nơi đó có yêu mến, vui mừng và bình an. Nơi nào không có Thần Khí Đức Kitô, thì nơi đó chỉ có xôn xao, gay gắt, ganh tỵ, dè chừng lẫn nhau và mất bình an vô tận.
Thế nên, là người ky-tô hữu chúng ta phải được lãnh nhận Chúa Thánh Linh. Nhờ Thánh Linh mà ta có thể đón nhận Đức Ky-tô và trở nên sứ giả hòa bình của Đức Ky-tô. Ước gì chúng ta biết nhận ra hồng ân của Chúa Thánh Linh để luôn dâng lời tạ ơn Chúa, đồng thời biết sống theo sự dẫn dắt của Thánh Linh mà bước theo chân lý vẹn tuyền để trở thành một sứ giả của bình an, hoan lạc cho thế gian.
Nguyện xin Chúa Thánh Linh ngự đến tràn đầy trong tâm hồn chúng con. Xin ban cho chúng con thần trí của Chúa để chúng con luôn biết khôn ngoan chọn lựa những giá trị vĩnh cửu hơn là những vinh hoa phú quý trần gian mau qua. Xin cho chúng con luôn tràn đầy Chúa Thánh Linh để chúng con hân hoan ra đi gieo rắc niềm vui và bình an đến cho muôn người. Amen.
28. Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ Giáo Hội
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Tạ Duy Tuyền)
Nhìn lại lịch sử với những thăng trầm, với những sóng gió, với những bóng tối của Giáo hội, đôi lúc người ta tưởng Giáo Hội đã tàn lụi. Người ta tưởng thế gian đã chiến thắng. Giáo hội của Chúa sẽ tan rã thê lương. Có những lúc kẻ cường quyền đã đè bẹp Giáo hội bằng những sắc chỉ cấm đạo, bằng những án tử hình ghê rợn, nhưng bạo chúa nào rồi cũng qua đi. Giáo hội vẫn tồn tại. Có những lúc Giáo hội đi vào những khúc quanh đen tối của dòng lịch sử khi mà thế quyền điều khiển Giáo hội, Giáo hội chỉ là con cờ trong tay chính quyền sai khiến, thế nhưng triều đại nào rồi cũng qua đi, bàn tay Thiên Chúa vẫn dẫn dắt Giáo hội đi theo thánh ý Chúa. Có những lúc Giáo hội tưởng như đã đổ xập xuống khi mà người điều hành Giáo hội lại sống thiếu bổn phận, thiếu trong sạch và đạo đức, nhưng Thiên Chúa vẫn giúp Giáo hội vượt qua những khủng hoảng, những mây mù đen tối để có thể tiếp tục bay cao, bay xa và đi đến tận cùng trái đất.
Giáo hội vẫn trường tồn qua mọi thời đại dầu có phải đương đầu với bao khó khăn, bất trắc và hiểm nguy vì linh hồn của Giáo hội chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa mãi hằng sống. Thiên Chúa vẫn hiện hữu giữa lòng Giáo hội. Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng thế gian. Ngài hứa ở cùng Giáo hội mọi ngày cho đến tận thế. Ngài là sức mạnh của Giáo hội đến nỗi cửa hoả ngục cũng không thắng được. Ngài là thành luỹ chở che Giao hội giữa những phong ba bão tố cuộc đời. Ngài còn ban cho Giáo hội Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần hằng hoạt động trong lòng Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ bù đắp lại chỗ khiếm khuyết của Giáo Hội. Chính quyền năng Chúa Thánh Thần sẽ hiển trị nơi sự yếu hèn của những phần tử trong Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ uốn nắn những tư tưởng, những đường lối lệch lạc, sai lầm của con người phải thuận theo thánh ý Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã từng chứng minh cho thấy: con người từng toa rập với ma quỷ để phá đổ chương trình của Chúa, nhưng Thiên Chúa đã sửa sai và làm cho tốt hơn. Điển hình là tội của Adam đã phá vỡ những điều tốt đẹp trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã biến thành Tội Hồng Phúc để ban Đấng Cứu Thế cho nhân trần. Giuse đã từng bị các anh bán qua Ai Cập, nhưng đó lại là cơ hội để cứu giúp cho cả dòng tộc Giacop... Va còn, còn rất nhiều những lần Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử để đưa lịch sử trở về với chương trình của Thiên Chúa.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy tin vào quyền năng Chúa Thánh Thần. Hãy hân hoan bước đi trong lòng Giáo hội vì vẫn có bóng Thánh Thần che phủ trên hành trình Giáo hội. Giáo hội không thuộc về con người, nên cường quyền, thế quyền và thế lực của ma quỷ không thể làm cho Giao hội biến chất hay hư hoại. Thế gian luôn thù ghét Giáo hội. Thế gian luôn tìm cách phân chia Giáo hội. Vì Giáo hội thuộc về Thiên Chúa nên thế gian tìm cách loại trừ. Chúa Giêsu Ngài đã biết trước những khó khăn sẽ tới với Giáo hội, Ngài đã ban Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ đến để gìn giữ, canh tân Giáo hội. Chúa Thánh Thần là Thầy dạy chân lý sẽ bảo vệ đức tin và hướng dẫn Giáo hội đi trong chân lý vẹn tuyền. Sự hiên diện của Chúa Thánh Thần trong lòng Giáo hội như muốn nói với chúng ta: Giáo hội không tồn tại bởi những con người cụ thể. Giáo hội càng không phát triển dựa vào tài trí một con người nào đó. Giáo hội luôn được lớn mạnh vì có sức sống thần linh của Ngôi Ba Thiên Chúa hoạt động trong Giáo hội.
Thực vậy, có ai nghĩ rằng chỉ vỏn vẹn 12 tông đồ yếu kém về trình độ học thức, về nghị lực lại có thể mang tin mừng Chúa trải rộng khắp Năm Châu? Có ai nghĩ rằng Phêrô vụng về năm nào lại có thể mang về cho Nước Chúa biết bao mẻ cá kỳ diệu là các tín hữu ky-tô? Có ai nghĩ rằng Giáo hội phát triển không nhờ tài trí con người, không nhờ những thoả hiệp với thế gian, những bổng lộc của vua quan mà Giáo hội phát triển, vươn lên mạnh mẽ qua những gian truân, những nước mắt và máu đổ, như lời Tertuniano đã từng nói: "Máu các thánh tử đạo sẽ làm trổ sinh các tín hữu"? Ở thế kỷ 20, có ai ngờ rằng biểu tượng sáng giá cho đời sống chứng nhân tin mừng lại nằm trong một con người nữ tu nhỏ bé thành Calcutta là Mẹ Têrêsa? Tất cả những điều kỳ diệu đó đều là hồng ân của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có thể biến các tông đồ nhút nhát thành can trường. Chúa Thánh Thần có thể ban ơn khôn ngoan cho những con người yếu hèn để họ có thể làm việc của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cũng có thể biến đổi kẻ từng bách hại đạo thành Chúa thành một tông đồ nhiệt thành ra đi mở mang Nước Chúa.
Vì thế, là người ky-tô hữu thiết tưởng chúng ta đừng nhìn Giáo hội với con mắt trần thế, chúng ta sẽ không thấy tương lai. Vì Giáo hội vẫn còn bất cập, vẫn còn những lập trường cá nhân hàm hồ, vẫn còn những khiếm khuyết nên có thể chúng ta sẽ thất vọng về những gì đang diễn ra trong Giáo hội. Hãy nhìn Giáo hội với con mắt của đức tin để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn trung thành với Giáo hội. Chúa sẽ có cách để gìn giữ Giáo Hội. Chương trình của Chúa chắc chắn sẽ cao hơn những gì chúng ta thấy, chúng ta nghĩ. Tư tưởng của Chúa luôn là sự kinh ngạc đến lạ thường mà con ngươi mãi mãi không thể hiểu được! Hãy tín thác vào Chúa để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn đứng về phía Giáo hội để cầu nguyện, để bảo vệ, để giúp Giáo hội vượt qua những khó khăn trước mắt. Đừng ngồi đó để nguyen rửa nhau hay giận dỗi nhau, nhưng hãy cùng nắm tay nhau đi chung một con đường có tên Giêsu. Con đường của Giêsu là con đường âm thầm, mục nát để đem lại sự sống cho đời. Con đường của Giêsu đến để phục vụ chứ không tìm vinh quang cho mình. Con đường đó Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy trở nên như muối men giữa đời làm cho đời tốt hơn chứ không đảo lộn thế gian. Đừng bắt ai theo quan điểm của mình. Đừng lôi kéo ai theo phe nhóm mình. Hãy tìm lối sống hoà hợp giữa thế gian. Không hoà tan nhưng vẫn giữ được giá trị của phúc âm từ chính đời sống hiệp nhất yêu thương trong lòng Giáo hội.
Ngày 28 tháng 10 năm 1958, Đức hồng y Angelo Giuseppe Rollcali lên ngôi giáo hoàng lấy tước hiệu Gioan 23. Một ông lão không tiếng tăm lên lãnh đạo Giáo hội, nhiều người nghĩ rằng sẽ chẳng có gì mới với một ông lão gần đất xa trời. Thế nhưng, ông lão này đã làm nên một kỳ diệu được coi là le Chúa Thánh Thần hiện xuống lần thứ hai khi Ngài triệu tập công đồng Vaticano II để canh tân Giáo Hội. Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những việc kỳ diệu cho dân Người. Chúng ta hãy hân hoan bước đi trong niềm tín thác vào Chúa. Và với lòng cậy trông chúng ta cùng thưa lên cùng Chúa Thánh Thần: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến thánh hoá chúng con trong chân lý và tình thương". Amen.
29. Chúa Thánh Thần đến sửa sai
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Nhìn vào xã hội hôm nay chúng ta thấy có quá nhiều những sai lầm. Những sai lầm được tích lũy từ thế hệ này chuyển qua thế hệ sau trở thành căn bệnh nan y. Hay có thể nói những sai lầm của người trẻ hôm nay là do thế hệ đi trước không cương quyết giáo dục họ và đôi khi còn làm gương mù gương xấu cho họ. Chúng ta thử ôn lại những điều sai lầm của người trẻ hôm nay là do lối sống của thế hệ trước ảnh hưởng trên lối sống của họ như thế nào?
Trước tiên đó là một xã hội vô thần. Không có Thiên Chúa. Không có Trời Phật. Con người chỉ là vật, sinh ra chết là hết. Điều đáng tiếc là nhiều người hưởng ứng. Không ai dám mạnh dạnh phản đối lý thuyết sai lầm ấy. Một thời gian rất dài chúng ta đã bị sự giáo dục vô thần ấy khiến con cái chúng ta đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa để rồi cổ vũ cho lối sống đạo tại tâm là theo ý mình, không theo luật Chúa.
Thứ đến là Cổ súy đạo tại tâm không cần cầu nguyện lễ lạy. Nhiều người cha không đến nhà thờ, coi thường luật lệ dẫn đến giới trẻ cũng không cảm thấy đi lễ, giữ luật Chúa là cần. Có cậu trẻ nói: ba ơi bao giờ con mới bằng ba. Ba hỏi: con hỏi để làm gì? Con thưa: để bằng ba thì con khỏi đi lễ.
Giáo dục học đường không đưa ra tiêu chuẩn luân lý trong giới tính mà chỉ dạy cho bọn trẻ cách tránh thai đã dẫn đến một số đông giới trẻ tự do luyến ái mà không hề có trách nhiệm về hành vi của mình.
Như vậy, một xã hội không dạy cho trẻ niềm tin, không dạy về luật lệ, và để cho trẻ tự do luyến ái đã dẫn đến một bộ phận giới trẻ sống buông tuồng, vô kỷ luật và phạm pháp.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần là dịp để chúng ta nói lên vai trò của Chúa Thánh Thần là đến trần gian để an ủi, là dậy dỗ và uốn nắn con người. Thế nên, chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến sửa sai cho thế gian. Xin Ngài hãy uốn nắn con người hôm nay cho khỏi những sai lầm. Xin Ngài dậy dỗ con người đi theo chân lý và tình yêu.
Dường như Chúa Giê-su đã nhìn thấy những sai lầm của thế gian do ma quỷ dẫn dắt đã và đang làm cho con người đi trong những sai lầm. Ma quỷ đời nào cũng cổ vũ một xã hội không tôn giáo để rồi sống chiều theo bản năng và coi thường luật lệ. Ma quỷ đời nào cũng tìm mọi cách dẫn dắt con người đi theo những đam mê trần tục để đánh mất chính mình trong thói hư tật xấu hay trong những đam mê tội lỗi.
Chúa Thánh Thần đã đến để canh tân thế giới. Nhờ Ngài mà thế giới đã được nghe tin mừng. Nhờ Ngài tác động mà hàng ngàn, hàng vạn người luôn tiếp nối nhau ra đi xây dựng Nước Chúa. Nhưng cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối dường như chưa kết thúc, lúc nào cũng có những bóng tối làm cho người ta ra mê muội lầm lạc. Lúc nào cũng có những bóng tối của tham vọng cuồng loạn dẫn đến loạn lạc chiến tranh và đau khổ.
Đây là lúc mà Giáo hội cần những chứng tá tin mừng để mang Chúa Thánh Thần đến cho thế giới. Xin hãy để Chúa Thánh Thần sử dụng chúng ta như khí cụ mang bình an cho thế giới, nhất là cùng với Chúa Thánh Thần để sửa những sai lầm của thời đại. Hãy can đảm sửa sai từ chính bản thân mỗi người biết đi theo đường lối Chúa. Hãy can đảm sửa sai cho những người thân trong gia đình để gia đình luôn tràn ngập ánh sáng của tin mừng. Hãy mạnh dạn sống tin mừng trong một thế giới có quá nhiều sai lầm ngõ hầu canh tân thế giới này mỗi ngày một tốt đẹp hơn.
Xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mỗi người chúng ta như xưa đã ngự xuống trên các tông đồ để nhờ đó chúng ta can đảm làm chứng cho tin mừng. Amen.
30. Xin hiệp nhất chúng con - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Trong mỗi dịp sinh nhật, người ta thường đặt những ngọn nến tượng trưng cho mỗi năm tháng cuộc đời.
Bên ánh nến lung linh huyền bí, người ta trao gửi những ước nguyện, những ưu tư trăn trở sâu thẳm nhất của cõi lòng mình. Có lần tôi hỏi một em bé mừng sinh nhật rằng: “Em ước điều gì trong ngày sinh nhật của em?”. Em trả lời: “Em ước mơ cha mẹ tha thứ cho nhau và về chung sống trong một mái ấm gia đình”.
Một điều ước thật bình dị và cũng thật thiết thực. Cha mẹ em đã ly dị. Họ không còn yêu thương nhau. Họ chia tay nhau cũng đồng nghĩa chiếc nôi êm ấm của gia đình đã tan nát. Thế nên, em mong ước cho cha mẹ đoàn tụ để xây dựng lại mái ấm gia đình đã đổ vỡ. Một mái ấm đã từng rộn rã tiếng cười và đầy ắp yêu thương mà nay không còn nữa. Một mái ấm mà “ai đi xa” cũng nhớ về mà nay chỉ còn sự tiếc nuối xót xa, vì chồng một nơi, vợ một nơi!
Hôm nay là ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cũng là ngày khai sinh của Giáo Hội. Giáo Hội mừng sinh nhật thứ 2015 của mình. Chúng ta ước mơ điều gì? Giáo Hội còn những ưu tư, trăn trở nào mà bao nhiêu năm nay vẫn chưa hoàn thành ước nguyện? Phải chăng đó là sự hiệp nhất nên một trong Chúa? Phải chăng đó là bầu khí yêu thương mà sách Tông đồ Công vụ đã từng diễn tả: “Họ đồng tâm nhất trí với nhau. Họ coi mọi sự là của chung. Họ cử hành Thánh Thể với việc chia sẻ cơm bánh với nhau để không ai phải thiếu thốn” (Cv 2,42-46).
Thực vậy, hơn 2000 năm đã qua rồi, nỗi niềm khao khát quy tụ thành một đoàn chiên duy nhất của Thầy Chí Thánh Giêsu vẫn còn đó! Ngài khao khát cho ngọn lửa của yêu thương được bùng cháy mọi nơi, được lan toả đến mọi nhà và sưởi ấm mọi con tim đang giá băng! Thế mà lửa yêu thương vẫn còn nguội lạnh nơi nhiều gia đình, nhiều cộng đoàn và xứ đạo! Hơn 2000 năm đã qua, thế mà ngọn lửa hiệp nhất và yêu thương của Chúa Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần vẫn còn loe loét giữa thế giới mênh mông này. Đức Kitô đã bị “chia năm xẻ bảy” bởi Cong giáo - Chính Thống - Tin Lành - Anh giáo. Niềm tin con một Cha trên trời cũng bị phân tán bởi Do Thái giáo - Hồi giáo và Công giáo... Đây cũng là nỗi niềm khát khao của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khi mà Ngài đặt chân đến những vùng đất được coi là cấm địa của Hồi giáo, của Do Thái giáo. Ngài đang cùng với Thánh Thần đến để tìm lại tiếng nói chung, để xây dựng lại tình hiệp nhất của những người con Một Cha trên trời. Ngài đang thực hiện lại những bước chân hào hùng của các Tông đồ khi đầy tràn Chúa Thánh Thần năm xưa. Khi được đón nhận Chúa Thánh Thần, các ngài đã tháo cởi những ràng buộc trong căn phòng đóng kín. Các ngài đi đến với muôn dân. Các ngài dùng ngôn ngữ của Thánh Thần nên ai cũng hiểu. Ai cũng cảm thấy sự gần gũi của Giáo Hội. Một ngôn ngữ của tình yêu. Một ngôn ngữ tạo nên sự hiệp nhất thay cho sự chia ly thời Babel năm xưa.
Vâng, Thánh Thần cua Đấng Phục Sinh đã đến. Ngài đã mở ra cho các môn đệ chân trời mới của cuộc sống, khiến các ông phải mở tung cánh cửa đang khép kín mà đến với muôn dân, mà thổi vào lòng nhân thế tình yêu và sức sống của Chúa. Ngon gió Thánh Thần đó vẫn tiếp tục mang lại sự đổi mới cho con người hôm nay nếu chúng ta biết mở lòng ra cho ơn Chúa tác động, nếu chúng ta dám quên đi cái tôi của mình để Chúa Thánh Thần hoạt động trong chính cuộc đời chúng ta và biến chúng ta thành sứ giả của yêu thương, của hiệp nhất và bình an.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến trong tâm hồn chúng con và nhóm lên ngọn lửa tình yêu Chúa trong lòng chúng con, để chúng ra đi xây dựng tình hiệp nhất và yêu thương cho con người hôm nay. Amen.
31. Lễ Hiện Xuống
Ngày nay, hơn bao giờ hết nhân loại đang mong muốn hoà bình. Nền hoà bình mang lại cho con người sự tự do đích thật, bình an đích thật. Có hoà bình, người ta an tâm học hành, làm việc và phát triển các chiều kích vật chất, tinh thần và tâm linh. Như thế, hoà bình hay bình an đích thật chính là nỗi khát mong tự bao đời của con người.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày lời hứa của Chúa Giêsu được thự hiện: "Thầy sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho chúng con một Đấng an ủi khác đến ở với các con mãi mãi". Đấng ấy sẽ ban cho chúng ta sự bình an đích thật trong tâm hồn. Đấng ấy sẽ giúp cho chúng ta tìm kiếm và thi hành sự bình an đích thật.
Trong Tin Mừng, sự bình an, đặc biệt sự bình an trong tâm hồn, được coi là một giá trị hết sức quan trọng. Khi Đức Giê-su sinh ra, muôn vàn thiên thần đã hát mừng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (Lc 2,14). Khi sai các môn đệ, Đức Giêsu khuyên: "Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy" (Mt 10,12; x. Lc 10,5). Rồi sau khi chữa lành bệnh, Đức Giêsu cũng chúc bình an cho người ấy (x. Mc 5,34; Lc 8,48). Đặc biệt, sau phục sinh, khi hiện ra cho các môn đệ, Đức Giêsu luôn nói: "Bình an cho các con!" (Lc 24, 36; Ga 20, 19; 20, 26).
Còn chính trong cuộc sống đời thường của mình, chúng ta thấy bình an là một điều kiện quan trọng để sống vui tươi hạnh phúc và để phát triển. Hơn hết, trong đời sống thiêng liêng, con người cần sự bình an biết mấy. Bởi vì sự bình an trong tâm hồn là điều kiện quan trọng để đời sống tâm linh được phát triển. Vì thế mà Đức Giêsu đã nói: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian" (Ga 14,27). Thật vậy, trong ngày Lễ Ngũ Tuần, mà hôm nay chúng ta nghe Thánh Gioan thuật lại Đức Giêsu Đức Giêsu thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ, Ngài đã nói "Bình an cho anh em!". Như vậy, phải chăng để nhận lãnh Thánh Thần, thì điều kiện quan trọng là phải có tâm hồn bình an? Và đồng thời bình an cũng lại là kết quả của một tâm hồn tràn đầy Thánh Thần (x. Gl 5, 22).
Trong sách Tông đồ Công vụ, thánh Luca đã mô tả quang cảnh ngay lễ Hiện xuống: "Tất cả các tông đồ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến lùa vào đầy nhà, nơi họ đang tu hợp lại, với những lưỡi như thể hình lửa xuất hiện và đậu trên từng người". Chúa Thánh Thần như Lửa của tình yêu Thiên Chúa nung đốt chúng ta. Trong tình yêu của Chúa, tất cả chúng ta không còn khác biệt nhau nữa mà trở thành con của Chúa, sống trong tình yêu duy nhất của Người.
Do đó, có thể nói để nhận được ơn bình an, ơn Thánh Thần thì chúng ta phải có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhờ sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, ta sẽ có sự bình an trong tâm hồn
"Như Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em". Mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận những ơn lành của Chúa một cách nhưng không thì cũng hãy biết cho đi nhưng không. Hãy biết chia sẻ và mang bình an đến cho những người chúng ta gặp gỡ. Chúng ta hãy tự vấn lòng mình, để xem chúng ta có thật sự là "khí cụ bình an của Chúa" để đem đến cho những người mà chúng ta gặp gỡ chưa?
Ngày nay, hơn bao giờ hết, có lẽ con người thật sự cần thiết có được sự bình an. Chúng ta có thể sản xuất để cung ứng cho mình mọi thứ theo ý muốn. Nhưng nếu chúng ta không có bình an, chúng ta sẽ không có gì hết. Để tìm thấy được bình an đích thực, Thánh Phaolô chỉ cho ta: "Đức Giêsu Kitô, Ngài là bình an thật của chúng ta" (Ep 2, 14).
Do đó, để tìm thấy được sự bình an đích thực, chúng ta hãy tránh xa những dịp tội, đừng để mình kéo dài tình trạng sống trong tội, chúng ta hãy mau quay trở về với Chúa, sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa. Khi chúng ta có được sự bình an, thì chúng ta cũng hãy biết mang bình an đó lại cho những người mà chúng ta gặp gỡ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an, sự bình an đích thật chính là Chúa Thánh Thần. Có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, chúng con sẽ được bình an, phát triển đời sống vật chất, tinh thần và thiêng liêng. Có Chúa Thánh Thần, chúng con sẽ dễ dàng lắng nghe và thi hành điều ngay, lẽ phải, dám sống và làm chứng cho tình yêu Chúa và can đảm đem bình an, tình yêu và niềm hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
32. Sống hiệp thông với Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm Jos Nguyễn Minh Chánh)
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Nguồn Trợ Lực. Đời sống của chúng ta không thể thiếu bóng dáng Ngài. Vì thế, nhìn vào đời sống Đức Giêsu trong mối tương quan với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu sẽ giúp ta hiểu rõ sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta.
Đức Giêsu Kitô là Đấng tràn đầy Chúa Thánh Thần từ lúc ban đầu đến sau khi phục sinh và mãi mãi.
Thực vậy ngay từ lúc Đức Giêsu thụ thai trong cung lòng Mẹ Maria, chúng ta đã khám phá rất rõ về mối hiệp thông giữa Ngôi Lời nhập thể và Chúa Thánh Thần. Biến cố truyền tin đã dạy chúng ta rằng: Đức Maria cưu mang Đức Giêsu trong lòng là do Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã đến và bao phủ quyền năng của Ngài nơi bào thai của Đức Maria, nơi sự sống của Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu sẽ hình thành trong cung lòng của một con người.
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu khi Ngài chuẩn bị thi hành sứ mạng Messia. Vì sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan trước khi rao giảng Tin mừng, khi " vừa lên khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người" (Mt 3, 16)
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong những giờ phút sống thân tình với Chúa Cha. Chúa Thánh Thần đã tác động nơi Đức Giêsu để Đức Giêsu được hưởng những thời gian chìm đắm trong lời cầu nguyện với Chúa Cha. Tin mừng thánh Mátthêu thuật lại khi Đức Giêsu vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện ròng rã bốn mươi đêm ngày, thì đó cũng là do tác đông của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã dẫn Đức Giêsu vào tình yêu sâu thẳm với Chúa Cha trong thời gian này (x.Mt 4,12).
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong khi rao giảng tin mừng yêu thương và phục vụ cho mọi ngườ. Phúc âm thánh Luca thuật lai khi bắt đầu rao giảng thì Chúa Giêsu "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy" (Lc 4,14). Sự tác động của Chúa Thánh Thần nơi Đức Giêsu như là sức mạnh, nhờ đó Đức Giêsu có thể hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài.
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời Ngài. Khi Đức Giêsu hấp hối trong vườn cây dầu, mọi sự đối với Đức Giêsu trong lúc này hình như bị bế tắc, bị thất bại, bị tuyệt vọng. Một lần nữa, Chúa Thánh Thần là "Ngón Tay Thiên Chúa" là Sức Mạnh đã đến với Đức Giêsu, đã nâng đỡ bổ sức cho Đức Giêsu trong lúc Đức Giêsu đang bị cô đơn vì sự bỏ rơi của nhiều người, đang phải sắp hứng chịu với cái đau đớn của roi đòn trên thân xác. Thậy vậy, nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần nâng đỡ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng được cám dỗ từ bỏ chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài đã can đảm từ bỏ ý riêng để xin vâng theo ý Chúa Cha. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha khi đau khổ và còn xin vâng cho đến khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.
Vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống và sứ vụ của Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Đức Giêsu trên mọi nẻo đường rao giảng Tin mừng. Ngài luôn tác động nơi Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh, nhờ vậy mà chương trình của Đức Giêsu luôn được hoàn thành tốt đẹp.
Từ kinh nghiệm sống hiệp thông với Chúa Thánh Thần, nên Đức Giêsu xem việc trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ phải là cần thiết. Vì việc ban Chúa Thánh Thần chính là điều kiện để các Tông đồ có khả năng hành động trong khi rao giảng tin mừng như Đức Giêsu. Vì vậy trước khi rời khỏi thế gian để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã từng hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ. Rồi sau khi sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra cũng trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, như trong trang Tin mừng hôm nay chúng ta vừa nghe. Đặc biêt sau khi Chúa Giêsu về trời, trong ngày lễ Ngũ tuần thì Chúa Thánh Thần đã được trao ban trên các Tông đồ trong bầu khí thật uy phong trong khi các Ngài đang cầu nguyện. Hình ảnh này chúng ta đã vừa cảm nhận trong bài đọc một hôm nay.
Khi khám phá mối hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần, cũng như hình ảnh Chúa Thánh Thần đã được ban cho các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần thì đó cũng là bài học Chúa dạy chúng ta: Nếu cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì cuộc sống đó sức sống tự nhiên và siêu nhiên sẽ không tăng trưởng, sẽ chết dần trong năm tháng, vì Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Và nếu cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì đời sống ấy sẽ không biết yêu thương, vì Chúa Thánh Thần là Tình Yêu để nối kết con người với Thiên Chúa, và nối kết giữa con người với nhau. Hay khi cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì đời sống ấy sẽ lạc lối, sẽ đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa, vì Chúa Thánh Thần là sức mạnh để giúp con người can đảm từ bỏ ý riêng để khiêm tốn luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nói chung nếu cuộc sống con người không có Chúa Thánh Thần thì cuộc sống ấy sẽ không giống Đức Giêsu.
Từ những cảm nghiệm trên, chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria và các Tông đồ trong bài đọc một hôm nay. Hãy thường xuyên ở lại chung với nhau để cầu nguyện với Đức Giêsu Kitô, là Đấng sinh bởi Thánh Thần, là Đấng đầy tràn Thánh Thần. Xin Chúa Giêsu Kitô ban Chúa Thánh Thần là Hồng Ân của Ngài cho chúng ta, nhờ đó trong mọi hành động chúng ta sẽ trở nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, xin ban đầy tràn Chúa Thánh Thần xuống tâm hồn chúng con. Amen.
33. Năng lực Thánh Thần
Trước ngày Chúa Thánh Thần đến, các Tông Đồ sống lẫn trốn trong phòng. Một sứ vụ lớn lao được trao phó cho các ngài nhưng vì các ngài chưa có sức mạnh và ý hướng để thi hành sứ vụ đó. Chỉ sau ngày Thánh Thần đến, các ngài trở nên những con người được biến đổi hoàn toàn. Các ngài bắt đầu rời bỏ những nơi ẩn trốn và bắt đầu trở nên can đảm rao giảng Tin Mừng.
Vậy Thánh Thần đã làm gì trên các ngài? Trong lời hứa ban Thánh Thần, Chúa Giêsu nói với họ: "Khi Thánh Thần đến, các con sẽ nhận được sức mạnh và sẽ làm chứng cho Thầy không phải chỉ ở Giêrusalem, nhưng... đến tận cùng trái đất" (Cv 1,18).
Thiết nghĩ, từ chìa khóa trong lời hứa ấy chính là "sức mạnh". Đây chính là thứ mà các Tông Đồ đang cần nhất. Vì ngay giờ phút đó, các ngài trở nên mạnh mẽ và hoàn toàn loại bỏ được yếu hèn, sợ hãi những mặc cảm... trước đó. Họ đã mạnh mẽ thực hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa Giêsu các công khai. Sau cùng các ngài đã làm chứng về những gì đã xảy ra nơi Đức Giêsu. Họ cần sự can đảm, cần một ai đó ban sức mạnh cho họ.
Việc trao ban "năng lực" là một trong những từ ngày nay dùng với ẩn ý sâu xa. Điều này hoàn toàn có nguyên nhân chính đáng. Chúng ta thử quan sát một vài cá nhân hay một nhóm người mà ban đầu họ cảm thấy bất lực trước tình huống khó khăn, nhưng thình lình họ trở nên có khả năng để xoay chuyển tình huống ấy khi có một ai đó thêm sức mạnh cho họ. Chúng ta thấy trong một đội bóng đá, người quan trọng và có thể làm thay cho cả đội ấy là người biết khích lệ tinh thần, biết thúc đẩy để đồng đội chơi tích cực hơn. Khi những cầu thủ khác thiếu tự tin thì nhờ lời động viên, khích lệ họ trở nên mạnh mẽ và đầy tự tin, từ đó có thể chơi hay hơn, thậm chí họ có thể chơi hay hơn đến nỗi không thể hay hơn được.
Vậy việc trao ban "năng lực" nghĩa là gì? Trước hết, nó diễn tả việc ban quyền năng hay sức mạnh cho ai đó. Điều này không đúng với hoàn cảnh của các Tông Đồ. Vì không phải khi Thánh Thần đến họ mới được ban quyền năng mà thật ra các ngài đã nhận từ Chúa Giêsu
Trường hợp thứ hai, có nghĩa trao cho ai khả năng để họ có thể làm một việc nào đó. Đây là cách nghĩ thông thường với từ "được ban năng lực" và diễn tả cách chính xác trường hợp các Tông Đồ trong ngày lễ Ngũ Tuần.
Khi người ta được năng lực, họ trở nên có khả năng và có ý hướng để thay đổi tình huống. Họ không chờ đợi ai khác để làm thay họ. Họ chấp nhận và tự mình có thể gánh vác trọng trách ấỵ
Chúa Thánh Thần đã ban năng lực cho các Tông Đồ. Ngài đã ngự xuống trên các ngài qua hình thức và gió lửa. Gió và lửa (sức nóng) là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh. Gió có sức mạnh di chuyển, nhổ lên. Lửa có sức mạnh toi luyện và biến đổi.
Sức mạnh mà chúng tượng trưng ở đây chính là sức mạnh của Thiên Chúạ Ở đây, chúng tượng trưng cho sự hiện diện và hành động của Thiên Chúạ Chúa Thánh Thần đến để cung cấp cho các Tông đồ năng lượng, động lực, sự hăng say, sự cam đảm và tình yêu để các ngài có thể đảm nhận sứ vụ mà Chúa Giêsu đã ủy thác. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp các ông, nhưng Ngài không làm thay cho các ông.
Tuy nhiên, chúng ta không được nghĩ rằng sự biến đổi nơi cácTông đồ xảy đến trong chốc lát. Nhưng nó là cả một quá trình tiệm tiến, là một tiến trình lớn lên. Đôi khi sự lớn lên này có thể diễn ra cách chậm chạp và mang lại đau đớn. Vì chúng ta không dễ để từ bỏ những lối sống cũ, những thói quen cũ, tập quán cũ và những thái độ cũ...
Người ta chỉ có thể thay đổi khi được một ai đó còn biết hy vọng vào họ; khi một ai đó đặt niềm tin nơi họ mà trao cho họ một nhiệm vụ nào đó; khi một ai đó còn quan tâm đến họ. Nhưng vượt trên tất cả là họ chỉ thay đổi khi họ cảm thấy mình được yêu thương. Khi đó, họ sẽ chui ra khỏi cái vỏ mặc cảm và nhận ra được có một sức mạnh đã tiểm ẩn từ lâu trong họ. Chỉ có phép lạ của người biến đổi mới là phép lạ thật sự.
Chúng ta cũng cần một ai đó ban năng lực, đánh thức chúng ta để chúng ta có được động lực trong cuộc sống, để sống đáp lại một cách có trách nhiệm. Điều này có nghĩa là chúng ta phải biến đổi những gì cần được biến đổị Nhưng đặc biệt, chúng ta cần nguồn năng lực để có thể làm chứng cho Chúa Giêsu, cho đức tin Công giáo của chúng ta. Năng lực đã biến đổi các Tông đồ ngày xưa vẫn còn có giá trị đối với chúng ta hôm naỵ Chính Chúa Thánh Thần là động lực và sức mạnh cho tinh thần của chúng ta, sưởi ấm và biến đổi con tim ta trở nên tinh tuyền. (Viết theo Floy McCarthy).
34. Ngọn lửa Thánh Linh soi chiếu
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vào năm 1976, ngay xóm tôi ở có em gái nghèo chừng mười lăm tuổi đi giúp việc nhà cho một gia đình giàu có. Gia đình nầy vừa mới tậu một bức tranh thêu rất đẹp nên bức hoành phi sơn son thếp vàng cũ kỹ có mấy chữ mạ vàng khá lớn, lâu nay được treo ở gian giữa ngôi nhà, giờ đây bị tháo xuống để nhường chỗ cho bức tranh thêu quý giá. Trong thâm tâm bà chủ nghĩ rằng bức hoành phi nầy có chữ mạ bằng thứ giấy vàng rẻ tiền nên giá trị chẳng là bao.
Bà chủ giao bức hoành cho cô gái giúp việc đem về nhà tuỳ nghi sử dụng. Cô gái đem về cho em chơi. Chơi chán rồi chúng xé vụn phần bằng giấy ra, xé luôn cả những chữ vàng, xả rác đầy nhà, khiến người mẹ phải mất công quét dọn và đổ ra hố rác.
Khi đốt rác vào lúc trời tối, bọn trẻ phát hiện những dòng chữ vàng trên bức hoành phi không bị thiêu rụi mà lại sáng ngời lên trong lửa và kết tụ lại thành những vụn nhỏ ngời sáng ánh vàng. Hoá ra những dòng chữ trên bức hoành là thứ chữ mạ bằng vàng thật chứ không phải là giấy mạ vàng!
Thế là người nhà hăm hở xăm xoi đào bới, sàng sảy đống tro tàn để tìm kiếm và cuối cùng thu lại được năm sáu chỉ vàng!
Cả gia đình vui mừng quá đỗi, vì vào thời đó, kiếm được chừng ấy vàng chẳng khác gì trúng lô độc đắc.
Như thế, nếu không nhờ ngọn lửa, những chữ vàng quý giá kia đã bị xé vụn, quẳng vào đống rác và hoá thành bụi tro. Nhưng may sao nhờ lửa cháy lên, người ta mới nhận ra những dòng chữ bằng vàng rất quý báu!
Hôm nay mỗi người chúng ta cũng được Chúa Giêsu trao tận tay một cuốn sách đáng giá ngàn vàng. Đó là một kho báu không hề vơi cạn, chứa đựng những điều khôn ngoan ngàn đời của Thiên Chúa được Chúa Giêsu từ trời mang xuống ban tặng cho thế gian, một cuốn sách chứa đựng những bí quyết đem lại bình an hạnh phúc cho muôn người, một kiệt tác được kết tinh bằng tình yêu, bằng trí tuệ, bằng tim óc của Chúa Giêsu và được hình thành trong suốt 33 năm dương thế của Ngài.
Nhưng tiếc thay, khi nhận được Tin Mừng trên tay, chúng ta xem đó là thứ quà rẻ mạt, như một cuốn sách tầm thường, như một mớ chữ không hồn. Thế nên số phận cuốn Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu cũng hẩm hiu không kém!
Sở dĩ Kho Tàng Tin Mừng của Chúa Giêsu không được xem là quan trọng và quý giá vì những dòng chữ nầy chưa được ngọn lửa của Chúa Thánh Linh soi chiếu.
Thượng Phụ Athénagoras nhận định rằng: "Nếu Hội Thánh vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa trở nên nghìn trùng xa cách, Đức Giêsu trở thành một huyền thoại và Phúc Âm của Người trở thành một mớ chữ không hồn."
Quả vậy, nếu không có lửa của Chúa Thánh Thần soi sáng thì lời dạy của Chúa Giêsu như: "những gì các ngươi làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là làm cho chính Ta" (Mt 25,40) trở thành những dòng chữ chết, không thể lay động lòng người, nhưng đối với mẹ Tê-rê-xa Calcutta, nhờ ánh sáng Thánh Linh tác động, lời đó trở thành châm ngôn vàng ngọc thúc đẩy mẹ hiến cả đời mình yêu mến và phung sự Chúa Giêsu nơi những con người bất hạnh và đau thương.
Nếu không có lửa của Thánh Linh soi chiếu thì những lời nhắc nhở như: "được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì chẳng được ích gì" (Mt 16,26) là những lời vô nghĩa, nhưng đối với thánh Phanxicô Xavie, nhờ ngọn lửa của Thánh Linh soi sáng, lời đó trở thành sức mạnh vạn năng giúp ngài từ bỏ công danh địa vị để dấn thân vào những miền đất xa lạ, đem ơn cứu độ đến cho các dân tộc Á châu.
Không có Chúa Thánh Thần, không ai có thể nhận biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Không có Chúa Thánh Thần, những trang Tin Mừng chỉ là những dòng chữ chết.
Không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa trở thành Đấng nghìn trùng xa cách.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để nhờ ánh sáng Thánh Linh soi dẫn, chúng con nhận biết, yêu mến Chúa và tìm được nơi kho tàng Tin Mừng những lời thần thiêng đem lại cho chúng con sức sống mới.
35. Cuộc sáng tạo mới – Lm Ignatiô Trần Ngà
Sau khi tạo dựng vũ trụ càn khôn cùng muôn vật diệu kỳ trong hoàn vũ, Thiên Chúa vẫn chưa hài lòng với tác phẩm của mình. Người muốn sáng tạo thêm một kiệt tác trổi vượt tất cả những gì Người đã dựng nên.
Thế là Ba Ngôi Thiên Chúa quyết định tạo dựng con người: “Chúng ta hãy sáng tạo con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để chúng làm chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1, 26)
Thiên Chúa lấy bùn đất, nắn thành hình một con người, nhưng hình tượng nầy vẫn còn trơ trơ bất động, vô cảm, vô tri …
Thế rồi Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi của hình tượng nầy và điều kỳ diệu đã xảy ra: khối đất vô hồn mang hình dạng con người đang nằm im lìm bất động bỗng cựa mình đứng lên trở thành người sống: có tư duy, co tình cảm, có tự do, có óc sáng tạo… mang đậm dấu ấn và bản sắc của Thiên Chúa. Thế là Thiên Chúa đã hoàn thành kiệt tác Ađam là nguyên tổ của loài người.
* * *
Con người cũ bị băng hoại vì tội lỗi
Nhưng tiếc thay, tội lỗi đã thấm nhập vào thế gian làm băng hoại con người. Kiệt tác của Thiên Chúa đã bị biến chất thảm hại nên Thiên Chúa phải theo đuổi một kế hoạch tạo dựng mới.
Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người khởi đầu công cuoc nầy. Người quy tụ những môn đệ đầu tiên, và dùng những vị nầy làm nhân tố phát sinh một dân mới.
Nhưng sau khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, các môn đệ cảm thấy lạc lõng bơ vơ như đoàn chiên không chủ, như rắn mat đầu. Các ngài sống âm thầm, im hơi lặng tiếng, co cụm trong phòng đóng kín vì sợ người Do-Thái, tựa như Ađam lúc chưa được hơi thở của Thiên Chúa thổi vào. (Ga 20,19)
Con người mới được tác sinh
Thế rồi “vào chiều ngày hom ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái, Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!"
Và như thuở ban đầu Thiên Chúa thổi hơi vào mũi A-đam đe ban cho ông sự sống, thì nay Chúa Giêsu “thổi hơi vào các môn đệ và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,19. 22)
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh (bằng tiếng Do-thái cổ), Chúa Thánh Thần được gọi là Ru-ah, nghĩa là Hơi Thở hay Thần Khí.
Thổi hơi vào các môn đệ có nghĩa là Chúa Giêsu truyền ban Thần Khí (= Chúa Thánh Thần) cho các ông.
Như hôm xưa Ađam vươn vai chỗi dậy sau khi đón nhận hơi thở của Thiên Chúa, các môn đệ một khi đã lãnh nhận Hơi Thở ban Thần Khí của Chúa Giêsu cũng được tái sinh, cựa mình chỗi dậy, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như mộ địa giam nhốt mình để đi đến với muôn dân, loan truyền Tin Mừng cứu độ cho toàn thế giới, sẵn sàng hy sinh ca mạng sống vì Nước Trời...
Thế là nhân loại mới đã được tác sinh từ biến cố trọng đại nầy, khởi từ ngày hôm ấy.
* * *
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu không có làn hơi của Thiên Chúa thổi vào, A-đam chỉ là một khối đất vô tri bất động và không hề có sự sống.
Nếu không được Chúa thổi hơi ban Thần Khí, các tông đồ xưa cũng chỉ là một nhóm người bạc nhược, ươn hèn.
Và hôm nay, nếu không được đón nhận Thần Khí Chúa ban, chúng con cũng chỉ là những kito hữu nguội lạnh, thiếu nhiệt thành và luôn đứng bên lề Hội Thánh.
Nguyện xin Chúa thổi hơi ban Thần Khí cho chúng con như đã ban cho các môn đệ năm xưa, để chúng con được đón nhận Sự Sống Mới và kiên quyết lên đường thi hành sứ mạng loan Tin Mừng cho muôn dân.
36. Chúa Thánh Thần.
Trong phần chia sẻ sáng hôm nay tôi muốn đưa ra một câu hỏi như thế này: Chúa Thánh Thần là Đấng nào? Với câu hỏi này chúng ta đi sâu vào bản tính Thiên Chúa, nhưng chỉ có đức tin mới trả lời được cho chúng ta mà thôi. Đúng thế, thánh Tôma tiến sĩ đã nói: Hiện tại chúng ta không thể nào hiểu thấu vì mầu nhiệm ấy vượt quá khả năng hạn hẹp của trí khôn con người.
Trong Cựu Ước chúng ta chỉ ghi nhận được một vài hình ảnh thật mù mờ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta phải chờ đến Đức Kitô, người Con duy nhất của Thiên Chúa đến và mạc khải, chúng ta mới thấy được cái đặc tính cốt yếu của Thiên Chúa, đó là tình yêu.
Còn về Chúa Thánh Thần, trong kinh Tin Kính chúng ta đã tuyên xưng Ngài là Thiên Chúa ngôi thứ ba, là Đấng ban sự sống, Ngài bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
Qua Chúa Con, Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin nơi Con Một Ngài thì sẽ có sự sống vĩnh cửu. Ngay từ thuở đời đời, Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con và sợi dây liên kệ thắm thiết và đầy yêu thương ấy chính là Chúa Thánh Than.
Thực vậy, Chúa Thánh Thần chính là sợi dây yêu thương nối kết Chúa Cha và Chúa Con, chi phối nhịp điệu của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như toả lan cho tất cả chúng ta. Như thế, qua Chúa Thánh Thần chúng ta hiểu được bản chất tình yêu của Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Thánh Thần cũng đã trực tiếp cộng tác vào công trình cứu độ, một công trình của tình thương yêu mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn thuở trước.
Đức Kitô vâng theo thánh y của Chúa Cha và với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần đã chết đi để đem lại sự sống cho trần gian. Kể từ khi được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, chúng ta đã được Ngài yêu thương như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Nhờ Chúa Thánh Thần mà tình yêu Thiên Chúa được toả lan trong tâm hồn chúng ta. Để rồi từ đó, tất cả những tình yêu trong lành nhất của chúng ta đều là một tia sáng, một phản ánh trung thực cho tình yêu của Thiên Chúa. Bơi vì Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta chỉ có thể yêu thương một cách đúng nghĩa khi liên kết với Ngài.
Đúng thế Ngài ở giữa những cặp vợ chồng để họ biết trung thành và hy sinh cho nhau. Ngài ở giữa những người con để họ biết nói lên hai tiếng thưa ba, thưa má với tất cả tấm lòng chân thành của mình. Ngài ở giữa những người bạn để họ biết tâm đầu ý hiệp với nhau.
Trong ngày lễ Hiện Xuống hôm nay, Giáo Hội mừng kính Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mừng kính tình yêu của Thiên Chúa, được tượng trưng qua hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ. Giáo Hội cũng muốn chúng ta thành khẩn kêu xin: Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy ngập tràn tâm hồn các tín hữu Chúa và xin thắp lên trong chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa. Ngài không phải là một vị Thiên Chúa vô danh và bị quên lãng. Trái lại Ngài luôn ở giữa chúng ta và hoạt động. Ước gì mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Ngài bằng cách thắp lên một ngọn lửa yêu thương, bởi vì chỉ có tình yêu mới có thể làm tiêu tan thù hận, thất vọng và tăm tối.
37. Qùa tặng Thần khí – Peter Feldmeier
(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Và họ được đầy Thánh Thần” (Cv 2,4)’
Lễ Hiện xuống mang một ý nghĩa sâu xa đặc biệt đối với từng người chúng ta, cũng như đối với các tông đồ năm xưa. Chúng ta khởi đầu với lễ Hiện xuống nơi các tông đồ, rồi đến chúng ta ngày hôm nay. Các tông đồ quy tụ lại mừng lễ ngũ tuần của người Do Thái, tưởng nhớ việc Chúa ban bố lề luật cho dân trên núi Sinai. Biến cố gợi nhắc đến việc Thiên Chúa quyền năng đã đưa dân ra khỏi Ai Cập, dùng cột lửa soi sáng ban đêm trong hành trình sa mạc và đã tỏ lộ uy quyền của Ngài trên đỉnh núi Sinai. Lễ ngũ tuần ngày xưa là dịp tưởng niệm việc Thiên Chúa tặng ban lề luật, là quà tặng đặc thù Thiên Chúa gửi trao cho dân. “Chúa bày tỏ Lơi Người cho nhà Gia cóp, chiếu chỉ luật điều cho Israel. Chúa không đối xử với dân nào như vậy, không cho họ biết những luật điều của Người” (Tv 147,19-20).
Chúng ta cũng gợi nhắc việc Gioan tẩy giả công bố phép rửa “Bằng lửa và Thần khí” (Lc 3,16). Trong lễ Hiện xuống đầu tiên, Thiên Chúa cũng thực hiện lời tiên báo của Thánh Gioan. Ngài cũng đem Thần khí và lửa từ trời xuống trên các tông đồ. Bài đọc trong sách Tông đồ công vụ của phung vụ hôm nay đã mô tả: “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2,1.4). Sự việc đó diễn ra, khiến mọi người hiện diện, kể cả các du khách đến từ mọi nơi, thuộc các nen văn hóa và các ngôn ngữ khác nhau, có thể nghe và hiểu những gì các tông đồ nói theo ngôn ngữ riêng của mình. Sự kiện đó biểu thị hành động uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta đừng nên nghĩ rằng các tông đồ lúc ấy đang cầu nguyện bằng tiếng lạ giống như một ơn xuất thần mà Thánh Phaolô đã nhắc tới trong thơ gửi giáo đoàn Côrinthô (1 Cor 14). Nhưng, lễ Hiện xuống đầu tiên là thời điểm Tin mừng được quảng bá rộng khắp cho mọi dân mọi nước. Qùa tặng Thần Khí là động thái cuối cùng của Mầu nhiệm Vượt qua. Cũng như Đức Kitô biến đổi tình trạng tội lỗi nơi Adam, Thần Khí cũng biến đổi tình trạng hủy diệt nơi sự kiện tháp Babel ngày xưa. Khi xây tháp Babel, con người đã tỏ ra kiêu ngạo và cố chấp, nên Thiên Chúa đã phân rẽ họ ra thành nhiều nhóm ngôn ngữ để họ không thể thông tri được với nhau. Ngược lại, khi Thần Khí được ban xuống, Ngài nối kết muôn người thuộc mọi sac tộc và ngôn ngữ. Điều này cũng biểu thị sứ mạng của Hội thánh, đó là công bố Tin Mừng cho mọi dân mọi nước. Bởi lẽ, tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban tặng cho tất cả mọi người.
Động thái cuối cùng của Mầu nhiệm Vượt qua, mà ngày hôm nay chúng ta mừng kính, là tột đỉnh và tóm kết lễ Phục Sinh. Thiên Chúa thực hiện việc chuẩn miễn thần thiêng sâu xa nhất: Đó là ban Thánh Thần để Thần khí giờ đây thuộc về chúng ta. Đay là điểm nhấn mà Thánh Phaolô nói tới trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay. Thánh Phaolô đã khuyến cáo tín hữu Galat hãy đón nhận tự do thực sự trong Đức Kitô, chứ không phải tự do qua việc tuân thủ luật Moise. Luật lệ cựu ước rất thánh thiêng. Nó giúp tôi luyện và rèn dũa con người đi vào khuôn phép. Nhưng khi Đức Kitô đến, thời đó đã qua (Gal 3,24). Bây giờ là thời của Thần Khí, thời mà chúng ta được thông dự vào chính sự sống của Đức Kitô trong Thánh Thần.
Với suy nghĩ như thế, Thánh Phaolô đưa ra sự đối kháng giữa hoa trái của Thần khí và những công việc của xác thịt. Từ ngữ “xác thịt” (sarx) ở đây không phải chỉ nói về thân xác (soma), nhưng nói về cả tổng thể con người khi sống dưới sự khống chế của những đam mê tội lỗi. Thánh Phaolô liệt kê một loạt những đam mê thuộc về “xác thịt”, từ việc dâm dật đến những hành vi tôn thờ ngẫu tượng đang xảy ra giữa dân. Cụ thể như tội dâm bôn, sự ô uế, phong đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa chè chén... Đối nghịch với những tội lỗi theo xác thịt là hoa trái của Thần khí: Tình yêu, niềm vui, bình an, kiên nhẫn, nhân hậu, quảng đại, trung tín, hiền lành, tiết độ (Gal 5,20-23). Đây là hai phạm trù tương phản và đối kháng nhau mà Thánh Phaolô nhấn mạnh. Thánh Phaolô không nhằm đến việc nêu ra những nhân đức để chúng ta thực thi hầu hoàn thiện chính mình. Ngài muốn nói rằng, nơi một tâm hồn có những phẩm tính cao đẹp này, chính là dấu chỉ có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần bên trong. Chúng là dấu chứng cụ thể biểu tỏ sự hiện lộ của Thần Khí.
Thánh Phaolô muốn nói cho chúng ta phương cách nhận ra sự hiện diện năng động của Thánh Thần nơi các tâm hồn. Mọi người đều biết rằng, một con người bề ngoài xem ra có vẻ nghiêm túc về mặt luân lý, nhưng đôi khi đầu óc lại rất u tối, đồng thời trái tim của họ lại quá chật hẹp và sơ cứng. Tôi sợ rằng khi đến trước cổng Thiên đàng, họ sẽ nghe tiếng Chúa nói: “ Ta không biết các người là ai, hãy đi cho khuất mắt ta” (Mt 7,23). Thánh Phaolô nhắc nhở: “ Khi anh em được Thần khí hướng dẫn, anh em không còn sống dưới lề luật”. Luật bắt chúng ta phải tuân phục, còn Thần khí thì mời gọi đi vào tình yêu và sự hiệp thông. Những ai sống tràn ngập yêu thương trong Thần khí, đương nhiên sẽ hiển thị hoa trái của sự hiệp thông sâu xa này.
Mỗi lần chúng ta hát thánh thi Veni Sancte Spiritus, chúng ta khẩn nài xin Chúa Thánh Thần đến, nhưng thực sự Ngài đã đến và đã hiện hữu sẵn nơi ta. Tuy nhiên chúng ta cần phải làm hiện lộ sung mãn hoa trái của Ngài. Tất nhiên với tự do, con người có thể cản che hoặc làm suy yếu hoạt động của Thánh Thần nơi họ, nhưng chúng ta không thể chối từ một sự thật, đó là Thần khí đã được ban cho chúng ta và thuộc về chúng ta. Đó là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa đã hiến tặng. Thánh Thần chính là quà tặng được ân ban cách nhưng khong, còn chúng ta, chúng ta phải khai mở món quà đó ra và để Thánh thần tác động. Ngay bây giờ và ngay tại nơi đây, chúng ta cần phải thực hiện công việc này.
38. Ngũ Tuần – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Hơi thở là nguồn sự sống. Thiên Chúa ban sự sống cho tất cả mọi loài thụ tạo. Riêng con người, Thiên Chúa trực tiếp thổi sinh khí ban cho sự sống: Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (St 2,7). Bao lâu còn hơi thở, bấy lâu chúng ta còn đang sống. Tắt thở là chết. Mọi loài sinh vật cùng chung một nguyên lý sự sống. Tạo Hoá đã an bài một không gian bầu khí vô tận để mọi sinh vật cùng được hưởng nguồn sự sống. Chúa Thánh Thần chính là nguồn ban sự sống. Sách Tông đồ Công vụ diễn tả về ngày Lễ Ngũ Tuần của người Do thái: Khi đến ngày Lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp (Cv 2,1-2). Hôm nay, Giáo Hội mừng Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sự hiện diện của Thần Linh qua làn gió mạnh bao phủ tất cả khoảng không gian mang lại nguồn sinh lực dồi dào cho các Tông đồ.
Chúng ta tuyên xưng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Sách Giáo lý Đạo Công giáo dạy rằng: Tin vào Chúa Thánh Thần là tuyên xưng Ngài là Ngôi Thứ Ba của Ba Ngôi Cực Thánh. Ngài xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Trong Ba Ngôi, không thể phân chia. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần phân biệt với nhau, nhưng không tách rời. Chúa Thánh Thần là Đấng Vô Hình, nhưng chúng ta nhận ra Ngài qua tác động của Ngài. Ngài mạc khải Ngôi Lời cho chúng ta và Ngài hoạt động trong Hội Thánh. Chúa Thánh Thần xây dựng, linh hoạt và thánh hoá Hội Thánh. Là Thánh Thần tình yêu, Ngài làm cho những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội nhận lại được ơn giống hình ảnh Thiên Chúa đã bị đánh mất vì tội lỗi. Nhờ các Bí tích, Chúa Kitô thông truyền Thánh Thần của Người và ân sủng của Thiên Chúa cho các chi thể trong thân thể Người. Ân sủng này mang lại hoa trái cho đời sống mới theo Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là Thầy dạy cầu nguyện.
Chúng ta phải rất cẩn thận trong vấn đề tín lý và sống đức tin. Bảy nguồn ơn sủng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt là các ơn Khôn Ngoan và ơn Hiểu Biết giúp chúng ta nhận ra chân lý. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúng ta không nên cụ thể hóa tác động ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đôi khi chúng ta bị chìm đắm mải mê tin tưởng qua một số hành động và nghi thức bên ngoài do con người tạo nên. Chúng ta nguyện xin Chúa Thánh Thần phải đến và phải hành động theo cách thế và ước muốn của chúng ta. Một số hiện tượng xảy ra hàng loạt đã được gắn kết cho tác động của Chúa Thánh Thần. Nhớ rằng trong Sách Giáo lý dạy: Đức Chúa Thánh Thần đã hiện ra trong hai dịp quan trọng: Một là khi Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan và hai là trong ngày Lễ Ngũ Tuần, khi các thánh Tông đồ đang họp nhau cầu nguyện cùng với Đức Mẹ Maria.
Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ lãnh nhận ơn sủng của Chúa Thánh Thần tràn đổ xuống tâm hồn qua hình lưỡi lửa: Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một (Cv 2,3). Ân sủng của Chúa Thánh Thần tác động sâu thẳm và đổi mới tâm hồn một cách toàn diện: Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2,4). Ơn Chúa Thánh Thần là một ân sủng cao siêu tuyệt vời thấu tận tâm can. Chính Chúa Giêsu thổi hơi ban Thánh Thần cho các tông đồ cùng với sứ mệnh: Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20,22). Chúa ban ân sủng và quyền năng cho các tông đồ làm hành trang sứ vụ trong cuộc lữ hành của Giáo Hội trên trần thế: Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ (Ga 20,23).
Trong Giáo Hội hiện nay, có nhiều khuynh hướng hay phong trào muốn lôi kéo thị hiếu của người nhẹ tin vào những hiện tượng cảm tính và xúc động tâm linh như những cảnh người té ngã nằm đó ca hát, nói các thứ tiếng lạ, múa nhảy và ngủ lịm được nhiều người ưa thích. Chúng ta không dừng lại nơi những cảm tính nhất thời đó. Ân sủng của Chúa giúp chúng ta đổi đời, canh tân và sống đạo thực sự. Chúa mời gọi chúng ta ra đi làm nhân chứng cho sự thật. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Đức Chúa Thánh Thần đã ban ơn soi sáng trí khôn, thêm sức mạnh và thánh hoá các Tông đồ để các ngài đi rao giảng Phúc Âm và làm chứng về Chúa Kitô. Dấu chỉ hoa trái của Chúa Thánh Thần chính là sự đổi đời, canh tân cuộc sống và làm nhân chứng cho tình yêu Chúa Kitô. Các Tông đồ trở thành những con người mới đầy lòng can đảm, thấu triệt lẽ khôn ngoan và anh dũng làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh và chịu hiến thân đổ máu đào minh chứng niềm tin.
Niềm tin của tất cả các Kitô hữu đều quy về một mối là Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại. Ngài là trung tâm điểm của mọi lời rao giảng. Chúa Kitô Phục Sinh là cốt lõi của mọi niềm tin và niềm hy vọng. Tuy khác biệt về các mối tương quan và cách thế duy trì niềm tin, các tín hữu đều chung kết trong một Chúa Thánh Thần: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung (1 Cr 12,7). Mọi Kitô hữu cùng quay về một hướng và cùng chung một đích điểm. Thánh Thần ban cho mỗi người một đặc sủng riêng. Tuy các ân sủng khác nhau nhưng cùng phục vụ trong một thân thể. Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (1 Cr 12,5-6).
Chúng ta thấy có nhiều tổ chức xã hội, đảng phái chính trị hay kinh tế thương mại luôn trong tư thế tranh đua và lập thành tích. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng nếu nhiều người quy họp lại trong cùng một băng nhóm hay một đoàn thể chính trị mà xoay lưng lại với nhau để mỗi người nhìn về một hướng thì dễ bề phân rẽ. Khi sự liên đới ràng buộc không còn, thì mỗi người sẽ bung ra chạy theo những khuynh hướng khác nhau. Những chính sách, luật lệ và nguyên tắc của mỗi chế độ chính trị và tổ chức xã hội có thể thay đổi theo tâm thức và thị hiếu của con người từng thời đại. Nhưng đối với các Kitô hữu, xưa cũng như nay, niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh không thay đổi. Chúng ta có thể thay đổi cách thế thực hành đạo, các phương tiện và cơ cấu tổ chức. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi luôn hiện hữu.
Mỗi cộng đoàn giáo xứ bao gồm nhiều thành viên. Mỗi thành viên có những ân điển đặc thù về nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Mỗi người khác nhau từ dòng dõi, gia cảnh, trình độ học vấn, kiến thức, sự hiểu biết và nơi môi trường văn hoá riêng biệt. Mỗi người có cá tính và bản sắc riêng nhưng chúng ta cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô: Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy (1 Cr 12,12). Chúng ta cùng sống chung trong một cộng đoàn giáo xứ. Cuộc sống đạo của mỗi thành viên cần được thấm nhuần vào các sinh hoạt chung. Nhưng điều quan trọng là mỗi người phải tự đứng trên đôi chân của mình. Đời sống đạo đức và nhân cách phải tự rèn luyện và vun xới. Chúng ta không thể vay mượn hành động sống đạo và hành đạo.
Khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, Chúa nói: Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em (Ga 20,21). Lạy Chúa, xin ban sự bình an đích thực cho tâm hồn chúng con, để chúng con sẵn sàng ra đi làm nhân chứng cho Chúa trên mọi nẻo đường.
39. Đâng phù trợ
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Chúa Giêsu về trời, thiên thần Gabriel đón hỏi Chúa rằng: Vậy mọi người có hiểu biết tình yêu của Ngài dành cho họ không? Chúa Giêsu trả lời: Không, chỉ có một nhóm nhỏ hiểu biết thôi. Thiên thần Gabriel giật mình lo ngại và hỏi Chúa: Vậy số còn lại làm sao họ có thể biết? Chúa Giêsu đáp rằng: Nhóm người đó sẽ nói với họ. Thiên thần nói nhưng nếu họ làm Ngài thất vọng hay nếu họ chán nản thì sao? Chúa có làm lại một chương trình khác không? Chúa nói: Ta hoàn toàn tin tưởng vào họ sẽ không để Ta thất vọng.
Sau khi Chúa về trời, Ngài đã sai Chúa Thánh Thần xuống trên các Tông đồ để giúp các ngài đủ sức mạnh tiếp tục đi truyền rao chân lý tin mừng. Nhóm nhỏ 12 Tông đồ được Chúa ủy thác, họ như men trong bột. Họ đã tiếp tục đốt lên ngọn lửa mà Chúa trao ban để giúp lửa cháy lên lan tràn. Ngày Lễ Ngũ Tuần, ơn Chúa Thánh Thần như hình lưỡi lửa đáp xuống trên các Tông đồ. Các Ngài lãnh nhận tràn đầy sức mạnh và hăng hái ra đi rao giảng tin mừng Chúa Giêsu chịu đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Hãy sám hối và tin vào Tin mừng.
Chúa Thánh Thần là nguồn sinh lực đã khai mở Giáo Hội với một nguồn sức mới. Các Tông đồ được lãnh nhận những ân huệ khác nhau: người được ơn nói tiếng lạ, kẻ được ơn chữa bệnh, người nói tiên tri và người được ơn làm phép lạ. Mỗi người được ban cho tùy theo ơn Chúa Thánh Thần để sinh lợi ích chung cho Giáo Hội.
Chúa Giêsu đặt niềm tin tưởng và vào sự nhiệt thành của các Tông đồ, các môn đệ và những người tin theo Chúa. Biết rằng ngay từ những giây phút đầu tiên, Giáo Hội đã gặp phải biết bao gian khổ, chống đối, bắt bớ, tra tấn, giết chóc… nhưng sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã thắng vượt tất cả. Chúa Thánh Thần tiếp tục hoạt động trong Hội Thánh qua các thế hệ. Giáo Hội vẫn nỗ lực không ngừng truyền rao chân lý Phúc âm. Hiện nay có gần hai tỷ người đã được nhận biết Chúa.
Hạt giống đức tin tiếp tục triển nở qua các thời đại. Mỗi người chúng ta hãy góp chút công sức để Giáo Hội được phát triển không ngừng. Chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm và ỷ lại vào người khác. Mỗi người đều lãnh những ơn khác nhau, kẻ nhiều người ít nhưng ai cũng lãnh nhận. Hãy cho nhưng không những gì chúng ta sẽ lãnh nhận nhưng không. Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần Chúa xuống tràn ngập tâm hồn chúng con để chúng con ra đi làm nhân chứng cho Chúa.
40. Ơn Bảy Nguồn – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các tín hữu thuộc Giáo Hội Công Giáokết thúc Mùa Phục Sinh trong niên lịch phụng vụ. Chữ Pentecost trong tiếng Hy Lạp nghĩa là ngày thứ năm mươi và đây cũng là tên gọi tiếng Việt là Lễ Ngũ Tuần. Lễ Ngũ Tuần bắt nguồn từ lễ Năm Mươi của người Do-thái khi xưa tại Sinai. Trong cuộc lữ hành nơi hoang địa cũng như khi đã vào miền đất hứa, dân Do-thái luôn nhớ tưởng niệm ngày Thiên Chúa ban lề luật cho dân Do-thái trên núi Sinai. Đây là ngày thứ năm mươi sau ngày Lễ Vượt Qua và năm mươi ngày sau lễ Chúa Kitô Phục Sinh.
Bắt nguồn từ câu truyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, sau khi dân chúng bị trận lụt Đại Hồng Thủy, họ đã xây tháp Babel để tránh nạn lụt. Họ nói: "Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất."(Stk 11, 4). Với lòng kiêu hãnh bởi sức người đã tao nên sự phản bội trong tâm hồn. Họ đã bị Chúa phạt để tháp Babel sụp đổ đè chết một số người và gây phân tán khả năng ngôn ngữ không còn hiểu nhau. Sự kiêu ngạo đã tạo nên bức tường phân rẽ và thù ghét bạo hành.Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Babel, vì tại đó, Đức Chúa đã làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất (Stk 11,9).
Vào ngày Le Ngũ Tuần, thánh Luca đã diễn tả biến cố này như là một Giao Ước Sinai mới. Giáo Ước với dân chúng qua ân sủng của Chúa Thánh Thần. Sau khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ và những người thân hữu tụ nhau cầu nguyện không ngừng. Khi mọi người đang họp nhau trong phòng Tiệc ly, nơi Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể, bỗng có làn gió thổi mạnh và xuất hiện các hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ để ban các ơn sủng: Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một (Tđcv 2,3).Các ngài đã lãnh nhận tràn đầy hồng ân của Chúa Thánh Thần, nhất là ơn ngôn ngữ. Các tông đồ đã can đảm xuất hiện trước dân chúng để loan báo tin vui. Các ngài nói tiếng bản xứ của mình, nhưng mọi người từ khắp vùng lân cận đã tụ họp lắng nghe và hiểu rõ lời giảng của các ngài: Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tieng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Tđcv 2,4).
Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ đã ghi chú những nhóm người đã nghe lời giảng của các tông đồ đến từ nhiều miền khác nhau: Chúng ta đây, có người là dân Parthi, Mêđi, Êlam, Mêsopotamia, Giuđêa, Cappađôcia, Pontô, Tiểu Á, Phrygia, Pamphylia, Ai-cập, Libya, Cyrênê; nào là những người từ Rôma đến đây; nào là người Do-thái và tòng giáo; nào là người đảo Crêta hay người Ảrập, vậy mà chung ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa! (Tđcv 2, 9-11). Đây là sự kiện lạ tiên khởi bởi ơn ngôn ngữ qua biểu tượng của lưỡi lửa. Mọi người đã nghe các môn đệ nói tiếng thổ âm của mình. Các tông đồ nói một thứ tiếng nhưng các người được nghe, đều hiểu theo ngôn ngữ của mình. Như vậy, ơn Chúa Thánh Thần đã tác động trong từng tâm hồn để họ đón nhận tin mừng. Họ là những chứng nhân tiên khởi đã tản mát về khắp nơi đem tin mừng cứu độ đến cho nhiều người tại quê hương của họ.
Trong thơ của thánh Phaolô tông đồ gởi cho tín hữu Corintô, ngài xác tín rằng: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung (1Cor 12,7). Mỗi người lãnh nhận ơn sủng và chức vụ riêng, nhưng chỉ có một Chúa Thánh Thần. Có người được ơn khôn ngoan, có kẻ được ơn hiểu biết, có người được ơn làm phép lạ, có vị được ơn chữa bệnh, ơn nói tiên tri, có kẻ được ơn nói tiếng lạ và giải thích tiếng lạ. Tất cả mọi người đều được thanh tẩy để làm nên một Nhiệm Thể Chúa Kitô trong cùng một Chúa Thánh Thần.
Như lời Chúa Giêsu đã hứa với các tông đồ, Chúa sẽ sai Thánh Thần đến để dẫn dắt các ngài đến sự thật trọn hảo: Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (Ga 16,13). Trải qua hai thiên niên kỷ, trên nền tảng niềm tin của các tông đồ, Giáo Hội Công Giáo vẫn duy trì kiên vững hai nguồn Thánh Kinh và Thánh Truyền cùng các giáo huấn của Giáo hội. Qua các biến cố thăng trầm, chúng ta tin Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục gìn giữ, thánh hóa và canh tân Hội Thánh ở trần gian.
Chúa Thánh Thần có những danh hiệu như Đấng Bảo Trợ, Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi, Thần Chân Lý, Chúa Thánh Linh và Ngôi Ba Thiên Chúa. Những hình ảnh biểu tượng về Chúa Thánh Thần như Nước, Gió, Lửa, Xức dầu, Áng mây, Ánh sáng, Ấn tín, Đặt tay và Chim bồ câu... Có bảy ơn Chúa Thánh Thần, gọi là ơn Bảy Nguồn: Ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn biết lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức và ơn kính sợ. Các ơn sủng của Chúa Thánh Thần giúp chúng hiểu biết sâu xa hơn về chân lý đức tin và can đảm quyết tâm thi hành sống đạo. Không phải chúng ta chỉ ngồi ca hát, khẩn cầu, van xin và ước mong, mà phải vận dụng tất cả các khả năng Chúa ban để sinh lợi trong đời sống hằng ngày. Chúa không ban ơn sủng để chúng ta cất dấu hay làm lợi cho riêng mình, nhưng là mang lại lợi ích chung cho mọi người. Ai lãnh nhận nhiều thì phải cho lại nhiều. Cái gì chúng ta nhận lãnh nhưng, không cũng hãy cho nhưng không: Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy (Mt 10,8).
Đức Chúa Thánh Thần ngự trong những người có ơn thánh hóa và ban các ơn cần thiết giúp ta sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Ai trong chúng ta cũng lãnh nhận ơn Chúa, nhất là ơn sự sống. Chúa Thánh Thần còn ban ơn sủng qua các Bí Tích, đặc biệt là Bí Tích Rửa tội, Thêm Sức và Truyền Chức. Các ơn sủng siêu nhiên soi sáng giúp chúng ta bước theo đường lối và làm nhân chứng cho Chúa. Ơn Chúa không tách biệt chúng ta để trở thành một thành phần ưu tuyển nào cả. Chúng ta có thể nhận diện được hoa qủa của ơn Chúa Thánh Thần trong đời sống thường ngày của mỗi người tín hữu. Xem qủa thì biết cây. Còn hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế (Gal 5, 22-23).
Chúng ta phải tôn kính, thờ phượng và cầu xin Chúa Thánh Thần. Vâng theo ơn Người soi sáng, cùng ton trọng hồn xác ta là đền thờ của Người. Trong mỗi giây phút sống, chúng ta đều cảm nhận được những ơn lạ. Tất cả mọi luân chuyển sinh động trong thân xác và ngoài vũ trụ đều là sự nhiệm mầu ngoài tầm tay kiểm soát của con người. Chúng ta nên phân biệt rõ ràng về vai trò của Chúa Thánh Thần và lòng ước muốn của con người. Cầu xin là việc của chúng ta, còn ban ơn sủng là thuộc về quyền năng Thiên Chúa. Trình thuật của thánh Gioan rất vắn gọn khi viết về Thánh Thần. Ngày thứ trong tuần, Chúa Giêsu đã hiện đến với các tông đồ và phán: “Bình an cho anh em” và Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20, 22).
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta hãy cầu xin Ơn Bảy Nguồn. Để mở lòng đón nhận ơn Chúa Thánh Linh, chúng ta hãy sửa đổi những thói hư tật xấu. Chấm dứt những bê tha mê lầm. Buông bỏ những tị hiềm, ghen ghét và thù oán. Quay trở về với con đường chính thật. Mặc lấy ơn sủng tình yêu của Chúa Thánh Thần. Giống như các tông đồ xưa, chúng ta mạnh dạn bước ra khỏi phòng và ra đi làm nhân chứng. Chúng ta sẽ vui thỏa trong bình an và hoan lạc. Lay Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!
41. Hãy nhận lấy Thánh Thần - Huệ Minh
Lễ Hiện Xuống chính là ngày lễ 50 của Cựu Ước. Đó là cao điểm kết thúc cho mùa mừng lễ Vượt Qua, ngoài ra đó còn là ngày lễ tạ ơn vì Chúa đã cho mùa màng tốt tươi, cũng như để kỷ hiệm ngày Chúa công bố lề luật qua Môsê trên đỉnh núi Sinai. Lễ Hiện Xuống, Thánh Thần được ban cho các môn đệ để hướng dẫn, để đồng hành với các môn đệ sau khi Chúa Giêsu lên Trời.
Ngày xưa Chúa Thánh Thần bay lượn trên nước và đã biến cái đám hỗn mang thành một vũ trụ có trật tự thế nào, thì bây giờ Ngài cũng bay lượn, cũng hiện diện trong tâm hồn để biến con người tội lỗi, vô trật tự của chúng ta thành một Kytô hữu đích thực, Ngài sẽ cởi bỏ con người cũ của chúng ta, biến chúng ta trở nên một tạo vật mới, một con người mới.
Chắc hẳn bề ngoài chúng ta vẫn như trước vẫn giống với mọi người, có đầu, có mắt, có trái tim, nhưng cách thức chúng ta nhìn ngắm, cách thức chúng ta suy nghĩ, cách thức chúng ta yêu mến thì lại hoàn toàn thay đổi, như lời tiên tri Êgiêkiel đã diễn tả: Ta sẽ rảy nước tinh tuyền trên các ngươi và các ngươi sẽ được trong sạch. Ta sẽ cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá, nhưng sẽ ban cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới và một thần khí mới.
Trước khi về trời Chúa Giêsu đã hứa không để cho chúng ta phải mồ côi, Người sẽ gởi đến cho chúng ta một Đấng an ủi, để nhắc lại những điều Người đã giảng dạy. Ngày hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động trong Giáo Hội cũng như trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy nghĩ tưởng đến Ngài, và chúng ta có thể gặp gỡ Ngài ở khắp mọi nơi. Ngài ngự trị trong tâm hồn chúng ta kể từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội, để biến tâm hồn và thể xác chúng ta thành đền thờ cho Thiên Chúa, như lời thánh tông đồ đã khuyên nhủ: Anh em không nhớ rằng thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần hay sao.
Hãy mang lấy Thiên Chúa và hãy tôn vinh Người trong thân xác anh em. Chúng ta sẽ dễ dàng trở nên thánh thiện, nếu chúng ta luôn ý thức rằng Chúa Thánh Thần đang ngự trị trong chúng ta. Còn đối với Giáo Hội, Chúa Thánh Thần luôn thánh hoá và hoạt động bằng các bí tích. Chúa Giêsu đã về trời và trở nên vị trung gian bầu cử cho chúng ta trước toà Đức Chúa Cha.
Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Và như chúng ta đã biết Giáo Hội là nhiệm thể của Đức Kitô. Thân xác muốn sống thì phải có linh hồn. Vai trò của linh hồn thật là quan trọng, nó là nguyên lý của sự sống, nếu linh hồn lìa khỏi thì thân xác sẽ phải chết. Cũng vậy Chúa Thánh Thần là linh hồn của nhiệm thể Giáo Hội, chính Ngài trao ban và bảo tồn đời sống ơn sủng trong chúng ta. Nhờ Ngài mà chúng ta có thể cầu nguyện và làm được những việc tốt lành.
Khi ban Thánh Thần trên các môn đệ, Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo: “Hãy nhận lấy Thánh Thần”. Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Ngài như là gió. Người ta không thấy gió, người ta không biết gió bắt nguồn từ đâu và đến đâu thì dừng lại. Cho dù các nhà khí tượng học có bao trước được các trận bão, ta vẫn có cảm tưởng mình bị một sức mạnh vừa huyền bí vừa mạnh mẽ bao trùm. Gió thổi và gây tiếng động. Gió bẻ gãy và nhổ bật lên. Gió tàn phá, nhưng cũng làm cho đất đai ra phì nhiêu. Có khi gió quạt mát, có lúc gió thiêu đốt. Về làn gió Thánh Thần cũng thế. Ngài mạnh mẽ, Ngài len lỏi vào mọi sự. Nếu chúng ta mở lòng ra với Ngài, Ngài sẽ bẻ gãy, Ngài nhổ tung và phá hủy tất cả những gì chống lại tình yêu Thiên Chúa; Ngài cũng làm cho các con tim nên dồi dào phong phú. Ngài liên tục làm việc trong lòng chúng ta, như thánh Phaolô đã nói: “Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà liên tục kêu lên: “Abba, Cha ơi!” (Gl 4,6).
Bởi phép Chúa Thánh Thần, Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể, Ước gì các tín hữu Kitô cũng biết để cho Chúa Thánh Thần tràn ngập tâm hồn mình, để nhờ Lời của tình yêu Thiên Chúa cũng trở thành xương thịt nơi họ và cuộc sống của họ cũng trở thành ngôn ngữ của cảm thông, của yêu thương, của gặp gỡ và của hiệp nhất nên một vơí nhau trong tư tưởng và trong hành động.
Thánh Thần tác động trong Cộng Đoàn Hội Thánh: Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại như sau: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi. Bỗng từ trời phát ra một tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần , họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác nhau tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Thánh Thần biến đổi các Mục Tử của Hội Thánh: Thời sơ khai, Thánh Thần đã tác động để biến đổi các Tông đồ (x. 1 Cr 12,4-11): Từ tình trạng nhút nhát sợ hãi trở nên can đảm và công khai làm chứng cho Chúa Giê-su trước mặt đám đông (x. Cv 2,14-36); Từ tình trạng kém hiểu biết Lời Chúa, trở nên khôn ngoan, hiểu rõ mọi điều Chúa đã truyền dạy trước đó (x. Ga 16,12-13); Từ tình trạng buồn chán thất vọng và muốn thoái lui, trở nên nhiệt thành yêu mến Chúa, tràn đầy niềm vui hy vọng (x. Lc 24,32-35). Nhờ Thánh Thần mà các Tông đồ đã đón nhận nhiều tín hữu bày tỏ lòng sám hối và xin chịu phép Rửa gia nhập Hội Thánh (x. Cv 2,41).
Thánh Thần liên kết muôn người nên một: Lúc đó tại Giêrusalem, có những người Do Thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về. Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các Tông đồ nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt, thán phục và nói: “Những người đang nói đó không phải là người Galilê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?” (Cv 2, 5-8). Đã có 15 dân tộc nghe các Tông đồ rao giảng. Trái với nhân loại thời Tổ phụ Nôe, do kiêu ngạo muốn thách thức Thiên Chúa đã hè nhau xây tháp Ba-ben, và đã chia rẽ thành nhiều dân tộc nói các thứ tiếng khác nhau (x St 11,1-9), thì hôm nay chính Thánh Thần đã hiệp nhất các dân tộc để cùng tuyên xưng một đức tin.
Thánh Thần soi lòng mở trí giúp lương dân đón nhận chân lý: Sau bài giảng đầu tiên của Tông đồ Phêrô, nhờ ơn Thánh Thần tác động nên đã có tới ba ngàn người đang ở tại Giêrusalem tin theo Chúa Giê-su và đã chịu phép rửa gia nhập vào Hội Thánh (Cv 2,41). Những tín hữu này đã họp thành cộng đoàn Hội Thánh Sơ Khai.
Thánh Thần thúc đẩy sự hiệp nhất trong Hội Thánh Sơ Khai: Cũng nhờ ơn Thánh Thần mà Cộng đoàn tín hữu đầu tiên ở Giêrusalem đã luôn sống hiệp nhất với nhau, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng. Nhờ sự hiệp thông này mà số người xin gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng (x. Cv 2,42-47).
Với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta đã kết thúc 50 ngày mùa Phục Sinh. Từ giây phút này trở đi, chúng ta sẽ làm chứng, như trong các bản văn Tân Ước, về đời sống mà Chúa Thánh Thần mang lại cho Giáo Hội. Chúng ta gọi hôm nay là “sinh nhật của Giáo Hội”. Rõ ràng chính thái độ mâu thuẫn của các Tông Đồ trong suốt hành trình sứ vụ của Đức Giêsu và sự phân tán khi Người bị bắt và bị giết chết, cho thấy rằng nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa, thì đã không có một Giáo Hội đi loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô – đó là tầm quan trọng và sự cần thiết của Lễ Hiện Xuống.
Lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khai sinh Giáo hội, mà Lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo Hội. Người ta gọi Công đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống mới, một luồng gió mới đã thổi vào Giáo Hội để canh tân cho thích hợp với độ chóng mặt của thế giới ngày nay.
Thánh Thần đang thực hiện một sự thống nhất mới cho nhân loại, hay nói đúng hơn một nhân loại mới trong đó người người có thể hiểu nhau, cảm thông với nhau đang được khai sinh, một nhân loại mới trong đó mọi người đã có thể hiểu nhau và cảm thông vơi nhau trong cùng một ngôn ngữ mà chính Thiên Chúa đã ban cho con người và ngôn ngữ mới ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người. Chính nhờ Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ngỏ với con người, đã trở thành con người.
42. Luồng Gió Mới
(Suy niệm của Huệ Minh)
Có quá nhiều dấu ấn trong Giáo Hội Công Giáo, nhưng có lẽ dấu ấn Công đồng Vaticano II để lại trong lòng người tín hữu không những sự đổi mới của các nghị sự, của quyết định của công đồng nhưng có lẽ ấn tượng nhất là người quyết định khai mở công đồng.
Chắc có lẽ mọi người không thể quên vị Giáo Hoàng có sáng kiến mở công đồng Vaticano II. Bình thường cũng đã nhớ khi một vị Giáo Hoàng khai mở công đồng nhưng đặc biệt ở vị Giáo Hoàng khai mở công đồng này khi Ngài đã luống tuổi. Nhiều người không chỉ nhận định mà tin rằng đây chính là luồng gió mới mà Thánh Thần thổi vào Giáo Hội.
Nhờ Luồng Gió mới, nhờ ơn Chúa Thánh Thần mà Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã triệu tập Công đồng vào ngày 11 tháng 10 năm 1962. Công đồng này được Chân Phước Giáo hoàng Phaolô VI kết thúc ngày 8 tháng 12 năm 1965.
Nhìn lại một chút lịch sử, ta thấy suốt những năm 1950, những người Công giáo nghiên cứu về thần học và Kinh Thánh bắt đầu quay khỏi chủ nghĩa tân kinh viện và kiểu giải thích Kinh Thánh theo nghĩa đen. Giáo hội đã áp dụng cách hiểu này từ Công đồng Vatican I để trả lời dị giáo đổi mới. Có thể nhận thấy thay đổi này đối với các nhà thần học như Karl Rahner S.J., và John Courtney Murray S.J., họ cố gắng giải thích kinh nghiệm con người hiện đại để hợp với những điều giáo lý Kitô giáo; những người như là Yves Congar, Joseph Ratzinger (tức là Giáo hoàng Biển Đức XVI), và Henri de Lubac tìm hiểu về Kinh Thánh và Giáo hội một cách được cho là chính xác hơn, dùng nó là nguồn phục hồi.
Cùng lúc đó, các Giám mục trên thế giới có nhiều vấn đề khó khăn trước mặt do thay đổi chính trị, xã hội, kinh tế, và công nghệ. Trong số đó có Giám mục muốn tìm cách mới để giải quyết các vấn đề này. Công đồng Vatican I đã được tổ chức gần 100 năm về trước nhưng bị cắt ngắn khi Quân đội Ý vào thành phố Rôma vào cuối thời kỳ Thống nhất nước Ý. Vì thế, công đồng chỉ có thì giờ tranh luận về vai trò của chức Giáo hoàng, còn các vấn đề mục sư và giáo lý mà có thể ảnh hưởng đến cả Giáo hội chưa được giải quyết.
Và như vậy, rất nhiều người nghĩ rằng Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII sẽ là một Giáo Hoàng thích yên ổn vì khi đó tuổi đã cao. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII được bầu lên ngày 28-10-1958, một cụ già đã 77 tuổi lại có thể làm nên một mùa xuân cho giáo hội. Có thể nói, chính tương quan của giáo hội và thế giới lúc đó đã tạo ra bầu khí ngột ngạt hối thúc vị Giáo hoàng già nua phải làm một cái gì đó như Ngài nói: “ít nhất phải mở toang cánh cửa ra để thoáng khí hơn”.
Nhờ ơn Chúa thúc đẩy, Ngài công bố mục đích triệu tập Công đồng ngày 25 tháng 1 năm 1959, chưa ba tháng sau khi được bầu tháng 10 năm 1958. Trong khi Ngài tỏ ý kiến đầy đủ về công đồng trong nhiều bức thư vào giai đoạn ba năm, một trong những hình ảnh nổi tiếng nhất là khi Giáo Hoàng trả lời câu hỏi tại sao cần triệu tập một công đồng.
Rất đơn giản, Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII mở cửa sổ và nói “Hãy mở những cánh cửa sổ ra. Hãy tìm hiểu nhìn xem những dấu chỉ thời đại. Hãy lắng nghe con người và tìm hiểu những suy nghĩ thắc mắc của họ”.
Thật sự, không chỉ phải ở Công Đồng Vaticano II mới có sự hiện diện của Thánh Thần nhưng Thánh Thần đã có, đang có và vẫn có, vẫn hiện diện, vẫn sống với Giáo Hội. Thánh Thần chính là Đấng làm mới, làm tươi mới lại khuôn mặt cứng tin, khuôn mặt cằn cỗi của con người trước một Thiên Chúa quyền năng.
Quá nhiều lần con người cố thủ trong cái nhìn nhỏ hẹp của mình để rồi quên lãng đi sự hiện diện rất quan trọng của Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngôi Ba Thiên Chúa đóng vai trò rất quan trọng trong công trình sáng tạo, trong công trình cứu độ của con người.
Ta còn nhớ trong sách Sáng Thế, Thần Khí Thiên Chúa bay là là trên mặt nước: "Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Chúa bay lượn trên mặt nước." (St 1,1-2)
Và ta thấy Thánh Thần trong mầu nhiệm tạo dựng con người. Thánh Thần là Đấng ban sự sống thể lý cho con người: "Chính hơi thở của Thiên Chúa đã làm ra tôi, khí Shadday đã cho tôi sự sống" (G 33, 4). Chính Thánh Thần phục sinh kẻ chết về thể lý cũng như tinh thần. Người phục hồi sự sống cho những bộ xương khô, biểu tượng của sự chết: "Ta sẽ ban Thần Khí của Ta xuống trong các ngươi. Và các ngươi sẽ được sống" (Ed 37, l4). Và Thánh Thần, Đấng bảo tồn toàn thể sự sống trên trái đất. Khi Giavê Thiên Chúa rút hơi thở Người lại, thì không tạo vật nào còn sống: "Nếu Người chỉ nghĩ đến Người, nếu Người rút về làn khí hơi thở của Người, thì mọi xác phàm sẽ chết cùng một lúc, và con người sẽ trở về với cát bụi" (G 34, 14-15).
Không chỉ hiện diện nhưng Thánh Thần đã làm cho con người không chỉ sống nhưng hơn nữa là khi có ơn Thánh Thần thì người nhận ơn Thánh Thần sẽ khôn ngoan, sức mạnh ... như các trang Thánh Kinh ghi lại.
Ơn khôn ngoan cho những người lãnh đạo.
Thánh Thần được Thiên Chúa ban cho những người được Ngài đặt lên để cai trị Dân của Ngài.
Trường hợp Môsê với 70 trưởng lão (Ds 11, 16-17. 25-26).
Trường hợp Giôsua được Thiên Chúa chọn kế vị Môsê (Ds 27, 28-33).
"Giôsua con của Nun, đã được đầy Thần Khí Khôn Ngoan, vì Môsê đã đặt tay trên ông" (Đnl 34, 9).
Việc xức dầu cho các vua là dấu hiệu sự hiện diện của Thánh Thần trong việc cai trị của họ: "Samuel cầm lấy sừng dầu mà xức dầu cho cậu giữa các anh và Thần Khí đã đáp xuống trên Đavít từ ngày ấy về sau" (1Sm 16, 13).
Sức mạnh và lòng can đảm cho một số trường hợp đặc biệt.
Trong thời kỳ các Quan Aùn là một trong những thời kỳ đen tối nhất của dân Israel, Thánh Thần đã được phú ban cho các vị, nhờ đó các vị có một sức mạnh hay uy quyền đặc biệt: "Thần Khí Thiên Chúa đến trên ông (Otniel) và ông đã làm thẩm phán trên Isrel. Oâng đã xuất chinh và Giavê đã phó nộp Cushan-Rishơataim, vua Aram trong tay ông..." (Tl 3, 10).
"Thần Khí Giavê xuống phủ trùm người Ghêđêôn, và ông thổi tù và" (Tl 6, 34).
"Thần Khí Chúa đến trên Giéptê và ông đã qua Galaađ và Manassê" (Tl 11, 29).
"Thần Khí Giavê xuống trên ông (Samson) và ông đã xé mảnh con sư tử như thể người ta xé mảnh con dê ... Bấy giờ Thần Khí giáng xuống trên ông, và ông đã xuống Asqalon và giết 30 người ... Khi ông đến gần Lêkhi, Thần Khí Giavê giáng xuống trên ông: các chão trên tay ông đã ra ngay như sợi dây gai cháy xèo trong lửa ..." (Tl 14, 6. 19 ; 15, 14).
Hiểu biết và sáng kiến trong khoa học và nghệ thuật.
Hai người thợ (Bơxalêel và Oholiab) đã nhận được ơn thông minh và tài khéo để thực hiện "Trướng Tao Phùng":
"Người đã ban cho nó (Bơxalêel) đầy Thần Khí Thiên Chúa về khôn ngoan, minh mẫn, hiểu biết và bách nghệ ... Người đã ban cho chúng đầy tài khôn khéo..." (Xh 35, 30-35).
Việc xây dựng đền thờ cũng do Thần Khí hướng dẫn Đavít vẽ mẫu và trao lại cho Salômon: "Bấy giờ Đavít trao cho Salômon con ông, mẫu của tiền đường và mẫu của chính điện... ; và mẫu của tất cả những gì ông đã được Thần Khí hứng cho về các Tiền đình của Nhà Giavê và các phòng xung quanh" (1Sbn 28, 11-12).
Tóm lại, mọi thành phần Dân Chúa Trong Cựu Ước đều tin tưởng cách đơn sơ và thực tế vào hoạt động của Thánh Thần của Thiên Chúa trong đời sống cũng như lịch sử.
Đặc biệt nhất, có lẽ chúng ta thấy Thánh Thần luôn đồng hành cùng với Chúa Giêsu từ khi nhập thể cho đến khi Chúa Giêsu rời thế gian mà về với Cha. Trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã trút hơi thở và phó thác cho Thần Khí. Thần Khí, Thánh Thần mà Chúa Giêsu trao phó cũng chính là Thánh Thần mà Chúa Giêsu hứa ban cho các môn đệ khi Chúa Giêsu về Trời: Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. (Ga 14, 16.17).
Thánh Thần vẫn hiện diện, vẫn hoạt động trong Giáo Hội, trong mỗi người. Thế nhưng, đáng tiếc thay ngày hôm nay người ta chạy theo lợi ích cá nhân, chạy theo cái tôi của mình để rồi dập tắt đi Thần Khí mà Thiên Chúa ban cho mỗi người, Thiên Chúa ban cho Giáo Hội.
Còn đó sự giằng co giữa Thần Khí và xác thịt, Thánh Thần và con người.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta khơi lên Thần Khí mà Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta vào ngày chúng ta lãnh bí tích Thanh Tẩy và Thêm Sức. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, chắc chắn chúng ta sẽ được sống và được sống dồi dào cũng như có những ơn cần thiết để sống giữa cuộc đời tạm bợ này.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ra để cho Luồng Gió mới chính là Thần Khí thổi trong con người chúng ta, đổi mới con người chúng ta.
43. Hãy nhận lấy Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)
Cách đây 50 ngày, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, và Chúa Nhật tuần trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống và cũng là thánh lễ kết thúc Mùa Phục Sinh.
Trong thánh lễ hôm nay, cộng đoàn chúng ta suy ngắm hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử ơn cứu độ, và sự hiện diện hoạt động của Ngài nơi các Tông đồ và trong Giáo hội để chúng ta biết sống niềm tin theo sự hướng dẫn của Ngài.
1. Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu độ
Chúng ta không thể tìm trong Cựu ước Mạc khải trọn vẹn về Chúa Thánh Thần như trong Tân ước, nhưng chúng ta có thể tìm trong đó rất nhiều tư tưởng phong phú và nhiều màu sắc về thực tại được gọi là Thánh Thần Thiên Chúa.
Trước hết, trong sách Sáng thế, câu đầu tiên ghi: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” (St 1,2)
Như vậy, sự hiện diện của “Thần Khí Thiên Chúa” bay là là trên mặt nước là một cách diễn tả quyền năng của Thiên Chúa biến đổi hư vô, tối tăm và sự chết thành sự hữu, ánh sáng và sự sống. Và qua Lời Thiên Chúa phán mọi sự được tạo dựng: Ánh sáng, trời đất, tinh tú, cỏ cây, súc vật…
Còn khi tạo dựng sự sống con người-biến xác thể bùn đất thành thân thể sinh động-Thiên Chúa trao ban hơi thở, Thần Khí của Ngài cho con người để con người có sự sống: “Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi lấy từ đất đai và Người hà hơi vào mũi nó và người đã thành mạng sống” (x.St 2,7)
Như thế “thổi hơi” gợi lại công trình sáng thế, đặc biệt với con người. Và qua lời tiên báo về việc tái tạo Israel của ngôn sứ Ezechiel (x.Ed 37,9), ngôn sứ cũng nói về việc Thiên Chúa trao ban Thần khí mới, quả tim mới cho con người. Như thế, Thần Khí Thiên Chúa đã thực hiện việc tạo dựng mới.
Rồi trong Tân ước, cũng chính Thần Khí, hơi thở của Thiên Chúa luôn hiện diện từ khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người cho đến ngày Giáo hội được khai sinh.
Mở đầu sứ vụ, Đức Giêsu được Thần Khí Thiên Chúa Thánh hiến và sai đi loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Trên bước đường truyền giáo, Ngài đã rao giảng về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, luôn rộng lượng thứ tha cho người tội lỗi ăn năn hối cải để được ơn tha tội.
Trong ngày Phục sinh, Chúa Kitô sống lại hiện ra với các Tông đồ, Thánh Gioan nhấn mạnh: “Ngài thổi hơi trên họ và nói với họ: Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Thần Khí nơi Chúa Kitô Phục sinh làm cho các Tông đồ nên những con người mới: từ sợ hãi nên vui mừng hân hoan. Thần Khí đã tác động và biến đổi các Tông đồ kể từ lễ Ngũ Tuần sau Phục sinh, trở thành những chứng nhân can đảm, bất khuất, vượt qua mọi khó khăn, dù bị tù đày để loan báo Tin Mừng (x.Cv 2,28)
2. Chúa Thánh Thần, sức mạnh các hoạt động Tông đồ:
Biến cố Ngũ tuần cũng gọi là lễ Hiện Xuống là bước khởi đầu cho những hoạt động kế tiếp mà Thánh Thần thực hiện trên toàn thế giới và trong cuộc sống con người.
Sách Công vụ Tông đồ mô tả sự kiên này một cách thi vị và theo trình tự thời gian: 40 ngày sau khi sống lại, 10 ngày sau khi lên trời: “Chúa Thánh Thần ngự đến trong khung cảnh tiếng động, gió mạnh và lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người và ai nấy được đầy tràn Thánh Thần” (Cv 2,1-4).
Còn bài Tin mừng thánh lễ hôm nay (Ga 20,19-22), Thánh Gioan tường thuật lại Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra đứng giữa các Tông đồ và nói rằng: “Bình an cho anh em. Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em… Hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Như thế trước lúc về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ rao giảng sự thống hối và làm phép rửa cho muôn dân được tha tội và được ơn cứu độ.
Vì thế, sứ vụ chính yếu của Người Tông đồ là rao giảng sự thống hối và cầu bình an cho mọi người. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã quả quyết: “mọi sự đều do tự Thiên Chúa, Đấng đã giảng hoà ta lại với chính mình Người nhờ Đức Kitô và đã ban cho chúng tôi được giúp việc giảng hòa” (2Cr 5,18). Nhưng chỉ trong sức mạnh của Thánh Thần, người Tông đồ mới đảm nhận được sứ vụ cao cả ấy. Chính Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được những hoa trái phát sinh khi có Thánh Thần trong mình, Ngài nói: “Hoa trái của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ”.
Ngày xưa, Thánh Thần của Đấng Phục Sinh đã đến, Ngài mở ra cho các môn đệ một chân trời mới của cuộc sống mới. Các môn đệ đã mạnh dạn đi vào thế giới, mang tin vui đến cho mọi người, dù hoàn cảnh có thuận buồm xuôi gió hay gặp những trắc trở gian nan. Ngày nay, người Kitô hữu cũng lãnh nhận Thánh Thần, để có thể đi ra khỏi cánh cửa khép kín vì sợ hãi, mà mở rộng cõi lòng đón nhận và đến với tha nhân với vòng tay nối kết mang nguồn vui ơn cứu độ của Chúa đến cho con người. Do đó, lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khai sinh Giáo hội, mà lễ Hiện xuống vẫn đang tiếp diễn, nghĩa là, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo hội, để canh tân thế giới ngày nay.
3. Vai trò thiết yếu của Chúa Thánh Thần trong đời sống Kitô hữu:
Ngày nay trước viễn cảnh một thế giới ngập tràn bạo lực và khủng bố, chỉ dựa vào những giải pháp trần thế nhân loại không thể đẩy lùi được bao lực và khủng bố, bởi vì “oán không bao giờ diệt được oán”. Vậy chỉ có tình thương tha thứ “dĩ hòa vi quý” mới là giải pháp tối ưu giải quyết tận căn của chủ nghĩa bạo lực và khủng bố.
Do đó, điều quan trong trong công việc: “Tông đồ giáo dân” người Kitô hữu phải trở nên “khí cụ bình an của Chúa” (Mt 10,12; Rm 12,18) phải cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa đang ở trong mình và biết chia sẻ tình yêu đó với mọi người xung quanh (1Tx 2,8). Để thực thi được sứ mạng đó, Giáo hội phải truyền giáo, nhất là: “Giáo hội tại Châu Á phải là một Giáo hội truyền giáo. Theo ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, thế mà hôm nay rất ít người Châu Á biết Chúa và tin theo Chúa”. Quả thật Châu Á, trong đó có Việt Nam, có số dân đông nhất năm châu, mà chỉ có 3% dân số tin theo Chúa. Đó là nỗi thao thức của Người Kitô hữu trong Giáo hội.
Vì thế, hơn bao giờ hết, người tín hữu cần ý thức vai trò quan trọng thiết yếu của Chúa Thánh Thần, vì Ngài chính là căn nguyên sự sống và hoạt động của Giáo hội. Không có Thánh Thần thì cũng chẳng có điều chi thành tựu. Ngài đến để thông ban sự sống, để thánh hóa, để canh tân, để khai mở một cộng đoàn gia đình nhân loại mới trong Đức Kitô. Là Thần Chân Lý, Ngài đến để soi sáng cho mọi người biết điều hay lẽ phải, thúc giục người tội lỗi trở về nẻo chính đường ngay, hướng dẫn và đổi mới tâm tư nên người thánh thiện, biến đổi thế giới nên công bình bác ái.
Vậy cộng đoàn phụng vụ hãy mở rộng cõi lòng để đón Chúa Thánh Thần. Xin Người ban lửa thiêng để tấm lòng được ấm áp và lộ trình cuộc đời được soi sáng, tránh xa u mê lầm lạc, luôn biết đi theo và đi đúng con đường Ngài chỉ dẫn.
Hãy canh tân và đổi mới tâm hồn ngõ hầu người tín hữu trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Hãy làm điều gì cho Chúa, cho Hội Thánh và có ích cho anh chị em mình. Cụ thể như tận tình yêu thương, kính trọng phẩm giá của những người bất hạnh, nghèo khổ…
“Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” lệnh truyền đó của Chúa Giêsu hôm nay cũng được chuyển đạt đến người Kitô hữu chúng ta, để chúng ta lên đường với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta nhiệt tâm làm chứng cho sự thật, cho Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa trong thời đại hôm nay như các Tông đồ ngày xưa.
44. Thánh Thần Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Mùa Phục Sinh kết thúc với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Chúa Nhật kế tiếp Giáo Hội sẽ mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính nhờ Đức Giêsu mà người ta biết một cách đặc biệt về Thánh Thần Thiên Chúa.
I. Đức Giêsu đã nói về Thánh Thần
Quyển sách đầu tiên của Kinh Thánh đã đề cập đến Thần Khí của Thiên Chúa: “Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St.1, 2). Trong sách Thánh Vịnh, người ta đọc thấy: “Sinh khí của Ngài, Ngài gởi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv.103, 30). Thần Khí (hơi thở) của Thiên Chúa đã được biết tới trong Cựu Ước.
Các tông đồ chỉ nhận ra căn tính của Đức Giêsu một cách đặc biệt sau khi Đức Giêsu phục sinh từ cõi chết. Cùng với dân chúng, các tông đồ nhận ra Đức Giêsu là một tiên tri, là Đấng Kitô (Mt.16, 16: Đấng Thiên Chúa xức dầu, Đấng Thiên Sai) ngay khi Ngài còn sống đời tại thế; nhưng chỉ sau biến cố Đức Giêsu phục sinh từ, các tông đồ mới nhận ra Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, ngự bên hữu Thiên Chúa. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa, hay một cách chính xác hơn Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Chính nhờ Đức Giesu, mà con người biết về Thánh Thần một cách rõ ràng hơn.
Tin mừng theo thánh Gioan cho thấy chính Đức Giêsu mặc khải cho con người biết về Thánh Thần một cách đặc biệt. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ sẽ được Thiên Chúa sai gởi tới nhân danh Đức Giêsu, để ở với mãi với con người (Ga. 14,16.26). Có một tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa, Đức Giêsu, và Thánh Thần Đấng Bảo Trợ. Không ai biết rõ Cha trừ Con và những người Con muốn mặc khải (Mt.11, 27). Cũng chính Đức Giêsu nói cho con người biết về Thánh Thần. Thánh Thần có nguồn gốc nơi Thiên Chúa Cha, và được chính Thiên Chúa Cha sai gởi (Ga.14, 16.27). Thánh Thần cũng được Đức Giêsu sai gởi nữa (Ga.15, 26).
II. Sứ mạng của Thánh Thần
Thánh Thần luôn ở với con người. Thánh Thần được sai tới, để ở mãi với con người (Ga.14, 16). Thánh Phaolô diễn tả: “anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Vậy ai phá hủy đền thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy chính là anh em” (1Cor.3, 16-17). Ở với con người, đó là sứ mạng chính của Thánh Thần. Hiện tại Thánh Thần đang ở với mỗi người chúng ta. Thánh Thần đang hiện diện nơi cung lòng mỗi người. Không bao giờ Thánh Thần rời bỏ chúng ta.
Thánh Thần là Đấng thánh hóa, Đấng làm cho con người nên thánh, Đấng lam cho con người thuộc về Thiên Chúa. Một ngôn từ khác để diễn tả tác động làm con người thuộc về Thiên Chúa, đó là tha tội (Ga.20, 22-23). Thiên Chúa như người cha nhân từ luôn tha thứ tội lỗi cho con người, ngay cả khi người con chưa kịp nói lời xin lỗi. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thúc đẩy làm cho con người sám hối trở lại với Thiên Chúa. Không phải chờ cho tới lúc con người tới tòa hòa giải để nghe lời xá giải qua trung gian linh mục, Thánh Thần Thiên Chúa mới tác động tha thứ tội lỗi con người; nhưng ngay ý định thống hối, hành vi thống hối đầu tiên, đã là do tác động của Thánh Thần rồi. Vị linh mục nơi tòa hòa giải là dấu chỉ hữu hình của lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa.
Thánh Thần là Thầy dạy dỗ con người về Thiên Chúa (Ga.14, 26; 16, 12-13). Không ai có thể dạy con người về Thiên Chúa. Con người có thể nói về Thiên Chúa, hoặc lặp lại những lời về Thiên Chúa, nhưng không thể dẫn con người tới gặp gỡ và cảm nghiệm Thiên Chúa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa đã làm điều này nơi các tín hữu (Rm.8). Thánh Thần dạy mỗi người về Thiên Chúa, làm chứng về Thiên Chúa cho con người, lam con người trở thành những chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa (Ga.15, 26).
III. Sống dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần
Vũ trụ bao la là những “lời” hoặc những “dấu chỉ” cho thấy Thiên Chúa hiện hữu và tốt lành, v.v.. Qua vu trụ thiên nhiên, Thiên Chúa “nói” với con người một cách nào đó. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa nhập thể. Đức Giêsu cho con người biết nhiều về Thiên Chúa. Với Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, Thiên Chúa sẵn sàng đánh đổi tất cả để được con người. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng.
Thánh Thần được ban cho con người, cũng vì yêu thương. Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng tâm trí mỗi người, giúp mỗi người nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa, ý định của Thiên Chúa qua lý trí của mình. Hãy lắng nghe Thiên Chúa nói qua Kinh Thánh, qua những lời giảng dạy của những vị có thẩm quyền, qua tha nhân và ca qua những biến cố hằng ngày nữa. Thiên Chúa đang nói với con người, và Thánh Thần đang soi sáng hướng dẫn con người. “Đừng dập tắt Thần Khí” (1Thes.5, 19). Thiên Chúa có thể nói với mỗi người qua những trung gian và thời điểm khác nhau, hãy lắng nghe dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, để nhận ra và thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Thiên Chúa muốn chúng ta sống bình an hạnh phúc. Những gì giúp chúng ta bình an và hạnh phúc thật, đều đến từ Thiên Chúa; những gì làm chúng ta bất an, lo lắng, giận hờn thù ghét, không đến từ Thiên Chúa. Hãy tập nhận định để mỗi người được sống an bình thanh thản hơn trong Thiên Chúa. Chính Thánh Thần là nước mát rửa sạch tâm hon con người; cũng chính Thánh Thần là lửa mến sẽ hun đốt lòng con người cháy lửa tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Thần giúp tất cả mọi người, để tất cả sống trong tình yêu của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Thanh Thần là ai? Dựa vào đâu bạn biết Thánh Thần là Thiên Chúa?
2. Thánh Thần hiện đang ở đâu? Nhiệm vụ, sứ mạng của Thánh Thần là gì?
3. Làm sao nhận ra tác động của Thánh Thần? Thế nào là sống theo Thần Khí?
45. Thánh Thần Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.)
Đức Giêsu đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ khi Ngài từ cõi chết phục sinh: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga.20, 22-23). Khi Đức Giêsu còn ở dương thế, Ngài đã xin Thiên Chúa Cha để Cha ban Thánh Thần cho các môn đệ (Ga.14, 16); và khi Ngài sống lại từ cõi chết, Ngài đã ban Thánh Thần như Ngài đã hứa trước (Ga.15, 26). Khi tại dương thế, Ngài sống thân phận con người, nên Ngài tùy thuộc tất cả nơi Thiên Chúa. Trong mọi chuyện, Ngài phải xin Thiên Chúa. Ngài tùy thuộc ý Thiên Chúa như con người cần của ăn: “của ăn của thầy là làm theo ý Đấng đã sai thầy” (Ga.4, 34).
Đức Giêsu tùy thuộc Thiên Chúa trong mọi chuyện, đến độ “tất cả những gì con có đều là của Cha, tất cả những gì Cha có đều là của con” (Ga.17, 10). “Ta và Cha là một” (Ga.10, 30). Đức Giêsu đã đồng nhất với Thiên Chúa trong tất cả, nhưng Ngài vẫn là Ngài, khác với Cha. Ngài vẫn cầu nguyện (Mc.1, 35), vẫn luôn tìm ý Thiên Chúa Cha trong mọi lúc, đặc biệt nơi vườn dầu (Lc.22, 42), có lúc Ngài cũng có cảm tưởng Thiên Chúa bỏ rơi Ngài (Mc.15, 34) nhưng Ngài vẫn hoàn toàn phó thác tất cả cho Thiên Chúa (Lc.23, 46). Ngài tùy thuộc Thiên Chúa đến độ Ngài không còn là Ngài nữa, mà là Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài (Ga.14, 10-11). Ngài tùy thuộc Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa: “Ông là người mà dám cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10, 33).
Thánh Thần cũng tùy thuộc Thiên Chúa Cha, và là Đấng được sai bởi Thiên Chúa Cha (Ga.14, 16). Thánh Thần cũng được chính Đức Giêsu Phục Sinh ban tặng cho các tông đồ (Ga.20, 22). Thánh Thần sẽ nhận lấy những gì của Đức Giêsu mà loan báo cho các tông đồ, vì tất cả những gì Đức Giêsu có đều là của Cha (Ga.16, 13-15). Nơi Thánh Thần cùng Đức Giêsu Phục Sinh và Thiên Chúa Cha, tất cả đều là chung; tuy nhiên vẫn phân biệt Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần. Đức Giêsu nói với Philíp: “anh không tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy sao?” (Ga.14, 9-10). Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha tuy là một nhưng vẫn là hai, là Thiên Chúa Cha và là Đức Giêsu. Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần tuy là ba nhưng vẫn là một trong mọi sự. Thánh Thần tùy thuộc Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Phục Sinh, đến độ có thể nói Thánh Thần là Thiên Chúa.
Khi dùng cụm từ “đến độ có thể nói,” có thể làm cho người ta hiểu rằng Đức Giêsu Phục Sinh và Thánh Thần khác và kém Thiên Chúa Cha, nhưng thực ra không muốn nói như vậy. Cả ba là một trong tất cả, nên không có vấn đề hơn kém nhau ở đây. Thiên Chúa chỉ là một; không có Con thì không có Cha; có Con có Cha thì có Thánh Thần Tình Yêu.
Thánh Thần đã được ban cho con người, để ở mãi với con người (Ga.14, 16). Thánh Thần sẽ dạy con người những gì cần thiết (Ga.14, 26), Ngài sẽ giúp các môn đệ làm chứng cho Đức Giêsu, và chính Ngài cũng làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh qua những con người (Ga.15, 26). Thánh Thần dẫn con người vào sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13). Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà không nhờ bởi Thánh Thần (1Cor.12, 3). Mười tông đồ và các chị phụ nữ loan báo tin mừng phục sinh cho một tông đồ Thomas trong suốt cả một tuần nhưng vẫn không thành công (Ga.20, 24-25) nhưng với ơn của Thánh Thần, các tông đồ đã được biến đổi, các tông đồ đã làm được những điều kỳ diệu.
Thánh Thần biến đổi con người. Là những người ít học, nhát đảm sợ sệt nhưng khi Thánh Thần tỏ hiện quyền năng trong ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã can đảm đứng ra rao giảng làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh. Chính Thánh Thần đã quy tụ dân chúng lại để cho các tông đồ rao giảng (Cv.2, 5-6), cũng chính Thánh Thần làm cho những người nghe được hiểu và tin nhận lời rao giảng của các tông đồ, giúp họ tin vào Đức Giêsu, và cho họ chịu phép rửa (Cv.2, 37.41). Điều con người không làm được, thì Thánh Thần đã làm một cách tuyệt vời (Ga.14, 12).
Trong suốt dòng lịch sử, Thánh Thần vẫn đã và đang tiếp tục làm những điều kỳ diệu. Bao nhiêu người đã tin vào lời rao giảng của các tông đồ và của những người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Bị bách hại, các tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi đã không hề sợ hãi, sẵn sàng bỏ nhà cửa tài sản để sống niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Chính đời sống tự do, hân hoan, và tràn đầy niềm tin sức sống của họ đã trở thành lời rao giảng và là bằng chứng của Chúa Phục Sinh và Thánh Thần của Người, đã làm nhiều người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Chính Thánh Thần đã làm tất cả những điều này trong dòng lịch sử.
Trong dòng lịch sử, bao nhiêu giáo đoàn của những nơi xa lạ đã được các nhà truyền giáo tới rao giảng. Những nhà truyền giáo là những người của Thánh Thần. Họ sẵn sàng bỏ tất cả để sống theo tác động của Thánh Thần. Họ bỏ cha mẹ, anh chị em họ hàng, bao nhiêu ước vọng của tuổi trẻ, để trở thành tình yêu của Thiên Chúa nơi đất khách quê người, nơi những dân tộc xa lạ. Chính Thánh Thần vẫn tiếp tục làm lời rao giảng của họ được tiếp nhận cho dù họ rao giảng với những giới hạn của ngôn ngữ nơi địa phương xa lạ. Và rồi với những bách hại do hiểu lầm, do những thế lực ác, Thánh Thần vẫn làm các nhà truyền giáo trung kiên sống giữa môi trường nguy hiểm đó, vẫn làm các ngài coi nhẹ cái chết để loan báo Tin Mừng, vẫn làm những tín hữu tiên khởi dám hy sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa, giữ vững đức tin.
Ngày nay, Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong lòng mỗi người, nơi những người sống đời dâng hiến cũng như những người đang sống trong những môi trường khác nhau. Để trở thành những người con ngoan của Thiên Chúa, con người vẫn cần Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt, để sống trung thành và yêu mến, cả trong môi trường tu viện và trong môi trường đời. Thánh Thần vẫn đang hiện diện nơi những môi trường bị sự dữ thống trị, để đánh động, để nâng đỡ những người khốn khổ đang quằn quại dưới ách sự ác, để làm bao người tội lỗi ăn năn sám hối trở lại với Thiên Chúa, sống theo đường ngay nẻo chính. Thánh Thần quả là Đấng tuyệt vời, đang ở gần gũi mỗi người, để dạy dỗ, hướng dẫn, thêm sức, và giúp con người tự do hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có kinh nghiệm “bất lực” và cần Thiên Chúa giúp bạn làm điều tốt không?
2. Bạn có ý thức và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Theo kinh nghiệm của bạn, Thánh Thần là ai? Ngài có chỗ trong đời bạn không? Xin chia sẻ kinh nghiệm.
46. Thánh Thần Tình Yêu.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Mùa phục sinh kết thúc với Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa Nhật sau lễ Chua Thánh Thần hiện xuống là lễ Chúa Ba Ngôi, và Chúa Nhật sau lễ Chúa Ba Ngôi là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu.
Các con hãy nhận lấy Thánh Thần
Buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra cho các tông đồ. Ngài thổi hơi trên các ông và bảo: “các con hãy nhận lãnh Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”.
Trong ca tiếp liên: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người chẳng còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa lành nơi thương tích”. Trong lời tha tội của bí tích xá giải, linh mục đọc: “Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, Chúa đã dùng cái chết va sống lại của Con Chúa để giao hoà thế gian với Chúa, và đã ban Thánh Thần để tha tội…”
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, Đấng làm cho con người được giao hoà với Thiên Chúa, Đấng tha tội cho con người, Đấng làm cho con người trở thành con Thiên Chúa.
Thánh Thần- Đấng trợ phù
“Không ai có thể nói ‘Đức Giêsu là Chúa’ mà không nhờ bởi Thánh Thần”. Thánh Thần giúp con người tin vào Đức Giêsu. Không có ơn của Chúa Thánh Thần, không ai co thể tin vào Đức Giêsu được.
Có nhiều ân sủng, có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ do một Thánh Thần. Thánh Thần ban cho người này ơn tiên tri, ban cho người kia ơn thông hiểu, ban cho người khác ơn lãnh đạo,… Có nhiều chức vụ, nhiều đặc sủng, nhưng tất cả đều do bởi một Thánh Thần. Cũng chính Thánh Thần liên kết chúng ta nên một, dù chúng ta thuộc thành phần nào, dân tộc nào, chúng ta vẫn làm nên một thân thể trong Đức Giêsu, cũng nhờ chỉ một Thánh Thần. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Thánh Thần giúp chúng ta cầu nguyện, giúp chúng ta sống đẹp lòng Chúa, làm chúng ta trở nên con người mới. Thánh Thần là Đấng làm mới tất cả.
Thánh Thần là Thiên Chúa
Nhờ Đức Giêsu phục sinh, và các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với các ngài khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế, các tông đồ “với ơn của Thánh Thần” đã nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, và sau đó Thánh Thần là Thiên Chúa.
Thánh Thần có cùng nguồn gốc nơi Thiên Chúa, Ngài ở nơi Thiên Chúa “Khi Đấng bảo trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha” (Ga 15, 26), được Cha và Đức Giêsu sai gởi “Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga.14, 26).
Sứ mạng của Thánh Thần là ở với con người: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em Đấng bảo trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi” (Ga.14, 16), dạy con người mọi sự (Ga.14, 26), làm chứng cho Đức Giêsu (Ga.15, 26), dẫn con người tới sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần luôn ở với bạn, và gần gũi với bạn không?
2. Thánh Thần có thể làm bạn trở thành “con người mới”. Bạn hiểu “con người mới”, là người như thế nào?
3. Lời kinh nào về Chúa Thánh Thần mà bạn thích nhất?
47. Đấng thánh hoá
Chúng ta còn đang trong bầu khí vui mừng của mùa Phục Sinh. Tin Mừng Phục Sinh làm cho sự sống của mọi tạo vật trên trần gian được biến đổi. Hôm nay sự sống và niềm vui của trần gian được thêm tràn nay qua biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Có thể nói biến cố hiện xuống đã làm thay đổi một kỷ nguyên mới cho trái đất và làm khai sinh một Giáo Hội mang tên con Thiên Chúa - Giáo hội Kitô. Giáo Hội sẽ được chính Chúa Thánh Thần tác động, hướng dẫn, điều khiển theo chương trình của Chúa Cha.
Thánh Thần là ai? Thưa Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Thần chân lý, là Đấng bảo trợ, Đấng an ủi, Đấng ban sự sống... là Đấng Thánh hoá.
Vậy Thánh hoá là gì? Thưa là một sự biến đổi làm cho trở nên thánh theo chiều hướng: ác thành thiện, xấu - tốt, yếu - mạnh, buồn - vui, đau khổ - hạnh phúc...
Giờ đây, hãy trở lại với Cựu ước. Ngay từ thuở tạo thiên lập địa trong việc tạo dựng Chúa Thánh Thần đã thể hiện vai trò Thánh hoá của Ngài. Thiên Chúa dùng bụi đất nắn lên hình ảnh con người giống hình ảnh Chúa. Chắc giống như một hình nộm bất động. Nhưng khi thổi sinh khí vào mũi thì nó trở thành con người. Đấy, từ một nắm đất trong tay Thiên Chúa mà Người đã thánh hoá và biến đổi nó thành một con người mới.
Tiếp tục trong Cựu ước câu chuyện của gia đình Ông Gia-cóp Cho thấy từ sự dữ mà Thiên Chúa biến đổi và thánh hoá nó thành điều lành để chuẩn bị cho dân riêng của Người.
Đến thời Tân ước đặc biệt là bối cảnh của bài Tin Mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay, cho ta thấy rõ hơn vai trò Thánh hoá của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu chết đã làm cho các tông đồ tuyệt vọng. Các ông đang trong tình trạng sợ hãi, sợ người Do thái. Có thể nói các ông đang trốn chui trốn nhủi. Không dám công khai. Rõ ràng hôm nay các ông đang ở trong phòng kín. Chắc chắn các ông lo lắng và suy nghĩ nhiều điều về nỗi sợ hãi, một sự lo lắng không có lối thoát. Hạnh phúc thay ngay lúc đo Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông mà nói "Bình an cho Anh em... nói xong Người thổi hơi và ban thánh Thần cho các ông". Lập tức các ông vui mừng hân hoan, niềm tin như đã được củng cố từ bao giờ. Các ông mở toang cưa ra từ một tâm trạng buồn bã trở nên vui mừng, từ sợ sệt nay lại mạnh mẽ ra đi loan báo Tin mừng nước trời.
Một Phêrô trối Chúa nay lại tin tưởng, một Phêrô sợ sệt nay mạnh mẽ, một Phêrô ngu muội không hiểu được những dụ ngôn nay lại thông minh sáng suốt, một Phêrô cọc cằn, nóng nảy ăn nói vụn về nay trở thành nhà hùng biện.Sau bài giảng đầu tiên có hơn ba ngàn người xin theo đạo. Đó là do chính Phêrô nỗ lực hay là một ai đó đã biến đổi ông? Biến đổi nhanh như vậy?
Chúa Thánh Thần vẫn luôn tiếp tục hoạt động và biến đổi Giáo hội mỗi ngày. Giờ nay đến phần chúng ta. Qua bài Tin mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay mang lại cho ta một y nghĩa nào không? Anh chị em hãy tự hỏi mình đi, tự vấn mình đi...
Chúng ta có được Chúa Thánh Thần thánh hoá hay chưa? Thưa chúng ta đã và đang được thánh hoá hằng ngày. Nhờ Bí Tích Rửa Tội chúng ta được biến đổi. Từ một tạo vật như mọi tạo vật nay được trở thành con cái Thiên Chúa đặc biệt là trở thành chi thể của Đức Kitô. Nhờ bí tích hoà giải làm biến đổi chúng ta từ những con người nhơ nhớp tội lỗi, xấu xa. Nay lại trở nên tinh tuyen và thánh thiện trước mặt Thiên Chúa. Với bí tích thêm sức chúng ta được thêm vững mạnh trong đức tin trở thành những chiến sĩ loan báo Tin mừng Nước Trời.
Có bao nhiêu người trong cộng đoàn chúng ta ý thức được ân huệ lớn lao này?
Mỗi ngày chúng ta ý thức hơn về những ân sủng mà ta lãnh nhận từ Chúa. Noi gương thánh Phêrô mạnh dạn ra đi loan báo Tin mừng bằng chính đời sống chứng nhân của mình. Hãy dùng những ân sủng và hoa trái của Thánh Thần để biến đổi và thánh hoá chính mình, để mọi ngày trong đời sống đều là một lễ hiện xuống cho ta.
1. Mỗi sáng trước khi rời khỏi giường ngủ, chúng ta hãy làm dấu mà nói "con xin dâng lên Chúa ngày mới này. Xin Chúa chúc lành và thánh hoá..".
2. Trước khi dùng bữa chúng ta hãy nhớ đến Chúa. Nếu đọc được Kinh lạy cha thì tốt, còn không thì hãy nói "xin Chúa chúc lành và thánh hoá của ăn chúng con sắp lãnh nhận".
Ít nhất nhờ những lần như thế trong ngày, Chúa Thánh Thần có cơ hội đến với ta ở trong ta, để biến đổi và thánh hoá chúng ta. Vì vậy, mỗi ngày trong đời sống chúng ta thật là một Lễ Hiện Xuống. Amen.
48. Người thổi hơi vào các ông.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Những vết chân trên cát cho ta biết có người đã đi qua.
Nhìn hàng cây xa lay động, ta biết có gió.
Đức Giêsu đã ví Thánh Thần như cơn gió: "Gió muốn thổi đâu thì thổi... Chẳng ai biết gió từ đâu đến và sẽ đi đâu" (Ga 3,8).
Chúng ta chỉ thấy những dấu vết hoạt động của Thánh Thần, nhưng không thấy được chính Ngài, cũng không nắm được đường đi nước bước của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay đã mo tả Thánh Thần như hơi thở của Chúa Phục Sinh.
Hơi thở là dấu hiệu của Sự Sống.
Thiên Chúa đã thở hơi vào Ađam vă cho ông sống. Đức Giêsu Phục Sinh đã thở hơi trên các môn đệ, để họ nhận một sự sống mới hoàn toàn.
Đời sống Kitô hữu là đời sống trong Thánh Thần.
Ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ, Đức Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần.
Khi lãnh nhận phép rửa của Gioan, Ngài đã được Thánh Thần ngự xuống và lưu lại.
Cũng chính Thánh Thần đưa Ngài vào sa mạc để cầu nguyện, ăn chay và định hướng cuộc đời.
Tại Galilê, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ mạng trong quyền năng của Thánh Thần (Lc 4,14).
Ngài đã nhờ Thánh Thần mà đuổi quỷ (Mt 12,28), và khi được hân hoan trong Thánh Thần, Ngài đã thốt lên lời ca ngợi Cha (Lc 10,21).
Quả thật Đức Giêsu là con người sống trong Thánh Thần, Đấng mà Ngài đã nhận được một cách vô hạn (Ga 3,34).
Đôi khi chúng ta cảm thấy xa lạ với Ngôi Ba, dù thực sự Ngài là người Bạn, người Thầy quá ư gần gũi và cần như hơi thở.
Tôi gọi Thiên Chúa là Cha, cũng nhờ Ngài (Rm 8,15).
Nhờ Ngài tôi biết cầu nguyện, và nếm được sự ngọt ngào của Lời Chúa.
Nhờ Ngài Hội Thánh vẫn được canh tân liên tục bằng những luồng gió bất ngờ, những lôi cuốn mạnh mẽ không sao cưỡng lại.
Xin cho tôi can đảm để cho ngọn gió của Ngài thổi tung mọi sợ hãi, rụt rè, khép kín.
Xin cho tôi lưỡi lửa để tôi ra đi loan báo Tin Mừng với trái tim bừng cháy.
Xin cho tôi hơi thở của Ngài để tôi biết sống và yêu nồng nàn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mọi sáng kiến canh tân đều có thể là do Thánh Thần thúc đẩy. Trong giáo xứ, gia đình, cộng đoàn hay nhóm của bạn, bạn có gặp thấy những người biết thao thức và dám đưa ra sáng kiến canh tân không?
Thánh Thần vẫn lên tiếng qua những người có trách nhiệm, qua bạn bè, qua hoàn cảnh mới cần thích nghi. Có lần nào bạn nghe được lời mời của Thánh Thần không? Bạn đáp lại ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời Kitô hữu chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày.
Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô, và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Than là Đấng Ban Sự Sống, thế giới hôm nay luôn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự sống khắp nơi.
Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới, để con người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương.
49. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Hôm nay chính là ngày khai sinh của Giáo Hội. Giáo Hội được sinh ra trong lời cầu nguyện và trong Chúa Thánh Thần, trong ngọn gió và trong ngọn lửa thần linh. Thánh Luca, trong sách Tông đồ công vụ đã tường thuật lại một cách khá tỉ mỉ, biến cố trọng đại nầy. Trong suốt mười ngày, các tông đồ đã cùng với Mẹ Maria cầu nguyện trong nhà tiệc ly, và đến ngày lễ Ngũ Tuần, khi mọi người hăm hở đua nhau đi dự lễ ở Đền thờ, thì Chúa Thánh Thần ngự xuống. Ngài đến như một cơn gió mạnh. Chúa Giêsu đã nói gió muốn thổi đi đâu thì thổi. Khoa học hôm nay có thể đo sức mạnh của gió, nhưng gió Thánh Thần thì không có khoa học nào đo lường được. Ngọn gió thần linh đó đã thổi vào tâm hồn các tông đồ và trong cánh buồm của Giáo hội sơ khai và con thuyền của Giáo Hội bắt đầu ra khơi. Đọc sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy rằng chính Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các tông đồ, điều khiển mọi hoạt động của các ngài, chỉ dẫn các ngài phải làm gì. Hơn hai mươi thế kỷ, qua bao nhiêu cơn sóng gió, giông bão, con thuyền Giáo Hội vẫn tiếp tục đi tới, mang theo trong mình ơn cứu rỗi. Thánh Thần vẫn tiếp tục hoạt động.
Ngọn gió đó hôm nay vẫn thổi ào ạt vào trong tâm hồn các kitô hữu và trong thế giới. Không một cái gì tốt đẹp xảy ra trong cuộc sống chúng ta mà không do Thánh Thần.
Thánh Thần đến với chúng ta dưới hình thức ngọn lửa. Ngài là ngọn lửa thiêng đốt nóng tâm hồn những kẻ tin, giúp họ thắng vượt mọi khó khăn để trung thành với tình yêu Chúa, giúp họ hăng say bước theo Chúa Giêsu. Ngọn lửa tình yêu đó đã nung đốt tâm hồn các kitô hữu trong những cơn bách hại. Nhờ đó họ vui mừng liều mạng cho Chúa mà không sợ sệt, chân thành phục vụ mọi người. Ngọn lửa của Ngài mang lại ánh sáng cho mọi tâm hồn thiện chí, giúp chúng ta nhìn thấy được những thực tại vô hình, nhìn thấy Chúa trong cuộc sống, và trên hết, giúp chúng ta yêu mến Chúa sâu đậm hơn.
Thánh Thần Chúa, theo thánh Phaolô, dạy cho chúng ta biết Chúa Cha, dạy chúng ta gọi Chúa Cha như Chúa Giêsu đã gọi, với tất cả tỉnh yêu con thảo: Abba, lạy Cha. Ngài cầu nguyện trong chúng ta, cầu cho chúng ta. Chúng ta là đền thờ của Ngài. Ngài ngự trong chúng ta và ban cho chúng ta sự sống mới, sự bình an của Ngài. Chúa Giêsu, sau khi sống lại, đã hiện ra cho các tông đồ và ban bình an cho các ngài và thổi hơi Thánh Thần vào họ, sai họ đi rao giảng Tin Mừng, mang ơn tha thứ cho mọi người: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha…”
Thánh Thần Chúa cũng là Thánh Thần của sự hiệp nhất. Ngài quy tụ mọi người trong một Giáo Hội duy nhất, không phân biệt chủng tộc màu da, tất cả đều là một trong Ngài. Ngài biến Giáo Hội thành một thân thể duy nhất, tuy có rất nhiều chi thể khác nhau, nhưng tất cả chỉ là một. Ngài là Thánh Thần Tình Yêu, Ngài giúp mọi người hiệp nhất: “ Chỉ có một Thân Thể và một Thánh Thần…một Thiên Chúa”.
Chúng ta biết Chúa Thánh Thần, hằng ngày chúng ta luôn cầu nguyện với Ngài, nhưng ít người để ý đến Ngài, vì chúng ta không thấy Ngài. Chúng ta là những con người vật chất, những gì chúng ta không thấy, chúng ta dễ lãng quên. Vì thế nhiều người không chú ý đến Chúa Thánh Thần, đang lúc Ngài chính là Đấng Bảo Trợ luôn kề cận chúng ta trong mọi hoàn cảnh. Thánh Phalô khuyên chúng ta đừng giập tắt Chúa Thánh Thần bằng những hành động tội lỗi… Đừng làm phiền lòng Thánh Thần”bằng sự thờ ơ lãnh đạm, bằng sự ươn lười làm việc lành, nhất là bằng những hành động thiếu bác ái. Thánh Thần Tình Yêu không thể chấp nhận những ganh tị, giận hờn, loại trừ anh em.
Chúng ta không thể lãng quên Thánh Thần, vì Ngài giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những tiếng rên siết khôn tả”.
Nơi bàn thờ nầy, chính Thánh Thần Chúa làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Giêsu, để chúng ta luôn có lương thực cần thiết để tình yêu Chúa trong chúng ta không suy giảm, nhưng càng ngày càng thấm thiết hơn, mãnh liệt hơn. Thánh Thần Chúa sẽ làm cho chúng ta gắn bó hơn với Đấng đã liều mạng cho chúng ta, sống lại cho chúng ta để chúng ta không còn sống cho chính mình nữa mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta.
50. Lửa Thánh Thần – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần đến an ủi các mon đệ. Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài. Ơn Chúa Thánh Thần thật mãnh liệt. Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài. Chúa Thánh Thần như nguồn nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt, trở thành con người mới. Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy. Đó là cảm nghiệm về một ngọn lửa.
Chúa Thánh Thần là ngọn lưa thanh luyện.
Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ. Trước kia các tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ cao chỗ thấp. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại, hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa. Trước kia các Tông đồ là những người nhút nhát, dễ thay đổi. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con người hoàn toàn mới.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.
Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi. Những tảng đá lởm chởm, những thú vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo hiểm. Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới. Đường đi xuất hiện rõ ràng. Khách bộ hành an tâm mạnh dạn tien bước.
Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không biết đường biết hướng về đâu. Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa. Lửa Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.
Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía. Các ngài phải trốn chạy. Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt lo âu. Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái. Các ngài sống như tựa như đã chết. Các ngài giống như cái xác không hồn. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống. Các ngài bừng tỉnh như sau một giấc ngủ. Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh. Sư sống mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các cộng đoàn phát triển mau chóng. Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.
Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố. Chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta. Thế giới hôm nay đầy những bóng tối. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đường lối mà đi. Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Ngọn lửa Thánh Thần có tác dụng gì trên các Tông đồ, làm cho các ngài thay đổi mãnh liệt?
2) Bạn có cảm nhận được Chúa Thánh Thần trong đời bạn không?
3) Để mình bị biến đổi, để mình bị thúc đẩy trên đường dấn thân làm việc phục vụ, dễ hay khó?
51. Đấng đổi mới - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG ĐỔI MỚI
(Cv 2,1-11)
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Ngai đã đổi mới trí khôn các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Ngài đã đổi mới ý chí các Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chua, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Ngài đã đổi mới trái tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yeu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời. Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?
2. Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?
3. Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có thấy nhu cầu đổi mới tâm hồn không?
52. Chúa Thánh Thần - Sự Sống mới
(Suy niệm của Đức TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống. Tin Mừng hôm nay thuật lại: Chúa Giêsu thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cử chỉ này nhắc ta nhớ lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người. Sách Sáng thế 2,7 tường thuật: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật”. Hơi thở là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sự sống. Không phải là một sự sống bình thường như sự sống của các sinh vật khác. Đây là sự sống của Thiên Chúa với tất cả những chiều kích cao sâu phong phú của nó. Trong khuôn khổ Lời Chúa hôm nay ta có thể thấy sự phong phú của sự sống Chúa Thánh Thần.
Đó là sự sống thiêng liêng. Sự sống là tất cả. Nên sự sống là món quà quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho con người. Không có sự sống là không có gì hết. Còn hơn thế nữa. Chúa ban cho ta sự sống của chính Thiên Chúa. Cho ta giống hình ảnh cao đẹp của Chúa. Cho ta được chung hưởng sự sống hạnh phúc với Chúa.
Đó là cuộc sống trong bình an. Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra một định nghĩa mới về sức khoẻ. Khoẻ mạnh không phải chỉ là không có bệnh tật gì mà còn phải là cuộc sống bình an. Chúa Thánh Thần là sự sống bình an. Nên các môn đệ đang lo âu sợ hãi bỗng trở nên mạnh mẽ, can đảm. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn. Nhưng các ngài vẫn vui tươi và bình an.
Đó là cuộc sống hiệp thông. Con người không sống đơn độc, nhưng sống với người khác. Cuộc sống xã hội làm con người nên phong phú. Nhưng cuộc sống xã hội chỉ phát triển trong sự hiệp thông. Đó chính là ơn Chúa Thánh Thần. Ngày Lễ Ngũ Tuần, thế giới tràn ngập ơn hiệp thông. Nên người muôn dân muôn nước, dù khác biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ vẫn hiểu biết và sống chan hoà. Sách Công vụ Tông đồ đề cập đến người thuộc 17 địa phương khác nhau. Ta nghĩ đến 70 lần 7. Con số vô vàn vô số chủng tộc có thể sống với nhau trong tình hiệp thông chan hoà.
Đó là cuộc sống yêu thương. Chúa Thánh Thần là tình yêu muôn đời giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Là tình yêu nguyên thuỷ. Là tình yêu của mọi tình yêu. Giáo hội sơ khai được ơn Chúa Thánh Thần nên sống với nhau trong tình yêu thương. Mọi người đối xử với nhau như anh em ruột thịt. Bỏ của cải làm của chung. Nên không ai bị thiếu thốn.
Đó là cuộc sống hài hoà. Thánh Phaolô diễn tả cuộc sống theo ơn Chúa Thánh Thần khiến xã hội trở nên hài hòa như trong một thân thể. Mỗi người làm việc riêng theo chức năng của mình. Nhưng hài hoà với mọi người, như các chi thể trong một thân thể. Mỗi chi thể làm việc riêng nhưng đều hướng về lợi ích của toàn thân. Ta hãy xem một cầu thủ đá bóng. Khi thấy bóng, mắt phải quan sát. Trí óc phải phán đoán. Chân tay phải chuyển động. Và cả mắt nhìn, cả trí phán đoán, cả chân tay chuyển động là làm sao đưa bóng đến mục đích. Như thế mọi thành phần trong cơ thể đều kết hợp hài hoà để đạt được ích lợi chung.
Nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy cuộc sống do Thiên Chúa tạo dựng đang bị phá vỡ. Lực lượng sự dữ tàn phá hình ảnh Thiên Chúa nơi con người; xúi giục con người sống theo thú tính; khiến khuôn mặt con người trở nên méo mó; đánh mất vẻ đẹp của hình ảnh Thiên Chúa; tàn phá lương tâm khiến con người không còn phân biệt thiện ác; tàn phá thiên nhiên khiến thế giới trở nên khó sống. Thiên nhiên nổi giận. Khí hậu biến đổi đang tác hại đến sự sống của con người. Tệ hại hơn nữa, lực lượng sự dữ tàn phá chính sự sống. Và tồi tệ nhất là con người huỷ diệt chính sự sống khi giết hại thai nhi là chính con người, chính con cái của mình. Sự xấu làm cho cuộc sống mất bình an. Con người phải sống trong lo sợ. Sợ bị mất mạng. Sợ bị mất tiền của. Sợ bị mất danh dự. Sợ bị mất tự do. Sợ hãi làm cho con người sống mà như đang chết đi. Sự xấu làm mất tình hiệp thông. Người trong một nước nói cùng ngôn ngữ mà không hiểu nhau. Người trong một gia đình trở nên xa lạ vì mỗi người đều nghĩ đến quyền lợi riêng. Cuộc sống thiếu tình yêu thương. Đang có những tình anh em kiểu Cain và Abel. Rủ nhau ra đồng để giết hại nhau. Tình đồng chí kiểu môi hở răng lạnh. Nhưng răng cắn môi đau. Và cuộc sống thiếu sự hài hoà; khiến cho các tập thể trở nên rời rạc. Vì mỗi người không nhìn đến lợi ích chung của toàn thân. Chỉ biết vun quén cho riêng mình.
Chính trong tình hình này, ta cần ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Chỉ có Chúa Thánh Thần Đấng Ban Sự Sống mới có thể thay đổi, phục hồi và phát triển sự sống cho thế giới. Vì thế, ta phải tha thiết kêu van xin Chúa Thánh Thần ngự đến.
Lạy Đấng Ban Sự Sống xin hãy đến. Xin hãy thổi hơi thần linh để con người được có lại sự sống của Thiên Chúa.
Lạy Đấng Bảo Trợ xin hãy đến. Chúa là nguồn mạch bình an. Xin hãy ban bình an cho chúng con.
Lạy Nguồn Ơn Hiệp Thông xin hãy đến. Ngài là sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Xin hãy ban ơn hiệp thông để thế giới ngày càng gần gũi hiểu biết nhau hơn chí người trong cùng một nhà mà cũng như xa lạ, không thể hiểu nhau.
Lạy Thánh Thần Tình Yêu xin hãy đến. Ngài là tình yêu của mọi tình yêu. Là tình yêu nguyên thủy giữa Chúa Cha và Chúa Con. Xin cho chúng con sống với nhau trong tình bác ái huynh đệ chân thực.
Lạy Thánh Thần Hài Hoà xin hãy đến. Ngài làm cho tất cả “dầu là Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, nếu đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí đều trở nên một thân thể”. Và mọi chi thể trong thân thể đều kết hợp hài hoà nhịp nhàng ăn khớp để hoạt động vì cùng một mục đích là ích lợi cho toàn thân.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và đổi mới mặt đất này. Nhưng mặt đất này do con người tàn phá. Nên xin hãy đổi mới tâm hồn con người. Xin đổi mới mọi sự trong ngoài chúng con. Để chúng con nên con người mới, xây dựng một thế giới mới chan hoà sự sống, chan hoà bình an, chan hoà tình yêu thương.
Lạy Mẹ Maria, xưa kia Mẹ đã cùng với các Tông đồ trong nhà Tiệc Ly cầu nguyện xin Chúa Thánh thần ngự đến; nay xin Mẹ cũng tiếp tục cầu nguyện để chúng con được đón nhận Chúa Thánh Thần.
53. Đấng ban Sự Sống - ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
(Ga 20,19-21)
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lơi Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chet này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay cac ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phan chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bac ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự song mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
2. Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?
3. Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?
54. Niềm vui bởi Chúa Thánh Thần - Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Hôm nay chúng ta hãy dừng lại ở câu: “Các môn đệ được đầy tràn vui mừng”. Các ông vui mừng vì giữa lúc hoang mang lại thấy Chúa và việc ấy đã khiến các ông tìm lại niềm cậy trông. Các ông đã đặt niềm hy vọng nơi Chúa Giêsu. Thập giá đã khiến các ông bàng hoàng kinh khiếp; và nay Chúa Giêsu lại hiện ra sống động. Niềm hy vọng của các ông được bảo toàn và củng cố. Vì thế niềm vui các ông bao la. Dịp này nhắc nhớ chúng ta rằng Chúa Thánh Thần do Chúa Giêsu ban là Thánh Thần của vui mừng.
1) Phúc Âm mở đầu bằng một mầu nhiệm vui mừng Chúa Thánh Thần, từ khởi đầu cuộc sống nhân loại của Chúa Giêsu tạo ra hai lần bộc lộ niềm vui: Isave, chị họ Đức Maria, thốt lên tiếng vui mừng vì mẹ Đấng Cứu Thế đến thăm bà; Đức Maria hát lên nỗi vui sướng của mình trong kinh Magnificat. Sau đó không lâu, các thiên thần loan báo cho các mục đồng một Trẻ Thơ sinh ra, sẽ khiến cho toàn dân hân hoan… Thánh sử Gioan sau lại nói rằng cụ tổ Abraham đã nhảy mừng khi nghĩ đến ngày xuất hiện hoa quả của Thánh Thần. Cụ đã thấy và đã vui mừng (Ga 8, 5-6). Chúng ta có vui mừng niềm vui của kinh Magnificat, vì Chúa Thánh Thần do đức tin vào Đức Kitô nảy sinh trong chúng ta hay không? Ngược lại, chúng ta thử tưởng tượng nỗi buồn và u uất vô cùng, nếu chẳng may thiếu mất lòng tin vào Đức Kitô.
2) Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Hãy lãnh nhận Thánh Thần. Làm như thế Ngài thực thi một lời hứa Ngài đã báo trước cho các môn đệ sẽ có một lúc các ông sẽ không còn thấy Ngài. Đó là thời thất vọng, khóc lóc và buồn sầu. Nhưng nỗi buồn sẽ mau biến thành niềm vui: Ta sẽ gặp lại các con, tâm hồn chúng con sẽ vui mừng, vì niềm vui các con lúc ấy không ai có thể lấy đi được (Ga 16,22). Có phải giới hạn ý nghĩa lời nói ấy của Chúa Giêsu vào giai đoạn gặp gỡ trong những lần hiện ra hay không? Không, Chúa nghĩ đến sự hiện diện liên tục của Ngài trong Giáo Hội nhờ tác động của Thánh Thần. Thời của Giáo Hội là thời của niềm vui mặc dù cũng là thời tiếp tục Thánh Giá. Chúng ta có vui mừng vì nghĩ rằng nhờ Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta hay không?
3) Thánh Phaolô nói về niềm vui từ Chúa Thánh Thần đến (1Tx 1,6). Niềm vui ấy là niềm vui của cậy trông và bác ái. Có thể trong cuộc sống riêng của chúng ta và trong cuộc sống với người khác, chúng ta mắc ảo tưởng, ít nhiều chán nản, thoái chí. Chúng ta cần sống trong Thánh Thần bác ái. Biết rằng mình được yêu mến, chúng ta hãy vui mừng. Quả thực tình yêu Thiên Chúa không bao giờ thất vọng vì chúng ta. Về phía chúng ta, đừng bao giờ nản chí yêu thương anh em chúng ta. Niềm cậy trông hoà hợp với đức bác ái trong lòng chúng ta khởi đầu một con sông hân hoan do Chúa Thánh Thần khơi nguồn.
55. Chúa và nguồn sinh khí.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Các nước và các dân tộc trên thế giới đang hướng về năm 2000, khởi đầu cho ngàn năm thứ ba. Các chương trình quốc tế hay quốc gia đều được hoạch định nhằm năm 2000 như là tiêu điểm.
Bước vào ngàn năm thứ ba, điều đó mang ý nghĩa hai ngàn năm đã qua từ lúc “thời gian đã mãn”, là lúc Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, là năm sinh của Chúa Giêsu Kitô. Lịch sử nhân loại được chia làm hai giai đoạn: Trước Chúa Giêsu Kitô giáng sinh và sau Chúa Giêsu Kitô giáng sinh. Nếu có nói về một công nguyên, thì sự tính toán vẫn quy về lúc Chúa Giêsu Kitô giáng sinh.
Để chuẩn bị cho Năm Toàn Xá, Năm Thánh vào năm 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công bố Tông thư “Tiến đến Ngàn Năm Thứ Ba” vào ngày 10.11.1994. Đức Giáo Hoàng đệ nghị ba năm cuối của thế kỷ này được hiến dâng cho từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa: Năm 1997 hiến dâng cho Chúa Giesu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người; năm 1998 cho Chúa Thánh Thần, và năm 1999 cho Thiên Chúa Cha. Đức Thánh Cha còn muốn cho các tín hữu học hỏi thông điệp về Chúa Thánh Thần trong sinh hoạt của Giáo Hội và thế giới. Thông điệp mang tựa đề: “Chúa và Nguồn Sinh Khí” trong những năm chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000. Bởi vì, Đức Thánh Cha đã nói: “Giáo Hội không thể chuẩn bị Ngàn Năm mới bằng cách nào khác hơn là ở trong Chúa Thánh Thần”.
Thưa anh chị em,
Là “Chúa và là Nguồn Sinh khí”, Chúa Thánh Thần đã hiện diện và đã đóng một vai trò tích cực ngay từ khởi thuỷ lịch sử sáng tạo và cứu độ. Ngay đối với Chúa Giêsu trong cuộc sống ẩn dật và công khai, Chúa Thánh Thần luôn tác động trên Ngài, nhất là trong những biến cố quan trọng, như khi lãnh Phép Rửa ở sông Giođan, như khi vào sa mạc chịu ma quỉ cám dỗ, như khi cất bước rao giảng Tin Mừng khắp các làng mạc ở Palestin. Nhưng chỉ sau khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng bằng cái chết và sống lại từ cõi chết, Ngài mới có thể ban Thánh Thần. Tin Mừng hôm nay cho thấy vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện đến, thổi hơi trên các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cử chỉ thổi hơi trên các môn đệ gợi lại hành động Thiên Chúa lúc bắt đầu tạo dựng con người. Thiên Chúa đã thổi vào Ađam hơi thở của sự sống và con người nên sống động (St 2,7). Cũng có thể, khi Chúa Giêsu thổi Thánh Thần trên các môn đệ, các ông nhận được sự sống mới. Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống” như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Sách Công vụ Tông đồ còn cho thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như gió thổi, như lưỡi lửa, vào chính ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, được mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Israel tại núi Sinai. Dịp lễ này đã quy tụ đông đảo người Do Thái từ các nước khác nhau trở về Giêrusalem. Chính trong bối cảnh của ngày lễ trọng đại này mà hoạt động đầu tiên của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội được biểu lộ. Hoạt động đã được biểu lộ qua các Tông đồ “nói tiếng khác nhau” và “mọi người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được lời rao giảng của các Tông đồ”. Ở đây, ân sủng của Chúa Thánh Thần đã tái lập sự thống nhất ngôn ngữ đã bị chia rẽ, phân tán tại Tháp Babel khi xưa và đồng thời nói lên tính cách phổ quát đại đồng của ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến và do Chúa Thánh Thần thực hiện.
Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến vai trò hiệp nhất của Chúa Thánh Thần: “Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”. Nếu chỉ có Thánh Thần mới làm cho những kẻ tin nói được: “Đức Giêsu là Chúa”, thì cũng chỉ có Thánh Thần mới làm cho những con người khác nhau hợp nhất với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau. Vì vậy, Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta “hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau”. Bởi vì, giữa những người cùng thờ một Chúa, cùng tuyên xưng một niềm tin, cùng lãnh nhận một bí tích, cùng hy vọng một tương lai Nước Trời, mà lại chia rẽ nhau, là điều không thể hiểu nổi, là gương xấu không thể tha thứ được. Chính vì thế mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đặt năm 2000 là tiêu điểm để hoạt động cho các Kitô hữu của các Giáo Hội anh em được hiệp nhất như ý Chúa muốn.
Anh chị em thân mến,
Đời sống Kitô hữu là một đời sống theo Thánh Thần, như thánh Phaolô đã nói: “Ai sống theo xác thịt thì hướng về những điều thuộc về xác thịt, còn ai sống theo Thánh Thần thì hướng về những điều thuộc Thánh Thần. Nhưng hướng theo xác thịt là chết, còn hướng theo Thánh Thần là sống và bình an” (Rm 8,5-6). Muốn sống theo Thánh Thần, chúng ta phải nhìn ngắm Chúa Giêsu trong Tin Mừng, ước muốn nên giống Ngài, để có thể đi vào trong tình hiếu thảo của Chúa Giêsu, trong cầu nguyện, trong nghèo khó, tuân phục, trong khiêm tốn, phuc vụ, trong tình huynh đệ, xả kỷ của Chúa Giêsu đối với mọi người. Hãy sống theo Thánh Thần, như vậy anh em sẽ không theo những khuynh hướng ích kỷ của xác thịt. Và đây là hiệu quả của Thánh Thần, đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, thì hãy để Thánh Thần hướng dẫn đời ta”. (Gl 5,16.22-25).
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người, tạo đieu kiện cho mối tương quan huynh đệ giữa người với người, những gì tạo nên sự hiệp thông vô biên giới phải là những tiêu chuẩn cho hành động của chúng ta. Bởi vì những gì giới hạn hoặc chia rẽ, đều nghịch với Thánh Thần của Đức Kitô. Thánh Thần luôn chăm lo hiệp nhất Thân Thể Đức Kitô, duy trì sự hiệp thông và quy tụ mọi người hiệp nhất với Ngài.
56. Thánh Thần tác động - Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Hồng Y Carlo Martini nói: "Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13) chính là Tin Mừng truyền thông".
Truyền thông là làm cho con người có khả năng để nghe để hiểu, có khả năng để loan báo và có khả năng để chuyển thông một sứ điệp. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Truyền thông Tin Mừng chính là mang tin vui đến cho mọi người.
Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma, trong bài giảng "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần", ngài kể về tác động của Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em người Hmong.
"Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện này.
Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
- Anh chị em từ đâu đến?
- Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
- Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?
- Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.
- Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
- Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.
- Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!"
- Đó là đài phát thanh "Chân Lý".
- Một đài phát thanh Giáo Hội Công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!
-Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người Hmong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
- Thưa cha, không the được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
- Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
- Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi ve đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX." (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).
Hiến chế Tín lý về Mạc khải của CĐ Vaticanô II có nói: "Mạc Khải là việc Thiên Chúa 'Truyền Thông Chính Mình' cho nhân loại" (DV 6). Với biến cố Hiện Xuống, việc truyền thông của Thien Chúa được hoàn tất nơi Đức Kitô và tiếp tục được nối dài trong Giáo Hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lễ Hiện Xuống khai mở những "kênh truyền thông" mới. Vì thế, "Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phan dùng các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo ơn cứu độ và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn" (Inter Mirifica, số 3). Chúa Thánh Thần là linh hồn Giáo Hội. Ngài tác động và canh tân Giáo Hội thực thi sứ vụ loan Tin Mừng: "Giáo Hội canh tân và thanh tẩy chính mình không bao giờ ngừng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần" (Vui mừng và Hy vọng, 21). Sách Công Vụ Tông Đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy.
Suốt mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hylạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma. Giáo Hội đối diện với ba thách đố lớn là Do thái giáo, chính trị Rôma và triết học Hy lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do thái giáo, hội nhập vào triết học Hylạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ vơi những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: "Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng".
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu".
Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng.
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đen vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa. Thế nhưng, những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, xa lộ thông tin, kỹ thuật số, toàn cầu hoá...Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hoi phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: "Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do".
Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hoi. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa.
Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?
Lời Chúa chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: "Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14, 26).
Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thieng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet...đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của "nền văn hóa mới" này.
Thư Chung HĐGMVN 2011 đưa ra định hướng: "Trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Việt Nam cần xác tín và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông, phát huy nhiệt tình truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Kitô trên đất nước này". (Số 9).
Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc HĐGMVN đã đưa ra bản "Nhận định một số tình hình tại Việt Nam hiện nay" vào ngày 15/5/2012. Bản Nhận Định đã lần lượt điểm qua tình hình trong các lãnh vực về nền kinh tế Việt Nam, luat đất đai, môi trường xã hội, pháp luật, chủ quyền quốc gia về biên cương và hải đảo, môi trường sinh thái, vai trò của trí thức, giáo dục và y tế, tôn giáo. Trong mỗi lãnh vực, có nhìn nhận những thành tựu, nhưng chủ yếu là vạch rõ, nhiều lúc bằng những ngôn từ mạnh, các mặt tiêu cực bệnh hoạn đang làm cho đất nước lâm nguy. Một điều có ý nghĩa là bản Nhận Định đề ngày "15 tháng 5 năm 2012, kỷ niệm 121 năm Thông Điệp Rerum Novarum". Bức thông điệp của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII được coi như mở đường cho các đường lối, chủ trương và hoạt động xã hội của người Công Giáo từ hơn một thế kỷ nay (Năm ngoái trong Giáo Hội đã có nhiều sinh hoạt để đánh dấu tròn 120 năm ngày công bố thông điệp này; dĩ nhiên Rerum Novarum còn được bổ túc và triển khai liên tục bởi các thông điệp khác sau này, cũng thường được công bố vào các ngày kỷ niệm 15/5, để cập nhật với những biến chuyển của xã hội). Như vậy là khi chọn ngày 15/5 để đưa ra bản Nhận Định, Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình của Hội Đồng Giám Mục đã có ngụ ý kêu gọi Dân Chúa dấn thân phục vụ xã hội ngay trong các lãnh vực mà xã hội chúng ta đang mắc phải những "căn bệnh trầm kha". (Lm Vũ Khởi Phụng).
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả "nhảy mừng trong lòng mẹ". Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
57. Chân lý đòi hỏi rất nhiều - Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Chúa phán bảo các môn đệ: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Chúng ta lưu ý mấy nét đặc biệt về Chúa Thánh Thần, nhất là cung cách thánh Gioan nói đến Chúa Ngôi Ba.
1) Người là Thần Khí sự thật.
Ta sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho các ngươi một Đang Bầu Chữa khác để Người ở với các ngươi luôn mãi, là Thần Khí sự thật, thế gian không thể lĩnh nhận vì không thấy cũng không biết Người, còn các ngươi biết Người vì Người lưu lại với các ngươi và ở trong các ngươi (Ga 14,16-17). Đấng Bàu Chữa mà từ nơi Cha, Ta sẽ sai đến với các ngươi, Thần Khí sự thật từ Cha mà ra, chính Người sẽ làm chứng về Ta. Chúng ta nhớ lại, Đức Giêsu tuyên bố chính Người là Sự Thật. Tác động Chúa Thánh Thần la dẫn đưa chúng ta đến hiệp nhất với Đức Kitô. Ngôi Ba Thiên Chúa tác động trong chúng ta cách thích hợp, khiến chúng ta cảm ứng đối với Đức Kitô, với ngôi vị của người, với giáo huấn của Người. Bất cứ học thuyết, chủ thuyết, tư tưởng nào từ ngoài đến, nếu không phù hợp với sự cảm hoá tâm hồn đối với Đức Giêsu Kitô, chúng ta phải đặt nghi vấn. Chúa Thánh Thần làm chứng cho Đức Kitô trong chúng ta. Chúng ta phải làm chứng về Đức Kito trong môi trường sinh hoạt của mình. Nếu chúng ta thật sự biết nghe lời Thần Khí sự thật, lời chứng của chúng ta sẽ phát xuất từ nguồn mạch thông thái thiêng liêng duy nhất của chúng ta là Đức Kitô. Sau này thánh Phaolo sẽ nói: Tôi chỉ muốn nơi anh em về Đức Kitô mà thôi. Có lẽ chúng ta nên cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta bảo tồn ý nghĩa chân truyền của Phúc Âm, đặc biệt trong thời buổi có nhan nhản những sự mập mờ đáng nghi trong việc sử dụng Phúc Âm.
2) Người là Thần Khí thánh thiện.
Sự thánh thiện của người Kitô hữu không có nghĩa là làm được những điều phi thường, mà phải khởi sự từ đức tin. Trong đức tin, người Kitô hữu cố gắng cách ngay thẳng nhất ở trong tình bằng hữu với Thiên Chúa. Muốn được thế, phải từ trong thâm tâm thiết tha gắn bó với sự thật – không chỉ có đức tính tri thức là thành thật ngay thẳng, đó là điều tối thiểu phải có, mà phải đon nhận cách mật thiết tác động của Chúa Thánh Thần. Như chúng ta biết, bất cứ sự thật nào cũng đòi hỏi phải tích cực, Thần Khí sự thật đòi hỏi rất nhiều nơi người Kitô hữu. Philatô bỏ chạy khi nghe Chúa đáp: Kẻ nào thuộc về sự thật thì nghe sự thật. Người ta có thể trốn tránh sự thật vì lẽ sự thật đòi hỏi rất nhiều. Trái lại, tâm trí kẻ nghe Lời Chúa Thánh Thần giống một bầu trời gió thổi càng mạnh càng vén sạch mây mù, nền trời càng trở nên quang sáng. Ở đây là một sự vâng lời thực tiễn, là thái độ không một giây phút chậm trễ sống những điều trí khôn hiểu được về chân lý. Thái độ ấy mệnh danh là cư xử theo chân lý, là “đi trong sự that”. Thánh Gioan nhắn nhủ các tín hữu: tôi vui mừng quá đỗi vì đã gặp trong hàng con cái Bà có những kẻ đi trong sự thật (thư thứ 2,4). Được như vậy, trong con người Kitô hữu, lời nguyện của Đức Giêsu sẽ thực hiện: Xin Cha hãy thánh hoá chúng trong sự thật… (Ga 17,17).
58. Thần Khí đổi mới.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuoi đi, nhưng phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng của mình, để chứng tỏ rằng mình làm công việc ấy là do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:
- Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị.
- Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một công tước vùng ấy, khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.
- Có một linh mục trẻ được chỉ định đến thay thế cho cha xứ già đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh trong bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục vụ tốt cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ lơi hứa.
Thưa anh chị em,
Với mỗi người chúng ta hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng thiêng liêng. Chúng ta không thể giới hạn cách thức tỏ hiện của Ngài trong hình thức của trận cuồng phong, lưỡi lửa, của chim bồ câu hay bất cứ một hình thức nào khác. Quả thực, Ngài không ngừng hiện diện và tác động nơi chúng ta cách tự do và rộng khắp. Ơn của Ngài nhằm thôi thúc chúng ta phải làm gì cụ thể trong việc đổi mới đời sống con cái đối với Thiên Chúa, góp phần phục vụ tha nhân, phục vụ cộng đoàn.
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể lại cho chúng ta những sự lạ đã xảy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn đệ đang hội họp, có Đức Maria ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà. Có những lưỡi lửa xuất hiện trên mỗi người. Họ tràn đầy Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bỡ ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xảy ra? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là các môn môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa! Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Gioel đã tiên báo: “Ta sẽ đo Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên tri”. Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho 3.000 người trở lại. Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về.
Giáo Hội sinh từ ngày Thánh Thần hiện xuống. Ngày nay Giáo Hội đã có một trang sử dài gần 20 thế kỷ. Giáo Hội cũng cần một luống gió mạnh thổi đến, lùa vào hầu có thể đổi mới mọi sự. Xưa Phêrô đã mở tung cửa đón nhận Thần Khí Thiên Chúa thì ngày nay các vị đại diện Phêrô cũng đã khai mở Công Đồng “như một lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một bộ mặt mới, một luồng gió mới.
Mỗi lễ Hiện Xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội, Thánh Thần là ai? – Thánh Phaolô, trong bài đọc II đã giải thích gồm tóm trong ý tưởng rằng, Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Thánh Thần ban cho mọi tín hữu nhận lãnh Phép Rửa mot niềm tin duy nhất, là “Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã sống lại”. Chúng ta phải tin, phải sống và phải loan báo. Tuy rằng đưcq tin là một, nhưng Thánh Thần sẽ ban cho mỗi người, mỗi thời đại, những đặc sủng riêng tư, thích hơp cho từng dịch vụ, từng sinh hoạt, từng nơi chốn. Thánh Thần như linh hồn của Giáo Hội, hằng huy động, hướng dẫn, thống nhất để xây dựng Giáo Hội.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII là một điển hình. Khi mới được bầu làm Giáo Hoàng, Ngài là một cụ già đã 77 tuổi, cục mịch như một cha xứ nhà quê, ai cũng cho là “một Giáo Hoàng giao thời”. Nhưng ai ngờ con người ấy, trong triều đại chỉ 5 năm, trở thành dụng cụ của Chúa Thánh Thần để đổi mới, để thực hiện chính sách mà Ngài gọi là “ cập nhật hóa” (aggiomento), mở cửa để Giáo Hội bắt gặp đà tiến triển của thời đại văn minh. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Tiến tới Thiên niên kỷ thứ ba” chuẩn bị cho toàn thể Giáo Hội mừng Đại Năm Thánh 2000 đã kêu gọi “trân trong đặc biệt tất caw những gì Chúa Thánh Thần đã nói với Giáo Hội và với Giáo Hội (Kh 2,7) cũng như những gì Thánh Thần nói với các cá nhân qua các đoàn sủng phục vụ cộng đoàn”. Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tôi muốn nhấn mạnh những gì mà Chúa Thánh Thần gợi ý cho các cộng đoàn khác nhau, từ những cộng đoàn nhỏ nhất- như gia đình, đến những cộng đoàn lớn hơn – như cac quốc gia, các tổ chức quốc tế, kể cả những nền văn hóa, văn minh và những truyền thống lành mạnh” (TMA. Số 23).
Nhiều người tín hữu ngày nay vẫn còn có thái độ như nhóm nhỏ Tông đồ ngày xưa. Họ sợ sệt, cửa đóng then cái, e rằng Thầy ra đi là đi mãi, tương lai mù mịt. Nhưng Thánh Gioan cho biết, ngay chiều Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện đến trấn an các ông: “Bình an cho các con”. Rồi Ngài thổi hơi trên các ông: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Ai lại không liên tưởng đến “ làn hơi Thiên Chúa” thổi đến trên mặt nước “trong ngày khai thiên lập địa” (St 1,2) đến làn sinh khí mà Thiên Chúa thổi vào con người trong ngày tạo dựng Ađam (St 2,7). Ngày nay, làn hơi ay chính là Chúa Thánh Thần, là làn hơi ban sự sống (Ga 3, 5-6) và là sức mạnh tầy xóa mọi tội lỗi: “các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20,23). Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ cũng như chúng ta ngày nay phải trở nên những chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất.
Anh chị em thân mến,
Ngày lễ Chúa Thánh Thần ngày khai sinh của Giáo Hội, là ngày nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mở rộng vòng tay ôm cả thê1 giới. Chúa Thánh Thần thôi thúc bên trong để chúng ta hành động cụ thể, tỏ lộ ơn Ngài ra bên ngoài và chúng ta sẽ chỉ có thể vững tin rằng mình đang sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, khi mọi nỗ lực của chúng ta luôn theo sát với giáo huấn của Chúa Kitô và đều hướng đến việc kiến tạo tình yêu thương cảm thông nhau hơn. Chớ chi từ nay, chúng ta luôn biết mở mắt tâm hồn của mình để nhận diện ra bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình và mở rộng tâm hồn sống theo ơn Ngài thôi thúc, hầu cuộc sống của chúng ta có thể đổi mới không ngừng trong tình yêu thương xây dựng.
59. Hơi thở của Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Một ngày đẹp trời no, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
Anh chị em thân mến,
Sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta được sống. Bao lâu còn hơi thở là còn sống. Tắt thở là chết. Trong buổi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam, con người đầu tiên, để Ađam có sự sống, để Ađam trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa các môn đệ và thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa, là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa. vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.
Ađam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên tổ của loài người. Các môn đệ cộng đoàn Phục Sinh đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô. Mỗi người chúng ta, cũng đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa khi chúng ta được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức dầu trong bí tích Thêm Sức. Hơi thở, sức sống, tinh than của Thiên Chúa được “hà hơi” vào trong ta. Vấn đề là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh ấy không. Thánh Phaolô khi nói về các ơn sủng Thiên Chúa ban cho mọi chi thể thuộc thân thể Đức Kitô đã đề cao Đức Ái như một đặc ân của Thánh Thần.
“Đức Ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức Ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13,4-7).
Sống đức Ái, sống yêu thương là sống bằng hơi thở của Thiên Chúa, là kết hợp với Thiên Chúa Tình Yêu, là sống trong Thánh Thần. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người sống và phát triển thực sự. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người thay đổi, canh tân, hoán cải. Ai yêu thương nhiều là người ấy thay đổi nhiều, vì tình yêu sẽ dẫn đưa chúng ta đến chốn vô cùng, vô tận của cuộc sống. Ai yêu thương nhiều và yêu thương thực tình sẽ không còn là mình nữa, mà là dụng cụ của Tình Yêu Thiên Chúa, sẽ nên giống như Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Một cộng đoàn thiếu yêu thương thì không bao giờ có hợp nhất, không bao giờ có sức thuyết phục được những người chung quanh. Vì chỉ có yêu thương mới san bằng được những khoảng cách, mới lấp đầy những cách biệt, mới giúp bổ túc cho nhau giữa những cái chênh lệch, khác biệt nhau. Các tín hữu tiên khởi đã bán hết của cải ruộng đất để làm của chung, để sống giới răn yêu thương của Thầy. Đó phải là hình ảnh gợi ý cho những sáng kiến yêu thương của chúng ta. Chỉ khi nào mỗi thành viên của Hội Thánh đem hết tài năng, đặc sủng của mình đã nhận lãnh làm thành của chung của cộng đoàn, thì lúc ấy mới có sự hợp nhất thực sự của một thân thể nhiều chi thể là Hội Thánh Chúa Kitô.
Nhưng chúng ta chỉ biết sống yêu thương nếu như chúng ta biết đặt mình dưới sức tác động của Thánh Thần: Chẳng những Ngài là Đấng An Ủi, soi sáng mà Ngài còn là Đấng Thanh Tẩy chốn nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, chữa lành thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng… (Ca tiếp liên). Chỉ có Thánh Thần mới làm cho các tổ chức của con người có sức sống, có tinh thần Tin Mừng… Đổi mới tư duy, đổi mới đời sống, đổi mới cơ chế xã hội đều cần đến sức mạnh và ân sủng của Thánh Thần Thiên Chúa, vì Ngài là hơi thở của Thiên Chúa, hơi thở không ngừng làm sống mọi tạo vật.
Anh chị em thân mến,
Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận những luồng gió mới mà Thánh Thần Chúa đang thổi trong lòng các dân tộc, trong lòng con người trước ngưỡng cửa Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Chớ gì Thánh Thần Thiên Chúa cũng thổi vào lòng chúng ta, vào cộng đoàn chúng ta một luồng gió đổi mới cũng mạnh liệt như thời các Tông đồ, để Hội Thánh luôn tươi trẻ và tràn đầy sức sống.
Xin hãy đến, lạy Chúa Thánh Thần và xin canh tân bộ mặt trái đất của chúng con.
60. Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi
VAI TRÒ CHÚA THÁNH THẦN TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Trong sách giáo lý Công Giáo có ghi: "Chúa Cha là Đấng sáng tạo; Chúa Con là Đấng cứu chuộc; và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa chúng ta." Chúng ta không thể sống nếu không có hoạt động của Chúa Thánh Thần. Vì Chúa Thánh Thần là Thấn Khí ban sự sống cho chúng ta. Ngài có vai trò rất quan trọng trong thế giới này và trong mỗi con người chúng ta. Hôm nay, chúng ta cùng nhau khám phá ra vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta. Ngay cả Chúa Giêsu,Ngài đã đón nhận ơn Chúa Thánh Thần khi chịu phép rửa tại sông Giođan. Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần ban cho các tông sức mạnh và ơn can đảm để đi rao giảng Tin Mừng, và Giáo Hội được khai sinh. Tuy nhiên, để hiểu được vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần trong thế giới này, chúng ta có thể thấy ba biểu tượng nổi bậc nói về Chúa Thánh Thần, đó là: Lửa, Nước và Khí.
Trước tiên là Lửa. Lửa mang lại cho chúng ta hơi ấm. Vào mùa đông người ta cần có lửa để sưởi ấm. Nếu mùa đông giá buốt mà không có lửa, thì chúng ta sẽ bị chết lạnh. Lửa rất cần thiết trong đời sống con người. Lửa dùng để nuôi sống con người. Mặc khác, Lửa không chỉ mang lại sự sống và giá trị vật chất mà là còn mang ý nghĩa giá trị tinh thần cho con người. Đó là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần cho các tông đồ thuật lại trong tin Mừng hôm nay. Khi Chúa Giêsu chết, các tông đồ sợ hãi không dám ra ngoài, vì người Do-thái. Trong lúc hoang mang sợ hãi đó, Chúa Thánh Thần mang ngọn trên đầu các tông đồ, ngọn lửa Chúa Thánh Thần biến đổi các ông thành những con người mới. Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại rằng: "Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào căn nhà nơi mọi người đang tụ họp. Họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu trên từng người. Ai nấy lòng tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói nhiều thứ tiếng lạ khác nhau và trên đầu các ông có hình lưỡi lửa." Đó chính là Chúa Thánh Thần, Ngài đã ban cho các tông đồ ngọn lửa đức tin, ngọn lửa của niềm vui, và ngọn lửa bình an và hoan lạc để các ngài can đảm ra đi rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Kế đến là Nước. Nước mang lại sự sống cho các sinh vật trên trái đất này. Nếu không có nước, con người và sinh vật không thể sống được trên trái đất này. Chúng ta có thể nhịn đói, nhưng không thể nhịn khát được. Cũng vậy trong đời sống thiêng liêng, chúng ta múc lấy nguồn nước ân thiêng từ nơi Chúa Thánh Thần khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Chính Gioan Tẩy giả dìm Chúa Giê-su xuống dòng sông Gio-dan. Ngài kêu gọi dân chúng rằng: " Ai chịu phép rửa sẽ được ơn cứu độ." Nếu nước là tượng của sư sống, thì tái sinh bắt nguồn từ nơi Đức Kitô. Tại giếng Gia-cóp, Chúa Giê-su nói với người phụ nữ: " Nước tôi cho chị uống thì sẽ không bao giờ khác", đó là Máu và Nước của Ngài chính là nguồn ơn cứu độ cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã xác quyết rằng: "Chúng ta đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể." Phép rửa là để thanh tẩy tội lỗi con người, và tái sinh làm con cái Chúa là nhờ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan nói:" Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em, anh em hãy lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần."
Sau cùng là Khí. Mỗi ngày chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí, mà Thánh Thần là Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Trong Kinh Thánh đã diễn tả. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người, thì Ngài lấy đất nắn thành hình người, rồi Ngài hà hơi vào lỗ mũi và ban cho con người sự sống. Chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí. Chúa Thánh Thần là thần khí dưỡng nuôi chúng ta. Do đó, chúng ta mới nói rằng sự sống hay chết là do Chúa.Một biểu tượng khác, chúng ta có thể cảm nhận được hoạt đông của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống, đó là gió. Con mắt thường chúng ta không nhìn thấy gió, nhưng chúng ta có thể cảm nhận được gió qua sự rung chuyển của cây, hoặc qua cảm giác mát lạnh của gió. Một bài hát chúng ta thường hát nói về Thần Khí Chúa Thánh Thần như sau:
"Thần khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng.
Thần khí Chúa đã thánh hiến tôi, sai tôi đi Ngài sai tôi đi.
Sai tôi đến với người nghèo khó, sai tôi đến với người lao tù, mang Tin Mừng giải thoát. Thiên Chúa đã cứu tôi"
Tóm lại, ba biểu tượng: Lửa, Nước và Khí, chúng ta có thể hiểu được vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần là rất quan trọng trong thế giới này và trong mỗi con người chúng ta. Ba biểu tượng này đã được khắc họa trong Kinh Thánh từ công cuộc tạo dựng vũ trụ. Sách Giáo lý Công Giáo đã dạy: Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Khi hiểu như thế thì chúng ta thấy rằng, Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta sự sống, thánh hóa và biến đổi chúng ta trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Như lời thánh Gioan viết, Giêsu đã thổi hơi và thần khí cho các tông đồ và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
Như lời thánh Phaolô dạy: hoa quả của Chúa Thần Khí là bác ái, hoan lạc,bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Đó là cách ta sống theo Thần Khí. Còn tính xác thịt gây ra, đó là: dâm ô, phóng đãng, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những thứ khác giống như vậy.
Lời Nguyện:
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
Xin ban cho chúng con ngọn lửa Thánh Thần, để chúng con xóa tan bóng tối của hận thù, chia rẻ và bất công.
Xin ban cho chúng con nguồn nước Thánh Thần, để chúng con cho những ai đang khát về chân lý và tưới gội những tâm hồn khô khan.
Và xin cho chúng con Thần Khí, để chúng con mạnh dạn ra đi rao giảng Tin Mừng cho những ai đang thất vọng, họ sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong Chúa. Amen.
61. Ngọn gió.
Bấy giờ các môn đệ họp lại ở một nơi. Bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi khắp nhà các đấng đang ngồi. Lại thấy có hình lưỡi lửa tỏa ra, đổ trên đầu từng người một và tất cả đều được tràn đầy Thánh Linh. Qua vài dòng tường thuật ngắn ngủi trên, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh ngọn gió.
Hậu quả đầu tiên mà gió đem lại, đó là quét sạch bụi bặm và rác rưởi. Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió, nhưng lại không biết gió từ đâu mà đến và sẽ đi về đâu, những kẻ sinh bơi Thần Khí cũng thế. Thực vậy, gió thổi chỗ này, gió thổi chỗ khác. Không ai có thể vạch đường cho gió. Gió thổi theo những luật lệ riêng của gió. Cũng vậy, tình yêu chân thực sẽ vượt qua mọi thúc ép bên ngoài. Và khi tình yêu cao cả nhất là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ, thì đó cũng là lúc những thái độ bên ngoài, những nghi lễ của Môisen, những quan niệm hẹp hòi của bọn biệt phái bị sụp đổ. Tin Mừng tràn lan như mot ngọn gió. Và Tin Mừng ấy thổi đến đâu, thì sẽ lật đổ mọi tượng thần nhảm nhí, làm cho trong sạch và dịu mát bầu khí luân lý và đạo đức vốn đã bị ô nhiễm. Cùng với ngọn gió của ngày lễ Hiện Xuống, một con người mơi được sinh ra với một lý tưởng mới và những khát vọng mới. Một thế giới được khởi đầu đó là thế giới Kitô giáo. Thế giới cũ không thể nào chống lại sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Như một bức tường xiêu vẹo và đổ nát, không thể nào cản được sức mạnh của cơn gió xoáy.
Giáo hội khởi đầu chỉ là một nhóm nhỏ gồm mười hai tông đồ. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong các ông, thôi thúc các ông ra khơi và thả lưới, lên đương và chinh phục thế giới về cho Đức Kitô. Ý tưởng này làm cho chúng ta thêm phấn khởi và cảm thấy được an ủi. Dù hoàn cảnh có đen tối, dù số phận có thê thảm, dù giông tố có nổi lên, dù bắt bớ có xảy ra, nhưng co Chúa Thánh Thần hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, thì không có một thế lực nào, không một gian nguy thử thách nào có thể chiến thắng nổi chúng ta. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Trong thời gian khó khăn tại Liên Xô, chỉ có một chủng viện nhưng phải sinh hoạt âm thầm và lén lút. Ngày kia một ký giả may mắn gặp được một thanh niên hơn hai mươi bốn tuổi, với khuôn mặt sáng sủa và thân hình gầy còm vì đoi. Anh cho biết mình là một đại chủng sinh, đang chuẩn bị lãnh nhận chức phó tế. Ban ngày anh phải đi làm như một người thợ, một công nhân. Ban đêm mới học. Học không sách vở, học không ánh sáng. Họ sống và cầu nguyện chung với nhau, nhưng luôn phải canh chừng. Phải chăng Kitô giáo đã tàn lụi trên đất nước Liên Xô? Không phải thế. Dù chỉ còn một nhóm nhỏ thì Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động. Để rồi cuối cùng, mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Biết bao lần chúng ta thất vọng khi nhìn thấy tội ác thắng thế và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Biết bao lần chúng ta hoài nghi vì thiện chí của chúng ta bị coi thường và xuyên tạc. Thế nhưng, nếu thực sự có Chúa Thánh Thần ngự trị, chúng ta sẽ không bao giờ ngờ vực, sẽ không bao giờ thất vọng. Vậy chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phaolô khuyên nhủ: Đừng làm buồn lòng Chua Thánh Thần và đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài. Nhưng thế nào là làm buồn lòng Chúa Thánh Thần, thế nào là dập tắt ngọn lửa của Ngài? Chúng ta sẽ làm buồn lòng Chúa Thánh Thần nếu chúng ta chống lại những hành đong hướng dẫn, giáo huấn và thánh hóa của Ngài. Chúng ta hãy để cho Ngài thúc đẩy, để chúng ta chỉ suy nghĩ những tư tưởng của Chúa, chỉ lắng nghe những lời Chúa nói. Chúa Thánh Thần là người nghệ sĩ, còn tâm hồn chúng ta là cây đàn. Nếu chúng ta để cho Ngài gẩy, thì tâm hồn chúng ta sẽ vang lên những khúc nhạc tuyệt vời. Chúng ta có thể nói cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là như một con đường ngập ánh nắng mặt trời, dù họ phải đi qua bóng tối của gian nan và thử thách. Hơn nữa, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một khúc hoan ca, dù họ gặp phải những cay đắng chua xót. Ngoài ra, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một ngày hội lớn, một ngày khải hoàn chiến thắng, dù họ phải luôn chiến đấu không ngừng.
Ngọn gió của Chúa Thánh Thần có thể thổi đến với tôi bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu: trong giờ kinh nguyen, trên đường phố, bên giường bệnh nhân, trong cơn cám dỗ…sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ truyền sang cho tôi. Và thật là diễm phúc, nếu tôi biết lắng nghe và tuân theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, bởi vì tôi se được Ngài hướng dẫn và ủi an.
62. Đổi mới
Anh chị em thân mến.
Khi chúng ta trải qua đêm dài trong tăm tối, trong đêm tối mọi người đều phải lo chuẩn bị mọi sự: cửa nhà lo đóng kín, mọi công việc lo cho yên nơi yên chỗ, kể cả con người chúng ta cũng nằm yên bất động. Trong đêm tối nhiều người còn sống trong sự lo sợ, vì bóng đêm không nhìn thấy được sự vật chung quanh, những nguy hiểm cũng lợi dụng bóng đêm mà đến với con người bất cứ giờ phút nào.
Khi mặt trời bắt đầu ló dạng, mọi sự dường như được chuyển mình. Vạn vật mỉm cười đón ánh nắng mới, một sức sống mới cùng với ánh mặt trời mang dến cho vạn vật. Con người cũng thế, mọi người vui mừng hoạt động trở lại với những công việc mới. Cùng với ánh mặt trời, không ai có thể nằm yên bất động như trong đêm tối, mà mọi người đều đứng lên, mở cửa nhà mình ra và cùng hoạt động với sức sống mà ánh mặt trời mang lại cho họ. Nếu ánh mặt trời đến mà có người còn nằm yên bất động, thì đó là những người vô ích, ngày giờ kết thúc cuoc đời của họ đã đến.
Các Tông Đồ đang sống trong đêm tối của sự lo sợ và cô đơn, các ông vào trong nhà, đóng kín cửa lại. Các ông lo sợ người khác làm hại đến mình, vì các ông vừa chứng kiến cảnh đau thương của thập giá. Cảnh dau thương làm cho các ông sụp đổ hoàn toàn, các ông mất đi những ước mơ và hy vọng vọng bấy lâu nay, trong thời gian mà các ông theo Chúa Giêsu, các ông hy vọng rất nhiều, ước mơ rất nhiều. Nhưng giờ đây mọi sư không còn gì hết. Những lời Chúa Giêsu nói với các ông, dạy bảo, nhắc nhở, tất cả không còn gì hết. Các ông đóng kín cửa, thu mình lại trong nỗi lo sợ. Nhưng Chúa Giêsu lại đến trong lúc các ông đang lo sợ, Ngài vẫn vào nhà trong lúc cửa các ông vẫn đóng kín, ngài mang bình an đến cho những con người đang sống trong bất an. Ngài còn trao cho các ông một sứ mạng quan trọng là đem bình an đến cho những người khác: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con…” Ngài đến như vầng thái dương xuất hiện, không cho các ông ngồi yên trong sự sợ hãi nữa, không cho các ông đóng kín cửa tâm hồn của mình nữa, mà bảo các ông hãy ra đi.
Các ông đã nhận được sức mạnh, đã đứng lên và đã hành động. Các ông đã sống trong ánh sáng, các ông đã can đảm thi hành sứ mạng trong sự đỗi mới của một ngày mới. Đêm tối của các ông qua đi, giờ đây các ông đang sống và hoạt động dưới ánh sáng ban ngày, ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh.
Ánh sáng Chúa Kitô Phục Sinh đã làm cho các Tông Đồ đổi mới. Ánh sáng đó cũng làm cho rất nhiều người được đổi mới qua suốt hơn 2000 năm lịch sử. Nhưng ánh sáng đó có đổi mới được những con người của ngày hôm nay, có đổi mới được mỗi người trong chúng ta không?
Mỗi người để một ít phút thinh lặng, nhìn lại cuốn phim cuộc đời. Trải qua bao nhiêu năm, từ ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội, Bí tích Thêm sưc, biết bao hồng ân chúng ta nhận được qua các Bí Tích. Chúng ta mang danh là người công giáo, nhưng chúng ta chỉ là người công giáo trên danh nghĩa hay là một người công giáo thật sự.
Nếu trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta vẫn cứ sống theo những gì mình thích, làm những gì mình muốn làm, nói những gì mình muốn nói, mà bất chấp đến những người chung quanh, không cần biết phản ứng của họ như thế nào, cho dù họ có đau khổ, cho dù họ có kêu than, cho dù họ có van xin, chúng ta cũng không cần biết đến. Chúng ta chỉ ung dung tự tại miễn sao mình được lợi ngày càng nhiều, đường mà chúng ta gọi là danh vọng, ngày càng nâng cao, như thế là đủ. Vậy thì những lần đến nhà thờ, những lời kinh chúng ta đọc hằng ngày, những lời giảng dạy và lệnh truyền của Chúa Giêsu, đối với chúng ta không hiệu quả gì sao? Chúng ta không thể đổi mới để thi hành lệnh Chúa cho tốt được sao? Không lẽ sức mạnh của ánh sáng Phục Sinh không mở được cánh cửa lòng đóng kín của chúng ta được sao?
Nếu chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm hằng ngày trong cuộc sống, nhìn thấy được những điều cần làm và phải làm, cho dù phải vất vả khổ nhọc, chúng ta vẫn không từ chối vì biết đây là điều tốt. Khi đó, chúng ta đang được đỗi mới nhờ ơn Chúa.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban sức mạnh của Thánh Thần Chúa sức đổi mới tâm hồn và cuộc sống của moi người chúng ta.
63. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm. Gioan Võ Đình Đệ)
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, đặc biệt sách Tông Đồ Công Vụ, bày tỏ cho chúng ta về Chúa Thánh Thần vừa là một sức mạnh tỏa lan trên cong đoàn vừa là sức mạnh thức tỉnh tâm linh tín hữu.
1. Chúa Thánh Thần, sức mạnh tỏa lan trên cộng đoàn.
Sự kiện “hiểu nhau” của những con người có ngôn ngữ khác nhau trong tường thuật của bài sách Công Vụ Tông Đồ là một hồng ân của Thánh Thần. Đây là một sự kiện trái ngược với sự kiện dân xây tháp Babel trong Cựu Ước được sách Sáng Thế Ký tường thuật (St 11,1-9). Vì ngôn ngữ bất đồng, việc xây dựng tháp Babel bị bất thành. Vì “hieu nhau”, những người xa lạ trở thành cộng đoàn hiệp thông. Điều nầy cho thấy Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho chúng ta xác tín căn tính kitô hữu của mình đồng thời liên kết chúng ta hiến thân phục vụ Hội Thánh cách vô vị lơi. Thánh Phaolô cũng nhắc đến: “Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra mỗi người mỗi cách là vì ích chung” (Bài đọc 2).
2. Chúa Thánh Thần, sức mạnh thức tỉnh tâm linh người tín hữu.
Các tông đồ là những con người hằng ngày bám gót theo Chúa Giêsu. Các ngài đã từng sững sờ trước những phép lạ Chúa làm, đã từng nghe tận tai những lời Chúa dạy, nghe rõ mục tiêu Chúa qui tụ mình, đã từng mục sở thị phong cách sống của Chúa trong khi thi hành sứ mạng. Dẫu vậy, tính “máu thịt” vẫn đeo bám các tông đồ, các ngài vẫn tranh nhau chỗ cao thấp, vẫn vấn vương sự “úy tử tham sinh”, bất tín, bất trung, sợ hãi, trốn chạy khi Chúa chịu khổ nạn. Như người lâm cơn trọng bệnh được phục hồi sức khỏe nhờ gặp được thầy thuốc giỏi, sau khi được Chúa Thánh Thần đổ đầy ơn thánh vào lòng, nội tâm các tông đồ đã được đổi chiều. Các ngài đã trở nên cam đảm, thà chết chứ không chịu nín lặng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm” (Cv 5,29), trở nên say mê, trung thành đến độ dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Phong cách nầy là dấu chỉ của những “người con được sinh ra theo thần khí” (Gal 4,29), tức là những con người dám làm theo những đòi hỏi của một lương tâm trong sáng, ngay thẳng.
Dưới tác động của Thánh Thần, các Tông đồ đã khám phá ra chiều kích thần linh của mình: Con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Sự thật này cần được không ngừng tái khám phá dưới ánh sáng của Đức Kitô phục sinh, khuôn mẫu cho mọi mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, vơi vũ trụ vạn vật và con người với nhau. Nhờ Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã được thanh tẩy khỏi những “tạp chất máu thịt” kia, để từ đó có thể thong dong hoàn thành ơn gọi làm người, ơn gọi làm kitô hữu và hoàn thành sứ mạng tông đồ đặc biệt của mình.
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Bài Tin Mừng), một mệnh lệnh đâu phải dễ thực hiện. Chúng ta đang sống trong xã hội văn minh có nhiều tiến bộ, có gương lành gương tốt nhưng cũng đầy những bóng tối, mà nhiều khi tưởng chừng cuộc sống đã bị bóng tối bao trùm bởi cái vụ lợi được xem trọng hơn cái lý tưởng, bởi “tranh công, chối tội, đổ lỗi, thanh minh” được yêu chuộng hơn là công bình và sự thật, bởi tâm lý “ngồi bia bọt cả giờ dễ hơn chờ nửa giây đèn đỏ” đã len lỏi trong trong nếp sống đạo: Quên lãng kinh nguyện gia đình, biếng nhác cầu nguyện cá nhân. Đi sau về trước trong thánh lễ Chúa Nhật, thậm chí bỏ lễ Chúa nhật vì công ăn việc làm, vì một cuộc dã ngoại với bạn bè…
Để tinh thần đức tin, đức cậy, đức mến được sinh động trong các ngóc ngách hoạt động hằng ngày của chúng ta, để không khiến cho lương dân ngờ ngợ nhận ra điều gì không phải Tin Mừng cứu độ, không phải đạo Chúa, không phải Hội thánh Chúa trong các hoạt động của chúng ta, chúng ta cần bám sát Chúa Thánh Thần.
Đứng giữa một bên là giới hạn, yếu đuối và tội lỗi, còn mot bên là mầu nhiệm của ân sủng, chúng ta phải gắn bó với Thánh Thần để biết mau mắn đón nhận ân sủng. Gió Thánh Thần vẫn tiếp tục thổi, Lửa Thánh Thần vẫn tiếp tục cháy và này đây "Thánh Thần đến nâng đỡ sự yếu đuối của chúng ta" (Rm 8, 26) để chúng ta yêu được, chọn được những giá trị lớn hơn phía sau những cái “hiện đại”, “hoành tráng” hấp dẫn mà mau qua đang vây bủa chúng ta.
64. Vai trò của Thần Khí – McCarthy.
Suy Niệm 1. ƠN CỦA THẦN KHÍ
Chúng ta muốn bám chat vào một người mà chúng ta yêu mến và phụ thuộc. Chúng ta không thể chịu nổi ý tưởng người ấy rời bỏ chúng ta. Khi Đức Giêsu nói với các Tông đồ rằng Người sắp rời bỏ họ, họ rơi vào sự u sầu. Nhưng Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em”.
Các Tông đồ khó mà hiểu được bằng cách nào Đức Giêsu ra đi thì có lợi cho họ. Những minh hoạ sau đây sẽ chiếu soi một số ánh sáng trên đề tài ấy.
Bạn hãy tưởng tượng bạn đang ngắm mặt trời lặn xuống. Và khi nó lặn, có vẻ như nó đem cả thế giới này theo nó.
Đồng thời, mặt trăng lên cao trong bầu trời. Nhưng mặt trăng mờ nhạt đến nỗi bạn phải nhìn kỹ mới thấy. Dường như mặt trăng không đóng góp điều gì cho trái đất.
Rồi bạn nhận thấy một điều đẹp đẽ và kỳ lạ. Mặt trời càng xuống thấp trong bầu trời, mặt trăng càng trở nên sáng hơn. Sau cùng, mặt trời rồi cũng biến mất khỏi quang cảnh, mặt trăng được biến đổi hoàn toàn. Và giờ đây, mặt trăng đương nhiên là vật sáng nhất trong bầu trời. Và khi bạn nhìn chung quanh, bạn ngạc nhiên và thích thú nhận thấy rằng thế giới cũ kỹ này không những đã được phục hồi hoàn toàn đối với bạn, nhưng còn được làm cho mới mẻ, sáng tươi và quyến rũ. Chỉ khi mặt trời rút lui, bạn mới có thể thấy sự đóng góp của mặt trăng.
Yêu thương đôi khi lúc có nghĩa phải sống xa cách người mình yêu. Điều này có nghĩa là người ta được tự do phát triển theo đường lối của riêng mình. Người được yêu thương cảm thấy mình đã góp phần xây dựng nên tình cảm đó và được tự do tiếp nhận từ một người khác.
Tuy nhiên, chúng ta thường bám chặt ánh đèn sân khấu. Chúng ta muốn lúc nào cũng có mặt ở đó. Chúng ta không biết nên rút lui khi nào hoặc bằng cách nào. Vì thế, bằng một thái độ vô tâm và vị kỷ, chúng ta làm chủ những người khác. Chúng ta bóp nghẹt sự phát triển của họ. Chúng ta đặt họ vào vị trí phụ thuộc, và kết quả là họ ở mãi trong tình trang kém phát triển.
Điều này đem lại cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc điều Đức Giêsu muốn nói khi Người cho rằng Người ra đi thì có lợi cho các Tông đồ, nếu không có Thần Khí sẽ không đến. Nếu Người cứ duy trì sự hiện diện thể chất với họ thì chính họ sẽ không bao giờ trưởng thành nổi.
“Tôi không có gì cho người khác; nhưng tôi có bổn phận hướng người ấy về với chính cuộc đời người ấy và chấp nhận người ấy là chính người ấy” (Michel Quoist).
Không bao giờ có người nào tỏ ra tín nhiệm và tôn trọng con người như Đức Giêsu. Người đã không thống trị họ. Người đã cho họ một cơ hội để toả sáng. Người chuyển giao toàn bộ công trình của Người cho họ. Người biết rằng họ vẫn cần được giúp đỡ. Đó là lý do Người sai Thần Khí đến với họ.
Điều mà Thần Khí đã làm là biểu lộ ra bên ngoài những sự việc đã có bên trong họ. Tình yêu của Thần Khí đánh thức những năng lực có bên trong họ mà họ không biết đã có đó, vì thế họ có thể làm được những việc mà họ không nghĩ rằng họ có khả năng làm. Sau ngày Hiện Xuống, tâm hồn họ như lửa đốt và có gió thổi mạnh vào sau lưng.
Chúng ta cũng cần có Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần Người giúp đỡ chúng ta thực hiện quyền bính và những ơn đã có trong chúng ta. Chúng ta cần Người khai thác quyền bính ấy và phát huy những ơn Người ban ngõ hầu chúng ta cũng có thể trở thành nhân chứng không sợ hãi cho Đức Kitô.
Suy Niệm 2. PHÉP LẠ CỦA SỰ ĐỔI THAY
Trước khi Chúa Thánh Thần đến, các Tông đồ gần như sống trốn tránh trong một phòng trên lầu. Đức Giêsu đã giao phó cho họ một nhiệm vụ cao cả. Tuy nhiên họ đã không có cả sức mạnh lẫn ý chí để bắt tay vào việc. Nhưng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ là những người đã thay đổi.
Vậy Chúa Thánh Thần đã làm gì cho họ và phép lạ làm thay đổi chính xác như thế nào? Mặc dù chúng ta không biết một tí gì về điều đó.
Chúng ta phải nhận thức rằng các Tông đồ là những người bị tổn thương. Họ bị tổn thương bởi nghi ngờ và đau buồn, bởi sợ hãi và thất bại, và trên tất cả bởi ý thức về sự bất toàn.
Jean Vanier là một người biết rất nhiều về điều gì giúp đỡ những người bị tổn thương thay đổi. Ông đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ khắp thế giới cho những người thiểu năng (tâm thần). Khi người thiểu năng bị nhốt trong những cơ chế, người ta đã gây ra cho tâm trí họ sự thiệt hại khủng khiếp. Một thân thể bị tổn thương sẽ lành lại một cách tự nhiên, nhưng một tâm hồn bị tổn thương thì không như thế. Một tâm hồn tổn thương sẽ chai cứng; chỉ để sống còn và vì thế đầy ắp sự tức giận và cay đắng.
Nhưng khi người thiểu năng được đưa ra khỏi những cơ chế ở đó họ cảm thấy chán ghét, và được đặt vào những cộng đoàn ở đó họ được yeu thương. Vanier đã nhiều lần chứng kiến phép lạ làm họ thay đổi.
Điều này giúp chúng ta hiểu được điều gì xảy ra cho các Tông đồ. Khi nói rằng các Tông đồ bị tổn thương, người ta không có ý nói họ bị tổn thương ở mức độ như những người thiểu năng. Nhưng dù sao họ cũng bị tổn thương. Tuy nhiên sau khi Chúa Thánh Thần đến, họ là những con người đã thay đổi. Họ rời bỏ nơi họ trốn tránh và bắt đầu rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thay đổi chỉ thực hiện trong trong một lúc. Nó phải là một việc có cấp bậc và một quá trình phát triển. Sự phát triển có thể chậm chạp đau đớn. Chúng ta không dễ dàng gạt bỏ những tập quán và thái độ cũ.
Con người thay đổi khi có người mang lại cho họ niềm hy vọng; khi có người tin tưởng họ và cho họ một nhiệm vụ để hoàn thành. Nhất là, họ thay đổi khi họ được yêu thương. Họ bước ra khỏi vỏ ốc của mình và những năng lực giấu kín của họ được giải phóng từ bên trong họ. Phép lạ làm con người thay đổi là một phép lạ chân thật.
Mọi người chúng ta đều có khả năng làm điều tốt. Chúng ta có tay để có thể chăm sóc, có mắt để có thể nhìn, có tai để có thể nghe, có lưỡi để có thể nói, có chân để có thể đi và trên hết có một tấm lòng để có thể yêu thương.
Nhưng mỗi người chúng ta đều có một khuyết tật kềm hãm không cho chúng ta giải phóng bản thân chân thật và tràn đầy. Chúng ta cần có một ai đó đánh thức những gì ở bên trong chúng ta. Một ai đó kêu gọi chúng ra sống và giúp đỡ chúng ta trưởng thành.
Đối với chúng ta, những môn đệ của Đức Kitô, một ai đó chính là Chúa Thánh Thần. Quyền lực đã biến đổi các Tông đồ, quyền lực hiền hoà của Chúa Thánh Thần cũng có giá trị và hiệu lực đối với chúng ta. Thần Khí ấy đánh thức những năng lực trong chúng ta, kêu gọi chúng ta sống, giup đỡ chúng ta trưởng thành. Nhà thơ Pablo Neruda đã nói: “Tôi muốn làm cho bạn điều mà mùa xuân làm cho cây anh đào”. Đó là điều mà Thần Khí đang thực hiện.
65. Bình an cho các con – R. Veritas
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’)
Hôm nay chúng ta tưởng niệm và sống lại biến cố đã xảy ra cách đây hơn 2.000 năm. Nhân ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ, từ những con người nhát đảm, dốt nát, quê mùa, Thánh Thần đã biến đổi các ngài trở thành những con người can đảm và hiểu biết để loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người và Thánh Thần đó đã thành linh hồn của Giáo Hội.
Anh chị em thân mến!
Lịch sử của nhân loại hẳn phải là lịch sử của tìm kiếm và xây dựng sự thống nhất. Khát vọng thống nhất thể hiện qua sự phát sinh và bành trướng của không biết bao nhiêu đế quốc.
Thời xa xưa, chỉ có đế quốc Trung Hoa, đế quốc Babylon, đế quốc La Mã, đế quốc Pháp... Nhưng hợp rồi tan. Có thịnh vượng đến đâu, bành trướng đến đâu thì những đế quốc đó cũng đi đến sự sụp đổ vì họ đã cố gắng xây dựng sự thống nhất không phù hợp với lòng người. Bao lâu con người còn chối bỏ lẫn nhau, bao lâu con người còn khước từ Thiên Chúa thì bấy lâu những cố gắng thực hiện sự thống nhất ấy chỉ mang lại những thảm họa mà thôi.
Ngay từ những trang đầu tiên Kinh Thánh đã nói đến những thảm họa ấy qua câu chuyện xây tháp Babel sau nạn hồng thủy, con cái loài người muốn đoàn kết với nhau để chống lại Thiên Chúa bằng cách xây một ngọn tháp cao tận trời mây, thế nhưng công trình phải bỏ dở bởi vì con người không còn nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ chung nữa. Thống nhất, đoàn kết để khước từ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống thì con người cũng tự chia rẽ nhau, đó là chân lý mà Kinh Thánh muốn phơi bày qua câu chuyện xây tháp Babel.
Anh chị em thân mến!
Qua dòng lịch sử của nhân loại, đã có không biết bao nhiêu tháp Babel được dựng lên để rồi cũng tự ngã đổ. Nhân loại không thể tự mình đạt được sự thống nhất nếu sự thống nhất đó chỉ xây dựng để khước từ Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau. Chỉ có Thiên Chúa mới mang lại sự thống nhất đích thực cho con người.
Sự thống nhất đích thực ấy đã được khai sinh trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, khi Thánh Thần ngự xuống trên các môn đệ của Chúa Kitô, Một trong những dấu chỉ của sự thống nhất ấy là sự kiện con người có thể hiểu nhau vượt lên trên những cá biệt của mình. Các môn đệ của Chúa Giêsu có lẽ đã không nói các tiếng lạ. Đúng hơn, những người ngoại quốc tại Giêrusalem trong ngày hôm đó hiểu được các ngài ngay trong những tiếng nói bản xứ của họ.
Quả thực, Thánh Thần đang thực hiện một sự thống nhất mới cho nhân loại, hay nói đúng hơn một nhân loại mới trong đó người người có thể hiểu nhau, cảm thông với nhau đang được khai sinh, một nhân loại mới trong đó mọi người đã có thể hiểu nhau và cảm thông vơi nhau trong cùng một ngôn ngữ mà chính Thiên Chúa đã ban cho con người và ngôn ngữ mới ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người. Chính nhờ Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ngỏ với con người, đã trở thành con người.
Thánh Gioan tông đồ đã tóm gọn tất cả chân lý ấy trong một câu rất ngắn gọn: "Lời đã hóa thành nhục thể". Lời của Thiên Chúa đã ngỏ cho con người và như thế không còn là một âm thanh xa lạ nhưng đã trở thành xương, thành thịt trong con người và đã hy sinh cho nhân loại bằng một cái chết đau thương nhục nhã nhất. Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người do đó cũng là Tình Yêu. Từ nay chỉ có một thứ ngôn ngữ duy nhất để cho con người xích lại gần nhau, nói chung với nhau, cảm thông với nhau. Ngôn ngữ ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, là tình yêu của Thiên Chúa hóa thân làm người. Đó là ngôn ngữ mà Thánh Thần đã thông ban cho các môn đệ và đám đông dân chúng tại Giêrusalem trong ngày lễ Ngũ Tuần cách đây 2.000 năm. Nhờ Thánh Thần, Lời ấy lại tiếp tục trở thành ngôn ngữ tình yêu để nhờ đó con người có thể xích lại gần nhau, đối thoại với nhau, cảm thông với nhau.
Anh chị em thân mến!
Ngôn ngữ của tình yêu ấy qua Phép Rửa, Chúa Thánh Thần cũng thông ban cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Sự thể đã diễn ra trong ngày lễ Ngũ Tuần cách đây 2.000 năm, cũng đang tái diễn trong từng giây phút trên khắp thế giới. Thật thế, cái khát vọng cao cả nhất trong lòng người, đó là khát vọng hòa bình, ai ai cũng muốn được xích lại gần nhau, nói chuyện cảm thông với nhau và khát vọng ấy chỉ có thể được thỏa mãn khi con người biết nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ duy nhất, đó là ngôn ngữ của Tình Yêu mà thôi.
Bởi phép Chúa Thánh Thần, Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể. Ước gì các tín hữu Kitô cũng biết để cho Chúa Thánh Thần tràn ngập tâm hồn mình, để nhờ Lời của tình yêu Thiên Chúa cũng trở thành xương thịt nơi họ và cuộc sống của họ cũng trở thành ngôn ngữ của cảm thông, của yêu thương, của gặp gỡ và của hiệp nhất nên một vơí nhau trong tư tưởng và trong hành động.
66. Đón nhận – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Các bài đọc thánh lễ Chúa Thánh Than Hiện xuống xoay quanh hai chủ đề chính: Thứ nhất tường thuật biến cố lịch sử việc Chúa Thánh Thần Hiện xuống trên các tông đồ như lời Chúa Giêsu đã hứa biến đổi con người yếu đuối của các ngài thành những kẻ hiểu biết và phân phát mầu nhiệm Thiên Chúa. Và ý nghĩa thứ hai là ý nghĩa thiêng liêng đi liền với biến cố lịch sử, một biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Chúa Thánh Thần là linh hồn của đời sống Kitô hữu trong nhiệm thể duy nhất của Chúa Kitô.
Biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống vào ngày lễ Ngũ tuần của người Do thái, 50 ngày sau lễ Vượt qua. Người Do thái mừng lễ Giao ước, nhắc lai giao ước Thiên Chúa đã ký kết với dân Thiên Chúa đã chọn, và mỗi thành phần của dân Chúa chọn cam kết sống trung thành với giao ước này. Chúa Giêsu đến để thiết lập giao ước mới bằng chính Máu của Ngài trên thập giá, và qua việc chọn ngày lễ Ngũ tuần để thực hiện bien cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống trên các tông đồ, Chúa Giêsu muốn cho các ngài hiểu rằng, từ nay, Giáo Hội được khai sinh và cũng từ Giao ước mới này mỗi tín hữu được mời gọi sống đời sống mới, một cuộc sống làm chưng cho Chúa Kitô.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, mỗi người chúng ta được mời gọi dấn thân thực hành và nhớ lại Giao ước mới đã được Chúa Giêsu Kitô thực hiện cho mỗi người chúng ta. Chúa Thánh Thần hiện diện trong Giáo Hội, hướng dẫn Giáo Hội trải qua các thời đại vẫn phát triển, vẫn trung thành, mặc dù đôi khi còn những sa ngã, những sai lầm, những tội lỗi làm cho một số người xa lìa Giao ước mới.
Biến cố lịch sử Chúa Thánh Thần Hiện xuống trên các tông đồ không những chỉ có chiều kích thiêng liêng canh tân cá nhân mà thôi, nhưng còn mang chiều kích Giáo Hội nữa. Đó là liên kết mọi kẻ tin Chúa mà lãnh nhận Thánh Thần trong một cộng đoàn, mot thân thể, sống liên đới với nhau như bài đọc II nhắc lại cho chúng ta, nhưng đồng thời cũng là một cộng đoàn có tổ chức, có người lãnh đạo, chịu trách nhiệm thừa hành quyền lãnh nhận từ Chúa, như được nhấn mạnh nơi bài Phúc âm: Chúa Giêsu đến ban bình an, đổi mới các tông đồ rồi trao quyền cho họ: “Chúng con hãy nhận lãnh Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai thì tội người đó được tha, chúng con cầm tội ai thì tội người đó bị cầm buộc”.
Các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần và đồng thời chia sẻ quyền bính tha tội của Chúa, sống bên cạnh Chúa, thực hiện những phép lạ để chứng minh quyền tha tội của Ngài, nên khi nghe lời Chúa phán, các tông đồ hiểu rõ hơn ai hết những lời này có nghĩa gì? Các ngài được biến đổi để trở thành những kẻ tiếp tục sứ mạng của Chúa: “Hãy ra đi rao giảng cho mọi dân nước những gì Thầy đã truyền cho chúng con, dạy họ tuân giữ những gì Thầy truyền và rửa tội cho họ”.
Mỗi thành phần trong Giáo Hội đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, nhưng trong những cấp bậc khác nhau qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, Bí tích Truyền Chức thánh trở thành thừa tác viên thánh của Chúa. Mỗi người chúng ta đều đã được canh tân, được biến đổi để chu toàn những trách vụ khác nhau nhưng cùng một Thánh Thần.
Ước chi ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống mời gọi mỗi người chúng ta trở về với ơn gọi nguyên thủy của mình, trở về với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, canh tân đời sống cá nhân và chu toàn sứ mạng trong sự hiệp nhất và hiệp thông với Nhiệm thể Chúa Kitô. Xin Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hướng dẫn cuộc đời chúng ta, để giúp chúng ta thực hiện thánh ý Chúa một cách trọn vẹn và tốt đẹp hơn.
67. Bình an
Nhà sản xuất bộ phim có tựa đề là: “Tìm lửa” đã cố ý dựng nên một câu chuyện để ca tụng phát minh vĩ đại của con người cách đây 80.000 năm để nhân loại không bị họa diệt vong. Và theo nhà xuất bản bộ phim này, phát minh vĩ đại đó để con người khỏi họa diệt vong, đó là phát minh ra lửa. Từ đó, lửa đã chiếm một chỗ quan trọng trong đời sống con người, nhưng thử hỏi có ai trong chúng ta ý thức về một biến cố quan trọng khác, quan trọng nhất, vĩ đại nhất, đó là biến cố Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, không phải cách đây 80.000 nam mà ngay từ khởi đầu vũ trụ. Chúng ta không biết là bao nhiêu ngàn hay bao nhiêu triệu năm, nhưng vào ngay khởi đầu vũ trụ, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ này và tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Và từ đó Ngài đã luôn gìn giữ con người khỏi họa diệt vong, mặc cho con người trong dòng thời gian đã không ngừng phản bội lại tình yêu thương, không sống tình yêu thương như Chúa muốn mà đã phạm biết bao tội ác.
Nhìn vào thế kỷ XX mà chung ta đã kết thúc, chúng ta cũng đã nhận ra biết bao tội ác con người giết hại lẫn nhau và hiện tại trong giây phút này, khởi đầu của thế kỷ XXI chúng ta cũng biết được nhiều tin tức về những bạo lực, chiến tranh, chém giết, những hận thù vẫn còn xảy ra trên thế giới này. Nhưng Thiên Chúa, Ngài không bao giờ để cho con người bị họa diệt vong. Ngài đã thực hiện nhiều sáng kiến trong lịch sử và cách đây hơn 2000 năm, một sáng kiến vĩ đai khác Thiên Chúa đã thực hiện, đó là sáng kiến cho Con Một Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi con người, để mang đến cho con người ơn tha thứ tội lỗi và dẫn con người trở về nhà Cha.
Vào lúc kết thúc cuộc đời của Con Thiên Chúa trên trần gian, Thiên Chúa thực hiện một biến cố vĩ đại khác là trao ban Chúa Thánh Thần, sức sống mới từ Thiên Chúa cho con người.
Trong bài Phúc âm hôm nay chúng ta vừa đọc lại, tác giả thánh Gioan đã dùng một từ ngữ để diễn tả biến cố Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ, cho tất cả mọi đồ đệ của Ngài trong thời gian. Từ ngữ đó là “thổi hơi” và việc thổi hơi này nhắc lại một hành động mà Thiên Chúa đa thực hiện vào khởi đầu của lịch sử vũ trụ cũng như lịch sử của con người, đó là trong việc sáng tạo con người.
Thiên Chúa khi tạo dựng con người, Ngài đã thổi hơi sự sống vào con người đầu tiên là Ađam, cho con người đo được sống như hình ảnh của Thiên Chúa, và giờ đây Chúa Giêsu thổi hơi và ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Việc này nhắc lại cho mỗi người chúng ta một công cuộc tạo dựng mới, ban cho mỗi người chúng ta được trở nen tạo vật mới. Trong Chúa Thánh Thần, Ngài mời gọi chúng ta sống cuộc sống mới, đây là một phát minh vĩ đại khác để con người chúng ta, để nhân loại không phải bị họa diệt vong. Mỗi người chúng ta được mời gọi cộng tác vào công việc tái tạo này mỗi ngày, qua những hành động yêu thương như Chúa đã yêu thương và cho hình ảnh Thiên Chúa của tình thương được thực hiện nơi mỗi người chúng ta.
Chúa nhật 27.5.2001, khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng cùng với các tín hữu tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắc trước về biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống được mừng trong Chúa nhật hôm nay như sau: “Thầy sẽ sai xuống trên chúng con Đấng mà Cha Thầy đã hứa”. Chúa Giêsu nói đây về Chúa Thánh Thần và cả chúng ta nữa cũng như những môn đệ ngày xưa, chúng ta chuẩn bị sẵn sàng đón nhận hồng ân này trong ngày lễ Hiện xuống. Chỉ có sức tác động huyền nhiem của Chúa Thánh Thần mới có thể làm chúng ta trở thành những tạo vật mới, và chỉ có quyền năng mầu nhiệm của Ngài mới làm chúng ta có khả năng rao giảng những kỳ công của Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta đừng sợ, chúng ta đừng sống đóng kín nơi chính mình, nhưng tốt hơn chúng ta hãy sẵn sàng, hãy cộng tác với Chúa, ngõ hầu ơn cứu rỗi được Thiên Chúa cống hiến cho mỗi người chúng ta trong Chúa Kitô có thể hướng dẫn toàn thể nhân loại đen cùng Thiên Chúa Cha.
Chúng ta hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự xuống như các môn đệ xưa trong nhà Tiệc ly cùng với Mẹ Maria. Và hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, chúng ta hãy hiệp với Mẹ Maria và xin Mẹ Maria hiện diện với chúng ta, cầu nguyện với chúng ta. Xin Chúa ban cho chúng ta được tràn đầy Chúa Thánh Thần, cho mỗi người chúng ta trở thành một tạo vật mới. Qua đó chúng ta biết cộng tác với Chúa để tái tạo vũ trụ này, tái tạo cuộc sống con người, cho chúng ta được trở thành những môn đệ xứng đáng của Chúa.
Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng ta được trở nên những chứng nhân can đảm cho Con Mẹ trên trần gian này, và xin Mẹ làm cho tất cả mọi tín hữu trên trần gian một khi đã chia sẻ sự sống mới, thông hiệp vào ơn ban Chúa Thánh Thần, được trở nên một gia đình hiệp nhất trong tình yêu thương và hòa bình.
Đó là những lời Đức Thánh Cha nhắn nhủ cho tất cả mọi người tín hữu trên thế giới sống ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Chúa nhật hôm nay chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong đời sống mỗi người chúng ta, để làm cho chúng ta được trở thành tạo vật mới, thực hiện tình yêu thương, làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được sáng chiếu trong chính chúng ta và trong đời sống của anh chị em. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
68. Lãng quên
Sách thánh kể rằng: khi thánh Phaolô đặt chân tới kinh thành Nhã Điển, thủ đô nước Hy Lạp, ngài đã rảo qua một vòng phố xá, ngài nhận thấy dân Nhã Điển thật sùng mộ các thần minh. Đường phố nào cũng có những bàn thờ, những chùa miếu. Nhưng ngài để ý thấy một bàn thờ, trên đó khắc ghi hàng chữ “Kính thần vô danh”. Và ngài bắt đầu bài giảng về Đức Kitô như thế này: “Vị thần vô danh mà quí vị thờ kính nhưng lại không biết đến, thì giờ đây tôi xin loan báo để quí vị được rõ: vị thần vô danh ấy chính là Đức Kitô”. Điều thánh Phaolô nói về Đức Kitô với người Nhã Điển, thì bây giờ chúng ta cũng có thể nói như vậy về Chúa Thánh Thần.
Phải, là người Kitô hữu, chúng ta biết rất nhiều về Chúa Cha cũng như về Chúa Con. Thế nhưng nếu có ai hỏi chúng ta về Chúa Thánh Thần, về những việc Ngài đã làm cũng như về vai trò của Ngài trong cuộc sống, thì rất có thể chúng ta sẽ trả lời không hơn gì những tín hữu Ephêsô thuở trước. Thực vậy, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Các ngươi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần chưa?”. Và họ đã trả lời: “Chúng tôi chưa hề hay biết có một Chúa Thánh Thần”. Phải, Chúa Thánh Thần chính là vị Thiên Chúa vô danh, vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều nhất trong cuộc sống. Vậy Ngài là ai? Ngài có phải là vị Thiên Chúa chúng ta tôn thờ hay không?
Sách giáo lý đã cho biết: Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Thứ Ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cùng một bản tính, một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy. Làm sao chúng ta biết được Thiên Chúa có ba ngôi và ngôi thứ ba lại là Chúa Thánh Thần? Sở dĩ chúng ta biết được là vì Chúa Giêsu đã tỏ lộ, đã dạy bảo.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan, thì Tin Mừng đã ghi nhận: bấy giờ trời mở ra, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ cau mà ngự xuống, rồi từ trời có tiếng phán: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu cũng đã truyền cho các môn đệ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì ba ngôi Thiên Chúa sẽ không hoàn toàn và niềm tin của chúng ta sẽ bị thiếu sót. Thực vậy, Chúa Giêsu đã thực hiện chương trình cứu độ, nhưng Chúa Thánh Thần mới la Đấng áp dụng công phúc cứu độ ấy cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ: “Thầy sẽ xin với Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ mới. Ngài là chính chân lý sẽ luôn ở với các con. Các con hãy ở trong thành cho đến khi được mặc lấy sức mạnh từ trời cao”. Tất cả những điều này đã được thực hiện trong ngày hôm nay, ngày lễ Hiện xuống, ngày các môn đệ được đầy tràn Chúa Thánh Thần.
Các tín hữu sơ khai cũng đã xác tín Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Thực vậy, thánh Phaolô đã nhắn nhủ: “Tất cả những ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn sẽ là con Thiên Chúa. Ngài đã ban Thánh Thần xuống trong tâm hồn chúng ta.
Thánh Luca trong sách Công vụ Tông đồ kể lại câu chuyện hai vợ chồng Anania và Saphira bán ruộng, đã đồng tình xén bớt một phần tiền rồi mới đem nộp cho thánh Phêrô. Và thánh Phêrô đã nói với họ: “Hỡi Anania sao ma quỉ đã cám dỗ lòng ngươi dối trá Chúa Thánh Thần mà giữ lại một phần tiền. Làm như thế, ngươi không chỉ lừa gạt người ta mà còn lừa gạt cả Thiên Chúa nữa”. Còn thánh Gioan thì xác quyết: “Trên trời có Ba Đấng lam chứng, đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Bấy nhiêu mà thôi cũng đã đủ để chúng ta xác tín và tuyên xưng: “Chúa Thánh Thần chính là Thiên Chúa Ngôi thứ Ba, Đấng chúng ta phải tôn thờ.
Trong mạch sống Giáo Hội, tác động của Chúa Thánh Thần thật vô cùng quan trọng cho Giáo hội cũng như cho mỗi người chúng ta. Không những cần cho các thừa tác viên của Giáo hội để chu toàn phận sự mà còn cần cho mọi người để sống đức tin và bác ái. Mọi cố gắng của Giáo hội và của mỗi người đều cần có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nếu không sẽ trở nên lố bịch và vô vọng, như Đức Thượng phụ Athênagôrat, Giáo chủ Contantinốp đã nói: “Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”.
Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng như vậy, thế mà chúng ta thật vô tâm, vô ý thức đến thơ ơ cũng như không biết có Chúa Thánh Thần ở trong lòng mình ngày đêm. Thử hỏi nếu ai có 10 lượng vàng trong túi, có lẽ nào họ thờ ơ đến nỗi để mất số vàng đó khi nào mà họ không hay biết không? Trái lại, phải chăng bất kỳ đi đâu hay làm gì họ cũng sờ tay vô túi coi vàng còn hay không? Và nếu mất rồi, tâm hồn họ bãi hoải, tâm trí rối loạn, buồn phiền, chán nản biết bao! Vậy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn không co giá trị bằng 10 lượng vàng sao? Thế mà ngày này qua ngày khác chúng ta hầu như chẳng để ý đến một lần. Ý thức sự vô tâm và thiếu sót đó, cũng như hiểu biết được sự quan trọng và cần thiết của Chúa Thánh Thần trong đời sống, từ nay chúng ta hãy năng nhớ đến Chúa Thánh Thần hơn, bằng cách cầu xin Ngài hằng ngày, xin Ngài soi sáng, hướng dẫn và trợ giúp để chúng ta luôn sống tốt đẹp và làm mọi việc đúng thánh ý Chúa.
Lạy Chúa, giờ đây một lần nữa con muốn tuyên xưng tự đáy lòng con: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
69. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu, và xin nhóm lữa tình yêu Chúa trong lòng ho.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, nhưng thật ra, chẳng có nơi nào trong Kinh thánh diển tả rõ ràng hình dáng Chúa Thánh Thần ra sao. Sách Tông đồ công vụ thì nói đến "tiếng gió thổi mạnh" "những lưỡi như thể bằng lửa" "các tông đồ nói nhiều tiếng khác nhau". Bài Phúc âm thì tả, Chúa hiện ra và phán: "bình an cho các con" và "Người thổi hơi" trên các tông đồ. Qua Kinh Thánh, có nhiều biểu tượng về Chúa Thánh Thần như: gió - lửa - chim bồ câu - các ơn lành khác nhau ban xuống trên các tông đồ. Vậy mà sự hiện diện của Chúa Thánh Thần rất quan trọng và cần thiết cho Hội thánh. Một vị mục sư Tin lành rất nổi tiếng, khi trở lại Công Giáo đã nói một câu chí lý: "Hội Thánh Công Giáo dù có nhiều khuyết điểm, thiếu sót, nhưng tôi nhận ra qua đó có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh.." Mừng kính Chúa Thanh Thần hôm nay, kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Một vài danh từ chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa:
* thổi hơi: đây là một cử chỉ chúc phúc. Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ, là để chúc phúc cho họ, cũng để trao ban Thánh Thần và ơn sủng Người cho các ông.
* hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20, 22): tiếng Hêbrơ dịch là: Ruah; Hi lạp dịch là: Pneuma; la tinh thì dịch là: spiritus: có nghĩa gió, hơi thở - khi dùng từ gió và hơi thở để chỉ về Chua Thánh Thần, điều đó muốn nói: Chúa Thánh Thần là Đấng có năng lực kỳ diệu như gió, như hơi thở, Đấng trao ban sự sống. Dù Ngài thật thần thiêng, nhưng lại hoạt động mãnh liệt trong nội tâm mọi người cùng với chính Thiên Chúa.
b/. Chúa Thánh Thần là ai? Tại sao người giáo dân ít biết về Chúa Thánh Thần?
* Chúa Thánh Thần là ánh sáng, là ơn khôn ngoan: Chúa Thánh Thần được Kinh thánh gọi là Lời của Thiên Chúa, thì đây, nhờ sự khôn ngoan, nhờ ánh sáng của Thánh Thần, các môn đệ mới hiểu rõ được những lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
* Chúa Thánh Thần là sức mạnh, là ơn can đảm: các môn đệ của Chúa Kitô sau ngày lễ Ngũ tuần đã trở nên can đảm phi thường. Chính Thánh Thần thúc đẩy họ mở bung cửa phòng Tiệc ly, trước đó đóng kín bưng vì sợ người Do thái. Cũng chính Thánh Thần thúc đẩy họ chổi dậy và lên đường đem Tin Mừng sự sống đến cho mọi loài. Gương anh hùng của các Thánh Tử đạo Việt Nam , gương can đảm của các nhà truyền giáo, đã là những tấm gương sáng chói cho chúng ta về ơn sủng và tác động của Thánh Thần.
* Chúa Thánh Thần là Đấng hòa giải của con người: Con người vốn mỏng dòn yếu đuối, nhờ Chúa Thánh Thần, họ biết được đường ngay nẻo chính, biết tự chọn cho mình lối đi, biết sống đúng ơn gọi mà Thiên Chúa mời đến. Nhờ ơn sủng của Thánh Thần, họ can đảm lãnh nhận sứ mạng hòa giải con người với Thiên Chúa theo như lời mời gọi của Đức Kitô: "Anh em hãy đi dạy dỗ muôn. Anh em tha tội ai, thì tội người ấy được tha." Bản chất của Thánh Thần chính là hòa giải và hiệp thông, nên khi được Chúa Con sai đến với Hội thánh, Thánh Thần sẽ hoạt động mạnh mẽ trong Hội thánh, trong mọi tâm hồn tín hữu. Chính Thánh Thần đã ban cho các tông đồ và các người kế vị, sức mạnh, khôn ngoan, can đảm, để các ông tiếp tục công việc của Đức Kitô, là lên đường đem Tin mừng hòa giải và hiệp thông cho mọi người trên khắp thế giới...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua 20 thế kỷ, Hội Thánh vẫn còn tồn tại, dù bao nhiêu sóng gió, bao nhiêu cuộc bắt bớ muốn tiêu diet Hội thánh khỏi mặt đất này. Đó chính là bằng chứng Hội thánh Chúa Kitô luôn có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần; ta có tin không? Khi ta tin vào Chúa Thánh Thần, ta có muốn năng chạy tới, cầu nguyện với Người cho ta và cho Hội thánh không?
70. Tác động của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần làm gì cho chúng ta? Đó là vấn đề chúng ta cùng nhau tìm hiểu và chia sẻ trong một vài phút ngắn ngủi này.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy các môn đệ, mặc dù đã bước theo Chúa, mặc dù đã được lắng nghe những lời khôn ngoan Chúa day, mặc dù đã được nhìn thấy những việc lạ lùng Chúa làm, thế nhưng các ông cũng chẳng lĩnh hội được bao nhiêu và đức tin cũng chưa bén thể rễ sâu trong cõi lòng các ông.
Sở dĩ như vậy vì đầu óc các ông còn u mê dốt nát và mang nặng tinh thần thế gian.
Thực vậy, cũng như phần đông những người Do Thái khác, các ông đang trông chờ, mong đợi một đấng cứu thế trong lãnh vực chính trị và xã hội.
Đấng ấy phải hùng mạnh như Đavít với kỵ binh và cbiến mã rợp trời. Đấng ấy phải khôn ngoan như Salômon, khiến cho muôn dân nước phải nể phục. Đấng ấy sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc La Mã, dẫn đưa dân tộc họ bước vào một thời đại hoàng kim.
Và lúc bấy giờ các ông sẽ được làm lớn và giữ những chức vụ quan trọng trong vương quốc của Ngài, cùng với một cuộc sống nhiều đặc ân và bổng lộc, giàu sang và quyền thế, theo kiểu “vinh thân phì gia”.
Chính vì thế, các ông thường tranh cãi xem ai là người cao trọng nhất, đồng thời các ông không thể nào chấp nhận được những khổ đau và cái chết tủi nhục trên thập giá mà Chúa Giêsu đã tiên báo.
Thế nhưng, sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông đã đổi đời, đã thoát xác, đã trở nên những con người mới, am hiều và thông suốt về giáo lý của Chúa Giêsu, nhất là về màu nhiệm thập giá, để rồi hôm nay, ngày lễ Ngũ tuần, Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã lên tiếng rao giảng về chính những điều trước đây ông đã không hiểu cũng như không muốn hiểu.
Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn làm gì nữa?
Nhìn vào các tông đồ, chúng ta thấy các ông không phải chỉ là những kẻ u mê và dốt nát, mà còn là nhưng kẻ hèn nhát và sợ sệt. Phúc âm đã ghi lại như sau:
Khi thấy sóng gió nổi lên, các ông đã hoảng sợ đến cuống cuồng, khiến Chúa Giêsu phải lên tiếng trách:
- Hời những kẻ hèn tin, tạo sao các con sợ hãi.
Sự sợ hãi này còn được biểu lộ một cách rõ rệt hơn nữa trong cuộc thương khó. Giuđa đã bán Chúa với giá ba mươi đồng bạc, giá bán một tên nô lệ, và chỉ bằng một phần mười giá bán một chai thuốc thơm, Mađalêna đã dùng để xức vào chân Chúa Giêsu. Phêrô đã chối Chúa ba lần trong sân nhà thầy cả thượng phẩm chỉ vì một câu hỏi vu vơ. Còn các môn đệ khác đều đã bỏ Chúa mà chạy trốn, ngoại trừ Gioan là đã theo Chua đến cùng và đã có mặt dưới chân cây thập giá. Ngay cả sau khi Chúa đã sống lại, các ông tụ họp với nhau trong phòng, mà cửa thì đóng kín vì sợ người Do Thái.
Thế nhưng, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các ông đã hoàn toàn đổi mới: từ những kẻ hèn nhất và sợ sệt, các ông đã trờ nên những con người can đảm và hăng say rao giảng Tin mừng.
Hơn thế nữa, các ông còn sẵn sàng chấp nhận cái chết, cũng như đổ ra cho đến giọt máu cuoi cùng để làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô.
Thực vậy, trong số mười hai tông đồ, thì đã có tới mười một ông hy sinh mạng sống cho Tin mừng, chỉ trừ một mình Gioan là đã chết già tại cộng đoàn Êphêsô mà thôi.
Còn chúng ta thì sao?
Rất có thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ mê muội và dốt nát, chẳng hiểu biết được bao nhiều về giáo lý của Chúa.
Rất có thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ hèn nhát và sợ sệt, chúng ta sẵn sàng bán Chúa và chối bỏ Ngài bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào và bất cứ vì lý do gì.
Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong tâm hồn, để biến đổi chúng ta trở thành những con người mới luôn hiểu và sống Tin mừng, cũng như luôn hăng say phục vụ Chúa nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau.
71. Đổi mới.
Cách đây 50 ngày, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu Phục sinh và Chúa nhật trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống và cũng là lễ kết thúc mùa Phục sinh.
Chính hôm nay Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh thực hiện lời hứa và ban Thánh Thần cho chúng ta. Viec Thánh Thần đến vào ngày lễ Ngũ tuần là dấu chỉ Đức Kitô được tôn vinh, Ngài được ngồi bên hữu Chúa Cha, được đặt làm “Chúa”. Chúa Thánh Thần đã được hứa ban, Người tới, Người hiện diện đó và Người hoạt động để thực hiện một cuộc đổi mới, tạo dựng một nhân loại mới. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng khám phá lại hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi các tông đồ, về sự hiện diện và hoạt động của Ngài nơi mỗi người chúng ta đe rồi chúng ta biết sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Thời Cựu ước ngôn sứ Edêkien đã tiên báo là Thần khí sẽ đến và ban cho con người một tâm hồn mới, một trái tim mới.
Thật vậy, trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu cũng đã nhắc lại lời hứa đó và báo trước là Chúa Thánh Thần sẽ đến trong lòng các tín hữu để soi sáng họ, nhắc nhở họ những lời của Thiên Chúa, và thanh tẩy họ bằng cách tha thứ các tội lỗi.
Bài trích sách Công vụ Tông đồ thuật lại. Vào ngày lễ Ngũ tuần đang khi các tông đồ họp nhau cầu nguyện thì Thánh Thần đến như một cơn gió, bất ngờ và không thể cưỡng lại. Thánh Thần phủ trên cả nhóm tông đồ đang tụ họp nhưng cũng được ban phát cho từng người dưới hình lưỡi lửa.
Thánh Thần đã thực hiện một cuộc biến đổi ngoạn mục nơi các tông đồ: từ những người nhút nhát, sợ sệt, chậm hiểu họ đã được biến đổi thành những người can đảm, xác tín và dấn thân vào công cuộc rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Vào chiều ngày Phục sinh Đức Giêsu đã hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Hình ảnh “thổi hơi” gợi lại tác động của Giavê Thiên Chúa, lúc tạo dựng đã thổi hơi trên Ađam để ban sự sống. Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa. Vì Thánh Thần là Thần khí, là hơi thở của Thiên Chúa.
Sự sống mới mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các tông đồ cũng là sự sống bởi Thánh Thần. Nhưng đây là Thánh Thần của Đấng Phục sinh, Thánh Thần của Đấng đã chiến thắng tử thần, và vì thế, sự sống đó chính là sự sống đời đời. Chính Thánh Thần của Đức Giêsu Phục sinh đang thực hiện một cuộc tạo dựng mới, tạo dựng một nhân loại mới.
Sau khi đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết, nhân loại mới này đã đón nhận được sự sống mới, sự sống đời đời.
Sự sống mới này, ngày nay cũng được tiếp tục trao ban cho các Kitô hữu là những người tin vào Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần là hơi thở của Chúa Giêsu Phục sinh, hơi thở ấy Chúa Giêsu Phục sinh chuyển thông cho Giáo hội để Giáo hội sống chính đời sống của Người, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Qua Bí tích Rửa tội các Kitô hữu nhận lãnh Chúa Thánh Thần, được tái sinh trong đời sống mới.
Chúa Thánh Thần tẩy rửa mỗi tâm hồn khỏi tội lỗi và làm cho trở nên chi thể của Chúa Kitô và là con cái của Chúa Cha, thánh Gioan nhấn mạnh tới vai trò của Chúa Thánh Thần trong mỗi tâm hồn. Sau khi ban Thánh Thần rồi Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con tha tội cho ai, tội người ấy được tha”. Ơn tha tội phát xuất từ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần mà Giáo hội thông ban qua Bí tích Rửa tội và Hòa giải. Chính qua hai bí tích ấy mà mỗi người được giao hòa với Thiên Chua được trở thành một tạo vật mới để sống một đời sống mới.
Chúng ta còn có thể thấy rõ tác động của Chúa Thánh Thần nơi các Kitô hữu là sự hiệp nhất. Ngày xưa, tại tháp Babel tội lỗi chia rẽ loài người làm cho mỗi người nói một thứ tiếng. Nay Chúa Thánh Thần thiết lập lại sự hiệp nhất, Thánh Thần mà các Kitô hữu lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội là Thánh Thần đem lại bình an: bình an của ơn tha thứ và hòa giải. Thật vậy, hiệu quả đau tiên của Chúa Thánh Thần chính là làm cho mọi người tuy khác biệt về màu da chủng tộc, ngôn ngữ mà vẫn có thể hiểu nhau và hiệp nhất thành một cộng đoàn.
Lễ Hiện xuống mà chúng ta cử hành hàng năm không phải là một kỷ niệm trống rỗng: đây là một ngày lễ đổi mới chúng ta trong quyền năng và hoạt động của Thánh Thần, nếu chúng ta đón nhận Ngài. Những gì Chúa Thánh Thần đã làm nơi các tông đồ xưa kia, bây giờ Ngài cũng thực hien nơi chúng ta.
Hôm nay khi tưởng niệm lại việc Đức Kitô Phục sinh đã ban Thánh Thần cho các tông đồ, chúng ta hãy ý thức là chúng ta cũng đã được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần nhờ Bí tích Thanh tẩy và Thêm sức. Nhờ ơn Thánh Thần, chúng ta chẳng những có sự sống tự nhiên, mà nhất là sự sống siêu nhiên tức là địa vị làm con cái Thiên Chúa như Đức Kitô vậy. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Cũng như lý trí soi dẫn cuộc đời bình thường của con người thế nào, thì chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần, là khôn ngoan, là sức mạnh và là tình yêu của Thiên Chúa soi sáng, sưởi ấm và củng cố tâm hồn chúng ta.
Rồi trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cố gắng sống cho đẹp lòng Chúa Thánh Thần. Và vì Chúa Thánh Thần là Thần chân lý, là Thần tình yêu, nên sự cố chấp, sự gian dối, sự chia rẽ là những điều trực tiếp phản nghịch với Chúa Thánh Thần. Trái lại, nếu chúng ta cố gắng sống khiêm nhường, chân thành và bác ái thì Chúa Thánh Thần sẽ không ngừng ở với ta. Người sẽ soi sáng chúng ta, dẫn dắt chúng ta dần dần tiến sâu vào vương quốc của Thiên Chúa, la vương quốc của tình thương và bình an, bởi vì hoa trái của Chúa Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an. Nói cách khác, Nước Thiên Chúa là đời sống trong Chúa Thánh Thần với những hậu quả cụ thể là sự công chính, bình an và hoan lạc trong mỗi tâm hồn tín hữu cũng như trong các tương quan với nhau.
Một trong những dấu hiệu cụ thể và rõ ràng nhất về sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần là tinh thần bác ái và phục vụ cộng đoàn. Trong bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã ví Giáo hội như là thân mình của Đức Kitô trong đó các chi thể yêu mến nhau và phục vụ lẫn nhau. Nếu chúng ta cố gắng thể hiện ra trong đời sống tinh thần yêu thương, tinh thần phục vu, thì chúng ta có thể tin chắc là chúng ta đang để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Đó là dấu hiệu chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
72. Mùa xuân của Thánh Thần.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Quang cảnh thánh Gioan thuật lại ở đây, tóm tắt và thực hiện lời nói của Đức Giêsu trong diễn văn giã từ của Ngài trước lúc ra đi chịu chết. Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ ra đi, nhưng thực tại thần linh mà Ngài đã thiết lập và chính là Ngài vẫn lưu lại nơi các môn đệ. Cử chỉ hà hơi trên các môn đệ để biểu hiện ơn Chúa Thánh Thần, khơi dậy nơi họ một đời sống mới và trao ban cho họ một sứ mạng.
Theo não trạng Do Thái, sống, chính là lãnh nhận tư Thiên Chúa, một phần “hơi thở sự sống”. Người ta đi đến chỗ cắt nghĩa gió và hơi thở như một thực tại làm cho sống, ít nhiều siêu vật chất, phát xuất từ Thiên Chúa. Sách Sáng thế ký nói: “Bấy giờ, Thiên Chúa nặn hình con người từ bụi đất và hà hơi sống vào mũi nó, và người trở nên vật sống động” (Stk 2,7). Chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã sử dụng yếu tố não trạng này của các môn đệ và hà hơi trên họ để nói lên ý nghĩa một đời sống mới và một sứ mạng mới khởi sự nơi họ.
Làm sao giải thích ơn huệ Chúa Thánh Thần chiều ngày Phục Sinh và làm sao hiểu được sứ mạng Đức Giêsu giao phó cho các môn đệ?
1) Ơn huệ Chúa Thánh Thần khai mào một đời sống mới. Đây là một sự bắt đầu. Người ta có thể tự hỏi tại sao Đức Giêsu lại ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ trước biến cố Hiện xuống. Lễ Hiện xuống vẫn giữ tất cả ý nghĩa của nó như là việc biểu lộ chính thức sư khai sinh của Giáo Hội. Nhưng sự khai sinh này không phải là một cuộc nổi lên đột ngột, và chung cuộc. Trái lại nó liên tục: bắt đầu bằng việc sinh ra, nó lớn lên và không ngừng tăng trưởng mãi cho đến tận cùng lịch sử nhân loại, ví tựa như một loài có sự sống đang phát triển không ngừng. Chúa Thánh Thần đã bắt đầu sinh hạ trong nhân tính với chính Đức Kitô. Đoạn qua các các giai đoạn kế tiếp nhau, linh hồn của Giáo Hội tức là Chúa Thánh Thần, đã dần dần biểu lộ sự hiện diện sống động của mình. Mầu nhiệm hoạt động của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn các môn đệ, luôn kính trọng các định luật phát triển của sự sống: đi từ nhựa sống, ngang qua các mam, bông hoa rồi tiến đến trái trăng. Ơn huệ Chúa Thánh Thần được trao ban cho các môn đệ đang tụ họp, là một lúc trong mùa xuân của Giáo Hội. Chúng ta lưu tâm đến mùa xuân của Chúa Thánh Thần trong chúng ta hay là tác động chín mùi của Chúa Thánh Thần?
2) Trong đoạn trích dẫn của thánh Gioan, sứ mạng trao ban cho các môn đệ là quyền tha tội. Tư tưởng truyền thống của Giáo Hội nhận ra trong các lời nói của Đức Giêsu cái nền tảng của bí tích Giải tội. Nhưng còn phải hiểu rõ thế nào là “tội”. Đó là những kháng cự với ý muốn của Thiên Chúa và các lỗi lầm đi kèm theo. Nhưng trong nhãn giới của thánh Gioan tội nặng nhất là từ-chối-có-hiểu-biết tin vào Đưc Giêsu, Con Thiên Chúa. một trong những khía cạnh của sứ mạng các môn đệ trước nhất là loan báo Lời Chúa. Lời đem lại cho con người niềm tin nơi Đức Giêsu, và tiếp theo là việc xét xử. Các môn đệ là các quan án; và tuỳ theo đức tin này được chấp nhận hay từ chối, họ phán quyết người nào đang ở trong tình bạn với Thiên Chúa hay xa cách Thiên Chúa; họ có quyền xét xử người nào là đáng lãnh nhận ơn tha thứ và tình bạn của Thiên Chúa, mà họ là các thừa tác viên, dựa trên việc các người này có chấp nhận hay không niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Cứu thế, (niềm tin mà trước nhất họ đã đề ra).
73. Suy niệm của ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, có thể nói đây là ngày khai nguyên Giáo Hội, ngày mà cộng đồng các tín hữu đầu tiên được thành lập và ra mắt thế giới. Trong bài này, tôi sẽ nói về vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu Chúa Ki-tô.
Trong đời sống cộng đồng các tín hữu, Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng và cần thiết, tương tự như vai trò của linh hồn đối với các phần mình trong thân xác con người. Thân xác chúng ta có nhiều bộ phận, nhiều thành phần khác nhau: có đầu, mình, chân tay, mắt mũi, miệng. Các thành phần đó hòa hợp, thông cảm với nhau là nhờ có linh hồn bên trong. Khi linh hồn ra khỏi xác thì các phần thân xác tuy vẫn còn, nhưng không thông cảm với nhau nữa. Khi còn linh hồn bên trong nếu chân ta giẵm phải cái gai thì cả thân thể đều thông cảm và hiệp lực để giúp đỡ: mắt nhìn xem gai ở đâu, mình cúi xuống, tay rút gai ra, rửa vết thương và rịt lại cho cầm màu. Khi linh hồn lìa xác nếu ta có chặt cái chân đi thì cái tay cũng bất động và thân thể cũng không cảm thấy đau. Thế rồi, trong ít lâu, các tế bào tan rữa, thit xương trở nên tro bụi, tại sao thế? – Tại vì thiếu hồn sống bên trong, có hồn sống bên trong thì các phần thân thể mới hợp nhất và thông cảm với nhau. Không có hồn sống thì các phần thân thể sẽ bị phân hủy và tách lìa nhau. Vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đong các tín hữu cũng tương tự như vậy. Nghĩa là Chúa Thánh Thần là linh hồn sống bên trong làm cho các tín hữu thông cảm và hợp nhất với nhau thành Thân thể Mầu nhiệm của Chúa Ki-tô.
Theo sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại thì ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống, có rất đông người thuộc nhiều dân tộc khác nhau, nhưng đều hiểu tiếng nói của Các Tông đồ như tiếng mẹ đẻ của mình. Thánh Phê-rô thay mặt các Tông đồ giảng về Đức Giesu chính là Đấng Cứu thế đã chết và sống lại. Khi ấy họ hết sức cảm động, hỏi ông Phê-rô rằng: “Chúng tôi phải làm gì?” – Ông Phê-rô đáp: “Anh chị em hãy thồng hối và chịu phép Rửa tội nhân danh Chúa Ki-tô cho được khỏi tội sau đó anh chị em sẽ được lĩnh ơn Chúa Thánh Thần…”. Những người tin lời ông Phê-rô đã xin chịu phép Rửa tội, ngày đó có độ 3000 người xin theo Đạo. Các người này chăm chỉ nghe các Tông đồ giảng dạy, siêng năng cung nhau dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện. Các tín hữu sống hiệp nhất và để mọi của cải làm của chung. Họ bán ruộng đất, gia sản lấy tiền phân chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu (Tđcv 2,37-44).
Đấy, vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cần thiết và quan trọng như vậy. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì chúng ta không thể hiểu nhau, không thể tin nhau và không thể đoàn kết với nhau thực sự và lâu bền được, tại sao thế? – Tai vì mỗi người đều mang trong mình tính ích kỷ và lòng tự ái. Tính ích kỷ là chứng bệnh di truyền, nằm trong mình con người từ lúc sinh ra và nó còn lớn lên với tuổi đời. Một em bé con chưa làm ích gì cho ai đã biết ích kỷ roi: khi cha mẹ chia quà cho các con, đứa nào cũng tranh phần hơn, khi cha mẹ chia công việc, đứa nào cũng muốn chọn việc nhẹ, đấy là ích kỷ. Lòng tự ái cũng là con sâu mọt đục khoét sự hợp nhất. Kinh nghiệm cho thấy có những người rất nhiệt tình trước công việc chung, nhưng chỉ nhiệt tình khi nào ý kiến của họ được nghe theo, bản thân họ cũng được đề cao, còn khi người khác phê bình hay bác bỏ ý kiến của họ thì họ bất mãn, phá ngang và bo dở công việc, tại đâu? – Thưa: Tại lòng tự ái. Ích kỷ là chứng bệnh di truyền, tự ái là con mọt phá hoại sự cảm thông và tình đoàn kết. Cũng một câu nói, một từ ngữ mà người hiểu thế này, người hiểu thế khác, như vậy thì đoàn kết thế nào được? Sống chung với nhau mà hiểu lầm nhau, chia rẽ nhau, thật là bất lợi và nguy hiểm. Không nói gì những đoàn thể lớn như quốc gia quốc tế, ngay một đoàn thể nhỏ như gia đình, vợ chồng mỗi ngươi một ý kiến, mỗi người một tính tình, đời sống chung rất khó chiu, nói ra thì cãi nhau, không nói thì nặng nề, ai cũng thấy khổ nhưng không làm cách nào giải quyết. Nhưng nếu có Chúa Thánh Thần thì người ta sẽ tránh được bao nhiêu chuyện phức tạp gây chia rẽ và người ta sẽ cảm thông đoàn kết với nhau một cách dễ dàng.
Sau đây, ta rút ra mấy bài học thực hành:
1) Ta hãy năng cầu xin Chúa Thánh Thần đem lửa tình thương từ trời xuống, làm bùng cháy lên trong nhân loại, để phá tan những căm thù chia rẽ đang làm xáo trộn khắp nơi trên thế giới.
2) Khi có sự bất bình chia rẽ xẩy ra trong gia đình ta hoặc trong mối quan hệ giữa ta với người khác, ta đừng kêu ca phàn nàn, cũng đừng đổ lỗi cho ai, như vậy chẳng giải quyết được gì, mà càng đào sâu hố ngăn cách. Tốt hơn hết là ta hãy ngửa mặt cầu xin Chúa Thánh Thần, là Thần Hợp Nhất, ngự xuống trong tâm hồn mỗi người để phá tan sự hiểu lầm, hàn gắn mọi chia rẽ đang đe dọa đời sống cộng đồng của chúng ta.
Như vậy sẽ kết quả hơn bất cứ một giải pháp nào. Bởi vì nếu Chúa không xây nhà thì thợ xây cũng vô ích, nếu Chúa không canh thành thì lính canh cũng luống công. Kinh Thánh dạy như vậy.
Để kết luận, tôi kể lại đây câu chuyện biến ngôn của một nhà văn Thụy Điển đại ý như sau: Một hôm, vào một buổi sáng mùa hè, trời quang mây tạnh, các sinh vật, thực vật trong một khu rừng tranh luận với nhau về ý nghĩa đời sống. Một con họa mi mở đầu, lên tiếng nói: Đối với tôi, cuộc sống chỉ là ca hát, có thế thôi. Nói rồi nó ngẩng cao cổ, tung lên bầu trời một giọng hát trong trẻo tuyet diệu.
Nghe thế, con chuột chũi liền lẩm bẩm: Cuộc sống không phải là ca hát, không, hoàn toàn không, nhưng cuộc sống là liên tục đấu tranh trong hầm tối.
Một chị bướm ngắt lời: Như vậy thì thật vô lý. Nhưng cuộc sống phải là thỏa thích vui chơi bay lượn.
Đến lượt con ong lên tiếng: Chị bướm ơi, chị lầm rồi. Đời sống không phải là vui chơi bay lượn, nhưng là chăm chỉ làm việc.
Một chú kiến vênh râu, tỏ ý tán thành quan điểm của con ong.
Bong một con phượng hoàng từ trời nói vọng xuống: Tất cả các chú không ai nói đúng cả. Theo ý tôi thì cuộc sống có ý nghĩa nhất là tự do bay bổng trên mây xanh.
Tới đây, các cây trong rừng cũng nhao nhao lên lên tiếng tham gia vào cuộc tranh luận: Một cây thông cao vút, cành lá reo vui trong gió, dưới ánh bình minh , lên tiếng khen ý kiến của con phượng hoàng là đúng: Đời sống là vươn mình lên không trung, coi thường những cái nhỏ nhen sà sa mặt đất. Cây bìm leo liền phản đối và đồng tình với chị kiến, chú ong: Đời sống là cần lao phấn đấu.
Cây hồng thắm và cây huệ trắng thì về phe với cô bướm, đồng thanh nói: Đời sống chỉ là vui chơi bay lượn.
Lúc ấy, một đám mây bay qua, buông rơi mấy hạt mưa xuống đám sinh vật, thực vật, đồng thời phát biểu: Đời sống chỉ là giọt lệ cay đắng và nước mắt.
Một dòng suối chảy ngang qua đó cũng xen vào một câu: Đời sống chỉ là mau qua biến chuyển không ngừng.
Trong lúc mà cuộc tranh luận về ý nghĩa đời sống giữa các sinh vật, thực vật và cả mây trời suối nước lên tới cao điểm, nhưng không đi tới kết thúc, thì chuông nhà thờ lên tiếng ngân vang báo hiệu mừng lễ Hiện Xuống làm cho cuộc tranmh luận đang sôi nổi bỗng im bặt. Tất cả đều nhất trí rằng câu trả lời đúng nhất về ý nghĩa đời sống là sự bình an, vui mừng, sức mạnh và hòa hợp trong Chúa Thánh Thần.
Thưa anh chị em thân mến,
Trên đây chỉ là một câu chuyện biến ngôn, không có thực, nhưng nói lên sự thực này là Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng, vai trò chính yếu trong việc điều hòa vũ trụ vạn vật nói chung và loài người nói riêng. Không có Chúa Thánh Thần thì mọi sự sẽ hỗn độn, mọi loài sẽ bất đồng, loài người sẽ chia rẽ nhau. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến tác tạo mọi sự và làm cho mặt đất này được đổi mới. Amen.
74. Suy niệm của ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
"Các con hãy nhận lấy Thánh Thần..."
Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giup cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.
Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lươi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người co kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Chau Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hanh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: "Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương". Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đơi sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.
Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. "Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô". Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy la cùng đích.
Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: "Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết". Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: "Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.". Những luc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.
Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.
Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.
Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: "Hãy yêu tha nhân như chính mình." Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con ngươi thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ... Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.
Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.
Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ "tôi đang là" đến chỗ "tôi được mời gọi để trở thành..." Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: "Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành". Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.
Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.
Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. "Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen."
75. Chúa và Nguồn Sinh Khí.
Bước vào ngàn năm thứ ba, điều đó mang ý nghĩa hai ngàn năm đã qua từ lúc “thời gian đã mãn”, là lúc Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, là năm sinh của Chúa Giêsu Kitô. Lịch sử nhân loại được chia làm hai giai đoạn: Trước Chúa Giêsu Kitô giáng sinh và sau Chúa Giêsu Kitô giáng sinh. Nếu có nói về một cong nguyên, thì sự tính toán vẫn quy về lúc Chúa Giêsu Kitô giáng sinh.
Để chuẩn bị cho Năm Toàn Xá, Năm Thánh vào năm 2000, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công bố Tông thư “Tiến đến Ngàn Năm Thứ Ba” vào ngày 10.11.1994. Đức Giáo Hoàng đệ nghị ba năm cuối của thế kỷ này được hiến dâng cho từng Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa: Năm 1997 hiến dâng cho Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người; năm 1998 cho Chúa Thánh Thần, và năm 1999 cho Thiên Chúa Cha. Đức Thánh Cha còn muốn cho các tín hữu học hỏi thông điệp về Chúa Thánh Thần trong sinh hoạt của Giáo Hội và thế giới. Thông điệp mang tựa đề: “Chúa và Nguồn Sinh Khí” trong những năm chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000. Bởi vì, Đức Thánh Cha đã nói: “Giáo Hội không thể chuẩn bị Ngàn Năm mới bằng cách nào khác hơn là ở trong Chúa Thánh Thần”.
Là “Chúa và là Nguồn Sinh khí”, Chúa Thánh Thần đã hiện diện và đã đóng một vai trò tích cực ngay từ khởi thuỷ lịch sử sáng tạo và cứu độ. Ngay đối với Chúa Giêsu trong cuộc sống ẩn dật và công khai, Chúa Thánh Thần luôn tác động trên Ngài, nhất là trong những biến cố quan trọng, như khi lãnh Phép Rửa ở sông Giođan, như khi vào sa mạc chịu ma quỉ cám dỗ, như khi cất bước rao giảng Tin Mừng khắp các làng mạc ở Palestin. Nhưng chỉ sau khi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng bằng cái chết và sống lại từ cõi chết, Ngài mới có thể ban Thánh Thần. Tin Mừng hôm nay cho thấy vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện đến, thổi hơi trên các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cử chỉ thổi hơi trên các môn đệ gợi lại hành động Thien Chúa lúc bắt đầu tạo dựng con người. Thiên Chúa đã thổi vào Ađam hơi thở của sự sống và con người nên sống động (St 2,7). Cũng có thể, khi Chúa Giêsu thổi Thánh Thần trên các môn đệ, các ông nhận được sự sống mới. Thánh Thần là “Chúa và là Đấng ban sự sống” như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Sách Công vụ Tông đồ còn cho thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như gió thổi, như lưỡi lửa, vào chính ngày lễ Ngũ Tuan của người Do Thái, được mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Israel tại núi Sinai. Dịp lễ này đã quy tụ đông đảo người Do Thái từ các nước khác nhau trở về Giêrusalem. Chính trong bối cảnh của ngày lễ trọng đại này mà hoạt động đầu tiên của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội được biểu lộ. Hoạt động đã được biểu lộ qua các Tông đồ “nói tiếng khác nhau” và “mọi người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đeu hiểu được lời rao giảng của các Tông đồ”. Ở đây, ân sủng của Chúa Thánh Thần đã tái lập sự thống nhất ngôn ngữ đã bị chia rẽ, phân tán tại Tháp Babel khi xưa và đồng thời nói lên tính cách phổ quát đại đồng của ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến và do Chúa Thánh Thần thực hiện.
Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô đã nhấn mạnh đến vai trò hiệp nhất của Chúa Thánh Thần: “Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy đe làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”. Nếu chỉ có Thánh Thần mới làm cho những kẻ tin nói được: “Đức Giêsu là Chúa”, thì cung chỉ có Thánh Thần mới làm cho những con người khác nhau hợp nhất với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau. Vì vậy, Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta “hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau”. Bởi vì, giữa những người cùng thờ một Chúa, cùng tuyên xưng một niềm tin, cùng lãnh nhận một bí tích, cùng hy vọng một tương lai Nước Trời, mà lai chia rẽ nhau, là điều không thể hiểu nổi, là gương xấu không thể tha thứ được. Chính vì thế mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đặt năm 2000 là tiêu điểm để hoạt động cho các Kitô hữu của các Giáo Hội anh em được hiep nhất như ý Chúa muốn.
Đời sống Kitô hữu là một đời sống theo Thánh Thần, như thánh Phaolô đã nói: “Ai sống theo xác thịt thì hướng về những điều thuộc về xác thịt, còn ai sống theo Thánh Thần thì hướng về những điều thuộc Thánh Thần. Nhưng hướng theo xác thịt là chết, còn hướng theo Thánh Thần là sống và bình an” (Rm 8,5-6). Muốn sống theo Thánh Thần, chúng ta phải nhìn ngắm Chúa Giêsu trong Tin Mừng, ước muốn nên giống Ngài, để có thể đi vào trong tình hiếu thảo của Chúa Giêsu, trong cầu nguyện, trong nghèo khó, tuân phục, trong khiêm tốn, phục vụ, trong tình huynh đệ, xả kỷ của Chúa Giêsu đối với mọi người. Hãy sống theo Thánh Thần, như vậy anh em sẽ không theo những khuynh hướng ích kỷ của xác thịt. Và đây là hiệu quả của Thánh Thần, đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, thì hãy để Thánh Thần hướng dẫn đời ta”. (Gl 5,16.22-25).
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người, tạo điều kiện cho mối tương quan huynh đệ giữa người với người, những gì tạo nên sự hiệp thông vô biên giới phải là những tiêu chuẩn cho hành động của chúng ta. Bởi vì những gì giới hạn hoặc chia rẽ, đều nghịch với Thánh Thần của Đức Kitô. Thánh Thần luôn chăm lo hiệp nhất Thân Thể Đức Kitô, duy trì sự hiệp thông và quy tụ mọi người hiệp nhất với Ngài.
76. Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm GB. Hoàng Văn Khanh)
Chiều ngày phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ đang quy tụ trong phòng Tiệc ly, cửa đóng kín vì sợ người Do thái. Ngài chúc bình an và ban Thần Khí cho các ông, để từ nay các môn đệ dấn thân loan Tin mừng và làm chứng về Đức Kitô cho mọi người, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.
1. Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân
Biến cố chiều thứ sáu tử nan làm tiêu tan mọi ước mơ của các môn đệ. Họ đã theo Chúa suốt 3 năm trời với hy vọng Ngài sẽ phục hưng dân tộc và thiết lập vương quốc Messia. Nhưng Ngài đã bị kết án chết thập giá. Họ chán nản buồn sầu, kẻ trở về quê cũ, số còn lại quy tụ nhau trong gian phòng đóng kín vì sợ người Do Thái. Cửa phòng khép kín mà tâm hồn họ cũng đang đóng khung trong lo âu, sợ hãi, thất vọng. Chính lúc ấy, Chúa phục sinh hiện ra, ban bình an và thông ban Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”, như Ngài đã hứa trong đêm tiệc ly: “Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với anh em” (Ga 16,7). Được đầy Thánh Thần, các môn hoàn toàn biến đổi: từ những người nhút nhát, sợ hãi, họ trở thành quả cảm, vui tươi, đầy tin yêu và mạnh dạn lên đường thực thi sứ mệnh mà Chúa Phục sinh trao phó, cũng chính là sứ mệnh mà Ngài đã nhận từ Cha: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”, đó là loan báo Tin Mừng cứu độ và làm chứng Đức Giêsu đã sống lại. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa, biến đổi các ông toàn diện, ban cho các ông nói tiếng lạ và thúc đẩy họ làm chứng nhân cho Đức Kitô phục sinh (Cv 2,1-14). Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân tâm hồn, soi sáng lòng trí, làm vững mạnh đức tin, mang bình an và dũng lực để các tín hữu can đảm loan Tin mừng và làm chứng Đức Kitô cho mọi người.
2. Chúa Thánh Thần là Đấng hòa giải
Đức Kitô được Chúa Cha ủy thác sứ mệnh cứu độ là ban ơn tha thứ và hòa giải con người với Thiên Chúa, hầu đưa vào hiệp thông sự sống của Chúa Ba Ngôi. Chúa Giêsu trao cho các tông đồ sứ mệnh tiếp nối Ngài là hòa giải con người với Thiên Chúa: “Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha. Các con cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”. Các Tông đồ được Chúa Giêsu thông ban quyền tha tội. Họ chỉ có thể thực hiện quyền này trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, khi thông ban quyền tha tội, Chúa Giêsu đã thổi “Thần Khí” trên các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Từ nay, Chúa Thánh Thần là sức mạnh, quyền năng để các Tông đồ và Giáo hội hoạt động tiếp nối công trình cứu độ của Chúa Giêsu.
3. Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất
Vì tội lỗi và kiêu căng mà nhân loại đã bị phân rẽ (St 11,1-11). Ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã ban cho các Tông đồ nói tiếng lạ, để mọi người đều nghe như tiếng bản xứ của mình mà đón nhận sứ điệp Tin Mưng. Ước mơ ngày nào của Môisê mong cho toàn dân được ơn Thần Khí mà nói tiên tri (Ds 11,26-30) cũng như sấm ngôn của Gioen về thời thiên sai (Ge 3,1-5), nay được hiện thực. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất, liên kết mọi con người, mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ với nhau, để tất cả đều lắng nghe và đón nhận sứ điệp Tin mừng. Chúa Thánh Thần là Đấng kiến tạo sự hiệp nhất trong Giáo hội, sự hiệp nhất mà Chúa Giêsu ước mong và cầu khẩn với Cha trong lời nguyện hiến tế: “Xin Cha cho họ được hiệp nhất nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”.
77. Quà tặng cho linh hồn – Arthur Tone.
Phil lớn hơn em nó là Joe 2 tuổi, chúng thích rừng, thích hồ ao xung quanh thành phố của chúng, trên vùng Michigan. Đó là lý do chính chúng ngưỡng mộ chú Bill, một người độc thân lớn tuổi. Chú thông thạo săn bắn và câu cá. Hai đứa nhỏ thần tượng hóa chú Bill. Chúng vui mừng vô cùng khi nghe tin chú Bill sắp đến ở với chúng. Chú Bill thường mua quà cho các cháu, luôn luôn là những dụng cụ dùng ngoài trời: chiếc địa bàn, con dao, đèn pin, búa, cung và tên, balô và khi chúng lớn, chú còn cho một khẩu súng trường.
Hôm nay chúng ta kỷ niệm Chúa Thánh Linh, Ngôi Ba Thiên Chúa Ba Ngôi, ban cho chúng ta bảy ơn quý giá; chúng ta gọi là bảy ơn Chúa Thánh Thần. Quà của chú Bill cho Phil và Joe luôn hữu ích cho cuộc sống ngoài trời. Ơn huệ của Chúa Thánh Thần rất cần thiết và hữu ích cho đời sống thiêng liêng. Ơn huệ của Chúa Thánh Thần là gì? Chúng ta phải sử dụng làm sao?
Tất cả là ơn huệ thiêng liêng, là sức mạnh thiêng liêng trợ giúp cho linh hồn chúng ta.
Ơn khôn ngoan là ơn giúp chúng ta nâng cao tâm hồn lên trên mọi sự vật mau qua trên mặt đất, để hướng về những sự không mau qua, những sự vĩnh cửu.
Ơn thông hiểu: như một đèn pha thần thánh, chiếu tỏa sáng lân chan lý Chúa tỏ ra cho chúng ta, giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa các chân lý ấy.
Ơn lo liệu: như một địa bàn ơn thần thánh, trong những khó khăn, bối rối trong đời sống. Chúa Thánh linh giúp chúng ta biết phải làm gì để vinh danh Chúa và cứu vớt linh hồn chúng ta cũng như anh em chúng ta.
Ơn sức mạnh: nghĩa là can đảm. Chúa Thánh Linh cho chúng ta sự can đảm thiêng liêng cần thiết để giữ luật Chúa và luật Giáo Hội. Tử đạo là điển hình cao nhất của ơn sức mạnh.
Ơn hiểu biết: là ơn giúp ta phán đoán đúng đắn các tạo vật, giúp ta biết sử dụng kiến thức đúng đắn. Ơn hiểu biết không phải chỉ để thâu thập các sự kiện về thế gian, nhưng là đặt chúng trong liên quan và trật tự.
Ơn đạo đức: là tình yêu và lòng nhiệt thành của người con đối với Cha mình, là ước muốn của người con mong làm đẹp ý Cha mình. Như một ân huệ của Chúa Thánh Thần, ơn đạo đức giúp ta tôn kính và yêu mến Chua là Cha chúng ta. Nó giúp ta thi hành những gì đẹp lòng Chúa, yêu giúp đỡ anh em, yêu cầu nguyện và yêu lời Chúa.
Ơn kính sợ Chúa là ơn giúp ta sợ làm mất lòng Chúa. Không phải sợ hãi như nô lệ sợ chủ; nhưng sợ làm phiền lòng Đấng yêu thương chúng ta. Đấng chúng ta yêu mến. Như Kinh Thánh nói: “Kính sợ Chúa là khởi đầu sự khôn ngoan”.
Hôm nay, chúng ta vui mừng vì Chúa Thánh Linh đã cho chúng ta tất cả những ơn trợ giúp đó. Phil và Joe trong câu chuyện đã sung sướng nhận những món quà để sinh hoạt ngoài trời. Chúng ta hân hoan đón nhận ân huệ của Chúa Thánh Linh giúp chúng ta trong đời sống với Chúa.
Xin Chúa chúc lành bạn.
78. “Anh em hãy nhận Thánh Thần” - Noel Quesson.
Một cha sở già miền núi phía nam nước Ý thường dùng các ví dụ cụ thể để diễn tả mầu nhiệm trong đạo. Vào lễ Thánh Linh hàng năm, Ngài ra lệnh thả một chim câu trong nhà thờ. Và khi chim đậu xuống ai, người đó phải cố thực hiện một công tác cụ thể phục vụ cộng đoàn. Có lần chim đậu xuống một thầy hiệu trưởng, ông này đã cam kết và thực hiện một cuốn sách giá trị. Lần khác chim đậu xuống một vị công tước và công tước đã bỏ tiền xây hệ thống dẫn nước. Một Linh mục trẻ được sai tới thay thế cha sở già. Cha sở mới không thích kiểu cách cha sở cũ nhưng chưa tiện hủy bỏ. Vào ngày Lễ Thánh Linh ngài bảo cứ thả chim câu, và cho mở rong hết các cửa, nghĩ rằng chim sẽ bay ra ngoài. Nhưng con chim bay lượn một vòng quanh nhà thờ và đậu ngay xuống vai cha sở mới, cả nhà thờ vỗ tay mừng rỡ. Cha sở mới phải lên tiếng hứa sẽ đem hết sức lực và thì giờ phục vụ giáo xứ, và ngài đã giữ lời.
Câu chuyện vui nầy diễn tả phần nào những hoạt động của Chúa Thánh Thần, Người thúc giục, soi sáng và hướng dẫn ta trong mọi ý hướng, mọi sáng kiến phục vụ anh em. Chúa Giêsu nói về hoạt động của Thánh Linh: Người như gió, muốn thổi đâu thì thổi (Ga 38). Và Chúa cũng nhắc nhở ta trong vai trò quan trọng của Thánh Linh trong việc giúp hiểu Tin Mừng, trong việc truyền bá giáo lý của Chúa: “Thầy sẽ xin Cha ban cho các con một Đấng phù trợ, Người là Thần Chân lý” (Ga 14,16): “Khi Thần Chân lý tới, Người sẽ dạy cho các con biết tất cả sự thật” (Ga 16,13).
Khung cảnh Tin Mừng chúng ta mới nghe chứng tỏ điều Chúa nói. Chúa đã phục sinh, chuyện nầy các tông đồ đều đã biết, nhưng các ông vẫn lo âu, tụ họp nhau trong phòng đóng kín cửa vì sợ. Chúa Giêsu định phó thác cho các ông nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo trên khắp hoàn vũ. Nhưng bây giờ các ông còn đang run sợ, lẩn trốn, như vậy làm sao các ông thực hiện nổi nhiệm vụ Chúa trao phó?
Trong tình trạng lo âu trốn tránh đó, Chúa Giêsu đã tới giữa công đoàn, thở hơi và các ông và nói: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Hành động của Chúa Giêsu làm ta nhớ tới việc Chúa sáng tạo sự sống (Kn 2,7; Ed 37,9). Theo thánh Gioan thì biến cố nầy xảy ra ngay vào ngày Chúa sống lại. Tác động đầu tiên của Thánh Linh là mang tơi sự sống, và Chúa Giêsu là người trước hết lãnh nhận tác động đó. Chúa Thánh Thần đã làm nên sự Phục Sinh của Chúa Giêsu trong quyền lực Chúa Cha. Danh hiệu đầu tiên của Thánh Linh là “Thiên Chúa ban sự sống”.
Chúa Thánh Thần còn đem lại cho ta ơn tha tội: “Các con tha thứ cho ai, người ấy được tha”. Thực sự ơn tha tội đã được Thiên Chúa trao ban đầy tràn kể từ cái chết cứu độ của Chúa Giêsu. Vấn đề còn lại ở phía con người, chúng ta có ý thức và sẵn sàng đón nhận ơn tha thứ của Chúa hay không.
Sau khi các tín hữu nhận lãnh sự sống và ơn cứu độ. Thánh Linh sẽ trao ban sứ mệnh, chuyển thông ơn cứu độ, sự tha thứ, sự Thánh thiện cho mọi người. Đó là nhiệm vụ của Giáo Hội và của mỗi Kitô hữu. “Giáo Hội là cơ quan mở mang cho nhân loại cộng đồng tình yêu”. Từ khi Thánh Linh hiện xuống, tình trạng đã đổi khác. Các Tông đồ không còn run sợ trốn tránh trong phòng kín, nhưng bắt đầu ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người, mọi nơi. Các ông làm chứng lời giảng bằng chính cuộc sống và cả tính mạng của mình.
Lạy Chúa, xin ban Chúa Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người, chúng con có đủ khôn ngoan, can đảm phục vụ và làm chứng cho Chúa trước mặt thiên hạ.
79. Đấng sáng tạo.
Như chúng ta đã biết: đứng trước câu hỏi Chúa Thánh Thần là Đấng nào, sách giáo lý đã trả lời: Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi thứ ba. Câu trả lời này thật đúng, nhưng lại quá trừu tượng, khiến chúng ta khó có thể hình dung Ngài ra làm sao.
Các thánh Giáo phụ và các nhà thần học đã cố gắng dùng những hình ảnh cụ thể để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Các ngài đã sánh ví Chúa Thánh Thần chính là sợi dây tình yêu liên kết Chúa Cha với Chúa Con.
Thánh Bernađô thì nghĩ rằng: Chúa Cha và Chúa Con yêu thương nhau, còn Chúa Thánh Thần chính là nụ hôn ngọt ngào và mầu nhiệm mà hai ngôi ấy trao ban cho nhau.
Nhà thần học Scheeben thì lại coi Chúa Thánh Thần như là một sự tỏa lan của đời sống Thiên Chúa, như là một làn hương thơm thánh thiện của Chúa Cha và Chúa Con.
Thế nhưng ngôn ngữ của loài người thì bất lực, không thể diễn tả nổi mầu nhiệm cao vời ấy, nếu không muốn nói là nhiều khi đã bóp méo sự thật. Để có được một vài ý niệm nào đó. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những tước hiệu, vốn được Giao Hội quen dùng để xưng tụng Chúa Thánh Thần.
Một trong những ca khúc nổi tiếng của Giáo Hội từng được hát lên để cầu xin Chúa Thánh Thần trước khi chúng ta làm một việc gì, đó là ca khúc “Veni Creator Spiritus”, Lạy Chúa Thánh Thần, là Đấng sáng tạo, xin hãy đến. Tước hiệu Giáo Hội quen dùng để xưng tụng Chúa Thánh Thần, đó là Đấng Sáng Tạo. Vậy tại sao lại như thế?
Lý do thứ nhất, như chúng ta đã biết: Trong phạm vi vật chất. Thiên Chua đã dựng nên vũ trụ vì yêu thương. Nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng Khôn ngoan và thông biết, chắc Ngài sẽ không dựng nên vũ trụ, bởi vì vũ trụ này dù có hoàn hảo đến đâu chăng nữa, thì vẫn còn cách biệt với ý muốn cua Thiên Chúa. Thế nhưng Thiên Chúa còn là Đấng nhân từ và thương xót, Ngài là Tình Yêu, một tình yêu phong phú. Và chính bởi tình yêu ấy. Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ.
Người tín hữu, với con mắt đức tin, sẽ nhìn thấy nơi mọi tạo vật dấu ấn sâu đậm của tình yêu Thiên Chúa, hay nói đúng hơn, dấu ấn sâu đậm của Chúa Thánh Thần, chẳng hạn nơi những chồi non của một ngọn cây mới nhú, nơi tiếng hót véo von của một loài chim nhỏ, nơi giấc ngủ thiên thần của một em bé. Chính là Thánh Thần tình yêu đã là nguyên nhân của công cuộc sáng tạo. Chính Thần Khí của Thiên Chúa đã làm cho mọi vật được sống động.
Hơn thế nữa, Chúa Thánh Thần còn kiện toàn công cuoc sáng tạo ấy và duy trì cái trật tự tuyệt vời trong vũ trụ. Sách Sáng Thế Ký đã ghi nhận: Thánh Thần Chúa bay lượn trên nước và trên vũ trụ đã được tạo thành, như một sức mạnh để bảo tồn và duy trì sự hài hòa cân đối. Thánh vịnh 32 cũng đã xác quyết:
Một lời Chúa phán, làm ra chín tầng trời.
Một hơi Chúa thở, tạo thành muôn tinh tú.
Vũ trụ đang phát triển và sẽ còn phát triển cho đến tận cùng thời gian. Không có Chúa Thánh Thần, thì tất cả chỉ là một đám hỗn mang, vô trật tự, vô tổ chức, không mục đích và chìm ngập trong tăm tối. Nhưng với Chúa Thánh Thần, vũ trụ sẽ đi vào một đường hướng nhất định và sẽ thực hiện được mục đích cuối cùng cua mình: xuất phát từ Thiên Chúa, thì sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Chúng ta gọi Chúa Thánh Thần là Đấng Sáng Tạo, bởi vì Ngài đã làm nên và duy trì cái trật tự lạ lùng trong vũ trụ.
Lý do thứ hai đó là trong lãnh vực thiêng liêng, Chúa Thánh Thần đã khởi công và còn đang tiếp tục một cuộc tạo dựng mới cho loài người ân sủng, cho con người được cứu độ của chúng ta. Cuộc tạo dựng mới này được khởi đầu qua việc Ngôi Lời nhập thể dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Thực vậy, sứ thần Gabriel đã nói với Mẹ Maria: Uy quyền Thiên Chúa đã bao phủ bà và con trẻ do bà sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Đấng Tối Cao.
Thiên thần Chúa cũng đã nói vơi thánh Giuse trong giấc mộng như sau: Hỡi Giuse, đừng sợ. Hãy nhận lấy Maria làm vợ, vì Maria mang thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần.
Chính vì thế, trong kinh Tin Kính, chúng ta đã tuyên xưng: Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần. Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Maria và đã làm người.
Và bây giờ, Ngài vẫn còn tiếp tục công cuộc sáng tạo ấy, bằng cách hướng dẫn, dìu dắt và thánh hóa các tâm hồn trong Giáo Hội. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta: Thầy đã xin với Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ mới. Ngài là Thần chân lý và sẽ ở cùng các con luôn mãi. Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn Giáo Hội và chọn lựa những người điều khiển Giáo Hội của Chúa.
Chúa Giêsu đã thực hiện và hoàn tất chương trình cứu độ, nhưng Chúa Thánh Thần mới là Đấng ban phát công nghiệp ấy cho chúng ta qua các Bí tích. Với một tình yêu bao la, Ngài đã theo chúng ta từ khi chúng ta mở mắt chào đời cho đến khi chúng ta nhắm mắt buông tay vĩnh biệt cuộc sống. Ngài không phải chỉ đi bên cạnh chúng ta, mà hơn thế nữa, còn ngự trị trong chúng ta, như lời thánh Phaolô: Anh em không biết rằng thân xác anh em là đền thờ cho Chúa Thánh Thần hay sao? Không một ngày nào, không một phút giây nào mà Chúa Thánh Thần chẳng ở bên chúng ta để trao ban cho chúng ta những ân huệ của Ngài.
Thánh Augustinô đã có lý khi nói: Như linh hồn ở trong thân xác thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng ở trong Giáo Hội, thân thể nhiệm mầu của Đức Kitô như vậy.
Khi mùa đông qua đi, mùa xuân trở lại, chúng ta thấy như có một sức sống mới tràn lan, khiến cho cây cối đâm chồi nẩy lộc. Cũng vậy, Chúa Thánh Thần ở trong chúng ta và ban cho chúng ta sự sống của Thiên Chúa. Việc thánh hóa và tạo dựng thiêng liêng này là một kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa: Ngài đã tạo dựng chúng ta một cách tài tình, nhưng Ngài còn cải tạo chúng ta một cách tài tình hơn nữa.
Bởi đó, hãy cộng tác với Chúa Thánh Thần, hãy để Ngài hoạt động hầu biến đổi chúng ta thành những con người mới, theo tinh thần của Chúa Giêsu, ngập tràn ân sủng và tình yêu.
80. Thánh Thần trong đời sống
Ngày lễ ngũ tuần có nguồn gốc sâu xa, được cử hành hàng năm của người Do Thái xưa họ mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, còn gọi là ngày lễ Ngũ Tuần. Lễ này, người ta ăn mừng mùa gặt mới, đồng thời nhớ lại biến cố Thiên Chúa ban hành lề luật qua Môsê trên núi Sinai. Y nghĩa này nói lên tuyển dân là dân giao ước, Thiên Chúa đã chọn và gọi giữa các dân tộc và trong thử thách sa mạc Sin.
Dĩ nhiên trên đây không phải là lịch sử chi tiết của ngày lễ, nhưng để chúng ta có chút khái niệm về nguồn gốc và ngộ ra nội dung súc tích của lễ này đối với tín hữu tiên khởi. Như vậy lễ Năm Nươi có liên hệ trực tiếp với lễ Vượt Qua, kỷ niệm khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu. Nó cũng mừng mùa gặt mới. Bởi lẽ các môn đệ tụ họp nhau ở gian phòng trên lầu, nơi Chúa Giêsu ăn bữa tiệc ly cùng các môn đệ, để lãnh nhận "Thánh Thần", nghĩa là mùa gặt mà Chúa Giêsu đã gieo trồng bằng cuộc đời, khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời của Ngài. Chắc chắn mùa gặt này đầy nước mắt và đau khổ. Trong Công Vụ Tông Đồ có điễn tả những điềm lạ khi Chúa Thánh Thần xuất hiện "Khi đến ngày lễ ngũ tuần... Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào nhà... Và ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần, họ bắt đầu nói thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho...". Và kết quả là: mọi người từ các nơi quy tụ về Gierusalem: Từ Pacthia, Mêđia, Pontô, Elam... để nghe các tông đồ rao giảng và chứng kiến các điềm thiêng dấu lạ. Nhưng để được điều này cac ong cần phải
1. Để Thánh Thần hướng dẫn.
Chúa Thánh Linh là dấu hiệu của sự hợp nhất Công Vụ khởi đầu bằng việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Hội Thánh non trẻ, chẳng mấy chốc sẽ "hành động" một cách rất tích cực, nhờ Thánh Linh, mà loan truyền danh Đức Kitô cho đến tận cùng hành tinh, bất chấp vất vả, khó khăn, bách hại và cái chết. Nhưng ngày nay, những nhà truyền giáo trong nhung lụa, tiện nghi, biện minh rằng để "tiện lợi" cho việc tông đồ. Người ta quen đặt tên cho Công vụ là Phúc Âm của Thánh Linh. Điều đó không hề sai, nếu chúng ta nghiền ngẫm hoạt động của Ngài trong Hội Thánh tiên khởi. Ngày xưa các tông đồ rao giảng bằng sự soi sáng của Thánh Thần. Còn chúng ta ngày nay rao giảng bằng ngôn ngữ gì? Có lẽ tiền bạc, chức quyền, khoái lạc, hứa hẹn? Toàn là mị dân, thảo nào, chẳng ai hiểu được! Vậy thì lễn Năm Mươi vẫn chính xác là lễ "mùa gặt mới". Chúng ta góp công thế nào vào mùa gặt thiêng liêng này?
Chúa Kitô đã gởi Chúa Thánh Thần xuống và chúng ta đã lãnh nhận. Hãy bắt trước các tông đồ, ra đi khắp thế gian rao giảng Đấng phục sinh cho muôn dân, dạy dỗ họ hy vọng lớn lao: thân xác dầu phải chết, cũng sẽ sống lại. Còn sứ vụ nào cao quý và chân thật hơn? Đấu tranh giai cấp, thần học giải phóng, hiện sinh, tiến hoá, Freud, Jung, Karl không thể so sánh bằng. Đốt cháy cả bản thân bằng lửa nhiệt thành truyền giáo vẫn chẳng nhằm nhò gì! Quý vị có cảm nhận như vậy chưa? An hưởng sung sướng, tiện nghi không mang ích lợi cho sứ vụ Chúa trao trong thời gian "đợi chờ" này. Chúng ta là một cộng đồng "chờ đợi" với các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, hoặc xa hơn nữa với các tổ phụ Do Thái trong đức tin chân chính.
2. Để Thánh Thần biến đổi
Vì thế giới này chưa phải là thiên đàng để vui hưởng khoái lạc. Một cái nhìn nhang chóng vào tình hình địa cầu ắt sẽ hiểu rõ ràng như vậy: Nghèo khó, chiến tranh, chém giết, biết bai trận khủng bố. Chưa hết, còn trong những đoàn thể Công Giáo, xem ra như đoàn kết với những phương châm lý tưởng, nhưng cũng không ít chia rẽ giáo xứ, tu viện, đoàn thể, ly khai khỏi Giáo Hội hoàn vũ vẫn là vấn đề nhức nhối triền miên của các môn đệ Chúa Kitô. Đáng lý, những sự kiện này phải là nhắc nhớ sống động cho chúng ta, chứ không phải nhởn nhơ như chuyện của thiên hạ, ngày ngày chỉ lo thư giãn, dã ngoại, đình đám, kỷ niệm. Vì thế, điều trước mắt là chúng ta hãy đem ngọn lửa Thánh Thần đến những nơi này và cầu xin cho các đau khổ của thế giới chấm dứt, cho đổ vỡ của Giáo Hội được hàn gắn, cho gia đình và thiên nhiên khỏi bị phá hoại, cho ước mong của Chúa Giêsu mau trở thành hiện thực.
Vậy lễ Hiện Xuống phải nên như biến cố nhắc nhở môn đệ thực sự của Chúa Kitô: Thiên Chúa không hề bỏ rơi Hội Thánh. Chúa Giêsu tuy không còn hiện diện hữu hình nữa, nhưng như Ngài đã hứa không để tín hữu mồ côi, Ngài sẽ sai Thánh Linh xuống dạy dỗ, an ủi, thánh hoá họ. Hôm nay, lời hứa đó đã được thực hiện và Giáo Hội đã ra đời, một cuộc khai sinh đầy hứa hẹn. Các môn đệ quy tụ ở phòng tiệc ly đã trở nên một cộng đồng, có đầy đủ thân xác và linh hồn. Thân hình này khởi sự một sức sống mới, thở hơi thở của Thần khí vĩnh cửu và toàn năng. Ngoài ra, người ta rao giảng nhiều về hiệp nhất và tình yêu, nhưng chỉ là mông lung tưởng tượng chứ thực chất không hiểu chi về ý nghĩa của lưỡi lửa. Nó cụ thể, hữu hình và đốt cháy. Các môn đệ tiên khởi đã cảm nghiệm đúng thực tại ấy, các kẻ theo Chúa ngày nay thì sao? Nếu như họ được lưỡi lửa thiêu đốt thực thì không còn như hiện trạng, nguội lạnh và ươn lười. Thiên Chúa luôn sẵn sàng gửi Thánh Linh của Ngài xuống, để giúp đỡ họ giao lưu thân thiện với Đức Kitô, bất chấp những sự ác hiện tại: chiến tranh khốc liệt, nghèo đói cùng cực, khai thác tài nguyên cạn kiệt, bạo lực không phân biệt.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng lòng đón nhận tất cả dưới "lưỡi lửa" của tình yêu. Không còn chia rẽ, phân tán, thất vọng, bất đồng ý kiến, thương yêu giả hiệu, lừa dối trục lợi. Nhưng hiệp nhất trong mối dây tình yêu chân thành. Amen.
81. Thời kỳ ân điển của Thần Khí.
(Suy niệm của Lm. G.B. Trần Văn Hào)
Khi tổng thống Washington lên cầm quyền, vào thời điểm nước Mỹ mới được thành lập, ông và 55 nhà ái quốc đã nhóm họp tại Philadelphia để soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên cho quốc gia này. Sau bốn tuần làm việc cật lực, họ vẫn không đạt được kết qủa nào vì có qúa nhiều ý kiến bất đồng, thậm chí đối kháng lẫn nhau. Mọi người toan tính bỏ cuộc. Một nghị viên tên là Benjamin Franklin đứng lên phát biểu: “Thưa Ngài Tổng thống và thưa toàn thể hội nghị, sức lực và trí tuệ của con người rất giới hạn và mong manh, cụ thể sau một tháng làm việc chúng ta vẫn chưa gặt hái được thành quả nào vì đầu óc chúng ta quá tăm tối. Vậy tôi đề nghị, chúng ta phải xin ơn trên soi sáng để có thể tiếp tục công việc”. Ý kiến trên được mọi người chấp nhận. Từ ngày hôm ấy trước mỗi phiên họp, các nghị viên đều đứng lên cung kính cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần soi dẫn. Chẳng bao lâu sau, nước Mỹ đã có được một bản hiến pháp lịch sử mà các sử gia vẫn xem đó là công trình vĩ đại nhất của nứớc Mỹ, được hoàn thành bởi ơn trên cùng với sự cộng tác của con người. Bản hiến pháp ấy đã trở thành quy chuẩn để nhiều quốc gia khác trên thế giới soi chiếu và noi theo. Người ta cho in hàng chữ ‘Chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa’ (In God we trust) trên tờ Đôla Mỹ để ghi nhớ biến cố này. Qủa thật, nếu không mở lòng cho Thánh Thần tác động, chúng ta sẽ không làm được bất cứ công việc gì.
Chúa Thánh Thần là ai?
Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”. Đó là 4 tín điều căn bản của giáo lý Công giáo về Chúa Thánh Thần mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc.
Tuy nhiên, khi chúng ta đặt câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta dễ rơi vào tâm trạng giống như dân Ephêsô ngày xưa khi họ trả lời thánh Phaolô: “Thưa ông, ngay cả việc có Chúa Thánh Thần hay không, chúng tôi còn chưa biết đến”(Cv 19,2). Kinh thánh nói khá nhiều về Thần khí của Thiên Chúa với nhiều biểu tuợng, nhưng chúng ta không thể hình dung Chúa Thánh Thần qua một hình ảnh hay qua một danh xưng. Nhà thần học Simeon vẫn hướng về Chúa Thánh Thần với lời cầu nguyện: “Xin hãy đến, lạy Đấng mà chúng con không hiểu được, cũng không biết được”. Đấng mà chúng ta không hiểu, không biết, nhưng với cảm thức đức tin, chúng ta vẫn có thể trải nghiệm được sự hiện diện và tác động của Ngài tận thâm sâu trong cõi lòng mỗi người.
Vì thế, nói về Chúa Thánh Thần không phải là một điều giản đơn hay chúng ta có thể tự nghĩ ra. Chúa Giêsu đã từng nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Ông nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và đi đâu (Ga 3,8)”. Thánh Thần là Đấng mà chúng ta không thể nhốt kín trong một phạm trù cứng ngắc, hoặc trình bày Ngài như một khái niệm xơ cứng. Chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài bằng đức tin, đồng thời chúng ta suy tư về Chúa Thánh Thần dựa trên Kinh thánh và những giáo huấn của Giáo hội. Tóm lại, để trả lời câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta có thể trích mượn tư tưởng của thần học gia Jacques Guillet: “Người ta không thể thông hiểu về Chúa Thánh Thần như hiểu biết về Chúa Cha và Chúa con. Thánh Thần không có dung mạo cũng chẳng có danh xưng. Chúng ta không thể đặt mình trước Chúa Thánh Thần để cầu nguyện hay chiêm ngắm Ngài, theo dõi các hành động của Ngài. Nhưng chúng ta vẫn có thể cảm thấu sự hiện diện của Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ năm xưa: “Anh em sẽ nhận biết Ngài vì Ngài ở trong anh em” (Ga 14,17).
Những biểu tượng về Chúa Thánh Thần.
Biểu tượng mà Kinh thánh sử dụng nhiều nhất để nói về Thần Khí, là gió hay hơi thở, diễn tả qua hạn từ ‘Spiritus Sanctus’ trong tiếng Latinh, ‘Holy Spirit’ trong tiếng Anh, ‘Pneuma’ trong tiếng Hy Lạp, và tiếng Do Thái gọi là ‘Ruah’. Chính Chúa Giêsu cũng đã dùng biểu tượng này khi nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió và không biết gió từ đâu đến”. Trong sách Tông đồ công vụ, lễ Hiện xuống (Pentecost) được khởi đầu với một làn gió mạnh thổi vào căn nhà nơi các Tông Đồ đang tụ họp. Khi sống lại, Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các môn đệ, trao ban bình an và tuôn đổ Thần Khí trên các ông (Ga 20,22). Ngay từ đầu sách khởi nguyên, tác giả cũng đã trình thuật về công trình tạo dựng qua đó Đức Chúa Giavê thổi hơi ban sinh khí vào ‘nắm đất’ để dựng nên con người (St 2,7). Đó là những đặc nét và biểu tượng nói về Thần Khí, Đấng tác sinh và ban sự sống.
Biểu tượng thứ 2 nói về Chúa Thánhh Thần là mạch nước. Trong thị kiến của tiên tri Ezekiel, dòng nước chảy từ bên phải đền thờ phát sinh sự sống tiên báo về thời kỳ ân điển của Thần Khí (Ez 47). Cũng vậy, trong Tin mừng Gioan, Chúa nói với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp về nguồn nước sự sống phát nguyên từ nơi Ngài, là chính Thần Khí của đấng Phục sinh, đem lại cho con người ơn cứu rỗi (Ga 4,13). Rõ nét nhất, Tin mừng Gioan thuật lại cho chúng ta: “Vào cuối cuộc lễ, Đức Giêsu đứng dậy và hô lớn tiếng: “Ai khát hãy đến với tôi, ai tin vào Tôi hãy đến mà uống... Đức Giêsu muốn nói về Thần khí mà những kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh nhận. (Ga 7,37-38).
Kế đến là biểu tượng ngọn lửa. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại bối cảnh lễ Hiện xuống đầu tiên với hình lưỡi lửa đậu xuống trên các tông đồ (Cv 2,3). Lửa có sức đốt cháy những vẩn đục và rác rưởi của tội lỗi để biến đổi tâm can con người. Chúa Giêsu cũng đã từng tuyên bố: “Thầy đem lửa từ trời đến thế gian, và Thầy ước mong cho ngọn lửa ấy bùng lên”. Thánh Phaolô cũng khuyến mời giáo đoàn Thesalonica: “Anh em đừng dập tắt Thánh Thần (1Th 5,14). Hai môn đệ trên đường về làng quê Emmaus khi nghe Chúa Giêsu cắt nghĩa Kinh thánh, đã cảm thấy như một ngọn lửa đang bừng cháy nơi tâm hồn mình (Lc 24,32). Đó là dấu chứng về sự tác động của Thần Khí.
Ngoài 3 biểu tượng nói trên, chúng ta còn thấy khá nhiều biểu tượng khác trong Kinh thánh ám chỉ về Chúa Thánh Thần, như chim bồ câu hoặc như việc xức dầu thánh hiến. Kinh thánh dùng những biểu tượng trên để nói về Ngôi Ba Thiên Chúa, là ngôi vị không có hình thể, không có danh xưng nhưng chắc chắn chúng ta có thể cảm nghiệm sự tác động nhiệm mầu của Ngài trong đời sống đức tin của chúng ta.
Kết luận
Tuần trước chúng ta mừng kính việc Chúa về trời, vừa hữu hình vừa vô hình. Tin mừng Gioan liên kết các sự kiện thành một mầu nhiệm duy nhất: Chúa sống lại đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, và trao ban Thánh thần để Ngài tiếp tục hiện diện giữa Hội thánh. Cũng vậy, tuần này chúng ta cũng mừng kính việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, vừa hữu hình vừa vô hình, là cao điểm của mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Hướng đi của Thánh Thần là bình an và hoan lạc (Rm 8,6)”. Khi chúng ta có bình an và niềm vui thực sự trong tâm hồn, chúng ta thực sự đang sở đắc Chúa Thánh Thần. Ngài chính là nguyên lý của bình an và hạnh phúc. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn chúng ta mỗi ngày.
82. Suy niệm của Lm Đỗ Xuân Quế
CHÚA THÁNH THẦN TRONG HỘI THÁNH
1. Hội thánh được thành lập vào ngày lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Từ đây với một nhóm người nhỏ bé, dần dần Hội thánh trở nên lớn mạnh và lan rộng khắp nơi. Có thể nói hồn sống và động lực của Hội thánh là Chúa Thánh Thần, đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa với các Tông đồ: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.”(Ga 16,13) Chính vì tin tưởng vào lời hứa ấy mà trải qua bao thăng trầm và biến động suốt mấy ngàn năm lịch sử, Hội thánh vẫn không tỏ ra nao núng. Nếu không có Chúa Thánh Thần và không được Người bảo trợ, Hội thánh đã biến mất từ lâu rồi. Về điểm này, một tác giả đã viết: “Không có Thánh Thần thì Thiên Chúa vẫn còn ở xa, Chúa Kitô vẫn thuộc về dĩ vãng, Tin Mừng là những hàng chữ chết, Hội thánh là một tổ chức đơn thuần, truyền giáo là tuyên truyền, thờ phượng là hồi tưởng, hành động Kitô giáo là một thứ luân lý nô lệ.”1
Nhưng may thay đã có Chúa Thánh Thần và Người vẫn đang hoạt động từ xưa cho đến nay. Thiết tưởng chúng ta nên đọc lại một vài đoạn về Người trong sách Công vụ Tông đồ để thấy được vị trí và ảnh hưởng của Người trong Hội thánh. Sở dĩ nói đến Công vụ Tông đồ vì đó là một cuốn sách trong các sách Tân Ước nói về Chúa Thánh Thần nhiều hơn cả.
Trong mấy câu trích dẫn trên đây, phần trước là lời ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa (Ge 3,1-3), phần sau là điều đã được thực hiện thời các Tông đồ (Cv 2). Quả vậy ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống cũng là ngày ứng nghiệm lời loan báo của các ngôn sứ, đặc biệt là ngôn sứ Gio-en (3,1-2). Ơn Chúa Thánh Thần được ban cho mọi người, dù có lúc thánh Phê-rô và các thánh Tông đồ khác chiếm một vị trí riêng và đóng một vai trò nổi bật. Khi giải thích cho quần chúng sự việc đang xảy ra trước mắt họ, thánh Phê-rô loan báo Chúa đã sống lại và cho biết thành quả của cuộc thọ hình là tuôn đổ Thần Khí. Các Tông đồ đã được tràn đầy Thần Khí: “Họ cầu nguyện xong thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa.” (Cv 4,31)
Thần Khí được tuôn đổ xuống trên các Tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần. Từ ngày ấy về sau, Thần Khí vẫn không rời khỏi các ông, nhưng mức độ cao thấp, mạnh yếu thì có thay đổi lên xuống tùy lúc tùy thời. Điều ấy giải thích được tại sao có phong trào Thánh Linh hiện nay. Tất cả những người đã chịu phép Rửa và phép Thêm sức đều đã nhận được ơn Chúa Thánh Thần, nhưng ơn ấy có thể hoạt động bất cứ lúc nào ở những mức độ khác nhau, theo như gió muốn thổi đâu thì thổi (Ga 3,8) nghĩa là theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
2. Công vụ 5,3
3 "Ông Phê-rô mới nói: “Anh Kha-na-ni-a, sao anh lại để Xa-tan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần mà giữ một phần giá thửa đất.”
Trên đây là một câu nói về trường hợp ông Kha-na-ni-a bán đất đem nộp tiền cho các Tông đồ. Nhưng ông không nộp hết, còn giữ lại một phần. Hành động này bị coi như một lời nói dối. Nói dối người đại diện Hội thánh cũng là nói dối Chúa Thánh Thần. Hội thánh và Chúa Thánh Thần đồng hóa với nhau. Sự đồng hóa này cho thấy mối dây ràng buộc Hội thánh với Chúa Thánh Thần chặt chẽ như thế nào, khiến thánh I-rê-nê phải viết: “Ở đâu có Hội thánh, ở đấy có Thần Khí của Thiên Chúa. Ở đâu có Thần Khí của Thiên Chúa, ở đấy có Hội thánh và tất cả nguồn ân sủng của Người. Và Thần Khí chính là chân lý, là sự thật.”2 Nói dối ai là nói dối một người nào đó, ở đây nói dối Chúa Thánh Thần cũng là nói dối một người. Người đó là một Ngôi Vị, Ngôi Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
3. Công vụ 5,32 và 15,28
32 “Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng giữ Lời Người.”
28 “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này.”
Thánh Thần được trưng dẫn như người làm chứng và quyết định cùng với các Tông đồ. Như thế có nghĩa là Chúa Thánh Thần đóng một vai trò trọng yếu trong việc điều khiển Hội thánh và các Tông đồ là những người làm việc dưới quyền điều động và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Vai trò và ảnh hưởng của Người thật lớn lao.
4. Cv 8,29.39; 10,19; 13,2-4
29 “Thần Khí nói với ông Phi-líp-phê: “Tiến lên, đuổi kịp xe đó.” 39 Khi hai ông lên khỏi nước, Thần Khí Chúa đem ông Phi-líp-phê đi mất, và viên thái giám không còn thấy ông nữa. Nhưng ông tiếp tục cuộc hành trình, lòng đầy hoan hỉ.”
19 “Ông Phê-rô vẫn còn phân vân về thị kiến thì Thần Khí bảo ông: “Kìa có ba người đang tìm ngươi.”
2 “Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta,để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm. 3 Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi. Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xê-lêu-ki-a, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Sýp.”
Đọc những dòng trên đây, chúng ta thấy gì?
Trước hết là thấy Thánh Thần sai đi. Người sai ông Phi-líp-phê đi gặp viên thái giám để làm phép Rửa cho ông ấy. Thứ đến là Người sai ông Phê-rô tới gặp đại đội trưởng Co-nê-li-ô, giảng dạy rồi làm phép Rửa cho ông này và cả gia đình ông. Cuối cùng, Người chọn riêng ông
Phao-lô sai đi giảng dạy các người ngoại giáo.
Như vậy đã rõ là ở đây Chúa Thánh Thần đóng vai trò kêu gọi và sai phái. Người kêu gọi và sai đi làm việc tông đồ. Đó là nhiệm vụ của Hội thánh trong buổi sơ khai và mãi mãi sau này. Nếu không có Chúa Thánh Thần khơi động và thúc đẩy, chắc chắn công việc không thể tiến triển như chúng ta thấy. Vì thế phải nói là Chúa Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng trong mọi sinh hạot của Hội thánh, nhất là trong công cuộc truyền giáo lúc ban đầu.
5. Công vụ 9,31
3 “Hồi ấy trong khắp miền Giu-dê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri, Hội thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông nhờ Thánh Thần nâng đỡ.”
Đây là một thời kỳ rất tốt đẹp: “Hội thánh được bình an và xây dựng vững chắc. Không còn hồ nghi gì nữa: cảnh tưởng đó là một ơn huệ lớn lao của Chúa Thánh Thần. Phải có bàn tay của Chúa Thánh Thần, Hội thánh mới được như vậy.
Còn nếu không được như thế thì sao? Đó cũng là do ý của Chúa Thánh Thần. Người muốn như thế để thanh luyện và làm cho Hội thánh ý thức rằng mình không có thành trì nào vững chắc ở trần gian. Có điều, dù vậy, Hội thánh vẫn không bị tan vỡ vì luôn luôn có Chúa Thánh Thần giữ gìn che chở. Người ta bảo rằng ít có khi nào Hội thánh được bằng yên năm mươi năm liền: được bằng yên ở chỗ này thì gặp rắc rối ở chỗ kia. Âu đó cũng là số phận thông thường của Hội thánh, và có như vậy Hội thánh mới tin vào sự nâng đỡ và sức hoạt động của Chúa Thánh Thần mà kiên trì tiến bước. Thông thường người ta dễ ru ngủ mình bằng những thành công và do đấy có thể bị sa lầy lúc nào chẳng hay. Có lẽ vì muốn cho Hội thánh phải luôn luôn cảnh giác mà Chúa Thánh Thần để cho Hội thánh sống trong tình trạng bấp bênh và an ninh tạm thời trong từng gian đoạn, để Hội thánh nhớ rằng mình vẫn phải cậy dựa vào Chúa Thánh Thần. Vả lại, Chúa Giêsu cũng đã nói: “Giả như anh em thuộc về thế gian thì thế gian yêu thương cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian,nên thế gian ghét anh em.” (Ga 15,19)
Nếu từ trước đến nay, phần đông chúng ta quen nghĩ rằng Thánh Thần xa xôi và trừu tượng lắm, thì bây giờ qua mấy đoạn văn tiêu biểu trích dẫn trong sách Công vụ Tông đồ, chúng ta nên thay đổi lối nhìn và cách nghĩ về Người. Người ở trong chúng ta và giữa lòng Hội thánh. Người đã chỉ huy, điều khiển sinh hoạt của Hội thánh lúc ban đầu và luôn canh chừng Hội thánh trong suốt dòng lịch sử. Gần đây, Qua Công đồng Va-ti-ca-nô II, Người vẫn chứng tỏ sự hiện diện và gần gũi của Người bên cạnh Hội thánh. Nếu hiện nay, có những người thích cầu nguyện chung hay riêng một cách sâu sắc, thích trở về với sự chiêm niệm như xưa và nhấn mạnh đến việc ngợi khen Chúa, ước ao hiến mình trọn vẹn cho Chúa Kitô, luôn sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Thánh Thần, siêng năng đọc Kinh thánh nhiều hơn, tận tâm giúp đỡ anh em và sẵn sàng phục vụ Hội thánh thì chúng ta có thể coi đó là hoạt động kín đáo và mầu nhiệm của Thánh Thần, hồn sống của Hội thánh.3
Cuối cùng, nếu cố gắng mang Thánh Thần ở trong mình, chúng ta sẽ giống như những đồ vật sạch trong, khi được ánh mặt trời chiếu vào, sẽ trở nên rực rỡ và và phát ra một thứ ánh sáng mới. Những ai mang Thần Khí, được Thần Khí soi dẫn thì cũng thành những con người thiêng liêng chiếu giãi ân sủng lên những người khác như vậy.4
83. Thần Khí.
Trong tiếng Hípri, người ta dùng cùng một chữ để diễn tả “gió”, “hơi thở” và “thần khí”. Cũng như người ta không thể nhìn thấy gió mà chỉ thấy hậu quả của nó. Thần Khí của Thiên Chúa chỉ được nhận ra nơi những người được tác động và làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí Thiên Chúa.
Hơi thở thì gắn bó chặt chẽ với sự sống; hơi thở là dấu chỉ của sự sống. Với phương pháo cấp cứu miệng qua miệng, chúng ta có thể đem lại sự sống cho một người mà phổi đã ngưng hoạt động, nhờ hơi thở ta.
Trong sách Sáng Thế, chúng ta đọc thấy Thiên Chúa thổi hơi vào Ađam và ông trở nên sống động. Khi Thiên Chúa chọn những người để thi hành các sứ vụ đặc biệt, chẳng hạn như ông Samson, vua Saun, vua Đavid và những người khác nữa, thì “thần khí của Thiên Chúa” cũng được ban cho họ. “Thần khí của Thiên Chúa” được xem như nguồn mạch của sự sống và của mọi thành tựu lớn lao của dân Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ.
Trong bối cảnh này, chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa việc Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Đó la dấu chỉ ngoài sự sống thể lý, họ còn lãnh nhận một sức sống thiêng liêng và họ được sai đi thi hành một sứ vụ lớn lao. Mọi sự đều biến đổi trong cuộc sống của họ. Sự sợ hãi đổi thành vui mừng và can đảm; sự dữ cua tội lỗi bị đánh bại bởi quyền năng của ơn tha thứ. Khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt. Chúng ta được tái sinh và được tuyển chọn để thi hành một sứ vụ đặc biệt. Chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Nghe có vẻ rất tốt đẹp, nhưng chúng ta có cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Thánh Thần trong chúng ta không?
Thực ra, Chúa Thánh Thần không phai là vấn đề của cảm xúc, nhưng là việc chúng ta có mở lòng ra để Thần Khí của Thiên Chúa tràn vào cuộc sống của mình. Đó là việc chúng ta có sẵn sàng từ bỏ mọi kế hoạch, mọi ý riêng, và không tự mình hướng dẫn mình nhưng để cho Thần Khí dẫn dắt chúng ta. Dĩ nhiên, đây là một cuộc mạo hiểm nhưng là một cuộc mạo hiểm đem lại sự giải thoát. Một khi để cho Thần Khí của Thiên Chúa ban sự sống, tăng cường sức mạnh, như chúng ta đã nhìn thấy nơi cuộc đời của các thánh tông đồ sau ngày lễ Ngũ Tuần, thì cuộc sống của họ liền được biến đổi hoàn toàn. Tại sao không để cho Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong tâm hồn bạn, sử dụng quyền năng của Người mà biến đổi toàn diện cuộc đời của bạn?
Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và cuộc đời của các ngài đã được biến đổi hoàn toàn. Giờ đây, xin Chúa cũng ban Chúa Thánh Thần xuống trên con để con vượt thắng mọi trở ngại mà trở nên một môn đệ can đảm của Chúa giữa trần gian.
84. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Qua bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, thánh Gioan tông đồ tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và sai các ông đi loan báo Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân. Để các ông đủ khả năng để thi hành sứ vụ, thì liền sau đó, Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ.
Hôm nay là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, với Lời Chúa chúng ta vừa nghe, nói cho chúng ta biết hai bài học quan trọng về Chúa Thánh Thần: Bài học thứ nhất: Làm cách nào để có được Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc đời của mình? Bài học thứ hai: Khi đã có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời mình, chúng ta phải làm gì?
1. Bài học thứ nhất: Phải làm gì để được Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc đời của mình?
Chúng ta vừa nghe bài Phúc âm. Xin được hỏi, trong khi các môn đệ họp với nhau ở phòng tiệc ly, với tâm trạng sợ hãi, thì bất ngờ điều già xảy ra? (Chúa Giêsu hiện ra) Khi Chúa Giêsu hiện đến, Ngài ban bình an cho các môn đệ, ngài sai các ông đi rao giảng, và Ngài còn làm một điều quan trọng nữa là gì? (Ban Chúa Thánh Thần cho các ông). Như vậy, đến đây chúng ta hiểu rằng để có được Chúa Thánh Thần thì cuộc đời chúng ta phải có Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là Đấng giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Vậy để có Chúa Thánh Thần trong cuộc đời, chúng ta phải năng rước Chúa Giêsu vào lòng. Những ai chưa rước lễ hoặc những người gặp khó khăn trong đời sống đạo không thể rước Chúa được thì năng cầu nguyện với Chúa Giêsu mỗi ngày. Ngoài ra, để có Chúa Thánh Thần trong đời, chúng ta hãy tập thói quen sau khi ngủ một đêm, vừa thức dậy là đọc kinh sáng, dâng một ngày sống cho Chúa Thánh Thần. Bên cạnh đó, bất kỳ làm một điều gì đó cũng đều cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để Ngài hướng dẫn. (Tóm lại cách để có Chúa Thánh Thần trong cuộc đời mình: 3 việc)
2. Bài học thứ hai: Khi đã có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời mình, các em phải làm gì?
Chúng ta hãy nhớ lại xem, khi thiên thần đến truyền tin cho Đức Mẹ thì nói rằng: Thánh Thần sẽ rọp bóng trên bà. Đức Mẹ được tràn đầy Chúa Thánh Thần sau khi nhận lời Thiên thần truyền tin. Sau đó, mẹ làm một việc bác ái được ghi trong Phúc âm là đi viếng thăm giúp đỡ bà chị họ là bà Isave. Còn Chúa Giêsu, khi chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần với hình chim Bồ câu đậu xuống trên người. Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Chúa Giêsu làm nhiều việc bác ái cho mọi người: chữa bệnh, tha tội, cho người chết sống lại, và cao điểm là chết trên Thánh giá chuộc tội nhân loại. Trong bài Tin Mừng hôm nay, các tông đồ được sai đi rao giảng Tin Mừng, rao giảng tình thương cứu chuộc của Chúa cho mọi người. Liền sau đó, Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để đi thực hiện sứ vụ tình thương. Đến đây, chúng ta hiểu rõ rằng, có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời, thì điều Ngài hướng dẫn chúng ta là yêu thương người khác. Việc yêu thương đối với chúng ta không phải là gặp người đi xin ngoài đường cho họ vài trăm ngàn. Mà đối với các em, bác ái là là hiếu thảo, vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ những công việc nhỏ nhặt trong nhà như quét nhà, rửa chén, nấu cơm, lau bà; bác ái là biết nhường nhịn, không dành ăn, không dành chơi với em út mình; bác ái là vô lớp giáo lý không chơi để cho các bạn khác học; bác ái là ra đường gặp người lớn, gặp thầy cô biết chào hỏi;... bác ái là biết quan tâm giúp đỡ bạn bè cùng trường, cùng lớp với mình.
Chúng ta biết, giới răn trọng nhất của người Kitô hữu là sống yêu thương mà Chúa Thánh Thần là Đấng xuất phát từ tình yêu Chúa Cha và Chúa con mà ra. Do vậy, sống giới luật yêu thương trong đời sống đạo thì không thể thiếu Chúa Thánh Thần. Từ nay, xin mọi người hãy cố gắng cầu nguyện nhiều với Chúa Thánh Thần để luôn có Ngài hiện diện trong cuộc đời mình. Ngài sẽ giúp chúng ta hoàn thành tốt bổn phận yêu thương trong đời sống đạo để mai này được về Thiên đàng hưởng phúc với Thiên Chúa Ba Ngôi.
85. Sức mạnh.
Khi đến giảng cho dân chúng tại Êphêsô, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Anh chị em đã lãnh nhận Thánh Thần chưa”? Tất cả mọi người có mặt lúc đó đều ngạc nhiên, nhìn nhau không hiểu gì hết. “Thánh Thần là gì? Thánh Thần là ai? Chúng tôi chưa hề nghe thấy ai nói đến nhân vật xa lạ đó, phương chi là đã lãnh nhận hay không”. Đó là câu trả lời của những người ở Êphêsô khi nghe thánh tông đồ hỏi họ về Chúa Thánh Thần.
Đối với chúng ta, chắc chắn khác hẳn những người ở Êphêsô, chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, vì chúng ta đã chịu phép Rửa tội va Thêm sức. Nhưng có lẽ Chúa Thánh Thần vẫn còn là một nhân vật xa lạ trong tâm tư và trong cuộc sống của nhiều người chúng ta. Nói rằng chúng ta không nghe nói hoặc không biết gì về Chúa Thánh Thần thì không đúng, may ra chỉ biết hơn những người ở Êphêsô một chút thôi. Chúng ta đã được học về Chúa Thánh Thần, nhưng học quá sơ sài, quá vội vàng một chương sách giáo lý về Chúa Thánh Thần ngày chúng ta học giáo lý để rước lễ lần đầu hay thêm sức. Rồi từ đó, có lẽ Chúa Thánh Thần đã thành một người khách quý ghé thăm một lần xa xưa mà không để lại địa chỉ, thậm chí còn có thể tưởng tượng là Chúa Thánh Thần đã đến có một lần rồi đi luôn. Trong khi đó Chúa Thánh Thần có liên hệ thật sâu xa đến đời sống của Giáo hội và cuộc đời mỗi người chúng ta.
Tất cả chúng ta đều biết Chúa Thánh Thần là ngôi thứ ba, vì thế, chắc chắn không ai hiểu lầm là Chúa Thánh Thần chỉ bắt đầu có từ lễ Hiện Xuống, và cũng không phải đợi tới ngày Chúa Giêsu Phục sinh hoặc ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần mới bắt đầu hoạt động nơi trần thế, nhưng ngay từ đầu lịch sử loài người, Ngài đã hoạt đong, chỉ khác là trong Cựu ước, Ngài chưa hoạt động công khai, và người ta cũng chưa biết rõ Ngài. Với biến cố Hiện Xuống, mọi người hiểu thêm, hiểu rõ về Ngài và hoạt động của Ngài.
Quả thực, ngày Chúa Thánh Thần Hiện Xuống thật là quan trọng, vì đánh dấu bắt đầu một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, kỷ nguyên áp dụng ơn cứu độ. Bởi vì như Chúa Giêsu đã xác quyết với các môn đệ: Ngài vẫn tiếp tục ở với các ông, Ngài ở với các ông không bằng thân xác hữu hình nữa, nhưng cách thiêng liêng, nghĩa là bằng Chúa Thánh Thần. Như vậy, Chúa Thánh Thần nối dài sự hiện diện của Chúa Giêsu nơi trần gian, nên Ngài cũng tiếp nối công trình cua Chúa Giêsu, và đưa công trình ấy đến chỗ hoàn thành, tức là công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu vẫn được tiếp tục thực hiện dưới sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Quả thực, chúng ta thấy lịch sử Giáo hoi là một chuỗi dài những tác động của Chúa Thánh Thần. Khởi đầu với các tông đồ, ngày lễ Hiện Xuống, các ông đã lãnh nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy đã khiến cho các ông ra khỏi bản thân khép kín và sợ hãi để đi khắp nơi loan báo Tin Mừng và lấy cái chết làm chứng cho Tin Mừng. Trước đây, ai cũng nghĩ rằng: các môn đệ tầm thường ấy không thể làm nên trò trống gì, nhưng lịch sử cho thấy các ông đã thực sự lam thay đổi thế giới. Rồi xuyên suốt hai ngàn năm qua, biết bao người đã tiếp nối sứ mạng của các tông đồ để Giáo hội được đứng vững và phát triển, tất cả cũng đều nhờ vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Cho tới ngày hôm nay, sức mạnh của Chúa Thánh Thần vẫn còn được ban cho Giáo hội và mỗi người chúng ta, vẫn còn là sức sống của Giáo hội và mỗi người chúng ta. Không phải là sức mạnh chuyển núi rời sông, chuyện này từ xưa vua Pharaon của Ai Cập đã làm được, khi trưng dụng hàng ngàn nô lệ vào công việc phá núi, chuyển đá, dựng nên các kim tự tháp. Và ngày nay, người ta dùng mìn nổ, máy xúc đất, máy hút bùn, cần trục… thừa sức làm hơn các Pharaon.
Nhưng không một sức mạnh nào của khoa học kỹ thuật hay quyền lực thế gian… làm mềm được trái tim con người đã thành sắt đá, hay chuyển đổi con người từ cõi âm u, của lạnh nhạt, ghen ghét, hận thù qua miền ánh sáng của tình nghĩa, của yêu thương. Chỉ “quyền năng của Chúa Thánh Thần”, chỉ sức mạnh của lòng tin bằng hạt cải ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay có thể đẩy một Kôn-bê bước lên mấy bước để tình nguyện chết thay cho một bạn tù còn trách nhiệm với một vợ và bảy con. Hoặc là có thể đưa một bà cụ trên 80 tuổi như mẹ Têrêxa Calcútta tiếp tục đi từ nước này đến nước khác, kể cả Việt Nam, để phục vụ những con người khốn khổ nhất. Hoặc là có thể khiến một dì Hai Bến Sắn, chỉ nắm lấy tay, nói một lời, là đưa được anh người phong nào đó”dữ lắm”, không vừa ý ai là anh cắn, ngay cả đến công an cũng chịu thua anh, từ chợ Bến Thành trở về trại phong Bến Sắn.
Chỉ quyền năng Chúa Thánh Thần, chỉ sức mạnh của lòng tin ngày hôm nay cũng có thể khiến từng em bé bẻ đôi chiếc bánh ngọt chia cho bạn mình ở sân trường, hoặc là đẩy người hàng xóm vượt qua được khoảng đường hẻm, chỉ rộng không quá hai mét, nhưng sẵn tỵ hiềm cao hơn núi, nghi kỵ sâu hơn sông, để chào hỏi người hàng xóm ở đối diện nhà mình. Chính sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã giúp cho lòng chung thủy thầm kín của vợ chồng với nhau, đã giúp cho các bà mẹ gia đình chu toàn bổn phận trong âm thầm, đã tăng nghị lực, can đảm cho người bạn trẻ chống lại các cám dỗ, đã giúp cho người tín hữu ham thích cầu nguyện trong thinh lặng, kiên nhẫn trong lúc đau khổ và vui mừng vì có lương tâm ngay thẳng… Chúng ta có thể kéo dài bảng thống kê này thành một bài mô tả tất cả đời sống Kitô hữu. Đó là công trình của Chúa Thánh Thần đang tác động trong thế giới và nơi mỗi người.
Tóm lại, trong mạch sống của Giáo hội, tác động của Chúa Thánh Thần thật vô cùng quan trọng cho Giáo hội cũng như cho mỗi người để sống đức tin và bác ái. Nhưng chúng ta hãy nhớ: Chúa Thánh Thần là Đấng phù trợ, nghĩa là nâng đỡ, trợ giúp chúng ta chứ không làm thay chúng ta. Chúng ta phải cố gắng làm hết sức mình, hết khả năng mình, phải học hỏi, phải nghiên cứu, phải thực hiện hết sức mình, Chúa Thánh Thần sẽ phù trợ thiện chí của chúng ta, Ngài không làm thay chúng ta. Nói cách khác, chúng ta phải hợp tác với Chúa và sử dụng mọi phương tiện thông thường Ngài ban trước khi chúng ta cầu xin Ngài can thiệp vào một số trường hợp đặc biệt. Ai trong chúng ta cung biết câu châm ngôn cổ xưa: “Hãy tự giúp mình trước, rồi trời sẽ giúp mình sau”, và như thế có thể nói: Chúng ta phải tự mình làm trước, rồi Chúa Thánh Thần sẽ trợ giúp cho.
86. Ngôn ngữ tình yêu.
Tôi xin bắt đầu phần chia sẻ sáng hôm nay bằng câu chuyện về ngọn tháp Babel trong Cựu ước.
Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau:
- Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.
Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng này, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.
Đây chỉ là một hình ảnh tượng trưng nói lên tính kiêu căng và tình trạng chia rẽ của con người.
Thế nhưng, nhìn vào ngày lễ hôm nay, chúng ta thấy khác hẳn. Thực vậy, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh.
Sách Tông đồ Công vụ kể lại:
Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đỗ trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Trong thời gian lễ Ngũ tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các tông đồ nói tiếng của mình.
Họ ngạc nhên và bàn tán cùng nhau:
- Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm cua mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa.
Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo kể từ thời ngọn tháp Babel, trong đó mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Sở dĩ như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần.
Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các tông đồ, tôi nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần đã dùng để liên kết và tạo lấy sự cảm thông chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu.
Thiếu vắng Ngài, thiếu vắng tác động của Ngài, hay nói đúng hơn, thiếu vắng tình yêu, chúng ta không thể hiểu biết nhau, xích lại gần nhau và cảm thông với nhau, để rồi hận thù sẽ bùng nổ.
Vào năm 1887, một người Ba Lan tên là Zamenhof, đã tạo ra và cổ động cho một thứ ngôn ngữ quốc tế, để mọi người có thể sử dụng một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ quốc tế này đến nay vẫn giậm chân tại chỗ và thế giới vẫn còn tràn ngập những hận thù và chiến tranh. Sở dĩ như vậy vì người ta không sử dụng thứ ngôn ngữ của tình yêu và không đặt tình yêu làm nền tảng cho mọi mối liên hệ.
Tôi nghĩ rằng tình yêu chân chính, được coi như là hoạt động của Chúa Thánh Thần, sẽ là một thứ ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được. Nó không phải chỉ được nói bằng lời, bằng tiếng, mà còn được nói bằng thái độ, bằng cử chỉ, bằng việc làm và bằng cả cuộc sống ngập tràn tình bác ái của mình.
Thực vậy, ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được một ánh mắt thông cảm, một cử chỉ thân thiện, hay một việc làm giúp đỡ. Thứ ngôn ngữ tình yêu này không phải chỉ giúp chúng ta hiểu được nhau, mà hơn thế nữa, còn giúp chúng ta hiểu được chính Thiên Chúa và tiến đến với Ngài. Vì Thiên Chúa là gì, nếu không phải là tình yêu như thánh Gioan đã định nghĩa.
Rất nhiều khi nhờ những hành động bác ái yêu thương mà những kẻ tội lỗi biết đường ăn năn trở về cùng Chúa.
Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, của đấm đá. Đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, của nghi kị.
Nhưng hãy nói với nhau bang thứ ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Vì ngôn ngữ của tình yêu chính là ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần, là thứ ngôn ngữ tạo được sự cảm thông và là thứ ngôn ngữ bất cứ ai cũng có thể hiểu được.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa.
87. Sức mạnh.
Có một câu chuyện kể rằng: Một hôm thần dữ Satan triệu tập tất cả các sứ giả của hắn lại, để sai đến trần gian với sư mạng duy nhất là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi. Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả trở về. Thần dữ Satan ngạc nhiên hỏi: “Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh như thế, hay là có chuyện gì trục trặc?”. Các sứ giả đồng thanh đáp: “Thưa ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi qua trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết thật rồi. Họ ghen ghét nhau, họ gian tham, trộm cắp, sa đọa, họ chém giết nhau... không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này, mà ngược lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa”.
Con người sống như thể Thiên Chúa đã chết. Đó là một lời cảnh tỉnh nghiêm trọng đáng cho chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, suy nghĩ để kiểm điểm lại đời sống của mình. Vài chục năm gần đây, người ta tỏ ra lo ngại cho Giáo hội, khi thấy có một số đông Kitô hữu tại nhiều nước Au Châu dửng dưng với đạo. Đạo hầu như chẳng còn ảnh hưởng gì đối với họ; đạo hầu như đứng ngoài cuộc sống của họ. Phải chăng Kitô giáo đã qua những ngày hưng thịnh và đang đi vào giai đoạn lụi tàn? Phong trào “thời mới”, một phong trào mang tính tôn giáo huyền bí hàm hồ, đang phát triển tại Mỹ và Au Châu xác tín rằng: kỷ nguyên Kitô giáo sắp qua đi và một kỷ nguyên mới với một tôn giáo mới đang xuất hiện.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến trần gian để thi hành sứ mạng cứu chuộc loài người. Ngài đã sống kiếp người như chúng ta, Ngài đã giảng dạy, loan báo Tin Mừng. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận đau thương và chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất sứ mạng cứu chuộc của Ngài. Ngài đa chết thật, nhưng không phải là chết luôn, trái lại, Ngài đã sống lại và sống mãi. Ngài vẫn hiện diện trên trần gian dưới nhiều hình thức, đặc biệt là qua Chúa Thánh Thần.
Quả thực, ngay từ khi tại thế, Chúa Giêsu đã sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, nhưng Ngài chưa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Chúa Giêsu phải ra đi, rồi mới cử Thánh Thần đến với họ được, nghĩa là Ngài phải được tôn vinh, mới có thể ban Thánh Thần cho ho. Vì thế, ngay buổi chiều ngày Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra thổi hơi vào các môn đệ và ban Thánh Thần cho họ; đồng thời ban cho họ quyền tha tội. Như vậy, Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần, và các tông đồ đã nhận được Chúa Thánh Thần ngay chiều ngày Phục sinh.
Tuy nhiên, để đánh dấu việc các tông đồ thực sự thoát khỏi tình trạng “khép kín” vì sợ hãi hay nuối tiếc quá khứ, và “mở cửa” lao mình về phía trước để công bố Tin Mừng Phục sinh cho các dân tộc, đem ơn hòa giải đến cho mọi người, hầu qui tụ mọi người vào trong đại gia đình của Thiên Chúa... Chúa Thánh Thần đã hiện xuống với các tông đồ một cách long trọng và rõ ràng với những dấu hiệu bề ngoài như gió thổi mạnh, lưỡi lửa xuất hiện trên đầu họ. Gió và lửa là những dấu hiệu để chứng tỏ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và liền theo đó, mọi người được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Như vậy, Chúa Thánh Thần đã đến với các tông đồ, đã biến đổi họ thành những con người mới, đã tác động nơi họ để họ trở thành những chứng nhân cho Đức Kitô và loan báo Đức Kitô cho mọi người. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa và ngọn lửa Ngài đậu trên đầu các tông đồ không gì khác chính là ngọn lửa tình yêu. Chính ngọn lửa đó đã thúc giục các tông đồ mở toang cánh cửa đã đóng kín vì sợ hãi, để mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng tình yêu. Từ đó cho đến nay, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hoạt động nơi từng con người thiện chí, từng Kitô hữu, đang hăng say hoạt động để đem chân lý, bình an, yêu thương và hy vọng đến với những người chung quanh.
Mỗi người Kitô hữu hôm nay cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu phép Rửa tội và Thêm sức. Nhưng chúng ta đã cộng tác với Chúa Thánh Thần thế nào? Chúng ta có để Chúa Thánh Thần gọt giũa, loại bỏ khỏi chúng ta tính ích kỷ, hẹp hòi không? Chúng ta đã làm gì và đang làm gì cho thế giới này, cho những người sống chung quanh chúng ta được sưởi ấm bởi ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận? Thật là đau đớn cho Thiên Chúa và Giáo hội khi những người mang danh Kitô hữu, những môn đệ của Chúa, lại sống ích kỷ, ghen ghét nhau, cạnh tranh nhau... Nếu ngày nay biết bao người chưa biết đến tình yêu thương của Chúa, có lẽ một phần trách nhiệm là do chúng ta; có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà nhận rằng: vì chúng ta chưa sống tốt, chưa làm chứng nhân, vì trong chúng ta còn nhiều ích kỷ, nhỏ nhen, hẹp hòi...
Mừng lễ Chúa Thánh Thần, Giáo hội nhắc nhở chúng ta vai trò quan trọng cua Chúa Thánh Thần trong cuộc sống từng người chúng ta, và mời gọi chúng ta cùng cộng tác với Chúa Thánh Thần để đổi mới chính mình, đổi mới cuộc sống của mình, để cuộc đời chúng ta trở thành chứng tá cho Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống, để xác quyết rằng: Thiên Chúa đang sống và đang hành động trong trần gian.
88. Cầu nguyện.
Trong các Tin Mừng, chúng ta có được một phần trong lời cầu nguyện long trọng của Đức Giêsu tại bữa Tiệc Ly. Ở đây, Người cầu nguyện cho các môn đệ, mà Người sắp bỏ lại, để thực hiện công trình của Người. Tương tự như Chúa Cha đã sai Đức Giêsu đi vào thế gian này, Đức Giêsu cũng sai các môn đệ đi khắp thế giới. Họ phải mang lời của Người đến với những kẻ khác. Trong suốt bữa Tiệc Ly, khi biết rằng chẳng bao lâu nữa. Người sẽ rời bỏ họ, Đức Giêsu đã cầu nguyện vơi Cha trên trời cho họ. Người cũng cầu nguyện cho cả chúng ta nữa. Người cầu xin những ơn gì vậy?
Người cầu xin cho họ giữ được lòng trung thành “Xin giữ các môn đệ mà Cha đã ban cho con trong danh Cha”. Công việc của chúng ta không phải là sự thành công, nhưng chỉ cần lòng trung thành mà thôi.
Người cầu xin cho sự hiệp nhất giữa họ: “Để họ nên một như Cha và Con là một”. Sự không hiệp nhất giữa các môn đệ ảnh hưởng xấu đến việc làm chứng của họ.
Người cầu xin cho họ được thánh hiến trong sự thật: “Xin cho họ được thánh hiến trong sự thật”. Sự thật ở đây là Đức Giêsu chính là Đấng mặc khải về Thiên Chúa vô hình.
Và Người cầu xin cho họ được chiến thắng vượt lên trên sự dữ: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần”. Các môn đệ được sai đi để thách đố thế gian, để chuyển từ bóng tối đến ánh sáng. Trong việc mang lời chứng, họ phải chuẩn bị để chịu sự ghét bỏ của thế gian.
Như vậy, Người cầu xin cho lòng trung thành, hiệp nhất, sự thật và chiến thắng vượt lên trên sự dữ.
Người nhìn thấy trước rằng cuộc sống sẽ khó khăn đối với họ, nhưng Người không cầu xin cho họ được miễn phải chịu đựng thử thách và đau khổ, nhưng cầu xin cho họ giữ được lòng trung thành, bất chấp những yếu tố đó. Người không đưa ra cho họ một lối giải thoát khỏi các vấn đề, nhưng cầu xin cho ho sức mạnh để đương đầu với những vấn đề đó.
Thật sai lầm khi than phiền với Thiên Chúa về những rắc rối của chúng ta. Thiên Chúa ở với chúng ta trong những lúc chúng ta bị thử thách. Chúng ta phải hướng tới Người, trong những lúc gặp rắc rối, để được an ủi, sức mạnh, kiên nhẫn và hy vọng.
Đây là cách Mà Đức Giêsu đã cầu nguyện cho các tông đồ của Người, và cũng là cách mà chúng ta nên cầu nguyện. Chúng ta cầu xin không phải để đươc miễn chịu thử thách, nhưng xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta đương đầu với bất cứ thử thách nào, mà cuộc đời gửi đến chúng ta.
89. Yêu thương nhau.
Một người đàn ông đi đến cổng thiên đàng, tại đó, ông gặp thánh Phêrô và Kẻ Biện Hộ cho ma quỉ. Cả hai người đều xem xét bản báo cáo của ông ta.
Kẻ biện hộ cho ma quỉ nói “Ông ta không phải là một người nhiệt thành lắm. Ông ta quá lơ đễnh và vô tư. Ông ta có thể làm được nhiều điều tốt đẹp hơn cho bản thân”.
Thánh Phêrô nói “Đúng vậy. Ông ta có thể kiếm được nhiều tiền, nhưng ở đây, tôi nhận thấy rằng ông ta là một người hàng xóm tốt, luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác”.
Kẻ biện hộ cho ma quỉ nói “Nếu ngài hỏi tôi, tôi sẽ nói rằng ông ta quá hào phóng về tài sản riêng của ông ta. Người ta nhìn vào ông ta như là một người quá dễ tiếp cận, thậm chí còn hơi điên rồ nữa”.
Thánh Phêrô nói “Có lẽ ông ta hơi hào phóng. Và sự thật là đôi khi, người ta lợi dụng được ông ấy. Nhưng đó không phải là một tội”.
Kẻ biện hộ cho ma quỉ vội vàng bổ sung “Ồ, ông ta cũng phạm tội nữa. Đôi khi, ông ta vẫn có thể dập tắt được cơn nóng gian của ông ta, và khi làm như vậy, ông ta vẫn có thể sử dụng một số ngôn ngữ chọn lựa chứ”.
Đến đây, thánh Phêrô trả lời “Nhưng tôi nhận thấy ông ta không hề giữ lòng hận thù hoặc bất mãn. Ông ta nhìn vào mối hận thù như là một thứ thuốc độc vậy. Đối với ông ta, bất cứ lối trả thù nào cũng đều đáng căm ghét cả”.
Kẻ biện hộ cho ma quỉ kháng cự lại “Nhưng ông ta không phải là một người đạo đức cho lắm. Không có dấu hiệu nào cho thấy ông ta được gọi là một con người thánh thiện. Và chắc chắn rằng không một người nào có thể được vào thiên đàng, mà không sống thánh thiện”.
Thánh Phêrô phản đối “Đúng vậy, nhưng sống thánh thiện có nghĩa là gì vậy? Đối với tôi, rõ ràng chúng ta đang giải quyết cho một người không có khả năng gây đau khổ cho người khác, một con người có lòng thương xót, hết sức trung thực trong tất cả mọi hành động, tôi sẽ để cho ông ta vào”.
Kẻ biện hộ cho ma quỉ kêu lên “Xin ngài chờ một phút! Tôi chưa nói xong. Ông ta còn một tội khác nữa, mà tôi sắp nói ra đây”
Thánh Phêrô nói cụt ngủn “Tôi không muốn nghe nói về bất cứ lỗi nào của ông ta nữa. Tôi chỉ thích một điểm duy nhất: Ông ta là một con người tử tế, một người biết yêu thương. Đó là một điều quan trọng. Và thế là đủ rồi”.
Với câu nói đó, ngài để cho người đàn ông này đi vào thiên đàng.
Thánh Gioan nói với chúng ta rằng Thiên Chúa là tình yêu (Bài đọc 2). Chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước. Thiên Chúa không yêu thương chúng ta bởi vì chúng ta tốt lành. Và bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên chúng ta phải yêu thương nhau. Chúng ta bày tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa, bằng cách yêu thương nhau.
Thánh Phêrô nói “Tình yêu thương che lấp được rất nhiều tội lỗi...”. Khi Phêrô chối Đức Giêsu, Người đã không hề xua đuổi ông đi. Người vẫn tiếp tục yêu thương ông. Và Người đòi hỏi Phêrô phải đáp trả lại điều gì? “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy”. Nói cách khác, Người đòi hỏi ông phải chứng tỏ lòng mến của ông, bằng cách chăm sóc những anh chị em trong cộng đoàn.
Cuộc sống của Kitô hữu không phải là sự theo đuổi các nhân đức đưa dẫn tới sự hoàn thiện của tình yêu, nhưng là một quá trình bắt đầu bằng tình yêu, và phát triển đến mức độ hoàn hảo, khởi sự tư điểm bắt đầu này. “Căn bệnh lớn nhất của thế giới ngày nay, đó là sự thiếu vắng tình yêu” (Mẹ Têrêsa). Tình yêu là tất cả mọi sự. Tình yêu đòi hỏi điều tốt đẹp nhất nơi chúng ta, và mang lại cho chúng ta điều tốt đẹp nhất.
90. Hiện hữu mới.
Trong thời Thế Chiến II, có rất nhiều binh lính đóng đô trên những hòn đảo ngoài Thái Bình Dương. Trong thời điểm đầu của thế chiến, các binh lính phải sống trong những túp lều và ăn uống trong những dãy nhà bê bối không có tủ lạnh hay những tiện nghi.
Những chuyên viên dinh dưỡng của chính phủ muốn cho các binh sĩ này có những thức ăn như sữa và trứng. Thế nhưng, điều này không thể thực hiện, bởi vì không có tủ lạnh để chứa. Nếu những binh sĩ muốn những thức ăn như thế, thì những thức ăn này phải được biến đổi thành trạng thái khác mà không cần đến tủ lạnh.
Và như thế, một loại thức ăn mới đã được biến chế: thức ăn bột. Trứng và sữa đã được biến dạng thành bột, đóng hộp, và di chuyển đến những binh sĩ ngoài Thái Bình Dương.
Chỉ cần quậy thức ăn bột với nước lã là các binh sĩ sẽ có trứng và sữa trong một hình thể mới - một hình thể mà có thể dọn bữa hằng ngày mà không cần đến tủ lạnh.
Câu chuyện trứng sữa có liên quan gì đến Ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống chúng ta mừng kính hôm nay?
Lễ Hiện Xuống đánh dấu một thời điểm mà Thiên Chúa bắt đau ngự trị giữa dân Ngài trong một hình thức hoàn toàn mới mẻ.
Qua 30 năm, Thiên Chúa đã ngự giữa dân Ngài bằng hình thức con người Chúa Giêsu. Thế nhưng, Chúa Giêsu thật sự là một con người, sự hiện diện của Ngài giữa dân Thiên Chúa bị giới hạn chỉ trong quãng cuộc sống nhân loại mà thôi.
Quả thật, nếu Thiên Chúa còn tiếp tục ngự trị giữa chúng ta sau quãng đời sống của Chúa Giêsu, thì sự ngự trị này phải bằng một hình thức khác với thân xác nhân loại.
Lễ Hiện Xuống đánh dấu một thời điểm khi Thiên Chúa khởi đầu ngự trị giữa chúng ta trong một hình thức hoàn toàn mới lạ, không phải qua con người thể xác của Chúa Giêsu, nhưng trong sự hiện diện thần linh của Chúa Thánh Thần.
Và như thế, câu truyện biến chế sữa và trứng cho chúng ta một khái niệm về việc biến dạng của sự hiện diện Thiên Chúa giữa chúng ta được bắt đầu vào Ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
Tuy thế, Lễ Hiện Xuống còn đánh dấu sâu xa hơn cuộc biến dạng của sự hiện diện Thiên Chúa giữa chúng ta. Nó còn đánh dấu sự biến dạng của sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa chúng ta. Giờ đây Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta cũng trong một hình thể khác.
Giờ đây, Ngài hiện diện giữa chúng ta không phải như là một người sống bên chúng ta, nhưng mà là một người sống trong chúng ta.
Đấy chính là những gì Chúa Giêsu có ý muốn nói khi Ngài phán dạy các môn đệ của Ngài, "Ta ra đi, thì ích lợi hơn cho các ngươi." Và lại một lần nữa, khi Ngài dạy họ, "Ta không để cho các ngươi mồ côi đâu; Ta sẽ "lại" đến với các ngươi."
Và như thế, Lễ Hiện Xuống đánh dấu một thời điểm khi Thiên Chúa và Chúa Giêsu khởi đầu ngự trị giữa chúng ta trong một hình thức hoàn toàn mới lạ.
Ngoài việc là ngày khởi đầu của sự hiện diện mới của Thiên Chúa giữa từng cá nhân chúng ta, nó còn chính là ngày khởi đầu của sự hiện diện mới của Thiên Chúa giữa chúng ta nói chung. Vì chưng, Chúa Giêsu ngự trong chúng ta, chúng ta được liên kết với Ngài trong một hình thức mới. Chúa Giêsu phán với các môn đệ của Ngài trong bữa Tiệc Ly:
"Đến ngày ấy "khi Thánh Thần đến" các con sẽ nhận biết rằng Ta ở trong Cha và các con ở trong Ta cũng như Ta ở trong các con vậy."
Và qua việc liên kết mới của chúng ta với Chúa Giêsu đó, giờ đây chúng ta hiep thành một nhiệm thể với Ngài. Thánh Thần liên kết chúng ta nên những gì mà Thánh Phaolô gọi là Thân Thể Chúa Kitô.
Quả thật, Lễ Hiện Xuống không chỉ là ngày khởi sự của sự hiện diện mới của Thiên Chúa giữa từng cá nhân chúng ta, nó còn chính là ngày khởi sự của sự hiện diện mới của Thiên Chúa giữa chúng ta nói chung.
Nó chính là ngày sinh nhật của Thân Thể Chúa Kytô, là Giáo Hội. Nó cũng chính là ngày sinh nhật của một gia đình Thiên Chúa mới.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận biết rằng mối dây liên kết mới này nói cho chúng con một trách nhiệm mới. Trách nhiệm đó là việc truyền bá Phúc Âm không chỉ trong giáo xứ chúng con nhưng còn khắp tận cùng trái đất.
91. Nhờ Chúa Thánh Thần
"Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần".
Có rất nhiều cách gọi về Chúa Thánh Thần và những tên gọi đó nói lên những công việc mà Chúa Thánh Thần chuyên làm. Ví dụ như Đấng Bảo Trợ, Thần Chân Lý, Đấng An Ủi, Thần Khí Lời Hứa, Thần Khí Đức Chúa, Thần Khí Vinh Hiển. Và chính nhờ những khả năng "bẩm sinh" đó mà Chúa Thánh Thần đã nâng đỡ cho con người trên mọi nẻo đường của cuộc sống cũng như giúp cho con người gắn kết với Thiên Chúa nhiều hơn.
Chính nhờ bàn tay đa tài của Chúa Thánh Thần mà chúng ta được tái sinh và được nhận biết Cha làm con Chúa qua phép rửa bởi Thánh Thần. Ta hãy nghe lời của Thánh Irênê: "Bí Tích Thánh Tẩy ban cho chúng ta ơn tái sinh trong Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Vì những ai mang trong lòng Thánh thần của Thiên Chúa, họ được dẫn đến Ngôi Lời, nghĩa là Ngôi Cha. Chúa Con dâng họ cho Chúa Cha và Chúa Cha ban cho họ sự sống bất diệt. Vậy không có Thánh Thần thì không thể thấy Thiên Chúa Cha, không có Chúa Con không ai đến gần Chúa Cha, vì chỉ có Chúa Con mới nhận biết Chúa Cha, và nhận biết Chúa Cha là nhờ Chúa Thánh Thần". Vậy chính Thánh Thần là Đấng khởi sự niềm tin và khơi nguồn sự sống cho chúng ta. Nhờ Thánh Thần mà ta nhận biết Chúa Cha và Đấng Cha đã cử đến là Đức Giêsu Kitô (x. Ga 17,3). Thánh Phaolô đã nhấn mạnh lại điều này: "Nếu không được Thánh Thần giúp sức cho không ai có thể nói rằng: Giêsu là Đức Chúa" (1 Cr 12,3). Rồi cũng phải nói thêm rằng, nếu không có Thánh Thần chúng ta không thể giữ được niềm tin ấy. Đức Giêsu đã hứa cho chúng ta nghị lực của Thánh Thần để bên vực giúp ta "bước đi vững vàng theo thánh chỉ và thi hành những ước muốn của Người", giúp chúng ta đối mặt với kẻ thù. "Anh em đừng sợ phải nói gì vì Thánh Thần sẽ nói trong anh em". Đó là một lời hứa đã có từ trong Cựu Ước - thời mà Thánh Thần còn mù mờ trong con mắt của con người. "Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm" (Ge 3,1). Lời ấy được thực hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần. Các tông đồ đầy tràn Thánh Thần, bắt đầu lên đường loan tin mừng Chúa phục sinh mà không sợ hãi bất cứ một thế lực nào. Nếu các ngài không có "lửa" của Thánh Thần thì các ngài không thể làm được việc gì. Như lời Phaolô khẳng định: "Thần Khí mà chúng ta lãnh nhận không phải là Thần Khí nhát sợ".
Thánh Thần còn làm cho cuộc sống chúng ta nên mật thiết với Thiên Chúa hơn. "Nhờ Thánh Thần mà chúng ta sống chứ xác thịt nào có ích gì" (Ga 6, 63). Nhờ thánh Thần mà trong tâm tình nghĩa tử chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và trờ nên đồng thừa tự. "Cha của Thầy cũng là Cha của Anh em". "Vì đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần nên chúng ta đầy tràn một Thánh Thần duy nhất" (1 Cr 12,13). "Chính thánh Thần là nước trường sinh chảy ra từ cạnh sườn Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá và chảy thành sự sống đời đời cho chúng ta" (GLHTCG 694). Và trong tư cách là Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần sẽ giúp đỡ cho chúng ta là những kẻ yếu hèn. "Chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp bằng những tiếng rên siết khôn tả" (Rm 8, 26). Cũng do Thánh Thần biết rõ chúng ta cần gì và điều gì thì đẹp ý Chúa hơn nên khi Thánh Thần cầu xin thì chúng ta được Chúa dễ dàng được nhậm lời.
Chúa Thánh Thần quan trọng trong cuộc đời chúng ta. Chính Đức Kitô đã phải chết để cho chúng ta nhận lãnh dồi dào Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, gần như chúng ta ít khi nghĩ về Chúa Thánh Thần và cầu xin cùng Ngài, nghe theo sự hướng dẫn của Ngài. Ngài chính là nội lực dẫn dắt chúng ta về với sự thật và tình yêu. Không nhờ Thánh Thần chúng ta không sinh được hoa trái nào tốt đẹp. Mất Chúa Thánh Thần đời chúng ta như cây không còn nước: khô khan, mệt mõi, lạnh lẽo và sẽ chết dần chết mòn. Vậy chúng ta hãy sám hối để được tha tội và anh em sẽ được ân huệ Thánh Thần (x. Cv 2, 38).
"Lạy Chúa Thánh Thần, xin sự thánh thiện của Người hoạt động trong con, để con có thể nghĩ về Thiên Chúa; đánh động con, để con có thể hành động cho Thiên Chúa; khích lệ con để con có thể yêu mến Người; tăng sức cho con, để con có thể trung tín với Người; xin giữ con để con không bao giờ lìa bỏ Người" (Thánh Augustinô. Trích từ bài giảng số 17 của Thánh Gioan Maria Vianney).
92. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Hiện Xuống, chúng ta kỷ niệm việc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên các Thánh Tông Đồ. Mừng lễ hôm nay, chúng ta vui mừng và xác tín vì chúng ta có một chuyên viên toàn năng, thông biết mọi sự, sẵn sàng và có thể hướng dẫn chúng ta trong những nỗi khó khăn.
Bài Phúc Âm hôm nay (Ga 20, 19-23) diễn tả niềm vui và cảm nghiệm quí báu nhất của các Tông Đồ khi xem thấy Chúa, Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín. Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình anh cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con" Rồi Người thổi hơi trên họ và nói: "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20,19-22). Các ông vui mừng vì mình được ơn Chúa Thánh Thần, họ cảm nghiệm được sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Giêsu ở với họ. Một cảm nghiệm về tình yêu sâu xa của Chúa dành cho họ qua sự chết, và sống lại của Người. Nhờ Chúa Thánh Thần, họ gắn bó trọn vẹn cuộc đời của họ với Chúa Giêsu và trở nên những môn đệ trung thành dấn thân phục vụ Ngài trong việc rao giảng Tin mừng.
Là người Kitô hữu, trong bậc sống là cha mẹ trong gia đình, nếu chúng ta muốn con cái lớn lên trong tình yêu và sự tin tưởng nơi Thiên Chúa, nếu chúng ta muốn chúng yêu thương và tin tưởng nơi chúng ta, nếu chúng ta muốn chúng cũng yêu thương và tự tin nơi chính bản thân mình, điều trước hết là chúng ta phải làm là, thể hiện tình yêu thương thật sự, vì qua tình yêu, nó giúp con cái tự nhận ra được những cảm nghiệm yêu thương sống động này trong cuộc đời của chúng (2 Tx 3, 7). Chẳng hạn, khi cha mẹ dạy dỗ con cái, hãy nói với con cái rằng cha mẹ yêu thương con. Cha Mẹ yêu thương con không phải vì con được điểm cao, học giỏi hay tài năng, cũng không phải vì con đã làm tốt, nhưng yêu thương con chỉ vì con là con của Cha mẹ. Nên nhớ rằng, mặc dù điều này rất đơn giản, nhưng nó có một hiệu quả tốt hơn là những đòi hỏi phải vâng lời dựa trên sự sợ hãi và đe dọa. Con cái trẻ sẽ cảm nghiệm tuyệt vời rằng: "Mình được yêu bởi vì mình là mình" đây là tình cảm có tính cách chữa lành đối với con cái. Một cảm nghiệm về sự hiện diện yêu thương của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng.
Bằng tình yêu thương tha thiết, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, trong thân xác sống lại của Ngài, thân xác Vinh Quang của Thánh Thần để các môn đệ cảm ghiệm được niềm vui và sự an bình mới lạ trong đời sống của họ (Lc 24, 39). Điều quan trọng nhất trong công việc mục vụ của một Kitô hữu là trở nên "khí cụ bình an của Chúa" (Mt 10,12; Rm 12, 18), là cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa đang ở với chúng ta và chia sẻ tình yêu đó ra cho mọi người xung quanh (1Tx 2, 8; Pl 1, 8; ĐGH Phaolô VI - Evangelii Nuntiandi đoạn 79). Thiên Chúa cũng muốn chúng ta khám phá ra rằng chính chúng ta phải là những nhân chứng đã cảm nghiệmđược sự hiện diện của Đức Kitô qua ThánhThần để mang lại nguồn vui và sự bình an cho mọi người (1Ga 3,16-18). Chúa Giêsu cũng hứa ban Chúa Thánh Thần khi Ngài sai chúng ta đi vào thế giới đang cần đến chúng ta. Chúa Thánh Thần làm cho cuộc sống của chúng ta dường như trống rỗng được biến đổi trở nên đời sống mới trong Chúa Giêsu Kitô (2 Cr 4, 7). Ngài làm cho chúng ta vui tươi và bình an như Tin mừng công bố: "Bình an cho các con" (Ga 20,19) cuộc sống vẫn luôn luôn đẹp vì có Chúa Thánh Thần là món quà vô giá của Thiên Chúa ban cho chúng ta (1 Cr 1, 4-9). Thế giới vẫn luôn được Thánh Thần hướng dẫn và mang chúng ta đến để hoàn thành công trình sáng tạo và cứu rỗi của Người (Ep 1, 3-14; Gl 5, 22-23; Gaudium et Spes đoạn 11). Trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta cảm nghịêm được sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa (Ga 14, 16; Cv 7, 55; 1, 8;Ep 1, 14; 1Pr 1, 12).
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta đứng trước sự lựa chọn: chọn một nghề để sống, chọn một người bạn đời, chọn một cách thức đối xử với nhau. Chúng ta có nhiều lựa chọn. Lựa chọn nào tốt nhất? Chúa Thánh Thần sẽ chỉ cho chúng ta, nếu chúng ta hướng về Ngài và xin Ngài chỉ dẫn. Có lúc chúng ta không có ý tưởng gì về điều chúng ta có thể làm: tình cảnh xem ra vô vọng, vô phương như trước cái chết của một người thân, trước sự thất bại của công việc chúng ta không biết phải làm gì. Hãy xin Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ chỉ dẫn cho bạn. Rẩt may mắn nếu tôi có một người bạn làm luật sư, một bác sỹ, một tâm lý gia, một cố vấn hôn nân, một chuyên viên về mọi lãnh vực, một người bạn biết mọi vấn đề, một người bạn rất thân thiết mà tôi có thể lui tới bất cứ lúc nào, ngày cũng như đêm và giả thiết người ấy sống trong nhà tôi. Đó là Chúa Thánh Thần, Ngài đang sống trong tôi. Ngoài việc chỉ cho chúng ta điều chúng ta phải làm, Chúa Thánh Thần còn giúp chúng ta thực hiện nữa vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Toàn Năng cũng như thông biết mọi sự. Chúng ta kêu cầu người trong Ca tiếp liên trong thánh lễ hôm nay; " Xin hãy đến, Lạy ánh sáng của tâm hồn'. Nhiều lần trong kinh nguyện Thánh Thể chúng ta cầu xin với Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã hứa "Người sẽ dạy chúng con tất cả sự thật"
Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu, và xin nhóm lửa tình yêu Chúa trong lòng chúng con. Amen.
93. Suy niệm của Lm. Giuse M. Lê Quốc Thăng.
Từ Pentêkostê chỉ có 2 lần được nhắc đến trong Cựu ước (Tobia 2, 1 và ở 2 Mcb 12, 31- 32). Từ này xuất xứ từ tiếng Hy-lạp, là một tính từ để chỉ thứ “50”; hiểu ngầm từ Hêmera, tức là “ngày thứ 50”. Từ này dùng để dịch từ Hipri hag schabu’ôt, tức là ngày lễ lớn của người Do-thái: Xh 23, 14- 17; Đnl 16, 16: “mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của anh em phải đến trình diện Đức Chúa, ở nơi Người chọn: vào dịp lễ bánh Không Men lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Người ta sẽ không đến trình diện Đức Chúa hay không nhưng mỗi người sẽ đem lễ vật theo khả năng, tuỳ theo phúc lành Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em.
Lề luật ban đầu còn mù mờ nhưng thường gắn bó với mùa gặt (Xh 34, 22). Theo Đnl 16, 9 người ta tính 7 tuần lễ từ ngày lưỡi liềm cắt giá lúa đầu tiên. Theo Lv 29, 15- 16 người ta tính 7 tuần lễ sau ngày dâng giá lúa đầu tiên lên Đức Chúa. Như thế lễ này là lễ Tạ ơn sau mùa gặt, hơn là dính dáng đến Lễ Vượt Qua. Điều này nhắc dân chúng về việc Đức Chúa đã ban Đất hứa, đã định cư và được mùa. Nghi thức chính yếu của nghi lễ này là dâng các của lễ Đầu Mùa: Ngươi cũng sẽ giữ tục lệ mừng lễ mùa gặt, lễ dâng của đầu mùa, do sức lao động của ngươi làm ra do công ngươi giao nắng ngoài đồng” (Xh 23, 16). “Ngươi sẽ mừng lễ các Tuần, dâng lúa mì đầu mùa” (Xh 34, 22). Sách dân số gọi ngày này là “Ngày hoa trái đầu mùa”. “Ngày hoa trái đầu mùa, khi dâng tiến Đức Chúa lễ phẩm mới vào lễ các Tuần” (Ds 28, 26). Theo sách Lêvi người ta dâng 2 bánh dậy men và nhiều lễ vật khác: “Các ngươi phải đem đến hai chiếc bánh để làm nghi thức tiến dâng, bánh làm bằng chín lít tinh bột và trộn men mà nướng: “đó là của đầu mùa dâng Đức Chúa” (Lv 23, 15- 20).
Chúng ta thấy lễ Ngũ Tuần chỉ là một lễ gắn liền với mùa gặt của dân định cư, không dính dáng gì đến lịch sử cứu độ. Nhưng sau thời lưu đày ở Babylon, nhiều địa phương đã gắn lễ này với giao ước Sinai. Tác giả quyển 2 Sử biên niên (16, 10- 15) cho thấy dân chúng lập lại lời thề trung thành với giao ước Sinai, vào tháng thứ ba dưới triều đại vua Asa. Nhóm Qumran cũng lấy lễ Ngũ Tuần làm ngày lễ lập lại lời giao ước Sinai.
Theo phụng vụ phương Tây, lễ này gắn kết với lễ Đầu Mùa: Đấng Phục sinh dâng lên Thiên Chúa Cha của lễ đầu mùa của mình trong ngày lễ Hiện xuống và mời tất cả môn-đệ của mình vào bàn Tiệc Thánh. Vì thế cho đến mãi thời Trung Cổ, lễ này là một trong ba ngày lễ buộc phải rước lễ. Chủ đề mùa gặt cũng như chủ đề về Thánh Thần như là hồng ân của ngày cánh chung được nổi bật trong thánh lễ này. Tại Rôma, thánh lễ này là thời điểm thứ hai để làm phép rửa tội cho các em bé, Giáo Hội Rôma chỉ rửa tội một lần trong đêm vọng phục sinh. Nhưng nếu có dự tòng nào bị bệnh đi xa chưa về kịp phải đền tội, phụ nữ ở cử, trọn ngày có thắng…thì rửa tội cho họ vào ngày lễ Hiện xuống.
I. Gợi Ý Bài Giảng
1. Chúa Thánh Thần Với Thế Giới: Giáo Hội luôn khẩn cầu: ‘Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến đổi mới mặt Địa cầu’ Trong Hiến Chế Gaudium et Spes số 38, Công đồng Vat. II đã minh xác: “Đức Kitô hoạt động trong lòng con người nhờ quyền năng Thánh Thần của Người không những bằng cách khơi dậy những khát vọng đời sau, nhưng còn từ những khát vọng đó cổ võ, tinh luyện và củng cố những ước vọng quảng đại thúc đẩy gia đình nhân loại biến cải cuộc sống của mình trở nên nhân đạo hơn và qui phục trái đất về cùng đích ấy. Quả thực ơn Chúa Thánh Thần tác động mỗi người một khác: có những người được gọi làm chứng nhân tỏ tường cho sự mong đợi quê trời bảo tồn chứng tích sống động trong gia đình nhân loại, một số khác được gọi để hiến thân phục vụ con người trong phạm vi thế trần, dùng sự phục vụ ấy chuẩn bị chất liệu cho nước trời. Người giải thoát tất cả, để sau khi từ bỏ lòng vị kỷ và tập trung mọi năng lực trần thế cho cuộc sống con người, tất cả hướng về ngày mai, ngày mà nhân loại trở nên của lễ đẹp lòng Thiên Chúa.” Thế giới này, với biết bao nỗ lực của nhân loại đang xây dựng những điều tốt đẹp, chắc chắn sẽ không bị phá hủy nhưng được đổi mới nhờ Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đang hiện diện và tác động nơi những con người đang hết lòng cổ võ, xây dựng hòa bình và công lý; Chúa Thánh Thần đang hiện diện và tác động trong những gì là Chân-Thiên-Mỹ nơi các tôn giáo và các nền văn hóa.
Giáo Hội và các Kitô hữu có trọng trách làm cho ơn Chúa Thánh Thần nảy sinh những hoa trái tốt đẹp cho con người và thế giới hôm nay. Cần phải đọc ra sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần nơi các tôn giáo, các nền văn hóa, nơi những anh em ngoài tôn giáo mình để biết tôn trọng và nhiệt thành cộng tác trong công cuộc xây dựng thế giới.
2. Chúa Thánh Thần Với Giáo Hội: Giáo Hội được khai sinh vào ngày lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ. Khi Chúa Giêsu thổi hơi trên các Tông đồ và ban Chúa Thánh Thần cho thấy rằng: sức sống và hơi thở của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần. Nhờ Chúa Thánh Thần Giáo Hội mới trường tồn, nơi Ngài Giáo Hội mới phát triển và không ngừng canh tân. Lịnh sử Giáo Hội đã minh chứng điều đó, một Công Đồng Vaticanô II thành công rực rỡ không ai có thể phủ nhận đó chính là luồng gió Chúa Thánh Thần thổi vào Giáo Hội. Mọi hoạt động của Giáo Hội đều phát xuất và được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng chính là tác nhân chính thúc đẩy Giáo Hội ra khơi theo lệnh truyền của Thầy Chí Thánh. Sức sống và tình yêu của Ngài giúp cho Giáo Hội và từng người trong Giáo Hội, đặc biệt là các vị Thừa sai có khả năng hội nhập, đi vào trong từng con tim của con người, vào từng dân tộc, từng nền văn hóa khác nhau để thực sự trở nên muối men và ánh sáng cho con người và cho thế giới. Có Chúa Thánh Thần Giáo Hội sẽ không đứng bên lề thế giới nhưng sẵn sàng nhập cuộc cùng the giới để làm cho hướng đi của nhân loại ngày càng tiến về một trời mời đất mới.
3. Chúa Thánh Thần Với Kitô Hữu: Thánh Tông đồ khẳng định: anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Là đền thờ có nghĩa là nơi cư ngụ, Chúa Thánh Thần đang ở trong mỗi người. Ngài ở trong chúng ta không phải một cách thụ động như khách tạm trú qua đường nhưng rất tích cực hoạt động nơi mỗi người. Kinh Thánh đã cho thấy sự họat động của Ngài như thế nào: hướng dẫn, ban ơn trợ lực, ban sự sống, thánh hóa, bầu chữa, an ủi … Toàn bộ cuộc sống của người Kitô hữu đều được Ngài chi phối bao bọc. Mỗi người cần phải khám phá ra sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời mình. Tôi đã thấy Ngài hiện diện ở đâu? Ngài đã và đang làm gì nơi tôi? Không chỉ khám phá sự hiện diện và các hoạt động của Ngài mà còn phải biết kiểm điểm đời sống xem đã bước theo Thần khí hay chưa? Đã bươc theo như thế nào? Như Thánh Phaolô dạy dỗ: “Hãy sống theo Thần khí…nếu chúng ta sống nhờ Thần khí, thì cũng hãy nhờ Thần khí mà tiến bước” (Gl 5, 16. 25). Đời Kitô hữu là đời sống và làm việc theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
94. Sự thật trọn vẹn.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Ai trong chúng ta cũng muốn biết sự thật, và căm ghét sự lừa lọc dối trá. Nhưng không dễ gặp được sự thật nơi người khác, cũng như nơi chính mình.
Để nói lên một sự thật, cần phải trả giá. Dám nghe một sự thật nhỏ, cần một can đảm lớn!
Đời người là một cuộc ruổi dong tìm sự thật.
Sự thật vừa đáng sợ, lại vừa đáng yêu.
Khi sống ở đời, Đức Giêsu đã nói và làm nhiều đieu, để cho các môn đệ thấy sự thật về mình. Ngài cho họ biết mọi điều Ngài nghe được từ Cha. Tuy vậy, Ngài vẫn còn nhiều điều phải nói với họ mà bây giờ họ không kham nổi (x. Ga 16,12).
Đức Giêsu không có thái độ bao cấp. Ngài chẳng đòi các môn đệ phải hiểu hết con người Ngài. Thánh Thần sẽ giúp họ làm điều đó sau khi Ngài phục sinh.
”Khi nào Thần Khí sự thật đến,
Người sẽ dẫn anh em tới sự thật trọn vẹn” (Ga 16,13)
Để biết sự thật trọn vẹn về Đức Giêsu, để hiểu việc làm và lời nói của Ngài, chúng ta cần có Thánh Thần làm người hướng đạo.
Đức Giêsu là một mầu nhiệm sâu thẳm khôn dò. Nhờ Thánh Thần, ta thấy Đức Giêsu luôn luôn mới. Càng đến gần, ta càng thấy Ngài siêu việt. Càng biết rõ Ngài, ta càng thấy Ngài lôi cuốn.
Nhờ Thánh Thần, Lời Chúa Giêsu luôn luôn mới. Đó không phải là những dòng chữ chết khô, nhưng là ánh sáng cho mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Nhờ Thánh Thần, Hội Thánh luôn luôn mới. Ngài là luồng gió mát lúc Hội Thánh gặp khó khăn, là luồng gió mạnh làm Hội Thánh chuyển mình thức tỉnh.
Chúa Thánh Thần không sống cho mình, nhưng cho Đấng sai mình là Đức Giêsu Kitô (x. Ga 15,26). Ngài chỉ mong cho Đức Kitô được tôn vinh (x. Ga 16,14)
Chúa Thánh Thần là phát ngôn viên của Đức Kitô. Ngài chỉ nói những gì Ngài đã nghe Đức Kitô nói. Ngài không loan báo điều gì mới lạ, nhưng chỉ giúp ta nhớ lại, hiểu và sống Tin Mừng.
Chúng ta cũng là những chứng nhân của Đức Kitô như Thánh Thần. Cần làm chứng như Ngài trong thái độ khiêm nhu từ bỏ.
Dù chúng ta là Kitô hữu, là người công giáo, chúng ta vẫn tren đường tìm kiếm sự thật trọn vẹn.
Sự thật bao giờ cũng lớn hơn suy nghĩ của ta. Sự thật ở nơi người khác tôn giáo, khác quan điểm...
Đừng tìm cách làm chủ hay độc quyền sự thật.
Hãy để cho sự thật chiếm lấy mình.
Hãy mềm mại để Thánh Thần dẫn vào sự thật, sự thật về Thiên Chúa, về Đức Kitô, về tôi và tha nhân.
Có những sự thật rất thường, rất nhỏ, nhưng khó nuốt.
Chỉ khi chấp nhận chúng, tôi mới gặp được Đức Kitô.
Ngài là Sự Thật viết hoa, Sự Thật đem lại tự do (x. Ga 8,32).
Gợi Ý Chia Sẻ
Chúa Thánh Thần hoạt động ở khắp nơi. Ngài đem lại sức sống cho mọi người. Có khi nào bạn thấy Ngài hoạt động nơi những người ngoài Kitô giáo không? Có khi nào bạn thán phục vì lối sống siêu thoát của một phật tử không?
Sự thật vừa đáng sợ lại vừa đáng yêu. Bạn có sợ biết sự thật về mình không? Bạn có can đảm nói sự thật một cách đầy yêu thương không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ban sức sống cho chúng con. Xin cho cuộc đời Kitô hữu của chúng con đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc, nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày. Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới, cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống, thế giới hôm nay luôn bị đe dọa bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh; mạng sống con người bị coi rẻ. Xin cho chúng con biết say mê sự sống, và gieo vãi sự sống khắp nơi.
Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới để con người có thể hiểu nhau hơn và đón nhận nhau trong yêu thương.
95. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn quan niệm thế nào về Thánh Thần? Ngài có đóng vai trò gì quan trọng trong đời sống Kitô hữu của bạn không? Cụ thể là gì?
2. Kế hoạch phát triển Giáo Hội của Thiên Chúa là «men trong bột». Nếu Thánh Thần kêu gọi bạn trở nên «men» cho mọi người, bạn có đáp lại lời mời gọi ấy không?
3. Muốn thật sự gặp gỡ Thánh Thần, phải thực hiện sự gặp gỡ ấy thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Thánh Thần hoạt động mạnh mẽ, nhưng… bị quên lãng
Từ khi Giáo Hội khai sinh, vai trò và hoạt động của Thánh Thần mới được chú ý tới nhiều, qua sự ý thức và nhấn mạnh của Giáo Hội, đặc biệt của Đức Giêsu, của các tông đồ. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa ban Đấng Bảo Trợ, An Ủi cho Giáo Hội: «Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi» (Ga 14,16). Và Đấng Bảo Trơ ấy chính là Thánh Thần: «Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em» (Ga 14,26). Đức Giêsu đã ra đi để giao lại nhân loại và Giáo Hội cho Thánh Thần: «Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em» (Ga 15,26). Chính vì thế, hiện nay chúng ta đang sống trong thời hoạt động của Thánh Thần, Ngài đang hoạt động mạnh mẽ trong Giáo Hội và trong chính tâm hồn ta. Nhưng ta ít chú ý tới Ngài. Chúng ta thường tập trung quan tâm của mình vào Chúa Cha, nhất là Đức Giêsu. Vì thế, Thánh Thần trở thành vị Thiên Chúa bị quên lãng. Do đó, chúng ta ít hợp tác với Thánh Thần, và Thánh Thần không biến đổi ta một cách hữu hiệu được. Vì dù hoạt động mạnh mẽ thế nào, Thánh Thần vẫn luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Thánh Thần luôn luôn mời gọi, nhưng con người vẫn luôn luôn có thể làm ngơ vì không quan tâm, hoặc từ chối lời mời gọi đó. Chính vì thế, công việc của Thánh Thần thật het sức khó khăn.
2. Kế hoạch của Thiên Chúa
Thánh Thần là Đấng tiếp tục công trình của Đức Giêsu trong thế giới và Giáo Hội. Ngài luôn luôn thúc đẩy sự đổi mới trong Giáo Hội, để Giáo Hội ảnh hưởng tốt đến thế giới. Nhưng để được làm điều ấy, Thánh Thần luôn luôn phải hoạt động trong mỗi cá nhân. Cá nhân có thay đổi thì Giáo Hội mới thay đổi, cá nhân có nên thánh thì Giáo Hội mới thánh thiện. Tất cả mọi đều bắt đầu từ những ca nhân, và lan truyền từ cá nhân này sang cá nhân khác. Kế hoạch của Thiên Chúa để xây dựng Nước Trời là chiến lược «men trong bột» (x. Mt 13,33), «muối ướp đời» (x. Mt 5,13) hay «đèn sáng cho trần gian» (x. Mt 5,14). Men là một chất có hoạt tính, có khả năng biến đổi chất bột tiếp xúc với mình trở nên giống như mình. Mất hoạt tính này, men không còn là men nữa, nó trở thành một thứ bột vô dụng. Muối hay đèn cũng có hoạt tính tương tự. Mot hình ảnh khác là lửa, nhưng lửa có tác dụng lan truyền mạnh mẽ và nhanh chóng. Chính vì thế, Thánh Thần khi hiện xuống trên các tông đồ đã lấy hình lưỡi lửa làm biểu trưng cho mình.
Trong quá trình phát triển từ xưa đến nay, Giáo Hội vẫn theo chiến lược «men trong bột», nhưng phải nói rằng Giáo Hội đã phát triển theo chiều rộng nhiều hơn chiều sâu. Nội dung lan truyền chủ yếu là danh nghĩa, hình thức tôn giáo bên ngoài, hơn là đ¨ªch thực sống tinh thần Tin Mừng bên trong. Biết bao Kitô hữu chỉ giữ đạo theo tập tục (siêng năng đọc kinh, dâng lễ, chịu các bí tích), nói chung là chuộng những thực hành thấy được, và lấy đó làm đủ, mà ít sống đạo, ít đi vào chiều sâu tâm linh, ít khi thật sự gặp gỡ Thiên Chúa. Việc thờ phượng Thiên Chúa chưa đúng với tinh thần «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật» (Ga 4,24), mà còn mang nặng tính thể lý, bên ngoài, nên còn nhiều tính gia dối, không trung thực (ngoài và trong khác nhau). Vì thế, Giáo Hội dường như không còn phát triển mạnh như những thế kỷ trước nữa, thậm chí dừng lại hoặc sút giảm về mặt tỷ lệ dân số (mặc dù số lượng vẫn tăng theo đa phát triển dân số).
Chiến lược «men trong bột» đòi hỏi phải có những cá nhân thật tốt, thật nhiệt thành. Những cá nhân tốt ấy sẽ ảnh hưởng tốt sang những cá nhân khác bằng gương sáng, bằng những hoạt động nhiệt thành và tích cực, biến họ nên tốt, nên nhiệt thành như mình. Nhờ đó, những cá nhân tốt càng ngày càng được nhân lên. Càng nhiều cá nhân tốt thì Nước Trời càng phát triển, càng lớn mạnh. Nhưng ai sẽ là men đây? Thánh Than luôn mời gọi chúng ta trở nên «men,», không chỉ là «men» mà còn là «men tốt». Mỗi khi lắng đọng tâm hồn lại, chúng ta đều nghe thấy tiếng Ngài mời gọi.
3. Làm sao trở thành men tốt?
Trong chiến lược phát triển Nước Trời, «men trong bột» phải có một «hoạt tính» rất mạnh, nghĩa là có khả năng biến đổi người khác nên tốt và nhiệt thành giống như mình. Như vậy, chính mình phải là người tốt và nhiệt thành đã, chính mình phải thật sự sống tinh thần Tin Mừng đã. Muốn thế, ta phải tiếp xúc với Thánh Thần, nguồn phát sinh «hoạt tính» ấy. Nhưng làm sao tiếp xúc với Thánh Thần? Bằng cách kêu cầu Ngài với những kinh hay những bài ca về Thánh Thần chăng? Phải nói đo là những cách thấp nhất để tiếp xúc với Thánh Thần, thường chỉ dành cho những người chưa thể cầu nguyện tự phát hay chưa biết cách cầu nguyện. Muốn có một đời sống nội tâm thật sự, muốn tiến triển trên con đường tâm linh, ta cần phải tiếp xúc với Thánh Thần một cách thật sự và hữu hiệu.
4. Làm sao để tiếp xúc với Thánh Thần thật sự và hữu hiệu?
Muốn tiếp xúc với Ngài, trước hết phải biết Ngài ở đâu, bản chất của Ngài thế nào. Thánh Thần là thần khí (spirit = tức tinh thần), hiện diện khắp nơi, tràn đầy trong vũ trụ, trong không gian và thời gian. Chúng ta có tinh thần, và tinh thần của ta cũng là thần khí. Một cách nào đó, tinh thần của ta phần nào đồng bản chất với Ngài. Chính vì thế, muốn gặp gỡ Thánh Thần, phải gặp bằng chính thần khí hay tinh thần của ta. Đức Giêsu đã nhắc nhở: «Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật» (Ga 4,24). Nếu ngày xưa thánh Phaolô nói: «Chúng ta, những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí của Người, mới thật là những người được cắt bì» (Pl 3,3), thì ngày nay ta cũng có thể nói: chỉ những ai thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí mới là người Kitô hữu đích thực. Đó là những người thờ phượng Thiên Chúa bằng tinh thần, bằng tâm hồn, bằng ý thức và bằng tình yêu, bằng việc thật sự gặp gỡ và sống trong Thánh Thần, chứ không phải chỉ bằng những nghi thức bề ngoài, dù những nghi thức này lắm khi cũng cần thiết. Thờ phượng Thiên Chúa bên ngoài mà không có bên trong là thờ phượng trong giả dối, không phải là trong chân lý.
Thánh Thần tuy tràn lan trong vũ trụ, nhưng lại hiện diện «đặc sệt» và tràn đầy nhất trong tâm hồn ta: «Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?» (1Cr 3,16); «Thanh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần mà chính Thiên Chúa đã ban cho anh em» (1Cr 6,19). Vì thế, muốn gặp gỡ Thánh Thần, không gì tốt hơn là gặp Ngài trong chính bản thân mình, bằng tinh thần của mình. Việc gặp gỡ Ngài rat dễ dàng: chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Điều quan trọng trong việc gặp gỡ Thánh Thần là những ý thức và tâm tình có thực bên trong, chứ không phải là những lời cầu nguyện phát biểu ra, dù là phát biểu trong tâm trí. Tuy nhiên, nếu những lời ấy tự nhiên bộc phát ra từ đáy lòng, thì cũng là điều rất tốt. Tuyệt đối không nên sáng tác ra bất kỳ lời nào khi không có những tâm tình đích thực bên trong, vì cầu nguyện như thế là thờ phượng trong giả dối. Lời bộc phát ra phải luôn luôn phù hợp với tâm tình có thực bên trong mới là thờ phượng trong chân lý.
5. Ý thức và tâm tình phải có khi tiếp xúc với Thánh Thần
Khi hồi tâm để tiếp xúc với Thánh Thần, ngoài việc ý thức sự hiện diện thật sự của Ngài trong tâm hồn ta, ta nên ý thức rằng Ngài là nguồn sức mạnh, nguồn yêu thương của ta. Hãy giục lòng tin tưởng rằng: nếu năng tiếp xúc với Ngài thì sức mạnh và khả năng yêu thương vô biên của Ngài sẽ truyền sang ta, như năng lượng từ dòng điện truyền sang dụng cụ điện, làm dụng cụ ấy hoạt động. Thường xuyên tiếp xúc với Ngài như vậy, nội lực và tình thương của ta ngày càng tăng lên một cách cảm nghiệm được.
Ngoài ra, ta cần tan hòa trong Thánh Thần bằng tâm tình «tự hủy» (kenosis), «tự sát tế» của Đức Giêsu. Nghĩa là có sự quyết tâm muốn quên mình, xóa bỏ mình trước Thiên Chúa và tha nhân, không tự coi bản thân mình, ý riêng của mình, và những gì của mình là quan trọng. Tâm tình ta cần có là: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga 3,30), nhỏ đi chừng nào tốt chừng nấy.
Song song với tâm tình «tự hủy» cần phải có là tâm tình «vị tha». Nghĩa là có sự quyết tâm sống cho Thiên Chúa và tha nhân, đặc biệt sẵn sàng làm tất cả những gì Thánh Thần đề nghị để gieo tình thương và hạnh phúc nơi nơi, cho tất cả mọi người chung quanh ta.
Và cuối cùng là lắng nghe tiếng của Thánh Thần vang dội trong lòng mình. Tiếng của Ngài ngày càng trở nên rõ ràng và mạnh mẽ nếu ta luôn luôn quảng đại đáp lại lời mời gọi của Ngài. Tiếng của Ngài sẽ dần dần yếu đi nếu ta bỏ lơ hay không đ¨¢p lại lời mời gọi ấy.
Thường xuyên gặp gỡ Ngài như thế, chắc chắn cuộc đời của ta sẽ biến đổi và trở nên men tốt, muối tốt và ánh sáng rực rỡ cho xã hội, Giáo Hội và đặc biệt cho môi trường chung quanh ta. Và đó chính là cách ta «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật».
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã ban Thánh Thần cho thế giới. Nhưng dường như sự hiện diện của Ngài trong thế giới ít được người Kitô hữu quan tâm đến trong đời sống thực tế của mình. Nếu có thì thường chỉ được nhắc đến trong phụng vụ. Xin Cha giúp con năng tiếp xúc với Thánh Thần để được tan hòa trong Ngài và nhận được tràn đầy sức mạnh và khả năng yêu thương của Ngài. Nhờ đó con trở nên muối men cho đời, cho những người chung quanh con, để biến họ nên tốt lành và hạnh phúc hơn.
96. Ngôn ngữ toàn cầu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
1. Câu chuyện Tháp Babel
Sách Sáng Thế 11,1-9 kể câu chuyện về Tháp Babel.
Bấy giờ thiên hạ chỉ nói một thứ tiếng, sau khi định cư tại đồng bằng Senna, họ bàn luận với nhau: Ta hãy nung gạch và xây một ngọn tháp chọc trời, trước khi phân tán tới mọi miền trên mặt đất.
Trước ý định đầy kiêu căng và ngông cuồng đó, Thiên Chúa đã khiến tiếng nói của họ trở nên lộn xộn, người này không còn hiểu được người kia. Thế là họ đành phải ngưng việc xây tháp và ra đi mỗi người một ngả.
Hình ảnh tháp Babel mượn từ các tháp Ziggurat miền Lưỡng Hà: tháp vuông, nhiều tầng, càng cao tầng nhỏ lại. Những tháp này xây trong khu vực đền thờ với mục đích tôn giáo là để bắt liên lạc với thần trên cao bằng dâng lễ vật và làm bệ để thần lên xuống với con người. Ngày nay còn có nhiều di tích về các tháp này. Tác giả Thánh kinh mượn hình ảnh các tháp Ziggurat để cắt nghĩa tại sao loài người lại chia rẽ và phân tán, từ đó dạy bài học tôn giáo. Babel bởi động từ balal (làm cho lộn xộn). Tác giả dùng hình ảnh xây tháp Babel để chỉ tội cộng đồng của con người, muốn dựa vào sức lực và tài năng của mình để chống lại Chúa, gạt bỏ Chúa mà tự quyết định cho mình. Trong Cựu ước, Babel là kinh đô của một đế quốc hùng mạnh tượng trưng cho sự kiêu căng.
2. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất.
Một khi con người đã loại bỏ Chúa, tự nhiên chia rẽ và phân tán với đồng loại. Kiêu căng gây chia rẽ. Thiên Chúa là duy nhất và là giềng mối hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể được tái lập bởi và quanh Thiên Chúa. Ngày Hiên Xuống, Thánh Thần sẽ hiệp nhất nhân loại quanh Đức Kitô Phục Sinh (Cv 2,1-11). Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành. Thánh Thần là nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, gần nhau, và giúp Giáo Hoi trở thành Giáo Hội của mọi dân tộc.
Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, một tình trạng mới đã được nảy sinh. Bài đọc 1, sách Công vụ kể: Bấy giờ các môn đệ đang tụ họp ở một nơi, bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ao ào như gió thổi, ùa vào nhà nơi các ông đang hội họp. Lại thấy có hình lưỡi lửa tản ra và đậu xuống trên từng người. Tất cả đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần và bắt đầu nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Trong thời gian lễ Ngũ Tuần, có nhiều người Do thái từ khắp các nơi trở về Giêrusalem. Nghe tiếng ồn, họ liền tuốn đến. Và ai nấy đều bỡ ngỡ vì mỗi người đều nghe các Tông đồ nói tiếng của mình. Họ ngạc nhiên, sửng sốt, thán phục và bàn tán cùng nhau: Phải chăng chúng ta đều nghe họ dùng tiếng thổ âm của mình mà nói đến những sự cao trọng của Thiên Chúa?
Đây chính là một cuộc tụ họp đông đảo mà mọi người đều hiểu được nhau và cảm thông với nhau. Có được như vậy là do tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguồn sức sống mãnh liệt. Chúa Thánh Thần là sự trẻ trung của Giáo hội. Chúa Thánh Thần là năng lực đổi mới thế giới. Ngài như luồng gió cường tráng. Ngài như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động.
Qua hình ảnh lưỡi lửa và ơn nói nhiều thứ tiếng nơi các Tông đồ, chúng ta nhận thấy ngôn ngữ Chúa Thánh Thần dùng đã liên kết và tạo nên sự cảm thông. Đó chính là thứ ngôn ngữ của tình yêu. Thiếu vắng Ngài, thiếu vắng tác động của Ngài là thiếu vắng tình yêu, chúng ta không thể hiểu biết nhau, không thể xích lại gần nhau và không thể cảm thông với nhau. Khi đó hận thù sẽ bùng nổ.
Chương 17, Tin mừng Gioan là lời cầu nguyện đẹp nhất trong toàn bộ Kinh thánh mà Phụng vụ Lời Chúa đọc trong tuần lễ này, trong đó Chúa Giêsu với tư cách là Thượng tế, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người đã dâng Chúa Cha lời khấn nguyện. Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha tôn vinh Ngài qua cái chết và sự sống lại của Ngài. Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và cầu nguyện cho những ai tin vào Ngài được hiệp nhất trong yêu thương. Chúa Giêsu không cầu xin cho họ có sức mạnh, vì sức mạnh thường đưa con người vào nguy cơ ỷ lại chính mình, kiêu căng tự mãn. Chúa Giêsu cũng không cầu xin cho họ có quyền lực vì quyền lực dễ đưa con người vào hố sâu tham vọng, tham vong thống trị, tham vọng giàu sang và nhiều tham vọng khác. Khi cầu nguyện cho Giáo hội, Chúa Giêsu không xin cho Giáo hội được phát triển bằng sức mạnh và quyền lực, nhưng Ngài chỉ xin cho tất cả được hiệp nhất trong Ngài và hiệp nhất với nhau, để Ngài ở đâu thì họ cũng được ở đó và để họ được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là thần Chân Lý và Sự Thật, gìn giữ Giáo hội trong tình thương, hiệp nhất Giáo hội trong Chân Lý và thánh hiến Giáo hội trong Sự Thật.
3. Ngôn ngữ tình yêu
Vào năm 1887, một người Ba Lan tên là Zamenhof, đã tạo ra và cổ động cho một thứ ngôn ngữ quốc tế. Ông ước mong mọi người có thể sử dụng ngôn ngữ ấy một cách dễ dàng. Tuy nhiên, thứ ngôn ngữ quốc tế này đến nay vẫn giậm chân tại chỗ. Thế giới vẫn còn tràn ngập những hận thù và chiến tranh. Không đạt kết quả vì người ta không sử dụng thứ ngôn ngữ của tình yêu và khong đặt tình yêu làm nền tảng cho mọi mối liên hệ.
Tình yêu chân chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Tình yêu là một thứ ngôn ngữ mà ai cũng có thể hiểu được. Tình yêu không chỉ được nói bằng lời, bằng tiếng. Tình yêu còn được nói bằng thái độ, bằng cử chỉ, bằng việc làm và bằng cả cuộc sống đong đầy tình bác ái huynh đệ.
Một ánh mắt thông cảm, một cử chỉ thân thiện, một việc làm giúp đỡ, ngôn ngữ tình yêu dễ hiểu dễ gần nhau. Ngôn ngữ này giúp con người hiểu được nhau và hiểu được chính Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là tình yêu nên ai yêu thương thì gặp được Thiên Chúa.
Rất nhiều khi nhờ những hành động bác ái yêu thương mà những kẻ tội lỗi biet đường ăn năn trở về cùng Chúa. Người thời nay không còn tin vào những lý thuyết đẹp, những lời nói hay, những hứa hẹn xa vời thực tế. Những lý thuyết đẹp phải được kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời noi hay chỉ có giá trị khi đi đôi với những việc làm tốt. Vì thế, muốn làm chứng cho Chúa, người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời sống đạo gương mẫu không phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ. Nhưng nhất là phải gương mẫu trong cách ăn nết ở.
Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt chia sẽ câu chuyện thật cảm động: Thỉnh thoảng tôi có dịp gặp một ông trùm xứ Long Châu. Long Châu là một giáo xứ thuộc giáo phận Nam ninh. Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là sau 20 năm hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa. Cứ mỗi dịp lễ Phục Sinh và Giáng Sinh có khoảng 20 người xin rửa tội. Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: “Nhờ đời sống gia đình”. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoa với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. Số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng thương yêu kính trọng nhau, con cái vâng lời cha mẹ, anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: “Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình”. Nhờ tấm gương sống đạo của gia đình ông trùm mà mọi người trong làng tin theo Chúa. Những anh em ngoài Công giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.
Trong đời sống gia đình cũng như trong sinh hoạt xã hội, đừng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của hận thù, hiềm khích. Đừng nói với nhau bằng ngôn ngữ của chia rẽ, nghi kị. Hãy nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ của tình yêu, ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần. Vì ngôn ngữ của tình yêu chính là ngôn ngữ tạo được sự cảm thông và bất cứ ai cũng có thể hiểu được.
Máy vi tính là phát minh hiện đại của con người. Máy cũng có một thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin và trao đổi liên lac với nhau nhanh chóng.
Trong đời sống, con người dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việt Nam... cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay từ thuở sơ sinh ai cũng có, ai cũng biết. Đó là ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả mọi người đều hiểu được cả.
Ngôn ngư tình yêu phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhạy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự sống một con người. Qua ngôn ngữ tình yêu, mối liên lạc tình người được xây dựng từ cha mẹ tới con cái, con người với nhau trong đời sống.
Ngôn ngữ tình yêu không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ Nho, chữ Thái lan, chữ Ả rập... cũng không bằng những dấu hiệu chương trình ly luận toán học như ngôn ngữ của máy vi tính. Ngôn ngữ tình yêu từ bẩm sinh đã nằm ẩn sâu trong trái tim tâm hồn mỗi người. Ai ai cũng có chương trình ngôn ngữ đó và đều có thể sử dụng được chương trình này.
Dù là tiếng mẹ đẻ, ta cũng cần phải học, phải mài giũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phai học cách sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm.
Những sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng gây ra. Cần phải điều chỉnh lại cách sử dụng sao cho đúng. Trong ngôn ngữ tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này sai lỗi là do con người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ tình yêu. Khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình hoặc là muốn sử dụng sai của riêng mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không còn truyền đi tín hiệu thông tin, không hiểu nhau được nữa.
Những sai lầm đó là do thiếu tình liên đới với nhau, do chỉ chú ý tìm quyền lợi riêng tư cho mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hòa và tình liên đới trong cuộc sống.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, các thánh Tông đồ đã tìm ra được ngôn ngữ chung cho cả nhân loại. Ngôn ngữ tình yêu do Chúa Thánh Thần mang đến và ghi khắc trong tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được Tin mừng ơn cứu độ của Chúa Giêsu và đến với nhau rồi cùng nhau tìm về với Thiên Chúa. Ngôn ngữ Thánh Thần kiến tạo một gia đình, mọi người là anh em con một Cha trên trời.
Chúa Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ này khác gì là “tiếng mẹ đẻ” của con người: ngôn ngữ tình yêu – ngôn ngữ của toàn cầu.
Kinh Thánh đã được dịch ra hơn hai ngàn ngôn ngữ. Chúng ta còn cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu, đó là ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu, để chúng con luôn nói với nhau bằng ngôn ngữ của Ngài, ngôn ngữ yêu thương và hiệp nhất. Amen.
97. Ân huệ Chúa Thánh Thần - Lm. Nguyễn Hữu An.
Khi hai người quý mến nhau, hay thương yêu nhau, để biểu lộ tình yêu họ sẽ tặng cho nhau những món quà quý giá: một cánh hoa, một tấm thiệp, một món quà... Một tặng phẩm hay một ân huệ mà một người đem tặng cho người khác là do lòng quảng đại và nhân hậu. Quảng đại vì người tặng hoàn toàn tự nguyện. Nhân hậu vì tình thương được thể hiện qua tặng phẩm.
Sự sống, sức khoẻ, tài năng, bình an, của cải, con cái... là những ân ban của Thiên Chúa cho con người. Ân huệ lớn nhất, ơn trọng đại nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại là Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là Ân Ban lớn lao cho Giáo Hội và cho Đức Maria.
1. Ân huệ Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội
Đức Kitô là người đầu tiên đã quan niệm tình yêu một cách vị tha chưa ai từng nghe thấy: “ Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng mình vì bận hữu” (Ga 15, 13). Vì yêu thương con người, Ngài đã chịu khổ nạn, đã phục sinh và trao ban sự sống mới cho nhân loại. Đó là sự sống thần linh, là Chúa Thánh Thần.
Hôm nay đây trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông Đồ đang họp nhau cầu nguyện trong nhà Tiêc Ly cùng với Đức Maria. Chúa Thánh Thần đã Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người, ban tràn đầy sức sống mới. Quyền năng Chúa Thánh Thần đến trên Giáo hội với sức lay động và chuyển thông.
Sức lay động vì Chúa Thánh Thần đã đến như thể cuồng phong thổi vang dậy đầy nhà. Ghế bàn không bay bổng, tường - mái nhà vẫn nằm yên, nhưng lòng người đã được lay động. Quyền năng Chúa Thánh Thần như gió mạnh đã làm bật tung cac ổ khoá, các cửa to cửa nhỏ của ngôi nhà các Tông Đồ đang ẩn náu. Quyền năng Thánh Thần tung họ ra khỏi pháo đài để với hai bàn tay không và một trái tim đầy nhiệt huyết họ đi vào thế giới rao giàng Tin Mừng Đức Giesu Phục Sinh.
Được sức lay động và đầy lửa Thánh Thần, các Tông Đồ cùng lên tiếng cao rao những kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Phêrô, lòng đầy Thánh Thần, đã hùng hồn thuyết giảng vể Chúa Giêsu Thương Khó và phục sinh. Có 3.000 người xin được Rửa Tội. Giáo Hội được khai sinh từ đó vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Thánh Thần đến, Giáo Hội khai sinh.
Tác động của Chúa Thánh Thần trên Giáo Hội thật mãnh liệt. Chỉ một nhóm Tông Đồ nhỏ bé, sợ hãi, co cụm, hoang mang, lúc nào cũng cửa đóng then cài. Thế mà giờ đây khi được tràn đầy Thánh Thần họ đã trở nên mạnh mẽ phi thường, hiên ngang, can trường làm chứng và loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Các Ngài được trang bị bằng quyền năng Thánh Thần để bẻ gãy sức mạnh của sự dữ, tội lỗi.
Dù bị đe dọa đòn vọt, dù gông cùm tù tội, các ngài vẫn trung kiên một niềm tin vào Chúa. Các Ngài đã lấy máu đào minh chứng cho lời rao giảng. Dù bị đàn áp bách hại, Giáo Hội vẫn lớn mạnh không ngừng. Hai mươi thế kỷ qua, con thuyền Giáo Hội do người dân chài Galilê cầm lái vẫn lướt qua mọi thăng trầm của lịch sử với muôn vàn thử thách giông tố để luôn đi tới.
Vậy thì bí quyết ẩn tàng trong đó và lý do tồn tại vĩnh cửu của Giáo Hội là gì nếu không phải chính là sức mạnh là quyền năng Chúa Thánh Thần.
Ngày nay, Giáo Hội vẫn chỉ có một sức mạnh đặc biệt, đó là quyền năng Chúa Thánh Thần. Với quyền năng này Giáo Hội không bao giờ chịu đóng chặt cửa để an hưởng hay cố thủ. Nhưng luôn ra khỏi tháp ngà để rao truyền Tin Mừng, dấn thân vào cuộc sống muôn mặt của thời đại, đồng hành và thích ứng với nhân loại trong thế giới ngày nay.
Công Đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống Mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần vẫn luôn thổi sinh khí mới và ban cho Giáo Hội những ân huệ lớn lao. Mẹ Têrêxa Calcutta, Cha Thánh Piô, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II là những gương mặt vĩ đại đã và đang làm bừng lên sức sống tình thương, hoà bình của Chúa Thánh Thần trong thế giới sục sôi vì chiến tranh và hận thù này.
2. Ân huệ Thánh Thần cho Đức Maria
Ngày Lễ Ngũ Tuần, Đức Maria cũng tràn đầy Thánh Thần. Khi các Tông Đồ ra đi rao giảng tin mừng thì Đức Mẹ lại rút vào nơi thanh vắng, thinh lặng sống ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa (Col 3, 3). Chính Đức Mẹ đã khai sáng trong Giáo Hội ơn gọi sống đời ẩn dật và cầu nguyện bên cạnh đời sống tông đồ hoạt động.
Điều đó cho chúng ta thấy, trong Giáo Hội hoạt động cho dù vì Nước Trời chưa phải là tất cả. Giáo hội còn cần đến những tâm hồn cầu nguyện để lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trước khi dấn thân vào sứ vụ. Thư Mục Vụ năm 1999 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã xác định: “Người loan báo Tin mừng phải là một nhà chiêm niệm trong hoạt động” (Số 14). Giao Hội cần lời cầu nguyện cũng như cần hoạt động cho công cuộc Truyền Giáo. Đức Mẹ là nguyên mẫu cho đời sống cầu nguyện này. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu suốt đời sống trong Dòng Kín, thế mà Giáo Hội đã đặt Ngài làm Bổn Mạng các xứ Truyền Giáo.
Lễ Ngũ Tuần kết thúc chu kỳ Phụng Vụ mùa Phục sinh với Ân Huệ Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội cầu nguyện và hoạt động. Mỗi người tín hữu được mời gọi sống hai chiều kích ấy mỗi ngày để hoa trái Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, hiền hoà, tiết độ... được trổ sinh trong tâm hồn và cuộc sống chúng ta (Gl 5, 23 - 23).
98. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Thánh Thần hiện xuống khai mở "những kênh truyền thông" mới
Chúa Nhật tuần trước Lễ Thăng Thiên cũng là Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội. Giáo Hội khuyến khích người Công Giáo ở các quốc gia trên toàn cầu sử dụng tốt hơn các phương tiện truyền thông và các hình thức thông tin khác để chia sẻ Tin Mừng cho tất cả mọi người nam nữ.
Sứ điệp Truyền thông năm nay nêu bật tầm quan trọng của các trang mạng xã hội như là "cổng thông tin của sự thật và đức tin", và là "không gian mới cho việc loan báo Tin Mừng".
Cuối năm ngoái, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã mở tài khoản Twitter Giáo hoàng đầu tiên. Ngài mời gọi mọi người công nhận tiềm năng của các mạng truyền thông xã hội và thúc giục các tín hữu trong Năm Đức Tin cân nhắc xem làm thế nào để sự hiện diện của mình trên các mạng có thể giúp truyền bá thông điệp Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa cho tất cả mọi người.
Kể từ bản tweet đầu tiên do Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI gởi vào ngày 12/12/2012, hơn 6 triệu người đã theo dõi.
Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục sáng kiến đó, sử dụng các mạng lưới xã hội. Hiện nay tài khoản @Pontifex đăng các bản tweet bằng tiếng Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức, La Tinh, Ba Lan và Ả Rập. Con số bản tweet do Đức Giáo Hoàng Phanxicô gởi đi gia tăng rất nhanh.
Đức Hồng Y Carlo Martini từng nói: "Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13) chính là Tin Mừng truyền thông".
Truyền thông là làm cho con người có khả năng để nghe để hiểu, có khả năng để loan báo và có khả năng để chuyển thông một sứ điệp. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Truyền thông Tin Mừng chính là mang tin vui đến cho mọi người.
Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma, trong bài giảng "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần", ngài kể về tác động của Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em người Hmong.
"Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện này.
Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
- Anh chị em từ đâu đến?
- Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
- Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?
- Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.
- Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
- Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.
- Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!"
- Đó là đài phát thanh "Chân Lý".
- Một đài phát thanh GH công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!
- Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần! Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người Hmong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
- Thưa cha, không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
- Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
- Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30,chúng con ngưng làm việc thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX." (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).
Hiến chế Tín lý về Mạc khải của CĐ Vaticanô II có nói: "Mạc Khải là việc Thiên Chúa 'Truyền Thông Chính Mình' cho nhân loại" (DV 6). Với biến cố Hiện Xuống, việc truyền thông của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Kitô và tiếp tục được nối dài trong Giáo Hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lễ Hiện Xuống khai mở những "kênh truyền thông" mới. Vì thế, "Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phận dùng các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo ơn cứu độ và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn" (Inter Mirifica, số 3). Chúa Thánh Thần là linh hồn Giáo Hội. Ngài tác động và canh tân Giáo Hội thực thi sứ vụ loan Tin Mừng: "Giáo Hội canh tân và thanh tẩy chính mình không bao giờ ngừng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần" (Vui mừng và Hy vọng, 21). Sách Công Vụ Tông Đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy.
Suốt mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hylạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma. Giáo Hội đối diện với ba thách đố lớn là Do thái giáo, chính trị Rôma và triết học Hy lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do thái giáo, hội nhập vào triết học Hy lạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: "Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng".
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu".
Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng.
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa. Thế nhưng, những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, xa lộ thông tin, kỹ thuật số, toàn cầu hoá... Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: "Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do".
Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa.
Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?
Lời Chúa chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: "Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14, 26).
Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Môi trường này mang nơi mình ngôn ngữ thời đại, vì một thông điệp được phát đi từ nơi đây thường kèm theo hình ảnh và âm thanh. Điều này rất thuận lợi cho truyền thống của Kitô giáo, vốn mang rất nhiều yếu tố biểu tượng từ trong phụng vụ, kiến trúc nghệ thuật nơi các thánh đường, ảnh tượng thờ kính...Hơn nữa, Kitô giáo còn đi tiên phong trong các lãnh vực nghệ thuật, âm nhạc với mục đích diễn tả chân lý đức tin.
Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet...đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của "nền văn hóa mới" này. Có Chúa Thánh Thần đồng hành và hướng dẫn, chúng ta trở nên những chứng nhân của Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến khắp muôn nước muôn dân.
Ở đâu có Thần Khí, ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống. Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả "nhảy mừng trong lòng mẹ". Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
99. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Suốt các Chúa Nhật Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ. Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Công vụ Tông đồ muốn trình bày Chúa Giêsu là người Tôi Tớ mà Isaia đã loan báo, là Đấng Kitô đến đem ơn cứu rỗi cho tât cả mọi người nhờ sự chết và sống lại của Ngài. Các Tông đồ là những chứng nhân trực tiếp được Ngài trao sứ mệnh đi rao giảng và làm chứng. Vâng lệnh Chúa truyền, các Tông đồ đã nhiệt thành rao giảng và làm chứng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ duy nhất và phổ quát. Các ông kêu gọi mọi người hãy tin và trở lại để lãnh nhận phép Thánh tẩy hầu được tha thứ tội lỗi và bước đi trên con đường cứu rỗi nhờ vào các ân huệ Thần khí.
Được các Tông đồ dạy dỗ và hướng dẫn, những Kitô hữu làm thành một cộng đoàn hiệp nhất bằng mối dây tình yêu, sự cầu nguyện, việc bẻ bánh và cuộc sống vui tươi giữa trăm chiều thử thách. Họ làm thành Giáo hội của Chúa Kitô, Dân mới của Thiên Chúa, thừa hưởng và hoàn thành những gì đã được trao cho dân cũ là Israel.
Lý tưởng của cộng đoàn: kiên trì nghe lời dạy của các Tông đồ (2,42), sống hiệp thông huynh đệ (2,44), hiệp nhất với nhau: một tấm lòng, một linh hồn (4,32), sống sự chia sẻ vật chất (2,44), hiệp thông trong bẻ bánh (2,42). Cộng đoàn được đặt dưới sự hướng dẫn và trách nhiệm của các Tông đồ, nhóm 7 phó tế, các Niên trưởng được các Tông đồ cắt đặt (14,23) và các ngôn sứ được Thánh Thần linh hứng để dạy dỗ, khuyên nhủ và khích lệ (11,27; 15,32).
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hylạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma, phải đối diện với ba thách đố lớn là Dothái giáo, chính trị Rôma và triết học Hylạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Dothái giáo, hội nhập vào triết học Hylạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: "Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng"
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu".
Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng. Đoạn sách Công Vụ Tông Đồ của Chúa Nhật hôm nay kể lại vị sứ giả đầu tiên đã mang Tin Mừng đến cho người ngoại giáo, đó là người Dothái nói tiếng Hylạp, phó tế Philipphê. Ngài tới thủ đô Samari rao giảng làm phép lạ, chữa lành nhiều bệnh tật. Người ta vui mừng đón nhận và xin theo Đạo (Cv 8, 5-8). Sau khi xứ Samari được đón nhận Tin Mừng, các Tông Đồ đã cử Phêrô và Gioan đến cũng cố Niềm Tin cho các tân tòng (Cv 8, 14-24).
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội, càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc, họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh, những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần, trong mọi thử thách Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ, trong mọi biến cố đau thương luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa, thế nhưng những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, bùng nổ thông tin, toàn cầu hoá... Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: "Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do".
Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa.
Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?
Lời Chúa hôm nay chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: "Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14, 26).
Khi người tín hữu chúng ta được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người tín hữu làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa. "Trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Việt Nam cần xác tín và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông, phát huy nhiệt tình truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Kitô trên đất nước này". (Thư Chung 2010, số 9).
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả "nhảy mừng trong lòng mẹ" Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
100. “Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng”
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Ngày 4.6.2014, Dòng MTG Phan thiết tổ chức lễ Khấn Dòng cho 22 Nữ tu Khấn Trọn Đời và 34 Nữ Tu Khấn Lần Đầu.
Từ câu chuyện sơ Cristina Scuccia tham gia chương trình “The voice of Italy” của đài TV RAI 2, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống đã ban huấn từ trong buổi gặp gỡ các tân Khấn Sinh sáng 24.05.2014, tại Dòng MTGPT.
“Hơn hai tháng nay (từ 20.03.2014), qua các phương tiện truyền thông, người ta nhắc nhiều đến tên tuổi của một nữ tu: sơ Cristina Scuccia, 25 tuổi, thuộc Hội Dòng Ursuline Thánh Gia, Milano. Đơn giản chỉ vì sơ tham gia chương trình The voice of Italy của đài TV RAI 2 mùa giải năm nay và đã vượt qua được những vòng thi đầy hứng thú. Ở vòng giấu mặt, khi nghe sơ hát bài hit “No One” của Alicia Keys, cả 4 giám khảo (2 nam, 2 nữ) đều nhanh chóng quay mặt lại, tròn xoe đôi mắt kinh ngạc từ chăm chú đến thích thú. Trên YouTube, màn trình diễn của sơ chỉ qua ba ngày đã đạt 13 triệu lượt xem. Tính đến nay, số lượt xem đa hơn 49 triệu.
Alicia Keys, tác giả bài hát đã bày tỏ sự thán phục bằng chữ “beautiful”. Diễn viên nổi tiếng Whoopi Goldberg, vai chính trong phim “Sister Act” cũng để lời tán thưởng. Đặc biệt, Hồng y Gian Franco Ravasi, chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Văn Hóa, trên trang Twitter đã khích lệ bằng một câu Kinh Thánh: “Mỗi người hãy dùng ơn Chúa ban để phục vụ người khác (1Pr 4,10)”.
Giải thích về việc tham gia cuộc thi, sơ Cristina cho biết: “Vì ĐGH Phanxicô kêu gọi hãy mang tiếng nói của Chúa đến với mọi người”. Chính với câu nói đơn giản này, người ta thấy xuất hiện tiếng nói của Chúa và bóng dáng của ĐGH một trật. Báo chí dựa vào đây để khẳng định tiếng hát của sơ là cách đem Chúa đến với mọi người, nhất là các bạn trẻ vốn gần gũi với ngôn ngữ âm nhạc, đồng thời cũng cho thấy dẫu là môi trường đời hay ngay cả những bài hát đời, nếu trình bày với hết tâm hồn, cũng có thể quy hướng người ta về nguồn chân thiện mỹ là chính Thiên Chúa. Còn chúng ta ở đây lại muốn nói đến sự gắn bó với Giáo Hội qua việc nêu danh ĐGH Phanxicô và lời kêu gọi của ngài cho công cuộc truyền giáo mới vốn cần đen nhiệt tình mới, phương pháp mới và ngôn ngữ mới. Hát chính là một trong những ngôn ngữ hiệu quả rất nên được khai thác và sử dụng khi thi hành sứ vụ truyền giáo. Kinh nghiệm, các chị em cũng biết đó: người ta thuộc lời bài hát hơn là nhớ lời bài giảng!
Được hỏi có ngại gì không nếu Tòa Thánh biết việc nữ tu tham dự cuộc thi, sơ Cristina nói: “Hy vọng ĐGH Phanxicô sẽ điện thoại cho tôi bây giờ!”. Hát do gợi ý của vị cha chung và hát xong lại mong được tiếp nguồn vào sứ vụ chung của Giáo Hội.”…
Sơ Cristina đã dùng đặc sủng Chúa Thánh Thần ban cho mình để sống chứng nhân: Tôi có một món quà để trao tặng. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng.”.
Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống, bài đọc 1 kể: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho… mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2, 1-4).
Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy, tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 8).
Với sức mạnh của Thánh Thần, Thánh Phêrô và các Tông Đồ đã ra đi rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. Trong mọi thời đại, bằng mọi ngôn ngữ, Giáo Hội khắp thế giới tiếp tục tuyên xưng những kỳ công Thiên Chúa và kêu gọi các dân tộc, các quốc gia tiến đến với đức tin, hy vọng và cuộc sống mới trong Đức Kitô.
1. Làm chứng trong quyền năng Thánh Thần
Chúa Giêsu nói đến sứ vụ làm chứng của Chúa Thánh Thần: “ Là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em từng ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27). Làm chứng cho Chúa Giêsu chỉ có thể thực hiện trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, chứ không thể chỉ bằng sức lực của con người.
2. Giáo hội tiếp nối sứ mạng Chúa Giêsu
Chúa Giêsu là Người Con có kinh nghiệm trọn vẹn về tình yêu của Chúa Cha, biết rõ ý muốn của Chúa Cha, biết rõ chương trình cứu độ của Chúa Cha. Ngài là chứng nhân trung thành của Chúa Cha, chỉ nói những điều Chúa Cha muốn, thi hành những điều Chúa Cha truyền dạy.
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần tiếp nối sứ mạng chứng tá của Chúa Giêsu, cùng với Giáo hội và trong lòng Giáo hội.
Sứ mạng làm chứng của Giáo hội luôn luôn thể hiện cùng với và trong Chúa Thánh Thần. Giáo hội đa được Chúa Phục Sinh thổi hơi vào và trao ban Thánh Thần. Chúa Thánh Thần từ đó luôn ở với Giáo hội và trong Giáo hội. Giáo hội đã luôn nổ lực làm chứng cho Chúa Giêsu, trải dài suốt hai nghìn năm lịch sử, trải qua nhưng thăng trầm những phong ba bão táp của trần thế.
3. Sứ mạng làm chứng của người Kitô hữu:
Mỗi người Kitô hữu được sinh ra nhờ phép rửa ở trong lòng Giáo hội và được xức dầu thánh một cách đặc biệt trong Bí tích Thêm sức, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần để thông phần sứ mạng làm chứng của Giáo hội.
Trong Bí tích Thêm Sức nhận lãnh, không những các ơn Chúa Thánh Thần, mà là chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta như một sức mạnh từ trên cao, như là “Thần lực của Thiên Chúa”. Đó là sức mạnh của Tình yêu mạnh hơn sự chết biểu lộ nơi Sự Sống lại của Chúa Giêsu, sức mạnh của Chân lý và Sự Thật. Đó là sức mạnh cuốn hút của cái Đẹp không phai tàn của Thiên Chúa, của cái Đẹp thần linh tiềm ẩn trong mọi cái đẹp đích thực.
4. Nhạc sĩ, Ca sĩ làm chứng cho Thiên Chúa Tuyệt Mỹ
Chúa là Chân Thiện Mỹ, nên sức mạnh của Chân Thiện Mỹ là “Thần Lực” của chính Chúa. Muon làm chứng cho Chúa là Chân Thiện Mỹ, phải có Thần lực của Chúa. Nếu chúng ta có sức mạnh của Chúa để làm chứng cho Ngài, thì đó là làm chứng chứng cho Thiên Chúa là cội nguồn của Chân Thiện Mỹ.
Có thể diễn tả net đặc trưng: các Giám mục, Linh mục là những chứng nhân cho chân lý; những người làm việc bác ái xã hội làm chứng cho sự thiện; Nhạc sĩ, Ca sĩ làm chứng cho cái đẹp.
Chiêm ngắm và diễn tả vẽ đẹp thần linh có tác dụng làm cho con người say mê. Những nghệ sĩ chân chính như các nhạc sĩ, ca sĩ, thi sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư hay cả những biên đạo múa…đều là những người phục vụ cho cái đẹp, cũng là những chứng nhân rất cần thiết cho thế giới. Dĩ nhiên trong thế giới nghệ thuật, cũng như trong mọi lãnh vực khác của cuộc sống, vẫn có những phản chứng từ, có thể có tác dụng huỷ hoại tâm linh con người, như những thứ âm nhạc kích thích lòng tà dâm, những phim đồi truỵ, các thứ phim ảnh bạo lực…
Khi yêu những bông hoa, dòng suối, núi non, biển cả, chúng ta chìm vào trong thiên nhiên, ca hát ngợi khen Thiên Chúa cùng với các tiếng nói đa dạng của thiên nhiên, đó la làm chứng cho Thiên Chúa Đấng Tuyệt Mỹ.
Nhạc sĩ là chứng nhân cho vẻ đẹp thần linh. Nhạc sĩ viết thánh ca phụng vụ cùng chung mục đích với phụng vụ là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá con người.
Thánh nhạc phải thánh thiện vì nó có nguồn gốc là thánh, kèm theo lời ca của phụng vụ thánh, kèm theo những tác động thánh của phụng vụ và vì đó là lời cầu nguyện của Dân Chúa.Thánh nhạc được viết vì phụng vụ.Nhạc sĩ viết thánh ca để giúp người khác cầu nguyện. Lời của những bài thánh ca sử dụng chính thức trong phụng vụ luôn là lời cầu nguyện của Giáo hội. Như vậy người sáng tác thánh ca phải cầu nguyện mà sáng tác ra. Nếu như Linh mục cầu nguyện để soạn bài giảng thì Nhạc sĩ cầu nguyện để viết thánh ca. Một bài thánh ca hay được tạo ra bởi 2 lần cầu nguyện: người sáng tác cầu nguyện và người hát cầu nguyện, đựơc như vậy thì hát hay là cầu nguyện 2 lần.
Ca đoàn hát lễ cũng hát trong cung cách cầu nguyện. ĐGH Urbanô nói rằng: Nhạc là vì lễ chứ không phải lễ vì nhạc.Trong thông điệp “ Đấng Trung Gian”, ĐGH Piô XII đã viết “Ước gì tiếng hát toàn dân vang lên tới trời”. Giáo hội muốn giao dân tham dự tích vào phụng vụ và thánh ca là lời cầu nguyện của Dân Chúa.
“Hiến Chế Thánh Nhạc Trong Phụng Vụ” số 121, nói đến vai trò các nhạc sĩ Công Giáo. Ngoài kiến thức chuyên môn, Giáo hội đòi hỏi các nhạc sĩ những tiêu chuẩn cơ bản là nhạc sĩ phải có đời sống Kitô hữu đích thực thể hiện qua đức tin mạnh mẽ, đời sống đạo đức và tinh thần cầu nguyện. Nhạc sĩ sáng tác trong lúc cầu nguyện, không chỉ trong nhà thờ mà mọi nơi mọi lúc, nhạc sĩ chân chính có thể cầu nguyện để viết thánh ca.
ĐGH Piô X cũng dạy rằng: Thánh nhạc phải thánh, phải loại bỏ những gì là phàm tục không phải chỉ nơi bản chất thánh nhạc mà cả nơi người sáng tác và cách thể hiện.
Thánh nhạc đòi hỏi rất nhiều nơi các nhạc sĩ. Nhưng thực tế của cuộc sống với biết bao khó khăn. Phải bôn ba để nuôi sống gia đình, ít khi được quan tâm. Nhạc sĩ làm việc âm thầm vì Chúa vì Giáo hội. Đổi lại sư lao nhọc trong công việc, nhạc sĩ có nhiều niềm vui và hạnh phúc nơi các đứa con tinh thần của mình. Nhiều người đón nhận, nhiều Nhà thờ, nhiều cộng đoàn hát thánh ca của mình để tôn vinh Thiên Chúa, ca ngợi Đức Mẹ, các Thánh, đó là phần thưởng lớn lao cho nhạc sĩ sáng tác.
Nếu như cách loan báo Tin mừng Tình yêu hay nhất và hữu hiệu nhất của người Kitô hữu là loan báo bằng cuộc sống yêu thương và phục vụ thì Nhạc sĩ loan báo Tin mừng bằng những bài thánh ca đựơc viết khi cầu nguyện; dấn thân phục vụ trên con đường nghệ thuật cao quý. Nhạc sĩ làm chứng nhân cho cái đẹp thánh thiện nâng tâm hồn con người lên với Thiên Chúa Tuyệt Mỹ.
Đức cha Giuse cũng mong muốn các nữ tu hòa nhập vào xã hội bằng khả năng Chúa ban để loan báo Tin mừng: “Báo chí khẳng định tiếng hát của sơ Cristina là cách đem Chúa đến với mọi người, nhất là các bạn trẻ vốn gần gũi với ngôn ngữ âm nhạc, đồng thời cũng cho thấy dẫu là môi trường đời hay ngay cả những bài hát đời, nếu trình bày với hết tâm hồn, cũng có thể quy hướng người ta về nguồn chân thiện mỹ là chính Thiên Chúa…Tham gia sinh hoạt văn hóa là điều bình thường của các nữ tu trong xã hội. Nhiều sơ đàn giỏi hát hay vũ đẹp, nhiều sơ được gửi đi học nâng cấp chuyên sâu về các lãnh vực. Rất đáng khích lệ. Để nối dài cánh tay phục vụ khi tham gia đời sống mục vụ tai Giáo Hội địa phương… Nhưng góp mặt tại một chương trình đời thuần túy như dự thi The voice of Italy của sơ Cristina thì quả là họa hiếm. Giả như có nữ tu nào tham gia tiếng hát Idol của đài truyền hình TP.HCM chắc người ta sẽ thấy lạ lắm, ấy là không muốn nói đến hiệu ứng bên lề nữa”.
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống. Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả "nhảy mừng trong lòng mẹ". Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. Các Tông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Các Nhạc sĩ, Ca sĩ sống chưng nhân cho cái đẹp, loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
101. Dưới tác động Thánh Thần.
Suốt các Chúa Nhật Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ. Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn day của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hy-lạp và Rô-ma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rô-ma, phải đối diện với ba thách đố lớn là Do-thái giáo, chính trị Rô-ma và triết học Hy-lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do-thái giáo, hội nhập vào triết học Hy-lạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rô-ma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh I-rê-nê đã nói: “Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng”
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stê-pha-nô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giê-ru-sa-lem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hao Tertuliano được ứng nghiệm “Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu”.
Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng. Đoạn sách Công Vụ Tông Đồ của Chúa Nhật hôm nay kể lại vị sứ giả đầu tiên đã mang Tin Mừng đến cho người ngoại giáo, đó là người Do-thái nói tiếng Hy-lạp, phó tế Phi-lip-phê. Ngài tới thủ đô Sa-ma-ri rao giảng làm phép lạ, chữa lành nhiều bệnh tat. Người ta vui mừng đón nhận và xin theo Đạo (Cv 8, 5 - 8). Sau khi xứ Sa-ma-ri được đón nhận Tin Mừng, các Tông Đồ đã cử Phêrô và Gioan đến cũng cố Niềm Tin cho các tân tòng (Cv 8, 14 - 24).
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội, càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc, họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh, những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần, trong mọi thử thách Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ, trong mọi biến cố đau thương luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa, thế nhưng những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phuc không gian, bùng nổ thông tin, toàn cầu hoá... Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ, xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: “Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do”.
Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa. Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây? Bài Phúc Âm chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14, 26).
Khi người tín hữu chúng ta được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14, 21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga, 14, 27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, người tín hữu làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Ở đâu có Thần Khí là ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống, Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả “nhảy mừng trong lòng mẹ” Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bê-lem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
102. Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến!
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
40 ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến là cầu nguyện thiết tha: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.
Giáo hội xin Ngài đến để làm gì? Thưa, để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trat đường... (Ca tiếp liên).
Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Ngài là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x. Ga 16, 7). Ngài "hiện diện" trong lịch sử Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi. Giáo hội sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt va bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6), và vì thế, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ luôn đồng hành với Giáo hội để Ngài tiếp tục làm nhiệm vụ đổi mới và canh tân. Thần Chân Lý đã "nhập thể" trong Hội Thánh. Như lời ca nhập lễ diễn tả: "Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia."
Sách Tông đồ Công vụ thuật lại: "Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ noi" (Cv 2, 4). Thật là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần trong ngày Ngài hiện xuống trên các thánh Tông đồ và những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng ta có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quan Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng.
"Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp" (Cv 2, 2).
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: Ngôi nhà, sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con ngươi. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự, người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Những "Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực" (Gal 5, 22).
Phải khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi" (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: "Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế". Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Chúng ta đọc thấy trong sách Tông đồ Công vụ (...) Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên những người chịu phép rửa tội và làm cho họ ngập tràn niềm vui. Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên các Tông đồ; kể từ ngày hôm đó, Giáo hội, Vương Quốc của Đức Giêsu lan rộng khắp địa cầu, chính Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con điều khiển Giáo hội. Bằng sự thánh thiện, Ngài kiện toàn nơi tâm hồn con người ngay từ lúc khởi đầu Ơn Cứu Chuộc. Thánh Tôma Aquinô nói: "Ngài là linh hồn của thân thể nhiệm mầu là Giáo hội" (Tổng luận Thần học, I-II, q.106, a.1c.). Ngài ngự trong Giáo hội cách thường hằng, Ngài không ngừng trao ban sự sống và thánh hóa Giáo hội như lời Thánh Phaolô nói: "Vì Ngài lưu lại nơi các ngươi và ở trong các ngươi" (Ga 14, 17). Vì là Thần khí Sự Thật, "khi nào Ngài đến, Ngài sẽ hướng dẫn trong Chân Lý" (Ga 16, 13) và gìn giữ khỏi mọi sai lầm. Chính Ngài làm bừng lên trong Giáo hội sư phong phú siêu nhiêu: làm nảy sinh và triển nở những nhân đức anh hùng nơi tâm hồn các thánh trinh nữ; các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, ẩn tu, đó là một trong những dấu chỉ sự thánh thiện. Tóm lại, Chúa Thánh Than hoạt động trong tâm hồn nhân thế; nhờ linh hứng trong Hội Thánh, nhờ máu châu báu của Đức Giêsu Kitô đổ ra,"tinh tuyền, không vết nhơ, không tì ố" (Ep 5, 27), ngõ hầu tất chúng ta xứng đáng trình diện trước tòa Thiên Chua là Cha Đức Giêsu trong ngày thẩm phán.
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Thiên Chúa là Tình Yêu, số 33).
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!" Amen.
103. Sống trong Thần Khí – AM Trần Bình An
Vào ngày 18/5/1996, tôi được thụ phong Linh mục. Có ai đó nói với tôi rằng, vào dịp này bất cứ điều gì tôi cầu xin đều được lãnh nhận. Vì vậy tôi thưa với Chúa Giêsu, khi tôi nằm sấp trên nền cung thánh: “Lạy Chúa Giêsu, con biết con sẽ là một Linh mục theo ý nghĩa bí tích, nhưng con cũng muốn được rửa trong Thánh Thần theo ý nghĩa Lễ Ngũ Tuần.” Hai ngày sau khi lãnh chức, ngày 20/5/1996, tôi dự một nghi lễ cầu nguyện tại một giáo xứ địa phương, và tôi được rửa trong Thánh Thần.
Vào ngày được truyền chức, bạn tôi, Mary Beth, nói rằng em bé người hàng xóm của cô ấy bị bệnh nặng. Và những tháng sau khi chào đời, bé vẫn phải ở trong bệnh viện. Cô ấy xin tôi cầu nguyện cho nó. Tôi đã bỏ dở bữa tiệc và đi đến bệnh viện. Tôi nhớ hình ảnh đủ thứ ống dây cắm vào em bé. Tôi hỏi bố mẹ nó: “Anh chị có tin nếu tôi xức dầu cho em bé, thì nó sẽ được chữa lành không?” Họ đáp “có”, và tôi đã xức dầu cho nó. Ba ngày sau tôi gọi điện thoại và được biết em bé đã khỏi bệnh cách lạ lùng. Tôi nghĩ đó là biểu tượng cho bí tích đầu tiên tôi cử hành là xức dầu cho em bé bị bệnh nặng và nó được bình phục. Từ ngày đó việc cầu nguyện chữa lành là phần quan trọng trong thừa tác vụ của tôi. (Lm Stefan P. Starzynski, Tiếp tục tác vụ chữa lành của Chúa Giêsu)
Trong Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay Chúa Giêsu trao ban Đức Chúa Thánh Thần cho các tông đồ qua nghi thức biểu tượng “thổi hơi.”Ngay từ khi nhập thế và nhập thể, Chúa Thánh Thần đã đồng hành cùng Chúa Giêsu trên từng chặng đường cứu độ.
Nguồn Sống
Chinh từ Thần Khí phát sinh nguồn sống vạn vật. Thần Khi Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. (St 1, 2) Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. (St 1, 7)
Đức Mẹ Maria đã thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. (Mt 1, 18). Khi Chúa Giêsu vừa chịu phép rửa bới ông Gioan Tiền Hô, thì Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. (Mt 3, 16). Sau đó, Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ. (Mt 4, 1)…
Đấng Bảo Trợ
Ngay sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh, Người đã hiện ra và trao ban cho các môn đệ Thần Khí. Nhưng còn thiếu sự cộng tác, thiếu sự chuẩn bị đón nhận, thiếu sự hiệp thông, nên Thần Khí Chúa chưa thật sự tác động trên các ngài. Do vậy, mà cửa vẫn khóa, then vẫn cài chắc chắn, vì các ngài còn mãi hoảng sợ, kinh hãi người Do Thái, tâm hồn vẫn mất bình an và niềm vui.
Chỉ khi các ngài cùng nhau hiệp ý, đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, thì Thần Khí Chúa mới thật sự xuống với các ngài. Tái sinh, đổi mới, cùng bảo trợ các ngài.
Sau khi Chúa Giêsu Phục Sinh, vào chiều ngày Thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông, chúc bình an và sai đi rao giàng. Nói xong, người thổi hơi vào cac ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần… (Ga 20, 19-22)
Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín…(Ga 20, 26)
Trở về Giêrusalem, các tông đồ đều đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu. (Cv 1, 14) Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động, như tiếng gio mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần. (Cv 2 1-4)
Sống trong Thần Khí
Các Kitô hữu cũng được Chúa Thánh Thần ngự xuống khi lãnh nhận các phép Bi tích Rửa Tội và Thêm Sức. Thế nhưng tôi chẳng thấy được tái sinh, được biến đổi và được bảo trợ. Hình như tôi chẳng nhận được Bảy Ơn căn bản của Chúa Thánh Thần: Khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, hiểu biết, đạo đức và kính sợ Chúa. Phải chăng Chúa Thánh Thần bỏ rơi tôi, quên tôi rồi sao?
Không, chính vì tôi chưa sẵn sàng đón nhận Ngài, chưa trân trọng kính mời Ngài đến thăm. Phải chăng tôi đang bị những nhân khí, âm khí và tà khí hiệp lực, vây hãm chặt chẽ và nặng nề.
Nhân khí là những bản năng, những ham muốn vinh thân phì gia, những đam mê xác thịt. Âm khí là những khuynh hướng thế gian sa đọa. Tà khí là những cám dỗ ma quỷ, kiêu căng, hận thù, ganh ghét, giận dữ. Tất cả chúng biến tôi thành kẻ nô lệ xác thịt, nô lệ xã hội thực dụng và hưởng thụ, nô lệ ma quỷ kiêu căng, chống lại sự thật, sự công chính và sự sống viên mãn.
Tôi trở nên nhạy cảm với thú vui trần gian, xa dần Thần Khí, rồi dửng dưng và chống lại Thần Khí. Tôi đánh mất dần nhận thức tội lỗi. Tôi đương nhiên thuộc về cộng đồng, mà ngôn sứ Isaia đã phải thất vọng thốt lên: "Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng tâm hồn chúng thì xa Ta." (Is 29. 13).
Tôi thường vào mạng internet lùng sục, ngấu nghiến coi những tin tức giật gân, những xì căng đan các thần tượng, những chuyện tình, tiền, tù, tội. Thay vì truy cập vào các trang web nhà đạo, để tìm hiểu, học hỏi Lời Chúa, để suy tư nguyện ngẫm, nâng tâm hồn lên bằng những hạt giống tốt lành, có thể củng cố, phát triển, bồi dưỡng các nhơn đức Tin, Cậy, Mến,...
Tôi không có thì giờ hằng ngày đến với kinh nguyện, chầu lễ. Nhưng tôi vẫn thường xuyên vui vẻ thoải mái hằng giờ bên bạn bè đàn đúm. Yên tâm sống đạo bình thường như bao người khác. Riết rồi sống tầm thường và tầm bậy lúc nào chẳng hay.
Mẹ Têrêsa đã thuật lại kinh nghiệm nội tâm này: “Tôi luôn ý thức tôi không thể làm gì. Vì thế, tôi để mặc cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong tôi va Người muốn làm gì tùy ý. Đó là thành công của tôi”. Nhờ đó, một mình Mẹ đã lập 5 loại dòng tu khác nhau trên thế giới ngay cảở Liên xô, Rumani, Cuba, Albani... để làm việc truyền giáo..
Ngày lễ hôm nay, xin Chúa Thánh Thần ban cho tất cả chúng con được ơn tái sinh, biến đổi để trở nên con người mới phù hợp với thời đại. Xin Chúa Thánh Thần đến an ủi kẻ âu lo, bệnh tật, tù đày, đau khổ... và đến giúp đỡ cho các thanh niên thiếu nữ và trẻ em biết sống cuộc sống của Chúa Kitô phục sinh. (ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Bài giảng 43: Chúa Thánh Thần, Chúa Nhật 19/5/1991)
Xin Mẹ dạy chúng con luôn biết cầu nguyện, khấn xin Chúa Thánh Thần luôn đổ tràn hồng ân trên chúng con. Amen.
Lời nguyện:
Chúa Thánh Thần hằng gìn giữ, hướng dẫn, thánh hóa và canh tân Hội Thánh.Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh, luôn được tràn đầy Bảy ơn Đức Chúa Thánh Thần, mà hướng dẫn cộng đoàn dân Chúa. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.
Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ và phán: "Các con hãy nhận lãnh Thánh Thần"..Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho các Kitô-hữu, vâng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, mà trung thành sống đạo và trở nên ánh sáng cho trần gian. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.
Chúa Giêsu phán: "Thầy sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các con Đấng Bàu Chữa"..Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho những người nghèo khổ, đau yếu, bệnh tật, được ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ ủi an, mà vững tin trong đời sống đạo. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.
Chúa Thánh Thần làm cho các Tông đồ hiểu Lời Chúa, và can đảm loan báo Tin Mừng..Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho các Kitô-hữu, chân thành sống đạo Chúa, sống Đức Tin trong ơn sức mạnh can đảm của Chúa Thánh Thần. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.
Chúa Thánh Thần hiệp nhất các Kitô-hữu..Lạy Chúa, chúng con cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng con, nhờ tác động Chúa Thánh Thần, trở nên một cộng đoàn yêu thương, và cùng giúp nhau tiến về nhà Cha trên trời. Thành tâm chúng con cầu xin Chúa.
104. Suy niệm của Lm Nguyễn Minh Hùng.
SỨC MẠNH NÂNG ĐỠ ĐỨC TIN TRONG Ý THỨC TRUYỀN GIÁO
Ai mà không ít là một lần thấm thía nỗi đau, nỗi bất hạnh? Ban và tôi, khi sống trong cuộc đời này, lại không có những lần đức tin bị thử thách đó sao. Chẳng hạn khi ta phải bước đi trong lầm lũi, đi trong thất bại và chán nản: Đó có thể là cái chết bất ngờ của một người thân, một cơn bạo bệnh, một tình yêu bị phụ bạc... Đó cũng có thể là cái nghèo, cái dốt, là đứa con chưa ngoan, vợ chồng thiếu tin tưởng nhau... Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, đức tin bị chùn bước chăng?
Suy nghĩ về tính bấp bênh của thân phận, ta sẽ nhận ra ơn Chúa Thánh Thần là một mãnh lực lớn biết bao nhiêu giúp ta vượt qua và tin vững vàng. Nhất là những lúc ta phải sống chứng nhân cho Tin mừng của Chúa Kitô, dẫu là đang trong hạnh phúc hay khi rơi vào nỗi ô nhục, chán chường. Bởi thế, ta có thể nói mạnh rằng: CHÚA THÁNH THẦN LÀ SỨC MẠNH NÂNG ĐỠ ĐỨC TIN TRONG CHÍNH Ý THỨC TRUYỀN GIÁO NƠI MỖI NGƯỜI.
Ngày xưa, các thánh tông đồ cũng thế. Chúa Thánh thần đã nâng đỡ đức tin các thánh tông đồ nhiều lắm. Người đã từng hiện diện với các ông trong từng bước chân truyền giáo. Chính Chúa Thánh Thần đã làm cho kết quả của ơn gọi truyền giáo mà các thánh tông đồ nói riêng, các môn đệ Chúa Kitô nói chung, thực hiện trở thành một kết quả lớn lao, không phải chỉ một nơi chốn hay một khoảnh khắc nào, nhưng lan tỏa khắp thế giới, qua mọi thời, mọi thế hệ…
Vì tính người mỏng dòn, nên đức tin can được tôi luyện. Các thánh tông đồ đã được tôi luyện như thế: Chúa Giêsu, người mà thánh Phêrô đã từng đại diện anh em mình tuyên xưng là Con Thiên Chúa; người đã từng hiển dung trước mặt Phêrô, Gioan, Giacôbê; người đã từng làm phép lạ như “Đấng có uy quyền” trước mặt các ngài, bây giờ chỉ là một người bị đánh bại thê thảm. Có ai có thể tưởng tượng nỗi một Giêsu mà mình muốn đặt hết hy vọng vào đó như một cứu chúa, một nhà giai phóng để đưa dân tộc Do thái thoát khỏi bàn tay đô hộ của đế quốc La mã, bây giờ lại bị chính quyền kết án, bị các nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái treo lên thập giá, phơi thây giữa trời giữa đất, xuống không nổi. Trong hoàn cảnh đó niềm hy vọng của các tông đồ như một tim đèn chực tắt. Đức tin đang lụn dần. Có lẽ trong lòng các môn đệ của Chúa Giêsu lúc đó chỉ còn có thể réo lên ba tiếng “Mất tất cả!”.
Bài Tin Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay chứng minh điều đó. Thánh Gioan kể lại: Một buổi chiều Chúa nhật, các thánh tông đồ tụ họp và “đóng kín” cửa lại - tôi xin nhấn mạnh động từ “đóng kín”. Vì các thánh tông đồ không “đóng kín” để tránh sự on ào, không “đóng kín” để tạm quyên đi những lo toan đời thường, không “đóng kín” để gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng “đóng kín” vì “sợ người Do thái”. Và bởi “sợ”, nên dù “đóng kín”, các ngài vẫn ở trong tâm trạng rối bời.
Nhưng khi Chúa Thánh Thần đến, đức tin của các thánh tông đồ trở nên mạnh mẽ. Chính Chúa Thánh Thần đã phá vỡ tâm trạng rối bời này. Ý thức truyền giáo phát triển từ con số không, bỗng vượt quá sức người bé bỏng của cac ngài, và tỷ lệ thuận với lòng can đảm phát xuất từ một đức tin dũng mãnh: Tin vào Đấng phục sinh. Từ đây, chính nhờ Chúa Thánh Thần tác động, làm cho các ngài mạnh dạn loan báo Lời Chúa, dám sống, dám chết cho đức tin dũng mãng ấy. Như vậy Người không chỉ nâng đỡ cách nhất thời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào mà các ngài gặp phải như: bị chống đối, bị sỉ nhục, bị tù đày, nhất là bị sát hại.
Lẽ nào, sau khi nhận ra thái độ truyền giáo của các tông đồ, chúng ta lại trở về với cuộc sống đời thường mà không có gì thay đổi? Ngay từ bây giờ, ta hãy sắm cho mình một ý thức truyền giáo bằng chính trách nhiệm hằng ngày của ta: đó là trách nhiệm của mot linh mục, một người buôn bán, một người dạy học, một công nhân, một học sinh... Ta cũng có thể thể hiện tinh thần truyền giáo trong những việc làm hết sức nhỏ bé như: tha thứ cho một người mất lòng ta, chào hỏi những người ta quen biết...
Nếu ta có một ý thức truyền giáo trong trách nhiệm và trong những việc làm từ ngày này qua ngày khác như thế, không những đức tin không bị lung lạc giữa các môi trường ta sống, mà còn vững mạnh và có sức thu hút nữa. Bởi vì Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta, làm cho nó trở thành khí cụ đưa công việc truyền giáo thầm lặng của mọi người đạt hiệu quả.
Tôi muốn dừng lại ở đây bằng chính lời của Đấng Phục sinh noi với chúng ta: “Bình an cho anh em”. Nguyện xin Chúa Kitô ban ơn bình an ấy cho ta. Nhưng Chúa Thánh Thần chính là Nguồn Bình an. Bởi thế, xin Chúa Kitô ban ơn bình cũng có nghĩa là xin Người ban Chúa Thánh Thần cho ta.
Ơn bình an rất cần cho những người sống đời truyền giáo, ơn bình an cũng rất cần cho những biến động, những thăng trầm của cuộc đời. Xin dâng tất cả lên Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh nâng đỡ đức tin, và là Nguồn Bình an vô gia.
105. Chúa Thánh Thần sức mạnh nâng đỡ đức tin
(Suy niệm của Lm J.B. Nguyễn Minh Hùng)
Nếu sự kiện Chúa lên trời kết thúc Phúc âm theo thánh Luca, thì chính sự kiện này lại mở đầu sách Công vụ Tông đồ. Không phải ngẫu nhiên ma Luca làm thế. Trong quyển Phúc âm của mình, Luca hé mở một phần suy nghĩ khi ghi lại câu nói của Chúa Giêsu ngay trước lúc Người lên trời: "Thầy sẽ gởi cho các con điều mà Cha Thầy đã hứa" (Lc 24, 49). Và trong Công vụ Tông đồ, điều mà Chúa Cha đã hứa trở nên hiệu lực: Chúa Thánh Thần đang hoạt động mạnh mẽ trong thế giới. Như vậy điều quang trọng đối với thánh Luca, có lẽ không phải kết thúc hay mở đầu một quyển sách. Trên hết, ngài muốn nói với chúng ta rằng: Chúa lên trời kết thúc một giai đoạn lịch sử mà trong đó lời hứa cứu độ đã được thực hiện và mở ra một giai đoạn lịch sử mới, bao gồm các hoạt động của Chúa Thánh Thần. Một trong các hoạt động đó là nâng đỡ đức tin chúng ta.
1. Người nâng đỡ đức tin trong chính ý thức truyền giáo nơi mỗi người
Điều này rõ ràng qua thái độ của các tông đồ. Thánh gioan kể lại: một buổi chiều Chúa nhật, các tông đồ tụ họp và "đóng kín" cửa lại. Ở đây hai từ "đóng kín" cần được nhấn mạnh. Vì các ngài không "đóng kín" để tránh sự ồn ào, không "đóng kín" để tạm quyên đi những lo toan đời thường, không "đóng kín" vì gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng "đóng kín" vì "sợ người Do thái". Và bởi "sợ", nên dù "đóng kín", các thánh tông đồ vẫn ở trong tâm trạng rối bời.
Nhưng khi Chúa Thánh Thần ngự đến, tâm trạng rối bời này bị phá vỡ. Ý thức truyền giáo phát triển từ con số không, bỗng vượt quá sức người bé bỏng của các tông đồ, và tỷ lệ thuận với lòng can đảm phát xuất từ một đức tin dũng mãnh: Tin vào Đấng phục sinh. Từ đây, chính Thánh Thần tác động, làm cho các ngài mạnh dạn loan báo Lời Chúa, dám sống, dám chết cho đức tin dũng mãng ấy.
Lẽ nào, sau khi nhận ra thái độ truyền giáo của các thánh tông đồ, chúng ta lại trở về với cuộc sống đời thường mà không có gì thay đổi? Ngay từ bây giờ, ta hãy sắm cho mình một ý thức truyền giáo bằng chính trách nhiệm hằng ngày của ta: đó là trách nhiệm của một linh mục, một người buôn bán, một người dạy học, một công nhân, một học sinh... Ta cũng có thể thể hiện tinh thần truyền giáo trong những việc làm hết sức nhỏ bé như: tha thứ cho một người mất lòng ta, dắt một cụ già qua đường, chào hỏi những người ta quen biết...
Nếu ta có một ý thức truyền giáo trong trách nhiệm và trong những việc làm từ ngày này qua ngày khác như thế, không những đức tin không bị lung lạc giữa các môi trường ta sống, mà còn vững mạnh và có sức thu hút nữa. Bởi vì Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta, làm cho nó trở thành khí cụ đưa công việc truyền giáo thầm lặng của mọi người đạt hiệu quả.
2. Chúa Thánh Thần nâng đỡ đức tin trong những hoàn cảnh khó khăn của đời sống
Ai mà không ít là một lần thấm thía nỗi đau, nỗi bất hạnh? Đó có thể là cái chết bất ngờ của một người thân, một cơn bạo bệnh, một tình yêu bị phụ bạc... Đó cũng có thể là cái nghèo, cái dốt, là đứa con chưa ngoan, vợ chồng thiếu tin tưởng nhau... Trong hoàn cảnh khó khăn như thế, đức tin bị chùn bước chăng?
Vì tính người mỏng dòn, nên đức tin cần được tôi luyện. Các thánh tông đồ cũng từng được tôi luyện như thế. Đức Giêsu, người mà Phêrô đại diện anh em mình tuyên xưng là Con Thiên Chúa; người đã từng hiển dung trước mặt Phêrô, Gioan, Giacôbê; người đã từng làm phép lạ như "Đấng có uy quyền" trước mặt các ngài, bây giờ chỉ là một người bị đánh bại thê thảm. Trong hoàn canh đó niềm hy vọng của các tông đồ như một tim đèn chực tắt. Đức tin đang lụn dần.
Khi Chúa Thánh Thần đến, đức tin các tông đồ trở nên mạnh mẽ. Người không chỉ nâng đỡ cách nhất thời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào mà các ngài gặp phải như: bị chống đối, bị sỉ nhục, bị tù đày, nhất là bị sát hại.
Ngày nay Chúa Thánh Thần vẫn ở với ta. Tôi có kinh nghiệm thế này: trong những hoàn cảnh xem ra bi đát nhất, tôi lại được ơn nâng đỡ nhiều nhất. Khi biến cố ấy qua rồi, tôi thường nhìn lại, và rất nhiều lần phải tự thốt lên: ôi tình yêu nhiệm mầu!
Tôi đồng cảm rất sâu với tư tưởng của Hội đồng Giám mục Việt Nam trong bản góp ý cho tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng Giám mục Á châu. Tư tưởng đó là: "Hội Thánh tại Á châu phải trở nên một Giáo Hội không quyền lực". Nhìn vào Hội Thánh Việt nam, tôi thấy rất đúng! Nhưng cũng rất lạ lùng, vì một Hội Thánh như thế lại có sức sống căng tràn và đức tin vững vàng.
Cũng thế, chính tôi tận mắt hoặc nghe kể lại những cảnh đời rất bế tắc, nhưng niềm tin yêu lại sáng ngời. Có ai đã từng chứng kiến cảnh một cô gái trẻ bị bệnh ung thư sắp chết, an ủi người mẹ đang nứt nỡ chưa? Đó là một giáo lý viên. Thấy tôi đến thăm, cô nhờ tôi nói chuyện với mẹ cô để xoa dịu nỗi đau của bà. Cô hứa, trước tòa Chúa, cô sẽ cầu nguyện cho gia đình cô, cho cha sở, cho tôi và cho lớp giáo lý mà cô đang phụ trách. Trong tình cảnh đó, tôi chỉ còn biết im lặng đón nhận bài học về đức tin mà cô vừa giúp tôi nhận ra.
Bởi đâu một Giáo Hội còn trẻ trung, còn thiếu thốn nhiều mặt như Giáo Hội tại Việt Nam lại căng tràn sức sống? Bởi đâu nơi một cô gái yếu mềm lại ẩn chứa một đức tin can đảm đến thế? Chính Chúa Thánh Thần tạo nên tất cả. Đấng "Phù Trợ" mà Chúa Giêsu ban đang âm thầm nâng đỡ đức tin của Hội Thánh, của mỗi người. Chỉ cần biết mở lòng ra, chỉ cần khiêm tốn một tí, và đừng ở lỳ trong sự cứng cỏi, chúng ta sẽ khám phá ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần đang tác động nơi niềm tin của mình. Đành rằng ai cũng sợ đối đầu với đau khổ, nhưng đau khổ lại là phương thế rèn luyện đức tin. Tin rằng Chúa Thánh Thần sẽ không để chúng ta chiến đấu một mình, Người nâng đỡ như đã từng nâng đỡ các thánh tông đồ khi xưa.
Lời của Đấng Phục sinh nói với chúng ta: "Bình an cho anh em". Xin Ngài ban ơn bình an đó cho chúng ta, vì ơn bình an rất cần cho những người sống đời truyền giáo. Ơn bình an cũng rất cần cho những biến động, những thăng trầm của cuộc đời. Xin dâng tất cả lên Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh nâng đỡ đức tin chúng ta.
106. Suy niệm về Kinh Đức Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. JP Vũ Minh)
MỘT SUY NIỆM VỀ KINH ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN TRONG NGÀY LỄ HIỆN XUỐNG
50 ngày sau Lễ Vượt Qua là ngày Lễ Ngũ Tuần; một lễ quan trọng trong lịch sử Do Thái để tưởng nhớ ngày Thiên Chúa trao Lề Luật cho Môisê trên núi Sinai - tên của lễ này là Shavuot;...
…và người Do Thái cũng dùng lễ này để tạ ơn Thiên Chúa vì đây là thời gian họ thu hoạch ngũ cốc với vụ gặt đầu tiên… Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các thánh tông đồ 50 ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại và ngày này được coi là ngày Sinh Nhật của Giáo Hội. Kinh Đức Chúa Thánh Thần và Lời Chúa được dùng để gợi ý cho phần suy niệm hôm nay:
Chúng con xin Đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con, là kẻ tin cậy Đức Chúa Trời: Thuở xưa, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người và thổi hơi vào Adong để cho ông có sự sống (St 2:7) nhưng ông bà nguyên tổ đã phản nghịch Thiên Chúa; nay Chúa Giêsu đã thổi hơi trên các tông đồ để ban cho họ ơn Chúa Thánh Thần và trao cho các ông sứ mạng ban ơn tha tội (Ga 20:22-23), và các tông đồ đã mạnh dạn thi hành. Chúng ta là những kẻ đã nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần cũng phải sống theo lệnh truyền đó.
Và đốt lửa kính mến Đức Chúa Trời trong lòng chúng con: Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa (Cv 2:1-13) và Ngài cũng là biểu tượng của tình yêu vì Chúa Cha và Chúa Con thương nhau mà sinh ra Chúa Thánh Thần trong tinh thần hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi… Chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta nguồn ơn của tình yêu đó trong lòng mình để ta sống đời mến Chúa và yêu người.
Chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống - (để) sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con: Chúa Thánh Thần là Đấng ban cho các tông đồ sự sống mới trong Chúa Phục Sinh để họ áp dụng cho chính cuộc sống mình khi họ dùng ơn thiêng liêng đó để khống chế mọi sợ hãi trong lòng; và được linh khiến để đem ơn Chúa Thánh Thần vào môi trường chung quanh khi các ông lên tiếng thì những người khác tuy dù họ nói những tiếng nói khác nhau nhưng họ hiểu như họ được nghe như tiếng bản xứ mình. Làm sao chúng ta có thể sống và dùng ơn Chúa Thánh Thần trong thế giới hôm nay?
Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời, xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rày chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống: Chúng ta xin Chúa Thánh Thần xuống trên chúng ta để Ngài dậy dỗ chúng ta thêm về những cách và bài học mới trong cuộc sống hiện tại. Để được như thế, chúng ta có sẵn sàng sống trong nguồn ơn mới của Chúa Thánh Thần hay không?
An ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành: Thánh Phaolô đã đề khuyên các tín hữu Côrintô về cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần (1 Cor 12:3-13) qua việc chia sẻ và hiệp thông. Chia sẻ vì có nhiều ơn thánh sủng nhưng phát nguồn từ một Thánh Thần, và mỗi người chúng ta được ban những ơn và khả năng riêng biệt để phục vụ vì ích lợi chung; và hiệp thông vì moi người chúng ta tuy dù là cá nhân nhưng là một phần trong Chi Thể của Chúa Giêsu. Lễ Hiện Xuống dậy ta rằng: ai tin vào Chúa Giêsu sẽ cố sống đời mình theo những tiêu chuẩn kể trên với nguồn ơn thánh của Chúa Thánh Than trong suốt đời mình.
107. Ngày sinh nhật của Giáo Hội
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Ai là con người cũng có ngày mở mắt chào đời, ngày sinh nhật. Ngày đó được ghi lại trên tấm giấy khai sinh.
Hội đoàn tổ chức đời đạo nào trong xã hội cũng có ngày khai sinh thành lập. Ngày đó được ghi chép trên giấy tờ tài liệu lưu giữ của Hội đoàn tổ chức như bằng chứng.
Người Mẹ Giáo Hội Công giáo cũng có ngày sinh nhật, ngày khai sinh thành lập. Nhưng ngày này của Giáo Hội Công giáo lại không có ghi lại trên giấy tờ khai sinh hay chứng từ sổ sách ghi lại bằng chữ viết, bằng con số.
Như thế, làm sao có thể nói đến ngày sinh nhật của Giáo Hội công giáo được?
1. Tờ giấy khai sinh
Khi một em bé lọt lòng mẹ mở mắt chào đời, bệnh viện nơi em sinh ra ghi lại trên giấy tờ ngày giờ năm tháng, nơi chốn em sinh ra. Căn cứ vào chứng thư đó, sở hộ tịch làm giấy khai sinh trong sổ bộ đời sống xã hội cho em bé.
Không phải tờ giấy đó làm ra em. Nhưng sống trong cộng đồng xã hộị, em cần tờ giấy khai sinh đó. Tờ giấy khai sinh này gắn liền với đời sống em. Nó là tờ giấy căn bản hộ thân cho em, để sau này làm những giấy tờ cần thiết khác trong suốt đời sống.
Không chỉ khi làm những giấy tờ cần thiết khác ở ngoài công sở xã hội, mới cần đến giấy khai sinh. Nhưng cả khi cha mẹ em bé xin cho con mình nhận lãnh Bí tích Rửa tội gia nhập Giáo Hội Chúa Giêsu, ít là bên Giáo Hội nước Đức, cũng phải cần có kèm theo giấy khai sinh của em bé.
Tên em, ngày tháng năm sinh, nơi chốn quê quán em sinh ra là những dữ kiện quan trọng liên quan đến bản thân đời sống. Tờ giấy khai sinh giúp em giữ lại những dữ kiện đó, giữ lại chút kỉ niệm đầu đời ngày em bắt đầu đời sống trên trần gian.
Còn trong niềm tin đạo giáo có giấy tờ khai sinh không?
2. Dấu ấn giấy khai sinh
Dấu ấn Bí tích phép Rửa tội ghi khắc trong tâm hồn người được rửa tội là tờ khai sinh gia nhập đạo Công giáo. Nhưng để lưu trữ ghi nhớ sau này khi cần tra cứu, nơi nhà xứ nào cũng có sổ Rửa tội. Trong cuốn sổ đó, lần nữa ngày tháng năm sinh, nơi sinh cùng tên cha mẹ của em bé, ngày tháng năm rửa tội được ghi lại.
Nhiều người vì hoàn cảnh di chuyển, di cư nơi này sang nơi khác, mất hết giấy tờ, không còn nhớ dữ kiện ngày tháng bản thân của mình nữa. Lần tìm về nơi ngày xưa đã sinh ra, đã được Rửa tội, họ tìm lại thấy những dữ kiện đó.
Trong đạo Công giáo, khi xin cử hành bí tích hôn phối lập gia đình, người ta truy tìm lại sổ rửa tội, để biết xem có đúng là người Công giáo đã được rửa tội chưa, đã có chịu Bí tích hôn phối lập gia đình lần nào chưa. Vì sau hôn phối, có báo lại ghi thêm vào sổ đó: Đã chịu Bí tích Hôn phối.
Những người được chịu chức Thánh trong Giáo Hội, những ai khấn Dòng, những vị thẩm quyền trong Giáo Hội cũng lần dở tìm lại sổ Rửa tội để truy tìm nguồn gốc. Và sau khi người đó lãnh Chức Thánh hay Khấn Dòng báo ghi thêm vào sổ đó: đã chịu chức Thánh hay đã khấn Dòng.
Cuốn sổ Rửa tội trong Giáo Hội là giấy chứng minh để có thể tiếp tục tiếp nhận lãnh những Bí tích khác. Như thế sổ Rửa tội có khác gì giấy khai sinh đâu.
Sổ Rửa tội, một lọai giấy khai sinh trong đạo Công giáo, không chỉ cho nhu cầu đó. Nó còn là một chứng tích lịch sử nữa.
Một ai đó được Giáo Hội phong lên làm bậc Thánh, người ta truy tìm đền cuốn sổ Rửa tội nơi ngày xưa vị đó đã được Rửa tội. Lúc đó cuốn sổ Rửa tội nơi đó có tên vị đó trở nên thời danh, một chứng tích lịch sử.
Cuốn sổ Rửa tội ghi tên cùng ngày tháng Rửa tội của Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI. Joseph Ratzinger ở nhà xứ Marktl am Inn trở nên thời danh như một chứng tích lịch sử cho việc tra cứu.
Giáo Hội Công giáo của Chúa có gì giấy tờ gì chứng nhận như giấy khai sinh không?
3. Ngày sinh nhật của Giáo Hội
Giáo Hội Công giáo có ngày khai sinh khởi đầu. Nhưng ngày khởi đầu, ngày sinh nhật đó không có giấy tờ khai sinh cùng sổ sách ghi lưu lại.
Không có giấy khai sinh. Không có cuốn sổ Rửa tội. Nhưng Giáo Hội có sách Kinh Thánh ghi chép lại ngày giờ khai sinh của mình. Thánh sử Luca đã thuật lại ghi lại trong Sách Tông đồ công vụ chương hai, từ câu 1-11.
Căn cứ vào Thánh Kinh, đức Giáo Hoàng Benedicto XVI. đã diễn tả về ngày sinh nhật của Giáo Hội Chúa Giêsu:
Thánh sử Luca, người đã soạn viết công trình Kinh Thánh với những suy tư rất thận trọng. Ông trình bày quy dẫn hướng trở lại về sự nhập thể làm người của Chúa Giês. Khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên địa cầu mọi người cũng đón nhận Chúa Giêsu nữa. Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống đổi mới, và Giáo Hội "thân thể của Chúa Giêsu" khai sinh chào đời trong dòng thời gian lịch sử.
Điều này xảy đến qua những dấu hiệu làn gío thổi đến và ngọn lửa bùng sáng lên, nhất là qua dấu hiệu của sự lạ lùng phép lạ ngôn ngữ. Trong điều kiện đó, Giáo Hội đã loan truyền và được loan truyền đi khắp nơi, cùng được chấp nhận bằng những ngôn ngữ khác nhau. Điều này trái ngược với lịch sử xây tháp Babel ngày xưa.
Điều khác nữa, một cộng đoàn xã hội mới nảy sinh, mà Thiên Chúa qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, qua ngọn lửa của Thiên Chúa, đã xây dựng nên từ trong tận trái tim tâm hồn con người.
... Nếu Thánh Thần Thiên Chúa được trình bày vẽ như hình một cái lưỡi, như ngọn lửa, điều này nói lên Ngài ngự xuống trên mỗi người cách cá nhân riêng biệt. Đây là những hình ảnh căn bản diễn tả cho chúng ta hiểu, sự cư ngụ ở lại, điều mầu nhiệm bí ẩn của Thánh Thần Thiên Chúa, sự khai sinh chào đời của Giáo Hội. Và cùng với sự lạ lùng phép lạ ngôn ngữ cũng nói lên tích cách công giáo phổ quát của Giáo Hội. (Papst Benedickt, Gott und die Welt, ein Gespräch mit Peter Seewald, Von der Kirche, Knaur Verlag, April 2005, S. 376.)
Như thế, Giáo Hội Công giáo của Chúa không phải là sản phẩm của một ai, hay của một trào lưu xu hướng thời đại nào, cùng không giới hạn trong một quãng thời gian nào. Nhưng do chính Chúa qua ân đức sức mạnh Chúa Thánh Thần thiết lập nên, cùng luôn đổi mới trong dòng lịch sử thời gian trên từ hơn hai nghìn năm qua, và còn kéo dài trong tương lai tiếp nữa.
Nếu hiểu Giáo Hội của Chúa như một “Bí tích” của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong tình yêu của Chúa Thánh Thần, thì cơ cấu của Giáo Hội không chỉ là mặt tiền bên ngoài và như hàng thứ yếu. Nhưng là dấu chỉ ẩn chứa trình bày một nội dung thần học về hiệp thông trong đức tin, cùng về sự hợp nhất nên một.
"Những lời sỉ nhục bỉ báng đấng thay mặt Chúa cùng các đấng làm thầy", như lời kinh đọc trong kinh đền tạ trái tim cực Thánh Đức Chúa Giêsu, là lời xét mình, ăn năn tạ lỗi, cùng nhắc nhở hãy có lòng yêu mến kính trọng Giáo Hội của Chúa. Đừng lạm dụng ngôn ngữ, nhân danh tự do mà coi khinh thường vô phép với Giáo Hội của Chúa, công trình của Chúa Thánh Thần.
Hàng giáo phẩm trong Giáo Hội của Chúa như Bí tích ở trần gian, là những người được Chúa tuyển chọn trao ban cho trách nhiệm gìn giữ cai quản Giáo Hội của Người. Phải, họ là những con người với những giới hạn yếu hèn, do Chúa dựng nên. Họ không phải, hay chưa là thánh. Nhưng họ có bổn phận cùng với mọi người trong Giáo Hội sống trở nên thánh thiện tốt lành như ý Chúa muốn.
Chúa Thánh Thần, Đấng khai sinh cùng nuôi dưỡng Giáo hội Chúa, hằng luôn đổi mới làm tươi trẻ trong dòng lịch sử thời gian công trình Ngài đã lập sáng tạo nên bằng bảy ân đức căn bản cho đời sống: Khôn ngoan, lo liệu, sức mạnh, thông hiểu, suy biết, đạo đức và kính sợ Chúa.
108. Đức Chúa Thánh Thần, nguồn suối nước sự sống
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Tin kính Đức Chúa Thánh Thần trong tâm hồn và tuyên xưng ra ngoài môi miệng. Nhưng không ai đã nhìn thấy Đức Chúa Thánh Thần như thế nào.
Đức Chúa Thánh Thần, vì thế, được diễn tả vẽ trình bày theo nhiều hình ảnh khía cạnh khác nhau. Một trong những hình ảnh đó là dòng nước.
1. Nước trong đời sống con người
Nước chảy thành dòng, và không thể nắm giữ lại được như một vật rắn chắc. Nếu muốn giữ nước lại, phải có ly tách, hay chậu... mới có thể quy tụ giữ nước lại được.
Nhà hiền triết Aristoteles người Hylạp, đã suy nghĩ theo lý luận triết học đi đến kết luận có bốn yếu tố quan trọng nền tảng trong thiên nhiên: đất, nước, lửa và khí. Nước là một trong bốn yếu tố nền tảng đó.
Cũng theo nhà hiền triết người Hylạp, Thales, nước là yều tố duy nhất làm nên thân thể.
Hai phần ba trái đất được bao phủ bằng nước. Không có nước, không có sự sống. Vì tất cả mọi con đường sự sống đều tùy thuộc cần đến nước.
Nước là thành phần chính yếu quan trọng của các cơ quan thân xác con người. Từ 55-60% nước chiếm trọng lượng trong thân thể con người.
Nước là viên gạch xây dựng các tế bào trong thân thể.
Nước đóng vai trò là dung dịch làm tan biến tiêu hóa những chất nặng đặc trong các cơ quan thân thể.
Nước cũng đóng vai trò vận chuyển những chất dinh dưỡng cho các cơ quan trong thân thể.
Nước điều hòa nhiệt độ nóng ấm trong thân thể con người.
Vì thế, nước là thành phần chính yếu cùng quan trọng cho cơ thể con người. Và cũng vì thế con người cần phải uống nước hằng ngày, để cho các cơ quan làm việc giúp cho sự sống phát triển và sức khoẻ được điều hòa.
2. Nước trong niềm tin các tôn giáo
Trong niềm tin các tôn giáo, nước là điều thánh thiêng cùng quan trọng.
Theo niềm tin Hồi giáo, nước là dấu hiệu khởi nguyên của sự sống, và là mối dây tương quan nối liền với Thần Thánh.
Theo Phật giáo, nước quan trọng. Vì nước là một trong bốn yếu tố trong vũ trụ. Dòng nước chảy trong sông là hình ảnh giáo lý Phật giáo, con đường chiêm niệm đời sống con người cho tới khi đạt được cứu độ nơi Niết Bàn.
Theo Ấn Độ giáo, nước là sức mạnh tẩy rửa thân thể cùng tinh thần con người.
Theo Kyto giáo, nước là khởi nguyên của mọi sự sống. Trong bài tường thuật về sáng tạo vũ trụ, Thần Linh Thiên Chúa bay là là trên nước, và Thiên Chúa sáng tạo trước tiên vũ trụ trái đất từ nước. Từ đó phát sinh nẩy nở sức sống mọi loài trong vũ trụ.
3. Nước, hình ảnh Chúa Thánh Thần
Thánh Gioan dùng hình ảnh làn nước sự sống diễn tả về Đức Chúa Thánh Thần (Ga 7,37-39).
Ai chúng ta cũng đều đã có kinh nghiệm cùng cảm nghiệm về sự phấn khởi tươi mát mang đến năng lực cho đời sống. Lúc khát nước hay khi gặp trời nóng nực mà nhận được ly nước uống vào, ngay tức thì cơn khát được hạ dịu bớt, sức sống phấn khởi bừng lên trong thân thể nơi làn da thớ thịt, cùng nơi tâm trí. Lúc đó ly nước mát quan trọng qúy gía biết chừng nào!
Vào mọi thời đại và ở nơi nơi, nước luôn là yếu tố căn bản cho phát triển về ruộng vườn, cây cối ngoài thiên nhiên; cho nhu cầu ăn uống,vệ sinh sạch sẽ của con người cùng thú động vật.
Dòng nước chảy trong dòng suối, khe lạch, nơi sông ngòi đến đâu mang chất phân bón phù sa cho cây cỏ, ruộng vườn được phát triển tươi tốt. Và dòng nước là vùng, là ngôi nhà chỗ ẩn thân sinh sống cho mọi loài cá tôm. Trong dòng nước chúng sinh sản lớn lên phát triển làm thức ăn dinh dưỡng nuôi sống con người từ ngàn xưa.
Đức Chúa Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa, tựa như làn nước làm cho sức sống sự xanh tươi chảy thông cuồn cuộn bừng lên.
Chúng ta nhìn thấy dòng nước. Nhưng Thiên Chúa, Đấng dựng nên nước, ký thác sự bí ẩn mầu nhiệm sức sống trong đó, khiến mắt ta không nhìn thấy sức mạnh ẩn dấu trong nước.
Bằng đôi mắt thường chúng ta quan sát dòng nước chảy. Nhưng tâm trí ta, dù có thể dùng phương pháp khoa học thực nghiệm phân tích chất chứa trong nước, cũng không hiểu được mầu nhiệm bí ẩn sức sống của nước do Trời cao tạo dựng nên. Sức sống ẩn chứa trong dòng nước mang lại không chỉ sự tươi mát cho da thịt, mà còn sức mạnh cho tâm hồn lẫn gân cốt bắp thịt, sự phấn khởi tỉnh táo cho tâm trí suy nghĩ biểu hiện qua nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt, trên ánh mắt con người.
Giống như mầu nhiệm sức sống ẩn chứa trong dòng nước, Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh cho sự sống đức tin vào Chúa thể hiện theo nhiều phương cách, mà tâm trí ta không sao nhìn thấu cùng thông hiểu nổi, hay không như ta chờ đợi mong muốn.
Đức Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu hứa ban gửi đến cho Giáo Hội luôn hằng có mặt trong Giáo Hội. Ngài là Đấng vô hình, nhưng không phải là một „bóng ma thánh“.
Ngài là dòng nước mang sức sống đến cho đời sống thiên nhiên của Giáo Hội.
Dòng nước chảy mang đến sức sống cùng sự đổi mới. Dòng nước sức sống Đức Chúa Thánh Thần tác động âm thầm tiệm tiến trên sự đổi mới trong lòng sự sống Giáo Hội.
Chúng ta chỉ có thể tìm cách cắt nghĩa diễn tả Đức Chúa Thánh Thần bằng hình ảnh, như Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh dòng nước là nguồn sức sống nói về Thần linh Thiên Chúa, Đấng là mầu nhiệm ẩn dấu với tâm trí con người.
Đức Thánh Cha Phanxico trong bài giáo lý ngày 08.05. 2013 đã nói về đức Chúa Thánh Thần
* Con người của mọi thời đại và mọi nơi đều muốn có một cuộc sống sung mãn và tốt đẹp, công bằng và tốt lành, một cuộc sống không bị đe dọa bởi cái chết, nhưng có thể trưởng thành và phát triển một cách trọn vẹn.
Con người như một khách lữ hành, đang băng qua hoang địa cuộc đời, khát một nước hằng sống, vọt lên và tươi mát, có khả năng làm thỏa mãn ước vọng sâu thẳm tận đáy lòng về ánh sáng, tình yêu, vẻ đẹp và bình an của người ấy. Tất cả chúng ta đều cảm thấy ước vọng ấy!
Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta nước hằng sống này: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng phát sinh từ Chúa Cha, và là Đấng mà Chúa Giêsu đổ vào lòng chúng ta. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).
109. Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Veni, Creator Spiritus - Lạy Chúa Thánh Thần, Đấng sáng tạo, xin hãy đến.
Trong Kinh Tin Kính của Giáo Hội có lời tuyên xưng: "Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống, Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra".
Tin trong tâm hồn và tuyên xưng ra ngoài bằng môi miệng như thế thật là phải đạo và chính đáng.
Nhưng như thế cũng chưa phải là tất cả những gì ta tin, ta xác tín. Ta cần nhận ra Ngài trong chính đời sống con người.
Đức Chúa Thánh Thần không có hình hài cụ thể nhất định. Nhưng là Thiên Chúa, nên Ngài có chiều kích rộng lớn hơn tâm trí ta suy tưởng về Ngài gấp bội.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo ban sự sống. Điều này khó hiểu cho tâm trí con người. Nhưng có thể nhìn vào những sự việc xảy ra trong đời sống con người mà nhận ra kết quả do Ngài làm nên.
Vậy căn cứ vào điều gì để vẽ cùng nhìn nhận ra Đức Chúa Thánh Thần trong đời sống?
Có nhiều câu trả lời cho thắc mắc này.
1. Lễ Hiện Xuống mới
Năm 2000 trong bài giảng tuần tĩnh tâm với Giáo Triều Rô-ma, đức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận ( 1928-2002) đã nói về Đức Chúa Thánh Thần:
"Phải, Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ước muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện này:
Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số H'mông muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
- Anh chị em từ đâu đến?
- Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
- Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?
- Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.
- Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
- Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi-luật-tân.
- Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!"
- Đó là đài phát thanh "Nguồn Sống".
- Một đài phát thanh Tin lành, và bây giờ anh chị em lặn lội dến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!
- Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần! Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người H'mông: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
- Thưa cha, không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
- Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
- Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9h30 , chúng con ngưng làm việc, thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX" (Hồng Y Nguyễn văn Thuận, Chứng nhân Hy vọng, trang 233-234).
Đó chẳng phải là phép lạ do Đức Chúa Thánh Thần tác động làm ra đó sao?
2. Phép lạ lễ Hiện Xuống
Năm 1990 (Tông du lần thứ 46 từ 21 – 22/04/1990 đến Tschechoslowakei) Chân phước Giáo hoàng Gioan Phao-lô đệ nhị, lúc còn sinh tiền đã đến thăm viếng mục vụ quốc gia Tiệp Khắc vừa mới thoát ra khỏi chế độ Cộng sản cai trị từ mấy chục năm qua. Tổng Thống Valav Havel đã chào mừng Đức Giáo Hoàng bằng những lời thấm đượm tin tưởng về phép lạ lễ Hiện Xuống đã cùng đang xảy đến cho đất nước của ông ở thủ đô Praha:
"Chúng ta đang trải qua một phép lạ. Tôi không biết có phải và thế nào là một phép lạ, dẫu vậy tôi cũng cả dám nói lên tâm tình rằng, trong giây phút này tôi đang trải qua một phép lạ. Một người trước đây 6 tháng đã bị bắt giam cầm như một kẻ thù của quốc gia, hôm nay trong tư cách là Tổng Thống của đất nước đó đón tiếp chào mừng vị Giáo Hoàng lần đầu tiên trong lịch sử của Giáo Hội Công giáo, bước chân trên phần đất nước này đến thăm viếng quốc gia chúng tôi.
Tôi không biết có phải và thế nào là một phép lạ, dẫu vậy tôi cũng cả dám nói lên tâm tình rằng, trong giây phút này tôi đang trải qua một phép lạ. Trên công trường này, tại chỗ này trước đây 5 tháng tương lai của đất nước chúng tôi đã được quyết định, hôm nay vị Thủ lãnh Giáo Hội Công Giáo cử hành Thánh lễ. Có lẽ nhờ lời bầu cử của Thánh nữ Agnes xứ Bohemen, người mới đây, năm 1989, đã được tôn phong lên bậc hiển thánh trong Giáo Hội Công Giáo, đã giúp cho những sự việc bí ẩn nhiệm mầu được xảy ra tốt đẹp. Xin cám ơn Thánh nữ.
Tôi không biết có phải và thế nào là một phép lạ, dẫu vậy tôi cũng cả dám nói lên tâm tình rằng, trong giây phút này tôi đang trải qua một phép lạ. Đất nước chúng tôi đã bị ý thức hệ hận thù nghi kỵ gây nên thảm trạng tàn phá đổ nát, hôm nay đây được một sứ giả tình yêu thương đến thăm viếng.
Đất nước chúng tôi bị tàn phá đổ nát vì hệ thống cai trị bởi những người thiếu giáo dục, giờ đây bừng lên hình ảnh dấu hiệu sống động của nền giáo dục đào tạo lành mạnh.
Đất nước chúng tôi trước đây không lâu đã bị xâu xé phân tán do ý thức hệ về đối đầu và phân chia , giờ đây một sứ giả hòa bình, sứ giả của đối thoại đến thăm viếng mang lại bầu khí sự khoan dung với nhau, sự kính trọng thông hiểu trong quan hệ thông thương với nhau. Vị sứ giả đó là người loan tin về sự hợp nhất giữa những khác biệt.
Từ hàng chục năm nay Thần Linh bị xua đuổi, loại trừ, không có chỗ đứng trong quê hương đất nước chúng tôi. Thật là một vinh dự cho tôi hôm nay lúc này trở thành một nhân chứng, được đón tiếp chào mừng đầy tình thắm thiết ôm hôn vị Sứ Giả của các Tông Đồ, của Thánh Thần và của các linh hồn."
Diễn văn chào mừng Đức Giáo Hoàng của Tổng Thống Tiệp Khắc Dr. Valav Havel.
(Trong: Klaus Vellguth (Hrsg.), Gedanken Blitze Stolper Steine, Bergmoser+Holler Verlag GMBH Aachen 1997, Pfingsten, Seite 111-112).
Đức Chúa Thánh Thần hoạt động trong những biến cố của đời sống con người. Tuy âm thầm lặng lẽ, không ồn ào, nhưng gây ra hiệu qủa lớn lao, tạo ra sự thay đổi biến chuyển cho mọi sinh hoạt trong đời sống chung cũng như tư nhân giữa lòng xã hội thế giới.
3. Những thay đổi do tác động của Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần là sợi dây nối kết tới Chúa Giê-su. Hình ảnh làn sóng phát thanh, phát hình từ trung tâm phát lan truyền qua mọi không gian đi vào tới tận mọi căn phòng ngóc ngách, là hình ảnh diễn tả sự nối liền nơi này với nơi khác mà con mắt thường không thấy có đường dây nào nối với nhau. Cũng vậy, qua nhờ Chúa Thánh Thần, không nhìn thấy bằng con mắt, chúng ta được nối liền với sức sống tình yêu, với ý muốn của Thiên Chúa, vào đại gia đình của Chúa. Trong đó Chúa Thánh Thần là động cơ sống động, một mầu nhiệm thâm sâu ẩn dấu, cho vạn vật cùng con người.
Chúa Thánh Thần là sức mạnh cho đời sống lúc này và nơi đây. Ngài trao tặng con người chúng ta sức sống thần linh của Thiên Chúa. Nhờ sức mạnh đó chúng ta vượt qua những thử thách khó khăn, can đảm chấp nhận sự thay đổi trong đời sống. Kinh nghiệm này, nhiều người đã trải qua, và đều nói lên rằng: nếu không có sức mạnh từ bên trong tâm hồn của Chúa ban cho, chắc tôi không thể nào có đủ sức thắng vượt qua được giai đoạn khó khăn này!
Chúa Thánh Thần có sức thu hút của một nam châm. Một cục nam châm có sức thu góp những cục kim loại sắt thép lại với nhau. Hội Thánh Chúa ở trần gian bao gồm mọi dân tộc khác nhau, mọi lứa tuổi, mọi giai cấp thành phần, mọi giống nòi với những khác biệt về mầu da tiếng nói cùng văn hóa phong tục tập quán, nhưng Chúa Thánh Thần đã thu hút họ lại thành một gia đình Hội Thánh trong cùng một Chúa, một đức tin, một phép rửa.
Nam châm Chúa Thánh Thần thu hút cùng nhắc Giáo Hội nhớ đến giáo lý lời Chúa Giê-su đã truyền lại. Chính nhờ sức thu hút nam châm Chúa Thánh Thần mà Giáo Hội cũng như người tín hữu Chúa Giê-su đã thắng vượt những thử thách cám dỗ chạy trốn khỏi trường học của Thiên Chúa, khỏi bến bờ tình yêu thương của Chúa.
Chúa Thánh Thần là thửa đất cấy trồng nuôi dưỡng, là khí hậu cho hoa trái phát triển tươi tốt nơi cây đời sống của con người chúng ta. Cây cối rau cỏ ngoài vườn luôn cần có phân đất mầu mỡ, nước cùng ánh sáng cho phát triển đơm bông sinh sản hoa trái. Cũng vậy âm thầm trong tâm trí, Chúa Thánh Thần khơi động thúc đẩy cho trí khôn ta vươn lên đi học hỏi tìm tòi, phát triển khả năng tiềm tàng luôn ẩn chứa nơi thân thể trí óc của ta.
Chúa Thánh Thần là làn gió gợi hứng ý tưởng mới cho tâm trí. Và vì thế Ngài gìn giữ cho tâm trí con người trước sự cứng nhắc ngủ quên, nhất là trong lãnh vực đức tin. Có những vấn đề, những thắc mắc được đặt ra vào từng giai đoạn đời sống hôm nay cùng tương lai ngày mai, đòi hỏi phải có câu trả lời cho đổi mới, thích ứng. Vì đời sống xã hội như dòng sông luôn biến chuyển thay đổi.
Lẽ tất nhiên Giáo Hội không thể nào, cùng không được phép bỏ quên nền tảng giáo huấn của Chúa Giê-su để lại như kho tàng bảo chứng của đức tin. Giáo Hội và mỗi người cần sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần tìm ra câu trả lời thích hợp cho những thách đố mới của thời đại về lãnh vực bảo vệ sự sống, bảo vệ giá trị luân lý, gia đình, bảo vệ đức tin và lý luận khoa học. Gìn giữ, bảo vệ và mềm dẻo thích ứng là khả năng Chúa Thánh Thần luôn ban cho tâm trí con người trong đời sống.
"Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin hà hơi vào tâm hồn con, để con suy tư điều chân chính thánh thiện,
Xin thúc đẩy tâm trí con, để con làm điều thiện hảo tốt lành,
Xin gợi hứng trí khôn con, để con biết yêu mến điều tốt đẹp,
Xin ban ân đức cho tâm hồn con, để con biết gìn giữ những gì là chân thiện mỹ,
Xin gìn giữ đời sống con, để con đừng bao giờ lạc xa điều chân thiện mỹ."
(Thánh Augustinô)
110. Lời kinh tạ ơn Đức Chúa Thánh Thần
(Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Xin dâng lời tạ ơn Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng là Thần linh sáng tạo không ngừng biến đổi sự lộn xộn hỗn mang trong vũ trụ trở nên cho có trật tự lớp lang.
Đấng hằng luôn đồng hành thăm viếng tâm hồn con người, và ban ơn đức cho đời sống được vươn lên niềm hy vọng.
Xin tấu lên khúc hát lòng biết ơn Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng đã tạo dựng nên sự sống thân xác cùng trí khôn tinh thần con người từ giây phút đầu tiên trong cung lòng mẹ cha và trong suốt dọc đời sống.
Đấng ban niềm an ủi những khi tinh thần chùng xuống gặp thất vọng lo âu.
Xin cùng với ánh nến lòng cám ơn hướng tâm hồn về Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng luôn luôn phân phát ân đức khả năng suy nghĩ sáng tạo phù hợp cho đời sống con người vào từng giai đoạn đường đời.
Đấng là hơi thở sự sống của Thiên Chúa cho trần gian được gìn giữ không bị héo tàn.
Xin đốt lên ngọn lửa lòng tri ân Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng thúc đẩy tâm trí con người mạnh dạn can đảm dấn thấn sống làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa bằng lời nói, bằng sự hy sinh đời sống cho việc bác ái giữa lòng xã hội.
Đấng khơi lên ngọn lửa lòng yêu mến Giáo Hội, tình tự quê hương đất nước dân tộc giống nòi nơi con người.
Xin dâng tâm tình cảm tạ Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng giúp con người biết suy nghĩ lo liệu cho đời sống thoát ra khỏi vòng lung lạc chao đảo, cùng tìm đến con đường ngay chính chân thật có bình an.
Đấng như làn gió vực dậy phấn chấn tinh thần con người, những khi họ bị sống trong thất vọng, bị chà đạp đối xử bất công.
Xin ghép thành dòng chữ ca tụng Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng hằng trợ giúp tâm trí con người biết phân biệt thế nào là điều phải và lẽ trái, ánh sáng và bóng tối, tốt và xấu, niềm vui và đau khổ, yêu thương và hận thù, thánh đức và tội lỗi, hòa bình và chiến tranh, công lý và bất công.
Đấng là ngọn lửa chiếu ánh sáng cho lương tâm con người tìm đường đi về bờ bến nơi Thiên Chúa, nguồn sự sống và tình yêu thương tha thứ.
Xin cùng với dòng nước chảy ngoài thiên nhiên âm thầm nói lên tâm tình của người lãnh nhận ân đức từ Đức Chúa Thánh Thần,
Đấng là hình ảnh sự hợp nhất và tình yêu của Ba ngôi Thiên Chúa cho đời sống con người trong Giáo Hội, trong xã hội và trong gia đình.
Đấng như bọt nước sôi khơi gợi lên những ý tưởng cho tâm trí đi tìm tòi ý nghĩa đời sống, và nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa mang ơn cứu độ đến cho trần gian.
111. Ngọn lửa Đức Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Hằng năm Giáo hội mừng đại lễ kính Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống kết thúc mùa Phục Sinh.
Đức Chúa Thánh Thần là Ngôi Thứ Ba Thiên Chúa. Nhưng Ngài lại không có một hình tượng cụ thể nhất định nào.
Chim bồ câu là hình tượng chỉ về Chúa Thánh Thần. Hình ảnh này nói lên sứ điệp hòa bình, sự nhẹ nhàng thanh thoát của Đức Chúa Thánh Thần trong không gian.
Làn gió, dòng nước, ngọn lửa cũng là hình ảnh diễn tả về Đức Chúa Thánh Thần. Những hình ảnh này vẽ lên sức sống cùng sự nồng nhiệt vươn lên tràn đầy niềm hy vọng của Đức Chúa Thánh Thần.
Đức Chúa Thánh Thần là một nhân vật, nhưng lại được diễn tả trình bày bằng những hình ảnh biểu tượng, và hơn nữa bằng con số bảy.
1. Đâu là ý nghĩa của con số 7?
Con số 7 là con số toán học diễn tả nhiều biểu tượng về sự hiểu biết cùng khôn ngoan, là con số căn bản về cấu trúc, về sự trọn vẹn tràn đầy.
Số liên kết do hai số 4 và 3 cộng lại với nhau diễn tả sự hòa hợp về trật tự, và có giá trị như một con số "thánh".
Một tuần lễ có 7 ngày. Thành phố thủ đô Rô-ma được xây dựng trên 7 qủa đồi. Thế giới có 7 kỳ quan theo quan niệm thời Thượng cổ.
Trong âm nhạc có bảy nốt cung nhạc: Do, Re, Mi, Fa, Sol, La, Si.
Trong Do-thái giáo cây nến có bảy ngọn tỏa ra như một hình quạt là biểu tượng về ánh sáng thần linh thánh đức. Đây là một biểu tượng nguyên thủy lâu đời trong đạo Do-thái.
Trong Phật Giáo nói đến 7 tầng trời khác nhau. Thời thượng cổ xa xưa người ta biết đến 7 hành tinh trong đó bao gồm cả mặt trời và mặt trăng.
Người Hy-lạp nói dến con số 7 trong những truyện thần thoại: 7 cổng thành của Theben, 7 người con trai của Helios, 7 sự lạ lùng trong thế giới...
Trong Kinh Thánh nơi sách Khải huyền của Thánh Gio-an nói đến 7 Giáo đoàn, 7 dấu ấn, 7 tầng trời nơi có Thiên Thần ngự.
Trong Giáo Hội Công giáo có 7 Bí tích: Rửa tội, Thêm sức, Giải tội, Mình Thánh Chúa, Hôn phối, Truyền chức và Xức dầu.
Ngày trước thời Công đồng Vatican II (1965) các Giáo sỹ trong Giáo Hội được truyền 7 chức thánh. Nhưng từ sau Công đồng chỉ còn: chức Phó tế và chức Linh mục.
Giáo Hội theo truyền thuật lại nơi sách tiên tri Isaia 11, 2 nói về bảy ân đức của Đức Chúa Thánh Thần: " Khôn ngoan, thông minh, lo liệu, sức mạnh, hiểu biết, đạo đức và kính mến Chúa"
2. Đâu là ý nghĩa của 7 ân đức Chúa Thánh Thần cho đời sống đức tin?
2.1. Ngọn lửa ơn khôn ngoan
Khôn ngoan đây không phải là sự biết nhiều, biết giỏi cùng khá hơn người khác, nhưng là cách sống và là một nhân đức của một tâm hồn biết nhìn nhận sự chân thành, biết giới hạn của mình, cùng nhận ra hoàn cảnh đời sống và người khác.
Vì thế, trong những hoàn cảnh khó khăn phức tạp chúng ta cầu xin ngọn lửa Chúa Thánh Thần soi sáng cho tâm trí nhìn rõ việc phải làm phải quyết định cho đúng.
"Qủa vậy, nơi Đức Khôn ngoan có một Thần Khí tinh tường và thánh thiện" (Titô 3,6).
2.2. Ngọn lửa ơn thông minh
Thông minh đây không phải là học qua hay đọc qua là hiểu hết, nhưng là biết suy nghĩ tìm hiểu cho sâu rộng thêm. Nơi nào thiếu điều này, nơi đó thiếu phát triển mở rộng, đổi mới, cùng học hỏi thăng tiến thêm lên.
Chúng ta người tín hữu Chúa Kitô cầu xin ngọn lửa ơn thông minh của Chúa Thánh Thần như ánh sáng thần thánh như sức mạnh cùng sự sâu rộng giúp cho tâm trí mạnh mẽ phấn khởi vươn lên.
"Ta sẽ ban tặng các ngươi một qủa tim mới, sẽ đặt Thần khí mới vào lòng các ngươi" (Edekien 36,26)
2.3. Ngọn lửa ơn biết lo liệu
Xưa nay ai cũng cần lời an ủi trợ giúp trong hoàn cảnh đời sống. Lời trợ giúp không phải là mệnh lệnh truyền, nhưng là lời khuyên nhủ ẩn chứa tôn trọng sự tự do cùng quyết định của người khác.
Vì thế chúng ta cầu xin ngọn lửa ChúaThánh Thần ơn biết lo liệu trong những khi trên đường hoài nghi còn đang đi tìm kiếm cho quyết định trong đời sống.
"Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, dedể tôi loan báo Tin mừng" (Lc 4,18)
2.4. Ngọn lửa ơn sức mạnh
Sức khoẻ, sức mạnh mọi người đều cần có, nhất là sứ mạnh tinh thần. Có sức mạnh tinh thần đời sống mới vươn lên niềm hy vọng, mới có niềm vui phấn khởi xây dựng đời sống đi lên.
Những khi tinh thần uể oải, hoài nghi chùng xuống là những lúc cần thiết phải cầu xin ngọn lửa ơn sức mạnh của Thánh Thần giúp củng cố vực dậy đứng lên tiếp tục con đường sống.
"Anh em sẽ nhận được suúc mạnh của Thánh Thần khi người ngự xuống trên anh em" (Cv 1,8)
2.5. Ngọn lửa ơn hiểu biết
Sự hiểu biết dù chỉ là những sự thông thường nhỏ bé trong đời sống luôn cần thiết trong cuộc sống. Sự đào tạo giáo dục là căn bản cho sự hiểu biết. Trong đời sống đức tin sự hiểu biết không hẳn là biết nhiều, nhưng là hiểu biết nguồn gốc đời sống, nguồn gốc vũ trụ là do Thiên Chúa tạo dựng nên.
Sự hiểu biết sâu rộng giúp đời sống dễ dàng chấp nhận khoan dung với người khác hơn. Xin ngọn lửa ơn hiểu biết của Đức Chúa Thánh Thần giúp ta thaót ra khỏi vùng bóng tối lộn xộn làm tâm trí ta hoang mang chao đảo.
"Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ thần khí mà tiến bước" ( Galata 5,25).
2.6. Ngọn lửa ơn đạo đức
Đạo đức không phải chỉ là giữ những thói quen tốt lành, nhưng là sự ngay thẳng chân thật trong đời sống.
Ngọn lửa ơn đạo đức của Chúa Thánh Thần giúp tâm hồn con người tìm nhận Thiên Chúa chân thật nguồn yêu thương tha thứ.
"Anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em" (1 Cr 3,16).
2.7. Ngọn lửa ơn kính mến Chúa
Kính mến Chúa là lòng kính trọng mầu nhiệm bí ẩn về Thiên Chúa mà tâm trí con người không làm sao cắt nghĩa hiểu được. Đây không phải là sự sợ hãi trước mầu nhiệm thần thánh, nhưng là lòng tôn kính gìn giữ điều không thể cắt nghĩa bằng lời cũng như hiểu thấu bằng suy nghĩ lý luận được. Kính mến Chúa cũng đồng thời giúp tâm trí sống lòng khiêm nhượng trước Đấng Toàn Năng.
Xin ngọn lửa ơn kính mến Chúa của Chúa Thánh Thần giúp tâm trí không chạy theo những thân tượng gỉa tạo. Nhưng tin theo một Thiên Chúa chân thật, Đấng là mầu nhiệm ẩn dấu cho tâm trí con người, cùng gần gũi với con người hơn cả.
"Thánh Thần ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa" (Cv 10,44).
112. Ngôn ngữ của toàn cầu
Ngôn ngữ là phương cách thông tin, biểu lộ tâm tình cho nhau và dùng để liên lạc với nhau trong cuộc sống. Bất cứ dân tộc nào trên mặt đất cũng đều có ngôn ngữ cho mình. Trong niềm tin đạo giáo chúng ta dùng ngôn ngữ gì để bày tỏ tâm tư của mình với Chúa? Và Chúa dùng ngôn ngữ gì để thông tin nói với ta?
Nói với Chúa chúng ta dùng ngôn ngữ của ta, vì Ngài hiểu được hết. Còn khi Chúa nói với chúng ta, Ngài cũng dùng ngôn ngữ của chúng ta. Nhưng khi nói loan truyền lời Chúa cho các dân tộc khác nhau về ngôn ngữ, ngôn ngữ gì được xử dụng để mọi người có thể nghe hiểu được?
Kinh Thánh thuật lại phép lạ ngày lễ Chúa Thánh hiện xuống như sau: Gió thổi đến và lửa chiếu dọi ánh sáng cùng mang hơi nóng trên các Tông Đồ. Đó là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, người từ nay thay Chúa Giêsu cùng đồng hành với họ và trong Hội Thánh Công Giáo. Khi Chúa Thánh Thần xuống trên các Tông Đồ, Ngài mang đến cho các Ông luồng gió mới. Luồng gió mới này làm các ông phấn khởi tung cửa đứng ra trước công chúng nói về Chúa Giêsu là con Thiên Chúa đã sinh ra, đi khắp nơi rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa, chữa lành bệnh tật cho người đau ốm, mang niềm an ủi cho người bị bỏ rơi, bị đau khổ, sau cùng đã chết và đã sống lại. Các ông được ơn lạ nói những thứ ngôn ngữ của tất cả những người hôm đó hiện diện nghe các ông. Chúa Thánh Thần ban cho các Tông Đồ ân đức nói thứ ngôn ngữ mà tất cả mọi người cùng hiểu được, bất kể họ đến từ xứ sở nào...
Phép lạ này nói lên quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi con người. Ngày xưa, con người cũng đã có lần toan tính xây cây tháp Babel chạm tới tầng trời, nhưng Thiên Chúa đã phá huỷ toan tính kiêu ngạo của họ bằng các ngôn ngữ khác nhau. Vì ngôn ngữ bất đồng, họ không thể thông hiểu nhau, nên công trình đó đã tan hoang. (St 11, 1-9)
Máy vi tính ngày nay là phát minh mới lạ của con người. Máy cũng có một thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin và trao đổi liên lạc với nhau nhanh chóng.
Trong đời sống, con người chúng ta dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việtnam... cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay từ thuở sơ sinh ai chúng ta cũng có, cũng biết: ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả mọi người đều hiểu được cả.
Ngôn ngữ tình yêu này phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhậy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự sống một con người. Qua ngôn ngữ này mối liên lạc tình người được xây dựng từ cha mẹ tới con cái còn thơ bé, con người với nhau trong đời sống, Thiên Chúa với công trình sáng tạo của Ngài trong hoàn vũ và con người với Thiên Chúa.
Ngôn ngữ này không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ Nho, chữ Thailan, chữ Arập... cũng không bằng những dấu hiệu chương trình lý luận toán học như ngôn ngữ của máy vi tính. Nhưng ngôn ngữ này từ bẩm sinh nằm ẩn sâu trong trái tim tâm hồn mỗi người. Mỗi người đều có chương trình ngôn ngữ này và đều có thể sử dụng được chương trình này.
Dù là tiếng mẹ để, ta cũng cần phải học, phải mài dũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phải học cách sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm.
Những sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng gây ra. Và chúng ta phải điều chỉnh lại cách sử dụng cho đúng. Trong ngôn ngữ tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này chạy không đúng là do con người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ này, nhưng khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình này hoặc là muốn sử dụng chương trình sai riêng của mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không còn truyền đi tín hiệu thông tin, hiểu nhau được nữa.
Những sai lầm này là thiếu tình liên đới với nhau, khi chỉ chú ý đến quyền lợi riêng tư của mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, mang niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hoà và tình liên đới trong cuộc sống.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm xưa, các Thánh Tông Đồ đã tìm ra được ngôn ngữ chung cho hết mọi người. Ngôn ngữ này do Chúa mang đến và ghi khắc trong tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được tin mừng ơn cứu độ của Chúa và cùng nhau tìm về với Chúa, với nhau là anh em con một Chúa: ngôn ngữ tình yêu.
Chúa Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ này khác gì là "tiếng mẹ đẻ" của con người: ngôn ngữ tình yêu - ngôn ngữ của toàn cầu.
113. Thần hứng - Lm Đam. Nguyễn Ngọc Long
Khi tìm hiểu về một người hay một dân tộc, đất nước nào đó, chúng ta thường tìm về gốc gác, tên tuổi, hình dạng, sự nghiệp hay những đặc điểm của họ, để nhận dạng. Còn khi tìm hiểu về Thiên Chúa, nhất là Chúa Thánh Thần, ta căn cứ vào điểm gì để nhận diện Ngài? Ai có thể phác họa về thân thế, hình dạng Ngài? Ngài là Đấng vô hình, nào ai có thể phác họa thân thể, hình dạng Ngài được! Lẽ tất nhiên không vì thế, mà có thể nói: Ngài không có hay chỉ là do óc tưởng tượng của con người chúng ta vẽ ra!
Không kiếm ra hình hài, gốc gác thân thế, sự nghiệp, nhưng vẫn có thể căn cứ vào đặc điểm, vào thành tích, vào dấu vết việc làm, để biết về một người. Điều này còn diễn tả chính xác hơn về bản thân người đó.
Tìm hiểu diễn tả về Chúa Thánh Thần, điều này lại càng cần thiết và sát với thực tế hơn hết. Vì dấu vết của Ngài hiện diện khắp mọi nơi, nơi từng người, nơi mọi công trình trong thiên nhiên vào mọi thời đại.
Khi trong người cảm thấy khoan khoái, suy nghĩ ra ý tưởng mới, tìm được giải đáp cho vấn đề suy nghĩ từ lâu. Khi xem, nghe được những câu nói đánh động gây chú ý, gây hứng khởi bừng rộn lên niềm vui, gợi ý suy nghĩ... Tất cả những ý tưởng đó xuất hiện như làn gió tươi mát thổi đến. Ta cho đó là được gợi hứng từ trong tâm hồn, từ trong trí khôn.
Hứng đó không phải tự nhiên từ khoảng chân không thổi đến, nhưng có chủ từ và túc từ, cùng đối tượng. Túc từ là hứng mới, đối tượng là ta, nhưng chủ từ là ai?
Trong thế giới khoa học kỹ thuật, kỹ nghệ tân tiến, của multimedia, của lý luận, người ta sẽ không do dự trả lời: Trí óc con người, phát minh khoa học, hay computer chứ còn ai vào đó nữa!
Câu trả lời ngắn gọn và gần như đánh đúng vào tầm hiểu biết của con người. Nhưng sao tâm hồn, con người vẫn cảm thấy bình an, vẫn chưa thoả mãn, vẫn còn thấy chưa đầy đủ, vẫn còn thấy khuyết điểm thiếu sót... Chúng ta còn khao khát điều gì đó mang đến cho đời sống ý nghĩa, nhân vị, giá trị và niềm Vui. Và qua đó có thể phát triển những khả năng còn tiềm tàng trong con người. Đó là nhu cầu tinh thần, nhu cầu thiêng liêng của con người.
Saint-Exupéry cách đây hơn nửa thế kỷ đã có nhận xét như sau về nhu cầu nầy của con người: "Hai tỷ người trên địa cầu chỉ còn biết tuân lệnh của chú Rô-bô-tơ. Họ hiểu biết chú, và ngày nào đó họ sẽ trở thành chú Rô-bô-tơ. Bây giờ chỉ còn vấn đề duy nhất: làm sao khơi dậy đời sống tinh thần, đời sống thần linh. Đời sống này vượt trên mọi tư duy hiểu biết của lý trí. Chỉ đời sống này mới làm thỏa mãn con người được".
"Catch the Spirit!" Hãy nắm bắt lấy Thần hứng!
Catch the Spirit! Câu này tôi đọc thấy trên áo T-Shirt (áo thung) của một bạn trẻ đi ngoài đường phố. Câu này gợi suy nghĩ: Phải chăng người viết câu này, và có thể cả người đang mặc chiếc áo với hàng chữ này, đang có suy nghĩ về đời sống tinh thần? Và chúng ta có thể nắm bắt được thần hứng không? Tôi không tin là có thể làm được chuyện này. Vì thần hứng làm gì có hình hài vuông tròn, mầu sắc đen trắng, xanh đỏ... hay thân xác như con người chúng ta, như một vật nào đó, mà nắm bắt giữ lại được.
Những gì xuất hiện trong tâm hồn, gợi hứng trong tâm trí, như buồn vui, yêu ghét, giận dữ, phấn khởi, hào hứng, cảm động, ý tưởng mới lạ... Nào ai có thể nắm bắt giữ được, có chăng là cảm nghiệm thấy, và diễn tả ra qua lời noi, cử chỉ thái độ, hành động, chữ viết thôi. Ai cũng có kinh nghiệm về tình yêu cha mẹ con cái, vợ chồng, tình yêu quê hương đất nước... Tình yêu chỉ có thể cảm thấy thôi, và không thể chiếm đoạt được như đồ vật. Vì tình yêu vô hình.
Cũng như không khí có đó và cần thiếu cho sự sống. Không có không khí, sự sống sẽ tàn lụi và biết mất. Nhưng không khí lại vô hình, vô sắc, vô thanh, luân chuyển không ngừng và không thể bắt giữ lại được.
Ông Ni-cô-đê-mô hỏi Chúa Giêsu về Chúa Thánh Thần, Ngài trả lời: "Gió muốn thổi đâu thì thổi; khi gió thổi ta có thể nghe tiếng gió, nhưng không biết từ đâu đến và đi về đâu. Thần Linh Thiên Chúa cũng vậy, Ngài ở trong những ai sinh ra bởi Ngài." (Ga 3,8).
Nhà thần học Karl Rahner, khi suy niệm về chủ từ của thần hứng, đã viết lại những dòng như sau:
"Kinh nghiệm về Thần Hứng, về Tự do về Ân Đức, mổi người đều có tùy theo hoàn cảnh đời sống cá nhân của họ:
- Khi nhận lãnh trách nhiệm và chu toàn tới nơi tới chốn. Và cả khi làm việc mà không nhìn thấy kết quả.
- Khi cảm thấy sự thong dong tự do của mình không bị giới hạn.
- Khi phải chấp nhận sống trong giờ phút đen tối, sợ hãi, như bước khởi đầu cho một giai đoạn được chúc phúc, mặc dù không hiểu nổi.
- Khi bình thản chấp nhận thất vọng trong đời sống hằng ngày xảy đến, dù phải chịu đựng tới cùng sức.
- Khi kiên nhẫn cầu nguyện trong thinh lặng, trong u tối. Vì tin rằng thế nào cũng được nhận lời, mặc dù không có dấu hiệu thấy hiệu quả của lời cầu xin kêu khấn.
- Khi chấp nhận từ bỏ không có điều kiện gì. Vì tin rằng chính sự từ bỏ mang lại chiến thắng thật sự cho đời sống.
- Khi trong cuộc sống hằng ngày, bình thản sống và sẵn sàng chấp nhận sự chết xảy đến.
- Và còn rất nhiều cảnh huống nữa trong đời sống mỗi người... "
Tất cả những điều đó là Ân Đức của Thiên Chúa. Ân đức này, người Kitô hữu chúng ta gọi là Đức Chúa Thánh Thần. (K. Rahner trong Pfingsten entgegengehen, Freiburg. Basel. Wien 1986, tr 86).
114. Lột xác
Nhận xét về quyển sách Tông Vụ Tông đồ, Jerome Crowe đã nói: “Quyển sách thứ 2 của thánh Luca được coi là một loạt những lễ Hiện xuống” (His second volume can be regarded as a series of Pentecosts). Chúa Thánh Thần hiện xuống với các tông đồ (Cv 2, 1-4), hiện xuống với nhóm môn đệ (Cv 4,31), hiện xuống với lương dân (Cv 10, 44), hiện xuống với nhóm môn đệ của Gioan Tẩy giả khi Phaolô đặt tay trên họ (Cv 19,6).
Quả thật, khi đọc sách Công vụ tông đồ, chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước công trình của Chúa Thánh Thần thực hiện cho Giáo hội thời sơ khai. Với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Giáo hội của Chúa Kitô chính thức được khai sinh, và cũng từ đấy, Giáo hội không ngừng lớn mạnh và lan tràn khắp nơi. Với tác động, hướng dẫn và soi sáng của Chúa Thánh Thần, các tông đồ được biến đổi cách lạ lùng. Có thể nói, các ngài đã đi từ thái cực này đến thái cực kia: từ nhát đảm, sợ hãi đến dũng cảm, hiên ngang; từ quê mùa, dốt nát trở thành trí thức, khôn ngoan và hùng biện tài tình. Đây là mot cuộc lột xác của các tông đồ trong Chúa Thánh Thần.
Như vậy, có nhiều người thắc mắc rằng: ngày nay, Chúa Thánh Thần có còn hiện xuống với Giáo hội nữa hay không? Đâu là những tác động và biến đổi của Ngài trên cuộc đời chúng ta?
Là những tín hữu đích thực, chắc chắn chúng ta đã được nghe nói, được giảng dạy về Chúa Thánh Thần, được lãnh nhận Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thêm sức, nhưng rất có thể Ngài vẫn còn là Đấng quá xa lạ đối với chúng ta. Rất có thể, Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp trong nhiều biến cố xảy ra trong đời sống hằng ngày của chúng ta mà thôi. Bí tích Thêm sức không làm cho chúng ta ý thức về sự hiện diện của Chua Thánh Thần trong chúng ta và sai chúng ta đi làm chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô.
Đâu rồi những tác động của Chúa Thánh Thần trên cuộc đời của chúng ta? Có lẽ, chúng ta đang chờ đợi Chúa Thánh Thần đến làm những chuyện “kinh thiên động địa” nơi chúng ta hay sai chúng ta đi một cách trực tiếp để làm những chuyện “dời non lấp bể”!
Chúa Thánh Thần không ở xa mỗi người chúng ta đâu. Ngài luôn có mặt khi chúng ta chân thành mở sách thánh để đọc Lời Chúa, rung động trước một đoạn Lời Chúa và muốn sống Lời Chúa trong đời thường. Ngài có mặt khi chúng ta âu ếm gọi tên Chúa Giêsu trên môi miệng chúng ta (1Cr 12,3) hay gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15). Ngài có mặt khi chúng ta quyết tâm hoán cải sau một lỗi lầm hay khi ta muốn tiến lên một bước mới trong đời sống cầu nguyện và đời sống thiêng liêng.
Chúa Thánh Thần là tình yêu trọn hảo của Chúa Cha và Chúa Con. Ai biết sống yêu thương tha thứ, cho đi và hi sinh thì sẽ được tháp nhập vào tình yêu trọn hảo ấy để sống trong sự sống của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần chẳng ở xa Giáo hội hôm nay. Ngài luôn hiện diện và thổi những luong sinh khí mới cho Giáo hội. Ngài làm cho Giáo hội được hiệp nhất và bình an bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung. Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo hội, nhưng Ngài cũng có mặt nơi những nhóm giáo dân, như xưa kia, Ngài đã hiện xuống trên các tông đồ, trên nhóm môn đệ và trên cả lương dân vậy. Ngài đang hiện diện trong các Bí tích, trong mỗi Thánh lễ. Ngài thánh hoá bánh rượu để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô. Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội; không có Ngài, Giáo hội chỉ là cơ cấu đáng nghi ngờ.
Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần tự do hoạt động trong chúng ta. Hãy mở tung các cánh cửa nơi tâm hồn chúng ta để Chúa Thánh Thần thổi những luồng sinh khí mới vào lòng chúng ta. Chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu khi chúng ta trở nên mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt; khi chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân; khi chúng ta không dập tắt tiếng nói của Ngài nơi cõi lòng của chúng ta.
Chúa Thánh Thần vẫn đang hiện xuống trong mỗi khoảnh khắc của cuộc đời chúng ta.
115. Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống
Trong phụng vụ của Giáo hội và trong các việc đạo đức hàng ngày, chúng ta thường nghe nhắc tới Chúa Thánh Thần rất nhiều. Khi làm dấu thánh giá, khi bắt đầu một việc đạo đức, khi cử hành các bí tích, chúng ta thường cầu xin Chúa Thánh Thần. Đặc biệt khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức là chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Vậy Chúa Thánh Thần có vai trò thế nào trong đời sống Giáo hội và trong cuộc đời của mỗi người chúng ta?
Khi học giáo lý chúng ta biết được Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như Hai Ngôi cực trọng ấy. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã có từ thuở đời đời. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Chúa Thánh Thần đã có mặt trong công trình sáng tạo. Sách sáng thế nói "Lúc khởi đầu Thiên Chúa đã sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước" (St 1,1-2). Như vậy ngay từ giây phút đầu tiên Thánh Thần Thiên Chúa đã có mặt để thực hiện việc sáng tạo nên vũ trụ và con người.
Rồi trong thời Tân ước, cũng chính Thánh Thần đó đã có mặt ngay từ lúc Ngôi Hai nhập thể làm người cho đến ngày Giáo hội được khai sinh. Và Ngài tiếp tục hoạt động trong Giáo hội và trong tâm hồn của mỗi người chúng ta cho đến tận thế.
Nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, các môn đệ mới hiểu được phần nào về con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Mặc dù đã theo Thầy bao năm, nhưng nhiều lần Phúc Âm ghi lại, các tông đồ đã không hiểu những lời nói và việc làm của Thầy. Chẳng hạn, trước khi bước bước vào cuộc Thương khó, Chúa Giêsu đã 3 lần tiên báo "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết chết Người nhưng ngày thứ 3 Người sẽ sống lại nhưng các ông không hiểu điều Người muốn nói". Cho nên Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ, tự sức các ông sẽ không thể hiểu nổi nhưng phải đợi "Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói cho các con" (Ga 14,26).
Trong ngày Lễ Hiện Xuống, các tông đồ đã lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy đã làm biến đổi toàn bộ cuộc sống các ông. Từ những con người nhát đảm, sợ sệt giờ đây các ông công khai rao giảng về một Đức Giêsu đã bị giết chết và đã sống lại. Từ những con người ít học, không biết ăn nói giờ đây lại nói năng đầy thuyết phục và khôn ngoan. Phêrô, một người ngư phủ, học hành không bao nhiêu vậy mà sau bài giảng đầu tiên của ông lại có hơn 3000 người xin chịu phép rửa. Người ta nghĩ rằng những con người tầm thường đó sẽ không làm nên trò trống gì, vậy mà các ông đã làm thay đổi thế giới. Rồi xuyên suốt hơn 2000 năm qua, Giáo hội Chúa đã trải qua biết bao chống đối bách hại thế nhưng con thuyền Giáo hội vẫn đứng vững. Tất cả đều do và nhờ Chúa Thánh Thần.
Ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong lòng Giáo hội và trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Sở dĩ chúng ta có thể tin Chúa, yêu mến Chúa là nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói "không ai có thể gọi Đức Giêsu là Chúa mà không do tác động của Thánh Thần". Khi chúng ta phạm tội, Chúa Thánh Thần thúc giục lương tâm để chúng ta hoán cải để trở về với Chúa qua bí tích giải tội. Chính sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, biết bao người đã quảng đại hy sinh cuộc đời mình để phục vụ những người nghèo, những kẻ cô thế cô thân, các bậc cha mẹ chu toàn bổn phận săn sóc và làm gương cho con cái, các bạn trẻ can đảm chống lại những cám dỗ trong cuộc sống. Và nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta mới có thể yêu thương và tha thứ cho những người xúc phạm đến mình. Bởi vì hoa trái của Thánh Thần đó là yêu thương, bình an, hiền hoà, quảng đại.
Cuộc sống hôm nay có quá nhiều tác động bởi những bon chen, tranh giành bởi hơn thua, còn mất. Những tác động đó có thể làm cho chúng ta không còn nghe được tiếng Chúa, trở nên vô cảm trước những đau khổ của đồng loại mình. Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Bởi Ngài sẽ dạy chúng ta cầu nguyện, Ngài sẽ dạy chúng ta biết sống thế nào cho đẹp lòng Chúa. Và Ngài sẽ phù trợ để chúng ta kiên nhẫn trong lúc đau khổ và vui mừng trong các việc lành phúc đức.
Dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa Thánh Thần đổi mới tâm hồn của mỗi người chúng ta, để chúng ta luôn biết sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Biết kêu cầu Chúa Thánh Thần trong mọi công việc, nhờ đó chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa phục sinh bằng một cuộc sống đầy hy vọng, yêu thương và phục vụ anh chị em mình.
116. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm Augustine, SJ)
Một thiếu nữ mới từ thành phố Paris của nước Pháp trở về. Cả thân xác và tinh thần của Ma-đa-len đã bị hao mòn tột độ. Cha mẹ cô lấy làm ghê sợ trước những lời nói phạm thượng và thô tục thường xuyên phát ra từ miệng lưỡi của đứa con hư hỏng.
Một người thuộc làng bên cạnh chỉ quen biết với gia đình Ma-đa-len sơ qua mà thôi, đó là chị Mônica. Mônica cảm thấy không thể dửng dưng trước hiện tượng nói trên. Một hôm, Mônica đến gần căn nhà bi thảm ấy, thì nghe thấy Mađalen đang gào théo một bản nhạc thô tục và chán đời với những điệp khúc gợi cảm nhớp nhúa và khiêu khích. Chị Mônica tự nhiên muốn rút lui nhưng bất ngờ nghe thấy chính tiếng của người mẹ của Mađalen gào thét:
Mày là đồ gái điếm trơ trẽn
- Mày là đồ gái điếm trơ trẽn... có im cái mồm mày đi không?
Mađalen càng giận dữ hét lên:
Bà đừng la lối làm chi mất công! Tôi sẽ tự tử ngay bây giờ đây. Như thế cho tiện. Chẳng phiền hà gì đến ai, cả bà lẫn tôi.
Chị Mônica đứng sững sờ. Nghe những tiếng la hét loại đó, chị không thể không rợn tóc gáy. Chị cảm thấy có bổn phận phải can thiệp. Trước khi gõ cửa, chị hắng giọng để báo trước. Rồi chị bước qua cánh cửa đã bị mọt ăn một cách thê thảm.
Khi ấy Mađalen đang ngồi gần lò sưởi với vẻ giận dữ ghê gớm. Cô đang lồng lộn sẵn sàng tuôn ra những lời thô tục. Nhưng ánh sáng từ cặp mắt của người mới bước vào bao trùm và ngăn cản Mađalen. Mônica tiến lại bên Mađalen với tất cả sự trìu mến như chưa bao giờ người thiếu nữ này đã nhận được từ nơi gia đình mình. Mônica nhẹ nhàng lên tiếng:
- Chị đi ngang qua đây... Em có thể cho chị xin một ly nước được không?
Mađalen đứng dậy lấy nước cho khách. Khách lặng lẽ uống thứ nước táo rữa ấy rồi nói:
- Em vui lòng đan cho chị mấy búp len này. Việc này, bình thường chắc chẳng thích thú gì đối với em. Nhưng chị rất lấy làm quí được có tương quan với em.
Chị Mônica vừa nói vừa tiến lại ngồi trên chiếc ghế thấp bên cạnh Mađalen. Đột nhiên chị ấp ủ đôi bàn tay của Mađalen trong bàn tay của chị và nói:
- Mađalen ơi, em đã đau khổ quá nhiều. Nếu em muốn, em có thể coi chị như một người bạn.
Một sức mạnh tinh thần tỏa ra từ Mônica. Mađalen nghiệm thấy sức mạnh đó nên chấp nhận để yên đôi bàn tay đã trở nên ngoan ngoãn của cô trong bàn tay chị Mônica. Mađalen muốn trả lời nhưng cô nghẹn ngào chỉ còn biết khóc. Những giọt nước mắt lặng lẽ nhỏ dài trên đôi má cằn cỗi của cô. Cô bắt đầu thổn thức:
- Đã ba năm nay, em không thể khóc được!
Đứa con bà giờ đây có thể được cứu
Bà mẹ của Mađalen cũng nức nở. Bà biết rằng đứa con của bà giờ đây có thể được cứu thoát.
Nhân vật Mônica trong câu chuyện nói trên thực tỏ ra là một con người có sức thu hút phi thường. Chỉ xuất hiện trong chốc lát, con người ấy đã hoàn toàn làm chủ được tình hình.
Từ đâu phát sinh ra một ơn biến đổi lạ lùng đến như vậy, cả nơi người con, lẫn người mẹ? Phải chăng đó chính là biến cố của Chúa Thánh Thần Hiện Xuống vẫn còn nối dài trong lịch sử? Chính lúc tội giết chết là lúc Thiên Chúa biểu dương quyền lực để mang lại sự sống cho kẻ tuyệt vọng.
Họ đau đớn hỏi: Chúng tôi phải làm gì?
Xưa tông đồ Phêrô đã đặt người Do Thái vào đúng bối cảnh của tội ác là họ đã giết chết Đấng Kitô của Thiên Chúa nên họ đã đau đớn trong lòng và hỏi ông Phêrô và các tông đồ rằng: "Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?" Rồi Phêrô đã cho họ biết rằng họ phải sám hối và mỗi người phải chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội. Và hôm đó đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo (Cv 2,36-41). Nay trong giây phút cực kỳ giận dữ với người mẹ, Mađalen chỉ còn thấy tự sát là con đường duy nhất ở trước mặt. Đó là lúc chị Mônica cảm thấy có sức mạnh nội tâm đòi chị phải can thiệp để cứu sống một linh hồn. Chị là hiện thân của tình yêu và lòng quí chuộng đối với những giá trị cao quí nhất còn thức tỉnh nơi cõi lòng Mađalen. Cuối cùng Mađalen đã chọn tình yêu và sự sống thay vì chọn hận thù và sự chết. Mađalen đã ngoan ngoãn để bàn tay mình ở yên trong lòng bàn tay chị Mônica. Và Mađalen đã khóc trong khi mẹ cô cũng nức nở với hai hàng lệ sám hối. Quả thật, đúng như lời thánh tông đồ Phaolô nói là: "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rom 5,20). Tất cả biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đều được tóm gọn trong câu nói đó.
Riêng bài Tin Mừng hôm nay về Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ gồm hai phần. Trước hết Đức Giêsu cho các môn đệ thấy tay và cạnh sườn Người để các ông thâm tín rằng đó là chính Thầy các ông: Đấng đã chịu khổ hình thập giá nhưng nay đã sống lại (cc.19-20). Kế đến Đức Giêsu ban cho các ông Thánh Thần và sai các ông đi với sứ mạng tháo gỡ tội khỏi loài người để họ được tự do (cc.21-23).
Đấng Toàn năng và Toàn mến
cc.19-20 cho thấy một Đức Giêsu không những là Đấng toàn năng mà còn là Đấng toàn mến. Hãy đặt mình vào bối cảnh các môn đệ còn trong tình trạng lo âu sợ hãi. Nguồn gốc của lo âu ấy chính là Thầy các ông: Nếu Thầy các ông mà bị người ta đấu tố, bị lên án và bị giết trên khổ hình thập giá, thì số phận riêng của các ông thật là chao đảo. Nhưng toàn bộ nỗi lo âu sợ hãi đó đã được tháo gỡ nơi Đức Giêsu toàn năng, Đấng đã toàn thắng mọi gian nan thử thách và tử thần! Tùy ở mức độ các môn đệ tin vào quyền năng của Thầy các ông mà các ông được tự do và bình an. Nhưng Thầy các ông nay sống lại còn là Đấng toàn mến. Hãy coi các dấu đinh trên tay, nhất là hãy coi cạnh sườn Thầy bị đâm thâu qua: Tất cả đều cho thấy Thầy các ông là Đấng toàn mến. Không có dấu vết nào nơi hiện hữu của Thầy mà lại không phải là để ban tặng cho các môn đệ: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần Người đã chịu thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu chết thời Phongxiô Philatô..." Đó là lời tuyên tín về Đấng toàn mến như các tông đồ đã để lại.
c. 21 Không chỉ cho các môn đệ thấy Đức Giêsu phục sinh sai phái các ông, mà còn cho thấy việc sai phái đó tiếp nối chính việc Chúa Cha sai phái Chúa Giêsu. Các ông được sai đi để tham dự vào chính công trình cứu nhân độ thế do Chúa phục sinh thực hiện.
Một cuộc tạo dựng mới
c. 22 Chúa Giêsu phục sinh "thổi hơi vào các môn đệ." Ở đây điều được hiểu về một cuộc tạo dựng mới vượt trên cuộc tạo dưng về sự sống tự nhiên (St 2,7; Kn 15,11). Chúa Giêsu ban cho các môn đệ Thánh Thần là nguyên ủy của sự sống mới. Hồng ân Thánh Linh gắn liền với việc các ông được sai phái. Vì lời Đức Giêsu nói là thần khí và là sự sống mới (Ga 3,34; 6,63).
Các môn đệ được sai đi là để rao giảng Lời Đức Giêsu hầu làm cho người nghe trở nên Con Thiên Chúa (x. Ga 13,20).
c. 23 Đức Giêsu đã được ông Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian (Ga 1,29). Các môn đệ của Đức Giêsu sẽ tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu là ban ơn tha tội. Quyền năng được ban cho các ông để tha tội gắn liền với Chúa Thánh Linh là Đấng thanh luyện và ban sự sống cho loài người (Ed 36, 25-27; 37, 3-6).
Như vậy việc cô Mađalen ra mềm lòng đã là một ơn lạ lùng. Nhưng ơn đó cần được tiếp nối bằng quá trình gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng toàn năng và toàn mến. Người mới có những lời mang lại sự sống đời đời (Ga 6,68). Chính do Người mà ơn tha tội được ban ngang qua những thừa tác viên được Người sai phái.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Điều gì nơi cách hành xử của chị Mônica đã khiến cô Mađalen ra mềm lòng: Cái nhìn trìu mến đầu tiên? Một số hành vi nhờ cậy trong tầm tay của Mađalen như xin một ly nước, yêu cầu đan mấy búp len? Lời đề nghị đáp ứng đúng nhu cầu nơi Mađalen là "Em đã đau khổ quá nhiều. Nếu em muốn, em có thể coi chị như một người bạn"? Hay bạn nghĩ tới những điều khác?
2. Theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay điều gì cần được tiếp nối cuộc biến đổi đầu tiên nơi Mađalen? Gặp gỡ Đức Kitô trong cầu nguyện hàng ngày? Trở nên người môn đệ của Chúa Giêsu qua việc hấp thụ lời Người giảng dạy? Chịu phép rửa tội? Lãnh nhận bí tích hoà giải? v.v...
117. Gió-Lửa-Nước
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Gió, Lửa và Nước “bộ ba độc đáo” gồm những thứ mềm nhất và bình thường nhất, nhưng đó lại là những thứ mạnh nhất và quan yếu nhất trong cuộc sống, ba thứ ấy mạnh đến nỗi không gì có thể cưỡng lại.
GIÓ có thể tiếp nhận, thổi bay và chuyển hóa mọi thứ, dù những thứ xấu xa và dơ bẩn nhất. Gió luôn tự hào, không buồn khổ hay tủi nhục. Gió có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Phong, có khả năng di động và chuyển hóa phi thường.
LỬA có thể tiếp nhận và đốt cháy mọi thứ, dù những cái xấu xa và dơ bẩn nhất. Lửa không vì thế mà cảm thấy buồn tủi, chán chường, hoặc ghen ghét. Lửa có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Hỏa, có khả năng thiêu đốt và chuyển hóa tất cả mọi thứ.
NƯỚC có thể tiếp nhận và rửa sạch mọi thứ, dù những cái xấu xa và dơ bẩn nhất, người ta có đổ xuống nước mọi thứ nhưng nước vẫn bình thản, không lệ thuộc hoặc cảm thấy oán hờn, tủi nhục. Nước cũng có dung tích rộng lớn, gọi là Đại Thủy, có khả năng di động và chuyển hóa kỳ diệu.
Gió, Lửa và Nước luôn dạy chúng ta nhiều bài học sống: Nếu tâm chúng ta có khả năng chuyển hóa và di động, chúng ta cũng có thể tiếp nhận và chuyển hóa tất cả mọi thứ đau khổ mà người khác trút lên chúng ta, và những thứ ấy không thể gây xáo trộn tâm hồn chúng ta, không thể tước mất sự bình an và hạnh phúc trong tâm hồn chúng ta: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8:39).
Nước liên quan Phép Rửa, cũng gọi là Bí tích Thánh tẩy: “Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Ngài thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Ngài” (Mt 3:16). Như vậy, Nước cũng liên quan Chúa Thánh Thần.
Những gì đơn giản nhất thường bị coi thường. Chúa Thánh Thần cũng thường không được chúng ta “nhắc tới”, dù Ngài không ngừng hoạt động trong cuộc đời chúng ta. Hãy thành tâm thân thưa với Chúa Thánh Thần: “Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Ngài!”.
TIẾP NHẬN THÁNH THẦN…
Sách Công vụ Tông đồ kể: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một” (Cv 2:1-3).
Hai hình ảnh xảy ra liên tiếp: Gió và Lửa. Gió là không khí. Không khí là thứ tối cần thiết, vì thiếu không khí trong vài phút thì người ta không thể sống nổi. Làn gió do quạt máy không làm người ta sảng khoái, nhưng chỉ một chút gió hiu hiu cũng đủ làm người ta tỉnh táo và cảm thấy hồi phục ngay. Tuy nhiên, nếu gió mạnh quá thành lốc hay bão thì chẳng gì có thể chống lại, cả tòa nhà cao lớn cũng bị gió thổi sập trong tích tắc. Lửa làm người ta ấm áp trong mùa Đông giá lạnh, một đốm lửa dễ dàng bị thổi tắt, nhưng đốm lửa đó cháy lan như những vụ hỏa hoạn thì con người chỉ biết đứng nhìn mà “cười ra nước mắt”. Nước cũng rất mềm, dễ ngăn cản, ai muốn làm gì thì làm, nhưng một khi Nước “nổi giận” thì con người không thể ngăn cản, chạy cũng không kịp: Triều cường, vỡ đê, lụt lội, sóng thần,…
Gió, Lửa và Nước như thế đấy, vừa yếu vừa mạnh, vừa mềm vừa cứng. Và đó chính là Thần Khí Chúa, là Đức Chúa Thánh Thần, là Thánh Linh, là Thần Chân Lý, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Khi Gió thổi tới và Lửa đậu trên đầu thì mọi người được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. Hiện tượng “nói tiếng lạ” xảy ra ngay lập tức, nhiều người ngạc nhiên và hỏi nhau: “Thế nghĩa là gì?” (Cv 2:12), nhưng một số khác lại chế nhạo: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13). Không lạ sao được khi họ nói đủ thứ tiếng vậy mà họ vẫn hiểu nhau, đặc biệt là ai nghe cũng thấy họ nói tiếng của mình. Nhưng tất cả là để “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11; Tv 86:11).
Có Chúa Thánh Thần thì người yếu đuối cũng thành khỏe mạnh, người nhút nhát cũng thành người bạo dạn, người run sợ cũng thành người can đảm. Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã từng cảm nghiện được Chúa Thánh Thần tác động như vậy. Vì thế, chúng ta phải thốt lên: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1). Thiên Chúa tạo dựng mọi thứ, nếu “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi” (Tv 104:29). Thật vậy, “sinh khí của Ngài do Ngài gửi tới, chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:30). Chính Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân mọi thứ, chúng ta có làm được gì cũng là nhờ Ơn Chúa, do đó chúng ta phải quyết tâm: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Ngài vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).
… ĐỂ SỐNG CHỨNG NHÂN
Chúa Giêsu đã nhiều lần động viên chúng ta: “Đừng sợ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5 & 10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:0; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20). Sách Khải Huyền nhắc lại và giải thích: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ” (Kh 1:17-18). Lúc sinh thời, chính Chân phước GH Gioan Phaolô cũng rất thích câu nói đó: “Đừng sợ!”. Không sợ thì mới dám “vào đời”, dám “ra khơi”, dám hành động và dám bảo vệ công lý, dám sống theo chân lý của Thiên Chúa (Tv 26:3).
Thánh Phaolô nói: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5:16), và giải thích: “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5:17). Thánh Phaolô nói chi tiết hơn: “Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (Gl 5:18-21a). Chắc chắn rằng “những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa” (Gl 5:21b).
Trên đây là những điều ngược với Chúa Thánh Thần, còn những điều thuận với Chúa Thánh Thần? Đó là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5:23). Tất nhiên, chẳng có luật nào chống lại những điều như thế – dù là luật đời. Thánh Phaolô nói: “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5:24). Trong Chuỗi Mân Côi, ở mầu nhiệm thứ 5 của Mùa Thương, Giáo hội dạy: “Ta hãy xin cho được đóng đinh tính xác thịt vào Thánh giá Chúa”. Đó là từ bỏ chính mình theo tác động của Chúa Thánh Thần. Và “nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau” (Gl 5:25-26).
Chúa Giêsu đã hứa: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Ngài là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Ngài sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15:26). Và Ngài cũng đã giữ đúng lời hứa đó. Nhưng Ngài cũng trao trách nhiệm cho mỗi chúng ta: “Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15:27). Sống chứng nhân là bổn phận chung. Chúa Giêsu nói “anh em” không có nghĩa là chỉ có phái nam, còn phái nữ “khỏe re”. Lúc đó Ngài nói với các Tông đồ nên chỉ nói “anh em”, không có từ “chị”, nữ giới đừng vì thế mà “tự ái”, “đùn đẩy” hoặc “né tránh” trách nhiệm. Nhưng ngày nay phải được hiểu là “anh chị em” (ngôi thứ hai số nhiều – you, vous, vosotros, voi), cả nam và nữ.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (Ga 16:12). Ngài biết chúng ta “không có sức chịu nổi” vì chưa được lãnh nhận Thần Chân Lý. Ngài xác định: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Ngài nghe, Ngài sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Thầy, vì Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:13-14). Vì Ba Ngôi là Một nên Chúa Giêsu nói: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy” (Ga 16:15a). Và một lần nữa, Chúa Giêsu nhắc lại: “Ngài lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em” (Ga 16:15b). Vậy là đã rõ ràng và chắc chắn, đúng như Đức Kitô đã hứa: “Thầy ở cùng anh chị em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28).
Lạy Chúa, xin soi sáng và dẫn chúng con đi theo đường chân lý của Ngài (Tv 25:5). Cuộc sống phàm nhân luôn nhiêu khê đủ thứ, xin Chúa luôn đồng hành và nâng đỡ chúng con theo đúng Thánh Ý của Ngài, để chúng con can đảm thể hiện yêu thương mọi người trong từng nhịp thở. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
118. Lửa Thiêng
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Theo tự điển Glossary of Wildland Fire Terminology, lửa là quá trình ôxy hóa nhanh chóng của một vật liệu trong phản ứng hóa học tỏa nhiệt, giải phóng ra nhiệt, ánh sáng, và các sản phẩm phản ứng khác. Để tạo ra lửa, phải cần và đủ 3 yếu tố: chất cháy, ôxy và nguồn nhiệt. Người ta gọi phản ứng dây chuyền này là “tam giác lửa”. Thiếu một trong các yếu tố trên hoặc các yếu tố trên không đủ thì sự cháy sẽ không xảy ra. Mỗi chất khác nhau có nhiệt độ bốc cháy khác nhau.
Lửa không chỉ chiếu sáng mà còn sức nóng. Theo nghĩa bóng, độ nóng là sự nhiệt thành, nhiệt tâm, nhiệt huyết. Sử gia Thomas Fuller (1608-1661, người Anh) nói: “Nhiệt huyết thiếu tri thức chỉ là lửa thiếu ánh sáng”. Còn Ralph Waldo Emerson (1803-1882), thi sĩ và triết gia người Mỹ, so sánh: “Nhiệt huyết là mẹ của nỗ lực, nếu không có nó, chúng ta không thể đạt được điều gì to lớn”. Và tác giả Thánh Vịnh nói: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân” (Tv 69:10).
Lửa rất lạ. Một đốm lửa nhỏ có thể thổi tắt dễ dàng, nhưng đốm lửa đó có thể lây lan thành đám cháy lớn, khó dập tắt, gió thổi càng mạnh càng cháy lớn. Lửa chia sẻ không mất, không hết, càng chia sẻ càng có nhiều lửa. Đêm vọng phục sinh, các Kitô hữu cùng nhau chia sẻ lửa từ ngọn nến phục sinh – tượng trưng Đức Kitô phục sinh chiếu sáng chúng ta.
Chúa Thánh Thần, Ngôi Ba Thiên Chúa, Đấng thường xuất hiện qua ba dạng: Lửa (Cv 2:3), Gió (Ga 3:8; Cv 2:2), và Chim Bồ Câu (Mt 3:16).
Sách Tông Đồ Công Vụ cho biết: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2:1-4).
Khi các Tông Đồ giảng đạo, người nghe đều hiểu theo ngôn ngữ bản xứ của họ (Cv 2:11). Hoạt động của Chúa Thánh Thần vô cùng kỳ diệu. Cùng một việc, một hoàn cảnh, nhưng Chúa Thánh Thần tác động khác nhau nơi từng người. Đơn giản như âm nhạc, chỉ có bảy nốt và năm hình nốt phổ biến nhất (tròn, trắng, đen, móc đơn, móc đôi), nhưng có cả hàng tỷ bài nhạc đủ thể loại được tạo nên với thiên hình vạn trạng. Con người không thể làm được nếu không có Chúa Thánh Thần tác động. Các lĩnh vực khác cũng tương tự. Quá đỗi kỳ diệu!
Vì thế, tác giả Thánh Vịnh tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!” (Tv 104:1a). Và rồi tác giả chân thành thân thưa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1b). Vì không thể trì hoãn, tác giả Thánh Vịnh lại tiếp tục hân hoan xưng tụng: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24).
Không khí là thứ vô hình, không ai thấy, nhưng lại là “vật chất”. Lạ quá! Không khí đơn giản nhưng lại vô cùng cần thiết, không thể thiếu, dù chỉ trong chốc lát. Chúa Thánh Thần là Thần Khí, Ngài cũng vô cùng cần thiết cho sự sống, cả đời thường và tâm linh, cả thể lý và linh hồn: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30).
Uóc gì chúng ta khả dĩ nhận thức đầy đủ, và luôn tâm niệm thành kính: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa” (Tv 104:34).
Con người rất dễ ảo tưởng, do đó mà kiêu ngạo. Làm được gì gọi là “hơn người” một chút thì vội vênh vang, tự cho mình giỏi hơn người, thậm chí có thể muốn “loại bỏ” Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, muốn thay thế Thiên Chúa bằng sự cai trị độc tài chuyên chế – khởi đầu là cuộc cách mạng Bôn-sê-vích (Bolshevik Revolution) của nước Nga, lan truyền chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu từ năm 1917.
Có thể chúng ta chưa bị cộng sản hóa, nhưng chúng ta lại dễ quên rằng tất cả đều nhờ hồng ân, chứ chính bản thân chúng ta chẳng có thể làm nên trò trống gì cả! Thánh Phaolô phân tích: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: Giêsu là đồ khốn kiếp! Cũng không ai có thể nói rằng Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” (1 Cr 12:3). Chúa Thánh Thần tác động tích cực trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, không thể thiếu vắng Ngài, dù chỉ trong giây lát.
Quả thật, Chúa Thánh Thần đã làm những kỳ công mà không ai có thể phủ nhận. Chẳng hạn việc phổ biến Kinh Thánh. Tính đến tháng 5-2015, Kinh Thánh trọn bộ đã được dịch ra 542 ngôn ngữ, riêng Tân Ước đã được dịch ra 1.324 ngôn ngữ. Không một cuốn sách nào được dịch ra nhiều ngôn ngữ như vậy, và càng ngày người ta càng chú trọng Kinh Thánh – với những ngôn từ được Chúa Thánh Thần linh hứng mà chúng ta gọi chung là Lời Chúa.
Thiên Chúa quan phòng và tiền định cho mỗi người một việc, mỗi người một cách. Anh giỏi cái này, chị chuyên cái kia, tôi biết cái khác. Thật vậy, Thánh Phaolô giải thích về đặc sủng, và xác định là có nhiều nhưng vẫn chung một nguồn gốc: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1 Cr 12:4-7).
Thánh Phaolô nói về Nhiệm Thể Đức Kitô: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12:12-13). Rõ ràng không ai có thể viện vào bất cứ lý do gì để mà tự cao tự đại. Thánh Phaolô nói: “Ai tưởng mình hiểu biết điều gì thì chưa hẳn là đã hiểu biết như phải hiểu biết” (1 Cr 8:2).
Và hãy lưu ý Kinh Thánh nói về thói kiêu căng, tự tôn, tự mãn:
– Kiêu hãnh đi liền với ô nhục, khôn ngoan ở với kẻ khiêm nhường (Cn 11:2).
– Kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào (Cn 16:18).
– Tính tự cao hạ đứa tự cao xuống, người tự hạ sẽ được tôn vinh (Cn 29:23).
Chính Đức Maria, khi đến thăm Bà Chị Ê-li-da-bét, đã ca vang bài Magnificat: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1:51-52).
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các cửa đều đóng kín nơi các môn đệ ở. Bất ngờ Đức Giêsu xuất hiện giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19). Hú hồn! Sao thế nhỉ? Vì các ông đang sợ người Do Thái làm khó dễ. Nhưng rồi họ cảm thấy an tâm khi Sư Phụ cho họ xem tay và cạnh sườn. Ôi, Thầy mình thật rồi! Các môn đệ vui mừng lắm, vui vì được gặp lại Thầy.
Rồi Ngài nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20:22-23).
Đúng như lời Ngài đã hứa lúc trước: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16). Đấng đó như thế nào? Chúa Giêsu cho biết: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:26).
Chúa Thánh Thần có nhiều ơn, nhưng chúng ta thường “quen” nhắc tới 7 ơn mà Is 11:1-3 liệt kê: Khôn ngoan (cao minh), hiểu biết (thâm hiểu), thông minh (minh luận), lo liệu (chỉ giáo), đạo đức (sùng hiếu, hiếu thảo), sức mạnh (dũng cảm), kính sợ Chúa. Ai có Chúa Thánh Thần sẽ sinh nhiều hoa trái, Thánh Phaolô liệt kê 12 hoa trái: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ, thanh khiết (x. Gl 5:22-23). Quả thật, Chúa Thánh Thần vô cùng cần thiết. Có Ngài là có tất cả. Hàng ngày, mỗi khi làm bất cứ việc gì, ước gì mỗi chúng ta không ngừng tha thiết cầu xin: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến! – Veni Sancte Spiritus!” (*).
Ai có Chúa Thánh Thần sẽ làm được nhiều việc, nhưng vẫn cảm thấy làm chưa đủ mức, càng làm nhiều càng cảm thấy mình hèn mọn, vô dụng. Đó là nhờ Lửa Thiêng do Chúa Thánh Thần thắp lên trong lòng họ: Lòng nhiệt thành và sự khiêm nhường. Hãy tiếp tục cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến, và cứ để cho Ngài tác động không ngừng…! Quả thật, Chúa Giêsu đã có lần nhắc nhở: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết biết đón nhận Chúa Thánh Thần, sống theo Thần Khí, thực hiện đúng hướng dẫn của Ngôi Ba Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa thổi bùng Ngọn Lửa Thiêng trong tâm hồn chúng con. Nguyện xin Chúa Thánh Thần mau đến biến đổi thế giới, biến đổi nhân tâm cho hợp Ý Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
-----------------
(*) Veni Sancte Spiritus, K. 47, của thiên tài âm nhạc Mozart:
119. Như một lần Thêm Sức
(Suy niệm của PM Cao Huy Hoàng)
Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Tin Mừng (Ga 20,19-23) gợi lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu ban Bí tích Thêm Sức đầu tiên cho các Tông đồ, và mời gọi chúng ta nhớ lại Bí tích Thêm Sức chính chúng ta đã lãnh nhận, cùng mong ước mỗi chúng ta dùng ơn Thánh Thần mà sinh hoa kết trái trong đời sống Đức Tin.
Mỗi tín hữu được lãnh Bí tích Thêm Sức như Ấn Tín Chúa Thánh Thần với nguồn Bảy Ơn cao trọng ơn Khôn Ngoan, ơn Hiểu Biết, ơn Biết Lo Liệu, ơn Sức Mạnh, ơn Thông Minh, ơn Đạo Đức và ơn Biết Kính Sợ Chúa. Bí tích Thêm Sức chỉ lãnh nhận một lần trong đời, nhưng hiệu quả thì trường cửu, ấn tín không hư mất.
Như vậy, ơn Chúa Thánh Thần đã ban sẵn sàng cho mỗi tín hữu như một vốn liếng quý giá, như gói tư trang thiêng liêng để mỗi tín hữu được trưởng thành hơn, vững vàng hơn khi bước vào cuộc đời để sống Đức Tin và làm chứng cho Thiên Chúa.
Thế nhưng, thiết tưởng, trong khi Chúa Thánh Thần không hề quên chúng ta, thì ngược lại chúng ta quên Chúa Thánh Thần. Bởi, ơn thì đã nhận, nhưng nhận rồi để đấy hay cất đâu đấy, không dùng, hoặc không ý thưc mình cần phải dùng, nên mới có nguy cơ chuốc lấy những thất bại trong hành trình Đức Tin.
Còn tệ hơn nữa, đôi khi ta không dùng ơn Khôn Ngoan của Chúa Thánh Thần để xua trừ sự dại dột trong ta, mà còn kiêu căng cậy dựa, khoe khoang tự đắc về sự khôn ngoan của mình, nên chi, chúng mình đã tự lao đầu vào vực trầm luân dại dột.
Các Ơn khác của Chúa Thánh Thần cũng vậy, phải là nguồn sức thiêng kỳ diệu giúp chúng ta vượt qua những thử thách, gian nan và anh dũng bước đi trong ân sủng, trong bình an chứ? Tại sao các tín hữu của Chúa lại vong ân bội nghĩa đến mức vô tâm vô tình với 7 Ơn cao trọng như thế?
Mỗi khi làm việc gì, ta đọc, ta hát kinh Đức Chúa Thánh Thần, hoặc kinh “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con đặng biết việc phải làm…”, nhưng trong thực tế, chúng ta lại muốn làm việc chúng ta thích làm, hơn là chịu làm theo sự hướng dẫn của Thần Khí.
Đến khi vỡ chuyện rồi, thất bại rồi, có người vẫn chưa ngộ ra lý do vì chúng ta đã cậy sức mình quá lẽ, mà không cậy vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Mẹ tôi dặn: “Mỗi khi con cầu nguyện với Chúa Thánh Thần và thinh lặng lắng nghe Ngài hướng dẫn, ấy là một lần con được thêm sức”.
Cụ thể hơn, trong suốt cuộc đời, từ trẻ làm Nữ Hộ Sinh ở Bệnh viện Grall Qui Nhơn, cho đến lúc về già làm “Bà Mụ Vườn”, mẹ tôi vẫn thầm thĩ nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần trong từng ca giúp người ta sinh nở. Có lần mẹ tôi kể cho chị em chúng tôi: “Bệnh viện thì xa, phương tiện không có, mà thai có dấu hiệu nguy tử trong bụng rồi, mẹ chỉ còn cách xin Chúa Thánh Thần giúp cho biết phải làm gì để cứu sống cả mẹ cả con. Và chỉ trong một thoáng rất nhanh, Người đã giúp Mẹ có giải pháp tức khắc. Kết quả là tốt đẹp. Mẹ tròn, con không được vuông lắm, nhưng cứu kịp. Chúa Thánh Thần tinh thông mọi nghề nghiệp, mọi công việc và Người có đủ giải pháp tốt nhất cho mọi tình huống con à!”
Lời mẹ tôi dặn ngày ấy, tôi nghĩ, đã được rút ra từ những kinh nguyện Chúa Thánh Thần và kinh nghiệm sống của mẹ trước những thách đố hết sức gay go của đơi sống Đức Tin.
Vâng, bóng tối ngập tràn thế gian. Tội lỗi chồng chất. Đau thương ngút ngàn. Mỗi tâm hồn, mỗi gia đình đều có mảng tối đang bao vây, đang che chắn ánh sáng của Tin Mừng, ánh sáng thiêng liêng của nguồn Bình An. Nhưng dù cửa nhà ta, cửa cõi lòng ta có đóng kín như cửa nhà các môn đệ Chúa Giêsu vì sợ hãi hay vì một lý do nào khác, thì Chúa Giêsu vẫn có thể hiện đến và ban Thánh Thần của Thiên Chúa cho chúng ta.
Tại sao chúng ta đóng kín cửa, vô tâm với Chúa Thánh Thần, hoặc không màng đến nguồn trợ lực thiêng liêng, quý giá của Chúa Thánh Thần? Vì cảnh nghèo khổ cơ bần chăng? Hay vì những đau thương quá sức chịu đựng của kiếp người không còn phẩm giá, nhân vị, hoặc trong tình trạng thấp dưới mức bình thường? Vì bị xem thường, đàn áp, có la đến khản giọng khàn hơi cũng không hề nghe được lời đáp cứu chăng?
Trong phút giờ bi đát ấy, có bao giờ ta khẩn thiết kêu cầu đến Chúa Thánh Thần: “Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Đấng ban ân huệ, Đấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!” Và có lúc nào chúng ta nhận ra mình đang có được Chúa Thánh Thần là “Đấng an ủi tuyệt vời, là khach trọ hiền lương của tâm hồn, là Đấng uỷ lạo dịu dàng, là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là niềm an ủi trong lúc lệ rơi” như một lần được thêm sức chưa?
Hãy khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình, để khẩn khoản sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hãy thinh lặng cung kính đi vào lối sâu thẳm của thượng trí Thiên Chúa để nhận ra trí hiểu biết bé nhỏ nông cạn của mình. Hãy loại trừ tính chủ quan kiêu căng về khả năng, quyền lực của mình, để đón nhận Ánh Sáng Người soi dẫn.
Xin chia sẻ một chút, chúng tôi là một nhóm làm công việc hơi chuyên biệt, và may mắn là chúng tôi có một anh trưởng nhóm rất đạo đức, quen gọi là anh Ba. Anh Ba có nhiều sáng kiến hay, kế hoạch mới, và cũng đã có nhiều sáng kiến, kế hoạch luôn thành công tốt đẹp. Tuy nhiên, không phải là tất cả. Một lần, anh Ba đưa ra một kế hoạch, một dự phóng để anh em bàn bạc. Đa số không thuận vì thấy không khả thi. Anh Ba mời mọi người vào phòng cầu nguyện, xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Sau một giờ thinh lặng cầu nguyện, anh Ba trở lại phòng họp và tuyên bố: “Như vậy là đúng ý Chúa Thánh Thần rồi. Chúng ta chỉ việc bắt tay vào thực hiện thôi”. Hơn một năm thực hiện, xảy ra bao điều bất ổn, có thể nói là kế hoạch ấy… thất bại! Chúng tôi ngồi lại với nhau để rút kinh nghiệm: Đừng áp đặt ý chủ quan của mình thành ý của Chúa Thánh Thần. Nhưng cũng qua lần thất bại ấy, chúng tôi như được thêm một lần thêm sức.
Quả thực, nếu thành tâm với Chúa Thánh Thần trong hành trình Đức Tin, cách nào đó, chúng ta được ơn nhận ra sự can thiệp kỳ diệu của Chúa Thánh Thần trong mọi tình huống và mỗi lần ấy, như một lần thêm sức.
Anh N., hơn 30 năm ca trưởng nhiệt thành của một giáo xứ trong 5 giáo xứ kỳ cựu nhất giáo phận, có tuổi hơn một thế kỷ, tâm sự với tôi chuyện gia đình:
“Anh ơi, em bị cha sở phạt “thẻ đỏ” rồi anh H. ơi, phải “ra sân” hội đồng mục vụ, “ra sân” cả bên ca đoàn nữa, chỉ vì con gái em nó lỗi luật. Đã vậy, nhà trai không cho con họ theo Đạo, đòi cưới luôn, không phép tắc. Để giữ thai đứa cháu ngoại 4 tháng, vợ chồng em đành buông xuôi, mặc họ tổ chức đám cưới bên nhà họ. Mình không làm gì. Em đã trình bày với cha sở, nhưng cha khuyên em nên nhận… “thẻ đỏ” để làm gương! Một tháng nay rồi. Phó thác het cho Chúa, nhưng vẫn không thấy bình an. Mấy ngày đầu nản lắm, tủi nhục tư bề, đau khổ triền miên, vợ chồng em mất ăn mất ngủ. Sau một tuần kinh nguyện, em ngộ ra điều này: nơi đâu có tội lỗi, nơi đó có ân sủng. Ân sung chắc chắn không qua con đường Bí tích, vì tình trạng tội lỗi của con gái em, nhưng em tin và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, Người sẽ giúp con gái của em làm chứng cho Chúa trong gia đình nhà người ta. Vậy, em yên tâm được một chút rồi, mới gọi điện chia sẻ với anh đây”.
Ước gì mỗi chúng ta nhận ra điều kỳ diệu của Chúa Thánh Thần trong thế giới hôm nay, như anh bạn ca trưởng đã khám phá chiều kích mới của ân sủng: Sự can thiệp Chúa Thánh Thần trong mọi tình huống, như một lần thêm sức.
Lạy Chúa Thánh Thần, “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con đặng biết việc phải làm, cùng khi làm, xin Chúa giúp đỡ, cho mỗi kinh mỗi việc chúng con từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.
120. Đức Kitô thứ năm
(Suy niệm của Mark Link, S.J.)
Nhiều năm trước đây Leonard LeSourd, cựu chủ bút tờ Guidepost, ngồi ăn tối với mười người khác. Họ đang bàn tán về một cuốn phim về Đức Giêsu. Bỗng dưng một phụ nữ trẻ, hiển nhiên là nhàm chán cuộc đối thoại, lên tiếng, “Nói cho cùng, có ai muốn giống Đức Giêsu đâu?” Một sự im lặng nặng nề lan ra cả phòng. Sau đó cuộc đối thoại chuyển sang một hướng khác.
Về sau LeSourd tự nhủ, “Tại sao nhận xét của người phụ nữ đó đã tạo nên một sự im lặng nặng nề?”
Ông kết luận rằng, một số người cảm thấy bị đe doạ bởi nhận xét đó. Những người khác, có lẽ, cũng nhàm chán cuộc đối thoại như bà này. Và những người khác nữa đã không biết nhiều về Đức Giêsu để thấy rằng họ có thích Người hay không.
Sau đó LeSour tự hỏi mình về sự hiểu biết về Đức Giêsu. Ông kết luận rằng, trong cuộc đời ông từng biết đến năm Đức Kitô.
Đầu tiên ông gặp Đức Giêsu trong lớp giáo lý. Ông được giới thiệu về Đức Giêsu dưới hình thức một người có cái nhìn nghiêm khắc mà hình ảnh được treo đầy trên các tường lớp giáo lý.
Hình ảnh Giêsu này không tạo được một ấn tượng nơi đứa trẻ chín tuổi mà nó chỉ thích chơi banh hơn là tìm hiểu về một người đã sống cách đây 2,000 năm trong một nước thật xa.
Và vì vậy Đức Giêsu đầu tiên mà LeSourd biết đến là một “Đức Kitô không có thật”, chỉ hiện diện trong tâm trí non nớt của ông.
LeSourd gặp Đức Giêsu thứ hai trong khuôn viên đại học. Đây là Đức Kitô trong lịch sử. Đó là Đức Kitô có ấn tượng mạnh mẽ trên lịch sử đến nỗi ngay cả những người không phải là Kitô Hữu cũng gọi Người là “nhân vật vĩ đại nhất lịch sử.”
Nhưng Đức Kitô lịch sử này không chạm đến ông LeSourd một cách cá biệt. Người cũng chỉ là một vĩ nhân, giống như Lincoln. Ông nói, “Đưa Đức Kitô vào khung cảnh này là một giải pháp đơn giản trong thời gian đại học và bốn năm làm phi công cho Không Quân. Đức Giêsu lịch sử này không dính dáng đến bất cứ gì tôi muốn thi hành.”
Và như thế Đức Kitô thứ hai mà LeSourd gặp là “Đức Kitô lịch sử.”
LeSourd gặp Đức Kitô thứ ba sau khi ra khỏi quân ngũ, ông kiếm được một công việc với tờ Guidepost là phỏng vấn người ta về đức tin. Trong thời gian phỏng vấn này, ông ngạc nhiên khi biết nhiều người thành công trong đời đã sống theo những giảng dậy của Đức Giêsu.
Không bao lâu, ông thấy mình tìm đọc Phúc Âm để biết nhiều hơn về những giảng dậy này. Và như thế LeSourd gặp Đức Kitô thứ ba là “Đức Kitô bậc Thầy”.
LeSourd gặp Đức Kitô thứ tư trong cuộc tĩnh tâm. Chủ đề của buổi tĩnh tâm là cam kết với Đức Giêsu. Trong buổi tĩnh tâm, một người trẻ đứng lên và nói với người khác nghe làm thế nào anh đã đi đến một nguyện đường, quỳ xuống, và cam kết cuộc đời cho Đức Giêsu.
LeSourd cảm thấy bối rối vì sự hoàn toàn cởi mở của người trẻ này. Nhưng đồng thời, ông cũng muốn có được điều mà người trẻ này đã tìm thấy trong nguyện đường đó.
Bởi thế, trước khi cuộc tĩnh tâm chấm dứt, LeSourd đến một nhà nguyện, quỳ xuống, và cam kết cuộc đời mình cho Đức Giêsu. Ông nhớ lại giây phút không thể quên đó như sau:
“Tôi thấy mình ở trong nhà nguyện, quỳ trước bàn thờ, nói lời cầu thật đơn sơ, ‘Lậy Chúa, con không biết làm thế nào con lại ở đây, nhưng con muốn trao phó cuộc đời của con cho Chúa.’”
Và như thế LeSourd gặp gỡ Đức Giêsu thứ tư. Đó là “Đức Kitô Cứu Thế”. Đó là Đức Kitô đã sống trong ông một cách sâu xa và riêng tư.
Từ ngày đó trở đi, Đức Giêsu trở nên tâm điểm và hướng đi đời ông.
Và như thế sự hiểu biết của LeSourd về Đức Kitô đi từ “Đức Kitô không có thật” đến “Đức Kitô lịch sử” đến “Đức Kitô bậc Thầy” và đến “Đức Kitô Cứu Thế.”
Điều này đưa chúng ta đến Đức Kitô thứ năm và sau cùng. LeSourd gặp gỡ Đức Kitô sau cùng một cách bất ngờ.
Một ngày kia ông thấy mình bị cám dỗ dữ dội. Đó là loại cám dỗ lớn mà tất cả chúng ta đều thỉnh thoảng cảm thấy.
LeSourd cảm thấy mình sa ngã. Ông cuống cuồng tìm đến điều gì đó để bám víu vào. Ông tìm thấy điều đó trong sự cam kết mà ông đã thực hiện với Đức Giêsu nhiều năm trước đây trong cuộc tĩnh tâm.
Ông cũng tìm thấy những điều khác nữa. Ông đã tìm thấy sự tương giao ý nghĩa nhất chưa từng có với Đức Giêsu.
Đó là sự tiếp xúc với “Đức Kitô ở bên trong”. Đó là sự tiếp xúc với Đức Kitô Phục Sinh, là người đã khởi sự sống ở bên trong các môn đệ khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ vào Chúa Nhật Hiện Xuống cách đây 2,000 năm.
Giờ đây mọi sự trong Tân Ước bắt đầu phù hợp với nhau.
LeSourd nhìn thấy làm thế nào các Tông Đồ thường cam kết với Đức Giêsu trong sự tha thiết bất chợt. Nhưng khi sự cám dỗ lớn đến với họ, họ đã rơi vào con đường cũ.
Giuđa phản bội Đức Giêsu, Phêrô chối bỏ Người, và phần còn lại đã bỏ trốn.
Mãi cho đến ngày Hiện Xuống, khi các ông nhận được Thần Khí của Đức Giêsu, lúc đó các Tông Đồ mới thực sự biến đổi.
Vào ngày Hiện Xuống đầu tiên 2,000 năm trước, thần khí của Đức Giêsu phục sinh bắt đầu ngự trong các môn đệ cách mạnh mẽ.
Và đó là điều chúng ta cử mừng hôm nay. Chúng ta mừng ngày quan trọng đó trong lịch sử Kitô Giáo khi, qua sự ngự đến của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu phục sinh bắt đầu ở trong các môn đệ với một sự hiện diện cá biệt.
Chúng ta có thể so sánh sự gia tăng từ từ của LeSourd trong sự hiểu biết về Đức Giêsu với năm giai đoạn tăng trưởng của một thực vật.
Đức Kitô đầu tiên, “Đức Kitô không có thật” của thời thơ ấu của ông, tương ứng với hạt mầm của cây này. Đó chỉ là khởi đầu.
Đức Kitô thứ hai, “Đức Kitô lịch sử”, tương ứng với thân phát sinh từ hạt giống.
Đức Kitô thứ ba, “Đức Kitô bậc thầy”, tương ứng với nụ hoa mà nó từ từ sẽ hình thành ở đầu cuống hoa.
Đức Kitô thứ tư, “Đức Kitô Cứu Thế”, tương ứng với bông hoa nở ra từ nụ.
Đức Kitô thứ năm, “Đức Kitô ở bên trong”, tương ứng với trái cây được hình thành từ bông hoa của cây này.
Chính giai đoạn thứ năm và sau cùng này mà chúng ta mừng lễ Hiện Xuống. Đó là sự hiện diện của “Đức Kitô ở bên trong” trong Hội Thánh như một tổng thể và trong mỗi người chúng ta một cách riêng tư.
121. Người trồng cây sồi - Lm Mark Link.
"Lễ Hiện Xuống thách đố chúng ta phải cụ thể hóa bí tích thêm sức thành việc phục vụ của Kitô giáo."
Vào năm 1983, trong khi Israel chiếm đóng Lebanon, thì tại Evanston thuộc tiểu bang Illinois, có một cậu bé 13 tuổi làm lễ Bar Mitzvah để được công nhận đã tới tuổi trưởng thành. Sau nghi lễ, cậu bé liền đọc lá thư cậu tính gởi cho Thủ Tướng đương thời của Israel là Menachem Begin. Cậu giới thiệu cho các bạn về lá thư đó như sau:
"Nghi Lễ Bar Mitzvah tôi vừa lãnh nhận đánh dấu thời điểm tôi trở thành một người Do Thái trưởng thành... Tôi có bổn phận nói lên cảm nghĩ của mình... Vì vậy tôi tính viết một lá thư gởi cho Thủ Tướng Begin. Tôi xin đọc cho các bạn nghe:
"Trọng kính Thủ Tướng Begin, nhân dịp cháu nhận lãnh nghi lễ Bar Mitzvah cháu cảm thấy mình có bổn phận nói lên cảm nghĩ về cuộc chiến ở Labanon..."
"Cháu hiểu được lý do khiến ngài đã hành động, tuy nhiên cháu vẫn nghĩ rằng chiến tranh là một phương cách sai trái. Nếu điều này có xảy ra lần nữa, cháu khuyên ngài nên là kẻ dấn thân đầu tiên vào việc tìm kiếm hoà bình... Bằng cách đi đến từng quốc gia Ả Rập giống như ngài Sadat đã đến Israel. Nếu Israel sống hoà bình với người Ả Rập thì PLO (Mặt trận giải phóng Palestine) sẽ không còn căn cứ để gây tổn thương và giết chóc dân Do Thai ở Israel nữa."
Kết thúc lá thư, cậu bé viết: "Thay vì mua những vật trang hoàng bàn ăn, cũng như kẹo và hạt dẻ để ăn tiệc mừng lễ Bar Mitzvah của cháu, cháu đã xin gia đình gởi món tiền ấy cho bệnh viện ở Netanya tại Israel, nơi những người Do Thái bị thương trong chiến tranh hiện đang điều trị. Kính thư. Peter Burgh"
Trong ngày lễ Hiện Xuống hôm nay, lá thư vào dịp lễ Bar Mitzvah cũng như món tiền Peter gởi đến bệnh viện Do Thái nói lên điều gì với chúng ta đây?
Nghi thức Do Thái Bar Mitzvah uỷ nhiệm cho thanh niên Do Thái một vai trò tích cực hơn trong cộng đồng Do Thái. Nghi thức ấy mời gọi họ vào việc phụng sự và trách nhiệm dành riêng cho người đã trưởng thành. Nghi thức Do Thái Bar Mitzvah khá giống với Bí Tích Thêm Sức Kitô giáo. Bí tích Thêm Sức cũng uỷ nhiệm cho thanh niên Kitô giáo vai trò tích cực hơn trong cộng đồng Kitô Giáo. Mời gọi họ vào việc phụng sự và trách nhiệm dành riêng cho người trưởng thành.
Lá thư và món tiền của Peter Burgh cho thấy nỗ lực thi hành những trách nhiệm mới mẻ dành cho người trưởng thành nơi cậu ta. Chúng trình bày cho thấy nỗ lực dấn thân ngay vào dịp nhận nghi thức Bar Mitzvah của cậu.
Đây là một trong những mục đích chúng ta mừng lễ Hiện Xuống hàng năm. Lễ Hiện Xuống tác động như một lời mời gọi chúng ta phụng sự. Lễ này nhắc nhở kitô hữu trên toàn thế giới phải dấn thân ngay sau nghi thức Thêm Sức của mình. Phải chuyển nghi thức ấy thành hành động cụ thể.
Đối với một số kitô hữu, điều này có nghĩa là được mời gọi đảm nhận vai trò phụng sự thuộc cấp cao hơn, tức là làm chứng cho Phúc âm một cách rõ ràng công khai truyền hoặc giảng Phúc Âm và thi hành quyền lãnh đạo công khai trong cộng đồng Kitô giáo. Còn đối với những Kitô hữu khác, việc dấn thân này lại mang ý nghĩa việc phụng sự thuộc tầng cấp thấp hơn, tức là làm chứng cho Phúc âm một cách ít rõ ràng hơn. Chẳng hạn như cầu nguyện và hy sinh cho cộng đồng kitô giáo giống trường hợp Peter Burgh đã làm đối với cộng đồng Do Thái của cậu ta.
Việc phục vụ của ngươi kitô hữu khác biệt nhau bởi vì ân sủng thiêng liêng của người kitô hữu cũng khác nhau. Thánh Phaolô đã nêu ra điểm này trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô như sau: "Có nhiều loại ân sủng thiêng liêng khác nhau nhưng cũng đều do một Thần Khí ban cho. Có nhiều phương cách phục vụ khác nhau nhưng chỉ có một Đức Chúa được phụng sự. Có nhiều khả năng phụng sự khác nhau nhưng chỉ có một Thiên Chúa ban cho mỗi người một khả năng phục vụ rieng" (1 cr 12: 4-6).
Lễ Hiện Xuống mời gọi mỗi người chúng ta thực hành các ân sủng thiêng liêng mà chúng ta nhận lãnh vào dịp lễ Thêm Sức của chúng ta. Lễ Hiện Xuống mời gọi chúng ta hành động và bảo chúng ta phải dấn thân ngay sau nghi thức lãnh nhận bí tích Thêm Sức và chuyển biến nó thành hành động.
Tôi xin minh hoạ điều ấy bằng câu chuyện sau:
Vào thập niên 1930, có một du khách trẻ đi thám hiểm, dãy núi Alpes thuộc nước Pháp. Anh ta đi đến một dải đất trọc rộng mênh mông. Dải đất này vừa hoang vắng, vừa cấm lai vãng, lại vừa xấu xí nữa. Đúng là một nơi mà qúi bạn sẽ vội vã đi ngay.
Đột nhiên người du khách trẻ dừng sững lại trên lối đi. Ngay giữa vùng đất hoang vu mênh mông là một ông già đang khom lưng mang trên túi hạt sồi, tay cầm một ống sắt dài bốn bộ (cỡ 1m2). Ông ta đang dùng ống sắt ấy đâm xuống làm thành những chiếc lỗ trong đất đoạn bốc ra từ chiec túi những hạt sồi rồi đặt vào mỗi lỗ một hạt. Ông nói với chàng du khách: "Tôi đã trồng hơn 100 ngàn hạt sồi. Có lẽ chỉ một phần mười số hạt sẽ mọc lên". Vợ con ông đã chết cả rồi, và ông dồn những năm cuối đơi để làm việc này. Ông nói: "Tôi muốn làm một điều hữu ích."
Hai mươi năm sau, người du khách về lại miếng đất hoang vu dạo trước. Điều trông thấy trước mắt khiến chàng sửng sốt đến nỗi chàng không thể tin vào mắt mình. mảnh đất hiện được phủ rợp bởi một cánh rừng xinh đẹp rộng hai dặm và dài năm dặm. Nơi đây có chim chóc ca hát, các loài thú nô đùa và hoa rừng ngát hương.
Người du khách đứng lặng ở đó vừa nhớ lại mảnh đất hoang vu trước đây bây giờ đã thành mảnh đất xinh đẹp. Tất cả là đều do có người chăm sóc nó.
Lễ Hiện Xuống có một lời mời gọi hành động. Lễ này mời gọi chúng ta góp phần mở rộng Nước Chúa trên traí đất. Quí vị cũng như toi có thể thay đổi một phần của nó như ông già đã làm.
Chúng ta đã nhận lãnh túi đựng hạt sồi và khúc ống sắt khi chúng ta chịu bí tích Thêm Sức. Bây giờ chúng ta phải làm nên một cái gì với những vật dụng trên. Chỉ cần một ít can đảm -- giống như lòng can đảm của Peter Burgh biểu lộ trong việc viết thư cho Thủ tướng Begin hoặc lòng can đảm của ông già trong việc trồng hạt sồi.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện.
"Xin hãy đến!
Lạy Chúa Thánh linh, xin Ngài hãy đến!
Xin hãy đến làm ánh sáng hứơng dẫn chúng con.
Xin hãy đến làm sức mạnh nâng đỡ chúng con.
Xin hãy đến, lạy Chúa Thánh linh.
Xin Ngài hãy đến!
Xin hãy giúp chúng con đổi mới bộ mặt trai đất.".
122. Nguồn Ơn Bảy Nguồn Tái Tạo Thế Giới
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Ngày xưa, cách đây hơn 2.000 năm, có một chú bé người Phi châu tên là Emmanuel dễ thương và hay thắc mắc, tò mò. Ngày nọ, chú đã hỏi vị thầy giáo trong làng: “Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?”. Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: “Nói thực là Thầy không biết”. Sau đó Emmanuel đến với nhà trí thức, các bậc trưởng thượng trong vùng cũng với câu hoi đó, nhưng tất cả chẳng ai biết. Và thế là chú lang thang từ vùng này qua xứ nọ để tìm cho được câu trả lời cho vấn nạn: “Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ nào?”. Nhưng từ Đông sang Tây, từ châu lục này đến châu lục kia… Emmanuel vẫn chưa nhận được câu trả lời.
Thế rồi một đêm nọ, sau khi đã kiệt sức vì muôn dăm đường dài, Emmauel cũng đến được một thành phố nhỏ nọ, tên là Bêlem. Chú bé cố đi tìm một chỗ nghỉ đêm trong quán trọ. Nhưng cac quán trọ đều cửa đóng then cài vì đầy người. Thế là chú bé Emmanuel đành lặn lội ra giữa cảnh đồng hoang tìm một cái hang ngoại thành để qua đêm. Tới mãi khuya chú mới tìm được một cái hang đang còn leo lét bóng đèn dau. Nhưng khi bước vào, thì ra trong hang đã có một đôi vợ chồng và một hài nhi bé tí mới sinh đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: “Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng ta đang mong chờ con”.
Chú bé quá sửng sốt! Làm sao bà nầy biết tên chú? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà nói: “Đã từ lâu con đi tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây, hành trình của con kể như đến đích, vì đêm nay chính mắt con đã thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ ngôn ngữ nào. Ngài nói bằng “ngôn ngữ tình yêu”. Bởi vì “Thiên Chúa đã yêu thế gian đên nổi đã ban Con Một” (Ga 3,16).
Trái tim Emmanuel trào dâng xúc động. Chú vội vã quỳ gối xuống trước hài nhi và mừng rỡ khóc lên. Giờ đây, chú đã biết rằng thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất cứ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được…
Và thế la Emmanuel vui mừng ở lại hang Bêlem vài ngày để giúp Đức Maria và Thánh Giuse, sau đó đã lên đường loan báo cho mọi người “Tin Mừng” vừa mới nhận được: Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ tình yêu. Emmanuel đã ra đi trong tâm niem rằng: “Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu. Bởi đó chính là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế gian đều hiểu được. Và kể từ ngày đó, trên muôn dặm đường dài cuộc sống, Emmanuel đã dùng “ngôn ngữ tình yêu’ để nói và sống với mọi người…
Thế giới mà chúng ta đang sống hôm nay có quá nhiều thứ ngôn ngữ: ngôn ngữ chính trị, ngôn ngữ ngoại giao, ngôn ngữ làm ăn, ngôn ngữ thương mại, ngôn ngữ bụi đời… Và cũng vì có quá nhiều thứ ngôn ngữ mà lại thiếu vắng ngôn ngữ tình yêu nên đã xảy ra bao nhiêu là tấn thảm kịch: chiến tranh, khủng bố, bạo lực, bóc lột, kỳ thị, hận thù… Đứng trước một thế giới như thế, phải chăng sứ điệp của ngày Lễ Hiện Xuống là một nhắc bảo, một gọi mời để tất cả chúng ta hãy tìm lại thứ ngôn ngữ của Thiên Chúa đã dùng để nói với chúng ta: ngôn ngữ tình yêu.
Quả thật, ngôn ngữ của chính trị, ngoại giao, thương mại, kinh tế, đảng phái… không bao giờ là ngôn ngữ của yêu thương, hoà bình, khoan dung, tha thứ. Nếu có chăng, thì chỉ là những hư từ rỗng tuếch, mị dân, giả dối để che đậy những âm mưu đen tối bên trong.
Cũng vì lẽ đó mà ngang qua biên giới của các dân các nước trên thế giới hôm nay, vẫn còn ngổn ngang những tháp “Babel dang dở của tình liên đới, hoà bình, hiệp nhất”.
Ai cũng biết, nhân loại đã có một thời thất bại khi cùng nhau xây tháp Babel. Lý do đơn giản vì “ngôn ngữ bất đồng” và không ai hiểu được tiếng nói của nhau (x. St 11,1-8).
Trước khi xảy ra sự kiện đó, Kinh Thánh đã nói với chúng ta rằng: có một nguyên do đã làm cho con người thay đổi cái ngôn ngữ thuở ban đầu Thiên Chúa đã dạy cho: nguyên do đó chính là tội lỗi. Chính tội lỗi đã khiến Ađam không còn nhìn nhận Eva như “xương bởi xương mình, thịt bởi thịt mình” để bao bọc, chở che, mà sẵn sàng đỗ thừa để khỏi dây dưa hệ luỵ: “chính người đàn bà…”. Cũng chính tội lỗi đã khiến người anh ruột Cain đã không còn nói với em là Abel bằng ngôn ngữ của huynh đệ tình thâm, máu mủ ruột thịt, nhưng bằng ngôn ngữ của ghen tương, đố kỵ đến nổi ra tay sát hại em ruột giữa cánh đồng.
Quả thật khi con người không còn nói Lời của Thiên Chúa, không còn sử dụng ngôn ngữ của Thiên Chúa, ngôn ngữ của những người con cùng một Cha, ngôn ngữ của anh chị em trong một mái nhà của gia đình Thiên Chúa… thì tội lỗi và sự chết đã nhập vào thế gian.
Và Thiên Chúa đã hoạch định cả một chương trình kỳ diệu để “Lời của Thiên Chúa”, để ngôn ngữ của Thiên Chúa được sử dụng trên trần gian hầu mang sự sống lại cho nhân loại.
Phải chăng, để khởi đầu cho lộ trình dài thăm thẳm đó, Thiên Chúa đã dùng dòng nước vĩ đại của cơn Đại Hồng Thuỷ để thanh tẩy địa cầu; tiếp theo là ngọn lửa hỏa hào với cuồng phong sấm nổ trên đỉnh núi Sinai để hình thành một dân tộc của Giao ước tiến về hứa địa. Nước đại hồng thuỷ hay lửa trên đỉnh Sinai đều là nhưng chuẩn bị và báo trước dòng nước sống và lửa thanh tẩy của Thánh Thần trong thời Giao ước mới.
Thật vậy, kể từ phép rửa khai mạc sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu nơi dòng sông Giođan; hay chính xác hơn, kể từ khi có những dòng “máu và nước tuôn ra từ trái tim của Đấng Bị Đóng Đinh”, Lời của Thiên Chúa đã tái lập sự sống, ngôn ngữ của Thiên Chúa đã chiến thắng tội lỗi, sự chết, hận thù, chia rẽ… Kể từ dạo ấy, kẻ nào “đến với Ngài và tin vào Ngài thì từ nơi họ sẽ tuôn chảy một nguồn nước sống”. Nguồn nước sống ấy chính là sức mạnh của Chúa Thánh Thần, sức mạnh tác sinh sự sống từ cõi chết, sức mạnh tẩy sạch tội khiên, sức mạnh dựng xây hiệp nhất.
Trước cửa nhà các Thánh Tông đồ hôm nay, sách Công vụ Tông đồ đã mô tả thật chính xác, thật sinh động về cuộc khai trương một “công trình Babel mới” mà tất cả các công nhân trên công trường này cho dù muôn phương cách biệt, muôn sắc tộc, màu da… đều có thể nghe và hiểu chung một sứ điệp, một Tin Mừng do các Tông đồ loan báo, những người được chính Đức Kitô ban tặng Thánh Thần trước tiên ngay khi Ngài vừa mới sống lại: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần…”; những người mà hôm nay, Chúa Thánh Thần đã long trọng tuôn xuống bằng những hình lưỡi lửa để biến đổi toàn diện con người các ông và trao cho các ông sứ vụ loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thanh: “… vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11).
Một nhân loại bị phân tách và chia rẽ của tháp Babel ngày xưa giờ đây được Chúa Thánh Thần quy tụ về mot mối nhờ hồng ân của nhiệm tích Thánh Tẩy. Từ đây, đoàn Dân Mới này sẽ nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của Tin Mừng, ngôn ngữ tình yêu của con cái Thiên Chúa.
Thế nhưng xem ra, sau 2.000 năm, Hội Thánh, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, miệt mài với công trình xây dựng Vương quốc Thiên Chúa, dạy dỗ và quảng bá ngôn ngữ của Tin Mừng của Đức Kitô, xem ra nhân loại chưa đón nhận và thực hiện được bao nhiêu. Ngươi ta còn dành lại cho mình quá nhiều thứ ngôn ngữ ích kỷ, kiêu căng, hẹp hòi và thù ghét.
Vì thế, “Ngày Lễ Ngũ Tuần” lại cần thiết biết bao phải được thể hiện trên mọi miền Giáo Hội, trên mọi cộng đoàn Dân Chúa. Tất cả mọi thành phần Hội Thánh cần phải được Ngọn Lửa của Thánh Linh thanh tẩy thường xuyên để tẩy sạch những cáu bẩn của kiêu căng và tự ái, của giả hình và thoả hiệp, của mị dân và trần tục, của khiếp nhược và bất khoan dung…
Nói cách khác, phải để Chúa Thánh Thần làm nguyên lý sự hợp nhất trong Giáo Hội chứ không phải nhân danh một thế lực hay một trào lưu, một ý thức hệ nào, bởi vì mọi đặc sủng và ơn thánh đều bắt đầu từ mot Thần Khí, một Chúa là Thiên Chúa duy nhất.
Khẳng định trên đây của Thánh Phaolô không phải chỉ mang tính thời sự trong bối cảnh của cộng đoàn Kitô Côrintô đang gặp sự chia rẽ mà phải chăng, đang rất thời sự trong bối cảnh Giáo hội Việt Nam và Hội Thánh hoàn vũ. Qua ơn thánh của Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể, mọi tín hữu phải ý thức trở lại sự hiệp nhất này, sự hiệp nhất trong Chúa Giêsu Kitô, Con Người mới, Ađam mới, ông tổ của một nhân loại mới.
Chính trong ý hướng này, chúng ta cùng lặp lại lời cầu nguyện trong kinh Ca tiếp liên để cầu cho nhau và cho Hội Thánh:
Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan,
và chữa cho lành nơi thương tích.
Xin uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng,
chỉnh đốn lại chỗ trật đường.
Xin Chúa ban cho các tín hữu,
là những người tin cậy Chúa, được ơn bảy nguồn.
Xin ban cho họ được huân nghiệp nhân đức,
được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời.
Amen. Alleluia!
123. Nóng sốt, âm vang và dữ dội- Lm Vincent Travers
Điều đã xảy ra vào ngày Lễ Hiện Xuống lần thứ nhất có thể nói được là đoạn cuối của một câu chuyện mà thật ra đã bắt đầu vào ngày lễ Giáng Sinh lần thứ nhất. Giáng Sinh là câu chuyện Chúa sinh xuống trần với loài người chúng ta như thế nào để giúp đỡ chúng ta sống như Ngài mong muốn. Giáng Sinh là lễ Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hiện Xuống là lễ Thiên Chúa ở trong chúng ta.
Trước khi Chúa Giêsu trở về trời vào ngày Thăng Thiên, Ngài đã nới với bạn hữu của Ngài nên trở lại Giêrusalem chờ đợi cho tới khi một việc quan trọng sẽ xảy đến. Và họ đã chờ đợi như thế. Họ đã trải qua hầu hết ngày giờ ở nơi căn phòng lầu trên nào đó trong kinh thành Giêrusalem. Chúng ta có thể phác họa cảnh tượng họ bàn tán với nhau về những biến cố thích thú xảy ra trong ít tuần trước đó, họ đọc kinh cầu nguyện, vui sướng hợp quần với nhau và dùng hết ngày giờ để chờ đợi - chờ đợi biến cố đó, cho dù như thế nào - như Chúa Giêsu đã hứa sẽ xảy ra ngày sắp tới và biến đổi cuộc đời của họ.
Ngay trọng đại
Và rồi cuối cùng, mười ngày sau lễ Thăng Thiên, ngày trọng đại đã đến khi Chúa Giêsu đã giữ lời hứa. Khi họ đang cùng nhau cầu nguyện, một việc kinh hoàng xảy ra. Thánh Luca, người thuật lại câu chuyện đó, cố gắng tìm những ngôn từ để diễn tả sự việc lạ lùng đó. Giống như cơn bão dữ dội thổi qua, giống như toàn bộ căn nhà bốc cháy. Họ như bị cướp đi và như ở trên lửa bỏng chẳng khác nào những nhân tình trẻ tuổi. Sự nhiệt tình của mối tình đầu thật kỳ diệu nếu được trường tồn, nhưng thường giảm bớt cường độ và hy vọng thay thế vào đó bằng một điều gì sâu lắng và mãnh liệt hơn. Vào ngày Hiện Xuống các tông đồ cảm thấy mình tràn đầy một năng lực phi thường và lập tức họ nhận biết chính là Đức Thánh Linh mà Chúa Giêsu đã hứa. Họ chứng nghiệm việc Đức Thánh Linh đến như điều gì nóng sốt, âm vang và dữ dội. Đối với một số vị điều đó xem ra bối rối, ngay cả làm cho họ hoảng hốt. Điều nên ghi nhớ là sự hăng say cảm nhận được vào giai đoạn nhất thời đó không duy trì được lâu nhưng đã có thật. Điều đó giúp các tông đồ tiếp tục và bắt đầu một điều gì vĩ đại hơn. Khong thể bỏ qua ở đây sự kiện đã xảy ra rất khoan khoái và tăng sinh lực. Kết quả là các tông đồ và thế giới xưa cũ sẽ không bao giờ như thế nữa. Điều đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay?
Lời kêu gọi tỉnh thức
Vào một sáng Chúa nhật, một người mẹ vội vàng chạy vào phòng ngủ của con trai. Anh ta còn ngủ. Bà đánh thức dậy và nói: “Hôm nay Chúa nhật. Đây là lúc thức dậy và đi nhà thờ.” Từ dưới chăn đắp anh ta lầu bầu nói: “Con không muốn đi nhà thờ.” Bà mẹ nói: “Con nói gì? Con không muốn đi nhà thờ? Thật là vớ vẩn. Con phải đi nhà thờ.” Anh ta đáp lại: “Con nói cho mẹ biết hai lý do tại sao con không muốn đi nhà thờ. Trước hết, con không thích những người ở nơi nhà thờ và thứ đến, họ không thích con.” Bà mẹ trả lời lại: “Rõ ràng thật ngớ ngẩn. Con phải đi nhà thờ và mẹ nói cho con hai lý do tại sao con phải đi. Trước hết, con đã năm mươi mốt tuổi rồi. Thứ đến, con là cha xứ.”
Sau khi Đức Thánh Linh hiện đến giống như Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ: “Hãy ra khỏi nơi đây. Các con đã ba mươi hay bốn mươi tuổi rồi. Các con là những tông đồ và là những kể loan báo Tin Mừng. Hãy đi loan truyền tin mừng về tình yêu và lòng lân tuất của Chúa. Sứ vụ của các con là tiếp nối công việc mà Thầy đã khởi đầu.” Và Thánh Luca nói với chúng ta rằng họ đã lập tức cầm lên cây gậy mà Chúa Giêsu đã trao phó. Họ đã mở toang cửa ra và tuôn tràn xuống những nẻo đường đông đúc ở Giêrusalem với một mùa xuân trên những bước đi mà trước đó chưa có. Họ đi từ nhãn cầu nầy đến nhãn cầu khác và nhìn vào mặt đám đông. Khi người ta hỏi nhà thám hiểm David Livingstone chuẩn bị đi tới đâu, ông trả lời: “Tôi chuẩn bị đi bất cứ đâu, bao lâu còn hướng về phía trước.” Đó là tâm trạng của các tông đồ khi họ xông ra các đường phố Giêrusalem dưới tac động và ảnh hướng của Đức Thánh Linh.
Lễ Hiện Xuống ngày nay
Sứ vụ của Chúa Giêsu là cho mọi thời và mọi lứa tuổi. Điều đã khởi đầu ở Giêrusalem có nghĩa là còn tiếp tục ngày nay. Các tông đồ đã chết và đã qua đi. Họ đã đi vào lịch sử. Họ đã làm phần việc nhỏ bé của họ. Những người khác đã thế chỗ họ qua thời gian. Ngày nay đến lượt chúng ta tiếp tục điều mà Chúa Giêsu đã bắt đầu ở Giêrusalem. Đó là ơn gọi của chúng ta va không có ơn gọi nào cao quí hơn nữa. Thực tế, Chúa Giêsu đang nói: “Thầy nói cho các con hai lý do tại sao các con nên tiếp tục sứ vụ của Thầy: Các con đã trưởng thành đủ và Thầy đã chọn các con!”
J.R. Moehringer, một phong viên của LA Times đã đoạt giải Pulitzer mấy năm trước đây về một bức ảnh đầy cảm hứng của một cộng đoàn sinh sống ở một ven sông hẻo lánh ở Alabama là những con cháu mà tổ tiên xưa kia là nô lệ. Ông đã bắt đầu cau chuyện như thế nầy: Bà Mary Lee Bendolph hy vọng phà không tới. Nhưng nếu phà tới, bà sẽ bước lên. Bà run rẩy khi từ dưới đất bước lên phà vì bà không biết lội và bà không thể quên bao nhiêu lần bà đã đi qua con sông nâu dị hợm đó để rồi chỉ gặp thêm nhiều điều dị hợm hơn ở bên kia bờ sông.
Nhưng nỗi lo sợ không bao giờ quật ngã Mary Lee Bendolph được và không giòng sông nào có thể ngăn chặn bà được. Bà sẽ lên phà đó nếu nó tới, bởi vì có điều gì đó nói với bà là bà phải leo lên và vì hết thảy những người mà bà yêu thương nhất đều lên phà với bà. Nếu có một điều mà bà đã học được trong cuộc sống khó khăn của bà, đó là: “Khi đến lúc sang sông, bạn đừng đặt câu hỏi. Bạn chỉ vượt qua sông mà thôi.”
Lễ Hiện xuống là điều thiết thực đã đem xuống trên mặt đất
Đôi khi người ta nói tôn giáo như thể điều gì không thực dụng, chỉ toàn trên mây gió và không chut liên hệ đến thế giới hiện thực. Đối với nhiều người, không có điều nào trong tôn giáo mơ hồ hơn, tối nghĩa hơn hay không thể nắm bắt với thế giới hiện thực hơn cho bằng điều liên quan đến Đức Thánh Linh. Không có đieu gì xa vời chân lý hơn. Thật ra Đức Thánh Linh là điều chính xác mà ở đó tôn giáo hiện thực và thực dụng đã đâm rễ chắc chắn ở trên mặt đất. Thánh Thần Ngôi Ba Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa trừu tượng, được che giấu ở nơi xa xôi nào đó trên thiên đàng. Đó là Thiên Chúa ở trong tâm tưởng chúng ta, ở trong tính khí và nhân cách chúng ta, ở trong bản năng và huyết quản chúng ta. Điều đó có nghĩa là mỗi một ý tưởng đứng đan, độ lượng, ân cần, cao thượng và nhạy cảm xuất hiện trong đời sống chúng ta là chính Thiên Chúa đang hoạt động ở trong chúng ta. Giờ đây chúng ta tự hỏi có điều gì có thể thực tế hơn, thực dụng hơn và có tính cách tran thế hơn? Mầu nhiệm Hiện Xuống mời gọi chúng ta hòa nhịp với Thiên Chúa hằng sống, hiện thực và linh hoạt ở trong cuộc sống chúng ta. Vấn nạn ở đây không phải là sự hiện diện của Thiên Chúa mà là sự đáp ứng của chúng ta đối với điều đó.
Một chị trẻ tuổi nghe tin bà hàng xóm ngoại bát tuần sống một mình, đang đau nặng. Chị quyết định qua ngủ đêm bên cạnh giường bà đó. Ý tưởng cao quí đó từ đâu tới? Từ Chúa Thánh Linh tới. Theo Thánh Phaolồ: “Chúng ta không thể nói Chúa Giêsu là Chúa, trừ khi chúng ta ở dưới ảnh hưởng của Đức Thánh Linh.” Nhưng Đức Thánh Linh không phải là một Thần Trí hung ác và vô tri. Thần Trí thì dịu hiền tự bản chất và sẽ khong áp đăt ngược với ý muốn chúng ta. Chị trẻ tuổi đó đã đáp ứng một cách tự do bởi tác động của Thần Trí vì chị hòa điệu với sự hiện diện dịu hiền và sống động của Thiên Chúa ở bên trong chị.
Lễ Hiện Xuống đem đến cho chúng ta linh đạo cho mỗi ngày và ở bất cứ đâu. Lễ Hiện Xuống có thể biến đổi đời sống chúng ta và làm cho chúng ta có thể vượt bất cứ sông nào ở trước mặt chúng ta, nhìn vào mặt bất cứ đám đông nào và cứ tiến tới, bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào vì lợi ích của Tin Mừng.
Ở cạnh bàn của Chúa
Một cô giáo cho học sinh xem bức tranh của Leonardo da Vinci vẻ Buổi Tiệc Ly và hỏi: “Chúa Giêsu nói điều cuối cùng nào với các tông đồ ở căn phòng lầu trên ở Giêrusalem?” Không em nào có thể trả lời đúng ý cô giáo hết. Cô bảo Chúa Giêsu nói như thế nầy: “Nếu các con muốn ở trong bức tranh, các con phải ở cạnh bàn nầy!” Một linh mục tuyên úy lao xá Mountjoy đã kể lại câu chuyện đó vào một buổi sáng nhân Lễ Hiện Xuống. Sau Thánh Lễ, một tù nhân đã theo cha vào trong phòng thánh và xin xưng tội. Khi xưng tội xong, anh ta mỉm cười và nói: “Giờ đây con ở cạnh bàn của Chúa!” Và đó là nơi thuộc về chúng ta.
Phỏng theo bài suy niệm “HOT, LOUD AND VIOLENT” (Nóng Sốt, Ầm Ĩ và Dữ Dội) của cha Vincent Travers O.P. trong sách “IN STEP WITH GOD” (Đồng Hành Với Chúa).
124. Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
ĐỨC GIÊSU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ
Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Người như là gió.
1.- Ngữ cảnh
Dựa theo bố cục tổng quát của TM Ga, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng.
Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha tội, ban sự bình an.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Lời chào "bình an" thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (20,19-20);
2) Lời chào "bình an" thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (20,21-23).
3.- Vài điểm chú giải
- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần (19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc 24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ "ngày ấy" mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20; 16,23.26).
Tác giả dùng công thức "Ngày thứ nhất trong tuần" cho cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào "ngày thứ nhất trong tuần" (Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đong kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là "vì các ông sợ người Do-thái", nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín.
- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng Do-thái, shalôm (= bình an) là một lời chào thông thường. Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là "Cầu chúc anh em được bình an", như thể họ còn phải chờ đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở đây, lời Đức Giêsu nói là một nhận định về thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình an của Người.
- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề tài thần học của Ga, xem 17,18).
- Người thổi hơi vào các ông... Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến làn hơi sáng tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã "trao Thần Khí" (paredôken to pneuma; trước đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã dịch là "trút hơi thở") (19,30): Ngươi đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.
- Anh em tha tội cho ai...; anh em cầm giữ ai... (23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy-lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Híp-ri, vua Balác xác tín rằng "kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc họa/bị nguyền rủa" (Ds 22,6 Híp-ri), nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng của Thiên Chúa Israel, là Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy-lạp, lời của Balác ở 22,6 có một ý nghĩa hàm hồ: có thể hiểu "được phúc" (eulogêntai) và "mắc họa/bị nguyền rủa" (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ xảy ra trong tương lai gần (bản văn Híp-ri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo nghĩa một lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa chúc phúc hoặc bị Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: "Ngươi không được đi với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar eulogêmenon)". Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng đươc chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã đang bị Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông không biết.
Dạng hoàn thành apheôntai ("được tha") và kekratêntai ("bị cầm giữ") ở Ga 20,23 có thể được hiểu như thế.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Sau khi Đức Giêsu đã bị bắt, bị xử tử và được an táng, tình trạng của các môn đệ thật đáng thương: các ông về nhà đóng kín tất cả các cửa, vì sợ người Do-thái. Các ông hoàn toàn mất bình an. Trong khi các môn đệ còn ở trong tình trạng bế tắc cùng cực, Đức Giêsu Phục Sinh đã đến với họ, tự mình đi vào ngày giữa lòng tình trạng thê thảm đó.
* Lời chào "bình an" thứ nhất với việc chứng minh sự Phục Sinh (19-20)
Khi hiện ra với các ông, điều đầu tiên Đức Giêsu nói là: "Bình an cho anh em!" (19,19). Nhưng nói mà thôi thì không đủ, Người còn cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Người không chỉ nói về bình an, Người cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương. Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng nay Người đã trở lại với cuộc sống trong tư cách vừa là Đấng Tử Nạn vừa là Đấng chiến thắng cái chết. Các vết thương cũng là dấu chỉ cho thấy tình yêu vô biên của Người. Trong cùng một lúc, Người cho các ông được gặp Người như Đấng Chịu Đóng Đinh và Đấng Phục Sinh. Do đó, Người chính là sự bình an và nguồn mạch tuôn trào niềm vui cho các môn đệ (c. 20).
Đoạn văn này còn có một ý nghĩa sâu xa hơn. Lời Đức Giêsu chào "Bình an cho anh em" (eirênê hymin) khiến chúng ta nghĩ đến ý nghĩa Thần Khí học của đoạn văn: eirênê lần đầu tiên được dùng ở Ga 14,27, ngay sau một lời nhắc đến Đấng Bảo Trợ sẽ đến (14,26). Câu tiếp theo "Thầy ra đi và đến với anh em" (14,28) là một quy chiếu về việc Đức Giêsu ra đi va Thánh Thần đến (x. 16,7). Như thế, lời Đức Giêsu nói về sự bình an của Người ở c. 27 rất có thể cũng phải được giải thích như là một quy chiếu về việc ban Thánh Thần trong tương lai, do chỗ các động từ "Thầy để lại" (aphiêmi) và "Thầy ban" (didômi) đều có nghĩa tương lai, cũng như "Thầy đến" (erchomai) ở c. 28. Các lời hứa – sai Thánh Thần, ban bình an, và lại đến – nay đã được hoàn tất.
Một chi tiết nữa cũng liên hệ đến Thánh Thần, là "cạnh sườn" (pleura); từ này tạo một liên kết với cuộc đóng đinh và hành vi người lính đâm cạnh sườn Đức Giêsu (19,31-36). Rất có thể coi nước chảy từ cạnh sườn Đức Giêsu là một biểu tượng về Thánh Thần: nước và Thánh Than được đặt song song tại 3,5 và cái chết của Đức Giêsu là một điều kiện cần thiết để Thánh Thần đến (7,39; 16,7). Ở 7,38-39, tác giả Ga minh nhiên đồng hóa những dòng nước hằng sống, sẽ chảy ra từ Đức Giêsu, với Thánh Thần. Điều này được hoàn tất ở 19,34. Bây giờ, khi Đức Giêsu cho các môn đệ xem cạnh sườn bị đâm, Người không chỉ chứng minh Người là con chiên Vượt Qua đã chết trên thập giá, nhưng nay đã sống lại; Người còn cho thấy rang Thánh Thần đã tuôn trào ra từ Người và bây giờ có thể được ban cho các môn đệ.
* Lời chào "bình an" thứ hai với sứ mạng và trao ban Thánh Thần (21-23)
Sau khi chúc bình an lần thứ hai, Đức Giêsu nói đến việc sai phái cac môn đệ (c. 21). Trước đây, tác giả TM IV cũng đã nói đến một việc sai phái các môn đệ tương tự việc Chúa Cha sai phái Đức Giêsu (13,20; 17,18). Thiên Chúa sai phái Đức Giêsu đi nói các lời của Thiên Chúa và giảng dạy (3,34; 7,16; 8,26; 12,49; 14,24), để thực hiện ý muốn và các công việc của Thiên Chúa (4,34; 5,30.36; 6,38-39; 9,4), và cứu độ thế gian (3,17). Từ ngữ "như" (kathôs) ở 20,21 khiến nhớ lại nhiều đoạn trong TM IV cho hiểu rằng các môn đệ phải làm việc như các ngôn sứ của Đức Giêsu, y như Đức Giêsu đã làm việc như là ngôn sứ của Cha Người. Như Đức Giêsu đã thấy Chúa Cha, họ cũng đã thấy Đức Giêsu; qua việc thấy Đức Giêsu, họ cũng đã thấy Chúa Cha (14,7-9). Bởi vì Đức Giêsu đã cho họ tất cả được biết những gì Người nghe được từ Chúa Cha (15,15), những gì họ đã nghe được từ Đức Giêsu bây giờ là lời của Chúa Cha (14,24). Các lời (rhêmata) đã được Chúa Cha ban cho Đức Giêsu, Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ (17,8). Như Đức Giêsu đã làm chứng về những gì Người đã thấy và nghe (3,11.32), các môn đệ Người cũng phải làm chứng về Người (15,27). Như một cành nho không thể sinh hoa trái tư mình (aph' heautou) nhưng chỉ nhờ ở lại trên cây nho, họ cũng phải ở lại trong Đức Giêsu, "vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (15,4-5). Đức Giêsu đã ban cho họ vinh quang (doxa) mà Chúa Cha đã ban cho Người (17,22). Như vậy, các đặc điểm ngôn sứ trong sứ mạng của Đức Giêsu nay được gán cho các môn đệ sau khi Người đã chết, sống lại và lên trời vinh hiển.
Nói xong, Người "thổi hơi vào" (enephysêsen) các môn đệ; nói như thế là tác giả giải thích rằng hơi thở của Đức Giêsu là Thánh Thần. Y như sự cố Thần Khí xuống đã đánh dấu khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu (1,32-33), nay ân ban Thần Khí khai mạc sứ mạng của các môn đệ. Trước đây Đức Giêsu đã nói đến Thần Khí sự thật, Đấng ở lại (menei) với các môn đệ (14,17) như Ngài đã ở lại (emeinen) trên Đức Giêsu (1,32). Đây là Thần Khí ngôn sứ, theo như Đức Giêsu đã giải thích: "Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả nhưng gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (16,13). Ở đây nhiều đặc tính ngôn sứ được áp dụng cho Thần Khí: Ngài vừa nghe vừa nói/loan báo những điều giấu kín, và Ngài là trung gioan truyền tải sứ điệp. Ngài sẽ làm chứng cho Đức Giêsu và như thế cung cấp cho các môn đệ một điển hình (15,26-27).
Động từ emphysian ("thổi hơi vào") ở Ga 20,22 đã được dùng tại St 2,7 LXX là chỗ nói về việc Thiên Chúa thổi hơi mang sức sống vào Ađam. Dựa vào đó, có những nhà chú giải đã giải thích rằng, chức năng của Thần Khí là rửa sạch các môn đệ khỏi tội lỗi và làm cho họ thành một cuộc tạo dựng mới. Nhưng ở đây Thần Khí được ban cho các môn đệ không phải vì lợi ích cá nhân họ, nhưng vì những kẻ khác.
"Anh em tha tội ai... anh em cầm giữ ai..." (c. 23): Câu này nói đến quyền tha và buộc tội. Dưới ánh sáng của Chu kỳ Bilơam (Ds 22–24), các thì hoàn thành của Ga 20,23 không có ý nói là Thiên Chúa cứ "nhắm mắt" phê chuẩn bất cứ hành vi tha tội và cầm tội nào mà các môn đệ tự do công bố. Đúng hơn, các thì này diễn tả điều này: nhờ Thánh Thần ngôn sứ được ban cho các ông, các môn đệ sẽ có khả năng tha tội cho những người và chỉ cho những người mà Thiên Chúa hoặc Đức Giêsu đã tha tội cho.
+ Kết luận
Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông, hoặc nói theo thư Êphêxô, "chính Người là bình an của chúng ta" (Ep 2,14). Các ông có thể ra đi thực hiện chương trình cứu độ, nhớ Thánh Thần của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Kitô mà chúng ta gặp trong Lời Chúa, trong các buổi cử hành Phụng vụ, trong giờ cầu nguyện giữa cộng đoàn anh chị em, là Đức Kitô Phục Sinh. Người ban cho chúng ta bình an và Thánh Thần, và sai chúng ta đi hân hoan chia sẻ niềm tin và niềm hy vong ấy. Chúng ta cần phải để Người đưa chúng ta ra khỏi ngôi mộ của sợ hãi, của ích kỷ, của những sai lầm, để tin tưởng đi vào lòng thế giới. Quả thật, Đức Giêsu không giải thoát các môn đệ khỏi những ưu phiền (x. 16,33), nhưng ban cho chúng ta sự vững vàng, không lay chuyển và sự tin tưởng an bình.
2. Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính là "Con Chiên đứng như thể đã bị giết" (Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế, biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.
3. Khi ban Thánh Thần trên các môn đệ, Đức Giêsu đã thổi hơi vào các ông và bảo: "Hãy nhận lấy Thánh Thần". Thánh Thần chính là làn hơi của Thiên Chúa, Người như là gió. Người ta không thấy gió, người ta không biết gió bắt nguồn từ đâu và đến đâu thì dừng lại. Cho dù các nhà khí tượng học có bao trước được các trận bão, ta vẫn có cảm tưởng mình bị một sức mạnh vừa huyền bí vừa mạnh mẽ bao trùm. Gió thổi và gây tiếng động. Gió bẻ gãy và nhổ bật lên. Gió tàn phá, nhưng cũng làm cho đất đai ra phì nhiêu. Có khi gió quạt mát, có lúc gió thiêu đốt. Về làn gió Thánh Thần cũng thế. Người mạnh mẽ, Người len lỏi vào mọi sự. Nếu chúng ta mở lòng ra với Người, Người sẽ bẻ gãy, Người nhổ tung và phá hủy tất cả những gì chống lại tình yêu Thiên Chúa; Người cũng làm cho các con tim nên dồi dào phong phú. Người liên tục làm việc trong lòng chúng ta, như thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà [liên tục] kêu lên: 'Áp-ba, Cha ơi!'" (Gl 4,6).
4. Nếu chúng ta chờ đợi một sự biến đổi đột ngột, tức khắc và lạ lùng sau khi được rửa tội, chắc chắn chúng ta phải thất vọng. Thánh Thần triển khai các hành động của Người như một hạt giống nhỏ bé trong tim chúng ta. Hạt giống ấy sẽ lớn lên dần dần trong âm thầm thinh lặng, nhưng chắc chắn sẽ kết quả.
125. Sống tha thứ và hoà giải trong Chúa Thánh Linh
(Tổng hợp theo: Smith & Jude Sicilianô – Lm Thomas Trần Ngọc Túy)
Nói về quan hệ với miền Trung Đông, đặc biệt với thế giới Hồi Giáo, một nhà báo, bình luận gia của một tờ báo lớn phương Tây đã viết: “Làm thế nào chúng ta có thể nói chuyện với các dân tộc nhận mình có quan hệ trực tiếp với Thượng Đế?”. Nhà báo vô tình nhận xét ve hiện trạng của các tín hữu Kitô. Chúng ta cũng có quan hệ ấy. Đó là Đức Thánh Linh mà hôm nay là lễ của Ngài. Lễ của Thiên Chúa tình yêu đích thực và duy nhất.
Nhưng xin hãy tưởng tượng: tình yêu sẽ như thế nào khi thể hiện hữu hình cho người ta thấy? Tông đồ công vụ kể: “Khi đến ngày lễ ngũ tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Roi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác nhau, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho ”. Như vay hình dáng của Tình Yêu là cái lưỡi, lưỡi bày tỏ trái tim ra bên ngoài. Trước hết chỉ có một lưỡi, sau đó phân tán thành nhiều và cư ngụ trên mỗi người. Phải chăng đó là thần khí của sự thật mà Đức Kitô đã hứa? Như vậy tình yêu là sự thật trong hành động mà chúng ta đã suy niệm ở CN V Phục Sinh vừa qua về bổn phận của các tín hữu phải chuyển tải cho thiên hạ qua dây siêu dẫn (superconductor). Dây siêu dẫn không làm hao hụt năng lương khi phân phối điện năng (tức hiệu suất điện trở bằng zero từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ). Người tín hữu chuyển tải sự thật và tìnhh yêu Thiên Chúa cho thế giới cũng phải trong trạng thái tuyệt đối như vậy.
Cho nên Thánh Thần ngự xuống bằng tiếng gió mạnh và xuất hiện như hình lưỡi lửa. Gió mạnh là năng lượng không trông thấy được, nhưng thổi đến đâu là hiệu quả đến đó. Lưỡi lửa tượng trưng cho tình yêu nồng cháy diễn tả cảm tình yêu mến của con tim. Liệu người tín hữu nào lại không khao khát hiện diện trong ngày lễ ngũ tuần? Năm 1987, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II xuất hiện trên truyền hình toàn cầu buổi chiều hôm trước ngày lễ ngũ tuần và khap mọi ngôn ngữ đều có thể nghe Ngài cầu nguyện. Một hình ảnh tuyệt đẹp diễn tả lại lễ hiện xuống ngày khởi đầu giáo hội.
Cả ba bài đọc Chúa Nhật hôm nay đều diễn tả hành động của Chúa Thánh Linh trong vai trò hướng dẫn sự thật và tình yêu. Bài công vụ tiếp tục viết: “Nào là những người Roma đến đây, nào là người Do Thái cũng như người đạo theo, là người đảo Creta hay người Ả Rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa”. Kỳ công nào nếu không phải là việc làm của tình yêu và sự thật về Thiên Chúa, và thân phận con người nơi Đức Giêsu Kitô? Nghĩa là Thánh Thần ngự xuống trên họ, làm thay đổi, kiện cường và sai họ đi khắp thế gian thu nhận môn đệ về cho Thiên Chúa. Đức Thánh Linh cư ngụ trong linh hồn mỗi tín hữu tiên khởi, như trong chúng ta hôm nay, chia sẻ cho họ đoàn sủng, sứ vụ và phục vụ. Biến ho thành các dây điện siêu dẫn, tức không điện trở. Chẳng lạ gì họ thâu lượm được nhiều kết quả.
Hãy để thánh thần tỏ rõ Đức Giêsu trong mỗi người rao giảng, linh mục cũng như tu sĩ, giáo dân để thiên hạ trông thấy nhưng kỳ công của Thiên Chúa và khâm phục, cảm tạ Ngài. Vì thế, bài Phúc Âm thuật lại Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ để họ nhận lấy thần khí, mạnh dạn rao giảng cho thế gian: “Đến đây chúng ta thấy rõ câu trả lời cho nghi vấn trên: tình yêu khả thị sẽ như thế nào?”. Chúa Cha tỏ tình yêu và sự thật và tình yêu của Ngài cụ thể nơi Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô hứa sai Thánh Thần để hướng dẫn chúng ta sống sự thật và tình yêu ấy. Thánh Thần linh hứng cho Hội Thánh viết Phúc Âm, dạy dỗ chân lý mạc khải. Hôm nay Thánh Thần hiện hình để cho biết Ngài có mặt trong Giáo Hội, trong từng linh hồn tín hữu tin kính Đức Kitô, biến toàn bộ thành dây siêu dẫn cua Thiên Chúa.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta nghĩ sao đây? Vấn đề đúng là như vậy. Vì khi sống gió nổi lên trong lòng hội thánh về đức tin. Các tông đồ đã cho hay sự hướng dẫn của Thần Khí Đức Kitô trong công nghị đầu tiên ở Giêrusalem: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định rằng: không nên đặt thêm gánh nặng ngoài những chi cần thiết trên vai họ, gánh nặng mà cha ông chúng ta cũng không mang nổi”. Rõ ràng các tông đồ đã khẳng định Thánh Thần đang dẫn dắt Hội Thánh Chúa, chúng ta dám xác tín như vậy không? Thánh Thần là thần khí của sự thật và tình yêu, luôn âm thầm hướng dẫn hội thánh trong suy nghĩ, học thuyết một cách không sai lầm, chứ không nông nổi tuyên bố lung tung như các diễn giả thời nay. Thánh Irênêo viết về Hội Thánh tiên khởi: “Ở đâu có Hội Thánh, ở đấy có Thánh Thần, ở đâu có Thánh Thần, ở đấy có Giáo Hội”. Chúng ta nên suy nghĩ câu nói ấy để hành xử cho tốt, kẻo gây nhiều thiệt hại cho Giáo Hội.
Ở miền nam Hoa Kỳ, giáo dân có câu châm ngôn: “God has no grandchildren” (Thiên Chúa không có cháu chắt). Ý nói đức tin không phải là của gia bảo, hay đơn thuốc gia truyền, đời nọ thừa kế đời kia, từ đời ông cho đến đời cha, rồi con cái cháu chắt. Dĩ nhiên chúng ta phải giáo dục đức tin cho các thế hệ kế tiếp. Nhưng các tín hữu thời nay không phải là các hậu duệ của các tín hữu tiên khởi, của thế hệ Hội Thánh trực tiếp lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Không phải vậy. Hội Thánh bây giờ vẫn là Giáo Hội “tiên khởi” được Chúa Thánh Thần sinh ra qua bí tích rửa tội và được sai đi rao giảng tin mừng cho thế hệ mình. Chỉ khác nhau về thời gian. Chúng ta không được phép nuối tiếc: giả như tôi có mặt lúc bấy giờ. Phép thanh tẩy, các bí tích mà tín hữu lãnh nhận, Chúa Thánh Linh ngự xuống trong ngày hôm nay vẫn y nguyen như thời các tông đồ, mới mẻ và tinh tuyền, đầy sức sống và ơn thánh. Thiên Chúa không có cháu chắt, toàn bộ là con, là thế hệ tiên khởi, sinh ra trong thần khí Chúa.
Điều rõ nét là phúc âm hôm nay, Gioan cho chúng ta hay: “Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đế, đứng giữa các ông và nói: bình an cho anh em … Nói xong Người thổi hơi vào các ông và nói: anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Cả một sự tạo dựng mới. Nhân loại lại trở về ân huệ cũ: hình ảnh và hoạ ảnh của Thiên Chúa. Lần này thì không ai làm hư hỏng được nữa, vì Adam chính là Con Thiên Chúa, đức Giêsu Kitô. Các tông đồ, mặc dù được trao sứ mệnh ra đi rao giảng tin mừng cho nhân loại, nhưng vẫn sợ sệt, phần vì lãnh đạo Do Thái đe doạ, phần vì xấu hổ đã phản bội thầy. Vì thế Chúa làm hoà trước: bình an cho anh em. Ngài nói tới hai lần trong một đoạn văn ngắn, để đảm bảo với các ông sự tha thứ của Ngài. Sau đó Ngài sai các ông đi rao giảng cho thế gian. Nhưng chẳng thể tha thứ được nếu không có tình yêu. Ở đây là vai trò của Thánh Linh. Và hơn thở của Thiên Chúa chính là Thánh Linh: “Chúng con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”. Thánh Linh không loại trừ ai, ngoài những kẻ từ chối tình yêu của Thiên Chúa.
Ngày nay chúng ta cũng cần Chúa tha thứ: bình an cho anh em. Vì chúng ta cũng đã phản bội. Lòng chúng ta cũng đầy xao xuyến lo âu vì tội lỗi cũ, những tội còn ghê gớm hơn là các tội của các tông đồ, vì dầu sao các ông hèn nhát là do không đủ kiến thức. Còn chúng ta, được học hỏi, biết rõ Chúa, nhưng vẫn chối bỏ tình yêu của Ngài vì dục tình, vì chạy theo thế gian, rồi biện minh bằng những lý lẽ ngô nghê. Bình an cho anh em. Chúng ta cũng cần Chúa tha thứ và đảm bảo như vậy. Ngõ hầu cảm thấy được làm hoà với Thượng Đế, được tạo dựng lại. Làm những thụ tạo mới qua lời Chúa như các tông đồ. Con người đầy tội lỗi, hèn nhát, mù tối, nguội lạnh, thoả hiệp với thế gian, bây giờ được tha thứ và can đảm để bắt đầu một cuộc sống mới trong “ngày thứ nhất” như các môn đệ xưa mà nhận lãnh Thánh Thần qua hơi thở của Đức Kitô.
Xin lưu ý, Chúa bao giờ cũng làm gương trước rồi mới dạy dỗ sau: Ngài rửa chân cho các môn đệ rồi mới nói: anh em cũng phải rửa chân cho nhau, phải thương yêu và phục vụ lẫn nhau. Phúc Âm hôm nay cũng vậy. Ngài tha thứ và làm hoà với các ông: bình an cho anh em, rồi mới sai các ông đi rao giảng thứ tha. Các tông đồ y hệt chúng ta: yếu đuối và hèn nhát, nhưng có thể tha thứ và rao giảng thứ tha vì họ được hơi thở của Đức Giêsu tạo dựng mới: Thiên Chúa không có cháu chắt, chúng ta không thuộc hàng cháu chắt của đức tin. Chúng ta là con trực tiếp. Vậy thì cũng phải làm như vậy: tha thứ và rao giảng hoà giải cho thế giới đầy những bất ổn, tranh chấp, chia rẽ, đánh nhau, chém giết.
Lưu ý thứ hai là theo như Gioan trong Phúc Âm hôm nay, Chúa không trì hoãn việc tha thứ và hoà giải với các môn đệ. Ngài thực hiện ngay chiều ngày thứ nhất trong tuần, khi vừa trỗi dậy từ cõi chết. Ngài ban cho họ thần khí tha thứ để họ tiếp tục ngay công việc cua Ngài: anh em hãy đi rao giảng và thu thập môn đệ cho thầy. Chúng ta nghĩ thế nào về thái độ của mình; tẩy rửa và làm dây siêu dẫn cho Ngài hay chìm sâu trong nết xấu và đam mê tiện nghi thế gian?
Lưu ý thứ ba là Chúa cho các ông xem các vết thương chân tay và cạnh sườn Ngài. Rao giảng không đơn giản đâu. Nó cũng gây nên các vết thương cho người xây dựng hoà bình. Dĩ nhiên việc xem thấy Chúa phục sinh mang đến cho các tông đồ niềm vui khon tả, nhưng đi rao giảng, thi hành sứ vụ Ngài trao cũng có nghĩa chịu thương tích. Xin đừng trốn tránh, hoặc lựa chọn những dễ dãi, mà phải cắm mắt nhìn vào các vết thương nơi chân tay và cạnh sườn Chúa. Chúng ta phải trả giá cho việc rao giảng tha thứ và hoà giải. Thực tế đã có nhiều môn đệ trả giá bằng cái chết của mình như xưa nay vẫn thường xảy ra. Chúng ta phải noi gương các vị, ít là từ bỏ những phù phiếm hàng ngày để làm gương.
Dĩ nhiên có những người từ chối tha thứ và hoà giải, và nhiều nữa là khác. Thậm chí cả một quốc gia, một dân tộc. Nhưng chính những quốc gia, dân tộc ấy sẽ lãnh nhận bản án cho mình vì quay mặt đi khỏi tha thứ hoà giải cua Chúa. Phần mình, chúng ta phải cố gắng trở nên những dây siêu dẫn (super conductors) không làm hư hao năng lượng thứ tha và hoà giải, tình yêu và sự thật của Thiên Chúa qua tính mê nết xấu của mình. Có như vậy, chúng ta mới xứng đáng mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Amen.
126. Vị thông ngôn quyền năng nhưng thầm lặng.
(Suy niệm của P. Ngô Suốt)
Ngày xưa, sau khi sống lại, trong một lần hiện ra với các Tông đồ, Chúa đã hứa ban Thánh Thần xuống cho các ngài. Hôm nay Chúa đã thực hiện lời hứa, ban xuống Đấng có quyền tha tội Chúa phán:“Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”(Ga 20:22-23). Hôm nay được coi là sinh nhật của Giáo Hội, chúng ta cùng tìm hiểu xem Ngài là ai, và ảnh hưởng thế nào đối với từng người chúng ta nói riêng, cũng như Hội Thánh Công Giáo nói chung.
Trong ba ngôi Thiên Chúa, Ngôi Ba được gọi bằng nhiều tên nhất: Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, Thần Chân Lý, Đấng An Ui, Đấng Bào Chữa, Đấng Ban Sự Sống v.v. nhưng Ngài cũng là vị Thiên Chúa bị lãng quên nhiều nhất.
Trong Kinh Thánh chúng ta chỉ nghe Thiên Chúa Cha phán, Chúa Giêsu dạy dỗ, nhưng Chúa Thánh linh tuyệt nhiên không phán lời nào. Có thể do sự thầm lặng mà nhiều khi chúng ta quên Ngài, trong khi Ngài là tất cả, Ngài là Thần khí, là hơi thở của Thiên Chúa, nếu không có Ngài chúng ta chỉ như một cái xác biết đi, đắm chìm trong mê muội, thiếu Ngài vũ trụ này sẽ náo loạn, đi đến chỗ sụp đổ hoàn toàn. Khi chúng ta mở máy vi tính mà thấy hiện lên hàng chữ “Missing Interpreter” (thiếu bộ phận giải thích) là ôi thôi rồi, máy chết cứng. Chúng ta cũng vậy, nếu cơ thể thiếu hơi thở, cơ thế ấy chết; linh hồn không có “thần khí” linh hồn cũng coi như chết, tha hồ đắm chìm trong tội lỗi.
Cả chiều dài của cuộc đời Chúa Kitô tại thế gian, và mãi mãi, chúng ta thấy rõ một điều là: Chúa Kitô hướng dẫn, dạy dỗ chúng ta từ bên ngoài, còn Chúa Thánh Linh là kẻ tác động chúng ta từ bên trong. Trong sách Tông Đồ Công vụ hôm nay Thánh Luca thuật lại việc Chúa Thánh Thần hiện xuống với những hiện tượng kỳ lạ, biểu thị cho chính Người, Người như cơn gió mạnh ùa vào nhà, như lưỡi lửa đậu trên đầu các Tông đồ, khiến các Ngài nói được nhiều thứ tiếng. Đúng ra các Ngài vẫn nói thứ tiếng Do Thái mộc mạc, nhưng Chúa Thánh Linh -Vị Thong Ngôn quyền năng- đã giải thích, làm cho mọi người hiểu được, như đang nghe tiếng nói nước mình.
Khi xưa các Tông đồ không hiểu về ý nghĩa cái chết và sự sống lại của Thầy mình, không hiểu về ba ngôi Thiên Chúa. Mãi đen hôm nay, khi Chúa Thánh Thần đến giải thích, soi lòng dạy dỗ các Ngài, các Ngài mới hiểu ra, các Ngài hăng hái lên đường, đem cả mạng sống mình làm chứng cho Tin Mừng (trong 12 Tông đồ, chỉ có Thánh Gioan là chết già, còn lại 11 vị đều tử đạo).
Thánh Phaolô còn đi xa hơn, Ngài cho biết không ai có thể gọi Giêsu là Chúa nếu không nhờ Thánh linh, bạn có thể phát âm chữ Giêsu, nhưng bạn không biết Giêsu là Đức Kitô con Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, Chủ tể vũ trụ nếu không có Thánh linh. Đức Cha Fulton Sheen viết: “Hôm nay bạn tin vào Thiên tính của Đức Kitô đó là nhờ Thánh linh, tôi chỉ cung cấp cho bạn những động lực chính, đáng tin, nhưng phần còn lại là do Thánh linh. Chiếc viễn vọng kính không tỏ lộ chính mình nhưng tỏ lộ chi tiết của những vị sao phía trên, Chúa Thánh thần cũng vậy, Ngài không cho biết về Ngài nhưng về Đức Kitô. Chúng ta thử nghĩ với nền văn minh hiện nay nhờ vô tuyến, làn sóng điện, ánh sáng, chúng ta có thể liên lạc đi mọi nơi trên trái đất một cách nhanh chóng, tại sao Thiên Chúa toàn năng của chúng ta ở Thiên quốc không thể rút ngắn khoảng cách để thì thầm với chung ta qua Thần khí của Ngài!”
Rất nhiều người không hiểu về Đức Kitô, về sự cứu chuộc của Ngài, họ xem Ngài như những người bình thường khác, tại sao? Xin thưa vì họ không có Thần khí. Tại sao họ không có Thần khí? Xin thưa vì họ không giữ giới luật của Chúa. “Nếu yêu mến Ta thì hãy giữ lời Ta” rồi Chúa Thánh Linh sẽ đến và làm cho họ hiểu.
Mục đích của Chúa Thánh linh như một họa sĩ, Ngài vẽ Chúa Kitô trên đồi Canvê, Ngài làm cho Chúa Kitô trở thành hiện thực, sống động để cho chúng ta hiểu mà tin theo Ngài. Sau khi tin Ngài, giữ giới luật của Ngài, Chúa Thánh linh sẽ tiết lộ, thôi thúc chúng ta nên nói và nên làm những gì.
Trên đời này không ai ghét Chúa Kitô bằng Phaolô. Phaolô bắt bớ, tra tấn, nếu cần sẽ giết chết những ai tin theo Chúa Giêsu (Thánh Stêphanô là một đơn cử). Thế mà sau khi lãnh nhận Thần Khí, Phaolô trở thành “Lửa” và có thể nói trên đời này khong ai khôn ngoan, thánh thiện, nhiệt tình và liều lĩnh rao giảng Tin Mừng như Thánh Phaolô. Cuối cùng Ngài cũng tử đạo.
Mỗi người chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần: một lần Chúa nói với những người Pharisiêu “ Hãy phá đền thờ này đi, Ta sẽ xây lại trong 3 ngày”. Ngài muốn nói cơ thể Ngài là đền thờ, là nơi Chúa cư ngụ. Vì Ngài là con Thiên Chúa làm người, nên thân xác Ngài là đền thờ tối cao. Chúng ta nhờ ân sủng được kết hiệp với Ngài trong linh hồn chúng ta, chúng ta cũng trở thành đền thờ. Thiên Chúa được tôn vinh hai lần, một lần với Cha Ngài khi Ngài được ngồi bên hữu, và một lần được tôn vinh bởi chúng ta. Ngài nói “Người sẽ tôn vinh Ta” (Ga:16:14), Thánh linh sẽ tôn vinh Ngài qua chúng ta bằng cách làm chúng ta trở thành nhân chứng cho Ngài, mỗi lần chúng ta tuyên xưng Ngài bằng suy nghĩ và hành động của mình.
Mục đích then chốt của Chúa Thánh Linh: Ngài đến để hợp nhất, thánh hóa và ở lại trong Giáo hội, bởi vậy dù cho vật có đổi sao có dời thì Giáo hội vẫn tồn tại. Đây cũng là lý do chúng ta đặt niềm tin tuyệt đối và chỉ tin vào Chúa Giêsu Kitô, con Thiên Chúa hằng sống và Giáo hội do Ngài thành lập. “Ở đâu tội lỗi càng nhiều thì ở đấy ân sủng càng dồi dào”. Giáo hội Hoa kỳ đang trải qua thời kỳ đen tối, chúng ta hãy chờ xem, nhưng chắc chắn sẽ có những biến cố trọng đại xảy đen, vì vị thông ngôn vô cùng quyền năng nhưng thầm lặng của chúng ta biết, Ngài phải làm gì để củng cố, duy trì Giáo hội của Ngài một cách tốt đẹp nhất.
Tóm tại, dù chúng ta có nhìn nhận hay phủ nhận về sự hiện diện của Chúa Thánh Linh, thì Ngài vẫn hiện hữu, vẫn thương yêu chúng ta. Ngay từ thuở chưa có trời đất, vạn vật thì thần khí Thiên Chúa đã bay lượn trên mặt nước, Ngài xuất hiện trước khi vạn vật được tạo thành. Rồi đến khi Chua Giêsu xuống thế. Chính Chúa Thánh Linh đã hoạt động trước tiên, Thánh Thần Thiên Chúa đã bao trùm trinh nữ Maria. Chúng ta có thể nói rằng phép lạ đầu tiên của Tin Mừng là phép lạ của Chúa Thánh Thần làm cho Đức Bà thụ thai, và sinh con nhưng vẫn còn trong trắng. Ngài là Tình Yêu, vì Ngài ban phát tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa cho chúng ta, và cũng chính Ngài làm cho chúng ta hướng tâm hồn đến Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài có thể làm cho trái tim chai cứng, lạnh lùng của mỗi người biết rung động, biết mở ra trước những nhu cầu của anh em đồng loại. Cũng chính Ngài làm cho chúng ta: không chỉ hướng về Chúa Kitô mà còn nhìn nhân loại với cái nhìn của Đức Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vì là sinh nhật của Giáo Hội, mà Chúa Kitô là đầu của thân thể mầu nhiệm này, nên cũng có thể nói rằng hôm nay là sinh nhật thứ hai của Chúa Kitô. Giáo Hội Công Giáo đã trải qua nhiều thăng trầm, tai biến. Nhưng nhờ Chúa Thánh Linh nên mới tồn tại. Đức cố Tổng Giám Muc Fulton J. Sheen viết: “Không phải lúc nào trong lịch sử, Giáo hội cũng phi thường, được vẻ vang cả. Nói đúng hơn, Giáo hội đã trải qua hàng ngàn lần phục sinh sau hàng ngàn lần bị đóng đinh. Hồi chuông xử tử Giáo hội lúc nào cũng ngân vang, nhưng nhờ bởi sức mạnh của Thần Linh nên “giờ hành quyết” muôn đời bị đình hoãn”.
Để kết thúc xin mượn lời nguyện sau đây của Thánh Gregory Tiến sĩ:” Lạy Chúa, hôm nay Ngài đã soi lòng, dạy dỗ các môn đệ trung thành của Ngài bằng ánh sáng của Chúa Thánh Linh; xin thương ban cho chúng con cùng một Thánh Linh: để chúng con biết phân biệt, nhận xét và phán đoán tất cả mọi sự việc một cách chính xác; luôn luôn được vui thú trong Đấng Ủi An đến từ Thiên Chúa”.
127. Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
THÁNH THẦN HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG
Đúng năm mươi ngày sau Lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, Đấng đã đến để đốt lên lửa mến yêu và truyền ban lòng can đảm loan báo Tin Mừng cho các môn đệ.
Không hiểu sao tuy đã được chứng kiến tận mắt Chúa Phục Sinh, được đàm đạo và ăn uống với Ngài, được nghe tận tai lời sai bảo làm nhân chứng cho Nước trời, ấy thế mà các người theo Chúa vẫn lo sợ. Chỉ biết cửa đóng then cài. Mãi cho đến một hôm, đang lúc họ hội nhau đông đủ trên phòng kín, thì bỗng từ trời có cơn gió mạnh. Tiếng rào rào như thể cuồng phong. Và lập tức, một quang cảnh kỳ lạ diễn ra: những lưỡi lửa xuất hiện, đậu trên từng người. Kết quả là ai nấy đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Hiện tượng gió thổi trong ngày lễ Hiện xuống nhắc lại sự việc "khí thần bay là trên mặt nước" trong sách Sáng Thế Ký; bên cạnh đó, hình ảnh các tông đồ đầy tràn thần khí cũng gợi lên hình ảnh con người đầu tiên được thổi vào mình đầy hơi sự sống. Như thế, biến cố Hiện xuống đã trở nên một cuộc tạo thành mới, với Thánh Thần Thiên Chúa được thổi vào thế giới để khai sinh một nhiệm thể sống động là Giáo hội của Đức Kitô.
Bằng việc loan báo Tin Mừng, khởi đi từ các thánh tông đồ, một thời đại mới đã khởi đầu. Đó là thời đại mà Giáo hội được hướng dẫn và thánh hoá dưới tác động của Ngôi Ba Thiên Chúa.
Đặc sủng loan báo Tin Mừng được Chúa Thánh Thần ban xuống qua hình lưỡi lửa đậu trên đầu các tông đồ. Hình lửa này tượng trưng cho sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa, như xưa kia Moisen đã tiếp cận sự hiện diện thần linh qua ngọn lửa cháy nơi bụi gai (Xh 3).
Ngay sau khi tiếp nhận ơn Chúa Thánh Thần, như lời tường thuật của Luca trong sách Tông Đồ Công Vụ, các môn đệ đã thay đổi thái độ sống. Họ mở tung cánh cửa của rụt rè nhát đảm. Họ mạnh bạo cất tiếng nói. Tiếng nói đã phát ra từ miệng lưỡi của những con người đánh cá quê mùa, thất học. Nhưng tiếng nói ấy đã được dân chúng từ 13 vùng đất--đại diện cho các dân tộc từ bắc chí nam, từ đông sang tây--nghe và hiểu. Tất cả đều là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Ngày xưa, khi lòng dạ con người kiêu căng ngạo mạn với trời, đ¨°i xây tháp Baben để lên đương đầu với Thiên Chúa, tiếng nói của họ, tuy là anh em một nhà, đã trở nên bất đồng. Mầm mống rối loạn, mơ hồ, kình địch, và phân ly đã nảy sinh. Người ta không còn hiểu nhau. Kết quả là phân tán. Ngày nay, Thần Khí đã xuống để qui tụ con cái từ muôn nước về cùng một mối, giúp họ hiểu nhau trong cùng một thứ ngôn ngữ là tình yêu và vinh quang của Thiên Chúa.
Theo niềm tin Kitô giáo, Thánh Thần là sức mạnh của yêu thương mà qua đó Chúa Cha đã trao ban trọn vẹn chính mình cho Chúa Con. Chúa Con đón nhận trọn vẹn sự sống từ nơi Cha, và rồi trong tình yêu của Thánh Thần, Ngài đã dâng lại trọn vẹn cho Cha. Như thế, Chúa Thánh Thần chính là Tình Yêu Hiệp Thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài cũng chính là nguồn ơn thông hiệp mọi tâm hồn trong cùng một niềm tin vào Đức Giêsu.
Như lời Thánh Phaolô khẳng định: "Trong Thần Khí độc nhất, hết thảy chúng ta nhờ thanh tẩy mà được nhập vào Thân Mình độc nhất..., và hết thảy đều đã được cùng uống một Thần Khí độc nhất" (1 Cor 12:13). Như thế, những hành vi, thái độ hay lời nói gây nên phân rẽ, rối loạn trong lòng Giáo hội đều tương phản với đường lối của Thánh Thần.
Thần Khí độc nhất liên kết mọi thành phần Kitô hữu chính là Thần khí thương yêu. Vì chỉ có yêu thương mới có nên một. Có yêu thương mới có the đạt đến việc cùng nhau thông hiệp trọn vẹn trong Thiên Chúa. Thánh Gioan đã nhấn mạnh: "Nếu ta yêu mến nhau, thì Thiên Chúa mới lưu lại trong ta. Nơi điều này mà ta biết là mình lưu lại trong Người và Người ở trong ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho ta" (1 Ga 4:13-14).
Thánh Phaolô cũng cùng một niềm xác tín: "Lòng mến của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ bởi Thánh Thần Người đã ban cho ta" (Rm 5:5).
Như thế, nhờ Thánh Thần mà ta có thể cất bước trên lối đường thương yêu, đi vào sự nên một với tha nhân trong Đức Kitô. Lắm khi người ta hay than trách: "không thể nào yêu nổi con người ấy." Có phải vì họ đã tận tâm tận lực nhưng không thành, hay vì chưa có Thần Khí Yêu Thương tác động và đỡ nâng?
Chỉ cần một luồng gió của ngày lễ Ngũ Tuần thổi qua, con người sẽ có dư can đảm mở tung cánh cửa tâm hồn để đến với anh chị em. Chỉ cần một đốm lửa của ơn Thánh Thần, bạn và tôi sẽ có đủ sức mạnh để công bố Tin Mừng Yêu Thương cho mọi người chung quanh.
Nhưng vấn đề là người ta có biết cùng nhau tề tựu để cầu nguyện như các tông đồ ngày xưa hay không. Thế nên để kiến tạo hiệp nhất và xây đắp tình yêu, con người cần phải cùng nhau ngồi xuống cầu nguyện.
128. Suy niệm của Lm Cao Tấn Tĩnh
Theo Phụng Niên của Giáo Hội, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay đây là thời điểm mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, cũng như Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh vậy. Riêng Phụng Vụ Lời Chúa cho Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay, nếu để ý chúng ta thấy có một một chi tiết hết sức kỳ lạ, giữa bài đọc thứ nhất theo Sách Tông Vụ của Thánh Luca, và bài Phúc Âm theo Thánh Gioan hôm nay, đó là, Chúa Thánh Thần được Chúa Kitô Phục Sinh thở hơi trên các tông đồ trong bài Phúc Âm, và Thánh Thần Hiện Xuống trên các tông đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần theo Sách Tông Vụ, có khác nhau chăng? Nếu khác thì khác ở chỗ nào? Nếu chỉ là một Thánh Thần thì tại sao các tông đồ lại nhận được hai lần?
Trước hết, theo tôi, Thánh Thần được Chúa Kitô Phục Sinh thở hơi trên các tông đồ và Thánh Thần Hiện Xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần chỉ là một Thánh Thần duy nhất. Thế nhưng, nếu là một Thánh Thần duy nhất tại sao các tông đồ lại lãnh nhận hai lần, theo tôi, lý do của sự kiện này có thể được căn cứ vào thời điểm các vị lãnh nhận cũng như vào cứ điểm xuất phát của Đấng các vị lãnh nhận. Thật vậy, các tông đồ lãnh nhận cùng một Thánh Thần hai lần, lần thứ nhất vào thời điểm các vị đang sợ hãi ẩn nấp vì Thày của các vị đã chết, và lần thứ hai vào thời điểm các vị đang hân hoan thao thức chờ đợi Ngài đến; đó là về thời điểm các tông đồ lãnh nhận Thánh Thần, còn về cứ điểm xuất phát của Đấng các vị lãnh nhận, thì lần thứ nhất các vị đã lãnh nhận Thánh Thần qua thân xác phục sinh của Chúa Kitô, và lần thứ hai các vị đã lãnh nhận Thánh Thần từ trời hay từ Cha. Căn cứ vào hai yếu tố thời điểm các vị tông đồ lãnh nhận Thánh Thần và cứ điểm xuất phát của Đấng các vị lãnh nhận, như vừa nhận định và phân tách, theo tôi, các vị tông đồ lãnh nhận Thánh Thần lần thứ nhất là để Chúa Kitô Phục Sinh có thể sống trong các vị, và lần thứ hai là để các vị có thể làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh.
Đúng thế, các vị tông đồ đã lãnh nhận Thánh Thần lần thứ nhất “vào buổi tối Ngày Thứ Nhất trong tuần”, khi “cửa nhà của các vị còn đang đóng kín vì sợ người Do Thái” (Jn 20:19), qua hơi thở từ thân xác của Chúa Kitô Phục Sinh, là để Chúa Kitô Phục Sinh có thể sống trong các vị, đúng như lời Người tiên báo cho các vị trong Bữa Tiệc Ly, ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 18 và 19: “Thày sẽ không để các con mồ côi đâu; Thày sẽ trở lại với các con. Chỉ còn một ít lâu nữa thôi thế gian không còn trông thấy Thày nữa, nhưng các con thì thấy, vì Thày sống và các con cũng sẽ sống. Vào ngày ấy các con sẽ biết rằng Thày ở trong Cha Thày, và các con ở trong Thày cũng như Thày ở trong các con”. Các tông đồ còn lãnh nhận Thánh Thần lần thứ hai nữa, là để các vị có thể làm chứng về Chúa Kitô Phục Sinh, như lời Người cũng đã nói cho các vị biết, sau khi các vị đã nhận lãnh Thánh Thần qua hơi thở từ thân xác của Người, tức sau khi các vị nhờ Thánh Thần lãnh nhận lần thứ nhất này để nhận ra Thày mình đã thực sự sống lại. Lời Chúa Kitô Phục Sinh tiên báo cho các tông đồ biết về việc các vị sẽ lãnh nhận Thánh Thần lần thứ hai này đã được ghi nhận trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 24 câu 45-49 như sau: “Bấy giờ Người mở tâm trí họ ra để họ hiểu các lời Thánh Kinh. Người nói cùng các vị: ‘Như đã ghi chép, Đấng Thiên Sai phải chịu khổ nạn và sống lại từ trong cõi chết vào ngày thứ ba. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho tất cả mọi dân nước về lòng thông hối để họ được ơn tha tội, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là những nhân chứng ve điều này. Thày sai đến với các con lời Cha hứa ban. Các con hãy ở đây trong thành này cho đến khi các con được mặc lấy quyền lực từ trên cao’”. Thánh Ký Luca còn lập lại lời Chúa Kitô Phục Sinh này một lần nữa trong Sách Tông Vụ đoạn 1 câu 8 như sau: “Các con sẽ nhận được quyền năng khi Thánh Thần xuống trên các con; đoạn các con phải là những nhân chứng của Thày, chẳng những ở Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria, mà cho đến tận cùng thế giới nữa”.
Nếu vậy thì hình như có một tiến trình phát triển Thánh Thần nơi các vị tông đồ giữa hai lần các vị lãnh nhận Ngài thì phải, như thể Chúa Kitô Phục Sinh dần dần lớn lên trong các vị, từ lúc các vị nhận biết Thày đã sống lại, cho tới khi Thánh Thần Hiện Xuống trên các vị, làm cho các vị thực sự trưởng thành và có đầy đủ sức mạnh để làm chứng cho Chúa Kitô?
Đúng thế, một trong những dấu chứng tỏ tường cho thấy các tông đồ đang trưởng thành và thực sự trưởng thành cho tới tầm mức trọn vẹn giữa hai lần các vị lãnh nhận cùng một Thánh Thần, điển hình nhất là nỗi lòng của các vị tỏ ra sau khi Vị Tôn Sư vô cùng dấu ái của các vị hoàn toàn bỏ các vị mà về cùng Cha. Thánh Ký Luca đã ghi nhận rõ dấu hiệu trưởng thành này ở 4 câu kết Phúc Âm của mình trong đoạn 24, từ câu 50 đến câu 54, như sau: “Bấy giờ Người dẫn các vị đi đến gần Bêtania, rồi giơ tay lên chúc phúc cho các vị. Đang khi ban phép lành, Người rời các vị mà lên trời. Các vị phục xuống tôn kính Người, đoạn vui mừng hớn hở trở về Giêrusalem. Ở đó người ta thấy các vị liên lỉ ở trong đền thờ chúc tụng Thiên Chúa”. Sở dĩ các tông đồ không còn buồn thương và chán chường như thời gian Chúa Kitô bỏ các vị mà đi tử nạn nữa, trái lại, các vị còn “vui mừng hớn hở” và “chúc tụng Thiên Chúa” sau khi vĩnh viễn không còn được thấy Vị Thày vô cùng khả kính khả ái của mình trên trần gian này nữa, là nhờ có Thánh Thần các vị đã lãnh nhận lần nhất qua hơi thở của thân xác phục sinh của Thày. Ở vào thời điểm Chúa Kitô Phục Sinh Thăng Thiên về trời này, đời sống của các vị tông đồ trong Thánh Thần các vị lãnh nhận lần thứ nhất, có thể nói, đã đạt tới chỗ các vị trở thành “những kẻ thực sự tôn thờ Thiên Chúa”, thành phần, như Chúa Kitô nói cho người đàn bà Samaritanô biết ở bờ giếng Giacóp, được Phúc Âm Thánh Gioan ghi lại nơi đoạn 4 câu 23, đó là: “Những ai thực lòng tôn thờ Thiên Chúa sẽ tôn thờ Cha trong Thần Linh và chân lý. Thật vậy, Cha tìm kiếm những người tôn thờ chân chính này”.
Phải, các tông đồ sẽ không thể nào làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, nếu trước hết các vị không trở thành “những kẻ thực sự tôn thờ Thiên Chúa”. Bởi vì, thành phần “tôn thờ chân chính mà Cha tìm kiếm này” là thành phần “tôn thờ Cha trong Thần Linh và chân lý”, tức là những người thực sự tin vào Thiên Chúa, Đấng thực sự hiện thân nơi Đấng Thiên Sai của Ngài, hay nói cách khác, họ là những người “tin rằng chính Cha là Đấng đã sai Con” (Jn 17:8, 25), và những người “tin rằng Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày” (Jn 14:11, 20) như thế chính là những người có “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Thế nhưng, để nhận biết Thiên Chúa nơi Đấng Thiên Sai của Ngài là Đức Giêsu Kitô, tự mình các tông đồ không thể làm được, mà phải có Thánh Thần. Đó là lý do Thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc hai hôm nay: “Không ai có thể nói: ‘Đức Giêsu là Chúa’ nếu không có Thánh Thần”. Như thế, Thánh Thần các tông đồ lãnh nhận lần thứ nhất qua hơi thở của thân xác Chúa Kitô Phục Sinh là để các vị nhận biết Thiên Chúa và Đấng Ngài sai, nhờ đó, sửa soạn các vị “được rửa trong Thánh Thần”, như bài đọc 1 hôm nay nói tới, tức sửa soạn cho các vị lãnh nhận Thánh Thần lần hai, “Vị Thánh Thần”, như Thánh Phêrô khẳng định trước Hội Đồng Do Thái trong Sách Tông Vụ đoạn 5 câu 32:”Thiên Chúa ban cho những ai thuận phục Ngài“.
Thật vậy, nếu Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, con người duy nhất được đầy Thánh Thần từ giây phút đầu thai trong lòng mẹ, sau khi thưa lời “xin vâng” với sứ thần Gabiên, đã được “Thánh Thần ngự xuống và quyền phép Đấng Tối Cao bao phủ” (Lk 1:35), để Mẹ có thể “thụ thai và hạ sinh… Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:31, 32) thế nào, các tông đồ cũng vậy, vì đã “tin vào Thiên Chúa và tin vào Thày” (Jn 14:1), được thể hiện bằng việc “ở lại trong thành” như Thày dăn dò, mà các vị đã thực sự “mặc lấy quyền lực từ trên cao”, để có thể thụ thai và hạ sinh Chúa Kitô Phục Sinh trong lòng của 3 ngàn người lắng nghe chứng từ của các vị, qua bài giảng tiên khởi vị trưởng tông đồ Phêrô sau biến cố được Sách Tông Vụ trình thuật trong bài đọc thứ nhất hôm nay là: “Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió thổi mạnh, lùa vào đầy nơi các vị đang tụ họp nhau. Cũng có lưỡi như lửa xuất hiện đậu trên từng vị. Hết thẩy mọi người đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần khiến họ nói”.
Khía cạnh tu đức này được phản ảnh nơi khía cạnh phụng vụ. Thật vậy, nếu các tông đồ lãnh nhận cùng một Thánh Thần hai lần, lần đầu là để nhận biết Chúa Kitô Phục Sinh và lần hai là để có khả năng làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, thì thành phần Kitô hữu tân tòng cũng thế, sở dĩ họ trở lại với Chúa Kitô là nhờ Thánh Thần soi động họ vào một lúc nào đó trong đời họ, để rồi, khi họ tuyên xưng đức tin qua việc lãnh nhận phép rửa, họ lại được lãnh nhận Thánh Thần nơi Bí Tích Thêm Sức ngay sau khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để có thể làm chứng cho Chúa Kitô. Thế nhưng, vấn đề ở đây là, đã được lãnh nhận Thánh Thần qua Phép Rửa, Kitô hữu chúng ta đã tin Chúa Kitô ra sao, và được lãnh nhận Thánh Thần nơi Phép Thêm Sức rồi, chúng ta đã hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô chưa...?
129. Quyền năng tha tội - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Trong một lần giáo huấn, Đức Giêsu đã quả quyết với các Tông đồ: “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Sự gì các con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở” (Mt 18: 18). Và hôm nay, sau ngày phục sinh, trong một lần hiện ra với họ, Chúa Giêsu đã phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại” (Gn 19:22-23). Khi nói lên lời đó, Ngài chính thức thiết lập Bí tích Giải tội, uỷ thác cho Hội thánh quyền năng tha thứ và cầm buộc. Quyền năng này không chỉ được trao ban cho các Tông đồ nhưng còn thông chuyển đến các đấng kế vị là các Giám mục và những linh mục hiệp thông với các ngài.
Qua lời tuyên bố thiết lập Bí tích Giao hoà, Chúa Giêsu muốn nói với các thừa tác viên đầu tiên và những người kế nghiệp rằng: một khi dưới đất họ đọc lên lời tha tội “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” thì lập tức trên trời Ngai sẽ chuẩn y, và dù tội con người có thẫm như máu đào cũng sẽ được biến đổi tinh trắng như bông.
Trong Tông thư Reconciliation and Penance (“Hoà Giải & Đền Tội), Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đã khẳng định: “Khơi dậy lòng sám hối và thay đổi tâm hồn nhân thế cùng trao ban cho con người tặng phẩm giao hoà chính là sứ mạng đặc thù của Hội thánh khi tiếp nối công trình cứu độ của Đấng Sáng lập”.
Thời Giáo hội sơ khai, việc xưng tội để đón nhận ơn giao hoà với Thiên Chúa và chữa lành tâm hồn thường được các Kitô hữu chân thành thực thi, không cần đến sự thúc giục của các vị chủ chăn, dù rằng lúc ấy lắm việc đền tội kéo dài rất lâu và không kém khắt khe.
Đến thế kỷ 13, để gia tăng ơn ích thiêng liêng cho các linh hồn, Đức Giáo hoàng Innocent ra sắc lệnh buộc mọi người Công giáo đến tuổi lớn khôn phải xưng tội một năm ít là một lần.
Có người đặt vấn đề: Tại sao lại phải đi xưng tội với một linh mục? Tới thẳng với Chúa không được sao?
Đến với Chúa để tìm ơn tha thứ cho bao tội mình phạm là điều rất đúng. Nhưng đến với Ngài như thế nào là điều ta cần thi hành theo lời chỉ dẫn của Chúa Giêsu. Không lý nào Chúa lại trao quyền tha tội cho các linh mục khi chính Ngài có thể tha thứ và không cần đến họ. Thử hỏi nếu ta được trao cho chiếc chìa khoá của một căn nhà với đặc quyền mở cửa cho kẻ ra người vào. Chiec chìa khoá và đặc quyền đó có ý nghĩa gì khi ta khám phá ra rằng ai ai cũng có một chiếc chìa khoá như vậy và họ ra vào lúc nào tuỳ ý.
Lẽ dĩ nhiên Đức Giêsu có trăm muôn ngàn cách tha thứ tội lỗi con người, nhưng phương cách Ngài “làm người” để cứu thế và “chọn con người” để thi hành quyền năng tha tội là một ý định tỏ tường. Tuy nhiên, bên cạnh ý định của Thiên Chúa cũng có đó một số lý do khiến cho việc xưng tội với một linh mục trở nên cần thiết.
Catholicism and Life (“Công Giáo & Sự Sống”) có chỉ ra những lý do như sau:
Thứ nhất, vì “có những tội được tha và có những tội bị cầm” nên hối nhân phải xưng tội mình ra thì linh lục mới có thể xác định được tội nào được tha và tội nào bị cầm.
Thứ hai, việc xưng tội với một linh mục sẽ giúp cho con người trở nên khiêm tốn. Người ta dễ chừa tội hơn khi biết rằng nếu mình phạm, mình sẽ phải xưng.
Thứ ba, chắc chắn hối nhân sẽ đón nhận được ơn thánh hoá từ bí tích Hoà giải. Nhưng trước đó, họ sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích từ vị linh mục, giúp họ thăng tiến hơn trên đường thiêng liêng.
Thêm vào đó, có không ít khuynh hướng nhiệm nhặt hay buông thả khiến cho có người quá khắc khe, thấy điều chi cũng tội, hay có người quá lỏng lẻo đến nỗi bao tội tày trời cũng cho là chẳng có gì ghê gớm. Thậm chí có khi còn biện minh để lương tâm thấy tội nhẹ bớt hay không còn tội lỗi gì nữa. Vì vậy, nếu không có sự trợ giúp của vị linh mục làm sao người ta có thể quân bình với chính mình và chân thành với Thiên Chúa được.
Cuối cùng, khi ban ơn tha tội, vị linh mục thay mặt Chúa sẽ bảo đảm ơn tha thứ cho hối nhân. Đối với người đi “xưng thẳng” với Chúa, ai sẽ đoan quyết cho điều đó? Chắc chắn không ai hết.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh cáo những người cho mình không cần bí tích Giải tội như sau: “Thật là điên rồ và kiêu căng đối với những ai tự ý coi thường phương thế trao ban ơn sủng và cứu thoát mà chính Chúa Giêsu thiết lập, nhất là đối với những kẻ cho rằng không cần đến bí tích giải tội để được tha tội”.
Có nhiều người vì ý thức lệch lạc nên coi thường xưng tội, nên không còn thấy cần đi xưng tội nữa. Thậm chí có người xấu hổ ngại ngùng khi phải thú nhận tội mình với kẻ khác. G.K. Chesterton, một nhà văn trở lại Công giáo đã viết: “Không việc gì phải xấu hổ về những dại dột của mình… Đã là con người không ai không có lỗi lầm, nhưng lỗi lầm kinh khủng nhất của con người là cho mình không có lỗi”. Thánh Gioan Tông đồ viết thẳng thừng hơn: “Nếu ta nói: ta không có tội là ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta” (1 Gn 1:8). Trái lại, “Nếu ta xưng thú tội lỗi mình thì Người trung tín và công chính đủ để tha thứ tội lỗi cho ta, và tẩy ta khỏi mọi bat chính” (1 Gn 1:9). Một điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là “ấn toà” mà tất cả mọi linh mục phải tuân giữ. Không một điều gì nghe trong toà mà cha giải tội lại được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của mình bị đe doạ hay an ninh quốc gia được bảo toàn.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những con người dám lấy máu đào bảo vệ đức tin, trong đó có hình ảnh của những linh mục dám lấy mạng sống bảo vệ “ấn toà giải tội”.
Cha Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14. Ngài là cha giải tội của Hoàng hậu Jane, nước Bohemia. Vua Wenceslaus là người đa nghi và ghen tuông. Vì muốn biết Hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên nhà vua yêu cầu cha Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với ngài.
Tưởng rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều bí mật nơi miệng cha Gioan, nhưng vua đã lầm. Vị linh mục của Chúa nhất quyết không hé lộ bất cứ điều gì. Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối. và một đêm kia, bị nhận nước cho đến chết.
Ba trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu trách đã ngỡ ngàng chứng kiến thân thể ngài mục nát hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn nguyên vẹn như lúc còn sống. Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên một tượng đài, phía dưới chân có khắc dòng chữ: “Nơi đây vị chứng nhân của Ấn toà Giải tội đã nằm xuống”.
Gần đây nhất là biến cố cha Demoulin, người pháp, bị kết tội giết người vào năm 1899 và phải ở tù chung thân. Số là ông quản nhà thờ đã gây nên án mạng rồi dấu vũ khí trong phòng cha. Để bịt miệng ngài, ông xin xưng tội và thú nhận phạm tội giết người. Thế rồi, vì không thể tiết lộ danh tánh phạm nhân, nên cuối cùng cha Demoulin bị toà kết án chung thân khổ sai.
Sau 25 năm, thân thể cha Demoulin tàn tạ theo thời gian và sự khốn cực lao tù. Ông quản ngày nào đang hấp hối trên giường bệnh và tha thiết xin gặp một linh mục. Thế rồi trước khi nhắm mắt lìa đời, ông đã kịp xưng thú với mọi người về tội sát nhân năm xưa, đồng thời xin ơn tha thứ qua bí tích giải tội mà ông đã lợi dụng để đưa một linh mục vô tội vào tù (x. Catholicism and Life).
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao ban cho các Tông đồ món quà vô giá là Chúa Thánh Thần và quyền năng tha tội. Sứ mạng của các ngài và những người kế vị là làm nảy sinh hoa trái cho toàn nhân loại. Biết khiêm tốn mở lòng đón nhận ơn tha thứ, con người sẽ tìm thấy bình an và sự sống đích thực, dù thần chết có đang hăm he rình chờ. Biết tìm đến cùng toà cáo giải, tâm hồn sẽ được chữa lành và ngập tràn hân hoan.
130. Ơn Chúa huấn luyện và thêm sức cho ta
(Suy niệm của Lm. Fx. Nguyễn Hùng Oánh)
Chúa Kitô ban ơn Thánh Thần cho các Tông đồ không phải ban một lần, nhưng ban nhiều lần.
Sống lại, Chúa hiện ra với các Tông đồ chiều hôm đó, Chúa chúc bình an, cho các Tông đồ thấy vết đinh để chứng tỏ Chúa là con người thực sống lại, chứ không phải là bóng ma hiện về, rồi Chúa chúc bình an và thổi hơi ban Thánh Thần với tất cả quyền bính do Thánh Thần tác động được diễn tả theo ngôn ngữ “cầm buộc hoặc tháo gỡ” (Ga 20,19-23)
Lúc về trời, Chúa căn dặn các Tông đồ, môn đệ chờ đợi Thánh Thần xuống. Thánh sử Luca diễn tả Chúa Thánh Thần hiện xuống dưới sức gió mạnh và hình lưỡi lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần tức là 50 ngày sau khi Chúa sống lại. Như vậy, các Tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần nhiều lần.
Điều đó đúng với tâm lý con người, vì con người phải được nuôi dưỡng dần dần mới lớn lên; về mặt tâm linh, nhận ơn Chúa dần dần, nhiều lần mới trưởng thành. Đàng khác, Thánh Thần hoạt động luôn luôn và tự do, ban ơn cho ta có lúc mạnh, lúc nhẹ để làm sao không cưỡng ép ta, trái lại để cho ta được tự do lãnh nhận và cộng tác với ơn Chúa trong tự do và trưởng thành.
Điều quan trọng phải suy nghĩ hôm nay là Chúa Thánh Thần chỉ được ban phát do mầu nhiệm Vuơt qua của Chúa Kitô (chết, sống lại, lên trời vinh hiển). Thánh Thần là ơn huệ phục sinh của Chúa Kitô ban cho chúng ta. Thứ tự hành động của Chúa Kitô cho biết điều đó (hiện ra chúc bình an, chỉ vết đinh, thổi hơn ban Thánh Thần) và đời sống cứu chuộc nhân loại của Chúa Kitô cũng nói rằng hoa quả của ơn cứu độ là Thánh Thần.
Chúa ban Thánh Thần cho Hội Thánh thi hành sứ mệnh của Chúa Kitô trao phó, chứ không phải thụ hưởng, nhận lãnh Thánh Thần để làm việc theo ý Chúa chứ không phải để nhìn ngắm, nên Chúa Kitô thở hơi trao ban Thánh Thần với quyền bính “cầm buộc, thứ tha”, để Hội Thánh tiếp tục sứ mệnh của Chúa là cứu độ mọi người. Sách Tông đồ Công vụ cho biết sau khi lãnh nhận Thánh Thần diễn tả bằng sức mạnh của gió, sức nóng và sáng của lửa ngôn ngữ của hình lưỡi, các Tông đồ mở toang cửa ra, rao giảng Chúa Kitô cho mọi người. Ta thấy rõ vai trò cần thiết của Chúa Thánh Thần.
Hội Thánh hoạt động được là nhờ Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói ta tuyên xưng Chúa Kitô là Thiên Chúa là do Thánh Thần. Điều nầy dễ hiểu vì công nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa hết sức khó đối với người Israen (từ trước tới nay chỉ nhận có Đức Giavê là Thiên Chúa duy nhất mà thôi), nhưng cũng khó khăn đối với chúng ta nên cần Thánh Thần trợ giúp. Ngay cả việc xem ra dễ dàng nhất: kêu Thiên Chúa là Cha cũng cần Thánh Thần giúp, cần giúp vì nhận ra Thiên Chúa là Cha, ta là con cái Thiên Chúa là một mạc khải thâm sâu trong mầu nhiệm Ngôi Hai làm người là Con Một Chúa Cha.
Ta có thể nói Thánh Thần là linh hồn của Hội Thánh, Thánh Thần là ông chủ của chúng ta ở trong ta, ta là đền thờ của Thánh Thần.
Tuy Thánh Thần mạnh mẽ như vậy, nhưng nếu ta không đón tiếp Ngài, không cộng tác với ơn của Ngài thì Ngài trở thành bất lực trong ta. Ngài có thể là chủ tâm hồn ta hay chỉ là một người đứng ngoài, gõ cửa nói vào mà ta làm ngơ, ơn Ngài là sức mạnh giúp ta làm việc lành, đạt tới thành công hay ơn Ngài rơi rụng nơi ta, không sinh hoa kết quả gi. Tất cả do sự đáp ứng của ta vì Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của ta.
Mỗi tín hữu chúng ta đã nhận Chúa Thánh Thần khi chịu bí tích Rửa tội và Thêm sức, khi cầu nguyện và Chúa Thánh Thần luôn luôn trợ giúp chúng ta. Cám ơn,cởi mở cộng tác với ơn Chúa, nhớ mình là đền thờ Chúa Thánh Thần là điều luôn luôn phải ý thức.
(Phụ chú theo bản dịch ca Cha Nguyễn thế Thuấn: cửa đã đóng cài chặt chẽ vì sợ người Do-thái (tỏ ra thân xác không còn lệ thuộc không gian thời gian nữa) thì Giêsu đã đến (chứng tỏ Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha rồi, bây giờ Người đến), bằng an cho anh em (lời cho chuẩn bị cho một sứ mệnh) nói thề rồi Ngài thổi hơi trên họ: “Hãy chịu lấy Thánh Thần” (sứ mệnh nầy bắt nguồn từ Phục sinh) những ai được các ngươi tha tội, thì tội họ được tha, nhũng ai các ngưoi cầm giữ lại, thì tội họ bị cầm giữ (ban ơn sủng một cách đặc biệt có sức thánh hóa trong bí tích rửa tội và giải tội}
--------------------
Luôn thể xin kể câu chuyện mở đầu bài giảng: Cha Thông (hưu) kể chuyện một cha sở muốn mở đầu bài giảng trong lễ Chúa Thanh Thần hiện xuống cách sống động, Ngài dặn ông trùm giúp việc nhốt một chim bồ câu trong lồng để trên trần nhà thờ, khi ngài mở đầu bải giảng: Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự xuống thì thả chim bồ câu cho chim bay xuống cung thánh. Cha lên tỏa giảng (thời xưa có tòa giảng ở gần cung thánh): Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự xuống. Không thấy gì, ngài nói to hơn: Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự xuống. Ông trùm hét to trả lời: Cha Thánh Thần mèo ăn rồi. Đức Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình nghe vừa xong, đúng dậy nói: Đức Chúa Thánh Thần mèo chụp hụt rồi. Các linh mục ồ lên, vỗ tay quá sức …
131. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ
CHÚA HIỆN ĐẾN (cc. 19-20)
Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoan trước xem chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào nhóm Mười Một này). Các ông sống trong lo âu sợ hãi va trốn tránh. Chính trong nơi cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người không còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều bó buộc tự nhiên như những sự bó buộc của con người với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường: đơn giản Người có thể hiện diện cách khác hơn loài người.
Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người nói “Chúc anh em được bình an”, điều này không chỉ là một lời chúc xã giao, mà còn có nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình an. Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh. Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên con người đang đứng ơ giữa họ là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng một con người như Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.
SỨ VỤ (cc. 21-23)
Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở màn cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự so sánh, đây là căn nguyên và nền móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo dài hoạt động của Chua Giêsu. Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười Một. Chủ đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi, bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, ho có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ động. Ta có thể dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh em tha… Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.
Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra vào “ngày của Chúa”, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi hội họp cử hành phụng vụ, thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Người và mỗi khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hóa một lần nữa việc sai họ đi khắp thế gian.
132. Chú giải của Noel Quesson.
Chiều tối ngày thứ nhất trong tuần
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chiều tối ngày Phục sinh, ngay sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ đã được ban Chúa Thánh Thần và Hội Thánh phát sinh từ hơi thở của Đức Giêsu. Trong bài tường thuật này, so với bài của Thánh Luca trong Công vụ Tông Đồ, hình như Đức Giêsu chiếm chỗ quan trọng hơn Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan đã thường cho chúng ta thấy màu sắc thần học dưới hình thức những biểu tượng Kinh Thánh trong Tin Mừng của Người.
“Ngày đầu tuần”.
Một thế giới bắt đầu, một tạo dựng mới. Đây là một sáng thế ký mới. Chúa đã “nắm được con người trong tay”, và nhồi nắn lại con người với một thứ đất sét mới.
Và từ ngày đó, các Kitô hữu đã luôn luôn tập họp lại, từ “ngày thứ nhất trong tuần” này đến “ngày thứ nhất trong tuần” kia, nghĩa là từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác. Hội Thánh được hình thành từ những cuộc tập họp như thế trong suốt thời gian và ngày nay vẫn còn tiếp tục. Cũng cần phải có những buổi họp mặt Chúa nhật để hình thành một Kitô hữu, dần dần theo tiến độ những lần Đức Giêsu “hiện đến”. Chúng ta đã xa rời sự bắt buộc phải xem lễ ngày Chúa nhật với vẻ pháp lý của nó: Bây giờ, việc xem lễ là một điều cần thiết cho cuộc sống “Chúng bị bắt buộc phải thở, để lấy hơi lại”. Và không phải chỉ một năm một lần mà thôi.
Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ
Sự sợ hãi! Thế giới chúng ta luôn luôn ở trong sự sợ hãi. Nguy cơ về nguyên tử, đó là mối lo sợ!
Trước khi đi xa hơn trong việc cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng vào trong chính cuộc đời của tôi xem tôi sợ những gì? Nơi Chúa “hiện ra vào ngày Phục sinh”, là nơi các môn đệ đã tự khoá cửa lại, để tự bảo vệ; nơi các ông sợ hãi. “Nơi Chúa Thánh Thần có thể hiện ra trong đời tôi, đó chính là vết thương nội tâm của tôi, chỗ yếu nhược của tôi, nơi tôi có thể bị nguy hiểm hay đau khổ. Tình trạng “khoá chặt cửa” của tôi như thế nào? Những hoàn cảnh, tội lỗi, lo âu nào đang giam giữ tôi?
Thánh Phao lô đã có ý thức thực tại này như là một cái chết: “Cái chết đang tác động trong chúng ta. Nhưng chúng ta không mất can đảm, vì trong chúng ta, dù là con người bên ngoài đang đi đến sự hư mất, con người bên trong vẫn mỗi ngày mỗi đổi mới – Những nguy nan chóng qua của ta thật nhẹ nhàng so với sự cao quý khôn lường của vinh quang đời đời mà Chúa chuẩn bị cho ta” (2Cr 4,12-16.17).
Đức Giesu đến đứng giữa các ông.
Không phải ngẫu nhiên mà Thánh Gioan đã liên kết việc Đức Giêsu Phục sinh với việc ban Chúa Thánh Thần. Trong Kinh Tin Kính chúng ta khẳng định rằng: Chúa Thánh Thần là “Chúa, Đấng ban sự sống”. Ơn ban sự sống này, chính Đức Giêsu đã được nhận trước tiên, khi giải thoát Đức Giêsu khỏi quyền lực của sư chết, Chúa Thánh Thần đã làm được một kỳ công lớn lao.
Nơi chúng ta là tạo vật hữu hạn, không phải là Chúa “tinh thần” và “thể xác” luôn được liên kết, lúc thịnh cũng như lúc suy. Nhưng dù tinh thần của chúng ta có mạnh đến đâu, nó cũng sẽ bị một thất bại cuối cùng, nó không thể giữ lại thân xác của nó: “Con người” có nghĩa là “hay chết”. Nhưng đứng trước vũ trụ được tạo dựng và hay chết này, Đức Kitô chẳng những có khả năng giới hạn của trí khôn nơi con người mà còn có những khả năng vô hạn của Thiên Chúa.
Nơi Đức Kitô có một thần trí thức hơn hẳn trí khôn con người thường bị cái chết khống chế – Đức Kitô có được quyền năng Chúa Thánh Thần, là Đấng ban sự sống.
Đức Giêsu phá vỡ mọi rào cản. Việc người đột nhiên xuất hiện với các môn đệ đang ở trong phòng đóng kín có nghĩa là Người không bị một trở ngại nào ngăn cản không cho đến “ngự giữa các môn đệ của Người”.
Sáng hôm đó, Người đã nhận được một “hơi thở” mới, làm Người trở nên một “thân thể linh thiêng”, một thân thể sinh động do sự sống của Chúa Thánh Thần (1Cr 15,44). Trước khi trực tiếp ban hơi thở đó cho các bạn hữu mình Đức Giêsu “được Phục sinh và tôn vinh nhờ quyền năng Thiên Chúa, Cha Ngài, đã nhận từ Chúa Thánh Thần” (Cv 2,23). Chính Thánh Phêrô nói lên mạc khải lạ lùng này trong ngày Lễ Hiện Xuống – Vâng, sự Phục sinh là công trình của Chúa Thánh Thần.
Người đưa cho các ông xem tay và cạnh sườn.
Bạn đang tìm nơi Đức Giêsu xuất hiện vào ngày Phục sinh chăng? Bạn thấy khó nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần chăng?
Vậy thì bạn hãy cố tìm ra những vết sẹo, những vết thương trong tim bạn, trong cuộc đời bạn, cũng như trong thế gian và trong Giáo Hội.
“Chúc anh em được bình an”. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Từ sợ hãi đến vui mừng, nhờ sự bình an
“Như Chúa đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em”.
Các ông đã tự “ở trong nhà đóng kín”, bây giờ các ông “được sai đi”.
Việc phái các ông đi thi hành nhiệm vụ không hẳn được coi dưới góc độ của một tổ chức nào đo. Đây không phải là một bảng quảng cáo được dựng lên. Đức Giêsu cũng không nhắm đến những công cụ thực tiễn mà Giáo Hội sẽ tìm ra được để truyền giáo. “Chỉ có một điều quan trọng đối với Người: Nguồn gốc của sứ mang này. Đó là “mối liên hệ mật thiết kết hợp Đức Giêsu với Chúa Cha”. Nói cho cùng, chỉ một sứ mạng: Sứ mạng của Chúa Cha, cũng là sứ mạng của Chúa Giêsu, và trở thành sứ mạng của Giáo Hội.
Nói xong Ngươi thổi hơi vào các ông.
Ở đây Thánh Gioan dùng ngôn ngữ của Thánh Kinh, ám chỉ đặc biệt đến hai đoạn văn nổi tiếng:
+ Sự tạo dựng lúc đầu: “Chúa thổi vào mũi (của Adong) hơi thở sự sống”(St 2,7).
+ Sự tạo dựng sau cùng: “Hãy thổi lên đống xương khô này và chúng sẽ sống lại”(Ed 37,9).
Đã có một sự tạo dựng trong quá khứ, sự phát sinh sự sống vào lúc khởi đầu thời gian; và sẽ có một sự tạo dựng trong tương lai, sự sống lại cuối cùng, vào ngày kết thúc. Nhưng cũng có một sự tạo dựng luôn luôn hiện thực: “Hơi thở” của Chúa vẫn đang tác động. “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống”.
Hơi thở sự sống! Các bạn không nhận thấy sự tài tình khi mô tả sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Người trong thế giới bằng việc thông thường và căn bản nhất là “thở” sao?. Tất cả những sinh vật đến những dã thú to lớn, tất cả đều thở bằng khí oxy, được ban cho chúng ta trên hanh tinh này, và chính tôi cũng đang thở hơi thở của những sinh vật. Đây là một hình ảnh cảm kích của Thiên Chúa duy nhất. Đấng làm cho chúng ta sống! Với Nicôđêmô, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh đơn giản này: “Gió thổi đến nơi nào nó muốn và làm cho người ta sống” (Ga 3,6-8).
Anh em hãy lãnh nhận
Tôi cầu nguyện với những lời này. Tâm thức con người ngày nay không thích “nhận lãnh”. Người ta khước từ, không muốn lệ thuộc kẻ khác. Đó là điều tội lỗi nhất: cao vọng được như “thần thánh”. Nhưng điều đó không thuộc quyền con người. Dù muốn dù không con người vẫn phải lệ thuộc và hoàn toàn lệ thuộc: Để sống con người phải nhận sự sống. Tôi nhận sự giúp đỡ cua cha mẹ tôi, tôi nhận sự sống từ không khí tôi thở. Tôi tùy thuộc hàng ngàn sự vật, hàng ngàn con người, hàng vô vàn điều kiện khác.
“Anh em hãy nhận lãnh Chúa Thánh Thần”.
Chúng ta phải nhận lấy “Chúa Thánh Thần”. Lạy Chúa xin cho chúng con biết đón nhận những ân huệ Chúa trao ban: Chúa Thánh Thần.
Nhân loại phải đón nhận mối thông hiệp Thần Khí giữa Chúa Cha và Chúa Con. Nhiều nhưng chỉ một. Như thế, chúng ta nhận ra rằng, trong sứ vụ của Giáo hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Chúa Cha sai đến, mà là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Theo Công đồng Vatican II, Giáo Hội là sự quảng diễn cho con người nhận biết cộng đồng tình yêu liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa
Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.
Vai trò và nhiệm vụ của Giáo Hội là loan báo sự tha thứ và ơn cứu rỗi. Sự tiến triển trong trang Tin Mừng này của Thánh Gioan thật là cảm kích. Một cộng đồng con người có kinh nghiệm của người được sống lại. Từ kinh nghiệm đó sai gởi cộng đồng này đi làm nhiệm vụ. Sự trao ban Chúa Thánh Thần giúp cho sứ mạng này có thể được thi hành. “Sứ mang” này là để loan truyền sự cứu rỗi - sự tha thứ – sự thánh thiện.
Như vậy vai trò của Giáo Hội là giải thoát! Là cống hiến cho con người tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Nói cách khác, về mặt tiêu cực, rõ ràng vai trò đó không có nghĩa là Giáo Hội có thể hành xử một thứ quyền võ đoán. Không bao giờ đặt câu hỏi: “Chúa có tha thứ cho tôi không?” Thập Giá của Đức Giêsu đã trả lời cho vấn nạn đó rồi. Nhưng câu hỏi luôn phải nêu lên là: “Tôi có lãnh hận ơn tha thứ đó không?”.
133. Chú giải của Fiches Dominicales.
ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH BAN THÁNH THẦN
CHO CÁC MÔN ĐỆ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Từ ‘ngày đầu tuần’
Phần đầu của Phúc âm Chúa nhật này đưa ta đen "sau cái chết của Đức Giêsu, vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần ngày quy tụ phụng vụ của các Kitô hữu, thời gian thuận tiện để Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn mà Người quy tụ lại để chia sẻ Lời và Bánh, va để sai họ đi vào thế giới.
Các môn đệ quy tụ lại ở cùng một nơi: một kiểu nói mà thánh sử dùng để báo trước tính giáo hội của việc Chúa hiện ra mà ngài sắp tường thuật. Các cửa đều "đóng kín" vì "sợ người Do thái? Nỗi sự hãi cho đến lúc này vốn bao trùm những người Israel, đến nỗi họ không dám tuyên bố ủng hộ Đức Giêsu, thì từ nay còn là phận của các môn đệ thân tín của Chúa: các ông đang cảm nhận một tâm trạng lo âu sọ hãi mà lát nữa đây ơn bình an sẽ đối nghịch lại và khoả lấp hết.
Người ta dễ dàng nhận ra ba tiến trình đặc biệt của những lần gặp gỡ sau phục sinh: Đức Giêsu có sáng kiến (1), Người tự tỏ mình ra cho các môn đệ (2) người uỷ thác cho các ông một sứ mạng (3).
- Sáng kiến của Đức Giêsu:
+ Đức Giêsu "đến" như vậy là Người thể hiện lời đã hứa với các môn đệ trong bài diễn từ giã biệt: "Thầy sẽ đến cùng anh em" (14,18-28).
+ Người "đứng giữa các ông”, dịch sát nghĩa là "Người đứng dậy”, chuyển từ trạng thái đang nằm, ý nói là chết sang tư thế thẳng đứng của Đấng phục sinh.
+ "Chúc anh em được bình an". Đó là những lời đầu tiên Đấng-hằng-sống gởi cho các môn đệ của Người đang tu họp. Đây không phải chỉ là lời chào hỏi thông thường "Shalom" của những người Do thái khi gặp nhau. Càng không phải là lời cầu chúc suông, nhưng là ơn huệ mang hiệu quả thực sự của Bình an, đúng như lời Chúa hứa: "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy; Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng" (14.27).
Các môn đệ nhận biết Chúa.
Đức Giêsu cho họ xem "tay và cạnh sườn Người" (đối chiếu với ngọn giáo của Gioan 19,34). Chắc chắn từ nay đã qua rồi thời gian người hiện diện thể lý, nhưng Đấng đang đứng giữa họ lúc này vẫn là Đức Giêsu, nghĩa là cũng vẫn là Đấng mà họ đã thấy chết và được mai táng, nhưng từ nay đã biến hình đổi dạng nhơ mầu nhiệm Phục sinh. Và trong cái "nhận Thầy" do lòng tin ban cho, các môn đệ "tràn đầy niềm vui" niềm vui bất tận và Chúa đã báo trước cho các ông: "Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng và niềm vui của anh em không ai lấy mất được" (16,22).
Trao phó sứ mạng:
Việc các môn đệ được gặp Đấng-đang-sống, cùng nhận ra Đấng đã trải qua và chiến thắng vẻ vang cơn thử thách của cái chết trên thập giá, không phải là đã hoàn tất. Cuộc gặp gỡ ấy giờ đây khai mở một sứ mệnh.
+ Sau khi đã làm mới lại ơn bình an: "Chúc anh em được bình an!”.
+ Đức Giêsu "thổi hơi vào các ông", làm lại cử chỉ ban đầu khi tạo dựng con người, giống như trong Sáng thế ký 2,7: ơ đây hành động này càng ám chỉ rõ nét là hành động sáng tạo của Chúa, nhất nữa vì đây là lần duy nhất Tân Ước sử dụng cách diễn tả của bản văn Sáng thế ký.
Đúng là một cuộc tạo dựng mới. Đức Giêsu vinh hiển thông ban Thần Khí tái sinh cho con người. Khi cho họ được chia sẻ sự hiệp thông với Chúa. "Như (chữ ‘Như' ở đây không phải chỉ là một so sánh, nhưng ám chỉ một nền tảng, một liên hệ sâu xa) Chúa Cha đã sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em”.
+ Và nếu các môn đệ được sai đi, chính là để loan báo cho ‘mọi người tin mừng về ơn tha thứ của Thiên Chúa’. X. Leon- Dufour giải thích: "Tha/cầm giữ ” lối văn chương Do thái dùng một cặp từ trái nghĩa nhau để diễn tả một sự trọn vẹn ở đây cách diễn tả ấy có nghĩa là trọn vẹn quyền thương xót được đấng Phục sinh trao ban cho các môn đệ. Thể văn thụ động diễn tả hiệu quả đạt được đều ngụ ý rằng chính Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn tha thứ, cách dùng thì (động từ) ở quá khứ hoàn thành có nghĩa là ơn tha thứ của Chúa là yếu tố quyết định. Người ta sẽ có thể giải thích một cách rộng rãi là khi cộng đoàn tha thứ, thì chính Thiên Chúa tha thứ vậy. (Lecture de l'evangile se lon Jean. quyển IV, Seuil. tháng 11/1996, trang 241).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) Trái tim Chúa Cha, nguồn mạch sứ vụ truyền giáo
(Đức Cha L.Daloz, trong "Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người", DDB, trang 251-252).
Gioan đã xác định thời điểm cuộc gặp gỡ giữa Chúa phục sinh với các môn đệ là chiều ngày thứ nhất. Ngày phục sinh, ngày tạo dựng mới ngày "Chúa nhật"thứ nhất của các Kitô hữu. Đức Giêsu lướt qua những cánh cửa khoá chặt vì sợ hãi, - Người "đến" như đã hẹn và biến đổi sợ hãi thành vui mừng: "Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con" (14,18). Thế là niềm tin đã trào tuôn trong trái tim hai tông đồ chạy đến mo. Thế là Maria Madalena đã loan báo sứ điệp nhận được trong vườn. Và bây giờ chính Đức Giêsu, sau cơn đau đớn, đem đến bình an, thứ bình an mà không ai còn có thể mong ước gì hơn: "Bình an cho các con”. Những vết thương của Đấng chịu đóng đinh trở thành những dấu chỉ để nhận biết Đấng Phục sinh: "Người cho họ xem tay và cạnh sườn Người”? Các lời hứa được ứng nghiệm. Sau cái chết đau thương, giờ đây là tràn đầy niềm vui: "Thầy nói điều ấy với cac con để niềm vui của Thầy ở trong các con và để niềm vui của các con được trọn vẹn" (15,11).
Niềm vui của Tin Mừng này cần phải toả lan khắp vũ trụ, phải mở tung khoá cửa, ra đi khắp thế giới. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, Gioan khơi nguồn sứ mệnh truyền giáo nơi mặc khải của Đức Giêsu phục sinh. Thánh sử lội ngược lên tận ngọn "nguồn, đến trái tim Chúa Cha, Đấng muốn bày tỏ tình thương của Người cho mọi người: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Các môn đệ tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu. Vì giờ đây Người đã được tôn vinh, Chúa Thánh Thần có thể châu lưu trong họ như những dòng sông mang nước sự sống, như hơi thở sáng tạo bắt đầu hoạt động để tử những bộ xương khô xuất hiện một dân tộc mới: “Người thổi hơi trên các ông và bảo: hãy nhận lãnh Thánh Thần. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, trong quyền năng phục sinh, các môn đệ tụ tập được cắt đặt đi phục vụ ơn cứu độ cho anh em mình. Khi loan báo Tin Mừng, Người đặt mỗi người trước trách nhiệm của mình, và trao cho họ quyền giải phóng: "Các con tha tội cho ai, kẻ ấy được tha, các con cầm buộc ai, người ấy bị cầm buộc”. Buổi chiều phục sinh ấy là bước ngoặt lịch sử: đó đã là lễ Ngũ Tuần, và Giáo Hội khai sinh! Cùng với Đức Giêsu, cả thế giới bước vào bình minh của sự sống lại.
2) “Bổn phận của tín hữu”
("Thư các Đức Giám mục gởi người Công giao Pháp", Cerf, trang 25).
Dù là Kitô hữu và có lời giải đáp chân lý và sự sống, ta vẫn chia sẻ số phận chung của những con người ở xã hội ta. Chính vì thế sứ mạng và trách nhiệm trao cho ta trong thế giới này không thể cho ta niềm tự mãn, càng không cho ta phương tiện nhìn thế giới từ trên cao làm như thể ta vượt trên thế giới.
Như thế, ta được mời gọi rà soát lại tính chất mới mẻ của ân ban Thiên Chúa, của chiều sâu nội tâm đức tin cua ta khi sống trong cái xã hội đầy biến động này.
Như thế, ta được mời gọi tự mình đi kín múc nơi nguồn suối đức tin lòng can đảm và niềm hy vọng thiết yếu để đảm nhận những trách nhiệm mà không sợ hãi, không e dè.
Như thế, ta được mời gọi rao truyền Tin Mừng không như một chương trình đi ngược lại văn hoá, xã hội, nhưng như một tiềm năng đổi mới mời gọi con người, tất cả mọi người đi lên tới nguồn sự sống.
Nói cách khác, đòi hỏi phúc âm hoá là một lời mời gọi mà ta có bổn phận phải lắng nghe vì ta phải tìm và phải thấy trong Tin Mừng và trong nhân cách Đức Kitô, hiệp thông với Giáo Hội, những điểm tựa và những điểm qui chiếu có mặt vừa trong hiện hữu của ta, vừa trong những bất ổn của xã hội.
3) Tin vào Chúa Thánh Thần, trước những thách đố mà Giáo Hội phải đương đầu trong thế giới ngày nay.
("Célébrer", tạp chí của Uỷ ban quốc gia về Phụng vụ, số 268. trang 18).
Ba bài đọc đã thống nhất nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, tại sao không đề nghị với cộng đoàn một hành vi đức tin vào Chúa Thánh Thần, trước những thách đố mà Giáo Hội phải đương đầu trong thế giới hôm nay? Ba trong các thách đố nên lưu ý: Sự năng động truyền giáo trong một Giáo Hội cần tập trung lực lượng vào mục vụ.
Sự độc đáo của một đời sống dưới tác động của Chúa Thánh Thần, trong một xã hội mà sự phân định các giá trị chân thực ngày càng tăm tối hơn. Ta sẽ chú ý rằng sự tiến bộ thiêng liêng trước hết không hệ tại nhìn ngắm chính mình, nhưng do ở phó thác cho Chúa Thánh Thần.
Sự ngoan ngoãn đối với Thánh Thần chân lý, nhân tố tự do và tiến bộ, trong một thế giới mà những phong trào bảo thủ tôn giáo và những phong trào chính thống quá khích khác nhau đang gào thét.
134. Chú giải của Fiches Dominicales
NGÀY ĐẦU TIÊN CỦA TẠO THÀNH MỚI ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH THỔI HƠI VÀO CÁC MÔN ĐỆ VÀ BẢO ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN
1/ Đấng Phục sinh chủ động đến.
Các môn đệ tụ họp trong một căn phòng đóng kín cửa. Họ sợ người Do Thái, đúng hơn, sợ các vị chức sắc trong giáo quyền Giêrusalem. Với chi tiết này, có lẽ tác giả muốn các độc giả Tin Mừng của mình liên tưởng đến các cuộc bách hại mà tới lúc này đã lan rộng. Bị trục xuất khỏi hội đường vì dám tin nhận Chúa Giêsu là Đức Kitô (người mù bẩm sinh bị đuổi khỏi hội đường: Ga 9,34). Họ như dần dần được chỉ dẫn đức tụ họp ở một nói riêng tránh sự dòm ngó của những kẻ bách hại họ.
Họ tụ tập. Đức Giêsu đến trước mặt họ. Lời đầu tiên Người nói là lời cầu chúc bình an: Bình an cho anh em (Shalom). Không chỉ là lời chào xã giao, nhưng là một xác nhận ân huệ phát sinh: vui mừng, bình an.
2/ Nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết rõ người đã chết.
Đức Giêsu chỉ cho họ thấy tay và cạnh sườn Ngươi (liên tưởng tới lưỡi giáo đâm: Ga 19,34). Alain Marchadour chú giải rằng: Dù thuật lại những lần hiện ra lạ lùng của Đức Giêsu, thì những vết đinh đóng và cạnh sườn bị đâm thủng chứng tỏ rằng thánh sử không muốn độc giả lầm tưởng đó là bóng ma, nghĩa là, một ai khác chứ không phải Đấng chịu đóng đinh. Đúng ra, sự hiện diện thể lý thông thường đã chấm dứt, nhưng Đấng đã hiện diện trước mặt họ đây, chính là Đức Giêsu họ biết là yêu mến, từ nay đã thăng hoa bởi sự phục sinh. Không sợ hãi nữa, các tông đồ trở nên vui mừng" ("L'evangile de Jean, Centurion". trg 246).
3/ Tiếp nhận sứ mệnh Đấng Phục sinh trao.
Đấng Phục sinh hiện đến, không phải chỉ là một chuyến ngao du, nhưng còn để trao một sứ mệnh. Sai họ đi với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Để đem Tin Mừng ơn Tha Thứ của Thiên Chúa đến cho mọi người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một hơi thở nhẹ như làn gió thoảng.
Làm thế nào mà một hơi thở từ cửa miệng lại có thể trở thành cơn bão trong lịch sử? Người ta sẽ không bao giờ nói cho hết được về làn gió thoảng đổi mới vũ trụ này. Từ buổi bình minh của vũ trụ, nó đã lên tiếng ngợi ca làm bừng lên dòng nhựa sống đầu tiên. Ngon sứ Êdêkiel đã trông thấy nó làm sống lại cả một cánh đồng đầy xương khô: đó là hình ảnh dân tộc bị lưu đày biệt xứ và bị hạ nhục vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Và giờ đây, Đức Giêsu đang mấp máy môi, dường như để ban cho các bạn hữu của Người đang hoảng sợ một linh hồn khác: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Chính Thần Khí này đã bay lượn trên làn nước nguyên sơ, đã vực các ngôn sứ đứng lên, đã đánh thức cả một dân tộc đang mê ngủ. Trong ngôn ngữ Hípri. từ Thần Khí thuộc giống cái. Dường như hơi thở của Thiên Chúa có chức năng từ mẫu là sinh sản một nhân loại tương lai, tương lai mà Người muốn cho họ được hưởng.
Hiệu quả của nó thật la khôn lường và ấm áp. Còn đâu nữa cánh cửa cài then vì sợ hãi. Nhưng bình an đang tỏa lan trên những khuôn mặt. Bình an vì không còn chinh chiến. Bình an của tâm hồn. Họ ra đi người này đến với người kia như những người đươc Thiên Chúa sai đi, giống như chàng thợ mộc thành Nadarét xưa đã chứng tỏ tình thương của Chúa Cha bằng những việc làm đầy tình thương xót. Họ sẽ mạnh hơn cả tội lỗi vốn làm méo mó, ti tiện và xuyên tạc hình ảnh con Ngươi. Vì Thiên Chúa đã ban cho họ năng lực biến đổi của Người là ơn tha thứ, một sức mạnh lạ lùng nhất của vũ trụ, có thể biến đổi những con người lúc này và mãi mãi muôn đời.
Họ sẽ không quên những thương tích của Đấng Công chính bị tử hình vì dòng họ đi đôi khi sẽ là gian khổ. Họ sẽ không quên lời Người nói vì như lời Người, men của họ sẽ làm dậy các tâm hồn. Họ sẽ không quên các việc Người làm, vì nhờ đó, họ sẽ lay chuyển và luôn thúc đẩy mọi người, mọi nhóm, mọi xã hội lại cất bước lên đường. Không hoàn cảnh thực tế nào sẽ làm cho những hạt giống này chết đi và làm tiêu ma sự bảo đảm của Thiên Chúa. "Các môn đệ lòng đầy hân hoan”.
Liệu chúng ta có biết lắng nghe và cảm nhận luồng hơi thở nhẹ như gió thoảng kia là sự sống của Thiên Chúa chăng?
2. Người Canh tân bộ mặt địa cầu:
Thần Khí luôn luôn đi đôi với những gì là đổi mới, là tái tạo là cởi mở và giải thoát, là sai đi và qui tụ. Người là tác nhân không mệt mỏi luôn canh tân và hiện tại hóa mọi sự. Từ một đám đông gồm nhiều thành phần khác nhau, Người làm nẩy sinh và khơi dậy sự hiệp nhất và cả tình hiệp thông.
Là nguồn sự sống không bao giờ cạn kiệt, Thần Khí không ra khỏi thế giới sau hành động ban đầu còn ghi trong sách Sáng thế. Và cũng vậy, sự can thiệp "ồn ào" của Người nơi các môn đệ hoảng sợ đến tê liệt, không phải là lễ Hiện Xuống duy nhất và cuối cùng, chỉ gợi cho lòng ta luyến tiếc mỗi khi nhớ lại mà thôi Thiên Chúa không ngừng gởi hơi thở của Người đến và ta vẫn còn có thể nghe biết Người, tuy không biết hơi thở từ đâu đến và sẽ đi đâu. Thế nhưng, người ta có thể cảm nhận rõ sự hiện diện và hoạt động của Người đem lại hiệu quả thực sự. Thần Khí mở toang mọi cánh. Người làm cho người ta phải bung ra khỏi những bức tường khép kín và giã từ những tổ ấm được coi là an toàn, vững chắc và đạo đức phô trương.
Thần Khí đánh thức, chỉ trích và uốn nắn. Người dứt ta ra khỏi niềm luyến tiếc về quá khứ, khỏi nỗi nhớ nhung tìm lại "thiên đường đã đánh mất" để hòa nhập với hiện tại luôn biến chuyển như bãi phù sa, cho lòng ta tràn đầy hy vọng để chuẩn bị cho ngày mai. Thần Khí làm trẻ lại những con người trì trệ, khiến người bại liệt đứng dậy và chạy nhảy. Người ban cho những ai bị suy sụp tinh thần vì thứ tôn giáo sợ sệt, vì thứ lề luật cứng ngắc và mù quáng và vì những mớ giáo lý khô khan, tìm lại được can đảm, mạnh bạo về niềm vui. Thần Khí dẫn ta vào cốt lõi của Thiên Chúa, và của con người: tức là chân, thiện, mỹ, nghĩa là mối quan hệ hoàn hảo, sự truyền thông thành công, sự hiệp thông. Thần Khí không phải là Thiên Chúa tự hiến mình đó sao? Và hoa quả đầu tiên mà người đem đến cho kẻ tiếp nhận Ngươi, không phải là đức ái đó sao?
Cũng phải kể là dấu chỉ của Thần Khí, khi tính đồng nhất nhường chỗ cho sự hiệp nhất, khi tính đa dạng được canh tân nhờ những ân huệ và đặc sủng, nhờ những chức năng và hoạt động, đẩy lui được những cám dỗ muốn thống trị và độc quyền, tính cạnh tranh là ghen tuông, tính tự tôn và những phán quyết không thể thay đổi. Thần Khí là sự dịu hiền và là sức mạnh, là nước và ánh sáng, là quyền năng và êm ái. Người là tiếng thì thầm và là gió bão, là lửa cháy. Người canh tân bộ mặt trái đất.
3. Chúa Thánh Thần hiện tại hóa sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong đời sống Kitô hữu.
Đức Giêsu hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cho các môn đệ, khi Người “vượt qua” trần thế để về cùng Cha, như vậy chắc hẳn ân huệ của Thánh Linh liên hệ rõ rệt với mầu nhiệm vượt qua. Tiếp nối sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, giờ đây là một quan hệ khác với người, quan hệ trong Thánh Thần, Đấng được mô tả như là:
- "Paraclet", Đấng bảo trợ, bênh vực nơi tòa án trong vụ kiện chống các nhân chứng, giống như Đức Giêsu.
- "Thầy chân lý", giống như Đức Giêsu, chứng nhân của chân lý (18,37). Người được Chúa Cha ban "để ở với anh em luôn mãi" và ở với mọi người được sai đi. Thánh Linh như chính Đức Giêsu, hiện diện bên các môn đệ suốt thời kỳ của Hội Thánh.
Hoạt động của Người nơi các tín hữu được mô tả là:
- Người là tác nhân tạo nên sự trung thành với Lời của Đức Giêsu và Tình yêu của Người.
- Người là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện: "Chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy".
- Người dần dần dẫn dắt họ tới sự hiểu biết đầy đủ sứ điệp của Đức Giêsu: "Người sẽ giúp anh em nhớ lại mọi điều”. Với tư cách Đấng Bảo Trợ, là Hiện diện, là Ký ức, Thần Khí hiện tại hóa sự có mặt của Đấng Phục sinh trong cuộc sống người Kitô hữu.
135. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
HƠI THỞ KHAI SINH GIÁO HỘI
CÁC MÔN ĐỒ TỤ HỌP (20,19-23)
Làm môn đồ là có một sứ mệnh: chúng ta đã biết điều ấy qua diễn từ giã biệt (13,16.20; 15,1-8). Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế gian, nay thành sự hiện diện trọn vẹn của Thiên Chúa, phải được các môn đồ nối dài. Tin Mừng Nhất lãm cũng đề cập đến những lần Chúa Giêsu hiện ra cho các nhóm môn đồ: chính lúc bấy giờ Người giao sứ mệnh cho họ (Mt 28, 16-20; Lc 24,47-49; Mc 16,15: không xác thực; xem Cv 1,8).
Nơi Gioan, cuộc hiện ra cho mấy môn đồ đang tụ họp nằm vào chính chiều ngày thứ nhất trong tuần. Các ông tụ họp đâu đó tại Giêrusalem. Về sau chúng ta sẽ biết là Tôma không có mặt lúc ấy. Mọi cửa đều đóng kín vì họ còn bị ám ảnh bởi nỗi sợ người Do thái.
Nhưng không gì ngăn chận được Đấng Phục sinh. Cách thức hiện hữu mới của Người chẳng còn bị chướng ngại vật chất nào cản trở. Chúa Giêsu đột nhiên đứng giữa họ. Trình thuật Luca 24,36-49 rất giống với trình thuật Gioan ở chỗ này. Các môn đồ thoạt tiên kinh hãi rồi được Chúa Giêsu trấn an. Người không nói như ngày xưa: Chính Ta đây... (6,20), vì sự hiện diện của Người từ nay thuộc một trật tự khác, sự hiện ấy đem lại bình an (14,27) và vui mừng (16, 20-24; 17,13). Lời chào theo thói quen: Bình an cho các con! ở đây vượt quá ý nghĩa thông thường của nó. Chúa Giêsu chúc và ban cho họ một sự bình an và một niềm vui đặc biệt, khả dĩ giup họ thắng vượt cớ vấp phạm thập giá và những âm hưởng của nó trong cuộc đời họ (14,17).
Vì không có vấn đề quên! Bởi thế Chúa Giêsu trỏ cho xem các dấu vết Tử nạn của Người. Nơi Lc 24, 36-49, Chúa Giêsu đưa tay và chân chứ không đưa cạnh sườn, vì Luca đã chẳng nói đến nhát lưỡi đòng trong trình thuật Tử nạn của ông; vả lại trình thuật của ông chú tâm đến thực tại Phục sinh hơn: các môn đồ đã không thể chỉ tin vào lời nói của mấy người đàn bà, họ chỉ tin khi Chúa Giêsu hiện ra cho Phêrô và sau đó trỏ cho các sứ đồ còn đang sợ hãi xem tay chân của người cùng bắt đầu ăn trước mặt họ. Và kết luận của Lc là Người đã sống lại thực. Nơi Gioan, Chúa Giêsu đưa tay và cạnh sườn Người trong cùng mục đích ấy: chúng ta không đứng trước một hồn ma một sản phẩm của trí tưởng tượng đâu? nhưng đồng thời thánh sử muốn nhấn mạnh rằng sự phục sinh giả thiết phải có thập giá. Thap giá không thể loại trừ khỏi tư tưởng, phủ nhận như một giấc mộng hãi hùng. Cầu mong họ được bình an, thứ bình an trước hết liên hệ tới Người (16, 33) để họ học hiểu thập giá theo Kitô giáo!
Sau đó, mặc dầu thấy các môn đồ tràn ngập vui mừng, Người cũng lặp lại một lần nữa: Bình an cho các con! Việc lặp lại này chứng tỏ đây không phải là một công thức thông lệ, đồng thời cho thấy bình an được cầu chúc là thứ bình an tích hợp mọi dau vết của cuộc Tử nạn, và như thế vượt quá bình an thông thường. Niềm đau chia ly không thể biến thành một nỗi mong thoáng qua, quên đi cuộc Tử nạn. Không, nỗi đau đó phải trở nên một niềm vui bền vững, nhờ đau khổ mà chín mùi, niềm vui của Chúa Giêsu cũng như niềm vui của họ, niềm vui không một ai cướp mất (16, 20-22). Niềm vui ấy là niềm vui của mùa gặt phát sinh từ nỗi gian khổ, cơ cực cửa Tử nạn (4,38; 17,13). Thật vậy, Chúa Giêsu giơ đây đến trao cho họ sứ mệnh Cha đã giao phó cho Người: Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các con. Các hạn từ gần giống như trong lời nguyện thượng tế (17, 18). Chúa Giêsu ra đi, nhưng thực tại thần linh mà Người mang tới và hien thân, vẫn ở trong họ và bên họ. Phận sự của họ là từ nay mang nó đến cho thế gian còn bỏ hoang. Cảnh này quả tóm tắt và thể hiện tư tường của diễn từ giã biệt vậy (x.Mt 28, 19- 20).
Nhưng nếu đã phải có phần khí trợ giúp, các môn đồ mới hiểu được "chân lý", thì huống là việc làm cho kẻ khác hiểu, họ lại cần Ngài phụ lực biết bao. Như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống vào con người đầ u tiên (St 2,7; Kn 15, 11), hôm nay Chúa Giêsu cũng thổi Thần khí vào các môn đồ để tái tạo họ cho sứ mệnh mới. Việc tuôn đổ Thần khí ở đây không hẳn có nghĩa là việc tái sinh họ trong Nước Thiên Chúa và trong sự sống (3, 3-8) cho bằng là chỉ sứ mệnh đã trao cho họ: sứ mệnh đem bao kẻ khác vào chính sự sống này.
Vì cùng với Thần khí, họ được ban quyền tha và cầm giữ tội trong Lc cũng vậy (24,47), việc loan báo đức tin có mục tiêu tha tội và có đối tượng là mọi dân nước. Trong Mt 16, 19, quyền trên được hứa cho Phêrô; trong Mt 18, 18, quyền năng cởi buộc ấy được ban cho Giáo hội. Thuật ngữ pháp lý bao hàm cả quyền phán xét. Nơi Gioan 20,23, cầm giữ đối nghịch với tha thứ (Mc 7,8; x.Hc 28, 1: diatôrein). Trong tư tưởng thánh sử, quyền này là một tia sáng chói lọi của Con Người (Mc 2, 5 và ss; Lc 7, 47- 48), Đấng từ nay được đặt làm thẩm phán (Ga 3, 19; 5, 27; 9, 39; 12, 31- 32; 17, 2). Thành ra các môn đồ nhận được ở đây một quyền xét xử thật sự; họ tham dự quyền tài phán cánh chung của Con Người là Chúa Giêsu. Thế thật hữu lý khi Giáo hội coi lời Chúa Giêsu nói đây như nền tảng của quyền tha thứ tội lỗi bằng bí tích cáo giải. Nhưng tại sao thanh sử, mà trọng tâm tư tưởng là việc mặc khải, định nghĩa ở đây sứ mệnh các môn đồ bằng quyền xét xử chứ không bằng việc loan báo lời (17, 9- 21)? Người ta có thể ngạc nhiên về điều đó. Nhưng chắc chắn là Gioan ghi lại những lời của chính Chúa Giêsu. Trong Lc 24,47, Chúa Giêsu không nói đến việc tha tội; trong Mt 28,18 thì Người để ý tới quyền phổ quát và thần linh của mình. Như đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu (9,39), việc rao giảng Tin Mừng đem lại sự chia rẽ trong thế gian. Các môn đồ được công bố là có thẩm quyền phân biệt xem ai đáp lại sứ điệp; họ được quyền phán xét sau cũng như trước khi người ta lãnh phép rửa tội. Dĩ nhiên quyền này không độc lập với việc rao giảng, vì xét cho cùng chính "chân lý” mới giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi (8,32-34) và biến cải nên tinh tuyền (13, 10; 15,3). Lc 24,47 nhấn mạnh rnối dây liên kết chặt chẽ việc công bố đức tin.và quyền xét xử nhưng xem ra thiên về điểm đầu hơn. Trong Mt 28, 18- 20 quyền được trao ban bao gồm việc loan báo đức tin, quyền thanh tẩy và trông coi việc giữ các giới luật. Tư tưởng Gioan đặc biệt nhấn mạnh đến quyền tài phán của các môn đồ, được xem như một tia sáng của quyền Con Người.
Người ta tự hỏi tại sao Thần khí đã được ban cho các môn đồ ngay từ Phục sinh, trái ngược với cảm thức của cộng đoàn Kitô giáo sơ khai là đặt việc tuôn đổ Thần khí vào lễ Ngũ tuần (Cv 2, 1-4). Luca chỉ nói đến một lời hứa sẽ được thực hiện vào lễ Ngũ tuần. Nhưng ông có thể đưa về phần thứ hai của tác phẩm mình, tức sách Cv.; còn Gioan thì không. Vậy phải chăng ta có thể coi Thần khí như một sản phẩm có điều kiện? Được ban theo lượng theo liều? Thật ra, việc chia sẻ Thần khí được thực hiện từ từ. Ngài đâu phải là một chân lý tĩnh, đặt trong túi như một đồ vật đáng giá. Đối với Kitô hữu, thần khí là sự sống tuyệt hảo. Ngài không ngừng được phân phối, vào lễ Ngũ tuần và sau đó trở đi. Việc tuôn tràn vào lúc Phục sinh, Hiện xuống và sau đó đều là những dấu hiệu của cùng một thực tại mà, từ lúc Chúa Giêsu được tôn vinh (7,37-39), đã cách mạng cả thế giới. (3, 3-8). Lối phân biệt việc ban Thần khí vào lúc Phục sinh và Hiện xuống chỉ là thứ yếu, nhất là đối với Gioan, vì theo ông, hai biến cố đều thuộc về cùng một Giờ. Tất cả mọi cuộc tuôn đổ Thần khí chỉ là một. Ngày Phục sinh, các môn đồ nhận được Thần khí để chuẩn bị sứ mệnh; Thần khí ấy trở lại trên họ khi dân mới của Thiên Chúa được thiết lập (Cv 2, 1-4); sau đấy Ngài còn tiếp tục giúp đỡ họ không cùng.
Gioan chẳng kể lại ChúaGiêsu giã từ thế nào và môn đồ phản ứng ra sao, không phải vì ông muốn qua đó ngụ ý sự hiện diện thường xuyên của Chúa Giêsu nhờ Thánh Thần (Ga 16,7; x. Mt 28,20) nhưng vì muốn tuân theo một cơ cấu văn chương; phản ứng của Maria Mađalêna sau cuộc hiện ra cũng bỏ qua không bàn đến.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Khi công trình Chúa Cha trao phó cho Chúa Con thực hiện trên trần gian đã hoàn tất (x. Ga 17,4), Chúa Thánh Thần được phái đến trong ngày lễ Ngũ tuần để thánh hoá Giáo hội mãi mãi, và như thế những ai tin sẽ được tới cùng Chúa Cha qua Chúa Kitô trong Giáo hội duy nhất (x. Ep 2,18). Chính Ngài là Thánh Thần ban sự sống, là mạch nước vọt lên vĩnh cửu (x. Ga 4,14; 7,38-39); nhờ Ngài, Chúa Cha hồi sinh những kẻ đã chết vì tội lỗi, đợi đến phục sinh thân xác hay chết của họ trong Chúa Kitô (x. Rm 8,10-11). Chúa Thánh Thần ngự trị trong Giáo hội và trong tâm hồn các tín hữu như ngự giữa đền thờ (x. 1Cr 3,16). Trong họ, Ngài cầu nguyện và chứng nhận họ là dưỡng tử (x. Gl 4,6; Rm 8,15). Ngài dẫn đưa Giáo hội bằng muôn ơn theo phẩm chức và đoàn sủng; trang điểm Giáo hội bằng hoa quả của Ngài (x. Ep 4,11-12). Nhờ sức mạnh Tin mừng, Ngài làm tươi trẻ, không ngừng canh tân và dẫn đưa Giáo hội đến kết hợp hoàn toàn với Phu Quân mình. Thực vậy, Chúa Thánh Thần và Hiền Thê nói cùng Chúa Giêsu Kitô rằng: "Xin hãy đến" (x. Kh 22,17) (trích Hiến chế về Hội Thánh số 4).
2) Từ nay Chúa Kitô hoạt dộng trong lòng con người nhờ quyền năng Thánh Thần của Người, không những bằng cách khơi dậy những khát vọng đời sau, nhưng còn từ những khát vọng đó cổ vũ, tinh luyện và củng cố những ước vọng quảng đại thúc đẩy gia đình nhân loại biến cải cuộc sống của mình trở nên nhân đạo hơn và quy phục trái đất về cùng mục đích ấy. Quả thực ơn Chúa Thánh Thần tác động mỗi người mỗi khác: có những người được gọi làm chứng nhân tỏ tường cho sự mong đợi quê trời, bảo tồn chứng tá sống động trong gia đình nhân loại; một số khác được gọi để hiến thân phục vụ con người trong phạm vi trần thế, dùng sự phục vụ ấy chuẩn bị chất liệu cho Nước Trời. Ngài giải thoát tất cả để sau khi bỏ lòng vị kỷ và tập trung mọi năng lực trần thế cho cuộc sống con người, tất cả hương về ngày mai, ngày mai mà nhân loại sẽ trở nên của lễ đẹp lòng Thiên Chúa (Trích hiến chế Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 38).
136. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THẦN KHÍ CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
1. Vào chiều phục sinh, Chúa Giêsu đã hai lần chúc cho các tông đồ đang hội họp (có lẽ tại nhà Tiệc ly): “Bình an cho các con”, và giữa hai lần chúc này, Ngài tỏ cho họ thấy dấu đinh nơi chân tay và vết đâm cạnh sườn Ngài. Lời cầu chúc trước và sau khi nhắc lại cuộc tử nạn xem ra rất phù hợp với một ý hướng đặc biệt của Chúa Giêsu. Thật vậy, việc lặp lai lời chúc này cho thấy đây không phải là một công thức chào hỏi thông thường, như là thứ bình an hòa lẫn với các dấu vết cuộc tử nạn, và như thế vượt quá bình an thông thường. Nỗi đau khổ biệt ly không thể biến thành một niềm vui chóng qua làm ta quên mất cuộc tử nạn. Nỗi khổ đau ấy phải trở nên một niềm vui hằng cửu, được chín mùi trong đau khổ; đó là niềm vui của Chúa Giêsu cũng như của các môn đệ, thứ niềm vui không ai có thể cướp mất được (16,20-22). Niềm vui này là niềm vui của mùa gặt, kết quả của sức cần lao và khổ cực của cuộc tử nạn (4,38; 17,13).
2. Nếu phải có thần khí trợ giúp, các môn đệ mới hiểu được “chân lý” huống hồ để làm cho người khác hiểu chân lý, các ông phải cần đến thần khí dường nào nữa. Cũng như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống cho con người đầu tiên (St 2,7; Kng 15,11). Cũng vậy, Chúa Giêsu hôm nay thổi Thánh thần, hơi thở Thần linh cho các môn đệ (ruah trong tiếng Hy bá, và pneuma trong tiếng Hy lạp đều có nghĩa: hơi thở, gió). Giờ đây, họ được tái tạo để thi hành sứ mệnh. Việc trao ban thần khí ở đây không chủ yếu nói lên việc tái sinh các môn đệ trong nước trời và trong sự sống siêu nhiên (3,3-8), nhưng nhằm đến sứ mệnh được trao cho họ: sứ mệnh thôi thúc kẻ khác đến cùng chính sự sống ấy.
3. Tại sao Thần khí đã được trao ban cho các môn đệ ngay từ ngày Chúa phục sinh, trong lúc đó Giáo hội sơ khai cho rằng Thần khí được tuôn tràn trong dịp lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-4). Lc chỉ nói đến một lời hứa sẽ được thực hiện vào lễ ngũ tuần (Lc 24,49), nhưng ông đưa về tác phẩm thứ hai của ông là sach Cv, còn Gioan thì không. Như vậy thần khí phải chăng là một sản phẩm có điều kiện? hoặc thần khí được trao ban cách “nhỏ giọt”?
Đã có nhiều câu giải đáp. Sau đây là hai cách giải đáp khá hấp dẫn:
a. Theo một vài tác giả, thật là sai lầm khi muốn dung hòa Gioan và Cv, bằng cách giả thiết Gioan nói đến việc trao ban Thần khí lần thứ nhất, còn Lc nói đến việc trao ban Thần khí lần thứ nhì. Không có một dấu chỉ nào cho thấy hai tác giả cua hai tác phẩm này biết tới hoặc để ý tới vấn đề mà tác giả kia bàn đến. Và như tế người ta có thể nói mỗi tác giả đều mô tả cùng một biến cố: chỉ có một thần khí được Đấng phục sinh và lên trời trao ban cho các mon đệ. Nhưng hai tác giả phúc âm đã diễn tả cách khác nhau tùy khuynh hướng, thần học riêng của mỗi người. Chúng ta không thấy hiện tượng các tác giả trình bày khác nhau cùng một biến cố thuộc sứ vụ Chúa Giêsu đó sao? Đặc biệt Gioan và Cv chỉ định hai thời gian khác nhau cho việc trao ban cùng chính một thần khí không phải là một chướng ngại bất khả vượt. Như nhiều kẻ đã lưu ý, ngày giờ mà Chúa Giêsu hiện ra lần đầu tiên cho các môn đệ, theo Gioan ghi chép, chỉ có tính cách giả tạo, vì hình như Galilê mới là nơi được hẹn để hiện ra lần đầu tiên hơn là Giêrusalem (x. Mc 16,7 và Mt 28,7), và nếu vậy thì đương nhiên loại bỏ việc xem ngày chúa nhật Phục sinh như là ngày Chúa hiện ra lần đầu tiên. Còn sách Cv lại mang nhiều yếu tố biểu tượng trong việc chọn ngày lễ Ngũ tuần, vì Lc dùng (như là hậu cảnh) chủ đề giao ước Sinai, chủ đề mà ông sẽ nối kết với lễ ngũ tuần khi diễn tả việc thần khí đến. Dù sao, có thể Lc đã giữ lại một kỷ niệm xác thực về việc Thần khí lần đầu tiên đã hiện xuống trên cộng đoàn tiên khởi vào một ngày lễ ngũ tuần nào đó. Điểm đáng chú ý là hai tác giả đều đat việc trao ban thần khí sau khi Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha, dù hai ông đã quan niệm việc về cùng Cha cách khác nhau. Vì thế, với một ít lý do xác đáng, ta có thể nói Ga 20,22 trình bày “lễ hiện xuống” theo nhãn quan Gioan (Pêntêcôte johannique).
b. Cách giải đáp thứ hai theo một đường khác, có tính cách thần học hơn là chú giải. Một số tác giả quan niệm việc trao ban thần khí được thực hiện cách tiệm tiến. Thần khí không phải là một chân lý tĩnh, để trong túi như một đồ vật quí giá. Đối với tín hữu, Thần khí là sự sống tuyệt hảo. Ngài được trao ban không ngừng không những vào dịp lễ ngũ tuần, mà sau đó nữa. Việc tuôn tràn thần khí dịp phục sinh, Hiện xuống và các dịp sau đó đều là những dấu chỉ của cùng một thực tại đã biến đổi thế giới (3,3-8), từ khi Chúa Giêsu được tôn vinh (7,37-39). Việc phân biệt hai lần trao ban thần khí và lễ phục sinh và lễ ngũ tuần chỉ là phu tùy, nhất là đối với Gioan, vì theo ông, hai biến cố này phát xuất từ cùng một “giờ”. mọi cuộc tuôn đổ thần khí chỉ là một. Ngày phục sinh, các môn đệ nhận thần khí để thi hành sứ mệnh; Thần khí trở lại trên họ khi dân mới của Thiên Chúa được thiết lập (Cv 2,1-4) và sau đó Thần khí tiếp tục phù trợ họ.
Thật khó mà biết phải chọn lối giải thích nào. Dù sao đây là vấn đề phụ thuộc, vì những thế hệ Kitô hữu đầu tiên không mấy lưu tâm đến vấn đề, bởi lẽ họ thâu nhận vào trong kinh điển các sách linh ứng cả hai cách trình bày việc trao ban Thần khí.
4. Quyền tha tội và cầm tội trao ban ở đây cho các tông đồ và những người kế vị trong Giáo hội Đức Kitô, được diễn tả rõ ràng qua chính những lời của Chúa; mà truyền thống Kitô giáo luôn công nhận, chính những lời của Chúa; mà truyền thống Kitô giáo luôn luôn công nhận như là lời thiết lập bí tích cáo giải. Đó là điều đã được công đồng Tridentinô định tín (Ds 1670,1703) chống lại phái Luthêrô; những người này chỉ cho đó là quyền rao giảng sự tha tội cho các tín hữu hối cải ăn năn.
KẾT LUẬN
Cũng như đã được Cha sai, Chúa Giêsu sai các môn đệ vào trong thế gian để tiếp tục công việc của Ngài. Những lời nói của Ngài đây cũng chính là những lời Ngài đã dùng trong lời nguyện hiến tế ở chương 17 (c.8). Lần này nói cho các tông đồ, các lời ấy củng cố họ trong ơn gọi họ. Từ đây các ngài ra mắt với thế gian nhân danh Đức Kitô Phục sinh và trong quyền năng của thần khí.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Khi thông ban thần khí Ngài cho các tông đồ, Chúa Giêsu đã thổi hơi trên họ và phán: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Cử chỉ của Chúa Giêsu tiếp nối một trong những đề tài được ưa chuộng nhất trong Thánh Kinh: Thánh Thần, hơi thở của Thiên Chúa. Và có lẽ đây là hình ảnh minh bạch nhất để nói về Thần Khí: Ngài giống như luồng gió thổi.
Người ta không thấy gió, không biết nó đi từ đâu và ngừng lại chỗ nào. Dĩ nhiên, nhà khí tượng học có thể đưa ra cho chúng ta nhiều lý thuyết về việc phát sinh và tàn lụi của các trận bão. Nhưng người đang bị gió bão cuốn đi thì chỉ có một ấn tượng mình bị bao bọc bởi một cái gì huyền bí và mãnh liệt. Thật vậy, gió rít gào và gầm thét. Gió bẻ gãy, uốn cong và bứt tung. Chính gió chở mây, mang bụi. Chính gió tàn phá và làm cho đất được hoa màu. Đó là chủ tể của sự sống. Khi thì tưới mát, lúc thì đốt thiêu. Chúng ta không thấy được gió, chỉ nhận ra nó qua bao hiệu quả muôn vàn.
Hơi thở của thần Thiên Chúa cũng vậy, Ngài hung hăng len lỏi khắp nơi. Ngài bẻ gãy, bứt tung, tàn phá những gì trong chúng ta đang chống lại tình yêu (dĩ nhiên với điều kiện chúng ta chiều theo hoạt động của Ngài, vì Ngài bất lực trước tự do của con người từ khước) và Ngài cũng làm tươi mát, biến đổi nên phì nhiêu những tâm hồn phó thác cho hoạt động của Ngài. Hơi thở của Thiên Chúa không ngừng thổi trong tâm hồn chúng ta: ngọn gió của Thiên Chúa sẽ đưa chúng ta đến nhà Cha hay không là tùy chúng ta.
2. “Các môn đô mừng rỡ": nỗi vui mừng này là do việc thấy lại Chúa sau khi quá chán nản thất vọng. Họ đã hy vọng vào Chúa Giêsu, nhưng thập giá đã làm cho họ nản lòng, và này đây Ngài lại hiện ra sống động, niềm hy vọng lại được đảm bảo và củng cố. Nỗi vui mừng ngập tràn. Điều này nhắc lại cho chúng ta nhớ rằng Thánh Thần Chúa Giêsu ban là thần khí của niềm vui.
Tin mừng mở ra với một mầu nhiệm vui: Thánh Thần, ngay từ đầu cuộc hiện hữu nhân loại cùa Chúa Giêsu, đã tạo nên hai niềm vui lớn: Elizabet chị họ Đức Maria, nhảy mừng vì được Mẹ Đấng cứu thế viếng thăm; và Maria, dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần hát lên niềm vui của mình trong kinh Magnificat. Ít lâu sau đó, các thiên thần loan báo cho các mục đồng một cuộc đản sinh gây bao phấn khởi vui mừng cho cả toàn dân. Thánh Gioan cũng nói “Abraham cũng hân hoan khi nghĩ đến ngày xuất hiện hoa quả của thánh thần, ông đã được thấy và đã reo mừng (Ga 8,56). Chúng ta có vui được niềm vui của kinh Magnificat vì thánh Thần làm phát sinh trong ta niềm tin vào Đức Kitô không? Ngược lại hãy thử tưởng tượng: nếu không có đức tin vào Đức Kitô, đức tin do Chúa Thánh Thần phát sinh trong ta, thì chúng ta sẽ buồn bã biết chừng nào.
3. Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Có nên giới hạn ý nghĩa lời Đức Kitô đây trong câu chuyện ghi lại các lần hiện ra không? Không! Chúa luôn nghĩ đến sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong Giáo hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Thời gian của Giáo hội là thời gian Thánh Thần hiện diện trong the giới. Chúng ta có vui mừng khi nghĩ rằng Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta không?
4. Thiên Chúa ban cho chúng ta không những chỉ các hồng ân thụ tạo và đầy giới hạn của Ngài, nhưng còn ban chính mình Ngài, với tự do của tình yêu Ngài, với vinh phúc của cuộc sống Ba Ngôi. Ân huệ cao vời này, chúng ta gọi là Thánh Thần. Ngài thuộc về chúng ta. Ngài hiện diện trong mỗi tâm hồn kêu cầu Ngài với lòng khiêm nhường và tin cậy Ngài thuộc về chúng ta đến nỗi người ta không thể nói con người là gì mà không thêm yếu tố này là Thiên Chúa cũng đã là một thành phần trong sự hiện hữu của con người. Thiên Chúa đã trở thành Thiên Chúa của chúng ta. Đó là tất cả sứ điệp của lễ Thánh Thần hiện xuống.
137. Chú giải của William Barclay.
CHÚA KITÔ SAI PHÁI (Ga 20,19-23)
Có lẽ các môn đệ vẫn tiếp tục họp tại phòng cao, nơi đã tổ chức Bữa Tiệc Ly. Nhưng họ đã họp mặt trong bầu khí đầy sợ hãi. Họ kinh hoàng vì đã biết sự cay cú độc ác của dân Do Thái vừa giết Chúa, và các môn đệ sợ rằng tiếp theo sẽ tới phiên họ. Họ đã họp lại trong sợ hãi, sợ từng tiếng chân đi ngoài hành lang, từng tiếng gõ cửa, e có tay sai của Tòa Công Luận đến bắt họ. Đang lúc đó, thình lình Chúa Giêsu hiện ra giữa họ, Ngài chào họ bằng lời chao thông thường của người Phương Đông: “Chúc anh em được bình an”. Câu ấy mang ý nghĩa nhiều hơn là: “Cầu mong cho anh em khỏi lo lắng bối rối”. Nó có nghĩa: “Nguyện Thiên Chúa ban cho anh em mọi điều tốt lành”. Sau đó Chúa Giêsu ban cho môn đệ một mệnh lệnh, sự sai phái mà Hội Thánh chẳng bao giờ được quên.
1) Ngài phán rằng Chúa Cha đã sai Ngài thế nào, Ngài cũng sai phái họ y như vậy. Đây là điều mà Westcott đã gọi: “hiến chương của Hội Thánh”. Nó có ba nghĩa.
a/ Chúa Giêsu cần Hội Thánh. Đúng như thánh Phaolô muốn nói khi ông gọi Hội Thánh là “thân thể của Chúa Kitô” (Ep 1,23; 1Cr 12,12). Chúa Giêsu đã đến với một sứ điệp cho mọi người, bây giờ Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ điệp ấy sẽ chẳng bao giờ đến được với mọi người nếu Hội Thánh không loan truyền. Hội Thánh phải là cái miệng nói thay cho Chúa, là đôi chân đi những nơi Ngài cần đến, là đôi tay để làm công việc của Ngài. Sứ điệp của Chúa Kitô được đặt vào tay Hội Thánh. Vậy ý nghĩa nhất trong câu chuyện này là Chúa Giêsu tùy thuộc vào Hội Thánh.
b/ Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Một sứ giả cần có người phái mình đi, cần có sứ điệp để mang đi, cần một thế lực, một thẩm quyền để hậu thuẫn cho sứ điệp mình mang đi, người ấy cần có người để nhờ cậy khi nghi ngờ và gặp khó khăn. Vì thế, Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Nếu không có Ngài, Hội Thánh sẽ không có sứ điệp, không có năng lực, không có ai để nương cậy khi bị chống đối, không có gì để soi sáng cho tâm trí, thêm sức cho đôi tay, khích lệ cho tâm hồn. Vậy, câu này có nghĩa là Hội Thánh lệ thuộc vào Chúa Giêsu.
c/ Nhưng ở đây vẫn còn một điểm khác nữa. Việc Hội Thánh được Chúa Giêsu sai phái song song với việc Ngài được Chúa Cha sai phái. Không ai đọc tường thuật của sách Gioan mà không thấy tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha luôn luôn dựa trên sự vâng phục trọn vẹn và tình yêu trọn vẹn của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu làm sứ giả của Chúa Cha, chỉ vì Ngài vâng phục và yêu mến Chúa Cha cách trọn vẹn. Do đó Hội Thánh cũng chỉ làm sứ giả, công cụ cho Chúa Giêsu khi Hội Thánh yêu mến và vâng phục lời Ngài thật sự trọn vẹn. Hội Thánh không thể ra đi với các chính sách nhân tạo của mình mà phải theo ý của Chúa Giêsu. Bất cứ lúc nào cố ý dựa vào sự khôn ngoan và năng lực riêng để giải quyết vấn đề mà không tìm ý muốn và hướng dẫn từ nơi Chúa Giêsu, Hội Thánh sẽ thất bại.
2) Chúa Giêsu hà hơi trên các môn đệ để ban Thánh Thần. Khi nói như vậy chắc chắn Gioan đang nhớ lại câu chuyện sáng tạo con người. Tác giả xưa đã viết: “Thiên Chúa bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì con người trở nên một loài sinh linh” (St 2,7). Đó cũng chính là bức tranh mà Êdêkiên đã thấy trong thung lũng đầy hài cốt khô, ông nghe Chúa phán với gió: “Hỡi hơi thở, hãy đến từ gió bốn phương, thở trên những người bị giết, để cho chúng được sống” (37,9). Khi Thánh Thần đến, có sáng tạo mới, như đánh thức sự sống từ trong cái chết. Khi Thánh Thần xuống trên Hội Thánh, Hội Thánh được đánh thức và tái tạo để thi hành nhiệm vụ của mình.
138. Lễ Hiện Xuống
(Bài giảng của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long - Bài Giảng dành cho Thiếu Nhi)
Các em Thiếu Nhi thân mến!
- Thường khi mừng Sinh Nhật hay Bổn Mạng của mình, các em thường được tặng những món quà gì?
- Có khi nào các em nhận được món quà là một con người không?
Chúa Giêsu tặng ban cho con người nhiều quà tặng, nhưng trong đó, có một quà tặng lớn lao không phải ân huệ hay sự vật mà là chính Chúa Thánh thần. Nếu Chúa Giêsu là quà tặng của Chúa Cha cho con người, thì Chúa Thánh Thần là quà tặng của Chúa Giêsu Phục sinh cho nhân loại.
- Thực sự thì Chúa Thánh Thần đã được Chúa Giêsu Phục Sinh trao ban khi nào? Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ nhất trong tuần, tức là ngày Chúa Nhật Phục sinh.
- Hình ảnh mà thánh Gioan sử dụng đó là hình ảnh gì?
Thở hơi trên các môn đệ. Hơi thở gợi nhắc cho ta câu chuyện gì trong Cựu Ước? Câu chuyện tạo dựng con người: sau khi nắn hình hài Ađam, Thiên Chúa đã thổi hơi vào lỗ mũi và Ađam thành con người sống động. Như vậy, hơi thở tượng trưng cho sự gì? Sự sống. Muốn sống thì phải thở. Còn thở thì còn sống. Hết thở thì chết. Vì thế, việc Chúa Giêsu thở hơi trên các môn đệ muốn nói lên rằng Ngài muốn trao ban Thánh Thần để làm nên một cuộc tạo dựng mới, với sự sống thần linh, sự sống của Chúa Thánh Thần.
Hiệu quả của sự sống thần linh đó là gì? Đó là ơn tha tội và ơn đựơc tái sinh làm con cái Thiên Chúa.
- Thế còn một hình ảnh nữa mà thánh sử Luca nói đến trong sách Công Vụ Tông đồ là hình ảnh nào? Gió và lửa.
- Lửa gợi nhắc câu chuyện gì trong Cựu Ước? Câu chuyện Chúa thần hiện ở trên núi Xinai, ở đó Thiên Chúa thiết lập giao ước với dân Israel làm cho họ thành dân riêng của Ngài. Nay cũng qua hình ảnh gió và lửa, Thiên Chúa cũng muốn thành lập một dân mới là Hội Thánh Người.
- Lửa mà sách Công Vụ Tông đồ mô tả có hình dáng như cái gì vậy? Hình dáng như những cái lưỡi.
- Đậu xuống ở đâu? Đậu xuống trên đầu các Tông đồ. Đậu xuống trên đầu mà tóc có bị cháy sém không?
- Tại sao lửa lại có hình dáng như những cái lưỡi? Lưỡi tượng trưng cho điều gì? Muốn nói được thì phải có cái gì? Cái lưỡi. Không có lưỡi người ta sẽ không nói được, hay lưỡi bị ngắn, lập tức người ta sẽ bị ngọng. Vậy hình lưỡi lửa tượng trưng cho ơn ngôn ngữ. Quả vậy ngay sau khoi nhận ơn Chúa Thánh Thần, các môn đệ bắt đầu nói các thứ tiếng lạ: tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, cả tiếng Lào, tieng Campuchia nữa không chừng. Điều này khiến cho nhiều người ngỡ ngàng không hiểu các Tông đồ học ngoại ngữ từ lúc nào.
Hiệu quả đó là các môn đệ đã trở thành chứng nhân ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhằm thiết lập một dân mới, dân bao trùm hết mọi nước. Đó là Hội Thánh Chúa.
Vậy sứ điệp của ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta điều gì? Mời gọi ta hai điều:
1. Ý thức sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và các ân huệ của Ngài trong tâm hồn mình.
- Các em có thường nhớ đến Chúa Thánh Thần không? Có người cả đời không hề nhớ đến sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Thật đáng trách!
- Các em có năng cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để xin Ngài thánh hoá và đổi mới không? Chúa Thánh Thần là ngôi vị Thiên Chúa rất ít được nhớ đến, có khi rất dễ bị lãng quên.
2. Sống theo sự hướng dẫn và tác động của Chúa Thánh Thần, hầu trở nên chứng tá cho Tin Mừng.
Sống chứng tá cho Tin Mừng là sống bác ái yêu thương; sống bao dung tha thứ; sống quảng đại hi sinh….
Có câu chuyện kể rằng: hai người Ailen là hàng xóm với nhau, nhưng cãi nhau suốt. Một người bị bệnh nặng. Bà vợ đón linh mục và nói: “Thưa cha, anh Pat và Mike cãi nhau luôn. Giờ anh gần chết. Cha có cách nào giúp họ làm hòa với nhau không?”
Sau nhiều lần thuyết phục, Pat đồng ý cho gọi Mike đến làm hòa. Và sau ít phút chờ đợi bên giường, Mike nói:
- “Thôi mình huề nghe Pat. Chuyện gì đã qua cho qua đi nhé”.
Pat miễn cưỡng đồng ý. Mike ra về. Nhưng khi Mike ra đến cửa, Pat nhỏm dậy, giơ nắm đấm nói:
- “Tao chỉ huề, nếu như tao chết thôi à nghe!”
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong đời sống đạo của mình. Vậy chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến biến đổi trái tim chúng ta để luôn biết yêu thương, và hãy cùng cộng tác với Chúa Thanh Thần để đổi mới cuộc sống của mình, nhờ đó cuộc đời chúng ta trở thành chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa. Amen.
139. Suy niệm của Lm. Jos. Vinc. Ngọc Biển
CHÚA THÁNH THẦN - QUÀ TẶNG CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 16). Thật vậy, từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, Người yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người cho nhân loại. Đến lượt Đức Giêsu, qua việc nhập thể và nhập thế, cũng như những lời rao giảng và hành động của Ngài, Ngài đã mặc khải và diễn tả xuất sắc lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Đường thương xót đó không dừng lại cũng như kết thúc qua việc Đức Giêsu về trời, mà còn tiếp diễn và tồn tại muôn đời. Bởi lẽ, Đức Giêsu đã chuyển trao lòng thương xót ấy nơi Chúa Thánh Thần.
Vì thế, Chúa Thánh Thần chính là quà tặng của lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nên từ ngày Người hiện xuống, lòng thương thương xót của Thiên Chúa như dòng sông không ngừng chảy đến với mọi người qua các chứng nhân dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
1. Chúa Thánh Thần công khai hóa Giáo Hội bằng lòng xót thương
Khi lần dở các trang Tin Mừng, chúng ta thấy trong suốt hành trình tại thế của Đức Giêsu, Ngài đã ấp ủ, cưu mang công cuộc thiết lập Giáo Hội qua việc dạy dỗ, hướng dẫn các Tông đồ cũng như dân chúng đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa để được cứu độ. Tuy nhiên, con đường đó đã trở nên xa lạ đối với các ông và dân chúng khi họ không hiểu được tâm tư của Thầy Giêsu, bởi vì mục đích của họ không nằm trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, mà luôn bám vào những suy tính của trần gian.
Nhưng, đến ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần chính thức công khai hóa Giáo Hội qua ơn ban bình an và lửa mến tràn ngập nơi tâm hồn các Tông đồ, qua đó, các ông đã được biến đổi từ một con người ích kỷ, vụ lợi, kiêu ngạo, sợ hãi, nhát đảm, ham sống sợ chết..., trở nên chứng nhân của lòng thương xót.
Điều này đã được các Tông đồ chứng minh bằng thái độ can đảm, hân hoan, sẵn sàng mở tung cánh cửa đã đóng kín, để ra đi loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua Đấng chịu đóng đinh cho mọi người, bất chấp mọi khó nguy, liên lụy và ngay cả cái chết.
Khi nói về mục đích của cuộc đời, thánh Phaolô đã diễn tả: “Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3,8); “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21)”; nên “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và thánh Phêrô cũng biểu lộ tâm tình hân hoan khi: “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).
Vì thế, các Tông đồ luôn coi việc loan báo Tin Mừng là một điều cấp thiết đến độ không thể không thi hành: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
2. Hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần được triển nở trong đời sống Giáo Hội
Như vậy, kể từ ngày Giáo Hội công khai hóa, các Tông đồ đã cảm thấu và đón nhận lòng xót thương của Thiên Chúa thật dồi dào, nên tâm hồn các ông tràn đầy bình an và lửa sốt mến, khiến các ông đã không giữ lại cho riêng mình, nhưng đã chuyển trao cho mọi người, nhất là những người nghèo khó, bất hạnh, bị áp bức, bất công...
Cũng thế, trải qua dòng thời gian hơn 2.000 năm qua, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hiện diện và hoạt động cũng như làm cho kho tàng lòng thương xót của Thiên Chúa luôn được tỏa sáng như ngọn hải đăng trên con thuyền của Giáo Hội.
Những dấu ấn ghi đậm sự can thiệp của Chúa Thánh Thần như: Giáo Hội luôn gặp nhiều giông tố, bão bùng, nguy khốn; biết bao kẻ đe dọa, chống phá và muốn hủy diệt Giáo Hội ngay trong trứng nước, từ thời sơ khai và cho đến tận hôm nay! Nhưng Giáo Hội Chúa vẫn hiên ngang, đứng vững, lớn mạnh không ngừng và tồn tại muôn đời.
Sự can thiệp của Chúa Thánh Thần còn được thể hiện cụ thể qua việc biến đổi tâm hồn con người. Vì thế, biết bao người nguội lạnh, khô khan, cố chấp... Nhưng qua một biến cố hay sự kiện nào đó, họ được khai trí mở lòng, nên đã ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhất là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa trên cuộc đời, lập tức họ đã trở nên những người yêu mến Giáo Hội hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.
Hay có những người “dốt đặc cán mai”; “chân lấm tay bùn”; hoặc thuộc hạng “cùng đinh” trong xã hội, nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần đổ đầy lòng xót thương trên cuộc đời họ, họ đã trở thành những người lỗi lạc, hàn lâm, uyên bác đến lạ thường khi nói và làm chứng về Chúa cho anh chị em...!
Lại có những kẻ trước đây thuộc về thế giới ma quỷ. Sẵn sàng làm đồ đệ cho chúng và ra tay tàn ác với anh chị em đồng loại, thậm chí ngược đãi, chống phá Giáo Hội... Nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hóa và xót thương, nay lại trở thành những chứng nhân Tin Mừng ngay giữa lòng xã hội...
Đây chính là hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần.
3. Hãy làm cho hoa trái xót thương của Chúa Thánh Thần triển nở
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, mỗi người được đón nhận Chúa Thánh Thần cách dồi dào và phong phú. Tuy nhiên, ơn thánh của Chúa Thánh Thần không chỉ dừng lại trên cá nhân, mà phải sinh hoa kết trái đến với người khác, để mọi người đều được chung chia niềm vui và hạnh phúc như chúng ta.
Vì thế, mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, mỗi người hãy suy nghĩ và tự cật vấn bản thân xem: đã bao lần ta thờ ơ, khước từ ơn Chúa đến với mình; biết bao lần ta đã đóng chặt ơn Chúa cho riêng bản thân và đã vô cảm trước tiếng kêu gào thống thiết của người nghèo khổ, đói khát cơ bần nơi xó chợ, bãi rác, ngoài công viên, nơi bến xe, gầm cầu...?
Biết bao lần ta đã lựa chọn sự hời hợt, hình thức, tham lam, ích kỷ, vụ lợi, ghen tương, vu khống, kiêu ngạo, thù hận, thiếu niềm tin, lòng trông cậy và yêu mến Chúa trong đời sống đạo? Biết bao lần ta đã phớt lờ tiếng nói của Lương Tâm, để lựa chọn những hành vi tội lỗi không phù hợp với bản chất Công Giáo và giá trị Tin Mừng?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần ban ơn bình an và lòng thương xót của Người cho chúng ta. Khi có được sự an bình thư thái và ngụp lặn trong tình thương của Thiên Chúa, mỗi người sẽ làm cho hoa trái của Chúa Thánh Thần được triển nở trong tâm hồn và đời sống của chúng ta ngang qua những lựa chọn đầy chất Kitô của mình.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến để biến đối tâm hồn chúng con cho phù hợp với tư cách người môn đệ của Chúa trong lòng xã hội hôm nay. Amen.
140. Chúa Thánh Thần - Đấng Tác Sinh mọi sự
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Có một câu chuyện kể về vị Giáo sư Triết Học, từng dạy tại nhiều trường đại học như sau:
Ông là người tôn thờ Đạo Ông Bà. Tuy nhiên, ngay từ khi còn nhỏ đến lúc lấy học hàm tiến sĩ Triết Học và thạc sĩ Thần Học, ông đã được ảnh hưởng rất nhiều từ nền giáo dục cũng như nơi ở của Đạo Công Giáo qua các dòng tu. Vì thế, ông luôn dành tình cảm đặc biệt đối với Giáo Hội Công Giáo nói chung và với giới nhà tu nói riêng.
Trong những lần tiếp xúc với người Công Giáo, ông thường hay kể: trong thời gian đi du học tại nước ngoài, sau khi đã lấy xong học hàm tiến sĩ Triết tại đại học Harvard, ông đã quyết định học thêm để lấy bằng thạc sĩ Thần Học. Tuy nhiên, cái khó của ông, đó là: muốn học Thần Học, phải có Đức Tin. Không có Đức Tin là một điều vô cùng khó khăn nếu không muốn nói là vô lý! Lúc đó, ông cảm thấy bế tắc!
Tuy nhiên, nhớ đến vai trò của Chúa Thánh Thần mà đã nhiều lần ông được nghe biết đến! Nên ông đã quỳ gối để cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng và giúp ông hiểu được những chân lý, mầu nhiệm của Thiên Chúa qua các môn học Thánh Khoa. Quả thật, khi cầu nguyện với Chúa Thánh Thần, mọi vấn đề được khai sáng. Vì thế, ông không ngần ngại xác nghiệm vai trò của Chúa Thánh Thần bằng câu nói rất dí dỏm nhưng đầy xác quyết như sau: “Mỗi khi khó khăn, hãy cầu xin với ‘Đồng Chí Thánh Thần’ là mọi chuyện sáng ra hết”. Ông còn nói thêm: “Tuy nhiên, khi cầu xin ‘Đồng Chí Ý’ là phải quỳ gối”, ý muốn nói về sự khiêm nhường.
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ trọng kính Chúa Thánh Thần. Khi mừng lễ này, Giáo Hội muốn xác tín mạnh mẽ về vai trò tác sinh mọi sự của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội và xã hội mọi thời.
Vì thế, chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Khi nói đến Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn khẳng định Người là: Thiên Chúa Ngôi Ba; Đấng Quyền Năng (x. Lc 1,35; Mt 12,28; Mt 4,23); Tác Sinh; Thánh Hóa và Biến Đổi; Thần Khí Sự Thật của Đức Giêsu Phục Sinh; là Sức Mạnh (x. Mt 4,1-10); Nguồn Bình An (x. Ga 20,19); là Sự Sống Thần Linh (x. Ga 20,22); Đấng An Ủi, Bào Chữa và Tha Tội (x. Ga 20,23).
Với những tước hiệu khác nhau như vậy, chúng ta sẽ hiểu về vai trò Chúa Thánh Thần qua các hoạt động của Người trong Giáo Hội, như:
Khởi đi từ ngày Lễ Ngũ Tuần, “mọi người được tràn đầy ân huệ của Chúa Thánh Thần qua việc đón nhận hình lưỡi giống như lưỡi lửa, tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (x. 1 Cr 12,4-11). Khi nhận được ơn sốt mến và biến đổi qua biểu tượng hình lưỡi lửa, Chúa Thánh Thần đã tác động trực tiếp đến các mục tử đầu tiên của Giáo Hội là các Tông đồ qua việc ban cho các ông một sức mạnh phi thường, lòng can đảm vô biên, nên các ông không còn hèn nhát, sợ sệt và tối trí như trước kia nữa (x. Cv 2,14-36); mà ngược lại, các Tông đồ đã mở toang cánh cửa của sự sợ hãi, sẵn sàng ra đi hiên ngang làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng mà trước đó, các ông rất lo sợ bị liên lụy!
Với những lời lẽ đầy khôn ngoan và hết sức thuyết phục (x. Ga 16,12-13), các Tông đồ đã loan báo về Đức Giêsu – Đấng đã chết và phục sinh một cách hùng hồn và đầy xác tín. Hơn nữa, ngọn lửa yêu mến đã thâm nhập vào trong tâm trí và con tim các ông, khiến các ông sẵn sàng chấp nhận thí mạng để làm chứng cho những điều mắt thấy, tai nghe. Kết quả: biết bao nhiêu người đã được ơn nhận biết Thiên Chúa (x. Cv 2,41).
Điều đặc biệt ngay trong thời kỳ đầu của Giáo Hội và mãi cho đến ngày nay, vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong việc quy tụ mọi người thuộc mọi dân nước và ngôn ngữ trong sự hiệp nhất (x. Cv 2,5-8) (x. Cv 2,42-47).
Khi mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình không chỉ biết về Chúa Thánh Thần cũng như vai trò của Người không mà thôi, nhưng Giáo Hội còn đi xa hơn nữa khi kêu gọi con cái mình hãy cộng tác với Chúa Thánh Thần để làm cho ơn thánh của Người được lớn mạnh trong lòng mỗi chúng ta cũng như triển nở trong nhân loại hôm nay.
Muốn được vậy, trước tiên, mỗi người hãy trở nên ngoan hiền, khiêm tốn, giống như một dụng cụ vừa tay Chúa Thánh Thần, để Người tự do biến đổi và sử dụng chúng ta, ngõ hầu mỗi người trở thành muối thành men và ánh sáng soi trần gian.
Thành men, thành muối và ánh sáng cho trần gian, đó là: chúng ta phải sống những đặc tính của người thuộc về Thiên Chúa, là lan tỏa nét đẹp của Đạo Công Giáo bằng chính đời sống tốt lành, gương mẫu của mình, một mặt để ướp con người và thế giới này khỏi hư thối bởi sự vô cảm, dửng dưng, bất nhân, ác thú, gian dối, hình thức, lễ nghi, ăn chơi trác táng…. Mặt khác, cần chiếu tỏa nhân đức như: bác ái; vui vẻ; bình an; kiên nhẫn; nhân từ; hòa nhã; nhẫn nại; hiền lành; tin tưởng; tiết độ; trong sạch, khiêm tốn, liên đới, cảm thông….
Làm được điều đó, mỗi người cần bén rễ sâu và đắm chìm mình trong đời sống cầu nguyện với Thiên Chúa, để nhạy bén với tác động của Chúa Thánh Thần ngang qua các dấu chỉ nơi những sự kiện, biến cố trong cuộc sống của riêng ta, cũng như của xã hội và Giáo Hội.
Có thế, chúng ta mới thực sự làm cho ơn của ChúaThánh Thần tác sinh trong ta và nơi mọi người.
Mong sao, lời tuyên tín đầy xác quyết: “Mỗi khi khó khăn, hãy cầu xin với ‘Đồng Chí Thánh Thần’ là mọi chuyện sáng ra hết” của vị Giáo sư trong câu chuyện trên sẽ là nguồn động lực thúc đẩy chúng ta xác tín rằng: Chúa Thánh Thần chính là Chủ Tể mọi sự trong Giáo Hội và nơi từng người chúng ta hôm nay.
Qua đó, xin cho chúng ta thêm lòng yêu mến và gắn bó mật thiết với Người trong sự khiêm tốn, để Người biến đổi và ban ơn cho ta, ngõ hầu mỗi người trở nên chứng nhân của Đức Giêsu trong thế giới hôm nay. Amen.
141. Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý
(Suy niệm của Lm. Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong lịch sử cứu độ của Dân Chúa, Chúa Thánh Thần đóng vai trò rất quan trọng trong nhiệm cục cứu độ từ khi sáng tạo cho đến ngày tận cùng của nhân loại. Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Người chính là Sinh Khí trong thân xác. Sự sống thiêng liêng của con người không thể sống nếu thiếu Sinh Khí là Chúa Thánh Thần.
Khi xuống trần gian, Chúa Giêsu đã mặc khải cách tiệm tiến về Chúa Thánh Thần. Cuối cùng, Ngài đã trao ban Chúa Thánh Thần cho nhân loại thông qua việc thổi hơi trên các Tông đồ. Khi Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các ông, Người đã biến đổi các ông. Ngài ban cho các ông sức mạnh, lòng cam đảm và sự trung thành để làm chứng cho Chân Lý là chính Đức Kitô.
1. Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần để biến đổi các Tông đồ
Khi các Tông đồ phải đối diện với cái chết của Chúa Giêsu, các ông hoang mang, sợ hãi và tìm mọi cách để chạy trốn thoát thân. Hình ảnh Phêrô, một Phêrô chối Chúa, cho chúng ta thấy sự yếu đuối của con người đứng trước những thử thách. Rồi sau khi Chúa Giêsu chết, tất cả các ông đều sợ hãi, vì thế, họ đã đóng kín cửa. Các ông sợ vì Thầy mình mà họ ghét mình; họ đã giết Thầy thì họ cũng sẽ tìm cách giết môn đệ của Thầy để dẹp luôn những tư tưởng của Thầy đã gieo vào trong lòng của các ông. Nhưng điều quan trọng là các ông có thể cũng đang hoang mang về chính ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Các ông cũng như những người đương thời, họ cho rằng Chúa Giêsu chết là hết. Thất vọng, chán trường và sợ hãi là tâm trạng của người thất bại. Đang lúc đó, Chúa Giêsu hiện đến, thổi hơi vào các ông và phán: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần". Chúa biết rõ các ông đang trong tình trạng tâm lý xáo trộn và bất ổn... Chúa trao ban bình an tức là trao ban chính Chúa. Những ngày các ông sống với Chúa lúc Ngài chưa chịu chết, các ông cảm thấy hạnh phúc như thế nào thì giờ đây, cũng chính Chúa Giêsu đó đem lại cho các ông sự bình an sau những ngày trốn chạy. Ngài trấn an các ông bằng chính sự hiện diện cụ thể của Ngài, qua đó, Ngài xoá đi mọi nỗi sợ sệt nơi các ông. Rồi ngay sau đó, Ngài đã trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Hãy đi rao giảng, thì cũng sẽ chết như Thầy. Chết như Thầy thì mới được Phục sinh như Thầy. Qua đó, Ngài dạy cho các ông một quy luật tất yếu là: muốn vào vinh quang thì phải qua đau khổ, phải chịu chết thì mới có sự sống viên mãn. Nhưng để làm được điều đó quả thật không dễ chút nào. Chính vì vậy, Ngài đã ban Chúa Thánh Thần đến trên các ông, để Người đổi mới tinh thần, trái tim và ở cùng các ông cũng như những người đón nhận lời rao giảng của các ông mọi ngày cho đến tận thế. Người chính là Đấng làm cho các ông nhớ lại những lời Chúa Giêsu đã rao giảng và giúp các ông can đảm làm chứng về những điều mắt thấy tai nghe.
2. Chúa Giêsu trao ban cho các Tông đồ Thần Chân Lý
Chúa Thánh Thần, Người chính là Thần Chân Lý: "Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi: đó là Thần Khí sự thật". Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý, Ngài sẽ giúp cho các môn đệ hiểu được những lời Chúa Giêsu đã rao giảng. Ngài sẽ bào chữa cho các ông khi phải ra trước mặt quan toà để làm chứng cho sự thật: "Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói" (Lc 12,11-12). Thật thế, nếu xét trên bình diện con người, các ông làm sao có thể thi hành một sứ mệnh cao cả và quan trọng đến như vậy. Bởi vì các môn đệ là những người rất bình thường trong những người bình thường nhất. Họ là những người quanh năm suốt tháng chỉ biết sống với nghề chài lưới, vật lộn với sóng nước biển khơi, học vấn thì kém cỏi, khả năng diễn thuyết trước công chúng thì quá xa vời đối với các ông. Thế nhưng, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông đã hân hoan lên đường để làm chứng cho Chúa Giêsu, một Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Quả thật, ngay sau Lễ Ngũ Tuần, Phêrô đã có bài giảng đầu tiên và ngay ngày hôm ấy, đã có khoảng 3.000 người tin theo (x. Cv 2,41). Như vậy, Chúa Thánh Thần chính là Đấng Bào Chữa, Đấng ban sức mạnh để các Tông đồ ra đi làm chứng cho sự thật. Một sự thật mang tính siêu việt để cứu độ qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
3. Chúa Thánh Thần và đời sống chứng nhân của người Kitô hữu
Ngày xưa, khi các Tông đồ chưa nhận được ơn Chúa Thánh Thần thì họ lo lắng, sợ hãi, thiếu tự tin... Nhưng khi các ông đã nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã hân hoan lên đường để trao truyền chân lý. Các ngài đã coi đó như là mối lợi tuyết đối mà Chúa dành cho mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Trước tiên, cần phải xác định thật rõ: rao giảng chân lý là rao giảng về một chân lý tuyệt đối, bởi vì không có chuyện nước đôi hay nửa vời. Đã tôn thờ Thiên Chúa thì chỉ tôn thờ mình Ngài mà thôi. "Phải tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, ngoài Người ra, không được có thần nào khác" (x. Đnl 6,4-7). Là người Công giáo, được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, là chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách dồi dào. Chúng ta có trách nhiệm loan truyền Chúa Kitô và làm chứng về Ngài trong gia đình, làng xóm, xứ đạo và thế giới hôm nay bằng đời sống tôn thờ Thiên Chúa duy nhất và sống những giá trị Tin Mừng đòi hỏi.
Thế nhưng, thực tế thì khác nhiều lắm! Nếu được hỏi: "Ông bà, cô bác... có tin Chúa không?", ngay lập tức ta sẽ nhận được câu trả lời là "có", thậm chí còn bị mắng vốn là "hỏi thế mà cũng hỏi"; "hỏi ấm ớ...". Nhưng thực tế, thử hỏi trong đời sống đức tin, chúng ta sống đạo hay chỉ giữ đạo? Hẳn nhiều người cũng đã chứng kiến những cảnh cãi vã nhau gay cấn ngay khi vừa ra khỏi nhà thờ sau thánh lễ và không nhân nhượng khi tuyên bố: "Tao mà không Rước lễ trong lễ vừa rồi thì hôm nay tao sẽ xé xác mày"; rồi những lần đi lễ "ôm", những cảnh "đạo gốc" (đi lễ nhưng ngồi ở những gốc cây quanh nhà thờ). Khi buôn bán: 1kg ăn 800gr; bơm nhồi hoá chất độc hại vào những rau, củ, quả... mà mình sẽ bán, và còn biết bao nhiêu cách làm lợi bất chính khác nữa... Như vậy, trên lý thuyết: tin thì vẫn cứ tin, ít ai có khái niệm bỏ đạo, nhưng cách sống thì cứ bon chen quỷ quyệt... vẫn cứ ung dung hàng hai ta đi, không thiếu gì những khối "ung nhọt" nằm trong thân xác tráng kiện bên ngoài với cái mác hai chữ Công giáo. Lại nữa, chúng ta cũng thấy không ít người Công giáo sống đạo theo kiểu "lâm thời". Khi gian nan thử thách đến là sẵn sàng khấn "ông nọ" vái "bà kia" thay Chúa ngay lập tức. Đây phải chăng là những căn bệnh trầm kha trong cách sống đạo của nhiều người Công giáo hiện nay.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, đồng thời Ngài cũng trao phó sứ vụ loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất cho những người kế vị các ông. Chúa Thánh Thần chính là Thần Chân Lý, Ngài được trao ban cho các Tông đồ để các ông nhớ lại những điều Chúa Giêsu loan báo. Ngài còn là Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi. Ngài đến để tăng sức mạnh cho các ông, khiến các ông sẵn sàng ra đi làm chứng cho Đức Kitô, làm chứng cho chân lý. Rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải lên đường, bởi vì là người Công giáo, sứ mạng loan báo Tin Mừng thuộc về chúng ta. Chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm đó như là cứu cánh của mình. Có nhiều cách loan báo Tin Mừng như: rao giảng; gương sáng; thật thà; vui tươi... Dẫu có gặp phải gian nan thử thách, ngay cả tù tội và chết chóc, chúng ta vẫn cứ lên đường vì biết rằng: sau cơn mưa trời lại sáng. Mây đen không thể che mãi được mặt trời, sự giả dối hay tội lỗi không thể nào phủ lấp được chân lý.
Chỉ có chân lý mới giải thoát chúng ta cách toàn diện (x. Ga 8,32). Chỉ có chân lý mới dẫn đưa ta đến sự sống đời đời, bởi vì cuộc đời con người không chỉ có ở đời này mà còn cuộc sống mai hậu nữa.
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta cũng cầu xin Chúa cho các chứng nhân đang xả thân trên cánh đồng truyền giáo, luôn được ơn Chúa phù trợ, để kiên định trong đức tin, bền lòng trong đức cậy và nhiệt thành trong đức mến, để không ai và không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô.
Để kết thúc, xin mượn lời của Thánh Amrôsiô khi nói về sứ mạng của người Kitô hữu khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần như sau: "Hãy nhớ, bạn đã lãnh nhận ấn tín thiêng liêng của Chúa Thánh Thần là Thần Trí khôn ngoan và thông hiểu, Thần Trí lo liệu và sức mạnh, Thần Trí suy biết và đạo đức, Thần Trí dạy cho biết kính sợ Thiên Chúa. Hãy gìn giữ những gì bạn đã lãnh nhận. Chúa Cha đã ghi ấn tín của Người nơi bạn. Chúa Kitô đã tăng sức cho bạn và đặt trong bạn bảo chứng của Chúa Thánh Thần".
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến để Người đổi mới mặt địa cầu; để Người dẫn chúng con đến sự thật toàn vẹn và xin ban sức mạnh; lòng cam đảm để chúng con sẵn sàng ra đi làm chứng cho sự thật là chính Đức Kitô và luôn sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
142. Chúa Thánh Thần là Đấng tác sinh
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta long trọng mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò của Ngài là Đấng soi sáng, thánh hóa, đổi mới, Đấng ban sự bình an, niềm vui, can đảm, khôn ngoan, lo lieu, hiểu biết, đạo đức, kính sợ Chúa...
Như vậy, Ngài là hồn sống, hơi thở của Giáo Hội. Không có Ngài, Giáo Hội như mất đi sức sống, sinh động và trở nên trống rống. Đức Thượng phụ Athenagoras, Giáo chủ Constantinople đã nói: “Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo Hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”.
Để làm sáng tỏ vai trò của Chúa Thánh Thần, các bài đọc trong thánh lễ hôm nay sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về Ngài.
1. Vài trò của Chúa Thánh Thần qua ba bài đọc
Khởi đi từ bài đọc Itrích trong sách Cv 2, 1-11, tác giả cho thấy: đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ vẫn đang tụ họp quanh Đức Maria để cầu nguyện liên lỉ và chờ mong điều Đức Giêsu đã hứa trước đó. Và, đúng như lời Đức Giêsu đã loan báo, Chúa Thánh Thần đã lấy hình lưỡi lửa để hiện xuống trên Đức Mẹ và các môn đệ. Như một sự tác sinh, lập tức, tất cả được tràn đầy Thánh Thần.
Ngay sau đó, như một đặc ân của Chúa Thánh Thần, các môn đệ từ một người ít học, nhà quê, nhát đảm, sợ sệt, nay trở nên thông thái và nói được những tiếng mới lạ, khiến mọi người đổ về hành hương đền thờ Giêrusalem nhân dịp lễ Ngũ Tuần đều nghe các môn đệ nói được tiếng bản xứ của mình. Cứ thế, các ông tiếp tục can đảm, hăng say ra đi mọi nơi để loan báo và làm chứng về Đức Giêsu, Đấng đã chết và đã sống lại để cứu độ nhân loại.
Sang bài đọc II,1Cr 12,3b-7.12-13, thánh Phaolô nhắc đến đặc sủng của Chúa Thánh Thần được ban xuống cho mỗi người tùy theo nhu cầu của họ. Tuy nhiên, sự đa dạng của ơn Chúa Thánh Thần trên mỗi người là khác nhau, nhưng đều chung quy một điểm, đó là hiệp nhất trong đa dạng để phục vụ cho Lời của Đức Giêsu hầu sinh ích cho cộng đoàn tín hữu.
Qua bài đọc này, thánh Phaolô nhắc các tín hữu Côrintô phải luon hiệp nhất trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, để cùng nhau xây dựng nhiệm thể Đức Kitô trong mầu nhiệm thân thể Ngài là Hội Thánh.
Sang bài Tin Mừng, Ga 20,19-23, thánh Gioan làm toát lên sứ mạng được sai đi rao giảng Tin Mừng của các môn đệ; đồng thời, ngài cũng cho thấy căn nguyên sự sống và hoạt động của các môn đệ là do Chúa Thánh Thần.
Thật thế, sau khi ban bình an cho các ông, ngay lập tức, Đức Giêsu đã trao ban cho các ông Chúa Thánh Thần và kèm theo là quyền tha tội. Tại sao thế? Thưa! Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa, Đấng đổi mới và nguồn mọi sự bình an. Khi con người nhận được ân sủng của Ngài và khi tội lỗi được tẩy xóa, thì ắt được bình an, chan chứa niềm vui và hy vọng.
Như vậy, ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chính là ngày Giáo Hội được khai sinh, và cũng là ngày Giáo Hội lên đường để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình.
Hiểu như thế, thì ngày lễ hôm nay cũng là ngày lễ Hiện Xuống nơi mỗi người chúng ta. Bởi vì: nếu xưa kia các môn đệ đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng như thế nào, thì hôm nay, mỗi tín hữu cũng đón nhận cùng một Chua Thánh Thần và cùng một sứ vụ như các ngài khi xưa.
2. Sứ mạng của Giáo Hội hôm nay
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, tiếp theo, qua Bí Tích Thêm Sức, mỗi người đón nhận Ngài cách dồi dào, phong phú để thi hành chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế cách triệt để hơn trong vai trò là thành phần chi thể trong thân thể mầu nhiệm Giáo Hội, có Đức Giêsu là Đầu.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, là dịp mời gọi mỗi người chúng ta nêu cao ý thức về sự tinh tuyền, trong trắng của ngày lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, để tâm hồn chúng ta trở về tình trạng: “nhân chi sơ, tính bổn thiện”, hầu sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Hôm nay cũng là dịp để chúng ta làm mới lại đặc sủng của Chúa Thánh Thần ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, qua đó, chúng ta hiểu được Lời Chúa, yêu mến Lời Chúa và can đảm, sẵn sàng loan báo cũng như làm chứng cho Lời Chúa.
Khi đón nhận và lắng nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ loại bỏ được những thứ mà thánh Phaolô cho là hành động do xác thịt như: "dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy" (Gl 5,19-21). Khi loại trừ được những thứ đó, chúng ta sẽ lãnh nhận được những hoa trái của Chua Thánh Thần như: "bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ" (Gl 5,22-23).
Đạt được điều đó, mỗi người chúng ta sẽ là khí cụ hữu dụng của Chúa Thánh Thần trên và trong cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội hôm nay.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến vì chúng con cần Ngài. Amen.
143. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một trường phái triết học tuy không mới lắm nhưng vẫn mang tính thời sự, đó là “hiện tượng luận”. Cái nhìn triết học này chủ yếu căn cứ vào các hiện tượng lặp đi lặp lại, trong tự nhiên lẫn xã hội, để rồi rút ra những quy luật nao đó khả dĩ giúp ta đặt vấn đề, dù rằng có thiên về tính chủ quan nhưng vẫn phản ảnh một điều gì đó rất thật của cuộc sống. Theo cái nhìn này, xin được nêu lên một vài hiện tượng như sau: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần năm xưa, khi hiện ra với các môn đệ tại nhà Tiệc ly mà không có ông Tôma ở đó, Chúa Giêsu đã thổi hơi trên các ngài và ban Thánh Thần. Hôm ấy các cánh cửa của căn phòng được đóng kín vì các vị sợ người Do Thái hãm hại. Một tuần sau, các vị cũng tề tựu ở đó, có Tôma ở cùng, thế mà các cửa vẫn đóng kín (x.Ga 20,26). Một hiện tượng khác: Các em thiếu niên 13-14 tuổi xét chung đang ngoan ngoãn, siêng năng tham dự Thánh Lễ, chuyên cần học giáo lý, sau khi được Giám Mục đặt tay ban Thánh Thần qua bí tích Thêm Sức, thì một số không ít lại trở chứng, ngang bướng, lười tham dự Thánh Lễ và hay bỏ học giáo lý. Một hiện tượng khác: Đang là chủng sinh thì sống phải phép, lịch sự đủ đầy, bỗng sau khi được đặt tay ban Thánh Thần qua Nghi thức phong chức linh mục, thì có đôi vị lại hành xử theo cung cách cha chú, ta đây.
Là Kitô hữu Công giáo, chúng ta tin nhận tính “tại sự” (ex opere operato) theo thần học bí tích. Tuy nhiên tính “tại sự” ấy của bí tích không cấm chúng ta đặt vấn đề rằng cớ sao trong nhiều trường hợp như chiều ngày thứ nhất trong tuần của năm nào tại căn nhà Tiệc Ly, Thánh Thần đã được ban tặng mà hiệu quả dường như chưa thấy? Vấn nạn xem ra tuy khó có lời giải, nhưng dựa vào lời của Đấng Cứu Thế chiều hôm ấy, chúng ta có thể thấy được vấn đề. “ Hãy nhận lấy Thánh Thần!” Chúa đã thổi hơi ban Thanh Thần, nhưng các Tông đồ phải biết đón nhận. Ai trao cho chúng ta một tặng phẩm mà chúng ta không nhận hay chưa nhận thì cũng là chưa có, nói đúng hơn, là chưa có hiệu quả. Mặt trời đã mọc lên nhưng các cánh cửa căn nhà còn đóng kín thì căn nhà vẫn chìm trong bóng tối. Theo toán học thì ngoài điều kiện cần, phải có điều kiện đủ, thì kết quả mới xảy ra. Triết học gọi đó là nguyên nhân và cơ hội, còn thần học thì phân biệt nguyên nhan tác thành hay còn gọi là nguyên nhân đệ nhất và nguyên nhân đệ nhị. Anh em Phật tử lại dùng hai từ nhân và duyên.
Để hồng ân Thánh Thần mà chúng ta được trao ban, phát sinh hoa trái, thiết tưởng không thể thiếu thái độ sẵn sàng đón nhận, vì đây chính là duyên, là nguyên nhân đệ nhị, là cơ hội, là điều kiện đủ. Để sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần cách hiệu quả, không gì hơn, hãy nhớ lại những gì Chúa Kitô và các Tông đồ nói về Thánh Thần, đặc biệt qua vài Danh xưng của Người. Người là Thiên Chúa thật trong Ba Ngôi Thiên Chúa, là Thần Chân Lý, là Đấng An ủi, Đấng Bảo Trợ, là Nguyên lý của các đặc sủng… Qua các Danh xưng của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể thấy một vài điều kiện để có thể sẵn sàng đón nhận Người.
1. Sự khiêm nhu: Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý. Người dẫn chúng ta đến sự thật, Người soi sáng cho chúng ta nhận thức sự vật hiện tượng, nhận thức chính bản thân ta và tha nhân, nhận biết Thiên Chúa và chương trình ý định của Người cách đúng đắn. Để tiếp cận với chân lý, trên hết và trước hết cần phải có sự khiêm nhu chân thành. Người khiêm nhu thì chân nhận mình còn mù mờ, thấy sự việc như trong sương, trong chiếc gương đồng (x.1Cor 13,12). Người khiêm nhu thì sẵn sàng biết lắng nghe và chân thành học hỏi. Người khiêm nhu còn can đảm nhìn nhận con người bất toàn và đầy thiếu sót lẫn sai lầm của chính mình. Thiếu nữ Maria, làng quê Nagiarét, nhờ biết khiêm nhu cách sâu thẳm, nên đã đón nhận ân sủng Thánh Thần cách đầy tràn (x. Lc 1,26-38). Trái lại, chính lòng kiêu căng đã làm cho nhiều biệt phái và luật sĩ khôn ngoan, thông thái năm xưa không thể tiếp nhận chân lý (x.Lc 10,21)
2. Sự tín thác vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa: Người biết tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa thì sẽ dễ dàng đón nhận Đấng Bảo trợ, đặc biệt trong những cơn gian nan thử thách. Các Thánh Tử đạo là những người làm chứng cho chúng ta về điều kiện này. Dù xuất thân bởi nhiều hoàn cảnh khác nhau, dù khác nhau về trình độ học vấn, dù khác nhau cả về mức độ đạo đức hay chức vị, danh phận…thì các ngài vẫn bình an trong cơn gian khổ, bách hại, vì luôn có Đấng Bảo trợ, Thần An ủi ở cùng. Sự bình an trong cơn gian nan, khốn khó là một trong những nét trỗi vượt của các thánh Tử đạo so với những anh hùng dân tộc. Cũng là chịu hy sinh cách anh dũng vì “chính đạo”, nhưng các anh hùng dân tộc thì phẩn uất, căm thù kẻ làm hại mình, còn các thánh Tử đạo thì hân hoan, an bình và còn cầu nguyện cho cả kẻ giết mình. Được như vậy là nhờ các ngài luôn tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Sự tín thác này được thể hiện bằng niềm tin rằng chính sự sống của mình là do Chúa ban tặng, tin nhận rằng Thiên Chúa không chỉ là Đấng quyền năng đã dựng nên mình từ hư vô mà còn là Người Cha nhân hậu chăm sóc mình đến từng sợi tóc (x.Mt 10,30; Lc 12,7), là Đấng trọn lành cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ dữ, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân (x. Mt 5,44-45)
3. Có tấm lòng vì ích chung: Một người có tấm lòng vì ích chung, cách riêng vì ích lợi của những người nghèo, những người cô thế, kém phận thì rất dễ sẵn sàng hiến thân theo khả năng và hoàn cảnh cách hết mình. Và họ sẽ nhận được nhiều đặc sủng như chữa bệnh, làm phép lạ, nói tiên tri, phân định thần khí…do Thánh Thần ban tặng (x. 1 Cor 12,7-11). Tấm lòng vì ích chung có thể nói là đối nghịch với tâm hồn ích kỷ, chỉ biết lợi ích riêng mình. Khi đã có tấm lòng vì ích chung thì ta sẽ dễ dàng xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng cái khác biệt của tha nhân. Trái lại khi đã đặt cái tôi của mình lên trên hết, thì ta sẽ có nguy cơ tìm cách bắt kẻ khác phục vụ mình, làm theo ý riêng mình cách độc đoán, độc tài và có thể là độc ác nếu ta có chút quyền hay chút tài lực.
Gió muốn thổi đi đâu thì thổi (x.Ga 3,8). Không ai thấy gió nhưng người ta có thể nhận ra gió qua các hiệu ứng của nó như lá bay, cây lay… Xem quả thì biết cây (x.Mt 7,16-20). Mừng Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, một lần nữa xin hãy kiểm định xem chúng ta đã trổ sinh những hoa trái nào. Giả như chúng ta chưa sinh hoa kết trái tốt lành là dấu chứng tỏ rằng chúng ta chưa đón nhận hồng ân Thánh Thần mà Chúa Kitô đã ban tặng. Nếu chúng ta chưa sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần thì cũng là dấu chứng tỏ rằng chúng ta chưa thật sự khiêm nhu, chưa biết tín thác vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, chưa biết mưu cầu ích chung, nhất là ích lợi của của người nghèo, người kém phận…
144. Hãy mở cửa ra!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cùng Hội Thánh, chúng ta kính thờ mầu nhiệm Đức Chúa Trời Ngôi thứ Ba là Chúa Thánh Thần. Đã từng được nghe giảng dạy về vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần sau khi Chúa Kitô về trời, chúng ta cũng đã được học hỏi về Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy. Chúng ta còn biết các hình ảnh chỉ về Người như là gió, mây, nước, lữa, chim bồ câu…, rồi Người có các danh xưng là “Đấng ban sự sống”, là “Thần Chân lý”, “Đấng bào chữa”…(x. GLCG chung số 683- 701). Có vị lại ví Chúa Thánh Thần như Đấng dấu mặt. Người ta chỉ thấy hiệu quả tác động của Người chứ nào đâu thấy Người như Đức Kitô vì đã nhập thể làm người.
Nói đến hoa quả của Chúa Thánh Thần thì thật khôn xiết. Người là Thần Chân lý nên Người dẫn chúng ta đến sự thật toàn vẹn. Người là nguồn tình yêu nên Người đưa chúng ta vào biển cả bác ái bao la. Người là nguyên lý của sự hiệp nhất nên Người làm cho chúng ta nên một trong Chúa Kitô. Người là ngọn lửa nên Người đổi mới chúng ta từ trong ra ngoài. Người là nguồn bình an nên Người đưa chúng ta vào sự an bình đích thức, một sự bình an không như thế gian ban tặng…
Chúa Thánh Thần đã được trao ban. Người đã được trao ban cho nhân loại từ Trái Tim cực thánh bị đâm thâu của Chúa Giêsu trên thập giá (x.Ga 19,31-37). Người được trao ban cho các Tông đồ, các môn đệ khi Chúa Kitô phục sinh hiện ra: “Các con hãy lãnh nhận Thánh Thần” (Ga 20,22). Người đã hiện xuống trên các Tông đồ và nhiểu người ngày Lễ Ngũ tuần dưới hình lưỡi lửa (Cv 2,1-11). Chúa Thánh Thần đã được trao ban, nhưng vấn đề đặt ra là chúng ta có nhận được Người chưa? Và bằng cách thế nào để ta đón nhận Chúa Thánh Thần?
Chúng ta đã nhận được hồng ân Thánh Thần chưa? Câu trả lời xem ra không dễ. Cứ xem quả thì biết cây. Mặc dù trong đức tin, chúng ta tin nhận khi ta chịu Bí tích Thánh tẩy là ta đã nhận được hồng ân Thánh Thần. Khi ta chịu Bí tích Thêm Sức, khi ta lãnh nhận các bí tích khác như Truyền Chức Thánh, Hôn phối…, là ta đã lãnh nhận hồn ân Thánh Thần. Thế nhưng hoa trái của Thánh Thần như Thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Galata 5,22-23 là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” đã thực sự có nơi đời sống chúng ta thế nào thì thật khó trả lời. Cũng thật khó trả lời rằng ta đã đến cùng chân lý vẹn toàn, đã hiệp nhất nên một, đã đổi mới từ trong ra ngoài…
Một sự thật không riêng gì ở các xứ mà tôi đang phụ trách, đó là nhiều em thiếu niên trước khi chịu Bí tích Thêm Sức thì rất chuyên chăm học giáo lý, tham dự Thánh Lễ, làm các việc tông đồ mà các anh chị giáo lý viên đề ra. Thế nhưng sau khi lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, một Bí tích mà qua đó các em lãnh nhận hồng ân Thánh Thần cách đặc biệt, thì dường như có phần đi xuống, nếu xét hình thức bên ngoài. Cũng có thể giải thích rằng do tâm lý tuổi mới lớn có nhiều cung cách hành xử không như ý những người có trách nhiệm. Tuy nhiên dưới con mắt nhân loại, để nhận ra những thay đổi nơi các em theo hướng tích cực thì quả là khó thấy và nhiều khi lại có phần theo hướng ngược lại. Dù vậy không ai dám to gan nói rằng các em là chưa nhận lãnh hồng ân Thánh Thần!
Chúa Thánh Thần đã được trao ban cho nhân loại. Xưa, thánh Phêrô đã từng kinh ngạc khi Thánh Thần cũng đã đổ xuống trên những người chưa chịu Bí Tích Thánh Tẩy. “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10,47). Vấn đề quan trọng là làm sao để có thể nhận lãnh hồng ân Thánh Thần. Xin được đề nghị một trong những cách thế để ta có thể đón nhận hồng ân Thánh Thần đó làhãy mở cửa ra.
Ngày Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các Tông đồ, Người đã trao ban Thánh Thần cho các ngài thế mà dường như các ngài vẫn chưa nhận được. Có thể có nhiều lý do nhưng ta có thể chân nhận một trong những lý do, đó là “cửa vẫn đóng kín”. Cánh cửa vật chất của căn nhà là hình ảnh của cách cửa tâm hồn các ngài. Tâm hồn các tông đồ vẫn còn vương vẫn chuyện Thầy sẽ khôi phục nước Israel (x.Cv 1,6). Tâm hồn các ngài còn lo âu sợ hãi trước các thế lực bên ngoài. Đến ngày Lễ Ngũ tuần, gió đã ùa vào đầy cả căn nhà chứng tỏ các cánh cửa đã rộng mở (x. Cv 2,1-2). Cánh cửa tâm hồn các tông đồ và những người có mặt hôm ấy cũng đã mở rộng.
Người ta nhìn nhận Công đồng Vatican II như là một cuộc Hiện xuống lần thứ hai cho Hội Thánh Chúa. Khi được hỏi Công Đồng là gì? Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII đã mở cách cửa sổ căn phòng của Ngài và nói: Công Đồng là thế đó. Mở cửa để đón nhận hồng ân Thánh Thần. Hãy mở cửa ra! Một đòi hỏi dường như mang tính tất yếu để có thể đón nhận hồn ân Thánh Thần.
Mở cửa ra để tha nhân, để thế giới nhận rõ, biết rõ con người ta, tập thể ta, Hội thánh ta. Mở cửa ra là một thái độ thẳng thắn chân thành trong sự khiêm hạ. Người có thể thấy được những mặt tốt và cả những mặt xấu xa tồi tệ của mình. Người ta có thể biết được sự thánh thiện và cả tôi lỗi của ta. Mở cửa ra là một động thái can đảm sống trong sự thật. Dù rằng không một ai có thể che dấu Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn tâm can, nhưng chúng ta lại có thể che mắt thiên hạ những gì chúng ta muốn che dấu bằng cách này bằng cách khác, với lý do này với lý do khác, có khi là rất hữu lý và hợp tình theo nghĩ suy nhân trần. Thế nhưng, đã không can đảm sống trong sự thật thì e rằng khó mà nhận được Đấng là Thần Chân Lý.
Mở cửa ra để hiệp thông với tha nhân, với nhân loại trên thế gian này, một thế gian mà Thiên Chúa đã yêu thương đến nỗi đa hiến ban chính Con Một (x. Ga 3,16), một thế gian mà Đức Kitô đã tự hiến dâng chính xác thịt mình để cho nó được sống (x.Ga 6,51). Có sự hiệp thông thì sẽ có sự liên đới, tương ái tương thân. Sự hiệp thông thúc giục ta sống liên đới với nhau, với thế gian này cả trong công nghiệp lẫn trong tội lỗi. Đức bác ái đang chớm nở. Và chúng ta sẽ nhận được Thánh Thần là nguồn tình yêu, nguồn hiệp nhất.
Mở cửa ra để đón nhận tha nhân, đón nhận thế giới cho dù là bất đồng chính kiến hay quan niệm, bất đồng về niềm tin hay cung cách hành xử. Thánh Thần đã được trao ban với Trái Tim mở ra của Chúa Giêsu. Trái Tim cực thánh của Người mở ra đón nhận Mẹ dấu yêu, người môn đệ yêu dấu… và cả những người lý hình đang sỉ nhục Người. Đón nhận không phải là chấp nhận tất cả bất kể tốt xấu, nhưng là để thánh hóa và thăng hoa. Thành quả của Công đồng Vatican II là một minh chứng cho sự mở cửa đón nhận này. Chính những vị trước đây đã bị loại trừ cách này cách khác như Yve Congar, Chenu..., đã được đón nhận cách chân thành. Và hoa trái Thánh Thần đã tỏ hiện.
Hãy mở cửa ra là hãy mở tâm hồn ra, mở vòng tay ra. Sống trong sự khiêm tốn chân thành, sẵn sàng đối diện với sự thật, sống trong sự hiệp thông liên đới với mọi người, sống trong tình thân ái, bao dung đón nhận nhau, chính là cách thế để đón nhận hồng ân Thánh Thần cách hữu hiệu. Tác giả sách Khải Huyền viết: Thánh Thần và Tân nương là Hội Thánh cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20). Có lẽ ta đừng xin: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!”, nhưng hãy xin: “Xin cho con, cho chúng con, cho Hội Thánh biết mở cửa ra!”.
145. Hoa trái Thánh Thần
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Mùa Phục Sinh kết thúc với Lễ Kính Thờ Thiên Chúa Ngôi Ba, Chúa Thánh Thần, đặc biệt với việc kính nhớ mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Thánh Tông Đồ ngay Lễ Ngũ Tuần, chính thức khai sinh nên Hội Thánh. Thiên Chúa Ngôi Hai đã nhập thể, nhập thế. Chân dung của Người đã được lịch sử ghi nhận, cách riêng bốn Tin Mừng đã góp phần trình bày hình ảnh Chúa Ngôi Hai làm người cách rõ nét. Người ta cũng có thể dùng loại suy để hướng về Thiên Chúa Cha. Vì ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha (x.Ga 14,9). Còn Chúa Thánh Thần là Đấng mà chúng ta chỉ có thể nhận ra qua, hoa trái của Người theo dòng lịch sử và đặc biệt theo dòng lịch sử cứu độ. Chúa Kitô đã từng ví Người như là gió (x.Ga 3,8). Điều này không chỉ nói lên sự tự do của Thánh Thần mà còn giúp ta nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần qua các kết quả hành động của Người. Qua một vài hoa trái đặc trưng của Thánh Thần, chúng ta cũng có thể biết được cách thế hữu hiệu để trãi lòng mình ra đón nhận tác động của Người.
1. Ơn ngôn ngữ
Ngôn ngữ được biểu hiện dưới nhiều hình thái như chữ viết, ký hiệu... nhưng ở đây chỉ muốn đề cập đến tiếng nói. Tiếng nói là một trong những ưu phẩm của loài người trỗi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Nhờ có tiếng nói mà con người có thể truyền thông cho nhau tâm tư tình cảm và những nghĩ suy của mình. Nhờ có tiếng nói con người có thể hiệp thông với nhau cách đầy đủ và hiệu quả hơn, rộng rãi và sâu đậm hơn.
Đọc Thánh Kinh, nhất là đọc Tân Ước, chúng ta có thể chân nhận một trong những hoa trái của Thánh Thần là ơn ngôn ngữ. Khi Thánh Thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống trên các Tông đồ ngày Lễ Ngũ Tuần, Người đã ban cho các ngài ơn được nói các thứ tiếng khác nhau (x. Cvtđ 2,1-13). Sách Công vụ tông đồ cũng tường thuật nhiểu trường hợp những người lãnh nhận ơn Thánh Thần thì được ơn nói tiếng lạ, nói tiên tri (x. Cvtđ 10,45-46; 19,6-7). Chúa Giêsu an ủi động viên các tông đồ khi chịu bắt bớ thì Thánh Thần sẽ nói thay cho các ngài (x.Mt 10,20). Được Chúa Thánh Thần tác động chúng ta sẽ biết nói điều phải đạo, nói điều phải nói, nói lời tình yêu.
Các nhà y học cho ta hay một sự thật về những người vừa câm vừa điếc tư thưở mới sinh. Dân gian truyền tụng rằng vì người ta không nói được (bị câm bẩm sinh) nên trời cho luôn bệnh điếc để khỏi phải chịu nghe những lời chướng tai, phật ý. Vì nếu nghe được những lời phật ý, chướng tai mà không có thể nói lại được thì không ai có thể chịu nổi. Trái lại, theo y học thì chính vì bị tật bệnh điếc bẩm sinh nên người ta mới bị câm. Khả năng nói là một khả năng mà người ta học được nhờ bắt chước tha nhân. Không nghe được tiếng nói của tha nhân thì trẻ thơ không thể tập nói được và vì thế mất luôn kỷ năng nói. Như thế một trong những điều kiện tối cần để có thể nói là có khả năng nghe.
Từ dữ kiện ở bình diện thể lý tự nhiên trên đây chúng ta có thể diễn suy lên bình diện siêu nhiên. Để có thể nói lời phải đạo, lời đáng nói, cần nói và nên nói, để có thể nói lời chân lý, lời tình yêu, nghĩa là nói dưới tác động của Chúa Thánh Thần thì tiên vàn chúng ta cần biết nghe. Dĩ nhiên là phải biết nghe Chúa Thánh Thần thúc đẩy, biết nghe Người phán dạy.
Trong phạm vi gia đình, ta thường nghe nhiều người bố mẹ than thở rằng con cái càng lớn khôn càng khó bảo, nghĩa là càng không biết nghe. Mở rộng ra ngoài xã hội, có chăng tình trạng khi chức càng cao, quyền càng lớn thì ta càng ít biết nghe. Cũng có thể vì điều kiện hoàn cảnh bên ngoài của các tổ chức xã hội, của trách vụ nắm giữ, làm ta xa rời quần chúng, nhưng cũng có thể vì tâm lý chủ quan cho mình luôn luôn đúng, không thể sai lầm, nên chẳng cần nghe, hoặc giả như cần nghe thì chỉ nghe một đôi người thân cận, những người hợp ý mình? Hy vọng rằng tình cảnh này sẽ không có trong đời sống Hội Thánh và giả như có thì mong sao đó chỉ là cá biệt hay đặc thù.
Biết nghe là một trong những cách thế tốt đẹp để đón nhận ơn Chúa Thánh Thần. Xin hãy biết nghe bằng đời sống cầu nguyện chuyên chăm, bằng sự chiêm niệm sâu lắng. Xin hãy biết nghe lời chỉ dạy của mẹ Hội Thánh, nhất là trong lãnh vực đức tin và luân lý. Xin hãy biết nghe những nhà lãnh đạo các quốc gia, đặc biệt trong lãnh vực công bình và ích chung. Xin hãy biết nghe, bằng việc tiếp xúc tha nhân, nhất là những người nghèo, những người thấp cổ, kém phận. Xin hãy biết nghe những người không đồng thuận với chính kiến của ta, biết nghe cả nhưng người trái ý ta...trong sự trân trọng và khiêm nhu chân thành.
Một khi ta biết sẵn sàng lắng nghe, lắng nghe để thuận theo những gì phải đạo, để ngăn ngừa và phòng tránh những gì sai lạc...là lúc ta đang sẵn sàng đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần. Và khi ấy chắc chắn chúng ta sẽ biết cách nói theo hướng dẫn của Đức Chúa Trời Ngôi Ba.
2. Ơn xây dựng sự hiệp nhất:
Ngày lễ Ngũ Tuần, khi hiện xuống trên các Tông đồ, Chúa Thánh Thần một cách nào đó thông ban ơn xây dựng sự hiệp nhất. Nhiều người thuộc nhiều quốc gia, dân tộc và tiếng nói có mặt lúc bấy giờ đã hiểu những lời rao giảng của các Tông đồ (x.Cvtđ 2,13). Chúa Thánh Thần chính là nguyen lý của sự hiệp nhất. Người làm cho muôn dân nên một trong Đức Kitô.
Nói đến sự hiệp nhất là giả thiết phải nhìn nhận sự khác biệt. Có những sự khác biệt chính đáng vốn là tất yếu khách quan. Đó là sự khác nhau về màu da, chủng tộc hay ngôn ngữ. Đó là sự khác nhau về phận vị, nghề nghiệp do sự phân công, phân nhiệm của xã hội. Đó là sự khác nhau về tư tưởng, chính kiến hay quan niệm sống do bởi hoàn cảnh lịch sử hay nên văn hóa chi phối hoặc do ý thức tự chọn của mỗi người xét như một chủ thể có lý trí và ý chí tự do... Nếu không nhìn nhận và tôn trọng những khác biệt chính đáng này thì chỉ có sự đơn nhất và đồng nhất trong bạo lực của độc tài, độc đoán, độc quyền. Và sự chia rẽ sẽ xuất hiện vì nhu cầu đấu tranh sinh tồn.
Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người mỗi ơn...nhưng tất cả là để phục vụ ích chung (x. 1Cor 12,4-6). Sự hiệp nhất ở đây được thể hiện nơi việc cùng huớng đến một mục đích: ích chung. Văn hào St Exupéry hình như cảm nhận chân lý này khi nói: “yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau mà cùng nhau nhìn về một hướng”. Cùng với Đức Bênêđictô XVI qua bài diễn văn đọc tai Hội Đồng Lỉên Hiệp Quốc tháng 7/2008 vừa qua, chúng ta có thể nói rằng ích chung của nhân loại xét như là con người đó là nhân quyền. Những quyền lợi căn bản của con người (quyền sống, lao động, học tập, cư trú, đi lai, ngôn luận...) mà Liên Hiệp Quốc tuyên bố cách đây đúng 60 năm chính là một trong những mục đích chính yếu giúp ta hiệp nhất với nhau khi ta nỗ lực dệt xây.
Với những người tin vào Đức Kitô thì một trong những mục đích chính đó là “nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành” (x.Mt 5,48). Qua Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thông phần sự sống thần linh của Thiên Chúa và với Người anh cả Giêsu, chúng ta là anh chị em với nhau cùng mot Cha trên trời. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Nên hoàn thiện như Cha trên trời không chỉ dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà phải tiến đến chỗ tích cực là hãy làm cho tha nhân những gì mình muốn họ làm cho mình, vì đó là tất cả những gì được dạy trong lề luật và lời các ngôn sứ (x.Mt 7,12). Để cụ thể hóa thái độ sống này Chúa Giêsu truyền bảo chúng ta là “hãy yêu thương nhau như Người yêu thương chúng ta” (x. Ga 13,34).
Cúi xuống phục vụ người mạnh khỏe cũng như người đau yếu, cúi xuống phục vụ người sang giàu cũng như người nghèo hèn, cúi xuống phục vụ người dễ thương cung như người đáng ghét... là thái độ sẵn sàng đón nhận hồng ân Thánh Thần cách rất tốt đẹp. Vũng đất càng sâu thì nước các nơi sẽ tuôn đổ về càng nhiều. Càng khiêm nhu, bỏ mình để yêu thương phục vụ vô vị lợi thì cang xây dựng tình đoàn kết hiệp nhất, vì khi ấy Thánh Thần, nguyên lý của sự hiệp nhất đang tràn đầy trong chúng ta.
Mong sao người ta đừng đánh lận con đen giữa ích chung và ích riêng, ích riêng của cá nhân hay phe phái của mình. Mong sao hai từ phục vụ được thể hiện cách đích thực là việc làm của người tôi tớ. Cũng mong sao ngày càng hiếm dần và mất hẳn cái cảnh các “quan đầy tớ đạo đời” vinh thân phì da, miệng lưỡi gang thép, chỉ tay năm ngón...để cho đoàn đoàn lớp lớp ông chủ phải khom lưng chầu chực và cật lực hầu hạ.
Chúa Thánh Thần đã được ban cho nhân loại từ Trái Tim Cực Thánh của Chúa Kitô chịu đâm thâu trên thập giá (x. Ga 19,31-37). Chúa Thánh Thần đã được ban cho Hội Thánh cách đặc biệt ngày Lễ Ngũ Tuần. Mong sao khi “lửa cháy” và “gió lên” thì phát sinh nhiều hiệu quả tốt đẹp, nhờ chúng ta biết sẵn sàng đón nhận, nếu không thì hậu quả sẽ là “tro và bụi” that nguy hiểm và khó lường.
146. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên)
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến!
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông.
Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần, vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”. Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở””.
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khac. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
***
Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Cùng với toàn thể Hội Thánh, hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, có lẽ, chúng ta chỉ biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa mà thôi. Đối với không ít người Công Giáo, Chúa Thánh Thần như một Đấng xa lạ, thậm chí, Ngài chẳng có ảnh hưởng gì mấy tới đời sống của chúng ta. Nhưng thực ra, Chúa Thánh Thần có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong đời sống của Giáo Hội, mà còn trong cả đời sống của mỗi người chúng ta nữa.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Hội Thánh
Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, chúng ta đã nhận thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng qua hình ảnh: “Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước”, làm tác sinh muôn loài muôn vật. Thần Khí Chúa được ban cho các ngôn sứ, các vua cũng như các vị thủ lãnh, để các ngài thi hành và chu toàn bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa.
Bước sang thời Tân Ước, Chúa Thánh Thần không ngừng hướng dẫn các hoạt động trong cuộc đời Chúa Giêsu, kể từ lúc Ngài thành hình trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria (Vì Chúa Giêsu thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần) cho tới tận đỉnh đồi Golgotha. Sau cùng, Thiên Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Kể từ sau khi Đức Giêsu về trời cho đến hôm nay, Chúa Thánh Thần hằng hoạt động để hướng dẫn Hội Thánh. Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung. Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân. Ngài hiện diện trong cac Bí Tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Thế nên, có thể nói rằng: Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu giống như bất cứ một cơ cấu tổ chức xã hội nào khác.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta
Kể từ khi lãnh Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn cuộc đời mỗi người chúng ta. Đặc biệt, qua Bí Tích Thêm Sức, chúng ta nhận được một cách dồi dào bảy ơn Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta trở nên “chiến sĩ Chúa Kitô”, can đảm làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Chúa Thánh Thần còn có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa. Ngài có mat khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng…
Không những thế, Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất các Kitô hữu. Câu chuyện tháp Baben xưa, loài người vì kiêu ngạo, muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị chia rẽ và phân tán, thì nay, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ có thể nói mà nhiều người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được; mọi người ở các quốc gia khác nhau cùng tuyên xưng một niềm tin vào Chúa.
***
Trong khi hiện ra với các môn đệ, cùng với việc thở hơi để trao ban Thần Khí, Chúa Giêsu còn ban bình an cho các môn đệ, đang khi các ông lo lắng, phiền muộn. Như vậy, Chúa Thánh Thần còn là nguồn bình an mà Chúa Giêsu trao tặng cho mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận món quà đó, chúng ta cũng được mời gọi trở nên bình an cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người đang sống trong cảnh khốn cùng; để chớ gì, bất cứ nơi đâu có dấu chân của chúng ta bước tới, nơi đó có sự bình an.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cơ hội nhắc nhở mọi người chúng ta suy nghĩ lại về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Chúa Thánh Thần, dù được cầu khấn mỗi khi chúng ta bắt đầu một công việc, nhưng dường như sự kêu cầu này đã trở nên máy móc, và chúng ta không còn ý thức đến sự hiện diện của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chưa lắng nghe và vâng theo sự chỉ dạy và hướng dẫn của Ngài. Làm sao để Chúa Thánh Thần có một chỗ đứng quan trọng trong cuộc đời chúng ta?
Thánh Phaolô tông đồ nói: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí” (1Cr 12,4). Như vậy, mỗi thành phần trong Giáo hội đều có những vai trò khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu chung là xây dựng thân thể Hội Thánh. Mỗi người chúng ta hãy duyệt xét lại bản than mình xem, tôi đã sử dụng những ơn huệ Chúa ban như thế nào? Tôi đã dùng để phục vụ và xây dựng Hội Thánh Chúa, hay sử dụng vào mục đích khác?
Chúa Thánh Thần đã, đang và vẫn còn hoạt động trong Hội Thánh, thế nhưng, đôi lúc, chúng ta chưa nhận ra Ngài là vì như câu chuyện kể trên, chúng ta chưa khao khát Ngài cho đủ, chưa mong muốn Ngài thực sự. Dâng thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ hướng dẫn chúng ta, như xưa, Mẹ đã hướng dẫn các môn đệ trong nhà Tiệc Ly, để chúng ta có thể mở lòng ra, đón nhận một cách dồi dào những nguồn ơn phúc vô biên của Chúa Thánh Thần. Amen.
147. Hiệp nhất
(Trích trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’ của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Ai ai cũng thấy đoàn kết hiệp nhất là cần thiết, quan trọng và hữu ích:
- Ca dao có câu “Một cây làm chẳng nên non...”
- Và còn một câu khác: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
- Còn sách Công Vụ thì kể rằng sở dĩ thuở ban đầu Giáo hội phát triển rộng là nhờ các tín hữu rất đoàn kết yêu thương nhau, người lương thấy cuộc sống hiệp nhất yêu thương ấy qúa tốt đẹp và đầm ấm nên thích và xin gia nhập Giáo hội.
Nhưng làm sao để có đoàn kết và hiệp nhất?
- Theo thiển ý, muốn có đoàn kết hiệp nhất thì trước hết phải biết tôn trọng sự dị biệt. Nhiều khi những người sống chung trong tập thể cứ hục hặc nhau hay buồn phiền nhau chỉ vì người này khó chịu vì người kia có tính tình khác mình, có cách suy nghĩ khác mình, có sở thích khác mình... Thấy người ta khác mình là mình bực bội, mình phê phán, mình ghét bỏ. Thực ra “bá nhân bá tánh”. Và khi Thiên Chúa dựng nên người ta, Người cũng dựng nên mỗi người có net riêng của người đó. Nói theo từ ngữ triết học thì mỗi người là một hữu thể độc đáo. Ta phải tôn trọng sự dị biệt nơi người khác. Đừng ai bắt ai phải có cùng một cá tính, một cách suy nghĩ, một cách làm việc, một sơ thích giống y như mình. Thấy người ta khác mình nhưng mình vẫn tôn trọng người ta, đó là cơ sở thứ nhất tạo sự đoàn kết hiệp nhất.
- Điều kiện thứ hai, khi ta đã tôn trọng sự dị biệt nơi người khác thì ta phải biết tương nhượng, nghĩa là nhường nhịn nhau. Vì bá nhân bá tánh nên có nhiều lúc trong cuộc sống chung, ý của người này và người kia khác nhau. Nếu hai bên cứ khăng khăng đòi người kia phải theo ý mình thì đương nhiên sẽ dẫn tới cãi co hoặc bất mãn không hợp tác. Cho nên mỗi bên phải nhường một chút. Quyết định chung là kết quả của sự dung hòa ý kiến của hai bên.
- Điều kiện thứ ba, nhưng là điều kiện quan trọng nhất, đó là mọi người đều ý thức rang mình có chung một nguồn gốc, một tinh thần. Cũng như anh chị em trong gia đình dễ tương nhượng nhau, dễ tha thứ nhau, dễ đoàn kết hiệp nhất với nhau và nhờ mọi người ý thức mình là con của cùng một cha mẹ sống chung trong một mái nhà. Thì cũng thế chhúng ta ý thức rằng ai ai dù thế nào đi nữa thì cũng là con người, cũng là đồng bào với nhau thì sẽ dễ đoàn kết nhau hơn. Đối với chúng ta những người Kitô hữu, nếu chúng ta ý thức thêm rằng chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu là con Thiên Chúa thì chúng ta cũng dễ yêu thương nhường nhịn và đoàn kết với nhau hơn. Nhưng ai sẽ nhắc chúng ta ý thức điều đó và ai sẽ giúp chúng ta thực hiện đoàn kết hiệp nhất theo ý thức đó? Thưa Chúa Thánh Thần.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Ngài giúp chúng ta.
- Trước hết là biết tôn trọng sự dị biệt nơi những người sống chung với ta.
- Thứ hai xin Ngài giúp mỗi người chúng ta thêm khiêm tốn để có thể tương nhượng người khác khi có bất đồng.
- Và nhất là xin cho mọi người ý thức mình đều là con Chúa, đều là môn đệ Chúa cho nên đều phải yêu thương nhau.
148. Tái tạo
(Trích trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’ của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện các môn đệ Chúa Giêsu tự nhốt mình trong một căn phòng đóng kín các cửa, lòng đầy sợ sệt. Nhưng sau đó Chúa Giêsu đến với họ và sai họ ra đi, khi đó lòng họ vui mừng và bình an.
Chuyện xảy ra với các môn đệ ngày xưa cũng là chuyện thường xuyên xảy ra cho chúng ta ngày nay. Vậy chúng ta hãy xem lại từng bước câu chuyện này.
Bước thứ nhất: các môn đệ nhốt mình trong phòng kín. Đây là tâm lý co cụm, khép kín. Một tâm lý thường xảy ra. Chắc nhiều người đã biết chuyện Lan và Điệp. Hai người yêu nhau tha thiết. Nhưng Điệp bị gài bẫy nên bị bó buộc phải cưới một người khác. Lan buồn quá. Rồi Lan làm gì? Lan co cụm lại bằng cach đi vào trốn trong chùa. Lan không muốn gặp gỡ ai cả nên trong chùa có một chiếc chuông để khi ai muốn gặp người nào trong chùa thì kéo chuông. Lan cắt đứt luôn sợi dây chuông ấy, nghĩa là cắt đứt hẳn mọi liên hệ với mọi người khác.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta vì nhiều lý do nên cũng rơi vào tâm lý co cụm khép kín như thế. Lý do của Lan là thất tình. Có người khác co cụm vì thất vọng. Có người khác nữa vì mặc cảm tội lỗi. Còn lý do của các tông đồ trong tường thuật này là sợ: các ông coi ai cũng là kẻ thù có thể hại mình bất cứ lúc nào nên co rút vào trong phòng và đóng kín các cửa lại. Nhưng ta nên biết con người là một hữu thể mang tính xã hội. Làm người là phải sống với những người khác. Càng sống với chừng nào thì càng đúng là người chừng nấy. Khi ai đó co cụm lại, rút vào vỏ sò thì kể như người ấy không còn là người nữa, người ấy như đã chết.
Ta hãy trở lại câu chuyện Lan và Điệp. Vì Lan đã cắt đứt dây chuông nên Điệp không đến với Lan được. Hai người không bao giờ gặp nhau nữa và dần dần chết héo chết mòn. Chuyện tình của họ đi vào ngõ cụt không lối thoát. Còn câu chuyện trong bài Tin Mừng này thì khác hẳn. Các tông đồ đóng kín cửa không muốn gặp ai, nhưng Chúa Giêsu thì chủ động tìm gặp họ. Họ không có khả năng đến với Chúa thì Chúa chủ động đến với họ. Như thế là Ngài phá vỡ một chiều hướng của sự co cụm. Nói cách khác, Chúa Giêsu mở cho họ một cánh cửa, cánh cửa mở ra phía Chúa. Ngài còn mở cho họ cánh cửa thứ hai hướng về phía tha nhân bằng cách sai họ đi, đi ra khỏi thế co cum của mình để đến với người khác. Con người là một hữu thể có tính xã hội, làm người là phải sống với người khác. Khi con người cắt đứt mọi liên hệ thì người đó kể như chết. Nay Chúa Giêsu đến với các tông đồ và còn sai họ đến với người khác tức là Ngài nối lại những mối dây liên hệ, tức là Ngài làm cho họ sống lại. Nói đúng hơn, Chúa Giêsu đã tác tạo các môn đệ.
Nhờ đâu mà Chúa Giêsu tái tạo được các môn đệ như thế. Thưa nhờ Chúa Thánh Thần. Bài Tin Mừng này có một chi tiết hàm chứa ý nghĩa rất sâu. Đó là Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Cũng như ngày xưa Ađam ban đầu chỉ là một tượng bằng bùn đất, nhưng ngay khi Thiên Chúa thổi hơi vào thì tượng bùn đất ấy trở thành người. Thì ngày nay cũng thế, Chúa Giêsu thổi hơi vào các tông đồ. Làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, nhờ Chúa Thánh Thần mà các môn đệ đã được tái tạo lại thành những con người mơi.
Những con người mới này có những gì đặc biệt: thưa cái đặc biệt thứ nhất là niềm vui. Bài Tin Mừng nói “các tông đồ vui mừng vì thấy Chúa”; cái đặc biệt thứ hai là bình an: không còn sợ gì nữa cả nhưng lòng rất thanh thản. Bài Tin Mừng viết “Chúa Giêsu đứng giữa các ông và nói: bình an cho chúng con”; và cái đặc biệt thứ ba là mang ơn tha thứ đến cho những người khác, bài Tin Mừng nói “Chúng con hãy nhận lấy Thánh Thần. Chúng con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha”.
Nhiều khi chúng ta rơi vào tâm trạng sợ sệt, bất an, mặc cảm tội lỗi. Khi đó chúng ta co cụm lại, rút lui vào nỗi cô đơn của mình và không muốn gặp ai cả. Tình trạng này thật là buồn chán. Phải sống trong tình trạng này thì chẳng khác nào như đã chết. Do đó cần phải có ai đó giúp chúng ta thoát khỏi tâm trạng bất thường ấy. Người ấy là ai? Thưa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng tái tạo những gì suy sụp và hư mất. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng kính Chúa Thánh Thần. Nếu có gì đang khiến chúng ta buồn sầu co cụm khép kín, chúng ta hãy bày tỏ với Ngài và xin Ngài giải thoát chúng ta, tái tạo chúng ta thành con người mới, an bình, vui tươi, vui sống với mọi người.
149. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống
(Suy niệm của John Nguyễn)
1. Bình an tâm hồn, điều kiện quan trọng để phát triển tâm linh
Trong Tin Mừng, sự bình an, đặc biệt sự bình an trong tâm hồn, được coi là một giá trị hết sức quan trọng. Khi Đức Giê-su sinh ra, muôn vàn thiên thần đã hát mừng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (Lc 2,14). Điều Đức Giê-su khuyên các môn đệ làm khi vào nhà mọi người để loan báo Tin Mừng là: "Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy" (Mt 10,12; x. Lc 10,5). Sau khi chữa lành bệnh cho ai, Đức Giê-su cũng chúc bình an cho người ấy (x. Mc 5,34; Lc 8,48). Khi gặp các môn đệ, nhất là những lần sau khi phục sinh, Đức Giê-su luôn luôn cầu chúc: "Bình an cho anh em!" (Lc 24,36; Ga 20,19; 20,26). Thánh Phê-rô và Phao-lô gọi Tin Mừng mà các ngài loan báo là "Tin Mừng bình an" (Cv 10,36; Ep 2,17; 6,15).
Trong cuộc sống đời thường, bình an là một điều kiện quan trọng để sống vui tươi hạnh phúc và để phát triển; trong đời sống tâm linh cũng vậy. Sự bình an trong tâm hồn là điều kiện quan trọng để đời sống tâm linh cũng như niềm vui nội tâm phát triển. Không có bình an trong tâm hồn, đời sống tâm linh không phát triển được. Và người có đời sống tâm linh phát triển thì tâm hồn luôn luôn bình an, bất chấp những xáo trộn, bất an do ngoại cảnh. Có bình an mới có hạnh phúc. Sự bình an mà Tin Mừng nói đến, mà Đức Giê-su cầu chúc hoặc hứa ban, chủ yếu là thứ bình an trong tâm hồn hơn là thứ bình an bị lệ thuộc vào ngoại cảnh. Bình an bên ngoài thuộc thể chất hay vật lý thì người thế gian cũng có thể ban cho ta được, nhưng họ khó có thể ban được bình an trong tâm hồn. Còn Đức Giê-su chủ trương ban sự bình an ấy: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian" (Ga 14,27). Sự bình an cũng như niềm vui nội tâm ấy "không ai lấy mất được" (Ga 16,22). Đó là một thứ bình an và niềm vui độc lập với ngoại cảnh, không vì khó khăn hay rắc rối bên ngoài mà bị mất.
Người Ki-tô hữu cần phải đạt được sự bình an và niềm vui nội tâm ấy. Để đạt được, họ chỉ cần thật sự tin tưởng vào Tin Mừng sống tinh thần Tin Mừng, vì Tin Mừng này là "Tin Mừng bình an". Sống tinh thần Tin Mừng là: sống yêu thương thật sự, tin tưởng và phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa, luôn tha thứ không để tâm chấp nhất lỗi lầm của bất kỳ ai, nhất là sống tinh thần tự hủy, không đặt quá nặng "cái tôi" của mình, nhận ra thánh ý Thiên Chúa luôn luôn khôn ngoan và đem lại nhiều ích lợi hơn ý riêng của mình, có tinh thần siêu thoát, không quá gắn bó với những thực tại chóng qua của trần gian...
2. Bình an nội tâm, điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần
Trong bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ không phải vô tình mà Đức Giê-su trước khi thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ đã lập lại một lần nữa lời cầu chúc "Bình an cho anh em!". Như vậy phải chăng để nhận lãnh Thánh Thần, thì điều kiện quan trọng là phải có tâm hồn bình an? Và đồng thời bình an cũng lại là kết quả của một tâm hồn tràn đầy Thánh Thần (x. Gl 5,22)? Thực ra, điều kiện quan trọng để nhận được Thánh Thần là phải có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, phải có tâm hồn trong sạch. Chính vì thế mà Giáo Hội buộc những ai lãnh nhận bí tích thêm sức - tức lãnh nhận Thánh Thần - phải sạch tội, nghĩa là có ân nghĩa với Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa. Mà một khi đã sạch tội, sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, sống theo tinh thần của Ngài thì đương nhiên sẽ có sự bình an trong tâm hồn.
Bình an này chỉ đến với hoặc ở với những ai xứng đáng với nó, tức những người sống theo tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương, tinh thần Tám Mối Phúc của Đức Giê-su (Mt 5,3-12), là lối sống siêu thoát: "Ai đáng hưởng bình an, thì bình an sẽ ở lại với người ấy" (Lc 10,6). Những người chạy theo tinh thần thế tục, coi trọng tiền bạc, danh vọng, địa vị hơn tình nghĩa, sống ích kỷ, vụ lợi, tham lam... không thể có được thứ bình an sâu xa này. Do đó, thay vì nói có ân nghĩa và tình yêu đối với Thiên Chúa là điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần, có thể nói cách khác: bình an nội tâm là điều kiện để lãnh nhận Thánh Thần. Thánh Thần có thể được ban cho người không có bình an vật lý hay thể lý, nhưng chắc chắn không thể ban cho người không có bình an nội tâm.
Những ai đã cảm nghiệm được sự bình an và niềm vui nội tâm thật sự - nghĩa là thứ bình an lâu dài và thường xuyên - đều cảm thấy đó là một phần thưởng rất lớn và xứng đáng cho việc sống theo tinh thần Tin Mừng của mình, vì họ đã được phần nào nếm trước hạnh phúc thiên đàng ngay tại trần thế này, thứ hạnh phúc tự tại trong lòng họ, không ai lấy mất được. Đang khi những người khác cho họ là dại dột vì từ bỏ những lợi lộc và thú vui trần tục, thì họ lại cảm thấy chính những người theo đuổi những thứ chóng qua và dễ bị cướp đoạt ấy mới là dại dột. Những người này đã từ bỏ một cái gì quí giá, sâu xa và trường tồn để đổi lấy cái mau qua, dễ mất. Các tông đồ và các Ki-tô hữu tiên khởi đã suy nghĩ như thế vì thật sự cảm nghiệm được sự bình an và Thánh Thần Đấng ban bình an luôn ở với họ. Các ngài đã quí Thánh Thần và sự bình an ấy hơn cả mạng sống và mọi thứ của cải trần gian. Còn chúng ta, những kẻ đang mang danh Ki-tô hữu, thì sao?
3. Nhận lãnh Thánh Thần để được sai đi
Ngay trước khi thổi hơi để ban Thánh Thần cho các tông đồ, Đức Giê-su không chỉ chúc bình an, mà còn nói: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em". Như vậy, việc lãnh nhận Thánh Thần còn có một mục đích quan trọng là để làm công việc của Thiên Chúa. Trong sách Công Vụ Tông Đồ, ngay sau khi lãnh nhận Thánh Thần, các tông đồ lập tức làm việc cho Thiên Chúa: rao giảng Tin Mừng một cách mạnh dạn, không sợ sệt, và còn làm được nhiều điều kỳ diệu: các ngài nói một cách rất bình thường nhưng ai nấy đều nghe thấy các ngài nói ngôn ngữ của mình, các ngài còn có thể trừ quỉ ám hay chữa khỏi những bệnh nan y trong chốc lát...
Thánh Thần được ban xuống trên những ai xứng đáng lãnh nhận với nhiều quyền năng kèm theo, không phải để phục vụ cho lợi ích riêng của người ấy, mà vì lợi ích chung của mọi người: "Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung" (1 Cr 12,7). Vì thế, những ai được ơn đặc biệt của Thánh Thần đều phải dùng ơn ấy để phục vụ mọi người, nhất là để loan báo Tin Mừng, để thăng tiến đời sống tâm linh con người, để giúp ích cho Giáo Hội, cho xã hội và thế giới. Không ai lãnh nhận ơn Thánh Thần lại được phép dùng ơn ấy cho lợi ích riêng của mình: để được danh tiếng, được kính nể, nhờ đó được lên chức, được nắm quyền, được dồi dào tiền bạc, v.v... Những người có những ý hướng vị kỷ ấy cho dẫu có làm những công việc tốt đẹp, cũng không thể lãnh nhận Thánh Thần.
Vậy, muốn lãnh nhận Thánh Thần, chúng ta cần phải có "bụng chung", biết lo lắng cho công việc chung, của Giáo Hội hay xã hội, của tập thể hay cộng đoàn, của quê hương đất nước. Vừa tha thiết xin Thánh Thần đến với mình, vừa giữ tính ích kỷ, chỉ biết vun quén cho mình, không hề nghĩ đến người khác thì chẳng khác gì muốn thổi cơm mà lại đổ cát vào nồi. Thật là "công dã tràng", nhưng có biết bao Ki-tô hữu đang làm như vậy! Bạn có làm như vậy không? Đừng chờ đợi có ơn Thánh Thần rồi mới làm tông đồ, hãy hăng say làm tông đồ trước đi rồi tự động Thánh Thần sẽ được ban cho ta!
CẦU NGUYỆN
Tiếng Chúa nói với tôi: "Sự bình an của Cha rất quí giá, nên đã có biết bao người sẵn sàng hy sinh tất cả để có được sự bình an ấy! Họ là những người khôn ngoan. Vì chỉ có thể thứ bình an ấy mới làm cho họ hạnh phúc, thứ hạnh phúc mà thế gian không thể ban được, cũng không thể hủy hoại được. Thứ bình an ấy, Cha chỉ ban cho những người xứng đáng, những người dám thật sự sống Tin Mừng của Cha. Con chắc chắn sẽ được sự bình an ấy nếu con thật sự sống đúng những đòi hỏi của Tin Mừng. Con có dám sống như thế không? Nếu không dám thì con cũng đừng lấy làm lạ và thắc mắc tại sao Cha không ban thứ bình an ấy cho con!".
150. Những lời trịnh trọng sau hết
Vào một buổi sáng tinh sương, các khách hàng đang ngồi ăn và xì xèo với nhau trong một tiệm ăn sáng, thì đột nhiên một người chạy vào tiệm ăn và hét lớn, "Mọi người hãy bỏ chạy nhanh lên, Big Jake đang vô đây!" Khi mọi người đang quính quít lên bỏ chạy thì một gã đàn ông to lớn đạp cửa đi vào và nói với người chủ quán, "Cho tôi một gallon cà phê." Người chủ quán liền cấp tốc pha một gallon cà phê cho Big Jake. Sau khi uống xong, người chủ quán hỏi tiếp, "Thưa ông, ông có muốn uống thêm 1 gallon nữa không?" "Không cần đâu," Big Jake trả lời, "Tôi cần phải đi bởi vì tôi nghe nói rằng Big Mike đang đến."
Bài Phúc Âm hôm nay tả lại cái cảnh buổi tối ngày Chúa Nhật Phục Sinh thứ nhất. Các tông đồ đang sợ hãi trốn tránh sau cánh cửa đóng kín và khóa chặt. Họ sợ bị bắt và sẽ bị giết như chính Thầy của họ. Họ sợ rằng họ sẽ là những người kế tiếp sẽ bị đóng đinh. Tuy thế, sự sợ hãi của họ đã làm cho họ lầm lạc. Chúa Giêsu đã phục sinh và đang đến với họ.
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!... Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em... hãy đón nhận lấy Thánh Thần" (Gn 20:19-22).
Vào ngày Lễ Hiện Xuống hôm nay, Chúa Giêsu đến với chúng ta. Ngài đang hiện diện ở đây và nói với mỗi người chúng ta rằng, "Bình an cho các con... như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con..." Hy vọng rằng chúng ta sẽ được giải thoát khỏi những mối bận tâm và lo lắng và chiếm đoạt được sự bình an trong tâm hồn.
Chúa Giêsu đến với con người và chứng tỏ quyền năng cao cả của Đấng Phục Sinh. Ngài đã phục sinh để qua đó chúng ta được ơn bình an trong tâm hồn, để đem đến cho chúng ta sự sung mãn, và làm cho chúng ta có thể chiếm được sự sống hoàn hảo và hoàn toàn mãi mãi.
Tất cả mọi người chúng ta đều đã cảm nghiệm được "Những Ánh Nắng của Thiên Chúa" ở ngoài bờ biển, trên núi cao, hoặc là những nơi khác. Điều đáng buồn đó là chúng ta cần những cái gì mà nó đập thẳng vào mắt của chúng ta. Cũng như thế, sự Phục Sinh của Chúa Kitô hiện diện ở khắp mọi nơi ở tạo vật, ở mọi người mà chúng ta gặp ở ngoài đường phố. Tất cả mọi sự chung quanh chúng ta đều được trang trí bằng sự hiện diện của sự thần linh của Thiên Chúa. Đó là điều mà Tân Uớc vẫn nói với chúng ta. Tuy nhiên đó chỉ là một sự bắt đầu.
Chuyện đã xảy ra cho các Kitô hữu thời sơ khai đó là Thiên Chúa đã đến và ngự giữa họ, và họ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa bằng một cách mới mẻ, mạnh mẽ, trào tràn, và đầy đủ, mà họ không thể nào giữ nổi trong mình. Họ phải đi để chia sẻ về Tin Mừng này.
Điều mà họ nhận thức được từ trong nội tâm của họ đó là sự yêu thương của Chúa Cha hiện diện ở trong Người Con của Ngài, Người Con đã đang hiện diện ở giữa họ như là một mẫu gương tuyệt hảo cho sự sống của mọi người.
Rất nhiều người nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng có bao nhiêu người nhận ra Ngài? Rất nhiều người nhìn thấy bóng của Ngài, dân của Ngài, và lời giáo huấn của Ngài, thế nhưng đếm ngón tay có được bao nhiêu người nhận ra Ngài? Chỉ có một số rất ít người đã nhìn thẳng vào Ngài và nói với Ngài, "Con tin rằng Ngài là Con Thiên Chúa... Ngài là nguyên nhân của sự vui mừng... Con vui mừng khi có sự hiện diện của Ngài ở giữa con."
Trong cuốn sách trích lại những lời quí hóa cuối cùng của các vĩ nhân có ghi lại những lời của những người sau đây.
Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã trối, "Tôi thấy nhức đầu quá."
Tác giả của tờ báo Washington Irving đã nói, "Thôi, tôi phải xếp gối để chuẩn bị cho một buổi tối mệt mỏi! Khi nào thì việc này mới kết thúc!"
Nhạc sĩ Beethoven đã nói, "Các bạn hãy vỗ tay, màn kịch đã chấm dứt!"
Thánh Gioan Tông Đồ đã ghi lại lời cuối cùng của Chúa Giêsu, "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em."
Trong khi chúng ta ra đi như lời Chúa Giêsu đã truyền dạy, chúng ta đừng ngại làm với bàn tay lấm lét. Nếu những người láng giềng hoặc cộng đoàn cần đến sự giúp đỡ, chúng ta hãy mau mắn đáp lại. Đừng để cho sự ích kỷ trà trộn vào trong tâm hồn chúng ta. Nếu một người nào đó đang cần sự tha thứ, chúng ta đừng để cho lòng thù hận che đậy sự công chính của mình. Nếu một anh chị em đang cần giảm đi sự cô đơn, chúng ta đừng để cho mình bị bám chặt vào cái tính thờ ơ lãnh đạm.
Thế giới của chúng ta đang sống tràn đầy những đau khổ. Nhiệm vụ của chúng ta đó là làm những gì mình có thể để giảm bớt đi những khổ đau đó. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho người khác được hạnh phúc để chúng ta cũng sẽ được hưởng sự hạnh phúc. Thiên Chúa sẽ rất hài lòng với chúng ta bởi vì chúng ta làm theo lệnh Ngài truyền.
151. Chúa Thánh Thần, Đấng thông ban mọi sự
Chúa Giêsu khi chịu chết trên Thập Giá, Ngài đã bị tên lính lấy lưỡi đòng đâm thấu cạnh nương long để máu cùng nước chảy ra từ đó sinh ra nguồn sự sống cho nhân loại, khai sinh Giáo hội Chúa Kitô. Nhưng để Giáo hội ấy được giới thiệu với thế giới thì phải đợi đến 50 ngày sau tức vào ngày Lễ Ngũ Tuần, phải đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì dân Do Thái hay nói rộng hơn là thế giới mới nhận ra khuôn mặt của Giáo hội Chúa Kitô. Như thế, Chúa Thánh Thần đã làm một cuộc đổi mới nơi Giáo hội, đã hoàn tất những gì mà Chúa Giêsu đã thực hiện nơi đời sống dương thế của Ngài. Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống ta hãy suy niệm để thấy được vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội cũng như trong chính cuộc sống chúng ta.
Trước hết, Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất trong Giáo hội. Giáo hội được Chúa Kitô thiết lập mà các tông đồ là những tín hữu đầu tiên. Ngay trong cuộc thương khó của Chúa Kitô, các tông đồ, các môn đệ đã bỏ chạy tán loạn. Sau khi Chúa Phục sinh mặc dù các tông đồ có hội họp lại với nhau nhưng sự hiệp nhất này là vì sợ hơn là vì tin vào Chúa phục sinh, bằng chứng là Tôma đã có lần không cùng hiệp nhất với các môn đệ khác. Nhưng trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống các ông đã có mặt đông đủ và như trong bài đọc Tông Đồ Công Vụ 2,1-11 thuật lại rằng "Mọi người kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của họ". Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi những con người tầm thường thành những con người truyền giáo, từ những người phường chài ít học trở nên người nói lời Thiên Chúa cách lưu loát và đặc biệt Chúa Thánh Thần biến đổi mọi người để họ cùng nghe và cùng hiểu Tin Mừng của Thiên Chúa được loan báo cho mọi dân tộc.
Nhìn vào Giáo hội ngày nay Chúa Thánh Thần đóng vai trò hiệp nhất trong Giáo hội cách đặc biệt. Ngài hiệp nhất muôn dân tộc, muôn người... để cùng tuyên xưng vào một Thiên Chúa duy nhất. Trong Chúa Thánh Thần không có khoảng cách, không có ranh giới. Dù có sự khác nhau về địa lý, và bản sắc văn hoá nhưng tất cả đều nên một trong Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần là nguồn động lực và phát kiến cho mọi hoạt động tông đồ. Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu và ngay cả khi Chúa Giêsu Phục Sinh thì các tông đồ luôn sống trong sợ hãi, luôn sống trong hoang mang bí lối... Nhưng với sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống thì các ông đã biến đổi một cách rõ rệt. Một Phêrô nhút nhát chối Thầy nay mạnh dạn tuyên xưng: vị chịu chết trên Thập Giá là Thầy mình, là Thiên Chúa, và cùng với Gioan ông đã mạnh dạn tuyên bố "Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa điều ấy có phải lẽ không?" (Cv 4,19). Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ hăng say đi rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh và với những con người tham sống sợ chết mà nay lại dám lấy mạng sống mình để minh chứng Đấng chịu chết trên Thập Giá là Thiên Chúa. Sự lớn mạnh của Giáo hội thời sơ khai chính là bằng chứng cho thấy rõ sự hoạt động của Chúa Thánh Thần như: Các tông đồ mạnh dạn đi loan báo Tin Mừng, thiết lập các phó tế, thành lập các giáo đoàn, Rửa tội cho dân ngoại.. Như thế chính Chúa Thánh Thần là nguồn động lực và phát kiến mọi hoạt động tông đồ.
Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong Giáo hội chúng ta ngày nay đơn cử như Giáo hội Việt Nam chúng ta. Năm 1553 Tin Mừng được loan báo đến nước Việt Nam chúng ta nhưng phải trải qua nhiều gian lao khó khăn. Và hàng vạn người đã lấy mạng sống mình để tuyên xưng niềm tin. Nhìn với khía cạnh con người đây qủa là một thất bại vì sự mất mát quá lớn. Nhưng dưới tác động của Chúa Thánh Thần thì những khó khăn, tù đày, nhục hình... được mặc cho một ý nghĩa lớn lao hơn, nó như là hạt giống ươm mầm cho ngày nay nước Việt Nam có hàng triệu con người Việt Nam tin vào Thiên Chúa. Và hiện nay Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động âm thầm qua những biến cố, những cảnh huống của cuộc sống để đưa dẫn mọi người vững bước trên con đường đi theo Chúa.
Còn nhiều, còn nhiều những tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống của Giáo hội nói chung và trong mỗi con người chúng ta nói riêng. Như thế chúng ta phải sống như thế nào để cộng tác với Chúa Thánh Thần Đấng vẫn hằng hoạt động trong chúng ta.
Chúa Thánh Thần là Đấng thiêng liêng, vô hình. Chẳng phải Chúa Thánh Thần chỉ được ví như là lửa, gió, nước... Nhưng phải nhớ rằng Ngài là Đấng thiêng liêng và hoạt động của Ngài là vô tận nên ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần để Ngài ban cho ta nhận được đâu là thánh ý Thiên Chúa muốn chúng ta hoàn thành trong đời sống của mình. Mặt khác, chúng ta đừng bó buộc Chúa Thánh Thần phải là như thế này như thế kia, nhưng Ngài là tất cả nên chúng ta phải suy ngắm để khám phá được Ngài.
Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất và Ngài muốn chúng ta là dụng cụ để Ngài thực hiện sự hiệp nhất đó trong gia đình, trong lối xóm, trong xã hội... Nên khi trong chúng ta có sự bất hoà là khi chúng ta đi ngược lại với sự tác động của Thần Khí.
Chúa Thánh Thần là nguồn và phát kiến mọi hoạt động tông đồ. Hãy để Chúa Thánh Thần hành động trong chúng ta. Hãy hoạt động hết khả năng của mình trong sự suy ngắm và cầu nguyện để rồi Chúa hoàn tất những gì Ngài muốn thực hiện.
Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đổi mới mọi sự trong ngoài chúng ta để chúng ta được trở nên mềm mại trong lòng bàn tay Thiên Chúa từ đó Ngài sẽ làm nên những tác phẩm đẹp ý Ngài.
152. Suy niệm của Lm Lâm Thái Sơn
Mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần
Đối với một vài quốc gia thuộc Châu Âu, lễ «Chúa Thánh Thần Hiện Xuống» là lễ trọng, do đó ngày nghĩ lễ cũng được kéo dài, có nhiều xưởng hãng cho phép «nghỉ bác cầu» từ chiều thứ năm đến sáng thứ ba tuần sau. Và ta thấy từng đoàn xe nhôn nhao rời khỏi làng hoặc thành phố nơi mình trú ngụ để đi đây đi đó, lên núi hoặc xuống miền biển nắng ấm. Nếu những ngày đó có mặt trời và ta được dịp đi biển, hẳn nhiên ta sẽ chứng kiến những cánh buồm nho nhỏ hoặc ra khơi hoặc đùa giỡn với những làn sóng biển nhờ những luồng gió thổi mạnh. Con người chỉ cần lèo lái và ung dung đùa giỡn trên mặt biển, nhưng điều cần thiết là phải có gió.
Vậy thì bài đọc thứ nhất hôm nay cũng cho chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của Gió, vì gió và lửa biểu tượng sự hiện diện của Thần Linh Thiên Chúa: «khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió thổi mạnh, lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện, và mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần» (Cv 2,1-11).
Khi đề cập đến «gió, lửa, mây mù, sấm chớp» như dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, ta cần nhớ lại một vài đoạn Kinh Thánh: Lúc khởi đầu sáng tạo trời đất, thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước (St 1,1-2); lúc giải thoát dân It-ra-en ra khỏi đất Aicập vượt qua Biển Đỏ: Thiên Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh dồn biển lui, nước rẽ ra và con cái It-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn (Xh 14,15-31); lúc ban mười điều luật: Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Thiên Chúa ngự trong đám lửa mà xuống và cả núi rung chuyển mạnh (Xh 19,16-24).
Gió không những biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa, mà còn tượng trưng Thần Linh Thiên Chúa, vì Thần Khí là sự sống. Với lời văn bóng bẩy, tác giả sách Sáng Thế viết: Lúc tạo dựng, Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (St 2,7); Trong sách Gióp, ông Êlihu nói: Sinh khí Thiên Chúa đã làm ra tôi, hơi thở của Đấng Toàn Năng đã cho tôi được sống (G 33,4). Lời văn tuy giản dị nhưng rất gợi hình và đầy ý nghĩa. Phải chăng khi đề cập đến người chết, ta cũng đã từng nói rằng (ông/bà) đó đã trút hơi thở cuối cùng. Vì hơi thở là sự sống, là Thần Khí, do đó sau khi Đức Giêsu Phục Sinh: Nơi các môn đệ ở, Ngài đến giữa các ông và nói «bình an cho anh em», đoạn Ngài thổi hơi cho các ông và bảo «anh em hãy nhận lấy Thánh Thần» (Ga 20,19-23). Từ lúc đó, các môn đệ lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Linh.
Và Giáo Hội cũng được khai sinh vào lúc Thần Linh Thiên Chúa ngự trên các môn đệ với những dấu chỉ gió và lưỡi lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần. Lễ mừng kỷ niệm ngày khai sinh của dân Hy-bá tại núi Xi-nai đã trở thành ngày khai sinh của một Dân tộc mới, và từ nay Thần Khí đến thay thế Lề Luật. Ở núi Xi-nai, Lề Luật được ghi khắc bất động vào đá như một bảo chứng về lâu dài. Ngược lại, lửa và sinh khí của Thần Linh Thiên Chúa không bị chế ngự và giam kín, mà luôn soi sáng sứ điệp Tin Mừng cũng như thúc giục con người biết sống tự do không bị ràng buộc bởi tội lỗi, biết yêu thương như chính Thiên Chúa yêu thương.
Do đó, lễ Hiện Xuống được xem như biến cố phá tan những ranh giới văn hoá, sắc tộc, địa dư và tôn giáo tại Ít-ra-en. Từ nay nhân loại hoàn vũ với những khác biệt ngôn ngữ, văn hoá, não trạng và truyền thống được mời gọi làm công dân Nước Thiên Chúa, chứ không chỉ riêng một dân tộc Ít-ra-en nhỏ bé khép kín với những đặc ân thuở xưa; hơn nữa, dấu chỉ thuộc dân riêng không cần được ghi khắc vào da thịt (nghi thức cắt bì) mà khắc ghi vào tim trong hoán cải canh tân.
Sự đa dạng của các dân tộc được xem như điều phong phú cho nhân loại, tuy nhiên tính cách đó, trong bóng tối tội lỗi, có cơ nguy gây chia rẽ và thù hận giữa con người với nhau, thí dụ điển hình cho sự bất hạnh nhân loại đó là «tháp Ba-ben»: dự án xây dựng một thành phố với tháp có đỉnh cao chọc trời, một dự án ngạo mạn loại bỏ Thiên Chúa, tức nhiên chối từ tình yêu đưa đến sự xáo trộn tiếng nói và từ đó nhân loại bị phân tán khắp nơi trên mặt đất (St 11,1-9).
Vậy thì lễ Hiện Xuống được xem như một sự đối chọi vang lừng với tháp Ba-ben: Lúc đó, tại Giêrusalem vào lễ Ngũ Tuần, mọi người kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các Tông Đồ nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt, thán phục... (Cv 2, 1-11), bởi vì vượt trên các thổ ngữ, có một thế giới ngữ đó là tiếng nói của tình yêu và cũng chính là ngôn từ của Thiên Chúa.
Để đánh dấu điều mới mẻ căn bản của triều đại Thần Khí và các phẩm hạnh của vương quốc cần xây dựng tại trần thế, thánh Phaolô có viết trong bài đọc hai: Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa... Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa... Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: «Áp-ba! Cha ơi!» (Rm 8,8-17).
Tóm lại, nếu không có Thần Linh Thiên Chúa thì cũng không có Giáo Hội và chúng ta cũng không trở thành anh em. Nếu chúng ta được tràn đầy Thánh Thần, chúng ta sẽ nói những thứ tiếng hoàn toàn khác với những ngôn ngữ của thế giới ngày nay đang truyền đạt sự sùng bái các thần tượng, bao gồm những đam mê danh vọng, hận thù tranh chấp, ganh tị và chia rẽ. Nếu được tràn đầy Thánh Thần, mỗi người chúng ta sẽ phát biểu tuỳ theo ơn Chúa ban cho; lúc đó chúng ta sẽ là chứng tá của Đức Kitô, là sứ giả của Tin Mừng và Thần Khí chứng thực cho chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.
153. Nguồn sống
"Chúa thổi hơi trên các ông và bảo: anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần". Ga 14,22.
Sự sống con người có hai điều rất cần thiết và rất gần gũi: đó là hơi thở và nhịp đập của trái tim. Dĩ nhiên còn nhiều cái khác cũng rất cần thiết, ở đây ta chỉ bàn về hai điều này thôi. Trước hết, hơi thở: đó là thứ vô cùng cần thiết. Không có nó không thể có sự sống và nó đồng nghĩa với cái chết. Để diễn tả sự chết, người ta nói: nó hết thở rồi (nghĩa là đã chết). Hơi thở quan trọng như thế, vậy mà bình thường không ai để ý nó, cũng không mấy người quan tâm gìn giữ nó cẩn thận. Đợi tới khi gần chết, thiếu hơi thở, lúc đó ta mới thấy nó cần thiết vô cùng...Rồi nói tới nhịp đập của con tim: hơi thở nhiều lúc ta còn chủ động, còn dễ thấy, nhưng nhịp đập của trái tim lại là một hoạt động tự phát của cơ thể; nhiều lúc ta không thấy cần nó, nhưng nó lại là thứ không thể thiếu cho sự sống.... Hơi thở, nhịp đập con tim cần cho sự sống thể xác thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng cần thiết cho sự sống linh hồn ta y như vậy. Đó chính là đề tài ta sẽ suy niệm ngày lễ Chúa Thánh Thần hôm nay.
a. Một vài danh từ chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa:
* thổi hơi: đây là một cử chỉ chúc phúc. Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ người là để chúc phúc cho họ, cũng để trao ban Thánh Thần và ơn sủng Người cho các ông.
* hãy nhận lấy Thánh Thần (Gn 20, 22): tiếng Hêbrơ dịch là: Ruah; Hi lạp dịch là: Pneuma; la tinh dịch là: spiritus: có nghĩa gió, hơi thở - khi dùng từ gió và hơi thở để chỉ về Chúa Thánh Thần, điều đó muốn nói: Chúa Thánh Thần là Đấng có năng lực kỳ diệu như gió, như hơi thở, Đấng trao ban sự sống. Dù Ngài thật thần thiêng, nhưng lại hoạt động mãnh liệt trong nội tâm mọi người cùng với chính Thiên Chúa.
b. Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong vũ trụ và trong Hội Thánh:
Ngay từ chương đầu của sách Sáng thế ký,đã có nói về Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động và sáng tạo vũ trụ, sáng tạo con người cách tốt đẹp và lạ lùng... Đến khi Con Thiên Chúa, Đức Giêsu xuống trần gian, ta cũng thấy mọi công việc và hoạt động của Người đều có sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần...Rồi chính Hội thánh Chúa Giêsu đã lập ở trần gian, trước khi Chúa về trời, Người đã giao lại cho các tông đồ, chính Hội thánh đó đã đầy ơn sủng của Chúa Thánh Thần; nhất là từ ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã hiện diện sống động trong hội thánh trong các tông đồ từ hôm đó. Chính Người là nguyên lý, là động lực, là sức mạnh tác động trên các tông đồ, trong Hội thánh.
Người không tin Chúa Thánh Thần, họ nói: làm sao để chứng minh Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong hội thánh? Cùng lắm Hội Thánh ở trần gian là một tổ chức hữu hình, có cơ cấu khéo léo hơn các tôn giáo khác!...Ta tin vào Chúa Thánh Thần không phải là không có căn cứ: 1. vì chính Chúa Giêsu trước khi về trời đã hứa ban Chúa Thánh Thần. 2. các tông đồ trước ngày lễ Ngũ tuần, rất nhút nhát, ít học; vậy mà sau khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẵn sàng làm mọi chuyện, ngay cả hi sinh chính mạng sống mình. 3. Hội thánh qua 20 tk gặp biết bao sóng gió, tưởng có lúc tan tành rồi; vậy mà đến hôm nay vẫn đứng vững. Thực ra, nếu không có Thánh Thần, Hội thánh tự mình đứng vững được chăng?
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* Hoạt động của Chúa Thánh Thần, dù không thầy rõ như hai cộng hai là bốn, nhưng rõ ràng có nhiều biến cố trong Hội thánh không thể cắt nghĩa được nếu không nói đến ơn sủng của Chúa Thánh Thần. là người kitô hữu, ta có tin không?
* Chúa Thánh Thần là sức sống, ngồn mạch mọi ơn sủng, là hơi thở, là nhịp đập của con tim, không thể thiếu cho mọi kitô hữu. Ta có tin, có năng chạy tới và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Bằng mọi cách, ta có cố gắng sống theo sự chỉ dẫn của Người không?
154. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Ngày nay, tại sao Giáo Hội lại kém phát triển về số lượng, chưa nói tới chất lượng? Có phải vì cách loan báo Tin Mừng của chúng ta không phù hợp với thời đại? Người thời đại mong mỏi Giáo Hội làm gì cho xã hội, thế giới?
2. Con người thời đại, nhất là người nghèo, người bị áp bức, cần chúng ta thể hiện tình thương đối với họ qua sự chăm sóc, giúp đỡ, nâng họ lên, hay họ cần chúng ta rao giảng Đức Kitô cho họ? Họ cần chân lý hay tình thương?
Suy tư gợi ý:
1. Thánh Thần tạo biến đổi lạ lùng nơi các tông đồ
So sánh tâm lý của các tông đồ trong bài Tin Mừng và trong bài đọc I hôm nay, ta thấy có sự biến đổi hết sức lạ lùng trong một thời gian hết sức ngắn: chỉ hơn một tháng. Sau khi Thầy mình bị giết, các ông sợ hãi người Do Thái đến độ phải ở chung với nhau cho đỡ sợ, và phải đóng kín cửa. Thế mà ngay sau khi Thánh Thần hiện xuống, các ông trở nên hết sức dạn dĩ: dám công khai biểu lộ và làm chứng niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô và sự sống lại của Ngài, bất chấp bị bắt bớ, tù đày và cả cái chết lúc nào cũng sẵn sàng đến với các ông. Bị tù nhiều lần, nhưng lần nào cũng như lần nấy, vừa ở tù ra là các ông lại tiếp tục rao giảng Đức Kitô một cách công khai, không lén lút. Chính vì thế, hầu hết các tông đồ đã bị giết một cách thê thảm vì danh Đức Giêsu.
Tâm lý con người ai cũng ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ, ham giàu sợ nghèo, ham vinh sợ nhục. Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa và nhân loại, cùng với ơn biến đổi của Thánh Thần, đã làm các tông đồ và rất nhiều Kitô hữu vượt lên những nỗi sợ đó, để dám làm những gì lý tưởng và lương tâm mình đòi buộc: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29).
2. Thánh Thần biến đổi là để thi hành sứ mạng
Bài Tin Mừng cho ta thấy lời chúc bình an, lời sai đi, và việc lãnh nhận Thánh Thần đi chung với nhau. Đức Giêsu nói: «Chúc anh em được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần». Như vậy, việc lãnh nhận Thánh Thần là để thực hiện sứ mạng mà Đức Giêsu sai chúng ta làm, với tâm hồn bình an, không sợ sệt lo lắng. Thánh Thần làm cho tâm hồn các tông đồ bình an, và có bình an trong tâm hồn, các ông mới đủ can đảm để công khai làm chứng cho Đức Giêsu. Do đó, để lãnh nhận Thánh Thần và ơn bình an, chúng ta phải có lý tưởng là sẵn sàng làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, cho Thiên Chúa, cho chân lý, cho công lý, cho hòa bình giữa mọi người. Thánh Thần không ban ơn của Ngài cho những người không có lý tưởng, không có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Vì giả như có được ơn Thánh Thần, họ cũng chẳng ích lợi gì cho ai, mà thậm chí gây hại, vì khi không có tình yêu và lý tưởng, họ sẽ lạm dụng những ơn ấy.
3. Sứ mạng của người Kitô hữu
Ngày nay, tỷ lệ Kitô hữu tại châu Âu bị suy giảm trầm trọng, và có vẻ như không tăng lên tại châu Á. Điều ấy khiến mọi Kitô hữu phải suy nghĩ và đặt lại vấn đề cách thức loan báo Tin Mừng của mình, có thể nó không hợp với nhu cầu hay đòi hỏi của thời đại. Con người thời đại này đã thay đổi rất nhiều so với cách đây 50 năm. Hoàn cảnh (văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật, nhu cầu con người, v.v…) đã thay đổi, khiến não trạng, cách nhìn, cách suy nghĩ, lối sống của con người không còn như xưa. Vì thế, nếu chúng ta vẫn giữ cách thức loan báo Tin Mừng như thời tổ tiên ta, e rằng việc loan báo không còn hợp thời và hữu hiệu nữa.
Người thời nay chịu ảnh hưởng não trạng khoa học thực nghiệm rất nhiều. Họ không thể tin vào lời nói xuông như cha ông họ cách đây 50 hay 100 năm. Họ cần thực chứng, vì đầu óc của họ thực tế hơn xưa rất nhiều. Ngày nay, người ta khong thể tin được một Kitô hữu miệng thì luôn luôn nói về tình thương, mà cách sống thì tỏ ra chẳng tình nghĩa với ai. Giới trẻ thời nay đã chán ngấy cái cảnh cha mẹ mình hằng ngày đi lễ, rước lễ, xin Chúa xót thương ban cho mình đủ thứ ơn lành, nhưng lại luôn luôn tỏ ra ích kỷ, bảo thủ quyền lợi, và lãnh đạm trước sự đau khổ hay nhu cầu cấp bách của người chung quanh. Não trạng thực tế khiến người thời đại nhìn thấy rất rõ sự tương phản giưa lời rao giảng và cách sống của những người chuyên loan báo Tin Mừng. Lời rao giảng dù có hay, hùng hồn, hấp dẫn, nhưng không được minh chứng bằng đời sống thực tế của người rao giảng, thì chẳng lôi cuốn được ai!
Ngày nay, khắp nơi trên thế giới, chỗ nào cũng có những bất công, đàn áp, người nghèo bị khinh miệt và càng ngày càng nghèo hơn, người bị gạt ra ngoài lề xã hội ngày càng nhiều, sự bóc lột giữa người với người ngày càng tinh vi, sự chênh lệch giữa người giầu và người nghèo, giữa nước giầu với nước nghèo ngày càng lớn, và biết bao thảm trạng khác. Nhưng thử hỏi: mỗi người Kitô hữu chúng ta đã làm gì trước tình trạng xấu ác đó? Biết bao Kitô hữu không hề quan tâm, đến nỗi không ý thức gì về tình trạng ấy! Biết bao Kitô hữu biết nhưng mặc kệ, ai ra sao thì ra, miễn đời sống mình bình an đầy đủ là được rồi! Biết bao Kitô hữu đã im lặng vì muốn an thân, không muốn bị liên lụy, cho dù sự lên tiếng của mình có thể cải thiện được tình trạng không nhiều thì ít! Biết bao Kitô hữu chẳng những không lên tiếng, mà còn thỏa hiệp hay hùa theo sự ác, chỉ vì quyền lợi của mình! Bất chấp và mặc kệ cho sự ác, sự khổ, bất công, nghèo đói hoành hoành, nhiều Kitô hữu vẫn an tâm rao giảng thứ Tin Mừng giải phóng, là «Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do, v.v…» (Mt 4,18). Làm sao người thời nay với não trạng khoa học thực nghiệm có thể tin vào lời của những ngôn sứ không hề có những hành động nào đích thực là ngôn sứ? Những người nghèo khổ, những người bị áp bức, những người bị bất công đang chờ đợi hay mong mỏi chúng ta làm gì? Họ mong chúng ta cứu họ thoát khổ, lên tiếng chống lại áp bức bất công, hay họ mong chúng ta rao giảng Đức Giêsu Kitô cho họ, hoặc cho họ biết rằng Ngài là Cứu Độ duy nhất? Họ cần chúng ta cụ thể hóa tình thương của ta đối với họ, hay họ cần chúng ta rao giảng chân lý? Chúng ta đã làm gì?
Đã từ lâu, chúng ta quá hăng say rao giảng chân lý, mà quên mất hoac không để ý đến những nhu cầu cụ thể và thực tế của dân chúng. Họ cần tình thương, nhưng chúng ta chỉ cho họ chân lý! nói đúng hơn là cho họ một mớ lý thuyết về chân lý! Đạo của chúng ta mà như thế thì còn hấp dẫn được ai? Vì thế, đừng lấy làm lạ tự hỏi tại sao Kitô giáo lại bị giảm sút tại châu Âu và không phát triển được tại châu Á. Người Kitô hữu hãy yêu nhau và yêu tất cả mọi người trước đã, đừng quan tâm tới việc rao giang vội! Chính đời sống yêu thương của người Kitô hữu mới là lời giảng hùng hồn và hữu hiệu nhất cho thời đại khoa học thực nghiệm hiện nay. Người Kitô hữu cứ sống yêu thương và thực hiện hay làm chứng cho công lý trước đã, toàn thế giới sẽ tự động trở nên Kitô hữu sau. Còn hăng say rao giảng mà không yêu thương, mà coi nhẹ công lý, thì mọi lời rao giảng đều «chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng» (1 Cr 13,1), hoàn toàn vô ích!
4. Cần có sự biến đổi
Giáo Hội hiện nay cần Thánh Thần biến đổi hơn bao giờ hết. Biến đổi trước hết là não trạng loan báo Tin Mừng. Chúng ta chỉ thích loan báo bằng lời nói, chứ không phải bằng đời sống, bằng việc làm cụ thể. Cần phải thay đổi não trạng đó nếu muốn Giáo Hội tồn tại và phát triển. Sứ mạng của Giáo Hội là sống và thực hành yêu thương hơn là rao giảng chân lý. Tôi không có ý coi nhẹ việc rao giảng chân lý, nhưng phải coi việc sống yêu thương là quan trọng hơn, và quan trọng hơn rất nhiều. Và chỉ có tình thương đích thực mới làm chúng ta mạnh dạn, can đảm như các tông đồ, dám coi thường tất cả (bắt bớ, tù đày, chết chóc) đe nói lên tiếng nói ngôn sứ của mình. Cũng như chỉ có tình thương đối với con mình mới có thể thúc đẩy người cha hay người mẹ xông vào hiểm nguy để cứu lấy con mình. Ơn Thánh Thần mà Giáo Hội và mọi Kitô hữu rất cần hiện nay là tình yêu thương.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổ ơn của Ngài xuống trên từng người chúng con, đặc biệt ơn biết yêu thương, biết hy sinh vì người khác, để chúng con loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu bằng chính đời sống yêu thương được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như Đức Giêsu đã dạy, chứ không chỉ loan báo bằng lời nói xuông. Amen.
155. Hãy lên đường
"Bình an cho anh em! Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em".
Ghép cành là một trong những kỹ thuật lai tạo cây giống rất được các nhà vườn ưa chuộng vì tốn ít thời gian. Cây giống phát triển nhanh nhờ có gốc cây mẹ đã ổn định. Kỹ thuật này cũng được dùng trong việc trồng hoa kiểng. Cùng một gốc, nhưng cho được nhiều màu hoa, kiểu dáng khác nhau. Điểm chung của các loại ghép nầy là cành ghép phụ thuộc hoàn toàn vào thân cây mẹ. Nếu cây mẹ sinh trưởng tốt thì các cành được ghép vào sẽ lớn nhanh, còn cây mẹ không tốt hay chết đi thì mắt ghép cũng vạ lây.
Đức Giêsu qua 40 ngày ở cùng các môn đệ sau Phục Sinh, Ngài về trời với lệnh truyền cho các môn đệ: "Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19). Nhưng lệnh truyền nầy sẽ trở nên nặng nề cho các môn đệ nếu Đức Giêsu không để lại một sự trợ giúp nào. Vâng, sự trợ giúp đó chính là Chúa Thánh Thần - nguồn lực của mọi hoạt động.
Chúa Thành Thần là Đấng nào chắc ai trong chúng ta cũng biết. Bài chia sẻ nầy tôi chỉ muốn kể với các bạn về kinh nghiệm sống với Chúa Thánh Thần. Đầu tiên, Chúa Thánh Thần nhúng tay vào cuộc đời tôi qua Bí tích Rửa tội: "Chúng ta đều đã chịu phép Rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" (1 Cr 12,13). Nhờ đó mà tôi mới có thể nói lên rằng: "Đức Giêsu là Chúa". Rồi lần lượt tôi nhận các Bí tích khác trong đời, mà Bí tích dồi dào Chúa thánh Thần nhất là Bí tích Thêm sức. Từ đây, tôi đã được đầy tràn sức mạnh để bước vào đời sống của một chứng nhân cho Đức Kitô. Những lần yếu đuối sa ngã, tôi được Thánh Thần thúc đẩy để hoán cải quay về. Bước vào đời, trước những chọn lựa, Thánh Thần lại hướng dẫn dắt dìu. Cuộc sống đầy những khó khăn trăn trở, Thánh Thần lại đến ủi an khích lệ qua tiếng nói của mẹ cha, bạn hữu, thầy cô... Ngày cuối đời trước khi về với Chúa, tôi sẽ được Thánh Thần nâng đỡ, bảo vệ khỏi mất linh hồn trước cám dỗ của ma quỷ. Có thể nói rằng, suốt cuộc đời tôi không có lúc nào vắng bàn tay Thánh Thần.
Thế mà không ít lần tôi đã để vuột mất bàn tay ấy. Tôi cao ngạo nghĩ rang, bàn tay tôi có thể che được hết bầu trời. Tôi để Thánh Thần qua một bên như người chủ quán "bỏ quên" một kẻ ăn mày không tiền. Tôi sống theo bản năng, theo đam mê, theo sở thích, tôi chấp nhận để tà thần hướng dan cuộc đời. Khi thất bại nặng nề, tôi mới giật mình nhìn lại. Chúa ơi! Đời con như lá úa.
Tôi dùng lại hình ảnh cây tháp cành để nói về mối quan hệ giữa chúng ta và Chúa Thánh Thần. Chắc chắn là Chúa Thánh Thần là một gốc mẹ tốt. Từ đó làm nảy sinh ra nhiều cành lá tốt. Vấn đề là chúng ta đã tháp vào gốc mẹ rồi, vậy chúng ta có đồng ý hút lấy nhựa sống để trổ sinh hoa trái không? "Có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ có một Thần Khí" (1 Cr 12,4). Chỉ có một gốc mẹ thôi, nhưng từ đó có nhiều loại hoa đẹp ra đời. Bạn nghĩ sao về điều nầy? Xin bạn đừng bao giờ để Chúa Thánh Thần "chết ngạt" trong đời mình.
Đức Giêsu đã bảo đảm cho hoạt động của chúng ta được thuận lợi qua việc ban Thánh Thần cho ta. "Thầy không để các con mồ côi, Thầy sẽ ban cho các con Đấng Phù Trợ khác, Ngài sẽ ở cùng các con luôn mãi" (Ga 14,16). Ta ra đi không đơn độc, không yếu đuối mà có Thánh Thần cùng đi, có sức mạnh của Thánh Thần. Điều cần phải lo sợ là ta có can đảm dấn thân không? Ta có dám "thí mạng" theo sự hướng dẫn của Thánh Thần không?
Chúa Giêsu đã và đang cần mỗi người chúng ta tiếp bước cuộc hành trình của Người, của các Tông đồ, của các bậc tiền nhân trong cánh đồng thế trần nầy. Bạn không cần phải bận tâm cho rằng mình không đủ sức, việc đó không phù hợp với mình, hay mình còn phải lo việc khác. Thánh Phaolô đã nói là có nhiều việc phục vụ, nhưng chỉ có một Chúa, Thần Khí tỏ mình ra cho mỗi người một cách (x. 1 Cr 12,1-7). Bạn hãy làm việc cho Chúa bằng chính công việc hằng ngày của bạn. Ai làm công nhân hãy làm công nhân cho thật tốt, ai cày ruộng hãy cày ruộng cho thật chăm, ai là thầy dạy hãy dạy với tất cả lương tâm và lòng yêu mến, ai là được mời gọi sống đời thánh hiến thì tích cực sống trong ơn gọi của mình... Chính những việc làm tot đẹp của bạn sẽ minh chứng cho điều bạn kính tin.
Hãy can đảm, đừng hoang mang, đừng sợ hãi, đã có Thánh Thần. Hãy lên đường cùng Người.
156. Đấng an ủi và giáo huấn
Hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu hai tước hiệu Giáo Hội vốn thường dùng để ca tụng Chúa Thánh Thần. Trước hết, Ngài là Đấng an ủi, như trong Ca tiếp liên của thánh lễ hôm nay:
- Lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin hãy đến. Ngài là sự nghỉ ngơi trong cảnh lầm than, là sự nâng đỡ trong những lúc lệ sầu.
Niềm tin tưởng vào Chúa Thánh Thần sẽ khắc ghi trong tâm trí chúng ta và làm cho cõi lòng chúng ta tràn ngập một niềm vui dạt dào. Thực vậy, theo thánh Phaolô thì hậu quả của Chúa Thánh Thần la gì, nếu không phải là yêu thương, vui mừng và bình an. Đó là tất cả những gì chúng ta cần đến trong cuộc sống.
Thực vậy, con người chúng ta luôn khao khát vì tìm kiếm niềm vui. Thế nhưng, những niềm vui mà thế gian đem lại thì chóng qua và giả trá, như chúng ta thường bảo:
- Ngày vui thì qua mau, lễ hội thì chóng tàn và khoái lạc thì chợt tắt trong giây lát, để chỉ còn lại một sự mệt mỏi, chán chường và tuyệt vọng. Khát vọng này nảy sinh ra khát vọng khác và con người chúng ta sẽ chẳng bao giờ được no thỏa.
Chúng ta hãy nghe lời cảnh cáo của thánh Phaolô:
- Nước Trời không phải là chuyện ăn uống, nhưng là công chính, bình an và mừng vui trong Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi tuyệt vời, như lời Chúa Giêsu đã phán hứa:
- Thầy đã cầu xin với Chúa Cha và Ngài sẽ sai đến với chúng con một Đấng an ủi khác. Ngài là Thần Chân Lý và sẽ ở cùng các con luôn mãi.
Sở dĩ Chúa Thánh Thần là Đấng an ủi tuyệt vời vì Ngài biết chúng ta cần phải được nâng đỡ và khích lệ trong cuộc sống trần gian với biết bao nhiêu đau khổ, cay đắng, cô đơn và biệt ly. Trong tất cả những trường hợp ấy, Chúa Thánh Thần sẽ ban cho chúng ta một niền an ủi và một nguồn sức mạnh.
Thế nhưng, niềm vui cao cả nhất là gì? Tôi xin thưa đó là niềm vui được làm con cái Thiên Chúa. Thực vậy, Chúa Thánh Thần là sợi dây tình yêu liên ket Chúa Cha với Chúa Con thế nào, thì Ngài cũng sẽ là sợi dây tình yêu liên kết Chúa Cha với chúng ta như vậy. Ngài sẽ thánh hóa để chúng ta xứng đáng được Chúa Cha yêu thương, cũng như để chúng ta xứng đáng được tham dư vào bản tính của Thiên Chúa, như lời thánh Phaolô đã viết:
- Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Abba! Cha ơi!"
Chúa Thánh Thần sẽ hoạt động để chúng ta nên giống Thiên Chúa, và được tham dự vào bản tính tuyệt vời của Ngài, như lời tục ngữ Việt Nam cũng đã bảo:
- Cha nào con nấy. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
Chúa Giêsu đã thực hiện chương trình cứu độ và trao ban cho chúng ta quyền làm con Thiên Chúa. Thế nhưng, chúng ta lãnh nhận được địa vị cao cả ấy nhờ Chúa Thánh Thần, như lời thánh Phaolô đã viết:
- Không ai có thể gọi Đức Kitô là Chúa, nếu không phải bởi Chúa Thánh Thần.
Tiếp đến, Chúa Thánh Thần là Đấng giáo huấn. Thực vậy, nhìn vào đời sống của cá nhân cũng như của Giáo hội, chúng ta sẽ nhận ra hoạt đong giáo huấn của Chúa Thánh Thần.
Trước hết là nơi nơi tâm hồn mỗi người chúng ta, cho dù chúng ta đã phạm nhiều tội lỗi, thì những nhân đức cũng vẫn còn tồn tại: Nào là tuân giữ những giới răn của Chúa, nào là kìm hãm bản thân, nào là chấp nhận những hy sinh và thử thách … trong tất cả những điều đó chúng ta thực hiện được là do sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Tiếp đến là trong Giáo hội. Trải qua bao cơn sóng gió, Giáo hội vẫn đứng vững, vẫn phát triển truyền thống đức tin, luân lý và phụng vụ. Suốt dọc hai mươi thế kỷ, Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại biết bao nhiêu vị thánh, biết bao nhiêu mẫu gương sáng chói. Và ngày hôm nay, Giáo hội vẫn còn là điểm qui tụ của mọi dân nước, của mọi ngôn ngữ, của mọi nền văn hóa. Hình ảnh của ngày lễ Hiện xuống với một đám đông thuộc mọi thành phần, thuộc mọi tiếng nói, nhưng đã đứng chung cùng nhau tại công trương Giêrusalem, để nghe và hiểu những lời các tông đồ truyền dạy. Đây chính là cuộc qui tụ đầu tiên của mọi dân tộc kể từ ngày bị phân tán bởi ngọn tháp Baben còn dang dở.
Và ngày hôm nay, Giáo hội vẫn còn nắm giữ vai trò nối kết, quy tụ muôn tâm hồn rải rắc trên khắp cùng bờ cõi trái đất về với mình, để rồi lấy sợi dây tình yêu của Chúa Thánh Thần mà liên kết nên một. Bất kỳ nơi nào Chúa Thánh Thần ngự trị, sẽ không còn bất hòa, khủng bố và chiến tranh.
Bởi đó, chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ngự đến để canh tân tâm hồn chúng ta cũng như được đổi mới mặt địa cầu.
157. Hiện diện
Trước khi về trời, nhiều lần Chúa Giêsu đã nói và đã hứa với các môn đệ: Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống. Lời hứa đó đã được hoàn tất trong ngày lễ Ngũ Tuần, tức là lễ ngày thứ 50 tính từ lễ Vượt Qua của người Do Thái, và từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ này được gọi là lễ Hiện Xuống. Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa và biến đổi các ông thành những con người mới. Như vậy, Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá là điều kiện để ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội. Và khi được vinh quang bên hữu Chúa Cha. Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần xuống và ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội như linh hồn của Giáo Hội.
Đối với Giáo Hội nói riêng và đối với toàn thể nhân loại nói chung, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thật là quan trọng, vì đánh dấu một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, kỷ nguyên áp dụng ơn cứu độ, thời kỳ cuối cùng, thời kỳ cánh chung, trước khi Chúa Kitô trở lại để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Nhưng tại sao chúng ta có thể nói hay dám nói Chúa Thánh Thần được ví như linh hồn của Giáo Hội? Bởi vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, cũng như linh hồn quan trọng đối với thân xác thế nào thì Chúa Thánh Thần cũng quan trọng đối với Giáo Hội như vậy. Bởi vì Giáo Hội được ví như một thân thể nhiệm mầu, mà Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là thân mình. Vậy nếu đã là một nhiệm thể thì cần phải có một linh hồn, linh hồn của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần.
Thứ hai, cũng như linh hồn ở khắp thân thể và ở trong từng phần thân thể, thì Chúa Thánh Thần cũng ở trong toàn thể Giáo Hội và trong từng người. Linh hồn là nguyên ly, là căn bản của sự sống tự nhiên của thân thể, không có linh hồn thì chúng ta không sống được, không có linh hồn thì thân thể chúng ta là cái xác chết. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý căn bản siêu nhiên nơi đầu là Chúa Kitô và nơi các chi thể là chúng ta, Ngài trực tiếp ban ơn thánh cho từng thành phần để sinh hoa quả là những việc lành.
Thứ ba, cũng như nơi con người, linh hồn hoạt động qua trí khôn, ý chí, tình cảm. Cũng vậy, Chúa Thánh Thần hoạt động qua những khả năng siêu nhiên là bảy ơn Chúa Thánh Thần, qua ba nhân đức đối thần là tin, cậy, mến. Chúa Thánh Thần gìn giữ, thánh hóa, biến đổi từng tâm hồn. Chẳng hạn: 12 tông đồ trước kia nhút nhát, sợ hãi, Chúa Thánh Thần đã làm cho họ mạnh bạo, can đảm. Rồi suốt hai mươi thế kỷ qua, biết bao gương anh dũng của các thánh đồng trinh, hiển tu, tử đạo… và hôm nay cả tỷ con cái Chúa đang được Chúa Thánh Thần thoi thúc bước mau về trời, Ngài hướng dẫn, trợ giúp chúng ta trên đường về trời.
Thứ tư, cũng như một linh hồn hiện diện nơi mỗi người làm cho người đó thành một người riêng biệt, khác với những người khác, thì Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi mỗi tín hữu, để làm thành những tín hữu khác nhau: Chúa Giêsu, Đức Maria, các thánh, kẻ lành… và ơn Chúa Thánh Thần khác nhau, nên có những loại thánh khác nhau, rồi lại có những ơn sủng khác nhau, tùy theo chức bậc: người truyền giáo, người làm cha mẹ, người đi tu v.v…
Ngoài ra, ngày lễ Hiện xuống, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới hình lưỡi lửa. Hình ảnh này thật đầy ý nghĩa: Giáo Hội của Chúa được ví như một đống củi, được lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy lên và sưởi ấm trần gian lạnh lẽo. Không có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội chỉ là một tổ chức trần gian như bao hội khác trên đời này, nhưng suốt hai mươi thế kỷ qua, Chúa Thanh Thần luôn ở giữa Giáo Hội, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội và Ngài vẫn tiếp tục hoạt động mãi cho đến tận thế.
Mỗi người chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, và nhất là khi lãnh nhận phép Thêm sức, Ngài luôn ở cùng chúng ta, hướng dẫn và trợ giúp chúng ta. Vậy chúng ta chớ dập tắt Chúa Thánh Thần. Nếu dập tắt Chúa Thánh Thần thì chẳng khác gì chiếc tàu bỏ bánh lái, đoàn xe lửa bo đầu tàu, con người bỏ trái tim. Chúng ta có thể dập tắt Chúa Thánh Thần thế nào? Nhiều cách lắm, chẳng hạn: chúng ta không sử dụng tối đa những ân huệ Ngài ban, những khả năng, những tiền bạc Chúa ban để chúng ta làm lợi ích cho linh hồn, cho gia đình, chúng ta sử dụng vào những việc có hại cho mình và cho người khác. Chẳng hạn: Chúa cho chúng ta cơ hội để phục vụ Chúa và Giáo Hội, nhưng chúng ta không lợi dụng những cơ hội đó, bỏ dịp tốt qua đi đó là dập tắt Chúa Thánh Thần.
Đàng khác, Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ. Phù trợ chứ không phải là làm thay chúng ta. Chúng ta phải làm hết sức mình, hết khả năng mình, phải học hỏi, phải nghiên cứu, phải thực hiện hết sức của mình, Chúa Thánh Thần sẽ phù trợ thiện chí của chúng ta. Ngài không bao cấp làm thay chúng ta. Nếu chúng ta không cố gắng đổi mới chính mình, đổi mới môi trường của mình, nếu chỉ cậy trông suông, khoán trắng cho Chúa Thánh Thần, thì Chúa Thánh Thần sẽ không làm thay. Bởi vì trách nhiệm ấy thuộc về chúng ta, những người Chúa đã trao cho những khả năng để có thể làm được, không nhiều thì ít, không việc lớn thì việc nhỏ, ai cũng có khả năng làm việc tốt.
Xin Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta những nguồn sinh lực mới, để chúng ta biết quyết tâm đổi mới chính mình, biết quyết tâm góp phần xây dựng thời đại chúng ta. Sự quyết tâm này chúng ta sẽ gửi gắm nơi Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ ban phép lành cho chúng ta, Ngài sẽ phù trợ cho chúng ta thực hiện. Mặc dầu hôm nay chúng ta không thấy kết quả nhưng hãy kiên trì nhẫn nại như những người gieo giống, mùa màng không thấy ngay, nhưng mùa màng nếu làm đúng, làm với cố gắng, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần, chắc chắn sẽ thành công và hiệu quả sẽ phong phú.
158. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ đề: Chúa Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất
I. Dẫn vào Thánh lễ
Lễ Hiện xuống hôm nay kết thúc mùa Phục sinh. Chúng ta hãy nhìn lại những bước mà Phụng vụ đã dẫn chúng ta đi qua: Đức Giêsu đã nhập thế sống với loài người, Ngài đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, rồi Ngài chịu nạn chịu chết, nhưng Ngài đã sống lại và lên trời. Hôm nay Ngài sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa loài người. Như thế, Chúa Thánh Thần là Đấng hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta, để chúng ta hoàn thành sứ mạng cứu độ bản thân chúng ta và mọi người.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta có lỗi vì ít nghĩ đến Chúa Thánh Thần là Đấng Thiên Chúa đã ban để hỗ trợ chúng ta.
Chúng ta thường làm việc theo suy nghĩ riêng chứ không theo sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần muốn mọi người hiệp nhất với nhau, nhưng chúng ta thường chia rẽ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Cv 2,1-11
Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Đức Giêsu thực hiện lời hứa ấy: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Giêsu.
2. Đáp ca: Tv 103
Tv này ca tụng những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm do "sinh khí" của Ngài, tức là do Chúa Thánh Thần.
3. Bài đọc II: 1 Cr 12,3b-7.12-13
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu đoàn kết hiệp nhất nhau trong Chúa Thánh Thần:
Trong Giáo Hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho các tín hữu. Nhưng mọi đặc sủng đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.
Vì thế, một mặt các tín hữu phải tránh chia rẽ nhau, mặt khác phải tận dụng mọi ơn ban của Chúa Thánh Thần để xây dựng thân thể Giáo Hội.
4. Tin Mừng: Ga 20,19-23
Buổi chiều chính hôm lễ phục sinh, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các môn đệ (Theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần).
Chúa Thánh Thần được ban đồng thời với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai các ông ra đi. Từ đó, ta có thể thấy được những ý nghĩa sau:
Ơn ban cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là Bình an, đặc trưng của thời Messia.
Ơn cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là Tha tội: chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.
Ơn ban Thánh Thần nhằm giúp Giáo Hội ra đi loan Tin Mừng cứu độ.
IV. Gợi ý giảng
1. Lưỡi lửa
Bài tường thuật của Sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu Ước.
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Nôe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xui dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không quy tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó: tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất.
2. Lưỡi lửa mà con người hôm nay cần
Nói là một sinh hoạt cần thiết trong cuộc sống chung: hằng ngày khi gặp người khác, chúng ta chào nhau, hỏi thăm nhau, trao đổi ý kiến với nhau, thảo luận, tranh luận v.v. Chính vì để phục vụ cho sinh hoạt cần thiết này mà khoa học kỹ thuật ngày nay đã phát minh ra máy khuếch âm, máy ghi âm, điện thoại v.v.
Nhưng nói với nhau là một chuyện, còn hiểu nhau là một chuyện khác. Hai chuyện này chưa hẳn luôn đi đôi với nhau. Nói với nhau thì nhiều nhưng hiểu nhau chắc không được bao nhiêu. Dịch một ngoại ngữ thì dễ hơn là hiểu được ý thật, lòng thật của người đang ở sát bên cạnh mình.
Có đặt mình trong bối cảnh như thế, chúng ta mới thấy được "lưỡi lửa" mà bài sách Cv hôm nay mô tả là cần thiết thế nào cho con người hôm nay. Ngày xưa, những người có mặt hom lễ Ngũ tuần tuy nói nhiều ngôn ngữ khác nhau nhưng đều hiểu nhau. Đó là hiệu quả bởi "lưỡi lửa" của Chúa Thánh Thần. Lưỡi hình lửa là tiếng nói của tình yêu. Tiếng nói chân thật nhất là tiếng xuất phát từ cõi lòng. Tiếng nói dễ hiểu nhất là tiếng của tình yêu.
Xin "lưỡi lửa" hiện xuống tràn đầy trong mỗi người chúng ta và trong cộng đoàn chúng ta.
3. Thổi hơi
Bài tường thuật tạo dựng loài người trong sách Sáng thế kể rằng sau khi Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình người, Ngài đã thổi hơi vào đó, và thế là con người đầu tiên xuất hiện. "Hơi thở" của Thiên Chúa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguyên lý tạo dựng.
Nhưng con người đã phạm tội, bị đuổi khỏi vườn Địa đàng, hạnh phúc ban đầu đã bị đánh mất.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại thổi hơi trên các tông đồ. Phải chăng đây cũng là một đối ảnh của câu chuyện trong sách Sáng thế? Và nếu đúng là thế, thì hôm nay Thiên Chúa tái tạo lại con người, cũng bằng "hơi thở" là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý của sự tái tạo.
4. Hiệp nhất trong đa dạng
Giáo Hội ngày nay là một Giáo Hội đa dạng: đủ thứ linh đạo, đủ loại dòng tu, đủ cách làm tông đồ, quá nhiều hội nhóm, quá nhiều khuynh hướng, quá nhiều ý kiến... Có những kẻ bi quan đã cho rằng Giáo Hội đang trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng thực ra, sự đa dạng này thể hiện một sức sống phong phú.
Nhưng miễn là đa dạng đừng dẫn tới chia rẽ và chống đối phá hại nhau. Miễn sao đa dạng mà vẫn hiệp nhất.
Muốn được như vậy, chúng ta phải lưu ý tới những giáo huấn rất sâu sac của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay:
Mỗi người, mỗi nhóm hãy ý thức rằng "đặc sủng" của mình là ơn ban của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là tài sản hay tài năng riêng của mình.
Đừng khó chịu, trái lại hãy vui mừng khi thấy những người khác, nhóm khác cũng được ban cho những đặc sủng khác. Đó là dấu Chúa Thánh Thần yêu thương Giáo Hội.
Tận dụng "đặc sủng" Chúa Thánh Thần ban để góp phần mình vào việc xây dựng Giáo Hội, đồng thời ý thức rằng đó chỉ là một phần nhỏ mình góp cho Giáo Hội nên vẫn tôn trọng phần góp của người khác và hy vọng Giáo Hội được nhiều người khác góp phần xây dựng hơn nữa.
5. Chúa Thánh Thần, Đấng bị quên lãng
Chua Thánh Thần là Đấng bị quên lãng. Đúng vậy, Thiên Chúa có 3 Ngôi là Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế nhưng thường chúng ta chỉ nhớ tới Chúa Giêsu và Chúa Cha thôi, ít khi nhớ tới Chúa Thánh Thần.
Thế nhưng Chúa Thánh Thần lại là Đấng rất kỳ diệu, Ngài mà hoạt động nơi ai thì làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu nơi người đó. Ngài mà hoạt động nơi nào thì cũng làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu ở nơi đó. Xin đan cử 2 bằng chứng.
- Bằng chứng thứ nhất là đoạn sách CvTđ mà chúng ta vừa nghe: Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các tông đồ. Trước đó các tông đồ đã từng theo Chúa Giêsu 3 năm, đã từng nghe biết bao lời dạy dỗ của Chúa Giêsu, đã từng thấy biết bao phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng con người của các ông hầu như chẳng chịu ảnh hưởng tốt nào cả: vẫn lo tranh dành quyền lợi, vẫn sợ chết nên trốn kín trong nhà. Thế rồi Chúa Thánh Thần ngự đến trên các công và sau đó các ông được biến đổi hẳn: nhiệt thành với Tin Mừng, can đảm rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ một người như Phêrô đã từng run sợ chối Chúa bây bẩy trước những tên đầy tớ của vụ Thượng tế mà bây giờ lại đứng ra trước một đám đông rao giảng hùng hồn khiến cho liền ngay sa đó có 3 ngàn người xin theo đạo.
- Bằng chứng thứ hai là một bức thư rất đặc biệt. Bức thư này là của một cô gái nước ngoài gởi cho một LM. LM này trước đo có biên thư cho cô gái để trình bày những khó khăn trong bổn phận của mình. Cô gái biên thư khuyên vị LM ấy hãy can đảm, hãy cầu nguyện và mỗi ngày hãy dâng lễ sốt sắng. Cô gái còn cho biết nếp sống hằng ngày của co: ngoài những giờ làm ăn, cô tranh thủ thời giờ đi dạy giáo lý cho 2 lớp tại một trường học, buổi tối cô tham gia cầu nguyện với một nhóm giáo dân từ 8 đến 10 giờ. Một cô gái giáo dân mới hơn 20 tuổi mà nhiệt thành làm việc tông đồ như vậy và còn nhiệt thành đến nỗi dám đưa ra những lời khuyên dạy đối với một LM! Do đâu mà cô nhiệt thành sốt sắng như vậy? Thưa vì cô đang sinh hoạt trong một nhóm giáo dân giúp nhau sống theo sự hương dẫn của Chúa Thánh Thần.
Nghe những bằng chứng trên, chắc chúng ta cũng mong muốn Chúa Thánh Thần hoạt động nơi chúng ta để làm những điều kỳ diệu nơi chúng ta. Nhưng làm sao để được như vậy? Xin đề nghị 2 điều:
- Một la chúng ta hãy cầu nguyện cùng với Chúa Thánh Thần. Chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng khi cầu nguyện chúng ta chỉ nói cho Chúa biết mình đang sống như thế nào, mình đang cần những ơn gì và xin Chúa ban ơn đó cho ta. Cầu nguyện như vậy là sai lầm, vì đâu phải nhở chúng ta nói mà Chúa mới biết chúng ta cần gì. Chúa là Đấng biết tất cả mọi sự kia mà. Điều quan trọng nhất không phải là ta nói cho Chúa biết ta muốn gì, mà là xin Chúa cho ta biết Chúa đang muốn gì nơi ta. Do đó ta phải cầu nguyện cùng với Chúa Thánh Thần, để Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết ý Chúa và giúp ta sau đó làm theo ý Chúa. Có cầu nguyện như vậy thì sau đó cuộc đời ta mới biến đoi.
- Điều thứ hai có liên quan tới việc Xưng tội. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, có một điểm hơi lạ. Đó là Chúa Giêsu vừa ban Chúa Thánh Thần vừa ban quyền tha tội cho các tông đồ: "Chúng con hãy nhận lãnh Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai... " Tại sao Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần và ban ơn tha tội chung nhau? Thưa vì 2 điều đó liên hệ chặt chẽ với nhau. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn lãnh Bí Tích Giải Tội cho có hiệu quả tốt thì chúng ta phải Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thộn. Ta hãy nhìn lại cách xưng tội bấy lâu nay của chúng ta. Mỗi khi xưng tội chúng ta làm 5 việc: một là xét mình xem mình có những tội gì; 2 là sau đó đọc một kinh ăn năn tội; 3 là vào toà xưng tội, kể cho kỹ hết mọi tội đừng sót tội nào; 4 là nghe cho rõ Cha giải tội dạy đọc bao nhiêu kinh; 5 là trở ra đọc cho hết bấy nhiêu kinh đó. Rồi trở về. Kết quả như thế nào? Chúng ta thấy an tâm hơn đôi chút. Nhưng cũng sống bình thường như trước, cũng phạm lại bấy nhiêu tội ấy, lần sau đi xưng tội cũng xưng bấy nhiêu tội ấy. Nghĩa là hầu như không có gì thay đổi. Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thần nghĩa là trong phần xét mình trước khi vào toà xưng tội, chúng ta hãy xét mình cùng với Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng cho ta chẳng những thấy được mình đã phạm những tội gì mà còn tại sao mình phạm những tội đó; xin Chúa Thánh Thần soi sang cho ta thấy những tội mà mình không thấy, Td nhiều người đâu có nghĩ rằng việc mình đang tính kế hại người là có tội, nhiều người đâu có nghĩ việc mình sống ích kỷ với nhà hàng xóm là có tội. Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thần nghĩa là sau khi xưng tội chúng ta xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết từ nay mình phải sửa đổi như thế nào. Có như vậy mỗi lần chúng ta đi xưng tội xong, cuộc sống của mình mới thay đổi tốt đẹp hơn.
6. Chúa Thanh Thần, Đấng biến đổi
Bài trích sách Tông đồ Công vụ thuật lại biến cố ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ có nhiều điều rất phi thường: gió thổi ào ào như giông tố, những cục lửa có hình như cái lưỡi đậu trên đầu mỗi vị, sau đó các tông đồ nói tiếng lạ nghĩa là chỉ cần nói một thứ tiếng mà đủ mọi sắc dân khác nhau đều có thể hiểu. Những điều phi thường đó khiến cho đám đông dân chúng bở ngỡ kinh hoàng... Rồi hàng ngàn người đã xin lãnh phép Rửa Tội...
Nhưng điều quan trọng không phải là những biến cố phi thường ngoạn mục đó, mà chính là một cuộc biến đổi bên trong các tông đồ, rất âm thầm nhưng lại rất toàn diện: các ông là những người đã từng sát cánh ngày đêm với Chúa Giêsu, cùng ăn,, cùng đi, cùng làm với Chúa Giêsu suốt 3 năm trời, được Chúa Giêsu dạy dỗ rất nhiều, được chứng kiến biết bao việc làm của Chúa Giêsu... Nhưng vốn tầm thường các ông cũng vẫn còn là những kẻ tầm thường. Tầm thường đến nỗi Thầy vừa bị bắt là tất cả bỏ chạy tan hoang, trốn chui trốn nhủi trong phòng đóng kín cửa không ai dám ló đầu ra ngoài. Tại sao thế? Vì bấy lâu nay các ông đi theo Chúa với tính toán vụ lợi, các ông hiểu giáo lý của Chúa một cách phàm tục: Đi theo Chúa như đi theo một chính trị gia đang lên hương với hy vọng sau này tới ngày thành công sẽ được chia chác địa vị quyền lợi; Chúa dạy giáo lý về nước Trời mà các ông thỉ chỉ hiểu về một nước thế tục. Cái chết của Chúa Giêsu đã làn tiêu tan mọi tham vọng chính trị, những quyền lợi các ông mong chờ cũng thành mây khói luôn, và cả sự an toan của bản thân các ông cũng đang bị đe doạ nữa. Vì thế các ông sợ sệt, ẩn trốn.
Khi người ta theo Chúa với đầu óc vụ lợi, thì người ta tầm thường
Chúa Thánh Thần đến làm một cuộc thay đổi toàn diện: thay đổi lối nghĩ, lối nhìn, lối hiểu, lối tính toán của các ông: Hiểu giáo lý của Chúa cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước nữa; từ đó các ông quyết định vẫn theo Chúa nhưng không phải vì tính toán vụ lợi mà vì tình yêu hy sinh xả thân hoàn toàn. Cuộc thay đổi ấy đã giúp các ông hết tầm thường, biến các ông trở nên những kẻ trung thành, những cột trụ của Giáo Hội, đến nỗi dù đe doạ, dù tù đày, dù tra tấn, dù gươm giáo, các ông cũng vẫn can đảm và hăng say loan truyền niềm tin vào Chúa.
Ngày nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, điều chính yếu chúng ta mong ước cũng không phải là có những hiện tượng lạ gió thổi ào ào, lưỡi lửa trên đầu và nói tiếng lạ.... mà chúng ta mong chờ chính sự biến đổi sâu xa và toàn diện ấy trong tâm hồn chúng ta.
Đó cũng chính là ý tưởng của ĐGH Phaolô VI trong bài huấn dụ của ngài hôm 29.11.1972. Ngài mô tả trong Giáo Hội có nhiều người theo đạo chỉ vì óc vụ lợi và hiểu giáo lý một cách phàm tục. Chính vì thế mà theo ngài, Giáo hội ngày nay cần có một lễ Hiện Xuống mới, để xin trích dẫn nguyên văn lời ngài "làm cho Giáo Hội được sống động, như có một luồng gió thiêng liêng làm căng buồm con thuyền Giáo Hội, là nguồn suối bên trong ban tràn đầy ánh sáng và sức mạnh cho Giáo Hội..."
Chắc chúng ta cũng ở trong tình trạng của các tông đồ trước ngày được Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Chúng ta cũng đã từng theo đạo mười mấy, hai ba chục năm trời, đã từng Rửa tội, đã bao nhiêu lần xưng tội rước lễ, đã từng lãnh bí tích thêm sức, đã bao nhiêu lần nghe giảng dạy đủ mọi điều giáo lý, Tin mừng.. nhưng con người của chúng ta vẫn cứ mãi tầm thường. Đầu óc chúng ta còn đầy tính toán vụ lợi và tinh thần phàm tục: chúng ta theo đạo để xin Chúa ban ơn cho mình, được làm ăn thành công, được khỏi nỗi buồn khổ này, được đạt đến niềm mơ ước kia. Rồi khi nào cầu xin không được hay cứ gặp khốn khó thì ta chán muốn bỏ đạo, khi gặp nguy hiểm thì ta trốn chui trốn nhủi, không dám đến nhà thờ như các tông đồ xưa trốn kín trong phong không dám ló đầu ra. Chúng ta cũng cắt nghĩa giáo lý theo kiểu cách phàm tục, không muốn tin những điều siêu nhiên, mầu nhiệm về Thiên Chúa, về linh hồn, về thiên đàng hoả ngục, về bí tích; chúng ta đòi hỏi Giáo Hội có những giải pháp dễ dãi cho cuộc sống và chống đối những chỉ dẫn của Giáo Hội mà ta cho là khắt khe, chẳng hạn về việc vợ chồng ly dị, về các phương pháp ngừa thai v.v....Tóm lại, giữ đạo một cách vụ lợi và phàm tuc như thế nên cuộc sống đạo của chúng ta nó thờ ơ, thụ động, dật dờ làm sao ấy. Ta sống đạo nhưng sống như một cái xác không hồn, không hứng khởi.
Muốn cho các xác lờ đờ này thực sự có sức sống sinh động, nghĩa là muốn cho cuộc sống đạo của chúng ta được hăng hái, tích cực, phấn khởi, thì cần phải có Chúa Thánh Thần hiện xuống trên chúng ta. Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi chúng ta toàn diện như các tông đồ ngày xưa: làm cho chúng ta hiểu giáo lý Chúa một cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước làm cho chúng ta theo Chúa không phải vì vụ lợi muốn được điều này điều nọ mà chi vì chúng ta thực sự tin Chúa, yêu Chúa và sẵn sàng hy sinh tất cả vì niềm tin yêu đó.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thể theo lời Đức Giêsu cầu xin, Chúa Cha đã ban Thánh Thần để quy tụ chúng ta thành Giáo Hội. Chúng ta cùng dâng lời cảm tạ và cầu xin.
1. Lễ Hiện xuong là ngày khai sinh Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin / Chúa Cha ban Thánh Thần để soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ các vị mục tử / trong việc điều khiển con thuyền Hội Thánh / vượt qua mọi phong ba bão táp ở trần gian.
2. Nhiều nơi trên thế giới ngày nay vẫn còn đang sống trong cảnh chiến tranh loạn lạc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha cử Thánh Thần đến / đem yêu thương vào nơi oán thù / đem niềm vui cho người đau khổ / đem hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.
3. Ngày hôm nay / bạo lực và hận thù vẫn còn đang làm cho biết bao gia đình phải tan nát / biết bao người phải lâm vào cảnh khốn khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha ban Thánh Than là nguồn tình yêu / để đổi mới lòng trí con người trên khắp địa cầu.
4. Đường lối Thiên Chúa thì nhiệm mầu / Lời Người thì cao siêu / nhiều khi chúng ta không thể hiểu tường tận được / Vì thế chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha / ban Thánh Thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để Người chỉ bảo và nhắc nhở chúng ta / những điều Chúa Giêsu đã dạy lúc còn ở với các môn đệ.
CT: Lạy Chúa Cha nhân hậu, không bao giờ chúng con có thể khám pha được hết những kỳ diệu của tình yêu Chúa dành cho chúng con trong cuộc sống. Ước gì Thánh Thần Chúa thâm nhập lòng trí chúng con, và biến đổi cuộc đời chúng con nên một lời ca tụng tình thương của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ...
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta và cầu nguyện thay cho chúng ta bằng những tiếng than van khôn tả. Vậy chúng ta hãy cùng Chúa Thánh Thần dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha sau đây.
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, cách riêng là sự chia rẻ nhau. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, và được hiệp nhất với nhau trong Chúa Thánh Thần. Nhờ Cha rong lòng thương cứu giúp..."
- Trước lúc rước lễ: Chúng ta sắp được ăn cùng một tấm bánh là chính Đức Giêsu. Xin Chúa giúp chúng ta hiệp nhất với nhau. "Đây Chiên Thiên Chúa..."
VII. Giải tán
Anh chị em đã được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần và được thêm sức bởi hơi thở tình yêu của Ngài. Giờ đây anh chị em hãy ra về như những sứ giả của Tin Mừng và Bình an đối với mọi người anh chị em sẽ gặp gỡ.
159. Đâu là sức mạnh làm thay đổi?
(Suy niệm của Lm. Jos Đinh Công Phúc)
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Một cách nào đó, chúng ta cũng mừng sinh nhật của Giáo hội. Bởi lẽ, chính biến cố hiện xuống đã đánh dấu chính thức sự hiện diện của Kitô giáo. Biến cố này không chỉ biến đổi các thánh tông đồ thành những nhân chứng kiên dũng của Đức tin Kitô giáo, nó cũng biến đổi thái độ và niềm tin của những ai gặp gỡ họ. Nhờ thế, cộng đồng Kitô giáo đã xuất hiện và phát triển. Chính từ biến cố này, sứ điệp của Tin mừng đã từng bước thẩm thấu và làm thay đổi nền văn minh của nhân loại. Bộ mặt của thế giới đã dần dần được biến đổi (x. Cv 2: 4- 11). Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống thiết nghĩ chúng ta nên nhìn lại đâu là nguồn sức mạnh thực sự đã và đang làm thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này? Làm sao chúng ta có thể sử dụng nguồn sức mạnh này để được thay đổi cũng như để thay đổi lối sống và hoàn cảnh của chúng ta hôm nay?
Đức thượng phụ Ignatius of Laodicea đã nói rằng: không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa thật xa lạ, Đức Giêsu chỉ đơn giản là nhân vật độc đáo của lịch sử, Tin mừng chỉ là một cuốn sách cổ, Giáo hội cũng chỉ là một tổ chức như bao tổ chức khác, quyền lực là để thống trị, truyền giáo chỉ là tuyên truyền, phụng vụ chỉ là một hoài cổ, công việc của người kitô hữu chỉ là nô lệ; nhưng với Chúa Thánh Thần, Đức Kitô đã phục sinh và đang hiện diện, Tin mừng là nguồn mạch của sự sống, Giáo hội là sự hiệp nhất trong đời sống của Chúa Ba Ngôi, quyền lực là để phục vụ và giúp con người đạt được sự tự do toàn vẹn nơi Thiên Chúa, sứ mạng truyền giáo được khơi nguồn sức sống nơi chính Chúa Thánh Thần, phụng vụ là tưởng nhớ và nếm thử đời sống sung mãn của ân sủng nơi Thiên Chúa, công việc của người kitô hữu thì được thánh hóa.
Như vậy, chính Chúa Thánh Thần đã thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này. Nếu không có Ngài, công việc của chúng ta trở nên vô ích và chỉ phục vụ cho những mục đích thấp hèn của con người. Tôi nhớ lại cách đây mấy năm, khi mà chúng tôi đang cắp sách tới trường thần học. Khi đề cập đến Chúa Thánh Thần và đời sống của Giáo hội. Thật bất ngờ khi mà một cha bạn của tôi xin đặt một câu hỏi cho cha giáo sư: thưa cha, thế Chúa Thánh Thần đã ở đâu và đang ở đâu, khi mà có biết bao công việc đã đi ngược lại với những đòi hỏi của Tin mừng. Một câu hỏi trời giáng đã làm yên lặng cả lớp học. Mọi người cứ ngỡ rằng Cha sẽ bị đuổi ra khỏi lớp học. Thế nhưng, cha giáo đã trả lời: đây là một vấn đề mà tất cả chúng ta cần tìm hiểu trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Chỉ sau khoảng hai tháng chính ngài đã có một bài "đi tìm một câu trả lời cho câu hỏi: Chúa Thánh Thần ở đâu trong thời đại của chúng ta?" Có lẽ hôm nay chúng ta cũng cần một câu trả lời cho chính chúng ta.
Chúng ta không phủ nhận dù chúng ta có nhìn thấy những tia sáng của hy vọng, nhưng tối tăm, khó khăn và những thách thức của cuộc sống luôn bủa vây cuộc đời của chúng ta. Trong hoàn cảnh này, có lẽ biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống sẽ là bài học cần thiết cho chúng ta. Các tông đồ xưa cũng đã từng phải đối mặt với những khó khăn của chết chóc, hiểu lầm, hiểu khác, hiểu sai, hiểu ngược. Và rồi bách hại, chán nản, bỏ cuộc, etc. Thế nhưng, phải nói rằng họ có một niềm tin sâu sắc đủ vào lời hứa của Đức Kitô. Họ đã kiên trì cầu nguyện. Họ đã lãnh nhận chính Chúa Thánh Thần (x. Ga 20: 21- 22). Họ đã được biến đổi và họ đã làm thay đổi thế giới (x. Cv 2: 1- 11). Phải chăng chúng ta đang cần học lại kinh nghiệm này của các thánh tông đồ?
Chúng ta tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và đồng hành với Hội thánh. Ngài hướng dẫn và thánh hóa Giáo hội. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dám mạnh mẽ khẳng định rằng: không có quyền lực nào có thể phá đổ Hội thánh. Sẽ luôn luôn có những con người được tuôn đổ đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, để Giáo hội phát triển trong mọi mặt. Những chứng nhân nổi bật trong Giáo hội đã gây ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong những năm gần đây chúng ta có thể kể đến mẹ Teresa Calcuta và Đức giáo hoàng John Paul II. Có thể chúng ta chưa phát hiện ra còn nhiều những con người đang âm thầm góp sức biến đổi những tiêu cực trong xã hội của chúng ta. Rất có thể một số là chính anh em của chúng ta đây? Chúng ta có thể tin tưởng chắc chắn rằng, Giáo hội sẽ luôn đứng vững, phát triển và trao ban ơn cứu độ cho muôn dân.
Tôi nhớ một câu chuyện khá thú vị. Một ngày kia Napoleon Bonaparte, với đầy uy quyền, nói với một Đức hồng y rằng: Tôi có thể tiêu diệt Giáo hội nếu như các ngài không theo mệnh lệnh của tôi. Vị hồng y khiêm tốn trả lời: Xin chúc mừng ngài, ngài thật uy quyền! Chính chúng tôi, nhiều linh mục của Giáo hội đã cố gắng thực hiện điều đó qua nhiều thế kỷ. Thật đáng tiếc, họ đã thất bại. Giáo hội vẫn tồn tại đầy sức sống. Nhưng Napoleon Bonaparte đã thất bại, bị khổ sai, và chết trong sự nhục nhã! Chúa Thánh Thần có thể biến đổi mọi sự nên tốt đẹp, kể cả tội lỗi của chúng ta.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, tôi có vài câu hỏi muốn được đặt ra cho chúng ta. Đã bao nhiêu lễ hiện xuống tôi đã tham dự? Chúa Thánh Thần đã thực hiện những gì trong cuộc đời tôi? Làm sao để lễ Hiện xuống năm nay có những thay đổi thực sự trong cuộc đời tôi?
Chúng ta đã chìm sâu trong lời cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần từ lễ Chúa lên trời. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa không ngừng tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần trên chúng ta. Câu trả lời rất có thể không phải là Chúa Thánh Thần ở một nơi nào đó và Ngài không hoạt động. Ngài luôn hiện diện và thực thi công việc của Ngài trong thế giới này. Vấn đề là ở chính chúng ta! Liệu tôi có nghe tiếng Ngài? Tôi có tìm kiếm Ngài không? Tôi có đón tiếp Ngài không? Tôi có sẵn sàng để Ngài thực hiện công việc thánh hóa của Ngài qua tôi không? Chúa Thánh Thần sẽ không thể thực hiện điều gì, nếu như chúng ta từ chối Ngài! Câu trả lời sẽ là của mỗi người chúng ta.
Để nhận ra Chúa Thánh Thần và để Ngài hoạt động trong cuộc đời chúng ta - chắc chắn chúng ta không thể hơn các thánh tông đồ xưa - chúng ta cần cầu nguyện. Chúng ta không cần nói dài, nhưng đối thoại thường xuyên hơn với Ngài. Chúng ta cũng không cần nói nhiều, nhưng hãy mở lòng ra để đón nhận. Max Handel chia sẻ: cầu nguyện giống như chúng ta bật công tắc điện lên. Chúng ta không là nguồn điện năng. Nhưng chúng ta mở đường cho nguồn điện tuôn chảy qua và trong chúng ta. Đây có phải là cách mà chúng ta thường cầu nguyện? Nếu ngược lại, ai đang hoạt động trong chúng ta?
Có Chúa Thánh Thần, không có gì là không có thể. Nếu chỉ cậy vào tài năng của chúng ta, rất nhiều chuyện sẽ không có thể. Như vậy, nếu chúng ta nghĩ rằng chuyện gì đó không thể, thì rất tiếc rằng chúng ta đang bắt Chúa Thánh Thần phục vụ cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, như Đức Kitô đã và đang tin tưởng nơi chúng ta. Đây là kinh nghiệm của những người "liều" đã hiến dâng cuộc đời cho sứ điệp của Tin mừng. Chính họ đã làm thay đổi biết bao con người. Chính họ đã làm thay đổi bộ mặt của thế giới. Thật đơn giản, họ tin tưởng nơi Chúa. Họ biết Chúa có thể thực hiện những điều phi thường qua con người mỏng dòn của họ. Chính những con người đơn sơ, thậm chí không may mắn được cắp sách tới trường như hầu hết các môn đệ của Giêsu - mà một bài giảng có thể hoán cải từ 3 đến 5 ngàn người! Đâu là phép lạ? Đâu mới thực sự là sức mạnh? Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần hiện diện nơi mình. Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần nói qua con người và miệng lưỡi mình. Khi họ chấp nhận để cho "ngôn ngữ" của Chúa Thánh Thần được nói lên. Với "ngôn ngữ" của Chúa Thánh Thần, mọi sự có thể được biến đổi, lòng người có thể thay đổi, tội lỗi sẽ được tha. Chúng ta học được gì qua những kinh nghiệm này?
Có lẽ điều lo lắng lúc này không phải làm sao tôi có thể thay đổi chồng tôi, vợ tôi, bạn tôi, con tôi, kẻ thù tôi, người tội lỗi, etc? Làm sao tôi có thể dạy họ? Làm sao tôi có thể thuyết phục họ? Câu hỏi nào đang trong đầu ban? Không cần quan tâm bao nhiêu câu hỏi. Có một điều đơn giản hơn, chúng ta nên quan tâm - câu khẳng định của Đức Giêsu: Bình an cho anh em...Anh em hãy lấy Thánh Thần (Ga 20: 21- 22). Nếu chúng ta chấp nhân điều này - chính Thánh Thần sẽ là người thực hiện. Không ai trong chúng ta có thể làm phép lạ. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện. Đâu là sức mạnh có thể làm thay đổi? Hy vọng đây sẽ là thánh lễ Hiện xuống đặc biệt trong đời chúng ta.
160. Xin Ơn Hiệp Nhất
(Suy niệm của Lm. Jos Ta Duy Tuyền)
Con người luôn mơ ước bình an hạnh phúc. Hạnh phúc không đơn thuần là không có hận thù, không có chiến tranh mà hạnh phúc còn là biết đem yêu thương vào trong những hận thù, chia rẽ. Đây cũng là lời cầu nguyen của thánh Phanxico thành Assisi trong lời kinh Hòa Bình mà có lẽ nhiều người đã từng hát. Lời kinh ấy gọi mời cầu nguyện với Chúa cho con người biết xóa bỏ hận thù, kỳ thị, tranh chấp, nghi kị, kết án lẫn nhau… để trở nên những ‘Khí cụ bình an của Chúa…Biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi ngừơi…biết đem yêu thương vào nơi oán thù…Đem an hòa vào nơi tranh chấp…’
Chung quy của lời cầu nguyện là cầu mong cho có sự hiệp nhất yêu thương. Hiệp nhất trong yêu thương. Khi có hiệp nhất người ta mới có thể xây dựng thế giới an hòa, thịnh vượng theo như mong ước của con người. Lịch sử cứu độ đã từng chứng minh về những cái chết thương tâm khi con người chia rẽ nhau. Cain đã giết chết em của mình là Abel. Tháp Babel đã không thể hoàn thành vì loài người chia rẽ đến mức độ ngôn ngữ bất đồng mà Thánh Kinh bảo rằng họ chia rẽ nhau: “Không còn nói cùng một thứ tiếng” nữa… và cũng từ đó chiến tranh luôn xảy ra trên thế giới khiến nhân loại không còn là một gia đình yên vui, êm ấm, thuận hòa.
Nguyên nhân của sự bất đồng thường là do thiếu hiểu biết và kiêu căng mà ra. Người Việt Nam dường như ai cũng biết câu chuyện về 5 Người mù xem voi. Họ bất đồng với nhau vì bản thân họ khuyết tật. Họ chia rẽ nhau vì ai cũng cố chấp và bảo thủ không nhìn nhận sự bất toàn của mình. Thật buồn cười khi ông thứ nhất quả quyết rằng con voi là cây cột nhà vì ông đang sờ vào chân của nó. Ông khác lại khẳng định rằng con voi là cái quạt vì ông đang sờ vào tai của nó. Ông kia lại tuyên bố rằng con voi như cái chổi vì ông đang sờ vào cái đuôi của nó. Và cứ như thế, không ai chịu nghe ai và cuộc tranh cãi, ẩu đả diễn ra.
Xem ra con người luôn có cái nhìn phiến diện. Con người bị giới hạn rất nhiều về khả năng. Và dường như không ai hoàn hảo đến độ có thể hiểu biết mọi sự. Nhưng đáng tiếc, là con người lại kiêu căng đến độ cho mình thông hiểu mọi sự. Đó là lý do gây nên những mâu thuẫn, những đố kỵ, ghen ghét cho cuộc sống chung của loài người.
Các tông đồ năm xưa đã tìm được sự hiệp nhất dưới mái nhà tràn đầy Chúa Thánh Thần. Các ngài nói, các ngài hành động không phải do ý mình mà là do tác động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã làm mới con người các ngài qua hình ảnh lưỡi lửa đậu trên đầu các tông đồ. Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần đã làm nên một cộng đoàn các tông đồ hiệp nhất yêu thương.
Nhờ Chúa Thánh Thần mà các tông đồ đã tìm được tiếng nói chung với nhau. Khi phải quyết định một điều gì các ngài thường nói: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định”. Như thế, các ngài làm điều gì cũng dước tái động của Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần mang lại sự hiệp nhất nơi tông đồ đoàn.
Dưới mái nhà hay nơi hội đoàn có lẽ cũng cần phải làm việc dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Không ai theo ý riêng mình. Không ai áp đặt ý mình lên tập thể mà là để Chúa Thánh Thần dẫn dắt thì gia đình, cộng đoàn chắc chắn sẽ có bình an. Vì Chúa Thánh Thần là thần chân lý sẽ dẫn con người tới sự thật. Chính Ngài sẽ giúp mỗi người sống theo sự thật, theo chân lý. Và như vậy niềm vui của sự bình an hiệp nhất sẽ đến với gia đình và cộng đoàn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến đổi mới tâm hồn chúng con. Xin cho chúng con biết lắng nghe tiếng nói của sự thật để nhờ đó chúng con được sống trong bình an. Xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng con đi trong chân lý vẹn tuyen để chúng con làm chứng cho tình yêu của Chúa giữa thế gian. Amen.
161. Thời đại Chúa Thánh Linh - AM. Trần Bình An
Một ngày nọ, một Cha sở Miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmông muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
“Anh chị em từ đâu đến đây?”
“Chúng con đến từ Lai Châu (Tây Nam giáp Điện Biên Phủ). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay”
“Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?”
“Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.”
“Không thể được, không có một Linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng anh chị em. Còn anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép rửa tội được?’
“Chúng con đã học tất cả từ đài phát thanh phát đi từ Phi Luật Tân.
“Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công Giáo nào có chương trinh phát bằng thổ ngữ anh chị em đâu!”
“Đó là đài phát thanh “Nguồn Sống.”
“Một đài phát thanh Tin Lành, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở lại Công Giáo. Thật là điều lạ!”
Vị Linh mục thật cảm kích bật thốt lên: “Đây là một lễ Hiện Xuống Mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần! Chúa Thánh Thần!” Rồi cha lại hỏi đám người Hmông:
“Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?”
“Thưa cha không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.” Cả nhóm đã được Rửa Tội và chịu phép Thêm Sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
“Anh chị em sẽ không có Thánh lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ, anh chị em sẽ làm thế nào?
“Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình, để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung, và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật, chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc, thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh le qua đài phát thánh Chân Lý, phát từ Manila.”
Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta. (TGM Fx Nguyễn Văn Thuận, Chứng Nhân Hy Vọng)
Trong thời đại thông tin toàn cầu, Lời Chúa được phát đi bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, thậm chí cả những thổ ngữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam, như tiếng Hmông, Sê Đăng, Gia rai,… Đó là dấu chỉ rất rõ ràng một Lễ Hiện Xuống Mới trên Giáo Hội Việt Nam. Những giọt máu đào của các vị Tử Vì Đạo tiền nhân hào hùng, đã nhờ Chúa Thánh Thần, biến thành những hạt giống Đức Tin đâm chồi nảy lộc trên cao nguyên Tây Bắc xa xôi, hẻo lánh.
Tin Mừng theo Thánh Gioan của lễ Hiện Xuống hôm nay, thuật lại khi các Tông Đồ đang còn hoảng hốt, lo âu, sợ hãi, cửa đóng then cài, thì Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra, chúc bình an đến hai lần. Bình an trong bối cảnh khốn quẫn, khắc nghiệt, cũng như bình an ra đi phiêu lưu rao giảng. Đức Giêsu trao ban Thánh Thần làm Đấng Phù Trợ an ủi: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”
Đấng Phù Trợ
Trong hai chương 15 và 16 Tin Mừng Thánh Gioan, Đức Giêsu ân cần, cặn kẽ giới thiệu tầm quan trọng vô cùng của Đức Chúa Thánh Thần. Ngài là Đấng Phù Trợ và là Thần Chân Lý của các Tông Đo và tín hữu Kitô. Với làn gió mạnh, những Lưỡi Lửa biểu hiện, Đức Chúa Thánh Thần đã tác động tích cực đến các Tông Đồ vào ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2, 1-13). Các ngài liền mở toang cửa, can đảm bước ra ngoài, rao giảng cho toàn thể đông đảo dân chúng tứ phương, vốn bất thân thiện, đang tham dự đại lễ tại Giêrusalem. Lạ lùng thay, bất cứ dân nước nào, dân tộc nào hiện diện, cũng hiểu được lời rao giảng nhiệt thành của các Tông Đồ.
Đức Chúa Thánh Thần đã thực sự nâng đỡ, trợ giúp, hồi sinh, cải hoá, đổi mới tâm hồn, cũng như phục sức, tăng lực cho các Tông Đồ, vốn rất yếu đuối, sợ hãi, thất vọng sau cuộc khổ nạn của Thầy Giêsu. Biến đổi thật ngoạn mục, thật kinh ngạc, các ngài trở nên chứng nhân anh dũng của Đức Giêsu - Chịu - Đóng - Đinh.
Ngài còn hiệp nhất tất cả Kitô hữu nên một Hội Thánh trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa. “Vì chưng trong cùng một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta được tràn đấy một Thần Khí duy nhất.” (1Cr 12, 13)
Ngài đem lại những điều tích cực, thiết yeu và khởi sắc cho những mối tương quan nhân loại, giữa cộng đồng, gia đình, bằng những hoa thơm trái ngọt quý giá: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ.” (Gl 5, 22-23)
“Con hãy hợp tác để tạo nên “Mùa Xuân Mới” cho Hội Thánh. Con hãy chuẩn bị các tâm hồn đón nhận “Một lễ Hiện Xuống Mới” trong Hội Thánh. Con hãy nên cánh cửa mở ra, để đón làn gió mát dịu ngập tràn, làm tươi sáng Hội Thánh.” (Đường Hy Vọng, số 657)
Thần Chân Lý
Nhờ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, các lời giảng dạy của Chúa Giêsu trước kia mới được giải mã, ngời sáng, như gạt giống được gieo vào lòng đất tốt đủ độ ẩm yêu cầu, mới có the nảy mầm đâm chồi, xanh tốt vươn lên. Ngài soi sáng mở lòng các Tông Đồ nhận biết chân lý muôn thuở, sự thật về Đức Giêsu, ý thức về Thiên Chúa Ba Ngôi, Giao Ước mới, Luật mới, cũng như sứ vụ phải thực hiện. Đồng thời, Ngài đã khai sinh ra Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, hiện diện trong môi trường thế gian thù nghịch, như ánh sáng xua tan bóng tối.
Thần Chân Lý sẽ giảng giải cho tất cả những người thiện tam, mong đợi chính đạo, sự thật và sự sống, Ngài còn đóng vai trò ngôn sứ, tiên báo, cảnh giác. Ngài cũng tôn vinh Chúa Giêsu: ‘Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình ma nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.” (Ga 16, 13 -14)
Ngài còn là Trạng Sư, tận tình bào chữa, bảo vệ, bênh vực người Kitô hữu trước thế gian thù địch, đố kỵ, ganh ghét, đổ vạ cáo gian. Hơn nữa Ngài còn thánh hoá người Kitô hữu trở nên con cái Thiên Chúa."Khi người ta đưa anh em ra trước hội đương, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói." (Lc 12, 11-12)
“Thời đại mới, nhu cầu mới, phương pháp mới. “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế,” và Ngài ban cho Hội Thánh lễ Hiện Xuống mới. (Đường Hy Vọng, số 296)
Lạy Đức Chúa Thánh Thần, xin tái hiện xuống chúng con hằng ngày, hằng giờ, để chúng con luôn được tái sinh, luôn can đảm sống theo Lời Chúa, Tông truyền và giáo huấn Hội Thánh, xin thánh hoá chúng con trở nên chứng nhân hy vọng đích thực và chân truyền.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đầy ơn phúc Đức Chúa Thánh Thần, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con cũng được lãnh nhận tràn trề bảy Ơn Đức Chúa Thánh Thần: “khôn ngoan, hiểu biết, lo liệu, sức mạnh, thông thái, đạo đức, và kính sợ Thiên Chúa,” để chúng con luôn nồng nàn kính mến, tôn thờ Chúa và yêu thương phục vụ tha nhân. Amen.
162. Sống trong Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, hiện diện và hoạt động trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Trong thời đại Tân Ước, Ngài chính là ân huệ của Đấng Phục Sinh và là nguồn sức mạnh nối kết muôn dân và các tín hữu nên một trong cùng một phép Rửa và một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô.
Thật thế, Chúa Thánh Thần đã hiện diện và đã đóng một vai trò tích cực ngay từ khởi thuỷ, Ngài hiện diện và thánh hoá trong lịch sử sáng tạo và cứu độ. Ngay đối với Chúa Giêsu trong cuộc sống ẩn dật và công khai, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và tác động trên Ngài, nhất la trong những biến cố quan trọng, như khi lãnh Phép Rửa ở sông Giođan, hay như khi Chúa Giêsu vào sa mạc chịu ma quỉ cám dỗ, như khi cất bước rao giảng Tin Mừng khắp các làng mạc ở Palestin. Thế nhưng, chỉ khi Chúa Giêsu hoàn tat sứ mạng bằng cái chết và sống lại từ cõi chết, chính Ngài mới có thể ban Thánh Thần. Trình thuật Phúc âm Thánh Gioan hôm nay cho thấy vào buổi chiều sau khi sống lại, Chúa Giêsu hiện đến thổi hơi vào các môn đệ và bao: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20, 22). Cử chỉ thổi hơi trên các môn đệ gợi lại hành động Thiên Chúa lúc bắt đầu tạo dựng con người. Thiên Chúa đã thổi hơi vào ông Ađam hơi thở của sự sống và con người nên song động. Cũng thế, khi Chúa Giêsu thổi Thánh Thần trên các môn đệ, các ông nhận được sự sống mới. Thánh Thần là "Chúa và là Đấng ban sự sống" như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Sách Công vụ Tông Đồ còn cho thay Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như gió thổi, như lưỡi lửa, vào chính ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, được mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ giao ước giữa Thiên Chúa và dân Israel tại núi Sinai. Dịp lễ này đã quy tụ đông đảo người Do Thái từ các nước khác nhau trở về Gierusalem. Chính trong bối cảnh của ngày lễ trọng đại này mà hoạt động đầu tiên của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội được biểu lộ. Hoạt động được biểu lộ qua việc các tông đồ " nói tiếng khác nhau" và "mọi người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được lời rao giảng của các tông đồ" (CVĐ 2, 1 - 12). Ở đây, ân sủng của Chúa Thánh Thần đã tái lập sự thống nhất ngôn ngữ đã bị chia rẽ, phân tán tại tháp Babel khi xưa và đồng thời nói lên tính cách phổ quát đại đồng của ơn cứu độ do Chúa Giêsu đem đến và do Chúa Thánh Thần thực hiện.
Trong thư gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolo đã nhấn mạnh đến vai trò hiệp nhất của Chúa Thánh Thần: " Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, tất cả chúng ta đã được tràn đầy một Thánh Thần duy nhất"(1Cr 12, 13). Nếu chỉ có Thánh Thần mới làm cho những kẻ tin nói được: "Đức Giêsu là Chúa", thì cũng chỉ có Thánh Thần mới làm cho những con người khác nhau hợp nhất với nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt của nhau. Vì vậy, Thánh Phaolô đã kêu gọi chúng ta "hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau" "(1Cr 1, 10). Bởi vì, những người cùng thờ một Chúa, cùng tuyên xưng một niềm tin, cùng lãnh nhận một bí tích, cùng hy vọng một tương lai nước trời, mà lại chia rẻ nhau, là điều không thể hiểu nổi, là gương xấu không thể tha thứ được.
Đời sống Kitô hữu là đời sống theo Thánh Thần, như Thánh Phaolô đã nói: "Ai sống theo xác thịt thì hướng về những điều thuộc xác thịt, còn ai sống theo Thánh Thần thì hướng về những điều thuộc Thánh Thần. Nhưng hướng theo xác thịt thì chết, còn hướng theo Thánh Thần là sống và bình an" (Rm 8, 5). Muốn sống theo Thánh Thần, chúng ta phải bắt chước Chúa Giêsu, ước muốn nên giống Ngài, sống hiếu thảo như Ngài, sống yêu thương mọi người, sống khiêm tốn, hiến lành và phục vụ mọi người. Hãy sống theo Thánh Thần, chúng ta sẽ được lãnh nhận những hiệu quả của Thánh Thần. Và hiệu quả của Thánh Thần, đó là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, trung tính, hiền hoà, tiết độ. Nếu chúng ta sống nhờ Thánh Thần, thì hãy để Thánh Thần hướng dẫn đời ta". (Gl 5, 22 - 25).
Sống trong thế giới vật chất này, con người vẫn còn cảm thấy bất an, lo lắng, lo sợ, loa toan,...Và vì thế, con người vẫn luôn khát vọng tìm nguồn bình an. Nhưng sự bình an bên trong không thể mua được bằng tiền bạc, vật chất. Do đó, đối với người Kitô giáo, Chúa Thánh Thần chính là nguồn bình an đích thực, đã hiện hữu và luôn sẵn sàng giúp con người được sống bình an. Chính Chúa Thành Thần sẽ ban cho con người sự sống viên mãn, hạnh phúc đích thực trong Chúa Kitô. Ai sống trong Chúa Thánh Thần thì được sự sống vui tươi, hoan lạc và bình an vĩnh cửu.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người, tạo điều kiện cho mối tương quan huynh đệ giữa người với người, những gì tạo nên sự hiệp thông vô biên giới phải là những tiêu chuẩn cho hành động của chúng ta. Bởi vì những gì giới hạn hoặc chia rẽ, đều nghịch với Thánh Thần của Chúa Kitô. Thánh Thần luôn chăm lo hiệp nhất Thân Thể Đức Kitô, duy trì sự hiệp thông và qui tụ mọi người hiệp nhất với Ngài.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Khi xưa Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, thì hôm nay xin cho chúng con cũng biết đón nhận Chúa Thánh Thần, để chúng con cũng được biến đổi trở thành tông đồ nhiệt thành làm chứng cho Chúa trong thời đại hôm nay. Amen.
163. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Anh chị em thân mến.
Tôi đã được xem qua câu chuyện ngắn, mà nó gây ấn tượng cho tôi rất lâu. Câu chuyện mang tên Lòng mẹ, của một tác giả nhỏ còn cắp sách đến trường. Nội dung chuyện diễn tả người mẹ và đưa con gái. Gia đình nghèo, người mẹ hằng ngày nhờ vào gánh chè vào lúc đêm để nuôi sống gia đình và lo cho con ăn học.
Vào một ngày lễ của nhà trường, người mẹ cũng cố gắng lo cho con mình một bộ áo dài mới để mặc với các bạn. Đứa con cũng rất ngoan, người mẹ cũng tự hào về con mình. Khi đã mặc bộ đồ mới vào, người con rất cảm động. Nhưng nhìn lại chiếc xe đạp, cô bé không khỏi ngậm ngùi. Chiếc xe đó nó lớn tuổi hơn cô, nên giờ đay cô hơi ngần ngại. Nhưng vì thương mẹ nên cô lặng thinh không muốn làm cho mẹ phải khổ thêm.
Khi trở về, cô có vẻ như mệt nhoài và chạy vội ra sau, vừa chạy vừa khóc. Người mẹ lo lắng, chạy theo xem chuyện gì xảy ra với con mình. Cô khóc lóc, chỉ vào chiếc quần mới và chỉ vào chiếc xe. Ngưới mẹ lặng thinh, an ủi con. Sau đó, mọi chuyện tưởng như đi vào quên lãng. Một hôm cô bé đi học về, tưởng trong nhà mình có khách, vì cô nhìn thấy một chiếc xe đạp mới, dựng trong nhà. Cô hỏi mẹ xe của ai.
Người mẹ âu yếm nhìn con và nói đó là xe của con. Cô bé rất vui mừng cảm động. Cũng từ hôm ấy, mẹ cô về rất khuya. Cô học bài xong ngồi chờ mẹ mãi, vẫn chưa thay. Một hôm chờ lâu quá cô sốt ruột, nên chạy đi tìm mẹ. Cô đến chỗ mẹ thường bán, hỏi thăm thì nhìn thấy gánh chè mẹ đã bán hết và gởi đó. Cô được biết: thời gian gần đây, sau khi đã bán hết chè, mẹ cô phải đi lam thêm một công việc là đi quét rác. Cô chợt hiểu ra, vì lo cho cô có chiếc xe đạp mới mà mẹ phải vất vã như thế. Cô vội chạy đi tìm mẹ với những dòng nước mắt tuôn trào.
Tôi suy nghĩ: Động lực nào đã thêm sức cho người mẹ như thế. Động lực nào đã làm cho người con hiểu được tình mẹ. Một sức mạnh vô hình mà người ngoài không thể nhìn thấy được. "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Các môn đệ được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Người đời chẵng ai nhìn thấy các ngài được thêm điều gì. Nhưng bên trong con người các ông đã thay đỗi hoàn toàn. Từ những người nhút nhát, vào phòng đóng kín cửa, lo sợ bị người khác nhìn thấy, lo sợ cho bản thân bị nguy hiểm. Nhưng giờ đây con người của Các Ông đã hoàn toàn thay đỗi. Thay vì cửa được đóng kín, giờ đây lại mở tung ra.
Thay vì sợ người khác nhìn thấy, giờ đây các ông đứng giữa đám đông để rao giảng. Thay vì sợ nguy hiểm cho bản thân, giờ đây các ông vui mừng vì được chịu đau khổ do những điều mình rao giảng. Người đời chẵng nhìn thấy điều gì. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ và các môn đệ cũng biết rõ điều gì đang xẩy đến với mình, nên các Ngài không thể ngồi yên. Các ngài phải hoạt động, phải chạy đi, phải rao giảng.
Mỗi người trong chúng ta cũng đã được nhận lãnh Chúa Thánh Thần, đặt biệt trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức. Hằng ngày trong đời sống, ơn Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong con người của mình. Nhưng chúng ta có nhận ra, có nhìn thấy được không? Hay chúng ta cũng như bao nhiêu người khác không thể nhìn thấy được biến chuyển trong con người của chính mình. Thiên Chúa đã làm tất cả những gì cần thiết, những gì có thể làm được, Ngài đã làm cho chúng ta rồi. Còn phần của mỗi người, hãy nhìn vào chính mình chúng ta sẽ nhìn thấy ơn Chúa Thánh Thần hoạt động.
Hiện tại, ơn Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện trong mỗi người chúng ta. Nhưng có những nơi ơn Chúa đành phải chịu số phận bị đóng kín cửa. Vì nỗi lo sợ, nếu khi mở tung cửa tâm hồn họ sẽ bị mất mát đi một phần lợi ích riêng tư. Đó là những người sống ích ky, chỉ biết nghĩ đến chính mình, còn những người khác ra sao họ không cần biết. Cũng có những người đã mở cửa nhưng không dám bước ra khỏi nhà, không dám đi đến những nơi cần thiết. Họ sợ liên lụy bản thân. Đó là những người hèn nhát. Còn có những người, họ biết rất rỏ những công việc phải làm, biết đâu là tốt, đâu là xấu. Nhưng họ vẫn nằm yên bất động. Đó là những người lười biếng.
Còn chúng ta, có giống được cô bé trong câu chuyện, chạy vội đi tìm mẹ để chứng tỏ lòng yêu thương và biết ơn của mình. Đó cũng là tâm tình của các Tông Đồ khi được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Xin Chúa ban sức mạnh cho mỗi người biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
164. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Năm mươi ngày hoan lạc phục sinh đã khép lại và giờ đây, chúng ta được bao phủ bởi ân huệ từ trời của Chúa Cha gởi đến qua Chúa Giêsu là Thánh Thần. Thánh Thần đến ban sự dũng cam, can đảm, làm nhân chứng, sự thông cảm, hiệp nhất và tự do... cho tất cả con cái Thiên Chúa.
Thánh Luca tường thuật việc trao ban Thánh Thần xảy ra vào ngày lễ Ngũ Tuần. Truyền thống Do Thái tin rằng Thiên Chúa ban lề luật trên núi Sinai cũng vào ngày lễ Ngũ Tuần. Còn thánh Gioan tường thuật việc trao ban Thánh Thần vào chính ngày lễ phục sinh. Tuy nhiên chúng ta tránh việc nhấn mạnh một trong hai khía cạnh trong ngày lễ Ngũ Tuần là trao ban Thánh Thần. Thánh Gioan nói đến việc Chúa Giêsu phục sinh ban tặng Thánh Thần và khơi màu sứ mạng của Giáo hội.
Nếu như ngày Thiên Chúa ban lề luật cho dân Do Thái là ngày khai sinh một cộng đồng dân tộc sống trong đường lối của Thiên Chúa. Thì Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm nay cũng đánh dấu một bước ngoặc quan trọng, là ngày sinh ra một cộng đoàn mới là cộng đoàn Giáo Hội.
Chuyện kể rằng: Ngày xưa, có một nhóm người có thế lực muốn bắt tay xây dựng một ngọn tháp đến tận trời. Họ tập hợp các kiến trúc sư, các thợ nề và một lực lượng lao động đông đảo. Để chuẩn bị cho việc xây cất, họ đã mua một số lượng lớn vật liêu gồm: đá gan-nít và xi-măng. Những nhà tổ chức có cùng một ý kiến và nói cùng một ngôn ngữ. Các kế hoạch đã được soạn thảo và các đề án bắt đầu được thi công.
Tuy nhiên, có sự trục trặc trong công việc là tiếng nói. Những ngươi chủ chỉ thích một điều duy nhất là làm vinh danh họ. Ngọn tháp được trở thành đài kỹ niệm biểu dương cho quyền lực của họ. Vì thế, lòng ganh tỵ giữa các kiến trúc sư và từng người muốn rời bỏ vị trí làm việc của mình. Họ làm việc cách ẩu tả nên có nhiều tai nạn xảy ra. Các công nhân bị la mắng, bị hành hạ cách thậm tệ. Vật liệu bị mất cấp liên miên. Chi phí cho công trình bị thâm thủng. Ngân hàng bắt đầu lên tiếng phản đối. Các nha đầu tư thu hồi vốn lại. Sự nghi ngờ cũng lan tràn khắp nơi. Những người thợ xây dựng không còn nói chung một ngôn ngữ. Ngọn tháp phải dừng lại và bỏ hẳn.
Đây là câu chuyện hiện đại mà kịch bản giống với câu chuyện tháp Babel. Ngọn tháp là biểu tượng cho những cố gắng của nhân loại trong ý định muốn tạo một thiên đường ở trần gian mà không phải trông cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Sau khi tổ tông loài người ăn trái cấm. Thiên Chúa đuổi hai ông bà ra khỏi vườn địa đàng. Khi đó, họ đã làm gì? Họ đã có sự "hiểu biết" và tự xây dựng một thiên đường bằng chính nổ lực của mình và loại trừ Thiên Chúa. Nhưng thiên đường đó là gì?
Sự nỗ lực của con người vẫn còn đó. Chúng ta có những sa lộ rộng lớn, có những chiếc phản lực siêu âm, có những lò năng lượng nguyên tử, người ta có thể điều khiển tàu vũ trụ bay vào không gian... Nhưng chúng ta vẫn chưa thể sống bình an với người khác.
Lễ Ngũ Tuần mang một ý nghĩa đảo ngược hoàn toàn với những gì xảy ra nơi tháp Babel. Chúng ta cũng có một nhóm người tụ hợp với nhau, những con người tầm thường mà họ không chút tự tin vào khả năng hạn hẹp của mình. Nhưng lại có một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Họ cũng bắt đầu xây dựng một "ngọn tháp" với thể loại hoàn toàn khác biệt. Ngọn tháp này làm nên một cộng đoàn mới, ngọn tháp vươn lên trời nhờ những bậc thang thiêng liêng.
Các Tông Đồ cũng bắt đầu xây dựng cộng đoàn mới này. Họ cùng nói một ngôn ngữ mới là ngôn ngữ của tình yêu và cùng nhau hoạt động. Một ngôn ngữ mà tất cả những người thánh thiện đều co thể hiểu. Nó rạng ngời trên những khuôn mặt và được cảm nhận qua những bàn tay siết chặt với nhau.
Hôm nay là ngày kỷ niệm một biến cố vĩ đại đã xảy ra. Đó chính là ngày khai sinh của Giáo Hội, là cộng đoàn của những người theo Chúa Giêsu. Trong ngày này, chúng ta hãy tạ ơn vì Chúa Thánh Thần đã đến với chúng ta và tạ ơn vì Giáo hội sơ khai đã khai mở những bước chân đầu tiên. Cộng đoàn này được xây dựng không phải từ những con người thánh thiện, nhưng từ những con người tội lỗi. Trải qua bao thăng trầm, dù đối diện với những khó khăn và thất bại, nhưng cộng đoàn này vẫn tồn tại và từng bước được xây dựng thêm.
Ngày hôm nay, chúng ta tụ hợp nơi đây không phải như con người kỳ thị và cạnh tranh nhau nhưng như là những người bạn. Cái nhân tố thông thường để chia cắt hay phân biệt con người là giai cấp, màu da, tuổi tác và của cải. Chúng không có giá trị ở đây! Ơ đây, chúng ta là một gia đình sống dưới bàn tay che chở của Thiên Chúa.
Lễ Ngũ Tuần đã thay đổi tai hoạ của tháp Babel đã làm cho nhân loại trở nên lộn xộn và chia rẻ thành một gia đình hiệp nhất. Chúa Thánh Thần đã làm cho mọi người nhận ra một Thiên Chúa Thật và làm cho tất cả nhân loại thuộc nhiều ngôn ngữ thành một tiếng nói là cùng tuyên xưng một niềm tin.
Đây là một kỳ công mà nó được được bắt đầu vào ngày lễ Ngũ Tuần. Vì vậy, chúng ta không chỉ tìm chổ nương tựa nơi toà tháp là cộng đoàn Giáo Hội, mà chúng ta cần phải có bổn phận xây dựng nó.
165. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Tờ báo tuổi trẻ Chủ Nhật ra ngày 29.4. 2001, có đăng tải một câu chuyện ngắn như thế này: Có một vị vua nọ treo một phần thưởng rất lớn cho bất kỳ họa sĩ nào vẽ được một bước tranh đẹp nhất về sự bình an.
Chỉ năm ngày sau, rất nhiều bức tranh được đưa tới. Và trong số nhiều bức tranh đó, có hai bức tranh tuyệt đẹp mà nhà vua phải chọn lấy một để trao giải. Bức tranh thứ nhất thể hiện một hồ nước êm ả, nước trên mặt hồ nhìn như thể là một tấm kiếng to lớn soi rõ những ngọn núi chót vót bao quanh. Phía trên nó là một bầu trời trong xanh với những cụm mây trắng mịn màng. Đúng là một bức tranh tuyệt hảo về sự bình an.
Bức tranh thứ hai cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi ấy lại trần trụi xấu xí. Còn bên trên nó là một bầu trời giận dữ, sấm sét bảo bùng cộng với những cơn mưa như thác đổ, tạo thành một dòng chảy hãi hùng, sẳn sàng tiêu diệt tất cả. Thế nhưng ông vua lại phát hiện ra nơi bức tranh này có một chi tiet nhỏ nữa: Đó là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe đất của một tảng đá. Và trong bụi cây đó, ở giữa một dòng thác ầm ầm tuôn đổ, một con chim mẹ vẫn an nhiên đùa giỡn với chim con trên tổ của mình.
Cuối cùng nhà vua đã công bố: Bức tranh thứ hai là bức tranh được chọn để trao giải. Bởi vì sự bình an không có nghĩa là không ồn ào nguy hiểm, không khó khăn cực nhọc. Thế nhưng sự bình an đúng nghĩa là cho dù đang phải ở trong những phong ba bão táp, ta vẫn thấy đượcsự yên tĩnh an bình trong trái tim của mình.
Thưa anh chị em! Bức tranh mà Đức vua đã chọn nó có phần giống giống như bức tranh mà Thánh Gioan đã vẽ lại trong bài Phúc âm mà chúng ta mới vừa nghe xong: Giữa những phong ba bão táp đang chụp xuống đầu các môn đệ sau những ngày mà Thầy của mình bị giết chết, Đức Giêsu hiện ra với các ông như chim mẹ ngang nhiên đậu trên tổ để canh giữ bầy con mình: "Bình an cho các con".
Bình an của Chúa ban cho các môn đệ không phải là một thứ bình an không có sóng gió, hay đối diện với kẻ thù. Có lẽ vì thế mà sau khi ban bình an cho các học trò của mình, Đức Giêsu đã cho họ xem tay và cạnh sườn như thể là bằng chứng của một sự chiến đấu đầy gian truân mà các môn đệ của Chúa sẽ phải đi tới. Và vì biết rằng các học trò của mình sẽ không đủ sức để vượt qua những sống gió đó, nên Đức Giêsu tiếp tục ban tặng cho họ một sức mạnh đặt biệt hơn, đó là Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ của Chúa đã có một sự đổi mới lạ lùng. Nơi bài đọc thứ nhất, sách Tông Đồ Công Vụ đã thuật lại rằng: Các môn đệ Chúa Giêsu ngày xưa, đa số là những người quê mùa kém cỏi, ít học chậm hiểu.
Ròng rã theo Đức Giêsu ba năm trời, nghe không biết là bao nhiêu những lời dạy dỗ củaNgười, chứng kiến nhiều phép lạ mà Chúa đã làm, vậy mà dường như đâu cũng vào đó. Các ông cũng chẳng hiểu về Chúa về Thầy của mình là bao nhiêu. Chúa nói một đàng, các ông lại hiểu một nẽo. Chúa dạy các ông hãy khiêm tốn phục vụ lẫn nhau, nhưng liền sau lời dạy đó, các ông ôm thơ dệt mộng được chức được quyền, tranh giành với nhau xem ai sẽ làm lớn, còn ai phải làm nhỏ. Rồi lúc Đúc Giêsu bị bắt các ông bỏ chạy hoảng loạn, mỗii người một nơi.
Thế nhưng khi Đức Giêsu đến với các ông rồi, khi các ông có được Chúa Thánh Thần rồi, các ông đã thay đổi hoàn toàn. Từ những con người nhúc nhát sợ hãi, trở thành những con người can đãm anh hùng. Từ những con người kém cõi khờ khạo, trở thành những con ngươi thông minh giỏi dắn, có khả năng thu hút nhiều người, và làm cho tất cả mọi người đều có thể nghe và hiểu lời dạy của các ông. Và cuối cùng như sách Tông Đồ Công Vụ đã kể lại, các ông đã mạnh dạn dùng cái chết của mình để làm chứng cho tin mừng Chúa Phục Sinh.
Đức Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ cũng là ban cho Hội Thánh, cho mọi người chúng ta. Chúa Thánh Thần đang hiện diện, đang đổi mới Hội Thánh, cũng là đang hiện diện và đang đổi mới cuộc đời chúng ta. Thế nhưngchúng ta hãy thử một lần nhìn lại xem: Tôi đã có hàng bao nhiêu năm được học giáo lý, được nghe lời Chúa, được tham dự Thánh lễ, nhưng rồi cuộc sống của tôi có được biến đổi chút nào không, hay là còn tệ hơn những người xung quanh mình?
Trời có mưa một chút tôi có can đảm khoác cái áo mưa vào, để đến nhà thờ đọc kinh xem lễ, giữ ngày chúa nhật không? Mỗi lần đến nhà thờ này, là tôi đến để thờ phượng Chúa thật sự, hay là tôi đến chỉ để xin ơn này ơn khác: xin cho được thoát khỏi những nỗi buồn này, đạt được những ước vọng kia. Và rồi xin mãi mà không dược thì đâm ra buồn phiền, thất vọng không còn muốn đến nhà thờ nữa.
Thưa anh chị em! Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống ngày hôm nay, điều quan trọng mà chúng ta cầu xin với Chúa Thánh Thần, không phải là một cơn gió ào ào cùng với những đốm lữa bùng cháy tren đầu mọi người, giống như các Tông đồ ngày xưa. Nhưng chúng ta hãy cầu xin có được một sự biến đổi mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần nơi con người của mình.
Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta trong cung cách sống đạo hàng ngày đối với Chúa. Chúng ta gọi Chúa là Cha, thì phải hoàn toàn tin tưởng vào Cha chứ không phải là bắt Cha làm theo ý mình. Một người Cha thương con thật sự thì cũng không phải là lúc nào cũng chiều theo ý con mình mà ban cho chúng tất cả những gì chúng xin.
Bởi vì người cha biết rằng: có những điều khi cho nó, thì chỉ làm nó ra hư hỏng, là đưa nó vào chỗ chết. Chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta trong cách sống hằng ngày đoi với những người xung quanh mình. Bởi vì cho dù họ có nghèo nàn, kém cỏi, tệ bạchơn mình đi nữa, thì trong niềm tin, trong ngôi nhà Giáo hội, chúng ta là những anh em của nhau. Và như Chúa đã nói trước: "Người ta cứ dấu nay mà nhận biết các con là môn đệ của thầy: là các con sống yêu thương nhau".
166. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
"Người thổi hơi vào các ông và bảo: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20, 22)
Chúng ta ít biết về Chúa Thánh Thần, nên cũng ít cầu nguyện với Người. Đó là một thiếu sót lớn. Chúa Thánh Thần vừa là nguồn mạch mọi ơn sủng, vừa là Đấng ban phát các ơn cần thiết cho ta. Đương nhiên, khi hoạt động, Chúa Thánh Thần luôn kết hợp mật thiết với Chúa Cha và Chúa Con. Khi xuống thế làm người, không có việc nào của Chúa Giêsu làm mà không được sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần.
Tại sao như thế? Thưa, vì cả Ba Ngôi kết hiệp mật thiết với nhau trong bản tính và trong quyền năng, nhất là vì: Ba Ngôi là một. Sau Phục sinh, vai trò của Chúa Thánh Thần còn hiện rõ hơn nữa, để giúp cho Hội Thánh vững mạnh và phát triển. Chính Chúa Giêsu trước khi ra đi, đã ban Chúa Thánh Thần lại cho các tông đồ.
Hơn nữa, Chúa Thánh Thần là căn nguyên sự sống và hoạt động của Hội Thánh: Khi ta lãnh nhận phép Rửa tội,nhất là Bí Tích.Thêm sức, Chúa Thánh Thần đến và hoạt động trong ta, sống trong ta nữa. Người thông ban cho ta sự sống của TC cách dồi dào, biến đổi ta, giúp ta nên trưởng thành mạnh mẽ hơn, kết hợp mật thiết với Chúa.
Chính Chúa Thánh Thần dạy dỗ, nâng đỡ, phù trợ và nuôi ta lớn lên trong đời sống làm con cái Thiên Chúa - Chúa Thánh Thần hoạt động trong người tín hữu, trong Hội Thánh nói chung, bằng bảy ơn Thánh Thần, để soi sáng, hướng dẫn và giúp Hội Thánh, vì Chúa Thánh Thần chính là Đấng bàu chữa, Đấng đem lại sự hiệp nhat, Đấng của tình yêu.
Ta có thể lấy ví dụ để dễ hiểu về Chúa Thánh Thần: cũng như thân xác ta cần hơi thở để sống, cần có nhịp đập con tim để máu lưu thông nuôi cơ thể thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng được ví tương tợ như vậy; Người chính là hơi thở, là nhịp đập của con tim của Hội Thánh, của người Kitô hữu.
Thân xác ta không có hơi thở, chỉ là cái xác chết. Con người không có nhịp đập con tim, không có máu lưu thông trong huyết quản, đó chỉ là hồn ma có cử động, không phải là con người nữa. Chúa Thánh Thần quan trọng đối với Hội Thánh, với chúng ta cũng tương tợ như thế. Trong đời sống đức tin, người Kitô hữu cảm nhận về Chúa Thánh Thần còn quá ít!
Một người Tin lành, khi trở về công giáo, đã nói: "tôi đã tìm hiểu hết các đạo, kể cả công giáo, tôi thấy công giáo cũng có những khuyết điểm, nhưng cuối cùng tôi theo công giáo, vì tôi nhận ra dù có khuyết điểm, nhưng Hội Thánh công giáo luôn có Chúa Thánh Thần hiện diện nơi họ".
Qua lịch sử của Hội Thánh, các thánh là những chứng nhân hùng hồn nhất về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh, trong người tín hữu. Vì có Chúa Thánh Thần, họ dám hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống. Các tông đồ trước ngày lễ Ngủ tuần, nhút nhát bao nhiêu, nhưng sau đó họ can đảm bấy nhiêu. Chính Chúa Thánh Thần biến đổi họ nên những con người hoàn toàn khác.
Chúa Thánh Thần là nguồn mạch ơn sủng, là Đấng ban phát mọi ơn, là hơi thở, là nhịp đập của con tim, là Người không thể thiếu cho ta; ta có tin tưởng và năng chạy tới, cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Bằng mọi cách, ta có cố gắng sống theo sự chỉ dẫn của Chúa Thánh Thần không?
Thánh Phaolô nói: "Thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần". Chúa Thánh Thần rất quan trọng và cần thiết cho ta nhưng ta có cố gắng sống sao cho xứng đáng là đền thờ của Ngài không?
167. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Dưới vòm trời, vạn sự đều phải chịu luật mòn của thời gian: Một đôi guốc mang lâu ngày sẽ mòn, mất hình thù guốc. Một chiếc áo mặc lâu ngày sẽ mòn, mat hình thù áo. Một ngọn núi cao, cái mà con người tưởng chừng như không có gì có thể làm thay đồi được nó. Vậy mà, với thời gian, khi đứng lâu ngày dưới gió bão mưa sa, ngọn núi cũng mất đi phần nào hình thù của nó... Không những các vật hữu hình bị luật mòn của thời gian chi phối, mà ngay cả các sự vật vô hình cũng bị một số phận tương tợ như vậy, chẳng hạn như: lời nói, tình cảm con ngưòi... cũng bị mòn, bị vo tròn bóp méo, làm mất hẵn ý nghĩa của nó.
Có một điều rất quen thuộc, rất cần thiết với con người, điều đó cũng vô hình nữa, nhưng không bị bào mòn theo thời gian, đó là: Hơi thở của chúng ta, cái mà con người gọi là không khí đó. Nếu không khí mà cũng chịu luật mòn của thời gian, thì vũ trụ này không không còn tồn tại bất cứ một sinh vật nữa, kể cả con người. Bởi khi đó vũ trụ này không có sự sống.
Ngay trang đầu tiên của sách sáng thế ký, khi nói về việc Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đã có "THẦN KHÍ THIÊN CHÚA" bay lượn trên mặt nước (St 1,1). Hình ảnh bay lượn trên mặt nước, như đang muốn nói với chúng ta rằng: Thánh Thần Thiên Chúa chính là "hơi thở", là sự sống trên mặt đất này. Và do đó mọi vật đang hít thở sự sống là chính Chúa
Từ sáng sớm đến chiều tối, chúng ta làm được bao nhiêu công việc, chúng ta biết rất rõ. Gặp gỡ bao nhiêu người, bàn bạc những chuyện gì chúng ta cũng đều kiểm soát được hết. Vậy còn hơi thở của chúng ta, chúng ta có nhớ mình đã thở bao nhiêu hơi trong một ngày không? Hơi thở quá quen thuộc, quá gần gũi thân thương với chúng ta, đến nỗi chúng ta đã quên mất là: "chúng ta đang thở, vạn vật trên mặt đất này đang thở".
Như vậy, chúng ta đang sống trong Chúa Thánh Thần, vạn vật trong vũ trụ này đang sống trong Chúa Thánh Thần. Mà hễ sống trong Chúa Thánh Thần, cuộc sống của chúng ta phải sinh hoa trái,đó là: Chúng ta phải sống bác ái, sống trong niềm vui, biết nhẫn nhục, phải có lòng nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ... Nhưng rồi nhiều khi trong cuộc sống, chúng ta cũng đồng thời hít thở Thánh Thần.
Nhưng lại không buôn theo Thánh Thần, không để cho Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời của chúng ta. Cho nên, thay vì sống bác ái, chúng ta sống thù nghịch nhau. Thay vì sống hiền hoà, chúng ta thích sống hung dữ...
Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, một lần nữa đưa chúng ta trở về với ngôi nhà tiệc ly. Ở đó, chúng ta nhìn ngắm cuộc đổi đời của các Thánh Tông Đồ. Chúng ta nhớ lại coi, bao nhiêu năm theo chân Chúa Giêsu, các ngài cũng hít thở chính sư sống của Thánh Thần đó chớ. Nhưng rồi chúng ta thấy đó, một Phêrô chối Chúa, Giuda thì tự tử, Giacôbê và Gioan thì đòi chức quyền...cuộc sống các ngài cũng đã không xin hoa trái được, chỉ vì các ngài đã không đe cho Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời các ngài.
Sự kiện ở nhà tiệc ly hôm nay, các Thánh Tông Đồ như được sinh lại. Hãy cùng với Mẹ Maria và các thánh tông đồ, chúng ta để cho Chúa Thánh Thần qua những ngọn lửa của Ngài thiêu đốt chúng ta khỏi những mê muội. Xin Người cũng tái sinh chúng ta trong tình yêu của Ngài. Xin Người là chính hơi thở, là chính sự sống của đời con chúng ta. Amen.
168. Đấng ban bình an
1. Nếu như được một điều ước duy nhất, có lẽ nhiều người sẽ phải đắn đo suy nghĩ, nhưng cũng không ít người sẽ nhanh chóng ước ngay rằng làm sao có được một cuộc sống bình an. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ trong cuộc sống, nhất là hiện thời, có nhiều lý do khiến cho ta có quá nhiều bất an. Các môn đệ của Đức Giêsu sau cuộc tử nạn của Thầy mình, đang trong tình trạng khép kín, bối rối... Trong lúc bất an như vậy; một luồng sinh khí mới đến với các ông, Đức Giêsu Phục Sinh hiện đến để ban Chúa Thánh Thần và những ơn của Người cho các ông, đặc biệt đó là ơn bình an.
2. Chúng ta dễ nhận ra qua các bài Kinh Thánh hôm nay có 2 tường thuật về việc trao ban Chúa Thánh Thần: Theo Thánh Gioan, ngay buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần (chính hôm lễ Phục Sinh), Đức Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Trong khi đó theo Luca, qua sách Tông Đồ Công Vụ (Bài đọc I) cho ta thấy Đức Giêsu ban tặng Chúa Thánh Thần hôm lễ Ngũ Tuần, tức 50 ngày sau khi Chúa sống lại (Cv 2,1 tt), và được tường thuật với nhiều chi tiết hơn.
Sự khác biệt này được giải thích như thế nào? Thưa Thánh Gioan gom góp vào một ngày những sự kiện mà Thánh Luca đã phân chia rải rác trong thời gian 50 ngày: Đức Giêsu sống lại (Ga 20,1tt; Lc 25,1tt), lên trời (Ga 20,17; Cv 1,9) và ban tặng Thánh Thần (Ga 20,22; Cv 2,1tt). Thực ra, Chúa Thánh Thần đã hoạt động ngay từ thời sáng thế: "Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng... và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước"(St 1,1-2); Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn các tổ phụ các tiên tri mà chúng ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Thời Tân Ước, Ngài vẫn luôn hoạt động: nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần mà Ngôi Hai nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, và chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn hoạt động của Đức Giêsu nơi trần thế...
3. Giơ đây chính Đức Kitô Phục Sinh lại trao ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ, môn đệ như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, việc trao ban Chúa Thánh Thần như được hoà quyện với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai đi rao giảng. Cho nên có thể nói đây là những ơn đặc biệt mà các tông đồ, môn đệ Đức Giêsu có được khi nhận lấy Chúa Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh.
Trong một cuộc gặp gỡ ngắn mà hai lần Đức Kitô nhắc tới "bình an", cho nên có thể nói "bình an" là ơn cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần, rất cần thiết cho con người. Khi nói tới bình an thường được hiểu là bình an bên ngoài (như không có chiến tranh, không có hận thù giết chóc, bắt bớ...), nhưng có một thứ bình an cần thiết hơn, quan trọng hơn đó là bình an sâu thẳm trong tâm hồn.
Nhờ việc nhận Thánh Thần, các tông đồ, môn đệ của Đức Giêsu đã có thứ bình an đó. Thật vậy, chúng ta thấy rõ dường như các ngài không có được sự bình an bên ngoài: bị tra tấn đánh đập vì Đức Giêsu, vì Tin Mừng, ngay cả phải thiệt thân... Nhưng nhờ có ơn bình an của Chúa Thánh Thần, thì những đau khổ vì danh Đức Kitô lại trở thành niềm vui, danh dự... như Phaolô đã nói: khốn cho thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng Đức Kitô (x. 1 Cr 9,16).
Ơn bình an của Chúa Thánh Thần vẫn luôn được trao ban trong Hội Thánh, điều này càng thấy rõ vào những thời, những nơi Giáo Hội gặp khó khăn: đã có hơn 70 triệu anh hùng trung kiên với Đức Kitô, qua 20 thế kỷ, các vị này không cho rằng việc đầu rơi máu chảy là bất hạnh, mà đó là niềm vui, tự hào... bởi các ngài có được sự bình an sâu thẳm.
Khi h iểu rằng bình an thực là như thế, chúng ta mới có thể cảm nhận được một ý nghĩa khác của việc Đức Giêsu trao ban Thánh Thần: đó là bình an qua việc được tha thứ. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta có được cảm nghiệm bình an trong tâm hồn khi đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa qua bí tích Giải Tội, nhất là khi ta lỗi phạm càng nặng. Vì thế Đức Giêsu muốn bình an của Chúa Thánh Thần được lan toả từ các tông đồ và những người kế vị các ngài trong chức linh mục, qua việc tha tội: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha..." (Ga 20,23). Không chỉ qua Bí Tích Giao Hoà, mà việc tha thứ cho nhau rất cần thiết trong đời sống của Kitô hữu, khi chúng ta tha thứ cho nhau là dấu hiệu Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta.
Những ai được diễm phúc đón nhận sự bình an của Chúa Thánh Thần không phải để thụ hưởng mà phải ra đi, phải chia sẻ: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ". Đức Giêsu đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, giờ đây đến nhiệm vụ của Giáo hội, của mọi người chúng ta. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại rằng sau khi nhận ơn Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói được nhiều ngôn ngữ khác lạ của người nghe, tức Hội Thánh phải biết nói ngôn ngữ của mọi thời, mọi nơi; nói cách khác Hội Thánh, tức chính chúng ta, phải rao giảng Tin Mừng mọi thời, mọi nơi. Có như vậy mới có thể đem bình an của Chúa đến cho mọi người, bởi nếu không có ai rao giảng thì làm sao tha nhân có thể nghe danh Chúa và tin vào Ngài được (x. Rm 10,14)?
4. Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp tốt để mỗi chúng ta nhìn lại, như các tông đồ, môn đệ xưa đã lãnh nhận dồi dào ơn Chúa Thánh Thần, cũng thế qua bí tích Rửa Tội, nhất là qua bí tích Thêm Sức, Đức Kitô Phục Sinh đã đổ tràn Chúa Thánh Thần trên mỗi Kitô hữu, nhưng chúng ta đã cong tác và làm cho ơn này phát triển như thế nào. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi:
Tôi có được sự bình an trong tâm hồn, một niềm vui sâu xa trong tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa dù có những nghịch cảnh trong cuộc sống hay không?
Tôi có là khí cụ bình an của Đức Kitô qua đời sống yêu thương, tha thứ đối với nhau hay không?
Tôi có cảm nhận được niềm vui khi giới thiệu Đức Kitô cho người khác bằng lời rao giảng và nhất là bằng đời song chứng nhân như: bác ái, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm... hay không (x. Gl 5,22-24)? Nếu chúng ta có được những điều đó, hãy cảm tạ Thiên Chúa, đó là dấu chỉ có sự hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi ta, một cuộc Hiện Xuống mới đang tái diễn; nhờ đó đem lại cho chúng ta sự bình an thật đời này và sự sống đời đời: "Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an" (Rm 8,6).
169. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
1. Thánh Thần là Ruah
Chúa nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp để chúng ta cùng nhau đào sâu và chia sẻ kinh nghiệm về Chúa Thánh Thần. Nhưng thật là khó để nói về Thánh Thần. Chính sách Giáo lý của Giáo Hội Cong giáo nhận định rằng: "Nói về Chúa Thánh Thần là rất khó. Bởi vì Chúa Thánh Thần nói cho ta biết về Chúa Cha, dạy cho ta biết về Chúa Con, nhưng Người không nói gì về chính mình".
Vì thế, trong bài suy niêm và chia sẻ này, tôi xin mạn phép tạm bỏ qua những gì mà thần học, triết học...nói về Chúa Thánh Thàn. Ở đây chỉ xin mượn một từ trong Kinh Thánh đã dùng, để chia sẻ một chút về Thánh Thần. Đó là từ Ruah (Hip). Chính từ ngữ này đã làm nên tên gọi của Chúa Thánh Thần. Ruah có nghĩa là: khí, gió, hơi thở.
Chúng ta sống mà không thể không thở. Thế mới cho thấy hơi thở là rất cần cho sự sớng con người. Có lẽ vì thế mà Kinh Thánh đã dùng hình ảnh hơi thở để diễn tả về Thánh Thần. Thánh thần là hơi thở của Thiên Chúa, là hơi thở làm cho ta được sống. Và sự sống đó không phải chỉ là sự sống của thân xác mà còn là sự sống thần linh nữa. Chính sự sống này làm cho ta có phẩm giá vượt lên trên các sinh vật khác.
Vì thế, chỉ khi nào ta cảm thấy cần đến sự sống ấy, lúc đó ta mới thấy cần Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, khi ta khao khát sống là ta khao khát Chúa Thánh Thần. Xuyên qua khát khao đó, ta sẽ cảm nhận được hoạt động và tác động của Thánh Thần, vốn là Đấng khơi nguồn và là Đấng ban sự sống đó, cách mãnh liệt.
2. Hít thở Thánh Thần.
Ngày hôm nay có rất nhiều phương pháp dưỡng sinh giúp ta được khoẻ mạnh. Trong số nhữgn phương pháp đó có 1 phương pháp rất đơn giản mà người ta thường nói tới đó là phương pháp hít thở 3 thì. Phưong pháp này khuyên chúng ta: chỉ cần 3-5 phút mỗi ngày, ta nên tìm một nơi thanh vắng, trong bầu không khí trong lành, vào lúc sáng sớm khi thức dậy hoặc khi đêm về, ta ngồi đó và thực hiện 3 động tác:
1. Nhẹ nhàng hít vào thật sâu
2. Ngưng
3. Từ từ thở ra.
Ta cần có những giây phút như thế để mình hít thở thật sâuThần Khí của Thiên Chúa. để Thần Khí của Thiên Chúa thấm vào lòng ta, thấm vào tâm hồn ta, thấm vào trái tim ta, thấm vào suy nghĩ của ta, càng sâu càng tốt. Những giây phút hít thở như thế, người công giáo gọi là những giây phút cầu nguyện. Rất hữu ích!
Thưa anh chị em và các bạn! Ngày xưa, sau khi Chúa sống lại, các tông đồ họp nhau lại và cùng với Mẹ Maria. tất cả cùng cầu nguyện. Chính trong gây phút cầu nguyện đó, Thánh Thần được ban xuống. Chúng ta cũng vậy, chính trong những phút giây tập trung cầu nguyện là ta hít thở Thần Khí của Chúa. Chính lúc đó hoa trái của Thầ Khí thiên Chúa sẽ trổ sinh trong ta. Hoa trái mà trong thơ gởi giáo đoàn Galát, Thánh Phaolô nói rằng: " hoa trái của Thần Khí là: bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nhục, nhân hâu, từ tâm, trung tín, hiền hoà và tiết độ".(Gl 5,22-23b)
3. Thay cho lời kết,
Xin mượn tâm tình của một lời kinh như một lời gởi gắm đến anh chị em và các bạn. Ước gì tâm tình ấy cũng phải là tâm tình của mỗi chúng ta. Lời kinh ấy thế này:
Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu!
Xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống.
để con sống vì tình yêu Thiên Chúa,
để con yêu vì cuộc sống muôn loài
Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp cao quý
và biết ghét những điều đê tiện xấu xa.
Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu,
và dám chết chống lại những điều mình ghét.
Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống
để mỗi giây phút sống,
con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương.
Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu,
để từng giây phút yêu
con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.
Cuối cùng,
Xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một:
để sống là yêu và yêu là sống
vì hiểu được rằng:
Thiên Chúa Hằng Sống cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.
170. Ơn làm nghĩa tử - Lm. Vũ Đình Tường
Hàng năm vài ba tháng trước Giáng Sinh và Phục Sinh, giới thương mại trưng bày hàng hoá, kêu gọi, cổ võ và đếm giật lùi từng ngày cho đến đại lễ. Mục đích nhắc nhở, thúc dục chi tiêu, mua bán để họ thu lợi. Tuy nhiên giới thương mại dường như không biết nhiều về Đại lễ Chúa Thánh Thần. Có lẽ một là không thu được mấy lợi lộc. Hai là không có ngày nghỉ kèm theo dịp lễ trọng này. Đối với Kitô hữu, lễ Chúa Thánh Thần ban muôn ân như lời Đức Kitô hướng dẫn các môn đệ.
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em 14,26
Ngài là Đấng bào chữa, trợ giúp, bênh vực, chỉ đường.
Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người Gn 14,16
Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật 15,26
Nghĩa tử
Dường như hai đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh là những lễ lớn chung cho toàn thế giới vui mừng chào đón. Riêng đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống dành ưu tiên, trước tiên cho các Tông Đồ và cho các Kitô hữu, những người tin vào Đức Kitô qua lời rao giảng của các Kitô hữu khác. Đây là ơn Chúa ban riêng giúp ta trở nên nghĩa tử Đức Kitô.
Chúng ta nhớ lại lời loan báo của sứ thần Thiên Chúa trong đại lễ Giáng Sinh cho các mục đồng.
Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em. Lc 2,10
Trước khi tự hiến, nộp mình, vâng lời Chúa Cha, chết trên thập giá, Đức Kitô loan báo Người sẽ chết cho toàn dân được ơn cứu độ.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi Gn 12,32
Khi nói về Thánh Thần Đức Kitô dường như nói món quà quí trọng này dành riêng cho những ai thuộc về Ngài.
Những kẻ Cha đã ban họ cho con, con đã cho họ biết danh Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha Gn 17,6
Con cầu nguyện cho họ, con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. 17,10
Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần Gn 17,15
Kinh tiền tụng lễ Chúa Thánh Thần ca tụng Thiên Chúa đã ban Thánh Thần xuống trên con cái Chúa.
Để hoàn thành mầu nhiệm Vượt qua, hôm nay Cha rộng ban Chúa Thánh Thần cho những người đã được Cha nhận làm nghĩa tử, nhờ kết hợp với Con Một Cha.
Điều kiện cần thiết để nhận ơn Chúa Thánh Thần là nhận biết Đức Kitô Con Một Thiên Chúa. Kitô hữu nhận ơn Thánh Thần qua lời cầu xin của chính Đức Kitô. Nhờ lời Ngài cầu xin mà Chúa Cha ban Thánh Thần cho những ai tin vào Ngài, trở thành nghĩa tử. Chỉ những ai trở thành nghĩa tử mới được nhận ơn khôn ngoan của Thánh Thần Thiên Chúa. Nghĩa tử được Đức Kitô cầu cho trước mặt Chúa Cha. Nghĩa tử được kết hợp mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Biểu tượng
Đại lễ Chúa ThánhThần mừng kính 50 ngày sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết và 10 ngày sau khi Đức Kitô về cùng Chúa Cha. Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần. Hình lưỡi lửa xuống trên đầu các thánh tông đồ. Các ngài bắt đầu rao giảng, làm chứng về Đức Kitô. Hôm nay cũng được coi là ngày Giáo Hội chính thức khai sinh. Cuộc rao giảng về Đức Kitô bắt đầu, trước khi về trời Ngài chính thức trao sứ mạng rao giảng lại cho các môn đệ.
Qua giòng lịch sử Giáo Hội, Lễ Chúa Thánh Thần mang nhiều biểu tượng, nói lên ý nghĩa linh hoạt khác nhau của Thánh Thần Chúa.
Trước hết là hình lưỡi lửa được sách Công Vụ Tông Đồ ghi nhận. Màu đỏ còn tượng trưng cho màu máu các thánh tử đạo đổ ra làm chứng cho đức tin, do sức mạnh của Thánh Thần thôi thúc.
Màu Trắng hay còn gọi là Chúa Nhật thanh tẩy tượng trưng cho áo màu trắng các tân tòng mang trên mình trong ngày gia nhập Giáo Hội. Màu trắng tượng trưng cho ơn khôn ngoan do Thánh Thần ban, hướng dẫn giúp các tân tòng nhận biết Thiên Chúa.
Thánh Thần Đấng làm thay đổi bộ mặt trái đất, sưởi ấm tâm hồn nguội lạnh, làm sống lại những con tim chai đá và làm cho đời sống Giáo Hội sinh mầm, nảy lộc. Trong ý nghĩa đó cành lá xanh tươi mang dấu chỉ của sự sống mới, tốt lành. Lịch sử Giáo Hội có thời người Kitô hữu thường trang hoàng các cành, lá non, xanh trong thánh đường và tư gia nhắc hở nhau canh tân cuộc sống.
Cầu chúc Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn các tín hữu.
171. Chung hình ảnh - Lm Vũ Đình Tường
Tương tự nhau không hẳn là giống nhau mà chỉ giống phần nào thôi. Cùng chung hình ảnh nói rõ điều muốn diễn tả. Hình ảnh gợi lên điểm giống nhau. Chúng ta hay nghe ví von hai người giống nhau như hai giọt nước. Ví von như thế diễn tả hình dáng bề ngoài nhiều hơn là nhấn mạnh đến phẩm chất bên trong của nước. Khi diễn tả con người được dựng nên theo hình ảnh Chúa dẫn chúng ta đến việc nhận biết chúng ta bề ngoài tuy nhìn khác nhau nhưng trong nội tâm cùng chung hình ảnh Thiên Chúa. Sách Sáng Thế Kí chương Sáng Tạo nói Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Người. Sau khi tạo dựng Thiên Chúa ban cho con người Thần Khí và con người có sự sống. Nhân loại được khai sinh trong trường hợp đó- mang hình ảnh của Thiên Chúa. Giáo Hội Chúa quy tụ những người tin vào Thiên Chúa vì thế Giáo Hội Chúa cũng mang hình ảnh Thiên Chúa. Hình ảnh này trở nên sống động trong ngày các tông đồ nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đây chính là ngày khai sinh của Giáo Hội.
Giáo Hội và Kitô hữu cùng mang hình ảnh Chúa, nhận chung một Thánh Thần nên có chung một nguồn gốc và chung một sứ mạng rao giảng. Vì thế rao giảng, mang Tin Mừng đến cho muôn dân là sứ mạng chung của Giáo Hội và là sứ mạng riêng của mỗi Kitô hữu. Chúng ta có chung sứ vụ rao giảng, cùng làm chứng cho Tin Mừng nhưng không phải tất cả các Kitô hữu đều tích cực trong việc rao giảng. Kitô hữu nào trung thành trong việc vác thập giá hàng ngày bước theo Đức Kitô mới thực sự là môn đệ trung tín của Đức Kitô. Trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy chúng ta được ghi dấu ấn tín đức tin. Ấn chứng đức tin này giúp chúng ta trở thành người mang Đức Kitô trong mình, mang tình yêu Chúa đến cho tha nhân, cho thế giới.
Hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đặt tin tưởng nơi ta, trao phó việc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Rao giảng là sứ mạng của mọi Kitô hữu. Đây không phải là sứ mạng mới mà là sứ mạng chính Đức Kitô làm và chúng ta được mời gọi nối tiếp công việc Đức Kitô bắt đầu. Vì thế chúng ta không rao giảng một mình hay bơ vơ nhưng có Đức Kitô cùng đồng hành trong việc rao giảng. Ngoài ra Ngài còn ban cho Đấng bảo trợ là Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta trong việc rao giảng và làm chứng nhân cho Ngài.
Thiên Chúa yêu thương thế gian nên ban Con một Ngài là Đức Kitô cho chúng ta. Đức Kitô yêu thương chúng ta nên hy sinh trên thập giá ban ơn cứu độ và ban Thánh Thần Chúa. Thánh Thần Chúa yêu thương nên đến ở cùng chúng ta, để trở nên tim óc, hướng dẫn chúng ta trong việc rao giảng và làm chứng về Tin Mừng. Thánh Thần là tình yêu nhưng mắt thường không thể nhìn thấy tình yêu mà chỉ nhìn thấy kết quả hay sản phẩm của tình yêu. Sản phẩm tình yêu thường không mang tâm tình của người tạo dựng nên nó. Chúng ta không phải là sản phẩm của tình yêu bởi trong chúng ta có ấn tínThánh Thần Thiên, có sự liên hệ thân thương giữa ta và Đấng tạo dựng vì thế Kitô hữu trở thành dân riêng của Thiên Chúa vì vừa mang hình ảnh Chúa vừa là nơi Chúa ngự, đền thờ Thánh Thần Chúa.
Như thế hình ảnh sau cùng là gì? Bắt đầu bằng hình ảnh tạo dựng con người tiến đến hình ảnh cứu chuộc con người và hình ảnh cuối cùng chính là hình ảnh trở nên giống hình ảnh lúc tạo dựng con người nguyên thuỷ, trong sáng và tràn đầy hạnh phúc. Tội lỗi làm cho hình ảnh chúng ta ra lu mờ. Thánh Thần Chúa đến đánh bóng giúp chúng ta lấy lại hình ảnh trong sáng của ngày sáng tạo vì thế chúng ta là tạo vật mới sinh ra trong tình yêu của Thánh Thần.
172. Vô hình vô dạng - Lm Vũ Đình Tường
Nó vung tay chụp trước, chụp sau, phải trái xoè bàn tay ra vẫn không có gì. Có người thắc mắc hỏi bắt gì vậy. Nó đáp tỉnh bơ: Bắt gió. Vô hình vô dạng hay thiên hình vạn dạng chính là thực tế của gió. Gió hình thù ra sao không xác định được, không có câu trả lời. Nhìn hàng cây uốn cong rạp ta biết có gió to. Thấy bông hoa lay động ta biết gió thoảng. Nghe tiếng thổi ào ào qua tai ta biết gió lớn. Sóng biển dâng cao ta biết gió lộng. Thấy mát quanh người ta biết có gió. Tất cả những hình ảnh đó không phải là gió mà là ảnh hưởng của gió. Không nhìn thấy, không sờ mó được, không hoạ được nhưng không thể chối cãi gió không có thật. Gió có thật và rất cần cho đời sống, ở bên ta, quanh ta, cảm được nhưng không sờ bắt được.
Lửa Cháy
Nó vẽ ngọn lửa nhưng lửa cháy bập bùng, liên tục hình này nhô lên ngọn kia phụp xuống. Cố vẽ trên hình vẽ thành một biển lửa, vẫn chưa xong còn nhiều hình mới để vẽ. Các hoạ sĩ diễn tả tượng trưng một lưỡi lửa cháy bập bùng thoáng nhìn qua biết là hình của lửa. Nhận biết vì được học như thế, thực tế lửa không mang hình nhất định. Cứ quan sát ngọn đèn cháy trước gió chúng ta thấy hình lửa cháy thay đổi liên tục từng chớp mắt. Mỗi một giây, một tích tắc lửa thay hình đổi dạng nhiều lần. Không lần nào giống lần nào như thế thì hình lưỡi lửa cháy bập bùng chỉ là hình tượng trưng được mọi người công nhận hình của lửa. Thực tế hình lửa cháy thay đổi liên tục, không ngớt cho đến khi tàn mới thôi. Lửa còn có một thực tế vô hình khác đó là khói. Khói thay đổi liên tục, cứ lan ra mãi, lan mãi cho đến khi chìm vào thinh không. Hình ảnh khói bay cũng vậy càng lan rộng càng thay đổi hình và không thể vẽ cho hết được. Có lẽ ngay cả khí nóng do lửa phát ra cũng liên tục thay đổi.
Mây
Nằm ngoài sân ngó lên trời xanh thẳm thấy đám mây hình con gấu, chớp mắt vài lần thấy hình con gấu biến mất. Thay hình đổi dạng liên tục là thực thể của mây. Mây không cánh mây vẫn bay. Mây trời dầy đặc nhưng cũng nhẹ nhàng treo gềnh núi. Mây dầy đặc lại dễ tan. Mỗi đám mây có mầu riêng. Mây thuộc dạng vô hình hay muôn hình vạn sắc.
Thần Khí
Gió, lửa và mây là ba hình ảnh tượng trưng cho ngày lễ chúng ta long trọng mừng kính trong ngày Chúa Nhật Chúa Thánh Thần. Ba hình đó là hình lưỡi lửa, gió thổi và cột mây.
Cả ba thực thể đều gần con người.
Cả ba thực thể đều vô hình hay muôn hình.
Cả ba thực thể đều cần thiết.
Cả ba thực thể đều không thể sờ mó, cầm bắt được.
Cả ba thực thể đều có thể cảm nghiệm.
Tinh thần mới
Sống tinh thần mới chính là cảm nhận Lời Chúa Jesu. Sau ngày Chúa về trời Kitô hữu không nhìn thấy Chúa, không nghe tiếng Chúa nhưng cảm nghiệm bằng mắt đức tin, lòng tin. Cảm thấy Chúa hiện diện, đồng hành, cùng sống, cùng hoạt động trong các sinh hoạt thường nhật. Sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần chính là những cảm nghiệm ấm áp, gần gũi đó. Cảm nghiệm đến từ trong, từ trong nội tâm và hành động vì lòng mến. Sống và thực hành Lời Chúa trong tâm tình mới, tâm tình yêu thương, phó thác.
Biết Thánh Thần qua Chúa Giêsu
Trước khi về trời Chúa Jêsu hứa ban Thánh Thần. Thánh Thần Chúa đến không mang điều mới mẻ nhưng làm mới lại những điều Chính Chúa Kitô đã giảng dậy, làm sống lại những điều Chúa Kitô đã rao giảng. Giúp các Kitô hữu thấu hiểu sự thật được Chúa giảng dậy, giúp các Kitô hữu nhớ lại điều Chúa đã dậy và sống Phúc Âm theo tinh thần mới trong hoàn cảnh mới.
Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em' (Gn 14,26)
Nếu anh em yêu mến Thầy anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy và Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí Sự Thật. (Gn 14,15)
Thần Khí sự thật sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn, Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (Gn 16,13)
Thánh Thần
Trong các thực thể kể trên, gió, lửa và mây chúng ta đi vào chi tiết một thực thể là để nhận biết công việc của Thánh Thần.
Lửa, khói và nhiệt đều được liệt kê vào thực thể vô hình vô dạng hay thiên hình vạn dạng. Lửa biến ải khôn lường, sức nóng phát ra khủng khiếp, khói toả lan mọi góc kẽ và ánh sáng lửa đánh tan mọi tối tăm. Hình ảnh Thánh Thần Chúa hứa ban có sức mạnh hơn biển lửa. Sưởi ấm và ban sức mạnh cho mọi tâm hồn, liên kết mọi dân tộc, hiệp nhất người thiện tâm. Ban sức mạnh, sai rao giảng Tin Mừng, giúp thấu hiểu các mầu nhiệm, hướng dẫn đến chân lí, ban sự sống. Bài ca tiếp liên ghi Thánh Thần đổi mới mặt đất, cha kẻ cơ hàn, đấng an ủi tuyệt diệu, thượng khách của tâm hồn, là gió mát, là hào quang, rửa sạch mọi vết nhơ, tưới gội nơi khô cạn, chữa lành mọi vết thương, uốn thẳng lòng cứng cỏi, sưởi ấm chốn lạnh lùng, sửa sang cho ngay thẳng, ban niềm vui muôn thuở trong giờ phút lâm chung.
173. Việc làm - Lm. Vũ Đình Tường
Nói đến Thánh Thần mà không nói đến việc làm; đến công việc của Thánh Thần là một thiếu sót. Công việc chính của Thánh Thần là sáng tạo và đổi mới tâm hồn các tín hữu. Đổi mới và sáng tạo phát xuất từ tâm hồn lan ra bên ngoài như thế toàn thể con người trở thành tạo vật mới trong Đức Kitô Phục Sinh. Họ trở nên con cái sự sống lại, con cái sự sáng, con cái Đức Kitô Phục Sinh nên thừa hưởng sự sống đời đời của Đức Kitô.
Thánh Thần Thiên Chúa không đến để làm thay, làm dùm mà là hướng dẫn, khuyến khích, tác động tâm hồn các tín hữu để họ trở nên tạo vât mới. Hướng dẫn không phải theo ý riêng, muốn sao được vậy, mà là hướng dẫn theo khuôn mẫu Đức Kitô đã vạch ra trong cuộc đời rao giảng của Ngài nơi trần thế. Nói cách khác Lời Chúa là đèn soi giúp con người đổi mới. Thánh Thần Thiên Chúa giúp sưởi ấm tâm hồn, làm chất xúc tác thúc đẩy con người đó manh dạn tiến đến đổi mới bằng cách sống thể hiện Lời Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Công việc của Thánh Thần là giúp Kitô hữu trở thành con người mới, không phải chỉ một lần mà đổi mới mỗi ngày trong suốt cuộc đời của họ nơi trần thế. Ngày nào thiếu đổi mới là ngày đó còn thiếu sót. Một ngày thiếu sống Lời Chúa ngày đó việc đổi mới bị đình chỉ, một khi không đổi mới có nghĩa là con người cũ lại tái xuất hiện. Đời sống nội tam của Kitô hữu không phát triển đều hoà vì tình trạng nay sống Lời Chúa mai không. Hôm nay Lời Chúa sưởi ấm tâm hồn, ngày mai để nguội lạnh nên đời sống nội tâm lúc nóng, lúc lạnh, lúc tiến, lúc thoái tạo nên tình trang dậm chân tại chỗ, không tiến cũng chẳng lui đó chính kinh nghiệm nhiều người vấp phải. Việc đổi mới cần làm liên tục, nhẹ nhàng, kiên tâm bền chí mới có kết quả xác thực. Việc đổi mới cần thể hiện mỗi ngày trong cuộc sống và kéo dài trọn đời người bởi Lời Chúa là đèn soi, từ bỏ đèn sẽ bước đi trong đêm tối, trong tối tăm và sẽ bị vấp ngã. Từ bỏ con người cũ để trở thành con người mới. Từ bỏ nếp sống cũ để trở thành con cai Thiên Chúa là điều dễ dàng, dễ thực hiện, nhưng kiên tâm trong việc từ bỏ, trung thành trong việc đổi mới hàng ngày là điều nhiều Kitô hữu không thực hành được vì Lời Chúa chưa thực sự bám rễ sâu trong tâm hồn. Một tâm hồn trưởng thành là tâm hồn thấy thiếu thốn, bất an nếu ngày đó thiếu được đón nhận lời Chúa. Lời Chúa được dùng làm thực phẩm tâm linh hàng ngày. Một ngày nhịn là một ngày đói.
Là con cái Thiên Chúa chúng ta sống trong tình yêu Chúa. Tình yêu Chúa biến chúng ta thành anh chị em trong đại gia đình Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha nhờ tác động của Thánh Thần hướng dẫn. Vì là con nên đồng hưởng chiến thắng vinh quang của Đức Kitô, Đấng sống lại từ cõi chết. Là con Thiên Chúa chúng ta tự hào là không cám dỗ nào mà không thắng được vì chúng ta không chiến thắng đơn độc nhưng nhờ sức mạnh Phục Sinh chúng ta chiến thắng được tất cả các sự dữ, các cám dỗ, vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Thánh Thần giúp chúng ta kết hợp với sức mạnh Lời Chúa. Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đi trên con đường lành thánh. Thánh Thần ban sức manh Lời Chúa cho chúng ta khi chúng ta kêu cầu tới Ngài. Tất cả những điều trên thực hiện được nhờ vào cuộc tử nạn và sống lại của Đức Kitô. Sức mạnh Phục Sinh chiến thắng tất cả mọi khó khăn, thử thách nơi trần gian kể cả sự chết cũng bất lực trước sức mạnh Phục Sinh.
174. Suy niệm của Anmai, CSsR
Nhạc sĩ Phanxicô gởi gắm tâm tình của mình trong bài hát cầu xin Chúa Thánh Thần thật dễ thương: “Hãy chiếu soi lửa hồng vào đêm tối sâu thẳm hồn con, lửa tình yêu, lửa huyền siêu, Ngôi Ba Thiên Chúa ban nhiều thánh ân...”
Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm bộc lộ: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, canh tân đổi mới đời sống chúng con, tăng sức linh hồn, bồi thêm lửa mến soi sáng trí khôn, hiệp nhất muôn lòng …”
Không chỉ có thế, linh mục Thành Tâm thêm: “Thánh Thần! khấn xin ngự đến. Hồn con đang mong chờ Ngài, sưởi lòng những ai lạnh giá, gặp phong ba, không còn tin yêu. Ngài ơi, xin Ngài trông đến, đốt cháy lửa thiêng vô biên, mến thương. Ngài ơi, xin Ngài hãy đến, đến ban bình an.
Lạy Ngài xin đến, dẫn dắt chúng con trên đường. Cầu Ngài liên kết chúng con nhất tâm trong Ngài. Cầu Ngài ban ơn, thêm sức kiên vững không lay. Sống sao nên người con Chúa chứng nhân tình yêu...”
Nhiều và nhiều bài hát nữa viết về Chúa Thánh Thần, nhưng tất cả chỉ có một điểm chung duy nhất đó là xin Chúa ban cho con người, xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta tình yêu của Chúa.
Tình yêu là cái gì đó thật trừu tượng, thật huyền nhiệm, thật lung linh, thật dễ thương. Nói về tình yêu thật là khó! Không biết bao nhiêu nhạc sĩ, không biết bao nhiêu thi sĩ, khong boết bao nhiêu giấy mực viết về tình nhưng hình như chưa bao giờ làm thoả mãn lòng người. Không có gì có thể diễn đạt được tình yêu! Tình yêu là cái chi chi thật khó hiểu, chỉ có ai yêu mới có thể biết tình yêu là gì.
Tưởng nhớ đến một chuyện tình đẹp để rồi hằng năm người ta nhớ đến ngày gọi là Ngày Lễ Tình Nhân. Cả thế giới kỷ niệm ngày 14 – 02 để ca tụng, tôn vinh tình yêu nam nữ, tình yêu đôi lứa thì Hội Thánh Công Giáo cũng co cái ngày Tình Yêu. Love’s day - ngày tình yêu - vì hôm nay Giáo hội tha thiết van nài, mời Thánh Thần Tình Yêu đến trên mình. Tình yêu mà người ta mừng ngày Valentine chỉ dành riêng cho tình yêu nam nữ. Ngày Tình Yêu hôm nay chúng ta mừng tất cả mọi người không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, tuổi tác, địa vị xã hội, chủng tộc, màu da. Vì lẽ, đã là con người thì cần lắm một tình yêu. Nếu không có tình yêu thì thật là chán, nếu không có tình yeu thì cuộc sống thật nhạt nghẽo và vô vị.
Cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã viết: “Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu, thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời".
Thân phận con người hữu hạn và quả thật là quá vắn vỏi còn tình yêu thì vô cùng. Tình yêu thì cứ trải rộng ra vô biên vô tận với trời, với đất và với người. Như cố nhạc sĩ nói đấy, là người, chúng ta phải bằng mọi cách để nuôi dưỡng tình yêu trong lòng ta. Cuộc đời mà không có tình yêu chắc ngột ngạt và chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Thử nghĩ xem thế giới này mà không con tình yêu thì không còn lý do gì để tồn tại.
Hôm nay, cử hành lễ tình yêu – Love’s day thật là tuyệt vời. Ngày Chúa Giêsu về Trời cũng chính là ngày Ngài ban Thánh Thần Tình Yêu xuống cho chúng ta. Thế nhưng đứng trước Tình Yêu bao la của Thiên Chúa thái độ con người như thế nào?
Điều mâu thuẩn, điều nghịch lý của cuộc đời, của con người đó là ai ai cũng cần tình yêu, ai ai cũng mong cho mình có tình yêu nhưng thực tế nhìn vào đời sống chúng ta thấy làm sao? Tình yêu ngày hôm nay nó làm sao đấy! Nó không còn thật nữa, nó đã bị vẩn đục bởi những thứ tình yêu thực dụng, tình yêu ích kỷ, tình yêu chỉ nghĩ đến bản thân mình. Để rồi từ đó chúng ta thấy con ngươi ngày hôm nay dẫu rằng đời sống tiện nghi, đời sống vật chất có đi lên đấy nhưng mà tình yêu hình như tỷ lệ nghịch với vật chất thì phải. Vật chất càng đi lên thì tình yêu càng đi xuống.
Ngày nay người ta ở trong những căn nhà thật rộng, thật sang trọng, thật tiện nghi nhưng lòng của họ thì khép lại.
Ngày nay phương tiện đi lại dễ hơn trước nhưng rồi người ta lại ít đến thăm viếng, chia ngọt sẻ bùi với nhau hơn.
Ngày nay vật chất nhiều hơn nhưng rồi người ta lại ích kỷ nhiều hơn, cứ khư khư giữ lấy cho bản thân mình chứ không hề biết chia sẻ.
Qua những phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta thấy đau lòng làm sao đấy khi mà người con gái được người mẹ già ở Cần Thơ cho về ở chung nhà khi cô làm ăn thất bại. Sau đó cô gom góp tiền sửa nhà cho mẹ. Mẹ tưởng mừng lắm vì con mình có hiếu nhưng nào ngờ sau khi căn nhà hoàn tất việc sửa chữa thì cũng là lúc mà cô đã đẩy người me ruột của mình ra khỏi căn nhà của bà. Chẳng còn cách nào hơn là ra tòa. Được hay mất nhà không cần biết nhưng tình thương, tấm lòng mẫu tử hình như cũng chẳng còn.
Mới đây, trên con đường Thủ Khoa Huân quận 1 thành phố Hồ Chí Minh, người ta vẫn thường nói với nhau là con đường có lá me bay bay vào mỗi buổi chiều đã phải chứng kiến sự tan vỡ của một gia đình. Người anh bên Mỹ về, nhờ người em đứng tên mua căn nhà để người anh kinh doanh. Thế nhưng sau một thời gian người anh đi Mỹ về rồi thì người em đã tráo trở không cho anh vào nhà và rồi lại phải ra tòa. Người anh đã đưa ra chứng cứ về thu nhập của mình bên Mỹ để chứng minh anh bỏ tiền ra mua căn nhà ay và người anh dẫn thêm một người anh về làm chứng. Đau đớn thay trước tòa người em ở Việt Nam đã nói với Tòa rằng người anh dẫn về làm chứng ấy đã chết! Vụ việc vẫn còn giằng co chưa đến hồi kết. Cũng thế! Nếu kết rồi thì tình anh em, tình máu mủ cũng chẳng còn.
Thế nhưng, nói gì thì nói, thế giới và con người có muôn màu muôn vẻ của nó. Thế gian này không phải toàn là người chưa tốt, vẫn còn đâu đó những con người chỉ sống vì tình yêu và thậm chí dám chết cho tình yêu.
Cũng chẳng phải là để xông hương, cũng chẳng có huân chương để mà gắn vì mình chẳng là cái gì trên cái cõi đời này nhưng sự thật ta phải nhìn sự thật. Sự thật là đâu đó giữa những mảng đen thiếu vắng tình yêu trong cuộc đời này thì vẫn còn đó những ánh sáng lấp lánh dáng dấp của một tình yêu chân thật, một tình yêu vô vị lợi.
Ai đã từng đi xa lộ thì đều kinh hoàng với tệ nạn đinh tặc.
Có gia đình bà Nguyễn Thị Chí ở khu phố 3, phường Tân Chánh Hiệp, quận 12, gia đình ấy có bảy mẹ con kể cả 3 người con dâu, chẳng ai bảo ai đã đi chế cái máy thu đinh của bọn đinh tặc rải. Họ cứ lặng lẽ đi thu đinh ở quốc lộ 1A, 52, 22... Công việc của họ dưới cái nhãn giới bình thường thì chẳng là cái gì cả nhưng nhìn vào chiều sâu, nhìn bên dưới cái hành động đấy quả là một hành động phi thường. Một hành động mà trong đó chất chứa quá lớn cái tình người, cái tình yêu đồng loại. Vì lẽ họ biết rằng nếu họ không dọn đinh thì những người khách đi ngang qua đó chẳng may cán vào thì tai nạn sẽ kinh khủng như thế nào và hậu quả khó mà lường được.
Gia đình đi nhặt đinh này không có đạo, không biết Chúa Thánh Thần là ai nhưng Chúa Thánh Thần biết họ. Chúa Thánh Thần đã đến và Ngài ở lại trong họ, Ngài đốt lên trong lòng họ một ngọn lửa, thắp lên trong họ một tình yêu khiến họ quên mình để giúp anh chị em đồng loại.
Ai đã từng đến các trung tâm nuôi dưỡng người bị phong, khuyết tật, nạn nhân của tệ nạn xã hội thì đều nhận ra một tấm lòng, một tình yêu chân thật của những người phụ trách, của những người nuôi dưỡng.
Xin vị phụ trách Trung Tâm Sida giai đoạn cuối Mai Hòa niệm tình tha thứ khi mà nhắc đến Dì. Phải nói rằng với cái nhiệm vụ cơm ăn ngày ba bữa, thuốc sida uống 2 cử 8 giờ sáng – 8 giờ tối là đã quá tốt cho những bệnh nhân vô gia cư! Đàng này, mọi lúc, mọi cách có thể được Dì phụ trách đã cho bệnh nhân, cách riêng các em thiếu nhi ở Trung Tâm được hưởng những điều gì tuyệt vời nhất.
Cách đây 2 tuần, Dì dẫn tất cả các em gần 20 chục lớn bé làm một chuyến hành hương Đức Mẹ La Vang. Nghe tin ấy, tôi không tin vào tai mình vì lẽ thường ngày Dì đã quá bận bịu với công việc của Trung Tâm, ấy vậy mà người nữ tử bác ái Thánh Vinh Sơn Phaolô đã vượt qua những hạn chế của con người, của sức khỏe hầu mong làm điều gì đó cho những em bất hạnh. Giữa những tất bật lo toan của cuộc sống nhưng cảm nhận được sự Bình An, Tình Yêu Thiên Chúa, sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần nên vị nữ tu đấy đã chung chia, phân phát những gì mà vị nữ tu nhận được cho những người bất hạnh, kém may mắn.
Thế đấy! vẫn còn đó sự giằng co giữa tình yêu và lòng ích kỷ, độc ác của con người.
Trước khi về trời, Chúa lo lắng cho các môn đệ, Chúa lo lắng cho mỗi người chúng ta như trong trang Tin mừng theo Thánh Gioan công bố. Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa làm hai chuyện: trước hết Chúa Ban Bình An và sau đó ban Thần Khí.
Bình an cũng quan trọng, Thần Khí cũng quan trọng.
Vì sao phải ban bình an? Vì lẽ con người ta cư xử với nhau thiếu tình yêu. Thiếu tình yêu thì ắt sẽ gây ra bất an. Ta cứ thử nghiệm chính đời của ta ta sẽ thấy. Nếu như ta có tình yêu chân thật với Thiên Chúa, với anh chị em đồng loại thì ta sẽ có một sự bình an thật trong lòng của mình. Khi lòng ta cạn đi ngọn lửa tình yêu thì khi đấy tự nhiên sự bất an sẽ đến.
Bình an của Chúa ban không giống như bình an của thế gian. Bình an là bình an của Chúa, bình an trong tâm hồn chứ không phải bình an khi có dư thừa của cải vật chất. Cũng chính trải nghiệm của từng người, có nhiều của cải vật chất chưa hẳn là có bình an. Nhưng nếu có Chua thật, có Chúa là gia nghiệp đời mình thì mình sẽ cảm thấy bình an.
Thiếu tình yêu: cần bình an.
Thiếu tình yêu: cần Thần Khí Chúa đến để ban tình yêu.
Cử hành lễ tình yêu hôm nay nhắc nhớ chúng ta rằng không phải giờ này Chúa mới ban Bình an, Chúa mới ban Thánh Thần, Chúa mới ban tình yêu. Nhưng những điều ấy Chúa đã ban từ lâu, cho Hội Thánh Tiên Khởi từ ngày Ngài về Trời.
Như các tông đồ ngày xưa cũng thế! Khi chưa có bình an của Chúa, khi chưa có Thần Khí của Chúa thì họ chia rẽ, hơn thua, tranh giành nhưng khi Thần Khí xuống trên họ thì cuộc đời của họ hoàn toàn thay đổi. Họ đồng tâm nhất trí, họ hiệp nhất với nhau để cùng nhau tham dự lễ Bẻ Bánh và chia sẻ Tình Yêu mà họ nhận được cho người khác.
Các môn đệ và cộng đoàn Hội Thánh Tiên Khởi đã mở lòng ra để đón nhận Bình An, đón nhận Thánh Thần, đón nhận tình yêu và họ đã mạnh dạn ra đi làm chứng cho Chúa như sách Công vụ Tông đồ chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất. Có Thần Khí, họ lên đường, họ hăng say chia sẻ tình yêu, loan báo tình yêu mà họ vừa đón nhận cho anh chị em đồng loại.
Hôm nay, chúng ta có dịp dừng chân lại, nhìn lại chính bản thân của mỗi người chúng ta, chúng ta mở lòng hay khép lòng lại với Thần Khí của Chúa. Lúc nào Ngài cũng đến cạnh bên lòng của mỗi người chúng ta cho dù chúng ta có bất xứng, có tội lỗi, có hèn yếu đi chăng nữa nhưng còn lại, phần chúng ta, chúng ta như thế nào với Chúa?
Nguyện xin Chúa Thánh Thần là Đấng đã đến và ở lại với các tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Ngài cũng đến và ở lại với mỗi người chúng ta. Nguyện xin Chúa mở toang cửa tâm hồn chúng ta ra để chúng ta đón Chúa vào trong tâm hồn của mình để sau khi có Chúa Thánh Thần, có Tình Yêu, có Bình An của Chúa thì cách hành xử, lời ăn tiếng nói của chúng ta sẽ khác. Khi có Thánh Thần thì trong lòng mỗi người chúng ta bỗng nhiên sẽ phát sinh ra bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.
175. Mở lòng đón nhận Ơn Thần Khí - Anmai, CSsR
Nhiều lần nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta đã quên đi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Đôi khi ta có cảm giác như Ngài không còn hiện diện nữa thì phải. Nếu như chúng ta đánh mất đi sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc đời, quả thật đó là điều đáng tiếc trong cuộc đời của mỗi người chúng ta
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng kính Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Chúa Giêsu, sau khi Ngài lên Trời, trở về cùng Cha là Đấng đã sai Ngài xuống trong trần gian này Ngài đã không để chúng ta mồ côi. Bằng chứng cụ thể trong Tin mừng theo Thánh Gioan mà chúng ta vừa được nghe đấy, Chúa Giêsu đã hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Phải nói rằng Chúa Giêsu quá tinh tế, quá lo lắng cho con cái của mình. Chúa Giêsu hiểu con cái của mình, may mà có Thầy ở bên mà nhiều khi con yếu tin huống chi là khi Chúa ra đi. Biết các môn đệ sẽ bị hụt hẫng, sẽ bơ vơ và nhất là quên các lời của mình dạy nên Chúa đã lo lắng hết sức mình là xin cùng Cha để Ngài gửi Thánh Thần xuống.
Thật sự, không phai Thánh Thần chỉ mới xuất hiện sau khi Chúa Giêsu về Trời nhưng Chúa Thánh Thần đã xuất hiện từ ngày tạo thiên lập địa.
Chúa Thánh Thần trong Cựu Ước:
. Thánh Thần tích cực lôi kéo vũ trụ ra khỏi tình trạng hỗn mang lúc ban đầu. "Đất trời trông không mông quạnh, và tối tăm trên mặt uông mang, và Thần Khí là là trên mặt nước" (St 1, 2).
. Thánh Thần trong mầu nhiệm tạo dựng con người. Thánh Thần là Đấng ban sự sống thể lý cho con người: "Chính hơi thở của Thiên Chúa đã làm ra tôi, khí Shadday đã cho tôi sự sống" (G 33, 4).
. Thánh Thần phục sinh kẻ chết về thể lý cũng như tinh thần. Người phục hồi sự sống cho những bộ xương khô, biểu tượng của sự chết: "Ta sẽ ban Thần Khí của Ta xuống trong các ngươi. Và các ngươi sẽ được sống" (Ed 37, l4).
. Thánh Thần, Đấng bảo tồn toàn thể sự sống trên trái đất. Khi Giavê Thiên Chúa rút hơi thở Người lại, thì không tạo vật nào còn sống: "Nếu Người chỉ nghĩ đến Người, nếu Người rút về làn khí hơi thở của Người, thì mọi xác phàm sẽ chết cùng một lúc, và con người sẽ trở về với cát bụi" (G 34, 14-15)
Chúa Thánh Thần trong các Tin mừng:
Thánh Thần và bien cố Nhập Thể của Chúa Giêsu
Có hai điều nổi bật trong các bài tường thuật biến cố Nhập Thể của Đức Kitô:
- Các Tin Mừng Nhất Lãm, đặc biệt là Matthêu và Luca khẳng định Đức Maria là một Trinh Nữ, khi thiên thần truyền tin. Matthêu ứng dụng cho Maria sấm ngôn của Is 7, 14 (bản LXX) về một mgười nữ sẽ sinh con được đặt tên là Emmanuel.
- Cả Matthêu lẫn Luca đều nhấn mạnh tác động siêu nhiên của Thánh Thần trong lúc Đức Maria chịu thai Đức Giêsu:
"Xảy ra là Bà dã có thai do tự Thánh Thần" (Mt 1, 18. 21).
"Thánh Thần sẽ đến trên người và quyền năng Đấng Tối Cao trên người rợp bóng" (Lc 1, 35).
Luca: Tác động của Thánh Thần rộng rãi hơn.
Các tác động của Thanh Thần nơi Đức Kitô
Đức Kitô được xức dầu Thánh Thần khi chịu phép rửa.
Cả bốn Phúc Âm đều nói tới sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa và đều mô tả sự kiện ấy như một biến cố đặc biệt mở đầu thời gian rao giảng của Đức Kitô (Mt 3, 1)
Biến cố Đức Giêsu chịu phép rứa có giá trị mạc khải sứ vụ và chân tính của Ngài. Trong biến cố ấy, Thánh Thần đáp xuống và lưu lại nơi Đức Giêsu, Người làm chứng cho sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu là sứ vụ thanh tẩy trong Thánh Thần. Thánh Thần không thể đến trên Đức Giêsu cách nhất thời nhưng lưu lại trong Ngài, và vì thế tất cả sứ vụ của Ngài đếu thể hiện trong quyền năng của Thánh Thần.
Thánh Thần và việc Đức Giêsu chịu cám dỗ.
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Đức Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ, và khẳng định Ngài được Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách (Lc 4, 1)
Satan tìm cách lung lạc tinh thần Đức Giêsu, mong Ngài thay đổi quan điểm về sứ vụ. Nhưng Đức Giêsu vẫn giữ vững tinh thần và lập trường, vì Ngài được đầy Thần Khí (trong biến cố phép rửa).
Thánh Thần và dấu lạ Đức Kitô thực hiện.
Tin mừng Luca ứng dụng sấm ngôn Messia của Is 61, 1-2 cho sứ vụ của Đức Giêsu (4,18-22). Tất cả các việc làm, đặc biệt là những phép lạ, đều là dấu chỉ sứ mạng Thiên Sai của Ngài.
Nhờ Thần Khí mà Ngài làm những điềm thiêng dấu lạ: chữa bệnh tật, xua trừ ma quỷ, cho kẻ chết sống lại (x. Mt 11, 5)
Và đó là bằng chứng Nước Thiên Chúa đang đến (Mt 12, 28; Lc 11, 20...).
Thánh Thần và cái chết của Đức Giêsu Kitô.
Cuộc chiến khốc liệt nhất mà Đức Giêsu phải đương đầu chống lại Satan, đầu mục của thế gian, là cuộc Khổ Nạn và cái chết bi thảm của Ngài. Danh tánh của Thánh Thần không được minh nhiên đề cập đến trong các bài tường thuật cuộc Khổ Nạn, nhưng hoạt động của Thánh Thần vẫn tiềm tàng và mạnh mẽ nơi Đức Giêsu, trong những giờ phút cam go nhất như trong vườn Cây Dầu và trên thập giá. Chính nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần mà Đức Kitô hiến thân làm của lễ hy sinh vô tì tích dâng lên Thiên Chúa, như Chien Con "hiến tế" để xoá tội trần gian (Dt 9, 14).
Thánh Thần và sự phục sinh của Đức Kitô.
Rất nhiều đoạn trong các thư khẳng định Đức Kitô sống lại từ trong cõi chết nhờ tác động của Thánh Thần. Phục sinh là chứng từ vưng chắc nhất về sứ vụ và chân tính của Đức Giêsu Kitô. Thánh Thần, vì thông phần vào sự phục sinh thân xác Đức Giêsu, cũng là tác giả của chứng từ Phục Sinh.
Phaolô minh nhiên gán sự phục sinh Đức Giêsu Kitô cho tác động của Thánh Thần: "...được đặt làm Con Thiên Chúa quyền năng, theo Thánh Khí, do tự phục sinh từ cõi chết, Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Rm 1, 4).
Thư Phêrô cũng rõ ràng không kém: "Người đã bị giết chết về xác thịt, nhưng đã được tác sinh về Thần Khí" (1Pr 3, 18). Tóm lại, cả cuộc đời và sứ vụ của Đức Giêsu đều diễn tiến trong Thánh Thần; Thánh Thần làm chứng về Ngài và loan báo mầu nhiệm của Ngài.
Nhìn lại lịch sử của Giáo hội, chúng ta thấy tác động, ảnh hưởng của Thánh Thần trên Giáo hội sơ khai là gì.
Khi Chúa Giêsu chịu chết, các ông nhát đảm và đã tỏa đi muôn phương vì mất định hướng, mất đi Lẽ Sống của mình. Khi Chúa Giêsu sống lại, lòng cua các ông cũng tin đó nhưng cũng chưa vững lắm. Chỉ khi Chúa Thánh Thần đến và ngụ trên các ông, lòng tin của các ông khác hẳn.
Qua sách Công vụ tông đồ chúng ta thấy đó, đến ngày lễ Ngũ Tuần, khi mọi người đang tề tưu cầu nguyện như mọi lần thì Thánh Thần đến và tuôn đổ muôn ơn trên các ông và rồi họ nói các thứ tiếng tùy theo khả năng mà Thánh Thần ban cho.
Thế đấy! Từ khai sơ của Giáo Hội, Thánh Thần đến và ban cho mỗi người một ơn riêng tùy khả năng của mình.
Ngày nay cũng vậy, Chúa Thánh Thần đã đến và ban cho mỗi kitô chúng ta qua sự đặt tay và cầu nguyện của linh mục chủ sự trong bí tích Thanh Tẩy, qua sự đặt tay và cầu nguyện nhất là xức dầu Thánh từ tay Giám mục trong bí tích Thêm Sức. Chúa Thánh Thần đã xuống muôn ơn lành trên mỗi người chúng ta nhưng chúng ta đã không nhận ra và có thể chúng ta đã nhận ra nhưng chúng ta chôn vùi, chúng ta dập tắt ơn cua Thần Khí đang hoạt động trong ta.
Nếu chúng ta mở lòng ra để đón nhận Thần Khí của Chúa, tức khắc hoa quả của Thần Khí sẽ đến và ở lại trong tâm hồn, trong cuộc đời của ta ngay. Nhìn vào một người, ta có thể nhận ra là người ấy có hoa quả của Thần Khí không? nếu có, chúng ta sẽ nhận ra nơi người ấy sống theo Thần Khí. Hoa quả của Thần Khí trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Galat chúng ta vừa nghe rất rõ ràng. Hoa quả ấy là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Và ngược lại, nếu không có Thần Khí thì người ấy sẽ hướng về những ước muốn của xác thịt. Nếu hướng theo xác thịt thì sẽ gây ra những tính xác thịt là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thồ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần, nguồn mạch của tình yêu, nguồn mạch của bình an, hoan lạc, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâp, trung tín, hiền hòa, tiết độ đến và ở lại trong tâm hồn mỗi người chúng ta để sau khi cùng nhau cử hành Thánh Lễ Hiện Xuống này, mỗi người chúng ta sẽ được biến đổi để khi chúng ta trở về với môi trường sống của chúng ta, hoa quả của Thần Khí sẽ tỏa lan trên mọi người chúng ta gặp gỡ, tiếp xúc.
176. Cuộc đổi mới kỳ diệu - Jos. Hồng Ân
Chúa Giêsu về trời thực hiện lời Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần (Ga 14, 16) để củng cố niềm tin của các môn đệ và tăng cường sức mạnh giúp các ông can đảm, mạnh dạn tuyên xưng đức tin và đi ra rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Chúa Thánh Thần hiện xuống tuôn đổ muôn ơn của Ngài trên các môn đệ. Chúa Thánh Thần nhắc lại và giúp các môn đệ hiểu rõ hơn những điều Chúa Giêsu đã dạy khi còn tại thế, nhất là về thân thế sự nghiệp của Chúa Giêsu, về cái chết ô nhục trên thập giá và sống lại vinh quang của Người: "Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14, 26).
Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc biến đổi kỳ diệu: bộ mặt trái đất được canh tân; chỗ trật đường lạc lối được chỉnh đốn lại; điều cứng cỏi được uốn nắn; chỗ lạnh lùng được sưởi ấm; chỗ khô khan được tưới gội; nơi thương tích được chữa cho lành, nơi sầu khổ được ủi an... Chúa Thánh Thần hiện xuống đem lại cho các môn đệ nguồn sống mới, niềm vui mới, biến đổi các ông từ những con người yếu đuối, hèn nhát, không dám công khai đi lại, không dám họp nhau cầu nguyện, trở thành những con người can trường rao giảng sứ điệp của Tin mừng. Khi chưa nhận được Chúa Thánh Thần, các ông ẩn trốn ở trong nhà với cửa đóng then cài, vì sợ người Do-thái: "Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái" (Ga 20, 19). Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ông đã trở thành những con người mạnh mẽ trong đức tin, vững vàng trong đức cậy, nồng nàn trong đức mến. Các ông đã cam đảm, mở cửa, công khai đi lại, hăng hái rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại hiển vinh, bất chấp mọi cấm cản, mọi cực hình, mọi hiểm nguy đe dọa. Các ông còn dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần biến đổi các môn đệ từ những con người quê mùa, ít học, trở thành những con người thông thái, nói những điều chưa hề được nghe nói bao giờ: nói được các thứ tiếng mới lạ, nói tiên tri... làm được những việc lạ lùng, mà sức con người không thể làm được: trừ quỷ, chữa bệnh... "Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho" (Cv 2, 4). Người nghe ai cũng ngạc nhiên "Họ sửng sốt, thán phục và nói: những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?" (Cv 2, 7-8).
Khi thổi hơi để ban Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa Giêsu chúc bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em" (Ga 19, 21). Như vậy, việc lãnh nhận Thánh Thần còn có mục đích quan trọng là để làm công việc của Thiên Chúa. Sách Công Vụ Tông Ðồ kể lại, ngay sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các tông đồ lập tức làm việc cho Thiên Chúa, rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.
Thánh Thần được ban xuống trên những ai xứng đáng lãnh nhận ơn của Ngài với năng lực kèm theo, không phải để phục vụ cho lợi ích của riêng mình hay phục vụ vì lợi ích của một nhóm người, hoặc một đảng phái nào đó..., mà phục vụ vì lợi ích chung của nhân loại, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt chủng tộc: "Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung" (1Cr 12, 7). Vì thế, những ai lãnh nhận được ơn của Thánh Thần phải dùng ơn ấy để phục vụ mọi người, nhất là để loan báo Tin Mừng, giúp cho con người được thăng tiến về đời sống vật chất cũng như tinh thần, giúp cho phẩm giá của mọi người được tôn trọng, nhất là thăng tiến về đời sống tâm linh, giúp mọi người nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, để canh tân Giáo Hội, xã hội và thế giới ngày càng tốt đẹp hơn.
Chúa Thánh Thần ban ơn để biến đổi và thánh hóa chúng ta từ những con người yếu đuối, hèn kém, trở nên những con người mạnh mẽ, can đảm, để chúng ta làm việc cho Nước Chúa, nói về Chúa cho muôn dân, làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Chúng ta phải trung thành với ơn Chúa, phải dùng khả năng Chúa ban để phục vụ Chúa, và mưu ích cho đồng loại. Như Thánh Phaolô đã nói: "Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu" (Gl 2, 21). Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, hãy sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô đã khuyên: "Anh em hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí" (Gl 5, 16-17).
Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, đổi mới chúng ta, để ta nhận được hoa trái của Thần Khí là: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5, 22-23). Với những ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ trở thành những "chiến sĩ Phúc Âm", ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho muôn dân nước, can đảm tuyên xưng đức tin trước mặt thiên hạ, thà chết chẳng thà bỏ đạo, bất chấp mọi ngăn cản, mọi cực hình, mọi hiểm nguy đe dọa của ma quỷ; của thế gian; của kẻ vô thần; của tà thần... Chúng ta không chỉ tuyên xưng đức tin trên môi miệng mà còn phải tuyên xưng bằng việc làm cụ thể. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô.
177. Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
LỄ NGŨ TUẦN, NGÀY HỘI CỦA THÁNH THẦN và GIÁO HỘI
Lễ Ngũ Tuần đánh dấu sự hiện xuống của Chúa Thánh Thần trên các thánh Tông Đồ và trên Giáo Hội sơ khai.
Biến cố này xảy ra năm mươi ngày tiếp theo sau biến cố Chúa Giêsu sống lại (Trong ngon ngữ tiếng Hy Lạp, pentêkostê có nghĩa là thứ năm mươi). Giáo Hội Công Giáo mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống năm nay vào Chúa Nhật ngày 31 tháng 5.
Biến cố ngày lễ Ngũ Tuần chỉ có thể được hiểu trong mối quan hệ vơi biến cố lễ Chúa Phục Sinh và Chúa Lên Trời. Chịu chết để cứu độ nhân loại (Thứ Sáu Tuần Thánh), sống lại (vào ngày Phục Sinh) và về cùng Chúa Cha (Lên Trời), Đức Kitô phái Thánh Thần đến cho nhân loại (dịp lễ Ngũ Tuần). Do đó, ngày lễ này khép lại Mùa Phục Sinh vốn được kéo dài trong suốt bảy tuần lễ và cũng là sự đăng quang của Mùa Phục Sinh.
Vào ngày ấy, «các Tông Đồ đang hội họp cùng với nhau. Bỗng nhiên, từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bat đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (...) Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình » (Cv 2, 1-6).
Hơn nữa, đây cũng là dịp thực hiện lời hứa của Chúa Giêsu Phục Sinh đối với các Tông Đồ vào thời điểm lên trời xảy ra mười ngày trước đó: « Anh em sẽ lãnh nhận một sức mạnh, sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ đến trên anh em. Và anh em sẽ là những chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong vùng Giuđê và Samari cho đến tận cùng bờ cõi trái đất ».
Thực tế cho thấy, các Tông Đồ khi nhận được sức mạnh của Thánh Thần liền can đảm rời khỏi gian phòng mà trước đây họ tự giam hãm trong nỗi sợ sệt. Ngay lập tức họ bắt đầu làm chứng cho Chúa Phục Sinh, rao giảng giáo huấn của Ngài cho muôn dân và làm phép Rửa Tội. « Trong dịp lễ Ngũ Tuần, Giáo Hội được khai sinh không do ý muốn của loai người, nhưng là bởi sức mạnh của Thánh Thần ». Trong thực tế, tiếp theo biến cố này các cộng đoàn tín hữu đầu tiên được ra đời, được củng cố, phát triển và lan truyền rộng rãi.
Trình thuật trong sách Tông Đồ Công Vụ mang hàm ý: gió và lửa, cũng như các trình thuật khác trong Kinh Thánh, biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa. Những lưỡi lửa chứng tỏ sự ngự xuống của Thánh Thần trên các Tông Đồ. Và khả năng của họ làm cho tất cả những người nghe hiểu được mà theo như bản văn liệt kê một cách rất cụ thể và chính xác rằng đây là những người dân « Pácthia, Mêđia, Êlam, Mêxôpôtamia, Giuđê, Capađôkia, Pontô và Asia, có người là dân Physia, Pamphylia, Ai Cập, và những vùng Libya giáp giới Kyrênê; nào là những người từ Rôma đến đây; nào là người Do Thái cũng như người mới trở lại đạo; nào là người đảo Kêta hay người Arập ». Hết thảy đều đều nghe các Tông Đồ rao giang bằng tiếng bản xứ của mình.
Cũng vậy, Tin Mừng có liên quan đến tất cả nhân loại, ơn Chúa Thánh Thần cho phép các Tông Đồ đáp trả lời mời gọi của Chúa Phục Sinh: trở nên những chứng nhân của Ngài cho đến « tận cùng trái đất ».
Cũng như các Tông Đồ, các Kitô hữu được mời gọi không được khép kín nơi bản thân mình như người đứng bên ngoài cuộc sống và ở ngoài thế giới, trái lại phải là những người công bố Tin Vui trong Phúc Âm mot cách mạch lạc và tự do. Bổn phận này được đặc biệt nhắc đến trong Công Đồng Vatican II về vai trò của người giáo dân, cũng như trong tông huấn Christideles laici của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề ngày 30 tháng 12 năm 1998.
Nguồn mạch được tỏ hiện trong biến cố Lễ Ngũ Tuần, Bí Tích Thêm Sức thường xuyên được cử hành trong dịp lễ này. Trong nghi thức, giám mục đặt tay trên người lãnh nhận, cử chỉ biểu lộ ơn Chúa Thánh Thần. Ngày nay, người lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức có thể là những thiếu niên cũng như những người trưởng thành.
(Nguồn: La Pentecôte, fête de l'Esprit Saint et de l'Eglise)
178. Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương
CHÚA THÁNH THẦN, NGƯỜI LÀ AI và NGƯỜI LÀM GÌ?
Một người bạn linh mục kể với tôi một câu chuyện vui như sau: Một ngày nọ, Chúa Cha nói với Chúa Con: "Cha muốn đi thăm lại Sinai, nơi Cha đã tới đó một lần rồi". Chúa Con nói: "Con muốn đi thăm Giêrusalem, nơi mà người ta đã giết Con, nào chúng ta cùng đi". Còn Chúa Thánh Thần thì nói: "Tôi muốn tới tham quan Vaticăng" Chúa Cha hỏi: "Tại sao", Chúa Thánh Thần trả lời: bởi vì... Tôi chưa bao giờ tới đó lần nào cả"!!!
Đây chỉ la một câu chuyện tưởng tưởng thôi, nhưng có lẽ nó cũng nói với chúng ta một điều gì đó về sự lãng quên Chúa Thánh Thần ở trong Giáo Hội như các nhà thần học cảnh tĩnh: "Chúa Thánh Thần là Đấng đại bị quên lãng" (von Baltharsar). Chúng ta thường không để ý tới Chúa Thánh Thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Nhưng Chúa Thánh Thần là ai? Và Người làm? Chúng ta có thể nói về Người được không? Điều này không dễ tý nào! Quả thế, trong Ba Ngôi Vị thần linh, Chúa Thánh Thần là Đấng bí nhiệm hơn cả, ẩn dấu hơn cả, một Ngôi vị không có khuôn mặt, như "gió muốn thổi đâu thì thổi" (Ga 3,5). Người không nói về mình và tự mình nói. Cả tên gọi của Người cung không phải là riêng của Người, từ "Thánh - Thần" cũng có thể áp dụng tương tự cho Chúa Cha và Chúa Con, bởi vì "Thiên Chúa là Thần khí và thánh thiện" (Ga 4,24). Chúa Thánh Thần tự trút bỏ chính mình (kenosi) để được liên hệ tất cả với Chúa Cha và Chúa Con. Vì thế, Người là Deus sempre major (Thiên Chúa luôn lớn hơn), là Đấng không thể diễn tả, nói theo Thánh Basilio Cả. Chúng ta không thể biết Người cách trực tiếp, nhưng chúng ta có thể tới gần với mầu nhiệm của Người qua sự biểu lộ, những hoạt động và dấu chỉ của Người trong lịch sử cứu độ.
Trong bài đọc I: Chúa Thánh Thần được diễn tả bởi hai hình ảnh: đó là gió và lửa. Trước hết, gió là sự dien tả về sức mạnh. Đối với thế giới cổ đại, gió là dấu chỉ của sức mạnh thần linh làm thay đổi thế giới và chuyển dời các tinh tú. Nhưng gió cũng là sự diễn tả về một trong bốn yếu tố chính cấu thành vũ trụ - không khí (ruach). Chỉ ở đâu có không khí, thì ở đó có thể hít thở và có sự sống ở đó. Chỉ ở đâu hít thở được, ở đó có thể tồn tại con người, nhân loại và đời sống tinh thần.
Hình ảnh thứ hai được dùng để chỉ về Chúa Thánh Thần đó là lửa: Nếu trong thế giới cổ đại, không khí xuất hiện như là yếu tố nền tảng của sự sống, thì lửa là những gì mà nền văn minh nhân loại cổ dùng nó để phát triển. Lửa là ánh sáng, là sức nóng, là sự vận động, là sức mạnh của sự biến đổi. Và lửa cũng là yếu tố của sư huỷ diệt, của sự phá hủy nếu. Lửa cũng được coi là một phần của mặt trời, là yếu tố của sức mạnh thần linh. Nên khi con người biết sử dụng lửa, con người ý thức mình là giống thần linh. Thế giới hy lạp đã tạo ra huyền thoại về Prometeo, nhân vật đã chiến đấu với các thần, ăn cắp lửa từ trời, rồi mang lửa xuống trái đất và từ đó khởi đầu một thế giới mới.
Như vậy, biểu tượng gió và lửa được dùng trong Kinh Thánh muốn xác định sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Giáo Hội và trong thế giới như là nguyên lý của sự sống, của sự biến đổi, của sự thanh tẩy và soi sang. Biến cố ngày lễ hiện xuống nói với Chúng ta rằng: Chúa Thánh Thần là lửa và Chúa Kitô là Prometeo đích thực đã lấy lửa từ trời và đã mang xuống trái đất để "canh tân bộ mặt trái đất" (Tv 103,30). Với việc sai Thánh Thần như gió và lửa, Giáo hội được khai sinh và bắt đầu sứ mạng truyền giáo mà chính Thánh Thần là vai chính của việc truyền giáo (protagonist of mission). Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất của Giáo Hội, Người tập hợp tất cả các dân tộc khác nhau về màu da, ngôn ngữ, quốc gia... trong một Thân Thể duy nhất của Đức Kitô (Bài đọc I). Qua Giáo hội, "Lửa Thánh Thần" của Đức Kitô đó đã bùng lên khắp thế giới từ hơn 20 thế kỷ qua, va đã thay đổi khôn mặt thế giới này trở nên nhân bản hơn, tự do hơn, đẹp đẻ hơn.
Chúng ta chuyển sang ý nghĩa khác của bài đọc Tin Mừng trong đó Chúa Thánh Thần xuất hiện như là "Đấng Phù trợ mà Thầy sẽ sai xuống trên các con từ Chúa Cha, Thánh Thần Chân Lý nhiệm xuất từ Chúa Cha sẽ dẫn các con tới Chân lý toàn vẹn" (Ga 15,26). Ở đây, Mạc khải về Chúa Thánh Thần không chỉ đơn thuần là sức mạnh, là năng lực, nhưng là chính Thiên Chúa, là Ngôi Ba. Trong trật tự của Thiên Chúa Ba Ngôi nội tại, Chúa Thánh Thần là Tình Yêu-Ngôi Vị (Amore-persona) như là nexus amoris (rợi dây tình yêu) của Chúa Cha và Chúa Con; là sự viên mãn và sự kết thúc của sự phì nhieu thần linh ba ngôi. Trong nhiệm cục cứu độ, Người là Quà Tặng (Dono-persona) của tình yêu ba ngôi dành cho nhân loại. Như lời thánh Phaolô nói: "Tình Yêu của Thiên Chúa được đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Như thế, Chúa Thánh Thần không xuất hiện như một ngôi vị "xa lạ" với chúng ta, nhưng là Đấng ở trong chúng ta, thần hóa chúng ta và hành động với chúng ta (x. 1Cor 3,16). Chúng ta biết rất ít về Người không phải tại vì Người ở quá xa chúng ta, nhưng tại vì Người ở quá gần chúng ta. Một cách tuyệt vời theo lời Thánh Agustino, Người là Thiên Chúa ""intimior intimo meo et superior summo meo" (Thiên Chúa gần gủi thân mật hơn cả chính con với con), Người trở thành Luật Mới, luật của Tình Yêu được in vào lòng người. Người thực hiện sự thánh hóa của chúng ta, làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Chúa Cha, và nhờ Người, chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Abbà, Cha ơi! (Rm 8,15). Và như thế đời sống của người kitô hữu là hành trình bước đi theo và trong Thánh Thần: "Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Những việc do tính xác thịt gây nên, thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, hận thù, bất hoà, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy... Tôi nói cho mà biết: những kẻ làm những điều đó sẽ không được hưởng Nước Thiên Chúa" (Gl 5,16.19-21).
Ngày hôm nay chúng ta đang đối diện với đầy dẫy những dối trá và nộ lệ dưới nhiều hình thức khác nhau. Tất cả chúng ta được mời gọi hãy nhạy bén và dễ bảo với Chúa Thánh Thần. Ai bước đi trong Thần Khí và Sự Thật sẽ đón nhận được hoa quả của Thánh Thần: đó là "hoa quả của Thần Khí là: bác ái, vui tươi, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế" (Gal 16,22).
Veni Sancte Spiritus! Xin Chúa Thánh Thần hãy đến để thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa. Bởi lẽ chỉ có ngọn lửa của Thánh Thần mới có thể biến đổi chúng con, chỉ có Tình Yêu mới cứu độ! Amen!
179. “Thánh Thần khấn xin ngự đến…”
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Theo Sách Tông Đồ Công Vụ (cuốn sách ghi lại các hoạt động truyền giáo của các Thánh Tông Đồ vào thuở ban đầu của Giáo Hội), Chúa Giêsu sau khi sống lại, đã hiện ra với các Thánh Tông Đồ nhiều lần trong vòng “40 ngày” (Cv 1:3) Trong những lần hiện ra đó, Chúa Giêsu Phục Sinh đã “nói chuyện với các Ông về Nước Trời”, củng cố đức tin cho các Ông về việc Chúa thực sự đã sống lại, chuẩn bị tâm hồn các Ông để “đón nhận Chúa Thánh Thần” và trao cho các Ông nhiệm vụ truyền giáo “cho đến tận cùng trái đất”. Sau đó Chúa Giêsu đã “lên Trời trước mặt các Ông” (Cv 1:1-9).
“Chúa Giêsu Lên Trời” chỉ có nghĩa là Ngài không còn hiện ra với các Tông Đồ nữa; tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn ở cùng các Thánh Tông Đồ và Giáo Hội Chúa, như lời Chúa đã hứa “Thầy vẫn còn ở với chúng con mỗi ngày cho đến tận thế…” (Mat 28:20). Chúa Giêsu vẫn họat động truyền giáo với các Thánh Tông đồ: “Các Tông đồ ra đi rao giảng các nơi, có Chúa cùng họat động với các Ông…" (Matcô 16,20…). Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn Chính của Giáo Hội. Các Đức Giáo Hòang chỉ là vị “Đại Diện” (Vicar) của Chúa Giêsu nơi trần gian; nhưng không “kế vị” Chúa Giêsu. Qua họat động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn rao giãng, ban ơn Thánh hóa chúng ta qua các phép Bí Tích, ban ơn tha tội, Tế lễ trên Bàn Thờ, nuôi dưỡng chúng ta bằng Mình và Máu Thánh Chúa trong Bí Tích Thánh Thể…
Trước khi “Lên Trời”, Chúa Giêsu đã hứa với các Thánh Tông Đồ là Chúa Thánh Thần sẽ đến (Cv 1:8); (Gn 16:7…). Chúa Thánh Thần là “Đấng Bảo Trợ” (The Advocate), là “Đấng an ủi” (the “Paraclete”, “Comforter”).
Đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới “hình lửa” trên từng Tông Đồ và các Tông Đồ “được tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần” (Cv 2: 1-4). Ngày đó trùng vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Lễ Ngũ Tuần là Đại Lễ của Do Thái Giáo, vào đúng vào ngày thứ 50 sau ngày Chúa Giêsu sống lại (‘Pentecost’ ‘ngày thứ 50); vì thế chúng ta mừng Lễ Chúa Thánh Thần vào ngày thứ 10 sau Lễ Chúa lên Trời. Lễ Chúa Giêsu Lên Trời được mừng vào ngày Thứ Năm sau Chúa Nhật VI mùa Phục Sinh (đúng 40 ngày sau Chúa Nhật Phục Sinh), nhưng thường được chuyển vào Chúa Nhật VII mùa Phục Sinh. Như vậy Lễ Chúa Thánh Thần được mừng vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật VII mùa Phục Sinh; sau đó chúng ta bước sang Mùa Thường Niên, chu kỳ II.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày khởi đầu của Giáo Hội, ngày “Sinh Nhật” của Giáo Hội, cũng là ngày khởi đầu công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Ơn Chúa Thánh Thần đã biến cải các Tông đồ trở nên những người can đảm, những người thông hiểu Kinh Thánh và nhớ lại các điều Chúa Giêsu đã giảng dạy. Các Ngài không còn “đóng kín cửa vì sợ người Do Thái” (Ga 20:19); nhưng bắt đầu rao giảng cho dân chúng đang tụ họp chung quanh nơi các Ngài ở (Cv 2:14…) và đã có nhiều người ăn năn sám hối và xin chịu Phép Rửa để gia nhập Giáo Hội Chúa (Cv 2:41).
Từ ngày đó, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, công cuộc truyền giáo của Giáo hội tiếp tục phát triển qua thời gian cho đến ngày nay, và Giáo hội được mở rộng đến các dân tộc (Luca 24:47) để đem Tin Mừng tình thương và ơn cứu rỗi đến cho mọi người, để “ai tin thì sẽ được cứu rỗi...” (Matcô 16:15…). Qua các thời gian, Chúa Thánh Thần vẫn che chở Giáo hội Chúa qua “mọi cơn gian nan khốn khó!”; qua bao cuộc “bách hại” khủng khiếp.
Ngay từ thuở ban đầu, Giáo hội đã bị “bách hại” mà vị tử đạo đầu tiên là Thánh Têphanô. Các Giáo hữu đầu tiên đã phải tản mát đi khắp nơi để bảo vệ đức tin và đi đến đâu lại rao truyền Đạo Thánh Chúa cho mọi người họ gặp gở hàng ngày; nhờ thế càng thêm nhiều người được rao giảng Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội Chúa. Đó là phong trào “Diaspora” của người Kytô hữu thuở Giáo hội lúc ban đầu.
Khi Giáo hội tràn lan đi khắp nơi, tới Thủ đô Rôma thì cuộc bách hại trở nên dử dội hơn với Néron và nhiều Hòang Đế Rôma khác, suốt hai ba thế kỷ cho đến năm 313. Trong những cuộc bách hại đó, từ các vị Giáo Hòang (mà đầu tiên là Thánh Phêrô), các Giám Mục, và mọi Kytô hữu đều bị lùng bắt và bị hành hạ dã man cho đến chết, có người bị thiêu sống, có người bị ném cho thú dử ăn thịt nơi các hý trường tại Rôma. Thánh Phaolô và các Tông Đồ đều bị tử đạo. Thánh Gioan bị đày ra đảo Patmos. Lúc đó chẳng có một tổ chức “Nhân quyền” nào, hoặc một tổ chức nào có thể lên tiếng để bênh vực. Các vua chúa có toàn quyền bách đạo. Các Tin hữu không còn đường nào trốn chạy, phải vào các Nghĩa trang để đào các hầm mộ mà trú ẩn trong những điều kiện thật khổ sở; đó là các “Catacombes” đào sâu xuống đất và dài hằng cây số. Các “Hầm Mộ” hiện còn ở Rôma, mà khách hành hương có thể đến thăm viếng để thấy đức tin của các tín hữu lúc ban đầu mạnh mẽ như thế nào. Tất cả đều nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Cũng nhờ ơn Chúa Thánh Thần họat động trong Giáo hội mà dù bách hại tàn bạo như vậy, nhưng Giáo hội tại Rôma lúc đó không bị tiêu diệt, trái lại vẫn triển nở, vẫn lan tràn đi khắp nơi cho đến ngày nay. Trái lại các Hòang Đế Rôma cũng như đế quốc Rôma hùng vĩ như vậy đã tan biến đi, nay chỉ còn là “vang bóng một thời”.
Ngay tại quê hương Viêt Nam, Giáo hội lúc ban đầu cũng bị các vua chúa triều Nguyễn bách hại thật tàn bạo và bằng nhiều cách khôn khéo, như chủ trương “Gia Tô phân sáp…” Tất cả đều nhằm tiêu diệt Đạo Chúa, dù mới được chớm nở tại quê hương chúng ta. Dầu vậy Giáo Hội tại Việt Nam cũng đã không bị tiêu diệt, mà vẫn triển nở; còn các triều đại Nhà Nguyễn đều đã đi vào dỉ vãng.
Nếu không có Chúa Thánh Thần nâng đở che chở làm sao Giáo hội mới chớm nở ở Rôma, ở Việt Nam, và nhiều nơi khác trên thế giới không bị tiêu diệt dù bị đàn áp tàn bạo như vậy. Những người Cộng Sản vô thần cũng đã tìm đủ mọi cách để tiêu diệt đức tin của các tín hữu nơi các nước họ đã chiếm được. Với những tính tóan rất kỹ lưỡng họ đã tin tưởng mạnh mẻ là Giáo hội sẽ bị họ tiêu diệt mau chóng ở khắp nơi họ tràn đến; nhưng chế độ Công Sản đã bị sụp đổ ở hầu hết các nơi; nhưng Giáo hội ở các nơi đó vẫn không bị tiêu diệt mà vẫn phát triển nhờ Chúa Thánh Thần che chở, giữ gìn.
Đạo Thánh Chúa không phải chỉ bị bách hại ở một nơi nào đó, vào một thời kỳ nào đó; nhưng luôn bị bách hại ở mọi nơi và dưới thật nhiều hình thức khác nhau do mưu mô của “ma quỷ thế gian” bày đặt ra; vì “bóng tối thì luôn ghét ánh sáng...” Chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến để canh tân thế giới chúng ta, để bảo vệ nhân quyền và tự do Tôn giáo, “hiệp nhất chúng ta nên một” trong cùng một gia dinh nhân loại và ban hòa bình cho các tâm hồn, các gia đình và thế giới chúng ta.
Xin Chúa Thánh thần ngự đến giúp chúng ta là các tín hữu của Chúa, luôn biết sống làm sao để “làm chứng cho Chúa” bằng chính đời sống lương thiện, công chính, và hòa hợp, yêu thương đối với mọi ngừơi. Xin Chúa Thánh thần ngự đến để giúp chúng ta biết đem Tin Mừng tình thương của Chúa đến cho mọi người chung sống với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày: trong gia đình, trong khu xóm, nơi sở làm, trừơng học… Xin Chúa Thánh thần ngự đến để gìn giữ Gíao Hội qua mọi cuộc bách hại, và gìn giữ chúng ta luôn nắm vững Đức Tin tinh tuyền giữa bao chủ trương sai lạc của thế giới hôm nay.
180. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống thường được gọi là Lễ Hiện Xuống với Lễ Vọng và Lễ Chính Ngày. Lễ Vọng được mừng trọng thể vào chiều Thứ Bảy tuần VII Mùa Phục Sinh, trước hoặc sau Kinh Chiều. Lễ Chính Ngày được mừng trọng thể vào Chúa Nhật hôm sau. Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuong chấm dứt Mùa Phục Sinh và bước sang Mùa Thường Niên II.
Trong Thánh Lễ Vọng, ngày Thứ Bảy: Bài Đọc I có thể chọn: Khởi Nguyên 11: 1-9; Xuất hành 19: 3-8, 16-20; Egiêkien 37:1-14 hoặc Giôen 3: 1-5. Bài Đọc II: Roma 8: 22-27. Bài Phúc Âm Gioan 7: 37-39.
Trong Thánh Lễ Chính Ngày vào ngày Chúa Nhật hôm sau: Bài Đọc I: Công Vụ Tông Đồ 2: 1-11; Bài Đọc II: 1 Corinto 12: 3-7, 12-13 (Năm B có thể chọn: Galat 5:16-25, Năm C có thể chọn: Roma 8: 8-17). Bài Phúc Âm: Gioan 20:19-23 (Năm B có thể chọn: Gioan 15: 26-27; 16:12-15. Năm C có thể chọn: Gioan 14: 15-16, 23-26).
Qua các Bài Đọc trên đây, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là dịp để chúng ta nhớ lại và mừng một biến cố rất trọng đại: "Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên các Thánh Tông Đồ, đúng như lời Chúa Giêsu đã thông báo trước (Gioan 14:26, 15:26, 16: 7-15). Với Ơn Thánh Hóa của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ đã được biến đổi hoàn toàn: Từ những người sống bằng nghề 'chài lưới', những người bình dân, ít học thức, các Ngài đã trở nên 'những con người mới' thông hiểu Thánh Kinh, 'những Tông Đồ nhiệt thành' sẵn sàng hy sinh cả cuộc đời và cả mạng sống để rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người, ở mọi nơi mà Chúa Thánh Thần soi sáng cho các Ngài tìm đến: Từ Giêrusalem đến các vùng lân cận, đến các dân tộc chung quanh, đến mãi Thủ Đô Rôma, trung tâm văn hóa của nhân loại thời đó.
Như vậy, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày khởi đầu của Giáo Hội, ngày 'Sinh Nhật' của Giáo Hội, cũng là ngày khởi đầu công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Ơn Chúa Thánh Thần đã biến cải các Tông Đồ trở nên những người can đảm. Các Ngài không còn "đóng kín cửa vì sợ người Do Thái" nữa (Gioan 20: 19), nhưng bắt đầu rao giảng cho dân chúng đang tụ họp chung quanh nơi các Ngài ở (Cv 2: 14...) và đã có nhiều người ăn năn sám hối, xin chịu Phép Rửa để gia nhập Giáo Hội Chúa (Cv 2: 41).
Từ ngày đó, nhờ Ơn Chúa Thánh Thần, công cuộc truyền giáo của Giáo Hội tiếp tục phát triển qua dòng thời gian cho đến ngày nay, và Giáo Hội được mơ rộng đến các dân tộc (Luca 24: 47) để đem Tin Mừng tình thương và Ơn Cứu Rỗi đến cho mọi người, để "ai tin thì sẽ được cứu rỗi..." (Matcô 16:15...). Chúa Thánh Thần vẫn che chở Giáo Hội Chúa qua "mọi cơn gian nan khốn khó", qua bao cuộc "bách hại" khủng khiếp ở mọi thời và mọi nơi.
Hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến để canh tân thế giới chúng ta, để bảo vệ Nhân Quyền và tự do Tôn Giáo, "hiệp nhất chúng ta nên một" trong cùng một gia đình nhân loại, và ban hòa bình cho các tâm hồn, các gia đình và thế giới chúng ta.
Xin Chúa Thánh Thần ngự đến giúp chúng ta là các tín hữu của Chúa, luôn biết sống làm sao để "làm chứng cho Chúa" bằng chính đời sống lương thiện, công chính của mình, và hòa hợp yêu thương đối với mọi người.
Xin Chúa Thánh Thần ngự đến để giúp chúng ta biết đem Tin Mừng tình thương của Chúa đến cho mọi người chung sống với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày: trong gia đình, trong khu xóm, nơi sở làm, trường học... Xin Chúa Thánh Thần ngự đến để gìn giữ Giáo Hội qua mọi cuộc bách hại; đặc biệt để nâng đỡ tinh thần các vị chủ chăn và các tín hữu đang bị phân tán, đang bị tù đầy, bị đe dọa, đang gặp bao nhiêu khó khăn thử thách ở nhiều nơi trên thế giới. Xin Chúa Thánh Thần ngự đến để giúp chúng ta luôn giữ vững Đức Tin tinh tuyền giữa bao chủ trương sai lạc của thế giới hôm nay.
181. Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy
CHÚA THÁNH THẦN MỞ TUNG MỌI CÁNH CỬA KHÉP KÍN
Không phải tất cả những gì Jean Paul Sartre (1905-1980), một trong những triết gia hiện sinh, viết đếu có thể chấp nhận được đối với những tín hữu đạo đức. Nhưng những gì nhà triết học người Pháp này tưởng tượng về hỏa ngục, rất đáng cho chúng ta lưu ý. Trong vở kịch «Phía sau những cánh cửa khép kín»của ông. Jean Paul Sartre đã nêu lên vấn nạn: Ðiều gì sẽ xảy ra, nếu con người sống hay chết đều gắn bó ràng buộc với nhau, và đều ý thức được rằng họ sẽ không bao giờ tách rời nhau được nữa? Ðiều gì sẽ xảy đến, nếu họ không được phép hay không muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài? Nếu họ không tùy thuộc vào bất cứ điều gì khác ngoài quá khứ, ngoài tội lỗi, ngoài sự cao ngạo, ngoài sự cố chấp, ngoài những điều nhảm nhí và ngoài những trách móc phàn nàn lẫn nhau của họ? Theo Sartre: Ðó chính là hỏa ngục!
Dĩ nhiên, các nhà thần học còn có thể nói cho chúng ta nhiều hơn nữa về những gì mà Thánh Kinh gọi là «hỏa ngục». Nhưng có một điều chắc chắn - và đó cũng là điều Jean Paul Sarte muốn nói tới - đó là: Ngay ở đời này, con người chúng ta đã có thể làm cho cuộc sống của nhau trở thành hỏa ngục.
Cũng thế, người ta có thể tưởng tượng được tình trạng của các môn đệ Ðức Giêsu sau ngày Thứ Sáu Chịu Nạn một cách tương tự như thế! Theo sự tường thuật của Thánh Kinh: Vì sợ người Do-thái, nên họ đã lẩn trốn sau những cánh cửa khép kín. Ðức Giêsu đã chết. Phải chăng họ đã chẳng đặt hết hy vọng vào Người, đã hy sinh tất cả cho Người, đã gắn bó hoàn toàn với Người?
Nhưng giờ đây Người đã chết: Bị đóng đinh nhục nhã vào thập giá, đã tắt thở và đã được an táng! Và Người đã để họ lại trong cảnh bơ vơ, thất vọng và chán nãn, lo âu sợ hãi và hoảng hốt. Họ trở nên bất đồng ý kiến với nhau và bị rơi vào một hoàn cảnh bất ổn, khiến họ không còn đủ khả năng để ngồi lại nói với nhau về sợi dây đầy tình nghĩa từng ràng buộc họ lại với nhau trong ba năm qua. Họ không còn đủ bình tỉnh để có thể tìm ra được câu giải đáp cho những vấn nạn quan trọng: Ðức Giêsu Na-da-rét thực sự là ai? Và chúng ta là ai, khi cùng với Người hay khi không có Người? Những gì thực sự còn nối kết chúng ta lại với nhau? Và trước hết, tình trạng cộng đoàn các Tông đồ xem ra rất bi quan và đang trên bờ của sự tan rã. Các bạn hãy nghĩ đến trường hợp hai môn đệ Em-mau hay trường hợp Thoma cứng lòng: Mỗi người đi mỗi ngã, ai nấy đều trở nên nghi ngờ, tất cả họ đều mất hết mọi hy vọng và tin tưởng!
Các bạn hãy tự xét đoán lấy, hãy tự chất vấn chính những kinh nghiệm sống của mình: Phải chăng tất cả những điều đó đã không quả quyết rằng, một đoàn thể khi phải đứng trước một tình trạng đen tối và tuyệt vọng như thế lại không bị tan rã hay sao?
Tuy nhiên, mọi chuyện lại đã xảy ra hoàn toàn khác hẳn. Các nhà tâm lý và phân tâm học sẽ phải bóp trán nghĩ ngợi nát óc, là: Làm thế nào hoàn cảnh các Tông đồ lại có thể xảy ra ngược lại như vậy được! Thánh Kinh đã trả lời cho vấn nạn đó: Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng đã liên kết các Tông đồ lại với nhau, ngược lại với sự hợp lý và sự suy luận nhân loại. Vâng, Chúa Thánh Thần hiện diện giữa các Tông đồ như sợi dây nối kết họ lại với nhau và như động lực giúp cho họ có đủ khả năng để lại cùng nhau nói về chính mình và nói về Sư Phụ. Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng ban cho họ có được sự xác tín rằng: Ðức Giêsu vẫn sống! Từ những câu chuyện đó, từ sự tưởng nhớ lại Ðức Giêsu như thế đã làm phát xuất ra điều mà ngày nay chúng ta gọi là Giáo Hội: Cộng đoàn của những người tin vào Ðức Giêsu! Thần Khí Thiên Chúa dẫn đưa và qui tụ họ lại từ bốn phương trời.
Vâng, Thần Khí Thiên Chúa, Thần Khí Ðức Giêsu, đã tác động, để một nhân loại đang trong cảnh chia rẽ và phân hóa lại trở về đoàn tụ với nhau. Và trước hết, điều đó đã được chứng mình nơi chính các Tông đồ: Các ngài đã tìm về với nhau, các ngài lại thông cảm nhau và các ngài lại hiểu được những gì đã xảy ra cho Ðức Giêsu. Nhất là bây giờ các ngài có thể làm cho người khác hiểu được Ðức Giêsu là ai và Người muốn gì nơi họ. Nhân loại thuộc mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ, mọi màu da và mọi giai cấp trong xã hội đã tìm về với nhau và qui tụ thành một cộng đồng huynh đệ mới. Và đó là điều chúng ta cùng tưởng niệm lại trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay.
Thần Khí Thiên Chúa mở tung mọi cánh cửa của sự sợ hãi, của sự nhát đảm và của sự co rúm lại trong thế giới bản thân, một chỗ các Tông đồ dùng làm nơi ẩn trốn! Giờ đây, họ không còn sợ hãi lẩn trốn nữa, nhưng lòng đầy can đảm và phấn khởi đi đến với mọi người và loan báo cho họ biết rằng, cuộc đời Ðức Giêsu Na-da-rét tuy trước mắt người đời xem ra như đã thất bại và đổ vỡ, nhưng trong thực tế lại chính là một cuộc sống đầy hạnh phúc trong vinh thắng. Nó đã được Thiên Chúa chấp nhận và chúc phúc. Bởi vì cuộc sống Ðức Giêsu là một cuộc sống không còn bị ràng buộc bởi sự ích kỷ, nhưng đã được hoàn toàn hiến dâng cho Thiên Chúa và và cho hạnh phúc chân thật của nhân loại. Ðức Giêsu đã mở tung nhiều cánh cửa từng bị khóa kín.
Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều cánh cửa đang bị niêm phong khép kín trong cuộc sống xã hội. Qua kinh nghiệm trong cuộc sống cụ thể, nhiều khi chúng ta đã phải ngỡ ngàng và thất vọng đứng trước những cánh cửa bị đồng loại khóa kín để cản đường chúng ta. Nhưng chính chúng ta cũng không ít khi đã đóng chặt bao cánh cửa trong các tư duy và trong cuộc sống mình, tự cô lập mình khỏi đồng loại.
Vâng, còn có bao nhiêu người vẫn chưa có đủ can đảm để tìm cho hoàn cảnh của mình một lối thoát? Còn có biết bao nhiêu cặp vợ chồng đang sống một cuộc sống chồng vợ bất đắc dĩ? Còn có biết bao nhiêu gia đình đang phải sống trong cảnh bất hòa và mỗi người là một tiểu vũ trụ, chứ không ai muốn nói chuyện với ai nữa? Và trong một cộng đoàn giáo xứ cũng còn có bao cánh cửa đang bị khóa kỹ: Giữa các cá nhân với nhau, cũng như giữa gia đình này với gia đình khác? Vâng, đó là những cánh cửa chúng ta đã tự khép kín và khóa chặt đối với nhau: Những cánh cửa dẫn đưa người khác đến với chúng ta, nhưng đã bị chúng ta khóa chặn lại. Hoặc là những cánh cửa đã làm cho chúng ta không thể tự do tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đã chứng minh cho thấy rằng người ta rất có thể mở tung mọi cánh cửa vốn bị đóng kín. Ðiển hình nhất là nơi các Tông đồ: Các ngài đã học được điều đó nơi chính bản thân mình. Các ngài đã có được kinh nghiệm là: Khi bản thân hay gia đình mình rơi vào cảnh khó khăn thử thách, thì tốt nhất là không nên vội đầu hàng bỏ cuộc. Các ngài đã học được là không một ai được phép nghi ngờ người khác, cả khi xem ra có người này kẻ nọ trong họ tỏ ra hoang mang và muốn bỏ cuộc. Các Tông đồ cũng đã cảm nhận được rằng:
Thái độ lẩn trốn và dấu mình sau các cánh cửa đóng kín càng làm tăng sự sợ hãi hoang mang.
Sự nghi ngờ nhau, sự đố kỵ mù quáng đối với thế giới bên ngoài, thường cũng chính là cái hố sâu ngăn cách con người với Thiên Chúa.
Các Tông đồ đã học được là chính Thần Khí Ðức Giêsu đã thúc bách và động viên họ:
Phải mở rộng các cánh cửa.
Phải loại bỏ sự bất động và bám bíu vào các thói quen cũ.
Phải can đảm đi đến với những người xa lạ chưa quen biết, hầu có thể: a) Hiểu biết và thông cảm với họ; b) Tin tưởng và chia sẻ với họ định mệnh khắt khe của họ; c) Giúp họ mở rộng mọi cánh cửa, nhất là cánh cửa dẫn họ tới nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu: Ðức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi!
Phải chăng đó không phài là điều kiện cho tình yêu to lớn đã được mặc khải trong cuộc đời Ðức Giêsu Na-da-rét?
Tôi luôn xác tín rằng: Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống không chỉ là một kỷ niệm biến cố trọng đại đã xảy ra trong buổi khai nguyên Giáo Hội, nhưng là một thực tại luôn sinh động! Bởi vì, Thần Khí Ðức Giêsu không hề chết. Người vẫn sống và vẫn tác động không ngừng trong Giáo Hội, trong vũ trụ và trong cuộc sống mỗi người. Chúng ta có thể mở rộng tâm hồn mình cho Người. Bên ngoài, những người đã từ xa gần đến và đang chờ đợi trước cửa nhà chúng ta. Họ chờ đợi Thần Khí Ðức Giêsu. Họ chờ đợi những người đã biết mở rộng tâm hồn cho Thần Khí đó! Amen.
182. Thánh Thần và ác thần
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Qua các phương tiện truyền thông như báo chí, Radio và truyền hình, chúng ta thấy thế giới nhân loại ngày nay không có một ngày nào hoàn toàn được an bình, không co một ngày nào mà không xảy ra những bạo hành và tội ác. Chưa lâu, bộ Nội Vụ CHLB Đức đã công bố một danh sách dài của các tội phạm trong năm: trên 5 triệu hành vi phạm pháp đủ các loại đã được ghi nhận. Nghĩa là khoảng 7 giây đồng hồ lại xảy ra một tội phạm. Nếu tại một nước văn minh, giàu có và tiến bộ vào bậc nhất thế giới như CHLB Đức mà còn xảy bao điều tiêu cực như vậy, thử hỏi tại các nước nghèo nàn lạc hậu mỗi ngày con xảy ra biết bao tội ác, bao điều tồi tệ nữa!
Bởi vậy, nhiều người đâm ra hoài nghi tự hỏi: Phải chăng ác thần đã xâm nhập vào đời sống xã hội hôm nay của chúng ta? Đúng vậy, và chúng ta đang cố sức tìm kiếm các phương tiện và đường hướng để chống trả lại ác thần đó. Đồng thời chúng ta cũng tìm kiếm sự quân bình, các đường hướng và sức mạnh của sự cứu rỗi và của sự hoàn thiện.
Trong khi đi tìm kiếm phương tiện và sức mạnh để chong trả ác thần như thế, chúng ta mừng đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống và được nghe nói đến một Thần Khí khác: Thánh Thần. Hoa trái của Thánh Thần đã được thánh Phaolô trình bày trong Thư gửi các tín hữu Ga-lát, là: «Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ » (5,22-23), nghĩa là tất cả những điều tích cực và thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta cũng như cho thế giới. Ở đâu có Thần Khí đó ngự trị, thì ở đó bộ mặt trái đất được đổi mới. Về Thần Khí của lòng nhân hậu và của sự cứu rỗi, Phúc Âm thánh Lu-ca đã viết: « Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần cho những ai kêu xin Người » (11,13). Tuy nhiên, Thánh Thần, Đấng làm cho bộ mặt méo mó của trái đất trở thành xinh đẹp, sẽ không do con người tạo ra được. Tự khả năng nhân loại của mình, chúng ta không thể dàn xếp hay đặt kế hoạch trước về Người được. Điều chúng ta có thể làm và cần phải làm, là: Chúng ta hãy luôn thành khẩn cầu xin và hãy mở rộng tâm hồn mình đón nhận ân huệ đó của Thiên Chúa, vì nhận biết mình yếu hèn, giới hạn và bất toàn.
Đồng thời chúng ta hãy để cho Thánh Thần Thiên Chúa dìu dắt hướng dẫn cuộc sống cũng như mọi hành động của mình, chứ không phải các tham vọng và ước muốn trần thế. Thánh Phaolô sau khi nêu lên những hoa trái của Thánh Thần, đã không quên nhắc lại điều kiện của những ai bước theo Thánh Thần: « Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê » (Gl 5,24). Cuộc sống theo Thánh Thần Thiên Chúa là một cuộc sống thanh thản và đầy an vui thánh thiện, tức: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu,...Tuy nhiên, đó không phải là một cuộc sống dễ dãi, theo kiểu được sao hay chớ.
Những ai biết sống và hành động theo Thần Khí, những người đó sẽ được Chúa Cứu Thế chúc phúc. Những vị thánh nhân, như Ê-li-sa-bét Th#-ring-gen, Phan-xi-cô Át-xi-xi, Mác-xi-mi-li-ê Khôn-bê, Vin-xen-tê đệ Phaolô, v.v...là những người đã hoàn toàn trao phó đời mình cho Thần Khí hướng dẫn và dìu dắt! Ngày nay vẫn còn tiếp tục có những thánh nhân biết sống theo Thánh Thần của Đức Giêsu chăng?
Trong số các thánh nhân đó, chúng ta có thể kể tên, như: Đức Gioan XXIII, Đức Gioan Phaolô II, hay như Mẹ Tê-rê-xa, vị Tông đồ của người nghèo ở Culcutta/Ấn Độ, hay rất có thể như Martin Luther King, người tranh đấu cho sự tự do và hoà bình giữa mọi người. Chính ông là người đã phát biểu những lời thời danh như sau: « Tôi có một giấc mơ là một ngày nào đó, các con cái của những kẻ nô lệ và các con cái của những người chủ nô lệ xưa kia sẽ cùng nhau thân hữu ngồi vào một bàn ăn... Tôi có một giấc mơ là một ngày nào đó, bốn đứa con của tôi đây sẽ được sống trong một đất nước, nơi chúng không bị đánh giá theo màu da, nhưng theo tư cách sống của chúng... » (Reden, die die Welt bewegten, nhà xuất bản Emil Vollmer, trang 590).
Nếu chúng ta để cho hai tiếng „tự do" của mỗi thành phố, cua mỗi thôn xóm, của mỗi nhà nước, của mỗi thủ phủ mỗi miền vang dội lên, thì chúng ta đã thực sự làm cho xuất hiện được cái ngày tất cả mọi con cái Thiên Chúa, dù là da đen hay da trắng, dù Do-thái, Tin Lành, Công Giao hay ngoại đạo, đều bắt tay nhau và cùng ca hát những lời của vị linh hướng người da đen già: „Thế là được tự do, lạy Thiên Chúa thượng trí toàn năng, thế là chúng con được tự do!" (Srephen B. Oates, Matin Luther King, 1982, tr. 3169).
Vâng, ở đâu sự tự do được thể hiện trong đoàn kết và sự đoàn kết được thể hiện trong tự do, ở đó có Thần Khí của Đức Giêsu, tức Chúa Thánh Thần, ngự trị. Thánh Phaolô cũng đã viết: „Ở đâu có Thần Khí, ở đó có sự tự do" và „chúng ta đã nhờ Thần Khí mà trở nên một".
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống có nghĩa là để cho Chúa Thánh Thần trở nên sức mạnh nội tâm của cuộc sống chúng ta. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta sự tự do và sự đoàn kết, đồng thời chúng ta cũng phải sẵn sàng cộng tác vào việc kiến tạo sự tự do và sự đoàn kết theo khả năng của chúng ta, hầu để cho: Một sự tự do không bị giới hạn và một sự đoàn kết không trùng nghĩa với một sự đồng điệu nhàm chán. (Trong thực tế, điều đó đối với Giáo Xứ của chúng ta ở... có nghĩa là là...) Con người ở trong Giáo Hội cũng như trong xã hội cần đến cả hai. Chúa Thánh Thần tác động và muốn cho cả hai cùng được hiện thực trong xã hội loài người chúng ta.
183. Canh tân thế giới
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Bài đọc: Ga 20:19-23
Lễ Chúa Thánh Linh Hiện Xuống phát xuất từ Lễ Pentecost của người Do Thái. Pentecost là từ ngữ Hy Lạp có nghĩa là 50, quen gọi là Lễ Ngũ Tuần. Đây là lễ kết thúc mùa thu hoạch, khởi đầu từ Lễ Vượt Qua trước đó 50 ngày. Lễ này dần dần được mặc nhiều đặc tính tôn giáo để kỷ niệm việc Chúa ban hành Thập Giới tại núi Sinai qua Maisen và việc Chúa thiết lập Israel làm Dân Riêng Chúa tuyển chọn.
Những đặc tính của Lễ Pentecost được Kitô Giáo canh tân bằng nhiều ý nghĩa mới có tính cách tôn giáo như sau:
* Hoa Mầu của mùa thu hoạch được thay thế bằng những Hồng Ân của Chúa Thánh Linh ban xuống cho con cái được tuyển chọn.
* Luật Cựu Ước xưa được thay thế bằng Tân Luật Yêu Thương của Chúa Kitô.
* Dân Riêng Israel được thay thế bằng Dân Thánh mới là Giáo Hội Công Giáo Chúa Kitô thiết lập.
I. XIN CANH TÂN BỘ MẶT THẾ GIỚI
Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ, long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Linh Hiện Xuống, chúng ta thành tâm tha thiết dâng lên Chúa lời nguyện cầu: "Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt thế giới!"
Tại sao thế giới chúng ta đang sống hôm nay lại cần phải được canh tân, được đổi mới? Như chúng ta đã thấy, thế giới vật chất ngày càng được văn minh tiến bộ: Các nhà khoa học mỗi ngày lại khám phá ra được những sự kỳ diệu trong thiên nhiên, phát minh ra những máy móc tân kỳ, đơn giản và tiện lợi, giúp cho đời sống con người ngày càng thoải mái, dễ chịu và hạnh phúc. Người ta còn chế tạo ra được những phản lực cơ, những hỏa tiễn để thám hiểm không gian, đổ bộ tới các hành tinh để gây thế lực kiểm soát được các quốc gia yếu kém hơn mình. Cậy vào những phát minh tân kỳ khoa học đó, con người lại sinh lòng kiêu căng tự phụ, quá tự tin vào tài năng và khoa học với trí óc hạn hữu của mình, trở nên mù tối, dám chối bỏ cả Thiên Chúa, phủ nhận quyền năng và công trình sáng tạo của Ngài đã được hiện thể trong vũ trụ bao la như những dấu tích của lòng Ngài yêu thương nhân loại.
Chính vì lòng kiêu căng vô ơn đó, mà những văn minh khoa học, đã không làm cho con người được hạnh phúc; mà trái lại, còn làm cho con người ngày càng thêm mê tín dị đoan, đến nỗi tôn thờ khoa học, nô lệ cho bản ngã hư hèn, coi vật chất và thụ tạo như chúa tể. Họ đã biến thế giới này trở thành cổ hủ, lỗi thời, với biết bao tệ đoan, đồi phong bại tục, các triết thuyết lầm lạc, luân lý đồi bại... Tất cả các tội lỗi này đang dâng lên trời cao, trêu cơn nghĩa nộ Thiên Chúa, đáng Chúa trừng phạt, đúng như lời Đức Mẹ đã mạc khải tại La Salette và Fatima.
II. MỆNH LỆNH CẢI THIỆN ĐỜI SỐNG
Thời Giáo Hội sơ khai, Chúa Thánh Linh đã hiện xuống Giáo Hội để trào đổ muôn ơn phúc xuống trên các Tông Đồ, các Môn Đệ, các Tín Hữu với biết bao sự lạ lùng, những phép lạ phi thường; biến cải các Tông Đồ từ những con người hèn nhát, sợ sệt, yếu đuối, dốt nát trở nên dũng cảm, anh hùng, khôn ngoan, thông thái; can đảm làm chứng nhân cho Chúa, sẵn sàng liều mạng sống mình vì vinh danh Thiên Chúa. Nhờ ơn Chúa, các ngài đã thực hiện biết bao phép lạ phi thường, nhưng luôn luôn với một lòng khiêm nhu thánh thiện, để chứng minh cho chân lý các ngài rao giảng, khiến mọi người sửng sốt bỡ ngỡ thán phục, ăn năn sám hối tội lỗi, trở về với Thiên Chúa.
Ngày nay, dù nhân loại kiêu căng tội lỗi, mặt đất đã ra ô uế đồi bại, nhưng tình Chúa yêu thương nhân loại vẫn không nỡ giáng phạt cân xứng với tội phạm; Chúa Kitô đã gởi Mẹ Ngài đến ban bố mệnh lệnh cải thiện đời sống, kêu gọi loài người cấp tốc, bỏ đàng tội lỗi, trở về làm hòa với Thiên Chúa, để đáng được lãnh nhận ơn tha thứ và hưởng sự bình an hạnh phúc chân thật của ơn làm con Chúa.
Nhưng sứ điệp Mẹ ban truyền tại Fatima đã được loài người hưởng ứng và tuân theo tới mức nào? Là con cái Chúa, là con ngoan thảo của Mẹ, chúng ta đã làm gì để hài lòng Chúa và Mẹ? Chúng ta đã đáp lại lời kêu gọi cải thiện đời sống của Mẹ tại Fatima chưa? Mỗi ngày chúng ta hãy tự kiểm điểm, để chân thành trả lời đúng với tiếng lương tâm trước tôn nhan Chúa và Mẹ.
III. NGHĨA VỤ TIẾP TỤC SỨ MẠNG CỨU THẾ
Lời Chúa phán với các Tông Đồ qua sứ điệp Tin Mừng, hôm nay Chúa cũng phán với mỗi người chúng ta: "Các con hãy nhận lãnh Chúa Thánh Linh" (Jn 20:22). Rồi Chúa cũng trao cho chúng ta sứ mạng tông đồ: "Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con!" (Jn 20:21). Mỗi người chúng ta đều đã đón nhận Chúa Thánh Linh và các ơn Ngài ban, được trở nên con Chúa ngày chúng ta lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy; được trở nên chứng nhân, nên người truyền bá Danh Chúa cho muôn dân khi chúng ta lãnh Nhiệm Tích Thêm Sức. Không những chúng ta có nghĩa vụ phải cải thiện đời sống, phải đổi mới tâm hồn, phải canh tân cuộc sống, mà chúng ta còn có nghĩa vụ phải cộng tác với toàn thể Giáo Hội, tiếp tục Sứ Mạng Cứu Thế Chúa đã ủy thác; chinh phục các linh hồn trở về với Chúa, tức là làm cho thế giới được đổi mới, được canh tân, được nên tốt đẹp, xứng đáng là Vương Quốc Chúa Kitô hiển trị.
Tại thành phố Tokyo, Nhật Bản, có một khu phố thật nghèo nàn, bẩn thỉu, dơ dáy với biết bao điều thương luân bại lý, khiến ai cũng chán ghét khinh bỉ, không ai thèm nhòm ngó quan tâm đến, ngoại trừ những cảnh sát an ninh luôn rình rập để chặn bắt những kẻ phạm pháp trong các băng đảng trộm cắp, cướp của giết người. Vì thế, nơi đây người ta đã đặt cho nó cái tên là "Ổ Chuột" hay "Sào Huyệt Du Đãng".
Nhưng trong lúc mọi người đều khinh bỉ, thì cô Maria, một nữ sinh viên trong đại học y khoa, lại thường hay lui tới quan sát thăm hỏi vào những ngày rảnh rỗi cuối tuần. Động lòng thương những con người xấu số, cô đã quyết định bỏ học, để đến đây sống với họ trong cảnh nghèo nàn bẩn thỉu. Cô đã đi gõ cửa từng nhà, kêu xin những nhà hảo tâm, các cơ quan từ thiện để có được những quần áo, đồ dùng, tiền bạc đem về giúp đỡ họ. Chỉ sau một thời gian vắn, cái "Ổ Chuột" và "Sào Huyệt Du Đãng" dơ dáy nghèo nàn bẩn thỉu này đã biến đổi, cảnh nghèo khó bớt dần, những tội ác không còn nữa và đặc biệt hơn hết, nhiều người đã tìm thấy chân lý, tự nguyện xin học giáo lý để trở lại Công Giáo. Mọi người đều cảm phục trước tấm lòng hy sinh cao cả của cô nữ sinh viên trẻ tuổi, đến nỗi họ tôn cô như một vị Đại Ân Nhân và như một bà Mẹ Hiền của họ, ai cũng mến phục và tôn trọng nghe lời cô. Nhưng mới chỉ thời gian chưa đầy một năm phục vụ những con người xấu số tại đây, vì quá lao tâm lao lực lo cho họ, cô đã lâm bệnh và qua đời cách thánh thiện. Mọi người đều thương tiếc và tôn trọng cô như một vị Thánh, như một sứ giả hòa bình và tình yêu thương Chúa sai đến để cải hóa, để canh tân trần gian. Đức Tổng Giám Mục Giáo Phận Tokyo đã đích thân đến chủ tọa Lễ An Táng và ca ngợi công đức của cô, cùng với nhiều vị quan khách trong Giáo Quyền cũng như trong Chính Quyền và một số đông đảo quần chúng từ khắp nơi đổ về, vì đã từng nghe biết danh tiếng và ngưỡng mộ cô.
Kết Luận
Là những bậc phụ huynh, chúng ta đã nỗ lực tìm cách biến đổi gia đình chúng ta nên tốt đẹp, thuận hòa, hạnh phúc chưa?
Là những con cái Chúa, chúng ta đã nỗ lực làm việc tông đồ để Chúa được vinh danh, góp công vào việc canh tân thế giới, cải thiện nhân loại, xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn trong hòa bình chân chính, xứng đáng trở nên một Vương Quốc thánh thiện của Chúa Kitô nơi trần gian, như sứ điệp Mẹ Maria đã ban truyền tại Fatima chưa?
184. Sứ mạng truyền giáo - Lm. Minh Vận, CRM
Báo "Le Figaro" đã đăng câu trả lời phỏng vấn của Tổng Thống Nga Putin, trong đó có mấy sâu đối đáp sau đây:
- Trong một cuộc phỏng vấn báo chí tại Nga, ông cho biết là ông đã đến cầu nguyện tại Mồ Thánh Chúa ở Jeruselem, trong tay cầm Thánh Giá. Nhưng ông lại là một cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
- Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược nhau. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó đã có một lịch sử từ lâu đời. Thời kỳ còn là Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như những cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tự tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo Đạo Chúa, mặc dù đi tham dự Thánh Lễ tại Nhà Thờ không phải là không gặp nguy hiểm trong thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm nghi lễ Thánh tẩy cho tôi tại Nhà Thờ. Vậy tại sao các ông lai có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm Thánh Giá đến cầu nguyện tại Mồ Thánh Chúa Giêsu?
Tổng Thống Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng Niềm Tin, xưng mình là người theo Đạo Chúa, sống Đạo Chúa. Ông đã tuyên bố trước báo chí: "Tôi tự hào là Tín Hữu... Niềm Tin của tôi làm cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn!"
I. CẦN PHẢI CANH TÂN TRÁI ĐẤT
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội hoàn vũ, long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Linh hiện xuống, chúng ta thành tâm dâng lên Chúa lời nguyện cầu tha thiết: "Lậy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt thế giới!"
Thế giới chúng ta đang sống, hiện nay có biết bao tệ đoan xuất hiện khắp đó đây làm lũng đoạn đời sống tâm linh, đầu độc trí lòng con người, khiến con người không còn phân biệt được đâu là phải đâu là trái, đâu là tội đâu là phúc, đâu là chân thật đây là giả trá! Các kẻ thù của Chúa đang vận dụng mọi cách để phá hoại những giá trị luân lý đạo đức, chối bỏ những thực tại của đời sống siêu nhiên, đời sống Đức Tin và hạnh phúc vĩnh cửu của đời sống mai hậu. Họ chủ trương chỉ có những thực tại của đời sống vật chất ở đời này. Vì thế, cần phải tận hưởng tất cả các tiện nghi, những phát minh của khoa học tân tiến, những tiền của giầu sang, để được thoải mái tối đa kẻo uổng phí. Tóm lại, họ mong gạt bỏ Thiên Chúa và Tôn giáo ra ngoài đời sống con người, để đời sống thoải mái dễ chịu, khỏi phải gò bó theo luật lệ. Do đó, họ sống buông thả theo thú tính, khiến con người thời đại mất dần ý thức tội lỗi!
II. SỨ MẠNG TUÂN GIỮ VÀ TRUYỀN BÁ TIN MỪNG
Là con cái Chúa, chúng ta có nghĩa vụ phải nỗ lực chống lại những tấn công của kẻ thù, duy trì những giá trị luân lý, những thuần phong mỹ tục, những nền văn minh Kitô Giáo, những truyền thống lành mạnh phù hợp với giáo huấn của Chúa và Giáo hội. Tuyệt đối trung thành với Đức Tin và tinh thần của Chúa Kitô theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha, đấng đại diện tối cao của Chúa nơi trần gian. Chính Chúa đã truyền dạy chúng ta: "Nếu các con yêu mến Thầy, hãy vâng giữ lời Thầy truyền dạy. Thầy sẽ nài xin Chúa Cha ban Đấng An Ủi khác đến ở cùng các con muôn đời, tức là Thần Chân Lý mà thế gian không thể nhận được, vì họ không thấy cũng chẳng biết Ngài, còn các con, các con sẽ nhận biết Ngài, vì Ngài sẽ ở cùng các con, lại ngự trong tâm hồn các con nữa" (Jn 14:15-17).
Hơn nữa, ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, trở nên con cái Chúa, mỗi người chúng ta đã lãnh sứ mạng truyền bá Đức Tin, rao giảng danh Chúa và Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho mọi người. Trước khi Chúa về trời, lệnh Chúa truyền cho các Tông Đồ và các Tín Hữu thời Giáo Hội sơ khai, cũng là lệnh Chúa cho mỗi người chúng ta qua các thời đại là: "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu độ, ai không tin sẽ bị luận phạt" (Mc 16:15). Thánh Mathêu còn ghi lại minh bạch hơn nữa lệnh truyền đó: "Thầy được toàn quyền trên trời dưới đất: Vậy, các con hãy đi giảng dạy muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con, và Thánh Thần. Hãy dạy họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con; và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!" (Mt 28:19-20).
III. THỰC THI SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ BẰNG CÁCH NÀO
Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh đến nghĩa vụ của tất cả chúng ta, là phải trở nên chứng nhân cho Chúa giữa trần gian khi truyền dạy: "Tất cả con cái Giáo Hội phải tích cực ý thức trách nhiệm của mình đối với thế giới, phải hun nóng cho mình thực sự có tinh thần Công Giáo, và phải hy sinh góp sức vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, mỗi người phải biết rằng bổn phận đầu tiên và quan trọng nhất đối với việc truyền bá Đức Tin là sống sâu xa đời sống Kitô Hữu" (Ad Gentes # 36). Để đời sống chúng ta thực sự trở nên ánh sáng chiếu soi cho mọi người, để mọi người thấy các việc thiện chúng ta làm mà ngợi khen Chúa là Cha chúng ta ngự trên trời, và chúng ta là môn đệ đích thực của Người như Chúa đã truyền dạy.
Đó là lời rao giảng Tin Mừng cách hùng hồn và hữu hiệu nhất. Chúng ta có thể quả quyết chắc chắn rằng: Không có lời rao giảng nào có hiệu lực hơn bằng chính cuộc sống thánh thiện của người tông đồ, là sống trước chính lời mình rao giảng, như lời tiền nhân thường răn dạy: "Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi cuốn".
Tuy nhiên, Công Đồng còn nhấn mạnh hơn nữa đến căn tính của sứ mạng cao cả này khi quả quyết với chúng ta: "Người Giáo Dân có bổn phận và quyền lợi làm tông đồ do chính việc kết hợp với Chúa Kitô là Đầu. Họ được Chúa chỉ định làm việc tông đồ, vì Phép Rửa tháp nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, Phép Thêm Sức làm cho họ thêm mạnh mẽ nhờ quyền năng Chúa Thánh Linh. Họ được thánh hiến vào chức vụ Tư Tế Vương Giả và Dân Thánh Chúa, hầu trong mọi việc họ dâng những lễ vật thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô ở mọi nơi trên hoàn cầu" (Apostilicam Actuositatem # 3).
Người ta kể rằng: Một hôm, có một bác nông dân chở gạo lên thành phố Sài gòn bán. Tới giờ ăn trưa, ông vào tiệm gọi một tô phở. Sau khi cô chiêu đãi viên bưng ra cho ông một tô phở thơm phức, ông nghiêm trang làm dấu Thánh Giá trên mình và cúi đầu, miệng lâm râm cầu nguyện. Một tên cán bộ ngồi bàn bên cạnh, trông thấy cử chỉ đạo đức đó lấy làm bực rọc khó chịu, bèn lên tiếng khà khịa với ông: "Thời buổi xã hội chủ nghĩa này mà còn kinh với kệ, lỗi thời lắm rồi lão già kia ơi!" Ông già nghe thấy lời hỗn xược và xúc phạm đó khiến ông không thể nhịn được, nên đã mạnh dạn lên tiếng: "Chỉ có loài chó loài heo mới không biết cầu nguyện cám ơn Chúa trước khi ăn!"
Ngày nay, chúng ta thấy không thiếu những người không dám xưng mình là Kitô Hữu, không dám hãnh diện biểu lộ niềm tin của mình trước mặt tha nhân, không dám dấu Thánh Giá trước bữa ăn tại tiệm, sợ bạn bè chê cười đàm tiếu. Người ta còn kể: Có những tiệc cưới người Công Giáo được tổ chức rất trọng thể tại tiệm ăn, thế mà cũng không dám mời Linh Mục chủ sự lên trước công chúng, để cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho các thực khách và thực phẩm trước khi khai mạc bữa tiệc!
Kết luận
Tổng Thống nước Nga Putin và ông nông dân trong hai mẩu truyện trên đây đã có những hành động tuyên xưng niềm tin của mình thật đáng chúng ta khâm phục và noi theo bắt chước. Khi chế độ Cộng Sản Liên Xô mới sụp đổ, theo sự khôn ngoan, hẳn ông cần phải khéo léo uyển chuyển để khỏi mích lòng những phe đối lập, thế nhưng ông đã can đảm tỏ mình là Kitô Hữu theo Đạo Chúa cách hãnh diện khi tuyên bố trước mặt mọi người: "Tôi tự hào là người Tín Hữu... Niềm Tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn!"
Còn ông nông dân của chúng ta cũng thật đáng mọi người phải cảm phục, mặc dầu lời ông nói có thể xảy đến cho ông những nguy hiểm bởi những kẻ có quyền thế, nhưng ông vốn can đảm nói lên sự thật, chứng tỏ Niềm Tin sâu xa của ông. Đó là một tấm gương sáng đáng chúng ta noi theo bắt chước.
Xin Mẹ Maria là Mẹ của Niềm Tin, ban cho chúng ta được can đảm sống Niềm Tin của chúng ta trong đời sống hằng ngày; nhờ việc tuyên xưng và sống Niềm Tin đó, sẽ thánh hóa chúng ta và giúp chúng ta chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người như Chúa đã truyền dạy.
185. Chúa Thánh Thần hiện diện
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Trước khi về trời, nhiều lần Chúa Giêsu đã nói và đã hứa với các môn đệ: Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống. Lời hứa đó đã được hoàn tất trong ngày lễ Ngũ Tuần, tức là lễ ngày thứ 50 tính từ lễ Vượt Qua của người Do Thái, và từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ này được gọi là lễ Hiện Xuống. Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa và bien đổi các ông thành những con người mới. Như vậy, Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá là điều kiện để ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội. Và khi được vinh quang bên hữu Chúa Cha, Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần xuống và ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội như linh hồn của Giáo Hội.
Đối với Giáo Hội nói riêng và đối với toàn thể nhân loại nói chung, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thật là quan trọng, vì đánh dấu một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, kỷ nguyên áp dụng ơn cứu độ, thời kỳ cuối cùng, thời kỳ cánh chung, trước khi Chúa Kitô trở lại để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Nhưng tại sao chúng ta có thể nói hay dám nói Chúa Thánh Thần đươc ví như linh hồn của Giáo Hội? Bởi vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, cũng như linh hồn quan trọng đối với thân xác thế nào thì Chúa Thánh Thần cũng quan trọng đối với Giáo Hội như vậy. Bởi vì Giáo Hội được ví như một than thể nhiệm mầu, mà Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là thân mình. Vậy nếu đã là một nhiệm thể thì cần phải có một linh hồn, linh hồn của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần.
Thứ hai, cũng như linh hồn ở khắp thân thể và ở trong từng phần thân thể, thì Chúa Thánh Thần cũng ở trong toàn thể Giáo Hội và trong từng người. Linh hồn là nguyên lý, là căn bản của sự sống tự nhiên của thân thể, không có linh hồn thì chúng ta không sống đươc, không có linh hồn thì thân thể chúng ta là cái xác chết. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý căn bản siêu nhiên nơi đầu là Chúa Kitô và nơi các chi thể là chúng ta, Ngài trực tiếp ban ơn cho từng thành phần để sinh hoa quả là những việc lành.
Thứ ba, cũng như nơi con người, linh hồn hoạt động qua trí khôn, ý chí, tình cảm. Cũng vậy, Chúa Thánh Thần hoạt động qua những khả năng siêu nhiên là bảy ơn Chúa Thánh thần, qua ba nhân đức đối thần là tin, cậy, mến. Chúa Thánh Thần gìn giữ, thánh hóa, biến đổi từng tâm hồn. Chẳng hạn: 12 tông đồ trước kia nhút nhát, sợ hãi, Chúa Thánh thần đã làm cho họ mạnh bạo can đảm. Rồi suốt hai mươi thế kỷ qua, biết bao gương anh dũng của các thánh đồng trinh, hiển tu, tử đạo…và hôm nay cả tỉ con cái Chúa đang được Chúa Thánh Thần thôi thúc bước mau về trời, Ngài hướng dẫn, trợ giúp chúng ta trên đường về trời.
Thứ tư, cũng như một linh hồn hiện diện nơi mỗi người làm cho người đó thành một người riêng biệt, khác với những người khác, thì Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi mỗi tín hữu, để làm thành những tín hữu khác nhau: Chúa Giêsu, Đức Maria, các thánh, kẻ lành …và ơn Chúa Thánh Thần khác nhau, nên có những loại thánh khác nhau, rồi lại có những ơn sủng khác nhau, tùy theo chức bậc: người truyền giáo, người làm cha mẹ, người đi tu v,v…
Ngoài ra, ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới hình lưỡi lửa. Hình ảnh này thật đầy ý nghĩa: Giáo Hội của Chúa được ví như một đống củi, được lửa của Chúa Thánh thần đốt cháy lên và sưởi ấm trần gian lạnh lẽo. Không có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội chỉ là một tổ chức trần gian như bao hội khác trên đời này, nhưng suốt hai mươi thế kỷ qua, Chúa Thánh Thần luôn ở giữa Giáo Hội, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội và Ngài vẫn tiếp tục hoạt động mãi cho đến tận thế.
Mỗi người chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, và nhất là khi lãnh nhận phép Thêm sức, Ngài luôn ở cùng chúng ta, hướng dẫn và trợ giúp chúng ta. Vậy chúng ta chớ dập tắt Chúa Thánh Thần. Nếu dập tắt Chúa Thánh Thần thì chẳng khác gì chiếc tàu bỏ bánh lái, đoàn xe lửa bỏ đầu tàu, con người bỏ trái tim. Chúng ta có thể dập tắt Chúa Thánh Thần thế nào? Nhiều cách lắm, chẳng hạn: chúng ta không sử dụng tối đa những ân huệ Ngài ban, những khả năng, những tiền bạc Chúa ban để chúng ta làm lợi cho linh hồn, cho gia đình, chúng ta sử dụng vào những việc có hại cho mình và người khác. Chẳng han: Chúa cho chúng ta cơ hội để phục vụ Chúa và Giáo Hội, nhưng chúng ta không lợi dụng những cơ hội đó, bỏ dịp tốt qua đi đó là dập tắt Chúa Thánh Thần.
Đàng khác, Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ. Phù trợ chứ không phải là làm thay chúng ta. Chúng ta phải làm hết sức mình, hết khả năng mình, phải học hỏi, phải nghiên cứu, phải thực hiện hết sức của mình, Chúa Thánh Thần sẽ phù trợ thiện chí của chúng ta. Ngài không bao cấp làm thay chúng ta. Nếu chúng ta không cố gắng đổi mới chính mình, đổi mới môi trường của mình, nếu chỉ cậy trông suông, khoán trắng cho Chúa Thánh Thần, thì Chúa Thánh Thần sẽ không làm thay. Bởi vì trách nhiệm ấy thuộc về chúng ta, những người Chúa đã trao cho những khả năng để có thể làm được, không nhiều thì ít, không việc lớn thì việc nhỏ, ai cũng có khả năng làm việc tốt.
Xin Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta những nguồn sinh lực mới, để chúng ta biết quyết tâm đổi mới chính mình, biết quyết tâm góp phần xây dựng thời đại chúng ta. Sự quyết tâm này chúng ta sẽ gữi gấm nơi Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ ban phép lành cho chúng ta, Ngài sẽ phù trợ cho chung ta thực hiện. Mặc dầu hôm nay chúng ta không thấy kết quả nhưng hãy kiên trì nhẫn nại như những người gieo giống, mùa màng không thấy ngay, nhưng mùa màng nếu làm đúng, làm với cố gắng, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần, chắc chắc sẽ thành công và hiệu quả sẽ phong phú.
186. Sức mạnh Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Có một câu truyện kể rằng: Một hôm thần dữ Xa-tan triệu tập tất cả các sứ giả của hắn lại, để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi. Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả trở về. Thần dữ Xa-tan ngạc nhiên hỏi: "Tại sao cac ngươi thực hiện công tác nhanh thế, hay là có chuyện gì trục trặc?". Các sứ giả đồng thanh đáp: "Thưa ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi qua trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết thật rồi. Họ ghen ghét nhau, họ gian tham, trộm cắp, sa đọa, họ chém giết nhau...không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này, mà ngược lại như là loan báo Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa".
Con người sống như thể Thiên Chúa đã chết. Đó là một lời cảnh tỉnh nghiêm trọng đáng cho chúng ta, những môn đệ của Chúa Giêsu, suy nghĩ để kiểm điểm lại đời sống của mình. Vài chục năm gần đây, người ta tỏ ra lo ngại cho Giáo Hội, khi thấy có một số đông Ki-tô hữu tại nhiều nước Âu Châu dửng dưng với đạo. Đạo hầu như chẳng còn ảnh hưởng gì đối với họ; đạo hầu như đứng ngoài cuộc sống của họ. Phải chăng Ki-tô giáo đã qua những ngày hưng thịnh và đang đi vào giai đoạn lụi tàn? Phong trào "Thời Mới", một phong trào mang tính tôn giáo huyền bí hàm hồ, đang phát triển tại Mỹ và Âu Châu xác tín rằng: Kỷ nguyên Ki-tô giáo sắp qua đi và một kỷ nguyên mới với một tôn giáo mới đang xuất hiện.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến trần gian để thi hành sứ mạng cứu chuộc loài người. Ngài đã sống kiếp người như chúng ta, Ngài đã giảng dạy, loan báo Tin Mừng. Cuối cùng, Ngài đã chấp nhận đau thương và chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất sứ mạng cứu chuộc của Ngài. Ngài đã chết thật, nhưng không phải là chết luôn, trái lại, Ngài đã sống lại và sống mãi. Ngài vẫn hiện diện trên trần gian dưới nhiều hình thức, đặc biệt là qua Chúa Thánh Thần.
Quả thực, ngay từ khi tại thế, Chúa Giêsu đã sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, nhưng Ngài chưa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Chúa Giêsu phải ra đi, rồi mới cử Thánh Thần đến với họ được, nghĩa là Ngài phai được tôn vinh, mới có thể ban Thánh Thần cho họ. Vì thế, ngay buổi chiều ngày Phục Sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra thổi hơi vào các môn đệ và ban Thánh Thần cho họ; đồng thời ban cho họ quyền tha tội. Như vậy, Chúa Giêsu đa ban Chúa Thánh Thần, và các tông đồ đã nhận được Chúa Thánh Thần ngay chiều ngày Phục Sinh.
Tuy nhiên, để đánh dấu việc các tông đồ thực sự thoát khỏi tình trạng "khép kín" vì sợ hãi hay nuối tiếc quá khứ, và "mở cửa" lao mình về phía trước để công bố Tin Mừng Phục Sinh cho các dân tộc, đem ơn hòa giải đến cho mọi người, hầu qui tụ mọi người vào trong đại gia đình của Thiên Chúa...Chúa Thánh Thần đã hiện xuống với các tông đồ một cach long trọng và rõ ràng với những dấu hiệu bề ngoài như gió thổi mạnh, lưỡi lửa xuất hiện trên đầu họ. Gió và lửa là những dấu hiệu để chứng tỏ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và liền theo đó, mọi người được tràn đay Chúa Thánh Thần.
Như vậy, Chúa Thánh Thần đã đến với các tông đồ, đã biến đổi họ thành những con người mới, đã tác động nơi họ để trở thành những chứng nhân cho Đức Kitô và loan báo Đức Kitô cho mọi người. Chúa Thanh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa và ngọn lửa Ngài đậu trên đầu các tông đồ không gì khác chính là ngọn lửa tình yêu. Chính ngọn lửa đó đã thúc giục các tông đồ mở toang cánh cửa đã đóng kín vì sợ hãi, để mạnh dạn ra đi loan báo Tin Mừng tình yêu. Từ đó cho đến nay, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hoạt động nơi từng con người thiện chí, từng Kitô hữu, đang hăng say hoạt động để đem chân lý, bình an, yêu thương và hy vọng đến với những ngươi chung quanh.
Mỗi người Kitô hữu hôm nay cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần khi chịu phép Rửa tội và Thêm sức. Nhưng chúng ta đã cộng tác với Chúa Thánh Thần thế nào? Chúng ta có để Chúa Thánh Thần gọt giũa, loại bỏ khỏi chúng ta tính ích kỷ, hẹp hòi không? Chúng ta đã làm gì và đang làm gì cho thế giới này, cho những người sống chung quanh chúng ta được sưởi ấm bởi ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận? Thật là đau đớn cho Thiên Chúa và Giáo Hội khi những người mang danh Kitô hữu, những môn đệ của Chúa, lại sống ích kỷ, ghen ghét nhau, cạnh tranh nhau...Nếu ngày nay biết bao người chưa biết đến tình yêu thương của Chúa, có lẽ một phần trách nhiệm là do chúng ta; có lẽ chúng ta phải đấm ngực mình mà nhận rằng: vì chúng ta chưa sống tốt, chưa làm chứng nhân, vì trong chúng ta còn nhiều ích kỷ, nhỏ nhen, hẹp hòi...
Mừng lễ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống từng người chúng ta, và mời gọi chúng ta cùng cộng tác với Chúa Thánh Thần để đổi mới chính mình, đổi mới cuộc sống của mình, để cuộc đời chúng ta trở thành chứng tá cho Thiên Chúa tình yêu. Chúng ta phải dùng chính cuộc sống tốt lành của mình để làm chứng cho Thiên Chúa hằng sống, để xác quyết rằng: Thiên Chúa đang sống và đang hành động trong trần gian.
187. Lễ Hiện Xuống
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.)
Thế là chúng ta đã hân hoan đón mừng Lễ Phục Sinh của Đức Chúa Giêsu Kitô hơn bẩy tuần lễ rồi; trong thời gian ấy, chúng ta đã cùng nhau ôn lại những lần Chúa hiện ra cùng các thánh Tông đồ. Khi nhận ra sự hiện diện của Chúa bên mình, trái tim các ông như bừng cháy bên trong, các ông đã tràn đầy an ủi, tin tưởng bình an và sức mạnh nội tâm. Chúa nhật hôm nay còn gọi là Lễ Ngũ Tuần, nhắc lại việc Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ dưới hình thức cơn gió thổi, và lưỡi lửa.
Bài đọc đầu tiên mô tả những tác động hiệu quả phi thường nơi các tông đồ sau khi được Thần Khí ngự xuống trên các ông. Nếp sống các ông thay đổi đến kinh ngạc vì Thần Khí luôn thúc giục các ông trở nên hoàn thiện hết mình. Các ông gạt sang một bên những dè dặt đề phòng, không còn sợ hãi để mà hối hả ra đi bắt đầu thực hiện nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng, nhất là can đảm công bố niềm tin vào Đức Kitô chịu đóng đanh. Đột nhiên các ông không còn chút nghi hoặc, mọi thứ cứ như đâu vào đấy và trở nên rõ ràng minh bạch đầy đủ ý nghĩa. Nhất là mọi lời Kinh Thánh, mọi lời giảng dạy của Đức Chúa Giêsu tự nhiên ăn khớp với nhau mạch lạc trong tâm trí các ông. Đúng lúc này Giáo Hội được khai sinh. Thần Khí đổ tràn tâm hồn các ông một niềm hy vọng mới và lòng dũng cảm khác thường. Sau khi đã nhận được quyền năng và sức mạnh, các tông đồ đã lên đường đi khắp thế gian và hăng say tiếp tuc công trình Đức Kitô đã khởi sự.
Việc Thần Khí ngự đến vào ngày đầu tiên trong mùa Lễ Ngũ Tuần đã không phải là một biết cố một lần thay cho tất cả nhưng chính là biến cố khởi đầu cho sự hiện diện của Giáo Hội nơi trần thế. Nhờ nhiệm tích Thánh Tẩy, Thần Khí đã được ban tặng cho chúng ta, nêh Thần Khí luôn gần gũi kề cận chúng ta hơn là chúng ta dám nghĩ tới. Bất cứ nơi đâu có những tâm hồn mở rộng đón nhận Thần Khí, Thiên Chúa se đổ tràn Thần Khí xuống tâm hồn ấy để khai lòng mở trí, thúc đẩy họ đảm nhân nhiệm vụ mới: làm sứ giả cho Đức Kitô.
Lễ Hiện Xuống hôm nay nhắc lại cho chúng ta một điều này là Thiên Chúa hằng kêu gọi chúng ta bước sâu vào mối thâm giao với Ngài và muốn chúng ta cùng chia sẻ cuộc sống với Ngài. Đó là lời mời gọi nhóm lên ngọn lửa Tình Yêu và khuấy động lên tất cả ân sủng của nhiệm tích Thánh Tẩy. Chúng ta hoàn toàn không biết Thần Khí sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, đi lúc nào, nhưng chúng ta lại thường lắm phen ngạc nhiên vì thấy Thần Khí dẫn đưa chúng ta làm việc này việc nọ. Bất cứ khi chúng ta bước ra khỏi tính do dự ích kỷ của riêng mình và vươn ra đến với những con người đang gặp khó khăn, thì ngay lúc ấy Thần Khí hoạt động hướng dẫn chúng ta, trao cho chúng ta một sức mạnh canh tân để đảo ngược những giá trị cố hữu của con người và một ý chí mãnh liệt tiến len theo một chiều hướng mới.
Khi chúng ta đối diện với những thử thách và thánh giá, khi đương đầu với những khó khăn và thất vọng, chúng ta cần đến sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần, vì sự hiện diện của Ngài sẽ chẳng những thay đổi cái nhìn của chúng ta mà còn cả dáng vẻ bên ngoải của chúng ta nữa. Đức Kitô đã hứa rằng nếu chúng ta cầu xin, quyền năng của Thần Khí sẽ đến với chúng ta. Bởi thế trước khi cầu nguyện, chúng ta cần mở rong tâm hồn mời đón Chúa Thánh Thần ngự đến. Chúng ta sẽ trở nên những con người khác, con người đã được đổi thay bao nhiêu tùy theo mức độ chúng ta cho phép Thần Khí can thiệp vào cái tính tự mãn ù lì cố hữu của chúng ta và dọn đường cho chúng ta phát triển con người một cách lành mạnh... Nếu chúng ta cứ để cho Thần Khí dẫn dắt như thế, thì hoa trái của Ngài đem lại cho đời sống chúng ta sẽ là niềm vui, bình an và yêu thương.
Nhân dịp lễ Hiện Xuống hôm nay, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta món quà quý giá là Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động với vô số phương thức kín đáo để khơi dậy và đào sâu đức tin, củng cố sức mạnh, thúc đẩy cảm hứng và canh tân cuộc sống chúng ta.
188. Thánh Thần - Nguồn hiệp nhất
Năm mươi ngày sau Lễ Chúa Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Có khuynh hướng lấy ngày Chúa Giêsu đổ hết máu và nước trong mình ra để cứu độ trần gian làm ngày khai sinh Giáo hội, cũng có khuynh hướng lấy ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống làm ngày khai sinh Giáo hội. Như vậy, Chúa Thánh Thần là Đấng nào và Ngài đã làm gì cho các thụ tạo và cho Giáo hội?
Giở lại những trang đầu của Sách Sáng Thế, chúng ta bắt gặp hình ảnh mà tác giả Sách Sáng Thế trình bày "Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước" (St1,2). Như thế, Thánh Thần hay Thần Khí Thiên Chúa đã tác thành vạn vật ngay từ buổi đầu của công trình tạo dựng.
Trong sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo thì nói: Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ ba bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như Chúa Cha và Chúa Con. Như vậy, không phải là Chúa Thánh Thần chỉ hiện diện trong các thụ tạo từ ngày lễ Ngũ Tuần nhưng Ngài đã hiện diện trong các loài thụ tạo ngay từ buổi ban đầu, nhưng các hiện diện của Ngài thâm sâu và khó nhận biết. Nhưng từ khi được Chúa Giêsu mạc khải thì sự hiện diện của Ngài nổi bậc hơn. Ngài không đến để thay thế Chúa Giêsu nhưng Ngài đến để làm cho sự hiện diện của Chúa Giêsu được thể hiện cách thâm sâu nơi các loài thụ tạo.
Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất trong tình yêu. Như chúng ta nhận biết, Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất, Ba Ngôi vị. Tại sao có sự hiệp nhất cao siêu này? Thưa: Ba Ngôi hiệp nhất với nhau trong tình yêu hay nói cách khác là gắn kết nhau trong Chúa Thánh Thần. Chính trong tình yêu và sự hiệp nhất nên một là muôn loài được tạo thành.
Con người khi chưa phạm tội, được hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên họ thương yêu nhau và nên một trong nhau. Nhưng khi họ bị tội lỗi chia cắt thì họ không còn có thể hiệp thông với Thiên Chúa nữa nên họ cũng bị chia cắt với nhau. Sự kiện Ađam - Eva cũng như câu chuyện tháp Babel cho ta thấy rõ sự chia cắt đó.
Đến ngày lễ Ngũ tuần, các tông đồ cũng còn e sợ, còn ngại ngùng. Nhưng khi được Thánh Thần ngự xuống trong họ thì họ hăng hái mở toang cửa loan báo Tin Mừng Đức Giêsu đã chết và sống lại. Bởi không hiệp thông được với Thiên Chúa mà con người không thể xây được tháp Babel thì nay nhờ sự hiệp thông trong Chúa Thánh Thần mà các tông đồ rao giảng tiếng bản địa của các ông mà thính giả thì lại nghe như tiếng bản địa của mình.
Ngày nay, Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong Giáo hội "ở đâu có sự hiệp nhất ở đó có Thánh Thần", Ngài làm cho mọi người có khả năng đón nhận Tin mừng mạc khải như Chúa Giêsu đã nói "Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn" (Ga 16, 12-13).
Nhưng phải làm sao để có thể hoạt động theo Chúa Thánh Thần? Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống như là một cơ hội nhắc nhở mỗi người chúng ta về nguyên lý tối hậu của niềm tin "Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống", cho chúng ta năng cầu nguyện với Chúa Thánh Thần xin Ngài hướng dẫn cho chúng ta luôn được hiệp nhất trong Chúa và hiệp nhất trong nhau để Giáo hội mà Chúa Giêsu đã thiết lập mãi là sự hiện diện của tình yêu, sự hiện diện của sự hiệp nhất, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin cho chúng con luôn ý thức được sự hiện diện của Ngài, biết năng nghe tiếng Ngài hằng nói với chúng con trong thâm sâu của tâm hồn và cho chúng con trở nên mềm mại trong sự uốn nắn của Chúa và mỗi ngày chúng con được tiến lên trong đường nhân đức, tiến lên trong tình yêu và tiến lên trong sự hiệp nhất với Chúa và với mọi người.
189. Veni Creator, Spiritus
Xin Chúa Thánh Thần, Đấng sáng tạo ngự đến
(Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI - Bài giảng lễ Vọng đón Đức Chúa Thánh Thần, Roma 2006)
Hằng năm Giáo Hội mừng lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trọng thể. Trong đời sống, người Công giáo chúng ta vào lứa tuổi thanh thiếu niên, đều đã nhận lãnh Bí tích Thêm sức, đón nhận ân đức Đức Chúa Thánh Thần củng cố đức tin ngày chịu phép bí tích Rửa tội năm xưa.
Rồi mỗi khi làm dấu Thánh Gía, đều nhắc đến đức Chúa Thánh Thần: “...và Thánh Thần. Amen". Nhất là người Công giáo Việtnam thường đọc lời kinh: "Chúng con lạy ơn đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng sáng vô cùng. Chúng con xin đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con..." mỗi khi đọc kinh lần hạt mân côi hay trước khi dâng thánh lễ.
Một tập tục thói quen đạo đức tốt lành ăn rễ sâu thấm nhuần trong cung cách sống đức tin! Nhưng càng ngày, nhiều người thắc mắc: Đức Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm thế nào chúng ta có thể nhận ra Ngài?
1. Dominum et vivicantem - Là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống.
Mỗi khi đọc kinh tin kính, chúng ta tuyên xưng Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Sự sống phát xuất từ Ngài và Ngài là sự sống. Trong chương khởi đầu sách Sáng Thế (1, 1-2, 4a) thuật lại công trình sáng tạo trời đất, Kinh Thánh diễn tả Thần linh Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh u minh hỗn mang. Thiên Chúa sau khi đã tạo dựng con người từ bụi đất hà hơi vào họ và họ liền có sự sống. Thần linh Thiên Chúa là hơi thở phát sinh ra sự sống.
1.1. Sự sống do đâu?
Nhiều cái, nhiều sự trong đời sống chúng ta có thể hay phải làm ra. Nhưng sự sống con người ngay từ khởi đầu là do được tiếp nhận, chứ không do làm hay chế tạo ra. Người mẹ không chế hay làm ra đứa con. Nhưng người mẹ đón nhận sự sống đứa con của mình. Người ta đã hay sẽ còn khảo nghiệm để khám phá ra mầm sự sống trong quá trình thụ thai sinh con nơi bà mẹ. Nhưng cho tới bây giờ cũng chỉ biết được những khía cạnh ngoại vi bên lề giữa tình yêu và sự sống, giữa sự sống và tình yêu, giữa sự hoà nhập của yếu tố sinh lý, yếu tố hoá học... còn chính sự sống trước sau vẫn là điều mầu nhiệm chưa khám phá ra. Sự sống không do tự phát xuất ra và cũng không do chúng ta làm ra. Sự sống là ân đức, là quà tặng đến với và cho chúng ta. Chúng ta được quyền đón nhận sự sống và là người đón nhận sự sống.
1.2. Kinh nghiệm trong đời sống.
Không ai làm ra sự sống, nhưng chúng ta có kinh nghiệm nhiều ít, thành công hay thất bại, buồn hay vui, sung sướng hay đau khổ trong đời sống. Kinh nghiệm chúng ta thu lượm được trong đời sống. Chúng ta cũng không thể chế ra kinh nghiệm được. Và mỗi người có kinh nghiệm về đời sống khác nhau, dù cùng cảnh ngộ, cùng điều kiện vật lý... Kinh nghiệm chúng ta trải qua trong đời sống cũng là ân đức từ trời ban cho. Một người kể cho tôi nghe ngày sinh nhật thứ hai trong đời ông (không phải sinh nhật lúc hai tuổi!). Tôi ngạc nhiên hỏi lại: tại sao lại có tới hai ngày sinh nhật? Ông hân hoan thuật lại biến cố đó. Số là cách đây hai năm, đang trong bữa tiệc mừng con trai út người bạn mới thi đậu ra trường, bỗng dưng ông ngã lăn đùng ra giữa nhà nằm bất tỉnh...
Người ta đưa ông vào nhà thương cấp cứu. Sau hai ngày ông sống tỉnh dậy và sống khoẻ mạnh trở lại. Ông cho là đã được tái sinh lại lần thứ hai. Vì thế ông có hai ngày sinh nhật: ngày mở mắt chào đời khi xưa cách đây hơn năm mươi lăm năm, và ngày sống trở lại sau hai ngày trong hôn mê bất tỉnh, như được tái sinh! Còn nỗi vui mừng nào lớn hơn niềm vui được sống trở lại khỏe mạnh với mọi người! Ông không chế ra sự sống ngày tái sinh này. Nhưng ông đã đón nhận nó như món quà tặng, như ân đức từ trời cao. Nhà nghệ thuật, nhà nghiên cứu sau năm tháng miệt mài suy nghĩ, bỗng dưng trong tâm trí bừng lên ý tưởng mới. Thế là họ cặm cụi ghi chép lại và phát triển ra những bức họa, những bản nhạc hoà tấu, những cuốn sách, những công trình phát minh sáng chế nổi tiếng để đời cho hậu thế.
Ý tưởng mới bừng lên trong tâm trí cũng không do họ tự chế tạo ra, nhưng do được gợi hứng ban cho.
1.3. Sự sống cho con người, nhưng...
Chúng ta đón nhận sự sống, thu lượm kinh nghiệm trong đời sống, hoạch định cách sống hôm nay và ngày mai. Nhưng chúng ta không thể thu ngắn, kéo dài hay bằng cách nào đó biến đổi sự sống theo ý muốn mình được. Chúng ta không là chủ sự sống và không thể nắm giữ sự sống lại được. Quá trình sinh lão bệnh tử nói cho chúng ta điều đó. Và nào đã có ai là con người thoát khỏi quá trình này đâu? Sự sống được ban cho và sự sống có ngày được thu hồi về bởi Đấng là chủ là nguồn sự sống. Đó đây ngườ ta thường nói: Đời sống mỗi ngày mỗi khó khăn. Cuộc sống không còn đơn giản như xưa nữa. Điều kiện sống càng ngày càng phức tạp và tạo ra nhiều vấn đề...!
Con người chúng ta đón nhận sự sống và có bổn phận duy trì, xây dựng phát triển sự sống cho mình, cho gia đình, cho xã hội đất nước. Đó là điều quan trọng, nhưng đó chưa phải là tất cả. Qua việc làm, qua hoạch định hay qua những công trình đã xây dựng, chúng ta mới chỉ đạt được điều kiện, cách thế khắc phục những khó khăn trở ngại trong đời sống, cách xây dựng sự sống. Còn chính sự sống chúng ta không thể làm chế ra được. Sự sống là ân đức, là quà tặng và có giá trị cao qúi tuyệt đối hơn mọi công trình việc làm của con người. Vì sự sống được ban cho, chứ không do chế tạo làm ra. Con người có bổn phận kính trọng, gìn giữ bảo vệ sự sống. Thần Linh Thiên Chúa là sự sống và là Đấng ban sự sống.
2. Creator, Spiritus - Thần linh sáng tạo
Ngày nay khắp mọi người ta nói đến bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái. Các quốc gia kỹ nghệ tân tiến đưa ra những chương trình bảo vệ rừng núi, bảo vệ nguồn nước dưới lòng đất, bảo vệ đất đai mặt bằng, bảo vệ không khí trong lành, bảo vệ khí trời không bị nóng làm cho khi hậu đảo lộn, bảo vệ súc vật côn trùng... vì con người càng ngày càng nhận ra mức quan trọng của thiên nhiên cho sự sống còn của họ. Đó là nguồn tài nguyên, tài sản cho mọi thời đại mọi thế hệ. Thắc mắc đặt ra: Thiên nhiên cho con người hay con người cho thiên nhiên?
Cả hai vế đều đúng, đều quan trọng như nhau. Không có thiên nhiên làm sao con người có thể sinh sống được. Và nếu con người không nhận ra giá trị của thiên nhiên, không bảo vệ thiên nhiên, thì cuộc sống của những thế hệ kế tiếp sẽ ra sao? Con người có thể sống trong một môi trường thiên nhiên khô chồi, trơ trụi bị ô nhiễm khí độc hại hay bị khói cháy rừng bao phủ ngày đêm khắp bầu trời được không? Sức khoẻ thể xác và tinh thần của họ sẽ như thế nào nếu nguồn nước dưới lòng đất hay ngoài sông ngòi là một vũng ao tù xình lầy chứa đầy rác rưởi, phân tro hay đầy chất hoá học độc hại?
Thiên nhiên cho con người và con người cũng phải cho thiên nhiên! Nhưng nếu chỉ nghĩ đến việc bảo vệ, gìn giữ thiên nhiên đã đủ chưa? Phải chăng thiên nhiên chỉ nguyên là môi trường sinh thái cho mọi loài? Phải chăng khi đưa ra chương trình cứu nguy bảo vệ môi trường sinh thái là đã cứu nguy được thiên nhiên, công trình sáng tạo rồi? Thiên nhiên đâu phải chỉ bao gồm dưới dạng tài nguyên không khí để thở, đất đai rừng núi nguồn nước cây cối, côn trùng sinh vật. Thiên nhiên hay thế giới chúng ta đang sống còn có chiều kích thánh thiêng tôn giáo nữa: Thiên nhiên, vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng cho con người (Sách Sáng thế 1, 1-2a).
Sự sống trong thiên nhiên là do Thần Linh Thiên Chúa tác dụng vào. Chính với sức sống này, con người tìm thấy ý nghĩa của đời sống. Nhận ra chỗ đứng của mình trong vũ trụ. Và vì thế con người sống trong đó, đâu phải chỉ nguyên có trách nhiệm với thiên nhiên không thôi đâu. Họ còn có bổn phận với Đấng là nguyên ủy của thiên nhiên. Môi trường sinh thái được trao vào tay con người. Họ được quyền xử dụng vào việc xây dựng cho phù hợp với hoàn cảnh sống; và môi trường sinh sống cũng có thể bị lợi dụng hay sử dụng vô trách nhiệm, khiến gây nên tình trạng phá huỷ ô nhiẽm môi sinh. Còn thiên nhiên là do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá dựng nên ban cho như quê hương xứ sở, nơi sự sống Thần Linh của ngài tác dụng và đổi mới. Như thế con người không thể dùng thiên nhiên theo ý nghĩa xử dụng được.
Con người có bổn phận kính trọng thiên nhiên và họ luôn luôn khám phá ra những công trình sáng tạo mới trong đó. Những công trình này gây ngạc nhiên, mang lai hạnh phúc niềm vui, mang nguồn cảm hứng cho con người. Và vì thế phải biết cúi mình tạ ơn Đấng là chủ thiên nhiên, là chủ nguồn sự sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa răn bảo con người: “Con không được phép giết hại!" (Sách xuất hành 20, 13; Đệ nhị luật 5,17). Ngài có ý nhắn nhủ con người:
Con chỉ là người quản lý thiên nhiên Cha trao cho. Nhưng không là chủ thiên nhiên.
Con phải kính trọng sự sống do Cha tạo dựng.
Con không được phá huỷ môi trường sinh thái của cây cối cùng súc vật trong đó.
Con không được coi trái đất này là sở hữu của riêng con.
Con không được vì quyền lợi riêng mình gây đau khổ cho các công trình sáng tạo của Cha trong thiên nhiên.
Khi kính trọng hay ngạc nhiên bỡ ngỡ những kỳ công, sự sống trong thiên nhiên, là nhận ra dâu vết Đấng là chủ, là nguồn sự sống, nguồn tình yêu của thiên nhiên: Đức Chúa Thánh thần. Bài thánh ca ngày lễ mừng kính Đức Chúa Thánh Thần mở đầu bằng câu: "Veni Creator, Spiritus – Xin Chúa Thánh Thần, Đấng sáng tạo, ngự xuống..." nói đến những hình ảnh về sáng tạo vũ trụ đã diễn tả trong Kinh thánh, nơi sách Sáng Thế ký.
Bài tường thuật về sự sáng tạo vũ trụ đã diễn tả, Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên khoảng không hỗn độn đen tối, trên biển nước bao la. Thế giới vũ trụ, nơi chúng ta sinh sống, là công trình của Thần linh sáng tạo. Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống không chỉ là nguồn gốc khai sinh khởi đầu của Giáo Hội Chúa, nhưng còn là lễ của sự sáng tạo.
Thế giới vũ trụ không phải tự mình mà có. Nó có nguồn gốc khởi thủy từ Thánh Thần Thiên Chúa, do từ Lời sáng tạo của Thiên Chúa. Và như vậy, nó phản chiếu sự khôn ngoan của Ngài. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa, theo chiều trải rộng ra xa và bao gồm lý luận của những luật lệ, gợi hướng về Thần linh sáng tạo của Thiên Chúa. Nó nhắc nhở tới sự kính trọng, cho người tín hữu Chúa Giêsu Kitô tin vào Thần Linh sáng tạo. Nó nhắc nhớ họ nhận biết thế giới vũ trụ này, và những vật thể trong đó không phải là những vật dụng đơn giản của con người cùng ý muốn được phép sử dụng hay được phép lạm dụng. Chúng ta con người, không được phép nhìn công trình sáng tạo trong vũ trụ như một của riêng đã được ban cho để hủy hoại. Nhưng đó là khu vườn của Thiên Chúa cùng là khu vườn cho con người.
190. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
NHỮNG NGƯỜI RAO GIẢNG TIN MỪNG ĐẦY THÁNH THẦN
Bốn mươi ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến là cầu nguyện thiết tha: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.
Giáo hội xin Ngài đến để làm gì? Thưa, để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên)..
Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Ngài là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x. Ga 16, 7). Ngài "hiện diện" trong lịch sử Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi. Giáo hội sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt và bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6), và vì thế, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ luôn đồng hành với Giáo hội để Ngài tiếp tục làm nhiệm vụ đổi mới và canh tân. Thần Chân Lý đã "nhập thể" trong Hội Thánh. Như lời ca nhập lễ diễn tả: "Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia."
Sách Tông đồ Công vụ thuật lại: "Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4). Thật là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần trong ngày Ngài hiện xuống trên các thánh Tông đồ và những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng ta có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng.
"Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp" (Cv 2, 2).
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: Ngôi nhà, sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự, người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Những "Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực" (Gal 5, 22).
Phải khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi" (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: "Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế". Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Chúng ta đọc thấy trong sách Tông đồ Công vụ (…) Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên những người chịu phép rửa tội và làm cho họ ngập tràn niềm vui. Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên các Tông đồ; kể từ ngày hôm đó, Giáo hội, Vương Quốc của Đức Giêsu lan rộng khắp địa cầu, chính Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con điều khiển Giáo hội. Bằng sự thánh thiện, Ngài kiện toàn nơi tâm hồn con người ngay từ lúc khởi đầu Ơn Cứu Chuộc. Thánh Tôma Aquinô nói: "Ngài là linh hồn của thân thể nhiệm mầu là Giáo hội " (Tổng luận Thần học, I-II, q. 106, a. 1c.). Ngài ngự trong Giáo hội cách thường hằng, Ngài không ngừng trao ban sự sống và thánh hóa Giáo hội như lời Thánh Phaolô nói: "Vì Ngài lưu lại nơi các ngươi và ở trong các ngươi" (Ga 14, 17). Vì là Thần khí Sự Thật, "khi nào Ngài đến, Ngài sẽ hướng dẫn trong Chân Lý" (Ga 16, 13) và gìn giữ khỏi mọi sai lầm. Chính Ngài làm bừng lên trong Giáo hội sự phong phú siêu nhiêu: làm nảy sinh và triển nở những nhân đức anh hùng nơi tâm hồn các thánh trinh nữ; các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, ẩn tu, đó là một trong những dấu chỉ sự thánh thiện. Tóm lại, Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn nhân thế; nhờ linh hứng trong Hội Thánh, nhờ máu châu báu của Đức Giêsu Kitô đổ ra ," tinh tuyền, không vết nhơ, không tì ố" (Ep 5, 27), ngõ hầu tất chúng ta xứng đáng trình diện trước tòa Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu trong ngày thẩm phán.
Ðức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Thiên Chúa là Tình Yêu, số 33).
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ !" Amen.
191. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
CHÚA THÁNH THẦN NGUYÊN LÝ SÁNG TẠO VÀ HIỆP NHẤT
(Suy niệm Lễ vọng Chúa Thánh Thần Hiện Xuống - Ga 7,37-39)
Sau khi Chúa về Trời, Đức Maria đã cùng với Các Tông Đồ qui tụ trong nhà Tiệc Ly để cầu xin Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúng ta cũng thế, trong Tuần Chín Ngày qua đã không ngớt cầu xin Ngài ngự đến.
Giờ đây chúng ta tự hỏi nhau: Hỏi Đức Chúa Thánh Thần là Đấng nào? Làm sao chúng ta có thể đón nhận Ngài? Ngài có thự sự cần thiết không và Ngài đến với chúng ta để làm gì?
Câu hỏi thứ nhất Sách Bổn Địa phận Hà Nội cho chúng ta câu trả lời vắn gọn khá rõ ràng: Đức Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, cũng là Đức Chúa Trời thật (tr.51).
Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo
Câu đầu tiên trong Thánh Thi Kinh Chiều của ngày lễ Ngũ Tuần có viết: “Xin hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo...” làm cho chúng ta nhớ lại công cuộc tạo dựng vũ trụ thủa ban đầu, Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh hỗn mang (x. St 1,2).
Phải khẳng định rằng, thế giới chúng ta đang sống là cộng cuộc của Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo. Nên Lễ Ngũ Tuần không chỉ là nguồn gốc của Giáo hội, là lễ của Giáo hội. Nhưng Lễ Ngũ Tuần còn là lễ của tạo vật. Thế giới không tự mình hiện hữu; nhưng đến từ Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa, đến từ Lời có sức sáng tạo của Thiên Chúa. Và vì vậy, thế giới phản chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự việc tay Ngài làm” (Tv 19,2). Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto nói: “Sự khôn ngoan này hé mở cho chúng ta thấy được điều gì đó về Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhìn tạo vật như là hồng ân được trao ban cho chúng ta, không phải để bị hủy diệt, nhưng để trở thành ngôi vườn của Thiên Chúa” (Trích bài giáo lý về Chúa Thánh Thần).
Theo mạc khải Cựu Ước, Thánh Thần là một trong những Tác Giả của vũ trụ vật chất. Thánh Thần tích cực lôi kéo vũ trụ ra khỏi tình trạng hỗn mang lúc ban đầu. "Đất trời trông không mông quạnh, và tối tăm trên mặt uông mang, và Thần Khí là là trên mặt nước" (St 1, 2). Trong mầu nhiệm tạo dựng con người. Thánh Thần là Đấng ban sự sống thể lý cho con người: "Chính hơi thở của Thiên Chúa đã làm ra tôi, khí Shadday đã cho tôi sự sống" (G 33, 4). Thánh Thần phục sinh kẻ chết về thể lý cũng như tinh thần. Người phục hồi sự sống cho những bộ xương khô, biểu tượng của sự chết: "Ta sẽ ban Thần Khí của Ta xuống trong các ngươi. Và các ngươi sẽ được sống" (Ed 37, l4). Thánh Thần, Đấng bảo tồn toàn thể sự sống trên trái đất. Khi Giavê Thiên Chúa rút hơi thở Người lại, thì không tạo vật nào còn sống: "Nếu Người chỉ nghĩ đến Người, nếu Người rút về làn khí hơi thở của Người, thì mọi xác phàm sẽ chết cùng một lúc, và con người sẽ trở về với cát bụi" (G 34, 14-15).
Chúa Thánh Thần là Ðấng Sáng Tạo, đến trợ giúp chúng ta. Ngài đã buớc vào trong lịch sử, và như thế, Ngài nói với chúng ta trong cách thức mới. Ngài đến gặp chúng ta qua tạo vật. Ngài là Tình Yêu, là sự hiệp nhất. Ngài mang đến cho chúng ta sự sống và sự tự do. Tất cả mọi tạo vật đều khao khát Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự hiệp nhất
Nếu như tại Babel, sự ngạo mạn kiêu căng của con người nổi lên chống lại Thiên Chúa tự sức riêng của mình muốn “xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời” (x. St 11,4). Hậu quả của hành động đó là Thiên Chúa làm cho họ phân tán, bất đồng ngôn ngữ với nhau, khiến họ không thể hiểu nhau làm gì nữa. Thì Lễ Hiện Xuống, điều ngược lại đã xảy ra: nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nói được ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc các nền văn hóa nghe đều hiểu như tiếng thổ âm của mình (x. Cv 2,6). Mọi chia rẽ bất đồng được vượt thắng, không còn kiêu căng chống lại Thiên Chúa nữa, cũng không còn có sự khép kín đối với nhau, họ mở rộng lòng mình ra cho Thiên Chúa và tha nhân, giao thiệp với nhau bằng một ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của tình yêu thương mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5). Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ làm điều thiện, an ủi họ trong cảnh sầu khổ, hoán cải nội tâm và trao ban sức mạnh và khả năng mới, dẫn đưa họ tới chân lý vẹn toàn, yêu thương và hiệp nhất.
Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra
Thánh lễ vọng chiều nay đưa chúng về với Chúa Giêsu và chiêm ngắm Người vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, nghe Chúa giảng: “Ai khát hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông” (Ga 7, 37-38). Người muốn nói điều ấy về Chúa Thánh Thần.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc thần hiện trong đó gió và lửa nhắc nhở chúng ta về tính siêu việt của Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói mà không sợ hãi. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban xuống cho Giáo hội như là “nước hằng sống chảy ra như giòng sông” (Ga 7,38) vì nước ấy ở trong cung lòng của Thiên Chúa, cùng một lúc, chúng ta khám phá ra rằng, cũng trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thật. Thường chúng ta đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong phương diện cá nhân, tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay hiển nhiên cho thấy tác động Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu: “Thánh Thần mà những kẻ tin Người sẽ lãnh lấy” (Ga 7,39). Thánh Thần duy nhất biến cộng đoàn thành một thân thể duy nhất, thân thể Chúa Kitô. Hơn nữa, Ngài là suối bẩy nguồn đa dạng về các ơn: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như:tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… làm cho mỗi người chúng ta trở nên phong phú và đa dạng.
Sự duy nhất là dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn tín hữu. Điều quan trọng nhất của Giáo hội chính là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống. Với con mắt loài người nhìn vào Giáo hội, chúng ta không thể nhận ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong lời nguyện mở đầu của Thánh lễ vọng chiều nay, chúng ta cầu xin Chúa tuôn đổ Thánh Thần để “các dân tộc chia tuy ngôn ngữ bất đồng, được hiệp nhất cùng nhau mà tuyên xưng danh Chúa.” (Lời nguyện nhập lễ)
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa!” Amen.
192. Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
SUY NIỆM THÁNH LỄ VỌNG (Ga 7,37-39)
Thánh lễ vọng chiều nay đưa chúng về với Chúa Giêsu và chiêm ngắm Người vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, nghe Chúa giảng: "Ai khát hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông" (Ga 7, 37-38). Người muốn nói điều ấy về Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự hiệp nhất
Nếu như tại Babel, sự ngạo mạn kiêu căng của con người nổi lên chống lại Thiên Chúa tự sức riêng của mình muốn "xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời" (x. St 11,4). Hậu quả của hành động đó là Thiên Chúa làm cho họ phân tán, bất đồng ngôn ngữ với nhau, khiến họ không thể hiểu nhau làm gì nữa. Thì Lễ Hiện Xuống, điều ngược lại đã xảy ra: nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nói được ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc các nền văn hóa nghe đều hiểu như tiếng thổ âm của mình (x. Cv 2,6). Mọi chia rẽ bất đồng được vượt thắng, không còn kiêu căng chống lại Thiên Chúa nữa, cũng không còn có sự khép kín đối với nhau, họ mở rộng lòng mình ra cho Thiên Chúa và tha nhân, giao thiệp với nhau bằng một ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của tình yêu thương mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5). Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ làm điều thiện, an ủi họ trong cảnh sầu khổ, hoán cải nội tâm và trao ban sức mạnh và khả năng mới, dẫn đưa họ tới chân lý vẹn toàn, yêu thương và hiệp nhất.
Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo
Câu đầu tiên trong Thánh Thi Kinh Chiều của ngày lễ Ngũ Tuần có viết: "Xin hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo..." làm cho chúng ta nhớ lại công cuộc tạo dựng vũ trụ thủa ban đầu, Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh hỗn mang (x. St 1,2).
Phải khẳng định rằng, thế giới chúng ta đang sống là cộng cuộc của Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo. Nên Lễ Ngũ Tuần không chỉ là nguồn gốc của Giáo hội, là lễ của Giáo hội. Nhưng Lễ Ngũ Tuần còn là lễ của tạo vật. Thế giới không tự mình hiện hữu; nhưng đến từ Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa, đến từ Lời có sức sáng tạo của Thiên Chúa. Và vì vậy, thế giới phản chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự việc tay Ngài làm" (Tv 19,2). Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto nói: "Sự khôn ngoan này hé mở cho chúng ta thấy được điều gì đó về Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhìn tạo vật như là hồng ân được trao ban cho chúng ta, không phải để bị hủy diệt, nhưng để trở thành ngôi vườn của Thiên Chúa" (Trích bài giáo lý về Chúa Thánh Thần).
Ðứng trước những hình thức khác nhau của việc lạm dụng trái đất, "mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta". (Rm 8,22-24)
Chúng ta tự hỏi: Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài? Bằng cách nào, chúng ta đến với Ngài và Ngài đến với chúng ta? Ngài tác động điều chi? Câu trả lời cho câu hỏi Chúa Thánh Thần là gì, Ngài làm điều chi và làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Chúa Thánh Thần là Ðấng Sáng Tạo, đến trợ giúp chúng ta. Ngài đã buớc vào trong lịch sử, và như thế, Ngài nói với chúng ta trong cách thức mới. Ngài đến gặp chúng ta qua tạo vật. Ngài là Tình Yêu, là sự hiệp nhất. Ngài mang đến cho chúng ta sự sống và sự tự do. Tất cả mọi tạo vật đều khao khát Chúa Thánh Thần.
Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc thần hiện trong đó gió và lửa nhắc nhở chúng ta về tính siêu việt của Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói mà không sợ hãi. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban xuống cho Giáo hội như là "nước hằng sống chảy ra như giòng sông" (Ga 7,38) vì nước ấy ở trong cung lòng của Thiên Chúa, cùng một lúc, chúng ta khám phá ra rằng, cũng trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thật. Thường chúng ta đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong phương diện cá nhân, tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay hiển nhiên cho thấy tác động Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu: "Thánh Thần mà những kẻ tin Người sẽ lãnh lấy" (Ga 7,39). Thánh Thần duy nhất biến cộng đoàn thành một thân thể duy nhất, thân thể Chúa Kitô. Hơn nữa, Ngài là suối bẩy nguồn đa dạng về các ơn: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như: tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… làm cho mỗi người chúng ta trở nên phong phú và đa dạng.
Sự duy nhất là dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn tín hữu. Điều quan trọng nhất của Giáo hội chính là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống. Với con mắt loài người nhìn vào Giáo hội, chúng ta không thể nhận ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong lời nguyện mở đầu của Thánh lễ vọng chiều nay, chúng ta cầu xin Chúa tuôn đổ Thánh Thần để "các dân tộc chia tuy ngôn ngữ bất đồng, được hiệp nhất cùng nhau mà tuyên xưng danh Chúa." (Lời nguyện nhập lễ)
"Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa!" Amen.
193. Chúa Thánh Thần, Đấng Tác Sinh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Năm mươi ngày ngày sau Đại lễ Phục Sinh, giờ đây Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Chúa Thánh Thần chính là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x: Ga 16, 7). Ngài "xuất hiện" trong lịch sử của Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi. Đến muôn đời, Giáo hội sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng, vì Giáo hội không chỉ giao tiếp với một quốc gia nhưng với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy, và vì thế, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ luôn đồng hành với Giáo hội để Ngài tiếp tục làm nhiệm vụ đổi mới và canh tân. Thần Chân Lý đã "nhập thể" trong Hội Thánh. Lời ca nhập lễ: Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia.
* Bài đọc Phụng vụ
- Tđcv 2, 1-11: Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ
- Tv 104, 1: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến, để Ngài đổi mới mặt đất này!
- 1 Cr 12, 3-7; 12-13 hoặc Gal 5, 16-25: Thần Khí Đức Kitô làm cho hiệp nhất hoặc Hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta
- Ga 20, 19-23 hoặc Ga 15, 26-27; 16, 12-15: Đức Giêsu Phục Sinh trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ hoặc Thần Chân Lý sẽ hướng dẫn anh em
Sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại: "Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói." (Tđcv 2,4.11)
Đây là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần được sai phái xuống trên các Tông Đồ và tất cả những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng...
"Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp". (Tđcv 2,2)
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: Ngôi nhà Sách Tông Đồ Công Vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng vậy nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau: Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả, cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần... trong hòa bình và trật tự... người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Những "Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực," (Gal 5, 22)
Phải khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi" (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: "Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế". Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Ngài còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Chúng ta đọc thấy trong sách Tông Đồ Công Vụ (...) Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên những người chịu phép rửa tội và làm cho họ ngập tràn niềm vui. Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên các Tông Đồ; kể từ ngày hôm đó, Giáo hội lan rộng khắp địa cầu, Giáo hội là Vương Quốc của Đức Giêsu, chính Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con điều khiển Giáo hội. Bằng sự thánh thiện, Ngài kiện toàn nơi tâm hồn con người ngay từ lúc khởi đầu Ơn Cứu Chuộc. Ngài ở trong Giáo hội, Ngài là linh hồn của thân thể nhiệm mầu là Giáo hội (...) Chúa Thánh Thần ngự trong Giáo hội cách thường ngày và vĩnh viễn, Ngài không ngừng trao ban sự sống và thánh hóa Giáo hội như lời Thánh Phaolô Tông Đồ nói: " Vì Ngài lưu lại nơi các ngươi và ở trong các ngươi." (Ga 14, 17). Vì là Thần khí Sự Thật, Đức Giêsu nói: khi nào Ngài đến, "Ngài sẽ hướng dẫn trong Chân Lý" (Ga 16, 13) Ngài sẽ đưa tất cả vào sự thật. Chính Ngài làm bừng lên trong Giáo hội sự phong phú siêu nhiêu: Ngài làm nảy sinh và triển nở những nhân đức anh hùng nơi tâm hồn cách thánh trinh nữ; các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, ẩn tu, đó là một trong những dấu chỉ sự thánh thiện. Tóm lại, Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn nhân thế; nhờ linh hứng trong Hội Thánh, nhờ máu châu báu của Đức Giêsu Kitô đổ ra, "tinh tuyền, không vết nhơ, không tì ố" (Ep 5, 27), ngõ hầu tất chúng ta xứng đáng trình diện trước tòa Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu trong ngày thẩm phán".
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Deus Caritas Est, số 33).
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!" Amen.
194. Tất cả được tràn đầy Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Trong suốt tuần chín ngày, chúng ta đã cầu xin tha thiết: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.
Giáo hội xin Chúa Thánh Thần đến để làm gì? Thưa, Chúa Thánh Thần đến để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên).
Hôm nay ngày lễ Ngũ Tuần, ngày mà lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ được hoàn tất. "Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Dothái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông… thổi hơi trên các ông và nói: "Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần đã xuống trên các ông và ban đầy đủ các ơn cùng với các sự kiện bên ngoài.
Vì thế, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả. Vui, vì có Chúa Thánh Thần, Giáo hội không bị mồ côi, có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ lĩnh hội được tất cả những gì Chúa Giêsu muốn, Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên, là suối bẩy nguồn.
Giáo hội được Chúa Giêsu sai đến với mọi dân mọi nước và sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt và bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6). Thế nên, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Giáo hội để tiếp tục làm nhiệm vụ canh tân mặt đấy đổi mới lòng trí con người và đổi mới lòng trí con người hôm nay. "Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia." Lời ca nhập lễ chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã "nhập thể" trong Hội Thánh.
Điều gì đã xảy ra trong ngày xa xưa ấy, lúc các Tông Ðồ đang tụ họp với nhau ở tầng trên của phòng Tiệc Ly vậy?
Thưa: dấu hiệu đầu tiên là " Tiếng động từ trời phát ra tựa như gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp" (x. Cv 2,1). Tiếng động bất thình lình phát ra và các lưỡi lửa chia ra đậu trên đầu từng Tông Ðồ là các dấu chỉ cụ thể đụng chạm tới các Tông Ðồ, không chỉ bề ngoài, nhưng cả trong nội tâm; trong tâm trí nữa. Kết quả là "tất cả đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4).
Ngọn lửa đó là ngọn lửa tình thương đốt cháy mọi cứng cỏi; ngôn ngữ đó là thứ ngôn ngữ mới, ngôn ngữ đại đồng của tình thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng các tín hữu (x. Rm 5,5); một ngôn ngữ mà tất cả mọi người đều hiểu, và khi tiếp nhận có thể được diễn tả ra trong mọi cuộc sống và mọi nền văn hóa. Ngôn ngữ ấy là thứ ngôn ngữ của Tin Mừng vượt qua mọi ranh giới do con người đặt ra và đánh động tâm hồn nhiều người, không phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, tiếng nói hay quốc tịch.
Trong một Thánh Thần, tất cả được chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thẻ. Vì khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và khơi dậy nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn tùy theo lợi ích không ai giống ai. Có một Thánh Thần duy nhất hoạt động trong Hội Thánh, nên có nhiều chức vụ, công việc, những chỉ có một Thánh Thần điều khiển và hướng dẫn thể (x. 1 Cr 12, 3-7. 12-13).
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự. Người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý và tình thương nhắc nhớ chúng ta về tất cả những gì Chúa Kitô đã nói. Ngài dạy dỗ chúng ta và làm cho chúng ta nói với Thiên Chúa, gọi Chúa là Cha, là Abba (Xc Rm 8,15; Gl 4,4); đồng thời làm cho chúng ta đối thoại với nhau trong tình huynh đệ và ngôn sứ.
Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên đã biển đổi các môn đệ từ những con người nhát đảm sợ sệt trở nên những nhà truyền giáo can đảm phi thường không sợ tù đày, tra tấn và cái chết, vì sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở cùng họ. Có Chúa Thánh Thần, sự khép kín nhường chỗ cho sự loan báo và mọi nghi ngờ bị xua tan bằng niềm tin đầy tình thương mến. Bằng chứng là ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô được tràn đầy Thánh Thần, đứng lên "cùng với mười một tông đồ... lớn tiếng" (Cv 2,14) và "thẳng thắn" (Cv 2, 29) loan báo tin vui của Chúa Giêsu, là Ðấng đã hiến mạng sống mình để cứu độ chúng ta và Thiên Chúa đã cho sống lại từ các kẻ chết.
Ngài là suối bẩy nguồn.Với vẻ bề ngoài, xem ra Chúa Thánh Thần tạo ra sự mất trật tự trong Giáo hội, bởi vì Ngài mang đến sự khác biệt các đặc sủng, các ơn; nhưng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần là Thần Khí của hiệp nhất đã dẫn đưa tất cả tới sự hài hòa. Vì Chúa Thánh Thần "chính là sự hài hòa".
Không có sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ không thể sống và thực hiện nhiệm vụ mà Chúa Giêsu phục sinh đã giao phó, là ra đi và làm cho tất cả mọi dân tộc trở thành môn đệ.
Chúng ta hãy xin cùng Chúa Cha, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, ngõ hầu việc cử hành Lễ Trọng Kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, được trở nên như ngọn lửa sốt mến và như luồng gió mạnh cho đời sống kitô hữu và cho sứ mạng của toàn thể Giáo Hội. Amen.
195. Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến. (Ca tiếp liên)
Lời cầu nguyện trên đây được Giáo hội tha thiết dâng lên Thiên Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu để Người đoái thương đổ tràn Thánh Thần xuống trên Giáo hội và trên mỗi người chúng ta.
Hồi tưởng lại thời điểm "sau khi Chúa Giêsu lên trời, Các Tông đồ xuống khỏi núi … trở về Giêrusalem… các ông lên lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện” (x. Cv 1, 12-14). Chuyện gì đã xảy ra khi họ đang cầu nguyện với nhau vậy? “Chính lúc tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên tưng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4). Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống cách uy phong trên các Tông đồ; sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới đã bắt đầu như thế. Chính Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho 11 Tông đồ khi yêu cầu các ngài hãy ở lại chung với nhau để chuẩn bị lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần. Và các ngài họp nhau trong kinh nguyện cùng với Mẹ Maria trong Phòng Tiệc Ly, để chờ biến cố Chúa đã hứa (x. CV 1,14). Họ đã làm như Chúa Giêsu truyền, và hết thảy được đầy Chúa Thánh Thần (x. Cv 2, 4).
Thật là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần được sai phái xuống trên các Tông đồ và tất cả những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng ta có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thien Đàng.
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: "Nơi" mà sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thơ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chua Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Những "Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực" (Gal 5, 22).
Phải khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi" (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: "Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Deus Caritas Est, số 33).
Khi nói đến tác động của Chúa Thánh Thần trên người rao giảng Tin Mừng, Đức Phanxicô viết: " Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo mở lòng ra với tác động của Chúa Thánh Thần mà không sợ hãi. Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Đồ ra khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những việc cao cả của Thiên Chúa, mà mỗi thính giả bắt đầu hiểu theo ngôn ngữ riêng của mình. Chúa Thánh Thần cũng đổ vào chúng ta sức mạnh để loan báo sự mới mẻ của Tin Mừng với sự mạnh bạo lớn tiếng, ở mọi nơi và mọi lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. Chúng ta hãy cầu khẩn Ngài hôm nay, để được thiết lập một cách vững chắc trên cầu nguyện, vì nếu không có cầu nguyện thì mọi hoạt động có nguy cơ trở thành trống rỗng và rốt cuộc lời rao giảng cung trở nên không có hồn. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi". (Trích Tông Huan Niềm Vui Phúc Âm, số 259)
Đức Phanxicô còn nhấn mạnh: Chúa Thánh Thần là linh hồn của việc truyền giáo "Khi chúng ta nói rằng một điều gì có một "tinh thần", thì thường ám chỉ một số động lực bên trong tạo ra một sự thúc đẩy, động cơ, khích lệ cùng làm cho các hành động cá nhân và cộng đồng có ý nghĩa. Một việc truyền giáo đầy Thánh Thần khác xa với một mớ những công tác bị coi như những nhiệm vụ nặng nề mà chúng ta chỉ đơn thuần phải làm, hoặc việc gì bị coi như mâu thuẫn với những xu hướng và ước muốn của chúng ta. Tôi rất ước ao tìm được những lời để cổ võ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui mừng, quảng đại, táo bạo, tràn đầy tình yêu cho đến cùng và một đời sống truyền cảm! Nhưng tôi biết rằng không có động lực nào có thể đủ nếu không có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta. Cuối cùng, truyền giáo với tinh thần là truyền giao với Chúa Thánh Thần, vì Ngài là linh hồn của việc truyền giáo của Hội Thánh". (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 261)
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin Ngài đến canh tân, lay động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh dạn ra khỏi chính mình để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc. Xin Ngài đến đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lưa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!" Amen.
196. Việc làm cản trở Ơn Chúa Thánh Thần
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Có thể nói Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là ngày Sinh nhật của Giáo Hội và cũng là Giáo Hội chính thức lãnh sứ vụ rao giảng Tin mừng cứu độ. Trước ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, ta thấy cái cảnh một môn đệ bán Thầy, môn đệ khác chối Thầy, số còn lại bỏ chạy trốn. Sau ngày Lễ Hiện Xuống, các tông đồ trở nên hăng say, làm chứng cho việc Chúa sống lại và rao giảng Tin mừng cứu độ, mà không còn sợ hãi. Vậy thì cái động lực nào đã khiến có sự thay đổi đó?
Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại: Các tông đồ được đầy tràn Chúa Thánh Thần (Cv 2,4), và tiếp tục rao giảng Lời Chúa cách tự tin (Cv 4,31) và với quyền năng Chúa trao ban, họ làm chứng cho việc Chúa sống lại (Cv 4,33) và làm nhiều phép lạ cho người ta tin tưởng (Cv 5,12). Không những Chúa Thánh Thần biến đổi đời sống các tông đồ, mà còn biến đổi đời sống của những người nghe lời họ giảng dạy. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại: Tất cả mọi kẻ tin đều sống hòa hợp với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ bán tài sản gia nghiệp rồi phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu từng người (Cv 2,44-45). Hằng ngày họ hiệp nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền th (Cv 4,33). Mỗi ngày Chúa cho gia tăng số những người được cứu rỗi (Cv 2,47). Có ngày thêm chừng năm ngàn người gia nhập đạo Chúa (Cv 4,4).
So sánh những hoạt động của Chúa Thánh Thần thời Giáo Hội sơ khai với thời nay, nhiều người tự hỏi: Tại sao Chúa Thánh Thần không làm những việc đại thể trong thời đại ta đang sống? Rồi họ kết luận: Thời đại ta đang sống không phải là thời đại Chúa Thánh Thần. Thiết tưởng hôm nay mỗi người phải loại trừ ra khỏi đầu óc cái quan niệm cho rằng thời đại ta đang sống không phải là thời đại Chúa Thánh Thần.
Trước hết không có chuyện bỏ rằng thời đại nọ là thời đại Chúa Thánh Thần, còn thời đại kia không phải là thời đại Chúa Thánh Thần. Cái thời đại mà người ta cho rằng không phải là thời đại Chúa Thánh Thần là tại người ta chứ không phải tại Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần bao giờ cũng hiện diện trong ta hay xung quanh ta. Nếu ơn Chúa Thánh Thần không thấm nhập vào tâm hồn ta là vì ta đã đóng cửa tâm hồn, không cho Chúa vào hoặc ta làm tắc nghẽn ơn Chúa Thánh Thần ở trong ta. Ta làm cho ơn Chúa Thánh Thần bị sa lầy bằng những chướng ngại vật trong đời sống như khi ta làm việc thờ phượng đạo đức một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ. Ta làm bế tắc ơn Chúa Thánh Thần khi ta chỉ giữ những điều kiện tối thiểu của người Công giáo, khi ta tiếc rẻ thời giờ với Chúa, bủn xỉn và mặc cả với Chúa như: Lạy Chúa, nếu con theo đạo, nếu con làm việc tông đồ, đạo đức, nếu con thế nọ thế kia thì con sẽ được hưởng lợi gì trong đời sống?
Theo kinh nghiệm của những nhà dẫn đàng thiêng liêng thì Chúa không thích lối mặc cảm đó của loài người. Ta cứ làm cho Chúa cách quãng đại, Chúa sẽ bù đắp lại. Ta làm tắc nghẽn ơn Chúa Thánh Thần khi ta phân chia trái tim thành những ngăn ơ khác nhau như một ngăn dành cho công việc làm, một ngăn dành cho việc giải trí, một ngăn dành cho việc ăn uống, một ngăn dành cho việc ngủ nghỉ. Và những ngăn đó thì ta không cho Chúa vào. Còn cái ngăn nhỏ nhất cuối cùng, ta mới dành cho Chúa, cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Một chướng ngại vật nữa làm cản trở ơn Chúa Thánh Thần là tính lười biếng, tham lam, ích kỷ, ghen tương, giận hờn, nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, bịa đặt, vu khống, khoe khoang, tự phụ...
Vậy để ơn Chúa Thánh Thần có thể tác động trong tâm hồn và đời sống, ta cần:
- Loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn.
- Mở nắp đậy để ơn Chúa khỏi bị tắc nghẽn mà tuôn trào vào tâm hồn.
- Khuấy động ơn Chúa Thánh Thần như khuấy một ly cà phê hay sinh tố để có thể uống chất bổ béo.
Ơn Chúa Thánh Thần có thể tác động tâm hồn bất cứ ai miễn là họ biết mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa và cộng tác với ơn Người. Và đó là chính lúc mà ta cảm nghiệm được thời đại Chúa Thánh Thần trong đời sống. Và nếu các thành phần trong Giáo Hội cũng làm như vậy thì ta sẽ có được thời đại Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội.
197. Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng
Thống hối để nhận ơn Chúa Thánh thần
Trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu phán với các môn đệ: Thày ra đi, thì có ích lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thày không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thày đi, Thày sẽ sai Đấng ấy đến với anh em (Ga 16:7). Ta có thể tưởng tượng ra cái tâm trạng của các tông đồ sau khi Chúa về trời. Các ông phải cảm thấy cô dơn và lo sợ. Vì thế họ tụ họp nhau lại trong phòng đóng cửa kín mít, vì sợ người Do thái truy nã tố cáo. Và Mẹ Maria ở giữa họ và cầu nguyện với họ để xin Chúa Thánh thần hiện xuống.
Đọc Thánh kinh, ta thấy có một sự khác biệt nơi các tông đồ trước và sau ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống. Trước lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, người ta thấy cái tình trạng: một môn đệ bán thày, môn đệ khác chối Thày, số còn lại bỏ chạy trốn. Trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, các tông đồ đổi mới hẳn. Các ông hăng say rao giảng tin mừng cứu độ, làm chứng cho viêc Chúa sống lại, mà không còn sợ hãi. Ta tự hỏi có cái động lực nào đã khiến có sự thay đổi đó? Sách Tông đồ Công vụ ghi lại: Ai nấy đều được tràn đày ơn Thánh thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ, tuỳ theo khả năng Thánh thần ban cho (Cv 2:4). Không những Chúa Thánh thần biến đổi đời sống các tông đồ mà còn biến đổi đời sống của những người nghe lời giảng dạy của họ.
Nếu có ai hỏi Chúa Thánh thần lài ai? Đa số ta sẽ được nghe câu trả lời là Ngôi Ba Thiên Chúa với hình chim bồ câu hoặc ngọn lửa. Ngưòi công giáo thường sao lãng việc tôn sùng Chúa Thánh thần. Ta có khuynh hướng lãng quên Ngôi Ba Thiên Chúa vì ta không ý thức được về quyền năng và hoạt động của Chúa Thánh thần. Các tông đồ đã nhận lấy ơn Chúa Thánh thần khi Chúa Giêsu hiện ra với các ông sau khi Người sống lại từ cõi chế. Còn trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống các ông nhận lấy ơn Chúa Thánh thần cách đặc biệt hơn. Cũng một cách tương tự như vậy, người giáo hữu nhận lấy ơn Chúa Thánh thần trong khi chịu Phép rửa tội, nhưng trong ngày lễ Thêm sức, người giáo hữu nhận lấy ơn Chúa Thánh thần cách đặc biệt hơn. Sau khi chịu phép Thêm sức, nếu ta không biết khuấy động hoạt động của Chúa Thánh thần, ta sẽ không có kinh nghiệm về quyền năng của Người.
Có nhiều cách thế để làm cho ơn Chúa Thánh thần tác động trong đời sống. Đây là một cách để khơi động hoạt động của Chúa Thánh thần trong đời sống: đó là tâm tình ăn năn sám hối. Tâm tình ăn năn sám hối là điều kiện tiên quyết để mở lối cho ơn Chúa Thánh thần đến trong tâm hồn. Quan sát sơ, ta cũng thấy trong ly cà phê hay ly nước trái cây sinh tố, cái chất bổ béo thường đọng lại dưới đáy ly. Để có thể uống được chất bổ béo, ta phải khuấy lên. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Sự hiện diện của Chúa Thánh thần được tiềm ẩn trong đáy lòng người tín hữu. Dùng tiếng bình dân ta có thể coi là Chúa Thánh thần ‘ngủ quên’ trong đời sống. Vì thế ta phải đánh thức Chúa Thánh thần dạy, nghĩa là phải khuấy động hoạt động của Chúa Thánh thần.
Trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, dân chúng hỏi các tông đồ: Chúng tôi phải làm gì? (Cv 2:37). Phêrô trả lời: Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh thần (Cv 2:38). Có những người đến bàn chuyện thiêng liêng với linh mục. Lúc đầu họ không coi những việc họ đã làm trong quá khứ là có tội. Khi họ nhận ra đó là tội, họ ăn năn khóc lóc thảm thiết với những giọt lệ sám hối. Sau khi họ nhận được ơn ăn năn hối cải, không ai bảo họ phải đi lễ thờ phượng, không ai phải thúc đẩy họ đọc kinh cầu nguyện, không ai bảo họ phải đọc Thánh kinh, không ai bảo họ phải làm việc từ thiện bác ái. Họ tự ý làm những việc ấy. Ước muốn của họ bây giời là muốn sống đời sống mới trong thánh thần với việc đ¨¢nh giá trị mới cho những giá trị trong đời sống, với việc họ khát khao cho nhu cầu thiêng liêng được toại nguyện, với việc họ xác tín về đức tin, với việc họ ước muốn phục vụ người khác. Cái bậc thang giá trị của họ trước kia là: giá trị vật chất, thứ đến là giá trị tinh thần rồi đến giá trị thiêng liêng. Bây giờ họ đổi ngược lại cái bậc thang giá trị. Họ đặt giá trị thiêng liêng lên hàng đầu, rồi đến giá trị tinh thần, và sau là giá trị vật chất.
198. Thánh Thần, khấn xin hiệp nhất chúng con
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Khi chịu phép Thêm sức, người tín hữu học hỏi về Ngôi Ba Thiên Chúa, về ơn Chúa Thánh linh và những hoạt động của Chúa Thánh thần trong Giáo hội và trong đời sống người tín hữu. Giáo lý công giáo dạy có bảy ơn Chúa Thánh Thần là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông thái, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Thiên Chúa. Đó là những ơn căn bản cần thiết cho đời sống người Ki-tô giáo. Còn có những ơn khác nữa như ơn nhẫn nại, chịu đựng, ơn đơn sơ, hồn nhiên... Thánh Phao-lô trong Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô giải thích là ơn Chúa Thánh thần không chỉ giới hạn nơi các tông đồ mà thôi, nhưng còn được tác động trong nhiều cách thế, nơi nhiều người khác nhau.
Ta thấy ơn Chúa Thánh thần tác động như thế nào trong đời sống của Giáo hội như Thánh Phao-lô chỉ dạy: Có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một thánh thần, có nhiều thứ chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa, có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng hoàn thành mọi sự trong mọi người (1Cr 12:3). Như vậy tất cả các phần tử trong Giáo hội đều đóng những vai trò quan trọng khác nhau và thi hành những phận vụ khác nhau. Ơn Chúa Thanh thần ban cho mỗi phần tử khác nhau là để hợp nhất các phần tử. Và cái dấu chỉ của việc hoạt động tông đồ nhằm mục đích tìm kiếm vinh danh Chúa là cộng tác và ủng hộ hàng giáo sĩ ít là về phương diện tinh thần.
Công Đồng Va-ti-ca-nô II dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh thần đã làm sáng tỏ trong việc giáo huấn là tất cả mọi phần tử của Giáo hội đều được gọi để sống đời thánh thiện và làm chứng nhân của đức tin. Như vậy thì tất cả mọi người đều được gọi để đóng vai trò của mình trong việc hoạt động tông đồ của Giáo hội tuỳ theo khả năng và phương tiện có thể. Cũng như một thân thể có nhiều chi thể: tai, mắt, mũi, miệng, chân tay.. và mỗi chi thể có phận vụ khác nhau. Chi thể nọ cần đến chi thể kia để bổ túc cho nhau và để nhắm lợi ích cho toàn thân. Và cái dụng cụ Chúa dùng trong việc mở mang nước Chúa không chỉ tuỳ thuộc vào cái tài khéo, mưc độ học vấn, hay địa vị xã hội của mỗi người mà thôi, nhưng còn tuỳ thuộc vào quyền năng của Chúa với sự cộng tác của mỗi người với ơn Chúa.
Khi so sánh về những hoạt động của Chúa Thánh thần trong thời Giáo hội sơ khai với đời nay, một số giáo dân nghĩ rằng họ không có đủ tài năng và ân sủng để hoạt động tông đồ. Vì thế họ rút lui vào bóng tối, không muốn xuất đầu lộ diện làm việc tông đồ. Có những người khác nghĩ rằng họ yếu hèn và tộị lỗi nên không muốn hiến thân trong đời sống và thực hành đức tin. Lại có những người khác cho rằng họ phải được Chúa vỗ vai mời gọi làm việc phục vụ nước Chúa. Khi mà Chúa muốn để lại cái ấn tượng sâu xa về quyền năng của Người, Chúa không ngần ngại dùng những dấu hiệu đặc biệt cho ta nhận thấy. Tuy nhiên đối với đa số, thì đức tin đi vào đời sống ta được phát triển một cách từ từ khó nhận ra ngay. Nói cách khác là Thiên Chúa đi vào đời ta một cách âm thầm, lặng lẽ. Ngoài ra còn có những người tự hỏi tại sao Chúa Thánh thần không làm những việc lạ lùng vĩ đại trong thời đại ta đang sống? Để trả lời, ta cần nhận định là Thiên Chúa vẫn làm những công việc lạ lùng vĩ đại trong thời đại ta đang sống miễn là ta biết mở rộng tâm hồn và cộng tác với ơn Chúa và để Chúa làm chủ đời sống.
Khi để Chúa Thánh thần hoạt động trong con người và đời sống, ta sẽ không phân chia trí óc, trái tim thành những ngăn ô khác nhau: một ngăn dành cho công việc làm ăn, một ngăn cho việc giải trí, nghỉ ngơi, ngăn kia cho việc ăn uống... Và những ngăn đó thì ta không mời Chúa vào. Còn ngăn cuối cùng ta dành cho Chúa, cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Để cho ơn Chúa Thánh thần có thể tác động trong đời sống, ta phải đem Chúa vào tất cả mọi ngăn ô và lãnh vực của cuộc sống. Đó chính là điều mà Thánh Phao-lô nói: Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, nhưng là Chúa Ki-tô sống trong tôi (Gl 2:20).
22/05 Làm chứng cho Chúa.
- Viết bởi Ga 21, 20-25
Làm chứng cho Chúa.
Thứ Bảy tuần 7 Phục Sinh.
"Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra".
Lời Chúa: Ga 21, 20-25
Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy". Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết", mà Người chỉ nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con".
Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Lời chứng xác thực
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngoài Đức Giêsu và Phêrô,
còn có người môn đệ được Đức Giêsu thương mến.
Anh đã có mặt trong bữa Tiệc Ly cùng với Phêrô, đã nằm gần Thầy,
và được Phêrô nhờ hỏi Thầy xem ai là kẻ phản bội (13,23-25).
Anh đã đưa Phêrô vào dinh thượng tế khi Đức Giêsu bị bắt (18,15-16).
Anh đã cùng với Phêrô chạy ra ngôi mộ trống lúc ban mai,
nhưng anh chạy nhanh hơn, và tin trước Phêrô (20,3-10).
Khi Phêrô chối Thầy ba lần và không lộ diện nữa (18,17-18.25-27),
thì anh là môn đệ duy nhất đứng gần thập giá Đức Giêsu,
và được Ngài trao Thân Mẫu của mình để làm Mẹ của anh (19:25-27).
Trong lần Đức Giêsu tỏ mình bên bờ hồ Galilê, sau mẻ cá lạ (21,4-7),
anh là người đầu tiên nhận ra Thầy, và nói với Phêrô: “Chúa đó!”
Có vẻ hình ảnh người môn đệ được Chúa thương nổi trội hơn Phêrô.
Dù sao Simon Phêrô đã ba lần tuyên xưng tình yêu trước Thầy,
và ba lần Thầy giao cho anh chăm sóc đoàn chiên như người mục tử.
Thầy còn tiên báo cái chết tử đạo của anh,
và mời anh một lần nữa: “Hãy theo Thầy” (21,19; x. 13,36-37).
Đó là đường đời của Phêrô, một môn đệ và một mục tử.
Nhưng đâu là con đường tương lai của người môn đệ kia?
Phêrô đi theo Đức Giêsu, quay lại, thấy anh này cũng đang đi theo.
“Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” (c. 21).
Đức Giêsu đã không bảo là anh này sẽ không chết,
hay anh còn sống mãi cho đến ngày Ngài quang lâm (c. 23).
Khi cuốn Tin Mừng Thứ Tư được viết xong vào cuối thế kỷ thứ nhất,
thì người môn đệ kia đã qua đời, nhưng không được phúc tử đạo.
Như thế tiếng đồn về câu nói của Đức Giêsu là sai sự thật (c. 22).
Những gì anh để lại cho thế giới là cuốn Tin Mừng Thứ Tư.
“Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra.
Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (c. 24).
Người môn đệ này cho chúng ta một lời chứng đáng tin,
vì anh là người đã sống bên Thầy Giêsu, thật gần gũi.
Anh đã mắt thấy tai nghe, và có kinh nghiệm thân thiết với Thầy.
Không hẳn anh đích thân cầm bút viết cuốn Tin Mừng này,
nhưng anh lại chính là tác giả của mọi điều được viết trong đó.
Tất cả là kinh nghiệm riêng tư anh đã trải qua với Thầy Giêsu,
và những suy niệm lâu dài dưới ánh sáng Phục sinh và Thánh Thần.
Người môn đệ này còn là người sáng lập một cộng đoàn tín hữu.
Cộng đoàn ấy được ám chỉ qua đại từ “chúng tôi” (c. 24; x. 1,14.16).
Một người trong cộng đoàn đã viết chương cuối này (c. 25: “tôi”).
Ai là người môn đệ được Đức Giêsu thương mến?
Nhiều người nghĩ anh là Gioan, nhiều người lại nghĩ khác.
Dù sao anh thật là một môn đệ lý tưởng cho chúng ta.
Điều anh để lại cho đời trong cuốn Tin Mừng là điều anh xác tín.
Anh là nhân chứng đáng tin cậy của Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Đúng anh là người được Thầy yêu và là người đã hết lòng yêu Thầy.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa của đời con,
chỉ trong tình yêu con mới tìm thấy Chúa.
Trong tình yêu, các cánh cửa hồn con mở tung,
để con được thở không khí tự do tươi mới
và quên đi cái tôi nhỏ mọn của mình.
Trong tình yêu, toàn bộ con người con vươn ra khỏi
những ranh giới cứng nhắc của óc hẹp hòi
và của thái độ tự khẳng định đầy bất an
khiến con bị giam mình trong sự nghèo nàn và trống rỗng.
Trong tình yêu, mọi sức mạnh của hồn con tuôn chảy về Chúa,
chẳng bao giờ còn muốn quay trở lại,
nhưng chỉ muốn mất mình trọn vẹn trong Chúa,
vì qua tình yêu, Chúa là trung tâm sâu nhất của lòng con,
Chúa gần con hơn cả chính con gần con.
Nhưng khi con yêu Chúa,
khi con tìm cách phá vỡ vòng vây chật hẹp của cái tôi, và vứt bỏ sau lưng
nỗi khắc khoải không nguôi về những câu hỏi còn bỏ ngỏ,
khi đôi mắt mù lòa của con không còn chỉ nhìn từ xa và từ bên ngoài
ánh rạng ngời không thể lại gần được của Chúa,
và hơn nữa, lạy Chúa là Đấng vô phương thấu hiểu,
khi qua tình yêu, Chúa trở nên trung tâm sâu nhất của đời con,
khi ấy con mới có thể chôn mình hoàn toàn trong Chúa,
lạy Thiên Chúa nhiệm màu,
và chôn mọi câu hỏi của con cùng với con. Amen. (Karl Rahner, S.J.)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: LỜI BAN SỰ SỐNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Câu kết thúc Phúc Âm thánh Gio-an khiến ta ngạc nhiên: “Còn có nhiều điều khác Chúa Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra”.
Chúa Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa. Ngôi Lời Thiên Chúa vốn toàn năng toàn tri toàn thiện và phổ quát. Nhưng Ngôi Lời Nhập Thể tự nhận những giới hạn của con người. Lời Thiên Chúa thì vô hạn. Ngôn ngữ con người thì hữu hạn. Lời hữu thanh chẳng diễn tả hết ý vô thanh. Thánh Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa. Đã nghe được nhịp đập của trái tim Chúa. Đã nghe được lời vô thanh của Thiên Chúa. Đã hiểu được lời vô hạn của Thiên Chúa. Đã ôm ấp Lời Thiên Chúa cao sâu muôn trùng, mênh mông vô biên, trời đất chứa chẳng nổi.
Thánh Phao-lô cũng là người nghe được lời vô hạn, vô thanh, vô ngôn của Thiên Chúa. Ngài đã được đưa lên tầng trời thứ ba. Đã được Thiên Chúa trực tiếp dậy dỗ. Và đã hình thành một Tin Mừng riêng biệt của mình. Tin Mừng đầy ắp trong tâm hồn khiến ngài bị thúc bách nói ra: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”(1Cr 9,16). Vì thế ngài rao giảng không ngừng. Chờ thụ án tử hình vẫn rao giảng. Rao giảng cho đến hơi thở cuối cùng.
Như thế Phúc Âm không phải là một quyển sách nhưng là một cuộc gặp gỡ. Có bao nhiêu cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su là có bấy nhiêu Phúc Âm.
Theo lời truyền khi thánh Gioan về già, không thể nói nhiều. Mỗi lần tín hữu tụ tập lại, người ta khiêng ngài ra. Ngài chỉ giảng một câu: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Ngài giảng mãi câu ấy không biết chán. Giáo dân nghe câu ấy suốt đời không biết mệt. Vì lời hữu hạn của con người đã gặp Chúa, có sức chuyên chở nội dung sức sống vô biên của Lời Thiên Chúa.
Ở đây nữa ta thấy sự sâu xa của Lời Thiên Chúa vô hạn đối nghịch với lời hữu hạn của con người. Chỉ một Lời Thiên Chúa ngắn ngủi lại tràn đầy sức sống, tràn đầy ý nghĩa và làm say đắm lòng người hơn nhiều bài giảng dài dòng, huyên thiên, vô nghĩa trong lời hữu hạn của con người.
SUY NIỆM 3: Làm chứng cho Chúa.
Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu nhàm chán trên bàn giấy. Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.
Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Tuy nhiên, chết đau thương nhục nhã hoặc chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, nghĩa là chấp nhận những thử thách bách hại và cái chết trên thập giá để làm chứng cho Chúa. Còn Gioan, vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến lại làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Gioan tuy không được phúc tử đạo như các Tông đồ khác, nhưng đã sống một thời gian rất dài, để củng cố niềm tin của các tín hữu tiên khởi nhất là để suy niệm và viết cuốn Tin mừng thứ tư và ba lá thư. Tất cả đều là những cách thức làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại là Chúa Giêsu Kitô.
Lịch sử Giáo Hội từ đầu cho đến nay là cả một cuốn sách về những chứng từ khác nhau: bằng lời nói, bằng đau khổ, bằng hy sinh, bằng công việc từ thiện… mỗi người một cách, mỗi thời đại một cách tuỳ ở Chúa Thánh Thần soi sáng, nhưng tất cả là để giới thiệu tình yêu Chúa cho mọi người để mọi người hưởng nhờ ơn cứu độ.
Chắc chắn, không phải tất cả chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng cái chết vì đạo, nhưng chúng ta có thể làm chứng bằng chính cuộc sống của chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức phần đóng góp của chúng ta cho kho tàng phong phú của Giáo Hội qua những hy sinh âm thầm từng ngày, để làm cho mọi người nhận biết tình yêu Chúa và trở về cùng Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Về thánh Gioan
Thánh Gio-an lúc bảy mươi tuổi bắt đầu viết Tin mừng làm chứng về Đức Giêsu. Hôm nay, Ngài ký vào lời chứng này.
Ngôn từ cuốn Tin mừng này đôi khi khó hiểu, bí ẩn, sâu kín, mang lại kinh nghiệm dày dạn sâu lắng của đời sống Kitô giáo, đời sống phục sinh. Ngài truyền lại cho chúng ta kiến thức về Đức Kitô sau khi đã cầu nguyện, suy niệm lâu dài mãi tới già.
Mấy tuần mùa phục sinh Ngài loan báo cho chúng ta Tin mừng về: sự tái sinh bởi Thánh Thần, chia sẻ bánh hằng sống, niềm hy vọng phục sinh, tiếp nhận mục tử tốt lành, ban Thánh Thần, thánh Gio-an giới thiệu chúng ta vào hiệp thông với Chúa Cha. Hơn nữa, ngài còn xác định về những đòi hỏi phải theo Đức Kitô: Sự cần thiết phải tin, nhận lãnh những dấu chỉ, đức tin vào lời chứng về Đức Kitô, trông cậy vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
Đến lượt, chúng ta cần cảm nghiệm sâu sắc về đời sống của Đức Kitô. Nhờ thế, chúng ta là nhân chứng về những sự kiện cao cả của Thiên Chúa trong lịch sử lúc này. Lời chứng của chúng ta rất cần cho thế gian. Mỗi người trong chúng ta, tùy theo cách thức và đặc sủng của mình, phải loan báo Tin mừng đã sống thực trong đáy lòng con tim chúng ta.
Mỗi người chúng ta phải lớn tiếng rao giảng lời chứng của mình về Đức Kitô hàng ngày. Lời rao giảng Tin mừng trong phụng vụ được các tông đồ truyền lại cho chúng ta, giúp chúng ta làm sống lại lời Tin mừng đến tận các bàn giấy, các nhà máy, và các gia đình.
Chúng ta không nên đợi những người khác bắt đầu sống theo Đức Kitô, rồi chúng ta mới bắt đầu thi hành ý Người. Hãy nhờ chính lời của Người nói với Phê-rô: “Dù Thầy muốn cho người ấy cái gì, dù Thầy định cho những người khác thế nào, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Tôi”.
CG.
SUY NIỆM 5: Làm chứng tá cho tình yêu
Hôm nay chúng ta lắng nghe phần đoạn kết trong sách Phúc Âm của thánh Gioan tông đồ, chỉ có ba nhân vật được kể đến trong phần cuối của Phúc Âm này là Chúa Giêsu, Phêrô và Gioan.
Qua những lời đối thoại với Phêrô, Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng Ngài đã chọn mười hai vị tông đồ và trao phó cho mỗi người một sứ mạng khác nhau. Phêrô và Gioan vì thế cũng có sứ mạng khác biệt nhau. Nếu như Phêrô được chọn để chăn dắt đàn chiên của Chúa và trung thành với các sứ vụ bằng cái chết tử đạo, thì vai trò của Gioan là làm chứng tá cho Chúa Giêsu bằng Phúc Âm.
Gioan được ơn sống lâu để chiêm niệm một cách sâu xa hơn về mầu nhiệm nhập thể làm người và phục sinh của Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Vì thế mà Gioan kết thúc Phúc Âm của mình bằng sự xác quyết: "Còn có nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều một thì tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra". Qua lời kết thúc này Gioan cho thế gian hiểu rằng quyền năng của Chúa Giêsu không bao giờ cạn, hồng ân của Ngài thì vô cùng, sự khôn ngoan của Ngài thì không ai có thể đối chọi lại được, và tình yêu của Ngài thì vô biên.
Trong lịch sử Giáo Hội suốt hai mươi thế kỷ nay, Thiên Chúa cũng vẫn liên tục kêu gọi nhiều người và ban cho họ những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống mãn đời trên trần thế. Họ là các thánh nam nữ đã được Thiên Chúa lựa chọn và trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở những thời kỳ và hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị được gọi để trở thành các giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh. Các ngài dùng ngòi bút và trí thông minh để rao giảng Phúc Âm và đem ánh sáng Lời Chúa đến cho mọi người. Những vị khác thì được ơn gọi sáng lập các dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt động truyền giáo trong nhiều lãnh vực khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt nhưng đều mang ý nghĩa và tầm mức quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào cùng một mục đích duy nhất là làm chứng tá cho chân lý và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh của đức tin và ngọn lửa của tình yêu, để chúng con can đảm và hăng say làm chứng tá cho tình yêu và chân lý của Chúa giữa thế gian. Xin Chúa cũng luôn hiện diện để giúp chúng con trung thành với ơn gọi và sứ mạng do Chúa giao phó, nhất là trong những lúc đứng trước các cơn bão táp của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: CẢM NGHIỆM VÀ LÀM CHỨNG (Ga 21, 20-25)
Trên các trang báo điện tử thời gian gần đây đăng tin:
Một nữ tu “cháy hết mình” trên sân khấu The Voice của Ý.
Nữ tu đó chính là Cristina Scuccia, 25 tuổi, thành viên của Dòng các chị em Ursuline Thánh Gia. Chị đã xuất hiện trên sân khấu của chương trình The Voice tại Ý. Khi sơ xuất hiện, các giám khảo và mọi người thật sự ngỡ ngàng khi thấy trang phục của thí sinh đặc biệt này.
Khi các giám khảo quay lại nhìn sơ Cristina, họ đã không tin vào mắt mình khi thấy một nữ tu trẻ đang hát “No One”, bài hát ruột của Alicia Keys.
Sau khi nghe sơ Cristina hát, Carra là một trong 4 vị giám khảo đã hỏi sơ có thật là một nữ tu không và tại sao sơ chọn tham gia cuộc thi này?
“Vâng, tôi đích thực là một nữ tu,” sơ Cristina trả lời.
“Tôi đến đây bởi vì tôi có một món quà và tôi muốn chia sẻ món quà đó. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng”.
Thánh Gioan hôm nay hiện lên trên trang Tin Mừng như một người chứng về tất cả những gì ngài đã viết trong Tin Mừng của mình về Đức Giêsu. Ngài đã trở nên chứng nhân cho tất cả những gì đã viết là bởi vì ngài đã được ở với Đức Giêsu, được nghe lời dạy, và cảm nghiệm được tình yêu đặc biệt mà Thầy đã dành cho mình. Như vậy, muốn hiểu phải yêu, và khi đã yêu thì phải làm chứng và lời chứng của người đó mới thật.
Như vậy, phụng vụ hôm nay muốn mời gọi chúng ta rằng: hãy yêu mến Chúa tha thiết, lắng nghe lời Ngài và hãy trở nên chứng nhân cho Đức Giêsu đến tận cùng trái đất.
Tuy nhiên, không có một mẫu số chung nào cho mọi người, vì thế, mỗi người mỗi cách, miễn sao cho Tin Mừng được loan báo và hợp với tinh thần của Giáo Hội.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng, để từ đó cũng sẵn sàng trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng cách sống động trong cuộc sống hiện tại của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Ơn gọi theo Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đời mỗi người Kitô hữu là một ơn gọi theo Chúa. Ta hãy đáp lại ơn gọi yêu thương đó tùy theo bậc sống trong hoàn cảnh riêng của mình, với niềm phó thác cậy trông vào Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, tất cả mọi người được kêu gọi để theo Chúa. Có những bậc sống khác nhau. Trong mỗi bậc sống đó lại có từng hoàn cảnh khác nhau. Mỗi người là mỗi phận. Chúa như đang cầm tay từng phận người mà dắt đi theo Chúa. Chúa đang nói với mỗi người chúng con: “Phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa đang dẫn con đi theo Chúa bằng lối đi Chúa dành riêng cho con.
Khi Thánh Phêrô hỏi Chúa về số phận của Thánh Gioan, Chúa đã nói với Thánh Phêrô: “Việc đó liên quan gì đến con, phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa không bảo con đừng quan tâm đến anh chị em quanh con. Khi thấy anh em cần nâng đỡ đức tin, Chúa muốn con chạy tới đóng vai bàn tay của Chúa để đỡ nâng họ. Con sẽ đỡ nâng bằng gương sáng, bằng một lời động viên, bằng một lời nhắc nhở, và nhất là bằng những lời cầu nguyện. Rồi khi con gặp thử thách, con tin Chúa sẽ lại dùng anh chị em quanh con thay mặt Chúa mà ủi an, động viên con.
Tuy nhiên, Chúa muốn nói với riêng con: “Phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa dạy con đừng phân bì ghen tỵ. Xin Chúa đừng để con so sánh phận mình với phận người mà chùn bước chân theo Chúa. Con biết mỗi đời người là một mầu nhiệm trong tình yêu quan phòng của Chúa. Mỗi đời người là một cuộc tình riêng với Chúa. Mỗi đời người đều có đủ thánh giá để vác theo Chúa. Đồng thời mỗi đời người đều được Chúa ban đủ niềm vui và ân sủng để theo Chúa cho nên: “Ơn Ta đủ cho con”.
Xin cho con vui với phận mình và tin tưởng bước theo Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra”.
SUY NIỆM 8: Được mời gọi trở nên chứng nhân
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ngày kia, Voltaire nói với một người bạn: “Để lập Kitô giáo, chỉ cần mười hai tên ngư phủ quê mùa, dốt nát. Tôi sẽ cho thế giới thấy rằng chỉ cần một người Pháp cũng đủ tiêu diệt tôn giáo đó”.
Với ý đồ đó, ông phản bác cả Isaac Newton. Newton dựa vào sách Daniel 12,4 và Nahum 2,4 tiên đoán rằng: Một mai, con người có thể di chuyển với tốc độ kỳ diệu là 40 dặm trong một giờ. Voltaire bảo: “Hãy xem Kitô giáo điên rồ đã đầu độc một người thông thái như Newton đến cỡ nào! Ông không biết rằng một người chạy 40 dặm 1 giờ sẽ nghẹt thở, vỡ tim mà chết hay sao?”.
25 năm sau khi Voltaire qua đời, căn nhà của ông được bán cho Hội Thánh Kinh Geneva và trở thành kho lưu trữ Thánh Kinh. Còn chiếc máy in của ông cũng được dùng để in Thánh Kinh!
Suy niệm
Tông đồ Gioan là “môn đệ Chúa Giêsu thương mến” (Ga 13,23; 19,26; 20,2; 21,7), người đã ngả đầu vào ngực Chúa trong bữa Tiệc ly (x. Ga 13,23.25) như là biểu tượng của tình yêu gắn bó với Thầy.
Được gắn bó sâu sắc với Thầy, Gioan có được đức tin mạnh mẽ cho con đường đặc biệt mà Thầy chuẩn bị và muốn ông đi: Không đổ máu làm chứng cho Chúa dù đã kề cận bên cái chết tử đạo: Người bị cầm tù ở Rôma, còn bị ném vào trong một vạc dầu sôi, nhưng Thiên Chúa gìn giữ ông được bình an vô sự. Sau đó, Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải huyền chứa đầy những lời tiên tri.
Theo ý muốn của Chúa Giêsu, Gioan đã đi trên con đường khác với các anh em tông đồ: rao giảng Tin Mừng ở các giáo đoàn bên Tiểu Á, tận dụng hết mọi khả năng, mọi điều kiện Chúa cho để đào sâu Lời Chúa. Khi đã 99 tuổi, thánh Gioan mới viết sách Tin Mừng thứ tư với đức tin thật vững chắc được chuẩn bị và nuôi dưỡng bằng tình yêu. Gioan đã loan báo Tin Mừng cả tâm hồn đầy xác tín, như ông đã nói: “Điều chúng tôi đã được tai nghe, điều chúng tôi đã nhìn tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời hằng sống” (1Ga 1,1) như ông đã xác định cuộc đời của mình: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật…” (Ga 21,24-25).
Ngoài Tin Mừng thứ tư và sách Khải huyền, Gioan còn là tác giả của ba thư. Tư tưởng của ông trình bày cho chúng ta thấy Thiên Chúa chính là tình yêu và chúng ta chỉ thực sự trở nên Kitô hữu nếu chúng ta biết thương yêu nhau. Tông đồ Gioan đã trao cho nhân loại bài học lớn lao về tình yêu, nhờ đó chúng ta cảm thấy được Chúa Kitô yêu thương “cho đến cùng” (Ga 13,1) và sống cuộc đời vì Người.
Trong mỗi thời đại, ở mỗi xã hội khác nhau luôn cần có những chứng nhân, trách nhiệm khác nhau. Thiên Chúa luôn cần đôi tay, trái tim, khả năng của chúng ta để tiếp tục sự hiện diện và hành động của Ngài. Có người làm chứng bằng máu, có người bằng sự dấn thân đổ mồ hôi, có người chứng nhân bằng nghĩa cử hy sinh phục vụ, có những chứng nhân trong âm thầm cầu nguyện…
Mỗi chúng ta được mời gọi trở nên một trong số chứng nhân đó. Chúa đang cần sự đóng góp của chúng ta.
Ý lực sống:
“Vì vui riêng, Người đã làm tôi bất tận.
Thân này thuyền nhỏ mong manh đã bao lần người tát cạn
rồi lại đổ đầy cuộc sống mát tươi mãi mãi” (Tagore, Lời Dâng #1).
SUY NIỆM 9: Gioan sẽ là chứng tá trong Hội thánh
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Kết thúc mùa Phục sinh, Phụng vụ cho chúng ta thấy Phêrô đã nhận chức vụ Mục Tử thay thế Chúa Kitô, Gioan là chứng tá thường trực trong Hội thánh.
Bài Tin Mừng hôm nay là bài kết thúc Tin Mừng thánh Gioan, trình bầy về Gioan sẽ là chứng tá thường trực trong Hội thánh Chúa cho đến tận thế qua sách Tin Mừng của ông.
2. “Thưa Thầy, còn anh này thì sao”?
Phải chăng khi Phêrô thắc mắc về Gioan như vậy là ông ngầm nói với Thầy mình rằng anh Gioan cũng mến Thầy và được Thầy yêu cách riêng, thì sao? Nghĩa là Thầy sẽ trao cho anh ta nhiệm vụ gì? Hay tại sao Thầy lại không trao trách nhiệm chăn dắt Hội thánh cho anh ta có phải hơn không? Đó cũng là thắc mắc của nhiều người khi đọc Tin Mừng Gioan, bởi vì xem ra Gioan xứng đáng hơn Phêrô, vì ông đã không chối Chúa.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu không trả lời thẳng vào thắc mắc của Phêrô mà lại nói khó hiểu hơn đối với Phêrô cũng như các môn đệ khác: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến anh”, rồi Chúa nói ngay: “Phần anh, hãy theo Thầy”.
3. “Nếu Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho đến khi Thầy đến...”.
Câu này là câu vừa trả lời vừa là câu hỏi rất khó hiểu. Thực ra, ý Chúa Giêsu không nói là Gioan sẽ sống mãi không chết, nhưng Chúa muốn Gioan “ở lại”. Phải hiểu chữ “ở lại” này theo nghĩa của Tin Mừng thứ tư: ở lại là tồn tại mãi trong tình yêu mến, trong sự thân thiết. Dù sau này Gioan sẽ chết đi nhưng Chúa Giêsu muốn hình mẫu của Gioan như một môn đệ trung thành đi theo Thầy, như một môn đệ thường suy gẫm về Thầy tiếp tục tôn tại mãi trong Giáo hội (Lm Carôlô).
4. “Chính người môn đệ này làm chứng về những điều đó”.
Nghĩa là vì Chúa muốn hình mẫu của Gioan còn tồn tại mãi trong Giáo hội như một cách làm chứng, cho nên Gioan đã làm chứng bằng cách viết lại những cảm nghiệm, những suy gẫm của mình về Chúa Giêsu. Và Gioan còn cho biết: “Tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các điều được viết ra”. Có lẽ không phải thế giới không đủ chỗ chứa những sách mà Gioan nếu muốn viết ra. Không đủ chỗ chứa là đối với những cảm nghiệm và những suy gẫm rất sâu sắc của Gioan về mầu nhiệm Chúa Giêsu và về những điều Chúa Giêsu dạy (Carôlô).
5. Trong lịch sử Giáo hội suốt hai mươi thế kỷ nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi nhiều người và ban cho họ những ân sủng đặc biệt để sống mãn đời trên trần thế. Họ là các thánh nam nữ đã được Thiên Chúa lựa chọn và trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở những thời kỳ và hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị được gọi để trở thành các giáo phụ và tiến sĩ Hội thánh. Các ngài dùng ngòi bút và trí thông minh để rao giảng Phúc âm và đem ánh sáng lời Chúa đến cho mọi người. Những vị khác thì được ơn gọi sáng lập các dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt động truyền giáo trong nhiều lãnh vực khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt nhưng đều mang ý nghĩa và tầm mức quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào cùng một mục đích duy nhất là làm chứng tá cho chân lý và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.
6. Như vậy, trong mỗi thời đại, ở mỗi xã hội khác nhau luôn cần có những chứng nhân, trách nhiệm khác nhau. Thiên Chúa luôn cần đôi tay, trái tim, khả năng của chúng ta để tiếp tục sự hiện diện và hành động của Ngài. Có người làm chứng bằng máu, có người bằng sự dấn thân đổ mồ hôi, có người làm chứng bằng nghĩa cử hy sinh phục vụ, có những chứng nhân trong âm thầm cầu nguyện.
Mỗi người chúng ta được mời gọi trở nên một trong số chứng nhân đó. Chúa đang cần sự đóng góp của chúng ta.
7. Truyện: Làm chứng cho Chúa.
Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu nhàm chán trên bàn giấy. Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.
Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Tuy nhiên, chết đau thương nhục nhã hoặc chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, nghĩa là chấp nhận những thử thách bách hại và cái chết trên thập giá để làm chứng cho Chúa. Còn Gioan, vị Tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến lại làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Gioan tuy không được phúc tử đạo như các Tông đồ khác, nhưng đã sống một thời gian rất dài, để củng cố niềm tin của các tín hữu tiên khởi, nhất là để suy niệm và viết cuốn Tin Mừng thứ tư và ba lá thư... Tất cả đều là những cách thức làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại là Chúa Giêsu Kitô (Mỗi ngày một tin vui).
21/05 Cơ hội thứ hai
- Viết bởi Ga 21, 15-19
Cơ hội thứ hai.
Thứ Sáu tuần 7 Phục Sinh.
“Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy”
Lời Chúa: Ga 21, 15-19
Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.
Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.
Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Hãy theo Thầy
Suy niệm:
Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay diễn ra bên bờ hồ,
một cái hồ mang nhiều tên gọi: hồ Galilê, hồ Ghennêxarét, hồ Tibêriát.
Cái hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm giữa Thầy và trò.
Nơi đây tiếng gọi đầu tiên của Thầy Giêsu đã vang lên: Hãy theo Thầy.
Tiếng ấy đã khiến họ từ bỏ nghề sông nước
để lên bờ, đi theo ông thợ mộc làng Nazareth.
Bao lần Thầy trò đi qua cái hồ rộng như biển này.
Sóng gió họ cũng đã gặp, vui buồn họ cũng đã từng.
Sáng sớm hôm nay, trên hồ này họ đánh được mẻ cá lớn,
nhờ một người lạ đứng trên bờ mà họ từ từ nhận ra là Thầy của mình.
Bữa ăn sáng do Thầy chuẩn bị thật chu đáo.
Có bánh và cá, có cả đống than hồng hong ấm tình Thầy trò.
Ngọn lửa này gợi nhớ đến đống than hồng ở dinh Thượng tế,
nơi Phêrô đã đứng sưởi và đã chối Thầy (Ga 18, 18. 25).
Bây giờ, cũng bên đống than hồng,
Thầy Giêsu cho Phêrô có cơ hội công khai bày tỏ tình yêu của mình.
“Anh có yêu mến Thầy không?”: ba lần Thầy Giêsu hỏi Phêrô như thế.
“Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”: ba lần Phêrô trả lời như thế.
Ba lần chối Thầy như được xóa đi bởi ba lần tuyên xưng tình yêu.
Nhưng bây giờ Phêrô khiêm tốn, biết tình yêu của mình mong manh, dễ vỡ.
“Hãy chăn dắt chiên của Thầy”: ba lần Thầy Giêsu đã nói như thế.
Tình yêu dẫn đến sứ mạng chăn dắt đoàn chiên mà Thầy quý chuộng.
Phải yêu Thầy thì mới yêu chiên của Thầy.
Yêu Thầy là điều kiện để được Thầy trao sứ mạng mục tử.
Làm mục tử là tiếp nối công việc của Thầy Giêsu, Mục tử nhân hậu,
nên cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết như Thầy (cc. 18-19),
chết cho đoàn chiên, chết để tôn vinh Thiên Chúa (c. 19).
“Hãy theo Thầy”, lời mời năm xưa cũng là lời mời được lặp lại bây giờ.
“Hãy theo Thầy”, sau những vấp ngã, yếu đuối và chối Thầy.
“Hãy theo Thầy”, sau khi những giấc mơ trần tục bị tan vỡ bởi biến cố Núi Sọ.
“Hãy theo Thầy”, sau những hăng hái nồng nhiệt thuở ban đầu.
“Hãy theo Thầy” để giang tay ra và đến nơi mình không muốn đến.
“Hãy theo Thầy” để củng cố anh em và chăn dắt chiên của Thầy (Lc 22, 31-32).
Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh cũng hỏi từng Kitô hữu:
Con có mến Thầy không?
Và Ngài chờ một câu trả lời trước khi trao sứ mạng,
vì ai trong chúng ta cũng có sứ mạng chăm sóc một nhóm người nào đó.
Xin ơn yêu Giêsu bằng tình yêu thiết thân riêng tư.
Xin ơn theo Ngài vì nghe thấy lời mời gọi vang lên mỗi ngày: Hãy theo Thầy.
Và xin ơn dám sống hết mình cho những người được Chúa trao phó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện
với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con
giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con sống thực tế,
nhưng không thực dụng;
biết xoay xở nhưng không mưu mô;
lo cho tương lai cá nhân,
nhưng không quên
bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con
biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: YÊU MẾN HƠN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hai người tiền phong. Phê-rô và Phao-lô. Đá Tảng và Trụ Đồng nâng đỡ Giáo hội. Hai tông đồ trưởng. Hai tâm hồn ưu tuyển. Với chỉ một điều kiện: Yêu Mến Hơn.
Chúa Giê-su hỏi Phê-rô: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không”? Đây là lời mời gọi thứ hai. Cách lời mời gọi đầu khoảng 3 năm. Lời mời gọi đầu khi Chúa Giê-su khởi sự đời công khai. Khi Phê-rô còn bồng bột hăng say. Chúa mời gọi ông hãy đi chinh phục: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ lưới người như lưới cá”. Và Phê-rô hăng say đáp trả: “Dù mọi người bỏ Thầy, con quyết không bỏ Thầy”.
Hôm nay lời mời gọi đi vào chiều sâu: Con có yêu mến Thầy hơn những anh em này không? Chúa cần tình yêu. Tình yêu là đủ. Và Chúa trao nhiệm vụ mới. Không phải đi chinh phục. Nhưng quan tâm chăm sóc đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Phê-rô thưa lại. Tuy không bồng bột hăng say. Nhưng đầy quyết tâm và sâu lắng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Sau tất cả những gì đã trải qua, lời đáp trả thật sự sâu lắng, vững chắc, nhưng cũng đầy khiêm tốn. Chúa cũng không úp mở hứa hẹn. Thẳng thắn báo trước cái chết. Nhưng Phê-rô vẫn cương quyết bước theo. Đó chính là tình yêu đã lớn manh. Đã yêu mến hơn.
Thánh Phao-lô cũng đi trên con đường yêu mến hơn. Từ khi được biết Chúa, ngài yêu mến. Đến nỗi cùng chịu đóng đinh với Chúa. Để từ nay không còn sống cho chính mình nữa. Chỉ sống cho Chúa. Để Chúa sống trong ngài. “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách” ngài. Khiến ngài ra đi không ngừng nghỉ. Rao giảng trở thành lẽ sống. “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Biết chắc “xiềng xích và Thánh Thần đang chờ đợi”, nhưng ngài luôn hiên ngang tiến bước. Chỉ ước mong được hi sinh cho Chúa và cho anh em: “Tôi hoàn thành nơi thân xác tôi những cực hình còn thiếu sót nơi cuộc khổ nạn của Chúa. Hầu sinh ơn ích cho Giáo hội”.
Hôm nay Chúa đang cần những tâm hồn yêu mến hơn. Chúng ta có quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa không? Hôm nay Chúa cũng muốn hỏi tôi: “Con có yêu mến Thầy hơn những anh em này không”? Tôi đáp lại thế nào?
SUY NIỆM 3: Cơ hội thứ hai.
Trong một cuộc phỏng vấn, khi những người trung niên và lớn tuổi được hỏi về những năm tháng đã qua của cuộc đời mình, họ có hối tiếc gì không, và nếu có cơ hội thứ hai, họ sẽ quyết định như thế nào. Một số người cho biết, họ vẫn làm những gì họ đã chọn lựa. Ngược lại, một số đông cho biết họ đã chọn lựa sai ở một số thời điểm quyết định sự thành bại, và nếu bây giờ có cơ hội thứ hai, họ sẽ chọn lựa khác hẳn.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta chứng kiến việc Chúa Giêsu trao ban cho Phêrô cơ hội thứ hai. Thật thế, trong Bữa Tiệc ly trước khi chịu khổ hình, Chúa Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ: “Tất cả các con sẽ bị vấp ngã vì Ta trong đêm nay”. Nghe thế, Phêrô phản đối và quả quyết: “Cho dù tất cả vấp ngã vì Thày, con sẽ không vấp ngã bao giờ”, nhưng rồi chỉ vài giờ sau đó ông đã nhát đảm chối Thày đến ba lần. Giờ đây, sau khi Phục sinh. Chúa Giêsu đã gặp riêng Phêrô và cho ông cơ hội thứ hai. Chúa hỏi: “Simon, con của Giona, con có mến Ta hơn những người này không?. Phêrô không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: những giọt lệ thống hối chân thành sau khi chối Thày đã không đủ để minh chứng mình yêu mến Thày sao? Nhưng Phêrô đã học được bài học của quá khứ, nhất là bài học khiêm nhường cần thiết để lãnh nhận ơn cứu rỗi mà nhóm Biệt phái không thể lãnh nhận được vì tự cao tự đại. Phêrô đã thưa: “Lạy Thày, Thày biết rõ mọi sự, Thày biết con yêu mến Thày”. Ba lần hỏi dẫn đến ba câu trả lời cùng một nội dung, nhưng không phải là để bù đắp cho ba lần chối Thày trước đây, mà là một đòi hỏi tiên quyết là tuyên xưng lòng yêu mến. Sau đó, Chúa đã trao cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội, Phêrô đã sống đến tận cùng cơ hội thứ hai và đã sẵn lòng chết vì niềm tin của mình.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng cho chúng ta cơ hội thứ hai, không phải một lần mà là nhiều lần. Điều quan trọng là chúng ta phải thành tâm nhìn nhận tội lỗi, xin ơn tha thứ và bắt đầu lại. Do đó mối hiểm nguy là do chúng ta tự định giới hạn cho lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, mà không xin Ngài một cơ hội khác. Đó là sự khác biệt giữa Giuđa và Phêrô: Cả hai đã phản bội Thày trong cùng một ngày, nhưng Giuđa không xin cơ hội thứ hai nên đã thất bại, còn Phêrô đã tận dụng cơ hội được ban cho và đã toàn thắng.
Ước gì lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá ra lòng nhân từ vô biên của Chúa, để chúng ta luôn khiêm nhường chỗi dậy sau mỗi lần sa ngã, và xin Chúa ban cho chúng ta trung thành với ơn Chúa cho đến cùng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Lãnh trọng trách
Mùa phục sinh sắp hoàn tất. Suốt mùa, chúng ta được Đức Kitô giáo huấn. Lời Người rao giảng cho chúng ta mỗi ngày giúp chúng ta gắn bó hơn với Người trong cuộc đời Kitô hữu đã rửa tội và được sống lại.
Sau phần giáo huấn của Đức Kitô, có lẽ chúng ta sẵn sàng gắn bó sâu hơn với Người. Nhận biết như Chúa là luôn luôn tiến sâu nữa. Hôm nay, chúng ta sẵn sàng trả lời những câu hỏi của Đức Giêsu như thánh Phê-rô đã đáp lời Người: “Si-mon, con ông Gio-na, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Anh đã học biết Thầy, Thầy đã giới thiệu anh với Cha Thầy, bây giờ anh biết kế hoạch cứu độ loài người, Thầy yêu anh, Thầy đã tha thứ cho anh: vậy “Anh có mến Thầy không?”
“Thưa Thầy, Thầy biết con mến Thầy”, ba lần Phê-rô đã quyết hứa lòng mộ mến Thầy. Tuy nhiên, Đức Giêsu không dừng lại đây, Người nhấn mạnh Phê-rô phải lãnh trọng trách đối với những người khác: “Để chứng tỏ anh mến Thầy là anh phải yêu mến anh em”. Thánh Gio-an đã quả quyết: “Ai quả quyết mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối?”.
Lãnh trọng trách còn đi xa hơn nữa: mỗi lần gắn bó với ai, luôn luôn hy sinh sức khỏe, tự ái, tự do của mình cho người ấy: “Anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn đến”.
Tình yêu Đức Giêsu luôn luôn kêu gọi ta từ bỏ, hy sinh đến chết. Yêu người khác đến độ trở nên tôi tớ để làm theo ý muốn của họ, đáp lại mọi ước ao của họ. Tình yêu phải chịu lệ thuộc.
Chúng ta đã được Đức Giêsu giáo huấn, được Ngài dẫn vào hiệp thông với Chúa Cha. Chúng ta đã học yêu mến Chúa. Bây giờ chúng ta hãy chọn: chúng ta có biết tự giữ lấy mọi lời đó cho mình không? Tình yêu mến Chúa của chúng ta chỉ là một thứ tình cảm chóng qua hay là một sức mạnh thúc đẩy chúng ta phục vụ.
CG.
SUY NIỆM 5: Yêu thương vô điều kiện
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ như một người bình thường trên Biển Hồ Tiberia. Ngài giúp cho các môn đệ bắt được nhiều cá và sau khi ăn sáng xong với các môn đệ, Chúa Giêsu liền hỏi ông Phêrô: “Này anh Phêrô, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Chúa hỏi ông Phêrô đến ba lần, điều này khiến ông đau lòng vì nhắc ông nhớ tới việc đã công khai chối Thầy đến ba lần. Và trước mặt Chúa, Phêrô đã khẳng định với Ngài rằng ông yêu mến Ngài hơn các môn đệ khác. Chỉ trong lúc đó Phêrô mới hiểu rằng tình yêu của Thầy đổ tràn lên ông hơn là tình yêu của ông đối với Thầy. Trước đây, Phêrô đã từng hùng hồn tuyên xưng trước các môn đệ khác rằng: “Dẫu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã”. Nhưng sau kinh nghiệm cay đắng vì sự phản bội của mình, Phêrô ý thức về sự yếu đuối của mình để hiểu rằng ông phải hoàn toàn trông cậy vào Thiên Chúa chứ không ở khả năng của mình, vì thế mà Phêrô đã thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Chúa Giêsu, trước khi giao phó Giáo Hội của Ngài cho Phêrô chỉ đòi hỏi ở ông duy nhất một điều kiện, đó là tuyệt đối yêu mến Ngài. Chúa không đòi hỏi người môn đệ khả năng xuất chúng để lèo lái Giáo Hội, cũng như trí thông minh phi thường để đối phó với các thử thách mà Ngài chỉ đơn giản hỏi ông: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Thánh Gioan cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu đã chọn ông Phêrô làm người đứng đầu Hội Thánh không phải vì ông yêu mến Chúa hơn các môn đệ khác, nhưng vì Chúa Giêsu đã đặt ông đứng đầu Hội Thánh nên ông phải yêu Chúa và yêu các môn đệ nhiều hơn cũng như cần phải trung thành nhiều hơn nữa.
Phêrô hiểu rằng cội nguồn của tình yêu không tới từ ông mà đến từ Chúa khi Ngài hỏi ông: “Anh có mến Thầy không?” Chúa Giêsu chính là cội nguồn của lòng nhân ái và Ngài muốn trao ban tình yêu đó cho Phêrô. Chúa Giêsu không chỉ hỏi ông Phêrô câu hỏi này, nhưng Ngài còn hỏi tất cả chúng ta và Ngài muốn trao ban cho chúng ta món quà quí giá đó. Chúng ta mang trong trái tim ước mơ yêu thương Thiên Chúa nhưng nhiều lúc tình yêu đó hời hợt vì bản chất chúng ta yếu đuối và bất trung, và đôi khi chúng ta lại còn nghi ngờ Ngài. Nhưng chính Chúa đã cho Phêrô và cả chúng ta cơ hội để trả lời Ngài: Lạy Chúa, Chúa biết chúng con yêu Chúa không phải vì chúng con hoàn hảo, mà vì Chúa đã yêu thương chúng con một cách nhưng không. Chúng con là những kẻ bất trung, còn Chúa thì luôn trung thành với lời hứa của Ngài. Khi Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”, Ngài loan báo cái chết tử đạo của ông vì đi theo Chúa tức là vác thập giá để theo Ngài, có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn chính mình và hy sinh cả mạng sống mình vì Nước Trời. Chúa Giêsu là người yêu chúng ta trước nhất, Ngài yêu chúng ta một cách vô điều kiện. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ hồng ân là được theo Ngài và chịu chết tử đạo để làm vinh danh Ngài như thánh Gioan đã viết trong bài Phúc Âm hôm nay: “Người nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”. Ngài đã cho Phêrô hiểu thế nào là một tình yêu hoàn hảo, đó là dâng hiến chính mạng sống của mình cho Thiên Chúa và tha nhân, và biết hướng về tình yêu của Thiên Chúa bằng với tất cả lòng tin cậy. Ðiều đó cũng nhắc nhở với chúng ta là các hoạt động tông đồ trước hết phải đặt nền tảng trên tình yêu gắn bó với Chúa, để sau đó loan truyền tình yêu của Ngài cho những người khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng tình yêu của chúng con đối với Chúa phải được thể hiện qua việc yêu mến tha nhân, và xin giúp cho chúng con yêu họ một cách cụ thể bằng việc quan tâm đến những niềm vui cũng như nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: CÓ YÊU THÌ MỚI CHU TOÀN (Ga 21, 15-19)
Khi nói về tình yêu, nhạc sĩ Nguyễn Duy đã có một bài hát mang tên: “Xin định nghĩa tình yêu”, trong đó có đoạn:
“Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu [...]. Yêu: xin đừng dối gian, xin đừng trái ngang, dù lắm lo toan, xin đừng ly tan. Hãy yêu như Giêsu, chết đi cho dương gian, đóng đinh cho người mình yêu mến. Hãy yêu trong an vui, thủy chung trong đau thương, sống trong cuộc đời đầy mến yêu”.
Lời bài hát trên mang đậm chữ “yêu”. Thật vậy, con người nếu không có tình yêu, hỏi rằng chúng ta có thể sống có ý nghĩa được chăng? Thưa không! Chỉ có tình yêu, con người mới làm cho cuộc đời này chan chứa niềm vui, dẫu vẫn còn đó khổ đau, bất hạnh, hiểu lầm...
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao phó quyền chủ chăn cho Phêrô. Biết được vai trò, sứ mạng và những khó khăn mà ông sẽ đón nhận từ mình, nên Đức Giêsu đã cật vấn ông tới ba lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?". Có lẽ Đức Giêsu hỏi ông như thế là vì muốn ông từ nay phải trở nên người trưởng thành thực sự chứ không phải như những lần trước, vừa mới thề sống chết với Thầy, rồi sau đó lại chối Thầy vì sợ liên lụy. Ý thức được điều đó, nên ông đã tỏ ra buồn rầu và xấu hổ.
Tuy nhiên, sứ vụ mà ông sắp đón nhận là một cuộc hành trình đầy cam go, cần phải có tình yêu đủ lớn thì mới có thể chung chia sứ vụ với Thầy được.
Thật vậy, Phêrô đã ý thức điều đó, và ông đã tuyên xưng mạnh mẽ với đầy tràn tình yêu và Thần Khí Thiên Chúa trong mình: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy".
Ngày nay, Chúa cũng trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài cho các mục tử trong Giáo Hội, chúng ta hãy cầu nguyện cho các ngài trở nên những mục tử “như lòng Chúa mong ước”. Trở nên những mục tử không chỉ “biết” mà còn “ngửi thấy mùi chiên”.
Bên cạnh đó, trong chức tư tế phổ quát, mỗi người chúng ta cũng đều là mục tử khi được tham dự vào chức tư tế độc nhất của Đức Giêsu qua Bí tích Rửa Tội, vì thế, chúng ta cũng không ngừng vươn tới mẫu gương của Đức Giêsu là mục tử nhân lành để noi theo và sống ơn gọi bằng cách chu toàn bổn phận của mình trong lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho hết mọi thành phần dân Chúa, dù trong vai trò gì, cũng luôn biết lấy tình yêu làm lẽ sống, để qua đó, mỗi người sẽ được sống trong một tình yêu lớn hơn, đó là tình yêu của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Phêrô -- sứ mệnh mục tử
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Cũng như Thánh Phêrô được Chúa Giêsu trao cho sứ mệnh mục tử để chăn dắt đoàn chiên Chúa, mỗi người Kitô hữu cũng được Chúa trao sứ mệnh mục tử trong phạm vi và khả năng của mình. Nhưng trước hết, Chúa đòi phải có lòng yêu mến và sự hy sinh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước khi về trời, Chúa đã trao cho Thánh Phêrô sứ mệnh mục tử, thay mặt Chúa chăn dắt đoàn chiên, dù trước đó Ngài đã ba lần chối Chúa. Chúa đã cho biết rõ Ngài yếu đuối nhưng Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Ngài. Chúa chỉ đòi hỏi Ngài lòng yêu mến Chúa, một lòng yêu mến đặc biệt, yêu mến Chúa hơn mọi người, yêu mến đến độ dám hy sinh cả mạng sống.
Ngày nay, Chúa vẫn yêu thương và tin tưởng chúng con. Chúa trao cho mỗi người trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên Chúa: là cha xứ đối với giáo xứ, là cha mẹ đối với con cái, là anh chị đối với đàn em, là người trên đối với người dưới, là người giàu đối với người nghèo, là người khoẻ mạnh đối với người yếu đau… Mỗi người chúng con đều có sứ mệnh của người mục tử. Chúa tin tưởng và trao phó sứ mệnh mục tử cho chúng con, dù Chúa biết rõ chúng con đã từng phạm tội, chỉ là kẻ tài hèn sức mọn.
Lạy Chúa, chỉ có lòng yêu mến Chúa thật mới giúp con có đủ khả năng để thay mặt Chúa chăm sóc anh chị em. Xin Chúa đốt lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa nồng nàn để trong mọi hoàn cảnh, con luôn hết lòng chu toàn sứ mệnh ấy. Xin ban thêm lòng yêu mến Chúa cho con, để dù trong lúc khó khăn, con luôn biết hy sinh sức lực, khả năng, thời giờ và ngay cả mạng sống, để phục vụ những người mà Chúa đã tin tưởng trao phó cho con. Amen.
Ghi nhớ: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy”
SUY NIỆM 8: Chăn dắt các chiên của Thầy
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trong thánh lễ an táng Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng y Joseph Ratzinger, tức là Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI sau này, giảng lễ gợi hứng từ Tin Mừng Ga 21,15-19, và tập trung vào lời Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).
Đức Hồng y Joseph Ratzinger, suy tư và khai triển tiếng gọi của Chúa Giêsu cho Phêrô “Hãy theo Thầy”, tiếng gọi này nhưng cũng xuyên suốt cuộc đời Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đấng kế vị Phêrô, từ khi lãnh tác vụ linh mục giữa thời chiến tranh, tiếp đến sứ vụ Giám mục trong thời kỳ bức màn sắt, cho đến khi lên ngôi Giáo hoàng như lời Chúa uỷ thác: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.
Suy niệm
Câu hỏi của Thầy Giêsu hỏi Phêrô ba lần liên tiếp: “Con có yêu mến Thầy….?”, sự đáp trả với lòng xác tín của ông cũng ba lần: “Thầy biết con yêu mến Thầy” và trách nhiệm cũng được trao ba lần qua mệnh lệnh: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy” (x. Ga 21,15-17). Như một sự tín nhiệm của Thầy dành cho Phêrô dù ông là môn đệ đã từng chối Thầy. Sự việc và cuộc đàm đạo của Thầy trò làm nổi bật mối tương quan giữa tình yêu và trách nhiệm qua lời tuyên tín của Phêrô “con yêu mến Thầy” và mệnh lệnh Chúa Giêsu trao phó “chăn dắt các chiên con của Thầy”. Trong ánh sáng Phục sinh, tình yêu làm gia tăng sự trách nhiệm và từ trong tinh thần trách nhiệm, tình yêu đổi mới, thăng tiến nhân loại theo hướng tích cực như lời nguyện ước: “Xin tình yêu làm thay đổi thế giới”. Sự giao thoa và liên hệ giữa lời cầu nguyện với hình ảnh đáp trả tình yêu của Phêrô làm tôi hiểu thêm về lời cầu nguyện và càng hiểu sâu xa hơn ý nghĩa tuyên xưng tình yêu của Phêrô với trách nhiệm được giao.
Khi trao cho Phêrô đảm đương trách nhiệm Giáo hội, lòng ước ao của Thầy nơi ông có một tình yêu mãnh liệt với Thầy thể hiện qua sự tận tụy với anh em mà Phêrô có trách nhiệm chăm sóc. Tình yêu với Thầy qua sứ mạng mà ông gánh vác. Ông đã đảm đương nhiệm vụ cách quảng đại và anh hùng, điều này đã được chứng minh bằng chính cuộc đời của vị thủ lãnh mà Chúa Giêsu đã tuyển chọn và tiên báo: “Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa” (Ga 21,18-19). Phêrô đã yêu và vinh danh Thầy qua cái chết trên thập giá nơi đồi Vatican vì tình yêu mà ông đã tuyên xưng.
Trách nhiệm của Phêrô được giao không chỉ là kết quả của lời đáp trả ngắn gọn “con yêu mến Thầy”. Lời tuyên tín và trách nhiệm của Phêrô đã được chuẩn bị suốt hành trình rao giảng của Đức Kitô. Với Tin Mừng Gioan 21,15-19, trách nhiệm được đặt dấu ấn của niềm tin Phục sinh làm sống dậy tình yêu, lòng nhiệt thành và trách nhiệm trong mọi khoảnh khắc của thời gian, có giá trị vĩnh cửu vì được sự chết và phục sinh của Đức Kitô thánh hóa. Thầy Giêsu đã chuẩn bị trước cho Phêrô nhiệm vụ “chăm sóc đoàn chiên” ngay vào giây phút đầu tiên ông gặp gỡ và theo Chúa qua sự giới thiệu của người em là Anrê, chính Chúa đã gieo vào tâm hồn ông ý niệm trách nhiệm: “Anh sẽ được gọi là Phêrô” (Ga 1,42) và “trở nên kẻ chài lưới người” (Lc 5,10). Trách nhiệm “chài lưới người” cũng được Chúa đào tạo cho ông cách tiệm tiến xuyên qua nhân cách của ông: quảng đại nhiệt thành tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Chân thành ý thức bản thân khi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8); Ông yếu đuối chối Thầy ba lần khi Đức Giêsu bị bắt (x. Ga 18,17-27).
Phêrô đã tuyên tín tình yêu và lãnh nhận trách nhiệm…
Thế giới hôm nay ở bất cứ chân trời nào cũng đều có nhu cầu của trách nhiệm trong tình yêu: yêu nghề nghiệp vì đó là sứ mệnh được Thầy Giêsu giao; yêu anh em đồng loại làm cho người đảm đương công việc trong trách nhiệm hơn. Tất cả quy tụ về Đức Kitô, Đấng đã truyền cho chúng ta trách nhiệm dấn thân như Người đã nói với Phêrô: “Con hãy theo Thầy” (Ga 21,19), theo Thầy trên mọi nẻo đường của cuộc sống, theo Thầy khi gánh vác trách nhiệm trong công việc mà tôi và bạn đang đảm đương.
Ý lực sống:
“Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15.17).
SUY NIỆM 8: Chúa trao quyền chăn dắt cho Phêrô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ, lần này Chúa hiện ra với các môn đệ tại bờ hồ Tibêriat và trong lần này Chúa trao cho Phêrô được quyền tuyệt đối trong Hội thánh và nói tiên tri về đời sống của ông.
2. Trước khi trao quyền trông coi Giáo hội cho Phêrô, Chúa Giêsu hỏi ông ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không”? Câu hỏi được lặp đi lặp lại để Phêrô phải suy nghĩ, lựa chọn và xác định tầm quan trọng của vấn đề. Để thi hành sứ vụ, Phêrô cũng như các môn đệ, phải có lòng yêu mến thiết tha, vì có yêu Thầy tha thiết, thì mới chăm sóc được đoàn chiên của Thầy.
Mỗi người chúng ta được sống trong những môi trường khác nhau, với sứ vụ khác nhau trong công cuộc xây dựng Nước Trời tại thế, chúng ta cũng phải có một tình thương! Vì tình thương xóa bỏ hận thù, là mối dây liên kết mọi điều thiện hảo.
3. Tại sao Chúa Giêsu lại hỏi Phêrô tới ba lần như vậy? Có nhiều nhà giải thích Thánh kinh nói rằng: Chúa Giêsu hỏi Phêrô ba lần như vậy là để tỏ ra tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Chúa sắp trao phó cho ông.
Có những tác giả khác cho rằng: Chúa hỏi đi hỏi lại như vậy là muốn cho mọi người biết rõ rệt Chúa trao quyền Tông đồ trưởng cho Phêrô, và quyền ấy phải đi đôi với tình yêu của ông đối với Chúa, quyền lợi đi đôi với tình yêu, tình yêu bao trùm mọi trách nhiệm.
Một số người khác lại cho rằng: Ba câu trao sứ mạng, lần lượt nói “chiên con” ở hai lần đầu và “chiên mẹ”ở lần sau cùng, là Chúa có ý đề cập đến quyền lãnh đạo của Phêrô trên cả giáo dân và các chủ chăn khác,
Có người lại cho rằng Chúa hỏi Phêrô ba lần như vậy là có ý gợi lại ba lần ông đã chối Chúa.
Có người lại cho rằng ba lần hỏi, ba lần trao nhiệm vụ như thế, cũng hiểu là Chúa trao ba quyền cho Phêrô: giảng dạy, tế lễ và cai trị, tức là ba chức vụ: giảng dạy, thánh hóa và lãnh đạo (Lm Phạm văn Phượng).
4. Khi thiết lập người đứng đầu Giáo hội, Chúa Giêsu lại đặt một vị đã từng ba lần chối Chúa. Nếu xét theo cái nhìn của chúng ta thì có lẽ Phêrô không xứng đáng và không đủ tiêu chuẩn làm mục tử. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, Người không nhìn Phêrô của ngày hôm qua mà là bắt đầu từ lúc này và hướng về tương lai. Phêrô lầm lỡ và khiêm tốn ăn năn để đứng lên, nên cũng chính Phêrô cảm thông được với những con chiên mà Chúa Giêsu trao phó cho Ngài. Thiên Chúa đi tìm chiên lạc thay vì ở nhà với 99 con chiên không lạc. Thiên Chúa cũng chọn một vị mục tử đã từng lầm lỗi, nhưng quan trọng là: “Này Phêrô, một khi anh đã trở lại, anh hãy làm cho anh em vững tin”.
5. “Người nói vậy... Hãy theo Thầy”.
Câu này giải thích ý nghĩa lời của Chúa Giêsu trong câu 18: đó là cuộc tử đạo của Phêrô. Kiểu nói “anh sẽ phải giang tay ra”: có thể ám chỉ đến khổ hình thập giá mà Phêrô sắp phải chịu vào cuối đời
Và Chúa thêm: “Hãy theo Thầy”: Hẳn là Chúa muốn nhắc lại lời trước đây: Khi người bảo Phêrô: “Nơi Thầy đi, nay con không theo được, nhưng sau này con sẽ theo” (Ga 13,16), thì từ nay, Phêrô theo thật, nghĩa là Phêrô cùng chịu chết trên thập giá.
Truyện: Nhà hiền triết Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi chàng có biết ở đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra vật này, vật kia, Xenophon chỉ cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:
- Anh có biết người ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không?
- Không.
- Vậy anh hãy theo ta.
Đó cũng là câu Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Góp nhặt).
6. Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã trực tiếp ban quyền tối thượng cho Phêrô, Chúa chính thức trao cho ông quyền thủ lãnh trên Tông đồ đoàn và trên cả Giáo hội của Ngài. Chúng ta là những tín hữu trong Giáo hội, chúng ta cũng phải khiêm tốn nhìn nhận vai trò Chúa ban cho mỗi vị Chủ chăn, và trong đức tin, chúng ta nhìn nhận rằng: Chúa đang lãnh đạo Giáo hội qua những vị đó. Cho nên, chúng ta hãy lấy tình con thảo mà yêu mến, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và sẵn sàng cộng tác, giúp đỡ, nhất là cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta.
7. Truyện: “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó.
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày chót của cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Rôma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bắt đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang Thập giá đang đi hướng về phía thành.
Ông hỏi: “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó?
Người ấy trả lời: “Ta đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”.
Phêrô quay đầu trở lại. Ông vào Rôma và chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng ông cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như Thầy nên ông xin được chết trên Thập giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.
Ông thực hiện đúng lời của Chúa: “Khi về già ngươi sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18-19).
20/05 Sức mạnh của hiệp nhất.
- Viết bởi Ga 17, 20-26
Sức mạnh của hiệp nhất.
Thứ Năm tuần 7 Phục Sinh.
“Xin cho chúng nên một”.
Lời Chúa: Ga 17, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.
Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con.
Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Để họ được nên một
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Lời Nguyện sau Tiệc Ly.
Đức Giêsu cầu nguyện, không phải cho các môn đệ đang hiện diện,
nhưng cho các môn đệ tương lai, là chính chúng ta,
những người tin nhờ nghe lời giảng của các môn đệ đi trước (c.20).
Hôm nay Đức Giêsu là Thượng Tế trên trời, là Đấng Trung Gian duy nhất,
vẫn dâng lên Chúa Cha lời nguyện tương tự.
Ngài nhìn thấy một phần ba dân số thế giới là Kitô hữu, hơn hai tỷ người.
Ngài nhìn thấy những người theo Công Giáo gồm hơn một tỷ,
theo Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo và bao giáo phái khác.
Ngài xin Cha cho họ nên một, như Cha và Con là một (c. 22).
Đức Giêsu đã xin cho các môn đệ đang hiện diện bên Ngài
được nên một “như chúng ta” (Ga 17, 11b).
Bây giờ Ngài xin cho các môn đệ tương lai cũng được nên một.
Sự hiệp nhất nên một giữa Cha và Con
vừa là khuôn mẫu, vừa là nguồn mạch cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.
“Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (c. 21).
Cha và Con ở trong nhau, đó là mẫu mực cho sự hiệp nhất.
Chúng ta được mời gọi ở trong nhau khắng khít như Cha và Con.
Điều này không thể thực hiện được, nếu chúng ta không được đưa vào
trong mối tương quan thân thiết giữa Cha và Con:
“để họ cũng ở trong Chúng Ta” (c. 21).
Các Kitô hữu chỉ hiệp nhất khi họ được sống trong nguồn hiệp nhất
là sự ở trong nhau giữa Cha và Con.
Trong Lời Nguyện của Đức Giêsu, ta thấy có một tương quan ba chiều
giữa Cha, Con và các môn đệ.
“Con ở trong họ và Cha ở trong Con…
Cha đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (c. 23).
“Tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (c.26).
Tương quan này sâu lắng đến mức có sự ở lại trong nhau thật sự
giữa Cha, Con và các môn đệ là chính chúng ta.
Tuy vậy ít khi chúng ta dám nghĩ mình có tương quan gần gũi đến thế
với thế giới siêu việt của Cha và Con.
Nhưng Đức Giêsu còn nói đến tương quan giữa các môn đệ với thế gian.
Chỉ khi có sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lúc đó mới hy vọng
“Thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (c. 21),
“Thế gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con (c. 23).
Chúng ta cầu cho sự hiệp nhất yêu thương giữa các Kitô hữu trên thế giới.
Nếu một phần ba dân số thế giới sống nên một trong yêu thương,
hai phần ba còn lại sẽ sống trong hạnh phúc bình an.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa.
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
Lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động
sự bình an của con,
hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo. Amen.
(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: TÌNH YÊU VÀ SỰ SỐNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hợp nhất là sự sống trong tình yêu. Chúa Ba Ngôi chính là nguồn mạch tình yêu và sự sống trong sự hợp nhất trọn vẹn. “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. “Cha và Con là Một”. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Kết hợp sâu xa trong một tình yêu hoàn hảo được biểu lộ trong chuyển động dâng hiến trọn vẹn: “Mọi sự của Cha là của Con. Và mọi sự của Con là của Cha”. Sự dâng hiến làm nên sự sống. “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. “Thầy sống nhờ Cha”. Cuộc trao đổi dâng hiến làm cho tình yêu không bao giờ vơi cạn. Và sự sống ngày càng sung mãn.
Tình yêu và sự sống đó lan tràn đến nhân loại. Nhưng để lãnh nhận con người phải hòa mình vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Hình ảnh rất đẹp mà Chúa Giê-su đã dùng là cây nho: “Thầy là cây nho. Anh em là nhành nho”. Như cành cây phải gắn liền với thân cây. Muốn nhận lãnh sự sống từ Thiên Chúa ta phải gắn liền vào Thiên Chúa. Muốn gắn liền vào Thiên Chúa ta phải có tình yêu. Tình yêu làm cho ta ở trong Chúa và Chúa ở trong ta. Khi ta ở trong Chúa Giêsu thì Chúa Cha ở trong ta: “Con ở trong chúng và Cha ở trong Con”. Tình yêu đó phất sinh sự sống trong ta. Một sự sống dồi dào sung mãn.
Khi hợp nhất với Thiên Chúa, người ta tự nhiên hợp nhát với nhau. Đó chính là hình ảnh của cộng đoàn tín hữu sơ khai. Yêu mến Thiên Chúa nên bỏ của cải làm của chung. Vì thế cộng đoàn có một sức sống mãnh liệt. Và đó là một cộng đoàn chứng nhân. Thế gian thấy họ mà tin vào Chúa: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con”.
Thế gian tin và muốn gia nhập cộng đoàn tín hữu sơ khai. Vì từ thâm tâm ai cũng hướng về tình yêu và sự sống. Trong hợp nhất tình yêu và sự sống được biểu lộ. Trở thành sức hấp dẫn với mọi người.
Phao-lô có sức hấp dẫn vì ông luôn kết hợp với Chúa: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi”. Chúa hài lòng về điều đó nên mời gọi ông: “Con hãy tiếp tục làm chứng cho ta tại Rô-ma nữa”
SUY NIỆM 3: Sức mạnh của hiệp nhất.
Có một câu truyện cổ như sau:
Trong một buổi hội họp của tất cả các muông thú rừng xanh, dòng giống nhà cọp đã dành được ngôi vị Chúa sơn lâm nhờ vào sức mạnh và bản tính hung dữ của chúng. Ngày kia, cọp gặp người thợ săn. Trước khi phóng mũi tên, bác thợ săn nói với cọp:
- Hỡi Chúa sơn lâm, hãy đón nhận điều mà con người gửi đến các muông thú.
Và mũi tên đã cắm phập vào lưng cọp. Quá đau đớn, cọp đã chạy trốn vào rừng rậm. Thấy cọp bỏ chạy, một con sói già hỏi: tại sao? Cọp lắc đầu đáp:
- Chỉ một lời con người muốn nói với ta, mà đã làm ta đau đớn thế này, thì làm sao chúng ta có thể chống lại bọn họ.
Sói già an ủi cọp:
- Điều suy nghĩ của Chúa sơn lâm thực tế, tuy nhiên, Chúa sơn lâm lại quên một điều là nếu tất cả muông thú rừng xanh đoàn kết lại, chúng ta có thể chống lại con người. Như nhà sói chúng tôi đây tuy sức mạnh không bằng Chúa sơn lâm, nhưng cả một bày sói, với sức mạnh tổng hợp, chúng tôi có thể làm thịt người thợ săn.
Ý kiến ấy thật hay, nhưng thú rừng vẫn bị tiêu diệt, vì chẳng bao giờ chúng học được hai chữ hiệp nhất.
Trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Cha, Chúa Giêsu biết rằng những kẻ theo Ngài sẽ bị thế gian ghét bỏ và bị quyền lực sự dữ tấn công, nếu đơn độc chiến đấu, chắc chắn họ sẽ thất bại như Nguyên tổ của họ ngày xưa. Bởi thế, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho họ được hiệp nhất nên một “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Ngài không cầu xin cho họ có sức mạnh, vì sức mạnh thường đưa con người đến nguy cơ ỷ lại vào mình; Ngài cũng không cầu xin cho họ có quyền lực, vì quyền lực dễ đưa con người lọt vào hố sâu của tham vọng.
Khi cầu nguyện cho cộng đoàn những kẻ nhờ lời các Tông đồ mà tin, Chúa Giêsu đã không xin cho Giáo Hội được phát triển bằng sức mạnh và quyền lực, mà chỉ xin cho tất cả được hiệp nhất trong Ngài và hiệp nhất với nhau, để Ngài ở đâu, họ cũng ở đó, và để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Người kitô hữu chúng ta hôm nay cũng được mời gọi phản chiếu hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu bằng cách sống yêu thương hiệp nhất. Chắc chắn không ai trong chúng ta có thể đứng vững một mình nhưng phải liên kết với nhau để thông truyền sức sống. Muốn liên kết với nhau, chúng ta cần phải ra khỏi con người ích kỷ của mình, phải từ bỏ nhiều tật xấu cố hữu của mình, nhờ đó chúng ta sẽ nên một trong Chúa và được chiêm ngưỡng quyền năng vinh quang Chúa hoạt động nơi chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Sự hợp nhất toàn hảo
Hiện nay, chúng ta thấy trong xã hội có nhiều thứ biến đổi tiến tới đỉnh hợp nhất như quy tụ thành những thị xã, đô thị, thành phố, những hiệp hội, liên hiệp. Ít lâu nay, chúng ta đã trở nên những thành viên không chỉ của một làng xã, một trường học, nhưng còn của một cộng đoàn, một khu vực bao gồm nhiều quốc gia.
Cơ cấu xã hội đang chuyển đổi thành nhóm như: hiệp hội công dân, cộng đồng căn bản, khối kinh tế, liên minh phòng thủ … Một triết gia đã quả quyết thế giới đang thành một làng xã nhờ những phương tiện giao thông tân tiến thần tốc.
Vũ trụ tiến tới hợp nhất dần dần như đáp lại lời kêu gọi của Đức Kitô: “Xin cho tất cả nên một trong chúng ta để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”.
Nhưng hợp nhất nên một không hẳn là mặc khải và là bằng chứng của Đức Kitô. Chúng ta có thể thành một nhóm duy nhất, một cộng đoàn tôn giáo tập trung vào chính mình mà không vào Thiên Chúa, thành những nhóm bất khả xâm phạm đối với người ngoài, bất khả chia cơm sẻ áo. Chúng ta có thể sống dưới một mái nhà mà không tạo nên một gia đình.
Hiện thời, chúng ta thấy nhiều sức mạnh dẫn lối chỉ đường đưa loài người đến hợp nhất. Mặc khải của Đức Kitô có mặt ở đó, như đang cưu mang nó, nhưng sự hiệp nhất toàn hảo chỉ thực hiện được trong Thiên Chúa: “Xin cho tất cả nên một trong Chúng Ta”.
Những cộng đoàn Kitô hữu ngày nay có thể là dấu chỉ của sự hợp nhất toàn hảo này khi họ sống biết chia sẻ thực sự về đức tin, đức ái và hành động. Đó là một trong những vai trò của Giáo hội trong xã hội để giúp con người đạt tới vô cùng nhờ cố gắng tập trung vào Thiên Chúa.
CG.
SUY NIỆM 5: Sống trong hiệp nhất
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly cũng là lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ và giữa tất cả những người tin nhận Chúa Giêsu từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu cầu nguyện cách đặc biệt cho tất cả chúng ta được trở nên một như các thành phần chi thể trong một thân mình duy nhất của Ngài, đó là Hội Thánh. Cũng như Ngài và Chúa Cha đã kết hợp nên một. Sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha là sự hiệp nhất trong tình yêu thương và sự vâng phục, và đó là sự hiệp nhất mật thiết nhất. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta trước nhất và Ngài kết hợp với chúng ta trong bí tích thánh tẩy, qua đó chúng ta được kêu gọi để sống trong sự hiệp nhất tình yêu.
Lời cầu nguyện của Chúa trước lúc khổ nạn cho chúng ta thấy tình yêu cao cả và sự tín cẩn mà Thiên Chúa đã trao cho các môn đệ của Ngài, vì thế Ngài vẫn trao cho các ông một sứ mạng vô cùng lớn lao là rao giảng tên Ngài khắp nơi trên thế gian và cho đến tận cùng thời gian. Chúa Giêsu chết đi và sống lại để tất cả mọi người trở nên một như Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài. Chúa Giêsu nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con để họ được là một như chúng ta là một”.
Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay nói tới sự vinh quang mà Ngài ban cho các môn đệ và Ngài cũng mời gọi tất cả chúng ta hãy mở rộng vòng tay để đón nhận sự vinh quang đến từ tình yêu của Chúa Cha, để tất cả được trở nên một. Tuy nhiên, đây là sự vinh quang khác biệt với sự vinh quang phát sinh từ lòng kiêu ngạo của con người, vì loại vinh quang này chỉ đem tới sự chia rẽ. Sự vinh quang của Chúa Giêsu là sự vinh quang của Ðấng đã tự hạ mình xuống ngang hàng với nhân loại để yêu thương và phục vụ như Ngài đã rửa chân cho các môn đệ. Ðó là sự vinh quang của Ðấng đã không màng tới sự vinh quang của cá nhân, vì thế mà Chúa Cha đã vinh danh Ngài. Thánh Phaolô tông đồ trong thư gởi các tín hữu Philipphê đã nói rằng Chúa Giêsu trong lúc còn sống tại trần thế đã lãnh nhận vinh quang của Thiên Chúa. Vì Ngài tuy là Thiên Chúa nhưng đã trút bỏ vinh quang và mặc lấy thân nô lệ và sống nên người phàm nhân. Ngài lại còn tự hạ mình xuống và vâng lời Cha để chết trên thập giá cho sự cứu rỗi của nhân loại. Chính vì thế mà Cha Ngài đã suy tôn Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trổi hơn các danh hiệu khác. Chính Chúa Cha đã dành cho Con Ngài sự vinh quang vượt lên trên các vinh quang của trần thế. Chúa Giêsu đã có được sự vinh quang đó không phải vì Ngài ưa thích tìm kiếm mà vì Chúa Cha đã ban cho Ngài. Thiên Chúa đã chỉ cho chúng ta phương cách để trở nên một đó là đón nhận sự vinh quang mà Ngài đã ban cho chúng ta, sự vinh quang giúp chúng ta biết phục vụ cho những người khác và mở rộng trái tim đến tất cả mọi người. Sự vinh quang giúp chúng ta biết hạ mình sống gần gũi với tầng lớp của những người anh em khốn khó của mình.
Lạy Chúa, xin hãy thương xót nhân loại và chữa lành các vết thương chia rẽ của chúng con. Xin cho tất cả các tín hữu Kitô sống trong sự hiệp nhất như Ngài đã cầu xin Cha. Xin hãy đổi mới chúng con bằng sức mạnh của Thần Khí để chúng con trở thành dấu chỉ của sự hiệp nhất và làm tăng thêm trong chúng con tình yêu đối với anh chị em khác trong Chúa Kitô.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: HIỆP NHẤT ĐỂ YÊU THƯƠNG (Ga 17, 20-26)
Trong thời gian qua, lòng con dân Nước Việt luôn thể hiện lòng yêu mến quê hương đất nước và mong sao cho quê hương được thanh bình, không có chiến tranh. Lòng yêu mến đó được chứng minh qua sự can đảm, bất chấp mọi khó khăn... sẵn sàng đứng lên để đấu tranh cho sự thật, công lý và hòa bình trên Biển Đông. Qua những gì vừa xảy ra, hẳn ai cũng hiểu được rằng: chỉ có hiệp nhất, chung lòng thì mới có thể chiến thắng được ngoại xâm.
"Xin cho chúng nên một". Đây là lời nguyện khẩn thiết của Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha cho các môn đệ của mình. Đức Giêsu cũng nêu lên mẫu gương hiệp nhất giữa Chúa Cha và Ngài. Và như thế, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ cũng hiệp nhất với nhau như Chúa Cha và Chúa Con là một. Qua đó, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Thầy, đó là chúng ta yêu thương nhau.
Ngày nay, người Kitô hữu chúng ta sống sự hiệp nhất ấy qua lời cầu nguyện, bằng hành vi đức tin và sự liên đới. Sự hiệp nhất chỉ có thể có khi chúng ta chấp nhận “hiệp nhất trong đa dạng”. Biết lắng nghe, thông cảm và tôn trọng mọi người.
Lời cầu nguyện và mong muốn của Đức Giêsu khi xưa cho các môn đệ được hiệp nhất, cũng chính là lời cầu nguyện và mời gọi của Ngài dành cho chúng ta hôm nay.
Lạy Cha, ơn cứu độ Cha ban cho chúng con không chỉ dành riêng cho người Kitô hữu, nhưng là cho toàn thể nhân loại. Xin cho chúng con biết loan báo lời của Con Cha cho mọi người không phân biệt, và biết làm chứng cho Cha trong sự hiệp nhất của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Hiệp nhất với Chúa và với nhau
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người được hiệp nhất trong Thiên Chúa. Muốn trở nên thành phần trong gia đình của Chúa, chúng ta cần biểu lộ tinh thần hiệp nhất: hiệp nhất với Chúa và hiệp nhất với nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha đầy lòng yêu thương, chúng con muốn tiếp nối lời Chúa Giêsu Con Cha, để dâng lên Cha lời cầu nguyện cho thế giới, cho Giáo Hội, cho gia đình con và cho tất cả chúng con được hiệp nhất.
Cha đã tác tạo chúng con trong tình yêu. Mãi mãi Cha vẫn hằng yêu thương chúng con và mong muốn chúng con sống yêu thương nhau, hiệp nhất trong tình yêu của Cha. Nhưng vì tội lỗi, chúng con đã xa cách Cha và xa cách nhau. Dù vậy, Cha vẫn không bỏ chúng con, vẫn kêu gọi chúng con trở về với tình yêu của Cha. Qua dòng lịch sử, từng bước từng bước một, Cha đã hàn gắn sự đổ vỡ và kêu gọi chúng con sống tinh thần hiệp nhất. Sau cùng, chính Chúa Giêsu Con Cha đã xuống thế gian để trở thành mối dây liên kết chúng con với Cha và với nhau. Và hôm nay, Giáo Hội vẫn đang nỗ lực duy trì và phát triển sự hiệp nhất ấy.
Nhưng lạy Cha, công việc của Giáo Hội còn bề bộn lắm. Trong lòng Giáo Hội còn nhiều khó khăn làm cản trở sự hiệp nhất. Là những người sống trong Giáo Hội, chúng con đã cảm nhận được điều ấy. Chính trong giáo xứ, trong gia đình chúng con, vẫn còn nhiều nỗi bất hòa. Xin cho mỗi người chúng con biết nỗ lực thông cảm với nhau, tha thứ cho nhau, biết gạt bỏ ra bên ngoài những ý riêng để đi tới hiệp nhất. Xin Cha giúp mỗi người chúng con biết quên mình, biết hãm dẹp tự ái và kiêu ngạo, để cùng nhau sống hiệp nhất trong tình yêu Cha. Và qua dấu chỉ đó, chúng con làm chứng cho tình yêu của Cha. Amen.
Ghi nhớ: “Xin cho chúng nên một”.
SUY NIỆM 7: Nên một trong tình yêu Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người kia có ba người con trai, trước khi qua đời ông muốn dạy các con bài học hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, ông gọi các con đến và nói: Vàng bạc thì cha không có, cha có một gia tài quý giá hơn cả vàng và muốn để lại cho các con. Nói xong, ông lấy ra ba chiếc đũa tre trao cho ba người con mỗi người một chiếc và bảo: “Các con hãy bẻ gãy chiếc đũa cho cha xem”. Ba người con vâng lời cha bẻ gãy chiếc đũa dễ dàng.
Sau đó, người cha trao cho ba người con mỗi người một bó đũa và nói: “Các con hãy bẻ gãy bó đũa này cho cha xem”. Lúc này ba người con dùng hết sức vẫn không sao bẻ gãy được. Bấy giờ, người cha mới nói: “Nếu các con biết đoàn kết yêu thương nhau thì các con giống như bó đũa kia sẽ không có sức mạnh nào làm gãy được các con. Ngược lại, nếu các con không đoàn kết yêu thương nhau mỗi người một nơi thì các con sẽ như chiếc đũa kia bị bẻ gãy một cách dễ dàng, hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
Nói xong, người cha ra đi trong vòng tay yêu thương của các con.
Suy niệm
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và những ai đã cùng chia sẻ với Ngài trong bữa tiệc ly trước khi bước vào cuộc thương khó. Tin Mừng Gioan17,20-26 là những tâm tình cuối cùng trong lời cầu nguyện hướng về Chúa Cha trước khi Ngài bị bắt và kết án trên thập tự. Đó là thời điểm khó khăn khủng hoảng nhất và là thời điểm ly biệt. Chúa Giêsu sống trong thế giới, với kinh nghiệm nhân loại mà Ngài mang lấy, Ngài đã thấy trước được những gì khó khăn liên quan đến đời sống đức tin, Ngài hiểu được sự khó khăn của các tông đồ khi chứng kiến và bước vào cuộc thương khó. Trái tim của Thầy luôn nghĩ đến các môn sinh và những người đã đón tiếp Lời Ngài qua các tông đồ nên Ngài tha thiết cầu nguyện với Cha: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con” (Ga 17,20).
Lời cầu với một lòng tha thiết với Chúa Cha cho chúng ta, những người tin vào Ngài, đang sống đức tin ấy giữa lòng thế giới, luôn trung thành với Lời Ngài và hiệp nhất trong tình yêu. Mặc dù chính Ngài còn mang trong mình những lo âu của cuộc thương khó nhưng Ngài vẫn dành trọn lời cầu tha thiết của Ngài cho sự hiện diện của thân phận con người.
Ngài đã nhìn thấy trước những khó khăn của việc giữ đức tin và của sự hiệp nhất với những tương quan của thực tế thế giới trong mọi thời đại. Đó là sự chia rẽ: Chia rẽ giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc, giữa các tôn giáo…. Chính sự chia rẽ đào sâu trong lòng con người một vực thẳm của sự ngăn cách và với thời gian, nó sinh ra hận thù, chiến tranh… như chúng ta thấy ở châu Phi và Trung Đông. Sự chia rẽ còn xuất hiện giữa những người cùng chung một niềm tin Kitô. Sự chia rẽ trong Giáo hội đã không biểu lộ được tình yêu Thiên Chúa hiện diện giữa con người trong thế giới mà Đức Kitô mong muốn và đã loan báo cho trần gian. Không chỉ trên bình diện quốc tế, sự chia rẽ còn xảy ra nơi phạm vi nhỏ hơn như trong cộng đoàn, trong công sở và ngay cả trong gia đình. Nó bào mòn hạnh phúc và gây nên sự đổ vỡ trong các mối quan hệ gia đình và xã hội... Trong thế giới hôm nay, sự chia rẽ xảy ra từng ngày, nối tiếp từng năm và kéo dài từ thế kỷ này qua thế thế kỷ kia. Chính vì thế, trái tim của Chúa vẫn tiếp tục rỉ máu và lời cầu nguyện của Ngài vẫn vang vọng và thắm thiết bên Chúa Cha: “Để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21).
Chúa Giêsu cầu nguyện vì sự hiệp nhất trước hết là quà tặng ân sủng từ Thiên Chúa, ân ban này sẽ được tìm thấy gốc rễ nơi trái tim của Ba Ngôi mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với chúng ta qua vinh quang của Ngài trong tư cách là Con Thiên Chúa. Với ân sủng này, chúng ta cùng Ngài đi vào sự hiệp nhất với Chúa Cha trong Thánh Thần: “Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con” (Ga 17,22-23).
Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay đặt chúng ta, những người đón tiếp và tin vào Lời, trong trái tim và lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ngài còn tiếp tục cầu nguyện cho chúng ta ở bên Cha để hiệp nhất giữa những chi thể thánh được hoàn thiện. Hiệp nhất nơi gia đình, cộng đoàn, trong Giáo hội với tình yêu chính là hình ảnh của Ngài hiệp nhất với Cha trong Thánh Thần. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn để chúng ta khiêm tốn luôn sống trung thành với ân sủng mà Ngài ân ban. Trong tình huynh đệ, hãy đón nhận sự khác biệt của anh em để tìm về một mối hiệp nhất trong tình yêu.
Ý lực sống:
“Xin hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu Chúa…”.
SUY NIỆM 8: Chúa cầu cho Hội thánh hiệp nhất
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không những cầu xin Cha cho các môn đệ Ngài, mà còn cho tất cả những người nghe và tin vào lời các môn đệ giảng. Để lời Chúa được mang đến khắp cùng bờ cõi, đến với mọi người, mỗi Kitô hữu chúng ta phải chuyên chăm học hỏi, thấm nhuần Lời Chúa và luôn chia sẻ cho những người mình gặp gỡ.
2. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly cũng là lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ và giữa tất cả những người tin nhận Chúa Giêsu từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu cầu nguyện cách đặc biệt cho tất cả chúng ta được trở nên một như các thành phần chi thể trong một thân mình duy nhất của Ngài, đó là Hội thánh. Cũng như Ngài và Chúa Cha đã kết hợp nên một. Sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha là sự hiệp nhất trong tình yêu thương và sự vâng phục, và đó là sự hiệp nhất mật thiết nhất. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta trước nhất và Ngài kết hợp với chúng ta trong bí tích Thánh Tẩy, qua đó chúng ta được kêu gọi để sống trong sự hiệp nhất và tình yêu (Mỗi ngày một tin vui).
3. “Để cả chúng cũng nên một trong Ta”.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho Giáo hội ngày mai, tức là cho mọi tín hữu trong tương lai, như vậy có tất cả chúng ta nữa. Ngài cầu xin cho chúng ta được hiệp nhất với nhau trong Giáo hội Ngài thiết lập, để cùng nhau hiệp nhất với Ngài.
“Nên một” là một điều hết sức quan trọng, nên khi cầu nguyện cho bất cứ thành phần nào trong Giáo hội, Chúa Giêsu cũng cầu xin cho họ được điều ấy.
Lạy Cha, xin gìn giữ chúng trong tình hiệp nhất.
Không phải thứ hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói, cố tránh va chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng con đang chia rẽ.
Mà là sự hiếp nhất dám chấp nhận những dị biệt và những lời góp ý thẳng thắn.
Một sự hiệp nhất được thúc đẩy bởi ước muốn duy nhất trong lòng mọi người là sống theo chân lý của Cha.
4. Chúa Giêsu cầu nguyện vì sự hiệp nhất trước hết là quà tặng ân sủng từ Thiên Chúa, ân ban này sẽ được tìm thấy gốc rễ nơi trái tim của Ba Ngôi mà Chúa Giêsu đã chia sẻ cho chúng ta qua vinh quang của Ngài trong tư cách là Con Thiên Chúa. Với ân sủng này, chúng ta cùng Ngài đi vào sự hiệp nhất với Chúa Cha trong Thánh Thần: “Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con” (Ga 17,22-23).
5. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã diễn tả rất sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất, ngài đã nói như sau: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng sự hiệp nhất giữa các môn đệ không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ của Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô”.
Có hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những con người trưởng thành trong đức tin, trưởng thành trong lòng mến và có khả năng gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm chân lý cách chân thành và vô vị lợi.
Như thế, sự hiệp nhất chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, chứng tỏ chúng ta là những người trưởng thành trong đức tin cậy mến, và đó là lý do thu hút người ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta.
6. Bài Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay đặt chúng ta – những người đón tiếp và tin vào Lời, trong trái tim và lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ngài còn tiếp tục cầu nguyện cho chúng ta ở bên Cha để hiệp nhất giữa những chi thể thánh được hoàn thiện. Hiệp nhất nơi gia đình, cộng đoàn, trong Giáo hội với tình yêu chính là hình ảnh của Ngài hiệp nhất với Cha trong Thánh Thần. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn để chúng ta khiêm tốn luôn sống trung thành với ân sủng mà Ngài ân ban. Trong tình huynh đệ, hãy đón nhận sự khác biệt của anh em để tìm về một mối hiệp nhất trong tình yêu.
7. Truyện: Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.
Một người kia có ba người con trai, trước khi qua đời, ông muốn dạy các con bài học hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, ông gọi các con đến và nói: “ Vàng bạc thì cha không có, cha có một gia tài quí giá hơn cả vàng và muốn để lại cho các con”. Nói xong ông lấy ra ba chiếc đũa tre trao cho ba người con mỗi người một chiếc và bảo: “Các con hãy bẻ gẫy chiếc đũa cho cha coi”. Ba người con vâng lời cha bẻ gẫy chiếc đũa dễ dàng.
Sau đó người cha trao cho ba người con mỗi người một bó đũa và nói: “Các con hãy bẻ gẫy bó đũa này cho cha xem”. Lúc này ba người con dùng hết sức vẫn không sao bẻ gẫy được. Bấy giờ người cha mới nói: “Nếu các con biết đoàn kết thương yêu nhau thì các con giống như bó đũa kia sẽ không có sức mạnh nào làm gẫy được các con. Ngược lại nếu các con không đoàn kết thương yêu nhau mỗi người một nơi thì các con sẽ như chiếc đũa kia bị bẻ gẫy một cách dễ dàng, hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
Nói xong, người cha ra đi trong vòng tay yêu thương của các con.
19/05 Xin Cha gìn giữ họ
- Viết bởi Ga 17, 11b-19
Xin Cha gìn giữ họ.
Thứ Tư tuần 7 Phục Sinh.
“Để chúng được nên một như Ta”.
Lời Chúa: Ga 17, 11b-19
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.
“Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Xin Cha gìn giữ họ
Suy niệm:
Chúng ta đang sống trong một thế giới tự nhận là khoa học kỹ thuật,
trong đó dường như Thiên Chúa vắng mặt,
và Quỷ dữ, Ác thần, Satan cũng không có chỗ.
Thật ra, cả Thiên Chúa lẫn Satan đều có mặt trong thế giới này.
Con người sống trong thế giới là chịu sự lôi kéo của cả hai.
Khi dâng lời cầu nguyện lúc sắp trở về với Cha,
Đức Giêsu ý thức hơn khi nào hết quyền lực có thật của quỷ dữ
đang tác động trên các môn đệ còn sống ở trần gian.
Chính vì thế Ngài khẩn khoản xin Cha gìn giữ họ khỏi Ác thần (c. 15).
“Khi còn ở với họ, Con đã gìn giữ họ… Con đã canh giữ họ…” (c. 12).
Gìn giữ các môn đệ là việc Đức Giêsu đã làm trong suốt sứ vụ,
và Ngài đã không để ai trong họ phải hư mất, trừ Giuđa.
Những sói dữ bao giờ vẫn có, chúng khuấy phá đàn chiên.
Mục tử Giêsu đã không để ai cướp được chiên khỏi tay mình,
và trong cuộc chiến đấu này, Ngài đã dám hy sinh mạng sống (Ga 10, 11).
Bây giờ Ngài xin Cha tiếp tục gìn giữ các môn đệ (c. 11b),
là đoàn chiên của Cha mà Cha đã ban cho Ngài chăm sóc.
Vì Thiên Chúa là Cha chí thánh đối với Đức Giêsu (c. 11b),
nên Cha có khả năng làm cho các môn đệ nên thánh.
Thánh thiện là thuộc tính của Thiên Chúa Cha,
nhưng Đức Giêsu cũng được gọi là Đấng Thánh của Thiên Chúa (Ga 6, 69),
và Đấng Phù Trợ được gọi là Thánh Thần (Ga 14, 26).
Thánh thiện là nét chung của Ba Ngôi, tách biệt Ba Ngôi khỏi thế giới,
dù thế giới vẫn là đối tượng để Ba Ngôi luôn cùng nhau hướng về.
Ba Ngôi vẫn muốn chia sẻ sự thánh thiện của mình cho thế giới.
“Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11, 44).
Đức Giêsu xin Cha thánh hóa các môn đệ (c. 17),
nhờ Thánh Thần mà Cha sắp ban xuống trên họ.
Làm cho các môn đệ nên thánh chính là tách biệt họ ra khỏi thế gian,
với lối suy nghĩ và hành động, với những giá trị riêng của nó.
Thánh hóa môn đệ chính là làm cho họ không thuộc về thế gian nữa,
để như Đức Giêsu, họ thuộc về Cha trọn vẹn (c. 16).
Nhưng tách biệt khỏi thế gian lại không có nghĩa là cất họ khỏi đó (c. 15),
và giữ họ an toàn trong tháp ngà bảo đảm.
Đời người Kitô hữu chẳng an toàn, vì họ được sai vào thế gian (c.18).
Thế gian đầy bóng tối, dối trá, hận thù, chính là nơi họ phải đến,
phải đằm mình vào, để biến đổi nó thành ánh sáng, sự thật, tình yêu.
“Các con là muối của trái đất, là ánh sáng của thế gian” (Mt 5, 13).
Được thánh hóa, được tách khỏi thế gian, chính là để được sai vào đó.
Nếu không được thánh hóa, không thuộc về Chúa, thì khi được sai vào,
ta sẽ chẳng biến đổi được thế gian, và sẽ bị nó nuốt chửng.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: NIỀM VUI TRỌN VẸN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha. Tình yêu luôn khát khao kết hợp. Kết hợp tạo nên hạnh phúc. Hạnh phúc đem đến niềm vui. Nay Chúa hết thời hạn ở trần gian để trở về cùng Chúa Cha. Nên Chúa tràn đầy niềm vui, Đó là niềm vui trọn vẹn.
Vì yêu thương, Chúa muốn các môn đệ được tham dự vào tình yêu đó. Được hòa nhập trong tình yêu hiệp thông của Ba Ngôi. Được hưởng niềm vui trọn vẹn.
Tuy nhiên còn có khó khăn vì các môn đệ còn ở trần gian. Vì thế phải sống tất cả những mâu thuẫn của ơn gọi. Phải sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Phải thuộc về Thiên Chúa nhưng còn phải chịu xa cách Người. Phải làm chứng về Nước Trời cho trần gian. Phải sống đời siêu nhiên trong tự nhiên. Phải yêu mến nhưng lại phải dứt bỏ trần gian. Đó là những nghịch lý. Hóa giải và vượt qua những nghịch lý đó là nhiệm vụ của người môn đệ.
Chính Chúa Giêsu đã trải qua những khó khăn đó với tất cả những cám dỗ, những thử thách, những đau khổ. Chúa đã phải chiến đấu với chính mình đến toát mồ hôi máu ra. Nên Chúa cầu nguyện xin Chúa Cha gìn giữ môn đệ để tuy sống giữa thế gian nhưng họ không bị nô lệ cho ác thần.
Và Chúa xin Chúa Cha thánh hóa môn đệ bằng Lời Chân Lý. Lời Chân Lý vạch ra những giả trá của thế gian. Lời Chân Lý dẫn đưa đến sự thật và sự sống. Chính Chúa Giêsu đã dùng Lời Chân Lý mà chống lại lời giả trá của ma quỉ trong ba cuộc cám dỗ. Và Chúa làm gương cho các môn đệ khi tự hiến thân mình khi hoàn toàn dứt khoát từ chối trần gian. Chỉ sống theo thánh ý Chúa Cha.
Thánh Phao-lô là một môn đệ gương mẫu đã thực hành lời Chúa dạy. Ngài cảnh báo các kỳ mục Ê-phê-sô về sự giả trá và chia rẽ xuất phát từ chính nội bộ. Đó chính là thế gian với những lời lẽ giả trá. Phao-lô thuộc về Chúa nên từ chối thế gian. Không ham mê của cải danh vọng chức quyền thế gian. Trái lại ngài làm chứng cho Nước Trời bằng cuộc sống siêu thoát và cho đi. Và ngài hiến dâng đoàn chiên cho Thiên Chúa, cho lời ân sủng của Thiên Chúa. Phao-lô làm gương tự hiến mình để mọi người thấy chỉ có Chúa là sự sống, là sự thật và là hạnh phúc. Chỉ nơi Chúa niềm vui mới trọn vẹn.
SUY NIỆM 3: Xin Cha gìn giữ họ.
Có một câu truyện tưởng tượng như sau:
Khi Chúa Giêsu về Trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần. Tổng lãnh thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:
- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ chăng?
Chúa Giêsu trả lời:
- Không, chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.
Thiên sứ Gabriel giật mình sửng sốt:
- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến họ thất vọng từ bỏ Chúa trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?
Chúa Giêsu đáp:
- Không. Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ không bỏ rơi Ta.
Điều gì đã khiến Chúa Giêsu tin tưởng vào sự trung tín của các môn đệ, dù gặp gian truân thử thách? Chúng ta có thể tìm được câu giải đáp trong bài Tin mừng hôm nay.
Thật thế, dù chỉ là một nhóm nhỏ, các môn đệ đã là đối tượng được Chúa Giêsu đặc biệt quan tâm. Suốt thời gian chung sống, Chúa Giêsu đã gìn giữ họ để không một ai trong bọn họ hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm Lời Kinh thánh. Giờ đây, sắp lìa bỏ họ để về cùng Cha, Ngài không che dấu nỗi lo sợ của Ngài. Ngài đã xin Cha gìn giữ các môn đệ trong Danh Cha, nghĩa là được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, nhờ đó các môn đệ có đủ sức mạnh để thắng vượt mọi khó khăn trở ngại.
Chúa Giêsu sắp về cùng Cha, nhưng các môn đệ vẫn còn ở lại thế gian và phải đương đầu với thế gian, vì họ đã bước theo Chúa và đã đón nhận lời Ngài. Nhưng nếu vì lời mà họ đã bị thế gian ghét bỏ, thì lời cũng giúp họ được thánh hoá trong chân lý, điều đó cho phép họ lãnh nhận sức sống của Thiên Chúa và xứng đáng được sai đi. Chúa Giêsu sai các môn đệ vào thế gian, cũng như Chúa Cha đã sai Ngài. Và để có thể chu toàn sứ mệnh đó, Ngài đã chuẩn bị cho họ đầy đủ. Trong cuộc hành trình này, họ không đơn độc một mình, vì có Chúa luôn ở với họ và cùng chiến đấu với họ.
Ước gì lời Chúa hôm nay củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào sự hiện diện và quan tâm săn sóc của Chúa, để ngay giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, chúng ta được luôn kiên vững trong tình yêu và trung thành làm chứng cho Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Đức Kitô và Kitô hữu.
Chúng ta cùng tên: Kitô hữu và Kitô, chúng ta đã được xức dầu bởi Thiên Chúa, nghĩa là được chọn trao cho một sứ mệnh. Hôm nay, lời Đức Giêsu soi sáng cho ta hiểu rõ hơn về sự đồng căn tính và đồng sứ mệnh giữa Người và chúng ta.
Đây: Đức Giêsu đã liên kết chúng ta với Người, với công trình của Người: “Để họ nên một như chúng ta là một”, “Họ không thuộc về thế gian cũng như Con đây không thuộc về thế gian”, “Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian”, “Con thánh hiến chính mình Con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”. Chỗ khác chúng ta cũng thấy những câu tương đồng như thế: Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em”, “Người ta đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em”, “Họ đã giữ lời Thầy, họ cũng giữ lời anh em”.
Những điều quả quyết này của Đức Giêsu ném chúng ta vào trung tâm sức sống và sứ mệnh của Người. Chúng ta cần nghiêm chỉnh đón nhận lời của thánh Phao-lô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô”. Đức Kitô là đầu, anh em là chi thể của thân thể Người.
Như thế, chúng ta cùng một đường đi như đầu tiếp với thân thể, cùng một hướng đích và một chỉ huy. Chúng ta còn phải cùng sống vâng phục và sẵn sàng như Chúa Con đối với Chúa Cha. Hơn nữa chúng ta còn chia sẻ mọi gần gũi của Đức Kitô với Thiên Chúa. Chúng ta là thân thể của Đức Kitô, nói cách khác, thân thể của Đức Kitô trong thế giới ngày nay. Chúng ta cùng tên, cùng gốc, chúng ta cần chia sẻ cùng đà tiến triển.
Khi ý thức được đồng căn tính, đồng sứ mệnh rồi, lúc đó một đòi hỏi khẩn thiết xuất hiện thúc đẩy chúng ta phải hiến con người mình, thể diện mình cho Đức Kitô. Chúng ta phải có trách nhiệm đáp lại cho những ai hát câu: “Tôi đi tìm dung nhan Chúa …”. Một câu hỏi đang đè nặng trên chúng ta: “Anh em là thân thể của Đức Kitô, anh em là máu huyết của Đức Kitô, anh em là sự vui mừng, tình yêu và hòa bình của Đức Kitô: vậy anh em đã làm gì để nên giống Người?
LP.
SUY NIỆM 5: Thánh hiến
Mục đích sứ mạng của Chúa Giêsu là mạc khải chương trình cứu độ của Chúa Cha và nhất là để làm vinh danh Cha, vì thế, tất cả những gì Ngài làm đều nhằm vào mục đích làm sáng danh Chúa Cha. Trước giờ phút chịu khổ nạn trên thập giá và trước sự hiện diện của các môn đệ, Chúa Giêsu đã hướng về Chúa Cha cầu nguyện: “Lạy Cha chí thánh, xin giữ gìn các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con để họ nên một như chúng ta”. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lời cầu nguyện của Ngài cho nhân loại luôn được hiệp nhất với Chúa Cha trong Chúa Con và cùng với Chúa Thánh Linh và kết hợp với tất cả những ai là thành phần chi thể của mình Chúa. Chúa Giêsu đã tuân phục thánh ý Chúa Cha mặc dù đứng trước cám dỗ từ chối vác lấy thập giá. Ngài múc lấy sức mạnh từ Chúa Cha và lấy sự vâng phục Chúa Cha làm sự vinh hiển của mình.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn ở trong tư thế sẵn sàng vác lấy thập giá mà theo Ngài bất cứ lúc nào Ngài mời gọi chúng ta. Ngài ban cho chúng ta sức mạnh và quyền năng của Chúa Thánh Linh để sống như các môn đệ của Ngài. Chúa Giêsu cũng cầu xin Chúa Cha thánh hóa và thánh hiến các môn đệ trong sự thật và trong sự thánh thiện của Chúa Cha. Chân lý của Thiên Chúa giải thoát chúng ta ra khỏi sự tối tăm của trí óc và sự thống trị của tội lỗi, nó mang đến cho chúng ta sự tốt lành, tình yêu và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chúa Thánh Linh là cội nguồn và là Ðấng ban tất cả sự thánh thiện, nếu chúng ta mở rộng cánh cửa tâm hồn để Chúa Thánh Linh bước vào cuộc đời ta và để Ngài tác động, soi sáng và lèo lái chúng ta, thì Ngài sẽ biến đổi chúng ta bằng ngọn lửa thanh tẩy để chúng ta trở nên giống như Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói: “Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến”. Chúa Giêsu đã tự thánh hiến Ngài như của hy lễ hoàn tất sứ mạng đã được Chúa Cha giao phó và Ngài cũng giao phó sứ mạng đó cho các môn đệ.
Sự thánh hiến của Chúa Giêsu chính là sự khổ nạn của Ngài trên thập giá để qua đó đem tất cả nhân tính của Ngài vào trong sự thánh thiện của Chúa Cha. Sự thánh hiến là sự đổi mới trong Chúa Thánh Linh, bởi vì khi chúng ta mở rộng trái tim để đón nhận sự thánh thiện của Ngài, có nghĩa là chúng ta mở rộng tâm hồn cho Chúa Thánh Linh tác động lên trên cuộc đời của chúng ta. Chúa Giêsu trong lời cầu nguyện đã hướng về Chúa Thánh Linh để qua Ngài mà Chúa tự dâng hiến mình như của hy lễ toàn thiêu. Qua sự thánh hiến của Chúa Giêsu, Chúa Cha cũng thánh hiến toàn thể nhân loại cũng cùng một thể thức, để chúng ta cũng biết đặt mình dưới sức tác động của Chúa Thánh Linh, để Ngài giúp chúng ta bảo tồn đức tin và trung thành với ơn gọi và sứ mạng của mình.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết sống hiệp nhất và biết yêu thương lẫn nhau. Xin hãy thánh hóa chúng con trong chân lý và hướng dẫn chúng con qua Chúa Thánh Linh để chúng con luôn trung thành theo chân Chúa đến bất cứ nơi nào mà Chúa muốn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: ĐƯỢC THÁNH HIẾN ĐỂ TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN (Ga 17, 11b-19)
Câu chuyện ảo tưởng, tham vọng của Ađam và Evà khi nghe theo lời dụ dỗ và lừa phỉnh của Ma Quỷ trong Vườn Địa Đàng khi xưa vẫn được lập lại nơi nhiều người trong xã hội hôm nay, nhất là giới trẻ.
Thật vậy, ngày nay, nhiều người không thể, không biết hoặc đôi khi không nhận ra, nhưng vẫn vui vẻ lựa chọn những chân lý nửa vời, để rồi tin, sống và đi theo. Họ luôn có khái niệm “tạm” cho nhiều tình huống.
Hôm nay, Đức Giêsu cầu xin cho các môn đệ của mình được thánh hiến, tức là được “tách ra” để thuộc trọn về Chúa Cha như Đức Giêsu đã thuộc về Người. Thuộc về Chúa Cha, tức là thuộc về Chân Lý. Thuộc về Chúa Cha cũng là phó thác, tin tưởng vào tình thương của Người. Thuộc về Chúa Cha cũng là vâng nghe lời Đức Giêsu dạy dỗ.
Như vậy người môn đệ được hiện hữu giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Giữa sự ác, lọc lừa, nhưng không thuộc về chúng, mà ngược lại, các ông phải làm chứng cho chân lý Tin Mừng.
Quả thật, các môn đệ đã sẵn sàng làm chứng cho chân lý Tin Mừng như lời Đức Giêsu đã phán: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 26).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn nhắc cho mỗi chúng ta hãy nhớ đến Bí tích Thánh Tẩy ta đã lãnh nhận. Khi thuộc về Chúa qua Bí tích này, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và trở nên môn đệ của Người. Trở nên môn đệ cũng có nghĩa là trở nên chứng nhân. Vì thế, chúng ta không thể không làm chứng cho Chúa trong cuộc sống thường ngày. Làm chứng cho Chúa, tức là từ bỏ Ma Quỷ và mọi việc, mọi sự sang trọng của chúng. Làm chứng cho Chúa cũng có nghĩa là đi ngược với những điều bất chính mà con người ngày nay bày ra.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xin Chúa Cha thánh hóa các môn đệ bằng sự thật, bằng Lời của Người, thì xin cũng thánh hóa chúng con để chúng con được thuộc trọn về Cha để chúng con trở nên giống Cha dù vẫn sống giữa thế gian tội lỗi. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Ơn gọi của con là sống giữa đời
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Trước khi về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ còn ở lại trong thế gian. Chỉ cần ta trung thành với Chúa Giêsu, còn ngoài ra, ta cứ an tâm phó thác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay qủa thực có một sức khích lệ an ủi con rất nhiều. Khó có một trang phúc âm nào cho con dễ cảm nếm được mối tình nồng thắm của Chúa bằng Lời Chúa hôm nay. Chúa về với Chúa Cha, nhưng Chúa không bỏ mặc chúng con. Chúa không quên chúng con, trái lại, Chúa còn lo cho tương lai của các tông đồ và lo cho số phận của chúng con còn ở lại trần gian.
Thân phận của người môn đệ Chúa ở giữa thế gian quả là một nghịch lý. Con ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, sống ở giữa đời nhưng không được sống hoàn toàn như người đời. Không giống thế gian nên con bị thế gian ghét bỏ. Không về hùa với thế gian nên con bị thế gian bách hại. Không để bị lây nhiễm tinh thần thế gian nên con phải can đảm chiến đấu chống lại cám dỗ chạy theo thế gian. Nhưng lạy Chúa, dù gian nan đau khổ, con vẫn tin tưởng phó thác nơi Chúa và trung thành bước theo Chúa. Trái tim con đã thuộc về Chúa, con tin rằng tình yêu và ơn thánh của Chúa sẽ gìn giữ con và giúp con chiến thắng.
Chính vì thế mà con không chạy trốn thế gian. Chúa đã muốn để con ở lại thế gian và sai con vào thế gian. Ơn gọi của con là sống giữa đời, thấm nhập vào thế gian, để phục vụ nhân loại và làm chứng cho Chúa. Xin Chúa giúp con đưa tinh thần Phúc âm vào mọi sinh hoạt của cuộc sống. Xin Chúa gìn giữ con trong chân lý của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ðể chúng được nên một như Ta”.
SUY NIỆM 7: Hiệp nhất giữa các môn đệ của Chúa Kitô
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tháng Giêng năm 2003, tôi đến Rôma kinh thành muôn thuở để họp tại trụ sở Trung ương Dòng, dành những thời gian rảnh, chúng tôi viếng các Đền thờ Mẹ… Tại đền thánh Phêrô, chúng tôi kính viếng lăng mộ của ngài cùng với các Đấng kế vị. Bất ngờ dịp đó chúng tôi được chiêm ngưỡng xác Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, vị mục tử được gọi là Giáo hoàng nhân lành. Đức Gioan XXIII, được phong Chân phước ngày 3/09/2000. Xác được đặt ngay phía dưới một bàn thờ trong đền thờ Thánh Phêrô cho dân chúng kính viếng và cầu nguyện nhân dịp kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng Vaticanô II, Công đồng chung do Ngài loan báo triệu tập. Thi hài ngài được đặt trong hòm kính, với khuôn mặt nguyên vẹn hồng hào như đang ngủ. Công đồng Vaticanô II được gọi là Công đồng Đại Kết vì hướng hiệp nhất của Giáo hội. Tôi nhớ về lời phát biểu của ngài về Đại kết: “Các anh em tín hữu Kitô khác đều là anh em với chúng ta họ chỉ hết là anh em khi họ hết học kinh Lạy Cha…”. Đức Gioan XXIII, vị Giáo hoàng có những nỗ lực phi thường để đối thoại với các tín hữu Kitô để tìm con đường hiệp nhất. Tôi còn nhớ đọc một câu chuyện về Ngài khi trên giường bệnh và giờ hấp hối miệng ngài luôn khẩn nguyện: “Xin cho họ hiệp nhất”.
Suy niệm
Trước khi rời bỏ thế gian, Chúa Giêsu đã thấy trước những tương lai sắp đến với các môn đệ và những người theo Ngài: Những thử thách, có cả những người môn đệ rời bỏ Ngài, sự chia rẽ của các đồ đệ, của các người tin vào Ngài… có cả người rời bỏ niềm tin. Ngài cất lời cầu nguyện khẩn thiết đến Chúa Cha, cho môn đệ, cho thế giới hiệp nhất: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta” (Ga 17,11b). Lời cầu nguyện chung cho thế gian mà Chúa Kitô trong tư cách là linh mục, Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người, nhưng lời cầu nguyện này dành đặc biệt riêng cho các môn đệ mà thánh Clément d’Alexandrie suy niệm: “Tất cả chúng ta tham dự vào chung một tấm bánh thánh và tất cả chúng ta nhận cùng một dấu thánh được Thánh Thần thánh hiến. Chính vì thế những môn đệ phải trở nên một thân thể và tham dự vào chỉ một và cùng Thần Khí cho một tinh thần hiệp nhất được thực hiện viên mãn, hoàn thành... Chúa Giêsu muốn rằng các môn đệ Ngài thực hiện cùng một sự đồng tâm không thể bị phá hủy, trong một hòa hợp tuyệt vời” (Commentaire de l'évangile selon saint Gioan, XI 9). Hiệp nhất giữa các môn đệ của Chúa Kitô luôn là dấu chỉ và là sứ giả xây dựng sự hiệp nhất và bình an cho thế giới mà Chúa Giêsu ước muốn khi khẩn cầu Chúa Cha.
Không chỉ sự chia rẽ nơi thế giới, người tin vào Chúa Kitô sẽ gặp và đứng trước những khó khăn sống niềm tin. Những người đón nhận Tin Mừng sống theo Tin Mừng gột rửa trong tình yêu của Chúa Kitô, họ sống trong Thần Khí và thực thi yêu thương bác ái, công lý (x. 1Ga 3,13-19). Chính vì thế người tin coi cuộc sống của họ khác với sự chọn lựa của thế gian: Quyền lực, tiền tài, danh vọng. Quyền lực của bóng tối, của thế gian muốn thổi tắt những ngọn đèn đang đốt sáng xua bóng tối. Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và các người tin vào Ngài luôn kiên cường đứng vững với niềm tin. Luôn là chứng nhân công lý của tình yêu giữa thử thách trăm bề. Sự kiên vững sống niềm tin của người môn đệ Chúa Kitô như những ngọn hải đăng giữa đêm đen của thế gian đầy hận thù, của chia rẽ.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ cho những người tin vào Ngài luôn được Chúa Cha đoái thương: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật” (Ga17,17). Sự thật là trong cung lòng của Thiên Chúa, tình yêu luôn tuôn trào cho con người và cho thế giới luôn được thực hiện: Thiên Chúa yêu thương nhân loại và Ngài luôn thúc đẩy nhân loại được hòa giải với nội tâm chia rẽ do tội lỗi. Lời hứa bình an và hiệp nhất được chính Con Một Ngài thực hiện qua mầu nhiệm của sự chết: Chết cho tội và phục sinh sống với sức sống mới.
Lời cầu nguyện được xuất phát từ trái tim Đức Kitô, một trái tim dâng hiến yêu thương nhân loại khi cho họ chính sự sống khi trên thập giá, đổ ra giọt máu cuối cùng (x. Ga 19,34) mà Bossuet đã suy ngẫm: “Tư thế của trái tim Ngài và những lời kêu cầu mà Ngài đã cầu xin với Chúa Cha, theo Ngài trong cuộc khổ nạn cho đến khi Ngài chết, đó là linh hồn, của lễ dâng hiến toàn thiêu” (La Cène; II° partie, 33° jour).
Lời cầu nguyện linh mục của Chúa Giêsu luôn dành cho chúng ta với những thực tế mà chúng ta đang sống. Với Chúa Kitô, chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho sự hiệp nhất của thế giới, của Giáo hội, của chính chúng ta.
Ý lực sống:
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống vui vầy bên nhau”. (Tv 133,1).
SUY NIỆM 8: Chúa Giêsu cầu cho các môn đệ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cầu cho các môn đệ của Ngài. Phải hiểu chữ “môn đệ” ở đây theo nghĩa hẹp, nghĩa là không phải tất cả những kẻ tin Ngài, mà là một nhóm cán bộ nồng cốt của Ngài, tức nhóm 12 và nhóm 72. Môn đệ Chúa Giêsu hôm nay là các Giám mục, Linh mục và tu sĩ. Chúa cầu nguyện với ba ý chính:
- Gìn giữ các môn đệ trong đức tin.
- Che chở các ông khỏi thế gian hư đốn.
- Tác thánh các ông theo sự thật.
Thánh hiến các ông qua bí tích Truyền Chức.
2. “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ...”
Trong lời mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cất lời cầu xin cùng Cha Ngài hãy gìn giữ các môn đệ mà Cha đã trao cho Ngài. Vì thế trước khi rời bỏ thế gian, Chúa Giêsu đã thấy trước những tương lai sắp đến với các môn đệ và những người theo Ngài: những thử thách, có cả những môn đệ rời bỏ Ngài, sự chia rẽ của các đồ đệ, của các người tin Ngài... có cả người rời bỏ niềm tin. Ngài cất lời cầu xin khẩn thiết đến Chúa Cha, cho môn đệ, cho thế giới hiệp nhất: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta”. Chúa Giêsu luôn tin tưởng các môn đệ sẽ trung thành thi hành sứ mạng của các ông.
Có một câu truyện tưởng tượng như sau: Khi Chúa Giêsu về trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần. Tổng lãnh Thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:
- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ chăng?
Chúa Giêsu trả lời:
- Không, chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.
Thiên thần Gabriel giật mình sửng sốt:
- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến họ thất vọng từ bỏ Chúa trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?
Chúa Giêsu đáp:
- Không. Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ không bỏ rơi Ta.
3. Trong lời cầu nguyện cho các môn đệ, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không cầu xin Chúa Cha miễn cho các môn đệ khỏi những đau khổ gian truân khi họ thi hành sứ mạng tông đồ. Bởi vì Ngài biết thế nào họ cũng sẽ gặp căm thù, ghen ghét, hành hạ, thử thách, cực khổ. Nhưng Ngài chỉ xin Chúa Cha gìn giữ họ khỏi bị nhiễm lây tội lỗi và sống trong sự thật của lời Ngài. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu xin Chúa Cha thánh hóa các môn đệ của Ngài, để trong lúc sống giữa đời, họ vẫn giữ được sự thánh thiện nguyên tuyền.
4. Chúa Giêsu sắp về cùng Cha, nhưng các môn đệ vẫn còn ở thế gian và phải đương đầu với thế gian, vì họ đã bước theo Chúa và đã đón nhận lời Ngài. Nhưng nếu vì lời mà họ đã bị thế gian ghét bỏ, thì lời cũng giúp họ được thánh hóa trong chân lý, điều đó cho phép họ lãnh nhận sức sống của Thiên Chúa và xứng đáng được sai đi. Chúa Giêsu sai các môn đệ vào thế gian, cũng như Chúa Cha đã sai Ngài. Và để có thề chu toàn sứ mạng đó, Ngài đã chuẩn bị cho họ đầy đủ. Trong cuộc hành trình này, họ không đơn độc một mình, vì có Chúa luôn ở với họ và cùng chiến đấu với họ. Ngài đặt nhiều tin tưởng vào họ trong mọi gian nan thử thách.
5. Ước gì lời Chúa hôm nay củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào sự hiện diện và sự quan tâm săn sóc của Chúa, để giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, chúng ta được luôn kiên vững trong tình yêu và trung thành làm chứng cho Chúa.
Về phía chúng ta, chúng ta hãy sống thánh giữa đời, nghĩa là chúng ta phải sống như sen giữa bùn lầy, ở giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúng ta phải sống như men trong bột, như muối ướp cá, như những chiếc đèn trên cao soi sáng cho mọi người.
6. Truyện: Ảnh hưởng của gương sáng.
Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”.
Cách đây ít lâu một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều dèm pha, đay nghiến từ người chồng do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn, khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn; khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng được chứng tỏ cho ông thấy khi con trở lại đạo, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”.
Một thời gian sau, ông xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ nhưng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.
18/05 Ngưỡng cửa vào sự sống.
- Viết bởi Ga 17, 1-11a
Ngưỡng cửa vào sự sống.
Thứ Ba tuần 7 Phục Sinh.
“Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha”.
Lời Chúa: Ga 17, 1-11a
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy làm vinh hiển Con Cha, để Con Cha làm vinh hiển Cha. Vì Cha đã ban cho Con quyền trên mọi huyết nhục, để con cũng ban sự sống đời đời cho mọi kẻ Cha đã giao phó cho Con. Sự sống đời đời chính là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy nhất chân thật, và Đấng Cha đã sai, là Giêsu Kitô.
“Con đã làm vinh hiển Cha dưới đất, Con đã chu toàn công việc mà Cha đã giao phó cho Con. Giờ đây, lạy Cha, xin hãy làm cho Con được vinh hiển nơi Cha với sự vinh hiển mà Con đã có nơi Cha, trước khi có thế gian. Con đã tỏ danh Cha cho mọi kẻ Cha đã đưa khỏi thế gian mà ban cho Con. Chúng thuộc về Cha, và Cha đã ban chúng cho Con, và chúng đã tuân giữ lời Cha. Bây giờ chúng biết rằng những gì Cha ban cho Con, đều bởi Cha mà ra. Vì những lời Cha ban cho Con thì Con đã ban cho chúng và chúng đã lãnh nhận, và biết đích thực rằng Con bởi Cha mà ra, và chúng tin rằng Cha đã sai Con.
“Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho Con, bởi vì chúng là của Cha. Và mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha cũng là của Con, và Con đã được vinh hiển nơi chúng. Con không còn ở thế gian nữa, nhưng chúng vẫn còn ở thế gian, phần Con, Con về cùng Cha”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Con cầu nguyện cho họ
Suy niệm:
Trong các sách Tin Mừng Nhất Lãm, trước khi bị bắt,
Đức Giêsu đã cầu nguyện trong xao xuyến ở núi Cây Dầu.
Còn trong Tin Mừng Gioan, Ngài đã cầu nguyện trước khi đến đó.
Hôm nay Giáo hội bắt đầu cho ta nghe lời nguyện long trọng này
mà Ngài dâng lên Chúa Cha, trước mặt các môn đệ trong bữa Tiệc ly.
Đức Giêsu không một chút xao xuyến trước cái chết gần kề.
Cả các môn đệ cũng như được nâng lên một tầm cao mới.
Đức Giêsu vẫn bắt đầu lời nguyện bằng tiếng Abba quen thuộc.
Ngài như muốn tóm kết công việc Cha giao phó,
đó là việc tôn vinh Cha qua cuộc sống trên trần gian này (c. 4).
Bây giờ đã đến giờ Ngài về với Cha, nên Ngài nài xin:
“Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha” (c. 1).
Cái chết tự hạ trên thập giá là cử chỉ vâng phục vì yêu thương của Con,
là cử chỉ cao nhất của Con nhằm tôn vinh Cha.
Nhưng tất cả không ngừng lại với thập giá,
vì Cha sẽ tôn vinh Con qua sự phục sinh vinh hiển.
Đức Giêsu được trao quyền năng trên mọi người (c. 2).
Ngài có thể ban sự sống đời đời
cho những ai nhận biết Cha và Con là người được Cha sai (c. 3).
Lời nguyện của Đức Giêsu đặc biệt hướng về các môn đệ
mà Ngài coi là quà tặng quý giá của Cha cho đời mình.
Nhiều lần Ngài nhấn mạnh họ là quà tặng (cc. 2. 6. 7. 9).
Đức Giêsu đã từng coi các môn đệ là những kẻ thuộc về Ngài (Ga 13, 1).
Nhưng Ngài lại không phủ nhận việc họ là người thuộc về Cha (cc. 6. 9).
Môn đệ thật là của chung giữa Cha và Con (c. 10).
Họ là những người được Cha chọn từ thế gian (c.6).
tuy họ vẫn ở trong thế gian (c.11).
Trong giây phút sắp đến cùng Cha, sắp được hưởng vinh quang bên Cha,
Đức Giêsu dâng lời cầu nguyện cho họ (c. 9),
những người còn phải chịu nhiều gian nan thử thách ở đời.
Khi còn sống với họ, Ngài đã cho họ biết Danh Cha (c. 6),
Ngài còn ban cho họ lời mà Ngài đã nhận từ Cha.
Khi đón nhận những lời ấy, họ biết Ngài từ Cha mà đến
và tin Ngài là người Cha sai (c. 8).
Hãy đi vào tâm tình yêu thương của Thầy Giêsu đối với các môn đệ.
Hãy nghe lời cầu nguyện của Ngài cho chúng ta.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn tiếp tục lời cầu nguyện tha thiết ấy.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: TÌNH YÊU VÀ TRẬT TỰ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Càng đến giờ phút giã từ trần gian, tình yêu của Chúa Giê-su càng dâng cao. Tình yêu của Người luôn qui hướng về Chúa Cha. Nhưng tình yêu đó cũng có vương vấn các tông đồ. Tình yêu Chúa Giê-su biểu lộ trong cuộc trao dâng trọn vẹn. Tặng phẩm quí nhất của tình yêu là chính bản thân Người. Người dâng hiến cho Chúa Cha cả linh hồn cả thân xác của Người. Người dâng lên Chúa Cha cả những môn đệ Người yêu quí. Nhưng tình yêu đó lớn lao không chỉ vì những cảm xúc, những quà tặng, mà còn vì được thể hiện trong trật tự.
Chúa Giê-su hiểu rằng Chúa Cha là nguồn cội của bản thân mình và của mọi loài. Mọi sự đều bởi Chúa Cha ban cho. Nên mọi sự phải qui về Chúa Cha. Chính vì thế phải chu toàn thánh ý Chúa Cha. Thân xác Chúa Giê-su là do Chúa Cha ban cho. Nên Người dâng lại cho Chúa Cha trong cái chết vâng phục trên thánh giá. Các môn đệ cũng là do Chúa Cha ban cho. Nên Người xin Chúa Cha gìn giữ để các môn đệ luôn tuân giữ lời Người mà qui hướng về Chúa Cha.
Khi con người hoàn toàn qui phục Chúa Cha thì Chúa Cha được tôn vinh. Và chính con người cũng được tôn vinh vì hoàn thành nhiệm vụ. Trong cuộc tôn vinh đó tình yêu càng dâng cao. Con người càng được hạnh phúc.
Chúa Giê-su mong ước được tôn vinh nơi chúng ta. Cũng như Chúa Cha được tôn vinh nơi Người. Vì thế Người đã cầu nguyện để xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ khỏi thế gian, nhưng luôn chu toàn ý Chúa cha.
Thánh Phao-lô đã hiểu được điều đó, nên luôn bày tỏ tình yêu với Thiên Chúa trong trật tự. Yêu mến hết tình nên thánh nhân dâng hiến trọn đời sống để Thiên Chúa sử dụng: “Giờ đây, bị Thần Khí trói buộc, tồi về Giê-ru-sa-lem mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi”. Yêu mến trong trật tự nên thánh nhân không kể mạng sống mình là gì, chỉ mong chu toàn thánh ý Thiên Chúa: “Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giê-su”.
SUY NIỆM 3: Ngưỡng cửa vào sự sống
Trong ngôn ngữ của thánh Gioan, giờ của Chúa chính là lúc Ngài thể hiện việc cứu chuộc bằng cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Cuộc đời Chúa Giêsu có tột đỉnh là thập giá. Ðối với Ngài, thập giá là đường dẫn đến vinh quang. Qua thập giá, Chúa Giêsu làm vinh hiển Chúa Cha cũng như là vinh hiển Ngài.
Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha vì nơi thập giá, Chúa Giêsu hoàn tất sứ mệnh được Chúa Cha ủy thác. Khi đến thế gian, sứ mệnh của Chúa Giêsu là mạc khải cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa và chỉ cho họ con đường đạt tới tình yêu này. Với cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa; và hướng về thập giá con người cũng cảm nghiệm được tình yêu bao la của Thiên Chúa đến nỗi đã ban Người Con Một cho thế gian.
Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha vì nơi đó thể hiện sự vâng lời tuyệt đối. Thật thế, Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng việc vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu cao trọng hơn mọi danh hiệu. Như vậy, thập giá không những làm vinh hiển Chúa Cha mà còn làm vinh hiển Chúa Giêsu vì thập giá chưa phải là dấu tận cùng. Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một kết thúc bởi vì đã có sự phục sinh kèm theo, cái chết đó chỉ là tỏ lộ cho vinh quang tỏ hiện. Bởi thế, khi giờ đã đến, Chúa Giêsu đón nhận khổ nhục và cái chết trên thập giá, đó là lúc Ngài bước qua ngưỡng cửa dẫn vào cõi sống vinh quang muôn đời.
Ngưỡng cửa Chúa Giêsu bước qua đó vẫn được mở ngỏ chờ đợi những kẻ theo Ngài tiến vào. Theo Chúa Giêsu, người Kitô không thể đứng ngoài con đường của Ngài. Ðường Ngài đi chỉ có một cửa dẫn vào.
Ước gì chúng ta luôn biết đón nhận mọi đau khổ hy sinh, kể cả cái chết để làm vinh hiển Thiên Chúa, và nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng vinh quang của Ngài muôn đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Vinh quang Thiên Chúa.
Lời nguyện hiến tế của Đức Giêsu xoay quanh đề tài “vinh quang” “sự sống đời đời”, đồng thời loan báo cho con người thấy sự kết hợp với Đức Kitô. Sau cùng chúng ta được thấu đạt tới nguồn phong phú dồi dào. Chúng ta thử tìm hiểu những khía cạnh của vinh quang Thiên Chúa. Cũng là vinh quang của chúng ta sau này.
Theo tự điển Kinh thánh, vinh quang của ai không đặt ở tiếng tăm, nhưng ở sự phong phú của bản chất con người. Từ ngữ vinh quang cho ta thấy những ý tưởng hàm chứa những chất nặng ký đầy tràn. Người vinh quang là người bản chất tốt đáng giá, đáng mến, đáng khâm phục. Vinh quang không phải là thứ phụ thuộc bên ngoài bản chất con người, nhưng ở sinh lực nội tâm vững chắc.
Khi Đức Giêsu cầu xin Chúa Cha: “Xin Cha tôn vinh Con để Con tôn vinh Cha” có thể nói: “Xin Cha ban cho Con một bản chất trọn vẹn vững chắc để Con cho Cha trọn vẹn giá trị vững chắc toàn hảo”.
Vinh quang, theo từ ngữ Kinh thánh, còn là sự bày tỏ bản chất hữu thể. Vinh quang Gia-vê chính là Thiên Chúa bày tỏ uy lực huy hoàng, thánh thiện và sức mạnh linh diệu của Ngài. Vinh quang là sự biểu dương của Thiên Chúa phong phú về hữu thể hiện hữu dồi dào.
Trong ý nghĩa này, cuộc thương khó của Đức Giêsu là giờ phút bày tỏ cao nhất về vinh quang Thiên Chúa, Thiên Chúa bày tỏ thiện chí cứu độ của Ngài, bày tỏ bản chất tốt lành của hữu thể mình, bày tỏ ước muốn chia sẻ sự thánh thiện của mình với con người. Đức Giêsu đã nói: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất. Con đã tỏ bản tính của Cha khi hoàn tất công trình Cha đã trao cho Con làm để cứu độ”.
Chiều kích thứ ba của vinh quang Thiên Chúa hệ tại ở sự liên kết của chúng ta vào vinh quang này: “Và Con được tôn vinh nơi họ”. Vinh quang của Đức Kitô sẽ hoàn tất trong vinh quang của Kitô hữu. Tùy theo chúng ta tham dự vào sự sống đời đời, vào sự sống của Thiên Chúa, chúng ta mới hoàn tất được sứ mệnh của Chúa Con, lúc đó Người mới được vinh quang và chúng ta được vinh quang với Người, nhờ Người và trong Người.
CG.
SUY NIỆM 5: Giờ đã đến.
Trong ngôn ngữ của thánh Gioan, giờ của Chúa Giêsu chính là lúc Ngài thể hiện việc cứu chuộc bằng cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Cuộc đời Chúa Giêsu có tột đỉnh là Thập giá. Đối với Ngài, Thập giá là đường dẫn đến vinh quang. Qua Thập giá, Chúa Giêsu là vinh hiển Chúa Cha cũng như Chúa Cha làm vinh hiển Ngài.
Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha, vì nơi Thập giá. Chúa Giêsu hoàn tất sứ mệnh được Chúa Cha uỷ thác. Khi đến thế gian, sứ mệnh của Chúa Giêsu là mạc khải cho nhân loại biết tình yêu của Thiên Chúa và chỉ cho họ con đường đạt tới tình yêu này. Với cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu đã biểu lộ trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa và hướng về Thập giá, con người cũng cảm nghiệm được tình yêu bao la của Thiên Chúa đến nỗi đã ban người Con Một cho thế gian.
Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha, vì nơi đó thể hiện sự vâng lời tuyệt đối. Thật thế, Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng việc vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu cao trọng hơn mọi danh hiệu. Như vậy, Thập giá không những làm vinh hiển Chúa Cha, mà còn làm vinh hiển Chúa Giêsu, vì Thập giá chưa phải là dấu tận cùng. Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một kết thúc, bởi vì đã có sự Phục sinh liền theo; cái chết chỉ là mở lối cho vinh quang tỏ hiện. Bởi thế, khi giờ đã đến, Chúa Giêsu đón nhận khổ nhục và chết trên Thập giá, đó là lúc Ngài bước qua ngưỡng cửa dẫn vào cõi sống vinh quang muôn đời.
Ngưỡng cửa Chúa Giêsu bước qua đó vẫn được mở ngỏ chờ đợi những kẻ theo Ngài tiến vào. Theo Chúa Giêsu, người Kitô hữu không thể đứng ngoài con đường của Ngài. Đường Ngài đi chỉ có một, cửa dẫn vào cũng chẳng có hai. Ước gì chúng ta luôn biết can đảm đón nhận mọi đau khổ hy sinh, kể cả cái chết, để làm vinh hiển Thiên Chúa, và nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng vinh quang của Ngài muôn đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: “GIỜ” ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC TÔN VINH (Ga 17, 1-11a)
Sự sống ai cũng quý và đều mong sao cho sự sống của mình được kéo dài bao nhiêu có thể. Từ đó, ta có thể kết luận rằng, cái chết thì không ai thích! Chính vì thế, mà nhiều người khi đứng trước cái chết đã tỏ ra rất sợ hãi.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu nói đến “Giờ” của Ngài đã chu toàn sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó.
“Giờ” mà Đức Giêsu nói đến ở đây chính là “Giờ” của cuộc tử nạn. Nhưng cũng là “Giờ” của chiến thắng, “Giờ” của vinh Quang và “Giờ” Thiên Chúa Cha được tôn vinh.
Như vậy, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấy rằng: mỗi Kitô hữu, chúng ta cũng đều trải qua “Giờ” đó trong cuộc đời. Phải có “Giờ” khởi đầu, có “Giờ” thi hành và có “Giờ” kết thúc. Hay nói cách klhác, phải trải qua “Giờ” của đau khổ thì mới được vào vinh quang. Phải qua “Giờ” của hiện tại, hữu hạn thì mới có “Giờ” của vĩnh cửu trên Thiên Quốc. Tuy nhiên, “Giờ” của hiện tại phải được chu toàn cách trung thành, thì “Giờ” của tương lai trên Thiên Quốc mới được đảm bảo.
Mong sao, mỗi người chúng ta biết chuẩn bị cho “Giờ” chết của mình thật xứng đáng và ý nghĩa, để sau cái chết, chúng ta được hạnh phúc vính cửu trên Thiên Đàng.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con biết đi theo Chúa trên con đường mà chính Chúa đã đi. Xin cho chúng con biết chu toàn sứ vụ mà Chúa trao cho chúng con, để đến “Giờ” của Chúa đến, chúng con hân hoan đón nhận trong niềm vui và hạnh phúc. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Tư Tế cầu nguyện với Chúa Cha. Trước giờ khổ nạn, Chúa cầu nguyện cho mình được hoàn tất sứ mạng mặc khải Chúa Cha để tôn vinh Danh Cha. Chúa cũng cầu nguyện cho các môn đệ noi gương Người vững tin vào Danh Cha.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con ngắm nhìn Chúa bước vào cuộc khổ nạn, lòng đầy can đảm, yêu thương, bình an. Cả cuộc sống trần gian của Chúa chỉ có một mục đích duy nhất là tôn vinh Chúa Cha, mặc khải Chúa Cha cho chúng con. Hy sinh nào Chúa cũng đón lấy, gian khổ nào Chúa cũng chịu được, nhục nhã nào Chúa cũng chấp nhận, miễn là tôn vinh Chúa Cha và cứu độ chúng con. Chính vì thế, giờ đây, trước giờ phút đau thương của cuộc khổ nạn, Chúa hoàn toàn quên mình và sẵn sàng tự nguyện đón lấy tất cả để biểu lộ tình yêu Chúa Cha dành cho chúng con. Con cúi mình cảm tạ và thờ lạy Chúa.
Lạy Chúa, trong giờ phút trọng đại này, Chúa đã nhớ đến chúng con. Một đàng chúng con đang sống giữa thế gian, nhưng đàng khác nhờ tin vào Chúa và đón nhận Lời Chúa, chúng con đã thuộc về Chúa Cha. Trước sự giằng co ấy, chúng con phải phấn đấu rất nhiều để giữ lòng trung thành với Chúa. Nhưng nhiều lúc chúng con bất trung, phản bội, đã quên lãng hoặc bôi nhọ phẩm giá cao cả của người môn đệ Chúa. Xin Chúa tiếp tục cầu nguyện xin Chúa Cha gìn giữ chúng con trong Danh Cha. Xin cho chúng con noi gương Chúa, luôn trung thành với tình yêu Chúa Cha, để dù phải đau khổ hy sinh, chúng con vẫn can đảm sống trọn vẹn cho vinh quang Chúa Cha và cho phần rỗi chúng con. Đặc biệt, chúng con xin Chúa trợ giúp những anh chị em đang gặp khó khăn trong đời sống đức tin, xin Chúa gìn giữ họ trong tình yêu Cha. Amen.
Ghi nhớ: “Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha”.
SUY NIỆM 7: Đức Kitô cầu nguyện
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tôi là một linh mục, dâng thánh lễ mỗi ngày. Trong lời nguyện cầu, tôi mang tất cả tâm tình của anh em phó thác cho Thiên Chúa. Tôi tạ ơn Ngài đã ban mọi ơn lành trong cuộc sống của con người, mà tôi là đại diện dâng lời tri ân. Tôi phó thác mọi cái khổ của người anh em tôi, những khắc khoải lo âu mà họ và tôi đang phải chiến đấu bôn ba mà chưa thấy mặt trời giữa đêm tối của cuộc sống của chính tâm hồn...
Trong cuộc sống, tôi yếu đuối, trong thánh lễ tôi dâng chính tôi và dâng mọi nỗi yếu hèn của kiếp nhân sinh xin Chúa chữa lành, thánh hóa. Tôi cảm thấy mình như là cầu nối giữa Thiên Chúa và tha nhân. Tôi đại diện nhân loại để hiến tế, để khẩn cầu... Trong chức vụ linh mục thừa tác, tôi được Thiên Chúa ủy quyền để ban phát cho anh em mình của bánh thần lương và giải thích lời Ngài...
Suy niệm
Tin Mừng Gioan 17,1-11 là những lời đầu tiên trong lời cầu nguyện của Đức Kitô với vai trò linh mục thượng phẩm. Đó là tâm tình của người Thầy đối với trò, của mục tử luôn thao thức lo lắng cho đoàn chiên, dù chính Ngài đang phải sống trong đêm tối: Đứng trước cuộc tử nạn sắp tới mà tâm hồn đầy xao động và bối rối, nhưng Ngài vẫn nghĩ đến các đồ đệ của mình, những người liên kết với mình sẽ cô đơn khi vắng bóng Thầy.
Đức Kitô đầu tiên cầu nguyện cho bước đường sắp tới trở nên vinh danh Ngài và qua Ngài vinh danh Chúa Cha: “Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1). Vinh danh Ngài qua con đường thập giá, thập giá phá tan bóng tối, phá tan sự chết, thập giá mở cửa Thiên Quốc cho nhân loại. Khi bước đi với thập giá vào cái chết. Ngài sẽ được vinh danh khải hoàn phục sinh. Vinh danh vụt sáng chói lói như bông hồng đỏ thắm trổ sinh giữa bụi gai, bông hồng của Thiên Chúa cho nhân loại. Chính lúc đó vinh danh Chúa Cha cũng được tỏa sáng giữa thế gian: Tình yêu vĩ đại một vị Thiên Chúa dâng hiến con mình cho nhân gian được sống, cho vũ trụ được gội rửa: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Ngài cầu nguyện cho các môn đệ và những người gắn bó với Ngài qua niềm tin, vì họ sẽ bơ vơ, không Ngài - không nơi nương tựa giữa thế gian mịt mù sắp tới. Ngài xin Cha thánh hiến họ để họ nhận biết được Cha, biết Ngài được Cha sai. Động từ “biết” trong Kinh Thánh giải thích một cách sâu sắc là sự hiệp thông toàn diện thần trí tâm hồn giữa con người với nhau và giữa nhân loại với chính Thiên Chúa. Nhận biết chính Ngài - Đấng Cứu Thế được sai và biết chính Cha. Nhờ mối liên hệ sâu sắc và linh thiêng này mà cuộc sống và tình yêu được nảy sinh. Tình yêu với Thiên Chúa là điểm tựa và là sức mạnh. Tình yêu hiệp thông nảy nở giữa kiếp nhân sinh. Như vậy, cái biết này là sức mạnh đưa con người hiên ngang sống giữa thế gian bao thăng trầm đặc biệt những giờ phút mịt mù sắp tới khi vắng Ngài.
Tâm tình trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu đã nói lên vị thế trung gian, giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa với con người, như thánh Cyrille d'Alexandrie đã cảm nhận từ lời cầu xin này: “Đức Kitô cầu nguyện trong tư cách là con người, trong tư cách là người hòa giải, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người, Ngài tự là câu nối vĩ đại và thánh thiện. Ngài tự hiện chính mình cho chúng ta, bởi lời cầu nguyện, Ngài kéo Cha xuống bên chúng ta; Ngài vừa là của linh mục và vừa là lễ vật hiến tế, Ngài chính là con chiên xóa bỏ tội trần gian và chính Ngài dâng hiến mình lễ vật không tì ố”. Vì thế, vai trò trung gian này là mô phạm cho các vị linh mục thừa tác của mọi thời đại xuyên lịch sử, được mời gọi để tiếp tục sứ mạng của Ngài ở trần gian trong lời cầu của linh mục thừa tác hàng ngày, vẫn luôn khẩn cầu tha thiết đến Chúa Cha cho chúng ta.
Đường trần gian vẫn cứ còn mịt mù, có thấp thoáng của bóng đen bao phủ như các tông đồ cảm thấy đêm tối trước lúc Thầy ly biệt. Đã bao nhiêu lần chúng ta lo âu, cô đơn vì không tìm được sự đồng cảm trong cuộc sống, như tâm trạng của Tagore: “…. Bầu trời rên rỉ như một người đang thất vọng. Đêm nay tôi không ngủ. Chốc chốc lại mở cửa nhìn ra ngoài bóng tối, anh ơi!” (R.Tagore Lời Dâng - Gitanja 22). Đức Kitô vẫn bên cạnh và nguyện cầu cho chúng ta: Được thánh hiến trong sự thật, được Chúa Cha bảo vệ, để biết Ngài và cùng Ngài biết Chân lý. Chúng ta được thắp sáng lên bằng lời cầu thượng tế cho chúng ta vững bước trong Chân lý.
Ý lực sống:
“Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày. Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý người muốn” (R.Tagore, Lời Dâng - Gitanja 36).
SUY NIỆM 8: Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay ghi lại lời Chúa Giêsu xin Chúa Cha tôn vinh Người để Chúa Cha được tôn vinh, và những lời Chúa Giêsu mạc khải cho các môn đệ.
Chúa Giêsu đã sống lại, Ngài đã về trời và từ đây Ngài không còn hiện diện hữu hình bên chúng ta, nhưng Ngài không bỏ mặc ta cô đơn giữa thế gian. Ngài xin Chúa Cha gìn giữ chúng ta vì Chúa Cha đã trao chúng ta cho Ngài. Chúng ta thuộc về Ngài cũng như Ngài thuộc Chúa Cha. Ngài cũng cầu xin cho chúng ta được hiệp nhất trong tình yêu của Ngài và Thiên Chúa Cha. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta được đi vào trong mầu nhiệm tình yêu Ba Ngôi.
2. Bài Tin Mừng dài và khó hiểu. Chúng ta chỉ cần biết đây là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho các môn đệ trước khi Ngài về trời. Đối với Ngài lúc này Ngài thấy mình thanh thản vì đã chu toàn công việc Cha đã trao phó, lúc này Ngài về trời. Đối với Ngài thì thanh thản, nhưng còn các môn đệ còn phải ở lại thế gian, họ sẽ gặp muôn vàn khó khăn, xin Cha hãy gìn giữ họ trong bình an.
Chúa Giêsu vạch ra 4 khó khăn họ sẽ gặp phải:
- Thế gian đầy tội lỗi, đầy cám dỗ, sợ họ không đứng vững.
- Thế gian sẽ bắt bớ họ, sợ họ nản chí.
- Họ sẽ chia rẽ vì bất đồng ý kiến với nhau, Giáo hội sẽ chia năm sẻ bảy.
- Ngài cầu cho họ biết hiệp nhất với nhau để xây dựng Hội thánh.
3. “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ vẫn còn ở trong thế gian”.
Khi nói câu này, hình như Chúa Giêsu tội nghiệp cho chúng ta. Có thể quảng diễn ý Chúa Giêsu một cách đơn sơ: Lạy Cha, phần con thì đã khỏe rồi vì đã thoát khỏi thế gian, nhưng những môn đệ của con thì thật tội nghiệp vì còn phải ở lại thế gian, cái thế gian đó méo mó chứ không còn tốt đẹp như hồi Cha mới dựng nên, cái thế gian đầy dẫy sự xấu sự ác sự khổ, cái thế gian có muôn vàn cạm bẫy, cái thế gian chẳng có giá trị nào vĩnh viễn... Thật là tội nghiệp cho chúng. Vậy xin Cha hãy gìn giữ chúng.
Chúa Giêsu biết rõ ở trong thế gian là thế nào và thoát khỏi thế gian là thế nào, nên Ngài mới cầu nguyện như vậy. Còn chúng ta, chúng ta chỉ biết có thế gian này cho nên chúng ta quyến luyến nó, chúng ta sợ phải mất nó, khi nghe đến ngày chúng ta lìa xa thế gian thì chúng ta sợ hãi âu lo (Carôlô).
4. Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha”.
Theo Chúa Giêsu, giờ đây là đến lúc Ngài đi vào cuộc tử nạn và Phúc sinh. Vì thế, Thập giá làm vinh hiển Chúa Cha, vì nơi đó thể hiện sự vâng lời tuyệt đối. Thật thế, Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng việc vâng lời cho đến chết và chết trân thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người và ban cho Người một danh hiệu cao trọng hơn mọi danh hiệu. Như vậy, Thập giá không những làm vinh hiển Chúa Cha, mà còn làm vinh hiển Chúa Giêsu, vì Thập giá chưa phải là dấu tận cùng. Cái chết của Chúa Giêsu không phải là một kết thúc, bởi vì đã có sự phục sinh liền sau, cái chết chỉ là mở lối cho vinh quang tỏ hiện. Bởi thế, khi giờ đã đến, Chúa Giêsu đón nhận khổ nhục và cái chết trên Tập giá, đó là lúc Ngài bước qua ngưỡng cửa dẫn vào cõi sống vinh quang muôn đời (Mỗi ngày một tin vui).
5. “Xin cho chúng hiệp nhất nên một”.
Sau khi trình bầy với Chúa Cha về hoàn cảnh tội nghiệp của chúng ta còn ở lại thế gian, Chúa Giêsu thưa tiếp: “Xin cho chúng hiệp nhất nên một”. Khi người ta ở trong một tình thế nguy hiểm thì người ta phải đoàn kết lại với nhau. Chúa Giêsu biết chúng ta phải gặp nhiều nguy hiểm ở thế gian nên Ngài xin Chúa Cha giúp chúng ta đoàn kết hiệp nhất.
Chúng ta đang phải đối phó nhiều thứ nguy hiểm lắm: nguy hiểm do ma quỉ quấy phá, nguy hiểm do những kẻ thù của Giáo hội, nguy hiểm do những cám dỗ và cạm bẫy của người đời. Khi chúng ta không đoàn kết hiệp nhất với nhau thì chẳng những chúng ta không giúp gì được cho nhau để thoát khỏi những nguy hiểm ấy, trái lại chúng ta còn làm khổ thêm cho nhau, làm yếu sức nhau, làm cho nhau dễ sa ngã hơn nữa. Những sự bất hòa, chia rẽ, thiếu bác ái đã làm cho biết bao người phải chán nản không còn hăng say chu toàn nhiệm vụ, không còn nhiệt tình đi theo lý tưởng, không còn đủ sức đón nhận hy sinh.
6. Truyện: Hãy cư xử như pho tượng.
Trong những giai thoại về các thánh ẩn tu vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, có câu chuyện như sau: có bảy vị ẩn tu nọ kéo nhau đến sống trong một ngôi đền bỏ hoang của người Ai Cập. Phía trước ngôi đền có một pho tượng. Đây là ngôi đền duy nhất còn sót lại sau khi đã bị tàn phá. Người cao niên nhất trong bảy anh em được bầu làm Bề trên của cộng đoàn. Để dạy anh em qui luật cơ bản của đời sống cộng đoàn, mỗi sáng ông ra trước pho tượng, nhặt một hòn đá ném vào đó. Chiều đến, ông lại ra trước pho tượng và xin lỗi vì hành động ném đá của ông. Cử chỉ khác thường của Bề trên này kéo dài một thời gian khá lâu.
Ngày nọ, không còn nén nổi tính tò mò, một người anh em trong cộng đoàn đã hỏi lý do của hành động khó hiểu ấy. Vị Bề trên trả lời bằng cách hỏi lại người đó như sau:
- Khi ta ném đá vào pho tượng, pho tượng có lung lay không?
Người kia trả lời:
- Không.
Vị Bề trên tiếp tục hỏi:
- Buổi chiều khi ta đến xin lỗi, pho tượng có để lộ xúc động nào không?
Người kia cũng trả lời:
- Không.
Vị Bề trên mới giải thích:
- Anh thân mến, chúng ta có tất cả bảy người trong cộng đoàn, nếu chúng ta muốn sống hiệp nhất yêu thương nhau, chúng ta hãy sống như pho tượng này, đừng ai trong chúng ta tỏ ra giận dữ khi có người anh em xúc phạm đến ta, và cũng đừng có ai trong chúng ta tỏ ra hãnh diện khi có người đến xin lỗi mình.
17/05 Cùng hiệp thông với Chúa
- Viết bởi Ga 16, 29-33
Cùng hiệp thông với Chúa.
Thứ Hai tuần 7 Phục Sinh.
“Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.
Lời Chúa: Ga 16, 29-33
Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Đúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra”.
Chúa Giêsu đáp lại các ông: “Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thầy không một mình
Suy niệm:
Cô đơn trên đời là điều ai cũng sợ.
Phải chăng vì người ta không được dựng nên để sống một mình?
Chẳng phải chỉ người trẻ mới sợ cô đơn và tìm cách tránh né.
Người già cũng sợ không kém.
Người ta sợ đi về thế giới bên kia một mình.
Trong thân phận làm người, Đức Giêsu cũng phải đối diện với nỗi cô đơn.
Ngài không lập gia đình, không có một người bạn đời để chia sẻ.
Bù lại, Ngài có những người thân yêu ở làng Nadarét.
Nhưng ngay cả cha mẹ Ngài cũng không hiểu hết được Ngài (Lc 2, 50).
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài có những người bạn mới là các môn đệ.
Tiếc thay, họ không phải là những người luôn luôn hiểu Ngài.
Ngài muốn chia sẻ cho họ tất cả cái riêng tư giữa Ngài với Cha.
Nhưng họ chưa đủ sức kham nổi.
Đức Giêsu không phải là người thích cô đơn, khép kín.
Ngài dễ đến với dân chúng, với mọi hạng người.
Ngài gặp gỡ họ, loan Tin Vui, và cho họ được tâm thân an lạc.
Các bệnh nhân, tội nhân, trẻ em, phụ nữ,
cũng không ngại đến với Ngài để trò chuyện hay chia sẻ một bữa ăn.
Dù vậy tìm được một sự đồng cảm trọn vẹn nơi con người
vẫn là điều khó đối với Đức Giêsu,
bởi lẽ Ngài còn thuộc về một thế giới khác trên cao.
Ngài mãi mãi là một màu nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp của con người.
Chỉ khi trở về với nguồn cội đời mình,
Đức Giêsu mới ra khỏi được nỗi cô đơn trống trải ấy.
“Tôi không (xét đoán) một mình, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8, 16).
Chính vì Đức Giêsu luôn nói và làm mọi sự theo ý Cha,
nên Ngài chẳng bao giờ cô đơn.
“Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi một mình,
vì tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Vào giây phút chia ly này, khi Đức Giêsu biết điều sắp xảy đến:
“anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả, và để Thầy một mình.
Nhưng Thầy không một mình đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (c. 32).
Đức Giêsu không cô đơn trong cuộc sống,
mà ngay cả khi Ngài kêu lớn tiếng trên thập giá:
“Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mc 15, 34),
lúc đó lại là lúc Đức Giêsu gần Cha hơn cả, kết hợp với Cha hơn cả.
Đức Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối,
vì Cha thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài,
và Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha.
Chúng ta xin được ơn dám chịu cô đơn trước thế gian tội lỗi,
để được một mình với Chúa.
Cầu nguyện:
Giữa những ồn ào của đám đông,
Giữa những sôi nổi của thành công
Và ê chề của thất bại,
Xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
Giữa những khát khao thèm muốn
Và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
Xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
Giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
Chẳng có ai để cậy dựa,
Xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
Để một mình ở đó, trầm lắng và bình an.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Thầy đã thắng thế gian”. Lời nói đầy khích lệ đối với các môn đệ trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Thế gian là một trận chiến khốc liệt. Vì là trận chiến toàn diện. Thế gian có tất cả, bao trùm tất cả. Vì là trận chiến cô đơn. Ta chỉ có một mình chống lại tất cả. Vì thế gian bàng bạc khắp nơi. Ngấm cả vào máu thịt. Nên chống lại thế gian là phải chống lại chính mình.
Chống lại thế gian là một trận chiến cô đơn vì không ai có thể giúp ta. Ta phải tự mình chiến đấu.Nhưng chính trong cô đơn ta gặp được Thiên Chúa. Khi đã dám dứt bỏ tất cả, ta gặp được Thiên Chúa. Ở sâu trong nỗi cô đơn, Thiên Chúa chờ đợi ta như một phần thưởng, như một người bạn thân thiết nhất chỉ xuất hiện khi những bạn bè giả dối ra đi. Như kho tàng chôn giấu trong ruộng. Như viên ngọc nằm trong đá chỉ xuất hiện sau khi loại bỏ những lớp bùn đất bao phủ bên ngoài.
Chiến đấu trong cô đơn đòi hỏi sự trung tín. Khi dám dứt bỏ tất cả, kể cả từ bỏ chính mình, tâm hồn minh chứng một sự trung tín sâu xa với Thiên Chúa. Chính trong sự trung tín, Thiên Chúa hiện diện vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng trung tín.
Chúa Giêsu đã trải qua cuộc chiến khốc liệt và đã chiến thắng. Mọi người đã bỏ Chúa. Chúa đã cảm thấy cô đơn tột cùng. Nhưng rồi Chúa vượt lên trên tất cả và lên cùng Đức Chúa Cha. Các môn đệ chẳng thể đi con đường nào khác ngoài con đường của Thầy. Các môn đệ chẳng thể vượt trội hơn Thầy thoát khỏi nỗi cô đơn. Chúa không hứa giải thoát các ông khỏi cuộc chiến đấu. Chúa loan báo trước cuộc gian nan khốn khó của các môn đệ: “Trong thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khó”. Nhưng chỉ cho các ngài cách thế chiến thắng đó là “Trong Thầy anh em được bình an”. Chỉ đi theo con đường của Chúa, chiến đấu trung tín cho đến cùng, chỉ khi đã vượt thoát hết những ràng buộc của trần gian, người môn đệ mới đạt đến Chúa, mới ở trong Chúa và mới được hưởng sự bình an. Cuộc chiến sẽ rất khốc liệt. Thế gian như miệng sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé. Nhưng “Hãy can đảm lên vì Thầy đã thắng thế gian”.
Can đảm là ơn Chúa Thánh Thần. Sức mạnh phát xuất từ Chúa Thánh Thần. Vì thế, như các tín hữu sơ khai, ta hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần ngự đến và giúp ta trong cuộc chiến đấu với thế gian này. Có ơn Chúa Thánh Thần ta mới hi vọng đạt đến chiến thắng. Vượt lên khỏi thế gian và những ràng buộc của nó, ta mới đạt đến sự bình an là hoa trái của Chúa Thánh Thần.
SUY NIỆM 3: Cùng hiệp thông với Chúa
Chúa Giêsu làm thế nào để thuyết phục các môn đệ tin Ngài là Con Thiên Chúa? Xin thưa, vì Ngài có thể đọc được những ý nghĩ thầm kín nhất trong tận đáy lòng của họ như một quyển sách mở rộng ra trước mắt. Ngài trả lời những câu hỏi của các ông trước khi họ mở miệng thưa với Ngài, và qua đó mạc khải cho họ thấy sự vinh hiển của Thiên Chúa.
Ðối với người Kitô, tin vào Thiên Chúa có nghĩa là tin vào Ðấng do Ngài sai đến, đó là Người Con yêu quí của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta tin nhận Chúa Giêsu vì chính Ngài là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể làm người, vì Chúa Giêsu thấy Chúa Cha và Ngài là Ðấng duy nhất biết và làm chứng về Chúa Cha. Do đó, lòng tin của chúng ta có một nền tảng vững chắc vì dựa trên lời mạc khải của Thiên Chúa, và đó chính là sự khởi đầu cho đời sống trường cửu. Chúa Giêsu cũng cảnh giác các môn đệ rằng lòng tin của họ sẽ gặp những thử thách và các ngài có thể sẽ bị vấp ngã. Ngài cũng đã báo trước về sự phản bội của một dân tộc cũng như sự chiến thắng vẻ vang của Ngài trên thập giá. Mặc dù biết trước rằng các môn đệ sẽ bỏ rơi mình trong giờ phút khổ nạn nhưng Chúa đã đối diện với những cay đắng đó bằng với một tình yêu cao thượng và một thái độ kính cẩn nơi các môn đệ của mình. Chúa yêu thương các ông cho đến tận cùng ngay cả khi họ bỏ rơi Ngài chết cô độc trên thập giá. Vì Ngài biết rằng thập giá sẽ không đem đến sự thất bại nhưng là sự chiến thắng vẻ vang trên tội lỗi và sự chết.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ một cách vô điều kiện thì ngày nay Ngài cũng sẽ nói với chúng ta rằng Ngài cũng yêu thương tất cả nhân loại một cách vô điều kiện và không bỏ rơi bất cứ ai. Khi chúng ta không tránh khỏi những đau khổ của cuộc sống trần thế, thì Chúa Giêsu luôn hiện diện ở giữa chúng ta một cách vô hình và Ngài bảo đảm với chúng ta rằng Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta vượt qua khỏi những thử thách cam go của cuộc sống. Ngài cũng kêu gọi chúng ta hãy can đảm và tin tưởng vì Ngài đã chiến thắng thế gian. Chúa Thánh Linh được sai đến để ban cho chúng ta nguồn hy vọng và lòng xác tín vào sự chiến thắng của Chúa Phục Sinh. Và không gì có thể đè bẹp được lòng tin và sự hy vọng này. Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm để chúng ta vượt qua các trở ngại để giữ vững đức tin của mình.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ rất cần đến sự soi sáng của Chúa Thánh Linh để các ngài hiểu lời Thầy dạy, vì lời Thầy vượt lên trên sự hiểu biết của họ. Các môn đệ tin rằng đã hiểu được những điều Chúa nói nhưng thực ra tâm trí các ông vẫn còn hạn hẹp và lòng tin vẫn còn yếu đuối đến nỗi có thể bỏ rơi Thầy mình sau đó. Chúa cho các ông hiểu rằng việc Ngài trở về với Chúa Cha phải trải qua sự khổ nạn và sự trở lại đó mang một mầu nhiệm sâu xa làm biến đổi tính chất nhân bản của chúng ta, khiến chúng ta thành thụ vật mới dưới tác động của Chúa Thánh Linh, là Ðấng mà Chúa Giêsu sai đến để soi sáng và ban sức mạnh đức tin cho các môn đệ. Chỉ khi Chúa Giêsu chiến thắng sự chết, các môn đệ mới thực sự tin vào Ngài. Cũng như các môn đệ của Chúa ngày xưa, có nhiều lúc chúng ta không hiểu được thánh ý của Ngài. Do thế, chúng ta cầu xin Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta bằng với hồng ân của Ngài để chúng ta được trở nên là những thụ vật mới trong Thần Khí của Ngài, và để chúng ta luôn thực hiện thánh ý của Ngài với một lòng tin sâu xa, đó là cùng hiệp thông với Chúa trong mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Ngài.
Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con luôn biết tín thác vào quyền năng cứu rỗi của Chúa, nhất là trong giờ phút thử thách và thất vọng. Xin ban cho chúng con sự bình an và lòng tin mỗi khi lòng chúng con tràn ngập những nghi ngờ, để chúng con tìm thấy sự hy vọng qua sự chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Sức nuôi sống
Kết thúc bài diễn từ trong bữa tiệc ly, các môn đệ đã tuyên xưng niềm tin: “Chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến” và Đức Kitô đã bảo đảm với các ông: “Hãy tin, Thầy đã thắng thế gian”. Xin cho chúng ta cũng biết tuyên xưng niềm tin của chúng ta như thế.
Nhưng cuộc thương khó đã làm cho lời tuyên xưng của các ông như giả dối: Các tông đồ bỏ Thầy một mình mặc cho sức mạnh của thế gian xổ lồng chống lại Đức Giêsu. Dầu thế, chân lý đã chế ngự toàn diện tấn bi kịch đó. Chính Đức Giêsu ra lệnh cho các kẻ thuộc về mình để kệ Người nộp mình chịu đau khổ trong tay quân thù. Người không tự bảo vệ. Những kẻ nghịch sẽ luôn luôn có. Nhưng sau cùng, tình yêu Thiên Chúa sẽ chiến thắng tất cả. Chúa Cha không bỏ rơi Con mình. Ngài yêu mến Con và mọi kẻ Con đã chọn để ở với mình.
Như thế, niềm trông cậy Kitô hữu đang treo mắc vào trời, không như một bằng khen làm ru ngủ mọi lo âu, sầu khổ, nhưng như một sức nuôi sống tình yêu của chúng ta mạnh mẽ tiến bước. Từ nay mãi mãi chúng ta là người của vĩnh cửu ban một trọng trách ở lại và biến đổi một thế giới hoang dại không Thiên Chúa. Là những người chứa chan niềm vui Thiên Chúa, mang trách nhiệm rao giảng nước trời để cho nhân loại được sống lại trong nước Chúa. Chúng ta sẽ không bao giờ ngừng tiến theo chân Người để phục vụ anh em chúng ta vì Người.
Nếu chúng ta để tâm suy nghĩ bài diễn từ của Chúa, chúng ta thấy được Đức Giêsu đã nói liên tiếp từ Chúa Cha, Thánh Thần và đến Người là Chúa Con: Chúa Cha chỉ nói qua Con, Con không làm gì cho ta mà không có Thánh Thần. Thánh Thần thuần thục hóa ta sống làm con Thiên Chúa. Vòng luân lưu mầu nhiệm này không bao giờ ngừng tăng trưởng trong ta và chung quanh ta. Ước chi chúng ta biết đón nhận mầu nhiệm này để không sống hời hợt như cánh bèo trôi dạt mà sống sâu thẳm như gốc rễ luôn luôn tiếp nhận nhựa sống mới. Sống đức tin không đơn giản nhờ trí thức, nhưng nhờ cam kết gắn bó chính bản thân đã quyết tâm xác tín một lần cho tất cả. Cần tiếp xúc lâu dài đi sâu vào cầu nguyện mới giúp ta cảm nghiệm được tiếng nói thiêng liêng sâu thẳm trong mình: “Hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian”.
LP.
SUY NIỆM 5: Nương tựa vào Chúa.
Cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và các môn đệ như được ghi lại trong Tin mừng hôm nay, đã được thực hiện trong khung cảnh Bữa Tiệc ly, trước giờ Chúa Giêsu vượt qua khỏi đời này để về cùng Cha. Trong những giờ phút đó, Chúa Giêsu cảm thấy được an ủi khi nghe lời tuyên xưng từ miệng các môn đệ Ngài: “Giờ đây chúng con nhận ra là Thày biết hết mọi sự… Vì thế chúng con tin Thày từ Thiên Chúa mà đến”. Có thể gọi đó là lời tuyên xưng niềm tin của các môn đệ; nó không phải là những lời bộc phát, nhưng được kết tinh sau ba năm theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến các phép lạ Ngài làm.
Đáp lại lời tuyên xưng ấy, Chúa Giêsu cảnh tỉnh các môn đệ về sự yếu đuối mỏng dòn của niềm tin nơi con người, đồng thời cho các ông thấy đâu là nơi nương tựa vững chắc nhất. Như Phêrô vừa tuyên xưng “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” thì liền sau đó lại ngăn cản Thày đi vào con đường khổ nạn dẫn tới vinh quang; vừa khẳng quyết theo Thày đến tận cùng, nhưng rồi lại lớn tiếng chối bỏ Thày. Các môn đệ giờ đây tin nhận “Thày từ Thiên Chúa mà đến” nhưng khi giờ đến, các ông sẽ tản mác mỗi người một nơi, bỏ mặc Thày một mình. Nhưng dù có bị các môn đệ bỏ rơi, Chúa Giêsu cũng không đơn độc một mình, bởi vì có Chúa Cha hằng ở với Ngài.
Những kẻ theo Chúa ngày hôm nay cũng có những lúc cảm thấy bị bỏ rơi và không biết tìm nương tựa nơi đâu? Họ chỉ có một nơi nương tựa duy nhất đó là Thiên Chúa, Đấng hằng quan tâm săn sóc con người và ban ơn trợ lực để giúp họ thắng vượt mọi thử thách. Chúa Giêsu đã báo trước các yếu đuối của các môn đệ cũng như những gian truân các ông sẽ phải chịu, nhưng không để làm các ông lo sợ, trái lại để các ông thêm tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.
Nguyện xin Chúa gia tăng nơi chúng ta niềm cậy trông phó thác, để giữa những đêm tối của cuộc đời, chúng ta luôn được bình an, tin tưởng, vì biết rằng có Chúa hằng ở cùng chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: CAN ĐẢM LÊN, THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN (Ga 16, 29-33)
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, chúng ta thấy suốt 300 năm đầu, cha ông ta lớn lên trong thử thách. Một cuộc thử thách triền miên và kéo dài! Còn ngày nay, tuy rất ít hình khổ như gông cùm, đòn roi và cái chết được trưng ra để tra tấn các Kitô hữu. Tuy nhiên, người Kitô hữu hôm nay phải đối diện với một thử thách mới, một cuộc thử thách mang tính vĩ mô và sâu xa đánh vào tận lương tâm của con người. Phải chăng đây là những thử thách tinh vi và người Kitô hữu khi sống đúng những giá trị của Tin Mừng thì cũng không khác gì một cuộc tử đạo liên lỉ, dai dẳng và kéo dài!
Hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết rằng: các ông là những người đi theo Chúa, không có lý do gì các ông không bị bách hại như chính Ngài. Nhưng liền sau đó, Ngài khích lệ các ông: “Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33).
Vững tin vào Lời Chúa phán cùng với sứ mạng đã đón nhận là hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian, nhất là sự xác tín vào niềm vui Nước Trời sau cuộc sống trần gian, các môn đệ đã không sợ gì nguy khốn, các ngài đã băng rừng, vượt suối và chấp nhận mọi sự đau khổ, ngay cả cái chết để loan báo về Tin Mừng tình thương, chân lý và sự sống cho mọi người, để ai tin và đón nhận thì cũng được hưởng niềm vui, hạnh phúc như mình.
Trong cuộc sống của người Kitô hữu ngày nay, hẳn mỗi người cũng đều cảm thấy khó khăn trong việc sống đạo! Thật thế, hơn bao giờ hết, chúng ta đang phải đối diện với những trào lưu tục hóa trên diện rộng, mọi nơi và mọi lúc. Trào lưu đó có thể là một hệ tư tưởng; có thể vì giá trị đạo đức bị đảo lộn; cũng có thể vì miếng cơm manh áo... mà người ta bắt chúng ta phải tin và hành động theo...
Những lúc như thế, Lương Tâm lên tiếng và chúng ta được mời gọi sống những giá trị Tin Mừng ngay trong những thực tại đó. Vẫn biết đây là khó, nhưng hãy cam đảm lên, vì Chúa đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng con là những người môn đệ của Chúa còn đang loay hoay giữa biển đời. Theo Chúa lên đường để về nơi phúc thật là hành trình xa xôi và vất vả. Xin giúp chúng con biết chạy đến cùng Ngài để đón nhận sự bình an và can đảm mỗi khi mỏi mệt đơn côi. Xin giúp chúng con chiến thắng con người yếu đuối, nặng nề của mình, để chúng con lên đường trong thanh thản và an vui. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Can đảm lên, Ta đã thắng thế gian
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: “Trong thế gian, các ngươi sẽ phải khốn khó. Nhưng hãy can đảm lên, Ta đã thắng thế gian”. Đó là lời Chúa Giêsu tiên báo và là niềm an ủi cho mỗi người chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khác với mọi nhà chính trị, trước khi Chúa về cùng Chúa Cha, Chúa đã tiên báo cho những kẻ theo Chúa toàn là những sự khốn khó, nào là bắt bớ, ưu phiền, nào là chống đối, tan rã… Quả thật, hai ngàn năm qua là một bằng chứng cho thấy đã ứng nghiệm cái sự thật đáng sợ đó. Giáo Hội luôn bị bách hại. Tuy nhiên Chúa đã an ủi khích lệ Giáo Hội can đảm lên. Tất cả mọi gian khổ thử thách, dù đáng sợ đến đâu, vẫn không thể ngăn cản Giáo Hội tiến đến chiến thắng cuối cùng mà Chúa dành cho Giáo Hội.
Lạy Chúa, sống giữa thế gian đầy sức mạnh tấn công, đầy gương xấu và mọi thứ lý thuyết đi ngược lại đường lối của Chúa, xin Chúa cho con luôn can đảm, cho con nhớ rằng Chúa đã không báo trước cho con những điều thuận lợi, may lành, mà là báo trước những sự đau khổ, bất lợi và thiệt thòi gắn liền với lý tưởng phụng sự Chúa. Vì thế, khi gặp những nghịch cảnh, con không ngỡ ngàng nhưng biết đón nhận với lòng yêu mến Chúa. Với tình yêu, con sẽ vượt qua tất cả. Khi con thông phần vào thập giá Chúa thì con cũng được chia sẻ phần vinh quang phục sinh.
Lạy Chúa, Chúa là cùng đích của đời con, xin cho con luôn vững tin vào Chúa, hy vọng nơi Chúa. xin cho con trung thành theo Chúa trên con đường thánh giá, để con dự phần vào chiến thắng của Chúa. Chúa đã chiến thắng thế gian, xin giúp con nhìn lên Chúa mà an tâm tiến bước. Amen.
Ghi nhớ: “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.
SUY NIỆM 7: Dũng cảm và tự tin vào Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Henri Shepler là một tân binh. Viên hạ sĩ sai anh xuống làm việc tại nhà ăn. Anh không đi. Viên hạ sĩ cho là anh bướng và dọa sẽ báo cáo lên cấp trên.
- Được, hạ sĩ cứ việc báo cáo. Tôi đăng ký đi lính chứ không phải đi làm bồi bàn.
Buổi chiều, Shepler bị gọi lên bộ chỉ huy. Đôi chân run run, nhưng lòng anh bình thản, vì anh biết mình hành động đúng. Vị sĩ quan hỏi:
- Có phải sáng nay anh không tuân lệnh cấp trên?
- Đúng vậy, thưa ngài.
- Tại sao anh làm vậy?
- Đơn giản là vì tôi cho rằng công việc trao cho tôi là không đúng. Tôi đăng ký làm người lính chứ không phải làm bồi bàn.
Vị sĩ quan bật dậy, đến bắt tay anh và nói: “Shepler, anh đúng là hạng người chúng tôi cần. Tôi vui mừng khi thấy anh là con người dũng cảm và tự tin ở mình”.
Suy niệm
Chúa Giêsu nói về sự thương khó của Ngài: Sẽ phải đối diện với sự sợ hãi, đau khổ, nghi ngờ, phản bội khi người bán Thầy như Giuđa, kẻ chối Chúa như Phêrô, và cuối cùng Ngài phải trực diện với cái chết. Nhưng Ngài vẫn phải tiến bước với lòng can đảm, sẵn sàng bước vào một cuộc chiến…
Ðức Giêsu cũng loan báo cho những môn đệ của Ngài qua hình ảnh các môn đệ đến chúng ta, những Kitô hữu mọi thời sẽ phải lao đao khốn quẫn vì bóng đêm tội lỗi, vì thiếu vắng niềm tin. Chúng ta nhiều lúc bế tắc trong cuộc sống. Sự ác lộng hành, sự dữ nhiều khi đè bẹp chúng ta. Tội lỗi tràn ngập thân xác, tâm hồn khiến ta không còn trỗi dậy được nữa. Quyền lực của thế gian lại bách hại người tin...
Chúa Giêsu đi trước chúng ta, Ngài đã vượt qua sức mạnh của sự chết và bóng đêm của tội lỗi. Ngài dạy chúng ta đừng sợ vì Ngài đã chiến thắng thế gian, và hãy vững lòng và can đảm bước đi giữa thế gian… Niềm tin vào Chúa Phục sinh: “Thầy đã thắng thế gian” cho chúng ta sức mạnh vượt những khó khăn trong đời, đối diện và đi lên từ những thất bại, vượt qua những tranh đấu nội tâm và thể xác, những xung đột trong đời sống hàng ngày, thay vì để nó gặm nhấm trái tim hay tiêu cực trốn chạy. Chúng ta hãy can đảm đứng lên xua tan đêm đen, xua tan bóng tối của tội lỗi, phá tan gông cùm xiềng xích của sự hủy diệt. Nhờ sức mạnh của Đấng Phục Sinh.
Khi hiện ra với các môn đệ sau khi Phục sinh khải hoàn, Chúa Kitô đã giúp các môn đệ nhìn tổng thể cuộc đời trong tinh thần Phục sinh mà chính Ngài là một điển hình: Tất cả là để ứng nghiệm Thiên ý. Các Tông đồ được soi chiếu bằng ánh sáng Phục sinh của Thầy, nên hiểu được ý nghĩa hoàn thành cuộc đời. Các ông được mời gọi tiến bước trong cuộc sống loan báo niềm tin Phục sinh và để niềm tin Phục sinh chiếu rọi cho cuộc đời dù phải đối diện bóng đêm của thế gian và sức mạnh của sự dữ...
Trong Chúa Kitô Phục sinh, từng bước đi giữa thế gian, chúng ta mang tâm tình của thánh Phaolô đã xác quyết: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,37).
Ý lực sống:
“Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
SUY NIỆM 8: Hãy vững tin vào Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tại sao Phụng vụ lại còn chọn cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng này nữa vì nó lấy lại chủ đề bàn về sự thương khó và chịu nạn của Chúa Kitô? Thưa vì đoạn Tin Mừng này trình bầy cho chúng ta về thân phận của Hội thánh đang dong duổi ở trần gian, vì thế Hội thánh cần phải tin tưởng vào Chúa Kitô Phục sinh để can đảm sống và sống dồi dào trong ơn nghĩa Chúa.
Vì thế, Bài Tin Mừng hôm nay trình bầy cho chúng ta về niềm tin của Hội thánh vào sự chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô Phục sinh để thúc đẩy mọi Kitô hữu, con cái của Hội thánh, biết can đảm giữ vững và trung thành với ơn nghĩa Chúa.
2. Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay là lời của các môn đệ thưa với Chúa Giêsu, rằng các ngài đã tin Người là Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Chúa Giêsu ghi nhận niềm tin đơn sơ đó, nhưng cũng hiểu rõ các môn đệ chưa thực sự hiểu đúng về sứ mạng Thiên sai của Người. Bởi cho đến lúc này, các môn đệ tin Chúa Giêsu được sai đến và chỉ chờ cho Người giải phóng dân Do thái khỏi ách thống trị của Rôma và lên ngôi hiển trị, lúc đó các môn đệ sẽ được chia sẻ danh vọng và quyền lực với Thầy. Chính vì thế mà Chúa Giêsu phải nói rõ là sắp đến “giờ của Người”, giờ ở đây không phải là chiêu tập binh mã để giải phóng theo kiểu trần thế, mà là “giờ đi vào cuộc khổ nạn”, giờ môn đệ sẽ tán loạn bỏ lại Người một mình.
3. Từ trước tới nay, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để dạy các ông về Ngài, về Thiên Chúa và về Nước Trời, nhưng giờ đây lúc Thầy trò sắp chia ly, Ngài không dùng dụ ngôn nữa và dạy bảo những lời rõ ràng. Thấy vậy, các Tông đồ tỏ ra hồ hởi, phấn khởi, đắc chí và tự hào vì thấy Chúa tuyên bố rõ ràng về Ngài và biết rõ Ngài bởi Thiên Chúa mà đến.
Nhưng Chúa đã kéo các ông ra khỏi sự mộng tưởng, đưa các ông trở lại hoàn cảnh cụ thể của mình. Chúa nói: “Anh em biết Thầy ư? Anh em tin Thầy ư? Thầy báo trước cho anh em biết khi giờ quyết liệt đến anh em sẽ bỏ Thầy mà trốn chạy hết. Nhưng không sao, Thầy thông cảm sự yếu đuối của anh em. Thầy nói vậy để anh em được yên chí về Thầy, Thầy không buồn, không giận anh em đâu...”.
4. Hôm nay Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ rằng: các ông là những người đi theo Chúa, không có lý do gì các ông không bị bách hại như chính Ngài. Nhưng liền sau đó, Ngài khích lệ các ông: “Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Vững tin vào lời Chúa phán với sứ mạng đã đón nhận là hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian, nhất là sự xác tín vào niềm vui Nước Trời sau cuộc sống trần gian, các môn đệ đã không sợ gì nguy hiểm, các Ngài đã băng rừng, vượt suối và chấp nhận mọi sự đau khổ, ngay cả cái chết để loan báo Tin Mừng tình thương, chân lý và sự sống cho mọi người, để ai tin và đón nhận thì cũng được hưởng niềm vui, hạnh phúc như mình.
5. Trong bài giảng lễ Các Thánh Nam nữ, Đức Giào hoàng Phanxicô chia sẻ: “Lời Chúa chỉ cho mỗi người con đường dẫn về Thiên quốc. Đây là hành trình gian nan vất vả, vì là một cuộc hành trình lội ngược dòng”.
Đức Giêsu mời gọi các môn đệ chia sẻ sứ vụ của Người nơi trần gian. Đó là loan truyền ngọn lửa tình yêu Người đã thắp lên cho cả nhân loại. Tuy nhiên, sống giữa một xã hội bất công và hận thù, việc làm đó của các môn đệ là một hành vi đi “ngược dòng”; và do đó, họ sẽ bị người đời chống báng bởi “thế gian thù ghét những gì không thuộc về nó”. Thế nhưng, trên bước đường loan truyền sứ điệp yêu thương, người môn đệ luôn mang trong mình niềm tin tưởng: Thầy đã chiến thắng khải hoàn, và nhờ sự trợ giúp của Thầy, đến lượt môn sinh cũng được nối bước khải hoàn.
6. Vậy bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta là gì? Nhiều người chúng ta trong cuộc sống theo Chúa cũng giống như các Tông đồ, khi được ơn trên thúc giục thì phấn khởi, nói thánh nói tướng: “Chúng con biết Chúa, chúng con tin Chúa”, hay như Phêrô: “Con sẵn sàng chết với Chúa”. Nhưng khi gặp thử thách thì bỏ trốn, và có lẽ người nói mạnh nhất là người chạy nhanh nhất và sa ngã nặng nề hơn: Phêrô chối Chúa ba lần, các Tông đồ bỏ trốn hết, Gioan được coi là thân thiết nhất, cũng chỉ âm thầm đau xót. Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể giống các Tông đồ lúc đầu thì chúng ta cũng hãy giống các ngài lúc cuối: Phêrô đã ăn năn khóc lóc, các Tông đồ khác hối hận lần lượt trở lại với Chúa.
7.Truyện: Can đảm tuyên xưng Chúa.
Trong thời kỳ cách mạng Pháp, có 16 nữ tu dòng Carmel bị kết án tử hình vì tội cuồng tín. Khi tòa tuyên án, một trong số 16 nữ tu rụt rè hỏi: “Thưa quan tòa, tội cuồng tín là gì”?
Vị thẩm phán đáp: “Là tội dại dột và cố chấp tin vào một tên tử tội đã bị kết án đóng đinh ở trên thập giá cách đây cả hơn nghìn năm”. Nghe thế, vị nữ tu chắp tay ngước mắt lên trời và nói: “Ôi! Thật tuyệt diệu khi được chết vì Chúa Kitô”.
Đến ngày xử án, 16 nữ tu được mang ra pháp trường trên chiếc xe ngựa chuyên dùng chở các tử tội, ai thấy xe ấy cũng sợ, ngoại trừ 16 nữ tu đơn sơ yếu đuối sắp bị hành quyết. Họ cất tiếng thánh thót hát lên những bài thánh ca quen thuộc, trước khi bị đem lên máy chém, từng người một quì trước mặt Mẹ Bề Trên để lặp lại lời khấn vâng lời, sau đó họ cất tiếng hát kinh “Veni Creator: Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến”.
Với một chiếc đầu rơi, cường độ của âm thanh nhỏ dần, cuối cùng đến phiên Mẹ Bề Trên tên là Têrêsa Augustina, trước khi bị lưỡi dao rơi xuống kết thúc cuộc đới, người môn đệ của Augustinô ấy đã lặp lại lời của thánh nhân: “Tình yêu sẽ luôn chiến thắng, vì tình yêu có sức mạnh vô song”.
16/05 Chúa lên trời
- Viết bởi Mc 16, 15-20
Chúa lên trời.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN năm B. Lễ Trọng. Lễ HỌ.
NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI.
"Đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Lời Chúa: Mc 16, 15-20
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.
Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm LỄ THĂNG THIÊN – Năm B
Lời Chúa: Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20
NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
1. Có Chúa cùng hoạt động
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu lên trời,
ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời."
Ái mộ những sự trên trời là một ơn ta phải xin,
vì dưới đất có nhiều điều làm ta ái mộ:
một người, một vật hay một việc nào đó.
Ái mộ quá có thể dẫn đến tôn thờ và làm nô lệ.
Trái đất có vẻ đẹp riêng của nó,
vẻ đẹp làm dịu lòng ta trong hành trình cuộc đời.
Tiếc thay nhiều lúc vẻ đẹp ấy giữ chân ta lại,
không cho ta bước nhanh tới đích.
Lắm khi vẻ đẹp ấy kéo ghì ta xuống,
không cho ta ngước lên cao.
Có vẻ trời ở xa, xa như huyền thoại.
Có vẻ chỉ trái đất là có thật, gần gũi.
Ta bị hút vào trái đất, đắm đuối mê say,
quên mình chỉ là người tạm trú trên mặt đất.
Chúa về trời, về với thế giới của Cha,
điều đó nhắc ta nhớ đời là một cuộc hành trình
mà đích nằm ở phía bên kia.
Trời là đích xa nhưng chi phối những chọn lựa gần.
Cần chọn hướng đi, chọn phương tiện sao cho đạt đích.
Không có trời thì chẳng biết đi đâu!
Con người cần có một trung tâm nằm ngoài mình,
thu hút mình, nâng mình lên,
kéo mình ra khỏi cái tầm thường, thực dụng.
Trời là trung tâm của đất. Đất cho con người sự sống.
Trời cho con người lẽ sống.
Nếu chỉ biết có đất, con người sẽ rơi vào tuyệt vọng,
vì đất chẳng thể thoả mãn con người.
Nơi lòng mỗi người đều có một mảnh trời riêng.
Mảnh trời này cứ đòi gặp bầu trời cao rộng
như gặp lại chốn cũ người xưa.
Thế giới luôn gặp nhiều bế tắc khó khăn
vì người ta đứng ở trên trái đất mà giải quyết.
Cần nhìn trái đất từ trời,
để thấy những giải pháp tận căn, bao quát, hiệu quả.
"Sao các ông cứ đứng nhìn trời?" (Cv 1,11)
Kitô hữu không chỉ khoanh tay ngước nhìn trời,
vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng đang chờ đợi họ,
vì trái đất còn bề bộn bao việc phải làm.
Sống tận tình cho trái đất mà vẫn ngước lên trời cao,
điều đó thật là một thách đố không nhỏ,
nhưng lại là cốt lõi của đời sống Kitô hữu.
Thiên đàng không phải là bầu trời trên đầu ta.
Nhưng bầu trời cao vút, bao la, thăm thẳm,
là một hình ảnh gợi mở về thiên đàng.
Bầu trời càng lúc càng bị che chắn bởi cao ốc.
Hãy tìm những giây phút để ngước mắt lên...
Ngắm bầu trời có thể giúp ta biết sống trên mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi lần hạt Năm Sự Mừng, chúng ta xin được ơn "ái mộ những sự trên trời". Theo ý bạn, những sự trên trời là gì? Yêu những sự trên trời có khó không? Người Kitô hữu có bị giằng co giữa đất và trời không?
Lễ Chúa Thăng Thiên cũng là ngày Quốc Tế Truyền Thông. Ai cũng thấy tác hại của phim ảnh, tivi và những phương tiện truyền thông khác. Theo bạn, ta có thể dùng những phương tiện ấy để rao giảng Đức Kitô không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
2. Hướng lòng lên trời Mc 16: 15-20
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin mừng Mc 16: 15-20 - Mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng đặc biệt, nhắc nhở mỗi chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân về trách nhiệm sống và loan báo Tin Mừng mà Chúa Giêsu để lại cho mỗi người.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta chứng kiến việc Chúa về Trời. Chúa về Trời trước hết diễn tả vinh quang chiến thắng. Qua sự phục sinh, Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần. Người cũng chiến thắng những cám dỗ của thế gian nhằm lôi kéo Người từ bỏ thực thi ý định của Chúa Cha. Chúa Giêsu về trời, đem theo những dấu tích của cuộc khổ nạn (dấu đinh), như bằng chứng của sự hy sinh tự hiến để thánh ý Chúa Cha được nên trọn.
Nhìn lại lịch sử thăng trầm của con người, con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng. Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.
Việc Chúa Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.
Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.
Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.
Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó, như chính Người đã khẳng định: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã trao cho con” (Ga 17,4). Và, như người lính sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về với ngành nguyệt quế chiến thắng, Đức Giêsu được cất lên trời trong vinh quang và giữa tiếng muôn thiên thần tung hô chúc tụng.”Được cất lên”, đó là kiểu nói của Kinh Thánh. Độc giả Do Thái dễ dàng liên tưởng đến trường hợp của ngôn sứ Elia và ông Enốc trong Cựu ước. Hai vị này đã được Chúa cất lên không trung, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ ngôn sứ.
Chúa Phục sinh đang hiện diện, đang có mặt trong cuộc đời chúng ta, không phải chỉ khi chúng ta họp nhau cầu nguyện, không phải chỉ khi chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng Người còn hiện diện trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời chúng ta. Khi thì như một người đang làm vườn (Ga 20,11-18), lúc thì như một người đi đàng (Lc 24,13-35), khi thì lại như một người đang cầu nguyện (Lc 24,50-53), lúc lại như một người thuyền chài (Ga 21,4-23). Chúa Phục sinh vẫn luôn đang hiện diện như vậy, không ngừng hiện diện như vậy với Giáo hội. “Lên trời” đấy, “ngự bên hữu Thiên Chúa” đấy; ấy vậy mà Giáo hội vẫn mạnh dạn khẳng định chắc chắn rằng: “Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,20).
Mừng Lễ Chúa Giêsu Lên Trời, Giáo Hội trình bày cho chúng ta nhiều điểm giáo lý quan trọng, nhưng đặc biệt, nhắc nhở mỗi chúng ta từ linh mục, tu sĩ đến giáo dân về trách nhiệm sống và loan báo Tin Mừng mà Chúa Giêsu để lại cho mỗi người. Sách Công vụ Tông đồ đã thuật lại sự kiện Chúa Giêsu lên trời như là điểm kết thúc sứ mạng của Ngài và mở ra sứ mạng của Giáo Hội dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúa về trời không phải Ngài thoái thác trách nhiệm, cũng không phải Ngài từ bỏ con người, nhưng Ngài hoàn tất nhiệm vụ Thiên Chúa Cha đã trao phó và trở về với Chúa Cha trong vinh quang của Ngài.
Cử hành lễ Chúa Giêsu lên trời đúng bốn mươi ngày sau lễ Phục sinh, Giáo hội có ý giúp con cái mình sống lại kinh nghiệm của Giáo hội sơ khai, một kinh nghiệm rất hữu ích và phong phú cho đời sống của những người con Chúa. Trong thời gian bốn mươi ngày, Giáo hội sơ khai đã vinh dự được sống những tháng ngày mà Thầy Chí Thánh “chiếu cố” gặp gỡ một cách hữu hình, và ngày thứ bốn mươi là lần cuối cùng họ được diễm phúc gặp gỡ Người một cách trực tiếp. Để rồi từ đây, họ sẽ vui mừng hơn nữa khi đã đủ khả năng để bước vào một kinh nghiệm lớn lao hơn, đó là kinh nghiệm gặp gỡ. sống và hoạt động tông đồ với Người, Đấng từ nay sẽ hiện diện một cách vô hình. Điều này đã được thánh Luca mô tả rất hay. Sau khi đã chứng kiến tận mắt Thầy Chí Thánh “được cất lên” và “có đám mây quyện lấy Người”, để rồi “không còn thấy Người nữa”. “Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ” (Lc 24,53).
Chúa lên trời, không có nghĩa là Ngài không còn hiện diện tại trần gian, nhưng là một sự thay đổi cách thức hiện diện. Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như trước đây, nhưng vẫn hiện diện bằng quyền năng, bằng Thánh Thần và bằng sự quan phòng. Người được cất lên trước mặt các Tông đồ và có đám mây bao phủ lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Hình ảnh đám mây bao phủ lấy Ngài, Thánh Kinh muốn nói rằng, Ngài vẫn hiện diện ở bên mỗi người, chỉ có điều là mắt chúng ta bị mây che phủ nên không nhận ra Ngài.
Chúa về trời để chỉ cho ta rằng, mục đích của mỗi người và quê hương đích thực của chúng ta là Nước Trời. Chúa về trời là một bảo đảm chắc chắn cho tất cả những ai tin theo Chúa, thực hành những điều Chúa dạy, đi theo con đường của Ngài thì cũng sẽ được về trời với Ngài. Ngài là người mở đường, Ngài đi trước để dẫn lối cho chúng ta theo sau. Vì thế, mỗi người phải luôn nhớ hướng tâm hồn và cả con người mình về quê trời, là nơi Thiên Chúa là Cha yêu thương đang đón đợi chúng ta.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đầy đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.
Sống trong hy vọng phải là thái độ không thể thiếu nơi người tín hữu. Chúng ta không thể để những khó khăn hoặc những đe dọa của con người, của xã hội làm chúng ta mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng của người tín hữu không ảo tưởng, nhưng được đặt trên lời hứa của Chúa Giêsu. Ngài hứa sẽ ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, Ngài sẽ trở lại đem chúng ta về với Ngài và chung hưởng hạnh phúc với Ngài.
Chúng ta chỉ có thể nói về Chúa cho người khác khi chúng ta có Chúa, đồng thời, ta chỉ có thể nói về Chúa một cách không mệt mỏi khi chúng ta hoàn toàn xác tín vào Chúa. Trong khi anh em Tin Lành không hề ngại ngùng nói về Chúa Giêsu, thì dường như người Công Giáo lại rất ngại khi nói về niềm tin của mình. Lý do là vì đời sống của họ quá khác với đời sống của Chúa Kitô và của Tin Mừng. Họ sống đạo một cách hời hợt qua lần, không cầu nguyện, không lãnh nhận Bí tích. Nhất là nhiều người không tự tin về vốn giáo lý của mình, bởi vì họ không học hỏi, không trau dồi nên họ tránh né không dám nói về Chúa, không dám mạnh dạn bênh vực niềm tin của mình.
Thật vậy, để về trời thì con người phải biết dựng xây thiên đường hạ giới bằng một đời sống thực thi Lời Chúa. Lời Chúa chỉ tóm gọn trong hai điều là mến Chúa yêu người. Yêu là cách chúng ta phá bỏ hỏa ngục để xây dựng thiên đường tại thế. Yêu là cách chúng ta đang gửi những viên gạch lên trời để xây dựng ngôi nhà vĩnh viễn trên thiên đường.
Và thầm mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen.
3. Hướng lòng về trời cao
(Suy niệm của Huệ Minh)
Mở lại những trang thơ của nhà thơ Hàn Mạc Tử, ta bắt gặp bài thơ : "Những giọt lệ":
Trời hỡi, bao giờ tôi chết đi!
Bao giờ tôi hết được yêu vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lòng tôi cứng tợ si??
Họ đã xa rồi không níu lại
Lòng thương chưa đã, mến chưa bưa....
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?
Tâm tình sao mà da diết quá!
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Người đi thì mặc kệ người đi chứ có mắc mớ gì đến ta, dính dáng gì đến ta mà hồn ta bỗng dại khờ?
Nói như thế, ắt hẳn không thỏa đáng bởi lẽ là con người, bên cạnh lý trí, con người còn có những cảm xúc, tình cảm hết sức đặc biệt. Nhất là với những người thân quen, những ai đã hơn một lần gặp gỡ, hơn một lần sống chung, làm việc chung. Đặc biệt với người mà mình thương mến, khi xa cách sẽ có một cảm xúc khó tả và thật khôn lường.
Với những lẽ như vậy, ta hiểu được phần nào tâm trạng của các môn đệ khi xa cách Thầy mình. Khi chứng kiến cảnh Thầy lên trời, lòng cứ lâng lâng, cứ bâng khuâng nhìn mãi. Đang lâng lâng, đang bâng khuâng đó thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời".
Tiếc thương cũng rồi! Đành thôi đã lên trời! Còn đâu, ước mơ gì cũng thế!
Nếu ta là các môn đệ, ta cũng tiếc nuối, cũng nhớ nhung, cũng bâng khuâng nuối tiếc vì sự ra đi của Thầy Chí Thánh.
Nhìn vào cuộc đời các môn đệ, ta bắt gặp được những tình cảm hết sức tự nhiên, rất thật của con người. Các môn đệ tiếc nuối đó, đau đớn đó nhưng rồi nhờ ơn Chúa Thánh Thần, nhờ Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu hứa sẽ gửi đến đã đồng hành, đã cùng hoạt động nơi các ông. Các môn đệ tưởng chừng như mất phương hướng, tưởng chừng như buông xuôi đó nhưng lại mãnh mẽ lên đường để loan tin mừng Phục Sinh cũng như loan tin rằng Chúa đã lên trời để gọi là dọn chỗ cho những ai muốn đi theo Ngài.
Biến cố lên trời thật sự là một biến cố mất mát dưới cái nhìn của trần gian, dưới cái nhìn của tình cảm con người nhưng việc Chúa Giêsu lên Trời "có lợi hơn cho anh em" như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ. Hẳn nhiên không ở lại mãi ở dưới đất với các môn đệ được. Và nếu cứ ở mãi dưới cái cõi nhân gian này thì cũng chẳng có gì để bàn, để nói cả.
Đọc và suy mầu nhiệm thứ hai trong mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng như thế này : Thứ hai thì gẫm Đức Chúa Giêsu lên Trời, ta hãy xin ái mộ những sự trên Trời! Lời gẫm, lời xin ấy xem ra đơn giản nhưng thật sự là khó bởi lẽ ái mộ thì ai cũng có thể ái mộ bằng lời nói, bằng cái miệng của mình nhưng để sống mầu nhiệm Nước Trời không phải là chuyện giản đơn.
Thật khó khi ta sống trong cái thân phận làm người mà Chúa lại mời gọi ta hướng lòng về Trời cao mà Trời cao đó chưa ai thấy, chưa ai nếm, chưa ai biết cả. Có chăng chỉ biết qua lời mà Thiên Chúa nói nơi Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa, là Con Một của Thiên Chúa mà thôi.
Lời của Chúa Giêsu, sứ mạng của Chúa Giêsu khép lại ở trần gian nhưng đã mở ra một cửa ngõ khác là cửa ngõ về trời. Như Chúa Giêsu đã hứa là Chúa đi và dọn chỗ cho chúng ta. Chính vì vậy, ta lại hoàn toàn tin tưởng và lại ngong ngóng hướng về Trời cao, nơi Chúa đã dọn sẵn cho mỗi người chúng ta.
Quả thật là khó khi ta sống trong cái thân xác này mà lại đòi hỏi lòng hướng về Trời. Quá khó để sống tâm tình đó vì lẽ trong ta mãi mãi có sự giằng co của sự thiện và sự ác, giằng co của cái bám víu vào thực tại trần gian và cái làm cho ta bay bổng lên cùng Thiên Chúa.
Ta thấy, như cánh diều biếc, càng nhẹ nhõm thì càng dễ vút lên trời. Ngược lại, con diều nặng nề sẽ không dễ dàng hay dù có lên trời đi chăng nữa cũng sẽ chòng chành và sẽ dễ rớt.
Nghĩ về con diều, nhớ về con diều để ta nhìn đến phận người của chúng ta. Cuộc đời của chúng ta cũng như những cánh diều biếc như vậy. Càng nhẹ nhõm, càng thanh thoát thì ta càng dễ đến gần Chúa và ở bên Chúa hơn.
Nhìn vào cuộc sống, đôi khi ta mãi mê thế sự trần gian nhưng ta quên điều chắc chắn của đời người đó chính là ai ai trong chúng ta không thể nào thoát ra khỏi cái chết. Chính cái chết đã bắt buộc ta phải bỏ lại những cái gì mà ta từng trân quý, ta từng ấp ủ trong đời, ngay cả người mà ta gọi là cha, là mẹ, là vợ, là chồng, là con cái... những người thân thương. Yêu lắm, thương lắm, nhớ lắm nhưng buộc lòng ta phải để lại chứ không ai có thể mang theo được. Và, dù người còn lại có yêu ta cỡ nào đi chăng nữa cũng không thể nào đi theo ta hay níu kéo ta được.
Thực tế là ta phải khép cuộc đời ta ở trần gian này tùy theo thánh ý Chúa cho ta sống bao nhiêu năm trên trần gian. Khi ta khép cuộc đời ở trần gian này ta bước qua ngưỡng cửa khác, ngưỡng cửa mới đó chính là ngưỡng cửa Nước Trời.
Nước Trời thật ra cũng dễ vào nhưng cũng rất ư là khó vào bởi lẽ Chúa Giêsu đã hơn một lần nói cho ta biết là phải vào cửa hẹp mới vào được Nước Trời, phải bỏ của cải thế gian, phải làm tôi Thiên Chúa, phải đáp ứng được những đòi hỏi của Nước Trời.
Ngày hôm nay, mừng kỷ niệm biến cố Chúa Giêsu lên Trời, ta không được dừng lại ở cái nhìn của trần gian, của con người xác thịt nhưng ta xin Chúa cho lòng ta hướng lên Trời thật sự. Lòng hướng lên Trời thật sự khi và chỉ khi ta bỏ bớt những đam mê của trần gian, những quyến rũ của trần gian.
Vẫn là con người mong manh mỏng dòn và yếu đuối, chính vì thế ta lại càng cần xin ơn Chúa hơn nữa để ta bỏ đi những gì là dính bén vào đời ta làm cho ta nặng nề và khó siêu thoát. Xin Chúa thêm ơn cho ta để dù sống trong cuộc đời này nhưng lòng ta luôn hướng về Quê Trời nơi quê hương đích thực của mỗi người chúng ta.
4. Chứng từ & việc rao giảng
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Chủ đề: "Đức Giêsu giao chúng ta sứ mệnh làm chứng cho Ngài giữa thế gian và rao giảng cho các dân tộc"
Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải công khai tuyên xưng nó”.
Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?”. Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất sung sướng được nghe anh xưng tội”. Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!”. Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con”.
***
Tinh thần làm chứng nhân của anh lính thủy quả là hơi “quá” nhiệt tình, nhưng chắc chắn anh đã có một ý nghĩ đúng đắn. Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Chúa Giêsu bảo các môn đệ “Các ngươi sẽ làm chứng cho Ta đến tận cùng trái đất”. Lệnh truyền của Chúa Giêsu bao hàm tất cả chúng ta, qua Bí Tích Rửa tội, Thêm sức, tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm chứng nhân cho Chúa Giêsu. Nhưng Bí tích Rửa tội và Thêm sức còn đòi hỏi chúng ta đi xa hơn, chúng yêu cầu chúng ta nhiều hơn nữa. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Hãy công bố Tin Mừng cho mọi tạo vật”. Đó cũng là điều mà tất cả chúng ta phải thi hành.
Việc công bố Tin Mừng về Chúa Giêsu không dành riêng cho các linh mục hay các tu sĩ. Đó là bổn phận mà tất cả chúng ta đều phải thực hiện sau khi đã nhận lãnh phép Rửa tội và Thêm sức. Điều này gợi lên một vấn nạn: Một người trung bình có thể rao giảng như thế nào về Chúa Giêsu trong thế giới hôm nay?
Tôi xin chia sẻ với quí vị câu chuyện nói về cách thế mà một người đã dùng để trả lời cho câu hỏi ấy.
Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn. Chỉ tội chàng ta nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy là khó khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia chàng nảy ra một ý kiến. Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin công giáo. Vì vậy chàng quyết định dành riêng một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn sách ấy. Ruddel để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta thường cầm chúng lên đọc. Chẳng hạn, ở những phòng chờ đợi và tiếp khách.
Một hôm, một thiếu phụ vốn là bạn của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết cô ấy đã trở lại đạo thế nào và chồng cô đã trở về với Giáo hội thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một quyển sách nhỏ mà tôi đã tìm thấy tại phòng chờ đợi ở bệnh viện”. Anh chị em có thể tưởng tượng được chàng trai đã phấn khởi biết bao khi biết được tầm ảnh hưỏng mà chỉ một trong những tập sách nhỏ của chàng đã tạo ra.
***
Câu chuyện của Ruddell Morris nhấn mạnh một điều quan trọng trong việc công bố Tin Mừng: Có nhiều cách để công bố Tin Mừng. Chúng ta có thể công bố một cách trực tiếp như Ruddell đã làm. Hoặc “công bố” một cách gián tiếp, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện hoặc gíup đỡ tài chính cho các hoạt động truyền giáo của Giáo hội.
Lễ Thăng Thiên là một trong những lễ quan trọng nhất của toàn năm phụng vụ. Đó chính là lý do khiến chúng ta mừng lễ Thăng Thiên với hình ảnh chuyền gậy từ vận động viên này tới vận động viên khác trong một số cuộc chạy đua tiếp sức.
Cũng ngay này, cách đây hơn 2000 năm, Đức Giêsu đã chuyền chiếc gậy tượng trưng công việc của Ngài cho các môn đệ để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Chúng ta có thể tiếp tục công việc ấy bằng cách làm chứng cho đức tin của mình như anh lính thủy kia đã làm và công bố đức tin ấy cho kẻ khác như Ruddell đã làm. Đây là một trách nhiệm hai mặt mà lễ Thăng Thiên đặt ra cho chúng ta. Mỗi người chúng ta phải chu toàn trách nhiệm này theo cách thức mà Chúa Thánh Thần linh ứng cho từng người.
Để kết thúc, chúng ta hãy nhắc lại những lời Đức Giêsu truyền dạy cho các môn đệ Ngài trong bài giảng trên núi. Chúng có một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta trong ánh sáng của ngày lễ hôm nay.
“Các con là muối ướp cho mọi người, nếu muối nhạt, thì chẳng còn cách gì làm cho nó mặn lại được, nó trở thành vô dụng, chỉ còn nước ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
Các con là ánh sáng cho toàn thế giới, là một thành phố xây trên một ngọn đồi nên không thể giấu được….
Cũng thế, ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5: 13-16).
5. Chứng nhân của Đức Kitô
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Từ hơn 500 năm trước, ngôn sứ Dacaria đã tiên báo Chúa Giêsu sẽ chia tay các môn đệ tại núi Ôliu. “Ngày ấy, Người sẽ dừng chân trên núi Ôliu, đối diện với Giêrusalem về phía đông.” (Dcr 14,4). Điều đó đã được sách Công Vụ Tông Đồ xác nhận ngay trong phần mở đầu. (Cv 1, 12)
Mặt khác, cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu bắt đầu diễn ra tại vườn Giệtsimani, dưới chân núi Ôliu. Nay Chúa thăng thiên trên núi Ôliu, phản ảnh sự liên tục đầy ý nghĩa, cũng như sự liên kết chặt chẽ giữa đất và trời qua trung gian Chúa Giêsu.
Kinh ngạc trước cảnh tượng Chúa Thăng Thiên vinh hiển và huy hoàng, các tông đồ cứ mãi ngẩn ngơ dõi theo, đến nỗi hai thiên sứ hiện đến nhắc nhủ: Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông thấy Người lên trời. (Cv 1, 11)
Bây giờ, chúng ta cũng chẳng khác các ngài, cũng hay chỉ đơn giản nhìn lên trời, mà than thở, kêu van, kinh kệ, hay ao ước, mong vào cõi phúc vĩnh cửu. Làm như sống đạo chỉ biết đến duy nhất hai chữ “Xin Cho”, y như bắt chước nếp sống thế gian, khi long đong lận đận, chỉ biết xin xỏ lòng hảo tâm.
Tuy nhiên, điểm nổi bật trong bài Tin Mừng theo thánh sử Máccô hôm nay, chính là lời dặn dò cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi Người lên trời. “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ, còn ai không tin sẽ bị kết án.” (Mc 16, 15)
Sách Công Vụ Tông Đồ còn nhấn mạnh hơn nữa: “Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1, 8)
Như thế, tuy hai câu nói cuối cùng của Chúa Giêsu được hai sách thánh ghi lại, không hoàn toàn giống nhau về mặt chữ nghĩa, nhưng lại cùng chung một nội dung truyền giáo, một lời trăn trối, hay đúng hơn là một mệnh lệnh.
Mệnh lệnh truyền giáo đó được thực hiện cụ thể qua hai hành động: Loan báo Tin Mừng và làm Chứng Nhân của Chúa Kitô. Tuy hai, mà lại kết hợp mật thiết làm một, như hai mặt của một đồng tiền. Dẫu vậy, thường chúng ta lại chỉ quen chọn và ưu ái một việc, là thích rao giảng hơn làm chứng nhân.
Trước đây, Chúa Giêsu đã nêu tấm gương sáng, ngôn hành hiệp nhất, qua ba năm giảng dạy và cuộc khổ nạn đau đớn, để minh chứng công khai tính khả thi trọn vẹn của mệnh lệnh đó.
Riêng vai trò chứng nhân được Chúa nhắn nhủ nhiều lần. “Chính anh em là muối cho đời…Chính anh em là ánh sáng cho đời…Ánh sáng của anh em phải chiểu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp của anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”(Mt 5, 13-16) (Mc 9, 50)( Lc 14, 34-35)
Cảm nghiệm về vai trò chứng nhân, ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận chia sẻ:”Giáo dân thời sơ khai diễn tả cách nôm na: Tông đồ là người có Chúa Kitô trong lòng, Chúa Kitô trên miệng, Chúa Kitô trên tay, Chúa Kitô trong óc, Chúa Kitô trên vai…Tóm lại, là một người đầy tràn Chúa Kitô và cho kẻ khác Chúa Kitô.”( ĐHV, số 292)
Lạy Chúa Kitô, xin cho con biết nhiệt thành đón nhận sứ mệnh Đi Gieo Tin Mừng, mặc dù gian nan, thử thách và hiểm nguy.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin giúp sức con can đảm, trở thành chứng nhân đích thực của Chúa Kitô, giữa xã hội xô bồ đầy mâu thuẫn, đang mải mê chạy theo tà thần và phù vân. Amen.
6. Sống mầu nhiệm Chúa lên trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Mùa Phục Sinh theo niên lịch Phụng vụ sắp kết thúc. Hội Thánh dẫn đoàn con đến với mầu nhiệm Chúa Thăng Thiên. Dĩ nhiên là Kitô hữu trưởng thành, hẳn chúng ta không còn ngây ngô nhìn lên khoảng không gian trên trời để tìm xem nơi Chúa đã về. Chúa về trời nghĩa là Chúa lấy lại vinh quang của một Thiên Chúa có từ đời đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Điều này được Thánh Kinh trình bày khi nói Chúa Kitô về trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Eph.1,20-21). Và chúng ta có thể nói rằng mầu nhiệm Chúa về trời như là một trong những điểm tới của nhiệm cục cứu độ.
1. Mầu nhiệm Chúa về trời khẳng định “thần tính” của Đấng vào đời: Không ai có thể lên trời nếu người đó không từ trời mà xuống (x.Ga 3,13). Đấng từ trên cao xuống là Đấng vượt trên muôn vật muôn loài. Khi tuyên xưng Đức Kitô về trời chúng ta không chỉ tuyên xưng một biến cố mà là tin nhận một quá trình. Đó là “ Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trỗi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Phil 2,6-11).
2. Mầu nhiệm Chúa về trời là nền tảng cho niềm hy vọng của con người: Chúa Kitô bỏ vinh quang danh dự của mình khi vào đời để rồi sau đó lấy lại thì có liên quan gì đến loài người chúng ta cũng như mọi loài thụ tạo? Xin thưa rằng có. Khi về trời, ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang bất diệt thì trong Chúa Kitô đã có tất cả những gì là thuộc nhân tính, thuộc thế trần. Bởi vì những gì thuộc thế trần, thuộc nhân tính đã được Đức Kitô tiếp nhận khi vào trần gian. Chính vì thế, từ đây mọi sự mọi loài, đặc biệt loài người chúng ta có thể đi vào cõi vinh quang vĩnh hằng chính là nhờ, với và trong Đức Kitô. Cái hữu hạn từ đây có thể trở nên thường tồn. Sự chóng qua từ đây có thể trở nên bất diệt. Và điều này đáp ứng nỗi khát mong muôn thưở của con người đó là được sống mãi. Niềm hy vọng của con người về sự trường sinh đã được mở ra với mầu nhiệm Chúa Kitô lên trời. Đức Giáo hoàng Lêô Cả khẳng định rằng khi mừng mầu nhiệm Chúa lên trời là “chúng ta đang tưởng niệm và long trọng cử hành ngày bản tính yếu hèn của chúng ta nơi Đức Kitô được đưa lên cao hơn các đạo binh trên trời, hơn tất cả các phẩm thiên thần, hơn tất cả các quyền thần, để cùng hiển trị với Chúa Cha” (Bài đọc 2 giờ Kinh Sách Thứ Năm tuần VI mùa Phục Sinh).
3. Mầu nhiệm Chúa về trời mời gọi, đúng hơn là thúc bách ta rao truyền tin vui: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,17-20). “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15) Tin nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa thật, đồng thời tin nhận Người đã đưa các thực tại trần thế vào vinh quang Thiên Chúa với mầu nhiệm Thăng Thiên, không chỉ củng cố niềm hy vọng của chúng ta mà còn thúc bách ta rao giảng Tin Mừng. Nội hàm chủ yếu của Tin Mừng chính là Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ nhân trần mãi đồng hành với nhân loại mọi nơi, mọi thời. Thiên Chúa đã cắm lều giữa trần gian là ở mãi với nhân loại. Người mãi đồng hành với chúng ta, đặc biệt bằng Thánh Thần Người ban tặng, bằng Lời của Người đã trao ban, bằng các Bí tích, bằng Hội Thánh Người đã thiết lập…
4. Mầu nhiệm Chúa về trời đòi hỏi chúng ta làm cho cuộc đời hữu hạn này trở nên thường tồn. “Hởi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?…” (Cvtđ 1,11). Ái mộ những sự trên trời không có nghĩa là ái mộ những sự gì đó trên cao xanh mà là ái mộ những sự vĩnh hằng, những sự không thể bị kẻ trộm lấy mất hay mối mọt làm hư hoại (x. Mt 6,20). Lòng ái mộ này thúc bách ta không ngừng tìm cách vĩnh cửu hóa các thực tại chóng qua. Mọi sự, dù là bình thường hay tầm thường đều có thể trở thành phi thường trong tình yêu của Đấng Cứu Độ dành cho nhân trần. Tình yêu ấy có thể hiện rõ qua Lời Chúa, qua các Bí tích, qua Hội Thánh. Nhưng tình yêu ấy cũng có thể bàng bạc khắp mọi nơi bằng quyền năng của Thánh Thần, Đấng luôn luôn tự do như “gió muốn thổi đâu thì thổi” (x.Ga 3,8). Cùng với Thánh Thần, Hội Thánh không ngừng làm cho Nước Trời trị đến mọi lúc, mọi nơi, trong mọi thực tại của kiếp người: kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, giải trí, truyền thông…
Chính nhờ, với và trong tình yêu của Đức Kitô thì các thực tại trần gian trở thành vĩnh cửu. Đây là tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, một tình yêu hướng tha. Và Chúa Kitô đã cụ thể hóa tình yêu ấy bằng sự hiến dâng mạng sống mình cho nhân loại (x.Ga 15,13). Yêu thương mà tự nguyện nhỏ mình đi, ẩn mình đi, tự hủy mình đi để cho người mình yêu được sống, sống dồi dào, được triển nở và tinh tuyền thì đúng là yêu thương cách hoàn toàn vị tha, chỉ vì người mình yêu. “ Thầy ra đi thì có lợi cho anh em …” (Ga 16,8). Có thể nói Chúa Kitô đã khởi đầu sự ra đi ấy với việc bỏ trời xuống làm người, với hiến tế thập giá và kết thúc bằng mầu nhiệm về trời.
Ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa (x.1Ga 4,7-21). Ai ở trong Thiên Chúa là ở trong Nước Trời. Tuy nhiên, tình yêu ở đây phải là tình yêu một cách nào đó như Chúa Kitô yêu thương chúng ta (x. Ga 13,34-35). Chị Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã thực thi điều này. Dù ở trong đan viện, kín cổng cao tường, chị đã làm cho những việc bé nhỏ, bình thường, và cả tầm thường như quét nhà, giặt giũ…trở nên phi thường bất diệt bằng chính con tim tràn đầy tình mến của chị. Nước trời không ở đâu xa. Nước trời đang ở giữa chúng ta. Chính vì thế, ta có thể nói rằng đừng tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời ở một cõi nào đó trên cao, nhiều khi khiến chúng ta đâm ra ảo tưởng, xa rời thực tế, bỏ bê bổn phận, nhưng hãy làm cho hạnh phúc thành hiện thực ngay ở đây, lúc này.
7. Liên kết trong Chúa
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Mấy tuần qua Phúc âm nhắc đi nhắc lại lời Đức Kitô mời gọi hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Liên kết với Đức Kitô để qua Đức Kitô, Kitô hữu được liên kết với Chúa Cha. Đức Kitô về cùng Chúa Cha, thường được biết đến như là lễ mừng Đức Kitô về trời. Dù Đức Kitô về cùng Chúa Cha, tình liên kết Chúa dành cho Kitô hữu không gặp bất cứ ngăn trở nào. Kitô hữu vẫn có thể liên kết với Đức Kitô qua tình yêu Ngài. Điều này không có chi lạ bởi chính tình yêu Chúa liên kết Kitô hữu nên một. Đức Kitô ở trần gian hay về cùng Chúa Cha, tình yêu Chúa dành cho nhân loại không thay đổi. Liên kết trong tình yêu Chúa để được trổ sinh hoa trái, không phải hoa trái thường, mà là hoa trái có phẩm chất đặc biệt, cùng phẩm chất hoa trái khi Ngài còn ở trần thế bởi hoa trái đó trổ sinh nhờ vào tình yêu Đức kitô.
Thứ hai, liên kết với Đức Kitô để mối giây liên kết liên tục đón nhận ân sủng Chúa, tránh cô đơn khi gặp nguy khó. Ai cũng có người thân và bạn thân, tuy nhiên trong rất nhiều trường hợp người thân đó bó tay, dù ước ao, mong muốn nhưng không đủ khả năng giúp đỡ, hoàn cảnh không cho phép. Đức Kitô Phục Sinh là Đấng duy nhất có khả năng vượt mọi rào cản, cấm đoán hay hàng rào hạn chế bởi Ngài không bị ảnh hưởng bởi điều kiện không gian và thời gian. Vì thế liên kết với Đức Kitô sẽ luôn nhận được ơn Chúa dù trong hoàn cảnh tồi tệ nhất, Ngài cũng hiện diện, kề bên, cùng dìu ta đi.
Thứ ba, liên kết với Đức Kitô sẽ nhận được ơn can đảm và sức mạnh nội tâm để vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống. Chính Đức Kitô đã trải qua cảm nghiệm cô đơn, môn đệ sợ hãi bỏ chạy, một mình Ngài đối diện với thập giá. Giờ phút kinh hoàng cuối đời của Ngài là giây phút cô đơn. Nó thể hiện trong câu nói 'linh hồn Thầy lo buồn đến nỗi chết'. Nó thể hiện trong lời than: không thể cùng thức với Thầy được một giờ sao? Thức để làm chi? Thức để liên kết với Chúa trong cầu nguyện; liên kết với Chúa để tránh được cơn cám dỗ. Sa ngã vì thiếu kiên tâm cầu nguyện, vì tự tin vào khả năng riêng mình, vì đời sống cầu nguyện nghèo nàn. Môn đệ vì mệt mỏi, nửa tỉnh, nửa mê và đã bỏ chạy khi Thầy bị bắt. Dẫu thế tình yêu Chúa dành cho các ông không thay đổi.
Thứ tư, liên kết với Đức Kitô để cảm nghiệm Đức Kitô luôn giữ trọn lời thề. Lời Ngài hứa chắc chắn sẽ được thực hiện cách tốt đẹp, hoàn hảo. Đức Kitô hứa, Ngài sẽ thực hiện. Làm sao, thời gian nào do Ngài quyết định.
Thứ năm, mục đích cuối cùng và là mục đích chính và là việc cao cả của việc liên kết. Bởi liên kết với Đức Kitô sẽ được liên kết với Chúa Cha. Liên kết một cách vững bền cùng mối liên kết Đức Kitô dành cho Chúa Cha. Điều này được thực hiện bởi nhờ Đức Kitô liên kết với Chúa Cha trong mọi sự. Vì thế qua Đức Kitô mà Kitô hữu được kết liên với Chúa Cha. Chúng ta biết điều này qua lời cầu của Đức Kitô. Đức Kitô cầu xin Chúa Cha liên kết Kitô hữu trong Ngài để tất cả được nên một trong Chúa.
Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, đệ họ nên một như chúng ta. (Ga. 17,11)
Thứ sáu, liên kết cùng Đức Kitô sẽ vượt thắng, tránh được hãm hại của ác thần bởi chính Chúa Cha ban ơn bảo vệ giúp Kitô hữu chống lại ác thần. Ác thần ghét Kitô hữu vì Kitô hữu sống nơi trần thế nhưng không thuộc về trần thế, lòng luôn hướng về quê thật là nước trời. Vì không thuộc về chúng nên chúng tìm cách ám hại. Sa đoạ, hay sa chước cám dỗ bởi đời sống cầu nguyện nghèo nàn, bởi liên kết với Chúa một cách hời hợi, mở cửa cho ác thần lợi dụng, hãm hại.
Cuối cùng liên kết cùng Đức Kitô để cuối cuộc lữ hành trần thế cũng sẽ được liên kết, chung sống trong nhà Chúa. Đức Kitô đi trước mở đường chuẩn bị đón nhận Kitô hữu vào trong nhà Chúa. Kitô hữu được thánh hiến trong sự thật để trở thành chứng nhân đích thực, sống động trong Đức Kitô, loan bố Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô, Người hiến thân chịu khổ hình chết, ban sự sống trường sinh cho nhân loại. Vì thế châm ngôn của Kitô hữu tóm gọn trong thánh lễ với lời Chúc tụng:
Chính nhờ Người với Người và trong Người mà mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng, trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn thuở, muôn đời.
8. Kiên vững với thời gian
Trước khi về trời, Chúa Giêsu còn muốn giáo huấn các môn đệ lần cuối cùng và trao phó cho các ông một sứ mạng quan trọng. Ngài nói: Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ và nhắc bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con. Như thế việc rao giảng Tin Mừng không còn là một việc mơ hồ viễn vông, nhưng là một việc hết sức cụ thể, dẫn tới thái độ vâng giữ những giới luật của Chúa.
Ngay từ những ngày đầu, các môn đệ đã gặp phải những sự thù oán, bắt bớ và cấm cách, nhưng các ông không hề nao núng sợ hãi bởi vì như lời Chúa đã phán: Này Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Đây không phải chỉ là một lời nói đầy an ủi khích lệ mà còn la một sự kiện lịch sử hiển nhiên. Giáo Hội qua dòng thời gian, cũng đã gặp phải biết bao nhiêu sóng gió và thử thách. Giáo Hội vẫn không hề nao núng và sợ hãi bởi vì Chúa luôn hiện diện trong lòng Giáo Hội, hầu nâng đỡ và phù trợ cho Giáo Hội. Nếu chỉ là một tổ chức bình thường, có lẽ Giáo Hội đã bị quét sạch từ lâu.
Khi học về lịch sử, chúng ta thấy biết bao nhiêu đế quốc đã bị xoá tên, biết bao nhiêu thể chế đã bị sụp đổ, nhưng Giáo Hội vẫn kiên vững trong muôn vàn sóng gió. Bởi vì nền móng của Giáo Hội là đá tảng. Vào năm 1952 ĐGM King đã viết cho các sinh viên công giáo tại Thượng Hải như sau: Cây thập giá thì nặng, nhưng nhờ cây thập giá ấy mà con người giữ vững được đức tin, và cuộc đời chúng ta sẽ trổ sinh những bông hoa chiến thắng. Khi nghĩ về một tương lai đen tối tôi bỗng mỉm cười, bởi vì chúng ta vác thập giá, chúng ta đi đường thập giá, chúng ta lai cảm thấy hạnh phúc bởi vì chúng ta đang sống trong một thời điểm đặc biệt. Nếu như Thiên Chúa muốn biến chúng ta trở thành những dụng cụ của Ngài, thì chúng ta phải sẵn sàng.
Trước khi về trời Chúa Giêsu còn nói: Các con sẽ nhận lấy sức mạnh Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên các con, để các con trở nên nhân chứng của Thầy ở Giêrusalem, ở Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. Cho đến lúc bấy giờ các ông vẫn còn mơ tưởng đến của cải vật chất mà nhắm mắt lại trước những chân lý siêu nhiên. Các ông như bị cột chặt vào mặt đất và không thể bay bổng tới trời cao. Suốt ba năm sống với Chúa, nghe những lời Ngài nói và nhìn xem những việc lạ lùng Ngài làm, thế mà cõi lòng các ông vẫn chai đá, các ông quay lưng lại với ánh sáng.
Chúng ta cũng vậy, để được hướng tới bình diện siêu nhiên, để được sống trong Chúa Thánh Thần, chúng ta phải biết vượt qua lãnh vực vật chất và những níu kéo của trần gian. Có lần Chúa Giêsu đã nói: Thầy đi thì có lợi cho các con hơn, bởi vì nếu Thầy không đi thì Chúa Thánh Thần sẽ chẳng đến với các con. Nhờ Chúa Thánh Thần mà các tông đồ đa mặc lấy con người mới. Chính Ngài cũng sẽ giúp đỡ chúng ta để biết canh tân, để biết nhìn sự việc bằng đôi mắt của Chúa Giêsu.
Bởi đó trước những khó khăn của cuộc sống thường ngày chúng ta hãy kêu cầu Ngài đến với chúng ta. Thế nhưng cho đến ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn còn là một vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều nhất. Vậy thì Chúa Thánh Thần hiện đang nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống chúng ta?
9. Trời ở quanh ta
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Chúng ta đang sống trong không gian vũ trụ bao la, nên khi nói lên trời chúng ta nghĩ rằng trời không trong không gian vũ trụ, một nơi bên ngoài trái đất này. Vì thế, khi nói “Chúa Giêsu lên trời” chúng ta cũng dễ hình dung Chúa Giêsu như một “phi hành gia” tự động cất bổng mình lên trời ra ngoài quỹ đạo của trái đất? Vậy thì Chúa Giêsu đi về phương trời nào? Phi hành gia Mỹ New Amstrong đặt chân lên mặt trăng đầu tiên 1930, rồi đến các phi hành gia Liên Xô khi bay ra ngoài vũ trụ đã nói rằng chúng tôi không thấy Thiên Chúa đâu hết.
Chúa Giêsu “được rước lên trời”: đó là một lối nói của Thánh Kinh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã-từ-trời xuống” (Ga 3,13). Câu chuyện Chúa lên trời được bài đọc 1 kể lại là một kiểu nói bình dân để diễn tả một mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, tức là nhân tính của Chúa Giêsu được tôn vinh hay nói cách khác, được vào trong vinh quang Chúa Cha, được ngồi bên hữu Chúa Cha. Vì vậy, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô quả quyết: “Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai”.
Cho nên, lễ Chúa Thăng Thiên không phải là một cuộc chia ly, tiễn đưa Chúa Giêsu vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan giữa ta với Ngài. Chúa về trời là có nghĩa rằng ta không còn thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Nhưng chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin thế nên, Chúa Giêsu nói: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20) là vậy đó!
Mừng lễ Chúa Thăng Thiên là mừng ngày Đức Giêsu được tôn vinh, hôm nay Ngài được hưởng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Cho nên, Chúa về trời là bảo chứng rõ ràng nhất cho hy vọng của chúng ta đó là: được lên Thiên Đàng và hưởng vinh quang với Chúa Giêsu. Trời là đích điểm của đời Kitô hữu. Nhưng trời đã bắt đầu từ khi chúng ta bước vào vũ trụ của Chúa Giêsu Kitô, qua đức tin và các bí tích. Qủa thế, cuộc sống này không có gì là đời đời, không có gì là vĩnh viễn mà chỉ sự sống lại, sự sống hạnh phúc bên Chúa trên trời mới là đời đời, muôn năm hay vĩnh viễn mà thôi.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại. Vì thế, Sứ thần của Chúa hôm nay đã quở trách các môn đệ: “Hỡi người Galilê! Sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời?”. Các môn đệ đã hiểu ý. Các ông đã trở về với nhiệm vụ của mình, hoàn thành công việc dang dở của Chúa ở trần gian, làm chứng về tất cả những gì các ông đã được nghe, thấy được. “Các ông đã ra đi khắp nơi, rao giảng Tin Mừng cho mọi người; có Chúa cùng hoạt động với các ông, củng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo” (Mc 16,20).
Rõ ràng, Chúa lên trời trước mặt các môn đệ và thúc giục các ông lập tức bắt tay vào việc xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian khi các ông còn ở trần gian này và sẽ đồng hành với các ông mọi ngày cho đến tận thế. |Cũng vậy, đối với chúng ta ngày nay, Chúa lên trời nhắc chúng ta nhớ rằng quê hương chúng ta ở trên trời nên chúng ta hãy tìm kiếm những sự trên trời (Pl 3,20; Cl 3,1). Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải “xuất thế”, phải xa lánh trần gian. Trái lại, cần phải nổ lực dấn thân “vào đời”, “nhập cuộc”. Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta để “mở một tuyến đường lên trời từ mặt đất này” bằng những công việc xây dựng Nước Trời ngày này qua ngày khác; loại trừ những khổ đau, tội lỗi, tạo cho mọi người được sống ấm no, hiệp nhất, yêu thương nhau, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người. Đó là con đường lên trời của chúng ta. Cho nên, trước khi lên trời, Chúa Giêsu sai mọi người vào đời: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16,15-18). Vì thế, cho đến ngày nay, Giáo Hội cũng đã và đang “vào đời” như thế: Nói về Chúa, sống chứng nhân, sống gương mẫu, làm việc tốt, tha thứ cho người ghét mình, nghĩ tốt về người khác, rao truyền Tình Yêu Chúa, thực thi Lòng Chúa Thương Xót,…
Chúa lên trời, Ngài không bao giời rời bỏ chúng ta nhưng ở với chúng ta mọi ngày, mọi nơi mọi lúc: trong kinh nguyện và hoạt động, trong bí tích và trong anh chị em. Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, Chúa đến ở trong chúng ta, ban nguồn sinh lực giúp chúng ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nước Trời ở trần gian này là: yêu thương, tha thứ, sống Phúc âm trong đời sống gia đình, giáo xứ hay xã hội và loan báo Tin Vui cứu độ cho mọi người để một khi Nước Trời được hoàn thành Ngài sẽ trở lại trong vinh quang đón tất cả mọi người chúng ta lên trời về với Chúa Cha. Amen.
10. Đường vinh quang
Mừng Chúa lên trời có nghĩa là mừng Ngài được tôn vinh sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha đã trao phó. Ngài đã hoàn thành trong sự vâng phục và yêu thương, ngay cả trong việc chấp nhận thập giá để cứu chuộc mọi người. Vinh quang được trao ban cho Ngài, vì Ngài đã chấp nhận hy sinh tất cả. Nói cách khác, Ngài đã đi trọn con đường của yêu thương, không nề hà bất cứ một cử chỉ hay một hành động nào, để bày tỏ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối vơi con người.
Sứ mạng ấy Chúa Giêsu cũng đã trao lại cho các môn đệ: Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Các ông đã hoàn tất với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan ghi nhận là chính Chúa Giêsu sống lại đã thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Và theo thánh Luca, thì nếu Chúa Thánh Thần đã gầy dựng Con Thiên Chúa làm người nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, thì nay khi Ngài sắp sửa từ giã các ông, thì Ngài đã hứa ban cho các ông Chúa Thánh Thần như là một sức mạnh để gầy dựng cộng đoàn của Hội Thánh. Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ chờ đón Chúa Thánh Thần tại Giêrusalem. Nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã trở thành những chứng nhân sống động của Đức Kitô cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Trong bối cảnh ấy Chúa Giêsu đã từ biệt các môn đệ, đây là một cuộc từ biệt không gây nên đau buồn vì Chúa Giêsu có hứa hẹn ngày tái ngộ. Thời gian chờ đợi sẽ là thời gian cần thiết để hoàn thành sứ mạng được trao phó, đồng thời cũng là thời gian chờ đợi vinh quang sẽ đến. Như thế mừng lễ Chúa lên trời cũng chính là lúc chúng ta chờ đợi vinh quang sẽ đến, cũng chính là chờ đợi ngày Ngài trở lại.
Nhưng sự chờ đợi chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó trở thành nỗi bận tâm chu toàn sứ mệnh được trao phó. Người Kitô hữu hôm nay cũng như các môn đệ ngày xưa không phải là những kẻ đứng nhìn lên trời, mà là những người dấn thân rao giảng Tin Mừng cứu độ, đem lại niềm vui của ơn giải thoát cho tất cả mọi người nhất là những kẻ nghèo khổ và bất hạnh. Chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mạng ấy bằng những hy sinh và quên mình. Lịch sử Giáo Hội xưa cũng như nay cho thấy nơi nào và khi nào toàn thể Giáo Hội cũng như từng người Kitô hữu biết hy sinh những quyền lợi của mình để nghĩ đến những lợi ích chung, nhất là của những tầng lớp bị quên lãng hay bị áp bức trong xã hội, thì ở đó và lúc đó, Giáo Hội cũng như người Kitô hữu làm cho người khác nhận ra được Tin Mừng của Đức Kitô. Và đó cũng chính là vinh quang của Giáo Hội cũng như của người Kitô hữu.
Như thế, con đường dẫn đến vinh quang, là con đường hoàn thành sứ mạng Chúa đã trao phó, trong quên mình và trong hy sinh.
11. Lễ Chúa Thăng Thiên
((Suy niệm của Aug. Trần Cao Khải)
“Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19). “Người được cất lên ngay trước mặt các ông và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1,9).
Biến cố thăng thiên đã được các thánh sử nhắc lại như một khẳng định chắc thực về việc Đức Giê-su đã sống lại và đã ngự trị trong Nước vinh quang của Cha. Biến cố này cũng nhắc nhở rằng Ngài đã được phong là Chúa (Kyrios), là Đấng Kitô (Christos), là Vua (Messia) vinh hiển, vì Ngài đã hoàn thành trọn vẹn sứ mệnh thiên sai, như Ngài đã nói trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá, “Thế là đã hoàn tất” (Gio 19, 20). Chúa đã hoàn tất sứ mệnh cực kỳ gian khổ nhưng đầy vinh quang của Ngài và từ nay sứ mệnh ấy sẽ được trao phó lại cho Cộng đoàn thừa sai mà Ngài đã thiết lập. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần...” (Mt 28,19).
Có thể các môn đồ của Đức Giê-su ngỡ ngàng và hụt hẫng trước việc Chúa “ra đi” trong biến cố “thăng thiên” này, nhưng hơn ai hết các ông sẽ hiểu rằng Chúa “ra đi” thì có lợi cho họ, và rằng Ngài “đi” nhưng không rời xa họ, Ngài luôn hiện diện với họ cho đến ngày tận thế (x. Mt 28,20). Sứ vụ của Chúa chỉ kéo dài hơn 30 năm tại thế, nhưng sứ mệnh của Hội thánh thừa sai thì kế tục mãi đến ngày Quang Lâm của Chúa. Chính vì lí do đó mà Chúa rất quan tâm gầy dựng một Cộng đoàn thừa sai hoạt động thật hữu hiệu, thật chuyên cần và thật khẩn thiết.
Từ biến cố thăng thiên của Đức Giê-su, người Ki-tô hữu chúng ta có thể nhận ra 3 vấn đề liên quan sứ mệnh truyền giáo.
* MỖI NGƯỜI TÍN HỮU LÀ MỘT TÔNG ĐỒ.
Tông đồ là người được sai, nghĩa là nhà truyền giáo. “Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định của Thiên Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tích cực tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội, tùy sức lực của họ và tùy nhu cầu của thời đại ” (Vat. II, LG 33). Vậy đã rõ, người Ki-tô hữu chúng ta không phải chỉ lo “có đạo, giữ đạo” cho riêng mình mà còn có nghĩa vụ và bổn phận “tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội” nữa. Khi tham gia như thế, chúng ta không chỉ “làm tín hữu” mà còn làm người tông đồ, làm sứ giả Tin Mừng Đức Ki-tô...
Tuy nhiên, trước khi bắt tay vào công cuộc truyền giáo cách cụ thể, chúng ta được mời gọi đốt nóng lên nỗi băn khoăn thao thức muốn truyền giáo và sống đời truyền giáo. Quả vậy, chúng ta chưa thực sự truyền giáo nếu chúng ta chưa ước muốn truyền giáo, chưa cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, chưa hi sinh cho sứ mệnh loan báo Tin Mừng...Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giê-su được tôn phong là “Bổn mạng các xứ truyền giáo” không do những công trình truyền giáo vĩ đại mà là do những thao thức “muốn đi truyền giáo” khắp nơi trên thế giới. Ngài truyền giáo bằng đời sống hi sinh âm thầm, bằng kinh nguyện liên lỉ và bằng ước muốn sâu xa từ trong cõi lòng.
Ước nguyện truyền giáo của chúng ta phải xuất phát từ nhận thức rằng truyền giáo là ơn gọi của mỗi người tín hữu, “Tất cả các phần tử trong Hội Thánh mỗi người mỗi cách đều được sai đi. Ơn gọi Ki-tô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ. Mọi hoạt động của Nhiệm Thể nhằm làm cho Nước Đức Ki-tô mở rộng trên khắp hoàn cầu được gọi là việc tông đồ” (x. GLHTCG số 863).
* TẤM GƯƠNG CỦA NHÀ TRUYỀN GIÁO.
Việc truyền giáo khởi sự từ chính bản thân người truyền giáo. “Ngày nay người ta sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy” (ĐGH Phaolô VI), câu nói này thường được nhắc đi nhắc lại nhằm giúp chúng ta khẳng định là “lời nói” không quan trọng bằng “tấm gương sống” của chứng nhân. Chính Chúa Giê-su cũng đã nhắc nhở: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,14). Ki-tô hữu là ánh sáng, là muối, là men cho mọi tầng lớp con người chưa nhận biết Tin Mừng. Thế giới ngày nay khát khao những tấm gương chứng tá Tin Mừng cứu rỗi do Chúa loan truyền. Tấm gương về bác ái công bình, về lòng bao dung tha thứ, về sự hi sinh quên mình phục vụ, về nếp sống nghèo khó, tín thác và vâng phục, về thái độ dám nói “không” với đủ mọi loại tội.
Theo dõi tin tức trên báo chí hằng ngày, chúng ta rất dễ dàng thấy rằng con người ngày nay, kể cả lớp trẻ tuổi niên thiếu, đã thực sự đánh mất cảm thức về tội. Tội giết người, tội dâm ô, tội loạn luân, tội lường gạt, tội vô cảm, tội trộm cắp, tội tham ô, tội bạo hành trong gia đình, tội phá thai, tội tôn thờ bản thân và thần thánh hóa ngẫu tượng vv...Thực tế là chúng ta sẽ mãi mãi phải sống chung với tội, như người ta chấp nhận sống chung với lũ, với bão, với ngập lụt, với nạn kẹt xe, với tình trạng ô nhiễm môi trường... Nhưng dù trong hoàn cảnh nào, một mặt chúng ta không bao che, không đồng lõa với tội vì chúng ta “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”, một mặt chúng ta phải vươn cao, đứng thẳng hiên ngang làm chứng cho Tin Mừng như ngọn nến sáng trong đêm tối mịt mờ.
Có thể chúng ta sẽ không thể “nói” được nhiều, nhưng nhờ ơn Chúa, bản thân chúng ta sẽ trở thành tấm gương phản chiếu một góc độ nào đó của Tin Mừng Đức Ki-tô. Thực vậy, “Truyền giáo không chủ yếu là chuyển giao một lý thuyết, mà là chia sẻ một sự sống thiêng liêng có sức biến đổi con người nên người hơn và được trở thành con của Thiên Chúa Tình Yêu” (ĐGM GB Bùi Tuần, bài “Ra khơi từ đâu?”, tháng 2-2004). Tất cả chúng ta, một khi đã tin và lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, thì trở thành con cái Thiên Chúa. Nếu chúng ta sống tốt địa vị ấy, chúng ta sẽ là nhà truyền giáo có sức lôi cuốn đặc biệt và gây ngạc nhiên cho nhiều người. Bởi ngày nay, người ta sống thiếu thốn tình thương và hạnh phúc, thiếu vắng bình an và hi vọng. Bản thân và đời sống Ki-tô hữu sẽ trở thành chứng tá sống động của Tin Mừng một khi mỗi người chúng ta tích cực thực thi Lời Chúa: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau ” (Gio 13, 34-35).
Ngược lại, “Trong đời sống thường ngày cũng có câu truyện thương tâm: một cô ngoại giáo lấy ngươì công giáo, láng giềng, bà con thấy cô ta đẹp nết, giục cô ta vào đạo Chúa. Cô ta trả lời: Khi nào cháu thấy đạo Chúa hơn đạo Phật, cháu mới vào. Tìm hiểu, người ta biết được bà mẹ chồng rất siêng năng đọc kinh, dự lễ, đã từng bỏ ra chục triệu cùng với nhiều bà khác giúp cha sở đi Roma xin ơn Đức Giáo hoàng, nhưng bà đã từng sang (nhà) giật nồi, lấy niêu của một bà hàng xóm nghèo chưa có tiền trả nợ cho bà. Cô dâu in trong lòng hình ảnh không tốt về mẹ chồng và về đạo”. (Lm. FX. Nguyễn Hùng Oánh, “Bản chất của GH là truyền giáo”, VietCatholic News 18-10-2008).
* CHÚA LÊN TRỜI, MÔN ĐỆ VÀO ĐỜI.
Vào đời để nối tiếp công trình cứu độ của Chúa Giê-su. Vào đời, đó là mệnh lệnh của Chúa. Vì, như Chúa Cha đã sai Đức Giê-su thế nào, thì Chúa Con cũng sai chúng ta như vậy. Với ơn Chúa mà chúng ta cầu xin hằng ngày, với đức tin mà chúng ta nuôi dưỡng từ tấm bé đến giờ, với lòng mến mà chúng ta luyện tập thường xuyên, chúng ta sẽ mạnh mẽ và vững vàng bước vào cánh đồng truyền giáo bao la mà Chúa đang mong đợi chúng ta đến.
Theo ĐGH Gioan Phaolô II, cánh đồng truyền giáo ấy muôn dạng muôn vẻ, nhưng có thể đúc kết thành 3 nhóm: Nhóm những người chưa biết, chưa tin Đức Giê-su Ki-tô; Nhóm những người đã tin Đức Giê-su Ki-tô và đã lãnh nhận bí tích rửa tội, nhưng đã đánh mất niềm tin, rời bỏ Giáo hội, đang sống như người lương dân; Nhóm những người tin Đức Giê-su Ki-tô và đã được rửa tội (Nguyễn Văn Nội, “Loan báo Tin Mừng”- Hưởng ứng thư Mục Vụ 2003 của HĐGMVN, phần VI “Tông đồ giáo dân”).
Vậy tùy theo hoàn cảnh, điều kiện và môi trường cụ thể, chúng ta sẽ vận dụng sáng kiến và khả năng mình có để làm chứng Đức tin Ki-tô giáo và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Dù ở đâu và vào thời điểm nào, chúng ta vẫn cần phải tạo nên bầu khí bác ái cho truyền giáo và chính bản thân chúng ta luôn là dấu chỉ của lòng mến Ki-tô giáo. Sự hiện diện của tông đồ giáo dân ở khắp nơi, trong mọi thời, vừa mang tính chứng tá lại vừa được xem như công cụ giới thiệu Tin Mừng cho nhân loại.
“Trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải là chứng nhân của sự Phục sinh và sự sống của Chúa Giê-su Ki-tô, đồng thời là dấu hiệu của Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới này bằng những hoa trái thiêng liêng (x. Gl 5,22) và truyền bá cho thế gian tinh thần của những người nghèo khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc Âm Chúa đã tuyên bố là có phúc (x. Mt 5,3-9). Tóm lại, người Ki-tô hữu hãy làm cho thế giới sống như linh hồn làm cho thân xác sống” (Vat II, LG 38).
12. "Hãy là chứng nhân của Thầy"
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Việc Đức Giêsu lên trời đã chấm dứt cuộc đời trần thế và sứ mạng của Ngài trên trần gian theo ý muốn của Chúa Cha.
Tuy nhiên, sứ mạng ấy tiếp tục được chuyển trao cho các Tông đồ là những chứng nhân của tất cả những gì đã thấy và đã cảm nghiệm, để các ông ra đi làm chứng nhân cho Ngài.
Sứ mạng ấy cũng được trao phó cho mỗi người chúng ta trong vai trò là người thuộc về Đức Kitô.
1. Ý nghĩa của việc Đức Giêsu lên trời
Sự kiện Đức Giêsu về trời cho chúng ta thấy: Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha. Đã chu toàn sứ mạng cứu độ con người qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại để làm chứng những lời Ngài đã loan báo. Và, hôm nay, Ngài lên trời để đem lại cho chúng ta niềm hy vọng mai ngày cũng được về trời với Ngài như lời Ngài đã nói: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26).
Việc Đức Giêsu lên trời cũng là lúc kết thúc những cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt và mở ra một cuộc gặp gỡ thiêng liêng, vượt lên trên không gian và thời gian. Sự kiện này không chấm dứt mọi hoạt động của Ngài trên trần thế. Nhưng qua đó, Đức Giêsu hiện diện cách phổ quát: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Ngài hiện diện nơi Lời của Ngài và trong Bí tích Thánh Thể, qua Giáo Hội và nơi các chứng nhân. Vì thế, Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, nhưng Ngài lại khai mở ra cho các Tông đồ và Giáo Hội một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của việc cảm nghiệm, loan báo và làm chứng về Đấng Phục Sinh.
2. Sứ mạng của các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên trời
Đức Giêsu về trời, Ngài trao ban sứ mạng truyền giáo cho Giáo Hội, khởi đi từ các Tông đồ. Lệnh truyền của Đức Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15), để “muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19), phải là lời mời gọi, một lệnh truyền cấp thiết hơn bao giờ hết! Bởi lẽ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (x. Ga 17,18; 20,21).
Vì thế, khi Đức Giêsu đã lên trời, thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi, phải ra đi để đến với muôn dân như lời Ngài đã truyền. Các ông ra đi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Đấng đã chết và đã phục sinh; Đấng là đường, là sự thật và là sự sống; Đấng đã yêu thương con người, đã chết và đã sống lại vì hạnh phúc và phần rỗi của con người. Đấng ấy đã lên trời để đem lại niềm hy vọng cho những ai tin vào Ngài cũng được lên trời như các ông đã thấy Ngài lên trời.
Chính trong giây phút này, các ông nhận lãnh sứ mạng xây dựng Giáo Hội, một Giáo Hội có Thiên Chúa là Chủ và có nhau là anh em; một Giáo Hội yêu thương, hiệp nhất; một Giáo Hội công bằng, nhân ái.
3. Sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi chúng ta
Lời của Đức Giêsu khi xưa nhắn gửi các Tông đồ: “Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất” (x. Cv 1,8) cũng là lời mời gọi cho mỗi người Kitô hữu hôm nay.
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về và nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ từ nơi Đức Giêsu. Công cuộc ấy chẳng mấy tốt đẹp theo kiểu con người suy nghĩ. Vì thế, Đức Giêsu đã tiên báo: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét” (Lc 21,17). Và "hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: “Tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em" (Ga 15,29). Nhưng hãy học nơi các Tông đồ: càng bị sỉ nhục, bắt bớ và tù đày, các ông lại càng “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Bởi xác tín rằng "... trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33; x. Rm 8,35-37).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm chèo thuyền ra chỗ “nước sâu” để thả lưới...; cũng như tiến ra những vùng “ngoại biên” để đem Ánh Sáng Lời Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa.
“Nước sâu” ở đây chính là những nơi tội lỗi, gian tham, lọc lừa. Nó cũng là thái độ của những con người thù ghét, cấm cách, bắt bớ những người tin vào Đức Giêsu hay là một thái độ thờ ơ, lãnh đạm với niềm tin Kitô Giáo.
Còn “ngoại biên” chính là những người vô gia cư; trẻ em mồ côi, những cụ già không nơi nương tựa... những người đói khát bần cùng, những người không có tiếng nói...
Những nơi ấy, rất cần các Kitô hữu can đảm, trung thành, bất chấp khó khăn, thử thách, để sẵn sàng làm chứng cho sự thật, công bằng. Mặt khác, nơi tâm hồn người tông đồ phải luôn mang trong mình trái tim của chính Thiên Chúa, để lòng thương xót của Ngài được lan tỏa đến những con người kém may mắn đang sống ở bên lề xã hội.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay Chúa về trời, Chúa đã trao phó cho các Tông đồ và Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin Chúa cho mỗi chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi làm chứng cho Tin Mừng của Chúa trong lòng xã hội hôm nay, dầu có phải chịu đau khổ, thử thách. Amen.
13. Chúa lên Trời - Ta và đời
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)
Khi sai Con của mình xuống trần gian, Thiên Chúa Cha đã có một kế hoạch đầy yêu thương dành cho nhân loại. Mục đích của kế hoạch ấy chính là quy tụ muôn người về một mối trong Nước Trời. Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài đã loan báo về Nước Trời và triều đại của Thiên Chúa; chiêu mộ và huấn luyện các môn đệ; thiết lập Giáo Hội… ; và cuối cùng, Ngài đã chấp nhận cái chết nhục nhã trên thập giá để hoàn tất kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa Cha. Khi đã kết thúc cuộc sống tại thế, Ngài được Thiên Chúa Cha ân thưởng vinh quang trên Nước Trời.
Nhưng, trước khi về trời, Đức Giêsu đã chuyển trao cùng một sứ vụ ấy cho các môn đệ, để các ông tiếp tục loan báo về Nước Thiên Chúa cho mọi người.
1. Chuyển giao sứ vụ cho các môn đệ
Giờ đã điểm, Đức Giêsu đã hẹn: “Mười một môn đệ đi tới Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã hẹn với các ông” (Mt 28,16).
Khi các môn đệ thấy Đức Giêsu, chẳng ai bảo ai: “Các ông phục lạy Ngài” (Mt 28,17).
Khi phục lạy như thế, các môn đệ muốn bày tỏ sự hiểu biết của mình về Đức Giêsu. Vì khi phục lạy ai thì nơi người ấy phải tôn nhận uy quyền với người mình phục lạy.
Hành vi này chúng ta cũng đã thấy nơi ba nhà Đạo Sĩ khi gặp được hài Nhi Giêsu, các ông đã phục lạy và tôn nhận vương quyền của Ngài (x. Mt 2,11). Hay như những người bị bệnh mà được Đức Giêsu chữa lành, trong số đó phải kể đến người phong hủi được lành sạch (x. Mt 8,2). Hôm nay, đứng trước sự huy hoàng của vinh quang phục sinh nơi Đức Giêsu, và hơn thế nữa, các ông nhận thấy mọi quyền năng, vinh quang và danh dự được trao ban cho Đấng Phục Sinh, vì vậy, các ông đã phục lạy Ngài.
Tiếp theo, Đức Giêsu đã tiến lại gần họ và phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân” (Mt 28,18). Qua lệnh truyền này, Đức Giêsu chính thức chuyển trao sứ vụ của Ngài cho các môn đệ là những người sẽ tiếp bước trong tương lai.
Vì thế, sau khi nhận lãnh, các ông có trách nhiệm loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Như một lời trấn an trước nghĩa vụ quan trọng mà các ông vừa nhận được, ĐỨc Giêsu đã nói:”Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”(Mt 28,20).
Tuy nhiên, dù về trời, nhưng Đức Giêsu vẫn hiện diện cách vô hình, và sứ vụ của các môn đệ luôn luôn có sự đồng hành của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài đã nói: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Điều này đã xác tín mạnh mẽ về sự hiện diện của Đức Giêsu với sứ vụ của các môn đệ. Đây là niềm vui mừng và động lực mạnh mẽ để các ông ra đi thi hành sứ vụ.
Sau những giây phút chứng kiến cảnh huy hoàng cũng như lãnh nhận sứ vụ, các ông hân hoan trở về để cùng nhau xây dựng và phát triển Giáo Hội. Nhất là loan báo triều đại Thiên Chúa đã đến gần, kêu gọi mọi người sám hối và lãnh nhận phép rửa để được cứu độ.
2. Chúa lên trời – ta vào đời
Cùng một sứ vụ mà Đức Giêsu đã trao phó cho các môn đệ, hôm nay, Ngài cũng trao phó cho mỗi người chúng ta.
Lời thiên thần nhắc các môn đệ: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời?” (Cv 1,11) cũng là lời nhắc nhở mỗi người chúng ta.
Chúa lên trời là niềm hy vọng cho chúng ta, vì Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta: “Thầy ra đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu, các con sẽ ở đó với Thầy”. Thánh Phaolô cũng đã xác tín khi nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).
Tuy nhiên, chúng ta không chỉ giữ niềm hy vọng ấy cho riêng mình. Chúng ta cũng không chỉ dừng lại ở việc tin vào lời Đức Giêsu đã truyền dạy, nhưng chúng ta cũng phải loan báo cho nhân loại về niềm hy vọng và niềm tin mà chúng ta đã nhận được. Để qua đó: chúng ta hãy đi “và làm cho muôn dân thành môn đệ” (Cv 1,11).
Nhưng, điều quan trọng, đó là chúng ta loan báo Tin Mừng bằng cách nào?
Lời Đức Giêsu hôm nay đã vạch ra cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta kế hoạch truyền giáo để cho có hiệu quả như:
Trước tiên là: “Hãy đi giảng dạy muôn dân”. Lời rao giảng rất cần thiết, vì như thánh Phaolô đã nói: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Tuy nhiên, nếu chỉ rao giảng không thôi thì chưa đủ, mà lời rao giảng quan trọng và hùng hồn nhất là bằng đời sống của người loan báo. Chính lời nói và hành động ăn khớp với nhau làm nên sự thống nhất nơi người môn đệ, và như thế, lời loan báo mới khả tín, đáng tin và đem lại niềm hy vọng cho người nghe.
Thứ đến là: “Làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Qua lệnh truyền này, Đức Giêsu cho thấy: Ba Ngôi chính là nội dung và cùng đích của lời rao giảng. Mọi hành vi khi thi hành sứ vụ loan báo Lời Chúa phải quy hướng về Ba Ngôi như là nguồn cội. Tách ra khỏi điểm tựa này, chúng ta sẽ bị rơi vào trạng thái vô định mất phương hướng.
Tiếp theo là: “Giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”. Người môn đệ chỉ là người được sai đi để quy tụ muôn dân về với Đấng đã sai mình. Vì thế, không phải nhân danh cá nhân của mình để phô trương tài cán công lao của bản thân, mà ngược lại, phải trung thành loan báo chính lời của Thầy Giêsu. Chỉ khi nào chúng ta loan báo Lời Chúa cách trung thực, thì bản thân người loan báo mới cảm nhận được hạnh phúc và người nghe mới thấy được niềm hy vọng.
Mặt khác: nội dung của lời rao giảng chính là: “Loan báo về một Vị Thiên Chúa nhân từ, giàu long thương xót với hết mọi người. Ngài đến để yêu họ và yêu đến cùng, nên đã chết thay cho nhân loại để nhân loại được sống và sống dồi dào”. Vì thế, trước, trong và sau khi loan báo, chúng ta hãy: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em chúng ta như chính mình”. Làm được điều đó, lời rao giảng của chúng ta mới thành công, nếu không, mọi lời rao giảng chỉ như chiếc phèng la điếc tai thiên hạ mà không có kết quả.
Cuối cùng, trong mọi biến cố của cuộc đời, nhất là mọi thăng trầm của công cuộc loan báo Tin Mừng, chúng ta an vui và vững bước vì có Đức Giêsu luôn ở cùng để bảo vệ, nâng đỡ như lời Ngài đã phán: “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Hôm nay cũng là ngày Giáo Hội chọn làm ngày quốc tế truyền thông. Khi chọn như vậy, Giáo Hội đề cao vai trò của truyền thông trong việc chuyển tải sứ điệp Tin Mừng. Vì thế, chúng ta hãy biết tận dụng và chắt lọc khi sử dụng những phương tiện truyền thong như: ti vi, báo đài, điện thoại, Internet và các mạng xã hội toàn cầu để loan báo Lời Hằng Sống cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa về trời là niềm hy vọng cho chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con luôn hướng lòng lên trời, để ái mộ những sự trên trời. Ngõ hầu mai ngày chúng con cũng sẽ được hưởng trọn vẹn niềm vui Nước Trời. Amen.
14. Ái mộ trời cao
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
So với trái đất, trời ở xa, xa thẳm, xa như huyền thoại. Trần gian lại quá gần, quá mật thiết với ta. Ta sống với nó, đắm chìm cùng nó, hít thở trong nó tự nhiên như chính sự sống của ta vậy. Vì thế, trần gian đã níu chân ta không ít, khiến ta xa rời trời cao, xa rời biết bao nhiêu chân lý, kể cả những chân lý đó thuộc về cứu cánh muôn đời của ta, hoặc chí ít là tạo nên giá trị tinh thần, giá trị sự sống, giá trị cuộc đời…
Hôm nay mừng lễ Chúa về trời, ý thức đôi chân mình đạp đất, nhưng tâm hồn mình thuộc về trời cao, người Kitô hữu lặp lại lời cầu nguyện như họ đã không ngớt cầu nguyện: “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời” (là một trong những lời cầu nguyện khi chiêm ngắm mầu nhiệm Mân Côi, mùa Mừng).
Ái mộ những sự trên trời, Người Kitô hữu có được một cuộc sống an bình và quân bình trong nội tâm, dễ đồng cảm với hoàn cảnh của thế giới. Ái mộ trời cao, họ có khả năng dung hòa giữa trời cao và đất thấp; giữa thế giới nhân trần và thế giới tâm linh; giữa những đảo điên của cuộc đời với niềm hy vọng vĩnh cửu; giữa tình yêu bản thân với tình yêu dành cho thế giới xung quanh…
Hội chứng “The Da Vinci Code” đang làm ngả nghiêng kẻ dốt chân lý. Vì thế, trong ngày mừng lễ Chúa về trời, hưởng niềm vinh phúc vì là người thủ đắc chân lý trời cao, ta thử một lần nhận diện kẻ đói chân lý mà hội chứng “The Da Vinci Code” là một trong nhiều bằng chứng, để thêm một lần ta củng cố đức tin của mình bằng lòng “ái mộ những sự trên trời”.
I. HỘI CHỨNG “THE DA VINCI CODE”.
Mấy năm qua, cuốn tiểu thuyết “The Da Vinci Code” (xuất bản tháng 5.2003) đã làm nhiều người chao đảo đức tin, thậm chí đánh mất đức tin. Thời gian gần đây, lại có một bộ phim cùng nội dung, cùng tựa đề ra đời, lại càng làm nỗi lo ngại của mọi lương tâm thêm lớn dần lên.
Nhưng hội chứng này nảy sinh từ sản phẩm của những kẻ bán đứng lương tâm để dàn dựng bởi sự giả trá như thế, có đáng lo ngại? Có là một nguy cơ của đức tin?
Thực ra, nó chỉ là một hiện tượng trong vô số những hiện tượng nổi loạn, tìm khẳng định mình của nhân loại đang khát khao chân lý. Ngay cả hiện tượng đi ngoài chân lý mà “The Da Vinci Code” là một, cuối cùng lại để lộ chân tướng hết sức nhục nhã, cả đến nhơ nhớp: đói chân lý. Đói chân lý, đưa người ta đến chỗ tìm chân lý. Nhưng chân lý thật không phải là một sản phẩm của trí tuệ. Vì thế, kẻ đi tìm chân lý, chỉ tìm kiếm bằng nỗ lực của lý trí loài người, sẽ thất bại. “The Da Vinci Code” cho thấy sự thất bại và dốt nát của một lý trí chỉ biết có lý trí. Nó cũng là sự dốt nát đại diện cho cả một hệ thống lý trí không có chân lý của thế giới, đang xuất hiện đây đó trong nhiều tầng lớp nhân loại, cả những người nhân danh mình trí thức.
Bởi đói chân lý, nó là sản phẩm của sự mất quân bình nội tâm. Nếu con người mà mất quân bình nội tâm, chắc chắn con người sẽ lồng lộn, sẽ vùng vẫy để tìm lối thoát như con thú dữ sa lưới. “The Da Vinci Code” tố cáo chính chủ nhân của nó về phương diện này. Bởi mất quân bình nội tâm, kẻ làm ra “The Da Vinci Code”, cũng như kẻ thưởng thức nó, chẳng bao giờ hưởng bình an, càng không bao giờ gieo bình an. Cuộc đời vốn đã quá nhiều điên đảo, quá nhiều lừa bịp, quá nhiều luồng tư tưởng lẫn lộn khó có thể phân biệt vàng thau, vì thế, thêm một “The da Vinci Code” là thêm một kẻ thù tấn công sự bình an của loài người, càng gây thêm mất mát, gây thêm hoang mang… Bởi vậy, loài người cần sự tỉnh táo để đừng gây thêm nỗi đau cho mình.
Ngoài ra, hội chứng “The Da Vinci Code” cho rằng, nó đang nỗ lực “vạch trần sự thật của Hội Thánh Công giáo”. Nhưng nó lầm. Bởi chính lúc huênh hoan cho rằng, cần phải vạch trần “sự thật lịch sử” ấy, nó đã tự biến mình thành con rối cho chính cái suy nghĩ thiếu chân lý của mình lên ngôi ông chủ, giật giây. Như vậy, “sự thật lịch sử” mà người ta đi tìm ấy, chưa cần biết đã cho câu trả lời ở mức độ nào, thì lại xảy ra một sự thật mỉa mai đau đớn khác: Người ta nô lệ chính cái suy nghĩ thiếu chân lý của mình, nô lệ chính sự giả trá của mình.
Hay “The Da Vinci Code” cũng chỉ là một thứ sản phẩm nằm trong hệ thống chối từ trời cao, một hệ thống không ngừng giải thánh của biết bao nhiêu trào lưu chống đối Thiên Chúa của nhân loại từ xưa đến nay! Điều lạ lùng như một huyền nhiệm lớn, đó là, từ ngàn xưa đến nay, Hội Thánh của Chúa không lúc nào không bị chống đối. Nhưng càng bị chống đối, càng vươn mạnh. Đó là một sự thật không thể chối cãi. Sự thật đó đã chứng mình một thực tế ngược lại với những gì “The Da Vinci Code” và nhiều thế lực chống đối khác đang chủ trương, đó là: Hội Thánh là sự thật! Vận mạng và lý tưởng của Hội Thánh nằm trong bàn tay quyền năng của Thiên Chúa, để những gì là sóng gió người ta nhắm vào Hội Thánh, không thể dìm Hội Thánh, lại quay ngược lại dìm những gì đi ngoài, đi ngược chân lý đức tin. Chẳng hạn, trong hội chứng “The Da Vinci Code” là một bằng chứng lớn vô cùng cho thấy sóng gió không hướng về Hội Thánh. Bởi con người, chính khi chối từ trời cao, lập tức họ tự “bỏ tù” chính mình trong cái thế giới trần ai này. Điều quái gở lớn nằm ở chỗ, người ta tự “bỏ tù” mình mà vẫn ảo tưởng mình tự do. Bởi cứ bị nhận chìm trong ảo tưởng, người ta sẽ càng tự “bỏ tù” chính mình cách sâu hơn, nguy hiểm hơn. Kẻ mất tự do, chỉ biết vùng vẫy trong bóng tối của cái đói chân lý, làm sao có thể trở thành “sự thật” để chứng minh về một sự thật đầy lý tưởng, đầy sức sống, đầy tình yêu, đầy nguồn bình an, đầy phúc thật, đầy sự giải thoát, đầy chân lý… mà Hội Thánh Công giáo cất giữ.
Kẻ đói chân lý như thế, lại chủ trương tìm về cái gọi là “sự thật lịch sử” của một tổ chức đức tin lớn mạnh hàng ngàn năm như tổ chức Hội Thánh Công Giáo. Đúng là ngược ngạo, là mâu thuẫn, là lố bịch.
Nói những điều như trên kể cũng còn tôn trọng những kẻ làm ra “The Da Vinci Code”. Bởi ai biết được, đàng sau những luận điệu giả trá “như thật” ấy, người ta đang tìm cách móc túi cả thế giới này. Như vậy, cả thế giới bị moi tiền để làm giàu cho một trò bịp bợm. Hóa ra, vô tình cả thế giới bị lừa bịp bởi một trò lừa bịp ngoạn mục.
Vì thế, nếu bình tĩnh xét lại, ta thấy “The Da Vinci Code” chẳng đáng lo ngại. Bởi nó chẳng bao giờ có thể có cơ may đáp lại khát vọng sống của lương tri loài người. Đúng hơn, nó chỉ là một thứ giải trí tầm thường, một thứ suy nghĩ xô bồ không chỗ đứng, không tên tuổi, do những kẻ ham tiền, đánh mất lương tri, đói chân lý gây ra. Vì thế, nó càng không bao giờ mang lại bình an cho người làm ra nó, hoặc thưởng thức nó. Nó chỉ là một hội chứng không hơn không kém!
II. ÁI MỘ TRỜI CAO.
Hôm nay, nhân dịp The Da Vinci Code đang thất bại về niềm tin và sự thật, đang trở thành cặn bả của những trái tim không tình yêu, vẫy vùng trong nô lệ của một thứ lý trí thiếu chân lý, đặt trong bối cảnh mừng lễ Chúa về trời, chúng ta cùng nhau lặp lại lời cầu nguyện quen thuộc.: “Đức Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”.
Ở trên cao, bao giờ người ta cũng nhìn thấy rõ ràng hơn. Ái mộ những thực tại của huyền nhiệm siêu nhiên vượt lý trí loài người, người ta sẽ nhận ra mình, ra người, nhận ra thế giới quan và vũ trụ quan với một ánh nhìn đầy nhân bản, tình yêu và sự thật. Hướng về trời cao, người Kitô hữu không chấp nhận một lối sống tầm thường, nhưng họ biết thánh hóa mình, để những cái bình thường của đời người mặc lấy sự phi thường của trời cao.
Vì thế, mừng lễ Chúa về trời, ta chỉ xin cho được lòng ái một trời cao, để khám phá chính chân lý đời mình, để đời mình được thăng hoa và nâng cao giá trị.
Lòng ái mộ những sự trên trời là cách tốt nhất để nắm chặt niềm hy vọng vĩnh cửu, là phương thế tối cần để liên tục củng cố đức tin của ta vào Chúa Kitô vinh thắng, là sức mạnh để ta vượt thắng những nghi nan đối nghịch niềm tin, vượt thắng mọi cám dỗ kéo ta xa rời Chúa của mình.
Lòng ái mộ những sự trên trời còn là sự khôn ngoan của loài người nhằm lách mình khỏi mọi thứ nô lệ trần tục, khỏi mọi nguy cơ giết chết giá trị nhân phẩm của bản thân cũng như của đồng loại. Chỉ có lòng ái mộ những sự trên trời dẫn ta đến và bắt gặp đích đến khi đi tìm bến bờ tự do đích thực, tự do vĩnh cửu.
Bởi bất cứ ai biết không ngừng đặt đức tin của mình vào những đam mê trời cao, người đó mới có khả năng sống mọi giá trị nhân bản, mới có khả năng xây dựng và ngày càng củng cố mọi định hướng cho nền tảng nhân văn và sự sống rất mực thanh cao của chính mình, cũng như của nhân loại, của xã hội loài người.
Bởi như một hệ quả tất yếu: Nếu không biết đặt đời mình vào sự sống thiêng thánh, không sống những giá trị trời cao, không giải thoát mình bằng những chân lý tinh thần ngàn đời của nhân loại, trong đó có vô số chân lý thuộc về Tin Mừng Chúa Kitô, thuộc về HộI Thánh của Người, nhân loại chỉ là một thứ sản phẩm của sự chết. Thực tế, cái chết mà nhân loại hứng chịu trong thế giới hôm nay không phải ít: Chẳng hạn, chủ nghĩa tương đối đang xông lên mạnh mẽ. Bởi chỉ là tương đối, không một chút ảnh hưởng tuyệt đối, xa vắng đến vô cùng niềm tin vào tuyệt đối, người ta mất phương hướng cho đời mình. Người ta chao đảo, trở nên cay đắng, thủ đoạn, tù túng, lao đao, độc ác, vô lương tâm, vô nhân đạo, duy hình thức, sống hời hợt, thác loạn, điên cuồng…
Chủ nghĩa tương đối, sinh ra một thứ chủ nghĩa khác còn tệ hơn: chủ nghĩa cá nhân. Mọi tương quan, mọi hiện diện, mọi sự thật bên ngoài mình đều không có giá trị. Chỉ có cá nhân mình là quang trọng. Cái nguy hiểm của cá nhân chủ nghĩa đó là dám triệt hạ tất cả những gì không phải là mình, để chỉ còn lại mình, chỉ có mình.
Như vậy đã rõ: Lòng ái một những sự trên trời sẽ đưa nhân loại tiến về tuyệt đối. Giết chết niềm ái mộ này, nhân loại tự đâm vào tim mình. Họ bị khuất phục bởi nhiều thứ nô lệ tàn nhẫn. Thật trớ trêu đến tận cùng và mỉa mai đau đớn cho nhân loại, đó là khi chối từ tùng phục quyền bính của Thiên Chúa, lập tức, họ phải kề vai gánh lấy không biết bao nhiêu thứ quyền bính thấp hèn, chèn ép, khó khăn, đòi hỏi, tủi nhục… Cũng chỉ Bởi loài người không thể đứng tự lập, trơ trọi, vì thế họ luôn luôn cần có một cái gì để bám. Không bám vào Thiên Chúa, họ lập tức nô lệ cho mọi thứ tầm thường khác. Bởi chỉ có nó là chỗ bám duy nhất, sau khi đã từ chối Thiên Chúa.
“The Da Vinci Code” sai lầm trong chọn lựa của mình khi dám một mình đứng đối nghịch lại cả một khối chân lý ngàn đời. Đó là bài học cho ta, bài học đáng giá ngàn vàng cho mọi Kitô hữu: Đi xa Thiên Chúa, loài người sẽ chới với. Sự chới với ấy dễ làm con người thác loạn, mất bình an, mất mọi trật tự nội tâm.
Như vậy, xét cho cùng “The Da Vinci Code” vẫn có lợi cho đức tin của Kitô hữu. Bởi qua hội chứng của cái đói chân lý này, Người Kitô hữu củng cố chính đức tin của mình bằng cách, từ nay không ngừng hướng về lý tưởng trời cao, để khi ái mộ những sự trên trời, họ sẽ lớn lên trong đức tin của mình, lớn lên đến không ngờ.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả, những thói đời đen tối không cản bước chúng con tiến về trời cao. Nhưng ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, chúng con biết biểu lộ tình trời dành cho trần thế. Xin cho lòng ái một trời cao của mỗi chúng con, sẽ chứng minh và làm tỏ hiện cho mọi người về một vương quốc vĩnh cửu: Nước Trời.
15. Lên trời.
Người ta thường bảo ra đi là chết trong lòng một chút. Sự chia lìa với người thân yêu bao giờ cũng đem lại buồn đau, mặc dù chúng ta biết rằng người ấy sẽ gặp được những may mắn. Vậy phải chăng Giáo hội mặc lấy những tâm tình sầu khổ khi cử hành lễ Chúa về trời. Không, trái lại đây là một ngày lễ ngập tràn niềm vui. Chúng ta vui mừng cho Chúa cũng như cho chúng ta.
Trước hết, ngày lễ Lên Trời chính là ngày chiến thắng ngày khải hoàn của Đức Kitô.
Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại mọi chặng đường Ngài đã đi qua trong suốt cuộc sống nơi trần thế. Ngài đã tự hạ mình xuống mặc thân xác phàm trần trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Sinh ra trong cảnh khó nghèo của hang đá Bêlem. Vất vưởng nơi đdất khách quê người khi chạy trốn sang Ai Cập. Lao động mệt mỏi với cuộc sống tăm tối tại Nadarét. Rồi những năm tháng hăng say rao giảng Tin Mừng, tìm kiếm những con chiên lạc. Và sau cùng là cái chết ê chề nhục nhã trên thập giá. Tại sao Ngài lại chấp nhận? Tại sao Ngài lại ưng thuận? Tôi xin thưa chỉ vì yêu thương chúng ta. Chỉ vì muốn cứu chúng ta khỏi quyền lực ma quỷ, dẫn đưa chúng ta vào quê hương Nước Trời. Giờ đây, công cuộc cứu độ, qua đó Ngài đã hiến dâng tất cả tình yêu và những giọt máu cuối cùng, đã hoàn tất, Ngài vui mừng nhớ lại những gia đoạn đã đi qua.
Phụng vụ hôm nay muốn trình bày Đức Kitô như một vị chiến thắng và khải hoàn đang tiến lên, theo sau Ngài là tất cả chúng ta, những người đã được Ngài cứu chuộc, đã được thông phần vào niềm hạnh phúc Nước Trời. Chúa Giêsu trở về nhà Cha và giới thiệu những người em mới mà Ngài đã chuộc lấy bằng máu châu báu của Ngài. Ngày le lên trời phải chăng là ngày Đức Kitô được Cha tuyên phong làm Vua trời và đất.
Tiếp đến, ngày lễ Lên Trời còn là một ngày vui mừng cho chúng ta, nhờ đó mà bản tính nhân loại được nâng lên cao.
Thực vậy, qua biến cố này, bản tính nhân loại của chúng ta được tham dự vào những vinh quang của Thiên Chúa, vì Đức Kitô đã về trời cả thân xác, với cả bản tính nhân loại. Phải chăng đây là một mầu nhiệm mà chúng ta sẽ không thể nào hiểu thấu. Một người như chúng ta giờ đây đang được ngồi bên hữu Thiên Chúa. Ngài là đầu và chúng ta là chi thể, như trong kinh Tiền Tụng chúng ta sẽ đọc. Ngài về trời để chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa.
Tuy nhiên, cho được như vậy, chúng ta phải nâng tâm hồn lên, như lời kinh Tiền Tụng kêu gọi, bởi vì tội lỗi sẽ ngăn trở không cho chúng ta về trời với Chúa. Tội lỗi như một sợi dây xích cột chặt chúng ta lại với trần gian. Hãy phá tan xiềng xích tội lỗi. Hãy hướng tới quê trời bằng lòng ao ước khát mong từ đó chúng ta sẽ hằng ngày phục vụ Chúa. Hãy khử trừ tội lỗi trung thành bước theo để rồi chúng ta cũng sẽ được về trời với Ngài.
16. Hãy đi loan báo Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”
Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì ho chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14,26; 16,12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2,4).
Đối với Kitô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Kitô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.
Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Kitô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).
Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ - chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yeu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ - chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ - sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ - sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Kitô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Kitô Giêsu, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Têrêxa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Têrêxa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’
Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.
Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thương. Xin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để - vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương - con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. Amen.
17. Con đường về Trời – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:
- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:
- Món quà quí giá của ngươi đâu?
Người này điềm tĩnh trả lời:
- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói:
- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
***
Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin mừng hôm nay: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật" (Mc. 16, 15)
Chúa về trời là về với Chúa Cha - Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin mừng.
- Tin mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.
- Tin mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.
- Tin mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.
Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.
Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.
Chúa về trời nhưng người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ: "Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con" (Ga. 17, 24).
Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.
Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó.
***
Lạy Chúa, con đường lên trời là con đường hẹp, con đường về trời là con đường yêu thương. Xin cho tất cả mọi nẻo đường chúng con đi, đều dẫn chúng con về quê trời. Ước gì qua cuộc sống chúng con, người ta nhận ra Nước Trời đang tỏ hiện. Amen.
18. Chúa về trời, con vào đời
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chúa Giêsu vinh hiển về trời, còn chúng ta phải hiên ngang vào đời để làm chứng về Đức-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh, về Tình Yêu Vô Biên của Thiên Chúa, về Lòng Thương Xót của Ngài. Chúa Giêsu về trời là bảo chứng chắc chắn chúng ta cũng sẽ được về trời. Với hy vọng đó, chúng ta có thể can đảm và kiên trì vượt biển-đau-khổ-trần-gian để cặp Bến Bình An Thiên Quốc.
Theo sách Công vụ Tông đồ (Cv 1:1-11), Chúa Giêsu đã dạy bảo các Tông đồ mà Ngài đã tuyển chọn nhờ Thánh Thần. Ngài còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: Trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Chúa.
CHÚA VỀ TRỜI
Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông đồ, Đức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là “ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó tò mò hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Chắc là các ông cũng muốn “thơm lây” gì đó, vì con người vẫn nuôi hy vọng “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Nhưng Chúa Giêsu thản nhiên: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:7-8).
Nói xong, Ngài được cất lên ngay trước mắt các ông, khiến các ông chưng hửng và ngơ ngẩn. Lúc đó có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Bó tay! Đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” (Cv 1:11).
Chúa đi rồi chắc hẳn các ông buồn lắm, và cũng có thể “trách yêu” là sao Thầy đi mà không nói trước. Các ông cũng có thể buồn vì từ nay không còn Đại Sư Phụ thì không biết xoay xở thế nào. Con người mà! Đại Sư Phụ biết lắm, thế nên Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần để đủ tự tin mà hành động vì Chúa: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Ngài ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1:8). Tất nhiên, Ngài hứa gì thì luôn thực hiện đúng.
Từ khi phục sinh, Chúa Giêsu không còn nhân tính mà chỉ còn thiên tính. Ngài ẩn hiện thoăn thoắt. Nay Ngài lại về trời, nghĩa là chúng ta cũng chắc chắn sống lại và về trời với Ngài. Vì thế: “Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi! Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo! Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả uý, là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47:2-3). Đồng thời, chúng ta “hãy đàn ca, đàn ca lên mừng Thiên Chúa, đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua ta!” (Tv 47:7). Thật vậy, “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu”, nên chúng ta phải “dâng Ngài khúc đàn ca tuyệt mỹ”. Tất nhiên những gì là tuyệt vời nhất thì phải được dành cho Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Vua thống trị chư dân, Thiên Chúa ngự trên toà uy linh cao cả” (Tv 47:9).
Vui mừng là biểu hiện có Chúa trong tâm hồn, nghĩa là chúng ta đang được Chúa Thánh Thần tác động. Chúng ta được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, đủ can đảm đi giữa bầy sói mà không hề run sợ…
CHÚNG TA VÀO ĐỜI
Thánh Phaolô nói: “Tôi là người đang bị tù vì Chúa” (Ep 4:1a). Tự nhận là “tù nhân của Chúa” nên Thánh Phaolô không ngại nói: “Tôi khuyên nhủ anh chị em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh chị em. Anh chị em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh chị em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau” (Ep 4:1b-3). Ai cũng được Thiên Chúa kêu gọi, mỗi người mỗi trách nhiệm, mỗi người một loại “nén”, vấn đề là dùng những “nén” đó bằng cách nào và với mục đích gì. Không ai có quyền tự cho rằng “nén” của mình “có giá” hơn “nén” của người khác. Trước mặt Chúa, mọi người đều bình đẳng!
Bằng nhau ư? Đúng, vì “Thiên Chúa không thiên vị người nào. Hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Ngài tiếp nhận” (Cv 10:34). Vả lại, như Thánh Phaolô nói: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh chị em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng” (Ep 4:4). Đặc biệt là “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Thế thì sao không bình đẳng? Đúng là “chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người”, nhưng “mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Kitô ban cho” (Ep 4:7). Đó là điều mầu nhiệm, trí tuệ loài người không thể phân tích hoặc giải nghĩa thấu tình đạt lý.
Thánh Phaolô dẫn chứng rất lạ: “Có lời Kinh Thánh nói: Ngài đã lên cao, dẫn theo một đám tù; Ngài đã ban ân huệ cho loài người” (Ep 4:8). “Đám tù” đó là chúng ta chứ còn ai trồng khoai đất này nữa, vì chúng ta đều là những tử tù được Đức Kitô chịu chết để giải thoát chúng ta khỏi chốn-lao-tù-tội-lỗi-trầm-luân. Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Ngài đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Ngài đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới mặt đất? Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn” (Ep 4:9-10). Hai động thái trái ngược là “lên” và “xuống”, nhưng hai động thái đó đều do chính Đấng-đã-chết-và-sống-lại thực hiện.
Ý Chúa quá mầu nhiệm: “Chính Ngài đã ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ” (Ep 4:11). Vì thế mà tạo nên xã hội, cộng đoàn. Ai cũng làm giám đốc thì lấy đâu có công nhân? Ai cũng làm tổng thống thì lấy đâu nhân dân? Nếu vậy, ơn gọi “làm nhỏ” có khi còn quan trọng hơn ơn gọi “làm lớn” đấy. Vì Chúa Giêsu đã xác định: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9:35). Ngài luôn bảo người ta “làm nhỏ” chứ không khuyên ai “làm lớn”, nhưng người ta thích làm ngược lại. Đừng khinh suất hoặc ảo tưởng! Thánh Phaolô giải thích: “Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4:12-13). Đó là cả một chu-trình-vào-đời của bất kỳ ai.
Chúa Giêsu sai mọi người vào đời khi Ngài nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16:15-16). Ai thật và ai giả cũng được Ngài nói trước: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ” (Mc 16:17-18).
Thánh Máccô kể: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:19-20). Và cho đến ngày nay, nhiều người cũng đã và đang “vào đời” như thế: Nói về Chúa, sống chứng nhân, sống gương mẫu, làm việc tốt, tha thứ cho người ghét mình, nghĩ tốt về người khác, rao truyền Tình Yêu Chúa, thực thi Lòng Chúa Thương Xót,…
Lạy Chúa, xin thêm cho chúng con ba đức đối thần (tin, cậy, mến) và các đức đối nhân để chúng con làm hành trang vào đời theo lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô, Con Một của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đại Sư Phụ Giêsu, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
19. Đường lên trời
(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)
Cây Thánh Giá có hai chiều ngang dọc. Chúa xuống thế theo chiều dọc. Ngài đã đi giữa cuộc đời theo chiều ngang, rồi lại về Trời theo chiều dọc thẳng đứng. Hành trình dương thế của mỗi tín hữu được ghi ấn tín là Thánh Giá Chúa Kitô trên thân mình, trong cuộc đời, hẳn phải bước theo sát dấu chân, theo đúng hành trình Chúa Kitô. Với xác tín ấy, mỗi tín hữu không thể muốn bay lên Trời theo chiều dọc, mà lại không muốn đi ra khỏi lâu đài của mình theo chiều ngang để đến với tha nhân, với cuộc đời.
Chúa Giêsu đã lên Trời, về ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trên ngai tòa với vương quyền thống trị cả vũ hoàn, đại đế khắp trên trần gian… ( Tv 46 ). Thế thì, những tưởng nhắc lại chuyện Thánh Giá của Chúa Kitô có phải là chuyện không hợp thời chăng? Hay là nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng cho thân phận Con Thiên Chúa?
Thiết tưởng, trình thuật về biến cố lên Trời của Chúa Giêsu hôm nay qua nét bút của Thánh Marcô, trình bày một bức họa sống động: Bức Họa Thánh Giá.
Có phải thế không? Ô kìa! Chúa Giêsu lên Trời, một chiều thẳng đứng, và các Tông Đồ ra đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng theo chiều ngang. Như thế không phải đã tạo nên một bức họa Thánh Giá tuyệt vời ấy sao? “Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên Trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời rao giảng bằng những phép lạ kèm theo” ( Mc 16, 20 ).
Sẽ không còn là chuyện tưởng tượng hay ảo tưởng, nhưng là một sự thật từ căn tính của biến cố lên Trời: Chúa Giêsu Lên Trời, Chúa không bảo các Tông Đồ “hãy cùng lên Trời với Ta”, nhưng lại bảo các Tông Đồ “hãy ra đi rao giảng Tin Mừng”.
Vậy, muốn bay lên tới tận Trời hãy bay ra khỏi lòng mình mà đi tới với mọi người, mời gọi mọi người và cùng mọi người bay lên tới cõi cao siêu, nơi gặp gỡ Tình Yêu Thiên Chúa. Đó cũng chính là sứ điệp Tin Mừng hôm nay: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho muôn thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt.” Đó không phải là thông điệp nhắc tới mầu nhiệm Thánh Giá sao?
Nếu trước đây đời sống đạo đức của Giáo Dân chỉ theo một chiều dọc là hướng lòng lên tới Thiên Chúa, ái mộ những sự trên Trời, và có thể đã xếp lệnh truyền ra đi theo chiều ngang là hàng thứ yếu, thì hôm nay, đã có bao tín hữu thực hiện vừa song toàn vừa cân đối lại vừa đúng thánh ý Chúa hơn: Quan tâm đến cuộc sống đời thường của tha nhân, làm cho cuộc sống ấy nên hoàn thiện hơn, và cùng tha nhân hướng về Quê Trời: cốt lõi của việc Rao Giảng Tin Mừng.
Quan tâm đến đời thường, quan tâm đến tất cả chiều kích làm nên cuộc sống phàm tục của mỗi con người. Cuộc sống ấy có xác có hồn, có tương quan nhân vị và có tương quan siêu nhiên, vô hình. Tạm gọi là đời thường, vì cái nhìn quá xoàng thường dành cho một hành trình dương thế vẫn cụ thể nơi chúng ta, mà quên rằng, giá trị vĩnh cửu bắt nguồn từ cuộc vượt qua những điều xoàng thường ấy. Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo đã mở ra cho mọi người một hướng đi ra với chiều ngang cần thiết cách cấp bách nhất, hướng tới những điều tưởng như rất xoàng thường, nhưng xác tín có sự can thiệp của Thiên Chúa, Đấng khôn ngoan thượng trí, làm cho những điều xoàng thường ấy trở nên bậc thang của đường lên Trời.
Vì thế, việc cần thiết thể hiện sự quan tâm ấy không cho phép chúng ta đứng hay ngồi yên vị một chỗ ở trên cao mà ngó xuống, một chỗ êm ấm trong nhà ngó ra, một chỗ ích kỷ trong lòng mình không thèm ngó ra hay ngó xuống… mà phải thực hiện ngay một cuộc vi hành cần có, vi hành đến tận hang cùng ngõ hẻm, đến tận vực sâu xoàng thường nhất trong thiên hạ, trong cõi nhân sinh. “Các con hãy đi khắp thế gian…”
Muốn đi khắp thế gian hẳn phải ra khỏi vỏ ốc của mình. Trong cái vỏ ốc ấy chứa đựng biết bao là định kiến, kỳ thị, phân cấp, óc thống trị, quyền bính… nhưng cũng chứa đựng cả sự lười lĩnh, nhát đảm, sợ hãi, ngại khó, lòng tham, vô cảm…
Những thứ lỉnh kỉnh trong cái vỏ ốc ấy cứ như những gông cùm, xiềng xích nó trói con người ta lại không cho bước ra, huống chi chuyện cất bước lên đường? Kẻ này nhìn người kia, người kia nhìn kẻ nọ, thấy ai cũng yên vị trong pháo đài, trong lô cốt mà giữ cái đạo chiều dọc của mình, làm phát sinh sự thiếu vắng trầm trọng những gương mẫu chiều ngang cần thiết của việc “Ra Đi Loan Báo Tin Mừng”.
Con số các tín hữu Công Giáo khiêm tốn trên tổng dân số Việt Nam là con số biết nói hai điều: một là chúng ta đã có một thời tự thu mình trong cái vỏ ốc cầu an, hai là đã đến lúc chúng ta phải ra khỏi cái vỏ ốc ấy để đối diện với một toàn cảnh xã hội đang có nguy cơ xóa nhòa ảnh hưởng của Tin Mừng, và khẩn cấp khơi dậy ý thức “Ra Đi” cho đúng nghĩa lệnh truyền Chúa Giêsu. Việc ra khỏi vỏ ốc của mình mà đến với tha nhân, đồng nghĩa với việc thiết lập một Thánh Giá mới trên cuộc đời mình, và đó là bảo chứng cho một niềm hy vọng được lên Trời của chính mình hôm nay và mai sau.
Làm cho cuộc sống của tha nhân nên hoàn thiện đòi hỏi phải chấp nhận không ít những gian lao đau khổ, thậm chí có thể phải hy sinh cả danh dự, hy sinh cả sự nhàn nhã, yên ổn, hy sinh cả quyền cao chức trọng, hy sinh cả tánh mạng… Và đó lại là yêu cầu chính yếu của lệnh truyền: Hãy ra đi loan báo Tin Mừng. Tự việc ra khỏi vỏ ốc lòng mình đã là một chặng đường từ Thập Giá đến Thánh Giá.
- Trước tiên hoàn thiện phẩm vị làm con cái Thiên Chúa. Vâng, có thể thấy: đang có những người chưa tin vào Thiên Chúa. Có người chống lại Thiên Chúa. Có người tin Thiên Chúa nhưng không tin người có đạo. Cũng đang có những người có đạo, nhưng không giữ luật Chúa, giữ luật Giáo Hội như bạn, như tôi và có thể như hết thảy chúng ta.
Sứ điệp ra đi hẳn đang mời mỗi chúng ta phải là người trước tiên giữ luật Chúa, giữ luật Giáo Hội, để tha nhân nhìn thấy cuộc sống của chúng ta mà ngợi khen Cha trên Trời. Bởi người ta không tin hoặc chống lại Thiên Chúa cũng là do một phần cuộc sống của chúng ta cũng không hay ho tốt lành gì, không là họa ảnh xinh đẹp của những người làm con Chúa, không là họa ảnh là anh cả anh hai con lớn của Chúa trong đoàn chiên, không là họa ảnh tốt lành của Thiên Chúa giàu lòng thương xót và công minh chính trực.
Đức Tin Cậy Mến và đời sống chân chính sẽ là gương phản chiếu ánh sáng Tin Mừng vào bóng tối trần gian. Thánh Phaolô nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không Rao Giảng Tin Mừng” nhưng thiết nghĩ còn “khốn cho tôi hơn nếu tôi không sống Tin Mừng”. Vì thứ nhất, tôi chẳng được phúc gì cho tôi, và thứ hai chẳng đem được phúc gì cho người, cho đời. Không ai có thể cho cái mình không có.
Ngày nay, nhiều tín hữu đã ý thức hơn về sứ mệnh Loan Báo Tin Mừng. Họ gia nhập đoàn này, hội nọ với mục đích thánh hóa bản thân và loan báo Tin Mừng, tự hoàn thiện chính mình và hoàn thiện tha nhân. Đó là tín hiệu đáng vui mừng cho Giáo Hội. Tuy nhiên họ cũng gặp không ít những cản trở, khi chưa có một sự đồng thuận, nhất tâm chung trong mọi thành phần Dân Chúa.
Hai hội viên Legio hướng đến một người bỏ xưng tội lâu năm chỉ vì bất mãn một cha xứ. Họ cầu nguyện chung, riêng. Họ đi thăm năm lần bảy lượt đến mòn đường chết cỏ. Họ tìm đủ cách khuyên giải để một hối nhân trở về với Thiên Chúa, qua Tòa Cáo Giải. Họ vui mừng vì đương sự đã thành tâm tha thiết trở về. Họ gõ cửa cha xứ xin cho hối nhân xưng tội. Và điều gì đã xảy ra? Có người được xưng tội ngay, bất cứ giờ nào, ra về lòng thanh thản. Có người bị từ chối ngay vì đến không đúng giờ giải tội, quay đi thấy tủi thân, càng bất mãn hơn!
- Và sau đó làm cho hoàn thiện phẩm giá làm người, có nhân vị, có tự do, có chính nghĩa, có luân thường đạo lý, có công lý, có đạo đức… xứng với Tin Mừng Chúa dạy.
Thật đáng tiếc, có quá nhiều minh họa cụ thể trong muôn vàn bức tranh tương phản, bất nhất trong Giáo Hội hôm nay: Thiếu vắng sự “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” giữa Giáo Dân và Giáo Sĩ, thiếu vắng sự hướng dẫn, cỗ vũ, trợ giúp khi Giáo Dân làm Tông Đồ trong thế giới ngày nay giữa muôn vàn làn tên mũi đạn của những bất công gian dối, bạo lực côn đồ, thiếu vắng chỗ dựa vững chắc nơi cây cao bóng cả, lại còn bị cho là “bao đồng” làm mất ảnh hưởng, mất thế giá của hàng Giáo Sĩ, của Giáo Hội. Hoặc kẻ nào hăng say dấn thân bênh vực cho Công Lý của Chúa, hăng hái bước ra và bước đi đến mọi cảnh ngộ gian trần bất kể là ở đó có kẽm gai, có dùi cui, có lựu đạn cay, có hàm oan tù tội… thì lại bị chính anh em cho là kẻ dại dột, thiếu khôn ngoan, liều lĩnh, và thế thì… “sống chết mặc bay”!
Lời Chúa hôm nay củng cố cho mỗi chúng ta một xác tín: chỉ có khi nào thực sự bước đi theo con đường của Chúa là đưòng đến với trần gian và làm cho trần gian nên hoàn thiện mới là con đường đích thực lên Trời.
Con đường của Chúa Giêsu không phải là con đường ẩn mình trong cái vỏ ốc cầu an, nhưng là con đường đi ra với tha nhân và đi lên với Thiên Chúa: Con đường Thánh Giá.
Lạy Chúa Giêsu, lệnh truyền của Chúa đang thôi thúc chúng con thánh hóa bản thân và ra khỏi cái ích kỷ của mình để làm chứng cho mọi người biết rằng: chân lý của Chúa Giêsu phải là chân lý toàn thắng.
Xin cho chúng con biết ngưỡng vọng lên Trời, về cuộc sống vĩnh cửu bằng chính sự quan tâm đến đời thường hôm nay, và nhờ ơn Chúa, hoàn thiện đời thường của mình và của mọi người. Amen.
20. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Đức Giêsu đã từng ở trên trời trước khi vâng lệnh Chúa Cha xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, Ngài lại lên trời. Nước Trời cũng là quê hương của mỗi người chúng ta. Vậy, chúng ta phải làm gì để được lên Trời?
1. Đức Giêsu đã lên trời
Thật vậy, Đức Giêsu đã về trời. Sau khi sống lại, Ngài nói với bà Maria Mađalêna đi báo tin cho các Tông đồ rằng: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Sau đó, Ngài đã về trời thực sự. Tin mừng hôm nay cho biết: “Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.”(Mc 16, 19). Sách công vụ Tông đồ cũng khẳng định: “Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.” (Cv 1,9). Vì thế, sự kiện Đức Giêsu lên trời là sự kiện lịch sử, là niềm tin của mỗi người kitô hữu chúng ta. Niềm tin đó được chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính: “Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu Kitô là con một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh; chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đanh trên cây Thánh Giá, chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết.”
2. Nước Trời cũng là quê hương của chúng ta
Ở trần gian này, mọi người chúng ta đều có một quê hương, đó là nơi chúng ta sinh ra. Nhưng quê hương ở trần gian này chỉ là “quán trọ”, là nơi tạm bợ. Nước Trời mới là quê hương thật của chúng ta, là nơi chúng ta được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh Phaolô đã nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Vì thế, ngày lễ hôm nay không những chúng ta mừng kỷ niệm Đức Giêsu lên trời mà còn nhắc nhở chúng ta nhớ tới Nước trời là quê hương thật của chúng ta để chúng ta chuẩn bị cho ngày được hưởng hạnh phúc viên mãn đó.
3. Chúng ta phải làm gì để được lên Trời.
Để được lên Trời, chúng ta cần chuẩn bị hành trang. Hành trang đó được thể hiện qua những việc làm cụ thể sau đây:
Thứ nhất, phải luôn sống gắn bó với Chúa, gặp gỡ Chúa qua đời sống hằng ngày. Mặc dầu Đức Giêsu đã lên Trời nhưng Ngài vẫn ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến Tận thế. Ngài hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách khác nhau: Ngài hiện diện cách thiêng liêng mọi nơi mọi lúc; Ngài hiện diện qua Giáo hội nơi các vị đại diện của Ngài ở trần gian này: Đó là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục, các linh mục; Ngài hiện diện qua Lời Chúa được viết lại trong cuốn Kinh Thánh; Ngài hiện diện qua các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể; Ngài hiện diện qua những người nghèo khó; Ngài hiện diện khi chúng ta họp nhau cầu nguyện…Vì thế, muốn được lên Trời cần phải sống gắn bó với Chúa, gặp gỡ Chúa mọi nơi mọi lúc: qua Lời Chúa, qua Giáo hội, qua các Bí tich, qua người nghèo khổ và qua đời sống cầu nguyện.
Thứ hai, phải biết chu toàn bổn phận hằng ngày. Đó là bổn phận làm người, bổn phận làm con Chúa, bổn phận của đấng bậc mình. Đó là bổn phận vợ chồng, cha mẹ, con cái, giáo dân, tu sĩ, linh mục, giám mục, giáo hoàng. Đó là bổn phận học sinh, giáo viên, công nhân, bác sĩ… Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã nói: “Bổn phận là giấy để vào được Nước Trời” (ĐHV Số 27).
Thứ ba, phải biết loan báo Tin mừng. Trước khi về trời, Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15). Không phải ai cũng có thể loan báo Tin mừng trực tiếp như các nhà truyền giáo, nhưng ai trong chúng ta cũng có thể loan báo Tin mừng gián tiếp bằng đời sống chứng tá của mình. Đặc biệt trong thời đại ngày hôm nay, chúng ta cũng có thể loan báo Tin mừng bằng truyền thông. Trong thông điệp ngày thế giới truyền thông xã hội lần thứ 52, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người phải truyền thông sự thật và biết ngăn chặn các “tin giả”. Ngài nói: “Trong một thế giới truyền thông và kỹ thuật số thay đổi nhanh chóng hôm nay, chúng ta đang chứng kiến sự lan tràn của cái được gọi là ‘tin giả’. Điều này buộc ta phải suy nghĩ, và đó là lý do tại sao trong Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông năm nay, tôi quyết định trở lại với vấn đề sự thật, là điều đã được các vị tiền nhiệm của tôi lặp đi lặp lại, bắt đầu từ Đức Phaolô VI, trong Sứ điệp năm 1972 với chủ đề: ‘Truyền thông xã hội phục vụ Chân lý’. Bằng cách này, tôi muốn góp phần vào sự dấn thân chung nhằm ngăn chặn sự lan rộng của tin giả và tái khám phá phẩm giá của báo chí và trách nhiệm cá nhân của các nhà báo trong việc truyền thông sự thật.” Từ thông điệp của Đức Giáo Hoàng trên đây cho chúng ta thấy, khi chúng ta góp phần ngăn chặn ‘tin giả’ và biết truyền thông sự thật cũng là cách thức truyền giáo cho người hôm nay. Vì làm như thế là chúng ta đang làm chứng cho Sự Thật, mà Sự Thật là chính Chúa như lời Đức Giêsu đã từng nói: “Ta là sự thật” (Ga 14,6).
Thứ tư, phải biết sống bác ái yêu thương. Vì trong ngày phán xét, mỗi người chúng ta sẽ chịu phán xét về bổn phận yêu thương. Vị Thẩm phán sẽ dựa vào việc ta làm hay không làm đối với những kẻ bé mọn để thưởng hay phạt chúng ta. Ngài đồng hóa Ngài với những kẻ bé mọn. Ngài nói với những kẻ lành rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.”(Mt 25,34-36). Còn đối với những kẻ dữ, Ngài nói: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.”(Mt 25, 41-43).
Khi biết chuẩn bị như thế, hạnh phúc Nước Trời sẽ ở trong tầm tay của chúng ta. Ngược lại, nếu không biết chuẩn bị thì chúng ta có nguy cơ mất hạnh phúc Nước Trời.
Người ta kể rằng: Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng: Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp: Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.
Người quản gia nói: Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi: Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói: Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được! (Sưu Tầm)
Thái độ thiếu khôn ngoan của nhà phú hộ trong câu chuyện trên đây cũng có thể là thái độ của mỗi người chúng ta. Vậy ngày lễ hôm nay mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có bao giờ nói về Nước Trời không? Tôi có chuẩn bị hành trang cho chuyến đi cuối cùng này không?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã về Trời sau khi chu toàn bổn phận trần thế. Xin cho mỗi người chúng con biết chuẩn bị cho ngày về Trời với Chúa bằng cách chu toàn những bổn phận của đấng bậc mình nhất là bổn phận loan báo Tin mừng. Amen.
21. Khởi điểm cho một kỷ nguyên mới
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Hôm nay Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm vinh quang Chúa lên trời. Thực sự, Chúa đã lên trời vinh quang ngự bên hữu Cha Ngài ngay khi sống lại mà ta không cảm nghiệm được. Ngày lễ hôm nay kết thúc cuộc sống trần gian của Đức Giêsu trước sự chứng kiến của các môn đệ. Đức Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài rời bỏ chúng ta, trái lại, Ngài còn hiện diện hơn lúc nào hết giữa chúng ta ngay từ hôm nay: ”Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa về trời nhưng Ngài muốn Giáo hội – là cánh tay nối dài của Ngài - tiếp nối công cuộc cứu chuộc của Ngài cho đến ngày tận thế. Nếu Chúa nói với các môn đệ ngay vào lúc từ giã họ: ”Các con hãy là những chứng nhân của Thầy cho toàn thế giới”(Cv 1,8) thì ngày nay Giáo hội cũng phải là chứng nhân trung thành của Ngài trong việc rao giảng Tin mừng, đem Chúa đến cho mọi người mọi nơi.
Ngoài ra, Thánh lễ hôm nay cũng nhắc nhở chúng ta hướng lòng về trời là quê hương của chúng ta, nơi mà Đức Giêsu đã dọn sẵn và đang đón chờ chúng ta. Nhưng muốn về trời ta phải cố gắng sống đời chứng nhân cho tốt và chu toàn nhiệm vụ của mình theo thánh Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 1.1-11
Thánh Luca mởi đầu sách Công vụ Tông đồ bằng cách tường thuật lại cho ông Thêôphilê việc Đức Giêsu trước khi giã biệt các Tông đồ đã trao ban cho họ những huấn lệnh cuối cùng và trọng trách tiếp nối công cuộc cứu độ của Ngài cho thế giới. Ngài còn hứa sẽ hiện diện với các ông cho đến ngày tận thế.
Ngày Đức Giêsu về trời không phải là kết thúc công việc của Ngài, nhưng việc Ngài về trời là một khúc quặt trong lịch sử cứu độ. Ngày Chúa về trời là một trang sử mới bắt đầu: Lịch sử của hoạt động Đức Giêsu hiện diện trong thế giới và Giáo hội cùng với sự hỗ trợ của Chúa Thánh Thần.
Vâng theo lời căn dặn của Đức Giêsu phục sinh, các Tông đồ họp lại trong nhà Tiệc ly để đón nhận lời Ngài đã hứa: Chúa Thánh Thần hiện xuống. Vì chưa nhận lãnh Chúa Thánh Thần nên các tông đồ chưa hiểu rõ những lời giảng dạy của Chúa, nhưng các ông sẽ hiểu rằng các ông được Chúa Kitô tuyển chọn để trở thành những chứng nhân của Ngài cho đến tận cùng thế giới.
+ Bài đọc 2: Ep 1, 17-23
Thần khí khôn ngoan mà thánh Phaolô cầu xin cho các tín hữu Êphsêsô phải soi lòng mở trí họ “hiểu biết” kế hoạch của Thiên Chúa thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể tuyên xưng lời tối thượng của Đức Kitô mà không thán phục quyền năng lạ lùng của Thiên Chúa được biểu dương nơi Đấng chịu đóng đinh. Chính quyền năng ấy từ nay sẽ được thi thố nơi loài người để tạo nên một thân thể có Đức Kitô là Đầu và đạt đến sự viên mãn mà nhân loại hằng tìm kiếm. Tin vào ưu thế tuyệt đối của Đức Kitô, chính là ngay từ bây giờ góp phần vào sứ mạng của Hội thánh, là biết nhìn nhận một ý nghĩa và một nội dung cho niềm hy vọng. Trong viễn tượng này, mầu nhiệm Thăng Thiên làm cho ta hiểu rằng cùng với Đức Kitô, một kỷ nguyên mới đang được mở ra cho nhân loại.
(Jean Frisque, Hướng dẫn gặp gỡ Lời Chúa mỗi ngày, tr 124)
+ Bài Tin Mừng: Mc 16,15-20
Trước khi về trời, Đức Giêsu còn hiện ra với Mười một Tông đồ để dạy dỗ các ông những điều sau cùng. Thánh Luca thuật lại những nét chính yếu về các huấn lệnh và chỉ thị của Đức Giêsu cho các ông. Theo đó, Đức Giêsu nhắc nhở cho các ông hai điều:
a) Ngài sai các ông loan báo Tin mừng: ”Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loại thọ tạo”.
b) Tin cậy giao phó cho các ông sứ mạng này, Đức Giêsu bảo đảm với các ông rằng Ngài sẽ mãi mãi trợ giúp họ, tăng cường lời giảng dạy của họ bằng những đặc sủng: làm phép lạ như trừ qủi, nói tiếng lạ, cầm rắn trong tay, chũa bệnh...
Các Tông đồ vâng lời Thầy, đi khắp nơi loan báo Tin mừng, và những lời hứa đã thành sự thật: ”Có Chúa cùng hành động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo”(Mc 16,20).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sứ mạng loan báo Tin mừng
I. CHÚA GIÊSU VỀ TRỜI
1. Sự kiện:
Sau khi sống lại, Đức Giêsu còn ở lại trần gian 40 ngày, hiện ra với các môn đệ, dạy dỗ các ông nhiều điều mà trước đó Ngài chưa có thời giờ dạy hết. Hôm nay thánh sử Marcô cho chúng ta biết “Sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa”(Mc 16,19).
Bài Tin mừng Thánh lễ hôm nay của thánh Marcô thuật lại việc trước khi chấm dứt sứ mạng ở trần gian để về trời, Đức Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng tiếp tục công việc của Ngài là rao giảng Tin mừng cho muôn dân.
2. Ý nghĩa việc lên trời
Việc Đức Giêsu lên trời có hai ý nghĩa hay có hai cách hiểu:
- Khi sống lại Đức Giêsu đã được tôn vinh. Cuộc tôn vinh đó đã được diễn ra chính vào lúc Chúa sống lại, Chúa lên trời ngay, giác quan không thể cảm nghiệm được, chúng ta chỉ có thể nhận thức bằng con mắt đức tin. Và sau đó, Chúa đã hiện ra với các Tông đồ nhiều lần để củng cố niềm tin của họ trong một thời gian mà sách Công vụ tông đồ xác định là 40 ngày.
- Nhưng có một dữ kiện thứ hai có tính cách lịch sử, cảm nghiệm được dựa trên chứng cứ của những người tai nghe mắt thấy, như thánh Luca cho biết: ”Vài tuần sau lễ Vượt Qua, Đức Giêsu đã “được đưa lên trời” trước mặt các môn đệ”.
Mầu nhiệnm lên trời kêu gọi chúng ta nhìn nhận hai khía cạnh liện hệ nhưng riêng biệt nhau: Một bên là Đức Kitô được vinh quang ngay lúc Ngài sống lại; một bên là Đức Kitô ra đi sau một thời gian hiện ra nhiều lần. Đó là cuộc ra đi trở về với Chúa Cha mà các tông đồ được chứng kiến trên núi Cây Dầu. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:”Đức Kitô trở về nơi tối cao, nhưng vẫn ơ lại với chúng ta. Và cũng như chúng ta, chúng ta ở dưới đất nhưng chúng ta đã ở bên Ngài”.
3. Trao phó sứ mạng loan báo Tin mừng
Trước khi “lên trời” không còn hiện diện hữu hình với các môn đệ, Đức Giêsu trao sứ mạng cho họ. Đức Giêsu, Đấng chỉ mới loan báo Tin mừng trong giới hạn là nước Israel, nay Ngài ủy thác cho các môn đệ nối tiếp sứ mạng loan báo của Ngài là loan báo Tin mừng khắp cùng trái đất. Vì thực hiện theo mệnh lệnh của Đức Giêsu nay đã ở trong vinh quang của Chúa Cha, các môn đệ sẽ có thể làm những gì mà xưa kia chính Đức Giêsu chưa làm được:”Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha”(Ga 14,12). Việc hơn ấy là nay họ sẽ ra đi loan báo Tin mừng khắp thế giới.
Vì thế, việc rao giảng của các Tông đồ phải mang lại cùng hiệu quả giống như việc rao giảng của Đức Giêsu. Ngài ban cho các ông nhiều quyền năng làm phép lạ. Nhưng chúng ta không nên hiểu từng chữ về câu nói rằng “các tông đồ có thể cầm được rắn trong tay và uống thuốc độc mà vẫn không sao”. Theo tâm lý của người Trung đông, lối nói cường điệu được người ta chấp nhận như một cách thức nhấn mạnh đến một điểm – thông qua quyền năng của Đức Giêsu, các môn đệ sẽ chiến thắng được tất cả mọi sự dữ.
II. TA Ở LẠI DƯỚI ĐẤT
1. Chúa muốn ta tiếp tục công cuộc cứu rỗi
Đức Giêsu muốn dùng Hội thánh cũng như chúng ta như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài, nghĩa là Hội thánh như một nối dài của Đức Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp cho người ta. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hành động của Ngài được tiếp tục qua Giáo hội. Sứ mệnh của Đức Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó cần được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mạng đó cho Giáo hội, Đức Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo hội mà Đức Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
2. Chúng ta chia sẻ công cuộc cứu rỗi ấy
Đức Giêsu không bảo các môn đệ là hãy cứ ngồi chờ đó, mọi thọ tạo sẽ đến với các con! Không. Ngài bảo:”Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ. Loan báo Tin mừng cho mọi loại thọ tạo”.
Đức Giêsu nhấn mạnh cho các môn đệ một tư tưởng là: hãy loan báo tin mừng cho “mọi loài thọ tạo”.
- Thọ tạo nghĩa là được Thiên Chúa dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú... Tóm lại là tất cả.
- Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin mừng cho loài người là có thể. Còn loan báo Tin mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển v.v.
- Rốt cuộc, loan báo Tin mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi.
(Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 271)
3. Phương cách loan báo Tin mừng
a) Loan báo trực tiếp hay gián tiếp
Có những người trực tiếp đi rao giảng Tin mừng cho người ta, ví dụ các nhà truyền giáo chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, các Linh mục, họ có thể loan báo một cách trực tiếp. Còn hầu hết mọi người chúng ta không có khả năng loan báo trực tiếp mà chỉ bằng cách gián tiếp nhưng rất hữu hiệu như cầu nguyện, tham gia các hội đoàn, nâng đỡ các nhà truyền giáo, đóng góp vào qũy truyền giáo, nhất là bằng gương sáng.
b) Loan báo bằng cách sống đời thường
Chỉ có một cách loan báo Tin mừng thích hợp với mọi người, mọi nơi, mọi lúc, đó là loan báo bằng cách sống đời thường với châm ngôn: ”Các con là ánh sáng thế gian. Các con là muối đất. Các con là men trong bột”. Các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã loan báo bằng cách này và đã được một tác giả cổ xưa mô tả và gửi cho ông Thêôphilê như sau:
“Các Kitô hữu không khác người ta về xứ sở, ngôn ngữ và tập quán trong đời sống. Họ không ở trong những thành phố riêng, không dùng ngôn ngữ lạ thường, cũng không sống một đời sống khác biệt. Giáo lý của họ không phải do một sự suy tư nào đó, hay do mối bận tâm của những con người ham tìm hiểu nghĩ ra. Họ không bảo trợ một hệ thống triết lý nào do loài người chủ xướng như một số người kia.
“Họ ở trong các thành phố văn minh cũng như bán khai, tùy theo số phận mỗi người đưa đẩy. Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và trong lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng và ai cũng phải nhận là khó tin. Họ sống ở quê hương mình mà như người khách kiều cư. Họ có chung mọi thứ như công dân, nhưng phải gánh chịu đủ thứ như khách lữ hành. Miền đất lạ nào cũng là quê hương của họ, nhưng quê hương nào cũng là đất khách đối với họ. Họ lập gia đình và sinh con cái như mọi người, nhưng không phá thai. Họ ăn chung với nhau một bàn, nhưng không chồng chung vợ chạ”.
(Trích Các Bài đọc Kinh sách, tập 2, tr 354)
Truyện: Đọc Thánh kinh hằng ngày
Có một người Kitô hữu tầm thường, thấy bên cạnh mình có một người tự xưng mình là vô thần. Lòng nhiệt thành đã thúc đẩy họ tìm cách giới thiệu Chúa cho họ. Người này đi mua một cuốn Thánh kinh biếu cho người láng giềng ấy, hy vọng họ đọc và sẽ nhận ra Thiên Chúa. Người láng giềng vui vẻ đón nhận và hứa sẽ đọc..
Sau một thời gian, người Kitô hữu sang chơi nhà láng giềng. tình cờ thấy cuốn Thánh Kinh nằm trong sọt rác. Người Kitô hữu ngạc nhiên hỏi người láng giềng:
- Sao ông không đọc Kinh thánh? Nếu đọc, ông sẽ nhận ra Thiên Chúa.
Người láng giềng lạnh nhạt trả lời:
- À suốt trong 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh!!!
Câu chuyện kết thúc ở đây. Chúng ta hãy suy nghĩ về câu trả lời của người láng giềng vô thần ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ xem, người vô thần ấy muốn nói gì?
Có một bài viết ngắn về điều này:
“Tôi là cuốn sách Kinh thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh thánh qua cuộc đời của tôi” (Flor McCarthy).
c) Thành công hay thất bại
Trong việc loan báo Tin mừng, thành công hay kết quả đều do ân sủng của Chúa như Chúa đã nói: ”Không có Thầy các con không làm được gì”. Đúng là mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, nhưng Chúa không từ chối thiện chí của con người, Chúa muốn con người cộng tác làm việc, còn Chúa sẽ ban ơn cho. Cho nên, nhiều khi chúng ta thất bại trong việc loan báo Tin mừng vì cách làm chứng của chúng ta còn nghèo nàn quá, không có sức hấp dẫn người ta; có khi thay vì chúng ta là chứng nhân lại trở thành người phản chứng, có khi chúng ta là Kitô hữu lại trở thành phản Kitô. Tốt nhất phải làm gương sáng, vì trăm nghe không bằng một thấy:
Lời nói như gió lung lay,
Gương bày như tay lôi kéo.
III. NHƯNG LÒNG HƯỚNG VỀ TRỜI
Chúa về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha sau khi đã thi hành trọn vẹn sứ mạng đã được trao phó. Chúng ta còn ở lại dưới đất để tiếp nối chương trình cứu chuộc của Đức Kitô, và sau khi hoàn tất sứ mạng được trao phó chúng ta cũng sẽ được về trời với Ngài vì: ”Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó”(Ga 12,26). Công việc ở trần gian của chúng ta là mắt nhìn trời, chân đạp đất.
1. Mắt nhìn trời.
Sách Tông đồ công vụ kể rằng sau khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ đưa mắt trông theo và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc nhở cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy? Chắc chắn là vì cảnh thiên đàng hấp dẫn lắm!
Chắc hẳn như vậy! Trời hay thiên đàng là quê hương của ta, nơi ta đang trông ngóng như lời thánh Phalô đã nói với tín hữu Philipphê: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3,20). Quê hương chúng ta ở trên trời, ở đó chúng ta sẽ được thấy Thiên Chúa nhãn tiền và được hạnh phúc vô cùng. Những người đã được nếm thử cảnh Hạnh phúc Thiên đàng nói lại cho chúng ta điều họ thử nghiệm như sau:
- Các tông đồ ngây ngất nhìn về trời khi Chúa được cất lên khỏi mặt đất, đến nỗi phải có hai thiên thần đến thức tỉnh các ông dậy (Cv 1,9-10).
- Ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi mãi trên ngọn núi đó (Mt 17,1tt).
- Thánh Phaolô khi được ngất trí đã thốt lên: ”Người ấy đã được nhấc lên đến tận tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng người ấy – hoặc trong thân xác hoặc ở ngoài thân xác, tôi không biết – đã được nhắc vào Thiên đàng và được nghe những lời khôn tả, người phàm không được phép nói lại”(2Cr 12,2-4).
- Ở Lộ đức, năm 1858 Đức Mẹ đã hiện ra với thánh nữ Bernadette, và ở Fatima, năm 1917. Đức Mẹ lại hiện ra với ba em Lucia, Phanxicô và Giaxinta. Các nhân chứng chỉ biết khen rằng Đức Mẹ đẹp lắm và luôn ao ước tới ngày được lên trời.
Đó là vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Các nhân chứng chỉ thấy một chút hào quang mà đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được vào thiên đàng. Nếu thực sự được hưởng thiên đàng trọn vẹn thì hạnh phút ngây ngất đến chừng nào.
2. Chân đạp dất
Khi Đức Giêsu về trời, Ngài hứa sẽ đem chúng ta về với Ngài ở quê hương vĩnh cửu để hưởng phúc vô biên, nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn với hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ trần thế. Chúng ta còn phải xây dựng trần thế theo tinh thần Chúa Kitô.
Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tiến tới thiên đàng, thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn nhiệm vụ của mình ở đời này.
Để chuẩn bị về quê trời chúng ta hãy làm hai việc:
a) Loan báo Tin mừng cho muôn dân
Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa dạy: ”Các con đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”(Mt 10,8). Trong ngày lễ Thăng Thiên hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại sứ mạng loan báo Tin mừng của chúng ta. Chúa muốn Giáo hội và từng người chúng ta tiếp nối công việc cứu chuộc của Ngài. Chúng ta phải là cánh tay nối dài của Chúa, làm sao cho Tin mừng của Chúa phải được loan truyền cho đến tận cùng trái đất. “Hỡi những người Galilê, sao cứ đứng đó mãi nhìn trời”? Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông thi hành nghĩa vụ rao giảng Tin mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Ngài về trời:”Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng cho nhân loại”.
b) Chu toàn nghĩa vụ hằng ngày
Đời là một cuộc hành trình về đời sau, mà cuộc hành trình nào cũng gặp nhiều khó khăn, gian khổ, đòi hy sinh cố gắng không ngừng. Mỗi khi ta phải chiến đấu, phải vất vả hy sinh, hãy nghĩ tới thân phận con người, nghĩ tới cuộc đời chóng qua, nghĩ tới lời Chúa phán: ”Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, Lạy Chúa, là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi”(Mt 7,21). Muốn thi hành ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta càng phải nỗ lực vượt qua sự ươn lười, yếu đuối của ta vì như Chúa nói:”Nước Trời đòi sự cố gắng, ai cố gắng thì mới chiếm được”(Mt 11,12).
Truyện: Chiếc kim may
Trong một tu viện nọ có một tu huynh sắp qua đời. Khi thấy anh em trong nhà quây quần bên mình, thì ngỏ ý:
- Xin anh em đưa cho tôi chìa khoá để vào Thiên đàng.
Nghe vậy, một anh em chạy đi lấy cuốn Kinh thánh trao cho tu huynh, nhưng ông ta lắc đầu.
Một anh em khác trao cho tu huynh cây thánh giá, một anh em nọ lại đem đến tràng hạt Mân côi. Nhưng tu huynh vẫn lắc đầu.
Thế rồi, một anh em kia chợt nhớ ra rằng suốt đời tu huynh ấy đã cặm cụi lo may vá áo dòng cho anh em, bèn chạy đi tìm cây kim may và đem đến cho người anh em sắp ly trần. Vừa trông thấy cây kim may đơn sơ nhỏ bé, vị tu huynh ngồi nhổm dậy, vươn tay ra đón nhận, mân mê cây kim may nhỏ bé, rồi nhẹ nhàng nằm xuống, nhắm mắt lìa trần, nụ cười vẫn lưu lại trên môi.
22. Chúa Thăng Thiên – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Bốn mươi ngày sau Chúa Phục Sinh là ngày thứ năm sau Chúa Nhật thứ sáu phục sinh. Như vậy lễ Chúa Thăng Thiên đúng ra đã được cử hành vào ngày thứ năm vừa qua, nhưng ở một số nơi lễ này được dời vào Chúa Nhật để tín hữu có dịp tham dự và hiểu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người.
I. Khỏi bốn mươi ngày Ngài Lên Trời
Truyền thống Giáo Hội vẫn cử hành lễ Chúa Lên Trời bốn mươi ngày sau lễ Chúa Phục Sinh. Truyền thống này theo sát trình thuật sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa…. Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv.1, 3.9).
Bốn mươi ngày, là thời gian các tông đồ còn có thể nhìn thấy Đức Giêsu, có thể cùng ăn cùng uống với Ngài, còn được Ngài dạy bảo như những ngày nào. Trong thời điểm ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ cũng vẫn còn u mê, vẫn còn tưởng Ngài sẽ khôi phục nước Israel theo nghĩa phàm trần. Đức Giêsu vẫn tiếp tục kiên trì dạy dỗ những người học trò như thể “chậm hiểu” đối với con người ngày nay, nhưng thật sự những gì Đức Giêsu đề cập rất khó hiểu vì các tông đồ đâu có những khái niệm trước như những tín hữu hôm nay đã được nghe đi nghe lại nhiều lần.
Đức Giêsu “lên trời” ngay trước mắt các tông đồ (Cv. 1,9). Điều này đã xảy ra tại vườn dầu (Cv. 1,12). Bao nhiều lần Đức Giêsu hiện ra cho các tông đồ, và rồi Ngài lại biến đi trước mắt các ông. Những lần đó không có sách nào nói Ngài lên trời cả, chỉ coi Ngài hiện ra và Ngài lại đi thôi, và rồi Ngài sẽ lại thăm viếng các tông đồ khi các tông đồ cần và Ngài muốn. Sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay diễn tả rất cụ thể và rõ ràng về biến cố Đức Giêsu lên trời.
II. Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế
Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu không nói Đức Giêsu lên trời, mà lại nói Đức Giêsu ở lại mãi với con người: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28,20). Theo thánh Matthêu, Đức Giêsu là Emmanuel, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa ở với con người (Mt. 1,23). Nếu Đức Giêsu là Đấng qua Ngài Thiên Chúa ở với con người, thì đâu có khi nào Đức Giêsu rời con người nữa. Thiên Chúa không ở xa con người, nhưng ở gần thật gần con người, một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Tin Mừng theo thánh Matthêu cũng cho thấy Đức Giêsu đã nói: “nơi nào có hai hay ba người họp nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở đó, giữa họ” (Mt.18, 20). Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Yoan cũng có những tư tưởng tương tự: “ai yêu men Thầy, sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga.14, 23). Đức Giêsu ở với các tông đồ, ở với những người nhờ lời các tông đồ mà tin vào Đức Giêsu.
Ý niệm Đức Giêsu ở với con người, hàm chứa niềm tin Đức Giêsu “đang sống” một cách nào đó. Đây không chỉ là “đang sống” theo nghĩa những người còn đang sống tưởng nhớ tới Ngài, nhưng thật sự Ngài vẫn đang sống độc lập và khách quan đối với tư tưởng của con người. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang sống và ở với con người bất chấp con người có biết hoặc ý thức điều đó hay không.
III. Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa
Một số người khi đọc tới đây có thể đã nói: “Kinh Thánh mâu thuẫn; như vậy biết tin thế nào đây, một đàng nói lên trời một đàng nói vẫn ở dưới thế”! “Phải chăng Kinh Thánh không đáng tin”. Thật sự trong Kinh Thánh có nhiều điều bị người ta nói “không lô gích và phản khoa học”, chẳng hạn trong Sáng Thế Ký nói “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St. 2, 7). Thiên Chúa là Đấng thiêng lieng làm gì có tay mà nặn, làm gì có hơi thở mà thổi hơi vào hình đất đó. Khoa học cho thấy con người hình thành qua tiến trình tiến hóa.
Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng. Ngài ở khắp mọi nơi. Không có gì hiện hữu ngoài Ngài. Ma quỷ cũng luôn hiện diện trước Ngài, không thể tránh được Ngài. Nếu ai thù hận ghen ghét Ngài, thì sẽ muôn đời khổ vì không thể trốn đâu được với Ngài. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, nên không có tay phải tay trai, không có bên phải bên trái. Những cách diễn tả như vậy, đó là cách diễn tả “nhân hình” về Thiên Chúa. Khi người ta nói “Thiên Chúa ở trên trời”, thì không có nghĩa Thiên Chúa ở trên trời thăm thẳm mà không ở dưới đất này, nhưng có nghĩa, Thiên Chúa là Đấng cao vời siêu việt, vượt quá sức hiểu và tưởng tượng của con người. Thiên Chúa là Đấng cao vượt trên con người như trời cao hơn đất: Thiên Chúa ngự trên trời. Như vậy khi một so tác giả diễn tả Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, không có nghĩa đen hoàn toàn như vậy, nhưng phải hiểu là Đức Giêsu được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Công Nghị Do Thái đã hiểu theo nghĩa này, nên đã đong thanh kết án tử hình Đức Giêsu: là người mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa: phạm thượng (Mc.14, 62-64). Khi nói Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng không có nghĩa rằng Đức Giêsu ở xa con người, rơi bỏ con người, nhưng có nghĩa, Ngài được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa làm người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đức Giêsu nói: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 20). Bạn có thấy câu này mâu thuẫn với khẳng định “Chúa Lên Trời” không? Tại sao bạn nói mâu thuẫn hoặc không mâu thuẫn?
2. Trong Kinh Thánh, những chỗ nào đề cập đến việc “Chúa lên trời”? Theo ý bạn, “lên trời” trong từ ngữ “Chúa Lên Trời” phải được hiểu như thế nào?
3. Ở đâu trong Kinh Thánh dùng từ ngữ “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”? Theo bạn, từ ngữ “ngự bên hữu Thiên Chúa” phải được hiểu như thế nào, vì Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, đâu có bên phải bên trái?
23. Lên trời - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Chúa Giêsu lên trời. Trời là chốn linh thiêng mầu nhiệm lạ lùng. Con người luôn luôn khao khát được lên trời. Đi dưới đất, bơi trên sông, con người thấy mình thấp hèn quá! Phải làm sao lên được trời cao, con người mới thỏa mãn được những ước mơ lý tưởng của mình.
Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai ông Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.
Loài người đã hồi hộp theo dõi: các cuộc bay lên trời của mấy ông đó và mơ ước có ngày cũng được lên trời, nhưng rốt cuộc chuyến bay nào cũng phải trở về đất, lại phải sống kiếp thân phận bụi đất.
Chỉ có cuộc lên trời của Chúa Giêsu mới giải thoát con người khỏi kiếp sống lầm than, mới ban sức mạnh thần lực cho con người lên trời vinh quang muôn đời.
Cuộc lên trời của Chúa: thật là một cảnh tượng huyền diệu đang diễn ra trước mắt đức tin của chúng ta:
1. Ở trên cao: Các thiên thần và triều đình thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn trong niềm ngây ngất, tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, đe Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hien tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.
2. Ở chung quanh: Đoàn tùy tùng theo Chúa đông vô kể, gồm các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính, các hiền nhân do Chúa Cứu Thế giải thoát khỏi ngục tối, đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có tổ phụ Abraham, Giacob, Môisê, thánh Job, thánh vương David, các tiên tri Isaia, Giêrêmia, nhất là hai bên tả hữu là thánh cả Giuse và thanh Gioan tiền hô và cả người trộm lành nữa.
3. Ở dưới đất: Quỳ trên núi Ôlivitê là Hội thánh sơ khai: Đức Mẹ, thánh Phêrô, các tông đồ, hàng trăm môn đệ và các thánh nữ. Trước sự hiện diện và trước những con mắt đang ngây ngất chiêm ngưỡng, Chúa Giêsu lên trời lòng tràn trề rộn rã hân hoan: “Mọi miệng lưỡi trên trời dưới đất cùng cả hỏa ngục đang tung hô rằng Giêsu Kitô là Vua, là Chúa chúng tôi” (Suy Niệm Đời Chúa).
Vì thế, bai Đáp ca Thánh lễ hôm nay đã hô hào khắp muôn dân, khắp hoàn cầu, khắp trời đất: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả (Tv. 47, 2-3, 6-9).
Sống trong nguồn vinh phúc của Chúa Giêsu lên trời, chúng ta phải thực thi hai điểm: Mắt nhìn trời, chân đạp đất.
- Mắt nhìn trời để “cầu xin Chúa Cha vinh hiển ban cho chúng ta thần trí khôn ngoan để nhận biết Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha. Ngài tôn vinh Đức Kitô trên mọi quyền lực thần thiêng trong thế giới hiện tại và cả thế giới tương lai. Xin Người soi trí mở lòng chúng ta thấy rõ gia nghiệp vinh quang phong phú của chúng ta được chia sẻ cùng các thánh, thấy rõ quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta” (Bài đọc 2). Mắt nhìn trời để đón nhận “sức mạnh của Thánh Thần” soi sang, trợ giúp khích lệ ta trong nhiệm vụ làm chứng về Đức Kitô.
- Chân đạp đất là “đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo tin mừng cho tất cả loài người”, “từ Giêrusalem, Giuđê, Samaria và cho đến cùng tận trái đất”. Từ kinh thành văn minh như Hy Lạp, Ai Cập, Roma đến hang cùng ngõ hẻm, rừng thiêng nước độc như Giaray, Kontum, từ bắc cực đến nam cực băng giá, ngày nay đều có thánh giá ngự trị để cho muôn dân được lành mạnh, được cứu độ, thoát khỏi loài rắn quỷ satan, khỏi nọc độc của tử thần.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho các con để Thầy ở đâu, chúng con sẽ được ở đó”. Giờ đây, Thầy đang ngự trên quê hương hạnh phúc nước Trời mà vẫn hằng chăm lo cho chúng con mọi sự. Xin cho chúng con biết luôn luôn nhìn trời để chăm lo đời sống chúng con và đời sống mọi người, mong xứng đáng được về hưởng vinh phúc quê trời với Thầy. Amen.
24. Chuyển giao thông điệp cứu độ
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Đối với chúng ta hôm nay, việc gửi một lá thư từ Việt Nam đi Âu hay Mỹ là điều dễ dàng như trở bàn tay, nhất là đối với thư điện tử; chỉ cần ngồi vào máy tính và nhắp chuột một cái là bức thư sẽ được chuyển qua nửa bên kia trái đất chỉ trong một vài giây!
Thế nhưng vào thời kỳ ngành Bưu Chính Việt Nam chưa phát triển (từ thời vua Lý Thái Tôn [1028-1054] đến đầu thời Pháp thuộc), việc chuyển một bức thư từ Bắc vào Nam là cả một hành trình đầy gian truân khổ ải.
Chuyển giao chiếu chỉ Nhà Vua
Hồi ấy, người lính trạm ở hoàng cung (nay gọi là bưu tá), sau khi nhận được công văn hay chiếu chỉ của Nhà Vua, tức tốc lên ngựa phóng nước đại bất kể ngày đêm mưa nắng, để chuyển giao sớm hết sức có thể cho Trạm kế tiếp (mỗi trạm được gọi là Cung Dịch hay Trạm Dịch). Người lính ở trạm kế đó, khi vừa tiếp nhận chiếu chỉ, phải lập tức phóng ngựa lên đường không trì hoãn để chuyển giao cho Trạm tiếp theo... Cứ thế, các lính trạm nối tiếp nhau phóng ngựa như bay, bất chấp nhọc nhằn, băng qua nhiều chặng đường gian nan hiểm trở có lắm thú dữ hoành hành, để chuyen giao nhanh chóng chiếu chỉ đến tay người nhận, dù phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.
Chuyển giao sứ điệp của Chúa Giêsu
Trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng trao cho các Tông Đồ sứ mạng loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16, 15).
Tin Mừng là thông điệp quan trọng bậc nhất vì có liên hệ mật thiết đến phần rỗi, đến sự sống đời đời của nhân loại: "Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án" (Mc 16, 16).
Tin Mừng là một thông điệp vô cùng quý báu vì mang lại hoà bình và hạnh phúc cho toàn thế giới.
Tin Mừng cũng là thông điệp khẩn cấp, cần phải loan truyền nhanh chóng và rộng rãi khắp nơi vì e rằng có rất nhiều người chết đi mà chưa kịp đón nhận được sứ điệp mang lại ơn cứu rỗi nầy.
Khi tiếp nhận sứ điệp Tin Mừng, các tông đồ đã cống hiến toàn bộ cuộc đời còn lại của mình, chấp nhận vô vàn gian lao khổ ải, kể cả ngục tù, xiềng xích và cái chết, để chuyển giao Tin Mừng cho người Do-Thái và cho dân ngoại trong đế quốc Rô-ma.
Kế đó, các cộng đoàn tín hữu tiên khởi, sau khi đón nhận Tin Mừng của Chúa Cứu Thế do các tông đồ truyền lại, tích cực bảo toàn và nỗ lực chuyển giao cho thế hệ tiếp theo dù phải trả bằng giá máu. Nhờ thế, sứ điệp Tin Mừng của Chúa Cứu Thế đã được loan báo cho nhiều dân tộc khắp năm châu.
* * *
Chuyển giao Tin Mừng là sứ mệnh cấp bách
Chúa Giêsu và Hội Thánh đã trao sứ điệp quý báu và quan trọng nầy tận tay chúng ta và thôi thúc chúng ta chuyển đi khắp thế giới. "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo."
Nắm trong tay thông điệp tối khẩn có liên quan đến vận mệnh đời đời của toàn thể nhân loại, ít nữa là vận mệnh của hơn 75 triệu đồng bào Việt Nam chưa biết Chúa đang sống quanh ta, nhưng dường như chúng ta còn uể oải chưa muốn lên đường làm trách nhiệm người "lính trạm" của Chúa Kitô.
Lạy Chúa Giêsu,
Hôm nay, nhiều người phải sống bất hạnh vì chưa được đón nhận niềm hạnh phúc do Tin Mừng mang đến, nhiều dân tộc phải chịu thiêu đốt trong lò lửa chiến tranh vì không hề biết giải pháp đem lại hoà bình do Tin Mừng cung cấp, đang khi Chúa vẫn thôi thúc chúng con truyền rao Tin Mừng cho ho mà chúng con vẫn lặng im!
Và nếu chung quanh chúng con có nhiều người chết đi mà chưa kịp đón nhận sứ điệp Tin Mừng cứu độ vì sự chểnh mảng, thờ ơ của chúng con là những "người lính trạm" của Chúa thì đến ngày phán xét, chúng con sẽ trả lời với Chúa sao đây?.
25. Hướng về trời cao - Lm. Ignatiô Trần Ngà
Có một số thanh thiếu niên hiện nay không màng đến chuyện học hành, chẳng lo trau dồi đức hạnh, không chịu rèn luyện để trở thành người có ích… Trái lại, họ đâm ra lêu lỏng chơi bời, quậy phá, đắm mình trong truỵ lạc đê hèn. Nguyên nhân nào đã gây ra thảm trạng đó?
Không có hướng tiến thân sẽ làm con người hư hỏng
Các nhà nghiên cứu xã hội cho rằng mot trong những nguyên nhân gây nên tình trạng đáng buồn đó là vì một số bạn trẻ cảm thấy không có đường tiến thân cho mình, cánh cửa mở vào tương lai dường như đang khép lại trước mặt họ. Họ chẳng hy vọng có chút địa vị trong xã hội hay có được công ăn việc làm ổn định với đồng lương cao. Họ chẳng còn mục tiêu nào tốt đẹp để phấn đấu vươn lên. Họ cảm thấy tương lai bế tắc, nên đâm ra chơi bời lêu lỏng, làm hư hỏng cả cuộc đời.
Nói chung, khi con người cảm thấy không có tương lai, nhìn về mai sau chỉ thấy ngõ cụt, thấy kết thúc của đời người chỉ là một nấm mồ … thì người ta không còn muốn cố gắng phấn đấu sống đời đạo đức, không còn muốn làm lành lanh dữ, không còn muốn tu thân tích đức… mà chỉ muốn ăn chơi cho qua ngày đoạn tháng, hoặc sống buông thả và làm hỏng đời mình.
Tâm trạng đó được nhà thơ Cao Bá Quát diễn tả như sau:
“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,
cảnh phu du trông thấy cũng nực cười,
thôi công đâu chuốc lấy sự đời,
tiêu khiển một vài chung lếu láo.”
Vì cảm thấy kiếp người thì ngắn ngủi, mọi sự chỉ là phù du, nên người ta không muốn chuốc lấy sự đời, không muốn kê vai gánh vác trách nhiệm xã hội mà chỉ muốn tìm an nhàn trong chén rượu cho vơi nỗi sầu.
Vì cảm thấy tương lai là ngõ cụt, nên cũng có người chọn sống như những con thiêu thân:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” (Xuân Diệu).
Đức Giêsu lên trời hướng tâm hồn ta tới một tương lai huy hoàng
Có một đàn chim đông đảo bị giam nhốt trong một chiếc lồng khá lớn. Kiếp sống ngục tù trong cảnh “chim lồng cá chậu” làm cho đa số chim trong lồng không có cơ hội cất cánh bay lên, thế nên đôi cánh của chúng gần như bị tê liệt. Đối với chúng, thế giới chỉ là chiếc lồng chim chật chội và khung cảnh chung quanh mình. Hằng ngày chúng sống chen chúc trong khoảng không gian giới hạn của chiếc lồng, an phận sống kiếp gia cầm chờ ngày bị đem đi xào nấu.
Vào một ngày đẹp trời, một con chim mẹ trổ được một lỗ hổng trên nắp lồng và thoát ra được bên ngoài, tung cánh bay vút lên cao giữa khung trời cao rộng. Thế là từ hôm đó, nhiều con chim trong lồng cố gắng luyện tập cho đôi cánh mạnh mẽ lên để có thể bay cao, thoát ra khỏi chiếc lồng chật chội như ngục tù giam hãm mình, để bay vút lên trời xanh nối đuôi chim me.
Qua biến cố sống lại và lên trời, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy rằng kiếp người không phải chỉ giới hạn trên trái đất chật hẹp này nhưng còn được nối tiếp trong thế giới thiêng lieng và Ngài đã mở ra cho chúng ta một lối thoát, thoát ra khỏi thế giới tạm bợ này để vào thiên quốc.
Sự kiện Chúa Giêsu lên trời hướng tâm hồn chúng ta về trời cao, giúp chúng ta biết cùng đích của đời người không phải là chốn trần gian tạm bợ mà là cõi hạnh phúc thiên đàng. Ngài lên trời mở ra cho chúng ta một chân trời mới, một triển vọng mới.
Vì thế, chúng ta đừng bám chặt vào thế giới phù du tạm bợ này, vì không sớm thì muộn, chúng ta cũng phải từ bỏ nó. Vậy thì đừng trầm mình trong nếp sống ươn hèn tội lỗi, đừng ngụp lặn trong lạc thú mau qua, đừng chỉ biết cúi xuống để sống an phận, mà biết sống siêu thoát và biết hướng tâm hồn lên cao.
Khi đàn chim non thấy chim mẹ bay thoát ra khỏi chiếc lồng giam nhốt mình từ bấy lâu nay thì chúng quyết luyện tập cho đôi cánh được mạnh mẽ để có thể thoát ra khỏi chốn ngục tù, tung cánh bay lên cao như chim mẹ.
Vậy thì chúng ta cũng phải kiên trì luyện tập mỗi ngày, cho đức tin của mình được mạnh mẽ, cho tâm hồn đạo đức được gia tăng, cho lòng mến được dồi dào, nhờ đó, mai đây chúng ta có thể “cất cánh” về với Thiên Chúa là nguồn hoan lạc của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xuống trần để vạch đường chỉ lối cho chúng con về thiên quốc. Chúa đã về trời để dọn sẵn chỗ ở cho chúng con trong Ngôi Nhà của Chúa Cha (Ga 14,2). Xin cho chúng con biết rèn luyện “đôi cánh mến Chúa yêu người” cho mạnh mẽ, để đủ sức “bay” về nơi Chúa đã dọn sẵn cho chúng con.
26. Chúa Thăng Thiên
Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời, nhưng Trời ở đâu? Trong Kinh Thánh, "trời" là hình ảnh văn chương quen thuộc dùng để chỉ nơi Thiên Chúa ngự. Kinh Thánh cũng dùng hình ảnh đám mây để nói về sự hiện diện của Thiên Chúa, ví dụ: khi dân Chúa tiến bước trong sa mạc, thì có đám mây đi theo, Vậy chúng ta đừng hiểu cách mô ta của Thánh Luca trong Kinh Thánh theo nghĩa đen theo kiểu Chúa bay vào không gian như một phi hành gia. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Người được vĩnh viễn đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, được nên ngang hàng với Thiên Chúa và được đặt làm Chúa mọi loài mọi vật.
Chúa Giêsu lên trời hay còn gọi là lễ Thăng Thiên. Biến cố Thăng Thiên của Chúa Giêsu chấm dứt một lịch sử và khởi đầu một lịch sử. Lịch sử chấm dứt là lịch sử nào? Thưa đó là lịch sử cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể ở giữa trần gian, biến cố Thăng Thiên chấm dứt sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu ở giữa thế gian. Còn lịch sử bắt đầu là lịch sử nào? Thưa là lịch sử của Hội Thánh, lịch sử này tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa Cứu Thế trên trần gian cho đến ngày Người trở lại trong vinh quang.
Thánh Luca viết: Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, thì kìa hai người đàn ông mặc ao trắng đứng bên cạnh và nói "Hỡi những người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời". Câu nói cua các thiên sứ nhắc nhở các tông đồ phải trở về với nhiệm vụ đã được Thầy giao phó mà các Ngài phải chu toàn cho đến ngày tận thế.
Chúa Giêsu lên trời là một điều chắc chắn. Đây là một mầu nhiệm, một tín điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính "ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh, Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha", một hy vọng cho chúng ta hướng đến khi suy niệm Năm Sự Mừng, thứ hai Đức Chúa Giêsu lên trời, Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.
Chúa Giêsu lên trời là để dọn chỗ cho các môn đệ và Người sẽ trở lại để đem họ về trời với Người. Chúng ta là người kitô hữu, qua bí tích rửa tội, chúng ta trở nên những môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta sống đạo là để chúng ta được Chúa cho chúng ta lên thiên đàng trong ngày sau hết. Nhưng để được lên thiên đàng cũng phải có những điều kiện. Đó là làm theo những lệnh truyền của Chúa: phải sám hối từ bỏ mọi tội lỗi, các đam mê xấu và tin vào Tin Mừng của Chúa, để được ơn tha thứ và trở nên con cái Thiên Chúa; phải thực hành các giới răn của Chúa và những lời dạy của Hội Thánh, nhất là giới răn yêu thương. Bởi thiên đàng là nơi sống yêu thương, những ai sống trong thù hận, chia rẽ, ghen ghét, hay chửi rủa, hay nói hành nói xấu người khác, thì không thể lên thiên đàng được, họ sẽ không hoà hợp được với lối sống thien đàng vì họ không biết yêu thương. Muốn được lên thiên đàng sau khi chết chúng ta phải xây dựng cho mình một thiên đàng ngay tại thế gian này bằng một đời sống luôn biết yêu thương, biết chia cơm sẽ áo cho những người nghèo đói, giúp các bệnh nhân nghèo có phượng tiện chữa bệnh, thăm viếng an ủi những người đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn, động viên các tội nhân ăn năn sám hối và sớm trở về giao hoà với Thiên Chúa. Sống yeu thương là sống làm chứng cho người khác biết rằng có một cuộc sống mai sau thật tốt đẹp trong Chúa.
Lạy Chúa, con đường về trời là con đường sống yêu thương. Xin cho chúng con luôn biết sống yêu thương như Chúa đã dạy và đã sống. Uớc gì qua cuộc sống chúng con, người ta nhận ra Nước Chúa đang tỏ hiện. Amen.
27. Khai mở trang sử mới của Giáo hội
(Keith Witfield – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)
Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.
Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng rất sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố Chúa về trời, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn trước đây. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người, trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).
Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa mới ‘rời bỏ’ các ông. Sự ra đi nào cũng để lại những sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại ‘ngập tràn niềm vui’. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhơ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 và chương 14 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Chúa trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý hóa giải những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình là đừng có lo lắng. Các ông sẽ không mất Ngài, nhưng Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.
Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thần Khí. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện cách tròn đầy. Các tông đồ ngắm nhìn Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về ‘Đấng sẽ đến’. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các học trò của Chua Giêsu thâm tín rằng Thầy của họ đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Giêsu, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực của tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha mang đến cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:
+ Đức Giêsu lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Dt 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.
+ Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng với Chúa Cha (1Ga 2,1).
+ Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).
+ Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết: “Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn cua Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).
Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách Tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.
Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các Ngài một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.
Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.
28. Sứ mệnh truyền giáo
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 16: 15-20 Chúa đã lên trời, nhưng ngài lại trao chúng ta nhiệm vụ: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài tạo vật”.
Hôm nay Giáo Hội long trọng cử hành lễ Chúa lên trời. Thực sự, Chúa đã lên trời vinh quang ngự bên hữu Chúa Cha ngay khi sống lại. Ngày lễ hôm nay kết thúc cuộc sống trần gian của Đức Giêsu trước sự chứng kiến của các môn đệ. Chúa đã lên trời.
Chúa đã lên trời, nhưng ngài lại trao chúng ta nhiệm vụ: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, rao giảng Tin Mừng cho mọi loài tạo vật”.
Đây là một nhiệm vụ cấp thiết như thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Thông Điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio) đã nói:
“Chúng ta không thể ngồi yên khi nghĩ tới hàng triệu anh chị em chúng ta đang sống trong tình trạng không biết đến tình yêu của Thiên Chúa, chính họ cũng được cứu chuộc bằng máu Chúa Kitô” (RM 86).
Và Đức Phaolô VI đã khẳng định trong Tông Huấn “Loan báo Tin Mừng” (Evangelii Nuntiandi): “đối với Hội Thánh không phải là một sự cống hiến tuỳ ý, nhưng là một bổn phận Hội Thánh phải thực thi theo lệnh truyền của Chúa Giêsu, để loài người có thể tin và được cứu rỗi. Quả thế, đây là sứ điệp cần thiết. Đây là sứ điệp độc nhất. Sứ điệp không thể thay thế” (EN 5).
Vì vậy không lạ gì khi Công Đồng Vaticanô II và Huấn Quyền sau Công Đồng của Hội Thánh luôn nhấn mạnh một cách đặc biệt về nhiệm vụ truyền giáo mà Đức Kitô đã uỷ thác cho các môn đệ của Người, và là nhiệm vụ mà toàn thể Dân Thiên Chúa: các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ và giáo dân phải dấn thân thực hiện.
Thực vậy, Sứ điệp của Đức Giêsu luôn mang tính thời sự, đi vào giữa lòng lịch sử và có khả năng đáp lại những mối lo lắng thâm sâu nhất của mỗi người. Vì vậy mọi thành phần trong Hội Thánh phải ý thức rằng “các chân trời bao la của sứ mạng Hội Thánh và tình hình phức tạp hiện nay đòi hỏi những phương thức mới để có thể truyền đạt hiệu quả Lời Thiên Chúa”
Chúng ta có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, chữ viết hay bất cứ một phương tiện nào, nhưng phương tiện có tính cách thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta. Chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa. Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ ngài về đời sống của ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
- Cách rao giảng của Thánh Phanxicô Assisi
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assise, cách nghiêm trang, suy tưởng về Chúa… Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh:
– Giảng ở đâu?
Cha thánh trả lời:
– Giảng là đem Chúa đến bằng gương sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
- Cách rao giảng của bác tài xế xe taxi
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức làm tông đồ truyền giáo của một bác tài xế xe taxi ở đó như sau:
“Ngày nọ, tôi đón taxi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi thấy ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: “Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe để kiếm tiền nuôi sống gia đình. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm hai công việc một lúc: vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không phải tốn thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc tuyệt vời!
Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe taxi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang đồng hành với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước quá giá, sẵn sàng trả lại đồ đạc cho khách hàng bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây ra tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn được bình an và thần kinh con luôn ổn định. Xin đừng để con lái xe khi đã uống rượu say vì không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn THƯỢNG LỘ BÌNH AN”.
29. Việc đó xảy đến khi nào? – John W. Martens
(Lm. Phêrô Phạm Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1,6)
Dầu vẫn đang còn bị tổn thương bởi cuộc khổ nạn và những mơ ước trần thế bị tan vỡ do sự sống lại của Đức Giê-su từ cõi chết, các tông đồ vẫn cố bam víu vào niềm tin chung của người Do thái về một Đấng Mê-si-a và việc thiết lập vương quốc của Thiên Chúa. Họ đặt ra cho Đức Giê-su một câu hỏi đơn sơ trước khi Ngài lên trời: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”.
Mặc nhiên trong câu hỏi này hàm chứa ước muốn được biết về những gì sẽ xảy đến sau này. Nếu như đường lối của Thiên Chúa đã để họ rơi vào tình trạng hoang mang, bối rối, tuy vẫn còn chút niềm hy vọng, vậy liệu họ có thể biết được những biến cố sắp xảy đến không? Liệu kế hoạch của Thiên Chúa theo sau những gì họ hiểu ra, sẽ là một dạng mẫu về nước Thiên Chúa phải đến không? Hoàn toàn không phải như thế. Vì Đức Giê-su đã nói với họ: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt”. Tất cả những gì họ cần biết là họ phải trở thành chứng nhân cho sự sống và sự sống lại của Đức Giê-su, làm chứng cho sự thật về Đức Ki-tô cho thế giới, khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem, Giu-đê-a và Sa-ma-ri-a, cho đến tận cùng thế giới. Bất luận điều gì xảy đến sau đó, cũng phải được khám phá trong quá trình trung thành thực thi sứ mệnh của họ.
Hẳn rằng Đức Giê-su không phải là Đấng mà họ đã từng nghĩ, dầu họ sẽ khám phá ra Ngài còn hơn cả những gì họ có thể mường tượng, tức là một vị Thiên Chúa nhập thể - chính cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi phải khám phá ra rằng hành vi cứu độ của Thiên Chúa theo lối suy nghĩ của thế gian thì khác với việc đăng quang của Con Người ngự đến để xét xử trần gian; cộng đoàn Giáo hội tiên khởi phải khám phá ra rằng việc Dan ngoại được thông phần vào cùng hành vi cứu độ này đòi phải thực thi một sứ vụ cho thế giới” (Ben F. Meyer, Những mục đích của Đức Giê-su). Chính trong kinh nghiệm sống cuộc đời của những người môn đệ trung thành của Đức Giê-su mà họ phải hiểu những biến cố trong cuộc đời của Đức Giê-su đã nói về phận vụ của họ trong tư cách là Giáo hội.
Việc lên trời của Đức Giê-su có lẽ dễ bị hiểu sai nhất và bỏ quên những biến cố được tưởng niệm trong suốt mùa Phục sinh, từ biến cố phục sinh đến lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Thế nhưng câu chuyện thăng thiên với việc Đức Giê-su “lên trời”, vốn được diễn đạt theo ngôn ngữ của vũ trụ luận xa xưa, lại muốn noi tới việc đăng quang của Đức Ki-tô trong tư cách là Thiên Chúa. Chính Tin mừng theo Thánh Mác-cô cũng mô tả việc Đức Giê-su được “đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”.
Niềm hy vọng trước đây của các tông đồ rằng đa đến lúc Đức Giê-su khôi phục là vương quốc cho dân tộc Ít-ra-en trong khía cạnh trần thế, thì giờ đây lại được hiểu như là việc đăng quang của Đức Giê-su trong tư cách một vị vua cai trị với thẩm quyền trên mọi sức mạnh trần gian và thần thiêng. Đức Giê-su không chỉ là Vua của dân tộc Ít-ra-en, nhưng Ngài còn thực sự là Vua của vũ hoàn.
Lá thư của Thánh Phao-lô gởi tín hữu Ê-phê-xô cho thấy quyền năng của Thiên Chúa đang được biểu dương nơi Đức Ki-tô khi làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết và “đặt Ngài ngự bên hữu Người trên trời, vượt trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong the giới tương lai”. Chính vì Đức Giê-su Ki-tô đã thống trị, nên Ngài có thể hướng dẫn Giáo hội trong sự khôn ngoan và sáng suốt, và hơn nữa còn đặt niềm hy vọng của chúng ta vào một vương quốc sẽ đến trong vinh quang tràn đay. Quyền năng này cũng đang hoạt động nơi Thân mình của Đức Ki-tô trên trần thế tức là Giáo hội, cho phép Giáo hội tiếp tục sứ mệnh của Đức Giê-su trong việc loan báo tin mừng cứu độ cho toàn thế giới.
Các tông đồ lên tiếng hỏi: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Đức Giê-su liền giúp các tông đồ tập trung vào sứ mệnh của họ trong tư cách là Giáo hội. Điều này không có nghĩa là Ngài từ khước vương quyền của mình, nhưng là cách mà vương quyền của Đức Giê-su sẽ thống trị trên toàn thế giới (danh Ngài sẽ được toàn thế giới biết đến).
Đúng thế, vương quốc này đã đến theo cách mà họ không ngờ. Giả như chính chúng ta được nghe trực tiếp lời này: “Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11), thì chúng ta cũng tự hỏi: khi nào điều ấy sẽ đến?
Như Phê-rô và các tông đồ khác, chúng ta cũng có phận vụ làm chứng nhân trong khi mong đợi nước Thiên Chúa ngự trị cách sung mãn tròn đầy, vì biết rằng đấng đã hứa, thì cũng sẽ thực hiện điều đó. Ngài sẽ lấp đầy niềm hy vong của chúng ta, vượt xa những gì chúng ta mong đợi nữa. Chúng ta không biết điều đó sẽ xảy đến khi nào và thế nào, nhưng Đấng đã hứa điều đó sẽ ngự đến, Ngài sẽ thực thi điều đó theo cách thế mà chúng ta chẳng bao giơ ngờ trước được.
Cầu nguyện: Việc Đức Giê-su lên trời giúp bạn hiểu về sứ mệnh của Giáo hội như thế nào?
30. Chúa Giêsu được siêu tôn
(Bài giảng của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho –trong Thánh lễ Chúa Thăng Thiên, kỷ niệm 13 năm Giám mục, ngày 20 tháng 05 năm 2012).
1. Anh chị em rất thân mến, mầu nhiệm “Chúa Giêsu lên trời” mà chúng ta mừng lễ hôm nay, gắn chặt với mầu nhiệm “Sự Chết và Sự Sống lại của Chúa”. Chúa Giêsu đã ra đi, rời bỏ các môn đệ còn ở thế gian, mà Người rất thương mến. Người đi lên cùng Chúa Cha, để ngự bên hữu Chúa Cha, được tôn vinh bên cạnh Chúa Cha. Ra đi là “chết”, không phải chỉ là chết trong lòng, mà là chết thực sự, là ra đi vĩnh viễn. Nhưng sự ra đi của Chúa Giêsu, không phải là đi vào cõi hư vô, dẫn đến tiêu diệt, mà là ra đi để được sống, sống dồi dào và vĩnh viễn. Sự chết không cầm giữ được Người, Người đã sống lại và vẫn đang sống. Theo Thánh Luca, tác giả Sách Công vụ các Tông đồ, thì Chúa Giêsu đã dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các Tông đồ thấy là Người vẫn sống, sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày Người đã hiện ra để đàm đạo với các Tông đồ về Nước Thiên Chúa (Cv 1,3).
2. Chúa Giêsu không những vẫn “đang sống”, mà còn được tôn vinh bên cạnh Chúa Cha, được hạnh phúc trong Lòng Chúa Cha. Theo ý muốn của Chúa Cha, “Người đã đi xuống”, Nhập Thể trong lòng Trinh nữ Maria, và đã làm Người. Giờ đây Người “đi lên”, lên ngự bên hữu Chúa Cha, để làm “Vua vũ trụ”, làm “Chúa” giống như Thiên Chúa Cha, Đấng làm chủ, không những trái đất, mà toàn thể vũ trụ, vì đã tạo dựng nó. Người làm Chúa, không để thống trị, mà để ban phát Tình Thương, ban phát Sự Sống. Người yêu cầu các Tông đồ đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi “điều Chúa Cha đã hứa”, chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng là “Chúa và là Đấng ban Sự Sống”, là Thần Khí của Chúa Cha và Chúa Kitô Phục Sinh. Đấng là Sức Mạnh từ trên cao, là Quyền Năng của Thiên Chúa, là Thần Trí và là Ánh Sáng.
3. Các Tông đồ chờ Ngày lễ Ngũ Tuần, để nhận lãnh Chúa Thánh Thần, để “chịu phép rửa trong Chúa Thánh Thần” (Cv 1, 5), theo kiểu nói của Chúa Giêsu. Họ sẽ “làm chứng tá” về Chúa Giêsu Phục Sinh, cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 1, 8). Họ sẽ đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng Cứu độ, Tin Mừng về Tình yêu của Thiên Chúa, biểu lộ trọn vẹn nơi “sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu”. Loan báo “Niềm Hy vọng” mà họ đã nhận được, khi được khai ân Thần Khí. “Chúa Giêsu lên trời” vừa là một sự kiện, vừa là một sứ điệp từ trời: “Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đang thấy Người lên trời” (Cv 1,11).
4. Hiện nay khoa học đã phát triển tột bậc, nhiều phi hành gia, và một ít người giàu có đã được lên trời, trên những phi thuyền không gian. Ước vọng của con người không bao giờ cùng, nhưng có thực sự là ước vọng vươn lên, theo nghĩa hướng thượng, hướng về Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ, hướng về hạnh phúc đích thực, về sự thành toàn nhân cách khi đạt tới mục đích cuối cùng của cuộc đời không? Muốn được như thế, không chỉ có việc ngước mắt nhìn trời, mà còn phải nhận lãnh sức mạnh từ trời. Kinh nghiệm cho thấy rằng: chỉ với sức mạnh tự nhiên, con người dễ sa đà xuống dốc, nhất là từ khi nguyên tổ loài người phạm tội. Trong xã hội hôm nay, con người chỉ tiến bộ về khoa học kỷ thuật, còn về những phương diện khác thì xuống dốc trầm trọng, hình như đang lao xuống vực thẳm của sự dữ và tội ác.
5. Chính vì thế mà ngày hôm nay hơn bao giờ hết Giáo hội phải hăng hái thi hành mệnh lệnh của Chúa Giêsu trước khi Người lên trời: “ Đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15). Loan báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh: Sự Sống chiến thắng sự chết, Tình yêu chiến thắng tội ác, chân lý chiến thắng dối trá và sai lầm. Đó là ước mơ của chúng ta, ước mơ của những người Kitô hữu. Không những thế, trong thâm sâu của “vô thức”, đó cũng là ước mơ của mọi người trong nhân loại và của mỗi con người. Tin Mừng về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu luôn luôn hợp thời và luôn luôn cần thiết, như chính Chúa Giêsu đã phán dạy: “Ai tin và chịu phép rửa thì sẽ được cứu rỗi; còn ai không tin, sẽ bị kết án” (Mc 16,16). Không phải vì Thiên Chúa độc tài, độc đoán, nhưng vì không tin là không đón nhận “giải đáp đích thực”của Thiên Chúa cho các ước vọng chính đáng của mình, hay là tìm thoả mãn nơi trần thế, và cuối cùng sẽ “qua đi” như bộ mặt trần gian này sẽ qua đi.
31. Mầu nhiệm tôn vinh Thiên Chúa
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Thăng Thiên, khải hoàn vê trời. Về mầu nhiệm Thăng Thiên, có hai phương diện cần phải giải thích. Một là việc Chúa được tôn vinh mà các tác giả Thánh Kinh mô tả bằng những hình ảnh như "được nâng" cao "lên trời", "ngự bên hữu Đức Chúa Cha". Cuộc tôn vinh đó được diễn ra chính vào lúc Chúa Phục Sinh, giác quan không thể cảm nghiệm được, chúng ta chỉ có thể nhận thức bằng con mắt đức tin. Nhưng có một dữ kiện thứ hai có tính cách lịch sử, cảm nghiệm được dựa trên chứng từ của những người tai nghe mắt thấy, như Thánh sử Luca cho biết: Vài tuần, sau lễ Vượt qua, Chúa Giêsu đã "được đưa lên trời" trước mặt các môn đệ, trên núi Cây Dầu, gần làng Bêthania; một dữ kiện ro ràng kiểm chứng được.
Việc Chúa được tôn vinh hay lên trời cách vô hình, mới chính là trung tâm của mầu nhiệm. Việc Thăng Thiên hữu hình chỉ là dấu chỉ và bảo chứng việc tôn vinh vừa nói. Tuy nhiên, đó là một sự kiện lịch sử mà Luca người duy nhất đã kể lại. Vả lại, trong hạnh tích các Thánh, nhiều vị cũng được ơn "nâng lên" như vậy, danh từ thần học gọi là thần lực nâng cao (lévitation).
Thánh Phaolô trong Thư gửi Giáo đoàn Ephêsô đã giải thích cho chúng ta về mầu nhiệm hôm nay, khi người nói: "Công việc Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời". Thánh Augustinô nói: "Đưc Kitô trở về nơi tối cao, nhưng vẫn ở lại với chúng ta. Và cũng như chúng ta, chúng ta ở lại dưới đất, nhưng chúng ta cũng đã ở bên Ngài." Trên trời và dưới đất là hai trạng thái, hai lối sống: sống với Thiên Chúa va sống theo thể xác. Khi bỏ trời xuống đất, Chúa đến dạy cho chúng ta nếp sống theo ý Chúa muốn, để biết đường về trời, khi cuộc đời dưới trần gian viên mãn, ta được về với Chúa, "được sống lại với Chúa Kitô, vì mục đích cuộc đời ta, không phải ở dưới đất mà là ở trên trời" (Cl 3,1-2).
Trong bài Phúc Âm, Thánh Máccô gợi lên hai ý tưởng: sự lên trời của Chúa Giêsu và việc sai phái các tông đồ đi giảng đạo. Từ trời cao kia như một cho hẹn, một bộ chỉ huy, Chúa Kitô khởi hoàn hằng soi sáng hướng dẫn các môn đệ. Ngài sai họ đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho họ nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng.
Ngài đã chết để cứu độ mọi người thì nay Ngài trao phó cho các môn đệ sứ mạng đem Tin Mừng cứu rỗi quảng bá khắp mọi nơi, Marcô còn nói rằng "cho mọi tạo vật", ngụ ý rằng Chúa đã đến đổi mới vũ trụ và nay Ngài về trời để hiến dâng cho Đức Chúa Cha một trời mơi một đất mới.
Tất cả hai bản tính của Chúa, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại đều được tôn vinh. Với Chúa Giêsu, loài người và cả vũ trụ đạt đến tột đỉnh vinh quang.
Thánh Ignatiô thành Antiochia tử đạo vào năm 110. Là Giám mục, ngài ra đi để lại cho đoàn chiên những lời từ biệt thống thiết. Ngài xin giáo dân đừng can thiệp cho ngài: "Cha phải được nghiền nát dưới hàm răng sư tử để trở nên bánh tinh tuyền của Chúa Kitô. Hãy để cho cha ra đi đến nơi ánh sáng chân thật. Và khi cha đã về trên đó, sau khi đã làm mồi cho thú dữ, cha sẽ là bánh trong sạch dâng lên, là "người mang Chúa" (Theophore"). Thánh Nhân bị hai con sư tử phân xác và được giáo dân đặc biệt tôn kính.
Mầu nhiệm Thăng Thiên là mầu nhiệm tôn vinh Thiên Chúa toàn diện, vừa là Con Một Đức Chúa Cha, vừa là một phần tử nhân loại. Nhờ Chúa Giêsu con người và vũ trụ đổi mới cũng sẽ đạt đến định mệnh cao sang của mình vậy.
"Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng hoan ca...
Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy tung hô Vua ta".
(Tv 46,8-9)
32. Chúa Giêsu hoàn thành sứ mạng và về trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người khi đối diện với khó khăn vượt quá sức mình thường tìm đến thần linh. Thần linh như một cứu cánh để giúp con người vượt qua phong ba. Thế nên theo dòng lịch sử rất nhiều những câu chuyện huyền thoại được dựng nên kể về những vị thần dạy người ta trồng trọt, chống lại thiên nhiên, chống lại sự dữ, và sau khi hoàn thành sứ mệnh họ bay về trời.
Ở Việt Nam không ai mà không biết đến câu chuyện về Thánh Gióng. Truyện Thánh Gióng được kể rằng: “Cậu bé Gióng được sinh ra do một lần người mẹ nghèo làng Gióng ra đồng, thấy vết chân to lớn lạ thường nên ướm thử, không ngờ về nhà thụ thai. Mười hai tháng sau, bà sinh một bé trai khôi ngô tuấn tú, nhưng thật kỳ lạ là lên ba mà cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười. Lúc bấy giờ, giặc Ân đang xâm lấn nước ta. Thế giặc mạnh nên vua rất lo, truyền cho sứ giả đi khắp nơi tìm kiếm người tài cứu nước. Cậu bé nghe thấy tiếng loa, liền cất tiếng nhờ mẹ mời sứ giả tới nhà. Gặp sứ giả, cậu bé bảo: “Ông về tâu vua sắm ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này”. Được lời, sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ vội về bẩm báo với nhà vua.
Chuyện càng lạ hơn nữa khi từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn bao nhiêu cũng chẳng no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ. Mẹ cậu bé phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con trong làng thì mới lo đủ cho cậu. Khi giặc Ân đến chân núi Châu Sơn (Tiên Du, Bắc Ninh) thì cũng là lúc sứ giả đem kiếm, áo giáp và ngựa tới cho cậu bé. Cậu bé vươn vai thoắt biến thành một tráng sỹ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Tráng sỹ mặc giáp, cầm kiếm và nhảy lên mình ngựa. Ngựa sắt bỗng chuyển động, miệng hý vang. Tráng sỹ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác. Roi sắt gẫy, tráng sỹ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc.
Sau khi diệt giặt Ân, Gióng bay đến chân núi Sóc Sơn, cởi giáp, bỏ kiếm, rồi cả người và ngựa cùng thăng thiên. Từ đó dân gian mới có câu:
… Làng Phù Đổng có một người
Sinh ra chẳng nói, chẳng cười trơ trơ
Những ngờ oan trái bao giờ
Nào hay thần tướng đợi chờ phong vân…”.
Hôm nay chúng ta mừng kỷ niệm ngày Chúa Giê-su vinh thăng về Trời sau khi hoàn thành sứ mạng cứu độ trần gian. Đây không phải là một huyền thoại được dựng nên để thỏa mãn lòng người, mà là một sự kiện lịch sử. Một sự kiện xảy ra cách đây hơn 2000 năm đã được biết bao thế hệ tiếp nối nhau làm chứng và loan truyền. Giáo Hội luôn loan tin rằng Chúa Giê-su sau khi hoàn tất việc cứu độ trần gian, Ngài đã được đưa lên trời trước sự chứng giám của các môn đệ. Ngài vinh thăng về trời như một cuộc khải hoàn sau cuộc chiến thắng diệu kỳ là đánh bại sự chết, để từ nay con người không còn chết nữa mà cái chết sẽ mở ra một sự phục sinh trong vinh quang với Đức Giê-su.
Sứ điệp Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một Quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đầy đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.
Nhưng để về Trời thì con người con người phải biết hoàn thành sứ mạng trần gian là làm chứng cho Chúa. Làm chứng bằng lời nói luôn nói về Chúa và về tin mừng cho anh em. Làm chứng bằng việc dựng xây thiên đường hạ giới ngập tràn tình yêu. Làm chứng bằng đời sống chọn Chúa , chọn giá trị Nước Trời hơn là những vinh hoa phú quý trần. Dẫu chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao đồng tiền đến nỗi bán rẻ nhân phẩm của mình, thì người tín hữu phải sống sao cho nhân loại thấy còn một nhu cầu cao quý hơn vật chất chính là tìm kiếm Nước Trời.
Ước mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen.
33. Xin được theo Chúa về Trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một gia đình kia: chồng là người ngoại đạo. Ông không tin Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ lại rất sùng đạo. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai chiều hương trái ngược đối nghịch nhau, đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với bố mẹ. Một hôm em lâm bệnh hiểm nghèo, em hỏi bố rằng: "Bố ơi! Trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian. Con xin bố dạy con phải tin ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng, chẳng có Chúa hay có mẹ để được yêu thương ở đời sau! Còn tin theo Mẹ thì có Thiên Chúa là Cha nhân lành. Có cõi trời để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa la Cha. Có Đức Mẹ luôn bầu cử chở che?"
Người cha quá sững sờ và kinh ngạc. Ông ôm con vào lòng và nói: "Con hãy tin theo Mẹ. Con cưng của cha! Đứa bé liền nói tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo Mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?". Trước lời đơn sơ và chân thành của em bé, người cha đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt. Ông đã để những giọt nước mắt xót xa tuôn rơi trên gò má già nua của mình. Kể từ ngày đó, người cha đã chọn Chúa là lẽ sống, là Đấng ông tôn thờ.
Vâng, nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì! Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người! Điều quan yếu là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?
Chúa Giêsu trong tư cách một con người trần thế. Ngài đã sống cả cuộc đời để tôn vinh Thiên Chúa Cha trong việc phục vụ tha nhân. Ngài đến trần gian để thi hành thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó Ngài đã thực thi trọn vẹn cho dù phải trả giá bằng cả mạng sống, miễn sao cho ý Chúa Cha được thực hiện, cho danh Cha được cả sáng, cho Nước Cha mau hien trị.
Là người ky-tô hữu chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi cho đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang, mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Cal-vê.
Hôm nay Chúa về trời, Ngài vẫn mang theo dấu vết của thương tích, của thương đau, của sự chống đối, xỉ nhục, đòn roi mà Ngài đã từng trải qua... Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu đó, như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn theo thánh ý Chúa Cha. Nay, Ngài cũng muốn tất cả chúng ta hay đi con đường này để tiến về trời cao. Đó là con đường làm chứng nhân cho Tin mừng của Chúa bằng chính đời sống tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải đổ máu nhưng quan yeu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm luôn bao dung, kính trọng, bác ái và công bình. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người ta thoá mạ, tay chay, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Hôm nay mừng Chúa về trời, chúng ta cũng nghe vang vọng đâu đây lời mời gọi thiết tha của Thầy Chí Thánh Giêsu: "anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan để: "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo - Ngày trở về, miệng reo vang câu hát mừng". Amen.
34. Thà chết chứ không phạm tội
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Có thể nói: tôn giáo là nhu cầu của con người. Là người ai cũng có tôn giáo. Ai cũng tin vào thần thánh, tin vào ơn trên. Tôn giáo xuất phát từ bản tính tự nhiên của con người luôn quy hướng về Đấng tạo thành. Vì thế, có rất nhiều tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều dạy người ta ăn ngay ở lành, đều quy hướng con người về với Đấng tạo hoá để sống thanh thoát với những đam mê trần gian. Điểm chung của các tôn giáo là tin có đời sau. Hay có thể nói là các tôn giáo đều tin có sự sống siêu nhiên, sự sống vô hình. Người ta thường chia cuộc sống con người thành hai thái cực: trần gian và thiên đàng. Trần gian thì tạm bợ. Thiên đàng thì vĩnh cửu. Cuộc sống ở trần gian là đi tìm hạnh phúc. Cuộc sống ở Thiên đàng là ở trong hạnh phúc. Người ở trần gian phải chiến đấu, phải nỗ lực vươn lên. Người ở thiên đàng thì vui thoả những công lao mình đã lập được ở trần gian. Thiên đàng là chung cuộc mà ai cũng mong đạt được sau cuộc sống trần gian. Thiên đàng là vương quốc của yêu thương, của hạnh phúc vô biên. Vì thế, người ta có thể vì hạnh phúc thiên đàng mà hy sinh những lợi ích tầm thường ở trần gian. Người ta không vì những bổng lộc trần gian mà đánh mất thiên đàng mai sau khi vì nó mà sống hèn hạ, sống thất đức...
Người ta kể rằng: Năm 1285, quân Nguyên Mông sang xâm chiếm Đại Việt, Trần Bình Trọng được giao coi giữ Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay). Khi giặc đánh xuống, vì lực lượng yếu, Trần Bình Trọng bị bắt, Lý Hằng sai giải đến cho Thoát Hoan. Thoát Hoan thấy Bình Trọng người cao lớn, dáng đi hùng dũng, nét mặt đường hoàng, không có chút gì là sợ sệt thì biết không phải là tướng thường, nên muốn khuyên dỗ về hàng, liền tiếp đãi rất tử tế, mời ăn uống hẳn hoi. Nhưng Bình Trọng không ăn. Hỏi đến việc nước, Bình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan lại hỏi: "Tướng quân có muốn làm vương đất Bắc không?".
Bình Trọng trả lời: "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Nay ta đã bị bắt thì chỉ có chết là cùng, can gì phải hỏi lôi thôi".
Thoát Hoan không thuyết phục nổi Trần Bình Trọng hàng, nhưng vì có ý mến phục, cũng không nỡ giết, cho giải theo quân. Được mấy hôm, lại sợ Bình Trọng trốn mất, mới sai mang ra chém. Trần Bình Trọng bấy giờ mới 26 tuổi.
Bình Trọng không bán nước cầu vinh. Bình Trọng chọn chết vinh hơn sống nhục. Không vì giầu sang hay chức vụ mà sống hèn hạ, sống lệ thuộc, sống mất tự do. Bình Trọng chọn cái chết để trung thành với quê hương đất nước. Rất đáng được người muôn thế hệ noi theo.
Là người ky-tô hữu chúng ta cũng có một vương quốc để yêu mến, để phụng sự. Đó chính là Nước Trời. Đó chính là quê hương đích thực của đời người chúng ta. Chúa Giê-su Ngài đã về trời sau một cuộc đời phụng sự Chúa Cha. Ngài về trời như một ân thưởng mà Chúa Cha dành cho Ngài về một cuộc đời luôn tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha.
Biết bao các tín hữu từ xưa tới nay đã can đảm từ khước những cám dỗ mời mọc để sống trung thành theo Chúa. Họ thà chết chứ không phạm tội. Họ thà nghèo đói mà tâm hồn thanh thoát còn hơn là giầu có mà đầy lo âu bất an. Họ sẵn sang đánh đổi tính mạng của mình để bảo vệ đức tin, để làm chứng cho tin mừng. Họ không thể làm tôi hai chủ, nhưng luôn chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình.
Sứ điệp Chúa về trời luôn nhắc nhở chúng ta hãy làm chứng cho Chúa. Làm chứng bằng cách sống chiến thắng những tham sân si của lòng người. Làm chứng bằng đời sống hy sinh, sống cao thượng trước những cám dỗ của đam mê thấp hèn. Làm chứng cho nhân thế thấy rằng có một cuộc sống thiêng liêng, cuộc sống hạnh phúc vô biên mà chúng ta dám đánh đổi mọi sự để đạt được là Nước Trời. Làm chứng nghĩa là chọn Chúa, là trung thành phụng sự Chúa. Làm chứng nghĩa là không bán rẻ linh hồn mình vì một chút bổng lộc trần gian. Cuộc sống của người ky-tô sống dưới thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Người ky-tô không thể vì một chút bổng lộc trần gian mà đánh mất nước trời mai sau.
Lạy Chúa, Chúa đã lên trời vinh hiển sau một cuộc đời trần gian đầy hy sinh, gian khổ. Xin cho chúng con biết theo gương Chúa mà đón nhận thập giá trong bổn phận hằng ngày. Xin giúp chúng con biết sống thanh thoát khỏi những đam mê thấp hèn ngõ hầu mai sau chúng con cũng được vinh hiển bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
35. Ngước mắt nhìn trời
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời nay. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.
Việc Đức Giêsu lên trời và những lơi Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.
Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mưc tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.
Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.
Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.
Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.
Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời.
Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.
Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.
Gợi ý chia sẻ:
1) Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?
2) Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật chất?
3) Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu nguyện này?
36. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Chúa Thăng Thiên.
Ngày thế giới Truyền Thông Xã Hội
Trong thánh lễ này, Giáo Hội cho chúng ta đọc hai trình thuật về cuộc thăng thiên của Chúa Giêsu: đoạn mở đầu là sách Công Vụ Tông Đồ của thánh Luca và đoạn kết của sách Tin Mừng theo thánh Maccô. Đoạn này không do thánh sử viết mà do một người khác thêm vào nhưng Giáo Hội vẫn nhận đó là mạc khải.
Đoạn sách Công Vụ Tông Đồ gồm nhiều chi tiết đang lúc đoạn Tin Mừng rất ngắn gọn.
Thánh Luca viết sách Công Vụ Tông Đồ và đề tặng một người tên là Thêôphilô. Thêô, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là Thiên Chúa; và philô, cũng theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là yêu. Thêôphilô là người yêu mến Thiên Chúa, tức là tất cả chúng ta. Thánh Luca gọi các Tông Đồ là những người mà Chúa Giêsu đã tuyển chọn, nhờ Chúa Thánh Thần. Một chi tiết nhỏ nhưng rất quan trọng. Như thế các ngài được Thánh Thần bảo đảm, nhưng vẫn có một người bị loại đó là Giuđa. Như thế, chúng ta thấy rằng, Thánh Thần tuyển chọn, nhưng vẫn tôn trọng quyền tự do của mọi người. Chúng ta cũng được tuyển chọn vào Giáo Hội, do Chúa Thánh Thần, nhưng trung thành hay không là do quyền quyết định của mỗi người. Thánh Luca cũng nhắc đến sự cứng tin của các Tông Đồ, và Chúa Giêsu phải dùng nhiều cách giúp các ông tiến sâu hơn vào niềm tin, cho các ông thấy Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình.
Ngài ở lại với các ông 40 ngày. Đây là con số tròn của người Do Thái, chỉ một thời gian dài, không nhất định. Thánh Luca cũng cho chúng ta thấy rằng, Ngài thường dùng bữa với các ông: “khi đang dùng bữa với các ông, Ngài truyền cho các ông đừng rời khỏi Giêrusalem… chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa… là chịu phép rửa trong Thánh Thần” và nhờ Thánh Thần đó các ông sẽ là chứng nhân của Ngài.
Trước khi rời khỏi các Tông Đồ, Ngài đã chuẩn bị tất cả những gì cần thiết cho sứ mệnh Ngài sẽ giao: Ngài nói với các ông về Nước Thiên Chúa, Ngài ban Thánh Thần, và sau đó, Ngài mới sai họ đi: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…”
Một sứ mệnh cao cả và nặng nề!
Sứ mệnh đó được trao cho mỗi người chúng ta là những kẻ tin, những người được sai đi, những nhân chứng hôm nay của Ngài.
Chúng ta phải loan báo Tin Mừng để mọi người được cứu độ: “Tình yêu Chúa thúc bách chúng ta.”
Sau khi trao sứ mệnh cho các môn đệ, “Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu của Thiên Chúa”. Lên trời đây được hiểu như một sự tôn vinh. Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh Chúa Cha đã trao cho Ngài. Nhiệm vụ trần thế của Ngài xem như chấm dứt, nhưng vẫn được tiếp tục qua các chứng nhân là các Tông Đồ hôm nay là chúng ta. Ngài không còn hiện diện hữu hình với chúng ta, nhưng Ngài vẫn hoạt động như thánh Maccô nói: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
Ngài ở lại nhờ Thánh Thần của Ngài như Ngài đã hứa: “Thầy không bỏ anh em mồ côi, Thầy sẽ ở lại với anh em.” Đây chính là một bảo đảm chắc chắn.
Có lẽ nhiều người ngạc nhiên vì Chúa đã hứa sẽ có những dấu lạ kèm theo để xác nhận lời rao giảng, nhưng chúng ta không thấy những dấu lạ đó nơi các nhà truyền giáo hôm nay nữa. Nhưng thời các thánh Tông Đồ, các ngài làm nhiều dấu lạ như Phêrô, đến nỗi người ta mang bệnh nhân đến những nơi ngài sắp đi qua để chỉ cần bóng của Ngài chạm đến họ thì họ sẽ được lành bệnh.
Thánh Phaolô cũng làm nhiều dấu lạ khiến dân chúng tưởng ngài là thần minh và muốn tế lễ cho ngài. Những dấu lạ ấy chỉ còn rải rác nơi một vài Đấng Thánh như thánh Gioan-Maria Vianney, thánh Piô Pietrelcina… Chúng ta không thể mơ mộng trở về thời các Tông Đồ, chúng ta đừng quá ước vọng vào các dấu lạ. Chính chúng ta phải thành dấu lạ của Thiên Chúa: “Anh em là nhân chứng cho Thầy”.
Chúng ta đã lãnh nhận sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Đó là một mệnh lệnh, không chỉ cho các Tông Đồ mà cho toàn thể Giáo Hội, cho từng người đã được ghi ấn tín trong phép rửa tội, được Thánh Thần sai đi.
Nhiều người tưởng rằng công việc truyền giáo đòi hỏi nhiều điều kiện: kiến thức, tài năng… Đó là một sai lầm của đa số người Công giáo, vì thế họ chỉ cố giữ đạo cho chính mình thôi. Vì hiểu lầm, nhiều người chùn chân trước mệnh lệnh của Chúa, dành việc này cho các linh mục hay tu sĩ, không biết rằng chính mỗi người đều là sứ giả của Tin Mừng.
Mọi người đã được thanh tẩy trong Thánh Thần phải hiên ngang rao giảng Tin Mừng. Rao giảng như thế nào? Vấn đề là: chỉ cần tin. Chúng ta có thể loan báo Tin Mừng bằng niềm tin. Khi chúng ta tin, chúng ta mới có thể nói và có rất nhiều cách để nói. Nói bằng lời, nhưng chúng ta có thể dùng một thứ ngôn ngữ không lời, đó chính là cuộc sống hằng ngày của chúng ta, một cuộc sống khắng khít với Chúa.
Cuộc sống Kitô hữu đòi hỏi chúng ta gắn bó với Chúa và như thế, mọi hành động ngôn từ của chúng ta đều trở thành loan báo. Tất cả những gì là thiện hảo, bác ái, chân thật đều trở thành một loan báo rõ rệt và hữu hiệu hơn cả lời nói: “Anh em là ánh sáng thế gian”. Ánh sáng này tuy không rõ rệt như ánh sáng mặt trời nhưng cũng rất dễ nhận thấy. Đó là một loan báo sống động. Sở dĩ thế giới chưa nhận biết Thiên Chúa, đó là vì lỗi của chúng ta. Công Đồng Vatican II đã nêu rõ như thế. Chúng ta đã được Chúa tuyển chọn, chúng ta chưa là ánh sáng cho trần gian và nhiều người đã trở thành bóng tối che lấp ánh sáng và vẻ đẹp của Chúa.
Chúa bảo chúng ta: “Hãy ra đi”. Chúa không bảo chúng ta dừng chân ở một trạm nào. Cuộc sống là một dòng chảy không ngừng. Việc loan báo Tin Mừng phải như thời gian vẫn tiếp tục tuôn chảy. Mỗi hành động ngôn từ của chúng ta là LOAN BÁO, tốt hay xấu là do chúng ta. Chúa đang ở phía trước và mời gọi chúng ta dấn bước.
Đừng sợ sệt. Đừng mang một mặc cảm nào. Hãy hiên ngang tiến bước trong sự lành, vì chúng ta luôn có Chúa đồng hành với chúng ta: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông”. Ông mục sư Wumbrand ở Rumani đã thuật lại mười năm tù của ông. Ông nói: “Tôi giảng đạo và người ta bắt tôi và bảo tôi không được rao giảng như thế nữa. Đó là một lời cảnh báo. Ra về, tôi tiếp tục rao giảng trong các gia đình. Người ta lại bắt tôi và cấm không cho tôi rao giảng và hăm dọa nếu tôi rao giảng thì sẽ có biện pháp. Tôi vẫn tiếp tục rao giảng. Lần này người ta bắt tôi và đánh tôi một trận rồi cảnh cáo một lần nữa. Nhưng khi về, tôi vẫn tiếp tục rao giảng và lần này người ta đánh tôi nặng hơn. Tôi nói với những người đánh tôi: “Tôi ký hợp đồng với các anh thế này: hễ tôi giảng đạo, các anh đánh tôi và hễ các anh đánh tôi rồi thì tôi giảng đạo”. Sau cùng họ cho ông ngồi tù 10 năm…
Chúng ta có can đảm như thế không?
Chúng ta làm được gì nếu Chúa không hoạt động với chúng ta? Nhưng chúng ta có cùng hoạt động với Ngài không? Hay chúng ta chỉ sống cho mình, cho bản thân và mơ mộng những kết quả thấy được?
Chúa bảo chúng ta ra đi…và ra đi là phải bỏ lại sau lưng tất cả mơ mộng trần thế, tiện nghi và cả bản thân: “Sống là sống cho Chúa và chết cũng là chết cho Chúa”. Như thế mới có thể truyền giáo – hôm nay và tiếp tục…
Chúng ta là giòng giống lang thang trên khắp thế giới, (dù chúng ta không đi đâu cả), để loan báo hồng ân cứu độ. Không bám vào một cái gì… Ra đi mỗi ngày trong tự do, dù chúng ta vẫn có thể có gia đình, của cải. Ra đi trong nhiệm vụ hằng ngày. Đó là môi trường truyền giáo của chúng ta, và chúng ta cũng đừng quên mỗi người chúng ta là một xứ truyền giáo vì chính chúng ta cũng chưa biết Chúa đủ.
Chúng ta cứ ra đi, đừng tưởng rằng chúng ta hèn yếu, chẳng ích lợi gì cho Nước Chúa. Mỗi ngày, chúng ta nguyện “Danh Cha cả sáng”, Danh Cha vẫn chưa được bao nhiêu người biết đến, “Nước Cha trị đến”, Nước Cha vẫn chưa đến. Ý Cha cũng chưa được thể hiện…
Con đường còn dài và rất dài. Hãy bước từng bước một, nhỏ thôi, nhưng mỗi bước sẽ đem lại cho Nước Chúa một chiều kích rộng lớn hơn. Chúng ta cũng nhớ lời Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ngài đang có mặt nơi đây dưới hình thức tấm bánh, một món ăn, đem lại sinh lực cho mọi người. Hãy ăn lấy Ngài để cùng Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ. Chúng ta không cô đơn trên đường. Có Ngài, chúng ta dám dấn thân sống cuộc sống trần thế của chúng ta như một loan báo liên lỉ.
37. Hãy loan báo Tin Mừng
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy.
Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ đươc nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hoà bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn độ, đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn cởi mở tin yêu. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn. Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy toả lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt. Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu toả ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?
2- Nhờ đâu việc truyền giáo cua Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?
4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
38. Tiếp tục công việc của Chúa
1. Ngày nay nhờ phương tiện đi lại dễ dàng, nhanh chóng, cũng như các phương tiện truyền thông rất đa dạng, phong phú vì thế mệnh lệnh ban ra của người có trách nhiệm hay một tin nào đó sẽ được loan truyền đi rất nhanh chóng. Ngày xưa phải dùng các trạm thông tin, tin được đưa truyền từ trạm này đến trạm khác. Nhân viên ở mỗi trạm cố gắng hết sức chu toàn nhiệm vụ của mình bằng cách chạy bộ, đi ngựa... để mệnh lệnh hay tin được đưa đi càng sớm càng tốt. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, chúng ta liên tưởng đến một cuộc chạy tiếp sức đưa tin, nhưng có điều ở đây không phải là một tin bình thường mà là tin Tin Mừng cứu rỗi. Còn Đức Giêsu không phải như bao nhân viên bình thương khác mà Ngài là chính tác giả của Tin Mừng, và là chính Tin Mừng, Ngài đã thực hiện xong phần vụ của mình cách đặc biệt: Loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa... cuối cùng chịu nạn chịu chết và sống lại để chuộc tội cho loài người, giờ đây Ngài trở về cùng Thiên Chúa Cha. Đức Giêsu trao phận vụ còn lại cho các Tông đồ, Ngài đã yêu cầu các ông: " Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15), và cuộc chạy tiếp sức để loan báo Tin Mừng vẫn còn được trao cho tất cả các Kitô hữu qua nhiều thế hệ cho đến khi Đức Giêsu lại ngự đến trong vinh quang.
2. Qua đoạn Tin Mừng trên, Chúa Giêsu không chỉ ra chị thị, mà Ngài con hứa hỗ trợ cho người tông đồ nữa. Đọc Kinh Thánh, nhất là sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta dễ thấy rằng nhờ Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh mà các Tông đồ thực hiện được những phép lạ như trừ quỷ (Cv 5,12-16; 8,7; 16, 16-18), đặt tay chữa bệnh (Cv 4,30; 9, 10-17)... Ý nghĩa sâu xa của việc Chúa ban cho các Tông đồ thực hiện được các phép lạ (dấu lạ) này là gì? Thưa đó là chứng tỏ "có Chúa cùng luôn hoạt động với các ông"(Mc 16,20), giúp các ông hoàn thành sứ mạng tông đồ của mình: giảng dạy, chiến thắng thế lực sự dữ, chữa lành bệnh tật...
3. Ngày hôm nay Chúa vẫn mời gọi và trợ lực cho mọi Kitô hữu tích cực góp phần đánh bại thế lực sự dữ do ma quỷ cầm đầu như: lười biếng, chưởi thề, nói tục, trộm cắp, dâm dục, rượu chè, xì ke, ma tuý, áp bức, bất công, giả hình... những thứ này nhan nhản khắp nơi, núp dưới nhiều hình thức khác nhau, rất tinh vi... làm cho ta bước vào con đường tội lỗi mà không hay biết!
Chúa cũng mời gọi mọi và trợ lực cho mọi người chúng ta 'đặt tay', hay nói đúng hơn là 'ra tay' góp phần xoa dịu những nỗi đau của anh chị em mình: bệnh tật thể xác (giúp đỡ người nghèo, bệnh tật...) cũng như bệnh tật thiêng liêng, tinh thần (ích kỷ, thù hằn, ghen ghét...). Vậy mọi Kitô hữu hãy là cánh tay nối dài của Đức Kitô.
4. Không những đẩy lùi sự dữ, chữa lành bệnh tật... mà hôm nay cũng như các Tông đồ xưa, người Kitô hữu bằng lời rao giảng, nhất là bằng đời sống chứng nhân, thu phục tha nhân về cùng Đức Kitô, đó chính là dấu lạ được tái diễn. Câu chuyện sau đây cho thấy các sơ Nữ Tử Bác Ái đã thực hiện một dấu lạ kỳ diệu:
Ngày 25/3/2003 tại Sàigòn, một bác sĩ có tên thánh là Augustino, 50 tuổi được thụ phong linh mục, điều đáng nói vị linh mục này là một người lương trở lại đạo cách ngày thụ phong 10 năm, lúc đó ngài 40 tuổi, sau khi trở lại đạo, ngài gia nhập tu hội Thánh Vinh Sơn, theo học triết học và thần học. Bề trên thấy có đủ điều kiện đã thụ phong linh mục cho ngài. Hiện cha đang làm việc cho một trung tâm dành cho nhưng người mắc chứng siêu vi đang chờ ngày giờ về thế giới bên kia, trung tâm đó ở Củ Chi cách Sàigòn độ 30 cây số.
Làm sao từ một bác sĩ lương dân có thể trở nên một người tận hiến cuộc đời cho Chúa và anh em như vậy? Thưa ngài đã được thu hút bởi các nữ tu Nữ Tử Bác Ái, nhất là từ một nữ tu người ngoại quốc nhưng tận hiến trọn cuộc đời của mình để yêu thương phục vụ cho người cùi hủi, sau khi tốt nghiệp chuyên về ngành da liễu, sơ ngoại quốc này đã tình nguyện làm việc tại bệnh viện Bến Sắn, một bệnh viện công nhưng có các sơ Nữ Tử Bác Ái cùng làm việc. Trước những hy sinh tận tụy của sơ này và các sơ phục vụ cho các người phong cùi khác với cả tấm lòng, đã đánh động vị bác sĩ - linh mục này, ngài nói:"Tôi tự nghĩ trong lòng, tôi có thể chữa lành các vết thương thân xác, nhưng làm sao tôi có thể chữa lành nỗi lòng cô đơn, bị bỏ rơi của các bệnh nhân cùi hui này? Từ đó tôi đã tìm hiểu niềm tin Công giáo và tôi đã gặp được vị bác sĩ của các tâm hồn là Đức Giêsu Kitô".
Vậy, đời sống hy sinh bác ái của các sơ Nữ Tử Bác Ái không những đã đem lại niềm vui cho các người phong cùi, mà còn là động lực để một bác sĩ lương dân trở thành một linh mục, từ một bác sĩ thể lý thành môt bác sĩ tâm hồn, phải chăng đó là dấu lạ xưa của các Tông đồ tái diễn? Phải chăng điều này chứng tỏ rõ đời sống tốt đẹp có tác dụng rất lớn cho việc loan báo Tin Mừng?
5. Trong đêm tối, chiếc đèn được thắp sáng càng rõ công dụng chiếu sáng. Đời sống tốt đẹp của người Kitô hữu có thể ví như những chiếc đèn. Chiếc đèn tuy không nói gì cả, nhưng ai cũng thấy ánh sáng và lợi ích của nó. Hãy làm chứng cho Đức Giêsu bằng lời rao giảng và nhất là bằng đời sống chứng nhân lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Hãy ra sức thực hiện lệnh truyền quan trọng của Đức Giêsu ban cho mỗi người chúng ta trước khi Ngài về trời: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Đức Giêsu đã được ngự bên hữu Chúa Cha sau khi hoàn thành phận vu của mình, cũng thế phần thưởng thích đáng là điều chắc chắn cho những ai tích cực thi hành lệnh truyền của Ngài.
39. Hướng lòng lên trời!
(Suy niệm của Huệ Minh)
Chắc có lẽ, Chúng ta không quên cái câu thơ của Hàn Mặc Tử, một cái câu thơ diễn tả cái sự chia ly của cuộc đời, sự diễn tả tình cảm của một con người khi chia cắt nhau: Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn kia hóa dại khờ.
Và quả thật trong cái thân phận làm người, con người làm sao mà tránh khỏi những dòng lệ, làm sao tránh khỏi sự đau đớn khi phải chia cách người thân của mình, người thương của mình.
Chúng ta cứ ra ngoài sân bay thì chúng ta thấy, bây giờ thì đỡ rồi. Bởi vì, phương tiện đi đi về về nó không như ngày xưa! chứ như ngày xưa, mỗi lần mà ra sân bay, sục sùi nước mắt. Chỉ là đi định cư thôi, và cũng có thể chỉ là đi du học thôi, vài năm rồi về, nhưng mà ướt đẫm cả sân bay. Bởi vì cảm thấy, một cái niềm nhớ, một cái niềm thương với cái người thương của mình biết bao giờ gặp lại.
Và tâm trạng đó ít nhiều gì chúng ta được chứng kiến đặc biệt nơi các nghi thức nhập quan: BỐ ơi bố! sao bố bỏ con. Từ nay không được nghe tiếng bố nữa! bố không còn dạy con nữa! Con không còn nghe tiếng la của bố, tiếng thương của bố, tiếng nói của bố nữa! Mẹ ơi mẹ, ngày hôm nay con không còn thấy mẹ nữa! Và khóc... quan tài đậy lại những dòng lệ cứ trào dâng.
Và ngày hôm nay chúng ta bắt gặp cái tâm trạng đó nơi các môn đệ: “Hỡi người Xứ Galilê, sao còn đứng đó làm chi? vì Chúa đã được đưa lên trời trước mắt các ông.” Những người Galilê cảm thấy nuối tiếc, cảm thấy vết thương khi tiễn đưa CHÚA về trời và đó là điều hiển nhiên. Nhưng mà chuyện quan trọng rằng: các Môn Đệ có nhận ra những gì mà thầy đã nói khi mà thầy còn sống không?
“Thầy bởi Cha mà ra, bây giờ thầy trở về cùng Cha. Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, nhà Cha thầy có nhiều chỗ ở. Chúa Giêsu trở về với cái cội nguồn của Ngài. Bởi vì vâng lời Chúa Cha, Chúa Giêsu đã bằng lòng đến trong trần gian này, đã sống kiếp người ngoại trừ tội lỗi, để nói với trần gian này: Thiên Chúa yêu thương con người.
Và xong cái nhiệm vụ của mình Chúa Giêsu lại về trời, để rồi Chúa Giêsu dọn chỗ cho những người tin theo Ngài, những ai tin Ngài: “Lạy Cha những gì Cha đã ban cho con. Con muốn rằng con ở đâu thì kẻ đó cũng ở đó với con người”
Kitô Hữu của chúng ta, dẫu rằng sống trong Trần Gian này, nhưng quê hương của chúng ta đích thực ở trên trời. Và trần gian này chỉ là cõi tạm thôi! mạnh giỏi chăng là được 80, phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ.
Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi! “Lạy Chúa xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống để hầu tâm trí được khôn ngoan.”
Và người Kitô Hữu chúng ta cần có cái sự khôn ngoan kinh khủng lắm, khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa chứ không phải là khôn ngoan theo kiểu của người đời.
Khôn ngoan theo kiểu người đời: người ta hì hà, hì hục, người ta cố gắng, nhưng mà trong thực tế cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta có như người ta vun vén, người ta xây đắp cho người ta một cái quê hương ở trần gian này.
Và tưởng chừng cái quê hương đó không bao giờ hư mất và tưởng chừng họ lột da sống đời để ở lại trần gian này. Nhưng mà trong thực tế cuộc đời của mỗi người chúng ta, chúng ta thấy, dù giàu, dù nghèo, dù sang hay hèn không ai có thể lột da sống đời cả. Và trần gian này chỉ là cõi tạm. Đích đến và cùng đích của cuộc đời chúng ta đó là gì? quê hương của chúng ta đó là: “quê hương của chúng ta là trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa.” như Thánh Phaolô nói.
Và rồi, chúng ta liệu liệu chúng ta sống như thế nào để chúng ta diễn tả niềm tin của chúng ta. Và đặc biệt, dù sống trong cuộc lữ hành trần gian này, nhưng lòng chúng ta được mời hướng về quê hương trên trời. Nước trời đã được ví như tiệc cưới, nơi đó Thiên Chúa đã mời gọi và Thiên Chúa khoản đãi tất cả mọi người không trừ một ai. Không trừ một người dân tộc nào, không trừ ngôn ngữ nào, không trừ thành phần nào cả.
Và chuyện quan trọng là mặc cho mình chiếc áo cưới và đúng chiếc áo cưới đó thì sẽ được dự vào Nước Trời.
Cái áo cưới đó là gì? Cái áo cưới đó là: lòng từ bi nhân hậu, nhẫn nại chịu đựng, và tha thứ cho nhau. Cái áo cưới đó là: cái áo cưới của tình yêu thương đồng loại. Những người đi vào Nước Trời nếu mà không mặc cái áo cưới yêu thương, không khoác cho mình cái áo của lòng từ bi CHÚA thì chắc chắn sẽ bị đuổi ra ngoài thôi!
Cũng như trong trang Tin Mừng của Ngày Cánh Chung: Ngày ấy THIÊN CHÚA tách riêng ra giữa hai đám người, bên phải là chiên, bên trái là dê. Ngày ấy CHÚA hỏi rằng: Ngày xưa, TA đói các ngươi cho TA ăn, Ta khát các ngươi cho TA uống. Những người đã làm như thế sẽ được đứng bên phải, và được vào hưởng Nước Trời nơi đoàn chiên của Chúa. Còn những người mà Ngày xưa khi TA đói các ngươi không cho TA ăn. TA khát các ngươi không cho TA uống, lại được liệt vào hàng dê, để bị đem đi hủy diệt và chịu lửa đời đời.
Và thế đấy, chúng ta được mời gọi sống Lòng từ bi chúng ta hướng về trời. để ngày hôm nay ngày đang còn sống trong trần gian này chúng ta nhớ những người quản lý bất lương khôn ngoan CHÚA nói chúng ta phải biết tính toán bị lỗi khi chúng ta bị đuổi việc làm đó là khi mà chúng ta về nhà Chúa.
Chúng ta mang theo gì chúng ta? Hành trang của chúng ta mang theo gì? Hành trang của chúng ta mang theo hận thù, hay hành trang của chúng ta mang theo lòng yêu thương, lòng bác ái, lòng vị tha của Chúa.
Có những người tưởng chừng rằng là mình lột da sống đời và cứ mãi mãi nghĩ rằng mình ở trên đó cái quyền lực đó. Mình sát hại anh chị em đồng loại của mình bằng mọi cách.
Và mình nghĩ rằng là mình có tiền, mình có thể mua được cái này cái kia ở trần gian. Có thể mua được chức, có thể mua được quyền để hạ đạp người khác. Và có những người cứ nghĩ rằng mình mãi mãi, mãi mãi là mình, và quê hương của mình ở trần gian. Để rồi cứ phải vun vén và đánh mất đi tình nghĩa.
Và thực tế trong cuộc đời của chúng ta, chúng ta thấy: có nhiều gia đình bi thương lắm! Chỉ vì vài đồng bạc thôi, chỉ vì một vài tấc đất thôi, mà người ta lại cấu xé nhau, người ta chà đạp nhau và người ta đã đánh mất đi cái tình yêu thương. Thì nói tới đây con lại nhớ đến câu chuyện rất là tuyệt vời!
Có một cái vị địa chủ kia, bán đất cho một cái người đàn ông. Người địa chủ bảo rằng: từ sáng cho tới chiều, tôi bán cho ông miếng đất đó 10₫ bạc, miễn làm sao, ông đi từ sáng cho đến lúc mặt trời lặn, ông cứ đi đi! tới đâu, đó là ranh giới của miếng đất mà ông sẽ được hưởng với giá 10₫.
Thế là cái người đàn ông đó hí ha, hí hửng chạy về nhà suy nghĩ một đêm tính ra bây giờ ngày mai mình phải đi như thế nào đó thật nhanh, thật xa, để đất đai của mình được nhiều.
Thế là ông mua 2 ổ bánh mì, kèm theo 2 chai nước. Ông đi và ông đi, ông đi vội vả đến độ nghỉ trưa mệt nhòa. Ông nghĩ rằng: Nếu bây giờ mình nằm ngủ, mình nghỉ trưa thì mình sẽ bị thiệt thòi mất đi những mét đất mà ông chủ bán.
Thế là với 2 ổ bánh mì và 2 chai nước, ông đã ăn và đã vội vàng đi và đi, đi mãi cho đến lúc chiều tà, đến lúc không còn ánh nắng nữa, thì phần đất mà ông chủ hứa đã dành cho ông như đã hứa.
Thế nhưng rồi, tiếc thay với những cái cơn nắng nóng, cơn khát và sức khỏe giới hạn ông đã kiệt sức và không còn sống được nữa, tới khi người ta phát hiện ra ông, ông đã chết. Người ta đào lỗ chôn cho ông với vừa đủ cái thân hình nhỏ bé của ông.
Thế đấy, một cái câu chuyện có thể gọi là câu chuyện tưởng tượng thôi! Nhưng mà nhắc nhớ với mỗi người chúng ta: quê hương của chúng ta không phải ở trần gian, để chúng ta tìm kiếm.
Thứ hai thì ngắm: Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho Ái Mộ những sự trên Trời.
Dẫu rằng, chúng ta còn sống trong trần gian này chúng ta phải nặng gánh với cơm áo gạo tiền. Điều đó không ai phủ nhận cả, nhưng chúng ta phải biết quê hương của chúng ta ở đâu? để lòng chúng ta ở đâu thì kho tàng của chúng ta ở đó và Quê Hương của chúng ta ở đó.
Càng cho đi, càng thấy mình hạnh phúc và bình an, càng cho đi, mình càng cảm thấy con người mình nó nhẹ nhàng. Ví dụ như trong một căn phòng của một người nào đó khi chết, càng nhiều đồ thì người ta dọn dẹp càng nhiều. Và rồi khi nhập quan liệm chỉ có được vài bao trà, vài bộ quần áo đem theo thôi! Tất cả đều để lại cho người khác hưởng dùng.
Ấy vậy mà người ta càng trang bị, càng níu kéo. Chúng ta thấy một con diều nó càng vươn cánh bay xa, mà con diều nó nặng nề thì nó không thể nào lên trên cao được bay cao được.
Quê hương của chúng ta ở trên trời, để rồi tất cả những gì mà chúng ta hưởng dùng, chúng ta mua dùng đó, liệu liệu chúng ta dùng! Có những bộ đồ ba năm trời không mặc tới, nhưng nó vẫn còn nằm yên trong kẹt tủ; cho thì tiếc, để thì tội và lúc nào cũng vun vén, vun vén mãi.
Chúng ta nhìn thấy ông già bà lão dễ thương trong những viện dưỡng lão, nhất là các nhà hưu dưỡng. Chúng ta thấy một thời vang bóng có thể là bà này, bà kia, chị phụ trách...chị tổng phụ trách, bề trên nhưng tới khi về tới nhà hưu chỉ còn có một cái gối, một cái giường và một tấm ra thôi! Kế bên đó là bình Oxy mỗi người chúng ta ai cái mà chúng ta phải đối diện với chiếc xe lăn và có thể hành trang của mỗi người chúng ta cuối đời ở với chúng ta là cái bình Oxy và xe lăn.
Chúng ta liệu, chúng ta sống như thế nào đó, cho chúng ta nhẹ nhàng với tất cả những vật chất, với tất cả những gì chúng ta bám víu. Lòng chúng ta nhẹ nhàng, lòng chúng ta càng cất cánh lên cao cùng Chúa, lòng chúng ta không còn vướng bận vào Trần Gian.
Chúng ta thấy mà những người mà mê của cải trần gian khi ra đi họ cảm thấy ấm ức họ cảm thấy tiếc nuối, vì tất cả những gì mà mình vun vén để cho người khác xài. Còn một tâm hồn bình an thanh thản họ cảm thấy rất nhẹ nhàng khi ra đi. Bởi vì họ tín thác vào trong bàn tay của Chúa. Và họ xác tín rằng đây chỉ là cõi tạm, cõi thực mới là cung lòng của Chúa. Sống làm sao để có một chỗ trong cung lòng của Chúa. Sống làm sao để có một chỗ trên thiên đàng mới là chuyện quan trọng. Thì nói tới đây, con lại nhớ đến một cái câu chuyện:
Có một cái người dự lễ tại tâm tức là đi lễ ở nhà, không đến nhà thờ cô ta mới lý luận rằng là ước ao chết thì được lên ở một góc Thiên Đàng thôi thử hỏi coi ở trần gian này cô không bao giờ bước chân tới nhà thờ thì làm gì mà có một chỗ ở trên thiên đàng cho cô.
Ngày hôm nay ở trần gian này, chúng ta không thu xếp thời gian để đến với Chúa, thì làm gì có cơ hội ở với Chúa trên thiên đàng. Xin chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để chúng ta hướng lòng về Chúa.
Ngày hôm nay, ngày mừng lễ CHÚA lên trời, để mỗi người chúng ta trong thân phận làm người chúng ta cảm thấy nuối tiếc, chúng ta cảm thấy buồn phiền khi xa cách CHÚA nhưng trong một cung cách nào đó, Chúa lại gần chúng ta hơn. Chúa ở khắp mọi nơi, CHÚA ở hiện diện trong lòng chúng ta để Chúa đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để chúng ta luôn luôn chạy đến với Chúa và kính múc Tin Mừng Phục Sinh của Chúa. Để rồi lòng chúng ta, chúng ta luôn hướng về trời. Và Ngày hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi mang cái lời mời của Chúa là: Anh em hãy đi loan báo Tin Mừng cho khắp mọi loài thọ tạo.
Khi chúng ta không có Tin mừng, khi cuộc đời của chúng ta vẫn lê lết thì không thể nào chúng ta có thể loan báo Tin Mừng cho người khác được.
Khi nào lòng chúng ta nhẹ nhàng với vật chất của cải trần gian, khi nào lòng chúng ta thanh thản với tất cảc những bám víu của trần gian.
Và khi nào chúng ta yêu thương đủ thì lúc ấy chúng ta mới có thể làm chứng Tin Mừng cho một Đức Kitô phục sinh.
Và khi ấy chúng ta sẵn sàng đón nhận cái chết và sau khi chết chúng ta sẽ có một chỗ ở trên thiên đàng như Chúa đã hứa với mỗi người chúng ta. Amen.
40. Sứ mạng của người Kitô
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)
Tin Mừng thuật lại hai điều: sự kiện Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Trước hết, sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin mừng thánh Mác-cô ghi lại rất vắn tắt: chỉ nói Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, chứ không nói rõ Chúa lên trời ở đâu và sau khi Chúa sống lại bao lâu. Theo sách Công Vụ Tông Đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu. Vậy Chúa Giêsu lên trời chính xác là khi nào?
Có thể trả lời tóm tắt và rõ ràng như sau: Chúa lên trời ngay ngày phục sinh, tức là sau khi sống lại, Chúa lên trời ngay. Và sau đó Chúa đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần để củng cố lòng tin của họ, trong một khoảng thời gian mà sách Công Vụ Tông Đồ xác định la 40 ngày. Sau cùng, Ngài cho các môn đệ biết Ngài chấm dứt việc hiện ra bằng sự công khai lên trời. Như vậy, mầu nhiệm lên trời mời gọi chúng ta nhìn nhận hai khía cạnh liên hệ nhưng riêng biệt nhau: một bên là Đức Kitô được vinh quang lên trời ngay lúc Ngài sống lại. Điều này giác quan các tông đồ không thể cảm nghiệm được mà chỉ có thể nhận thức bằng đức tin. Và một bên là Đức Kitô ra đi sau một thời gian hiện ra nhiều lần. Đó là cuộc ra đi trở về với Chúa Cha mà các tông đồ được chứng kiến trên núi Cây Dầu.
Chúa Giêsu lên trời là điều chắc chắn. Nhưng ý nghĩa thế nào? Việc Chúa lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài, như chu trình phát triển của một hạt lúa: phải tự mục nát trong đất mới đâm mầm và tăng trưởng dần cho đến thời kỳ trổ bông, sinh hạt. Chúa Giêsu, sau thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dưng một nền móng đạo đức đặt căn bản trên tình thương, công bằng trong xã hội Do thái thời đó, mảnh đất thí điểm và khởi điểm...Ngài đã chịu chết, sống lại và vinh hiển về trời. Nói khác đi, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống trần gian để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống. Nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, được đặt bên hưu Thiên Chúa và ban cho quyền xét xử vũ trụ. Đây cũng là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về trời, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời.
Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa để rồi cũng được về trời với Chúa? Chính vì thắc mắc đó mà trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài sai họ ra đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho họ nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chính nhờ các tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác, lại cac tông đồ khác nữa kế tiếp nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa, tin Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về trời.
Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài, nghĩa là Giáo Hội như một nối dài của Chúa Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài đươc tiếp tục qua Giáo Hội. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mệnh đo cho Giáo Hội, Chúa Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi Kitô hữu cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Ngài không ngừng giãi tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để được như thế, cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt. Hãy sống tốt với gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với những người chung quanh, bất cứ lương hay giáo. Sống tốt cũng có nghĩa là sống bác ái, sống chan hòa tình yêu thương với mọi người.
Người có lòng bác ái, yêu thương giống như một bông hoa đẹp. Bông hoa không nói gì cả, bông hoa không tuyên xưng gì cả, nhưng vì nó là một bông hoa đẹp, tuy không nói, nhưng người ta cũng thấy được cái đẹp của nó, cái hương thơm của nó. Mỗi người Công Giáo, mỗi giáo xứ, hãy là những đóa hoa, những bó hoa tươi, đẹp, thơm, do tinh thần bác ái cởi mở chan hoa. Và nếu được như vậy, đạo chúng ta sẽ mở ra, và đức tin ấy mới là đức tin truyền giáo thực sự.
Xin hãy nhớ: Chúa Giêsu về trời sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ ở trần gian. Chúng ta cũng vậy, bao lâu sống ở trần gian, chúng ta cũng phải nỗ lực hoàn tất nhiệm vụ Chúa đã trao phó và tích cực đóng góp vào sự mưu ích cho đồng loại, cho gia đình, xóm đạo, quê hương, Giáo Hội theo tinh thần phục vụ và bác ái của Tin Mừng.
41. Công giáo.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn cuối Phúc Âm thánh Maccô trình bày một phương diện của công cuộc truyền giáo vào cuối thế kỷ thứ nhất. Tác giả tóm kết vào mấy câu, chớ không phải một bài tường thuật, những gì xây dựng nên đời sống của Giáo Hội: sứ vụ các Tông đồ. Nhờ một bản văn tóm tắt mà Lễ Thăng Thiên được nói đến ở đây, sau khi tác giả đã nhắc lại một lần hiện ra của Chúa Giêsu đã không “được cất lên Trời” vao chiều ngày Phục Sinh. Trước khi Chúa biến hẳn đi về thể xác truớc mắt các môn đệ, Chúa còn hiện ra nhiều lần với họ và ngỏ lời cùng họ. Điều mà thánh sử Marcô nói trong Phúc Âm “sau khi đã ngỏ lời cùng họ” kéo dai qua nhiều tuần lễ.
Điểm ghi nhận: “bên hữu Thiên Chúa” có nghĩa là sau khi về Trời, Chúa Giêsu trở về địa vị Thiên Chúa và Người có những đặc quyền của Thiên Chúa. Từ nay, Người trao cho Giáo Hội của Người sứ mệnh phổ biến sứ điệp cứu rỗi của Người trên khắp thế giới. Sứ mệnh trao phó cho các môn đệ ấy có gì đặc biệt?
1) Về tính cách phổ quát của sứ mệnh: Các con hãy đi khắp thế gian, công bố Tin Mừng cho hết mọi dân tộc. Tính cách phổ quát ấy tập hợp tất cả nhân loại vào ơn Cứu chuộc của Đức Kitô. Người ta nhận ra ở đây, một trong các dấu hiệu của tính cách Kitô giáo đích thật. Một người Kitô hữu đích thật bao giờ cũng “phổ quát” “công giáo”. Tính cách phổ quát hay là tính cách công giáo ấy không chỉ bao hàm vấn đề địa dư, bởi lẽ là hết mọi dân tộc của mọi nước đều thuộc thẩm quyền của Phúc Âm. Ở thời đại chúng ta, tính cách đó còn bao gồm –và ở đây la điều đáng nhấn mạnh- tinh thần Kitô hữu. Những người công giáo tập hợp thành những cộng đoàn nhỏ, không ý thức được sự nguy hiểm rằng họ có thể trở thành những nhóm nhỏ mang não trạng khép kín, hầu như là óc phe phai, loại ra ngoài Đức Ái của mình phần này, hay phần nọ của thế giới, giai cấp này hay giai cấp nọ, chế độ này hay chế độ kia của xã hội. Nhưng hết thảy mọi người của mọi văn hoá, mọi chế độ đều có quyền biết đến Phuc Âm. Giáo Hội phải đạt tới họ hết thảy. Một công cuộc truyền giáo mạo nhận, tự phong toả mình vào tính chất gây gỗ đối với chế độ này hay chế độ kia bị coi là dễ ghét, đương nhiên sẽ mất hết tính cách công giáo và chân thật. Người Tông đồ của Đức Kitô tìm cách tới được hết mọi người ở khắp nơi và yêu họ ở mọi chốn. Xuyên qua mọi chế độ xã hội dầu là có tính chất áp bức ý thức hệ hay áp bức kinh tế, người Tông đồ cũng phải tìm phương khai thông tới tự do, để con người có thể vươn tới sự tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô Cứu thế.
2) Ai tin và chịu Phép Rửa, sẽ được cứu rỗi. Điều này cho thấy đối tượng tranh thủ của sức mạnh Tông đồ chính là đưc tin. Nhưng đức tin nào đây? Có phải là sự kết hợp với một thứ nhân bản Phúc Âm mù mờ, trong đó lòng đam mê đức công chính lẫn lộn dễ dang với các đam mê phe phái –thiếu tình yêu đích thật? Không: Đây phải là đức tin vào Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế. Chỉ có một đức tin cứu rỗi. Dầu người ta nhắm tới việc cứu vớt con người hay cứu vớt xã hội, không gì có thể đạt tới con người trong mọi kích thước của số mệnh nó ngoai trừ một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Ai tin vào Đức Giêsu thì ngay từ bây giờ, đi vào con đường cứu độ cho tâm trí mình bằng sự thật, con đường cứu độ cho ý chí mình nhờ Thánh Linh, con đường cứu độ cho tâm hồn mình bằng sự thanh tẩy của tình yêu. Người đó cũng đi vào con đường cứu rỗi vượt qua cuộc sống tạm đời này. Đức tin vào Chúa Giêsu Kitô mang lại một ý nghĩa cho đời sống của con người.
42. Thế gian chỉ là quán trọ
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Tươi)
Một người đàn ông khi còn sống chuyên làm nghề quảng cáo. Khi ông ta chết, ông ta đến gặp diêm vương. Diêm vương ân cần hỏi ông: "Muốn ở thiên đàng hay hỏa ngục." Ông ta ngập ngừng đáp. Tôi chưa thấy thiên đàng hay hỏa ngục như thế nào thì làm sao tôi có thể chọn!. Diêm vương dẫn ông ta đến một nơi và chỉ cho ông ta thấy cảnh thiên đàng. Đó là một nơi mát mẻ, yên lặng, thanh bình, vui chơi..., người ta ăn nói nhẹ nhàng, lịch thiệp. Sau đó, Diêm vương dẫn ông ta đến xem hỏa ngục, thì ông ta thấy vui nhộn, người ta ăn nhậu, vui vẻ, có các cô gái chân dài, trẻ đẹp múa hát. Thế là ông ta thích thú. Khi nhìn thấy thiên đàng và hỏa ngục rồi, ông ta mau mắn trả lời: ở thiêng đàng buồn quá, tôi thích chọn quả ngục vui sướng hơn. Thế là Diêm vương sai hai thằng quỷ đưa ông ta vào hỏa ngục. Vừa đến nơi, ông ta hoảng hốt la hét lên: nóng quá làm sao tôi chịu nổi, ông ta la hét lên: sao không có ăn nhậu hay các cô gái đẹp gì cả, toàn là lũ quỷ đen đang hành hạ các tội nhân. Ông ta tức giận quay lại hỏi Diêm vương. Thế hỏa ngục lúc ông chỉ cho tôi ở đâu? Diêm vương khoái trí cười trả lời: "Đồ ngu, đồ thứ tham lam duc vọng, đó chỉ là quảng cáo thôi." Đời là thế đấy! Và ông cũng làm nghề quảng cáo mà.
Người ta thường nói: "Sinh nghề tử nghiệp". Khi còn sống ông ta cũng đã dùng nhiều cách mánh khóe, gian lận, sảo huyệt để quảng cáo và đánh lừa người khác để làm lợi cho mình. Đến khi chết rồi, ông ta vẫn còn cái tính tham lam, tính toán, nên bị Diêm vương cao tay đánh lừa ông ta. "Gậy ông đập lưng ông". Một cách nào đó, câu chuyện này có thể minh họa cho lối sống thực dụng của con người trong thời đại này. Cuộc sống là một cuộc chay đua để kiếm tìm danh lợi, của cải, vật chất, hưởng thụ và khoái lạc. Mạnh được yếu thua. Do đó, việc quảng cáo là tuyệt chiêu để đánh lừa người khác, đánh bóng tên tuổi và tạo sự hấp dẫn để che lấp sự giả tạo bên trong. Con người nhìn nhau qua lăng kính vẻ bên ngoài hơn là cái giá trị thiêng liêng cao đẹp, lấy lợi trước mắt mà quên tác hại đằng sau, thấy xác quên hồn. Chúng ta vẫn biết sai lầm, nguy hiểm, tội lỗi, nhưng cuộc sống lôi cuốn chúng ta chạy theo cuộc chơi của thế gian, bất chấp tất cả vì nhu cầu cuộc sống, và ta lại bảo: đời là thế.
"Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật bến bây giờ!
Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay
Cuộc đời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và đâu biết ngày mai
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi
Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui
Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc."
..................................................
(Trở Về Với Cát Bụi - khuyết danh)
Dù biết rằng, thế gian chỉ là quán trọ dừng chân. Của cải, danh vọng chỉ là phù du và cát bụi, thế mà chúng ta vẫn mãi mê kiếm tìm. Đâu là nơi chốn đích thực, thì hôm nay Chúa Giê-su chỉ cho ta nơi đó là trên Trời. Ngài về Trời trong ánh vinh quang rạng ngời, nơi đó con người tràn ngập niềm vui và hạnh phúc, và không còn tranh giành ganh đua tua thiệt. Mọi người sống trong thanh bình, yêu thương. Nhưng để đạt tới thiên đàng, gặp được thiên nhan Chúa, thì chúng ta cần phải hoàn thành cuộc sống nơi trần gian này.
Nước Trời không phải xây dựng trong mây gió, nhưng là sống và thực hiện tốt trong thực tại trần gian này. Chúa Giê-su căn dặn các tông đồ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Hoàn thành bổn phận trách nhiệm người con dân của Chúa ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Nhiệm vụ đó không chỉ là sống tốt, sống công bình bác ái mà còn là nhiệm vụ mang ánh sáng và gieo Tin Mừng cho thế gian. Việc làm tốt ở trần gian là cách xây dựng Nước Trời mai sau. Trần gian này chỉ là quán trọ dừng chân, nó không vĩnh cửu, nhưng là cơ hội cho ta đạt tới hạnh phúc viên mãn Nước Trời.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa, Xin hướng dẫn con theo lối bước của Ngài, để hồn con ngập tràn niềm vui, bình an và thanh thoát. Ngài về Trời trong ánh sáng vinh quang, và xin cho con luôn biết khao khát tìm kiếm Nước Trời quê hương vĩnh cữu. Amen.
43. Nơi Chúa hẹn gặp ta.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Là con người sống trong không gian và thời gian, chúng ta thường suy nghĩ và tưởng tượng theo chiều kích của không gian và thời gian. Vì thế, khi Kinh Thánh nói “Chúa Giêsu lên trời” chúng ta cũng dễ hình dung Chúa Giêsu như một “phi hành gia” hoặc như “người bay” tự động cất bổng mình lên trời, để rồi không biết dừng lại ở hành tinh nào khi ra ngoài quỹ đạo của trái đất? Vậy thì sau khi sống lại 40 ngày, Chúa Giêsu đi về phương trời nào? Các phi hành gia đầu tiên vào vũ trụ cho biết họ chẳng thấy trời, cũng chẳng thấy Thiên Chúa!
Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trơi đất gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường. Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mơ ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.
Chúa Giêsu “được rước lên trời”: đó là một lối nói của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã-từ-trời xuống” (Ga 3,13). Câu chuyện Chúa lên trời được sách Công vụ Tông đồ kể lại ở bài đọc 1 hôm nay là một kiểu nói bình dân để diễn tả một mầu nhiệm của Chúa Kitô Phục Sinh: ngay sau khi được Phục Sinh, nhân tính của Chúa Giêsu đã được tôn vinh rồi, hay nói cách khác, đã được vào trong vinh quang. Tuy vậy vinh quang này vẫn còn bị che khuất. Chúa Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ dưới dáng dấp của một người bình thường. Lần hiện ra cuối cùng của Chúa Giêsu đánh dấu một bước chuyển mới. Từ này nhân tính của Ngài được đưa vào trong vinh quang Chúa Cha, được đặt ngồi bên hữu Chúa Cha.
Lễ Chúa Thăng Thiên không phải là một cuộc chia ly, tiễn đưa Chua Giêsu vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Chúa về trời là để có thể ở lại với mọi thời, mọi nơi. Điều duy nhất mất đi là chúng ta không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Nhưng chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin. Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tin Mừng hôm nay cho thấy các tông đồ có cảm nghiệm rằng “Chúa đang làm việc với họ và xác nhận lời họ rao giảng bằng những dấu lạ kèm theo” (Mc 16,20). Như thế sự vắng mặt hữu hình của Chúa Giêsu không cản trở việc Ngài tiếp tục hiện diện và hoạt động bên họ. Kitô giáo sống còn chính là nhờ Chúa Giêsu đang sống và hoạt động nhờ Thánh Thần của Ngài. Được tôn vinh trên trời không phải là để làm sứ vụ giữa lòng thế giới. Ngài là Thượng Tế cầu bầu cho chúng ta trên trời (Dt 7,25) và không ngừng thu hút, nâng dậy cả nhân loại (Ga 12, 32).
Mừng lễ Chúa Thăng Thiên là mừng ngày Đức Giêsu được tôn vinh. Có một con người mang tên Giêsu nay được hưởng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Lễ Thăng Thiên thực hiện giấc mơ lớn nhất của con người. Tất cả chúng ta đều hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa, bên Chúa Giêsu, người Anh Trưởng. Trời là đích điểm của đời Kitô hữu. Nhưng trời đã bắt đầu rồi từ khi chúng ta bươc vào vũ trụ của Chúa Giêsu Kitô, qua đức tin và các bí tích. Nói cho cùng, Kitô hữu chỉ có một cuộc đời. Chẳng có cuộc đời nào khác ngoài cuộc đời hiện tại và sẽ gắn liền với ta mãi mãi. Trời không khiến ta tránh ne bổn phận ở trần gian. Trời không phải là nơi đến của một người chỉ biết chăm lo cho ơn cứu độ của mình một cách ích kỷ. Trời cũng không chỉ là phần thưởng cho con người, là sự “bù lỗ” cho những khốn khổ ở đời, là cớ khiến chúng ta tránh né việc xây dựng trái đất hay phá đổ bất công.
Sứ thần của Chúa hôm nay đã quở trách các môn đệ: “Hỡi người Galilê! Sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời?”. Các môn đệ đã hiểu ý. Các ông đã trở về với nhiệm vụ của mình, hoàn thành công việc dang dở của Chúa ở trần gian, làm chứng về tất cả những gì các ông đã được nghe, được thấy. “Các ông đã ra đi khắp nơi, rao giảng Tin Mừng cho mọi người; có Chúa cùng hoạt động với các ông, củng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo” (Mc 16,20).
Rõ ràng, Chúa lên trời không làm cho các môn đệ lên trời, không làm cho các môn đệ tê liệt, không giải nghệ các ông, mà còn thúc giục các ông lập tức bắt tay vào việc xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian này và bảo đảm cho các ông thành công. Cũng vậy, đối với chúng ta ngày nay, Chúa lên trời nhắc chúng ta nhớ rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời… Anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời” (Pl 3,20; Cl 3,1). Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải “xuất thế”, phải xa lánh trần gian. Trái lại, cần phải nổ lực dấn thân “vào đời”, “nhập cuộc”. Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta để “mở một tuyến đường lên trời từ mặt đất này” bằng những công việc xây dựng Nước Trời ngày này qua ngày khác; loại trừ những khổ đau, tội lỗi, tạo cho mọi người được sống ấm no, hiệp nhất, yêu thương nhau, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người. Đó là con đường lên trời của chúng ta.
Vui sướng biết bao: “Chúa vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài không bao giời rời bỏ chúng ta. Thật là ích lợi cho chúng ta khi Ngài khuất mắt chúng ta về phương diện thể lý để chúng ta khi gặp Ngài hiện diện ở khắp mọi nơi mọi lúc: trong kinh nguyện và hoạt động, trong bí tích và trong anh chị em. Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, Chúa đến ở trong chúng ta, ban nguồn sinh lực giúp chúng ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nước Trời ở trần gian này, để một khi Nước Trời được hoàn thành Ngài sẽ trở lại trong vinh quang đón chúng ta lên trời về với Chúa Cha.
44. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
THÀY ĐI NHƯNG SẼ TRỞ LẠI… THÀY SỐNG CÁC CON CŨNG SỐNG
Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên được Giáo Hội cử hành sau Lễ Phục Sinh 40 ngày, tức bao giờ cũng vào Ngày Thứ Năm của tuần Thứ Sáu Phục Sinh. Tuy nhiên, vì nhu cầu, có những lúc Giáo Hội địa phương cử hành Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên vào Chúa Nhật VII Phục Sinh, Chúa Nhật cuối cùng của Mùa Phục Sinh trước khi bước sang Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, một mùa phụng vụ được mở màn với Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, thời điểm sau Lễ Phục Sinh 50 ngày. Dầu sao, nếu đọc kỹ ba bài Phúc Âm của Chúa Nhật VII Phục Sinh cả ba chu kỳ A, B và C, chúng ta thấy bài nào cũng đề cập đến sự kiện Thày trò phân ly. Phúc Âm Năm A: “Con không còn ở thế gian nữa, song những người này còn ở thế gian khi Con về cùng Cha”. Phúc Âm Năm B: “Con không xin Cha mang họ ra khỏi thế gian, nhưng chỉ xin Cha gìn giữ khỏi tên gian ác”. Phúc Âm Năm C: “Tất cả những ai Cha đã ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu thì họ cũng ở đó”.
Nơi ba bài Phúc Âm cho chính Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, chúng ta chẳng những thấy lần cuối cùng Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ của Người, lần hiện ra lên trời của Người, mà còn thấy được mối liên hệ linh thiêng của Thày trò không phải vì biến cố lên trời của Người mà bị đứt đoạn. Phúc Âm Thánh Mathêu năm A cho thấy: “Thày đã được toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy các con hãy đi tuyển mộ môn đồ khắp các dân nước, và rửa tội cho họ… cùng dạy họ thi hành biết những gì Thày đã truyền cho các con. Các con hãy biết rằng Thày luôn mãi ở cùng các con cho đến tận thế”. Phúc Âm Thánh Marcô năm B: “’Các con hãy đi khắp thế giới loan báo tin mưnøng cho tất cả mọi tạo vật…’ Thế rồi, sau khi nói với các vị, Chúa Giêsu được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa. Nhóm Mười Một Vị ra đi rao giảng khắp nơi. Chúa tiếp tục hoạt động với các vị và chứng thực sứ điệp các vị rao giảng bằng những dấu lạ kèm theo”. Phúc Âm năm C: “Các con là chứng nhân về tất cả những điều này. Này Thày sai xuống trên các con những gì Cha hứa. Các con hãy ở lại thành này cho đến khi các con mặc lấy quyền lực từ trên cao. Đoạn Người dẫn các vị ra gần Bêthania, và giơ tay lên ban phép lành cho các vị. Khi Người ban phép lành thì Người rời các vị mà được cất lên trời”.
Như thế, qua ba bài Phúc Âm của Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, chúng ta thấy được cả một chân trời mở ra chứ không phải một cánh cửa hoàn toàn đóng lại, một lịch sử hoàn toàn hoàn toàn kết thúc. Bởi vì, lý do các môn đệ còn ở lại thế gian và cần phải ở trong thế gian, một tình trạng được ba bài Phúc Âm Chúa Nhật VII Phục Sinh cho thấy, là vì các vị cần phải sinh hoa trái. Chúa Kitô là Cây Nho Thực, một cây nho chỉ sinh muôn vàn hoa trái nơi và qua các cành nho của mình là Giáo Hội nói chung và Kitô hữu nói riêng mà thôi. Việc sinh hoa trái của Cành Nho Giáo Hội cho Cây Nho Chúa Kitô đây, theo các bài Phúc Âm Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, chính là việc hình thành và phát triển Giáo Hội (Phúc Âm năm A), là hoạt động truyền bá phúc âm hóa (Phúc Âm năm B), và là việc làm chứng cho tin mừng sự sống (Phúc Âm năm C).
Thật thế, theo các bài Phúc Âm cho Chúa Nhật VII Phục Sinh, trước hết, ở năm A, các tông đồ, như Chúa Giêsu thưa cùng Cha Người, “Con đã tỏ danh Cha cho những người Cha đã ban cho Con giữa thế gian… Giờ đây họ đã nhận biết rằng tất cả những gì Cha đã ban cho Con đều từ Cha mà đến. Con đã trao phó cho họ sứ điệp Cha đã ký thác cho Con và họ đã nhận lấy. Họ đã thực sự biết rằng Con từ Cha mà đến, họ đã tin rằng chính Cha là Đấng đã sai Con”. Chính vì thế, ở Phúc Âm Lễ Thăng Thiên Năm A, các tông đồ mới có thể cùng nhau xây dựng Giáo Hội trên niềm tin tông truyền của mình, một niềm tin cũng đã được Thánh Phêrô tuyên xưng thay cho tông đồ đoàn và nhờ đó đã được Chúa Kitô sử dụng như tảng đá nền để xây dựng Giáo Hội của Người, với linh quyền nắm giữ chìa khóa Nước Trời (x Mt 16:16-19). Rồi ở Phúc Âm Chúa Nhật VII năm B, Chúa Kitô đã xin Cha Người gìn giữ các vị cho khỏi tên gian ác, thành phần Người sai đi khắp thế gian, để chẳng những loan báo tin mừng cho mọi tạo vật mà còn để khu trừ ma quỉ và làm chủ sự dữ, những sự dữ được bài Phúc Âm Lễ Thăng Thiên năm B đề cập tới qua hình ảnh rắn rết và độc dược. Ở bài Phúc Âm Chúa Nhật VII Phục Sinh năm C, nếu Chúa Giêsu đề cập tới việc các môn đệ “Con sống trong họ, Cha sống trong Con… để thế gian tin rằng Cha đã sai Con và Cha đã yêu họ như đã yêu Con”, thì ở bài Phúc Âm Lễ Thăng Thiên cùng năm C, Chúa Giêsu đã truyền dạy các vị phải trở thành những chứng nhân của Người và cho Người, những thừa tác viên của lòng nhân hậu Người, một chi tiết đã được Chúa Giêsu nhắc đến trong bài Phúc Âm Thánh Luca về việc rao giảng sự thống hối để được ơn tha thứ.
Như thế, theo những gì vừa được nhận định và phân tách trên đây, ý nghĩa của bài Phúc Âm Lễ Thăng Thiên của cả 3 chu kỳ rất hợp với chiều hướng của bài Bài Phúc Âm cho Chúa Nhật VII Phục Sinh của cả ba chu kỳ A, B và C, bài Phúc Âm về Lời Nguyện Hiến Tế kết thúc Bữa Tiệc Ly của Chúa Kitô với các môn đệ của Người. Lời Nguyện Hiến Tế này được Giáo Hội chia thành ba đoạn đều nhau, đoạn đầu cho vào Phúc Âm của chu kỳ năm A, đoạn thân cho năm B và đoạn kết cho năm C.
Nhưng riêng chu kỳ năm B, nếu xét đến chủ đề Chúa Kitô Phục Sinh là “sự sống” cho bốn tuần lễ cuối của Mùa Phục Sinh, thì câu cuối cùng Chúa Giêsu nói trong bài Phúc Âm đã cho chúng ta thấy điều ấy: “Vì họ mà Con tự thánh hiến để họ được thánh hóa trong chân lý”. “Được thánh hóa trong chân lý” đây là gì, nếu không phải “được sự sống và là một sự sống viên trọn” (Jn 10:10). Bởi vì, sự sống đây là gì, hay sự sống thần linh đây là chi, nếu không phải như Chúa Giêsu đã định nghĩa ở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật VII năm A, “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đức Giêsu Kitô Cha sai”. Nếu “được thánh hóa trong chân lý” tức là và chính là “nhận biết” Thần Linh, thì quả thực con người chỉ có thể nhận biết, hay chỉ có thể được sự sống nhờ và bởi cuộc “tự thánh hiến” của Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Tại sao? Tại vì nhờ cuộc Vượt Qua này, hay nhờ việc tỏ hết mình ra này của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu Kitô, con người mới nhận thực Chúa Giêsu là ai, từ đâu đến, nhờ đó họ cũng mới nhận biết cả Cha là Đấng đã sai Người.
Nếu Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô phát sinh sự sống thần linh, sự sống trường sinh nơi thành phần tin tưởng ở khắp mọi nơi và mọi thời thì Cuộc Vượt Qua không phải chỉ là một biến cố thuần túy lịch sử, một biến cố sẽ qua đi như tất cả mọi biến cố lịch sử khác, mà là một Biến Cố Thần Linh, biến cố bất biến, biến cố siêu thời không, biến cố có tác dụng hiện thực. Đó là lý do, như Thánh Phaolô diễn tả trong Thư 1 gửi giáo đoàn Côrintô, “trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh, sau khi tạ ơn, bẻ ra mà phán ‘Này là mình Thày hiến cho các con. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày’” (11:23-24). Chính vì biến cố Vượt Qua là một Biến Cố Thần Linh bất biến và ban sự sống trường sinh mà Giáo Hội cần phải cử hành bằng phụng vụ.
Đúng thế, con người lãnh nhận sự sống của Chúa Kitô nhờ Giáo Hội và qua phụng vụ, trước hết là qua phép rửa. Để rồi, sự sống thần linh được lãnh nhận qua phép rửa ấy sẽ được nuôi dưỡng bằng Thánh Thể, được phục hồi nơi Bí Tích Hòa Giải, và được trưởng thành với Bí Tích Thêm Sức. Cây Nho Thần Linh, trước hết và trên hết, thông ban nhựa sống thần linh cho Cành Nho Giáo Hội qua các Bí Tích. Đó là lý do, kinh nghiệm sống đạo cho thấy cành nho Kitô hữu nào không dính liền với Thân Nho, tức không chịu hay không năng xưng tội rước lễ, họ chắc chắn trở thành những cành nho khô khan nguội lạnh, chẳng những dễ dàng phạm tội mà còn dễ bị gẫy gục khi gặp thử thách khốn khó.
Thế nhưng, thực tế tu đức cũng cho thấy cành nho Kitô hữu nào nhờ tác dụng thần linh của phụng vụ trở thành cành nho sai trái, sai trái nhân đức, sai trái nội tâm, để nhờ đó có đủ sức chịu đựng những tỉa cắt nhức buốt nhất của Vị Trồng Nho, chịu đựng những cơn thử thách kinh hoàng, đến nỗi làm cho họ có lúc cảm thấy mình hoàn toàn bị tách lìa khỏi thân nho, bằng những hồ nghi đủ thứ, bằng nỗi buồn sầu của Vườn Cây Dầu đến chết được (x Mt 26:38), nhất là bị rơi vào tâm trạng tận tuyệt Thập Giá (x Mt 27:46), trống rỗng mung lung như bị đầy xuống âm phủ. Thế nhưng, linh hồn nhân đức nào, cành nho sai trái nào chịu được những tỉa cắt tối ư quan thiết bất khả châm chước đầy đoạn trường này, họ mới “càng sai trái hơn” (Jn 15:2), ở chỗ họ được thực sự nên giống hình ảnh Con Thiên Chúa (x Rm 8:29), được tái sinh bởi nước và Thần Linh (x Jn 3:5), để có thể hoàn toàn “mặc lấy con người mới” (2Cor 5:17), một con người luôn sống động theo Phúc Âm Chúa Kitô và tác hành theo Tinh Thần Chúa Kitô.
Vâng, cành nho sai trái hơn đây chính là cành nho Kitô hữu sống tinh thần Chúa Kitô, là chính cành nho chứng nhân trung thực và sống động của Chúa Kitô. Chính tinh thần Chúa Kitô nơi con người Kitô hữu chứng thực họ nên một với Chúa Kitô, và Chúa Kitô thực sự sống trong họ, sống trong họ bằng Thần Linh của Người, Vị được Người thông ban cho các tông đồ sau khi Người từ trong kẻ chết sống lại (x Jn 20:23). Đó là lý do Thánh Phaolô đã quả quyết: “Ai không có Thần Linh của Chúa Kitô thì không thuộc về Chúa Kitô” (Rm 8:9). Phải, Thần Linh của Chúa Kitô chính là Nhựa Sống được Thân Nho Chúa Kitô thông ban cho Cành Nho Giáo Hội để nhờ đó Giáo Hội có thể trổ sinh muôn vàn hoa trái cho Thân Nho, tức làm cho Công Cuộc Cứu Độ Người đã thực hiện được truyền đạt “cho tất cả mọi tạo vật” (Mk 16:15) “tới tận cùng trái đất” (Acts 1:8). Kitô hữu đã nhận lãnh Thần Linh của Chúa Kitô khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, nhờ đó, họ được trở thành chi thể, là cành nho của Chúa Kitô “Cây Nho Đích Thực” (Jn 15:1), để rồi Vị Thần Linh này đã trở thành “Quyền Lực từ trên cao” ban cho họ khi họ lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức, để nhờ đó họ có thể cùng với Ngài và nhờ Ngài (x Jn 15:26-27) làm “những chứng nhân cho Thày” (Acts 1:8; Lk 24:48), trở thành những cành nho “trổ sinh muôn vàn hoa trái” (Jn 15:5).
Đó là lý do, dù về trời, Chúa Kitô vẫn tiếp tục sống trong Giáo Hội, vẫn ở cùng Giáo Hội luôn mãi cho đến tận thế (x Mt 28:20), nhờ Thánh Linh Người đã từ Cha sai đến (x Jn 15:26) vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, ngày lễ hoa trái của Do Thái Giáo sau 50 ngày họ cử hành biến cố vượt qua của họ, cũng là Ngày Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống của Kitô giáo, một biến cố Hiện Xuống mở màn cho một Mùa Xuân Gieo Tin Mừng Cứu Độ của Giáo Hội bằng công cuộc truyền bá phúc âm hóa để làm canh tân bộ mặt trái đất.
45. Để có Chúa cùng hoạt động.
(Suy niệm của Lm Phêrô Vũ Văn Quí – CVK64)
“Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16, 19-20).
Hai câu cuối cùng trên trong Tin Mừng Marcô mang lối văn nặng hình tượng nhưng, với tôi, là lời mời gọi vô cùng tha thiết trong thế giới ky thuật số hiện nay.
Để “có Chúa cùng hoạt động”, tôi tớ của Lời Chúa, như Phaolô quả quyết: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu, tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 1, 1), phải là người rao giảng thật xứng danh với địa vị cao cả, vì Chúa Giêsu đã kêu gọi trong chân lý trọn vẹn: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29), hay như thánh Phaolô đã nêu gương: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kiô” (1Cr 11, 1).
Để “có Chúa cùng hoạt động”, tôi tớ của Đức Kitô không thể là những kỳ lục và biệt phái, những kẻ bị Chúa quở trách khi căn dặn dân chúng: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23, 2-4).
Những người rao giảng Lời Chúa như vừa nêu trên cao rao một lý tưởng sống cao đẹp nhưng bản thân lại sống mâu thuẫn. Họ hô hào những người khác dấn thân vào con đường hẹp. Còn chính ho thì lại vi vút giữa đại lộ thênh thang. Chính vì thế mà những người được nghe giảng khi họ gặp những con người kiên trung với nội dung rao giảng, chấp nhận đau khổ thua thiệt, không bị của cải thế gian vùi dập, vượt lên khỏi những sự dữ tác hại và dám chết vì điều mình loan báo (Mc 16, 17-18), thì đây quả là một ấn tượng rất lớn đối với họ. Một chân lý hiển nhiên là, từ kinh nghiệm bản thân, ai cũng biết rằng người ta chỉ sẵn lòng chịu cực khổ vì những điều họ thực sự thâm tín mà thôi. Do đó, Lời đã được sống có một sức mạnh thu hút vô địch, không gì thay thế được. Lời đó đầy lôi cuốn, đầy thuyết phục bởi đó là Lời đã từng cảm nghiệm, và đã vì đo mà chịu thương chịu khó trong cõi đời và trong nếp sống cầu nguyện của người rao giảng. Lời đó từ môi miệng phát ra mang theo một nhiệt tâm và một sức mạnh hết sức đặc biệt. Trong Lời đó có mảng linh hồn của chính ngươi giảng, và có thể bắt gọn linh hồn người nghe. Sự tương giao giữa người giảng và người nghe xẩy ra không phải trên ý niệm suông, nhưng trên thực tế. Đây cũng chính là điều mà tác giả trong phần cuối của Tin Mừng Marcô đã khẳng định: “có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.”
Chính thánh Phaolô tông đồ đã khích lệ: “Chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu” (2Cr 4, 5). Vậy ở đâu chưa có sự nhất quán với Lời Chúa, tức chưa cùng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô thì trước tiên cần có đức khiêm nhường. Đây là thái độ tối cần thiết cho những tôi tớ của Lời Chúa. Người rao giảng phải tự xóa nhòa bản thân trước sự hiện diện của Lời Chúa, phải khước từ vinh quang của riêng mình, như thánh Gioan Tẩy Giả đã sống và đã chia sẻ với các môn sinh của mình: “Đức Kitô phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).
Không chỉ hạ mình khiêm nhường, thánh Phaolô, Vị Tông Đồ rao giảng vĩ đại đã sống chết với Tin Mừng khi ngài viết cho môn đệ Timôthê yêu dấu: “Vì Tin Mừng, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xich!” (2Tm 2, 9). Với lòng mến thâm sâu, ngài đã đặt trọng tâm tất cả vào việc loan báo Tin Mừng, cho dù có phải bị gông cùm, ngài vẫn sẵn lòng đón nhận. Với lòng mến đầy tin yêu và để “được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” như Đấng mà ngài say mê rao giảng, thánh Tông Đồ đã thể hiện đươc ý nghĩa siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã truyền đạt trước khi trở về nơi Người đã đến là “dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao.”
Mới đây, kết thúc buổi triều yết chung tại Quảng trường Thánh Phêrô sáng ngày 20/5/2009, ĐTC Biển Đức XVI đã vắn tắt mở lời kêu gọi về Ngày Truyền thông Thế giới sẽ được cử hành vào ngày Chủ nhật 24 tháng 5 sắp tới. Ngài mời gọi:
“Đặc biệt với giới trẻ, cha kêu gọi các con hãy làm nhân chứng cho đức tin của chúng con qua thế giới kỹ thuật số. Hãy dùng những kỹ thuật mới đó để truyền bá Thánh Kinh, hầu cho Tin Mừng về tình yêu vô hạn của Thiên Chúa vang dội bằng những phương thức mới khắp trong thế giới của chung ta, một thế giới không ngừng tăng tiến về kỹ thuật.” (trích Vietcatholic.net)
Làm nhân chứng cho đức tin mà ĐTC vừa nhắc nhở trên đã giúp tôi khâm phục biết bao một nhân chứng trên xe lăn mà tôi mới nhận được từ một nhóm trên mạng gửi tới. Bài viết có nội dung như sau và trích từ R. Veritas:
“Một phụ nữ tên là Mensi đã đăng quảng cáo trên một tờ báo địa phương như sau: "Nếu bạn cô đơn hay gặp nan đề nào, xin hãy gọi điện thoại cho toi. Tôi bị liệt phải ngồi xe lăn tay, nên rất ít khi ra ngoài. Chúng ta có thể trao đổi nan đề với nhau. Mời bạn cứ gọi. Tôi rất thích nói chuyện với bạn".
Việc đáp ứng quảng cáo này rất kỳ lạ. Mỗi tuần bà Mensi nhận được khoảng từ 30 cú phôn, và bà rất mừng. Điều gì thúc đẩy một người tàn tật ngồi trên xe lăn tay muốn tiếp xúc nói chuyện với những người khác?
Bà Mensi kể rằng trước khi bị tê liệt bà có sức khỏe hoàn toàn, nhưng rat tuyệt vọng. Bà đã tự tử bằng cách nhảy từ trên gác cao xuống đất. Nhưng thay vì chết, bà bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống. Nằm trong nhà thương bà hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng một hôm bà nghe như Chúa Giêsu nói với ba: "Mensi ơi, trước đây con đã có một thân xác hoàn hảo, nhưng linh hồn con lại què quặt, Kể từ nay con sẽ có thân xác què quặt, nhưng linh hồn con kháng kiện".
Sau khi ra khỏi nhà thương, bà Mensi quyết tâm dâng đời mình cho Chúa. Bà cầu xin Chúa cho bà được chia sẻ niềm tin của mình với người khác. Rồi bà đăng báo như đã kể trên đây.
Công việc của bà Mensi xem ra như không có gì đối với người khác. Nhưng với bà, đó là công việc lớn lao nhất mà một người tàn tật có thể làm để phục vụ Chúa.”
Và lời cuối cùng của bài viết cũng là lời nhắc nhở rất cụ thể về việc loan báo Tin Mừng bình an dành cho những ai muốn “có Chúa cùng hoạt động” trong thế giới ky thuật số hiện đại như ngày nay:
“Mỗi người tin Chúa phải làm một việc nào đó để giúp đồng bào, đồng loại của mình. Mạnh khỏe hay tật nguyền, trẻ tuổi hay già nua, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện, viết thư hay làm bất cứ điều gì theo khả năng, nếu chúng ta thực sự muốn đem Chúa vào tâm hồn những người chung quanh mình”.
Lạy Chúa,
Xin giúp con sức mạnh để con cũng kiên cường biết sống cho tha nhân như bà Mensi dù cho bà ngồi trên xe lăn như con vậy. Amen.
46. Thiên đàng.
Hôm nay mừng kính Chúa về trời, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nước trời, về thiên đàng, về quê hương vĩnh cửu của chúng ta.
Những kẻ không có một niềm tin thì cho rằng chết là hết. Nhưng vơi chúng ta thì khác, cái chết chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê hương nước trời. Ý tưởng về nước trời, về thiên đàng vốn được Kinh Thánh nói tới nhiều lần.
Trong Cựu ước, ông Gióp một con người khổ đau đã kêu lên: Tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi hằng sống và trong ngày sau hết, tôi sẽ từ bụi đất sống lại và tôi sẽ nhìn thấy Thiên Chúa.
Vua thánh Đavid thì xác quyết: Sống công chính tôi được nhìn thấy Chúa. Thức giấc rồi, tôi no thỏa thánh nhan.
Sách Khôn Ngoan đã diễn tả: Bấy giờ người công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ cho chúng ta hãy tích lũy cho mình những kho tàng ở trên trời, ở đó sẽ chẳng có mối mọt và trộm cắp: Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước trời, còn mọi sự khác sẽ được ban thêm cho các con.
Nhất là trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã yên ủi những người bị đau khổ, bị bắt bớ bằng niềm hy vọng nước trời: các con hãy mừng rỡ hân hoan vì phần thưởng của các con sẽ to lớn ở trên trời.
Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ phán với những người lành: Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng nước trời đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở tạo dựng thế gian.
Thánh Phaolô cũng nói: hiện nay chúng ta như đang nhìn vào gương, nhưng bấy giờ, chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt.
Vậy thì nước trời hay niềm hạnh phúc thiên đàng là gì? Tôi xin thưa: đó là sự chiếm hữu Thiên Chúa như thánh Phaolô đã nói: Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài. Tất cả những khổ đau trong cuộc sống hiện tại sẽ chẳng là gì cả, nếu đem so với hạnh phúc nước trời. Đó là nơi vinh quang, đó là nơi ánh sang, đó là nơi ân thưởng cho những người đã trung thành phụng sự Chúa.
Tuy nhiên, niềm hạnh phúc tuyệt vời ấy không phải như là một món ăn quý giá đã nấu chín và chúng ta chỉ việc dùng mà thôi. Trái lại, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu thì mới đạt tới.
Chúa Giêsu đã nói: chỉ những kẻ khỏe mạnh can trường mới chiếm được nước trời.
Thánh Phaolô đã diễn tả: Như các lực sĩ nơi thao trường, phải cố gắng giao đấu và phải giao đấu theo đúng những qui luật thì mới đạt được tấm huy chương vàng.
Có một em nhỏ bị đau nặng. Biết mình sắp chết, em nói với người mẹ: má ơi, khi con chết đi, thì má hãy mặc cho con bộ quần áo đẹp nhất nhé… Ngày rước lễ lần đầu, con đã mặc quần áo đẹp, thì ngày con về trời, con còn phải mặc đẹp hơn thế nữa.
Hãy ra sức xa tránh tội lỗi, để khi xuất hiện trước ngai tòa Chúa, tâm hồn chúng ta trong trắng như tấm áo ngày rửa tội, nhờ đó mà chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời.
47. Sống hướng về Nước Trời trong Chúa Kitô
Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên. Qua những hình ảnh, lễ Chúa Thăng Thiên diễn tả việc Chúa Kitô phục sinh từ nay sống trong thế giới của Thiên Chúa mà người ta thường gọi trong ngôn từ tôn giáo là Trời (bài đọc 1 và Tin Mừng). Chúa Kitô về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, Ngài được tôn vinh là chủ tế của vũ trụ này. Điều quan trọng đối với các Kitô hữu tiên khởi cũng như đối với chúng ta hôm nay, không phải ở việc muốn biết Đức Giêsu lên trời như thế nào, nhưng là tận hiểu ý nghĩa sự ra đi của Người.
Chúa Giêsu Kitô"được rước lên trời", đó là một lối nói của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay lại trở về với Cha. "Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống" (Ga 3,13). Câu chuyện Chúa lên trời được sách Công Vụ Tông Đồ kể lại ở bài đọc 1 hôm nay là một kiểu nói bình dân để diễn tả một mầu nhiệm của Chúa Kitô Phục Sinh, ngay sau khi được Phục Sinh, nhân tính của Chúa Giêsu được tôn vinh rồi, hay nói cách khác, đã được vào trong vinh quang. Tuy vậy vinh quang này vẫn còn bị che khuất. Chúa Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ dưới dáng dấp của một người bình thường. Lần hien ra cuối cùng của Chúa Giêsu đánh dấu một bước chuyển mới. Từ nay nhân tính của Ngài được đưa vào trong vinh quang Chúa Cha, được đặt ngồi bên hữu Chúa Cha.
Lễ Chúa Thăng Thiên không phải là một cuộc chia ly, tiễn đưa Chúa Giêsu vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Chúa về trời là để có thể ở lại với mọi thời, mọi nơi. Điều duy nhất có thể mất đi là chúng ta không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của đức tin. Sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Chúa Kitô trở về với Chúa Cha. Từ nay, Chúa Kitô phục sinh vắng mặt về thể hình, không ai co thể thấy hoặc nghe tiếng Người nữa. Tuy nhiên, Người luôn hiện diện với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta như Người đã hứa: "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20). Sự hiện diện vô hình của Người, chỉ có con mắt đức tin mới thấy được. Phúc âm hôm nay cho thấy các tông đồ có cảm nghiệm rằng "Chúa đang làm việc với họ và xác nhận lời họ rao giảng bằng những dấu lạ kèm theo" (Mc 16,20). Như thế sự vắng mặt hữu hình cua Chúa Giêsu Kitô không cản trở việc Ngài tiếp tục hiện diện và hoạt động bên họ. Người Kitô hữu sống còn chính là nhờ Chúa Giêsu Kitô đang sống và hoạt động nhờ Thánh Thần của Ngài. Được tôn vinh trên trời không phải là làm một cuộc đi xa, nhưng là đến gần. Phục Sinh và lên trời là để làm sứ vụ giữa lòng thế giới. Ngài là Thượng Tế cầu bàu cho chúng ta trên trời và không ngừng thu hút, nâng dậy cả nhân loại.
Chúa lên trời để chỉ cho chúng ta con đường để về trời với Ngài. Con đường ấy rất thiết thân với mọi người. Mừng lễ Chúa Thăng Thiên là mừng ngày Chúa Kitô được tôn vinh. Lễ Thăng Thiên thực hiện giấc mơ lớn nhất của con người. Tất cả chúng ta đều hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa, bên Chúa Giêsu, người Anh Trưởng. Trời là đích điểm của đời người Kitô hữu. Nhưng trời đã bắt đầu rồi từ khi chúng ta bước vào vũ trụ của Chúa Giêsu Kitô, qua đức tin và các bí tích. Nói cho cùng, Kitô hữu chỉ có một cuộc đời. Chằng có cuộc đời nào khác ngoài cuộc đời hiện tại và sẽ gắn liền với chúng ta mãi mãi. Trời không khiến ta tránh né bổn phận trần gian, ngược lai cho ta sức mạnh để chu toàn các bổn phận ở trần gian. Trời không phải là nơi đến của một người chỉ biết chăm lo cho ơn cứu độ của mình một cách ích kỷ. Trời cũng không phải chỉ là phần thưởng cho con người, là sự "bù lỗ" cho những khốn khổ ở đời, là cớ khiến chúng ta tránh né việc xây dựng trái đất hay phá đổ bất công.
Lễ Thăng Thiên là sự kết thúc công cuộc truyền giáo của Đức Giêsu thành Nazarét, và là khởi đầu thời gian của Giáo Hội. Dĩ nhiên, giai đoạn mới này luôn là giai đoạn của Chúa Kitô, vì tất cả đều hướng về Người, cũng như Người là đích điểm của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng đó cũng là thời kỳ của Giáo Hội và các môn đệ để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô và cho Tin Mừng: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari, và cho đến tận cùng trái đất." (Cv 1, 8). Đó là ý nghĩa mọi hoạt động truyền giáo của Giáo hoi. Trước khi lên trời, Đức Kitô giao phó cho tất cả các môn đệ, tức là tất cả mọi người Kitô hữu chúng ta đang sống trên quả đất này. Đó là sứ mạng loan báo Tin Mừng, sứ mạng tiếp tục công trình của Người cho đến ngay tận thế.
Sứ thần trách các môn đệ: "Hỡi người Galilê! sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời?". Các môn đệ đã hiểu ý. Các ông đã trở về với nhiệm vụ của mình, hoàn thành công việc của Chúa ở trần gian, làm chứng về tất cả những gì các ông đã được nghe, được thấy: "Các ông đã ra đi khắp nơi, rao giảng tin mừng cho mọi người; có Chúa vùng hoạt động với các ông, cũng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo".
Rõ ràng, Chúa lên trời không làm cho các môn đệ tê liệt, không giải nghệ các ông, mà còn thúc giục các ông lập tức bắt tay vào việc xây dựng nước trời ngay ở trần gian này và bảo đảm cho các ông thành công. Cũng vậy, đối với chúng ta ngày nay, Chúa lên trời nhắc chúng ta nhớ rằng: " Quê hương chúng ta ở trên trời... anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời". Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải "xuất thế", phải xa lánh trần gian. Trái lại cần phải nổ lực dấn thân "vào đời". Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta để "mở một tuyến đường lên trời từ mặt đất này" bằng những công việc xây dựng Nước Trời ngày này qua ngày khác; loại trừ những khổ đau, tội lỗi, tạo cho mọi người được sống ấm no, hiệp nhất, yêu thương nhau, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người. Đó là con đường lên trời của chúng ta.
Chúng ta càng vui mừng khi biết rằng: "Chúa vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế". Ngài không bao giờ rời bỏ chúng ta. Thật là ích lợi cho chúng ta khi Ngài khuất mắt chúng ta về phương diện thể lý để chúng ta gặp Ngài hiện diện ở khắp mọi nơi mọi lúc, trong kinh nguyện và hoạt động, trong bí tích và trong anh chị em. Đặt biệt trong bí tích Thánh Thể, Chúa đến ở trong chúng ta, ban nguồn sinh lực giúp chúng ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nước Trời ở trần gian này, để một khi Nước Trời được hoàn thành Ngai sẽ trở lại trong vinh quang đón chúng ta lên trời về với Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nỗ lực xây dựng trần gian theo tinh thần của Chúa trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.
48. Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương.
BÂY GIỜ CON VỀ CÙNG CHA.
Lễ Chúa Giêsu Về Trời thường cũng được gọi là Lễ Thăng Thiên, và được mừng vào ngày Thứ Năm sau Chúa Nhật VI Phục Sinh, đúng 40 ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại như Lời Thánh Kinh (Cv 1,3); tuy nhiên vì lý do mục vụ, để thuận tiện cho mọi tín hữu có thể đi dâng Thánh Lễ, nhiều nơi đã được phép chuyển mừng vào ngày Chúa Nhật tiếp theo (Chúa Nhật VII Phục Sinh).
Trong Thánh Lễ hôm nay, qua cac Bài Đọc I (Cv 1, 1-11), Bài Đọc II (Ep 1, 17-23, hoặc Ep 4, 1-7, 11-13) và Bài Phúc Âm (Mc 16, 15-20), các Thánh Sử đều ghi lại việc Chúa Giêsu được “rước về Trời”, sau khi Ngài đã ‘sống lại và hiện ra với các Thánh Tông Đồ, an ủi, âng đỡ cùng giảng dạy thêm cho các Ngài ‘về Nước Trời’ trong vòng 40 ngày. Ngoài ra, trước khi được “Rước Về Trời”. Chúa Giêsu cũng hứa “vẫn ở lại với các Ngài mỗi ngày cho đến tận thế”, và sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống (Ga 14,16) trên các Ngài để thánh hóa và soi sáng cho các Ngài hiểu đầy đủ về mọi điều đã được ghi chép trong Thánh Kinh và những lời Chúa Giêsu đã giảng dạy (Ga 14,26); rồi Chúa Giêsu đã chúc lành cho các Ngài và truyền cho các Ngài “hãy ra đi khắp nơi làm chứng nhân cho Chúa, và rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người, mọi nơi.” (Mc 16,15-16).
Lễ Chúa Giêsu Về Trời là niềm vui mừng phấn khởi cho mọi người chúng ta, vì Chúa Giêsu đã chịu nạn, chịu chết để cứu chuộc chúng ta, nhưng Người đã sống lại và về trời vinh hiển để mở đường về trời cho chúng ta. Con đường sự sống đã được mở sẵn cho chúng ta để ai đi theo con đường đó thì tới sự sống muôn đời, vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Thày là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống… (Ga 14,6).
Sau khi Chúa Giêsu về Trời, và sau khi Chúa Thánh Thần đã hiện xuống thánh hóa các Tông Đồ, các Ngài đã hăng hái, nhiệt thành đi rao giảng Lời Chúa và thành lập Hội Thánh. Từ ngày đó, dù bị các thế lực thế gian ở mọi thời và mọi nơi bách hại như Chúa Giêsu đã báo trước (Ga 15,18-21), Giáo Hội đã không ngừng phát triển để đem Tin Mưng Tình Thương và Ơn Cứu Độ đến cho mọi người và mọi nơi, để những ai “tin thì được cứu rỗi” (20,31).
Ngày nay, đến lượt chúng ta là những tín hữu của Chúa, chúng ta cũng phải là những ‘tông đồ nhiệt thành’, có nhiệm vụ tiếp tục rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa đến mọi nơi trên trái đất bằng nhiều phương tiện khác nhau, nhất là bằng chính đời sống tín hữu gương mẫu của chúng ta. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tiếp tục sống như ‘những chứng nhân’ của Chúa (Cv 1,8) cho mọi người mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày: nơi gia đình, trong sở làm, xưởng thợ, ở thành thị cũng như chốn thôn quê.
Xin Chúa Giêsu Phục Sinh và đã về Trời vinh hiển chúc lành cho mọi người chúng ta, gia đình chúng ta, cho các công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, và cho mỗi tín hữu chúng ta luôn được nhiệt thành rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người.
49. Ra đi.
Các sân bay là những nơi có nhiều niềm vui cũng như nước mắt. Có những người ngẩng đầu lên để nhìn thoáng qua lần đầu người thân của mình đang đến. Trong khi đó, lại có những người khác với đôi mắt nhòe lệ nhìn lần cuối một người thân ra đi. Ngày lễ hôm nay tưởng niệm việc Chúa Kitô lên trời, nhưng thực chất không phải là một cuộc ra đi. Dĩ nhiên, Chúa Kitô không còn được nhìn thấy bằng mắt thường nữa. Thánh Luca viết: “Chúa Giêsu được cất len ngay trước mắt các ông và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”.
Lễ Chúa Giêsu lên trời không phải là câu chuyện Chúa ra đi. Ngược lại là đàng khác! Người vẫn tiếp tục hiện diện, nhưng theo một cách mầu nhiệm. Người tiếp tục hoạt động trong thế giới này qua các môn đệ. Và vì thế, chúng ta có thể nói hôm nay là ngày cử hành đại lễ của một kết thúc và cũng là của một khởi đầu. Việc hiện diện hưu hình của Chúa Giêsu trên trái đất này đã kết thúc. Bây giờ khởi đầu một triều đại mới mà Người là Vua trên các vua. Vì thế, việc cử hành thánh lễ hôm nay không phải là việc tưởng nhớ một người vắng mặt, nhưng là một cử hành tràn đầy niềm vui cùng với Chúa Kitô đang hiện diện giữa chúng ta.
Thiên thần đã nói với các môn đệ đừng đăm đăm nhìn lên trời nữa. Ngài chỉ cho các ông nơi mà Chúa Giêsu đang cần các ông, đó là ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người. Sứ vụ này vẫn tiếp tục, và đó là sứ vụ của chính chúng ta. Một Kitô hữu đích thực không phải là người cứ nhìn lên trời, chờ Chúa Kitô xuất hiện trên đám mây. Nhưng một Kitô hữu đích thực là người đầy lòng nhiệt thành mang Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Thế giới ngày nay đang khao khát Tin Mừng của Chúa. Qua chúng ta, Chúa Giêsu muốn đem niềm vui và sự bình an vào trong một thế giới đầy những tai ương, chiến tranh và bất công. Qua chúng ta, Chúa Giêsu muốn đem sự hiểu biết, tình yêu và sự cảm thông vào trong một thế giới đầy tranh chấp, cãi cọ và thù hận. Qua chúng ta, Chúa Giêsu muốn biến đổi thế giới này trở nên mot nơi chốn tốt lành hơn. Ngày hôm nay, chúng ta cần thức tỉnh về nhiệm vụ của mình. Chúng ta cần nhìn vào thế giới này với những vấn đề rắc rối của nó, và chúng ta hãy thực hiện việc các tông đồ đã làm sau khi Chúa len trời đó là chia sẻ Chúa Kitô Cho mọi người.
Lạy Chúa, con tin Chúa vẫn tiếp tục hiện diện trong thế giới này. Xin Chúa ban tràn đầy Thần Khí Chúa xuống trên con để con có thể thi hành nhiệm vụ loan báo Tin Mừng mà Chúa đã ủy thác cho con.
50. Lên trời.
Có những cuốn sách khi khép lại chính là lúc mở ra: mở ra cho suy tư, mở ra cho trách nhiệm, mở ra cho hành động. Sách Tin Mừng là cuốn sách như thế, theo ý nghĩa trọn vẹn nhất. Nếu Tin Mừng khép lại cuộc đời Chúa Giêsu thì đồng thời lại mở ra cho một trang sử mới. Nếu biến cố Thăng Thiên khép lại cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu, thì đồng thời lại mở ra cho một mệnh lệnh mới phải được thực thi, một trách nhiệm mới phải được hoàn thành, một hiện diện mới phải được đón nhận. Chính trong sự đan kết đó mà phụng vụ lời Chúa hôm nay vừa mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm Thăng Thiên, lại vừa đòi hỏi chúng ta đào sâu trách nhiệm tông đồ, trách nhiệm truyền giáo, trách nhiệm rao giảng Tin Mừng trong đời người Kitô hữu.
Trước hết, về mầu nhiệm Thăng Thiên, tức là mầu nhiệm Chúa Giêsu lên trời. Trong bốn sách Tin Mừng, chỉ có hai sách nói đến việc Chúa Giêsu lên trời, đó là Tin Mừng Marcô và Luca. Thánh Marcô nói rất vắn tắt, chỉ nói Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, chứ không nói rõ Chúa lên trời ở đâu và sau khi sống lại được bao lâu. Còn thánh Luca, đọc Tin Mừng của ngài, chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu lên trời ngay ngày Chúa sống lại và ở gần Bêtania. Nhưng theo sách Công vụ Tông đồ, cũng của thánh Luca, thì Chúa lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và chỗ Chúa lên trời là núi Cây Dầu.
Chúa Giêsu lên trời là một điều chắc chắn. Đây là một mầu nhiệm, một tín điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Ngày thứ ba, Người sống lại như lời Thánh Kinh, Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha”. Vậy ý nghĩa của mầu nhiệm này thế nào? Việc Chúa lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài, nghĩa là Ngài là Con Thiên Chúa, từ trời xuống trần gian để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha, Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống, nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, được đặt bên hữu Thiên Chúa và ban cho quyền xét xử vũ trụ.
Chúa lên trời là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về trời, sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha để cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời. Tuy nhiên, để đạt được nước trời đòi hỏi chúng ta phải trả giá, cũng như không có thành công nào hay hạnh phúc nào ở đời này mà lại đạt được quá dễ dàng, thì hạnh phúc nước trời thì lại càng khó hơn biết bao, đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và cố gắng về mọi phương diện. Những ngày sống lữ thứ trần gian là để đi vào nước trời, chúng ta phải cố công đi cho tới đích, không bao giờ được bỏ cuộc, không rẽ ngang, không đi lui, phải đi tới mãi. Đường vào nước trời thiên nan vạn nan chứ không phải dễ dàng ra vào như đi chợ hay đi bát phố. Kinh Thánh nói: Người ta phải dùng sức mạnh sấn sả mà đi vào; qua con đường hẹp, phải ra đi trong nức nở mới trở về trong hân hoan. Cũng thế, ai cũng biết bài học:nước chảy đá mòn”, “kiến tha lâu đầy tổ”, “có công mài sắt, có ngày nên kim”, “có khó mới có miếng ăn”, thì trên phạm vi siêu nhiên cũng vậy, Chúa dạy: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”, vì nước trời đòi hỏi rất nhiều cố gắng, rất nhiều công lao khó nhọc.
Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa, sống theo những lời Chúa giảng dạy để rồi cũng được về với Chúa? Chính vì thắc mắc đó mà trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài đã sai các ông ra đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho các ông nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chính nhờ các tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác, lại các tông đồ khác nữa kế tiếp nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa, tin theo Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về trời.
Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Ngài, nghĩa là Giáo hội như một nối dài của Chúa Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã giảng dạy, đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài được tiếp tục qua Giáo hội. Sứ mạng của Chúa Giêsu là một sứ mạng thiêng liêng, nhưng sứ mạng đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mạng đó cho Giáo hội, Chúa muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Chính nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Là chi thể của Giáo hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi Kitô hữu là cánh tay rộng mở của Chúa, nhờ đó Ngài không ngừng giãi tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để được như thế, cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt: hãy sống tốt với mọi người trong gia đình, với xóm ngõ, với bạn bè, trong nơi làm việc và với những người chung quanh, bất kỳ lương hay giáo. Sống tốt có nghĩa là sống cởi mở, sống hòa đồng, sống vui tươi, song bác ái, sống chan hòa tình yêu thương với mọi người.
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời nhắc nhở chúng ta: Chúa đã lên trời, chúng ta cũng sẽ về trời, đó là cùng đích của hạnh phúc đời người. Vì thế, chúng ta hãy sống cho thật tốt, thật tròn đầy những bổn phận hằng ngày để đạt được hạnh phúc ấy. Đồng thời ngày lễ hôm nay cũng mời gọi chúng ta hãy ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa cho anh em bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta.
51. Cùng lên trời với Chúa – Lm Nguyễn Nguyên
Nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì. Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?
Hôm nay, chúng ta cùng với giáo hội mừng lễ Chúa lên trời. Điều đó dạy cho chúng ta biết rằng ngoai cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Chúa lên trời để cho chúng ta thấy rằng: Định mệnh của loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Số phận của con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Đó mới là cùng đích của đời người, đó mới là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng, muốn tới được trời, muốn lên thiên đàng thì trước hết chúng ta phải đi hết con đường dương thế này bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này. Một trong những nhiệm vụ chính yếu chúng ta vừa nghe trong tin mừng hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đây là một nhiệm vụ cao cả mà Chúa đã trao cho chúng ta khi Ngài về trời. Chúa về trời, Ngài không còn xác thịt trên thế gian này nữa. Ngài không còn đôi tay nữa, chỉ có đôi tay của chúng ta, để làm công việc ngày hôm nay của Ngài. Ngài không còn đôi chân, chỉ có đôi chân của chúng ta để dẫn người ta theo đường lối của Ngài. Ngài không còn tiếng nói, chỉ có tiếng nói của chúng ta để nói với loài người rằng Ngài đã yêu thương, đã chịu chết như thế nào. Ngài không còn cách giúp đỡ nào khác ngoài sự giúp đỡ của chúng ta để đưa tha nhân đến bên cạnh Ngài.
Vì thế, một cuộc đời loan báo tin mừng cho Chúa trên coi trần này không nhất thiết phải đổ máu nhưng thiết yếu là phải thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm, là biết thực hành những lời Chúa dạy, không gian dối, lừa đảo, không tham lam bất chính, luôn chung thuỷ trong đời sống gia đình. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải có một bản án để người ta thoá mạ, tẩy chay, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải đi đây đi đó rao giảng những lời hay ý đẹp mà là sống trong cùng một khu xóm, nhưng quý ông khong nhậu nhẹt say sưa, không cờ bạc, không la vợ, đánh con, nhưng biết chăm sóc gia đình chu đáo, đồng thời còn dành thời giờ để đến an ủi, giúp đỡ, chia sẻ với những người già yếu bệnh tật, cô đơn; còn quý bà thì không ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, nhưng biết lo lắng tần tảo, yêu thương chồng con, vui vẻ với làng xóm; và các bạn trẻ trong giáo xứ thì sống lành mạnh, biết kính trên nhường dưới, không đua đòi, không ăn nói tục tằn, nhưng chăm chỉ nhiệt thành với công việc chung… Sống được như vậy là chúng ta đang làm chứng cho Chúa một cách tuyệt vời nhất, sống được như vậy là chúng ta đang xây nên con đường dẫn về Trời cho mình, đang làm cho gia đình chúng ta, giáo xứ chúng ta thành nơi Chúa hiện diện và biến đổi thế giới này thành thiên đàng.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta sống cho thật tốt, thật tròn đầy những bổn phận hằng ngày để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa mà hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.
52. Hãy rao giảng Tin Mừng – Lm. Đặng Quang Tiến.
Đoạn Mc 16,9-20 không tìm thấy trong những thủ bản xưa nhất của Tin mừng Marcô. Có thể đây là phần được thêm sau nầy, trong đó tóm tắt những điều mà trong các Tin mừng khác nói đến Đấng Sống Lại. Phần thứ nhất (16,9-11) thuật việc Chúa hiện ra với bà Mađalêna (x. Ga 20,11-18). Phần thứ hai (16,12-13) kể tóm tắt chuyện hai môn đệ đi về làng Emmaus (x. Lc 24,13-35). Phần thứ ba (16,14-18) kể lại chuyện Chúa hiện ra cho nhóm mười một; Người trách họ cứng lòng tin và trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin mừng (x. Lc 24,36-43). Phần cuối cùng (16,19-20) ghi nhận vắn tắt việc Chúa lên trời (x. Lc 24,50-53; Tđcv 1,9-11).
Đoạn nầy không chắc chắn do Marcô viết ra; tuy nhiên nó được viết theo một truyền thống cổ xưa và được công nhận thuộc về Kinh thánh. Có thể phân chia đoạn 16,15-20 làm ba phần: 1- Mệnh lệnh rao giảng Tin mừng và những hành động quyền năng kèm theo (16,15-18); 2- Chúa Giêsu lên trời (16,19); Các tông đồ đi rao giảng và Chúa cùng hoạt động với họ (16,20).
Lần đầu tiên việc rao giảng Tin mừng được giao phó cách rõ ràng và như một mệnh lệnh cho các tông đồ để chu toàn. Ngay từ đầu, Marcô đã ghi nhận nhiều lần là Chúa Giêsu không mệt mỏi đi rao giảng khắp miền Galilê và những vùng lân cận của nó (1,14-15.39.45; 5,20). Khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Marcô ghi nhận là Người kêu họ đến với Người để có thể sai họ đi rao giảng (3,14); tuy nhiên, ông đã không nói là khi nào. Trong diễn từ nói đến những thử thách và bách hại các môn đệ sẽ chịu, Người tiên báo là qua đó Tin mừng sẽ được rao giảng cho mọi dân tộc (x. 13,10). Như thế, “Anh em hãy rao giảng Tin mừng” là mệnh lệnh trực tiếp và đầu tiên các tông đồ lanh nhận sau khi Chúa Giêsu sống lại, và họ sẽ bắt đầu thực hiện nó cách công khai sau khi Người đã lên trời (16,15.20). Đây là thời điểm thích hợp nhất để làm việc đó, vì sứ vụ của Người trên trần gian chấm dứt khi Người lên trời; họ phải tiếp tục sứ vụ ấy của Người. “Tin mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (1,1) đã được loan báo trọn vẹn và đã thấm nhập họ không chỉ lời nói mà cả bản thân của Người. Rao giảng Tin mừng lần nầy sẽ được mở rộng cách phổ quát cho mọi người (16,15).
Những hành động quyền năng được hứa như xua trừ ma quỷ, nói được những ngôn ngữ mới, tiêu trừ những độc hại và chữa lành những bệnh tật là biểu trưng cho sự chien thắng trên sự chết và tội lỗi (16,17-18). Người ban những quyền năng ấy cho tất cả những ai tin vào Người; tuy nhiên, không chỉ chừng ấy thôi, mà cả ơn cứu độ dứt khoát trong sự sống vĩnh cửu nữa.
Như việc sống lại do bởi Chúa Cha thực hiện (16,6), việc Chúa Giêsu được đưa lên trời cũng bởi Người. Được đưa lên trời là trở lại nơi Người đã từ đó mà đến trần gian. Chữ “trên trời” chỉ nơi Thiên Chúa hiện diện (1,10; 6,41; 7,34; 11,25). Lên trời là đi vào sự hiệp thông tuyệt hảo và vĩnh cửu với Cha của Người, trong đó Người được chia sẻ với Cha quyền năng và vinh quang. Thành ngữ “ngồi bên hữu” chỉ địa vị cao trọng và quyền hành lớn chỉ sau Thiên Chúa (14,62; 16,19; x. 10,37; 12,36; Tv 110,1). Sau cùng, các tông đồ đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng (16,20). Họ đã mở đầu một thời kỳ mới của Giáo hội. Thay vào lời hứa Chúa Giêsu sẽ ở cùng họ cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Marcô ghi nhận là Chúa cùng hoạt động và trợ giúp lời họ rao giảng bằng những dấu hiệu quyền năng (16,20).
Đang ở trong vinh quang và quyền năng với Chúa Cha, Chúa Giêsu vẫn luôn hoạt động liên lỉ với Giáo Hội để hoàn thành viec rao giảng Tin mừng của Thiên Chúa cho muôn dân.
53. Phải hiểu thế nào khi nói Chúa Lên Trời
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Ngày còn nhỏ, sống gần vùng có nhiều máy bay Mỹ bay ngang dọc bầu trời. Những chiếc máy bay, dù là tuổi nhỏ, tôi vẫn mơ màng hiểu rằng, chúng đang tác oai, tác oái để phục vụ cho mục đích chiến tranh. Những lần nghe tiếng gầm rích xé tan bầu trời, bọn trẻ chúng tôi kéo nhau chạy ra khỏi nhà nhìn lên trời xem máy bay bay mà khoái chí, mà thỏa thích và lắm lúc còn hun đúc ước mơ được phóng lên trời bay như máy bay, oai biết mấy.
Cũng vẫn là những ngày còn nhỏ, ngày lễ Chúa Giêsu lên trời, tôi lại ra sân tìm kiếm. Không phải đi tìm máy bay nhưng là tìm Chúa Giêsu xem Chúa lên trời thế nào. Trong tưởng tượng, tôi cảm nhận rằng, chắc Chúa đẹp lắm, không đen sì như những chiếc máy bay, chắc Chúa hiền từ lắm, không ồn ào như máy bay... Trong tư tưởng non nớt của tôi làm sao hiểu nổi chuyện Chúa lên trời. Tìm kiếm trên bầu trời chán và mỏi, tôi đến gặp mẹ. Mẹ tôi cũng chẳng thể cho tôi một điều gì khá hơn. Bà chỉ biết có mỗi một chuyện: "Hôm nay Chúa lên trời", và không giải thích gì thêm để một thằng bé như tôi hiểu được. Và trong tôi còn mãi một thắc mắc, Chúa đã lên trời sao không thấy. Máy bay lên trời còn thấy bay đi bay lại kia mà! Ngày ấy, hình như tôi hiểu Chúa lên trời quá là nghĩa đen. Dù vậy, bây giờ đã có một hiểu biết nhất định, sao tôi vẫn không thể thay thế được cái nghĩa đen ấy!
Đúng là ngôn ngữ của Thánh Kinh cho phép chúng ta hiểu Chúa lên trời theo nghĩa đen. Chẳng hạn bai đọc một, trích sách Công vụ Tông đồ cho biết: "Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông" (Cv 1, 9). Nhưng với một sự kiện của lòng tin lớn như biến cố Chúa thăng thiên mà lại chỉ dừng lại ở nghĩa đen như thế, thì quả là làm thiệt hại đức tin biết bao nhiêu. Bởi điều quan trọng không nằm ở sự kiện Chúa lên trời cho bằng khám phá lại ý nghĩa của lễ Chúa lên trời hôm nay.
Bạn và tôi có quyền hiểu Chúa thăng thiên theo nghĩa đen, nhưng bạn và tôi không được quyền dừng lại ở đó. Ta không bao giờ được phép xem Chúa lên trời như là một chiến thắng đang say trong men chiến thắng, một cao ngạo, một sự trả thù của người bị hại đối với những người đã từng treo Chúa lên thánh giá. Nếu chỉ như thế thì chắc Chúa đã không lên trời!
Lên trời là một sự chiến thắng, một vinh quang. Đúng! Nhưng chiến thắng và vinh quang theo nghĩa nào?
Bài Tin Mừng cho biết, " Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa". Giáo Hội không ngừng lặp lại lời tuyên xưng này qua mọi thời, mọi thế hệ trong lời tuyên tín của mình.
Cụm từ "CHÚA LÊN TRỜI" đủ để cho thấy VINH QUANG THIÊN CHÚA của Người. Chúa đã một lần làm người. Nghĩa là đã một lần Người hạ mình hóa nên nhục thể. Vinh quang của Người là vinh quang Thiên Chúa. Nhưng vinh quang ấy đã bị che lấp trong cuộc đời trần thế, đến nỗi có lần thư gởi tín hữu Do thái phải bộc bạch: "Khi còn sống kiếp phàm nhân Chúa Giêsu đã lớn tiếng kêu vang khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết... Dù là Con Thien Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục". Hôm nay về trời cũng là chính lúc Chúa Kitô về lại với vinh quang mà Người vẫn có. Nói cho thật nôm na, dễ hiểu: Về trời chính là lúc Chúa Kitô trở lại "kiếp Chúa" của Người. Vinh quang bị che lấp, giờ đây tỏ lộ. Nếu trong quá khứ, "Người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn", thì giờ đây, "Người được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên" (Dt 2, 9). Vinh quang danh dự mà Chúa Kitô lãnh nhận hôm nay là vinh quang cao cả, là chiến thắng lớn lao: Chúa bước vào vĩnh cửu. Trong vinh quang vĩnh cửu ấy, chính "Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Để khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Phil 2, 9- 11). Cũng chính trong vinh quang Đức Chúa của mình, Chúa Giêsu làm chủ mọi loài,, Người làm vua toàn vũ trụ. Vì nơ Người chính "Thiên Chúa đã đưa thời gian tới hồi viên mãn, đã quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô" (Eph 1, 10). Hay như bài đọc hai diễn tả: Chúa Kitô "Vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô ca đời này, lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Người, và tôn Người làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Người, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người" (Eph 1, 21- 23).
Nhưng vinh quang thiên quốc của Chúa Kitô, không chỉ quy tụ nơi chính bản thân Người mà thôi. Vinh quang của Chúa Kitô là ánh sáng chói ngời chiếu thẳng vào niềm hy vọng của chúng ta. Chúa thăng thiên để nhờ Người, trong Người và với Người, ta cũng được thăng thiên. Vì nếu đã có một con người mang tên Giêsu được vinh thăng, thì mọi người có quyền hy vọng nếm hưởng vinh quang Thiên Chúa với Người. Như vậy lễ thăng thiên là lễ thực hiện giấc mơ lớn nhất của con người: sống đời đời trong hạnh phúc và vinh quang vĩnh cửu.
Vì thế, hôm nay mừng lễ Chúa thăng thiên, hướng lòng về Thiên Chúa, và chiêm ngắm vinh quang của Chúa Kitô, loài người chỉ còn biết cúi đầu cảm tạ. Xin dâng muôn lời cảm tạ tri ân Thiên Chúa. Bởi thân phận bé nhỏ là thế, nhưng loài người lại có vận mạng được đặt nơi Thiên Chúa. Do đó dẫu là thuộc về đất thấp, loài người vẫn mang nơi mình một chiều cao thăm thẳm: vận mạng được vĩnh cửu hóa và Thiên Chúa là Chúa vĩnh cửu đã thương trao ban cho loài người, cho từng người một, một vận mạng không bao giờ có thể lạc mất.
Lạy Chúa, chúc tụng tình yêu vô ngần của Chúa, vì nhờ đó, thân phận bụi tro của chúng con được hóa thần nhờ ơn thần hóa Chúa ban. Amen.
54. Sứ mạng người Kitô hữu.
Tin Mừng thuật lại hai điều: sự kiện Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Trước hết, sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Marcô ghi lại rất vắn tắt: chỉ nói Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, chứ không nói rõ Chúa lên trời ở đâu và sau khi Chúa sống lại bao lâu. Theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây dầu, Vậy Chúa Giêsu lên trời chính xác là khi nào?
Có thể trả lời tóm tắt và rõ ràng như sau: Chúa lên trời ngay ngày phục sinh, tức là sau khi sống lại, Chúa lên trời ngay. Và sau đó Chúa đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần để củng cố lòng tin của họ, trong một khoảng thời gian mà sách Công vụ Tông đồ xác định là 40 ngày. Sau cùng, Ngài cho các môn đệ biết Ngài chấm dứt việc hiện ra bằng sự công khai về trời. Như vậy, mầu nhiệm lên trời mời gọi chúng ta nhìn nhận hai khía cạnh liên hệ nhưng riêng biệt nhau: một bên là Đức Kitô được vinh quang lên trời ngay lúc Ngài sống lại. Điều này giác quan các tông đồ không thể cảm nghiệm được mà chỉ có nhận thức bằng đức tin. Và một bên là Đức Kitô ra đi sau một thời gian hiện ra nhiều lần. Đó là cuộc ra đi trở về với Chúa Cha mà các tông đồ được chứng kien trên núi Cây Dầu.
Chúa Giêsu lên trời là điều chắc chắn. Nhưng ý nghĩa thế nào? Việc Chúa lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài, như chu trình phát triển của một hạt lúa: phải tự mục nát trong đất mới đâm mầm và tăng trưởng dần cho đến thời kỳ trổ bông, sinh hạt. Chúa Giêsu, sau thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dựng một nền móng đạo đức đặt căn bản trên tình thương, công bằng trong xã hội Do thái thời đó, mảnh đất thí điểm và khởi điểm… Ngài đã chịu chết, sống lại và vinh hiển về trời. Nói khác đi, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống trần gian để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống. Nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, được đặt bên hữu Thiên Chúa và ban cho quyền xét xử vũ trụ. Đây cũng là mot câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về trời, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời.
Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa để rồi cũng được về trời với Chúa? Chính vì thắc mắc đó mà trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài đã sai họ ra đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho họ nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chính nhờ các tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác, lại các tông đồ khác nữa kế tiếp nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa, tin Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về trời.
Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài, nghĩa là Giáo Hội như một nối dài của Chúa Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài được tiếp tục qua Giáo Hội. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mệnh đó cho Giáo Hội, Chúa Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi Kitô hữu cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Ngài không ngừng giải tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để được như thế, cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt. Hãy sống tốt với gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với những người chung quanh, bất cứ lương hay giáo. Sống tốt cũng có nghĩa là sống bác ái, sống chan hòa tình yêu thương với mọi người.
Người có lòng bác ái, yêu thương giống như một bông hoa đẹp. Bông hoa không nói gì cả, bông hoa không tuyên xưng gì cả, nhưng vì nó là một bông hoa đẹp, tuy không nói, nhưng người ta cũng thấy được cái đẹp của nó, cái hương thơm của nó. Mỗi người Công giáo, mỗi giáo xứ, hãy là những đóa hoa, những bó hoa tươi, đẹp, thơm, do tinh thần bác ái cởi mở chan hòa. Và nếu được như vậy, đạo chúng ta sẽ mở ra, và đức tin ấy mới là đức tin truyền giáo thực sự.
Xin hãy nhớ: Chúa Giêsu về trời sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ ở trần gian. Chúng ta cũng vậy, bao lâu sống ở trần gian, chúng ta cũng phải nỗ lực hoàn tất nhiệm vụ Chúa đã trao phó và tích cực đóng góp vào sự mưu ích cho đồng loại, cho gia đình, xóm đạo, quê hương, Giáo Hội theo tinh thần phục vụ và bác ái của Tin Mừng.
55. Một cõi đi về
Có lẽ trong chúng ta, phần đông đều biết đến một ca khúc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ca khúc có tựa đề là "Một cõi đi về":
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vòng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.
Mây che trên đầu và nắng trên cao
Hôm nay ta đi song còn ở lại
Con tim yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hình bóng con người
..............
Nếu cố nhạc sĩ họ Trịnh đã viết nên lời của ca khúc Môt cõi đi về này thì tôi tưởng rằng Trịnh Công Sơn đã có một chiều sâu cảm nghiệm về một cõi, về một nơi nào đó mà người ta phải đi tới, phải đi về. Cõi đó là cõi nào? Nơi đó là nơi nào?
Tin mừng hôm nay mô tả: "Nói xong, Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Mc 16, 19)
Như vậy, nếu Trịnh Công Sơn đã nói về một cõi xa xăm nào đó thì hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác định cõi đó là Thiên Đàng, là Trời cao. Đó là nơi mà sau bao nhiêu năm Đức Giêsu đã long đong, sau bao nhiêu năm nhọc nhằn, sau bao lần nếm cảnh nghèo đói, khổ đau, cay đắng và thậm chí là những thất bại chua cay, giờ đây, Ngài đang bước đến cõi đi về đó. Nơi đó, cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Nơi hạnh phúc không còn khổ đau, nơi mà tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối và viên mãn. Nơi mà con người trở thành bất tử.
Thế nhưng có một vấn đề đặt ra là: có thật là có cõi trời cao không và có thật là khi ở tầng trời cao người ta sẽ có được một cuộc sống như thế không. Hay đó chỉ là một ảo giác, hay đó chỉ là ảo tưởng nếu không nói là không tưởng.
Khi đặt vấn đề như thế tự nhiên tôi nhớ lại lời của một triết gia vô thần, Kart Marx. Ông ta nói rằng:
"Kitô giáo là trái tim của một thế giới không trái tim, là linh hồn của một thế giới không linh hồn”. Ông còn nói thêm: ".... và là thuốc phiện ru ngủ nhân dân".
Là thuốc phiện ru ngủ nhân dân, Kitô giáo ru ngủ người ta, làm cho người ta quên đi thực tại đau khổ này và thay vào đó chỉ toàn là dạy cho người ta luôn mơ tưởng về cõi Thiêng đàng xa xăm. Không thực tế.
Tôi không nghĩ thế. Trái lại, sự kiện Chúa lên Trời hôm nay nói với tôi rằng: Ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có môt cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác lớn hơn, cao hơn và tuyệt đối hơn.
Và như thế trời không phải là một cái gì đó xa xăm, ảo tưởng. Trái lại, trời là niềm hy vọng của con người. trời là nơi con người sẽ được giải thoát khỏi trói buộc và giam hãm. Nơi đó, người ta sẽe biết được thế nào là hạnh phúc vô biên, vĩnh viễn, bất diệt và bền lâu. Chính vỉ thế, Trời là cõi người ta phải đi tới, phải đi về.
Thưa anh chị em và các bạn! Khi hiểu được như thế thì tự nhiên tôi cảm thấy băn khoăn lại cuộc đời mà tôi và anh chị em đang có mặt.
Tôi tự hỏi ngày hôm nay người ta có còn tin vào cõi Trời cao ấy không. Người ta có còn hy vọng được sống ở chốn trời cao ấy không? Và người ta có còn biết khao khát kiếm tìm cõi ấy không? Tôi sợ rằng không! Vì một đàng Chúa Giêsu đã xác định: "Vương quốc của tôi không thuộc về thế giới này. (xYn 18,38). Đang khi đó thì Abel Camus, một nhà tư tưởng có tầm cỡ trên thế giới thì nói rằng: "Vương quốc của tôi là chính thế giới này". Câu nói đó phản ánh một quan niệm, một lối sống của phần đông nhân loại trong thế kỷ này và trong thời đại này. Quan niệm và lối sống đó là người ta chỉ tập trung lo hưởng thụ từ những thư mà người ta cố kiếm và cố tìm là tiền là của cải, là địa vị và là những trò vui nặng tính trần tục.
Chính vì chúng ta đang bị nhận chìm trong một quan niệm và một lối sống như thế nên hình ảnh của một cõi đi về trong tâm tưởng của chúng ta trở nên xa lạ và nhạt nhòa.
Như vậy thì vấn đề còn lại là: Nếu hình ảnh đó đã nhạt nhòa rồi thì ta phải tô điểm lại bằng chính lòng nhiệt thành của chúng ta. Nhiệt thành xây dựng một đất nước, một xã hội, một thế giới huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn...
Như vậy có nghĩa là gì, nếu không phải đó là mệnh lệnh và một đòi hỏi của Chúa Giêsu hôm nay:
"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho mọi loài thọ tạo." Amen. (Mc 16,15)
56. Làm chứng.
Trước khi xa rời các tông đồ, Đức Giêsu đã ủy thác cho họ việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Người còn hứa gửi Chúa Thánh Thần đến với họ, để giúp đỡ họ thực hiện được sứ vụ đó.
Ngày nay, công việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới tùy thuộc vào chúng ta. Đây là một đặc ân vĩ đại, nhưng cũng là một công việc dễ làm nản lòng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Cách thế tốt nhất để rao giảng Tin Mừng chính là bằng cách sống đời sống Kitô hữu. Một câu hỏi mà mỗi người chúng ta đều có thể tự hỏi là: Nếu trở thành người Kitô hữu là một tội ác, và tôi bị thử thách, thì liệu có thể tìm ra đủ chứng cứ trong cuộc sống của tôi, để làm cho tôi nhận thấy rõ sự sai lầm không?
Christopher là một Kitô hữu ngoan đạo. Anh không bao giờ bỏ lễ ngày Chúa nhật. Anh sống cùng với gia đình trong một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi, tại một khu vực hiện đại của thành phố. Với sức khỏe tốt, một công việc an toàn, có thu nhập cao, anh cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện.
Tuy nhiên, có một điều làm cho anh bận tâm, liên quan đến người hàng xóm bên cạnh nhà anh. Đó là một người tự nhận mình là vô thần, và không bao giờ đến nhà thờ. Với tư cách là Kitô hữu, Christopher cảm thấy rằng anh có trách nhiệm trong việc co gắng cải tạo người hàng xóm đó. Nhưng anh phải làm việc này như thế nào đây? Trong nhiều dịp nói chuyện với người đó, anh đã đưa đề tài tôn giáo ra một cách hết sức tích cực có thể được. Than ôi, anh chẳng đi đến đâu cả.
Thế rồi một ngày kia, anh nảy ra một sáng kiến. Nếu anh chỉ làm sao cho người hàng xóm đó đọc được Tin Mừng, thì chắc chắn là anh thành công rồi. Ai có thể không được Tin Mừng lay chuyển? Vấn đề duy nhất là làm thế nào để gửi cho anh ta bản sao của sách Tin Mừng. Anh có thể gõ cửa nhà anh ta, và đưa tận tay cuốn sách đó. Nhưng chắc hẳn điều đó sẽ gây khó chịu cho anh ta. Anh phải tìm một cách nào tế nhị hơn. Vậy anh nên làm gì đây? Anh gửi cho anh ta một cuốn bản sao của sách Tin Mừng, mà không để tên người gửi.
Sau khi làm công việc này, anh chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Nhiều ngày trôi qua, không có gì xảy ra cả. Không hề có một dấu hiệu nhỏ nhoi nào chứng tỏ rằng người hàng xóm đó đã đọc được ánh sáng Tin Mừng. Hai tuần sau, vợ của Christopher có dịp sang thăm nhà bên cạnh. Khi trở về, chị nói với chồng “Anh có biết gì về cuốn bản sao của sách Tin Mừng, mà anh đa gửi cho anh ta không?”
“Sao thế?”
“Cuốn sách đó nằm trong thùng rác rồi!”.
Christopher phẫn nộ. Quẳng sách Tin Mừng vào thùng rác là một việc không phải chút nào. Anh đi sang nhà bên cạnh, và khi đi ngang qua thùng rác, anh đã nhặt cuốn sách đó lên.
Anh nói với người hàng xóm “Tôi hy vọng rằng tôi không xâm phạm gì đến anh. Nhưng tôi nhìn thấy cuốn sách này trong thùng rác của anh. Anh biết không, nếu anh chỉ đọc cuốn sách này thôi, thì anh có thể tìm thấy Thiên Chúa”.
Người kia trả lời một cách đáng ngạc nhiên: “Nhưng tôi đã đọc cuốn sách đó rồi. Mỗi ngày tôi đều đọc đấy chứ”.
Christopher nói: “Tôi không hiểu gì cả”.
“Anh là một người tín hữu phải không?”
“Đúng vậy. Mà tại sao anh lại hỏi tôi như thế?”
“À, trong suốt 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh”.
Câu chuyện kết thúc ở đây.
Có một bài viết ngắn về điều này:
“Tôi là cuốn sách Kinh Thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.
Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.
Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.
Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh Thánh qua cuộc đời của tôi”.
57. Kêu gọi.
Lần kia, một nhà lãnh đạo tinh thần gọi sáu môn đệ của ông lại, và noi “Anh em hãy ra đi và kêu gọi các môn đệ”. Cả sáu người đó liền ra đi ngay tức khắc. Thời gian trôi qua, từng người một đều trở về.
Người thứ nhất trở về cùng với 500 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh xoay xở cách nào ma có được quá nhiều môn đệ vậy?”
Người môn đệ kia thưa “Con đã đi đến giữa những khu vực có nhiều người nghèo khổ hơn. Ở đó, con nhận thấy có những người đau khổ, nghèo nàn và nhiều thèm muốn. Con hứa với họ rằng chúng ta sẽ chăm sóc tất cả các nhu cầu của họ”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ hai trở về với 400 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”
Người đó trả lời “Con nói với họ về nước trời và phần thưởng lớn lao đang chờ đợi ở đó, dành cho những ai đi theo đường lối của chúng ta”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ ba trở về với 300 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”
Người đó trả lời “Con không hề thuyết phục gì cả. Con chỉ nói với họ rằng họ sẽ bị sa hỏa ngục, trừ phi họ đi theo đường lối của chúng ta. Nhưng điều này vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục được họ, cho đến khi con làm một phép lạ. Con nguyền rủa một con chó điên, và nó chết lăn ra. Phép lạ này đã chinh phục họ”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ tư trở về với 200 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”
Người đó trả lời “Con quyết định đi đến giữa những kẻ vô giáo dục và có cuộc sống giản dị. Con đã thuyết phục họ bằng những lý lẽ. Con làm cho họ bị mờ mắt bằng kiến thức của mình”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Người thứ năm trở về với 100 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”
Người đó trả lời “Con đến với giới trẻ. Con nói với họ về đường lối của chúng ta. Thế rồi con điều khiển họ một cách đơn giản, và kết quả là đây. Họ đang đứng chung quanh, chờ đợi người lãnh đạo. Nếu con không đến với họ, thì có một số vị cứu tinh khác sẽ đến chinh phục họ và khai thác họ”.
Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.
Cuối cùng, người thứ sáu trở về, chỉ với 12 môn đệ.
Nhà lãnh đạo hỏi “Điều gì đã giữ chân anh lại lâu như vậy?” Người đó đáp “Con không có khả năng gieo hạt giống ngay tức khắc được. Không thể nào gieo giống vào giữa mùa đông. Phải đợi cho đến khi tuyết tan và mat đất trở nên mềm mại. Vì thế, con cứ chờ đợi. Trong khi chờ đợi, con kết bạn với họ, con cố gắng đưa ra cho họ một ví dụ về đường lối của chúng ta, bằng lối sống mà con đã sống. “Trong khi đang chia sẻ cuộc sống của ho, con phát hiện ra rằng tự do rất quan trọng. Khi tước đoạt tự do khỏi họ, sẽ làm xói mòn nhân phẩm của họ, và làm giảm rất nhiều giá trị nơi quyết định của họ, trong việc họ đồng ý đi theo chúng ta. Con cũng học hỏi đươc một số điều khác về họ. Con được biết rằng họ là những người rất quảng đại và không ngại hy sinh. Con nói với họ về cái giá của việc trở thành người môn đệ, nhưng con nhấn mạnh vào điều tốt đẹp mà với tư cách la môn đệ, họ có thể làm cho người khác và cho Thiên Chúa. Dường như điều này gây ấn tượng nơi họ. Tuy nhiên, đến lúc phải quyết định, thì chỉ có 12 người đồng ý đến với con mà thôi”.
Nhà lãnh đạo đã khen người môn đệ cuối cùng.
Năm người đầu tiên khơi gợi sự yếu đuối và sợ hãi của con người. Thật dễ dàng trong việc khai thác nỗi sợ hãi của con người và lôi kéo họ. Nhưng điều này can thiệp vào sự tự do của họ, và vì thế, hủy hoại sự bằng lòng theo Chúa nơi họ. Người thứ sáu khơi gợi sức mạnh của họ. Anh kết bạn với họ, và cố gắng chinh phục họ bằng ví dụ.
Đó là điều mà đạo Công giáo thực hiện. Đây là một phương pháp chậm chạp hơn và khó khăn hơn, nhưng cuối cùng những người nào cải tạo sẽ được bén rễ sâu xa hơn. và sẽ được ủy thác nhiều hơn trong việc đi theo đường lối mới.
58. Tầm nhìn.
Người ta trình bày Đức Giêsu từ đỉnh núi Ô-Liu mà lên trời. Ngọn núi là một nơi chốn của tầm nhìn. Trên đỉnh núi, bằng cách này hay bằng cách khác, chúng ta cảm thấy gần gũi hơn với Thiên Chúa. Thật vậy, chúng ta cảm thấy mình đang ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Người ta kể một câu chuyện về người đàn ông đã sống trọn cuộc sống của mình trong khu rừng thưa. Khoảng rừng thưa đó chỉ rộng độ 100 mét Anh, và được bao bọc bằng nhiều cây cối. Thế giới của người đàn ông đó cực kỳ khép kín. Ông có rất ít khái niệm về không gian hoặc khoảng cách. Trong một thế giới như vậy, ngay cả những đối tượng tương đối nhỏ bé, vẫn có vẻ rộng lớn hơn cả cuộc sống, bởi vì sự gần gũi của con người đối với chúng.
Ngày kia, có một ngươi khai thác rừng đưa người đàn ông đó ra khỏi khu rừng, và dẫn ông ta đi lên đỉnh núi. Người đó có thể quan sát hết tất cả khoảng không gian rộng mở tồn tại bên ngoài khu rừng, sự mênh mông của bầu trời, và sự rộng lớn của đường chân trời. Ông ta kinh ngạc khi phát hiện ra có một thế giới tồn tại ở một nơi không hề có cây cối và có rất ít thực vật như vậy. Ông ta giống như một đứa trẻ lúc đang được phấn khích vậy. Ông quá đỗi vui mừng, đến nỗi chỉ mong muốn được ở lại đó mà thôi.
Nhưng tất nhiên là ông ta phải trở về với cái thế giới nhỏ bé, khép kín, chật hẹp của mình. Tuy nhiên, không bao giờ ông quên được cuộc thăm viếng của mình tại đỉnh núi. Điều này để lại cho ông một hiệu quả tuyệt vời, giúp cho ông có được một tầm nhìn rộng rãi hơn về cuộc sống, đặc biệt khi các sự việc trở nên quá nhiều đối với ông, và thế giới đang khép lại trên ông ta.
Khi đen lúc sắp rời khỏi thế gian này, thì Đức Giêsu dẫn các tông đồ lên đỉnh núi Ô-liu. Người đang trở lại với Cha của Người. Người đang đi đến vinh quang. Trong khi lên trời, Người ngước mắt lên, hướng về nơi mà Người đang đi tới.
Nhưng Người cũng hướng cặp mắt của Người ra bên ngoài. Người chỉ cho các tông đồ rằng có một thế giới vĩ đại đang chờ đợi được lắng nghe Tin Mừng. Người giao phó cho họ công việc đem Tin Mừng đến với thế giới rộng lớn đó, và hứa gửi Chúa Thánh Thần đến hỗ trợ cho họ trong công việc này.
Các tông đồ quá thích thú phong cảnh trên núi, đến nỗi họ chỉ muốn được ở lại đó. Nhưng có một giọng nói kêu gọi họ trở về với thực tại “Hỡi người Galilê, tại sao các ngươi còn đứng đây nhìn lên trời?”. Mặc dù phải trở lại với thế giới thật, thì cuộc sống của họ sẽ không bao giờ như cũ nữa.
Ngày lễ này nói nhiều về Đức Giêsu. Sự lên trời của Người chứng tỏ cho chúng ta thấy được mục đích của cuộc hành trình dương thế của chúng ta ở đâu. Đây là một mục đích mà một số phận, thậm chí lại còn thách đố cả óc tưởng tượng của chúng ta nữa. Điều này đem đến cho chúng ta một tầm nhìn mới mẻ và rộng rãi hơn, thúc đẩy những chân trời của chúng ta vượt ra ngoài các biên giới của thế giới này, mang lại một chiều kích vĩnh cửu cho cuộc sống của chúng ta.
Đức Giêsu trở lại với nguồn gốc, Alpha và Omêga. Đây là ý nghĩa Sự Lên Trời của Người. Đây không phải là một cuộc hành trình đi vào không gian, mà là một cuộc hành trình trở về nhà Cha. Sự lên trời của Người không nói lên việc Người rời khỏi mặt đất, nhưng lại chứng tỏ sự hiện diện liên lỉ của Người ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này. Trong suốt sứ vụ tại thế của Đức Giêsu, trong một thời điểm, Người chỉ có thể ở tại một nơi mà thôi. Nhưng bây giờ, do đã được kết hơp với Thiên Chúa, Người có thể hiện diện tại bất cứ nơi đâu có Thiên Chúa hiện diện, nghĩa là ở tất cả mọi nơi.
Chúng ta sống trong hy vọng rằng những lời nói của Đức Giêsu sẽ trở thành hiện thực đối với chúng ta: “Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ được ở đó”. Trong khi chờ đợi, chúng ta có một công việc phải thực hiện: rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Người trong thế giới này.
59. Chúa Thăng Thiên
Anh chị em thân mến.
Ngày 21 tháng 5 năm 2003,một sự kiện quan trọng, một ngày lễ hội cho tỉnh Vĩnh Long, cũng là niềm vui mừng cho người dân thuộc đồng bằng sông cửu long. Đó cũng là niềm vui cho cả nước VN vì một chiếc cầu hiện đại đã được lưu thông. Niềm mong đợi bấy lâu nay đã thành hiện thực. Nhờ chiếc cầu mà giờ đây mọi người không còn phải sốt ruột ngồi chờ từng chuyến phà lênh đênh trên giòng nước cách êm ả để đưa qua giòng sông Mỹ Thuận.
Nhưng từ hôm nay, mọi người, mọi phương tiện phải tự động vượt qua sông nhờ chiếc cầu. Lưu thông giờ đây đã được tốt đẹp nhờ chiếc cầu. Nếu người nào không biết chuẩn bị, thì việc dùng chiếc cầu để sang bờ bên kia không phải là một việc de dàng gì đâu. Có những chiếc xe phải nằm lại giữa chừng, vì không đủ sức vượt lên con dốc. Có những người đi bộ cũng thế. Ngoài ra chắc có lẽ cũng còn những phương tiện không được phép đặt chân lên cầu vì nó nằm ngoai những qui định cho phép. Còn những người đã đủ điều kiện, họ ung dung lên cầu với một niềm phấn khởi, họ tận hưởng sự thoải mái cùng với cái hạnh phúc mà họ không thể lặng thinh được.
Hôm nay chúng ta hợp với toàn thể Giáo Hội mừng việc Chúa lên trời. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đã từ trời xuống, giờ đây Ngài lại trở về. Không phải Ngài từ bỏ những con người mà Ngài yêu thương. Nhưng Ngài luôn ở gần họ như một chiếc cầu. Không phải chiếc cầu chỉ nối hai bờ của một giồng sông, nhưng chiếc cầu nối liền Trời và Đất. Ngài đã chuẩn bị tất cả thật hoàn hảo. Chiếc cầu mang tên Giêsu.
Chiếc cầu được xây nên không phải bằng bê tông cốt thép, nhưng được xây nên bởi chất liệu của Tình yêu, của thập giá. Ngài kêu gọi những người mà Ngài yêu thương, hãy đi khắp thế gian loan báo tin mừng, loan báo tin chiếc cầu đã được khai thông, để con người có the nhờ chiếc cầu nầy mà đến cùng Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã đi trên chiếc cầu, các Ngài đã tận hưởng được sự thoải mái, niềm hạnh phúc. Các Ngài không thể ngồi yên. Các Ngài đi thông báo, mời gọi mọi người cùng vươt qua chiếc cầu để đến cùng Thiên Chúa.
Trải qua hằng bao thế kỷ, biết bao người đã đến được với chiếc cầu, họ đã hưởng được hạnh phúc từ chiếc cầu mang đến cho họ. Nhưng cũng không biết bao nhiêu người, họ cũng từng nhìn thấy, đôi khi họ biết rất rỏ con đường đi đến chiếc cầu. Họ cũng biết rỏ chất liệu Tình Yêu của chiếc cầu. Nhưng đôi chân không bao giờ bước lên chiếc cầu. Có lẽ vì họ sợ con dốc cao sẽ làm cho đơi chân họ rã rời. Cũng có lúc họ sợ con đường dài, mà sức lực họ không có đủ. Cũng có những lúc họ lười biếng không muốn cố gắng nên họ không thể nào đặt được đôi chân của mình sang bờ bên kia được.
Còn chúng ta, chắc mỗi người cũng đã đến để chiêm ngưỡng công trình nối liền hai bờ của giòng sông Mỹ Thuận, chúng ta cũng hòa với niềm vui chung của mọi người nhờ chiếc cầu. Nhưng chiếc cầu quan trọng hơn trong đời sống chúng ta, chiếc cầu mang tên Giêsu, chiếc cầu nối liền con người của mình với Thiên Chúa. Mặc dù chúng ta đã biết, chúng đã nhìn thấy và đã nghe nói rất nhiều, nhưng giờ nầy đây, mỗi người chúng ta nhìn lại mình xem: Cũng có những lúc chúng ta cũng đang đi trên chiếc cầu với tất cả niềm phấn khởi và hạnh phúc. Nhưng cũng rất nhiều lần chúng ta sợ chiếc cầu làm hao mòn đi sức lực của mình, làm hao mòn đi những gì mình có được.
Đó là những lúc chúng ta ngại khó, không dám sống đúng theo những gì mình đã biết, đã được chỉ dạy, không dám sống theo lương tâm ngay chính của mình. Cũng có những lúc lười biếng sống buông thả theo những dục vọng riêng tư. Đó là những lúc chúng ta đắm chiềm dưới giòng sông mà không đi trên cầu để qua sông đến cùng Chúa. Như thế chiếc cầu mang tên Giêsu, chiếc cầu được xây dựng bằng chất liệu của tình yêu và thập giá, không đem lại một chút lợi ích nào cho chúng ta sao? Như vậy việc Chúa Giêsu về trời mà chúng ta mừng hôm nay đem đến cho chúng ta được điều gì?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết đi trên con đường mà Chúa đã đi, để chúng ta cũng được tận hưởng niềm vui trên trời mà hôm nay chúng ta mừng kính.
60. Hành trình.
Sách Tông đồ Công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
. Cũng như một lần kia, ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
. Còn thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe…”
. Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ “Thưa ma sơ, ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ?” Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ “Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa”.
. Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho ba em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. Ba em đó cũng đơn sơ hỏi Đức Mẹ “Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy?” Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói “Từ trời xuống”. Ba em liền xin “Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi”. Đức Mẹ mỉm cười đáp “Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây; còn Lucia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó hai em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết hai em cũng chẳng chút lo sợ, lai còn mừng vì mình sắp được lên trời.
Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào!
Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế:
. Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ “Hỡi những người xứ Galilê sao còn mải mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụrao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó…”
. Còn ba ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.
. Thánh nữ Bernadette, cũng như nữ tu Luxia sau khi được nhìn thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết trước; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.
Nghĩa là làm sao? Nghĩa là: Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.
Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc thiên đàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ: Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kị nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xóa đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như: chia sớt cho những người túng thieu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hòa giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những lời Chúa dạy.
“Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mải nhìn trời…” Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời “Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại”.
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mải mê chiêm ngắm hanh phúc tương lai ấy. “Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mải nhìn trời…” Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế: Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa.
61. Con đường.
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:
- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:
- Món quà quí giá của ngươi đâu?
Người này điềm tĩnh trả lời:
- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói:
- Ngươi sẽ nối nghiep ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin Mừng hôm nay: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”.
Chúa về trời là về với Chúa Cha – Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin Mừng.
- Tin Mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.
- Tin Mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.
- Tin Mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.
Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin Mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.
Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.
Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những ngươi Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con”.
Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.
Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó.
62. Suy niệm của Lm. Fx Nguyễn Hùng Oánh
CHÚA GIÊSU KYTÔ LÊN TRỜI MÀ VẪN Ở DƯỚI ĐẤT?
1- Quan niệm về "trời đất"
a- Theo vũ trụ quan của người Việt nam:
- Trời là một quãng không (impersonnel) ở trên đầu ta đối với đất ta đang đứng đây:
Trên trờì có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng.
Trời quang, mây tạnh, trời u ám, trời nắng, trời mưa.
- Trời là Ông Trời (personnel):
Trời sinh voi, trời sinh cỏ.
Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân. (Kiều, câu 3241)
...
"Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa". (Kiều, câu 3249)
b- Theo Thánh Kinh
Dưới mắt người Do thái, trời là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, là một kiến trúc vững chắc có các cột trụ chống giữ (Giop 26,11), có nền móng chắc chắn (2 Sm 22,8), có bể chứa nước, tuyết, băng giá, gió (Giop 38,22; Tv 33,7), có các cửa cống để tuôn các chất đó ra: tháo cống nước làm mưa, tháo cống gió làm gió (Stk 7,11; 2 V 7,2; Mal 3,10).
Trời ở trên, đất ở dưới. Trời là nhà của Thiên Chúa (Is 66,1) và đất là phần Thiên Chúa ban cho loài người (Tv 115, 16). Không ai lên trời được (Gioan 3,13; Cn 30,4; Rm 10,6). Kẻ mơ ước lên trời là người điên (xem Stk 11,4) vì tự xem mình đồng hàng vơi Thiên Chúa (Is 14,13).
2- Chỉ có Chúa Giêsu Kytô đã lên trời vì Ngài từ trời xuống:
"Thầy từ trời mà xuống, không phải làm theo ý Thầy, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Thầy" (Gioan 6,38). Thầy phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến"(nt 8,42).
Và khi Chúa Kytô đã thi hành Thánh Ý Chúa Cha trong mầu nhiệm Vượt qua (chết và sống lại), Ngài trở về với Chúa Cha bằng "con đường thăng thiên":
"Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Marcô 16,19).
" Đang khi chúc lành cho họ, thì Người rời khỏi họ và được đem lên trời" (Luca 24,51)
"Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa "(Công vụ 1,9)
"Thiên Chúa đã biểu dương nơi Đức Kytô, khi làm cho Đức Kytô sống lại từ cõi chết, và đặt ngư bên hữu Người trên trời" (Ephêso 1,20)
"Thiên Chúa ban cho ta một lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kytô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời" (I Phêrô 3,21-22).
Đức Tin dạy chúng ta biết Ngôi Hai Thiên Chúa xuống mặc lấy thân xác người phàm như chúng ta ngoại trư tội lỗi, gọi là Đức Chúa Giêsu Kytô. Vậy Chúa Giêsu Kytô là Thiên Chúa thật và là người thật. Là Thiên Chúa Ngôi Hai, Ngài ở khắp mọi nơi bằng bản tính và Ngôi Vị nên không thể nói Ngài "lên trời hoặc xuống trần gian ". Nhưng Ngài mặc lấy xác phàm của chúng ta, như vậy khi sống như con người thì phải hoạt động trong Thân xác có giới hạn trong phạm vi của nó trên bình diện tự nhiên. Khi sống lại, vào trong vinh quang (siêu nhiên), than xác Chúa biến đổi hợp với tính siêu nhiên, nhưng vẫn là thân xác loài người, có những hạn chế, giới hạn. Chúa Kytô lên trời tức là thân xác của Ngài lên trời nghĩa là được đưa lên trời, được vinh thăng trong Nươc Trơi, Ngài làm chủ, làm vua trời đất muôn loài, muôn vật. Và khi Ngài hiện ra, không có nghĩa là Ngài từ trời xuống, nhưng là Ngài ban ơn đặc biệt để các Tông đồ thấy con người của Ngài, nghe tiếng Ngài nói như cũ.
Hiểu như trẻ thơ thế nầy: Chúa sống lại, hiện ra cho các Tông đồ thấy rồi biến đi, trốn vào một nơi bí mật, rồi lại hiện ra. Cứ thế trong vòng bốn mươi ngày, sau đó Chúa mới lên trời. Thật ra, khi sống lại, thân xác Chúa đã ơ cõi siêu nhiên, cõi trời rồi và Ngài hiện ra tức là Ngài ban ơn cho người ta thấy,nghe Ngài nói. Đến ngày thứ bốn mươi, Chúa hiện ra lần chót bằng một "cử chỉ lên trời" đề cho các Tông đồ biết Ngài không còn hiện ra như thế nữa.
Nhưng sự kiện Chúa thăng thiên có một tầm rất quan trọng nên thánh Phaolô đã nói rất mạnh: "Người đã lên nghĩa là gì, nếu không phải Người đã xuống tận các vùng sâu thẩm dưới mặt đất. Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi từng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn"(Eph 4,9-10). Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người" (Col 2,14-15). Bản văn nhấn mạnh đến cuộc "đảo chính" (truất phế) vì một nhóm người xem Chúa Kytô ngang hàng với thiên thần nên phải "truất phế, bêu xấu, trói tay" điệu chúng đi trong đám rước chiến thắng của Chúa Kytô.
Về phần tín hữu của Chúa Kytô, vì Chúa lên trời mở đầu cho việc Chúa trở lại trong vinh quang giữa hàng thần thánh, ban ơn cứ độ viên mãn (xác sống lại trong vinh quang), đây là thời gian "trời đất giao hòa" vì Chúa lên trời mà còn ỡ trần gian. Ngay từ bây giờ, dầu chúng ta còn sống trên cõi trần, "Chúa Kytô đã cho chúng ta được cùng sống lại với Người và cùng ngự trị với Người trên cõi trời"(Eph 2, 6), "cũng như chúng ta dã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì nay chúng ta đang mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến (1 Cor 1,49). Tín hữu giống như người thiên quốc, "không thuộc thế gian nhưng không được cất khỏi thế gian" (Ga 17,15-16) và phải hoàn thành sứ mệnh Chúa trao phó trước khi Chúa lên trời nên rất cần sự hiện diện của Chúa tức là Chúâ ở lại cùng Hội Thánh cho đến tận thế. Công đồng Vatcan II đã dạy như thế nầy: Chúa Kytô hiện diện trong Hội Thánh, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện thực sự trong Hy lễ, không những trong con người của thừa tác viên, vì " như xưa chính Người đã tự dâng mình trên thập giá thì nay chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các linh mục", nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình thái Thánh Thể. Người hiện diện thiết thực trong các Bí tích nhờ quyền năng của Người; vì thế, ai rửa tội thì chính là Chúa Kytô rửa. Người hiện diện thiết thực trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh. Sau hết, Người hiện diện khi Hội Thánh cầu nguyện và hát Thánh vịnh, như chính Người đã hứa: "Ở đâu có hai, ba người nhân danh Thầy mà họp lại, Thầy sẽ ở giữa họ" (Mt 18,20) (Hiến chế Phụng vụ, số 7).
63. Suy niệm của JKN.
Những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước khi Người lên trời
Câu hỏi gợi ý:
1. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trăn trối lại những gì cho chúng ta, là những môn đệ của Ngài? Chúng ta có quan tâm thực hiện những điều ấy không? thực hiện thế nào?
2. Những dấu lạ - mà Đức Giêsu hứa sẽ đi theo những kẻ có lòng tin - có ứng nghiệm với chúng ta không? Nếu không thì tại vì Ngài hứa “cuội» hay vì chúng ta chưa có đức tin đích thực? Đức tin đích thực là gì? Ta đã có chưa?
3. Là người đang rao giảng Tin Mừng, ta đã có đức tin thật sự chưa, hay mới chỉ là thứ đức tin được tuyên xưng chứ chưa được sống? Có những “dấu lạ» đi kèm theo lời ta rao giảng để những ai nghe ta dễ tin tưởng không?
Suy tư gợi ý:
1. Lời trăn trối cuối cùng
Trước khi từ giã các môn đệ để về trời và để hiện hữu một cách khác bên cạnh các ông, Đức Giêsu đã trăn trối nhiều điều. Những lời trăn trối quan trọng nhất là những lời Ngài nói ra trong bữa tiệc ly trước khi ra đi chịu tử nạn và ngay trước khi về trời. - Những trăn trối trong bữa tiệc ly nói lên tinh thần mà môn đệ của Ngài phải có: chủ yếu là yêu thương nhau (Ga 13), tin và hợp tác với Thánh Thần (Ga 14; 16), liên kết chặt chẽ với Ngài (Ga 15), hiệp nhất với nhau (Ga 17), mong đợi Ngài trở lại (Ga 16).
- Còn lời trăn trối ngay trước khi Ngài về trời nói lên việc mà các môn đệ Ngài phải làm là “đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo» để tiếp tục sự nghiệp mà Ngài đã khởi sự. Đó cũng chính là công việc phúc âm hóa và tái phúc âm hóa, để mọi người không chỉ biết Tin Mừng mà còn thật sự sống tinh thần Tin Mừng nữa.
Về lời trăn trối sau, rất nhiều Kitô hữu chỉ hiểu một cách nông cạn, là chỉ nghĩ tới việc rao giảng cho người ta biết Thiên Chúa, biết Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu, và dừng lại tại đấy! Nhưng thử hỏi nếu chỉ biết thôi thì ích lợi gì? Chẳng hạn biết rõ sự cần thiết và ích lợi của thức ăn, hay biết rõ mình cần phải ăn gì để mạnh khỏe mà lại không chịu ăn, thì sự biết rõ ấy có ích lợi gì? Nếu biết mà không sống điều mình biết, không đem nó ra áp dụng thì chẳng những vô ích mà còn phải chịu trách nhiệm về cái biết ấy nữa. Vì kẻ nhận 1 nén bạc thì chỉ phải làm lợi thành 1 nén khác thôi, nhưng kẻ nhận 5 nén thì có trách nhiệm làm lợi thành những 5 nén khác kia! (x. Mt 25,14-30; Lc 19,12-27).
Vì vậy, biết Tin Mừng mà không chịu sống Tin Mừng là tự làm cho mình bị kết án nặng hơn. Cũng vậy, rao giảng cho người ta biết Tin Mừng mà không giúp người ta sống Tin Mừng thì chỉ làm cho người ta bị kết án nặng hơn chứ chẳng đem lại lợi ích gì cho họ. “Đức tin chết» hay “đức tin không có việc làm» (Gc 2,17.26) đâu thể đem lại ơn cứu độ? Cũng như có đo mà không đem ra dùng thì đồ ấy có ích lợi gì? hoặc cho người ta đồ mà không chỉ cho người ta cách sử dụng thì coi chừng kẻo làm hại người ta? Việc rao giảng Tin Mừng cần phải đi xa hơn một chút là giúp người ta sống Tin Mưng, như thế sẽ làm lợi cho họ vô cùng. Như vậy, điều quan trọng là chính chúng ta phải sống tinh thần Tin Mừng và làm cho mọi người cũng sống tinh thần Tin Mừng. Biết và sống Tin Mừng, hoặc làm cho người ta biết và sống Tin Mừng, hai thứ ấy phải đi đôi với nhau mới không có hại mà sinh ích lợi vô cùng cho mình và cho người. Nên đã biết Tin Mừng hoặc giúp ai về mặt Tin Mừng thì hãy biết hoặc giúp “tới nơi tới chốn», với tinh thần trách nhiem. Đừng “đánh trống bỏ dùi», “đem con bỏ chợ», tức giúp nửa vời, rất tai hại!
2. Những dấu lạ đi theo những ai có lòng tin
Theo lời của Đức Giêsu thì những kẻ có lòng tin đích thực - tức tin và sống điều mình tin - sẽ có được những dấu lạ theo mình: “Họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ đươc mạnh khoẻ». Đó là những điều mà tôi nghĩ rằng thời nào cũng đều ứng nghiệm, không chỉ là thời các tông đồ. Và những điều này trước tiên được ứng nghiệm ngay nơi bản thân những người tin rồi sau đó mới ứng nghiệm ra bên ngoài, tức với người khác hay với ngoại cảnh. Tuy nhiên, lời Ngài nói cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không nên hiểu theo nghĩa đen: tôi không tin rằng bất kỳ người mạnh tin nào cũng đều có thể uống thuốc độc mà không chết, hay bị rắn cắn mà không sao! Vì thế, những dấu lạ nói trên cần được hiểu như sau:
- “trừ được quỉ»: quỉ tượng trưng cho thế lực của sự ác. Người thật sự tin vào Thiên Chúa - là nguồn sức mạnh của mình - co thể thắng được những thế lực của sự ác hay của tội lỗi ngay trong bản thân mình. Cụ thể là thắng được những cám dỗ, những tư tưởng xấu, những khuynh hướng xấu, v.v… Nếu đức tin của họ mạnh hơn nữa, họ có thể giúp nhưng người yếu tin cũng thắng được thế lực ác giống như họ.
- “nói được những tiếng mới lạ»: người có đức tin đích thực và sống nhuần nhuyễn đức tin ấy sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa và Đức Giêsu, tức chứng ngộ được chân lý nơi bản thân mình. Nhờ đó họ có thể tự diễn đạt đức tin của mình theo đủ mọi phương thức khác nhau, chứ không dùng những kiểu nói sáo mòn, trống rỗng, thiếu chất sống. Họ luôn luôn dùng những cach diễn tả mới lạ, phù hợp với thời đại, với trình độ của người nghe, giúp người nghe cũng cảm nghiệm được thực tế đức tin như họ. Họ như một y sĩ đã nắm thật vững cốt yếu của y lý nên biết tùy bệnh mà tự mình cho thuốc thật hữu hiệu, phù hợp với từng căn bệnh. Họ không sao y những bài thuốc có sẵn của người khác để áp dụng chữa bệnh một cách máy móc giống như những y sĩ chưa nắm vững y lý. Hay như một thầy giáo đã tiêu hóa that kỹ môn mình dạy nên chỉ cần nói tất cả những gì đang có sẵn trong bụng không phải lệ thuộc một bài bản nào cả. Họ có thể nói một cách sáng tạo theo đủ kiểu đủ cách mới lạ để học sinh dễ hiểu mà vẫn luôn luôn chính xác, chứ không nô lệ vào những giáo trình mẫu do người khác soạn sẵn.
- “cầm được rắn trong tay»: người có đức tin đích thực ắt nhiên có tâm hồn an bình và đầy tràn tình yêu. Họ coi mọi người - dù xấu ác hay ghét họ, muốn làm hại họ - như anh em ruột thịt và sẵn sàng hy sinh cho những người ấy. Vì thế, họ có thể tiếp cận và sống chung cả với những người xấu ác mà không hề bị hại, vì những người nguy hiểm này vẫn luôn cảm nghiệm đươc tình thương của họ dành cho mình: không ai lại muốn hại người đang yêu thương mình.
- “dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao»: tất cả những nghịch cảnh, những đau khổ trong cuộc đời không thể làm mất được sự bình an và hạnh phúc của những người có đức tin thật sự. Với đức tin, họ biết rằng tất cả những đau khổ hay nghịch cảnh Chúa gửi tới đều là những hồng ân do tình thương của Ngài. Họ tin rằng: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người» (Rm 8,28) và “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (8,18). Vì thế, họ rất vui khi đau khổ hay nghịch cảnh xảy tới, nên đau khổ hay nghịch cảnh cỡ nào cũng không hề làm hại được họ.
- “nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ»: Ngoài ra người có đức tin đích thực còn có sức cảm hóa và giúp những người xấu ác - là người bị bệnh về tâm linh - trở về đường ngay nẻo chính. Họ có khả năng nâng đỡ và thêm sức mạnh cho những người yếu đuối tinh thần. Ai gần họ cũng cảm thấy mình bình an hạnh phúc hơn, tin vững mạnh vào Thiên Chúa, vào chính bản thân và tương lai mình hơn.
3. “Có Chúa cùng hoạt động» với người rao giảng Tin Mừng
Bài Tin Mừng kết thúc bằng một câu thật tuyệt vời, làm an lòng tất cả những ai đang rao truyền Tin Mừng: “Các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng». Điều quan trọng nhất để việc loan báo Tin Mừng trở nên hữu hiệu - nghĩa là không chỉ giúp người ta biết Tin Mừng, mà còn làm cho họ sống Tin Mừng nữa - đó là “có Chúa cùng hoạt động với họ». Nhưng làm sao để có Chúa ở cùng? - Họ chỉ có Chúa ở cùng khi họ thường xuyên ý thức sự hiện diện của Ngài, và luôn gắn bó với Ngài bằng tình yêu chân thành có khả năng thúc đẩy họ hy sinh, dấn thân thật sự. Nhờ đó, họ có “những dấu lạ kèm theo» xác nhận những gì họ rao giảng là chân lý. Dấu lạ quan trọng và căn bản nhất - có khả năng thuyết phục những người nghe họ - chính là họ đã thật sự sống được những điều họ rao giảng. Nhờ sống điều mình nói mà lời họ nói trở nên sống động, mạnh mẽ, đầy sức hấp dẫn, khiến người nghe luôn “tâm phục khẩu phục», đồng thời cảm nghiệm được sự hiện diện cụ thể của Thiên Chúa ở nơi họ. Ước gì mọi người loan báo Tin Mừng đều luôn “có Chúa cùng hoạt động» như vậy!
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách thực tế và sống động. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình hết sức mạnh mẽ trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu! Thế mà con lại rao giảng thật hùng hon về đức tin ấy khiến người nghe con cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ, những lời giả dối, không thể tin nổi. Xin Cha giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống.
64. Suy niệm của Gier. Nguyễn Văn Nội.
NGƯỜI VỀ TRỜI ĐỂ CÁC MÔN ĐỆ RA ĐI MỞ RỘNG NƯỚC TRỜI
Sự hiện diện “nhìn thấy được” (visibilis) của Đức Giêsu Nadarét, Con Một Thiên Chúa ở trần gian kết thúc với biến cố Chúa Giêsu Thăng Thiên tức khi Người “được rước lên trời”. Biến cố ấy là một cột mốc quan trọng và có một ý nghĩa đặc biệt trong đời sống của Đức Giêsu cũng như của chúng ta là những người tin theo Người. Ý nghĩa của biến cố ấy chính là sứ điệp của Lời Chúa dành cho chúng ta hôm nay.
ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA: “Chúa Giêsu về Trời để các môn đệ ra đi mở rộng Nước Trời”
1. Đức Giêsu về Trời:
Người đời thường nói một cách rất chính xác: người có công thì đáng được thưởng, còn kẻ có tội thì đáng phải phạt. Nếu chúng ta nói về Đức Giêsu thì chắc chắn chúng ta phải nhìn nhận rằng: Đức Giêsu rất có công hay có công rất lớn. Người có công lớn, rất lớn, với Thiên Chua Cha, vì Người đã vâng phục Thiên Chúa Cha trong mọi sự, đã chu toàn Thánh Ý của Cha một cách hoàn hảo. Để vâng phục Chúa Cha như một người con thảo số một Đức Giêsu đã chấp nhận cuộc sống trần gian với bao hy sinh kho nhọc và nhất là với hiến tế toàn thiêu trên thập giá. Đức Giêsu còn có công lớn, rất lớn với loài người là anh em của Chúa, vì Người đã lấy cuộc sống và nhất là cái chết để chứng tỏ nhân loại được Người yêu thương, quí trọng như thế nào. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu”. Lời tuyên bố ấy chẳng những đúng với mối tương quan của Đức Giêsu với chúng ta mà còn đúng với mối tương của Người với Chúa Cha. Vì thế việc Người được Cha dùng sức mạnh thần linh đàm cho Người trỗi dậy từ cõi chết (tức Phục Sinh Người) và đặt Người ngồi bên hữu Thiên Chúa (tức đem Người về Trời), ban cho nhiều danh hiệu cao quí nhất, tôn Người làm Vua vũ trụ là sự kiện hết sức lô gích và dễ hiểu.
Nhưng chúng ta cần biết thêm điều này: Đức Giêsu đã lập công bằng giá máu và giá cuộc sống của Người không phải để cho bản thân Người, mà là để cho chúng ta. Chính đó là nguồn ơn cứu độ mà chúng ta tin rằng Thiên Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta, dù chúng ta tội lỗi, yếu đuối, bất trung và phản bội Chúa từng ngày. Nói cách khác, chúng ta được cứu chuộc khong phải vì việc lành phúc đức của mình mà nhờ công nghiệp vô cùng của chính Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người vì và cho chúng ta. Nên mừng Lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên, chúng ta có thêm niềm hy vọng và những tâm tình cach xứng hợp là cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng và biết ơn Người!
2. Các môn đệ ra đi mở rộng Nước Trời.
Lời trăn trối của người sắp ra đi bao giờ cũng có một sức mạnh đặc biệt, nhất là đối với các nền văn hóa Trung Hoa và Việt Nam. Vì người Việt chúng ta hết sức trân trọng những lời dặn dò, trăn trối của cha mẹ trước giờ lâm chung, nên bổn phận quan trọng nhất của kẻ làm con là có mặt bên giường bệnh của cha mẹ mình. Chúng ta đi từ kinh nghiệm nhân sinh ấy của con người để có đánh giá cân xứng đối với những lời căn dặn hay mệnh lệnh của Đức Giêsu Phục Sinh trước khi Người biến khỏi trần gian này để về với Chúa Cha: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15) hay “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thành Thần, dậy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đa truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20). Đó là những lời quí hơn vàng hiếm hơn ngọc mà các môn đệ Đức Giêsu Kitô phải ghi lòng tạc dạ, suy niệm mỗi ngày và đem ra thực hành.
Kể từ những ngày tiếp theo sau biến cố Thăng Thiên cho đến ngày hôm nay, trải qua suốt hai muơi thế kỷ, các môn đệ của Đức Giêsu trong các Giáo hội Công giáo, Tin Lành, Chính Thống… đã làm hết sức mình để thi hành lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi Người được cất về Trời. Nhờ đó mà Lời Chúa được rao giảng, Giáo lý Chúa được giảng dạy, chân dung Chúa được giới thiệu cho các dân tộc, Nước Chúa được mở mang khắp chốn khắp nơi. Công việc ấy còn phải được tiếp tục cho đến tận cùng thơi gian. Và chúng ta là những người có trách nhiệm hic et nunc: tức là ở đây và bây giờ tức trên địa bàn chúng ta đang sống và trong giai đoạn hiện nay.
Là các môn đệ của Đức Giêsu ngày hôm nay, chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng cho người Việt Nam của thế kỷ 21 sống trong một xã hội đang phát triển ở vào giai đoạn thay đổi sâu rộng. Vậy chúng ta phải làm gì để thực thi lệnh truyền của Chúa Giêsu là ra đi mở rộng Nước Trời ngày hom nay và trên quê hương đất nước này? Thiết tưởng chúng ta có thể xác định một số việc ở cấp cá nhân và một việc ở cấp cộng đoàn. Ở cấp cá nhân, chắc chắn không thể bỏ qua việc mỗi người nỗ lực sống tốt hơn đời sống Kitô hữu của mình. Đặc biệt nên quan tâm hơn nữa đến sứ mạng truyền giáo của Kitô hữu. Có thể phỏng theo cách truyền giáo đem lại nhiều kết quả tốt đẹp của Giáo hội Hàn Quốc. Đó là phương pháp “người người kết thân, nhà nhà kết thân” tức mỗi người và mỗi gia đình công giáo kết thân với một người hay một gia đình không công giáo, quan tâm đến họ, chia sẻ với họ trong chừng mực có thể, để giúp những người ở không công giáo có dịp hiểu người và Đạo Công giáo hơn. Còn ở cấp cộng đoàn, có lẽ chúng ta nên ưu tiên cho việc học hỏi về sứ mạng truyền giáo và trao đổi kinh nghiệm về truyền giáo. Có lẽ cũng nên quan tâm đến việc huấn luyện tông đo giáo dân, nhất là trong khuôn khổ hội đồng mục vụ giáo xứ và các hội đoàn tông đồ. Những tài liệu quan trọng như Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng, Sắc lệnh Truyền Giáo, Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân của Công đồng Vatican II cũng như những Thông điệp, Tông huấn Sứ vụ Đấng Cứu Thế, Công cuộc Loan Báo Tin Mừng, Việc Giảng Dạy Giáo lý, Giáo hội tại Châu Á …… của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II cần được giảng dạy, học hỏi, thảo luận và áp dụng ở cấp giáo phận cũng như giáo xứ. Ngoài ra, kinh nghiệm của các Giáo hội Á châu cho thấy việc thành lập các ‘Cộng đoàn Giáo hội cơ bản’ trong các giáo xứ là một cách truyền giáo rất thích hợp và hiệu quả trong những thập niên từ sau Công đồng Vatican II cho đến nay. Có như thế chúng ta mới bớt xấu hổ mỗi khi nghe lại lệnh truyền của Thầy Giêsu, lệnh truyền mà chỉ trong một năm Phụng vụ chúng ta nghe lại không dưới ba bốn lần.
CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha quyền năng và yêu thương, chúng con cảm tạ ngợi khen chúc tụng Cha, vì Cha đã phục sinh Đức Giêsu, Con Cha và đưa Người về Trời, tưởng thưởng công lao xứng đáng cho Người! Chúng con cũng cảm tạ ngơi khen chúc tụng Cha vì chúng con được hưởng nhờ công lao và được chia sẻ sứ mạng mở rộng Nước Trời của Người.
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Đấng Phục Sinh và Thăng Thiên, chúng con chúc mừng Chúa đã được Chúa Cha thưởng công xứng đ¨¢ng với vinh quang trên trời, vì công lao to lớn mà Chúa đã thực hiện. Chúng con cảm tạ Chúa đã chỉ thị cho chúng con ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Thật ra chúng con cảm thấy vô cùng xấu hổ mỗi khi nghe lại lời dặn dò ấy của Chúa. Chúng con không dám và không biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân. Chúng con không chịu trau dồi tinh thần, kiến thức và kỹ năng truyền giáo. Quả chúng con không xứng với sự tin tưởng của Chúa! Xin Chúa giúp chúng con đổi mới tư duy và hành động để chúng con có thể thực thi lệnh truyền của Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng canh tân các tâm hồn và thế giới, xin Chúa hãy biến đổi, huấn luyện và đồng hành với chúng con để chúng con mạnh dạn bước vào cánh đồng truyền giáo là xã hội Việt Nam hôm nay và tích cực làm việc trong đó cho Nước Trời được mùa gặt bội thu. Amen.
65. Ái mộ những sự trên trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói:Ta phải chọn một người kế tục.Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.
Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.
Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?
Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyen: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trơi là núi Cây Dầu.
Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.
Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chua Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới,trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chat đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.
Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất ca những ai tin vào Người.
Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đo biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trơ về quê trời.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.
Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.
Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.
Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu,
Chua về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao.
“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chua là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen.
66. Khát vọng lên trời – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.
Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tai diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.
Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.
Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chưng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.
Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và "được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa" (Mc 16,19).
Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.
Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cưu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: "Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh".
Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính...đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.
Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn mon đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: "Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muon dân, ngự trên tòa uy linh cao cả" (Tv 47, 2-3, 6-9).
Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: "Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống" (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loai về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tang. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hanh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói " Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho " Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được"(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
Bài Tin mừng hôm nay kết thúc Phúc âm Maccô nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo". Nội dung cua việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: "Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em". Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: "Có Chúa cùng hoat động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng". Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta "và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28,19). Vì thế, Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.
Trong Sứ điệp truyền thông 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khuyến khích những ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và mạng xã hội: "Có thể giúp con người ngày nay tìm được thời giờ suy tư và tìm hiểu những vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng trống cho thinh lặng và cơ hội cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa". Giáo Hội tìm cách hội nhập sứ điệp Tin Mừng vào trong "nền văn hoá mới này" do những những phương tiện truyền thông xã hội tạo nên với những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và với những cách cư xử mới.
Đứng trước một lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ nhân lực và phương tiện để đưa Tin Mừng đến từng nhà? Đây là câu trả lời đích xác: "Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á". (x. Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 48).
Cho dù phương tiện truyền thông hiện đại tới mấy, nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng. Sức mạnh của truyền thông cũng phải phát xuất từ đức tin, chứ không từ những kỹ thuật. Đức tin mạnh mẽ là nhờ chiêm niệm: "Trong thinh lặng, tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta hiểu rõ hơn điều mình muốn nói và muốn người khác đón nhận. Trong thinh lặng, chúng ta tìm cách diễn tả chính mình tốt hơn". (Sứ điệp Truyền Thông 2012).Giữa những ồn ào của truyền thông hôm nay, lời rao giảng Tin Mừng qua phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet muốn đạt mục đích và kết quả như mong muốn cần có tĩnh lặng: "Trong thinh lặng của chiêm niệm, Lời hằng hữu hiện diện cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra ke hoạch cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử bằng lời nói cũng như hành động" (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Mỗi người Kitô hữu, nhờ thinh lặng, lắng nghe được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp với Chúa, chung ta mới có thể truyền thông Lời Chúa cho người khác. Chỉ có những người tin thực sự và mãnh liệt mới có thể làm cho Tin Mừng đến với mọi người.
Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Moi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin mừng cứu độ và loan báo tin vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.
67. Thiên đường và địa ngục
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Con người từ cổ chí kim đều tin rằng có thiên đường và có hỏa ngục. Thiên đường là niềm khao khát của con người qua mọi thời đại. Không ai muốn sống trong hỏa ngục. Trái lại, ai cũng mong được sống trong thiên đường. Một cuộc sống thiên đường có bình yên, có hạnh phúc. Một cuộc sống thiên đường sẽ không còn nhưng bon chen tranh giành, hận thù, chia rẽ mà chỉ có hòa thuận, chia sẻ, yêu thương.
Điều lạ là ai cũng thích thiên đường nhưng lại không ra sức xây dựng thiên đường. Cuộc sống luôn là chiến trường, là tranh giành, là đọa đay khổ đau. Con người luôn phải đối mặt với biết bao bể dâu cuộc đời. Chính con người đã tạo ra hỏa ngục trong khi họ lại mơ ước thiên đường.
Cuộc sống xem ra nhiều khổ đau của hỏa ngục hơn là hạnh phúc của thiên đường. Con người dễ đầy đọa nhau hơn là nâng đỡ nhau. Nhu cầu hưởng thụ càng nhiều khiến con người loại trừ và làm khổ nhau nhiều hơn.
Người ta thường kể cho nhau về sự khác biệt giữa thiên đường và hỏa ngục qua câu chuyện sau:
Một người sùng đạo nói chuyện với Chúa “ Thưa Chúa, con rất muốn biết Thiên đường và Địa ngục là như thế nào?”. Chúa dẫn anh ta vào hai cái cửa…
Chúa mở cái cửa đầu tiên, người đàn ông nhìn vào.
Ở giữa phòng có một cái bàn tròn lớn. Ở giữa bàn có một nồi nước hầm bốc khói nghi ngút trông thật ngon và hấp dẫn.
Nhưng mọi người ngồi xung quanh bàn thì lại gầy guộc, xanh xao, cứ như là bị bỏ đói từ lâu vậy.
Mỗi người ai cũng đang cầm chiếc thìa có cán dài được buộc vào cánh tay. Họ có thể với chiếc thìa dài tới nồi nước hầm để múc, nhưng vì nó dài quá, và bị buộc vào tay, nên họ không thể cho vào miệng mình được.
Người đàn ông rùng mình trước cảnh tượng khổ sở như vậy. Chúa nói: “Đấy, con vừa nhìn thấy Địa ngục”.
Tiếp tục họ bước sang phòng thứ hai và mở cửa. Mọi thứ xung quanh đều giống phòng đầu tiên. Nhưng mọi người ở đây trông thật to khỏe, no nê, mãn nguyện, cười nói rôm rả.
Chúa nói “Đây chính là Thiên Đường”
Người đàn ông thắc mắc: “Con không hiểu, thưa Chúa”.
“Đơn giản thôi” – Chúa đáp – “Ở nơi này, mọi người biết cách đút cho nhau ăn”.
Thiên đường hỏa ngục khác nhau ở cho có tình yêu hay thiếu vắng tình yêu. Ở nơi đâu có tình yêu ngự trị sẽ mang lại thiên đường tại thế. Ở nơi đâu thiếu vắng tình yêu sẽ là hỏa ngục nơi đầy đọa nhau mà thôi.
Hôm nay Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đay đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.
Nhưng để về trời thì con người phải biết dựng xây thiên đường hạ giới bằng một đời sống thực thi Lời Chúa. Lời Chúa chỉ tóm gọn trong hai điều là mến Chúa yêu người. Yêu là cách chúng ta phá bỏ hỏa ngục để xây dựng thiên đường tại thế. Yêu là cách chúng ta đang gửi những viên gạch lên trời để xây dựng ngôi nhà vĩnh viễn trên thiên đường.
Ước mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen.
68. Lễ Thăng Thiên
Chúng ta thường nói với nhau: "tiệc nào mà tiệc chẳng tàn, cuộc vui nào rồi cũng tới hồi kết thúc". Nói như thế có lẽ người ta nghĩ nhiều hơn về khía cạnh thể lý: Tiệc tàn, cuộc vui bế mạc để rồi đường ai nấy đi. Nếu một cuộc gặp gỡ nào đó khi kết thúc, mà người này khoát tay người kia, rồi nói câu "tạm biệt" là xong het mọi sự thì cuộc gặp gỡ đó xem như mất hết ý nghĩa của nó.
Thực tế có nhiều cuộc gặp gỡ dù trong khoảnh khắc, cũng đã để lại trong lòng chúng ta những kỷ niệm, những dấu ấn không bao giờ phai nhạt. Đó là sự gặp gỡ giữa những tâm hồn, là yến tiệc của những con tim đang cùng một nhịp đập. Cho nên khi chia tay nhau họ không nói câu "tạm biệt", mà họ nói câu "hẹn gặp lại". Và đương khi chờ ngày gặp lại, lòng họ hướng về nhau, tâm trí họ suy nghĩ về nhau. Họ nhớ từng câu nói, cử chỉ của nhau, và họ cố gắng thi thố những điều họ đã ước hẹn với nhau. Như vậy, có vẻ như người ta đi xa nhau nhưng kỳ thực họ đang ở rất gần nhau.
Chúa lên trời là đi xa các môn đệ về mặt thể lý. Ngài không còn hiện diện bằng xương thịt, Ngài không còn đưa ngực cho Thánh Gioan tựa đầu vào nữa. Nhưng Ngài đang hiện diện trong tinh thần của các môn đệ, Ngài có mặt trong từng suy nghĩ, trong mỗi việc làm của các ông. Trước đây khi cùng ăn uống với Thầy, cùng bước với Thầy trên khắp các nẻo đường Palestin, mỗi lời Thầy nói, mỗi việc Thầy làm dường như các ông không hiểu bao nhiêu, không nhớ cho mấy.
Bây giờ các ông chẳng những nhớ tất cả mọi diều Thầy dạy, mà còn khắ ghi một cách sâu đậm mọi kỷ niệm về Thầy. Rõ ràng là Chúa đi xa nhưng là ở lại, ở lại nhiều hơn và sâu sắc hơn trong lòng các môn đệ.
Chúa về trời mà vẫn hứa ở với loài người chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Và do đó Chúa chỉ thay đổi cách hiện diện với chúng ta mà thôi. Mà cách hiện diện mới này sâu sắc hơn, có lợi cho chúng ta hơn. Giờ đây đến lượt mỗi người chúng ta cũng được Chúa ở lại trong cuộc đời của mình theo thể thức này, đó là: chúng ta phải để cho tinh thần của Chúa cấm rễ sâu nơi tâm hồn của chúng ta.
Chúng ta phải để cho việc làm của Chúa, cách ứng xử của Chúa chế ngự cả con người của chúng ta. Điêù quan trọng là tôi có muốn ở lại với Chúa hay không mà thôi. Tinh thần của Chúa, việc làm của Chúa, giờ đây chúng ta tìm thấy ở Lời Chúa, ở nơi Giáo Hội qua các bí tích. Và do đo muốn ở lại với Chúa mọi ngày cho đến tận thế, chúng ta phải tuân giữ Lời Chúa, yêu mến Giáo hội và siêng năng lãnh nhận các bí tích.
Lạy Chúa, Con biết Chúa luôn hiện diện trên mọi nẽo đường đời của con. Xin cho con luôn biết ở lại với Chúa. Xin cho con mau mắn nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi hoàn cảnh, qua mọi công việc hằng ngày của con. Và xin cho con mỗi ngày biết can đảm hơn để thực thi ý Chúa trong đời con. Amen.
69. Trở nên hoàn thiện là năng thay đổi.
(Suy niệm của Lm. Vincent Travers)
Chúa Giêsu Thăng Thiên là một biến cố mà các Tông Đồ không bao giờ quên được. Họ sẽ không bao giờ gặp lại Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt. Đó là lúc giả biệt. Lời nói giả biệt cuối cùng bao giờ cũng đau đớn nhất. Cứ theo bản tính con người mà nói, có lẽ họ đã trở về lại kinh thành Giêrusalem với một tâm trạng sầu muộn. Nhưng thay vì trở lại kinh thành, than khóc buồn bã như Thánh Luca đã viết, thật ra họ rất vui mầng. Một điều đầy ý nghĩa đã xảy ra nơi đỉnh đồi nhìn xuống kinh thành tráng lệ đã biến đổi họ từ một trạng thái sa sút tinh thần đến một tình trạng mầng vui.
Cuộc sống đáng sống
Một thiếu nữ sau khi sinh bé gái đầu lòng đã cho biết chị rất ngạc nhiên đến sững sờ khi nhận thấy chị có thể yêu thương con chị một cách đậm đà đến thế. Chị ở bên cạnh con, lòng tràn đầy niềm vui. Sự sinh đẻ đã biến đổi con người của chị. Kinh nghiệm thật đáng giá, đầy ý nghĩa. Giống như khi chúng ta ngắm nhìn vũ trụ bao la với muôn vàn vì sao lấp lánh khiến chúng ta phải thốt lên: “Oi lạy Chúa! Thật tuyệt diệu biết bao!” Và dĩ nhiên Thiên Chúa rất hài lòng khi nghe chúng ta xung tụng kỳ công tuyệt hảo của Ngài. Đó là chúng ta nói theo ngôn ngữ loài người. Thiên Chúa rất ngạc nhiên khi thấy ai đó ở nơi chân trời xa lạ đã khâm sùng tán thưởng kỳ công do bàn tay Ngài tạo dựng. Rồi Thiên Chúa thấy chúng ta đến với Ngài và la lên: “Thật tuyệt diệu!” Và Thiên Chúa cảm thấy thích thú vì chúng ta đã mở mắt ra để chiêm ngắm những kỳ quan của Ngài.
Đó là kinh nghiệm mà các Tông Đồ đã trải qua trong ngày Thăng Thiên của Chúa. Họ đã bừng sáng mắt ra khi chiêm ngắm sự hiện diện của Chúa. Điều nầy cắt nghĩa tại sao họ đã trở lại Giêrusalem mà hồn còn ở trên mây. Và ‘Linh đạo’ có nghĩa là thức giác đối với những thực tại cao cả đang bao quanh chúng ta.
Sống là thay đổi
Gerard Manley Hopkins là một thi sĩ người Ai-Nhĩ-Lan. Hồi còn trẻ, ông là một giáo sư dạy học tại một học đường của các cha dòng Tên ơ Wales. Ngày kia ông đang trên đường trở về nhà ở trong cư xá dòng Tên. Lúc bấy giờ là mùa thu. Hopkins đang ở trong một trạng thái rầu rĩ vì mùa hè đã qua, mùa đông sắp tới và thời tiết bắt đầu đổi thay. Nếu ai đã trai qua mùa đông ở Wales thì sẽ rõ tại sao thi sĩ bị sa sút tinh thần. Tại đây rất nhiều ngày chỉ thỉnh thoảng sương mù hơi mõng một chút, nhưng phần nhiều trong ngày là một màng sương dày đặc ẩm ướt bao trùm và nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy mờ mịt. Đang khi ông trên đường trở về nhà, bất chợt Hopkins tự nói với mình: “Hãy thư thả một chút. Mùa hè không còn đây nữa. Hè đã qua rồi. Mùa đông chưa có ở đây. Mùa đông chưa đến. Vậy thì mùa gì đây? Đó là mùa thu, mùa của lá rụng và cũng là mùa gặt hái hoa quả. Hãy mở mắt ra mà xem. Xem vẻ đẹp của hoa lá. Xem mây trôi lơ lững trên nền trời. Hãy thưởng thức gió mát từ bờ biển Ai-Nhĩ-Lan thổi vào. Đừng bận tâm ve điều gì không còn ở nơi đây nữa. Đừng bận tâm về điều gì chưa xảy tới nơi đây. Hãy ngắm xem cái gì đang xảy ra bây giờ đây. Hãy trân trọng giây phút hiện tại. Hãy trân trọng ve đẹp rạng rỡ đang phô bày trước mắt!”
Điều mà Hopkins đang ngắm nhìn vẫn luôn hiện diện ở đó. Điều thiếu sót là không có ai nhìn ngắm và chiêm ngưỡng vẻ đẹp tráng lệ ấy mà thôi. Thiên nhiên không thay đổi. Mùa gặt hoa quả cũng chưa bắt đầu lúc bấy giờ. Lá cây cũng chưa đổi màu vào lúc đó. Vậy cái gì đã thay đổi? Chính Hopkins đã thay đổi và vì thi sĩ đã thay đổi nên ông lần bước trở về nhà mà tâm hồn ông đã biến đổi theo mùa xuân đang dò dẫm theo những bước chân âm tham của ông, với nụ cười tươi nở trên khuôn mặt và một bài hoan ca sảng khoái ở trong tâm hồn mà giờ đây đang trổi dậy khi ông đối diện với vẻ đẹp thần tiên của một buổi chiều vào thu ở xứ Wales đầy tríu mến.
Trở nên hoàn thiện là năng thay đổi
Vào ngày Thăng Thiên, Chúa Giêsu không thay đổi. Ngài cũng vẫn là một Chúa Giêsu. Dĩ nhiên Ngài đã trở về với Chúa Cha. Ở một giai tầng nào đó, Chúa không còn ở với các tông đồ nữa, nhưng ở một giai tầng cao hơn, Chúa vẫn ở với họ một cách nào đó mà trước kia họ không bao giờ chứng nghiệm được. Vậy thì ai đã thay đổi? Chính các Tông Đồ đã thay đổi. Đó là điều bất chợt đã chiếu tỏa trên họ, ở trên đỉnh đồi đó, điều mà Chúa đã hứa hẹn là sẽ ở với họ luôn mãi. Sự kinh ngạc về điều đó đã thay đổi họ. Họ đã được biến đổi. Vì vậy tại sao họ đã trở về lại kinh thành Giêrusalem, không phải với những giòng lệ tuôn tràn trong đôi mắt mà với một bài hoan ca ở trong con tim. Giờ đây họ đã có một nhãn quan mới mang lại nhiều nghị lực cho họ và làm cho cuộc đời của họ mang nhiều ý nghĩa. Đó là nhãn quan về Chúa Phục Sinh sẽ ở với họ luôn mãi và họ sát cánh bên nhau trong niềm hoan lạc.
Tại sao chúng ta ngày nay mầng kỷ niệm mầu nhiệm cao cả về biến cố Thăng Thiên? Chúng ta không chủ ý tụ họp lại cho đông đảo, để nêu gương tốt cho đám trẻ em, hoặc đe làm vui lòng người lớn. Chúng ta hội nhau lại để mở mắt ra như Hopkins đã làm vào một ngày mùa thu ảm đạm ở xứ Wales và, chiêm ngưỡng sự vinh quang của Chúa trong giây phút hiện tại để rồi la lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa cao cả biết bao!” Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Điều thiếu sót là chúng ta chưa nhận ra Ngài. Thăng Thiên làm cho chúng ta có khả năng rời khỏi nơi gọi là Núi Chúa để trở về nhà chúng ta với lòng mừng vui. Một thứ mừng vui làm cho chúng ta muốn biết điều gì sẽ xảy ra? Điều gì đã đến với chúng ta? Điều gì đã vượt lên trên chúng ta? Các Tông Đồ đã cảm nghiệm một sự khác biệt. Một đức tin mà không có gì khác biệt thì không còn là một đức tin nữa. Một người thấy đường đi thi sẽ bước đi khác với một người mù mắt.
Đức Hồng Y Newman có lần đã nói: “Sống là thay đổi. Trở nên hoàn hảo là năng thay đổi.” Chúng ta thay đổi hay không thay đổi? Đo là vấn đề! Những ai thay đổi và năng thay đổi là những người sống thật. Những ai không thay đổi và giữ nguyên cách sống của họ là những kẻ chỉ sống mà không sống thật. Sự lựa chọn trước mắt là ở giữa sự sống và sống thật.
Mỏm nhô của tảng băng trôi
Sự Thăng Thiên của Chúa Giêsu là mầu nhiệm của đức tin. Chúng ta phải là những con người có niềm tin mới đi vào mầu nhiệm nầy được. Câu chuyện về Thăng Thiên chẳng khác nào một tảng băng trôi. Bảy phần tám của tảng băng chìm dưới mặt nước. Chỉ mỏm tảng băng - tức một phần tám - mới nhô lên trên mặt biển. Sự ngạc nhiên thích thú là điều gì cơ bản thì không thấy được.
Ở trên đỉnh đồi trông xuống kinh thành Giêrusalem, các tông đồ chỉ thấy một phần tám của mầu nhiệm Thăng Thiên. Phần còn lại được che giấu. Họ biết câu chuyện về Chúa Giêsu chưa kết thúc. Chương cuối chưa viết xong. Phần hấp dẫn nhất còn đang dien tiến, nhưng họ đã có đủ dữ kiện để tiến tới. Một phần tám của mầu nhiệm Thăng Thiên cũng đủ để đưa họ xuống núi, trở lại kinh thành Giêrusalem và sau đó sẽ vượt ra khỏi biên giới của Giêrusalem để tiến qua biên vưc đang chia cắt Giêrusalem với thế giới bên ngoài.
Ý nghĩa của mầu nhiệm
Thăng Thiên là một mầu nhiệm sáng chói. Không có bảy phần tám kia thì sẽ không có mầu nhiệm. Cuộc sống chỉ viết bằng văn xuôi, chứ không viết thành văn vần. Cuộc sống được xây cất trên gạch ngói và vôi hồ, chỉ là trần tục, bình thản và vô vị. Không có bảy phần tám kia thì sẽ không có câu chuyện về Chúa Giêsu, không có Kitô giáo, không có biến cố Thăng Thien. Cũng sẽ không có đời sống linh thiêng, không có bí tích, không có Thánh Thể, không có Thánh Lễ Chúa Nhật. Jeanne Guyon đã viết: “Nếu biết tìm ra đáp số cho vấn nạn cuộc sống là điều tuyệt đối cần thiết cho bạn, vậy thì bạn hãy quên đi hành trình của mình. Bạn sẽ không bao giờ thực hiện được hành trình Đó, bởi vì đó là một hành trình vô định, hành trình của những vấn nạn không có đáp số, hành trình của những bí ẩn, của những điều không thể hiểu nổi và nhất là của những sự bất công.”
Chúng ta được sinh ra và sống cho Thiên Chúa vô biên. Ở trên trần thế nầy, không thể có bản nhạc giao hưởng trọn vẹn như thế được. Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta cho sự vinh quang của Ngài, để được chiêm ngắm Ngài mặt tợ mặt. Giờ đây, chúng ta chỉ thầy Ngài một cách lờ mờ, khiếm khuyết. Nhưng rồi đây, chúng ta sẽ xem thấy Ngài một cách tuyệt hảo như Ngài hiện có và nỗi mầng vui của chúng ta sẽ được trọn vẹn. Trong khi chờ đợi, Thăng Thiên mang lại cho chúng ta một viễn tượng mới để nhận thấy rằng đời sống cá nhân chúng ta đang góp phần một cách nào đó vào một câu chuyện lớn lao hơn. Một câu chuyện lớn hơn là chính cuộc sống chúng ta và một câu chuyện kỳ diệu hơn bất cứ điều gì hết mà chúng ta sẽ chưa lúc nào thấy hết hay biết hết ở trong cuộc sống nầy.
Phỏng theo bài suy niệm “TO BECOME PERFECT IS TO CHANGE OFTEN” (Trở Nên Hoàn Thiện Là Năng Thay Đổi) của cha Vincent Travers O.P. trong sách “IN STEP WITH GOD” (Đồng Hành Với Chúa).
70. Vị quan tòa kỳ lạ - Phaolô Ngô Suốt.
Vào năm 1871 Charles Robert Darwin đã cho phát hành cuốn sách tựa đề “The Descent of Man” (xin dịch là “Con người được sinh xuống”. Đây là học thuyết tiến hóa mà những người theo phái Duy vật biện chứng hay Xã hội chủ nghĩa tin theo. Chữ xuống (descent) có nghĩa là phải đến từ một nơi nào đó cao hơn, nó cũng có nghĩa là di truyền theo dòng giống. Tuy nhiên những điều mà Darwin muốn nói đến là dòng giống, và chính xác hơn nữa đó là con người được sinh lên (the ascent of man), con người bắt nguồn từ một động vat thấp kém, nhưng do quá trình tiến hóa; con người do một giống khỉ hay vượn cao cấp nào đó mà thành, Cùng một chữ lên (ascent), nhưng người Kitô hữu tin rằng cuối cùng mình sẽ lên với Thượng Đế; còn người vô thần, theo duy vật thì cho rằng con người đã kết thúc ở đây vì: nhân loại do súc vật lên làm người.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa lên Trời, ngày Ngài hoàn tất sứ mạng ở trần gian mà Thiên Chúa Cha đã trao cho Ngài. Chúng ta cùng tìm hiểu về không gian và thời gian, về sự trùng hợp lạ lùng, khó hiểu cũng như ý tưởng độc đáo đàng sau bối cảnh tuyệt vời này.
Sau khi sống lại, Thiên Chúa đã ở với các Tông đồ 40 ngày, chứng tỏ rằng Ngài đã Phục Sinh thật sự, vì nếu sau khi sống lại Ngài lên Trời ngay thì sẽ gây biết bao nhiêu là nghi ngờ cho thiên hạ. Thánh Tôma Aquinô nhận xét rằng:” Chúa Giêsu ở trong mồ 40 tiếng đồng là bằng chứng Ngài chết thật sự, Bởi thế Ngài lưu lại trên thế gian 40 ngày là bằng chứng sự sống mới của Ngài”. Đọc Phúc âm chúng ta thấy rằng Núi Olivet là ngọn núi đã được chọn sẵn cho Chúa Kitô. Chính cuộc khổ nạn của Ngài bắt đầu tại đây. Chính tại nơi nay, sau khi Ngài sang bên kia suối Kítrôn, bị môn đệ phản bội, nộp Ngài cho kẻ thù. Nhưng cũng chính tại núi này, hôm nay Ngài lên Trời, Ngài vinh thắng trở về với Cha Ngài. Thứ hai, bốn mươi ngày sau Chúa nhật Phục Sinh la ngày thứ năm (để tiện cho phụng vụ, cũng như muốn làm nổi bật ý nghĩa của ngày Chúa lên Trời nên Giáo Hội dời vào Chúa Nhật). Ngày Chúa bắt đầu cuộc khổ nạn cũng vào ngày thứ năm, Thứ Năm Tuần Thánh, trong vườn Olives Ngài đã toát mồ hôi máu, bị phản bội và bị bắt. Rồi cũng ngày thứ năm hôm nay, Ngài vinh hiển tiến về Thiên quốc. Cùng một thời gian và cùng một không gian nhưng hai sự việc một tốt, một xấu xảy ra. Phải chăng sư đau khổ, chết chóc phải xảy đến, rồi sự hạnh phúc, vinh quang mới đến sau. Hay nói cách khác sự thành toàn, viên mãn không thể có nếu thập giá, đau khổ không xảy ra.
Có thể nghĩ rằng: Thiên Chúa muốn dạy chúng ta một bài học “sống”, đó là hằng ngày Ngài gởi đến cho chúng ta những đau đớn, tai họa, phiền muộn tức là Ngài chuẩn bị cho chúng ta một tương lai huy hoàng, vinh phúc. Ngày mà chúng ta bị bẻ mặt, xấu hổ nhất, có thể đó là sư bắt đầu cho những tán tụng, tôn vinh; bắt đầu cho sự cứu độ. Trong số ngàn ngàn vị Thánh của Giáo Hội, xin được đơn cử một vị Thánh: Inhaxio của Loyola, vị sáng lập Dòng Tên. Ngài là một quân nhân, gần ba mươi tuổi. Một thanh niên bình thường, yêu đời và có rất nhiều tham vọng. Trong trận bị bao vây ở Pampeluna, Ngài bị thương nặng, chân phải bị những mảnh đạn đại bác phá nát. Ngài phải điều trị rất lâu, chịu nhiều đau đớn. Để giết bớt thơi giờ, Ngài hỏi mượn mấy cuốn tiểu thuyết tình cảm để đọc, tiếc thay ở nhà thương Ngài đang điều trị không có những cuốn sách đó, người ta đưa cho Ngài cuốn “Cuộc đời Chúa Kitô” và “Cuộc đời của các Thánh”. Thế rồi, cuộc đời Ngài đã thay đổi hoàn toàn sau khi nghiền ngẫm những cuốn sách này. Đang là một quân nhân, Ngài muốn mình trở thành một quân nhân cho Chúa Kitô. Bất chấp mọi trở lực, Ngài đã biến mơ ước của mình thành hiện thưc, Ngài lập Hội Chúa Giêsu (Society of Jesus), làm rất nhiều điều tốt lành để tôn vinh Thiên Chúa và cứu thoát các linh hồn. Ngài đã trở thành một vị Thánh lớn trên thiên đàng. (Hiện nay những phương pháp cầu nguyện Ngài đề ra được các nhóm Linh Thao sử dụng) Rõ ràng ngày Thánh Inhaxiô bị thương nặng, cũng là ngày bắt đầu cho sự thánh hóa và ơn cứu độ cho cuộc đời Ngài. Nếu Ngài không bị thương tích, đau đớn kéo dài, có lẽ Ngài vẫn là người bình thường như chúng ta. Đó cũng là lý do mà Thánh Tiến Sĩ Augustinô viết rằng:”Đau khổ là một phương thuốc, chứ không phải là một hình phạt”.
Tóm lại, hôm nay chúa vinh hiển về Trời, để tâm hồn chúng ta cũng biết hướng về đó. Và chắc chắn như lời Ngài hứa là Ngài sẽ trở lại để phán xét nhân loại. Ngài sẽ trở lại để làm Thẩm Phán cho cuộc xử chung thẩm. Chỉ khác một điều là Quan Tòa này khi xét xử không cần hỏi tội trạng bị can, không cần nghe trình bày. Ngài chỉ nhìn và đối chiếu 5 vết thương trên người bị can với năm vết thương mà thế gian đã ghi khắc vào cơ thể Ngài. Chỉ cần nhìn mà Ngài cũng biết chúng ta có biết chấp nhận những đau khổ khi xưa, và dùng nó như một phương thuốc cho sự cứu thoát linh hồn chúng ta hay không. Chỉ cần nhìn mà Ngài cũng thấy rõ là chúng ta có biết hy sinh cho tha nhân để gây ơn ích hay không. Xin mượn ý tưởng của Đức cố Tổng Giám Mục Fulton J. Sheen để kết thúc: “Khi Chúa trở lại để đón nhận và xét xử chúng ta lần cuối, Ngài sẽ nhìn xem chúng ta có mang những vết tích thập giá trên thân xác mình không. Ngài sẽ nhìn vào đôi tay của chúng ta để nhìn xem nó có bị đóng đinh, bị chai đá, thương tích vì đã hy sinh khi phải cho đi những cái mà nó làm ra không. Ngài sẽ nhìn vào đôi chân, để xem nó có tím bầm, bị gai nhọn, đinh sét đâm thủng vì đi tìm những con chiên bị lạc khong. Ngài sẽ nhìn vào lồng ngực chúng ta để nhìn xem nó có từng mở rộng để đón tiếp, rồi quyện lẫn với trái tim yêu thương của Thiên Chúa Tình Yêu không”.
71. Trần thế là con đường về trời.
(Suy niệm của Martin Lê Hoàng Vũ)
Hôm nay lễ Chúa Thăng Thiên, tức là Đức Giêsu về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, Ngài được tôn vinh là chủ tế của vũ trụ này. Nhưng thật ra Đức Giêsu đã lên trời sau khi sống lại, thời gian 40 ngày Ngài hiện ra với các tông đồ chỉ để củng cố đức tin cho các Ngài và ngày Chúa lên trời là chấm dứt những lần hiện ra của Ngài. Chúa lên trời để chỉ cho chúng ta con đường để về trời với Ngài. Con đường ấy rất thiết thân với mọi người. Đó là chúng ta sống trong trần thế có con người và biết bao điều phải yêu mến.
Trần thế cõi "hỉ, nộ, ái,cụ, ố, đục" này, chẳng tốt cũng chẳng xấu. Tốt hay xấu là còn tùy con người hành xử ra sao. Nếu chúng ta tham lam ích kỷ, hận thù trần thế này sẽ mãi mãi là nơi bất ổn. Còn nếu chúng ta sống yêu thương, giúp đỡ, và có trách nhiệm thì trần thế này sẽ trở thành thiên đường đáng sống. Chúng ta tuy không thuộc trọn về trần the này phải sống hết mình với nó. Chúng ta dùng trái tim yêu thương mà Chúa ban để mở lòng đón nhận tất cả mọi người. Sống liên đới yêu thương và gắn bố với mọi người. Sống trong trần thế chúng ta có rất nhiều bổn phan phải chu toàn.
Đức Giêsu trong cuộc đời trần thế là mẫu gương cho các Kitô hữu. Ngài đã sống hết mình vì mọi người đến cả hy sinh mạng sống cho mọi người. Ngài thấu hiểu tâm tư khát vọng của những người Do-thái đường thời. Ngài thông cảm với những đau khổ và nỗi cơ cực của phận người. Ngài nhìn thấy thực trạng xã hội Do-thái thời đó như thế nào. Để Ngài giúp họ, làm cho đời sống của họ nên tốt hơn và phù hợp với những giá trị cua Tin Mừng.
Bởi thế không bao giờ Chúa muốn chúng ta tách mình ra khỏi trần thế hay chạy trốn những nghĩa vụ trần thế. Sống như Ngài là chia sớt những khổ đau và vất va cuả tha nhân Yêu thương là hành động cho cuộc đời của họ được hạnh phúc hơn và sống xứng với phẩm giá con người. Vì trần thế này là con đường đưa chúng ta về trời.
Chúa lên trời không có nghĩa là Ngài mất nút đi vào không trung mời "thần tiên" ở Lời Chúa luôn mời gọi chúng ta đến với tha nhân để tìm được niềm hạnh phúc của người biết yêu thương. Vì ngày nay con người thường tự tạo cho mình những "thiên đường mong manh". Nơi đó chỉ đóng khung trong bốn bức tường của ngôi nhà biệt thự sang trọng. Nơi đó không có tình yêu thương gia đình mà chỉ có bổn phận và cảnh giả tạo của cuộc sống bên nhau và chính những nơi đó càng ngày con người càng xa rời Chúa và thực tại nước trời vĩnh cữu.
Ước chi chúng ta đừng chỉ đứng nhìn trời mà phải quay về cuộc sống bình thường để chẩn bị hành trang lên đường về quê trời vĩnh cữu sau này.Một hành trang gọn nhẹ vô cùng quý giá là trái tim mến Chúa và yêu người cùng với sự nỗ lực muốn làm điều tốt đẹp cho tha nhân.
72. Hạnh phúc lớn lao - Lm. Nguyễn Hữu An.
Phi hành qia Gagarin sau khi đã bay nhiều vòng trong vũ trụ khi trở về trái đất đã tuyên bố rằng:tôi chẳng thấy Thiên Chúa đâu cả. Thế nhưng, nhà Bác hoc Newton khi quan sát vũ trụ bằng kính viễn vọng đã thốt lên: tôi thấy Thiên Chúa qua kính viễn vọng của tôi.
Chúng ta là những người tin Chúa Giêsu Phục Sinh và lên trời cả hồn lẫn xác. Vậy chúng ta trả lời cho vấn nạn đó như thế nào? Chúa Giêsu lên trời nghĩa là gì? Nay người ở đâu? Việc Chúa Giêsu lên trời có liên hệ gì tới cuộc sống hiện tại của chúng ta hay không?
Theo quan niệm của người Do Thái cách đây hơn 2000 năm, vũ trụ này chia ra làm ba phần: Phần dưới mặt đất là là âm phủ dành cho người chết;phần trên mặt đất dành cho loài người đang sống và trời là thế giới của Thiên Chúa và các Thánh.
Để thích ứng với quan niệm bình dân ấy, các Giáo Lý Viên ngày xưa đã trình bày mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu thành hai giai đoạn:
- Giai đoạn I: Sống lại, Đức Giêsu đi từ âm phủ lên mặt đất
- Giai đoạn II: Lên trời, Đức Giêsu bay từ mặt đất lên thế giới của Thiên Chúa.
Trình bày như vậy thì dễ hiểu nhưng không hoàn toàn đúng với thực tế,hậu quả tai hại là người ta dễ hiểu lầm rằng khi lên trời như thế Chúa Giêsu sẽ đi xa trái đất và cuộc sống của loài người, vì trời thì ở trên cao xa tắp, đâu có liên hệ gì tới trái đất. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta.Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian.Thưc ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao.Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đ¨¤ng là một trạng thái hơn là một nơi chốn.Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vao một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần.
Thực ra khi Chúa Giêsu sống lại Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Ngươì bước vào coi vinh quang của Thiên Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha,mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.
Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Đức Kitô ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Đức Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh chúng ta thôi, bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Chúa Thánh Thần Đức Giêsu sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Nnững người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Đức Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thay là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật, đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào.
Bài Tin mừng hôm nay kết thúc phúc âm Maccô nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở, đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu. Hình thức của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ Đức Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng giáo hội như đôi tay để tiếp tục công cuoc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài.Giáo hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của giáo hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Mỗi Kitô hữu là chi thể của giáo hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.
73. Lễ Thăng Thiên
Cách đây độ chừng 15 năm, nghĩa là trong những năm thời trung học phổ thông, con có chứng kiến một sự kiện hi hữu như thế này: hôm đó cả lớp cùng đi đám tang của một người bạn trong lớp. Vì nhà tang rất xa, cho nên phải đi khá sớm. Hơn nữa trước khi đi, xe phải chạy vòng ra chợ để lấy vòng hoa phân ưu đã đặt trước, cách chung là mọi việc rất khẩn trương vội vã. Khi đến nhà tang thì mọi người xuống xe, chuẩn bị hàng ngũ chỉnh tề để vào phúng viếng thì mới dở khóc dơ cười khi nhìn thấy trên vòng hoa có hàng chữ "Chúc mừng khai trương - Thành công mỹ mãn".
Thưa anh chị em! Chắc chắn rằng không ai trong chúng ta muốn cái sai lầm đó xãy ra bao giờ cả, nhất là đối với những người không phai là đạo Công Giáo. Thế nhưng suy nghĩ một chút, chúng ta cũng thấy rằng: cái lầm lẫn đó cũng mang một ý nghĩa khá thú vị. Bởi vì theo đức tin Công Giáo, cái chết là cửa ngỏ để dẫn chúng ta vào đời sau vĩnh cửu, để dẫn chúng ta vào Thiên Đàng, nơi mà theo Thánh Gioan diễn tả: không còn chết chóc, không còn vất vã nhọc nhằn, không còn khóc lóc và đau thương, nhưng chỉ có bình an và hạnh phúc.
Vậy nếu như cái chết đưa người ta đến một nơi tốt đẹp như thế, thì việc chúc mừng cho một người vừa qua đời, một cách nào đó, chúng ta vẫn có thể chấp nhận được. Ngày hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa lên trời nghĩa là mừng việc Chúa Giêsu công khai trở về Nước Thien Đàng vĩnh cữu. Mặc dù chưa có ai trong chúng ta đã thấy Nước Thiên Đàng cả, nhưng chúng ta tin rằng có nước Thiên Đàng. Và vì tôi tin có điều đó, cho nên tất cả những gì tôi cố gắng thực hiện ngày hôm nay: tuân giữ le luật của Chúa, sống hy sinh hãm mình, thể hiện tấm lòng bác ái đối với mọi người... là để tôi được vào nơi ấy. Chúng ta tin có Thiên Đàng bởi vì chính Đức Giêsu đã mạc khải điều đó. Trên Thánh Giá, Đức Giêsu đã nói với tên trộm lành rằng: "Ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta".
Rồi trong câu chuyện thân tình trước khi Thầy trò chia tay, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ của mình rằng: "Thầy đi là để dọn chổ cho các con và Thầy sẽ trở lại để đón các con, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó với Thầy". Ba vị tông đồ: Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng đã có một thoáng nhìn thấy vinh quang NướcThiên Chúa khi Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Chắc chắn rằng nó phải hấp dẫn như thế nào đó mà ba ông đã lên tiếng xin dựng lều để được ở mãi trên đó. Thánh Phaolô dường như cũng có được một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó nhìn thấy được vinh quang ấy, mà sau này ong đã viết lại trong thư thứ hai gởi Côrintô rằng: "Đó là điều mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe".
Như vậy Thiên Đàng chắc chắn là có, và đó sẽ là quê hương vĩnh cữu của chúng ta. Thế nhưng không phải vì lời hứa ấy mà chúng ta ngồi đó trông ngóng chờ đợi mà sao lãng nhiệm vụ trần thế, những nhiệm vụ mà chúng ta cần phải chu toàn với Chúa, với gia đình, với xã hội và những người kề cận với chúng ta. Bằng chứng là ba Tông đồ: Phêrô, Gioan và Giacôbê sau khi thấy được vinh quang của Chúa trên núi Tabor, đã được Chúa bảo là phải xuống núi để tiếp tục công việc hàng ngày là rao giảng Tin mừng. Hay là nơi bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe, Chua đã ra đi rồi mà các môn đệ vẫn còn đứng đó nuối tiếc trông chờ, đến độ Chúa đã sai hai Thiên Thần đến nhắn nhở các ông: "Hỡi những người Galilêa sao còn mãi mê đứng nhìn trời?".
Thưa anh chị em! "Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo": Đó không phải là trách nhiệm của những thành phần đặc biệt nào cả, mà là cho hết thảy mọi thành viên trong ngôi nhà Giáo Hội. Nếu như cách đây gần 2000 năm, Đức Giesu đã dùng đôi chân của mình, rong ruổi trên các nẻo đường để tìm kiếm những con chiên lạc, đã dùng môi miệng của mình để rao giảng Tin Mừng, đã dùng đôi tay của mình để thi ân giáng phúc, làm điều tốt đẹp cho người ta, thì hôm nay đây, hôm nay đây những công việc đó phải được tiếp tục trong đời sống của Giáo Hội, để nhờ những sinh hoạt của mình, nhờ đôi tay cụ thể của Giáo Hội, Chúa lại tiếp tục dìu dắt nhân loại về Thiên Đàng vĩnh cữu.
Mừng lễ Chúa Thăng Thiên hôm nay, chúng ta có được một cơ hội tốt đẹp để hướng về Thiên Đàng, là một hạnh phúc lâu dài mà Chúa đã hứa ban khi Người còn ở tại thế. Lời hứa đó được xem như là một niềm vui, một sự an ủi khích lệ cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại, nhất trong những lúc chúng ta phải đối diện những gian nan nhọc nhằn. Thế nhưng chúng ta không được đứng lại trong niềm vui, trong sự an ủi khích lệ đó, mà phải quay ve để chu toàn những bổn phận của mình.
Chúa đã về trời nhưng Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng Tin Mừng, mượn đôi tay của chúng ta để thi ân cho người khác, mượn đôi chân chúng ta để đến với người cùng khổ. Chúa về trời nhưng Người vẫn tiếp tục thực hiện những dấu lạ nơi cuộc đời của những con người biết sống tận tình cho tha nhân, cho anh chị em của mình.
Thưa anh chị em! Biết rằng Thiên Đàng là quê hương vĩnh cữu của chúng ta, nhưng cuộc sống trần thế này chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Nếu chúng ta chỉ đứng một chỗ mà chờ đợi ngóng trông, có lẽ chúng ta không bao giờ tới được. Cho nên muốn tới được Thiên Đàng, chúng ta không còn cách nào khác hơn là phải đi hết con đường dương thế đó trong tinh thần chu toàn những trách nhiệm đối với Chúa, đối với gia đình và với những người sống chung quanh chúng ta.
74. Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)
Hôm nay Giáo hội mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Qua những hình ảnh, lễ Thăng thiên diễn tả việc Chúa Kitô phục sinh từ nay sống trong thế giới của Thiên Chúa mà người ta thường gọi trong ngôn từ tôn giáo là trời (bài đọc 1 và Tin Mừng). Vào thời Đức Giêsu, để diển tả sự vĩ đại, vinh quang của Thiên Chúa, con người không thể đạt tới được, người Do thái dùng hình ảnh của chiều cao: Chúa ở trên cao, ở trên trời. Thiên Chúa được gọi là Đấng Tối Cao (Lc 1,76; Cv 16,17). Đức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Trong Kinh Tin Kính, chúng ta cũng tuyên xưng: "Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chua Cha."
Điều quan trọng đối với các Kitô hữu tiên khởi cũng như đối với chúng ta hôm nay, không phải ở việc muốn biết Đức Giêsu lên trời như thế nào, nhưng là tận hiểu ý nghĩa sự ra đi của Người.
Sau khi hoàn thành sứ mang ở trần gian, Đức Giêsu trở về với Chúa Cha. Từ nay, Chúa Kitô phục sinh vắng mặt về thể hình, không ai có thể thấy hoặc nghe tiếng Người nữa. Tuy nhiên, Người luôn hiện diện với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta như Người đã hứa: " Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Sự hiện diện vô hình của Người, chỉ có con mắt đức tin mới thấy được.
Lễ Thăng Thiên là sự kết thúc công cuộc truyền giáo của Đức Giêsu thành Nazarét, và là khởi đầu thời gian của Giáo Hội. Dĩ nhiên, giai đoạn mới này luôn là giai đoạn của Chúa Kitô, vì tất cả đều hướng về Người, cũng như Người là đích điểm của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng đó cũng là thời ky của Giáo Hội và các môn đệ để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô và cho Tin Mừng: " Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari, và cho đến tận cùng trái đất." (Cv 1,8). Đó là ý nghĩa moi hoạt đồng truyền giáo của Giáo hội. Trước khi lên trời, Đức Kitô giao phó cho tất cả các môn đệ, tức là tất cả Kitô hữu trên toàn cầu, sứ mạng tiếp tục công trình của Người cho đến ngày tận thế.
Chúng ta hãy nghe câu chuyện có thật và rất cảm động sau đây.
Nhà soạn nhạc vĩ đại người Ý Giacomo Puccini (1858-1624) đã viết nhiều vở nhạc kịch lừng danh. Năm 1922, lúc ông được 64 tuổi, thì ông mắc bệnh ung thư. Dầu vậy, ông vẫn quyết định hoàn thành vở nhạc kịch cuối cùng của mình, tức vở Turandot mà hiên nay nhiều người xem như vở nhạc kịch hay nhất của ông. Ông miệt mài làm việc ngày đêm. Nhiều người ép ông nghỉ ngơi, vì theo họ nghĩ, ông không thể nào hoàn tất nổi vở nhạc kịch ấy. Khi thấy căn bệnh ngày càng nặng hơn, Puccini nói với các đệ tử: "Nếu ta không hoàn tất được vở Turandot thì các trò hãy cố gắng hoàn tất nó cho ta."
Vào năm 1924, Puccini được học trò đem đến Bruxelles để giải phẫu, nhưng hai ngày sau cuộc giải phẫu đó, thì ông qua đời. Trở về Ý, các đệ tử của Puccini nghiên cứu kỹ lưỡng vở Turandot và tiếp tục viết cho đến lúc hoàn thành trọn vở nhạc kịch đó.
Hai năm sau, vở nhạc kịch được trình diễn lần đầu tiên tại nhà hát lớn La Scala thuộc thành phố Milan, do Arturo Toscanini, người học trò ưu tú của Puccini điều khiển. Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến khúc nhạc mà Puccini buộc phai ngừng bút. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt Toscanini. Anh cho giàn nhạc dừng bản nhạc kịch lại, đặt cây gậy điều khiển xuống rồi quay về khán thính giả và nói lớn: "Sư phụ chúng tôi đã viết được đến đây, rồi người qua đời."
Lúc đó toàn thể nhà hát đều im bặt, không cử động. Sau vài phút, Toscanini cúi xuống cầm gập điều khiển lên, quay về cử tọa mỉm cười qua dòng lệ rồi thốt lên: "Nhưng các đệ tử đã hoàn tất công việc của người". Vở Turandot vừa dứt thì toàn thể khán thính giả vỗ tay ầm ầm như sấm vang. Những người có mặt lúc đó không thể nào quên được giây phút ấy.
Câu chuyện sáng tác vở nhạc kịch Turandot của Puccini có nét rất giống với cong việc truyền giáo của Giáo hội chúng ta.
Trước khi sư phụ Giêsu hoàn tất công trình lập nước Thiên Chúa trên trần gian, thì Người lên trời. Nhưng trước đó, Người đã yêu cầu các môn đệ hoàn tất việc ấy y như Puccini đã yêu cầu các đệ tử hoàn tất vở nhạc kịch Turandot.
Trước khi lên trời, Đức Giêsu nói với các Tông đồ: " Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15). Công việc của Puccini được một vài đệ tử hoàn tất trong vòng ít năm, còn công việc của Đức Giêsu cần đến rất nhiều thế hệ mới có thể hoàn tất được; và đó không phải chỉ là việc của vài môn đệ, mà là tất cả các môn đệ thuộc mọi thời đại. Thánh Phaolô có nói: "Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1 Co 9,16).
Nhưng truyền giáo không chỉ là công việc của các Linh mục và Tu sĩ mà là của tất cả các Kitô hữu. Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta có bổn phận cộng tác vào việc xây dựng và mở mang Nước Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể rao giảng Tin Mừng ngay trong gia đình, trong khu phố và trong cộng đoàn chúng ta. Mỗi người đều có thể là sứ giả Tin Mừng, thợ xây hoà bình và là người gieo niềm vui và hy vọng.
Ngày xưa, chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Đức Giêsu đã làm phép lạ cho hơn năm ngàn người ăn no nê, thì bây giờ Chúa cũng muốn và cần đến sự cộng tác, tuy nhỏ bé và hạn chế, của mỗi người chúng ta hầu hoàn thành những kỳ công của Người.
75. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
Lễ Thăng Thiên vừa nhắc đến một mầu nhiệm và vừa nói đến quyền năng vươn tới một chiều kích mới. Lễ này chấm hết sư vụ Đức Kitô trên trần gian và mừng đón Chúa vinh hiển trở về cùng Chúa Cha trên trời. Mặc dầu là hành động cuối cùng của Chúa trên cuộc đời dương thế, hôm nay không phải là một ngày buồn, mà là một ngày vui chan chứa hy vọng. Siêu thăng lên chốn trời cao, Đức Kitô đã đưa mình thoát khỏi chốn “bình thường” để đi vào chốn “khác thường”, từ đất Galilê này mà đến mọi nơi trên trái đất. Người không còn tự giới hạn mình vào một cõi thời gian, cõi không gian, hay một nhóm người nào nữa. Nhờ sức mạnh Thần Khí, Người trở nên hiện diện vô hình và sẵn sàng đến với bất cứ ai muốn tiếp xúc với Người, đảm nhận công việc và chia sẻ vinh quang của Người.
Đối với các tông đồ, hôm nay là ngày bế giảng mãn khóa, là thời gian huấn luyện đã qua, nay bắt đầu nhiệm vu mới, “đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi loại thụ tạo” (Mc 16,15). Lúc Chúa ra đi, các tông đồ chỉ biết đứng trời trồng, bất động. Nỗi buồn bên trong lòng các ông chúng ta có thể hiểu được, vì đây là lần thứ hai các ông trải qua kinh nghiệm đau lòng phải xa cách chia phôi với Thầy chí thánh, biết rằng từ đây cuộc đời không còn được như trước nữa. Có hai người mặc áo trắng xuất hiện lôi các ông về với thực tại, cắt đứt giấc mơ màng và bảo các ông đi làm việc của Thầy mình đã giao phó. Vâng, nhiệm vụ của các ông không phải là đứng nhìn trời, trông chờ điều gì xảy đến. Trong khi Đức Kitô vắng mặt, các ông sẽ là sứ giả của Người, công bố Tin mừng cho người nghèo khó, bị áp bức và cho mọi người.
Đức Chúa Giêsu trở về cùng Thiên Chúa Cha trong vinh quang hôm nay cũng cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về một tương lai vĩ đại, dành sẵn cho chúng ta mai sau, đúng hơn là một tương lai mà chúng ta được kêu mời đi tới. Nếu chúng ta vẫn trung thành với giáo huấn của Người, thì ngôi nhà sau hết của chúng ta cũng sẽ là nơi mà Đức Giêsu vừa mới siêu thăng trở về cùng Cha trên trời. Giống như các tông đồ ngày xưa, Đức Kitô ra lệnh cho chúng ta làm chứng nhân của Người trong công cuộc rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. Đó là một công việc dào lâu dễ làm nản lòng thối chí, nhưng chúng ta đã được bảm bảo rằng Người sẽ không để chúng ta mồ côi, nhưng nhờ sức mạnh của Thần khí, Người sẽ ở cùng chúng ta trong mọi nỗi gian truân thử thách cũng như trong mọi nỗ lực phấn đấu của chúng ta.
Cuộc đời này thường được ví như một cuộc lữ hành và chúng ta hết thảy đều là lữ khách đang cùng đi trên con đường thiên lý này. Nhiều anh chị em trong chúng ta do thử thách khổ đau, thất vọng trong cuộc đời, lắm khi ngã lòng trông cậy đến nỗi không còn biết mình đang đi về đâu, không hề biết sẽ có gì đang chờ đón mình ở cuối con đường. Họ luôn tìm hạnh phúc bằng cách sống dựa trên ký ức của quá khứ. Họ thường dành thời gian cuộc đời này để chờ ngóng một cái gì đó không có mục đích nào cả, như các tông đồ xưa ngong ngóng nhìn lên bầu trời. Việc Đức Chúa Giêsu thăng thiên bảo đảm với chúng ta rằng có một mục đích tối hậu cho cuộc đời lữ thứ này, đồng thời đảm bảo với chúng ta rằng hành trình nơi dương thế này, tuy muôn vàn khó khăn, nhưng chắc chắn sẽ dẫn đưa chúng ta về cung Cha trên trời. Trong lúc này chúng ta vẫn sống trong niềm hy vọng rằng lời Chúa Giêsu hứa khi xưa sẽ trở thành sự thật: “Thầy ở đâu, thì anh em sẽ ở đó”. (Ga 14,3)
76. Chúa Thăng Thiên
"Hãy đi khắp bốn phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu rổi. Ai không tin sẽ bị kết án". (Mc 16, 15)
Tin Mừng Marcô hôm nay tường thuật: trước khi về trời, Chúa Giêsu không quên trao lại cho các tông đo và những người kế vị, sứ mạng cao cả là loan báo Tin Mừng cho muôn dân; ai tin và chịu phép rửa sẽ được gia nhập vào vương quốc của Chân lý, của Tình yêu bất diệt; ai không tin, sẽ bị kết án: không tin chính là từ chối không gia nhập vào vương quốc đó. Xin mời anh chị em cùng nhau suy niệm.
Hãy đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân: đây là lệnh truyền của Đức Kitô; lệnh truyền này chúng ta lãnh nhận ngày ta chịu phép rửa tội. Công đồng Vaticanô II đã khẳng định mạnh mẽ điều đó; sứ mạng này không chỉ dành riêng cho hàng giáo phẩm. Vì không hiểu lời của Đức Kitô, nên một số người lơ là với sứ mạng này. Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh: mọi người đều là chi thể trong Thân thể mầu nhiệm Duy nhất là Hội Thánh, mà Chúa Kitô là Đầu; vì thế không ai có thể nói mình không có trách nhiệm chia sẽ sứ mạng loan báo Tin Mừng do Đức Kitô trao lại.
Hãy đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân: Có người dựa vào câu nói này mà cho rằng Hội Thánh luôn muốn dùng quyền thế mình, hoặc ảnh hưởng để buộc người khác phải theo. Đây là câu trả lời: Chúa Giêsu không lập bè, lập đảng phái, để lo cho người mình nhằm loại trừ người khác. Đạo Chúa không phải là pháo đài để che chở cho con chiên, chống lại ngoại giáo. Đạo chính là Tin Vui, là nguồn hạnh phúc, là sức sống, là Nước Trời cho hết mọi người. Lẽ ra, mọi người đáng được hưởng Tin Vui, sức sống đó. Người ta đi loan báo Tin Mừng cho thế giới chính vì Tình Yêu (yêu Chúa Kitô, yêu mọi người.
Cán bộ coi tù hỏi Đức Cha Px Saviê. Thuận: "chúng tôi bắt ông, giam ông, làm điều không hay cho ông, tại sao tôi thấy ông vẫn vui vẻ, đối xử tốt với chúng tôi, không oán hận chúng tôi?". Đức Cha trả lời: "tại vì tôi yêu thương anh, vì anh cũng là người Việt Nam như tôi, và vì tôi yêu Đức Kitô."
Là Linh mục, tu sĩ, tôi lãnh nhận sư mạng loan báo Tin Mừng ngày chịu phép Rửa Tội, nhất là ngày chịu chức Linh mục và ngày khấn dòng. Làm sao tôi có thể tự miễn chuẩn cho mình không phải đi loan báoTin Mừng? Làm sao tôi có thể nói được: mình làm vừa vừa thôi, đâu có sức, có tiền mà lo nhiều như vậy? Chúa Kitô khi bị treo trên Thập giá đâu có ra điều kiện, nếu không chịu nổi, thì Chúa Cha phải cho nghỉ xả hơi! Là giáo dân thường, tôi có nghĩ rằng tôi phải ý thức đi loan báo Tin Mừng cách mạnh mẻ hơn, vì thực tế, tôi chưa dành nhiều thì giờ cho Chúa về điều này. Bao lâu nay tôi cứ nghĩ công việc này là của ông cha, bà phước mà thôi...Tôi cứ nghỉ, việc đi loan báo Tin Mừng là chuyện truyền giáo cho Phi Châu, cho Trung Quốc; tôi có quên rằng với cương vị là cha mẹ, loan báo Tin Mừng là dạy dổ con cái tốt, nên gương sáng cho chúng. Với người chòm xóm, người lương, tôi có sẵn sàng nói về Chúa cho họ bằng cuộc sống tốt, ngay chính của tôi, để họ nhìn thấy Chúa nơi tôi không?
77. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Chuyển sang một giai đoạn mới
(Mc 16, 15)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Việc Ðức Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Ðức Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Ðức Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Ðức Giêsu đã trao sứ mạng "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Ðức Giêsu là Ðấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.
Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.
Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Cv 1, 1-11:
Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
Vâng theo lời căn dặn của Ðức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Ðức Giêsu thực hiện lời hứa ấy: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Ðức Giêsu.
2. Ðáp ca (Tv 46)
Ðây là một Tv ca tụng vương quyền của Thiên Chúa. Ðức Giêsu đã chiến thắng cái chết, Ngài xứng đáng đón nhận vương quyền. Và vương quyền này đã mở rộng khắp nơi nhờ công tác loan báo Tin Mừng của Giáo Hội.
3. Tin Mừng (Mc 16, 15-20)
Những lời cuối cùng của Ðức Giêsu với các môn đệ:
Sai các ông đi loan Tin Mừng: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo".
Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông: "Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu có uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh và bệnh nhân sẽ được lành mạnh". Những "dấu lạ" mà Ðức Giêsu hứa có thể mang 2 nghĩa: a/ Nghĩa bóng: Chúa giúp các ông chiến thắng thế lực của sự dữ; b/ Nghĩa đen: các ông sẽ thật sự làm được những phép lạ
Các môn đệ vâng lời Thầy, đi khắp nơi loan Tin Mừng, và những lời Chúa hứa đã thành sự thật: "Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo"
4. Bài đọc II (Êp 4, 1-13)
"Thánh tông đồ gợi ý cho chúng ta một cách nhìn về sự kiện Chúa lên trời ngự bên hữu Chúa Cha. Rực rỡ vinh quang Thiên Chúa, sự hiện diện của Ðức Kitô phục sinh từ nay sẽ mang những chiều kích vĩnh hằng và vũ trụ, vượt khỏi khuôn khổ không gian và thời gian, nghĩa là bây giờ và mãi mãi Chúa vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta để ban ơn cứu độ cho chúng ta" (CgvDt, số đặc biệt giáng sinh '93)
IV. Gợi ý giảng
* 1. Quê hương thiên đàng và cuộc hành trình dương thế
Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Ðức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Ðức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau "Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe... "
Ở Lộ Ðức năm 1858, một người từ trời xuống là Ðức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ "Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Ðức Mẹ, chắc là Ðức Mẹ đẹp lắm nhỉ?" Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ "Ðẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa".
Còn ở Fatima năm 1917, Ðức Mẹ hiện ra cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Ðức mẹ "Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy?" Ðức Mẹ đưa tay lên cao và nói "Từ trời xuống". 3 em liền xin "Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi". Ðức Mẹ mỉm cười đáp "Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2 em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.
Ðó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào!
Khi về trời, Ðức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế:
Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ "Hỡi những người xứ Galilê sao còn mãi mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó... "
Còn 3 ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.
Thánh nữ Bernadette, cũng như Nữ Tu Luxia sau khi được thấy Ðức Mẹ thì được Ðức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Ðức Mẹ còn cho biết trước; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.
Nghĩa là làm sao? Nghĩa là: Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.
Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc Thiên Ðàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ: Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kỵ nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những Lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xoá đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như: chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hoà giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những Lời Chúa dạy.
"Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mãi nhìn trời... " Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Ðức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời "Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại".
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mãi mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. "Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mãi nhìn trời... " Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế: Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Ðó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa.
* 2. "Củng cố lời giảng bằng những dấu lạ kèm theo"
Việc loan Tin Mừng sẽ có sức thuyết phục hơn nếu có những dấu lạ kèm theo. Những dấu lạ này không hẳn là các phép lạ lớn lao, mà còn là cách sống có sức thu hút của chúng ta.
* 3. Con đường về Trời
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:
- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:
- Món quà quí giá của ngươi đâu?
Người này điềm tĩnh trả lời:
- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói:
- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
***
Ðó cũng là viễn tượng Ðức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin mừng hôm nay: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật" (Mc. 16, 15)
Chúa về trời là về với Chúa Cha - Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin mừng.
Tin mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.
Tin mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.
Tin mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.
Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.
Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.
Chúa về trời nhưng người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.
Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ: "Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con" (Ga. 17, 24).
Ðã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.
Ðã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó.
***
Lạy Chúa, con đường lên trời là con đường hẹp, con đường về trời là con đường yêu thương. Xin cho tất cả mọi nẻo đường chúng con đi, đều dẫn chúng con về quê trời. Ước gì qua cuộc sống chúng con, người ta nhận ra Nước Trời đang tỏ hiện. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 4. Những cách giảng đạo
Ngày xưa, một đạo sĩ gọi 6 người đệ tử của mình lại và bảo họ hãy đi khắp nơi chiêu mộ môn đệ. Một thời gian sau, tất cả đều trở về.
- Người thứ nhất trở về với 500 môn đệ. Khi được hỏi bằng cách nào anh chiêu mộ được số môn đệ đông như thế, anh trả lời: "Con rảo khắp mọi nơi nghèo nàn và hứa sẽ chu cấp mọi nhu cầu cần thiết cho ai theo đạo của chúng ta"
- Người thứ hai đem về 400 môn đệ. Anh nói: "Con hứa ai theo đạo thì sẽ được phúc thiên đàng".
- Người thứ ba đem về 300 môn đệ. Anh nói: "Con đe dọa rằng nếu ai không theo đạo thì sẽ bị phạt trong hỏa ngục. Thế nhưng người ta không tin lắm. Cho đến một hôm con đã nguyền rủa một con chó điên khiến nó chết liền tại chỗ. Thấy thế những người này đã theo con".
- Người thứ tư đem về 200 môn đệ. Anh nói: "Con tìm đến những người đơn sơ ít học và dùng nhiều lý luận khiến họ say mê và đi theo".
- Người thứ năm đem về 100 môn đệ. Anh nói: "Ðây là những người trẻ. Họ đang chờ một người lãnh đạo họ. Con đã thuyết phục họ đi theo con và họ đã theo. Con nghĩ rằng nếu mình không chiêu mộ họ thì cũng có những messia giả đến chiêu dụ họ mà thôi".
- Người thứ sáu chỉ đem về 12 môn đệ. Anh giải thích: "Con không thể gieo những hạt giống ngay mà phải chờ, vì đang là mùa đông, phải đợi đến lúc tuyết tan thì đất mới mềm và gieo mới được. Thế là con chờ. Ðang lúc chờ như thế, con kết bạn với một số người. Con cố gắng sống cho họ thấy cách sống của đạo chúng ta. Và con cũng chia xẻ cuộc sống của họ. Ðang khi chia xẻ cuộc sống như thế, con khám phá rằng họ rất coi trọng tự do đến nỗi nếu tước mất tự do của họ thì cũng là tước đi phẩm giá của họ. Con cũng học được nơi họ những điều tốt, chẳng hạn họ rất quảng đại và không sợ hy sinh. Con thành thật nói cho họ biết cái giá phải trả nếu muốn theo đạo chúng ta, nhưng con nhấn mạnh rằng nếu họ theo đạo chúng ta thì họ có thể làm được nhiều điếu tốt cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Xem ra những điều con nói đã làm họ cảm động. Tuy nhiên khi đến lúc phải quyết định thì chỉ có 12 người này chịu theo con".
Vị đạo sĩ khen người thứ sáu này.
Năm người trước đã giảng đạo bằng cách khai thác sự yếu đuối và sợ hãi của người ta. Những cách đó thật quá dễ, nhưng lại xâm phạm đến tự do nên người ta có theo đạo cũng vì miễn cưỡng. Còn người thứ sáu thì biết kêu gọi thiện chí bằng cách kết bạn với người ta và thuyết phục họ bằng chính gương sống của mình. Cách này tuy chậm và khó nhưng kết quả sẽ vững chắc và lâu bền. (Viết theo Flor McCarthy)
* 5. Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng
"Hãy đi rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc", đó là mệnh lệnh của Chúa khi Ngài từ biệt chúng ta.
Bây giờ Ngài không còn có ai trên thế gian ngoài chúng ta.
Ngài không còn tay để nâng người sa ngã ngoài tay của chúng ta.
Ngài không còn chân để đi tìm kẻ hư mất ngoài chân của chúng ta.
Ngài không còn mắt để nhìn những giọt lệ khổ đau âm thầm ngoài mắt của chúng ta.
Ngài không còn lưỡi để an ủi kẻ buồn sầu ngoài lưỡi của chúng ta.
Ngài không còn trái tim để yêu thương những người không được yêu thương ngoài trái tim của chúng ta.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con là những môn đệ nhút nhát và sợ sệt của Chúa. Xin ban cho chúng con lòng can đảm để làm chứng cho Chúa giữa thế gian, hầu Tin Mừng được rao giảng và người ta tìm được đường vào Nước của Chúa. (Flor McCarthy)
* 6. Loan Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo
Trong bài Tin Mừng này, có một câu mà nếu đọc kỹ từng lời thì ý nghĩa rất lạ. Ðức Giêsu bảo "Hãy loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo".
- "Thọ tạo" nghĩa là được Thiên Chúa tạo dựng nên. Mọi loài thọ tạo là tất cả những gì đã được Thiên Chúa tạo dựng nên. Không phải chỉ là loài người, mà còn là loài động vật, loài thực vật, đất đai, sông núi, bầu trời, tinh tú... Tóm lại là tất cả.
- Trong tất cả mọi loài đó, chỉ có loài người là vừa nghe vừa hiểu vừa cảm được. Cho nên loan báo Tin Mừng cho loài người thì có thể. Còn loan báo Tin Mừng cho những loài khác, thì làm sao mà làm được? Tôi nghĩ ra rằng tuy những loài ấy không thể đón nhận Tin Mừng theo cách của loài người đón nhận, nhưng chúng cũng có thể hưởng nhờ lợi ích của những giá trị Tin Mừng. Chính vì thế mà có những lời hô hào làm đẹp thiên nhiên, bảo vệ sinh vật, giữ sạch bầu khí quyển v. v.
- Rốt cuộc, loan báo Tin Mừng mang một chiều kích rất bao la. Loan báo Tin Mừng là sống vui bằng niềm tin của mình giữa mọi người khác, giữa thiên nhiên và giữa vũ trụ; đồng thời làm cho tất cả chung quanh mình đều tốt đẹp, vui tươi.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, mầu nhiệm Ðức Giêsu về trời được tôn vinh bên Chúa Cha, luôn luôn là điều khích lệ và nâng đỡ cho mọi Kitô hữu còn đang tại thế. Chúng ta cùng nhau dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây:
1. Chúng ta cầu xin Chúa cho mọi người Kitô hữu / biết luôn làm vinh danh Ðức Giêsu Phục sinh / trong khi thi hành những trách nhiệm trần thế nơi gia đình và xã hội.
2. Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều người trên thế giới / đang mất dần ý thức về Thiên Chúa hoặc cố tình dửng dưng với Thiên Chúa / được nhận biết Thiên Chúa là Cha và là nguồn hạnh phúc của họ.
3. Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều anh chị em chung quan chúng ta / đang gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc xây dựng đời sống cá nhân, gia đình và xã hội / được luôn kiên trì và hy vọng rằng / Ðức Giêsu Phục sinh và lên trời là bảo đảm cho hạnh phúc thật của họ.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho nhiều anh chị em chung quanh chúng ta / đang gặp nhiều khó khăn thử thách trong việc xây dựng đời sống cá nhân, gia đình và xã hội / được luôn kiên trì và hy vọng rằng / Ðức Giêsu Phục sinh và lên trời là bảo đảm cho hạnh phúc thật của họ.
5. Chúng ta cầu xin Chúa cho cộng đồng xứ đạo chúng ta đã tin Ðức Giêsu Phục sinh về trời / thì cũng luôn sống theo niềm tin đó / để cũng được sống lại và lên trời như Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha toàn năng, Chúa đã cho Ðức Giêsu Kitô phục sinh và về trời, xin giúp chúng con biết sống theo lối sống của Người, để mai sau cũng được hưởng vinh quang với Người. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
Kinh Tiền Tụng riêng cho lễ Thăng Thiên
Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
Trước lúc rước lễ: Chúng ta sắp rước Ðức Giêsu vào lòng. Hãy xin Ngài thêm sức giúp chúng ta chu toàn sứ mạng Ngài trối lại cho chúng ta tiếp nối. "Ðây Chiên Thiên Chúa..."
VII. Giải tán
Hôm nay Ðức Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa: "Anh em hãy đi đến với muôn dân...", "Anh em hãy làm chứng cho Thầy". Chúc anh chị em bình an.
78. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.
Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.
Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau "Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe... "
Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ "Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ?" Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ "Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa".
Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Đức mẹ "Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy?" Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói "Từ trời xuống". 3 em liền xin "Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi". Đức Mẹ mỉm cười đáp "Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2 em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.
Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào!
Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.
Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế:
Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ "Hỡi những người xứ Galilê sao còn mãi mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó... "
Còn 3 ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.
Thánh nữ Bernadette, cũng như Nữ Tu Luxia sau khi được thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết trước; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.
Nghĩa là làm sao? Nghĩa là: Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.
Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc Thiên Đàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ: Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kỵ nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những Lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xoá đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như: chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hoà giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những Lời Chúa dạy.
"Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mãi nhìn trời... " Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời "Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại".
Trong ngày lễ Chúa Thăng Thien, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta se không thụ động mãi mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. "Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mãi nhìn trời... " Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế: Làm cho cuoc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa.
79. Suy niệm của Lm. Thu Băng
CÁC CON HÃY ĐI RAO GIẢNG và LÀM PHÉP RỬA CHO HỌ
Trong một cuộc tổ chức cho các em chạy đua tiếp sức, tôi thấy lúc quan trọng nhất mà các em cổ động mạnh là lúc em đang chạy đưa cay gậy tiếp sức cho em kế tiếp, vì lúc đó là lúc quyết định được sự thành bại của cuộc chạy đua. Ai trao chậm là phần thắng chậm lại.
Cũng thế, Chúa Giêsu chính là người chạy xong phần của mình và đang trao cây gậy trách nhiệm tiếp sức cho các tông đồ chạy tiếp. Ngài ủy thác cho họ chu toàn công việc của Ngài đã làm nơi trần gian: "Hãy đi rao giảng, dạy cho muôn dân" (Mt. 28). "Hãy tiếp tục thay nhau làm chưng nhân về Thầy cho đến tận the" (Eph.1:17-23).
Trong thế kỷ này chúng ta làm cách nào để thi hành sứ mệnh Chúa trao ban: Làm nhân chứng và chỉ cho mọi người biết về Chúa?
Có nhiều phương cách để thực hiện:
- Nếu bạn vừa tốt nghiệp đại học, bạn hãy thực hiện như hai bác sỹ vừa ra trường: một người từ Chicago, một người từ Dallas được nhà thương Israel tại Boston nhận việc. Cả hai hợp tác với nhau, bàn chuyện với nhau để phục vụ bệnh nhân, khiến nhiều bệnh nhân kính ne và khen trường học đã đào tạo nên hai người (phục vụ tốt là đem bình an hạnh phúc của Chúa đến cho mọi người).
Hoặc như anh chị T... N.... tại St.Louis (MO) khi lập gia đình anh chị hứa với tôi sẽ tình nguyện đi phục vụ đồng bào tị nạn Hongkong 4 năm. Sáu năm sau gặp lại anh chị với 3 cháu nhỏ, tôi hỏi lại điều quyết định ấy, anh chị trả lời cách vui vẻ:
- Chúng con mua nhà ngay bên đó sinh sống và làm việc giúp dân tị nạn cho tới ngày nào đóng cửa trại, vì nhờ việc phục vụ này, nhiều người nhận được ơn cứ rỗi lắm.
Chúng ta cũng có thể làm điều mà nhiều người đang thực hiện mà không sợ xấu hổ, đi lượm lon trên các ngã đường đem bán lấy tiền giúp cho các trại cùi. Một người nói nhỏ với tôi: " Con làm việc thiện không sợ cùi" tức là bất chấp tiếng chê, dèm pha, chỉ trích, xét đoán lệch lạc.... "Con đã gửi về các trại cùi một số tiền không ai nghĩ tới $ 5,000 Đollas Mỹ".
Tuy nhiên còn nhiều phương thế khác chúng ta đã và đang chu toàn việc Chúa ủy thác và có lẽ còn về lâu về dài, còn đòi nhiều hy sinh cam đảm hơn nữa. Đó là làm chứng nhân và làm thầy dạy ngay trong gia đình, trong xứ đao, trong sở làm, trong chủng viện, trong môi trường cuộc sống.
Hãy cố gắng chu toàn nhiệm vụ Chúa đã trao ban; hãy nhẫn nại chịu đựng mọi phiền toái khi phục vụ; Hãy sống với mọi người như Chúa sống bên họ.... cũng chính là đem Chúa đến cho mọi người. Robert nói trong cuốn " Bản vũ nhạc của lý trí - Masque of Reason: Phần lớn người ta không thể nghĩ ra hết các sự việc đâu. Họ chỉ nhìn thấy những việc ấy qua hành vi người khác làm mà thôi".
Ông Trung Thành bạn tôi kể rằng: Ngày đó vợ tôi bị đau và cơn bệnh kéo dài khiến nàng bị kệt quệ cả về tinh thần lẫn thể xác. Cơn thử thách đè nặng trên tôi và làm sức khoẻ tôi cũng bị suy sụp. Bỗng một biến cố đã bị quên lãng từ hồi tôi mới 10 tuổi, chợt loé lên trong lòng. Biến cố ấy xảy ra khi mẹ tôi bị đau nặng. Nửa đêm hôm ấy tôi thức giấc vì khát nước, tôi đi ngang qua phòng ngủ của bố mẹ tôi, chợt tôi thấy bố tôi đang ngồi bên cạnh giường của mẹ và mẹ đang ngủ say. Tôi bước vào hỏi bố:
- Bố ơi, bệnh mẹ nặng lắm hả? Bố tôi bình thản trả lời:
- Không nặng đâu con, bố chỉ ngồi đây chờ đợi khi mẹ con thức giấc có cần gì thì bố làm cho mẹ thôi.
Nhờ nhớ lại biến cố ấy mà tôi có đủ can đảm cần thiết để phục dịch và đương đầu với hoàn cảnh.
Làm chứng cho Chúa và giúp cho người khác biết về Ngài chỉ là chia sẻ cho họ niềm tin và tình yêu mà chính mình đa tiếp nhận từ nơi Chúa, cho người khác. Sứ điệp Thăng Thiên chỉ đơn giản có thế. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tiếp nhận từ nơi Ngài, đồng thời Ngài sai chúng ta tiếp tục trao ân cho đồng loại, giúp mọi người, tốt với moi người theo bất cứ cách thức nào Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta.
80. Loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Tin Mừng Máccô kết thúc với câu 16,8. Tuy vậy, một số Kitô hữu thuộc thế kỷ i-ii đã tìm cách "bổ túc" truyện sách Tin Mừng bằng cách thêm vào những cảnh mà họ nghĩ rằng tác giả Mc hẳn cũng đã thêm vào nếu ngài viết tiếp. Đoạn văn 16,15-20 nằm trong Phần Kết phụ trội thứ nhất gọi là "Phần Kết Dài" hay là "Phần Kết Vô Danh", từ c. 9 đến c. 20 của chương 16. Phần này nói đến những cuộc hiện ra của Đức Giêsu với bà Maria Mácđala và với các môn đệ để thúc giục họ, tức Hội Thánh, đi loan báo Tin Mừng khắp nơi. Các nhà truyền giáo không có gì phải sợ, bởi vì Đức Giêsu Phục Sinh vẫn ở với họ. Các độc giả tinh ý sẽ thấy có một số đề tài trong các câu này không giống gì với những điều họ đã thấy trong TM II. Họ cũng còn có thể nhận ra nơi các đề tài này âm vang của những cảnh quen thuộc ở trong các Tin Mừng khác, được quy tụ lại để làm cho phần kết của Mc (16,8) bớt đột ngột (x. Ga 20,11-18; Lc 24,13-35; Mt 28,16-20).
Bản văn chúng ta đọc hôm nay tập trung vào sứ mạng phổ quát của các tông đồ, và giống như Lc 24,36-53, nó kết thúc với việc Đức Giêsu lên trời mà các ông thấy được. Bài không hề xác định nơi chốn. Tác giả chỉ muốn chúng ta lưu ý đến điều cốt yếu: sứ mạng được giao phó cho các môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (16,15-18);
2) Lên trời (16,19);
3) Ra đi thi hành sứ mạng (16,20).
3.- Vài điểm chú giải
- Nhóm Mười Một (14): Đây chính là Nhóm Mười Hai trước đây, nhưng nay chỉ còn mười một tông đồ, vì Giuđa không còn nữa. Nhóm mang nơi mình dấu chỉ của sự sa sút. Chính là với Nhóm này mà Đức Giêsu đã hiện ra và giao sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và giao sứ mạng, điều này có nghĩa là Người đã tha thứ cho họ, và lòng cứng tin của họ đã được thắng vượt.
- Tin Mừng (15): Nội dung của sứ điệp phải loan báo không được giải thích, mà lại được tổng hợp trong khái niệm "Tin Mừng". Do khái niệm này được nối kết với "các thọ tạo", nó gần với Cl 1,23. Công thức này đã được chuẩn bị trong Do Thái giáo, nơi mà Thiên Chua được ca ngợi là vua của toàn thể công trình tạo thành của Ngài (Gđt 9,12), là chúa tể của muôn loài thọ tạo và có lòng yêu thương muôn loài thọ tạo (x. 3 Mcb 2,2.7; 6,2. Sách 3 Mac không thuộc về Kinh Thánh). Vậy Tin Mưng phải loan báo chính là quyền chúa tể của Đức Kitô Phục Sinh trên toàn thể thọ tạo.
- phép rửa (16): Các phản ứng của con người trước sứ điệp Tin Mừng là tin hoặc không tin. Đức tin có kèm theo thái độ sẵn sàng lãnh nhận phép rửa. Phép rửa nhân lãnh trong đức tin đưa tới ơn cứu độ trong cuộc phán xét chung cuộc. Trong Tt 3,5 và 1 Pr 3,21, phép rửa và ơn cứu độ được nối kết với nhau. Sự đối lập giữa cứu độ và kết án khiến ta nhớ đến Ga 3,18. Tuy nhiên, ở đây bản văn hướng đến cuộc phán xét chung.
- những dấu lạ đi theo (17): Khác với những gì xảy ra ở Mc 8,11t, dấu (lạ) được dùng theo nghĩa tích cực. Dấu lạ không đi trước đức tin và cũng không diễn tả một uy quyền chỉ được ban riêng cho các môn đệ (như ở Mc 6,7-13), mà phải được dùng như là cách Thiên Chúa chuẩn nhận cho những ai đã trở thành tín hữu. Dấu lạ cho thấy Đức Kitô là vị Chúa tể mới của tạo thành, Người muon ban ơn cứu độ cho toàn thể tạo thành. Năm loại phép lạ quy chiếu về sách Cv: đuổi quỉ (Cv 16,16-18), nói tiếng lạ (Cv 2,1-11), cầm rắn độc (Cv 28,3-6), chữa bệnh (Cv 31-10; 9,31-35; 14,8-10; 28,8t). Còn thuốc độc có lẽ dựa theo một truyện kể nào đó (chẳng hạn chuyện sử gia Êusêbiô kể về Giúttô Bácsaba; x. Hist. Eccl. 3,39,9). Lc 10,19 có nói đến khả năng đạp trên rắn độc và bọ cạp. Các dấu lạ xảy ra "nhân danh Thầy", tức là với việc cầu khẩn danh Đức Giêsu. Như thế, Đức Giêsu được tôn vinh tiếp tục ở với cộng đoàn của Người và hoạt động.
- Chúa Giêsu được đưa lên trời (19): Danh hiệu "Chúa Giêsu", rất quen thuộc với Phaolô và sách Cv, chỉ xuất hiện ở đay trong các Tin Mừng. Đấng Phục Sinh, Đấng được tôn vinh, chính là Kyrios (chúa tể), là Kosmokrator (chúa tể vũ trụ). Cuộc lên trời của Đức Giêsu giả thiết có hình ảnh của Kinh Thánh về thế giới (= lên trời), được mô tả phỏng theo cuộc lên trời của ngôn sứ Êlia (2 V 2,11; 1 Mcb 2,58).
- Ngự bên hữu Thiên Chúa: Câu này dựa theo Tv 109 (110), 1 muốn nói rằng nay Đức Giêsu có tất cả quyền năng của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (15-18)
Ta thấy lệnh truyền của Đức Giêsu quá rõ ràng và cấp bách, nhưng trong thực tế, dường như không phải thế: Đức Giêsu không cho biết rõ khoảng thời gian kéo dài từ khi Ngươi sống lại đến khi Người quang lâm; Người không loan báo rằng các Dân ngoại sẽ dần dà đi vào trong Giáo Hội trước khi xảy ra phán xét chung; các tông đồ đã phải mò mẫm tìm kiếm phương hướng hoạt động, với sự giúp đỡ cua Chúa Thánh Thần (x. Cv 10; 11,1-8; 15,7-11...). Dù sao, ở đây, chúng ta thấy sứ mạng của Giáo Hội nơi Dân ngoại đã trở nên rõ ràng, không ai phản đối nữa: các tông đồ phải ra khỏi môi trường Do Thái giáo mà loan báo Tin Mừng cho "mọi loài thọ tạo". Công thức này tương đương với Mc 1,10 và Mt 28,19: "mọi dân tộc"; chỉ loài người mới có thể nghe rao giảng và đáp lại bằng đức tin. Tuy nhiên, cũng có thể, trong chiều hướng của thánh Phaolô (Rm 8,19-22; Cl 1,1-23), tác giả nghĩ đến ảnh hưởng của công cuộc Đấng Cứu thế thực hiện trên toàn vũ trụ.
Tại sao lại "loan báo Tin Mừng cho muôn loài thọ tạo"? Cây cối có thể nghe Tin Mừng? Khi người ta nghe theo sứ điệp của Chúa Kitô, phải chăng tất cả vũ trụ sẽ được biến đổi? Điều này sẽ được thánh Phaolô giải thích trong Thư gửi người Rôma: "Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người... với niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang" (Rm 8,19-21). Khi chúng ta sử dụng các thọ tạo sai cách, chúng ta làm điều dữ. Khi sứ điệp Tin Mừng thay đổi con tim chúng ta, muôn loài thọ tạo cũng sẽ được cứu chuộc; chúng không còn bị sử dụng cho điều xấu nữa, mà được sử dụng đúng mục tiêu của chúng như khi chúng được tạo thành: một phương tiện để yêu thương và sống hạnh phúc. Sứ mạng của các môn đệ là làm việc để cho có một nhân loại mới và một thế giới mới chào đời.
Đức tin chính là lời đáp trả lời rao giảng và được liên kết với phép rửa tội (Cv 2,41; 8,12...).
Còn về các dấu lạ, trong Hội Thánh lúc ấy, không phải bao giờ các dấu lạ cũng được các tông đồ thực hiện; nhiều lần Thánh Thần hành động nơi và qua các thính giả (x. Cv 10,44-46). Các dấu lạ được kể ra như là những ví dụ, và được chứng thực trong sách Cv.
* Lên trời (19)
Tác giả đã liên kết hai thực tại không thuộc về cùng một bình diện, một bên là một cuộc tỏ mình hữu hình của Đức Giêsu Phục Sinh kết thúc những cuộc hiện ra, được diễn tả bằng ngôn ngữ của sách Cv (x. Cv 1,1-11); một bên là một cuộc tôn vinh trên thiên quốc, gắn liền với cuộc Phục Sinh (x. Ep 4,10; 1 Tm 3,16...). Thật ra, tác giả Mc không tường thuật một biến cố xảy ra trước mặt các khán giả. Các độc giả sẽ sai lầm nếu tưởng tượng Thăng Thiên như một "cuộc rời bỏ nhau", "một chuyến ra đi", "một sự biến mất". Đức Giêsu không ở quanh quẩn đâu đó trong vòng bốn mươi này trước khi lên trời. Người đã đi vào vinh quang của Cha Người ngay sau khi chết. Ngày Thăng Thiên không phải là một lễ từ biệt, mà là một lễ mừng sự hiện diện. Điều mà tác giả muốn kể cho chúng ta là Đức Giêsu Nadarét, đã bị lính Rôma giết vào trước lễ Vượt Qua, không hề bỏ rơi các môn đệ Người mãi mãi. Người đã sống lại và tiếp tục sống với họ. Cách thức hiện diện thì khác, nhưng Người không bỏ rơi họ. Trước khi sống lại, Người không thể ở với mọi người tại mọi nơi chốn. Nay đã được tôn vinh, Người có thể hiện diện ở mọi nơi. Người có thể ở với mọi người chúng ta.
* Ra đi thi hành sứ mạng (20)
Tác giả quan tâm khẳng định rằng trong hoạt động truyền giáo, các tông đồ (và sau các ông, là Hội Thánh mọi thời) có thể cậy dựa vào sự hiện diện tuy vô hình nhưng hữu hiệu của Đức Giêsu đang ở trên thiên quốc với tất cả quyền năng Kyrios của Người.
Ngay ngày hôm nay, việc loan báo Tin Mừng cũng phải có kèm theo các dấu lạ, nhưng các dấu lạ này không phải là những mánh lới phù chú ma thuật, nhưng là những dấu chỉ cho thấy thế giới mới như các ngôn sứ và tác giả Mc đã từng lon báo.
+ Kết luận
Bởi vì các nhà chuyên môn cho rằng Kết dài của TM Mc là một huấn giáo về Phục Sinh, chúng ta có thể đối chiếu bản văn với 1 Cr 15,1-11. Cuộc gặp gỡ với một nhóm môn đệ giới hạn trở thành nền tảng cho các biến cố liên hệ đến Đức Giêsu Phục Sinh. Giới hạn về thời gian giữa cuộc Phục Sinh và Lên Trời đảm bảo cho tính hợp pháp của các chứng nhân chọn lọc, nhưng cũng cho thấy cuộc Phục Sinh là như một kiểu trở lại tam thời của Đức Giêsu trong một cuộc sống trần thế. Quan trọng là đi loan báo Tin Mừng "khắp nơi" và chỉ khi loan báo như thế, người môn đệ mới trải nghiệm sự hỗ trợ thường trực của Đức Chúa được tôn vinh vẫn đang ở lại trong cộng đoàn mình.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nay đã sống lại, đã được tôn vinh, Đức Giêsu có thể hiện diện với từng người trong chúng ta. Có thể gọi Thăng Thiên là lễ nhân ra nhiều sự hiện diện của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa đích thực của Thăng Thiên, nên chúng ta có thể thực sự hạnh phúc và chan hòa niềm vui. Đức Giêsu Phục Sinh là Chúa tể (Kyrios) nhưng vẫn đang "cùng hoạt động" với các môn đệ Người, với mỗi tín hữu đang dấn thân cho sứ vụ Người giao phó.
2. Nhìn vào Nhóm môn đệ, chúng ta nhớ đến tập thể trong đó chúng ta đang hiện diện: gồm những con người bất toàn, có thất trung. Nếu hôm nay, chúng ta còn có thể ra đi loan báo Tin Mừng, là vì Đức Giesu Phục Sinh đã tha thứ và khôi phục tư cách cho chúng ta. Sống đời thừa sai là làm chứng rằng chúng ta đã được ơn tha thứ và chúng ta đã gặp Đấng Phục Sinh.
3. Địa bàn hoạt động của người môn đệ là thế giới, "khắp tứ phương thiên hạ"; đối tượng họ gặp gỡ là mọi người và từng người trên đường họ đi, "mọi loài thọ tạo". Người môn đệ của Đấng Phục Sinh không được để cho những phân biệt về màu da, ngôn ngữ, chủng tộc,... làm cho mình ngần ngại ra đi chia sẻ Tin Mừng cứu độ.
4. Hôm nay chúng ta đang làm các "dấu lạ" nào? Phải chăng chúng ta cứ muốn Thiên Chúa làm các phép lạ, hay là chính chúng ta cũng muốn thực hiện các "dấu lạ"? "Dấu lạ" có phải la chính sự hiện diện khiêm tốn, nhân ái và có khả năng "chữa lành" của chúng ta? Con người hôm nay có cảm thấy rằng Đức Giêsu đã lên trời, vẫn đang ở cùng chúng ta tại đây chăng?
81. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
LỜI KẾT THÚC (16,9-20).
Những câu kết thúc Tin Mừng Maccô không phải là của chính tác giả. Trong nhiều thủ bản quan trọng người ta không thấy có đoạn này. Ngoài ra, văn phong trừu tượng ở đây khác hẳn lối viết cụ the và đầy màu sắc của Maccô. Do đó các nhà chuyên môn cho rằng đoạn này được “thêm” để xóa đi cảm giác hụt hẫng kết thúc với câu 16,8: các bà sợ hãi và bỏ chạy ra khỏi ngôi mộ trống.
Tuy nhiên, không phải đoạn này chẳng có giá trị gì: nó vẫn là Thánh Kinh được linh hứng. Cũng như ba Tin Mừng khác, nó thuật lại “những lần Chúa Giêsu hiện ra” trước tiên là với các phụ nữ, rồi đến các môn đệ, và cuối cùng là với nhóm các Tông đồ (x. Mt 28,9-20; Lc 24,13-49; Ga 20,11-29). Nhưng ở đây, tác giả soạn thảo đoạn kết này dưới hình thức một bản “tóm lược”, không nhiều chi tiết, chủ yếu dựa vào Luca và kế đó là Gioan. Trước hết, Chúa Giêsu hiện ra với riêng một phụ nữ nhiệt thành nhất trong “đám phụ nữ theo chân Ngài” (c.9). Lần hiện ra này với Maria Magđala được tường thuật chi tiết ở Gioan (Ga 20,11-18). Luca cũng nói bà này là người trung thành với Chúa Giêsu, như Gioan đã nhận định về bà Maria Magđala, truyền thống lại coi đó là kẻ bị “bảy quỷ dữ ám”, và là người phụ nữ có lòng hối cải. Nhưng ta cũng biết rằng Chúa Giêsu cũng trục xuất quỷ khỏi các bệnh nhân (ví dụ 3,10-11) Maria Magđala có thể không phải là một phụ nữ tội lỗi ghê gớm lắm đâu, mà là một bệnh nhân nguy kịch được Chúa Giêsu chữa lành…
Trong cả bốn Tin Mừng, các phụ nữ, chẳng hạn như Maria Magđala ở đây, là những người đầu tiên đã tin va rao giảng Tin Mừng, dù rằng thuở ấy họ không đóng một vai trò công khai nào cả (c. 10-11). Ta cần ghi nhận rằng đoạn Thánh Kinh này đã cho thấy được các môn đệ quả hết sức phiền muộn khi thấy Thầy mình đã chết đi. Họ chịu đựng cảnh tang tóc và không hề tin rằng Thầy Phục Sinh. Trái lại, Maccô nhấn mạnh là các bạn hữu Chúa Giêsu là những kẻ rất cứng lòng tin, họ chẳng hề tin vào lời các phụ nữ, những người đã thấy rõ ràng Chúa đang sống (Lc 24,9-11). Việc Chúa Giêsu hiện ra cách riêng với hai môn đệ cũng được Maccô đề cập tới (c.12). Đó chính là cuộc gặp gỡ kỳ diệu với “hai lữ khách trên đường Emmau” theo như Luca kể lại (Lc 24,13-35). Những tiếng “dưới một hình dạng khác” chỉ về chính Chúa Giêsu “mà họ không nhận ra được” khi Ngài đồng hành với Cleopas và một người bạn khác (Lc 24,15-16). Câu tiếp theo (c.13) là một lời lên án các ông Tông đồ cứng lòng tin.
Sau khi đã thất bại trong hai lần cố tỏ mình ra cho các môn đệ, cuối cùng liệu Chúa Giêsu có gặp được đức tin nơi những kẻ hết sức gần gũi với mình không? Tệ hại hơn thì có (x.14)! Lần này Chúa Giêsu hiện ra thẳng với nhóm Mười Hai trừ Giuđa. Theo các Tin Mừng thì chính nhóm các Tông đồ sẽ trở thành chứng nhân đích thực cho Chúa Phục Sinh. Vậy mà Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng quở trách các ông cứng lòng tin và chai đá. Về việc này sách Tin Mừng nào cũng đều có ghi lại cả: phản ứng đầu tiên của các ông là nghi ngờ, cực kỳ nghi hoặc (x. Mt 28,17’ Lc 24,37-38; Ga 20,25-27). Ta chớ quên thực tế lịch sử đã chắc chắn xảy ra đúng như thế! Sau khi đã quở trách những chứng nhân tương lai, tác giả Maccô không cho biết thêm gì về những dấu chỉ Chúa Giêsu cho họ xem hầu họ có thể nhận ra Ngài cả (x. các dấu tích thương tổn trong Lc 24,39; Ga 20,20). Rồi Ngài sai họ đi rao giảng. Và đó chính là mục đích của những lần Chúa Giêsu hiện ra. Quy mô hoàn vũ của sứ mạng đó thật quá hiển nhiên (c.15). Ở đây ta có thể đánh giá được ý thức lạ thường của Giáo Hội sơ khai hồi bấy giờ. Giáo Hội nhận thức được rằng Tin Mừng phải được rao giảng cho hết mọi người, khắp cả thiên hạ.
Rồi Chúa Giêsu nói thêm rằng đức tin của người chịu thanh tẩy sẽ cứu rỗi được họ, ai từ chối tin thì sẽ bị kết án (c.16). Qua câu này ta thấy biểu lộ một quan niệm rất sống động nơi Giáo Hội vừa mới khai sinh. Sự công bố Tin Mừng nhất thiết phải đi kèm với việc trở lại đạo: phải tin. Phép rửa đến sau như thể là một đăng quang tất yếu cho kẻ có được đức tin. Đức tin quy tụ các tín hữu vào cộng đoàn cứu rỗi (x. Cv 2,38; Mt 28,19). Không được tách lòng tin ra khỏi phép rửa –và ngược lại- đồng thời cũng không được tách họ ra khỏi con đường cứu độ họ đã quyết tâm dấn bước. Kẻ nào từ chối đức tin –với ý thức tự do- khi đã biết đến Tin Mừng, kẻ ấy tự kết án chính mình vậy. Có lẽ tác giả muốn nói về thảm trạng của dân Chúa đã chọn, dân đã kịch liệt chối bỏ Chúa Giêsu chăng? Cuối cùng là những dấu chỉ đi kèm người tín hữu hầu họ chu toàn được sứ mạng lãnh nhận.
Trong thuở còn sinh thời, Chúa Giêsu đã làm nhiều dấu chỉ về sứ điệp được tin nhận. Trong Công Vụ Tông đồ, ta thấy các Tông đồ đã làm nhiều phép lạ để chứng thực lời rao giảng của họ (x. Philipphê: Cv 8,4-7; Phêrô: Cv 9,32-43 v.v…). Ở đây ta thấy có liệt kê các dấu chỉ, ít nhiều “phi thường”. Đuổi trừ ma quỷ kiểu như trong y học thời cổ đại (Cv 5,12-16; 16,16-18), “nói” tiếng lạ đôi khi là đặc sủng của Thánh Thần (Cv 2,4-13; 10,44-46; 9,10-17), đặt tay trên bệnh nhân để chữa lành (Cv 4,30; 9,10-17), bắt rắn trong tay mà vẫn bình an vô sự như chuyện kể về Phaolô (Cv 28,3-6). Toàn bộ các dấu chỉ này, một số rất xa xưa (chứng tỏ thời Chúa Giêsu ảnh hưởng văn hóa Đông phương rất thịnh hành), thảy đều minh chứng cho uy quyền tuyệt đối của Đấng Phục Sinh trên các quyền lực sự Ác và sự Chết. Đây chính là sứ điệp của Tin Mừng, sứ điệp mang lại một sức mạnh cứu rỗi.
Sau bài tường thuật cuối cùng về những lần Chúa Giêsu hiện ra với mười một Tông đồ, sai các ông đi rao giảng và hứa ban cho các ông những dấu chỉ hỗ trợ, tác giả kết thuc bằng một loạt những hình ảnh hùng hồn (c.19). Với một câu văn cô đọng, tác giả đã đặt độc giả vào một tình trạng mới mẻ của Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài “được rước lên trời”. Đó là Thăng Thiên, một lối diễn tả có tính Kinh Thánh, hình tượng hóa việc Chúa Giêsu Phục Sinh từ giã cõi trần để về cùng Thiên Chúa trên chốn trời cao. Việc các người công chính và lành thánh được đưa về trời cao, sau khi họ đã trải qua cuộc sống trần thế này cùng với Thiên Chúa, là một chủ đề thường gặp trong truyền thống dân Do Thái (x. Hônôc: St 5,24; Êlia: 2V 2,9-18). Nhưng mục đích đến của Chúa Giêsu khi về trời lại đặc biệt hơn. Văn bản ghi rõ: Ngài “ngự bên hữu Thien Chúa”. Nghĩa là Chúa Giêsu hoàn toàn trở nên Đấng Mêsia, và Đức Chúa do việc Ngài sống lại. Thiên Chúa đã ban cho Ngài thông phần đầy đủ vào quyền năng tối thượng của Đấng Xét xử và Cứu độ của hết thảy mọi người trong thời cuối cùng (x. Maccô 12,35-37: phác họa và Cv 2,32-36: triển khai).
Ở đây ta không thấy nói gì đến ơn cần thiết ban xuống trong Lễ Ngũ Tuần (ngược với Cv 2,32-33; Ga 20,22). Nhưng dù sao thì ơn ban “Mêsia” cốt yếu của Chúa Kitô Phục Sinh cũng đã khiến các môn đệ dấn thân hoàn toàn vào niềm tin Phục Sinh. Chính Thánh Thần mà họ sắp lãnh nhận mới giải thích trọn vẹn được việc thi hành chương trình rao giảng được đề cập đến trong câu cuoi cùng (c.20). Mười một Tông đồ sắp rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Và lời rao giảng (đến từ Thiên Chúa và được Thánh Thần linh hứng) sẽ được đi kèm với các dấu chỉ để mọi người tin).
Một lần chót, chúng ta đã thấy rõ Giáo Hội thuở mới khai sinh đã hết sức ý thức được sứ mạng rao giảng cho muôn dân trên khắp cả thế giới, loan báo sứ điệp hạnh phúc của Đấng Mêsia chịu đóng đinh nay đã sống lại và khai mở nguồn ơn cứu thoát cho hết mọi người. Lời cuối cùng nhấn mạnh đến sự hiện diện sống động và hết sức hữu hiệu của Chúa Giêsu trong hoạt động truyền giáo. Chính Đấng Phục Sinh cùng “làm việc” với các tín hữu. Tin Mừng có sức cứu rỗi hết thảy những ai làm chứng cho Tin Mừng, và tiếp nhận Tin Mừng trong đức tin (xem gương Phaolô trong thư gởi giáo hữu Rôma 1,1-7).
82. Chú giải của Noel Quesson.
Những câu từ 9 đến 20 của chương cuối cùng Tin Mừng theo Thánh Maccô không có trong những văn bản cổ xưa nhất vì có nhiều Giáo phụ trong Giáo Hội không biết đến những câu này. Ý kiến thông thường là những câu này đã được thêm vào do một tác giả khác không phải là Thánh Maccô (cách hành van cũng có khác). Dầu vậy, đoạn cuối này vẫn “Hợp luật Giáo Hội” và là một phần bản văn chính thức của Thánh Kinh đã được linh ứng. Nên đó cũng là “Lời Chúa” như tất cả Tin Mừng. Đàng khác chúng ta nhận thấy nhũng cau này không có gì “mới lạ”. Tác giả vô danh đã tóm lại đoạn cuối của những bản Tin Mừng khác. Trước tiên đoạn này có giá trị thần học. Chúng ta sẽ lưu ý đến điều mà tác giả nhấn mạnh trong đoạn này: “Đức Giêsu phục sinh nói với 11 tông đồ: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho tất cả loài người”.
Nếu chúng ta hiếu kỳ đọc câu liền trước câu này, chúng ta sẽ thấy: Đức Giêsu hiện ra cho 11 môn đệ thấy, Người trách sự cứng lòng của các ông vì các ông đã không tin theo những người đã trông thấy Chúa sống lại (Mc 16,14). Như thế chúng ta đột ngột đi từ chỗ Chúa Giêsu trách cứ nặng nề sự không tin của các môn đệ đến việc Người sai các môn đệ đi rao giảng khắp thế giới. Dĩ nhiên là tác giả đã tóm lược lại qua những trình thuật khác. Chúng ta biết rằng, ban đầu các môn đệ đã “không tin”. Nhưng trình thuật tóm tắt này nhắc nhở trong lòng chúng ta rằng: Chúng ta không nên trì trệ trong những hoài nghi và do dự Đức Giêsu sống lại đã thúc đẩy “Các môn đệ”. Không đếm xỉa đến việc họ không tin, Đức Giêsu chủ động, đặt niềm tin cậy nơi các ông còn đang bất toàn -Hai đong từ chia vào mệnh lệnh cách: ”Anh em hãy đi” và “Hãy rao giảng”, hai cách nói này diễn tả một động lực mãnh liệt biết bao!
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không đợi chúng con –Giáo Hội Chúa cũng chưa hoàn hảo, những môn đệ cũng không hoàn hảo, và con cũng không hoàn hảo nhưng đó không phải là nguyên cớ để chúng con không làm gì cả.
“Khắp thế giới” - “Tất cả loài người”.
Những dự án, chương trình của chúng ta nhỏ nhen và tầm thường biết bao. Đưc Giêsu mời gọi các bạn của Người loại trừ thói quen nhỏ nhen, để đến gặp gỡ mọi người. Có sứ vụ, thì phải có khởi hành, phải ra khỏi chính mình, ra khỏi thế giới tinh thần nhỏ bé của mình. Đối với các môn đệ, họ phai ra khỏi môi trường Do Thái để đi về phía dân ngoại. Đối với chúng ta cần phải quan tâm đến những nền văn hóa mới, chấp nhận những tư tưởng hiện đại, lắng nghe những ước vọng tân thời, ”rời bỏ sự thoải mái trí thức của những tư tưởng sẵn có”, để làm cho những người không suy nghĩ như chúng ta hiểu được chúng ta.
Nếu chúng ta trung thành với chiều hướng phổ quát này, chúng ta sẽ thích thú để thấy những nơi vừa mới được Tin Mừng hoá đã có những ngôn ngữ mới để loan báo tin mừng. Chúng ta sẽ cầu nguyện sao cho “những lục địa nhân loại” mới, những tâm thức mới đến được Giáo Hội, dù có phải xáo trộn một chút những gì đã có sẵn của chúng ta. Tin mừng dành cho “toàn thế giới” và cho “toàn nhân loại”.
Anh em hãy loan báo Tin Mừng.
Từ Hy Lạp ở đây là “Kèrussein”, nghĩa đen là “la lên”. Tin Mừng trước tiên là một tiếng “kêu”. Chúng ta tìm gặp lại được chiều hướng này của những Kitô hữu đầu tiên trong đức tin –Chúng ta đã quá trí thức hoá, chương trình hoá, tổ chức hoá việc rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu đã nói: ”Hãy kêu to” Tin mừng cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta thuyết phục “hay” chứng minh – Nhưng đơn giản chỉ làm chứng tá với sự vui mừng và sức mạnh của đức tin chúng ta. Than ôi có những người Kitô hữu không muốn làm chứng nhân như thế. Họ cứ rên siết, lên án, chỉ trích, đoán xet – Lạy Chúa xin cho chúng con sự vui mừng có sức lôi cuốn mà Chúa đòi hỏi nơi chúng con – ước gì gương mặt chúng con tỏ lộ cho anh em biết sự vui mừng đến từ Chúa. Nếu đối với chúng con, đức tin tôn giáo là một điều buon tẻ, thì tốt hơn là chúng con nên im lặng về vấn đề này. Nếu đó là một “Tin mừng”, “Tin tốt” thì xin sự mừng tốt đó phát triển ra từ da thịt chúng con, trên môi miệng chúng con thành ra một tiếng kêu hân hoan.
Ai tin và chịu phép rửa sẽ đượ cứu độ, còn ai không tin sẽ bị kết án.
Nếu Tin Mừng phải được rao giảng lớn tiếng cho mọi người, thì con người cũng có thể chấp nhận hay từ chối một cách tự do. Việc rao giảng Tin Mừng thể hiện một sự “xét xử” gần như là “phiên toà xử Đức Giêsu”. Một số đáp lại bằng đức tin, một số khác bằng “sự không tin” – Dĩ nhiên, không thể đẩy xuống địa ngục vô số con người thiện chí nhưng không thể tin vào Tin Mừng. Cũng khong thể tưởng tượng một sự can thiệp của Chúa để trừng phạt. Toàn bộ Thánh Kinh chứng minh rằng Chúa không kết án ai, nhưng cứu rỗi tất cả mọi người. Không bao giờ đặt vấn đề: ”Chúa có tha tội cho tôi không?”. Mà là “Toi có chấp nhận sự tha thứ mà Chúa đã ban cho từ trước hay không?”. Nói cách khác, kẻ nào biết rõ mà lại cố tình chối bỏ Tin Mừng, thì không phải Chúa kết án người đó, mà chính người đó tự kết án mình.
Làm sao hiểu được điều này?
Hiểu đơn giản như sau: Ngoài Tin Mừng, ngoài Chúa Giêsu Phục sinh và Hằng sống, không có sự cứu rỗi, không có câu giải đáp cho số phận con người hay chết. Ngoài Đức Giêsu, con người thực sự chỉ hư mất, số kiếp của con người ngắn ngủi. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người ra khỏi số kiếp của nó. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người khỏi phải “chỉ là một con người” mà thôi. ‘Kẻ nào tin? kẻ nào không tin?’. Đây là phan thưởng đặc biệt cho sự tự do của chúng ta. Nhưng có một điều chắc chắn là: Không ai bị bắt buộc phải sống đời đời với Đức Giêsu nếu người đó không muốn -Đức Giêsu tôn trọng chúng ta. Ngài không ép buộc chúng ta.
Những ai có lòng tin, sẽ làm được các dấu lạ này: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ được ma quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ có cầm phải rắn hay uống nhầm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh hoạn yếu đau thì những người này sẽ được mạnh khoẻ”.
Con người thời nay không thể đặt “câu hỏi” về ma quỷ, rắn, bệnh tật và những chất độc khác mà con người tin Chúa được miễn nhiễm. Những “dấu lạ” được hứa này chỉ là những giá trị điển hình, phù hợp với thời đại mà Kitô giáo được nảy sinh giữa cộng đồng dân ngoại, trong đó những “Thầy phép” (phù thuỷ) là những ông vua.
Độc giả ngày nay phải hiểu những “dấu lạ” này theo nghĩa tượng trưng. Điều vẫn đúng là: Người “tín hữu” cùng với Đức Giêsu sống lại, phải lao vào trận chiến chống lại “tất cả những lực lượng thù địch, nô lệ hoá và làm mất phẩm giá con người”, tất cả những gì “đầu độc” nhân loại. Ngày nay có những “dấu lạ” tương ứng với những dấu lạđược tác giả Tin Mừng kể ra trên đây đối với thời của ông. Chúng ta hãy tự hỏi xem ngày nay cái gì có thể là “dấu lạ” cho mình thời bây giờ. Chúng ta đừng coi thường “năng khiếu sinh ngữ” vì ngôn ngữ là một phương tiện truyền thông tuyệt hảo, và nó là một “ân ban của Chúa Thánh Thần”. Lạy Chúa xin cho mọi Kitô hữu “khả năng một ngôn ngữ mới” để có thể làm cho Tin Mừng đi vào trong những “tâm hồn mới lạ” (chưa đón nhận Chúa).
Còn về khả năng “săn sóc và chữa bệnh cho người đau yếu” thì chúng ta biết người anh em chúng ta cần đến năng khiếu này như thế nào. Tin Mừng là một sức mạnh cứu rỗi, một nguồn hạnh phúc mà Kitô hữu có trong tay. Vậy thì chúng ta chớ khoanh tay không làm gì cả, chúng ta phải biết xây dựng chúng.
Nói xong Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Tác giả vô danh chỉ có nhắc lại mà không dàn cảnh cụ thể những gì mà thánh Luca đã kể (Cv 1,9). Chúng ta nên lưu ý rằng, trong hai cách nói này, một cách có thể có giá trị lịch sử đối với con người chúng ta, (sự biến mất được nhìn thấy rõ ràng của Đức Giêsu), trong khi cách nói kia hoàn toàn căn cứ vào đức tin (việc bay lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa). Chúng ta coi chừng đừng “vật chất hoá” cách diễn tả này: Thiên Chúa không có “bên phải” hay “bên trái” gì cả, Người cũng không “ở trên” trời hay “ở dưới” đất. Trong tâm thức thời đó, hình ảnh bầu trời xanh gợi lên thế giới thần thánh và người ta cũng đã có nói về một vài vị hoàng đế La Mã nào đó đã “lên trời”. Đối với Đức Giêsu, sự Thăng Thiên hoàn toàn khác: Người đạt đến Vương quyền trên toàn vũ trụ, và để diễn tả điều này, người ta dùng đến ngôn ngữ Thánh Kinh trong Thánh vịnh 110,1: “Lời truyền dạy của Thiên Chúa cho Chúa toi: Hãy ngự bên phải của Ta”. Những từ ngữ gợi hình này nói lên một ý nghĩa thần học về thực tại Đức Kitô Phục sinh: Chúa vinh quang, một thực tại mà ta không nắm bắt được bằng giác quan hay lý trí con người, một thực tai mà ta chỉ có thể đạt đến bằng đức tin.
Còn các tông đồ thì đi rao giảng khắp nơi.
Dường như các ông không để chậm trễ một giây nào. Các ông lên đường ngay lập tức. Đây cũng là một “dấu lạ”. Ngôi mộ trống … “Họ ra đi”… “họ lên đường “…
Chuá cộng tác với họ và dùng dấu lạ điềm thiêng mà xác nhận lời họ giảng.
Đức Giêsu không còn “ở trong mồ” nữa. Người đồng thời “ngự bên hữu Thiên Chúa” và “hoạt động với các môn đệ”. Đây là dấu lạ mà chúng ta không có từ ngữ nào để diễn tả sự phong phú của mầu nhiệm Thăng Thiên. Những từ ngữ đúng nhất có lẽ lại là “một hiện diện ẩn khuất”, một hiện diện sinh động đang “hành động” dưới hình thức của mot lời nói.
83. Chú giải của Fiches Dominicales.
ĐỨC GIÊSU HIỆN RA LẦN CUỐI
VÀ SAI CÁC MÔN ĐỆ ĐI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Trong đoạn kết thứ hai của Tin Mừng Maccô
Đoạn kết của Tin Mừng Maccô, dùng trong lễ Thăng Thiên năm B này, thực ra là đoạn kết thứ hai của Tin Mừng này. Thực vậy thoạt tiên -như các bản chép tay cho thấy- Tin Mừng Maccô kết thúc ở đoạn các phụ nữ đi viếng mộ Chúa và các bà im lặng vì sợ hãi: "Các bà không hé cho ai biết điều gì, vì các bà sợ". Hiển hiện những hàng trên đã có từ rất lâu (đã được thánh Irênê, Giám mục Lyon vào cuối thế kỷ thứ hai công nhận thuộc về Tin Mừng thánh Maccô) và đã được Giáo Hội nhận vào quy điển, nghĩa là thuộc về Kinh Thánh được linh ứng.
2) Việc sai đi trong một sứ mạng phổ quát
Đoạn kết này cắt ngang những truyền thống mà ta thấy ở nơi khác, trong các Tin Mừng khác. Đức Giêsu hiện ra với 11 Tông đồ "khi họ đang ăn”. Sau khi đã khiển trách những kẻ đã thấy Người sống lại" mà vẫn không tin (14), Người sai họ lên đường sứ mạng.
Đó là một sứ mạng phổ quát: "Hãy đi khắp thế giới. Hãy rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật” J. Hervieux nhận xét: "Ta có thể lường được ý thức của Giáo Hội sơ khai. Giáo Hội sơ khai biết mình được kêu gọi đem Tin Mừng cho hết mọi người, hết mọi tạo vật ("Tin Mừng theo thánh Maccô", Centurion, trang 238).
Đó là một sứ mạng có "các dấu lạ đi kèm”: Những dấu lạ đó đoạn kết thứ hai của Maccô kể ra và ta thấy minh hoạ trong sách Công vụ các Tông đồ: trừ quỉ nhân danh Đức Giêsu (Cv 5,12-16; 8,9; 16,16-18); nói tiếng lạ (một đoàn sủng đôi khi đi tới ơn Chúa Thánh Thần (Cv 2,4-13; 10, 44-46); đặt tay chữa bệnh (Cv 4, 301 9,10-17); cầm rắn mà không sợ nguy hiểm (Cv 28,3-6). Đối với một vài người thì những dấu chỉ cổ điển ấy muốn diễn tả uy quyền tất định của Đấng Phục Sinh thang những thế lực sự ác và sự Chết. L.Monloubou viết: '(Xuyên qua bảng liệt kê bằng thứ ngôn ngữ kỳ diệu của thời ấy, ta thấy xuất hiện niềm xác tín rằng sự phục sinh của Đức Giêsu đem đến một chất men làm đổi mới con người: một ‘tạo dựng mới’ đã bắt đầu nhờ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Mới, vì mọi tâm màn che dấu chân lý về Thiên Chúa đã bị xé rách. Mới, vì mọi rào cản chia cách con người đã bị loại bỏ. Và mới, vì mọi sự ác day vò con người trong quá khứ nay đã bị khuất phục: Sự thể hiện chiến thắng này không toàn vẹn; trần gian luôn phô bày bộ mặt của một thế giới trần trụi, nhưng đã có những dấu chỉ cho thấy cuộc chiến thắng sẽ hoàn tất ("Tin Mừng theo thánh Maccô, Salvator, trang 166).
Những dấu chỉ ấy có thể thay đổi, tuỳ theo khung cảnh văn hoá. Nhưng điều cốt lõi vẫn luôn luôn, như trong mọi dấu chỉ Đức Giêsu đã thực hiện, là mặc khải một chút về tình yêu của Chúa Cha mà sứ điệp đã loan báo.
3) Và loan báo sự hiện diện huyền nhiệm của Đấng Phục sinh:
Bức tranh Chúa Thăng Thiên chỉ được chấm phá bằng vài nét như kết thúc cuộc mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu. Người được "cất lên trời" giống như Êlia trong sách Các Vua 2,11; Người ngự "bên hữu Chúa Cha”, Người được tôn phong là Kitô và là Chúa, ứng nghiệm lời Thánh vịnh 110,1 nói về Người: “Đức Chúa đã nói với Chúa tôi: Hãy ngồi ben hữu Ta”. Nhưng việc thăng thiên không mở ra một giai đoạn vắng mặt của Đức Giêsu, mà đánh dấu một "khởi điểm”, khởi đầu một hiện diện mới cho các môn đệ, một hiện diện tích cực đem lại vô vàn hiệu quả cho hoạt động truyền giáo của họ. Đoạn kết thứ hai của Maccô kết luận: "Có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
BÀI ĐỌC THÊM.
1) "Hãy đi khắp thế giới, rao giảng Tin Mưng cho mọi tạo vật"
(G. Bessière, trong "Thiên Chúa rất gần, năm B", DDB, tr. 68-69).
Bản văn không đề cao hiện tượng kỳ diệu của việc lên trời, nhưng nhấn mạnh sứ mệnh của các tông đồ. Các ngài mang đi một tin bất ngờ, một tin mừng cho "mọi tạo vật'? Đó là ơn cứu độ, ơn giải phóng, ơn chữa lành, đương đầu với mọi nguy cơ để đổi thay thế giới, cho nhân loại mới ấy, nhân loại ngồi bên hữu Thiên Chúa ấy được hiện hữu và lớn mạnh. Lịch sư đâu có thể nhờ một chiếc đũa thần mà biến đổi trong tích tắc mà phải qua hằng bao thế kỷ, hằng bao thiên niên kỷ, như một nắm men âm thầm nhưng phải luôn luôn khơi dậy Tin Mừng này, để Thánh Linh Thiên Chúa tái tạo bo mặt địa cầu.
Suốt dòng thời gian, các môn đệ sẽ là những "chứng nhân hăng say": “cho đến tận cùng trái đất", nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu ra đi, nhưng Người không vắng mặt, trái lại dường như cuộc ra đi này còn làm cho Người hiện diện nhiều hơn qua tất cả những người tiếp tục đón tiếp, sáng tạo và mưu tìm một thế giới mới. Họ cũng sẽ là những kẻ làm phiền vì tin rằng nhân loại có thể tiến xa hơn trên con đường công bình, tha thứ và yêu thương. Những con người mơ về một nhân loại thần linh này (humanité divine) sẽ luôn luôn phản kháng những gì là hỗn loạn, tồi tệ và chai lì trong đời sống cá nhân cũng như tập thể. Họ cũng sẽ trở thành muc tiêu tấn công của những chủ nhân sống một đời sống trì trệ, những tay quản lý ù lỳ và phó mặc cho số phận, những kẻ tôn thờ tiền bạc. Nhưng ngay cả trong cơn bắt bớ, những con người thân cận với Chúa Cha, Chúa Con va Chúa Thánh Thần ấy, những người đã được rửa tội trong trong tai ấy, sẽ nghe thấy trong bản thân một tiếng nói bí ẩn thầm thì: “Thầy ở với các con cho đến ngày tận thế".
2) "Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh"
(Đức Cha L. Daloz, trong "Vậy người là ai?", DDB. tr. 109-1 10).
Đức Giêsu chứng minh sự hiện diện phục sinh của Người. Đoạn kết của Tin Mừng Maccô kể lại tóm tắt một vài tình huống chứng minh cho việc này. Đó là 3 tình huống khác nhau: Đức Giêsu ‘xuất hiện', "tỏ mình ra" cho Maria Madalena, cho hai môn đệ, cho mười một Tông đồ. Những chứng nhân ấy sẽ đi loan truyền điều họ đã thấy. Người ta không tin các ngài; trong lần sai đi cuối cùng này cũng thấy nói đen "ai tin" và "ai không tin”. Đức Giêsu phải "áp đặt" sự hiện diện của Người vì biến cố phục sinh quả thực là bất ngờ. Người khiển trách sự chậm tin và sự cứng lòng của họ, không tin lời những người đã thấy người sống lại”. Đoạn kết Tin Mừng này thật ngắn ngủi, vắn tắt như một bài điểm sách. Biến cố Phục sinh đâu cần chi đến những lời lẽ dao to búa lớn, những bài diễn văn dài dòng. Biến cố có đó để mời gọi đức tin. Biến cố tự nó đã có sức thuyết phục, có tính cách quyết định và đòi hỏi một quyết tâm. Biến cố quá mãnh liệt đã mở ra một tương lai và một chân trời bao la cho: "Toàn thế giới" và mọi tạo vật? Tin Mừng đầy ắp một sức mạnh phục sinh, có khả năng xuyên thấu bề dày tăm tối của thế giới, đem đến cho nó một chất men mới. Đó là ý nghĩa của những dấu chỉ này. Sức mạnh của Tin Mừng được biểu lộ qua con số không nhỏ những dấu chỉ này và tính cách phi thường của chúng, sức mạnh đó không chỉ là những lời nói suông, nhưng còn là chất men biến đổi cuộc sống. Các môn đệ có thể lên đường rao giảng. Đối với các ông, dù đã được cất lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, Chúa vẫn tiếp tục hoạt động và xác nhận Lời. Ngày nay, đến lượt chúng ta, chúng ta cũng được sai đến tận cùng thế giới để làm chứng nhân cho Tin Mừng, nhờ sức mạnh của mầu nhiệm Phục Sinh".
84. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
RAO GIẢNG TIN MỪNG CHÚA CHO THẾ GIAN
Các Tin mừng để lại cho chúng ta 5 trình thuật hiện ra của Chúa Giêsu phục sinh cho các sứ đồ: Mt 28,16-20; Mc 16,14-20; Lc 24,36-39; Ga 20,19-29; Ga 21,1-23. Thay vì phối hợp các chi tiết theo một thời biểu giả tạo, thiết tưởng nên theo sự gợi ý của Descamps mà xếp đặt chúng (ít nhất trong tâm tưởng) "thành 5 cột song song... như bấy nhiêu cách diễn tả văn chương về cùng một loại thị kiến Đấng Phục sinh ban cho các sứ đồ" (Albert Descamps, La structure des récits évangeliques de la Résurrection, trong Biblica 40 (1959) tr.741, chú thích 1). Một truyền thống lịch sử vững chắc đã cống hiến cho các tường thuật gia một sơ đồ chung, theo đó các sứ đồ sau khi tỏ vẻ ngờ vực, rốt cùng đã nhận ra Chúa Giêsu đang sống qua nhiều kinh nghiệm khách quan, và đã hiểu rằng Đấng Phục sinh truyền lệnh cho họ tiếp tục chương trình thiên sai khởi từ Giêrusalem. Trên sơ đồ chung này, mỗi tác giả hình ứng đã ghép thêm nhiều khai triển riêng, tùy theo các truyền thống đặc biệt và các ý hướng thần học riêng tư của mình.
Đoạn văn Mc 16,15-20 của chúng ta là một trong năm trình thuật lịch sử-thần học đó. Nó tập trung như các trình thuật khác trên sứ mệnh phổ cập của các sứ đồ, và chia sẻ với Lc 24,36-53 - mà nó lấy cảm hứng - cái đặc điểm là kết thúc với việc Thăng thiên-hữu hình. Ngoài ra, chỉ duy mình nó là chẳng cho một xác định nơi chốn nào cả: không có gì hỗ trợ sự ưu tiên (có lẽ có) của những cuộc hiện ra tại Galilê trên những cuộc hiện ra tại Giêrusalem hay ngược lại. Cố ý hay không, tác giả chỉ tập trung tất cả chú ý của chúng ta vào điểm cốt tùy: sứ mệnh được trao cho các môn đồ.
1) SỨ VỤ LỆNH PHỔ QUÁT
c15: "Và Người (Chúa Giêsu) nói với họ (nhóm Mười một): "Hãy đi khắp cả thiên hạ, rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo.
c16: Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bất luận tội.
c17: Và này những dấu lạ sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng.
c18: Chúng sẽ cầm rắn thẳng tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng đặt tay cho kẻ liệt nào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe".
a- Sai phái các kẻ rao giảng Tin mừng (c. 15)
Người ta thình lình đi từ lời trách moc nghiêm khắc về sự cứng lòng (c.14) sang sứ mệnh phổ cập. Tác giả giản lược hóa: chắc chắn ông giả thiết rằng nhóm Mười một, như Tôma trong trình thuật Gioan, đã chậm tin khi Chúa Giêsu tỏ mình cho họ; nhưng ông không quan tâm đến việc các môn đồ "nhận ra" Chúa Giêsu, cũng chẳng tìm cách thể chất hóa sự "tỏ hiện" của Người: ông đi thẳng vào sứ vụ lệnh.
Lời phát biểu mệnh lệnh này, "biểu lộ cách tuyệt diệu tinh thần Kitô giáo" (V.Taylor, The Gospel according to Saint Mark, London, 1957, tr.612), không thể bắt nguồn y nguyên như thể từ Chúa Giêsu, cũng như lời phát biểu tương tự trong: Mt 28,19-20. Nếu Chúa Giêsu đã ban cho nhóm Mười Một một mệnh lệnh rõ ràng và cấp thiết như thế, thì ta không cắt nghĩa được tại sao đã phải cần một sự can thiệp rất đặc biệt của Thánh Thần để thúc đẩy Phêrô rửa tội cho lương dân (Cv 10; 11,1-18; 15,7-11). Dĩ nhiên, trước khi tử nạn, Chúa Giêsu cho biết rằng những lương dân ngay chính sẽ được đón nhận vào Vương quốc Thiên Chúa trong thời cánh chung (Mt 8,11-12; 25,32; x.11,20-24; 12,41...). Nhưng khi đặt cơ cấu cho cộng đoàn thiên sai bằng lời hứa ban quyền năng tông đồ, Người đã không nói rõ khoảng cách kéo dài giữa cuộc sống lại và cuộc Quang lâm của Người, cũng chẳng loan báo việc lương dân lần hồi đi vào Giáo hội trước ngày Chung thẩm (xem J.Jeremias, Jésus et les paiens, Neuchâtel. Delachaux et Niestlé, l956; J. Dupont, Jésus et les paiens, trong Rythmes du monde, 1957, tr.76-88). Thành thử dưới ánh sáng của các sấm ngôn Cựu ước và thái độ chỉ rao giảng cho người Do thái của Chúa Giêsu, các sứ đồ có thể đã tin rằng sau cuộc Phục sinh đặt Người làm Chúa của toàn thể vũ trụ, là tiếp liền cuộc Quang lâm của Người, và rằng chính Thiên Chúa gây nên lập tức sự trở lại thình lình của toàn thể thế giới bằng những điều kỳ diệu.
Dần dần họ hiểu rằng việc trở lại này không chờ đợi sự hoàn thành tối hậu của thời cánh chung mà cuộc phục sinh của Chúa Giêsu chỉ mới mở đầu, và rằng Chúa Giêsu vinh hiển đã trao cho chính họ nhiệm vụ khai mạc, ngay từ dưới thế, Chúa Quyền (eigneurie) của Người trên mọi dân tộc. Sự ý thức này đã được Thánh Thần hướng dẫn (Lc 24,49: Cv 1,8). Đặc biệt ý thức đó đã được hối thúc nhờ việc kêu gọi Phaolô và nhờ những cuộc tranh luận mà ông này đã tự động khởi xướng (x. Cv 15; Cl 2).
Trong đoạn kết của Maccô đây, tư tưởng trên đã tiến tới đích điểm. Sứ mệnh của Giáo hội bên cạnh lương dân đã trở nên rõ ràng, không chối cãi. Người ta chẳng còn gặp thấy ở đây lời đề cập đến quyền ưu tiên được rao giảng Tin Mừng của dân Do thái, vốn đã được thánh Phaolô không ngừng tôn trọng và đã được thánh Lc gợi lên (Lc 2-1,4; 7,1 "khởi từ Giêrusalem"; Cv 1,8: "Giêrusalem” trong toan cõi Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất (x. Cv 13-6t)
Thật vậy, lời phát biểu của c.15 xuất hiện khá trễ và tùy thuộc nhiều nguồn ảnh hưởng rất khác nhau (vốn không nhất thiết là những vay mượn trực tiếp). Tiếng đầu tiên ‘hãy đi’ cũng là tiếng dùng trong câu nói (logion) song song của Mt 28,19: các sứ đồ phải rời Giêrusalem để đi đến với mọi người "khắp muôn dân". Sứ mệnh đòi hỏi một việc khởi hành, ra đi khỏi xứ sở, khỏi moi trường xã hội hay khỏi vũ trụ tinh thần của mình. Đối với các sứ đồ, vấn đề là phải đi ra khỏi môi trường Do thái để đến "tận cùng trái đất" (Is 49,6), nghĩa là để quay về với lương dân, mặc dầu họ gần hay xa trên phương diện địa lý (x. Cv 13,46t).
Các chữ “hãy loan báo Tin mừng" thuộc ngôn ngữ truyền giáo chung của Giáo hội sơ khai; nhưng Maccô đã thích chúng cách đặc biệt, và chỉ mình ông trong bốn thánh sử viết "Tin Mừng" là không thêm một xác định nào khác, có lẽ do ảnh hưởng của Phaolô. Hai tiếng "loan báo" và "Tin mừng" được nối kết trong Mc 1,14; 13,10 (Mt 24,14); 14,9 (Mt 26,13), cũng như trong bản văn chúng ta đây. Bản văn này đặc biệt rất gần với phan Maccô thêm vào trong diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu: trước lúc Con Người đến trong vinh quang, các môn đồ đã phải làm chứng trước quyền bính dân ngoại, "vì trước hết Tin mừng phải được loan báo cho mọi dân tộc” (13,10).
Do động từ kerussein (loan báo), thông dụng trong sách Cv, phát xuất kerugma, "lời rao giảng" hay Sứ điệp, mà trong thực tế tương đương với Tin mừng. Các sứ đồ của những kẻ truyền bá Tin mừng, là những truyền lệnh sứ của Sứ điệp cứu rỗi vui tươi. Trong các diễn từ của Công vụ, "lời rao giảng" sơ yếu và "đánh động" thường nói về cuộc sống, nhưng nhất là về cái chết, sự sống lại và sự tôn vinh Chúa Giêsu, rồi loan báo việc Người trở lai như thẩm phán và Cứu Chúa. Đoạn kết giản lược của Maccô chẳng nói gì về đối tượng này của Sứ điệp hay của lòng tin tương ứng cả. Nhưng không thể hồ nghi rằng: đối với tác giả cũng như đối với tất cả lời rao giảng sơ khai, trung tâm của Tin mừng là cuộc tử nạn và sự tôn vinh Chúa Giêsu, được quan niệm như là một hành vi cứu chuộc cao cả duy nhất của Thiên Chúa: tác giả mặc nhiên ám chỉ điều này qua việc đặt sứ vụ lệnh nằm giữa cuoc phục sinh và Thăng thiên hữu hình. Vì đã thấy Chúa Giêsu lại sống và biến dạng, các sứ đồ sẽ phải loan báo khắp nơi biến cố trung tâm của lịch sử nhân loại ấy và ý nghĩa của nó cho thế gian; vì đã thấy được nâng len trời "Đấng mà hiện trời cao phải đón lấy cho đến thời buổi phục hồi vạn vật" (Cv 3,21), họ sẽ phải loan truyền rằng "chính Chúa Giêsu ấy sẽ đến cùng một thể như các ông đã thấy Người đi về trời".
Chính cho "mọi loài thụ tạo" mà Tin mừng được gọi đến. Thành ngữ tương đương với thành ngữ của Mc 13,10 và Mt 28,19: "mọi dân tộc". Vẫn biết chỉ con người mới có thể nghe lời rao giảng và đáp lại bằng đức tin. Nhưng chắc rằng tác giả, trong đường hướng của Phaolô (Rm 8, 19-22; Cl 1,1-23), cũng nghĩ tới âm hưởng mầu nhiệm của công trình cứu độ trên toàn thể vũ trụ.
b- Đức tin, lời đáp trả sứ điệp (c. 16)
Các lời rao giảng của Cv đều kết thúc bằng một lời kêu gọi hãy thống hối và đón nhận ơn tha tội bằng cách tin vào Chúa Giêsu và nhận lãnh phép rửa. Thành thử đức tin là sự đáp trả lời rao giảng (Cv 2,41; 8,12t; 11,20t; 14,1; 15,7; 17, 11-12.34; Rm 10, 14) và được liên kết với phep rửa một cách minh nhiên trong các bản văn (Cv 2,41; 8,12; 8,36tt; 16;33t). Ở đây cũng vậy, đức tin và việc chịu phép rửa là hậu quả tự nhiên của thái độ đón nghe Sứ điệp, được phát sinh bởi lời rao giảng, hành vi gắn bo đầu tiên với Chúa Kitô bằng đức tin (thì aoriste hy lạp chỉ một hành vi xác định, như trong Cv 2,44; 4,32) là điều kiện của ơn cứu rỗi; và ơn cứu rỗi này, được đặt tương phản với án phạt (trong ngày chung thẩm), xuất hiện như ơn cứu rỗi cánh chung, công trình của Chúa Kitô thẩm phán trong cuộc Quang lâm sau cùng của Người (x. Cv 3,20; 10,42t; 17,3ot; Rm 5, 10; 8,24; 13, 11; Pl 3,24 v.v...). Niềm vui này được tuyên xưng cách công khai trong việc lãnh nhan phép rửa, phép rửa này trở nên như dấu ấn của niềm tin và đem lại cho tín hữu, cùng với ơn tha tội, chính ơn huệ của Thánh Thần, là hoa trái đầu mùa hay là bảo chứng của ơn cứu rỗi (x Rm 8,23; 2Cr 1,22; 5,5; Ep 1,14).
Việc nhắc đến sự luận tội các kẻ không tin, mặc dù được đưa vào theo lối đối chiếu phản đề, vẫn không phải là giả tạo. Đối với Gioan, từ chối không tin chẳng phải là trọng tội và gần như là trọng tội duy nhất đó sao? Nhưng không có vấn đề kết án hỏa ngục cho bao nhiêu người vì ngay tình mà ở ngoài giáo hội (P.Benoit, Passion ét Résurrection du Seigneur. Paris, Cerr, 1966, tr.383-384, nhấn mạnh điều này); các thần học gia giải thích rằng: họ se có thể được cứu thoát nhờ đức tin và nhờ phép rửa bằng ước muốn.
c. Các dấu lạ (cc. 17- l8)
Trước khi chết, Chúa Giêsu đã thực hiện nhiều phép lạ và trừ quỷ dựa trên sức mạnh của lời Người; nhưng các Tin mừng Nhất lãm, vì phản ánh sự dè dặt của Người, nên khi nói về các việc quyền năng đó, đã tránh dùng chữ "dấu chỉ" vốn vẫn được sử dụng bởi đối phương, những kẻ ao ước chuyện ngoạn mục kỳ lạ. Nhưng sự dè dặt này biến mất trong phần còn lại của Tân ước, kể cả đoạn kết của Maccô đây, nơi hai lần đề cập tới việc "tháp tùng" của các dấu chỉ.
Ở câu 17, Chúa Giêsu hứa rằng các dấu chỉ sẽ tháp tùng "những kẻ tin" mà câu trước vừa đề cập tới. Thành thử thoạt nhìn, người ta tưởng đấy không phải là những phép lạ của các sứ đồ, song là những phép lạ được thực hiện bởi các thính giả đã tin; vì thế, Chúa Giêsu chẳng nói ‘các ngươi sẽ trừ quỷ’ nhưng ‘họ sẽ trừ’. Đàng khác, các dấu chỉ lại xuất hiện ở câu 20, với cùng việc sử dụng lạ lùng động từ "kèm theo", và chúng đóng vai trò củng cố lời của nhóm Mười Một, nhưng tác giả không nói rõ bởi tay ai mà chúng được làm.
Những điểm mơ hồ này có thể được biện minh bằng nhiều cách khác nhau. Không chối bỏ ơn làm phép lạ của nhóm Mười một, tác giả biết rằng họ là những tín hữu đầu tiên đã được hứa ban ơn đó, như Chúa Kitô trong Gioan hàm ý khi tuyên bố với nhóm sứ đồ: "Kẻ nào tin vào Ta, thì các việc làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Ga 14,12). Nhưng tác giả cũng cho hay rằng đặc sủng làm phép lạ, trừ quỷ, nói các thứ tiếng cũng đã được ban cho các tín hữu (x. 1Cr 12,28t), đôi lúc còn cho nhiều môn đồ không công khai nữa (x. Mc 9,38-40). Ông biết ngoài nhóm Mười Một, có nhiều "sứ đồ" khác được hưởng cùng đặc ân, nhất là Phaolô, Barnabe (Cv 14,3...). Sau hết ông cũng cho hay rằng những dấu lạ kèm theo và củng cố lời rao giảng của các sứ đồ không luôn luôn được thực hiện bởi tay họ, nhưng lắm lần Thần Khí xem ra đã hành động trực tiếp trong và qua các thính giả, như trường hợp "nói các thứ tiếng" của Cornêliô (Cv 10 44-46; x. Gl 3,4t...). Chắc hẳn đó là những lý đo giải thích cho thấy: vì vừa muốn vắn gọn vừa muốn chính xác, tác giả đã sử dụng nhiều kiểu nói hơi tối nghĩa và vụng về.
Các dấu chỉ hứa ban và vốn có giá trị như những thí dụ thích hợp với cái thời mà Kitô giáo phát sinh giữa lòng một ngoại giáo mê tín, được soi sáng nhờ sách Công vụ. Phaolô đuổi quỷ (Cv 10, 18) cùng thản nhiên giũ con rắn độc quấn vào tay ông (28,3-5; x. Lc 10, 19). Trong lễ Ngũ Tuần, nhóm Mười Một được xem như nói nhiều thứ tiếng ngoại quốc (2,3-11); trong lúc ở nhiều trường hợp khác, Cornêliô và thân thuộc (10,44-46), nhóm môn đồ của Gioan ở Êphêsô (19,6), những người Côrintô (1Cr 14) và chính Phaolô (14,18) nói một ngoại ngữ xuất thần. Nhờ việc đặt tay, Anania chữa lành Phaolô (Cv 9,12-l7) và Phaolô chữa lành cha của Publius (28,8). Theo lời Papias thì ông Giustô, kẻ từng tranh cử với Matthias để thay chân Giuđa trong Cv 1,23, "đã uống phải thuốc độc nhưng không bị khó chịu chút nào nhờ ơn của Chúa" (Eusèbe, Hiist. Eccl. III,39).
Chúa Giêsu đã tập cho các môn đồ thân tín nhất của Người sử dụng quyền trong chữa bệnh và trừ quỷ (Mt 10,8; Mc 3,15; 6,13; Lc 9,1; 10,9). Bây giờ họ sắp biểu dương, qua các dấu chỉ ấy, quyền lực cứu độ của Đấng phục sinh (chính "nhân danh Người" mà họ sẽ trừ quỷ) và như thế cho thính giả biết rằng lời của họ đáng tin tưởng. Sau họ, và bây giờ cũng thế, Chúa của Giáo hội và của thế giới đã tiếp tục và đôi khi đang tiếp tục "tỏ dấu chỉ" cho con người qua nhiều phép lạ vật ly. Tuy nhiên những phép lạ này đã trở thành một vũ khí rất đặc biệt của các tay thợ Tin mừng để hỗ trợ cho những dấu chỉ thiêng liêng hơn. Đức kiên nhẫn (2 Cr 12, l2) lòng vững tin và tính vô vị lợi (1Tx 2,2-12) Của các nha truyền giáo, phẩm chất nội tại của Sứ điệp, sự hợp nhất và thánh thiện của một cộng đoàn (Ga 13,35; 17,21) làm nên những dấu chỉ thông thường giúp Lời tác động trong các con tim, một khi sự tự do của đức tin và hành động nội tại của Thánh Thần dã được bảo đảm.
2) LÊN TRỜI.
c19: “Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Giêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa".
Sau khi "đá quả giao banh" cho sứ mệnh các sứ đồ Chúa Giêsu được trình bày như được nhắc về trời để nhận lấy Chúa quyền trên tất cả nhân loại (x. Cv 10,36; Rm 14,9), quyền là các sứ đồ phải loan báo và đề ra cho đức tin của người Hy lạp cũng như người Do thái (Rm 10,9-13), trong lúc chờ đợi quyền đó thi thố hoàn toàn vào ngày Quang lâm của Thẩm phán tối cao. Thật ra, trong câu tóm tắt của mình, tác giả đã gan dạ nối kết, theo một sự liên tục thời gian giả tạo, hai thực tại không cùng một bình diện: mot bên là cuộc tỏ mình hữu hình kết thúc chuỗi Kitô hiện để mô tả cuộc tỏ mình này, tác giả đã mượn công thức "nhắc về trời" từ trình thuật của Cv 1,1-11 bên kia là việc siêu tôn trên trời đi liền với việc Phục sinh (x. Ep 4,10; 1Tm 3,16; Dt 4,14; 6,19t; 9,24 v.v.) (Xem P.Benoit, L’ascension, trong Revue Biblique LVI (1949), tr.161-203 (= Exégèse ét théologie I, Cerf xb, 1961, tr.363-411); và mục Ascension của cùng tác giả trong Vocabulaire de théologie biblique). Dù việc "nhắc lên" này mà Cv 1,3 đã đặt 40 ngày sau Phục sinh và được mô tả cũng bằng những danh từ như cuộc nhắc lên của Elia (2V 2,11) có tính cách đặt chắc trên phương diện lịch sử đến đâu, thì vẫn là một biến co tự bản chất thuộc về chứng từ nhân loại; trái lại cuộc siêu tôn trên trời là một mầu nhiệm chỉ hiểu được bằng lòng tin mà thôi.
Mầu nhiệm tôn vinh Chúa Giêsu trong nhân tính thánh thiện của Người như thế được diễn tả ở đây, cũng như nhiều nơi khác (x. Rm 8,34; Ep 1,20; Cl 3,1; Cv 7,55; Dt 1,3. 13; 8,1; 10, 12; 12,2; 1 Pr 3,2 xem J.Dupont, Etudes sur les Actes des Apôtres (Lectio divina 45), Paris, Cerr, 1967, tl'. 267, 291-294; 385-390) dưới hình ảnh việc ngự bên hữu Thiên Chúa, mượn thánh vịnh 110 (109), Chính khi trích dẫn câu thánh vịnh này phối hợp với đoạn văn Đanien (7,13) gợi lên việc xuất hiện của Con Người trên mây trời, mà Chúa Giêsu đã loan báo trước Công nghị cuoc tỏ hiện sắp tới của thiên sai tính thần linh của Người (Mt 26,64-65), và chính cùng dựa trên bản văn này mà Phêrô, theo Cv 2,34-36, sẽ công bố trong ngày Ngũ Tuần: "Thiên Chúa dã đặt Người làm Chúa và làm Kitô". Khi phuc sinh Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã siêu tôn và phong Người làm Chúa: Ngài đã ban cho người "Danh hiệu vượt trên mọi đanh hiệu” (Pl 2,9) nghĩa là đã làm rạng rỡ thần tính trên nhân tính được tôn vinh của Người, và như thế thiết lập vương quyền phổ quát cho Người.
3) LÊN ĐƯỜNG THỰC THI SỨ MỆNH
c20: “Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bằng những phép lạ kèm theo". Không nhắc tới việc Thần khí đến cũng chẳng xác định họ ra đi từ đâu, nhưng "trình bày việc rao giảng Tin mừng theo gương chim bay" (Lagrange), tác giả cho ta thấy nhóm Mười Một trao ban Sứ điệp đến khắp mọi nơi mọi chốn. Mối bận tâm của ông là quả quyết rằng: trong mọi hoạt động truyền giáo của họ, các sứ đồ và sau họ là Giáo hội mọi thời, có thể tin tưởng vào sự hiện diện vô hình nhưng hữu hiệu của Chúa Kitô đang sống trên trời với tất cả quyền lực Kyrios. Không những Chúa Giêsu củng cố, bằng những dấu lạ, lời của các sứ giả Tin mừng (so sánh với Dt 2,3 1) như Người đã loan báo trong các 17-18, mà còn kết hợp "năng lực" của Đấng Phục sinh với nỗ lực của các sứ giả khiêm cung của Ngươi. Dưới một hình thức khác, nó cũng là ý tưởng của Mt 20,28: "Hãy đi... và này Ta ở với các ngươi mọi ngày cho tới tận thế".
KẾT LUẬN
Khi hiện ra với mười một môn đồ vốn chậm tin vào sự phục sinh của Người như thế, Chua Giêsu đã biến cải họ đến độ thành những nhà rao giảng gan dạ của Tin mừng, thành nền móng của Giáo hội Người lập. Nhờ họ, nhờ Phaolô và nhờ biết bao kẻ khác, Giáo hội đã lan rộng khắp hoàn vũ; nhưng còn lâu Giáo hội mới tin mừng hóa được thế giới và nhiệm vụ vẫn luôn tiếp tục. Vì thế, Chúa không ngừng nhắc nhở rằng Người hằng ở bên cạnh Giáo hội, hay đúng hơn trong Giáo hội với quyền năng soi sáng và thánh hóa mà cuộc siêu tôn trên trời đã mang lại cho Người, để khắp nơi và mọi thời, Tin mừng được cống hiến cho nhân loại và để những bảo chứng của ơn cứu rỗi được đổ tràn trên họ nhờ đức tin "thi thố bằng đức mến" (Gl 5,6). Cho các Kitô hưu nguội lạnh hay xao xuyến, cho tất cả chúng ta mà lòng dấn thân truyền giáo cần được khêu gợi, phấn kích, tăng cường. Mầu nhiệm Lên Trời nhắc nhớ rằng Chúa Kitô vinh quang luôn luôn hiện diện chủ động với Giáo hội va rằng Người cần đến chúng ta để tỏ tình ra cùng thế giới, "cho tới khi người đến lại" (1Cr 11,26). Maranatha!
Paul Ternant, Assemblées du Seigneur 28. tr.38-48
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Việc Chúa Giêsu Kitô lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha là cao điểm của cuộc Tử nạn phục sinh vinh hiển của Người. Từ đây, một khi đã sống lại từ cõi chết, Chúa Kitô không bao giờ chết nữa, cái chết chẳng còn quyền hành chi trên người (x. Rm 6,9). Người đã tiêu diệt sự chết để chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời; Người lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền Người (x. 1Pr 3,22).
2) Giữa những đau khổ, oan ức, những giả dối, bất công, ta hãy vững vàng tuyên xưng với toàn thể dân Chúa: "Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha và Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng" (Đường Hy vọng 679).
3) Đối với các môn đồ, việc Chúa Giêsu Kitô lên trời muốn dạy một bài học cụ thể: “Thành Đô chúng ta là ở trên trời" (Pl 3,20); "Anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Chúa Kitô đang ngự" (Cl 3,1). Điều đó không có nghĩa là phải xuất thế, xa lánh trần gian. Trái lại phải nỗ lực nhập cuộc, dấn thân: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho tất cả thụ tạo" (Mc 16, 15).
4) "Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và bảo đảm lời giảng bằng những phép lạ đi kèm". Khi thành công, người tông đồ không tự mãn vì ý thức rằng kết quả có được là bởi Chúa: "Không có Ta, các con không làm đươc việc gì" (Ga 15,5).
Lúc thất bại, người tông đồ không nản chí, tuyệt vọng: "Hãy nhìn lên Thánh giá, ôm choàng lấy Thánh giá và con sẽ thinh lặng đứng vững như Mẹ Maria" (x. Đường Hy vọng số 694).
5) Chúa Giêsu không còn hiện diện trên trái đất này như xưa, nhưng vẫn còn hiện diện cách hữu hình trong Hội Thánh hữu hình, trong lời Tin Mừng, trong các bí tích, trong những kẻ thay mặt Người. Chúa Giêsu còn hiện diện để kiện toàn Nước Thiên Chúa với chúng ta, là những kẻ phải làm chứng cho Người, phải làm cho trần gian thấy Người. Tại sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời? Phải dùng ơn Chúa ban mà xây dựng nước Trời ngày này sang ngày khác, trong bác ái, hy sinh, khiem tốn, để làm cho con người sống xứng đáng nhân phẩm, để loại trừ khổ đau và tội lỗi, để mọi người biết sống công bình, hòa thuận, yêu thương.
85. Chúa lên trời.
Hôm nay chúng ta mừng kính biến cố về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Hay nói đúng hơn chúng ta mừng kính việc Ngài được tôn vinh, làm chủ thế giới và vũ trụ. Bởi đó, chúng ta không hướng về trời theo nghĩa là hướng tới một điểm nào đó trong không gian, để rồi chỉ chờ đợi được di tản, được bốc đi khỏi chốn lưu đày ở thế giới này.
Chính vì thế, thánh Luca đã ghi lại lời hai người đàn ông mặc áo trắng nói với các môn đệ, sau khi Chúa đã lên trời: Này các bạn xứ Galilêa, sao còn đứng nhìn trời làm chi. Đức Kitô Đấng vừa lìa bỏ các bạn và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các bạn đã thấy Ngài lên trời.
Từ lời phán bảo này chúng ta nhận thấy: Người môn đệ của Chúa không được nhìn trời mà quên đi trái đất, nơi mà bổn phận đang chờ đón họ như lời Chúa Giêsu đã nói: Anh em sẽ làm chứng về Thày tại Giêrusalem, tại Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Ngày Chúa Giêsu ra đi là ngày sứ mạng của các môn đệ bắt đầu. Mơ tưởng tới một cõi trời cao mà quên đi sứ mạng được trao phó cho mình thực hiện nơi trần gian, chính là mơ tưởng một cách hão huyền. Nếu chúng ta có hướng lên trơi thì điều đó phải có nghĩa là chúng ta hướng tới những thực tại cao quí và tốt đẹp, khả dĩ giúp cho con người đạt tới những kích thước viên mãn của mình về mặt tinh thần, và cũng chỉ có thế mà thôi.
Đã đến lúc chúng ta cần phải dứt khoát với những quan niệm lỗi thời về một thiên đàng, về một nước Chúa lơ lửng trên không trung, một quê hương chúng ta coi là thật, ở một chỗ nào đó trên trời, khiến chúng ta lơ là, có khi còn khinh che cái thế gian phù vân, hư vô giả trá. Cái quê hương lầm than đau khổ như một thứ quê hương không thật.
Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là chúng ta sẽ đi tới một thái cực khác, đó là chỉ còn biết vui sự thế gian này, coi thế gian này như là tất cả, như là vĩnh cửu. Quê hương thật là trời mới đất mới, không đồng hóa với trần gian, nhưng cũng không đối lập với trần gian. Trái lại, trời mới đất mới chính là quê hương trần thế này được đoi mới nhờ Thánh Thần của Đức Kitô Phục sinh. Bởi đó chúng ta không nhìn lên trời, mà cần phải thiết tha hơn ai hết với sứ vụ Chúa đã trao ban, đó là đổi mới thế gian, xây dựng nước Chúa, kiến tạo một trời mới đất mơi từ chính cái nguyên liệu là thế giới, là xã hội chúng ta đang sống. Hay nói một cách khác đó là nhờ việc xây dựng xã hội này mỗi ngày một tốt đẹp hơn, bằng những hành động bác ái yêu thương, nhờ đó chính bản thân chúng ta sẽ đạt tới quê hương hạnh phúc nước trời.
86. Chú giải của William Barclay.
SỨ MẠNG CHO HỘI THÁNH
Như chúng ta đã thấy trong phần nhập đề, sách Phúc Âm Marcô chấm dứt ở câu 8. Chúng ta chỉ đọc đoạn này để xem no khác với các phần khác của sách Phúc Âm như thế nào, vì nó không có trong các bản chép tay cổ nhất. Đây là một bản tóm tắt được thêm vào sau này, nhằm thay cho phần kết thúc Maccô không còn sống để viết hoặc vì đa bị thất lạc ít lâu sau đó.
Điều quan trọng cần ghi nhận là bức tranh về Hội Thánh vẽ ra cho chúng ta. Rõ ràng người viết đoạn kết thúc này tin rằng Chúa Giêsu đã uỷ thác cho Hội Thánh một số nhiệm vụ.
1/ Hội Thánh có nhiệm vụ rao giảng. Đó là bổn phận của Hội Thánh, như thế cũng có nghĩa là nhiệm vụ của mỗi người Kitô hữu là phải thuật chuyện Phúc Âm của Chúa Giêsu cho những người chưa hề được nghe nói đến. Nhiệm vụ của Kitô hữu là phải làm người công bố về Chúa Kitô cho mọi người đều biết.
2/ Hội Thánh có nhiệm vụ chữa bệnh. Đây là một công việc chúng ta vẫn được thấy đi thấy lại nhiều lần. Kitô giáo quan tâm đến cả thân xác lẫn linh hồn con người. Chúa Giêsu muốn đem cả sự mạnh khoẻ cho thân xác lẫn linh hồn con người.
3/ Hội Thánh có nguồn của quyền năng. Chúng ta không hiểu mọi sự theo nghĩa đen. Chúng ta không tin đúng nghĩa đen, Kitô hữu cầm được rắn độc trong tay và uống nhằm thuốc độc mà không bị tổn hại gì. Nhưng ẩn đàng sau phần ngôn ngữ gợi hình ở đây là niềm tin rằng Kitô hữu vốn đã được đổ đầy quyền năng để đối phó với đời sống, một khả năng thích ứng với đời sống mà những người khác không có và không thể nào có được.
4/ Hội Thánh không hề bị bỏ mặc một mình để thực hiện công tác ấy. Chúa Kitô luôn luôn hành động với Hội Thánh trong Hội Thánh, và qua Hội Thánh. Chúa vẫn ở trong Hội Thánh, và Ngài vẫn là Chúa quyền năng.
Như vậy, sách Phúc Âm này kết thúc với thông điệp là: Kitô hữu sống trong sự hiện diện và quyền năng của Đấng đã bị đóng đinh vào thập giá và đã sống lại.
15/05 Đứng về phía Chúa
- Viết bởi Ga 16, 23b-28
Đứng về phía Chúa.
Thứ Bảy tuần 6 Phục Sinh.
“Cha yêu mến các con, bởi vì các con yêu mến và tin Thầy”.
Lời Chúa: Ga 16, 23b-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thật, Thầy bảo thật các con: điều gì các con sẽ nhân danh Thầy mà xin Cha, thì Người sẽ ban cho các con.
Cho đến bây giờ, các con chưa nhân danh Thầy mà xin điều gì. Hãy xin thì sẽ được, để các con được niềm vui trọn vẹn. Tất cả những điều đó, Thầy đã dùng dụ ngôn mà nói với các con.
Đã đến giờ Thầy sẽ không còn dùng dụ ngôn mà nói nữa, Thầy sẽ loan truyền rõ ràng cho các con về Cha. Ngày đó các con sẽ nhân danh Thầy mà xin, và Thầy không bảo là chính Thầy sẽ xin Cha cho các con đâu. Chính Cha yêu mến các con, bởi vì chúng con yêu mến Thầy và tin rằng Thầy bởi Thiên Chúa mà ra.
Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chúa Cha yêu mến anh em
Suy niệm:
Allah là tên của Thiên Chúa trong Hồi giáo.
Ngài được tôn kính bằng 99 danh hiệu khác nhau:
Đấng Tối cao, Đấng Nhân hậu, Đấng Toàn năng, Đấng Vĩnh cửu…
Danh hiệu thứ 100 sẽ được mặc khải ở đời sau.
Nhưng Allah không bao giờ được gọi là Cha,
vì Ngài không sinh con.
Kitô giáo yêu mến Đức Giêsu và tin Ngài là Con Thiên Chúa.
Thiên Chúa chính là Cha của Đức Giêsu.
Đức Giêsu vẫn gọi Thiên Chúa bằng tiếng Abba thân thương.
Cuộc đời Đức Giêsu nơi trần gian giống như một cuộc ra đi và trở về.
Ngài từ Thiên Chúa Cha mà đến thế gian (cc. 27-28),
rồi Ngài lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha, sau khi hoàn thành sứ vụ.
Sứ vụ của Ngài là vén mở cho môn đệ về Chúa Cha (c. 25),
và đưa họ đi vào chỗ thân tình gần gũi với Người Cha ấy.
Chúa Cha ở trong thế giới thần linh,
nhưng thế giới ấy lại có những cửa sổ mở ra với thế giới con người.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thầy Giêsu kêu mời các môn đệ
hãy mạnh dạn đến với Cha và nài xin.
Đây là điều trước đây họ chưa từng làm (c. 24a).
Đã đến lúc mạnh dạn đưa ra những thỉnh nguyện nhân danh Thầy Giêsu.
Nhân danh Thầy Giêsu mà xin cùng Chúa Cha
là điều vẫn nằm ở phần cuối của mỗi lời nguyện trong Giáo Hội.
Khi cầu xin nhân danh Thầy Giêsu, chúng ta hiệp nhất với Thầy,
nên lời xin của chúng ta dễ được Chúa Cha đoái nhận.
Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta mọi sự nhân danh Đức Giêsu (c. 23).
Hơn thế nữa, chính Chúa Cha cũng yêu mến chúng ta (c. 27),
và muốn cho chúng ta ơn lớn nhất
là đi vào tương quan với Ba Ngôi ngay từ khi còn sống ở trần gian.
“Cứ xin đi, anh em sẽ được,
để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (c. 24).
Khi sắp được về hưởng niềm vui bên Chúa Cha (Ga 14, 28),
thấy các môn đệ buồn phiền, Thầy Giêsu đã nói nhiều về niềm vui.
Thầy muốn chia sẻ cho họ niềm vui của mình,
Ba lần Ngài nói đến niềm vui trọn vẹn hứa ban cho họ (Ga 15,11; 16,24; 17,13).
Ngài còn hứa cho họ niềm vui mà không ai sẽ lấy được (Ga 16, 22).
Chuẩn bị mừng lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta xin được niềm vui đó,
niềm vui của những người đã chạm đến trời cao.
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại
nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: ĐẤNG TRUNG GIAN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Nay Thầy lai bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha”. Vai trò con thoi đi lại nối kết giữa hai nơi xa xôi diệu vợi như trời với đất, giữa hai đối tượng nghìn trùng cách biệt như Thiên Chúa với con người đã khiến Chúa Kito trở thành Đấng Trung Gian.
Người là Đấng Trung Gian tuyệt hảo vì đưa ta đến gặp gỡ trực tiếp với Đức Chúa Cha: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn”. Chúa Giêsu dẫn ta đến với Chúa Cha rồi để ta trực tiếp gặp gỡ với Chúa Cha.
Người là Đấng Trung Gian tuyệt hảo vì dẫn đưa ta đến tình yêu: “Thầy không nói với anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. Thật vậy, chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy”. Tình yêu Chúa Ki-tô dẫn ta đến tình yêu của Chúa Cha.
Người là Đấng Trung Gian tuyệt hảo vì dẫn đưa ta đến sự sống. Ta được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi trong vòng tròn tình yêu ngày càng lan rộng. Chúa Giê-su yêu mến Chúa Cha. Ta yêu mến Chúa Giê-su. Chúa Cha yêu mến ta. Tình yêu trao ban và nhận lãnh tạo nên một chuyển động không ngừng nghỉ làm phát sinh sự sống ngày càng sung mãn.
Các tín hữu thời sơ khai đã sống tinh thần trung gian tốt đẹp.
Thánh Phao-lô đi rao giảng, đi đến đâu cũng bị chống đối, nhưng thánh nhân vẫn yêu thương các giáo đoàn, đi lại thăm viếng khích lệ và làm cho tất cả các giáo đoàn được vững mạnh. A-pô-lô là người đạo mới, nhờ am tường Kinh Thánh và có tài hùng biện, đã thuyết phục được nhiều người, nhưng vẫn còn yếu kém về đạo, lập tức được vợ chồng Prít-ki-la và A-qui-la mời về nhà để bổ sung. Khi A-pô-lô muốn đi A-kai-a, anh em đã khuyến khích và viết thư giới thiệu cho các môn đệ để ông được đón nhận. Nhờ vòng tròn yêu thương ngày càng lan rộng đã làm cho sức sống của Giáo hội sơ khai mạnh mẽ và phát triển mau chóng.
Mỗi ngày ta có nhiều gặp gỡ, tiếp xúc, xin cho ta trở nên trung gian tốt lành để mọi cuộc gặp gỡ tiếp xúc của ta đều hướng dẫn mọi người đến với Thiên Chúa, xin cho những người tiếp xúc gặp gỡ ta đều hướng đến tình yêu, như thế cộng đoàn chúng ta sẽ có sức sống mạnh mẽ trong tình yêu nồng nàn.
SUY NIỆM 3: Đứng về phía Chúa.
Khi cuộc Nam Bắc phân tranh bùng nổ tại Hoa kỳ vào khoảng măm 1860, một vị giáo sĩ nọ đã đến gặp Tổng thống Abraham Lincoln và trịnh trọng phát biểu: “Thưa Tổng thống, chúng ta hãy tin tưởng rằng Thiên Chúa luôn ở phía chúng ta trong cuộc chiến này”. Nghe thế, Tổng thống Abraham Lincoln vặn lại tức khắc: “Tôi không mấy quan tâm về điều đó, vì tôi biết rằng Thiên Chúa luôn đứng về phía những người công chính, nhưng tôi luôn lo lắng và cầu nguyện để tôi và toàn dân Mỹ đứng về phía Chúa.
Lời phát biểu của Tổng thống Abraham Lincoln nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa và thái độ đích thực trong lời cầu nguyện của chúng ta. Cầu nguyện thiết yếu là xin cho được đứng về phía Chúa, chứ không lôi kéo Thiên Chúa đứng về phía mình.
Tin mừng Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy niệm hôm nay là đoạn kết trong diễn từ Tiệc ly. Một trong những đặc ân nơi cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu chính là cầu nguyện nhân danh Ngài. Chúa Giêsu là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người, cho nên từ nay chỉ trong Ngài, con người mới có thể cầu nguyện với Thiên Chúa một cách đúng đắn. Chúa Giêsu là trung gian duy nhất giữa con người và Thiên Chúa trong sự cầu nguyện, bởi vì Ngài vừa là vừa là con người vừa là Thiên Chúa: Ngài là người luôn đọc trong từng biến cố đời mình như một thể hiện chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa; Ngài là Thiên Chúa nắm giữ chìa khoá của chương trình cứu rỗi ấy và biết rằng Thiên Chúa luôn nhận lời Ngài.
Sinh hoạt nền tảng nhất của người kitô hữu chính là cầu nguyện. Nhưng mãi mãi, có lẽ chúng ta phải thốt lên như các môn đệ Chúa Giêsu: “Lạy Thày, xin dạy chúng con cầu nguyện” vì chúng con chưa biết cầu nguyện. Thay cho một lời giải thích về cầu nguyện. Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Kinh Lạy Cha, đó là tất cả cuộc sống của Ngài, một cuộc sống luôn diễn ra phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Như vậy, cầu nguyện là đi vào tri giao mật thiết với Thiên Chúa, hay nói như Abraham Lincoln là đứng về phía Chúa. Thật ra, thái độ nền tảng của cầu nguyện là ra khỏi chính mình và đi vào tương quan với người khác. Người không thể ra khỏi chính mình và sống tương quan với người khác, không thể cầu nguyện một cách đúng đắn theo tinh thần của Chúa Giêsu. Ai biết tôn trọng người khác và thiết lập với người khác tương quan đối thoại và lắng nghe, người đó mới có thể có đủ những điều kiện cần thiết để sống tương quan mật thiết với Chúa Giêsu Phục sinh.
Cầu nguyện là đứng về phía Chúa. Ước gì trong Chúa Giêsu Phục sinh, Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người, đồng thời là mẫu mực của cầu nguyện, cuộc sống của chúng ta luôn là một thực thi thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân. Nguyện xin Chúa Giêsu Phục sinh đồng hành với chúng ta để hiến cả đời sống chúng ta thành một lời cầu nguyện đẹp lòng Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Nói rõ sự thực
Hôm nay, tôi thấy lời của Đức Giêsu có vài điều nói thẳng, nói rõ ràng: “Bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha”, “Thầy không dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa”.
“Bây giờ Thầy bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha”. Một lời nói như của người bạn từ giã chúng ta, như của đứa con từ giã cha mẹ. Như cô dâu từ giã tổ ấm: Bây giờ con xin từ giã tất cả mọi người thân yêu trong nhà mà đi lập gia đình riêng. Hay như đứa con lớn từ bỏ nhà mà đi ở chỗ khác cũng nói: Con đi mua căn hộ khác để ở. Những người ở lại sẽ ngậm ngùi xúc động trước sự ra đi đó. Họ cảm thấy đời sống chua xót làm sao: “Ra đi là chết đi một tý”. Lúc này chúng ta cảm thấy rõ rệt nhu cầu con người cần sống hiệp thông với nhau và cần có mặt của người khác. Chia ly, chia rẽ khổ cực chừng nào!
Ngay cả lúc Đức Giêsu tỏ bày cho chúng ta biết Người ra đi có lợi cho chúng ta, chúng ta cần cảm thấy một sức nặng vắng mặt đè nặng trên chúng ta. Đức Giêsu sẽ không bao giờ có mặt như khi Người sống bằng xương bằng thịt nữa.
Câu nói thẳng thừng thứ hai là: “Thầy không còn dùng dụ ngôn mà nói với anh em nữa”. Thầy nói dụ ngôn đã trọn vẹn rồi. Dụ ngôn của Đức Kitô bây giờ là đi thẳng vào sự thực, trực tiếp chỉ biến cố.
Ngôn từ này rất rõ nét, rất chính xác, rất đích đáng và dễ hiểu. Trong một xã hội độc tài, những bất công, những bóc lột, nếu được phơi bày thực sự, được đưa ra ánh sáng, thì chúng ta thấy trong xã hội văn minh họ xử đối với con chó, con hải cẩu còn hơn con người trong xã hội tàn ác. Đó là điều thật dễ hiểu.
Khi Đức Kitô nói với chúng ta sự thật về biến cố: Người trở về đời sống hiệp thông với Chúa Cha, và cho chúng ta cảm thấy rõ ràng rằng nếu giữa chúng ta còn xảy ra những bất công, kiện cáo, tố cáo, cãi cọ và lãnh đạm, thì không thể nào tha thứ, không thể nào khoan dung được. Người tha thiết mời gọi chúng ta sống hiệp thông với Chúa Cha, hiệp thông với mọi anh em mình là con Chúa. Như vậy, chúng ta mới hiểu rõ được sự thực việc Đức Giêsu về cùng Cha.
C.G
SUY NIỆM 5: Ân sủng và sự thật
Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã từ Thiên Chúa Cha mà đến mới có đủ thẩm quyền để nói cho chúng ta biết sự thật quan trọng là Thiên Chúa Cha yêu thương anh em. Ngay nơi đầu Phúc Âm của mình, thánh Gioan đã thốt lên: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng ta đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người, là Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật”. Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật thì nhờ Chúa Giêsu Kitô mà có, không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Ðấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
Chỉ một mình Con Một Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô, Ðấng từ Thiên Chúa Cha mà đến mới có đủ thẩm quyền để nói cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha yêu thương anh em, và chỉ những ai đã đạt tới mức chiêm niệm cao sâu mới có thể cảm nghiệm, xác tín và tuyên xưng như vậy. Cùng với Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha yêu thương anh em, Thiên Chúa Cha yêu thương con người tội lỗi, yếu hèn của chúng ta. Trong thinh lặng, nhìn lại cuộc đời tội lỗi của mình, chúng ta đã cảm nghiệm được sự thật vừa nói như thế nào rồi. Cuộc đời chúng ta cần được xây dựng trong sự thật căn bản này: Thiên Chúa Cha yêu thương anh em. Nếu không phải do chính Chúa Giêsu Kitô, Ðấng từ Thiên Chúa Cha mà đến để mạc khải cho chúng ta sự thật này thì quả thật chúng ta không dám liều mọi sự, liều cả cuộc đời để tin và sống theo một vị Thiên Chúa vô hình và thường im lặng trước biết bao cảnh đời cùng khổ của con người cũng như của anh chị em trong xã hội.
“Thiên Chúa Cha yêu thương anh em”, đây là căn bản cho niềm vui của chúng ta cảm nghiệm trong linh hồn. Chọn sống cho một vị Thiên Chúa không ngừng tác động trong lịch sử, để chứng tỏ tình thương yêu đối với con người, mặc dù nhiều khi không đáp trả tình yêu của Ngài cách xứng đáng. Sự lựa chọn đó không làm chúng ta run sợ nhưng trái lại làm cho tâm hồn chúng ta cảm thấy nóng lên ngọn lửa sốt mến muốn hiến dâng mỗi ngày một trọn vẹn hơn.
Trong tuần lễ qua, suy niệm Phúc Âm chương 16 theo thánh Gioan, chúng ta đã chiêm ngắm về khía cạnh thiết yếu của đời sống Kitô, và một trong những khía cạnh quan trọng đó là cuộc đời của người đồ đệ cần được liên kết sâu xa với mầu nhiệm vượt qua của Chúa, để nếm hưởng niềm vui và làm ích cho anh chị em. Không có con đường nào khác để biến cuộc đời chúng ta trở nên nguồn phúc lợi cho anh chị em ngoại trừ con đường ra đi như Chúa. Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng và Ngài loan báo trước cho các môn đệ là sắp đến giờ Ngài ra đi không phải để đi mất mà là để hiện diện lại cách mới mẻ và sâu xa hơn: “Thầy từ Chúa Cha mà đến thế gian và giờ đây Thầy trở về cùng Chúa Cha”.
Từ nay công việc quản lý trần gian này để gây phúc lộc cho anh chị em trở thành công việc của chúng ta, cùng với sức mạnh của Chúa, sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Ðấng thay thế cho Chúa Giêsu để nâng đỡ, an ủi và hướng dẫn chúng ta. Và một trong những phương thế để giữ liên lạc, để có sức mạnh của Chúa đủ để trung thành cho đến cùng trong sự dấn thân hàng ngày của chúng ta cho Chúa và cho anh chị em, là cầu nguyện. Cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu. Cầu nguyện trong sự kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Có Chúa Giêsu cùng cầu nguyện với chúng ta thì chúng ta còn phải lo sợ điều gì nữa. Phải, điều đáng sợ không phải từ phía Thiên Chúa mà là từ phía chúng ta. Liệu chúng ta có để cho Chúa Giêsu ngự trong tâm hồn mình để cùng thưa chuyện với Thiên Chúa hay không mà thôi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được ghi nhớ mãi lời căn dặn của Chúa, đó là “Thiên Chúa Cha yêu thương các con”. Xin Chúa giúp chúng con sống mãi trong tình thương Chúa và múc lấy sức mạnh để từ đó mà phục vụ anh chị em trong mọi hoàn cảnh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: NHÂN DANH THẦY THÌ SẼ ĐƯỢC NHẬN LỜI (Ga 16,23b-28)
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất toàn của mình, cũng như sự giới hạn về uy tín. Vì thế, có những điều chúng ta muốn mà không được và phải cần đến một trung gian làm cầu nối cho mình.
Hôm nay Đức Giêsu mặc khải cho các môn đệ về vai trò của Ngài trong mối tương quan với Thiên Chúa Cha, và Ngài hứa cho những ai nhân danh Ngài mà xin cùng Thiên Chúa Cha thì Người sẽ ban cho như ý. Đây là cách nhấn mạnh và cụ thể, rõ ràng, chứ thực ra, đã có lần Đức Giêsu nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”; hay: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
Tại sao hôm nay Đức Giêsu lại dạy các môn đệ chi tiết và cụ thể đến như vậy? Thưa là bởi vì trước kia, khi Đức Giêsu còn ở với các ông, diện đối diện, nên việc cầu xin nhân danh Đức Giêsu là điều mà ít ai nghĩ tới. Tuy nhiên, sau khi đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết, Đức Giêsu sẽ về với Chúa Cha, và như vậy, Ngài đảm nhận vai trò Trung Gian giữa con người với Thiên Chúa Cha cách đắc lực và hiệu quả. Vì thế, Ngài mới nhắn nhủ các môn đệ hãy nhân danh Ngài mà xin với Chúa Cha thì sẽ được như ý.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhân danh Đức Giêsu để dâng lên Thiên Chúa Cha những nhu cầu và ước nguyện của mình. Khi chúng ta nhân danh Ngài mà cầu xin, ấy là chúng ta tôn nhận vai trò Trung Gian và công nghiệp cứu chuộc của Đức Giêsu.
Mặt khác, khi nhân danh Đức Giêsu để cầu xin, ấy là lúc chính Ngài hiện diện và hành động trong ta, làm cho lời cầu nguyện trở thành hiện thực.
Mong sao mỗi khi chúng ta nhân danh Đức Giêsu để xin điều gì với Chúa Cha, chúng ta hãy biểu lộ thái độ khiêm tốn, kết hiệp và sẵn sàng thuần phục ý Chúa hơn là ý ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con luôn biết kết hợp với Chúa trong lời cầu nguyện, để nhờ Ngài, trong Ngài và với Ngài, những lời cầu nguyện của chúng con được Chúa Cha thương nhận lời và chúc phúc. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Cha yêu mến các con
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nhờ Danh Chúa Giêsu mà mỗi người chúng ta được Chúa Cha yêu mến và nhận lời khi ta cầu xin. Hãy tin mến Chúa Giêsu, Ngài là nguồn cậy trông của người Kitô hữu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Chúa đã gánh tội cho con. Không có Chúa, con chẳng thể nào xứng đáng ca tụng Thiên Chúa, chẳng đủ sức đi về nhà Cha. Nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa mà con được trở lại làm con Thiên Chúa, được hưởng mọi phúc lộc của kẻ làm con. Chúa đã làm người để con người được làm con Thiên Chúa. Phẩm giá của con tùy thuộc vào Danh Chúa. Con biết khi cậy trông Danh Chúa, con trở nên lớn lao trước mặt Cha trên trời.
Xin cho con được thực tâm mến Chúa, xin cho con biết tin nhận Chúa để con đáng được Cha trên trời yêu mến và nhận lời con cầu xin.
Con tin mến Chúa bằng cả cuộc sống biết thực thi Ý Chúa. Chúa đã nói “Ai yêu Ta thì sẽ giữ Lời Ta”. Chúa không muốn con chỉ tin Chúa trên môi miệng hoặc chỉ mến Chúa bằng cảm xúc mau qua. Vì mến tin Chúa, con quyết sống đạo và con sẽ được Chúa Cha thương đón nhận như một của lễ nhờ Danh Chúa.
Tuy thế, sống theo niềm tin vào Danh Chúa vẫn là một thách đố cho con. Đôi khi vì sống theo Thánh Ý Chúa, con trở nên nghèo hơn, mệt hơn, vất vả hơn. Ngược lại, khi sống theo kiểu thế gian, con thấy thoải mái hơn, an nhàn hơn. Nhưng dù vậy xin Chúa cho con lòng tin mạnh mẽ để con dám can đảm khước từ những thiện hảo trần thế không đẹp lòng Chúa, để con đáng được Chúa Cha yêu mến và được hưởng phần gia nghiệp trên trời. Amen.
Ghi nhớ: “Cha yêu mến các con, bởi vì các con yêu mến và tin Thầy”.
SUY NIỆM 8: Cha yêu mến con
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người cha tận tuỵ vào bệnh viện thăm con trai bảy tuổi đang nằm hấp hối vì chứng bệnh nan y. Cậu bé dường như cảm thấy mình sẽ không khỏi được. Cậu hỏi: “Bố, có phải con sẽ chết không?”.
- Sao con hỏi thế? Con sợ chết phải không?.
Cậu ngước nhìn với ánh mắt tin tưởng và trả lời: “Không, bố ạ, nếu Chúa giống bố”.
Suy niệm
Trong suốt tuần lễ qua, chúng ta suy niệm chương 16 Phúc Âm Gioan, chúng ta được mạc khải các chân lý trung tâm của đời sống Kitô: Đường thập giá, Chúa Cha và Đấng Bảo Trợ - Thánh Thần, sức mạnh của Thánh Thần, Ðấng thay thế cho Chúa Giêsu để nâng đỡ, an ủi và hướng dẫn chúng ta.
Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Ngài loan báo cho các môn đệ là sắp đến giờ Ngài ra đi. Ra đi không phải để đi mất mà để hiện diện lại cách mới mẻ và sâu xa hơn: “Thầy từ Chúa Cha mà đến thế gian và giờ đây Thầy trở về cùng Chúa Cha”. Phương thế để giữ liên lạc với Ngài và có sức mạnh trung thành đến cùng trên đường thập giá trong sự dấn thân hàng ngày là cầu nguyện. Cầu nguyện với Cha nhân danh Chúa Giêsu.
Ngài dạy chúng ta thái độ phải có khi cầu xin với Cha là: Chúng ta tin và lấy danh Ðức Giêsu kêu cầu, chắc chắn Chúa Cha sẽ nhậm lời. Với tâm tình con thảo, như giáo lý Công giáo dạy: “Việc cầu nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm như tin tưởng” (Giáo lý Công giáo, số 2800). Cha luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát như Chúa Giêsu đã khẳng định: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10).
Lời cầu xin của chúng ta nhân danh Chúa Con, luôn ở trong tương quan Cha, con, nghĩa là phải thể hiện niềm tin phó thác: Tin Cha sẽ làm những gì tốt nhất cho mình.
Trong niềm xác tín đó, chúng ta luôn mang tâm tình tạ ơn hằng ngày: Cha luôn yêu thương quan phòng, và làm những tốt đẹp nhất cho chúng ta.
Ý lực sống
“Chính Cha yêu mến các con, bởi vì chúng con yêu mến Thầy”... (Ga 16,27).
SUY NIỆM 9: Cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu dạy chúng ta thái độ phải có khi cầu xin với Cha là phải tin và lấy danh Đức Giêsu mà kêu cầu, chắc chắn Chúa Cha sẽ nhận lời. Như thế, lời cầu xin của chúng ta phải ở trong tương quan Cha – con, nghĩa là phải thể hiện lòng tin tưởng phó thác; tin Cha sẽ làm những gì tốt nhất cho mình. Trong niềm xác tín đó, chúng ta luôn mang tâm tình tạ ơn, ngay cả những điều ta xin không được, những điều không hợp ý ta, những điều xem ra không lợi cho chúng ta. Tất cả đều được Cha an bài trong yêu thương và tốt đẹp nhất cho chúng ta.
2, Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta có kinh nghiệm về sự bất toàn của mình, cũng như sự giới hạn về uy tín. Vì thế, có những điều chúng ta muốn không được và phải cần đến một trung gian làm cầu nối cho mình.
Hôm nay Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ về vai trò của Ngài trong mối tương quan với Thiên Chúa Cha, và Ngài hứa cho những ai nhân danh Ngài mà xin cùng Thiên Chúa Cha thì Người sẽ ban cho như ý. Đây là cách nhấn mạnh và cụ thể, rõ ràng, chứ thực ra, đã có lần Đức Giêsu nói: “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”, hay: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
Tại sao hôm nay Đức Giêsu lại dạy các môn đệ chi tiết và cụ thể đến như vậy? Thưa là bởi vì trước kia, khi Đức Giêsu còn ở với các ông, diện đối diện, nên việc cầu xin nhân danh Đức Giêsu là điều mà ít ai nghĩ tới. Tuy nhiên, sau khi đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết, Đức Giêsu sẽ về với Chúa Cha, và như vậy, Ngài đảm nhận vai trò Trung gian giữa con người với Thiên Chúa Cha cách đắc lực và hiệu quả. Vì thế, Ngài mới nhắn nhủ các môn đệ hãy nhân danh Ngài mà xin với Chúa Cha thì sẽ được như ý (Ngọc Biển).
3. Đức Giêsu đã hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Ngài loan báo cho các môn đệ là sắp đến giờ Ngài ra đi. Ra đi không phải để đi mất mà để hiện diện lại cách mới mẻ và sâu xa hơn: “Thầy từ Chúa Cha mà đến thế gian và giờ đây Thầy trở về cùng Chúa Cha”. Phương thế để giữ liên lạc với Ngài và có sức mạnh trung thành đến cùng trên đường thập giá trong sự dấn thân hằng ngày là cầu nguyện. Cầu nguyện với Cha nhân danh Đức Giêsu.
Ngài dạy chúng ta thái độ phải có khi cầu xin với Chúa Cha là: Chúng ta tin và lấy danh Đức Giêsu kêu cầu, chắc chắn Chúa Cha sẽ nhậm lời. Với tâm tình con thảo, như Giáo lý Công giáo dạy: “Việc cầu nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm nhu tin tưởng” (GLCG số 2800).
Cha luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát như Đức Giêsu đã khẳng định: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10). Lời cầu xin của chúng ta nhân danh Chúa Con, luôn ở trong tương quan Cha – con, nghĩa là phải thể hiện niềm tin phó thác: Tin Cha sẽ làm những gì tốt nhất cho mình.
4. Sinh hoạt nền tảng nhất của người Kitô hữu chính là cầu nguyện. Nhưng mãi mãi, có lẽ chúng ta phải thốt lên như các môn đệ Đức Giêsu: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” vì chúng con chưa biết cầu nguyện. Thay cho một lời giải thích về cầu nguyện, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ kinh Lạy Cha, đó là tất cả cuộc sống của Ngài, một cuộc sống luôn diễn ra phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Như vậy, cầu nguyện là đi vào tri giao mật thiết với Thiên Chúa, hay nói như Abraham Lincoln là đứng về phía Chúa. Thật ra, thái độ nền tảng của cầu nguyện là ra khỏi chính mình và đi vào tương quan với người khác. Người không thể đi ra khỏi chính mình và sống tương quan với người khác, không thể cầu nguyện một cách đúng đắn theo tinh thần của Đức Giêsu. Ai biết tôn trọng người khác và thiết lập với người khác tương quan đối thoại và lắng nghe, người đó mới có thể có đủ những điều kiện cần thiết để sống tương quan mật thiết với Đức Giêsu Phục sinh.
5. Truyện: Hiệu lực của lời cầu nguyện.
Một ngày kia, thánh Etienne, vị thánh thành lập hội dòng Grammont, khi ngài đang giảng thuyết trước một cử tọa rất đông đảo người lắng nghe. Bỗng có một người đứng dạy, dám nói thẳng với ngài: “Thưa cha, mặc dù cha nói nhiều đến sự kinh tởm của tội lỗi, con cũng chả thèm muốn hoán cải tí nào cả và con sẽ bực bội khi nghe tin cha cầu nguyện cho con”.
Ngạc nhiên trước những lời nói bạo gan này, vị thánh xúc động đến nỗi ngài phải khóc nức nở. Và ngay sau đó, ngài đánh chuông, tập họp các tu sĩ lại, và ngài nói với họ rằng : “Chúng ta hãy cầu nguyện cho con người đáng thương này”.
Vài giờ sau đó, trái tim của kẻ tội lỗi cứng đầu đó hoàn toàn thay đổi, anh ta nhận ra tình trạng thảm hại của linh hồn anh ta và quyết định sống một cuộc đời mới.
Anh tìm đến gặp vị thánh, anh đã phủ phục dưới chân ngài và xin ngài tha thứ, anh ta cũng hứa sẽ từ bỏ hết các tật xấu và không bao giờ tái phạm chúng nữa.
Thánh Etienne, nhân cơ hội cuộc trở lại này, ngài đã tỏ cho các môn đệ của ngài thấy sự hữu hiệu của lời cầu nguyện.
- 14/05 Ðược sai đi
- 13/05 Nỗi buồn sẽ thành niềm vui.
- 12/05 Cảm nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục sinh.
- 11/05 Hoạt động của Thánh Thần
- 10/05 Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần
- 09/05 Tình yêu cao cả
- 08/05 Chấp nhận lội ngược dòng.
- 07/05 Yêu thương và phục vụ
- 06/05 Niềm vui được trọn vẹn.
- 05/05 Sự kết hiệp thâm sâu