Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
06/05 Niềm vui được trọn vẹn.
- Viết bởi Ga 15, 9-11
Niềm vui được trọn vẹn.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 5 Phục Sinh.
"Các con hãy ở trong tình yêu của Thầy, để niềm vui của các con được trọn vẹn".
Lời Chúa: Ga 15, 9-11
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.
Nếu các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người.
Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Niềm vui trọn vẹn
Kitô giáo gắn liền với thánh giá.
Kitô hữu suy tôn thánh giá, hôn kính thánh giá.
Thánh giá không chỉ có mặt trong nhà thờ hay trên các đồ thánh,
mà còn đi suốt hành trình cuộc đời của một tín hữu,
từ giếng nước rửa tội đến khi ra nghĩa trang.
Thánh giá nhắc cho ta về một cái chết khủng khiếp và bi đát,
nhưng đời Kitô hữu lại không bao giờ là cuộc đời buồn.
Ngược lại, niềm vui tươi tắn là nét đặc trưng của Kitô giáo.
Trước khi bước vào cái chết, Đức Giêsu đã nói về niềm vui của mình:
“Thầy đã nói với anh em những điều ấy,
để niềm vui của Thầy ở trong anh em,
và để niềm vui của anh em được trọn vẹn” (c. 11).
Trong Tin Mừng Gioan ba lần Thầy Giêsu nói đến niềm vui trọn vẹn.
“Con nói những điều này lúc còn ở thế gian
để họ được hưởng niềm vui trọn vẹn của con” (Ga 17,13).
Thầy Giêsu còn thúc giục các môn đệ hãy xin Cha nhân danh Thầy:
“Cứ xin đi, anh em sẽ được,
để niềm vui của anh em nên trọn vẹn” (Ga 16, 24).
Rõ ràng Thầy Giêsu quan tâm đến niềm vui nơi tâm hồn người môn đệ.
Niềm vui của họ bắt nguồn từ niềm vui sâu kín trong lòng Thầy.
Thầy Giêsu tặng cho họ niềm vui của chính mình,
và Ngài muốn niềm vui đó phải được trọn vẹn ngay từ đời này,
bất chấp mọi đe dọa, bách hại, hiểm nguy, thống khổ.
Nỗi buồn và khóc than của thập giá rồi sẽ đến,
“nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui” (Ga 16, 20).
Thầy Giêsu là người có niềm vui trong tâm hồn,
vì Thầy luôn ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, Đấng sai Thầy.
Để được ở lại trong hạnh phúc của tình yêu ấy,
Thầy đã một mực tuân giữ các lệnh truyền của Cha (c. 10b).
Thầy Giêsu cũng mong các môn đệ giữ các lệnh truyền của Thầy,
để họ được ở lại trong tình yêu của Thầy (c. 10a).
Vì lệnh truyền của Thầy Giêsu là lệnh truyền Thầy nhận từ Cha,
nên ai giữ lệnh Thầy truyền
cũng được hạnh phúc ở lại trong tình yêu của Cha và Con.
Con người hôm nay khao khát một niềm vui trọn vẹn.
Và con người tưởng mình có thể tìm được
bằng việc thỏa mãn những đòi hỏi ích kỷ của mình.
Nhưng tiếc thay khoái lạc vô độ chỉ đem lại sự buồn chán và nô lệ.
Chỉ tình yêu biết trao đi mới đem lại niềm vui chân thật và lâu bền.
Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy Giêsu!
Hãy tuân giữ các lệnh truyền của Thầy!
Lệnh truyền lớn nhất là yêu thương như Thầy đã yêu.
Rồi chúng ta sẽ nếm được thứ niềm vui khôn tả của thiên quốc
ngay trong cuộc sống đầy nước mắt ở đời này.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười,
nhưng chúng con tin Chúa vẫn cười
khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa.
Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân.
Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ Emmau
khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa.
Nụ cười của Chúa đi đôi với Tin Mừng Chúa giảng.
Nụ cười ấy hòa với niềm vui
của người được lành bệnh.
Lạy Chúa Giêsu,
có những niềm vui
Chúa muốn trao cho chúng con hôm nay,
có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại.
Xin dạy chúng con biết tươi cười,
cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với chúng con.
Xin cho chúng con biết mến yêu cuộc sống,
dù không phải tất cả đều màu hồng.
Chúng con luôn có lý do để lo âu và chán nản,
nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi chúng con.
Ước gì chúng con cảm thấy hạnh phúc,
vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương
và được sai đi thông truyền tình thương ấy. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
SUY NIỆM 2: NIỀM VUI TRONG CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu không bảo ta hãy yêu Chúa. Nhưng bảo ta hãy ở lại trong tình yêu của Chúa. Ở lại trong tình yêu là lời mời gọi tha thiết hơn nhiều, thân thiết hơn nhiều. Yêu ở đây không phải là một tình cảm, một thái độ, nhưng là một đời sống. Ở trong tình yêu là sống trong tình yêu. Sống nhờ tình yêu. Sống cho tình yêu. Tình yêu của Chúa là một bầu trời. Thiên Chúa ấp ủ ta trong tình yêu. Ta hít thở tình yêu. Ta hấp thụ tình yêu. Ta lớn lên trong tình yêu. Ta hạnh phúc trong tình yêu.
Chúa có kinh nghiệm vì đã ở lại trong tình yêu của Chúa Cha. Ở lại trong tình yêu của Chúa Cha làm cho Chúa được phong phú, được bình an và vui tươi vì tràn ngập hạnh phúc. Nên Chúa muốn ta cũng ở trong Chúa để được sống, được phong phú, được bình an và được vui tươi hạnh phúc như thế. “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy… như Thầy ở lại trong tình thương của Cha”.
Ở lại là một kết hợp sâu xa. Kết hợp đó khiến ta nên một với Chúa. Chúa sống trong ta. Chúa biến đổi ta. Để ta suy nghĩ như Chúa. Nói năng như Chúa, Hành động như Chúa. Cũng như Chúa nên một với Chúa Cha. Nên không làm theo ý mình. Nhưng làm theo ý Cha. Người nói là nói lời đã nghe nơi Chúa Cha. Người làm là làm theo ý Chúa Cha.
Khi ta hoàn toàn ở lại trong Chúa, hoàn toàn kết hợp với Chúa, hoàn toàn nên một với Chúa, ta sẽ có niềm vui tràn đầy. Niềm vui đó chính Chúa đã cảm nghiệm khi ở trong Chúa Cha, nên Chúa truyền lại cho ta để ta cũng được hưởng niềm vui trong Chúa: “Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh emđược hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn”.
Ở trong tình yêu Chúa biến đổi ta cho ta được sống và được phong phú. Chứ không phải nhờ những nghi thức bên ngoài như phép cắt bì. Chính vì thế các Tông đồ đã quyết định bỏ phép cắt bì với những luật lệ của người Do thái. Chỉ trong tình yêu Chúa Kitô ta được biến đổi nên người mới. Được sống. Được hạnh phúc. Và tràn đầy niềm vui
SUY NIỆM 3: Niềm vui được trọn vẹn
Chúng ta tiếp tục những tâm sự của Chúa Giêsu trao gửi cho chúng ta sau khi đã cùng nhau suy nghĩ về hình ảnh cây nho và cành nho mà Ngài đã dùng để kêu gọi chúng ta gắn bó với Ngài nơi Tin Mừng hôm qua. Hôm nay cũng vậy, Chúa Giêsu muốn chúng ta noi gương Ngài như Ngài đã giữ luật truyền của Chúa Cha và ở lại trong Chúa Cha, thì chúng ta cũng hãy giữ luật truyền của Ngài để được ở trong Ngài. Chính vì được ở trong nhau như thế đã làm nên niềm vui và niềm vui của chúng ta được trọn vẹn vì tất cả chúng ta đều có Thiên Chúa ở với mình. Thiên Chúa có niềm vui hoàn hảo, niềm vui viên mãn, niềm vui tràn đầy cho tất cả những ai yêu mến và ở trong Ngài.
Những lời của Chúa Giêsu mời gọi các đồ đệ hãy suy nghĩ nghiêm chỉnh về thái độ sống của mình. Mỗi đồ đệ Chúa đã được chọn, được huấn luyện sống tình thương theo mẫu gương của Chúa. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, lời Chúa luôn mời gọi, khuyến khích, và ân sủng không thiếu cho những ai cầu xin để được nâng đỡ.
Lạy Chúa, xin thương giúp mỗi người chúng con chừa bỏ khuyết điểm của mình. Xin cho chúng con mỗi ngày một sống tình yêu thương của Chúa nhiều hơn. Xin thương ban cho toàn thể Giáo Hội Chúa ơn hiệp nhất và bình an.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Yêu mến và vâng phục
Mới đây, nhân kỷ niệm 50 năm ngày thế chiến thứ II chấm dứt, Đức Gioan Phaolô đã mạnh mẽ kết án các ý thức hệ độc tài và kêu gọi thế giới rút ra bài học từ cuộc chiến dã man ấy. Ngài mời gọi mọi người hướng nhìn về bao nhiêu trại tập trung trên thế giới, đó là biểu trưng của những hậu quả tàn khốc do các ý thức hệ độc tài.
Nhân loại có lẽ vẫn chưa học được bài học từ thế chiến thứ hai. Ngày nay nhiều cuộc xung đột đẫm máu vẫn còn xâu xé nhiều miền trên thế giới. Đức thánh cha đặc biệt kêu gọi giới trẻ hãy từ bỏ những ý thức hệ bạo động, những hình thức chủ nghĩa quốc gia quá khích và những hình thức bất khoan dung, vì đó là con đường dẫn đến chiến tranh. Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha tựu trung là một lời kêu gọi học sống yêu thương.
Tin mừng hôm nay là một bài học về yêu thương. Lý luận của Chúa Giêsu thật rõ ràng: Chúa Cha đã yêu mến Chúa Con, Chúa Con đã ở trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Cha. Nhưng Chúa Con cũng đã yêu thương các môn đệ bằng chính tình yêu này và các môn đệ cũng có thể ở lại trong tình yêu này bằng cách tuân giữ giới răn của Chúa Con. Như vậy đối với Chúa Con: yêu thương và vâng phục là một. Chúa Con yêu mến Chúa Cha bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài, các môn đệ cũng phải yêu mến Chua Con bằng cách tuân giữ giới răn của Ngài. Do đó yêu thương thật sự và trọn hảo là sẵn sàng hy sinh quan điểm của mình để tin tưởng người khác, nhưng không phải do sợ hãi hoặc tính toán, mà là để làm theo ý muốn và ước nguyện của người mình yêu. Không có sự kết hợp của hai ý muốn, tình yêu sẽ không bao giờ được trọn vẹn. Sự tuân phục lẫn nhau là tiêu chuẩn đích thực của một tình yêu trưởng thành.
Xét cho cùng, một tình yêu đích thực đòi hỏi phải chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đó cũng là nền tảng của một xã hội tốt đẹp. Giềng mối của mọi đố kỵ, chia rẽ dẫn đến bạo động, hận thù và chiến tranh chính là thái độ bất khoan dung. Khi không chấp nhận để người khác có một suy nghĩ khác với mình, một niềm tin và một cách sống khác với mình, người ta sẽ tìm cách hạn chế tự do hoặc loại trừ người khác.
Hãy thay đổi tâm lòng, hãy mang lấy một quả tim mới, một quả tim biết yêu thương, biết tôn trọng phẩm giá và tự do của người khác, đó là điều mà chúng ta phải cầu xin trong cuộc sống mỗi ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Vui lên: Thiên Chúa yêu anh em
Những lời của Đức Giêsu là một mặc khải đem lại vui mừng cho chúng ta: “Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được đầy tràn”. Thường thường mặc khải cho thấy chúng ta là bạn của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương, không phải để mang hạnh phúc đến cho chúng ta. Tin mừng chỉ trao cho ta một tấm vé nhỏ in câu: “Cười đi Chúa yêu bạn đấy”, rồi lại để cho chúng ta rơi vào buồn chán, buồn tủi.
Thế là khiến ta mỉm cười … một nụ cười chế diễu, ngây ngô, vô hạn. Tình yêu Thiên Chúa đem lại cho chúng ta có vẻ vô ích, hư thực, dường như tình yêu trong tiểu thuyết nực mùi nước hoa hồng.
Chúng ta bị cản trở khi tìm hiểu thực chất của tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta, bởi vì chúng ta không thấu triệt được, không kết hợp được với tình yêu Thiên Chúa, dù có cố gắng tìm tòi với bao mồ hôi, với những lý sự vụn vặt và công sức mạo hiểm. Cho dù có những ông bác học, ông Mỹ, ông Pháp tài giỏi đến đâu muốn giúp chúng ta hiểu thấu tình yêu Thiên Chúa, thì tình yêu đó vẫn quá xa ta, vẫn vô nghĩa và chẳng giúp được gì.
Tình yêu của Thiên Chúa được thấu hiểu tường tận, tình yêu mà Chúa Cha ban cho ta, sẽ trở nên nguồn vui vô tận. Bởi vì đây là tình yêu bác ái giúp chúng ta đi tới kết hợp với Thiên Chúa trong sự toàn thiện bản tính loài người chúng ta, dẫn chúng ta đến kết quả mỹ mãn, làm chúng ta hoàn hảo trọn vẹn.
Nếu chúng ta hiểu được mặc khải mà Thiên Chúa đã kêu gọi chúng ta nên bạn hữu của Ngài, tham dự vào gia nghiệp của Ngài, chúng ta sẽ càng hy vọng trở nên tốt hơn, hạnh phúc hơn, lúc đó chúng ta sẽ trung thành hơn với tình yêu của Thiên Chúa.
Tới lúc đó, những khô khan và nghi ngờ sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ vui mừng xưng hô lên rằng: Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tình yêu này trở thành sinh lực dồi dào và gắn bó chặt chẽ Thiên Chúa với chúng ta. Lúc đó niềm vui của chúng ta được trọn vẹn.
C.G
SUY NIỆM 6: NẾU... THÌ SẼ...! (Ga, 15, 9-11)
Đau buồn, trăn trở, xao xuyến và lưu luyến trước sự ra đi vĩnh viễn của người thân là lẽ thường tình. Nhất là sự ra đi ấy lại là cái chết. Vì thế, trước sự chia lìa đó, người ta thường trăn trối cho nhau những lời tâm huyết phát xuất từ đáy lòng. Người trăn trối thì thỏa lòng, người đón nhận thì trân trọng và coi đây như lời thiêng liêng nên tìm mọi cách để thi hành.
Hôm nay, Đức Giêsu biết mình sắp rời bỏ thế gian để về với Chúa Cha, nên trong tình nghĩa thầy trò và nhất là vì sứ vụ chuyển trao, nên Đức Giêsu đã có những lời trăn trối với các môn đệ: “Như Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến các con như vậy”. Tiếp theo, Ngài căn dặn các ông: “Nếu anh em giữ giới răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy”.
Đến đây, chúng ta liên tưởng đến những lời truyền dạy của Đức Giêsu trong bữa tiệc ly: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Như vậy, với văn mạch, chúng ta có thể hiểu rằng: lệnh truyền yêu thương là điều Đức Giêsu mong muốn nơi các môn đệ của mình... Ngài cũng muốn các ông trải dài lệnh truyền ấy không chỉ bằng lời nói, mà là hành động.
Tuy nhiên, suốt hơn hai ngàn năm qua đi, sự giàu có, quyền lực và thực dụng... đã làm cho con người ngày càng xa rời nhau khi sự phân biệt giàu nghèo được thiết lập ngay tại tâm can của con người. Vì thế, người ta không ngừng củng cố uy tín bằng quyền lực mà quên đi tình thương. Sự liên đới trong tinh thần trách nhiệm phải chăng là điều xa xỉ, quan điểm chụp giật là đề tài được nhiều người lựa chọn! Bởi vì mục đích của họ là thỏa mãn cái bụng, củng cố cái ghế, chứ không phải sống và thi hành tâm tư lòng thương xót của Thiên Chúa.
Thế nên, xã hội và con người hôm nay nhiều khi không màng chi đến tín nghĩa, ân tình và lòng từ bi thương xót... Lời trăn trối của Đức Giêsu khi xưa phải chăng đã đi vào quên lãng?
Không! Nếu con người và xã hội hôm nay không chấp nhận đi vào mối tương quan với Thiên Chúa, thì chúng ta, những người Kitô hữu, mỗi người không thể thờ ơ trước lời trăn trối đầy yêu thương của Đức Giêsu được. Bởi lẽ đây là điều căn bản thể hiện căn tính của người Công Giáo. Mất đi bản chất này, chúng ta không còn là Kitô hữu đúng nghĩa!
Lạy Chúa Giêsu, những lời trăn trối của Chúa hôm nay đã làm cho mỗi người chúng con phải tự cật vấn lương tâm mình, để sống sao cho phù hợp với tư cách người môn sinh của Chúa trong thế giới hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Tình Chúa yêu thương ta
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy ở lại trong tình thương của Ngài: Ngài yêu thương chúng ta bằng chính tình yêu mà Chúa Cha đã yêu Ngài. Tất cả những gì Đức Giêsu lãnh nhận từ nơi Cha, Ngài đã trao ban cho chúng ta, không giữ lại gì cho mình. Đức Giêsu dạy chúng ta biết chia sẻ tình thương với anh em. Chính nhờ sống yêu thương mà chúng ta có được niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn.
2. Có một tác giả đã viết trong một bài ca của ông như sau: “Dù anh lấy bầu trời làm giấy, lấy nước biển làm mực, đốn cây rừng làm bút viết, và dùng con người trên thế giới trải qua mọi thời đại làm người viết, thì anh cũng không bao giờ diễn tả hết được tình yêu Thiên Chúa”. Đây là một kiểu nói có tính cách khoa đại, nhưng không phải là không đúng sự thật, vì Kinh Thánh nói: “Từ muôn thưở Chúa đã yêu con”, “Chúa yêu con từ khi con chưa có tuổi, từ khi chưa có sao trời”. Nếu xét về hiện hữu thì con người chẳng hơn gì sự có mặt của muôn tinh tú trong thái dương hệ bao la này. Nhưng vũ trụ bao la ấy một ngày kia sẽ trở về hư không như lời Kinh Thánh: “Trời đất này sẽ qua đi”. Nhưng khi mọi sự qua đi, thì chính con người sẽ tồn tại mãi mãi, tồn tại cả xác lẫn hồn (Lm Phạm Văn Phượng).
3. ”Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”(Ga 15,9).
Theo kinh nghiệm, hễ đã yêu thương ai, hẳn chúng ta muốn sống bên cạnh người ấy để chia sẻ và lấy sở thích của người ấy làm của mình. Tình yêu giữa con người với nhau còn như thế, huống nữa là tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Đức Giêsu đã rất mực yêu thương các môn đệ, Ngài muốn họ luôn ở với Ngài cũng như Ngài hằng ở với Thiên Chúa; Ngài muốn họ thực hành Lời Ngài cũng như Ngài luôn vâng phục lệnh truyền của Cha Ngài. Đó là điều được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay (Mỗi ngày một tin vui).
4. Ở lại trong tình yêu là luôn hướng về nhau: Nghĩa là dù phải “xa mặt nhưng không cách lòng”, không gian địa lý hay thời gian cách biệt cũng không thể tách rời hai con tim đang hướng về nhau. Cũng thế, khi Kitô hữu yêu mến Đức Kitô thì luôn luôn nhớ và kết hiệp với Người mọi nơi mọi lúc trong mọi sinh hoạt của cuộc sống.
Ở lại trong tình yêu là giữ lời nhau: Khi yêu nhau thật lòng người ta không quản ngại thực hiện những gì đòi hỏi phải có dành cho nhau; cam kết những ràng buộc trong tình yêu..
Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Con khi phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các con hãy vâng nghe lời Người”. Kitô hữu không thể nói yêu Chúa mà không giữ giới răn của Chúa. Kitô hữu yêu Chúa là làm theo ý Chúa và giữ điều răn Chúa. Bởi vì như Đức Giêsu đã nói rõ điều kiện: “Nếu các con giữ điều răn của Thầy, các con ở lại trong tình yêu của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10).
5. Trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu biết rằng mình chẳng còn ở lại một cách hữu hình với các môn đệ được bao lâu nữa, do đó, để tránh cho các môn đệ cảnh xa mặt cách lòng, Đức Giêsu mời gọi và truyền dạy các ông một phương cách mới để duy trì tình yêu đối với Ngài, đó là tuân giữ các lệnh truyền của Ngài như Ngài đã tuân giữ các lệnh truyền của Chúa Cha và luôn kết hợp với Ngài. Đức Giêsu chia sẻ cho các môn đệ kinh nghiệm sống của Ngài với Chúa Cha, và lấy đó làm lý tưởng cho cuộc sống đức tin của các môn đệ trong thời gian sau biến cố Phục sinh, thời gian của sự dấn thân làm chứng cho Ngài. Người làm chứng cho Chúa phải sống kết hợp với Chúa, tuân giữ các lệnh truyền của Ngài, và quan trọng nhất là lệnh truyền: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
6. Như Đức Giêsu đã mời gọi: “Hãy ở lại trong tình thương của Thầy”, đó là cội nguồn của tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Đức Giêsu tuôn chảy đến nhân loại: Tất cả những gì Đức Giêsu lãnh nhận từ nơi Cha. Ngài đã trao ban cho chúng ta, không giữ lại gì cho mình. Và nhân loại cũng phải trao cho nhau như Đức Giêsu đã truyền: Biết chia sẻ tình thương với anh em. Chính nhờ sống yêu thương mà chúng ta có được niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn.
7. Truyện: Hãy học biết yêu thương.
Ngày xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện diện của Thiên Chúa. Một hôm anh ta tìm đến một tu sĩ nổi tiếng và đạo đức, anh hỏi: - Ngài có tin Thiên Chúa không?
- Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
- Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế?
- Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong tôi mỗi ngày.
- Nhưng làm sao cảm nhận được như thế?
- Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nhận được Chúa, và những hồ nghi sẽ tan biến như sương mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.
Chàng thanh niên suy nghĩ một hồi rồi hỏi tiếp:
- Xin Ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào?
- Bằng cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy. Đó là sự thật.
05/05 Sự kết hiệp thâm sâu
- Viết bởi Ga 15, 1-8
Sự kết hiệp thâm sâu.
Thứ Tư tuần 5 Phục Sinh.
"Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái".
Lời Chúa: Ga 15, 1-8
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn. Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy.
"Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như nhành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi.
"Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được. Đây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thầy là cây nho
Suy niệm:
Cây nho là một cây quen thuộc trên đất Palestin.
Người ta trồng nho để ăn trái hay làm rượu.
Đức Giêsu đã từng thấy những cây nho với những cành nho trĩu quả.
Ngài muốn dùng hình ảnh này để nói lên tương quan giữa Ngài với môn đệ.
“Thầy là cây nho, anh em là cành” (c. 5).
Cành sống được, sinh trái được, là nhờ còn gắn liền với cây.
Dòng nhựa nguyên từ cây sẽ nuôi sống cành.
Như cành không tự mình sinh trái được (c. 4),
người môn đệ cũng chẳng làm gì được nếu không gắn bó với Thầy (c. 5).
Có một lối nói đặc biệt để diễn tả sự gắn bó này: ở lại trong.
Cụm từ này được nhắc lại sáu lần như một điệp khúc (cc. 4-7).
“Anh em hãy ở lại trong Thầy”: một lời kêu mời tha thiết của trái tim.
Thầy Giêsu như xin các môn đệ đừng quay lưng trước tình yêu,
vì tình yêu cần được đáp trả mới nên trọn vẹn.
“Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em” (c. 4).
Cành nho không có tự do để chọn ở lại hay không ở lại.
Chỉ con người mới có thể tự nguyện ở lại hay cố tình từ chối.
Nhưng ở lại trong Thầy cũng có nhiều cấp độ.
Chắc chúng ta đã ở lại trong Chúa Giêsu phục sinh đến một mức nào đó.
Và cây đời của chúng ta đã sinh hoa trái ít nhiều.
Nhưng chúng ta vẫn cần ở lại hơn để có trái nhiều hơn.
Càng ở lại sâu, càng có trái nhiều, trái ngon, trái tồn tại mãi (cc. 5.8.16).
Trái tỷ lệ thuận với việc chúng ta ở lại trong Chúa.
Nét đặc sắc làm nên đời người Kitô hữu chính là chuyện của cây và cành.
Cây và cành cùng sẻ chia một dòng nhựa sống.
Kitô hữu không chỉ sống với Giêsu, sống như Giêsu, sống cho Giêsu,
mà còn sống trong Giêsu, sống sự sống của Chúa Giêsu phục sinh.
Chưa sống trong Giêsu, chưa thực sự là Kitô hữu.
Chúng ta cũng không quên vai trò của Thiên Chúa Cha người trồng nho.
Cây nho Giêsu được Cha vun trồng chăm bón.
Các cành nho không sinh trái thì bị Cha chặt đi.
Các cành đã sinh trái thì được Cha cắt tỉa để sinh trái hơn (c. 2).
Cha cắt tỉa không vì độc ác, nhưng vì yêu, vì muốn điều tốt hơn cho cành nho.
Chữ hơn giúp chúng ta hiểu được những cắt tỉa đau đớn trong đời mình.
Có thể nói chính Đức Giêsu cũng đã được Cha cắt tỉa
qua khổ đau, nhục nhã và cái chết kinh hoàng.
Không phải vì Ngài chưa thanh sạch, nhưng để Ngài giống và gần ta hơn.
“Điều làm Cha được tôn vinh là anh em sinh trái nhiều” (c. 8).
Vinh quang của Cha không nghịch với sự triển nở thật sự của con người.
Sự èo uột, cằn cỗi của chúng ta mới là nỗi nhục cho Thiên Chúa.
Hãy sinh trái nhiều nhờ chấp nhận những cắt tỉa của Cha qua lời của Giêsu.
Cầu nguyện:
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn. Amen. (Cha Piô)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: SINH NHIỀU HOA TRÁI
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cây nho là hình ảnh quen thuộc của Kinh Thánh. Để diễn tả Dân Chúa, nhà Ít-ra-en. Nhưng Chúa Giê-su dùng cây nho để nói lên đời sống thiêng liêng thâm sâu nhiệm mầu.
Trước hết đó là đời sống kết hợp với Chúa. Hình ảnh cây nho và cành nho nói lên cuộc kết hợp thâm sâu. Nên một. Không chỉ là hình thức. Nhưng còn là sự sống. Cành và cây không chỉ liền lạc với nhau mà còn sống nhờ cùng một dòng nhựa, một sự sống. Sự sống từ thân cây chuyển sang cành cây. Thiên Chúa ban cho ta sự sống của Người.
Kế đến là đời sống kết hợp với anh em. Cây nho và cành nho là một toàn thể. Tất cả các cành, cùng với gốc rễ và thân, tạo thành một cây nho duy nhất. Sống bằng một dòng nhựa duy nhất. Dân Chúa là một cộng đồng. Không thể có tính cá nhân ích kỷ. Phải có hiệp thông. Với Chúa. Và với anh em.
Sau cùng là kết quả của đời sống kết hợp. Trổ sinh hoa trái. Cây cung cấp nhựa sống. Nhưng cành trổ sinh hoa trái. Để hoa trái tốt đẹp đòi hai điều kiện. Cành phải gắn chặt với thân. Và không được phung phí nhựa vào những cành lá dư thừa. Như thế bên trong ta phải kết hợp mật thiết với Chúa. Bên ngoài phải cắt tỉa những gì dư thừa. Thanh luyện những ô uế. Để sinh nhiều hoa trái.
Cộng đoàn tín hữu sơ khai là một Dân Mới của Chúa. Dân cũ chỉ có người Do thái. Dân Mới gồm cả người gốc Do thái và người gốc dân ngoại. Dân cũ là cây nho. Nhưng Dân Mới có Chúa Giê-su là cây nho thật. Dân cũ sống bằng Lề Luật. Dân Mới sống bằng Thánh Thần của Chúa Giê-su. Dấu chỉ của dân cũ là phép cắt bì. Dấu chỉ của dân mới là phép rửa trong Thánh Thần. Dân cũ cho rằng tự mình nên công chính bằng Lề Luật. Nhưng thực ra đó là những cành nho không gắn liền với thân nho. Nên không sinh hoa kết quả. Dân mới được thành hình và được sống nhờ kết hợp với Chúa Giê-su. Chính trong Chúa Giê-su mà dân mới sinh nhiều hoa trái. Điều đó được chứng nghiệm. Vì dân ngoại chỉ cần chịu phép rửa là nhận được Thánh Thần. Không cần đến phép cắt bì.
SUY NIỆM 3: Sự kết hiệp thâm sâu
Nền văn minh kỹ thuật làm phát sinh nơi con người một não trạng kiện toàn duy vật. Người ta đánh giá con người với những tiêu chuẩn của sự sản xuất và hiệu năng. Con người được nhìn qua lăng kính của những sản xuất và chiếm hữu vật chất, như đồng lương, cái nhà, chiếc xe. Não trạng ấy không chừng áp dụng vào việc đánh giá sự sống còn của xã hội. Hình ảnh của những cành nho phải sinh trái trong Tin Mừng hôm nay phải chăng không củng cố cho cái nhìn ấy. Phải chăng một Giáo Hội có sức sống không là một giáo hội có nhiều tín hữu, có nhiều cơ sở vật chất, có nhiều hội dòng, có nhiều phong trào, có nhiều hoạt động và nhất là có nhiều quan hệ tốt với thế quyền.
Thật ra, người ta không thể đánh giá về sự sống bằng số lượng. Những con số không thể nói hết về một thực tại vô cùng thâm sâu về huyền nhiệm và sự sống, nhất là sự sống của Giáo Hội. Người ta không thể đo lường sự sống của Giáo Hội bằng hiệu năng và những con số. Trong Giáo Hội, không ai có thể đi tìm hiệu năng bằng những phương pháp và các phương tiện riêng của mình. Ðể trở nên phong phú trong Giáo Hội, cần phải chấp nhận hai điều kiện được chính Chúa Giêsu đưa ra: một là ở lại trong Ngài, hai là chịu cắt tỉa. Ở lại trong Ngài, với kiểu nói này, Chúa Giêsu muốn nói đến sự kết hiệp thâm sâu giữa Ngài và Giáo Hội.
Nếu Giáo Hội tìm cách thay thế sự kết hiệp thâm sâu này bằng những cố gắng liên kết với quyền bính thế trần, Giáo Hội có thể có một chỗ đứng thế giá trong trần thế, Giáo Hội có thể mua được nhiều đặc ân đặc quyền hay bất cứ một dễ dãi nào mà thế quyền có thể ban tặng. Nhưng một khi đã sống bên ngoài sự sống của Chúa Giêsu, Giáo Hội chỉ còn là những cành nho khô héo. Những thành quả đạt được bằng sự liên kết, thỏa hiệp với quyền bính sẽ chỉ là những trái trăng héo úa, nếu ở lại trong Chúa Giêsu, Giáo Hội cũng phải chấp nhận bị cắt tỉa. Sức sống và sự phong phú đích thực của Giáo Hội lúc đó sẽ không phải là những con số của những gì có thể đếm được mà chính là những mất mát, thử thách, bách hại, những chướng ngại thập giá. Sức sống của Giáo Hội được thể hiện trước tiên qua những cắt tỉa ấy.
Thánh Phaolô là hiện thân của một sức sống như thế, Ngài đã phải chịu cắt tỉa ngay trong cộng đoàn Giêrusalem. Ngài bị cô lập và nhìn với con mắt nghi ngờ. Ngài bị xem như một con người nguy hiểm gieo rắc những tư tưởng đe dọa những giá trị được củng cố, đảo lộn những cái khoen đã cắm rễ sâu, phá hoại sự an toàn có sẵn. Suốt một cuộc đời ra đi không ngừng, thánh nhân là đối tượng của không biết bao nhiêu bách hại, nhưng Ngài không sống theo luận lý của con người. Thập giá là một hiếu kỳ đối với người Do Thái và là một điều ngu xuẩn đối với người Hy Lạp, nhưng với ngài, nó sẽ là khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Với ngài, người chỉ biết có một Chúa Kitô chịu đóng đinh, "sống" là chính Chúa Kitô. Mất mát, khổ đau, thử thách, thập giá là chìa khóa để đọc được ý nghĩa và sự phong phú đích thực của Giáo Hội, nó cũng là chìa khóa để nhìn vào những bách hại và thử thách mà một số tín hữu Kitô đang phải trải qua trong cuộc sống của mình.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh nâng đỡ các tín hữu Kitô để họ trở thành đuốc sáng cho mọi người trong giai đoạn hiện nay.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Để sinh nhiều hoa trái
Dụ ngôn cây nho là một phần của bài nói sau bữa tiệc ly. Tin mừng thánh Gio-an đã ngăn chặn sự xa lìa của những kẻ theo Người, có thể vì cái chết trên thập giá của Người hay khi Người lên trời. Người cho họ thấy về sự sống của Người là sự sống cho những kẻ còn hiệp thông với Người, như nhựa cây là sức sống từ thân cây tới những cành, sự sống đó sinh nhiều hoa trái. Điều kiện “ở lại trong Thầy” không phải hiểu như trong hộp kín, dưới sự che chở cô độc, nhưng ở trong một năng lực lớn mạnh. Những cành từ chối không tiếp nhận phát triển, không đáp ứng với nhựa sống vươn lên, sẽ gặp nguy cơ chết khô. Cuộc tranh đấu để sống chỉ nguy hiểm đối với những cành tự tách mình lìa khỏi cây. Người ta gọi nó là tội.
Bao lâu còn nhựa sống lưu thông, bấy lâu sự chết vẫn không đột nhập được.
Trong thời đại chúng ta, thuyết đa dạng là một gương mù thường xuyên. Người ta dễ dàng theo lối sống khô khan, tà giáo và cả vô tín ngưỡng. Phụng vụ khác nhau biết bao từ xứ này qua xứ khác, một linh mục tự diễn cách tự do một số công thức đã xưa rồi. Biết bao tín hữu cố chấp phản đối những cơ cấu tổ chức, đi tới chỗ chỉ trích gay gắt và bi quan, như nói: “Giáo hội đi theo quỷ”.
Không, Giáo hội sẽ tiến theo đường lối của mình băng qua một thế giới và một thời đại đầy khó khăn, như cành cây nho bò leo xoắn xít để đeo bám những đường quanh co của lâu đài và phát sinh ra những đường nét trang trí cho ngôi nhà khô khan bằng những mầu sắc xanh tươi sống động. Đức tin không bảo thủ như những chùm nho đông đặc khô cứng, nhưng sống động nhờ giá trị chiến đấu, nơi người quyết chí hiệp nhất với Đức Kitô. “Ở lại trong Thầy” không phải ẩn mình, khép kín, che thân, nhưng chính là biểu dương sức sống Người đã thông ban cho chúng ta để sinh nhiều hoa trái. Những cây nho sẽ bị ném vào lửa là những cành sợ khô không tiến lên, không leo lên …
Cây nho dẫn chúng ta đến trước chén rượu nho mà linh mục dâng lên và thánh hiến trên bàn thờ. Nó đã bằng lòng đổ nước ra khi chịu gieo xuống đất, chịu cắt tỉa, chịu gặt hái, chịu ép nén đến cùng cực để cho chúng ta có rượu lễ hôm nay. Người tín hữu chúng ta đã sẵn sàng mạo hiểm bắt tay vào việc, liều mạng tới đâu? Chúng ta xum họp quanh bàn thờ để uống với tâm tình ích kỷ hay đón nhận nhựa sống làm cho mình và mọi người lớn lên trong nước trời không?
L.P
SUY NIỆM 5: Hệ quả của sự cắt tỉa
Xem thêm ps5 cn B
Có một dạo phong trào trồng nho đã nở rộ tại một số tỉnh dọc theo duyên hải miền Trung. Cây nho không còn là một thứ cây xa lạ đối với nhiều người Việt Nam nữa. Cây có trái là chuyện thường, nhưng cây phải bị cắt tỉa mới có thể đâm chồi, trổ hoa và sinh trái, đó là hình ảnh đặc trưng của cây nho. Thật thế, với đôi mắt không chuyên môn, khi nhìn vào thân nho bị cắt tỉa, có lẽ ai cũng phải xót xa, có lẽ người ta sẽ nhìn vào người trồng nho như một con người nhẫn tâm, vì người trồng nho xem ra cắt tỉa cây nho không chút tiếc xót. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, người ta sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy từ những cành trơ trụi những mần non nhú ra và hoa cũng bắt đầu xuất hiện.
Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh để nói về những thực tại Nước Trời. Nhưng trong các hình ảnh ấy, cây nho hẳn phải chiếm một chỗ ưu việt: ưu việt vì cây nho là giống cây phổ thông nhất của miền Palestina, ưu việt vì trong Cựu ước cây nho vốn được xem là biểu trưng của dân riêng. Nhưng như các tiên tri đã nhiều lần lên tiếng tố cáo: thay vì sản xuất rượu ngon, cây nho Israel chỉ mang lại thứ rượu đắng của bất trung và phản bội. Tiếp tục truyền thống tiên tri, Chua Giêsu cũng lấy lại hình ảnh cây nho, nhưng cây nho chính là Ngài. Lòng tín trung mà Thiên Chúa hằng chờ đợi nơi Israel nay Ngài đã tìm thấy nơi cây nho đích thực là Chúa Giêsu. Một giao ước mới phát sinh, bởi vì lòng trung tín của Chua Giêsu được diễn ta trong sự vâng phục và vâng phục cho đến chết trên Thập giá, không phải là cố gắng thuần túy của con người, mà chính là lòng thủy chung của Con Thiên Chúa trong chừng mực của con người. Cây nho của giao ước mới mang lại những trái trăng xum xuê có tên là tình yêu. Đó là kết quả của sự cắt tỉa: cây nho không thể sinh hoa kết trái nếu không bị cắt tỉa, tình yêu sẽ không là tình yêu đích thực và phong phú nếu không được cắt tỉa khỏi những ngọn ngành thừa thãi của ích kỷ.
Giáo Hội – Israel mới chính là cây nho của Chúa. Lịch sử cho thấy có lúc xem ra Giáo Hội bị cắt tỉa một cách tàn nhẫn, nhưng cũng chính những lúc đó Giáo Hội mang lại nhiều hoa trái hơn cả. Những cuộc bách hại đẫm máu lại là những cắt tỉa làm cho Giáo Hội sinh được nhiều hoa trái nhất. Đó là cái nhìn chúng ta phải có để nhìn vào Giáo Hội: sức sống của Giáo Hội có khi không chỉ được nhìn thấy và đánh giá qua những biểu giương bên ngoài, hoa trái của Giáo Hội có khi không phải là một chút dễ dãi đạt được do một sự thỏa hiệp nào đó. Giáo Hội chỉ có thể mang lại hoa trái đích thực khi chấp nhận được cắt tỉa khỏi những phù phiếm rườm rà của thế tục. Cơ cấu hữu hình có thể bị phá vỡ, cơ sở vật chất có thể bị cướp mất, những quyền cơ bản nhất gắn liền với tư do tôn giáo có thể bị tước đoạt, đôi tay hoạt động có thể bị khóa chặt: đó có thể là những cắt tỉa cần thiết để cây nho Giáo Hội trổ sinh hoa trái dồi dào.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào Giáo Hội và cuộc sống đức tin của chúng ta với một cái nhìn bình thản và tin tưởng. Mỗi kitô hữu là một ngành nho gắn liền với cây nho là chính Chua Giêsu. Để được gắn liền với Ngài và trổ sinh hoa trái chúng ta không thể không chịu cắt tỉa khỏi những gì nghịch với Tin mừng và cốt lõi của Tin mừng là tình yêu. Sự cắt tỉa nào cũng làm chúng ta đau đớn, mất mát nào cũng làm chúng ta tiếc xót, nhưng vì đã được sống theo Tin mừng, chúng ta hãy xem như một lợi lộc cao quí nhất khi bị cắt tỉa và mất mát. Hoa trái phát sinh từ những cắt tỉa và mất mát ấy sẽ mãi mãi tồn tại. Vả lại ngay trong cuộc sống này, giá trị của con người không được đo lường bằng những gì nó thu tích, mà bằng chính những gì nó hy sinh và cho đi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: KẾT HỢP ĐỂ SINH HOA TRÁI (Ga, 15,1-8)
Khi nói đến cây nho, chúng ta nghĩ ngay đến bà con nông dân khu vực duyên hải Miền Trung Việt Nam, bởi vì nơi đây, phong trào trồng nho đã trở thành nghề chính của người dân. Khi trồng nho, người ta phải chăm bón, và nhất là cắt tỉa đúng quy cách mới mong một vụ mùa bội thu. Nếu không biết chăm bón đúng cách và không dám cắt tỉa, cây nho sẽ không sinh trái hay chỉ sinh ra những trái sâu xi, sần sùi, èo ọt...
Hôm nay, Đức Giêsu dùng hình ảnh cây nho để nói lên mối tương quan giữa Ngài với dân và đồng thời cũng nói lên thực tại Nước Trời ngang qua hình ảnh cây nho và cành nho.
Cây nho là thứ cây trồng chủ yếu của người Palestina thời Đức Giêsu. Cây nho còn là biểu trưng của chính dân Iraenl. Vào thời Cựu Ước, các tiên tri đã lên tiếng cảnh tỉnh dân chúng khi mượn hình ảnh cây nho không trái hay cho ra những loại rượu đắng chát không đạt tiêu chuẩn để nói lên sự thờ ơ, bất trung, phản bội của dân với Thiên Chúa.
Hôm nay, Đức Giêsu cũng dùng lại hình ảnh cây nho để nói lên sự gắn bó và hệ quả của nó trong tương quan giữa Ngài với ta. Vì vậy, Ngài đã ví mình là cây nho, chúng ta là cành nho. Đồng thời, Ngài cũng tiên báo, muốn được sinh hoa trái thiêng liêng, ắt phải cắt tỉa những cành ích kỷ, vụ lợi, giả hình, kiêu ngạo, gian dối, bất công..., để từ đó nảy thêm những mầm nho mới và sẽ sinh ra hoa trái của chân thực, nhân từ, bao dung, khiêm nhường, từ bi, nhân hậu...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy kết hợp với Chúa như cành nho với thân nho, như hình với bóng, để sự sống của ta là của Chúa và hoa trái được sinh ra chính là hoa trái cùng dòng giống với Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là cây nho, chúng con là cành. Xin cho chúng con mãi mãi được gắn bó với Chúa như cành liền cây, để chúng con được ơn cứu chuộc và chia sẻ hoa trái cứu chuộc đó cho anh chị em xung quanh. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7:,,,
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Dụ ngôn cây nho và cành nho cho thấy rằng để được sống và trổ sinh hoa trái, người Kitô hữu phải liên kết mật thiết với Chúa Kitô. Đón nhận Lời Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa, đó là những điều kiện để đời sống người tín hữu sinh nhiều hoa trái.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chính vì Chúa muốn con sống cuộc sống của Chúa, mà Chúa đã thông ban cuộc sống của Chúa cho con. Và Chúa thông ban liên lỉ, để cuộc sống của con đích thực là cuộc sống đón nhận từ nơi Chúa. Chính nhờ tiếp nhận sự sống từ nơi Chúa, mà con trở thành người Kitô hữu, người có Chúa Kitô, người sống cuộc sống của Chúa Kitô.
Chính sự sống của Chúa trong con làm cho các đau khổ, các nghịch cảnh, các khó khăn trong đời sống hằng ngày có một giá trị tích cực, nhờ đó cuộc sống con sinh nhiều hoa trái hơn.
Khi con tách lìa khỏi Chúa, khi con phạm tội, lúc ấy con chết vì thiếu sức sống của Chúa. Bề ngoài, tuy vẫn là Kitô hữu, vẫn tham gia các sinh hoạt trong xứ đạo, nhưng vì con để cho tội lỗi, ích kỷ ngăn cách con với Chúa, nên con đã trở thành những cành nho khô héo.
Xin Chúa giúp con xác tín điều quan trọng này, và cho con biết quý trọng sự sống mà con đã lãnh nhận nơi Chúa, để con luôn luôn kết hiệp với Chúa, siêng năng và sốt sắng lãnh nhận Mình Máu Chúa, đọc và suy niệm Lời Chúa để Lời Chúa thanh luyện con người và cuộc sống của con.
Lạy Chúa, chỉ vì muốn cho con được sống mà Chúa kêu mời con kết hợp với Chúa. Con cảm nhận tình yêu cao vời của Chúa dành cho con. Xin Chúa cho con luôn sống xứng đáng với tình yêu thương vô cùng của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái”.
SUY NIỆM 8:,,,,,,,,,
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Học trò hỏi tôn sư:
“Con phải làm gì để đạt tới Thượng Đế?”.
“Nếu con muốn đạt tới Thượng Đế, con phải biết hai điều này. Điều thứ nhất là mọi cố gắng để đạt tới Ngài đều hoài công”.
“Còn điều thứ hai?”.
“Con phải hành động như thể con nên một với Thượng Đế” (Một phút minh triết, nên một).
Suy niệm
Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và Thiên Chúa Cha được Ngài nhấn mạnh là người trồng nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho” (Ga 15,1). Hình ảnh cây nho và các cành nho được Chúa Giêsu nhấn mạnh như biểu tượng cho sự gắn bó thầy - trò, sự gắn bó qua Thầy với Thiên Chúa: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,5). Như thế, người gắn bó với thầy, được biểu tượng bằng hình ảnh sống động của cành cây nho, theo cái nhìn của người trồng nho là những nhánh được chọn từ một số nhánh khỏe nhất, được cắt tỉa, được nuôi dưỡng khi gắn bó với thân nho qua nhựa sống nuôi từ gốc.
“Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi…” (Ga 15,2). Đó là hình ảnh những người được xem gắn bó với Thầy, mang danh là môn đệ Chúa Kitô, nhưng không có tinh thần gắn bó với Chúa Kitô. Họ là những người môn đệ, Kitô hữu “hữu danh vô thực” như thánh Phaolô có nói về một tình trạng tương tự như vậy trong Do Thái giáo (x. Rm 2,17-23). Còn số phận của những kẻ đứng bên ngoài Thầy: “Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi”. Thánh Vịnh có nói về số phận của kẻ không gắn bó với Thầy: “Kìa ai xa Chúa, sẽ mai một hết… “ (Tv 73,27).
“Cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15,2b). Cành sinh trái là cành luôn gắn bó với thân, được nuôi sống bởi nhựa đến từ gốc cây nho. Thật thế, như hình ảnh cành nho liên kết với thân nho, chúng ta cũng vậy nếu “gắn liền với” hay “ở lại trong” Đức Kitô, chúng ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài vì: “Cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho” (Ga 15,4). Cho nên, Tagore luôn cảm nghiệm: “Con nhìn nhận Chúa chính nguồn tình yêu” (Mong chẳng còn gì).
Cành đơm trái được nuôi sống và gắn liền với thân nho, phải luôn được cắt tỉa, là một điều kiện cần thiết để nho sinh nhiều hoa trái. Hình ảnh cắt tỉa cây nho luôn mang hai ý nghĩa cho người gắn bó với Đức Kitô như cành liên kết với thân nho:
Chịu cắt tỉa trong đau thương để cùng tham dự vào sự chết và vinh quang của Chúa Giêsu, như thánh Phaolô nhấn mạnh: “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17). Khi được cắt tỉa, đau thương nhưng với Đức Giêsu là “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ” (1Pr 4,13). Bị cắt tỉa đau thương góp phần sinh hoa trái: “Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5,10).
Cắt tỉa những lá già, những cành phụ không cần thiết là chiết bỏ những tật hư đam mê xấu, để dành sức sống thẳng tiến trong Chúa Kitô như thánh Clément d'Alexandrie nhận định: “Cây nho không được cắt tỉa trở nên hoang dã, Ngôi Lời là một thanh kiếm cắt tỉa những cành um tùm: Thanh kiếm bẻ gãy những dục vọng để không còn sa ngã và để sinh hoa trái”.
Cắt tỉa để gắn bó với Thầy. Thật thế, chính nhờ sức sống của Thầy chảy trong con người tôi, như nhựa nuôi sống cành nho, như thánh Phaolô cảm nghiệm: “Tôi sống không phải là tôi sống, nhưng là Chúa Giêsu Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Ý lực sống: “Như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga 17,21).
SUY NIỆM 9: Dụ ngôn cây nho và cành nho
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu dùng một hình ảnh rất cụ thể, rất đẹp để dạy chúng ta một bài học quí giá, đó là cây nho. Ngài tự ví mình là cây nho và chúng ta là cành nho. Hình ảnh này nói lên ý nghĩa cửa sự hiệp thông, liên đới và hỗ tương giữa cây và cành nho, và giữa các cành với nhau, tức là giữa Thiên Chúa với chúng ta và giữa chúng ta với nhau.
2. Vườn nho hay cây nho là hình ảnh rất quen thuộc của người Do thái. Cây nho cho họ thứ rượu hằng ngày và trở thành thức uống không thể thiếu trong các bữa tiệc. Hình ảnh vườn nho hay cây nho cũng được ví như nhà Israel dưới ngòi bút của các tiên tri Isaia, Giêrêmia và Ezékiel. Dân Israel là vườn nho của Chúa trồng lên và chăm sóc bảo vệ chúng, lắm khi chúng đã trở nên tan hoang và nho dại.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng lấy lại hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tương quan của Ngài với các môn đệ. Như cành lìa cây sẽ bị héo khô và chết vì mất nguồn sống, thì những ai tách lìa khỏi sự sống duy nhất là Đức Kitô sẽ hư mất đời đời. Cành nho sống được là nhờ hút nhựa sống từ thân cây, nhưng không phải hút để ra lá mà là để sinh hoa trái.
3. Nếu Đức Giêsu sinh sống ở Việt nam, Ngài sẽ không nói: “Thầy là cây nho”, nhưng sẽ dùng một loại cây quen thuộc hơn: “Thầy là cây mít, là cây ổi, là cây xoài... còn anh em là cành”, để diễn đạt hình ảnh cây và cành có cùng sự sống, luân lưu chung dòng nhựa cây. Ngài cũng đã dùng một động từ để chỉ sự kết hợp này: “ở lại trong Thầy”. Động từ ấy được lặp đi lặp lại sáu lần trong bài Tin Mừng như lời mời gọi thiết tha, như tiếng van nài khẩn thiết, bởi vì Ngài biết rằng đời ta chỉ có giá trị, sinh hoa trái tốt lành khi ở lại trong Ngài. Muốn sinh hoa trái tốt tươi, cây nho phải được cắt tỉa. Cũng vậy, ta phải vui vẻ để cho Chúa Cha cắt tỉa, cắt đi cái tôi muốn bành trướng cách lộ liễu, tỉa bớt cái bản ngã muốn âm thầm vươn cao, lấn át Chúa và người lân cận (5 phút mỗi ngày).
4. Một sự thật hiển nhiên là cành nho bị cắt đứt lìa thân cây chắc chắn sẽ héo khô và chết, vì nhựa sống của cành nho không tự có mà là nhựa sống được truyền từ cây sang cành. Khi sử dụng hình ảnh cây nho – cành nho này, Đức Giêsu khẳng định sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự hiện hữu của con người. Chỉ có Thiên Chúa mới tự hữu, còn con người chỉ hiện hữu lệ thuộc vào sự sống của Thiên Chúa. Cụ thể, sự sống tâm linh của các tín hữu sẽ không còn khi tách lìa với Đức Kitô là “sự sống” như Người từng tuyên bố: “Thầy là sự sống”. Như vậy, không thể có Kitô hữu nào mà lại không kết hợp với Đức Giêsu, đặc biệt kín múc sự sống của Người từ việc cầu nguyện, lãnh các bí tích, đặc biệt là bí tich Thánh Thể.
5. “Cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15,2b). Cành sinh trái là cành luôn gắn bó với thân, được nuôi sống bởi nhựa đến từ gốc cây nho. Thật thế, như hình ảnh cành nho liên kết với thân nho, chúng ta cũng vậy nếu “gắn liền với” hay “ở lại trong” Đức Kitô, chúng ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài vì: “Cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho” (Ga 15,4). Cho nên thi sĩ Tagore luôn cảm nghiệm: “Con nhận Chúa chính nguồn tình yêu”(bài thơ Mong chẳng còn gì).
6. Chữ “Kitô hữu” có nghĩa là “người thuộc về Đức Kitô”. Cho nên cuộc sống Kitô hữu đương nhiên là phải sống trong Đức Kitô và sống bằng sức sống của Ngài. Muốn thế thì đương nhiên phải kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô: bằng cầu nguyện, bằng tưởng nhớ, bằng thi hành những lời Ngài dạy... Ai không làm những điều đó thì người ấy không phải là Kitô hữu thật, người ây là cành nho khô, sớm muộn cũng bị chặt đi và quăng vào lửa.
7. Truyện: Kết hợp với Đức Kitô.
Văn hào kiêm triết gia nổi tiếng người Ấn độ Rabindranath Tagore đã viết như sau: “Trên bàn tôi là sợi dây guitar, tôi xoay nó qua lại theo các chiều khác nhau, nó không bị ràng buộc chi cả. Vì nó được cuộn tròn nên khi tôi xoắn đầu này thì đầu kia cũng bật dậy, sợi dây dẫy nảy trong tay tôi, mà chẳng phát ra một âm thanh nào. Hiện tượng này biến mất khi tôi buộc nó vào chiếc đàn guitar, hai đầu bị gắn chặt để sợi dây căng thẳng, rồi với đầu ngón tay, tôi gảy nhẹ vào sợi dây và lạ thay, một âm vang nổi lên hầu như du dương. Đây chính là lúc sợi dây được tự do để tạo nên nốt nhạc.
Cũng thế, trong cách trồng cây cà chua, cây yếu ớt ngã xoài trên mặt đất, nhiều khi lá bị héo úa dập nát. Nhưng nếu cây được cột vào một cọc dựng đứng, mọi phần tử của cây được phơi ra ánh nắng, cây sẽ mơn mởn và đâm nhiều bông trái. Chính vì bị ràng buộc mà cây đã có nhiều triển vọng sinh hoa kết quả” (Thiên Phúc, Lời gọi yêu thương, tr 39).
Chúng ta cần lặp lại lời Đức Giêsu đã nói với chúng ta: “Không có Thầy, các con không làm được gì” (Ga 14,5). Chúng ta sống được là nhờ có ơn Chúa, mọi sự phải nằm trong Chúa. Đời sống thiêng liêng của chúng ta chỉ có thể phát triển được khi có ơn Chúa nâng đỡ; ngoài Chúa ra không ai có thể giúp đỡ chúng ta làm được việc gì sinh ơn ích cho phần rỗi chúng ta.
04/05 Hiệp nhất và bình an.
- Viết bởi Ga 14, 27-31a
Hiệp nhất và bình an.
Thứ Ba tuần 5 Phục Sinh.
"Thầy ban bình an của Thầy cho các con".
Lời Chúa: Ga 14, 27-31a
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng.
Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con.
Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực gì đối với Thầy. Nhưng để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm như Cha đã truyền dạy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Bình an cho anh em
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Con người thời nay gần như có mọi sự.
Nhưng tiếc thay nhiều người lại không có một điều rất quan trọng,
đó là bình an ở nơi tâm hồn.
Nhiều người bị mất ngủ, căng thẳng, suy sụp, chán đời, tự tử.
Có người rơi vào tình trạng nghiện ngập, bạo hành hay trụy lạc.
Gia đình cũng chẳng bình an khi gặp cảnh xung đột, ly dị, ngoại tình.
Con người nôn nóng đi tìm bình an.
Có người tìm đến những giáo phái, liệu pháp tâm lý hay đơn giản là tập thở.
Bình an phải chăng chỉ là kết quả của cố gắng từ phía con người?
Tự sức con người có thể tạo ra bình an cho mình, gia đình và thế giới không?
Khi thấy các môn đệ xao xuyến và sợ hãi trước việc Thầy sắp ra đi,
Đức Giêsu đã nói câu mà chúng ta không ngừng lặp lại trong mỗi Thánh lễ.
“Thầy để lại bình an cho anh em.
Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (c. 27).
Bình an là quà tặng cao quý của Thầy Giêsu
khi Thầy sắp trở về với Cha qua cái chết thập giá (c. 28).
Bình an cũng là quà tặng của Chúa Giêsu phục sinh
khi Ngài hiện ra cho các môn đệ đang đóng cửa vì sợ hãi:
“Bình an cho anh em” (Ga 20, 19.21.26).
Như thế các môn đệ vẫn phải luôn bình an trước và sau cái chết của Thầy.
Đời sống Kitô hữu được bình an không phải vì không gặp sóng gió,
nhưng là bình an giữa những sóng gió.
“Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.
Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó.
Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
Bình an của chúng ta dựa trên chiến thắng của Đức Giêsu.
“Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng
nhờ Đấng đã yêu chúng ta” (Rm 8, 37).
Đức Giêsu nhìn nhận thế gian có khả năng ban cho chúng ta bình an.
Nhưng Ngài phân biệt thứ bình an ấy với thứ bình an của Ngài.
Chúng ta tự hỏi mình có tìm bình an dựa trên sự vững bền mong manh
của tiền bạc, sắc đẹp, chức quyền, tài năng, tri thức không?
Sự bình an mà chúng ta nhận được và trao cho nhau trong mỗi Thánh lễ
có thật sự gây âm vang trong cuộc sống đời thường của ta không?
Cầu nguyện:
Giữa những ồn ào của đám đông,
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại,
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó,
trầm lắng và bình an.
SUY NIỆM 2: TÂM BẤT BIẾN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cuộc đời luôn có mâu thuẫn. Vì thế phải chiến đấu. Như Chúa Giê-su.
Mâu thuẫn đi – đến. Chúa ra đi nhưng không vắng mặt. Mà để hiện diện. Vắng mặt thể lý. Nhưng hiện diện mầu nhiệm. Hiện diện bí tích. Hiện diện thực sự tích cực hơn.
Mâu thuẫn thế gian - Chúa Cha. Chúa đi vì Thủ lãnh thế gian đến. Không phải Chúa chịu thua ác thần. Nhưng chỉ vì muốn làm trọn thánh ý Chúa Cha.
Mâu thuẫn chiến đấu - bình an. Từ bỏ thế gian để làm theo ý Chúa Cha. Đây là cuộc chiến đấu quyết liệt. Vì trong thế gian có ta. Ý riêng của ta giống với thế gian. Trái với ý Cha. Chỉ khi từ bỏ chính mình ta mới bình an.
Mâu thuẫn biến động - bất biến. Cả thế gian xao động. Toa rập nhau chống lại Chúa. Từ vua chúa đến thượng tế. Từ dân chúng đến môn đệ. Và ý riêng. Chúa Giê-su giữ tâm hồn bất biến. Luôn kết hợp với Chúa Cha. Luôn vâng lời Cha.
Chúa đạt đến bình an. Chúa để lại bình an đó cho ta. Bình an là chính Chúa. Vì thế ta phải chiến đấu để đạt tới Chúa. Như thánh Phao-lô vượt qua mâu thuẫn.
Đi – đến. Khi Chúa còn ở dương gian, thánh nhân chưa hề gặp Chúa. Nhưng khi Chúa đã ra đi, thánh nhân gặp Chúa sống động, mãnh liệt. Thay đổi cả cuộc đời.
Thế gian – Nước Trời. Hôm nay người ta đã ném đá. Để ngài thoi thóp ngoài thành. Nhưng ngài không sợ đau khổ, vất vả. Vì ngài làm theo ý Chúa.
Chiến đấu – bình an. Thánh nhân đã chiến đấu quyết liệt. Với ác thần. Với công việc. Với thiên nhiên. Với chính mình. Để đạt tới bình an trong tâm hồn.
Biến động – bất biến. Cuộc đời ngài đầy xáo động. Vì vua chúa kết án. Vì thượng tế tố cáo. Vì dân chúng hành hung. Nhưng tâm hồn ngài bất biến. Giứ được tâm bất biến giữa giòng đời vạn biến.
Xin cho con nhận được bình an của Chúa. Cho con biết vượt qua mọi mâu thuẫn trong đời. Để con đạt tới chính Chúa. Là nguồn bình an đích thực.
SUY NIỆM 3: Hiệp nhất và bình an
Các môn đệ ngày xưa đã được nghe Chúa Giêsu chia sẻ tâm tình của Ngài khi Ngài cùng với các ông ngồi bên cạnh nhau trong bữa tiệc ly. Chúng ta cũng đã nghe lại những lời thân thương đó mỗi khi chúng ta cùng với Ngài và với nhau dâng Thánh Lễ. Giáo Hội đặt để những lời thân thương ấy sau kinh Lạy Cha và trước khi chúng ta đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta chứng minh được bao bọc trong bình an của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhất là chúng ta đã dọn lòng mình đủ để có Chúa ngự trong lòng chúng ta.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu thực sự tin rằng Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô không chấp nhất gì tội lỗi của chúng ta mà dựa trên đức tin của Giáo Hội, của cộng đoàn dân Chúa đã ban cho chúng ta, cho Giáo Hội được ơn hiệp nhất và bình an. Chắc chắn là Giáo Hội rất rõ điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng". Và chúng ta cũng phải hiểu được điều đó để hân hoan với bình an mà Chúa ban cho chúng ta. Thế gian là gì trong nhãn quan của thánh Gioan.
Thế gian là ma quỉ, là mãnh lực của ma quỉ, là thế giới của ma quỉ, là tất cả những con người và những sinh hoạt đồng lõa với ma quỉ. Bình an của thế gian này ban tặng là bình an có được do vũ lực, do đàn áp, do chiến tranh, do mưu mô xảo quyệt, do tội ác, do chiếm đoạt và đe dọa, mong manh biết bao sự bình an tạm bợ này, chỉ cần một vài thay đổi rất ư là đơn giản thì cũng đủ để cho người ta mất đi bình an và lại rơi vào hoảng sợ, vào dằn vặt. Ma quỉ và đồng lõa của ma quỉ vốn dĩ rất quen thuộc với chiến lược trở mặt như trở bàn tay, và vì thế không ít những người trở thành nạn nhân của sự bình an do chúng tạo nên. Còn bình an của Chúa ban cho lại là sự bình an của những người được tha thứ tất cả. Bình an của một con người thấy thanh thản trong thân xác và nhẹ nhàng trong tâm hồn. Bình an của một cuộc đời có Thiên Chúa. Sự bình an bất chấp những khó khăn, bất chấp mọi thử thách. Sự bình an của một con người không thấy hổ thẹn gì khi ngước mắt nhìn lên trời, đưa mắt nhìn chung quanh và nhắm mắt lại nhìn vào chính mình.
Lạy Cha chí thánh, là con người ai cũng khao khát bình an và có rất nhiều người thấy hãnh diện vì sự an toàn nhất thời họ có được ở trần gian này, khi họ dựa cậy vào quyền lực hoặc là do một con người hay của một nhóm người, thực tế cho thấy bình an ấy quá mong manh. Các con cảm tạ Cha vì sự bình an ban cho chúng con qua Chúa Giêsu và với tác động của Chúa Thánh Thần. Sự bình an của Ðấng bị bắt, bị tra tấn, bị bỏ mặc, bị coi là điên khùng và bị treo lên giữa những tử tội trộm cướp, ngày thứ ba Ngài đã sống lại. Chúng ta thật hạnh phúc vì có được sự bình an ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Thầy để lại bình an
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh em”. Các bạn hãy suy nghĩ xem những lời chúc đó có ý nghĩa gì? Có phải như những lời chúc đầu năm mới, chúc Giáng sinh, chúc Phục sinh hay những ngày lễ kỷ niệm? Đó là kiểu chào, không còn gì hơn nữa sao? Nếu như thế, chúng ta chưa hiểu rõ những lời của Chúa. Ơn bình an của Chúa không phải như món quà gói gọn im lìm. Ơn bình an là sức mạnh hoạt động mạnh mẽ, nghĩa là: Thầy ban cho anh em sức mạnh bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em sức hoạt động bình an của Thầy. Anh em sẽ làm chứng và sống thực hiện sự hòa giải, hòa hợp để đem lại bình an. “Phúc cho ai hoạt động cho bình an”.
Nhưng người ta có thể trách Chúa rằng: Ngài trao trách nhiệm hòa bình cho chúng tôi, Ngài bắt chúng tôi thừa kế và ban phát hòa bình, còn Ngài lại ra đi, Ngài để lại cho chúng tôi lời cam kết ban hòa bình. “Thầy sẽ ra đi”.
Sự ra đi của Đức Giêsu, sự xa cách của Người là để thực hiện một sự hiện diện thiêng liêng có mặt ở khắp mọi nơi, cho hết mọi người. Ơn bình an của Người là một cách Đức Giêsu tiếp tục với chúng ta thực hiện công cuộc cứu độ của Người.
Ngài ở với chúng ta bằng cách hiện diện thiêng liêng này, còn có ý tôn trọng tự do của chúng ta. Người hành động nơi chúng ta như cha mẹ đối với con cái, từ từ trao trách nhiệm và tự do cho con cái. Chúng xa cha mẹ mà vẫn được cha mẹ nâng đỡ, chở che và yêu mến.
Mỗi buổi họp các tín hữu, mỗi lúc dự Thánh lễ, Đức Giêsu đều ban bình an cho chúng ta. Người không áp đặt chúng ta nhận bình an, nhưng Người chỉ cho chúng ta thấy rằng sự hiện diện của Người ở trần gian tùy thuộc vào sự nhiệt tâm hăng hái của chúng ta, ra công xây đắp hòa bình. Sự biểu dương của hoàng tử hòa bình được chiếu sáng qua những cuộc hòa giải tốt của chúng ta, và qua những tấm lòng khoan dung tha thứ mau lẹ của chúng ta.
C.G
SUY NIỆM 5: Hòa bình của Đức Kitô
“Bất thần tôi cảm thấy xao xuyến lo âu khi nghĩ đến những người Công giáo Đức. Tôi không biết họ cảm nghĩ thế nào, khi chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Tôi cảm thấy nhu cầu cần phải dâng việc rước lễ để cầu nguyện cho nước Đức. Tôi hiểu rằng chúng ta cần phải cầu nguyện cho sự canh tân luân lý và tinh thần của xứ sở đã từng sống dưới sự cai trị của Đức Quốc Xã”.
Những dòng tâm sự trên đây được trích từ Nhật ký thiêng liêng của một người đàn bà Pháp được xem là người đã khởi xướng phong trào Pax christi – Hòa bình của Chúa Kitô. Sinh trưởng trong một gia đình trưởng giả, nhưng bà Marc đã có một đức tin sốn động và nhiệt thành. Trong thời Đức Quốc Xã chiếm đóng Pháp, dưới sự hướng dẫn của cha linh hướng, bà đã bắt đầu viết nhật ký thiêng liêng và chính những trang nhật ký này đã làm phát sinh một phong trào về sau được gọi là “Hòa bình của Chúa Kitô”. Cuối năm 1944, vào giữa lúc thế chiến thứ hai còn sôi động, bà xác tín rằng cần phải cầu nguyện cho sự hoán cải của nước Đức. Ý tưởng này không được nhiều người đón nhận, bởi vì chiến tranh vẫn còn sôi sục và người ta khó chấp nhận tinh thần hòa giải. Tuy nhiên, bà vẫn kiên trì trong việc thành lập một phong trào cầu nguyện cho nước Đức được ơn trở lại. Sau khi nước Đức đầu hàng, phong trào đã lan rộng tại nhiều nước Âu châu. Ngoài mục đích cầu nguyện và gây ý thức về hòa bình, phong trào còn đưa ra những sáng kiến về hòa bình. Từ 50 năm qua, đóng góp lớn lao nhất của phong trào này không chỉ là cổ võ cho hòa bình thế giới, mà thiết yếu là làm cho thế giới hiểu được hòa bình mà Chúa Kitô mang lại cho con người.
“Hòa bình của Chúa Kitô”. Quả thực chỉ có Chua Kitô mới đem lại hòa bình đích thực cho con người. “Ta để lại bình an cho các con, Ta ban bình an của Ta cho các con”. Sự bình an mà Chua Kitô đem lại cho con người không giống như bình an hay hòa bình mà thế gian hứa hẹn. Sau thế chiến thứ II quả thực ở quy mô thế giới tiếng súng đã hầu như im bặt. Tuy nhiên lịch sử cho thấy: sau thế chiến thứ II, nhân loại vẫn chưa có hòa bình đích thực, lò thuốc súng vẫn còn đó, chiến tranh bằng những súng đạn không diễn ra giữa hai khối kình chống nhau nhưng lửa hận thù lại bùng nổ ở những nơi khác.
Hòa bình mà Chúa Kitô đem lại cho con người trước tiên và thiết yếu là bình an trong tâm hồn. Hòa bình đó, bình an đó chỉ có khi con người chiến thắng được kẻ thù khủng khiếp nhất là tính tham lam, ích kỷ, hận thù. Bom đạn có im tiếng, nhưng bao lâu lòng tham lam, ích kỷ, hận thù vẫn còn sôi sục trong tâm hồn con người, thì bấy lâu chiến tranh vẫn còn đó.
Chúa Giêsu là nguyên ủy của hòa bình. Ngài đã thực sự chiến thắng được kẻ thù căn cội và khủng khiếp ấy bằng cả cuộc sống hiến thân và hy sinh đến giọt máu cuối cùng. Chỉ Ngài mới có thể đem lại hòa bình đích thực cho nhân loại. Người kitô hữu tin như thế và họ đón nhận sức sống thần linh của Ngài để nhờ đó cũng chiến thắng được kẻ thù căn cội của hòa bình là ích kỷ, tham lam, hận thù.
Hòa bình của Chúa Kitô, đó là hồng ân cao cả mà chúng ta phải không ngừng cầu xin và đó là hòa bình mà chúng ta luôn được mời gọi thể hiện bằng cuộc sống quảng đại, yêu thương và tha thứ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: BÌNH AN LÀ ÂN BAN CỦA ĐỨC TIN (Ga14, 27-31a)
Bình an là thứ mà con người mọi thời, mọi nơi, từ già đến trẻ, từ người có quyền lẫn người bình dân, ai ai cũng mong muốn và khao khát chiếm hữu cho kỳ được.
Tuy nhiên, bình an mà con người tìm kiếm ở đây, chính là thứ bình an trong trạng thái: không chiến tranh; không bị áp bức, bóc lột; không ốm đau bệnh tật; không tai nạn rủi ro...
Nhưng điều con người ước mong đó chỉ là thứ bình an bề ngoài, nó không có chiều sâu và không chi phối hạnh phúc vĩnh cửu. Nó cũng không thể thiết thực và tồn tại với thời gian. Bởi vì, sự bất ổn trong xã hội cũng như tâm lý bất an của con người luôn hiện diện và đeo bám chúng ta cách song song.
Vì thế, chiến tranh vẫn còn đó từ thời Đức Giêsu cho tới ngày nay. Con người vẫn phải chịu cảnh đau khổ, tai ương, đối xử bất công... Nhân loại cũng luôn phải đối diện với những căn bệnh thế kỷ mới của thời đại, gây nên sự chết chóc, tang thương...
Như vậy, nếu chỉ mong được bình an hòng tránh khỏi những điều bất trắc trên thì nó không đảm bảo hạnh phúc cho chúng ta. Còn bình an mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ thì hoàn toàn khác. Khác ở chỗ:
Nếu muốn được bình an thực sự, trước tiên phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới cảm nghiệm được sự bình an sâu xa trong tâm hồn. Bởi lẽ: bình an của Đức Giêsu chính là bình an ngay trong những khổ cực đau thương, bách hại, mất mát và ngay trong những hiểu lầm oán ghét, bất công... Như vậy, ơn bình an này chính là ân huệ đức tin và hệ quả của bình an chính là đem lại ơn cứu chuộc cho con người chứ không phải đem lại cho con người sự an tâm, đảm bảo phần xác.
Sự điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống tình trạng bình an của Chúa ngay trong những trái ngang của cuộc đời và xã hội. Tức là, cho dù cuộc sống có bất công, con người có tàn nhẫn, đâu khổ có dồn dập, kẻ thù có lộng hành, sự ác có chiến thắng, thì với chúng ta, những người tin Chúa, chúng ta hãy nhìn tất cả chiều kích đó dưới con mắt đức tin và tâm niệm rằng: tất cả đều sinh ích cho người có lòng yêu mến Chúa, và với ân sủng của Chúa, thì Ngài có thể biến từ sự dữ trở nên sự lành.
Có được tâm tình đó, chắc chắn chúng ta có được sự an bình thư thái, và bình an của Chúa sẽ ngự trị nơi tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, ơn ban bình an của Chúa là quà tặng vô giá Chúa ban cho các môn đệ và cũng cho mỗi người chúng con. Xin cho chúng con luôn được ở trong sự bình an đó hôm nay và mãi mãi. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7:,,,
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ. Đây là sự bình an siêu nhiên, tức là ơn cứu độ đến từ Chúa Cha. Chỉ những ai tin tưởng và thi hành ý Chúa Cha mới nhận được sự bình an này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước giờ phút Chúa đi vào khổ nạn, Chúa nhìn thấy tâm hồn các tông đồ xao xuyến sợ hãi. Chúa cũng đang nhìn thấy mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày đầy những gian nan thử thách, những vất vả khổ đau, những lo lắng căng thẳng, nhất là những đam mê tội lỗi. Tất cả đang làm con sợ hãi xao xuyến. Chúa đã thương ban bình an cho các tông đồ, thì giờ đây xin Chúa cũng thương ban bình an cho đời sống con.
Trong giờ phút khổ đau nhất, tâm hồn Chúa vẫn tràn ngập bình an, bởi vì Chúa luôn tin tưởng vào tình yêu của Chúa Cha và biết rằng mình đang thực hiện Thánh Ý Chúa Cha. Vâng, đó chính là sự bình an mà Chúa muốn ban cho con. Con tin tưởng Chúa Cha luôn yêu thương và gìn giữ con. Như thánh Phao-lô, con tuyên xưng rằng: ai có thể tách con ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Trong mọi thử thách ấy, con sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến con. Con tin chắc rằng không có gì tách được con ra khỏi tình yêu của Chúa Cha thể hiện nơi cuộc sống của Chúa.
Xin Chúa cũng giúp con theo gương Chúa luôn thi hành Ý Chúa Cha, để nhờ đó mà được bình an trong mọi giây phút. Trong mọi việc, con chỉ mong tìm một phần thưởng duy nhất là biết mình đang làm theo Ý Chúa Cha. Con quyết tâm xa tránh tội lỗi là căn nguyên làm cho tâm hồn con rối loạn. Nhưng lạy Chúa, con quá yếu đuối, xin Chúa giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con”.
SUY NIỆM 8:,,,,,,,,,
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Hôm ấy trên con tàu lênh đênh giữa biển, hành khách truyện vãn với nhau, trong đó có bàn về Thiên Chúa. Trong số những người có mặt, có một vị vô thần. Ông này tìm mọi lẽ bác bỏ Thiên Chúa. Lời ông nói, lý ông đưa ra khá mạnh, khiến một số thính giả xiêu lòng. Thình lình có cơn bão lớn khiến con tàu muốn đắm. Người ta thấy mất ông vô thần. Họ bảo nhau đi kiếm thì thấy ông đương quỳ cầu nguyện trong phòng rửa mặt.
Một người hỏi khích ông: “Ông cầu nguyện với ai? Ông là người vô thần cơ mà?”. Ông khiêm nhường đáp: “Người ta chỉ vô thần khi bình an thôi”.
Suy niệm
Các tông đồ xao xuyến, sợ hãi trước sự loan báo ra đi bước vào cuộc khổ nạn của Thầy. Chúa Giêsu nhận thấy các môn đệ bàng hoàng xao xuyến. Chúa Giêsu hứa ban sự bình an: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27). Sự bình an không phải là tâm trạng tâm lý khoan khoái, sung sướng của con người về mặt tâm lý, hay vui sướng vật chất, cũng không phải là không có chiến tranh. Sự bình an đích thực mà Chúa Giêsu trao ban là ân huệ lớn lao từ nơi Chúa Cha. Ân huệ này chính là ơn cứu độ, ơn giải thoát ta khỏi sợ hãi và nô lệ tội lỗi khi được sống trong sự thật và ánh sáng của Chúa như cụ Simêôn đã cảm thấy toại nguyện, nên bộc phát cầu nguyện: “Xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ” (Lc 2,29-30).
Lời hứa “bình an” và hiệu quả cũng được Thiên Chúa trao ban cho những người tin, để sống với biết bao biến cố thăng trầm, để vượt qua những lo lắng nho nhỏ hàng ngày, để chiến đấu với những sự việc gây hoảng loạn trong đời. Bình an cũng là niềm hy vọng cho thời đại hôm nay trên bình diện rộng lớn quốc gia và thế giới đang trong khủng hoảng và sợ hãi trước bóng ma của bạo lực khủng bố, tranh chấp tôn giáo, chủng tộc, ý thức hệ… Ngôi nhà chung của nhân loại cần bình an của Chúa mang lại như lời hứa của Đức Kitô: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Xin ban cho mỗi người chúng ta, gia đình, khu xóm, giáo xứ sự bình an đích thực trong tâm hồn. Ðể cuộc sống của chúng ta không bị chao đảo, xao xuyến trước những thử thách khó khăn và được sống trong sự bình an của Chúa. Vì, “Chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14).
Ý lực sống: “Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em”. (Cl 3,15)
SUY NIỆM 9: Thầy ban bình an cho anh em
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Khi nghe những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong bầu khí chuẩn bị chia tay – bữa tiệc ly – các môn đệ tỏ ra đau buồn và xao xuyến. Nhận thấy rõ như vậy, Ngài đã an ủi, khích lệ bằng cách dạy các ông phải bình tĩnh, và Ngài sẽ ban cho tâm hồn các ông được hưởng bình an của Chúa.
Trong lúc đang hoang mang sợ hãi như thế mà Đức Giêsu lại nói: “Thầy để lại sự bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con”. Như thế, thứ bình an này hẳn là đặc biệt.
2. Bình an ở đây không phải là hòa bình, một tình trạng không chiến tranh, tranh chấp, cũng không phải là tâm trạng của người hết căng thẳng về tâm lý, hoặc tâm trạng khoan khoái thoải mái, sung sướng... là những trạng thái thuộc lãnh vực tự nhiên.
Theo ngôn ngữ của thánh Gioan, bình an, sự thật, ánh sáng, sự sống, niềm vui... là những từ diễn tả nhiều khía cạnh khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu từ Chúa Cha mang đến cho loài người. Ân huệ này chính là giải thoát, ơn cứu độ. Việc Đức Giêsu chịu chết để đem lại ơn giải thoát, việc Ngài phục sinh đem lại sự sống đời đời: đó là ân huệ lớn lao, là bình an mà Ngài ban nhằm trấn an các môn đệ (Trần Hữu Thành).
3. Nếu hiểu bình an là không có chiến tranh, tranh chấp, thì loài người chúng ta cũng không nhận được bình an của Chúa. Theo sự phát giác của một số sử gia, thì khoảng 150 năm trước Chúa Giêsu và từ Chúa Giêsu tới nay, thế giới mới thực sự hưởng thái bình hơn kém 300 năm, còn lại trên 3000 năm đã xẩy ra biết bao cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Ai cũng trông mong bình an, mà đâu có bình an.
Thực ra, khởi điểm của sự bình an đó là chính đời sống của mỗi người chúng ta, một đời sống hòa hợp với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình. Do đó, để có được bình an của Chúa là khi chúng ta sống theo điều răn của Chúa, chu toàn bổn phận của mình, và nếu chúng ta có bình an nơi mình, chúng ta sẽ có bình an với người khác. Nói khác đi, bình an trong gia đình và hòa bình trên thế giới là phản ánh của bình an nội tâm.
4. Là nguyên ủy của sự bình an, dĩ nhiên Chúa Giêsu chỉ rao giảng và thể hiện sự bình an mà thôi. Nhưng hòa bình hay bình an mà Chúa Giêsu mang đến như Ngài xác nhận trong bài Tin mừng hôm nay không phải là thứ hoà bình thế gian ban tặng. Hòa bình hay bình an của thế gian thường chỉ là hai chữ bình an đồng nghĩa với an phận, với trốn tránh, với thỏa hiệp. Hòa bình hay bình an Chúa Giêsu mang đến chỉ có thể có được bằng một giá đắt: nó đòi hỏi sự chiến đấu, chấp nhận mất mát, có khi cả mạng sống mình. Hòa bình hay bình an ấy chỉ có khi con người có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Lương tâm tôi không trách cứ tôi điều gì”. Chỉ khi lương tâm không trách cứ chúng ta điều gì, lúc đó chúng ta mới có được bình an hay hòa bình thực sự trong tâm hồn (Mỗi ngày một tin vui).
5. Michael Jackson, một danh ca nhạc rock nổi tiếng, đã đạt tới đỉnh cao danh vọng. Ước mơ của anh là được sống tới 105 tuổi, nên anh chẳng ngại thuê trực thăng đem khí oxy từ đỉnh núi cao về rồi bơm đầy phòng kính nơi anh ở để tránh mọi sự ô nhiễm. Liệu anh có thật sự an toàn và bình an trong căn phòng của mình?
Con người luôn khao khát được sống bình an và đã tìm kiếm bình an bằng tất cả những gì mình có. Tuy nhiên, họ chỉ có được sự bình an cách tương đối mà thôi. Bề ngoài trông họ có vẻ bình an, nhưng thật ra, bên trong tâm hồn, họ lại đầy những lo lắng và khổ đau. Đức Giêsu cho thấy chỉ Người mới có thể đem lại bình an đích thực cho con người, một thứ bình an nội tâm sâu xa. Bình an đó chỉ có khi con người biết cậy nhờ ơn Chúa giúp, để chiến thắng được kẻ thù lớn nhất là tính tham lam, ích kỷ, xấu xa, tội lỗi của mình.
6. Nếu chỉ mong bình an hòng tránh khỏi những bất trắc trong cuộc sống thì không đảm bảo hạnh phúc cho chúng ta. Còn bình an mà hôm nay Chúa Giêsu trao cho các môn đệ thì hoàn toàn khác. Khác ở chỗ: Nếu muốn được bình an thực sự, trước tiên phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới cảm nghiệm được sự bình an sâu xa trong tâm hồn. Bởi lẽ: Bình an của Chúa Giêsu chính là bình an ngay trong những khổ cực đau thương, mất mát và ngay trong những hiểu lầm oán ghét, bất công... Như vậy, ơn bình an này chính là ân huệ đức tin và hệ quả của bình an chính là đem lại ơn cứu chuộc cho con người chứ không phải đem lại cho con người sự an tâm, đảm bảo phần xác.
7. Truyện: Bình an của Đức Giáo hoàng Gioan 23.
Ông Giacôbo Veisu, một nhà điêu khắc nổi tiếng của Italia đã viết hồi ký về những giây phút cuối đời của Đức Gioan 23 kể lại như sau:
Vào ngày cuối cùng của chuỗi ngày đau đớn kéo dài, Linh mục Cabovila, bí thư riêng của Đức Thánh Cha, đến bên giường bệnh, hôn tay Ngài và hỏi xem Ngài cảm thấy thế nào. Đức Thánh Cha Gioan 23 trả lời:
- Tôi cảm thấy trong mình khỏe khoắn và bình an như thể tôi đang ở trong tay Chúa, nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơi lo.
Linh mục Cabovila thưa:
- Xin Cha đừng lo, những người phải lo là chính chúng con đây. Chúng con đã nói chuyện với bác sĩ.
Đức Thánh Cha Gioan 23 ngắt lời:
- Họ đã nói những gì với con?
Linh mục bí thư nghẹn ngào nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, con muốn nói với Cha một sự thật. Hôm nay là ngày của Chúa, hôm nay là ngày Cha sẽ được về Thiên Đàng!
Nói xong, Linh mục bí thư quì gối xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua, bỗng cha cảm thấy có một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một giọng nói ôn tồn:
- Hãy ngước mắt nhìn lên! Bình thường người thư ký của Cha rất mạnh mẽ, can đảm, nhưng sao bây giờ lại trở thành mềm nhũn như thế. Cha đã nói với Người Bề Trên của Cha những lời hay đẹp nhất mà con người có thể nghe từ miệng Linh mục!
Vâng đó là thứ Bình an đích thực mà Chúa ban cho những ai tin Chúa.
03/05 Ðến với Chúa
- Viết bởi Ga 14, 6-14
Ðến với Chúa.
Thứ Hai tuần 5 Phục Sinh – THÁNH PHILIPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ, Tông Đồ. Lễ Kính.
"Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm cho".
* Thánh Philipphê quê ở Bét-xai-đa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó, người theo Chúa Giêsu.
Còn thánh Giacôbê, người là anh em bà con với Chúa và là con của ông Anphê. Người đã lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem và đã giúp cho nhiều người Do thái đón nhận đức tin. Người còn để lại một bức thư. Người chịu tử đạo năm 62.
Lời Chúa: Ga 14, 6-14
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con".
Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?' Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Làm những việc lớn hơn nữa
Suy niệm:
Sau khi ông Tôma hỏi Thầy Giêsu về đường (Ga 14, 5),
thì ông Philípphê lại xin Thầy cho các môn đệ thấy Chúa Cha (c. 8).
Không rõ Philípphê muốn thấy Thiên Chúa theo kiểu nào,
bởi lẽ theo niềm tin chung của người Do thái
không ai thấy Thiên Chúa chí thánh mà sau đó còn sống được (x. Xh 33, 20).
Dù sao khát vọng được thấy Thiên Chúa là ước mơ chính đáng.
Thiên Chúa đã thỏa mãn ước mơ
mà Ngài đã đặt vào lòng con người.
Nơi Đức Giêsu, là Ngôi Lời nhập thể và là Con Thiên Chúa,
chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa bằng mắt phàm.
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (c. 9).
Nhìn ngắm khuôn mặt Thiên Chúa nơi Đức Giêsu
chúng ta chẳng những không phải chết, nhưng được sống.
Theo quan niệm của người Do Thái,
sứ giả là đại diện trọn vẹn cho người sai mình.
Đức Giêsu đã là sứ giả cho Cha một cách tuyệt vời.
Ngài là một với Thiên Chúa, Đấng sai Ngài:
“Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy” (c. 11).
Các lời Ngài nói, Ngài không tự mình nói.
Các việc Ngài làm, Ngài không tự mình làm.
“Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình” (c. 10).
Nhìn những việc Đức Giêsu làm, chúng ta nhận ra đó là việc của Cha.
Cha làm việc của Cha qua Con của mình là Đức Giêsu.
“Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những việc Thầy làm.
Người đó còn làm được những việc lớn lao hơn nữa,
bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (c. 12).
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống chiến thắng.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha và được vào trong vinh quang.
Khi tin vào Ngài, khi gắn bó với một Đấng phục sinh quyền năng như thế,
chúng ta có thể làm được những điều như Ngài đã làm:
trừ quỷ, chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết (Mc, 16, 17-18; Cv 9, 34.40).
Và như Đức Giêsu, điều vĩ đại
mà chúng ta có thể làm cho thế giới hôm nay
là yêu thương, yêu như Thầy đã yêu, yêu đến hiến mạng.
Hãy mạnh dạn nhân danh Đức Giêsu mà xin,
vì biết thế nào Ngài cũng làm cho người gắn bó với Ngài.
Tất cả để Cha được tôn vinh nơi Con (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Philipphê và Giacôbê tông đồ
Kính nhớ thánh Giacôbê Hậu, con ông Alphê, anh em họ với Đức Giê-su. Ngài làm Giám Mục cộng đồng Kitô ở Giê-ru-sa-lem và là thánh tử đạo thứ 36 thánh Stêphanô và Giacôbê tiền anh của thánh Gioan. Cần đọc lại bức thư với lời giới thiệu để tôn vinh Ngài, vì Ngài đã bàn đến nhiều vấn đề.
Tên của Thánh Philip được ghi rất sớm trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài được kể là Tông Đồ thứ tư cùng với Thánh Gioan và hai Thánh Anrê và Phêrô dân thành Betsaida xứ Galilê (Ga 1, 43-44), Ngài giới thiệu mấy người Hy Lạp xin gặp Đức Giê-su (12, 21), trước khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giê-su hỏi Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?... Ngài đáp: thực có mua đến 200 đồng bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút (6, 5-7) và ở bữa tiệc ly, Philíp nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (14, 8). Người ta cho rằng Philíp sống hiện thực, giống như những người tiến bộ khoa học thời chúng ta: ông sống theo kinh nghiệm nên đòi được xem, sờ, cảm thấy Chúa Cha, cùng với óc tính toán của ông: có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút!
Không, Đức Giê-su không mua 200 đồng bánh, cũng không làm cho Chúa Cha hiện ra. Đức Giê-su có tất cả mọi sự để nuôi tất cả thính giả, để mặc khải Chúa Cha: chỉ mình Người tỏ cho thấy rõ quyền phép của Người và tình yêu của Thiên Chúa. Trong Người, chúng ta có tất cả. Chỉ mình Người nắm giữ tất cả để với những cử chỏ của Người, Người ban cho chúng ta những cảm nghiệm về Thiên Chúa nhờ những dây liên kết của Người với chúng ta.
Hãy nhìn ngắm Đức Giê-su sống thì hiểu biết được Thiên Chúa. Hãy tin vào Đức Giê-su, thì chúng ta sẽ được bảo phải làm gì để đi vào chương trình cứu độ.
Nhờ sự cảm nghiệm của bản thân mình về đức tin chúng ta sẽ cảm nghiệm thẩm sâu toàn diện Tin Mừng Thánh Gioan kết hợp với những khuynh hướng hiện đại cũa chúng ta. Các bạn trẻ chúng ta đã cảm nghiệm được những điều thích thú trong sách của Thánh Gioan, thì cần đào sâu những cuộc đàm thoại trong Tin Mừng của Thánh Gioan để khởi đi từ câu thứ nhất: “Hãy theo tôi” mà Thánh Philíp chắc chắn đã thấm thía với tất cả ý nghĩa thâm sâu của câu đó, để rồi: “Thấy Thầy, là thấy Cha” và “Thế là được mãn nguyện”.
L.P
SUY NIỆM 3: Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ
Thánh Philipphê là một trong những Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, ngài sinh tại Galilê. Ngay trong những ngày đầu loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ông theo Người. Có lẽ ngài đã giảng Tin Mừng ở Bắc biển Đông và tử đạo ở Tiểu Á.
Thánh Giacôbê Hậu là người có họ hàng với Chúa Giêsu. Ngài lãnh đạo cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem. Theo truyền thuyết ngài bị dân Do thái ném đá đến chết vào năm 62 tại Giêrusalem.
Cả hai vị Tông đồ là những mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Các ngài đã hiến thân rao giảng Tin Mừng cho mọi người nhận biết Chúa mà được hạnh phúc. Các ngài là những người trực tiếp chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển. Các ngài giúp cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ qua lời giảng và mạng sống của mình.
Thánh Philipphê xưa kia xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha, chứng tỏ các ngài vẫn chưa hiểu được Thầy đúng mức. Hôm nay đúng ra chúng con đã biết nhiều về Chúa hơn, có kiến thức về triết học, thần học… và nghe mọi lời Chúa dạy dưới ánh sáng Phục Sinh. Tuy nhiên, rõ ràng là các Tông đồ có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Cha và Chúa Giêsu đối với mình thế nào, còn con hôm nay nhiều lúc chỉ tìm kiến thức suông thay vì đi tìm chính Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết nhìn lên Thập Giá Chúa và lắng nghe lời giảng của Chúa để hiểu được tình yêu Chúa và chương trình Chúa muốn dành cho từng người chúng con.
Chúa Giêsu luôn ở trong Chúa Cha. Ngài hiện hữu từ đời đời và cùng với Chúa Cha sáng tạo vũ trụ. Hôm nay ngài đến cứu độ chúng ta và cho thấy tình thương của Chúa Cha đố với loài người chúng ta. Thật lạ lùng khôn xiết! Qua Chúa Con, Chúa Cha nhận tất cả mọi người làm con. Phần chúng con phảI biết tin giữ lời Chúa, luôn gắn bó với Chúa Con để khi chúng con chết trong Ngài thì cũng được phục sinh với Ngài và hưởng hạnh phúc thanh nhàn cùng Ngài trên Thiên Quốc.
Thánh Philipphê là người trung gian giới thiệu Chúa cho mọi người: vừa khi được Chúa kêu gọi đã tin vào Chúa Giêsu và tìm Nathanael để giớI thiệu về Chúa Giêsu cho Nathanael cũng được diễm phúc làm môn đệ Chúa. Khi những ngườI Hy lạp muốn gặp Chúa Giêsu, chính Philipphê cùng Andrê dẫn họ đến vớI Chúa Giêsu. Chính ngài cũng xin Chúa Giêsu cho ngài và các Tông đồ thấy Chúa Cha.( Ga 14,7-9).
Về hạnh Thánh Giacôbê, chúng ta thấy:sau khi Chúa Giêsu về trời ngài đã lên tiếng cho những người ngoại giáo được gia nhập Kitô giáo mà không phải cắt bì (Cv 15, 13 -21). Ngài đã đem nhiều người Do thái và cả dân ngoạI trở về chính đạo… Noi gương các ngài, chúng con ý thức nhiệm vụ giớI thiệu Chúa cho mọi người. Xin các ngài giúp chúng con biết kết hiệp với Chúa Giêsu trong mọi việc làm, lời nói và ý tưởng, thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa đời này và đời sau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên những chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người, sẵn sàng làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người chúng con gặp gỡ bằng lời nói hay bằng việc làm trong đời sống hàng ngày: sống đồng tâm nhất trí với nhau trong gia đình, họ đạo vì Chúa Giêsu, biết chia sẻ với anh em vì lòng yêu mến Chúa, biết làm cho gia đình mình hạnh phúc, xã hội được ấm no.
SUY NIỆM 4: Philipphê và Giacôbê tông đồ
(GKGĐ Giáo Phận Phú Cường)
“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”.
Giáo Hội mừng kính hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. Hai vị thánh này xuất thân từ Bếtsaiđa, cùng quê với Phêrô và Anrê thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.
Nếu như Giacôbê tiền là anh của Gioan, là con của ông Dêbêđê, thì Giacôbê chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con của ông Anphê. Tiền và hậu chỉ sự phân biệt chứ không nói lên đặc tính gì quan trọng.
Còn thánh Philipphê là người đã giới thiệu ông Nathanaen cho Chúa Giêsu; đồng thời cũng là người giới thiệu nhóm người Hy Lạp khi họ xin được gặp Chúa Giêsu.
Hai vị thánh được Giáo Hội mừng kính hôm nay nếu chỉ dựa trên những gì Sách Thánh nói, thì không có gì nổi trội đặc biệt. Thế nhưng, họ đã được chọn làm Tông đồ của Chúa, chứng tỏ nơi tâm hồn các ông đã có sẵn lòng nhiệt thành và sự sốt sắng đáp trả khi được ơn kêu gọi. Với thánh Philipphê khi xin Chúa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”; và thánh Giacôbê, vị Tông đồ được sánh bước với Thầy và được thấy những việc Chúa làm. Như thế đủ thấy các ngài được chọn là để thấy, để nghe, để ra đi và để làm chứng cho chính Chúa.
Mỗi người chúng ta cũng được Chúa chọn qua bí tích Rửa Tội; và vì vậy, chúng ta cũng được diễm phúc: thấy những việc Chúa làm trong cuộc đời mình; nghe những lời Chúa nói qua Tin Mừng, qua Giáo Hội; được sai đi loan báo Tin Mừng và làm chứng bằng đời sống gương mẫu về công bình, bác ái, niềm tin, lòng trông cậy và tình mến Chúa.
Lạy thánh Philipphê và thánh Giacôbê, xin chuyển cầu cho chúng con được trở thành những tông đồ tuy vô danh nhưng hữu dụng trong việc xây dựng Nước Chúa ở trần gian. Amen.
SUY NIỆM 5: THẤY THẦY LÀ THẤY CHA
(Lm. Đaminh Trần Công Hiển)
Được sống với Thầy, được nghe những bài giảng của Thầy về Chúa Cha, Philipphê nhận ra Chúa Cha là Đấng cao cả nhưng cũng rất tốt lành, là nguồn hạnh phúc, cho nên ông và các tông đồ khác đã ước ao được thấy Chúa Cha: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện ! Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng khao khát tìm kiếm chân lý của Philipphê và các Tông đồ.
Ước nguyện ấy lại được Chúa Giêsu đáp ứng một cách dễ dàng không ngờ: ai Thấy Thầy là thấy Cha! Một ước vọng có vẻ cao sang nhưng lại được được đáp ứng quá nhanh chóng đến độ bất ngờ như thế, thực sự là một Tin vui hạnh phúc cho loài người chúng ta trên hành trình tìm kiếm chân lý, nhưng nhiều khi cũng vì quá dễ dàng, nên chân lý vĩ đại này lại thường bị bỏ quên. Người ta thích đi con đường dài và hiểm trở (để quan trọng hóa vấn đề) hơn là chọn con đường có vẻ quá đơn giản như thế. Người ta đi tìm Chúa nơi nao trong khi Chúa ở rất gần, ở bên cạnh, ở trong lòng ta thì lại không biết, không thấy ! Người ta thích suy tư lý luận dài dòng phức tạp nhưng lại quên rằng Thiên Chúa của chúng ta và đường lối của Ngài lại rất đơn sơ.
Có lẽ Philipphê và Giacôbê cùng các Tông đồ sau khi được Chúa dạy dỗ bài học hôm nay, đã ý thức để sống thân mật với Chúa hơn, lãnh nhận chân lý với niềm tin yêu, và sau này các Ngài đã đổ máu đào để làm chứng cho chân lý ấy.
Đối với chúng ta hôm nay, chúng ta có khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm hạnh phúc đích thực không? Có người vất vả đi tìm hạnh phúc tạm bợ, giả tạo nơi tiền bạc, danh vọng, lạc thú…; có người đi tìm ở triết thuyết này, đạo pháp kia; có người biết là phải đi tìm Chúa nhưng không biết tìm ở đâu! Thì đây, Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời đễ dàng đến bất ngờ: Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Thì ra gặp Chúa Giêsu là gặp Chúa Cha nguồn Sự thật, thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha nguồn sự sống, yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến chính Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Mà làm thế nào để tìm biết Chúa Giêsu?
Nếu anh biết Thầy, anh cũng sẽ biết Cha. Khổ nỗi, cho đến hôm nay nhiều người trong chúng ta vẫn chưa biết Chúa Giêsu, mặc dù ta mang danh là Kitô hữu, ta vẫn nghe Kinh Thánh mỗi ngày, vẫn rước Chúa mỗi ngày! Nếu một người lương dân hỏi: Chúa Kitô là ai? Có lẽ phần đông chúng ta cũng gặp khó khăn trong câu trả lời đấy! Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại cách sống đạo của chính mình, kẻo chúng ta cũng bị trách như Chúa Giêsu trách Philipphê: Thầy ở với anh bấy lâu mà anh không biết thầy ư? Phải chăng chúng ta cần tiếp cận Kinh Thánh một cách ý thức hơn, dành thời giờ học hỏi Kinh Thánh nhiều hơn, để biết đọc, biết suy, biết cảm nếm, để chúng ta có thể gặp được Đức Kitô Phục sinh đang sống động trong từng trang, từng Lời Kinh Thánh và để chính Đức Kitô sống động trong cuộc sống thường ngày của ta.
Nhiều anh chị em sau khi tham gia những khóa học Kinh thánh đã phải thốt lên: bây giờ tôi mới biết Đức Kitô là ai, bây giờ tôi mới cảm nghiệm tình Chúa yêu tôi như thế nào! Trước đó họ vẫn đọc Kinh Thánh chứ, vẫn nghe Kinh Thánh, vẫn học giáo lý, vẫn nghe giảng dậy hàng ngày, nhưng có lẽ những hiểu biết, Đức Tin, lòng yêu mến có được chỉ là vay mượn, không đích thật là của mình, cho nên nó hời hợt, không có chiều sâu và dễ bị nghiêng ngả chao đảo khi gặp thử thách đau khổ. Chỉ khi nào chính mình khám phá, trải nghiệm thì Đức Tin vào Đức Ki tô mới kiên vững, tình mến vào Chúa Kitô mới nồng nàn, và như thế chúng ta sẽ gặp được Chúa Cha là nguồn chân lý, bình an và hạnh phúc, và khi đó, chúng ta có thể làm được những điều như Chúa Giêsu đã làm, đó là làm nhân chứng cho Tin Vui phục sinh ở mọi nơi, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa con, để nhân loại được hạnh phúc trong Tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Nguyện xin hai thánh Tông đồ Philipphe và Giacôbê cầu thay nguyện giúp để chúng con noi gương các Ngài, khao khát tìm Chúa, siêng năng học hỏi Kinh Thánh, rước Thánh Thể một cách ý thức hơn để chúng con thực sự găp được Chúa, có được cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, từ đó chúng con trở thành nhân chứng sống động, dám sống và chết cho Tin mừng Phục sinh. Amen
SUY NIỆM 6: Philipphê và Giacôbê tông đồ
(tonggiaophanhanoi.org // Enzo Lodi)
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Theo truyền thống, việc cử hành lễ này bắt nguồn từ việc cung hiến đại thánh đường dâng kính Mười hai vị thánh Tông Đồ tại Rôma ngày 1 tháng 5 năm 565. Nhân dịp này, có lẽ người ta đã đặt dưới bàn thờ thánh tích của các Tông Đồ Philípphê và Giacôbê. Vì thế, ở Tây Phương, người ta mừng lễ chung cả hai thánh.
Thánh Philipphê (tiếng hy-lạp = Philippos = người thích ngựa), là một trong nhóm Mười hai, quê quán tại Betsaide, cùng thành phố với Anđrê và Phêrô (Ga 1,44). Trong danh sách các Tông Đồ, ngài luôn chiếm vị trí thứ năm, và trong sách Tin mừng của Gioan, ngài xuất hiện ba lần trong tư cách người bạn tâm giao của Đức Giêsu. Ngài đã nói với Nathanael: Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: Đó là ông Giêsu... Cứ đến mà xem (Ga1,45 –46). Rồi cùng với Anđrê, ngài tham gia vào hai việc quan trọng: lúc đầu, lúc Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều và trước ngày Chúa chịu khổ nạn – đó là ngày Đức Giêsu vinh quang tiến vào Giêsusalem; lần sau, khi ngài làm môi giới cho các khách hành hương Hy Lạp muốn gặp Đức Giêsu (Ga12, 20 –21). Tin mừng của Gioan còn cho ta thấy ngài tại bàn Tiệc Ly, ngài nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha ...” (Ga 14, 8 tt).
Theo truyền thuyết, có lẽ Philípphê đã rao giảng Tin Mừng cho miền Tiểu Á và chịu đóng đinh tại Hiérapolis, vùng Phrygie. Nghệ thuật ảnh tượng thường minh họa ngài với cây thập giá trong cuộc tử đạo, hay đang lúc chịu đóng đinh.
Giacôbê – được gọi Hậu hay Tiểu huynh – cũng là một trong nhóm Mười hai. Người ta thường đồng hóa ngài với Giacôbê, người anh em của Chúa (Gl 1,19, Mc 6,3), là giám mục Giêrusalem và nhân vật hàng đầu của Hội thánh tiên khởi (Cv 15). Đức Giêsu hiện ra cho ngài sau khi Người đã phục sinh (Cv 15, 1- 8) và có lẽ ngài cũng là tác giả của thư Giacôbê.
Theo lưu truyền, Giacôbê Hậu chịu tử đạo tại Giêrusalem. Sau khi đẩy ngài từ trên cao Đền thờ xuống, người ta kết liễu đời ngài bằng cuộc ném đá. Nghệ thuật ảnh tượng minh họa ngài với một cái chùy cối xay, hay cuốn sách.
2. Thông điệp và tính thời sự
a. Lời cầu xin của Philípphê với Đức Giêsu: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha; như thế là chúng con mãn nguyện (Phúc Âm ngày lễ: Ga 14,6-14) và lời đáp của Thầy: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, tất cả đều là trọng tâm của lời kinh Phụng Vụ.
Lời nguyện nhập lễ gợi lại mục đích đời sống Kitô hữu: là “được thông phần vào cuộc Khổ nạn và Phục Sinh” của Đức Kitô để “được chiêm ngưỡng vinh quang của Người”. Quả vậy, chính Đức Kitô là đường dẫn đến Chúa Cha: Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến với Cha mà không qua Thầy... Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha Thầy (câu 6 và 9). Các câu này trở đi trở lại nhiều lần trong Thánh lễ và trong các giờ kinh Phụng Vụ.
b. Cả Philípphê lẫn Giacôbê đều được thấy Đấng Phục Sinh và đã làm chứng về Người. Giacôbê được thánh Phaolô nhắc đến (1 Cr 15,8) như là một nhân chứng về sự sống lại của Chúa: ... sau đó, Ngài cũng hiện ra cho Giacôbê (bài đọc một trong Thánh lễ).
Lời nguyện trên lễ vật gợi lại lòng đạo đức đích thật được các Tông Đồ Philípphê và Giacôbê giảng dạy và chúng ta được mời gọi “thực thi cách tinh truyền và không có gì đáng trách”. Như thế, chúng ta cũng nhớ đến Thư của thánh Giacôbê – Theo lưu truyền được gán cho Giacôbê, người anh em của Chúa – qua đó chúng ta đọc: Lòng đạo đức tinh truyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian (Gc 1,27). Vậy sự tôn thờ đích thật, phù hợp với lời giảng dạy của các ngôn sứ, không thể tách rời khỏi lẽ công bình và lòng yêu mến các kẻ “Hèn mọn”: ... Hãy tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ (Is 1,17)
SUY NIỆM 7: THÁNH PHILÍPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Ca nhập lễ ngày lễ hai thánh Philípphê và Giacôbê tông đồ có viết rằng: ”Đây là những vị thánh, Chúa đã lấy tình thương chân thành mà tuyển chọn và đã cho các Ngài được vinh quang muôn thuở”. Hại thánh Philípphê và Giacôbê đã được Chúa yêu thương cất nhắc, mời gọi để các Ngài trở nên cột trụ và nhân chứng cho Giáo Hội Chúa Kitô.
ƠN GỌI CỦA CÁC NGÀI
Chúa kêu gọi ai, tuyển chọn, cất nhắc người nào là do tình thương nhưng không của Ngài.Trường hợp của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê. Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không ? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài: ”Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời: ”Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy” (Ga 14, 6-9).Thánh Philípphê cũng được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti . Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê. Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu. Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình.
CHÚA TRAO MŨ TRIỀU THIÊN CHO CÁC NGÀI và GIÁO HỘI TÔN PHONG CÁC NGÀI:
Như Thầy của mình, các môn đệ đã liều mình, hy sinh mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Các Ngài nhất nhất chết cho tình yêu. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: ”Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Như Chúa Giêsu các Ngài đều nhất loạt cầu nguyện cho kẻ thù làm hại các Ngài: ”Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34). Các Ngài đã cảm nghiệm sâu sắc thế nào là tình yêu đến tự Thiên Chúa như Henri J.M Nouwen đã viết: ”Khi tình yêu đến từ Thiên Chúa, thì tình yêu đó bền bỉ”.
Lạy Chúa, hằng năm Chúa cho chúng con được hân hoan mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê. Xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ).
SUY NIỆM 8: Philipphê và Giacôbê tông đồ
(Theo vết chân Người)
Giáo hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác các thánh được đưa về Rôma với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ. Ngày dời xác các Ngài là ngày 01 tháng 5. Nhưng vì trùng với lễ thánh Giuse thợ, cho nên lễ kính các Ngài được dời vào ngày 03 tháng 5.
Thánh GIACÔBÊ (hậu)
Chỉ có một chỉ dẫn Tân Ước cung ứng cho chúng ta về vị tông đồ thứ hai mang tên Giacôbê: Ngài “là con ông Alphêô” (x. Mt 10,3 – Mc 3,18 – Lc 6,15 – Cv 1,13). Vậy không đáng ngạc nhiên gì, khi có nhiều cố gắng đồng hóa Ngài với một hay nhiều người cùng mang tên là Giacôbê ở trong Tân Ước. Có Giacôbê “người anh em của Chúa” (x. Cl 1,19).
Có lẽ Ngài đã được thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra (x. 1Cr 15,7) và chắc chắn Ngài là thủ lãnh Giáo hội Giêrusalem (x. Cv 12,17 – 15,13 – 21,18). Sau cùng, người được đồng hoá với người anh em của Chúa được nhắc đến trong Phúc Âm (x. Mt 13,55 – Mc 6,3). Đó là ý kiến của Thánh Hiêrônimô và được nhiều người chấp nhận, nhưng các học giả ngày nay muốn phân biệt hai người khác nhau và Phúc Âm chỉ giản dị ghi lại tên Ngài.
Dầu cho các sách Phúc Âm không nói nhiều tới thánh nhân nhưng Ngài đã giữ được một địa vị sáng giá trong Giáo hội sơ khai, Thánh Phêrô khi được cứu thoát khỏi tù đã nói: “Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết” (x. Cv 12,17).
Khi tiếp xúc với các tông đồ, Thánh Phaolô đã đến gặp Giacôbê. Sau này Thánh Phaolô nói: “Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hợp thông.” (x. Gl 2,9)
Tại công đồng Giêrusalem, Giacôbê đã lên tiếng sau Phêrô, tóm kết diễn từ về việc rao giảng Phúc Âm cho dân ngoại (x. Cv 15,13-31). Lần sau cùng về Giêrusalem, thánh Phaolô đã đến gặp thánh Giacôbê đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18).
Để diễn tả sự thánh thiện của Giacôbê, thánh Eusêbiô và Hiêrônimô đã nói rằng: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời và con người hiến mình cho Thiên Chúa này không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối Ngài chai cứng như da lạc đà.
Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ Giacôbê mang lại cho Kitô giáo. Họ triệu vời thánh nhân đến ở trước công nghị để tra vấn xem Ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, Ngài nói: “Chúa Giêsu là con người đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời.”
Dân chúng đồng loạt lên tiếng tôn vinh Chúa Giêsu trong khi các luật sĩ và biệt phái xông vào thánh nhân. Họ đã quyết định ném đá Ngài.
Thánh PHILIPPHÊ
Thánh Philipphê là người Bethsaida (x. Ga 1,44). Trên đường đi Galilêa, Chúa Giêsu đã gọi ông. Đến lượt mình chính Philipphê lại giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael: “Đấng mà Môisê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến chúng tôi đã gặp rồi” (x. Ga 1,45).
Và ông còn khích lệ thêm: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).
Khi hóa bánh ra nhiều Chúa Giêsu đã tin tưởng và ông hỏi: “Ta mua đâu được bánh cho họ ăn” (x. Ga 6,5).
Như vậy Chúa Giêsu đã kết hiệp với ông trước hết trong việc chuẩn bị cho phép lạ này.
Dịp lễ vượt qua sau cùng của Chúa Giêsu, các lương dân đã nhờ Philipphê xin Chúa cho họ được gặp Người: “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu” (x. Ga 12,21).
Sau cùng, trong cuộc đàm đạo thân mật sau bữa Tiệc Ly, Philipphê lên tiếng hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thày, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con rồi”.
Chúa Giêsu nói với ông: “Đã lâu rồi, Ta ở với các ngươi, thế mà, Philipphê, ngươi đã không biết Ta ư? Ai thấy ta là đã thấy Cha. Làm sao ngươi nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Cha (x. Ga 14,8-9).
Các tông đồ chỉ hiểu được chiều kích rộng lớn của những lời này khi Chúa Thánh Thần soi sáng cho các ông.
Đó là tất cả những gì mà sách Phúc Âm nói với chúng ta về thánh tông đồ Philipphê. Sau này truyền thống cho chúng ta biết thánh Philipphê đã đi rao giảng Phúc Âm ở Scythia và Phrygia. Nhưng rất có thể người ta đã lầm thánh nhân với vị phó tế cũng có tên là Philipphê. Về cái chết của Ngài, không có gì là chắc chắn. Có tài liệu nói rằng: Ngài tử vì đạo. Có tài liệu lại cho rằng: Ngài chết già.
SUY NIỆM 9: Philipphê và Giacôbê tông đồ
(http://conggiao.info // Lm. Anthony Trung Thành)
Thánh Philipphê là người Bétxaiđa, cùng quê với Thánh Anrê và Thánh Phêrô (x. Ga 1,44). Trước khi theo Chúa Giêsu, Ngài là môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu cho ông Nathanael (x. Ga 1,45-46). Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? Philipphê trả lời: Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút" (x. Ga 6,5). Trong bài Tin mừng hôm nay ông đã mạnh dạn xin Chúa Giêsu “Cho thấy Chúa Cha” (x. Ga 14,8). Chúa Giêsu đã cho ông biết: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (x. Ga 14, 9). Sau ngày lễ Ngũ Tuần, Ngài đi truyền giáo tại Sitti, rồi giảng dạy ở Hiêrapoli, xứ Rigie và chịu đóng đinh vì danh Chúa tại đây.
Thánh Giacôbê, còn gọi là Giacôbê hậu, là anh em bà con với Chúa Giê-su (x. Mt 13,55 - Mc 6,3) và là con của ông Anphê (x. Mt 10,3 - Mc 3,18 - Lc 6,15 - Cv 1,13). Ngài được Chúa Kitô phục sinh hiện ra cách riêng (x. 1Cr 15,7). Ngài đã từng lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem (x. Cv 12,17 - 15,13 - 21,18) và giúp cho nhiều người Do thái đón nhận đức tin (x. Cv 15,13-31). Ngài có một địa vị quan trọng trong cộng đoàn sơ khai. Nhờ đâu, chúng ta khẳng định như vậy? Thứ nhất, khi Phêrô được thiên thần giải thoát khỏi ngục tù đã nói: "Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết" (x. Cv 12,17). Thứ hai, sau khi trở lại, Thánh Phaolô đã từng gặp Giacôbê, và lần cuối cùng gặp Giacôbê khi ông đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18). Thứ ba, Thánh Phaolô cũng nhắc đến Giacôbê trong thư Côlôsê: "Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hiệp thông" (x. Gl 2,9). Thánh Gia-cô-bê để lại một bức thư. Ngài chịu tử đạo năm 62.
Trên đây là một vài điểm quan trọng, liên quan đến cuộc đời của hai vị thánh mà Giáo hội cho chúng ta mừng kính hôm nay. Hai vị Thánh vinh dự được Chúa Giêsu trực tiếp chọn vào số các Tông đồ. Các Ngài được chính Chúa Giêsu huấn luyện trong suốt ba năm, được nghe những lời Giáo huấn của Chúa, được thấy những phép lạ Chúa làm. Đặc biệt, các Ngài được chứng kiến cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Thầy mình. Chính vì vậy, cũng như các Tông đồ khác, các Ngài đã dấn thân không mệt mỏi trong công cuộc rao giảng và làm chứng về những gì mắt thấy tai nghe. Các Ngài đã ý thức được trách nhiệm phải trao ban những gì mình đã lãnh nhận. Đó cũng là tâm tình của Thánh Phaolô nói với các tín hữu ở Côrintô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ I, Ngài nói: “Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi sau với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non” (1Cr 15, 3-8).
Vì đã lãnh nhận trách nhiệm làm Tông đồ, nên qua mọi thời đại, Giáo hội cũng tiếp tục dấn thân làm chứng cho Chúa bằng nhiều cách thế khác nhau. Thư chung của HĐVMVN năm 2003 diễn tả: "Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới".
Sứ mạng của Giáo hội cũng là sứ mạng của mỗi người kitô hữu chúng ta. Cũng trong thư chung năm 2003, HĐGM Việt Nam mời gọi: “Sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam".
Nhưng phải loan báo Tin mừng bằng cách nào?
Như Philipphê đã giới thiệu Chúa cho Nathanael, chúng ta cũng hãy giới thiệu Chúa cho những người xung quanh chúng ta. Nhưng để giới thiệu Chúa cho người khác thì chính chúng ta phải gặp gỡ Chúa trước, phải hiểu biết về Ngài, phải có niềm xác tín vào Ngài là Thiên Chúa: Gặp Chúa qua việc đọc và suy niệm Kinh Thánh; gặp Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích; gặp Chúa qua đời sống cầu nguyện…Để khi có người nghi ngờ về lời giới thiệu của chúng ta, chúng ta có thể nói với họ như Philípphê đã nói với Nathanael rằng: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).
Như Philipphê dẫn người Hilạp đến gặp Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta cũng có trách nhiệm dẫn người khác đến gặp gỡ Chúa. Cha xứ dẫn đoàn chiên trong giáo xứ tới gặp Chúa. Thầy cô giáo lý viên dẫn dắt học sinh tới gặp Chúa qua các giờ giáo lý. Cha mẹ dẫn con cái của mình tới gặp Chúa. Người kitô hữu dẫn những người lương dân tới gặp Chúa…
“Đức Tin không có hành động quả là đức tin chết”(Gc 2,17), thánh Giacôbê đã nói như vậy. Vì vậy, mỗi người kitô hữu chúng ta không những rao giảng Tin mừng bằng lời nói mà còn bằng những hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Để nhân loại nhận ra Chúa qua chúng ta.
Trong một thánh lễ kính các tông đồ, tôi nhớ mang máng nội dung một bài hát như thế này: “Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta, Người đến với mọi người. Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta Người đến với mọi nơi”.
Ý nghĩa của lời hát trên nói lên tất cả sứ mạng của người làm Tông đồ. Thật vậy, người Tông đồ cần phải có Chúa Kitô trong mình mới có thể mang Chúa Kitô đến cho những khác. Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống như Đức Kitô đã sống để người khác thấy Chúa Kitô nơi người Tông đồ. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống bác ái yêu thương. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống công bằng, chân thật. Vì Chúa Giêsu từng nói: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).
Cũng như Chúa Giêsu Kitô đã hoạ lại hình ảnh của Chúa Cha, để ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha (x. Ga 14, 9). Người Tông đồ cũng phải hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô nơi chính lời nói và việc làm của mình, để ai thấy người Tông đồ là thấy Chúa Giêsu Kitô.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, để tiếp tục công việc cứu độ thế gian, Chúa đã chọn Thánh Philipphê và thánh Giacôbê Tông đồ và hai thánh đã chu toàn xuất sắc bổn phận Chúa trao phó. Làm Tông đồ cũng là sứ mạng Chúa trao phó cho Giáo hội và mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con cố gắng chu toàn bổn phận ấy, để qua chúng con Chúa đến được với mọi người. Amen.
SUY NIỆM 10: Philipphê và Giacôbê tông đồ
– Bài Tin Mừng hôm nay, Lễ Kính các thánh Tông Đồ Philípphê và Giacôbê, thì giống như bài Tin Mừng chúng ta suy niệm trong tuần thứ tư Phục Sinh, và kể lại lời yêu cầu của thánh Tông Đồ Philípphê thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”.
– Ga 14:6: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: Tôma thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” (Ga 14:5). Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Ba chữ quan trọng. Không có đường, chúng ta không thể đi lại được. Không có sự thật, người ta không thể có một sự chọn lựa tốt. Nếu không có sự sống, thì chỉ có cái chết! Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa này. Người là đường, bởi vì không ai “đến được với Cha mà không qua Thầy”. Người là cửa, mà các con chiên ra vào (Ga 10:9). Chúa Giêsu là Sự Thật, bởi vì nhìn vào Người, chúng ta trông thấy hình ảnh của Chúa Cha. “Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy!” Chúa Giêsu là Sự Sống, bởi vì đi theo Chúa Giêsu chúng ta sẽ được kết hợp với Chúa Cha và sẽ có sự sống trong chúng ta!
– Ga 14:7: Biết Chúa Giêsu là biết Chúa Cha. Tôma thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” Chúa Giêsu trả lời: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Và Người thêm rằng: “Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người”. Đây là câu đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu luôn nói về Chúa Cha, bởi vì sự sống của Chúa Cha xuất hiện trong mọi việc Chúa Giêsu nói và làm. Việc nhắc đến liên tục này về Chúa Cha đã khiến cho ông Philípphê đưa ra câu hỏi.
– Ga 14:8-11: Philípphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con!” Đó là niềm ao ước của các môn đệ, niềm ao ước của nhiều người trong cộng đoàn người Môn Đệ Chúa Yêu và đó cũng là niềm ao ước của nhiều người ngày nay. Người ta làm gì để được thấy Chúa Cha, Đấng mà Chúa Giêsu nhắc đến nhiều như thế? Câu trả lời của Chúa Giêsu rất tuyệt vời và còn giá trị cho đến ngày nay: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philípphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha!” Người ta không nên nghĩ rằng Thiên Chúa thì xa vời với chúng ta, ngăn cách và xa lạ. Bất cứ ai muốn biết Thiên Chúa Cha ra sao, thì chỉ cần nhìn vào Chúa Giêsu là đủ. Người đã mặc khải trong lời nói và cử chỉ của cuộc đời mình! “Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy!” Qua sự vâng phục của mình, Chúa Giêsu đã hoàn toàn xác định căn tính của mình với Chúa Cha. Tất cả những gì Người làm là làm theo ý của Chúa Cha (Ga 5:30; 8:28-29, 38). Đây là lý do tại sao trong Chúa Giêsu, mọi việc là sự mặc khải về Chúa Cha! Và những dấu lạ hay việc làm của Người là việc làm của Chúa Cha! Như người ta nói rằng: “Người con là khuôn mặt của cha!” Đây là lý do tại sao trong Chúa Giêsu và vì Chúa Giêsu, Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
– Ga 14:12-14: Lời hứa của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã hứa rằng sự gần gũi với Chúa Cha không phải là một đặc quyền chỉ dành riêng cho Người, mà nó có thể dành cho tất cả những ai Tin vào Ngài. Chúng ta cũng thế, nhờ Chúa Giêsu, cũng có thể làm những điều tốt đẹp cho người khác như Chúa Giêsu đã làm cho người ta vào thời của Người. Chúa Giêsu cầu bầu cho chúng ta. Tất cả mọi việc mà người ta cầu xin cùng Người, Người xin với Chúa Cha và sẽ được, luôn luôn nếu đó là để phục vụ. Chúa Giêsu là Đấng bàu chữa cho chúng ta. Chúa ra đi nhưng Người không để chúng ta đơn côi. Chúa hứa rằng Người sẽ xin cùng Chúa Cha và Chúa Cha sẽ sai một Đấng Bảo Trợ và An Ủi khác, đó là Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu thậm chí còn nói rằng thật là cần thiết để Chúa đi, bởi vì nếu không thì Chúa Thánh Thần sẽ không đến (Ga 16:7). Và Chúa Thánh Thần sẽ thực hiện đầy đủ những việc của Chúa Giêsu trong chúng ta, nếu chúng ta hành động nhân danh Chúa Giêsu và tuân theo các giới răn trọng nhất của việc thực hành tình yêu thương.
SUY NIỆM 10: Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ
Giáo hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác các thánh được đưa về Rôma cùng với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ. Ngày dời xác các ngài là ngày 01 tháng 5. Nhưng vì trùng với lễ thánh Giuse thợ, cho nên lễ kính các ngài được dời vào ngày 03 tháng 05.
Thánh PHILIPPHÊ
Thánh Philipphê là người Bethsaida (x. Ga 1,44). Trên đường đi Galilêa, Chúa Giêsu đã gọi ông. Đến lượt mình chính Philipphê lại giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael: “Đấng mà Môisê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến chúng tôi đã gặp rồi” (x. Ga 1,45).
Và ông còn khích lệ thêm: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).
Khi hóa bánh ra nhiều Chúa Giêsu đã tin tưởng và hỏi ông: “Ta mua đâu được bánh cho họ ăn” (x. Ga 6,5).
Như vậy Chúa Giêsu đã kết hiệp với ông trước hết trong việc chuẩn bị cho phép lạ này.
Dịp lễ vượt qua sau cùng của Chúa Giêsu, các lương dân đã nhờ Philipphê xin Chúa cho họ được gặp Người: “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu” (x. Ga 12,21).
Sau cùng, trong cuộc đàm đạo thân mật sau bữa Tiệc Ly, Philipphê lên tiếng hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thày, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con rồi”.
Chúa Giêsu nói với ông: “Đã lâu rồi, Ta ở với các ngươi, thế mà, Philipphê, ngươi đã không biết Ta ư ? Ai thấy ta là đã thấy Cha. Làm sao ngươi nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Cha (x. Ga 14,8-9).
Các tông đồ chỉ hiểu được chiều kích rộng lớn của những lời này khi Chúa Thánh Thần soi sáng cho các ông.
Đó là tất cả những gì mà sách Phúc Âm nói với chúng ta về thánh tông đồ Philipphê. Sau này truyền thống cho chúng ta biết thánh Philipphê đã đi rao giảng Phúc Âm ở Scythia và Phrygia. Nhưng rất có thể người ta đã lầm thánh nhân với vị phó tế cũng có tên là Philipphê. Về cái chết của Ngài, không có gì là chắc chắn. Có tài liệu nói rằng: Ngài tử vì đạo. Có tài liệu lại cho rằng: Ngài chết già.
Thánh GIACÔBÊ (hậu)
Chỉ có một chỉ dẫn Tân Ước cung ứng cho chúng ta về vị tông đồ thứ hai mang tên Giacôbê: Ngài “là con ông Alphêô” (x. Mt 10,3 - Mc 3,18 - Lc 6,15 - Cv 1,13). Vậy không đáng ngạc nhiên gì, khi có nhiều cố gắng đồng hóa Ngài với một hay nhiều người cùng mang tên là Giacôbê ở trong Tân Ước. Có Giacôbê “người anh em của Chúa” (x. Cl 1,19).
Có lẽ Ngài đã được thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra (x. 1Cr 15,7) và chắc chắn Ngài là thủ lãnh Giáo hội Giêrusalem (x. Cv 12,17 - 15,13 - 21,18). Sau cùng, người được đồng hoá với người anh em của Chúa được nhắc đến trong Phúc Âm (x. Mt 13,55 - Mc 6,3). Đó là ý kiến của Thánh Hiêrônimô và được nhiều người chấp nhận, nhưng các học giả ngày nay muốn phân biệt hai người khác nhau và Phúc Âm chỉ giản dị ghi lại tên Ngài.
Dầu cho các sách Phúc Âm không nói nhiều tới thánh nhân nhưng Ngài đã giữ được một địa vị sáng giá trong Giáo hội sơ khai, Thánh Phêrô khi được cứu thoát khỏi tù đã nói: “Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết” (x. Cv 12,17).
Khi tiếp xúc với các tông đồ, Thánh Phaolô đã đến gặp Giacôbê. Sau này Thánh Phaolô nói: “Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hợp thông”. (x. Gl 2,9)
Tại công đồng Giêrusalem, Giacôbê đã lên tiếng sau Phêrô, tóm kết diễn từ về việc rao giảng Phúc Âm cho dân ngoại (x. Cv 15,13-31). Lần sau cùng về Giêrusalem, thánh Phaolô đã đến gặp thánh Giacôbê đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18).
Để diễn tả sự thánh thiện của Giacôbê, thánh Eusêbiô và Hiêrônimô đã nói rằng: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời và con người hiến mình cho Thiên Chúa này không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối Ngài chai cứng như da lạc đà.
Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ Giacôbê mang lại cho Kitô giáo. Họ triệu vời thánh nhân đến ở trước công nghị để tra vấn xem Ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, Ngài nói: “Chúa Giêsu là con người đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời”.
Dân chúng đồng loạt lên tiếng tôn vinh Chúa Giêsu trong khi các luật sĩ và biệt phái xông vào thánh nhân. Họ đã quyết định ném đá Ngài.
SUY NIỆM 11: HÃY LÀ TRUNG GIAN CỦA CHÚA
(Lm. Huệ Minh)
Hôm nay cùng với Giáo Hội ta mừng kính hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. Hai vị thánh này xuất thân từ Bếtsaiđa, cùng quê với Phêrô và Anrê thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.
Nếu như Giacôbê tiền là anh của Gioan, là con của ông Dêbêđê, thì Giacôbê chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con của ông Anphê. Tiền và hậu chỉ sự phân biệt chứ không nói lên đặc tính gì quan trọng.
Còn thánh Philipphê là người đã giới thiệu ông Nathanaen cho Chúa Giêsu; đồng thời cũng là người giới thiệu nhóm người Hy Lạp khi họ xin được gặp Chúa Giêsu.
Hai vị thánh được Giáo Hội mừng kính hôm nay nếu chỉ dựa trên những gì Sách Thánh nói, thì không có gì nổi trội đặc biệt. Thế nhưng, họ đã được chọn làm Tông đồ của Chúa, chứng tỏ nơi tâm hồn các ông đã có sẵn lòng nhiệt thành và sự sốt sắng đáp trả khi được ơn kêu gọi. Với thánh Philipphê khi xin Chúa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”; và thánh Giacôbê, vị Tông đồ được sánh bước với Thầy và được thấy những việc Chúa làm. Như thế đủ thấy các ngài được chọn là để thấy, để nghe, để ra đi và để làm chứng cho chính Chúa.
Ta thấy con đường làm chứng cho Chúa chính là Con Đường Giêsu và Con Đường Giêsu đã được khẳng định rõ nét qua lời nói và hành động của Chúa trong những tháng năm trên trần thế. Người đời cho rằng của cải đời này là sự đảm bảo cho cuộc sống thì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20). Con người cứ lo kiếm tìm danh lợi thú trần gian, Chúa Giêsu lại đến trần không một nơi gối đầu để phục vụ và hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Con người đối xử với nhau bội bạc, vô tình, tàn nhẫn; Chúa Giêsu đến với mọi người bằng tình yêu và chân thành: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Con người những tưởng đã tha thứ đủ khi tha đến bảy lần thì Chúa Giêsu dạy phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy. Con người vô ơn quên tình yêu Thiên Chúa, bất tuân lệnh Thiên Chúa; Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha và thực thi mọi phán quyết của Thiên Chúa: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 9).
Nhờ sự cảm nghiệm của bản thân mình về đức tin chúng ta sẽ cảm nghiệm thẩm sâu toàn diện Tin Mừng Thánh Gioan kết hợp với những khuynh hướng hiện đại cũa chúng ta. Các bạn trẻ chúng ta đã cảm nghiệm được những điều thích thú trong sách của Thánh Gioan, thì cần đào sâu những cuộc đàm thoại trong Tin Mừng của Thánh Gioan để khởi đi từ câu thứ nhất: “Hãy theo tôi mà Thánh Philíp chắc chắn đã thấm thía với tất cả ý nghĩa thâm sâu của câu đó, để rồi: “Thấy Thầy, là thấy Cha” “Thế là được mãn nguyện”.
Nhìn lại cuộc đời Thánh Philípphê, ta thấy Ngài được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti . Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê.
Tên của Thánh Philip được ghi rất sớm trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài được kể là Tông Đồ thứ tư cùng với Thánh Gioan và hai Thánh Anrê và Phêrô dân thành Betsaida xứ Galilê (Ga 1, 43-44), Ngài giới thiệu mấy người Hy Lạp xin gặp Đức Giê-su (12, 21), trước khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu hỏi Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?… Ngài đáp: thực có mua đến 200 đồng bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút (6, 5-7) và ở bữa tiệc ly, Philíp nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (14, 8). Người ta cho rằng Philíp sống hiện thực, giống như những người tiến bộ khoa học thời chúng ta: ông sống theo kinh nghiệm nên đòi được xem, sờ, cảm thấy Chúa Cha, cùng với óc tính toán của ông: có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút!
Thánh Philipphê thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8). Ước muốn của Thánh Philipphê cũng chính là niềm khát khao của con người mọi thời vì: “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62,1).
Thế cho nên ta thấy dọc dài thời gian, xuất hiện rất nhiều bậc hiền nhân đưa ra những phương cách, lời hay ý đẹp để giúp con người thấu đạt Thượng Đế. Nhưng không một ai đưa con người đến được với Thiên Chúa; ngoại trừ Chúa Giêsu – Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa, là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Chúa biết cách nói về Thiên Chúa, dạy cho con người chân lý yêu thương đích thực. Hơn hết, Chúa Giêsu chính là Con Đường để con người bước vào sự sống của Thiên Chúa.
Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu.Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình.
Chúa Giêsu là Đường Hoàn Hảo mà Chúa Cha gửi đến cho con người với tất cả lòng thương xót. Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ con người: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,12). Và Chúa Giêsu đã Phục Sinh để minh chứng lời Chúa nói là chân thật: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24, 46-47).
Nhìn lại cuộc đời của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta thấy hai cuộc đời này nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê. Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không ? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài: ”Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời: “Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy” (Ga 14, 6-9 ).
Là những môn đệ Tin theo Chúa Giê-su và sau khi được mặc khải, thánh Philipphê đã tiếp tục sứ mệnh làm “trung gian” cho Thiên Chúa khi đem ông Nathanaen (Ga 1, 45-51) và những người Hy-lạp (Ga 12, 20-36) đến với Chúa Giê-su để được gặp và nghe lời Người giảng dạy. Thánh Philipphê còn cùng các môn đệ thực thi sứ vụ làm “trung gian” cho Thiên Chúa bằng cách đi khắp nơi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo và làm phép Rửa cho những người tin (Mc 16,15-16).
Nhân dịp mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng ta biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ ). Và rồi mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay cũng được kêu mời làm “trung gian” cho Thiên Chúa. Qua Bí tích Thanh tẩy, mỗi Kitô hữu phải sống sao để nói với người khác rằng: “Ai thấy tôi là thấy Đức Kitô” và “ai thấy Đức Kitô là thấy Thiên Chúa Cha”.
SUY NIỆM 12: SỰ THẬT DẪN ĐẾN SỰ SỐNG
(Lm Giuse Đinh Quang Thịnh)
Chỉ có Đức Giêsu mới có quyền nói: “Ta là đường và là sự thật, sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà lại không nhờ Ta” (Ga 14,6: Tung Hô Tin Mừng).
Ta lưu ý chữ “và” trong tiếng Hy Lạp, khác với “và” trong tiếng Việt: để báo trước chấm dứt một câu văn trong tiếng Việt người ta thường dùng liên từ “và”; còn ngôn ngữ Hy Lạp, “và” báo trước một điều quan trọng. Đan cử:
--- Đức Giêsu truyền cho các môn đệ ban Bí tích Thánh Tẩy nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa: Trong khi người tân tòng được dìm xuống nước, thì phải đọc: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Như vậy, Chúa Con và Chúa Thánh Thần quan trọng như Chúa Cha.
--- Khi hai ông Phêrô và Gioan vào trong mộ Đức Giêsu, ông Gioan nói: “Tôi đã thấy và tôi tin” (Ga 20,8). Điều này ông Gioan có ý trách nhiều người thấy xác Chúa Giê-su không còn trong mộ mà vẫn không tin Ngài đã sống lại; còn ông Gioan thì đã tin. Bởi vì thấy không quan trọng, mà tin mới quan trọng. Do đó Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin (x Ga 20, 29).
Như thế, đường đi không quan trọng, đường chỉ quan trọng khi nó dẫn ta đi vào sự thật, đạt được sự sống. Mà chỉ duy Đức Giêsu mới là đường quan trọng nhất dẫn ta đến sự sống dồi dào (x Ga 10,10).
Tổ tiên loài người là Adam, Eva khát vọng không phải chết, lại được thông minh sáng suốt như Thiên Chúa, tự biết phân biệt tốt xấu, và được sống hạnh phúc dồi dào muôn đời như Thiên Chúa (x St 3,4-5). Như thế có phải là kiêu ngạo không ?
Thưa không, vì đến như cha mẹ trần thế tuy thuộc loại gian ác (x Mt 7,11) mà còn nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”, thì “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, bởi lòng yêu mến lớn lao của Ngài đã yêu mến ta” (Ep 2,4), nên Đức Giêsu còn hứa cho chúng ta: “Ai tin vào Thầy, thì người ấy cũng sẽ làm được những việc Thầy làm, người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy về cùng Cha” (Ga 14,12: Tin Mừng).
Ta làm được những việc như Đức Giêsu và còn hơn Ngài, chỉ vì Ngài về cùng Cha, hằng chuyển cầu cho chúng ta qua Hy Lễ Ngài thiết lập đã truyền cho Hội Thánh làm hiện tại hóa cho tới ngày cánh chung (x 1Cr 11,24-25). Tác giả thư Do Thái nói: “Chúa Giêsu là Vị Tư Tế tiến vào cung thánh trên trời, tựa neo thần chắc chắn và bền vững của tâm hồn ta, cắm vào tận bên trong bức màn cung thánh” (Dt 6,19). Để mỗi khi ta đến dự Hy Lễ này, ta được trực tiếp nghe Đức Giêsu dạy (x Dt 1,1-2). Lời Ngài đã nghe từ Chúa Cha và nói lại cho ta biết (x Ga 14,10: Tin Mừng). Ta lại được nhìn các việc Đức Giêsu làm mà noi theo, như chính Ngài đã không tự ý làm việc gì, mà Cha Ngài làm sao thì Ngài làm y như vậy (x Ga 5,19; 14,11: Tin Mừng). Để “ngay từ bây giờ ta được biết Chúa Giêsu là biết Chúa Cha” (Ga 14,7: Tin Mừng).
Trong Kinh Thánh, “biết” là động tác chỉ riêng về việc vợ chồng trao thân cho nhau để sinh con cái. Như Adam biết Eva sinh Cain (x St 4,1), cũng thế, Đức Ma-ri-a thưa với thiên thần Gabriel: “Tôi không biết việc vợ chồng làm sao tôi sinh con ?” (Lc 1,34).
Vậy mỗi khi ta dự Lễ cách trọn vẹn, ta được rước Lễ là lúc Chúa Giêsu “trao thân” cho ta, và ta “trao thân” cho Ngài, đó chính là Giêsu biết ta và ta biết Giêsu. Để sau khi dự Lễ về, ta phải “sinh” con cho Thiên Chúa, đó là ta tiếp nối việc làm của Chúa Giêsu và còn làm được hơn Ngài. Thực vậy, suốt đời Đức Giêsu vất vả rao giảng Lời của Cha và phục vụ hết lòng, nhằm cho người ta tin Ngài là Thiên Chúa, để được Ngài dẫn về Thiên Đàng, mà mãi đến giờ hấp hối trên thập giá, Ngài mới đưa được một anh trộm lành vào Thiên Đàng với Ngài (x Lc 23,43). Trong khi đó, mỗi lần ta dự Lễ cầu nguyện cho các linh hồn, biết bao linh hồn được về Thiên Đàng trước ta, hoặc khi ta ban Bí tích Thánh Tẩy cho một người trong tình trạng nguy tử mà họ muốn theo Chúa, sau đó tắt thở, là họ được về Thiên Đàng ngay, trong khi ta vẫn còn là kẻ tội lỗi sống trên dương thế. Ông Phao-lô kể mình được Chúa Giêsu hiện đến với ông là người sau cùng, vì trước đó ông đã bách hại Hội Thánh (x Cv 9). Nhưng Chúa đã thương tái sinh ông dù chỉ là đứa sinh non, sinh thiếu tháng, rất yếu ớt. Thế mà nhờ ông được “biết” Chúa Giêsu, ông đã sinh nhiều tín hữu dân ngoại, lập được nhiều giáo đoàn hơn các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5). Kết quả ông đã đưa nhiều người vào Nước Trời trước ông. Rõ ràng ông làm các việc của Chúa Giêsu nhưng hiệu quả hơn Thầy Giêsu, khi Ngài còn sống trên dương thế. Như lời thánh Phaolô nói: “Nhờ Tin Mừng anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như chúng tôi đã loan báo. Tin Mừng chúng tôi loan báo là “Đức Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng ngày thứ ba Ngài đã sống lại,rồi hiện ra với thủ lãnh Hội Thánh là ông Phêrô, tiếp đó với Nhóm Mười Hai, sau nữa là Ngài hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, rồi Ngài lại hiện ra với ông Giacôbê, với tất cả các Tông Đồ khác. Sau chót, Ngài đã hiện ra với tôi, chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1Cr 15,1-8: Bài đọc). Hai Tông Đồ Philipphê và Giacôbê mà Hội Thánh kính hôm nay, cũng chỉ vì các ngài đã sinh nhiều con cho Thiên Chúa – sinh các tín hữu – nhờ các ngài hết lòng loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người theo gương Thầy Giêsu.
Thánh Philipphê là người đã giới thiệu Đấng Mêsia cho ông Nathanael (x Ga 1,45); ông thưa với Đức Giêsu ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng không đủ nuôi đoàn lũ dân đông (x Ga 6,5-7); dân ngoại đến nhờ ông dẫn họ đến gặp Đức Giêsu (x Ga 12,21-22); ông xin Thầy Giêsu cho biết Chúa Cha thế là được mãn nguyện (x Ga 14,8); trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông và các môn đệ cùng cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đã đến biến đổi lòng các ông (x Cv 1,13); ông hết lòng giảng Tin Mừng nên bị đóng đinh, xác ông hiện nay được chôn cạnh mồ thánh Giacôbê.
Thánh Giacôbê là con của ông Alphê (x Mt 10,3); ông là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem (x Gl 1,18-19); ông là một trong những người được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh (x 1Cr 15,7: Bài đọc). Ông viết một bức thư trong Tân Ước nội dung chính ông đề cao Đức Tin phải thể hiện việc làm, phải biết dùng tiền của đúng ý Chúa, và phải canh giữ lời nói cho xứng hợp với ơn làm con Chúa. Cuối đời, ông bị xô từ nóc Đền Thờ xuống và bị ném đá cho đến chết!
Vì thế mà lời kinh ca tụng những người thành công như các Tông Đồ: “Tiếng các ngài vang dội khắp hoàn cầu”. Nếu ta không biết sinh con Thiên Chúa để làm vinh hiển Ngài, thì ta thua các tạo vật, “chúng còn biết tường thuật vinh quang Thiên Chúa, nhờ vẻ đẹp Chúa ban cho để diễn tả quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, dù chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe tiếng âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19/18, 2-5: Đáp ca).
Vì vẻ đẹp, hùng vĩ, kỳ diệu nơi muôn tạo vật mang dấu vết sự hiện diện của Thiên Chúa, mà đỉnh cao là con người được Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài, nên con người không được thua kém các tạo vật ca tụng Thiên Chúa, mà ai cũng phải sống Lời Chúa để nói được như thánh Tông Đồ: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đối với Đức Kitô” (1Cr 11,1). Vì tôi có quyền nói được như Đức Giêsu: “Thiên Chúa luôn ở cùng tôi, chính Người làm những việc của mình” (Ga 14,10b: Tin Mừng).
THUỘC LÒNG: Chúa Giêsu nói: “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12).
02/05 Cây nho nối kết cành nho
- Viết bởi Ga 15, 1-8
Cây nho nối kết cành nho.
CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH năm B.
"Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sinh nhiều trái".
Lời Chúa: Ga 15, 1-8
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn.
Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy.
"Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được. Đây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH – Năm B
Lời Chúa: Cv 9,26-31; 1Ga 3,18-24; Ga 15,1-8
1. Ở lại trong Thầy.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Thế giới hôm nay tiến bộ nhanh chóng về nhiều mặt:
nghiên cứu sự sống trên sao Hỏa, nối mạng Internet,
thành công trong phương pháp sinh sản vô tính...
Tưởng như chẳng có gì con người không làm được.
Nhưng thế giới vẫn lo âu vì chất thải ở khắp nơi,
môi trường sống bị hư hoại, chênh lệch giữa giàu nghèo,
nạn tham nhũng ở châu Á, sự hư hỏng của các bạn trẻ.
Cái vòng luẩn quẩn: ma túy, tình dục, AIDS,
tội phạm dẫn đến các chết bi đát cho nhiều thanh thiếu niên.
Con người đủ thông minh để tạo ra sản phẩm
nhưng lại không đủ bản lãnh để làm chủ chúng,
nên chúng quay trở lại làm chủ con người.
Khoa học vừa giải quyết, vừa gây thêm rắc rối.
Con người hôm nay bơ vơ, loay hoay, không cứu nổi mình.
Thế giới bế tắc, cần đến ơn cứu độ.
Đoạn Tin Mừng mời ta nhìn lại sự cằn cỗi của mình,
của Hội Thánh, của cả thế giới.
Đức Giêsu phục sinh như cây nho, các Kitô hữu là cành.
Cây và cành có cùng một sự sống, cùng một dòng nhựa.
Sự sống từ cây, làm cho cành sinh trái.
Cụm từ sinh hoa trái được nhắc đến 6 lần.
Cụm từ ở lại trong Thầy được nhắc đến 5 lần.
Không ở lại trong Thầy thì không thể sinh hoa trái.
Cứ nhìn hoa trái thì biết mức đo 'Gắn bó của cành.
Có cành chỉ vờ gắn liền với cây nên không có trái.
Có cành đã sinh trái, nhưng cần sinh hoa trái hơn (c.2),
sinh hoa trái nhiều (c.8), sinh hoa trái bền vững (c.16).
Chúng ta vẫn chưa sinh trái như lòng Chúa mong
vì chúng ta không chịu để Ngài cắt tỉa.
Vinh quang của Thiên Chúa là chúng ta sinh nhiều hoa trái.
Thất bại của Thiên Chúa là sự cằn cỗi của con người.
Hoa trái là ước mơ của người trồng nho,
và cũng là sự triển nở của cây và cành nho.
Chẳng hề có sự xung đột giữa vinh quang Thiên Chúa
và vinh quang đúng nghĩa của con người.
Chỉ trong Chúa, con người mới thực sự triển nở, hạnh phúc.
Một sự độc lập khờ khạo sẽ dẫn đến héo khô.
Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em.
Một lời mời gọi gần như là một lời nài van.
Sự ở lại chỉ hoàn hảo khi có đủ hai chiều.
Con người mãi mãi có tự do khước từ nguồn sống.
Ở lại trong Chúa khong phải là lối nói văn chương.
Để ở lại cần phải trả giá.
Muốn được hưởng nguồn sống của Đấng Phục Sinh,
ta cũng phải chia sẻ thập giá của Ngài.
Chính Đức Giêsu cũng được cắt tỉa qua khổ đau và cái chết.
Hãy đón lấy sự sống của Chúa Phục Sinh,
như dòng nhựa nguyên tươi mới.
Hãy đóng góp những hoa trái tốt lành cho nhân loại,
để nhân loại nhận ra Cây Nho thật là Đức Kitô,
và Người Trồng Nho là chính Thiên Chúa.
Gợi ý chia sẻ
Theo ý bạn, thế nào là một Kitô hữu có đời sống sinh nhiều hoa trái? Bạn đánh giá thế nào về đời sống Kitô hữu của bạn?
Trước nỗi đau của bao người trên thế giới, Chúa Giêsu có thể đem đến giải pháp nào cho họ? Người Kitô hữu có thể làm gì để cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả,
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
- Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa,
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
- Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà,
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
- Chúa cương quyết chinh phục con,
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
2. Gắn kết với Thầy
(Suy niệm của Huệ Minh)
Cách đây cũng hơi khá lâu, thì dân chúng náo loạn bởi vì cái nhà thờ chính tòa ở Torino bị cháy. Thực sự ra thì, không ai muốn nó bị cháy cả. Nhà thờ cháy thì có thể xây lại được, nhưng mà có một cái mà người ta phải lo lắng đó là gì? Đó chính là cái nhà thờ Tôrinô ở Ý đó chứa đựng cái khăn liệm nổi tiếng mà người ta cho rằng đó là khăn liệm Chúa Giêsu khi mà Chúa Giêsu chết. Hóa ra rằng là người ta quý cái khăn liệm hơn là quý cái nhà thờ. Bởi vì cái nhà thờ có thể xây dựng được còn cái khăn liệm thì không thể nào tìm ra.
Nhưng mà rồi có một người thanh niên đã liều mình chấp nhận đổ mồ hôi máu của mình ra để mà đi vào đi vào tận gian cung thánh để mà cứu lấy cái tấm khăn liệm đó khỏi đám cháy và người lính cứu hỏa đã bay vào nhà nguyện và đem ra cái tấm khăn liệm còn nguyên. Và phải nói rằng Anh ta là một người hùng, bởi vì Anh ta đã cứu lấy báu vật.
Thật sự ra, anh ta là một người hùng đã cứu lấy báu vật là tấm khăn liệm đó cũng đúng! Nhưng người Kitô hữu của chúng ta được mời gọi, quan trọng hơn cái tấm khăn liệm đó chính là chúng ta giữ lấy Đức Kitô, chúng ta ôm lấy, chúng ta mặc lấy Đức Kitô trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Và trở lại với bài đọc thứ I, Chúng ta nhìn thấy gương mặt rất quen thuộc của thánh Phaolô. Thánh Phaolô gặp nhiều trở ngại, gặp rất là nhiều khó khăn, bởi vì trước đây ngài là người bách hại Chúa, ngài đi bắt đạo.
Nhưng mà rồi, ngài lại quay đầu trở lại với Chúa Giêsu, Đấng mà trước đây ngài đã từng đi bắt. Và cuộc trở lại của thánh Phaolô chúng ta suy nghĩ cho kỹ. Nó không phải là cuộc trở lại bình thường như một người nghiện ma túy không có chơi ma túy nữa! Hay là một người đàn ông có 3, 4 bà vợ. Bây giờ trở lại không sống với 3, 4 bà vợ nữa mà sống với bà vợ của mình. Hay là một người thích đi bia ôm không uống bia nữa trở lại với đời sống đạo đức.
Đó là những cuộc trở lại mà chúng ta thấy xung quanh chúng ta. Đó là những cuộc trở lại về luân lý, và đạo đức. Nếu mà chúng ta nhìn thấy cuộc trở lại của thánh Phaolô về luân lý và đạo đức thì không phải. Chúng ta nên nhớ: thánh Phaolô là một người đạo đức và nhiệt thành, và nhìn thánh giữ luật rất là tỉ mỉ.
Chúng ta thấy người Pharisiêu nhiệt thành thì ngoài việc ăn chay 1 tuần đến 2 lần. Còn chúng ta là người Công giáo chúng ta 1 năm ăn chay có 2 lần mà quên tới quên lui.
Có nhiều người bảo rằng là: chết rồi, ngày hôm nay ăn chay mà quên rồi! Thì bây giờ quên thì ăn lại thôi! Biết sao bây giờ!
Nhưng mà nói tới điều đó, thánh Phaolô không trở lại về mặt luân lý và đạo đức nhưng mà hơn nữa rằng là thánh Phaolô đã trở lại bằng cả cái con người với Chúa Giêsu.
Trước đây, cái con người mang tên Giêsu Phaolô ghét cay ghét đắng. Và thậm chí, xin giấy giới thiệu để mà bắt tất cả những ai mà tin vào cái con người mang tên Giêsu. Ngày xưa thì ghét cay ghét đắng, thế nhưng mà bây giờ trở thành một con người si mê không phải si mê bình thường nữa mà chúng ta thấy cái tâm tình của Phaolô: Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi. Sống với tôi là Đức Kitô và chết là mối lợi.
Có khi mình nghe câu nói của thánh Phaolô, Nhưng mà mình chưa thấm được cái lời, cái tâm tình của Phaolô.
Nhiều khi vợ chồng với nhau, nhưng mà có thể, một lúc nào đó hứng thì nói thôi: Sống đối với anh là em, và anh sẵn sàng chết vì em. Nhưng mà một lúc nào đó , người ta không can đảm để mà nói lời đó! Một cái phút chóc nào đó người ta nói lên thôi! Chứ còn không ai dám can đảm như Thánh Phaolô để mà thay đổi cả cuộc đời của mình.
Đó là cốt lõi niềm tin Kitô Giáo. Niềm tin Kitô Giáo không chỉ là giữ một mớ luật luân lý đạo đức. Đó là chưa phải niềm tin Kitô Giáo đích thực. Mà niềm tin Kitô giáo đích thực đó là gắn bó cả cuộc đời của mình với một con người mang tên là Giêsu.
Giữ đạo, giữ luật, giữ một cái hệ thống luân lý, hay là một cái hệ thống tư tưởng về Đức Giêsu rất là tốt! Nhưng đó chỉ là cái việc đến sau thôi. Cái điều đó là cái điều cần nhưng là cái điều căn bản nhất là mình gắn bó cuộc đời với Chúa Giêsu như thế nào?
Và cái chuyện gắn bó Cuộc của mình với Chúa Giêsu. Ngày hôm nay Chúa Giêsu, dùng hình ảnh rất là bình thường để mà diễn tả, rất là dễ thương: Thầy là cây nho, anh em là cành.
Mối liên hệ giữa cây nho và cành cây hay là bất cứ một cái cây nào đó với cành nói lên một cái hệ tư tưởng nói lên một cái hệ thống tư tưởng đó là về Sinh Tử chúng ta liên tưởng đến cái chuyện sinh tử .
Cành cây mà lìa khỏi cây thì sao mà sống được? Cành cây mà lìa khỏi cây thì chỉ có chết thôi.
Và rồi sống niềm tin Kitô giáo là, chúng ta đi sâu trong cái mối Hiệp thông với Chúa Giêsu hơn! Nói thì có thể là lý thuyết, hay là xem ra có thể là thần bí.
Tưởng rằng là giữ đạo, giữ luật nhưng mà, cái tốt hơn là hiệp thông với Chúa Giêsu và để cho cái sự sống của Chúa Giêsu nó chảy trong mình, và cái sự sống của mình nó chảy trong Chúa Giêsu . Và nếu như nói đến đó nhiều người sẽ hỏi rằng là làm sao sống được mối quan hệ sâu xa như vậy? Cây nho và cành nho để diễn tả cái mối liên hệ sống còn giữa cây và cành. Cây và cành nho là thế giới vật chất thôi! để diễn tả cái sự sống còn đó.
Và rồi chúng ta nhìn đến cái hình ảnh nào để mà diễn tả cái mối liên hệ đó?
Mối tình thầy trò, chắc có lẽ chưa đủ, mối tình cha mẹ chắc có lẽ cũng chưa đủ, và chắc có lẽ cao hơn đó chính là cái tình yêu nam nữ, cái tình yêu vợ chồng.
Khi hai người yêu nhau không còn là hai nữa mà là một. Tình yêu của 2 người đó rất là tuyệt vời. Niềm vui của người này cũng là niềm vui của người kia, nỗi buồn của người này cũng là nỗi buồn của người kia . Và cái tình yêu nam nữ đó chia sẻ cái sự sống với nhau.
Và làm sao chúng ta sống cái mối liên hệ sâu xa nhất của chúng ta với Chúa Giêsu. Và chúng ta yêu như thế nào với Chúa Giêsu. Ngoại trừ những cái mối tình sét đánh thì mình không bàn tới. Còn những mối tình yêu chân thật là họ tiếp xúc với nhau, họ khám phá nhau, họ không chỉ nhìn cái nhung nhan bên ngoài, mà họ nhìn cái cách xử sự, cái lối sống, và từ từ , dần dà nó phát sinh ra cái tình yêu. Và rồi với cái tình yêu nam nữ đó, chúng ta lại đặt lại cái tình yêu của chúng ta với Chúa Giêsu.
Ngày mỗi ngày, chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu qua thánh lễ. Ngày mỗi ngày, chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu qua Lời của Ngài.
Và rồi Chúa Giêsu, đặt trong trường hợp của chúng ta, chúng ta có hành xử theo cái lối hành xử của Chúa Giêsu hay không?
Chúng ta có phản ứng như phản ứng của Chúa Giêsu hay không? Khi một người hành hạ một người nói xấu một người chà đạp mình chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta sẽ phản ứng như thế nào? và khi chúng ta bị cám dỗ chúng ta sẽ phản ứng như thế nào?
Chúng ta có đặt câu hỏi, chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu như thế nào hay không?
Cách cụ thể của chúng ta, chúng ta diễn tả đặc biệt với Chúa Giêsu qua thánh lễ.
“Thầy là cây nho, anh em là cành” cái câu đó diễn tả một cái niềm tin sâu sắc. Và Thánh lễ chính là cái lúc, cái thời điểm tuyệt vời nhất để diễn tả cái niềm tin, cái sự kết hợp giữa ta với Chúa.
Nhưng mà liệu ngày hôm nay, mấy ai giữ được thánh lễ cho trọn vẹn, mấy ai kết hợp mật thiết với Chúa trọn vẹn. Dường như, người ta chỉ đi lễ cho xong và tự vấn an rằng: Tôi đã tham dự đủ thánh lễ.
Và đặc biệt khi rước lễ: vội vã, vội vàng để làm sao đi về cho lẹ. Có những người chưa kịp nhận phép lành cuối lễ, nhưng đã đi ra về rồi! bởi vì người ta không có cái thời gian đủ, để lắng đọng để kết hợp với Chúa Giêsu.
Hồi nhỏ, con nhớ cái bài hát rất là dễ thương:
- Trong tin yêu say đắm, con nhìn Chúa, Chúa nhìn con. Tuy Hai bên chưa nói nhưng đã hiểu nhau thật nhiều.
Khi mà mình kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể và Chúa Giêsu kết hợp với mình. Khi đó cái tình yêu rất tuyệt vời! Máu của Chúa Giêsu chảy trong ta và máu của ta chảy trong Chúa Giêsu. Và khi đó ta kết hợp nên một với Chúa Giêsu , một cái tình yêu rất tuyệt vời!
Như cành nho gắn liền với cây nho, sinh hoa trái. Cuộc đời của mỗi người Kitô Hữu của chúng ta nếu chúng ta gắn bó với Chúa Giêsu, nếu chúng ta yêu mến Chúa Giêsu. Chúng ta yêu thương Chúa Giêsu và chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu như thế, thì cuộc đời của chúng ta sẽ cảm thấy mình hạnh phúc. Và không có gì chia cắt được. Như Thánh Phaolô nói:
“Không có gì tách rời tôi khỏi tình yêu Giêsu Kitô dù chiều sâu, chiều cao chiều rộng, dầu là bắt bớ dù là trần truồng, dù là đói khát”.
Cái cảm nghiệm của thánh Phaolô , cái tình yêu của thánh Phaolô và Chúa Giêsu là một cái tình yêu mà chúng ta cần phải chiêm ngưỡng để chúng ta nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Chúng ta có gắn bó, chúng ta có yêu Chúa Giêsu như Thánh Phaolô đã trở lại, đã đổi cuộc đời của mình để nên một với Chúa Giêsu hay không?
Ngày hôm nay, giữa một cái cuộc sống cơm áo gạo tiền, cũng không phải phủ nhận được ai ai cũng phải kiếm tiền để mà sống, để mà lo thân, lo tương lai. Nhưng mà đôi khi chỉ vì tiền chúng ta đánh mất, không những đánh mất tình yêu với Giêsu, mà còn đánh mất cái tình yêu với anh chị em đồng loại.
Có khi chỉ vì vài ngàn đồng bạc, vài chục ngàn đồng bạc, mà người ta đã làm tổn thương người khác. Và chỉ có khi vài phút đồng hồ, vài giây đồng hồ mà người ta làm tổn thương tình yêu Giêsu, người ta cũng không ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu.
Xin Chúa ngày hôm nay, cho chúng ta khi nghe lại câu nói của Chúa Giêsu khi nhắc nhớ đến mối tương quan giữa cây nho và cành nho cũng nhắc nhớ cái mối tương quan giữa mỗi người chúng ta. Để chúng ta chấn chỉnh lại cái mối tương quan của chúng ta, chúng ta có yêu Chúa chúng ta có kết hợp thực sự với Chúa không? Nếu như chúng ta kết hợp, chúng ta yêu Chúa đủ, thì tình yêu của chúng ta với Chúa Giêsu sẽ nảy sinh ra nhiều hoa trái như lòng Chúa mong ước. Amen.
3. Cắt tỉa
Chúng ta phải làm những gì để cành nho là cuộc đời chúng ta được sinh nhiều hoa trái?
Tôi xin thưa, việc thứ nhất chúng ta cần phải làm là cắt tỉa. Đúng thế, Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: Cành nào sinh hoa trái thì Ngài sẽ cắt tỉa để nó đem lại nhiều hoà trái hơn. Hành động cắt tỉa được thực hiện nơi bản thân chúng ta bơi những hy sinh và quên mình. Đây cũng là điều kiện mà chúng ta vốn thường thấy cho bất cứ một thành công nào. Chẳng hạn chúng ta sẽ không thể nào có nồi cơm vừa dẻo lại vừa thơm, nếu như những hột gạo không bị nấu chín. Chúng ta sẽ không thể nào có được những chiếc bánh vừa giòn lại vừa ngon, nếu như những bông lúa mì không bị nghiền nát. Đồng thời chúng ta cũng không thể nào có được những bột lúa mì, nếu như những hạt giống gieo trên ruộng đồng, không bị mục nát và rữa thối trong lòng đất. Cũng thế sẽ không thể nào có được chén rượu nho nếu những trái nho không bị ép nát. Hơn nữa, chúng ta sẽ không thể nào có được những trái nho, nếu như trước hết những cành lá không bị cắt tỉa. Hy sinh và gian khổ sẽ không bao giờ thiếu vắng trong cuộc sống. Tuy nhiên điều quan trọng đó là chúng ta phải biết đón nhận những hy sinh gian khổ ấy, phải biết vác lấy thập giá mà bước theo Chúa. Hay nói một cách khác: Hãy chấp nhận tất cả vì lòng yêu mến Chúa, để cuộc đời chúng ta sẽ đem lại nhiều hoa trái. Bởi vì lòng yều mến chính là chiếc đũa thần, biến những hy sinh nhỏ bé của chúng ta trở thanh những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và là cho cuộc đời chúng ta có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa.
Việc làm thứ hai đó là phải sống gắn bó mật thiết với Chúa. Thực vậy, chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Đã hẳn, không có Ngài, chúng ta vẫn có thể làm được nhiều chuyện. Thế nhưng, đó chỉ là những công việc hời hợt, nông cạn thiếu nền móng, như căn nhà xây trên cát, chẳng bao lâu sẽ bị sụp đổ trước cảnh tượng mưa tuôn và gió cuốn. Với Ngài, thì đức tin dù chỉ bằng hạt cải, cũng có thể chuyển núi dời non. Với Ngài thì mạng nhện cũng trở nên tường thành, còn không có Ngài thì tường thành cũng trở nên mạng nhện mà thôi. Chính vì thế, Chúa Giêsu luôn luôn khuyên nhủ chúng ta: Các con hãy ở trong Thầy. Bởi vì chỉ cành nào kết hiệp cùng cây mới trổ sinh hoa trái. Trái lại, cành nào lìa cây thì lập tức sẽ bị khô héo. Bởi đó, hãy ở lại trong tình yêu Chúa. Hãy kết hợp mật thiết với Ngài.
4. Cây nho
Đối với người Do Thái thì cây nho là một hình ảnh thật quen thuộc và gần gũi, giống như hình ảnh cành tre khóm trúc đối với người Việt Nam. Thế nhưng Chúa Giêsu muốn nói gì qua hình ảnh cây nho?
Tôi xin thưa: Qua hình ảnh cây nho, Ngài cho chúng ta biết rằng Ngài chính là hiện thân của Thiên Chúa. Ngài đến không phải chỉ để trông nom chăm sóc vườn nho, mà hơn thế nữa, còn để trở thành chính cây nho, hầu có thể trực tiếp thông ban sự sống của mình cho chúng ta; như thân cây nuôi ngành cây bằng nhựa sống của nó. Từ hình ảnh trên, chúng ta thấy được hai ý nghĩa nổi bật.
Ý nghĩa thứ nhất: Thiên Chúa là người trồng nho, còn chúng ta là những cây nho. Thế nhưng kể từ nay giữa chúng ta và Thiên Chúa, còn có một trung gian đó là Đức Kitô. Và như chúng ta đã biết: Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, có nghĩa là Ngài cũng đã trở thành một cây nho, một cây nho hảo hạng, một cây nho giống tốt để tạo nên một vườn nho mới. Nói cách khác, Đức Kitô là một con người mới, là một Adong mới hầu tạo nen cho Thiên Chúa một nhân loại mới, theo đúng hình ảnh của Ngài.
Ý nghĩa thứ hai đó là một sự trao đổi kỳ lạ, được thực hiện qua mầu nhiệm nhập thể. Đúng thế, với mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được bước lên ngôi Thiên Chúa. Ngài đã trở thành cây nho, để chia sẻ cho chúng ta, những cành nho của Ngài, chính nhựa sống thần linh. Kể từ nay, mối liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa, không phải chỉ là mối liên hệ cứng nhắc giữa Đấng hoá công và loài người thụ tạo, nhưng là một liên hệ thân thương, gần gũi và gắn bó mật thiết như cành liền cây hiệp thông cùng một nhựa sống, đến nỗi chúng ta có thể nói: Thiên Chúa ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Thiên Chúa. Hay: Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Một khi đã hiệp thông trong cùng một nhựa sống, thì chúng ta cũng phải chia sẻ những khổ đau với Ngài. Thực vậy, nếu thân cây bị chặt thì những cành lá cũng phải chết theo. Và một khi chồi mới mọc lên thì những cành lá mới cũng ló dạng. Là Kitô hữu, đời sống của chúng ta từ nay không thể tách rời Đức Kitô. Do đó, những khổ đau của Ngài cũng phải là những khổ đau của chúng ta và sự chết của Ngài cũng phải là sự chết của chúng ta, để rồi sự phục sinh của Ngài cũng phải là sự phục sinh của chúng ta. Như lời thanh Phaolô xác quyết: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị.
Đó cũng chính là ý nghĩa của việc cắt tỉa mà Chúa Giêsu đã nói đến, để cho cành cây sinh nhiều trái hơn. Cành nho càng được cắt tỉa thì lại càng mang nhiều trái. Cũng vậy, đời sống người Kitô hữu càng kết hiệp với Đức Kitô, càng chịu nhiều gian nan thử thách, thì lại càng nhiều ơn phúc trước mặt Thiên Chúa hơn.
5. Ở trong Chúa.
Đoạn Tin Mừng vừa nghe cho chúng ta thấy về mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và những kẻ theo Ngài. Đây là một mối quan hệ mật thiết đến độ cả hai trở nên như một, vì mang cùng một sức sống. Mối quan hệ này đã được Chúa Giêsu diễn tả bằng hình ảnh cây nho và ngành nho như lời Ngài đã phán: Thầy là cây nho các con là ngành nho. Từ hình ảnh này chúng ta rút ra được mấy điểm suy nghĩ.
Điểm thứ nhất đó là Chúa Giêsu và các Kitô hữu tạo thành một cộng đồng sự sống: Các con hãy ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. Người Kitô hữu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu nhờ bí tích Rửa Tội, qua đó chúng ta được thanh tẩy trong cái chết, chết cho tội lỗi và trong sự sống lại với cuộc sống mới của Ngài. Người Kitô hữu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu, còn có nghĩa là được nắm giữ một vai trò sống động trong chương trình cứu độ của Chúa. Như thế mối quan hệ này được đặt nền tảng trên sự trung tín và thương yêu.
Điểm thứ hai được Chúa Giêsu nhấn mạnh, đó là ngành nho phải sinh trái. Một ngành nho không sinh trái, mặc dù vẫn còn dính vào thân cây nho, thì cũng chỉ là một ngành nho đã chết, và một ngày kia sẽ bị cắt tỉa mà quẳng vào lửa.
Hình ảnh này có thể đã làm cho chúng ta ngạc nhiên, bởi vì đâu cần phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan nguội lạnh hay phạm những tội tầy đình mới bị cắt ra khoi cộng đoàn của Chúa. Không sinh trái, đã có nghĩa là không còn ở trong Chúa, không còn liền thân với Chúa. Như vậy sức sống từ Chúa trao ban chỉ có thể là sức sống, chỉ có thể là động lực làm sinh hoa kết trái. Và do đó, chỉ có hai trạng thái: sinh trái hay không sinh trái mà thôi, chứ chẳng có trạng thái thứ ba, được hiểu theo nghĩa là cầm hơi, cầm chừng.
Người Kitô hữu trở thành môn đệ Chúa bằng chính việc sinh nhiều trái chứ không phải bằng lời nói hay những nghi thức nào khác. Nhưng thế nào là sinh trái? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong bài đọc thứ hai, trích thư của thánh Gioan tông đồ: Ai giữ các giới răn của Chúa thì ở trong Ngài và Ngài ở trong họ. Và đây là giới răn của Chúa: Chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Ngài là Đức Kitô, và phải thương yêu nhau. Vẫn theo thánh Gioan thì chúng ta đừng yêu nhau bằng lời nói và miệng lưỡng, nhưng bằng viec làm và chân thật.
Như thế chúng ta có thể hiểu được rằng sinh trái có nghĩa là yêu thương, và yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, đem lại hạnh phúc cho người khác.
Trái nho chính là những hành động bác ái yêu thương, thế nhưng chúng ta đã thực sự là những ngành nho sinh nhiều trái hay chưa?
6. Cây nho.
Bất cứ ai sống trên đời cũng đều có quan hệ không nhiều thì ít với những người chung quanh, nhất là những người có cùng một máu mủ với mình. Mối quan hệ đó càng khắng khít bao nhiêu là tùy thuộc vào sự hiệp thông có mật thiết hay không.
Cuộc sống đấy ắp yêu thương chỉ có thể tồn tại khi con người đặt tình thương yêu cào tất cả các mối quan hệ, giao tiếp và thông hiệp với nhau trong tình người với người, hơn nữa trong tình anh em ruột thịt.
Ngoài những mối giây liên hệ giao tiếp bình thường như những người khác, người Kitô hữu còn có dây liên hệ với Thiên Chúa là Cha mình và với Hội Thánh cùng các chi thể của Ngài. Mối dây liên hệ này có được sẽ làm phong phú thêm những giá trị vốn có trong cuộc đời.
Hình ảnh cây nho và hoa trái ngon ngọt của nó, mà chúng ta vừa nghe qua đoạn Tin mừng hôm nay đã từng được xem là biểu tượng của mối dây liên kết và hiệp thông, đồng thời cũng được xem là kết quả của những con người tin vào Đức Kitô Phục sinh. Thực vậy, cay nho và vườn nho trước tiên đã được áp dụng cho dân Do Thái để chỉ lòng yêu thương và việc Thiên Chúa kén chọn dân tộc này trong chương trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa đã vun trồng và chở che vườn nho ấy.
Hình ảnh vườn nho và cây nho sau này được thánh Gioan mở rộng đến tất cả những kẻ tin theo Chúa. Hơn thế nữa, còn cho thấy chính Đức Kitô là cây nho thật và mỗi người trong chúng ta là một cành nho của cây nho ấy.
Với mầu nhiệm nhập thể của Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người đã trở nên cây nho thật, một cây nho tốt, để tạo nên một vườn nho mới, một dân tộc mới, một sức sống mới cho con người đã từng mang mầm mống của tội lỗi và diệt vong.
Do đo, niềm vui mừng và hy vọng lớn lao nhất của con người chính là được thông hiệp với Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Ngài đã trở thành cây nho và chúng ta là những cành lá của cây nho ấy. Điều đó có nghĩa chúng ta là những chi thể của Ngài và được mang lấy chính sự sống thần linh của Ngài. Với mầu nhiệm nhập thể, chúng ta còn thấy: Thiên Chúa làm người là để cho con người được trở nên Thiên Chúa và có sự sống viên mãn nhờ Đức Kitô. Muốn có được sự sống mới ấy, chúng ta phải thực thi tình yêu thương và phục vụ như Đức Kitô bằng những hành động và việc làm cụ thể.
Ngoài ra, để có một cuộc sống mới thật phong phú và sinh hoa kết trái dồi dào thì ngay tư giờ chúng ta cần phải hy sinh quên mình, giống như cành nho nào được cắt tỉa, thì đó chính là cành nho có nhiều hoa trái hơn cả.
Cuộc sống của người Kitô hữu càng kết hiệp với Đức Kitô, càng hiệp thông với các chi thể khác của Ngài, trong đó có những người anh em bất hạnh và khổ đau, đòi hỏi nhiều hy sinh, thì cuộc sống của người Kitô hữu ấy càng phong phú và nhiều hy vọng hơn cả. Bởi vì, nếu ta chết với Đức Kitô, thì chúng ta sẽ cùng sống với Ngài. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, thì chúng ta sẽ cùng Người hiển trị.
7. Sinh nhiều hoa trái – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Ai trồng cây cũng mong được ăn quả. Muốn có quả, cũng phải lắm công phu. Không phải cứ xanh tốt lớn mạnh là có quả. Có những ruộng lúa xanh tốt, nhưng chỉ tốt lá, nên chỉ cho những bông lúa lép. Có những cây xum xuê cành lá, nhưng đến mùa chẳng thấy quả nào. Xanh tốt như thế không phải là thành công, nhưng la thất bại. Cành lá chỉ là phụ, hoa quả mới là chính. Được điều phụ mất điều chính, đó là thất bại. Đức Giêsu quan sát cây nho và thấy rằng một cây nho muốn có nhiều hoa quả cần phải có hai điều kiện sau đây:
Điều kiện thứ nhất: Cành phải liên kết với cây. Cành không liên kết với cây, không thể sinh hoa kết quả. Cành không liên kết với cây khi dòng nhựa nuôi dưỡng thân cây bị tắc nghẽn không luân lưu sang cành. Có những con sâu con bọ đục khoét làm cho cành cây bị thương tổn, không còn tiếp nhận được nguồn nhựa sống của thân cây truyền sang. Chỉ khi cành kết hiệp chặt chẽ với cây, dòng nhựa từ cây mới truyền sang cành, cho cành trổ sinh hoa trái.
Điều kiện thứ hai: Cành lá phải được cắt tỉa. Ai đã trồng nho thì biết: Nếu cứ để cành lá phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi coi rất đẹp mắt nhưng không có hoa trái. Muốn cây có quả, phải tỉa bớt cành lá. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn.
Đức Giêsu muốn dùng hình ảnh cây nho để nói về đời sống đạo của ta. Đời sống của ta được sánh ví như đời sống của cây nho.
Cũng như người trồng nho muốn cho vườn nho của mình không bị tàn lụi, nhưng phát triển, sinh hoa kết quả, Đức Chúa Cha đã tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi, nhưng để con người phát triển, sinh hoa kết quả và tồn tại.
Để được phát triển, con người cũng cần những điều kiện.
Điều kiện thứ nhất: Phải kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu. Như cành nho phải liên kết với thân nho mới sinh hoa kết quả, ta phai liên kết mật thiết với Đức Giêsu. Người là nguồn cội sự sống của ta. Tách lìa Người, ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Người là dòng sông ân sủng. Khi ta kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Sự kết hiệp mật thiết với Chúa làm cho ta sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đa đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.
Điều kiện thứ hai: Phải chịu cắt tỉa. Cành nho muốn sai trái phải chịu tỉa bớt những cành lá rườm ra. Cũng thế, linh hồn phải để Chúa cắt tỉa nhưng gì dư thừa cản trở ơn thánh sinh hoa kết quả. Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư để chuyên tâm tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những phô trương quyền lực để mặc lấy tâm tình đơn sơ khiêm nhuờng. Chúa cắt tỉa ta bằng những thất bại ta gặp phải. Chúa huấn luyện ta bằng những lời phê bình chỉ trích của những người chung quanh. Chúa mãi dũa ta bằng những nghi kỵ hiểu lầm của người khác. Chúa đào tạo ta trong những phản bội của người thân tín. Việc cắt tỉa làm cho ta đau đớn, nhưng đem lại những lợi ích vô cùng phong phú.
Chính Đức Giêsu đã làm gương cho ta khi Người sống kết hiệp mật thiết với Đức Chúa Cha. Sự kết hiệp ấy được diễn tả qua việc Người chuyên tâm cầu nguyện và luôn luôn làm theo ý Chúa Cha. Người đã để cho Chúa Cha cắt tỉa khi Người từ bỏ ý riêng, nhận uống chén đắng, nhận vác thập giá, nhận lấy cái chết tủi nhục. Chính vì thế, Người đã sinh hoa trái dồi dào nuôi sống tất cả chúng ta. Chính vì thế, Người đã trở nên gốc nho sung mãn sự sống để chuyển thông cho chúng ta.
Lạy Đức Giêsu là Cây Nho Thật, xin cho con biết kết hiệp mật thiết với Chúa. Xin hãy cắt tỉa những gì vô ích trong con để con sinh nhiều hoa trái thiêng liêng như Chúa mong ước. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Còn những gì trong bạn ngăn cản bạn kết hiệp với Chúa?
2- Trong bạn còn những gì phải cắt tỉa?
3- Bạn có sẵn sàng để Chúa cắt tỉa không
4- Những thất bại, những đau khổ bạn gặp phải có ích gì cho bạn không?
8. Sinh nhiều hoa trái
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Bài hát “Vườn của ba” viết rằng: Má trồng toàn những cây dễ thương. Nào là hoa là rau là lúa. Còn Ba trồng toàn cây dễ sợ. Cây xù xì cây lại có gai. Cái gai bưởi đụng vào là chảy máu Trái sầu riêng rớt trúng thì đầu u. Nhựa hột điều dính vào là rách áo. Cây dừa cao eo ôi là cao”. Đã trồng cây thì ai cũng mong được ăn quả. Muốn có quả, thì phải lắm công phu. Điều đáng nói ở đây là cành lá chỉ là phụ, hoa quả mới là chính. Cho nên, Đức Giêsu dùng dụ ngôn cây nho để nói đến hoa quả của đời sống tâm linh, muốn có hoa quả thì cần phải có 3 điều sau đây:
Thứ nhất, cành gắn liền với thân cây. Nếu cành nào tách rời khỏi thân dĩ nhiên khô héo và làm mồi cho lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa. Bằng chứng cụ thể Giuđa It-ca-riốt, tách khỏi Thầy, chết héo, tự tử. Vì vậy, mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu là một mối quan hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, cùng một sự sống như các chi thể trong một thân thể mà Thánh Phaolô gọi là Nhiệm Thể, hay là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau như các cành nho liên kết với thân cây nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến thân rồi đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến chúng ta từ một gốc và thân là Chúa Giêsu: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”.
Thứ 2 “cành nho phải sinh hoa trái”. Cành thì gắn với thân cây để có nhựa sống khi có nhựa sống thì phải sinh hoa trái. Làm thế để sinh hoa kết trái thiêng liêng? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. Yêu như Chúa yêu chúng ta, một tình yêu với 4 chữ D: sinh ngoài đồng, ở ngoài đường, ăn đon đả và chết ngoài đồi. Còn mình yêu người cũng 4chữ D nhưng là đẹp, di động, dream và đôla. Chúa yêu ta bằng tình yêu với 3 chữ G: gian lao, gian nan và gian khổ. Còn mình yêu người cũng 3G nhưng là: đẹp giai, nhà giàu, học giỏi… tình yêu như thế nó không bền thì khó sinh hoa thơm quả ngọt cho đời bởi vì những cái này chỉ là phù vân.
Do đó, “sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ không tính toán, chính lúc ấy chúng ta ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là “cây nho Chúa Cha trồng tỉa” để sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.
Cuối cùng để có được hoa thơm trái ngọt, cây phải chịu cắt tỉa, còn đối với đời sống mình cũng phải cắt tìa là chấp nhận mất mát, đau đớn. Vì chịu mất mát mới dẫn đến thắng lợi, khổ đau mới dẫn đến vinh quang, chịu chết mới dẫn đến Phục Sinh, chết đi cho tội lỗi mới nên thánh. Thánh Phaolô một con người tài trí và uy lực: nói ra lửa hét ra vàng, ấy thế mà để Chúa Giêsu phục sinh cắt tỉa thành tông đồ lỗi lạc, một bậc thánh đáng kính sau thánh Phêrô.
Kính thưa, … như cành liền cây và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, người Kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, trong Năm Phúc âm hóa giáo xứ, mọi thành phần trong giáo xứ chúng ta hãy yêu thương mọi người một cách chân thành, có hiệu quả bằng việc làm cụ thể: phục vụ, giúp đỡ, bảo vệ, xây dựng gia đình, giáo xứ, giáo phận, đất nước… một cách quảng đại như thế mới thật là môn đệ Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho.
9. Cây nho – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tôi thường ghé thăm và đưa ruớc Mình Thánh Chúa cho bà cụ Agnes Miller. Bà Agnes đã trên 80 tuổi, có hai người con trai. Mỗi lần ghé thăm, bà đều rất vui và kể truyện về người con trai, hai đứa cháu và hai đứa chắt nhỏ. Một lần nọ, tôi ngồi tỉ tê hỏi han kỹ hơn về gia cảnh của bà. Bà đã kể cho tôi nghe một tâm sự bất hạnh thầm kín trong lòng kéo dài từ lâu. Truyện là đứa con thứ hai, sau khi cưới vợ đã đổi dời đi nơi xa và đã 35 năm không hề lien lạc gì với bà. Hiện nay bà không biết hoàn cảnh gia đình người con thứ này thế nào. Bà nói rằng bà vẫn luôn nhớ cầu nguyện cho các con được mọi sự lành bình an. Ba mươi lăm năm là một khoảng thời gian rất dài trong co đơn và nhung nhớ. Bà rất hy vọng được gặp mặt con lần cuối trước khi lìa trần. Càng mong, càng ngóng, bà càng bặt tin con. Thật là đau lòng khi con cái tự tách lìa khỏi gia đình. Bà tự hỏi không biết rõ lý do nào đã đưa dẫn đến tình trạng xa cách này.
Hôm nay chúng ta suy niệm một đề tài rất cụ thể liên đới giữa Chúa Giêsu và các tín hữu, Chúa là cây nho thật. Hình ảnh cây nho rất quen thuộc được trồng mọi nơi trên miền đất Palestine cua người Do-thái. Chúa Giêsu đã phán cùng các môn đệ: Thầy là cây nho, các con là nhành. Chúng ta là nhành nho được liên kết với Chúa Kitô là cây nho. Một ẩn dụ qúa đẹp và ý nghĩa. Chúa Giêsu không chỉ hóa thân làm người trong một nhân vị riêng biệt, nhưng là cùng hòa nhập sự sống với nhân loại. Chúa Giêsu là trung gian của các tạo vật. Ngài là trưởng tử. Ngài là:An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22,13). Ngài đã mời gọi và liên kết những kẻ tin vào Ngài để giúp họ sinh nhiều hoa trái.
Chúa Giêsu phán: Không có Thầy, các con không thể làm được gì. Giống như cành nho không liên kết với thân nho sẽ bị èo uột và khô héo. Không có một kinh sư, sư phụ hay một vị đại nhân nào dám lên tiếng một cách xác tín như Chúa Giêsu. Chúa có uy quyền trong tư tưởng, lời nói và hành động. Chúng ta không chỉ tuyên xưng niềm tin vào Chúa, nhưng điều quan trọng là sống và thực hành lời Chúa dậy: Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Và còn hơn nữa, Chúa Giêsu còn cho chúng ta được sáp nhập vào gia đình thiêng liêng của Chúa. Khi Chúa Giêsu đã giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi (Mt 12, 49-50).
Đôi khi chúng ta hãnh diện và an lòng khi được mang danh Kitô hữu. Nghĩ rằng khi được lãnh nhận các Bí Tích nhập đạo là chúng ta có chứng chỉ để vào Nước Trời. Thực ra, đây mới chỉ là khởi đầu hành trình tiến về Nước Trời. Con đường theo Chúa đòi hỏi nhiều hy sinh và quyết tâm. Chúng ta đã nhập đạo, tin đạo, sống đạo nhưng còn phải hành đạo nữa. Không phải cứ thưa: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu. Sống kết hợp với Chúa, tìm nguồn ân sủng qua việc nhận lãnh các bí tích, cử hành phụng vụ và các sinh hoạt cộng đòan dân Chúa. Phải thực hành giới răn và áp dụng lời Chúa truyền dạy trong đời sống cụ thể hằng ngày, nhờ đó, nhành nho mới sinh ra hoa trái.
Chúa ban ân sủng dồi dào cho chúng ta, nhưng điều kiện tiên quyết là chúng ta phải xứng đáng và sẵn sàng mở lòng đón nhận. Chúng ta nghĩ thế nào khi cả một cuộc đời dài sống trên trần thế, một người nào đó tách lìa khỏi nhiệm thể Chúa Kitô, bỏ bê luật Chúa, sống đạo lơ đễnh nhếc nhác, không tuân giữ giới răn, không chu toàn bổn phận người Kitô hữu, không hành đạo và không tu tâm tích đức. Khi đến giờ hấp hối sau cùng, người thân mời linh mục đến ban bí tích Xức Dầu, chúng ta không biết cành nho này có còn dính liền với cây nho để nhận nhựa sống ân sủng không? Chúng ta chỉ biết cậy vào danh Chúa nhân từ cho linh hồn người thân được hưởng ơn cứu độ.
Các Bí Tích là qùa tặng ân sủng cao quý cho ai biết đón nhận. Chúa Giêsu hiện diện qua các Bí Tích để ban ơn thánh sủng. Chúa không thể cứu độ chúng ta, nếu chúng ta nói ‘không’. Sự chuẩn bị tâm hồn tỉnh thức với lòng thống hối ăn năn và ước ao được kết hợp với Chúa sẽ giúp chúng ta đón nhận ân sủng của Người cách hiệu quả. Hình ảnh dàn nho cho chúng ta thấy một sự liên kết kỳ diệu qua tất cả các nhành, lá, hoa và chùm trái. Mọi thành phần chi the phải gắn chặt với thân cây để hưởng nhờ nguồn sống. Tách rời khỏi thân, nhành lá sẽ bị khô héo liền. Sống trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô cũng thế, mọi thành viên phải luôn liên kết với đầu và mình là Chua Kitô và Giáo Hội. Khi chúng ta tách lìa khỏi gia đình Giáo Hội, chúng ta tự tách lìa ra khỏi nguồn ân sủng siêu nhiên.
Trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Chúa Giêsu lập Giáo Hội và trao quyền cai quản cho thánh Phêrô và các tông đồ. Theo truyền thống, Giáo Hội Công Giáo gắn bó một cách chặt chẽ với Đầu qua truyền thống của các giáo phụ và các Công Đồng Chung suốt những thế kỷ qua. Nhưng trải dài qua lịch sử, có nhiều thành phần đã tách lìa ra khỏi truyền thống tổ chức giáo hội hữu hình. Tuy các ngành, giáo phái hay nhóm hội không tuân phục Giáo Hội trong một hệ thống phẩm trật, nhưng các giáo phái vẫn liên kết vơi Chúa Kitô là đầu. Giáo Hội Công Giáo luôn có những cuộc liên kết đối thoại với các anh chị em cùng niềm tin trong Chúa Kitô. Chúng ta nhìn Giáo Hội như một cây cổ thụ to lớn có rất nhiều nhành và nhiều nhánh. Ước mong sao các nhành luôn kết hợp được với nguồn cội là Chúa Kitô để cùng được chia sẻ nguồn ân sủng từ Thiên Chúa Cha.
Một thoáng nhìn trong Giáo Hội, mỗi giáo hội địa phương cũng có một vài những khác biệt trong tổ chức và điều hành. Tuy rằng chúng ta có nhiều dị biệt trong cuộc sống nhưng trong niềm tin:Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người (Eph 4, 4-6). Sự đoàn kết và hợp nhất trong một Chúa sẽ mang lại niềm an vui và hạnh phúc. Mọi sự đều qui về Chúa Kitô là trung tâm điểm của mọi tạo vật, chúng ta sẽ tìm được ý nghĩa đích thực của niềm tin Kitô giáo.
Thực hành gia đạo trong đời sống gia đình cũng giống như sự liên kết của cây nho. Cây nho có gốc, có thân, có cành và hoa trái. Các cành kết hợp với gốc thân như con cái cháu chắt qui về ông bà cha mẹ sẽ tạo niềm vui chung và hạnh phúc. Con cái cháu chắt cùng mang một họ tộc hoặc cùng hòa chung trong một dòng máu, người ta gọi la gia đình. Giây ràng buộc của gia đình xây dựng sự tương quan chia sẻ như vui buồn, thành công thất bại và lo lắng muộn phiền. Sự liên đới giữa các thành viên trong gia đình họ tộc giúp san sẻ niềm vui hạnh phúc cuộc sống. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta có gia đình, anh chị em và con cháu cùng vui vầy xum họp. Gia đình là đơn vị căn bản của giáo hội và xã hội. Có nhiều gia đình sống thánh thì giáo hội nên thánh thiện và xã hội sẽ tốt lành.
Lạy Chúa, Chúa phán rằng: Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin và sẽ được. Chúng con xin ơn hiệp nhất và bình an. Xin cho chúng con biết tôn trọng và gắn bó với nhau trong đời sống đạo, vì chúng con đều là anh chị em trong cùng một niềm tin và cùng tôn thờ một Cha trên trời. Nhờ đó, chúng con sẽ sinh hoa kết trái yêu thương trong cuộc sống hằng ngày.
10. Người Kitô hữu sinh hoa trái trong Chúa Kitô
Người trồng cây mong được ăn trái. Muốn cây có trái, người ta phải lắm công phu chăm sóc. Không phải cây cứ xanh tốt lớn mạnh là có trái. Có những cây xum xuê cành lá, nhưng đến ngày mùa thu hoạch thì chẳng thấy được trái nào. Xanh tốt như thế không phải là thành công, nhưng là thất bại. Cũng vậy, một cây nho muốn có nhiều hoa trái cần phải có hai điều kiện. Một là cành nho phải liên kết với cây. Cành nho không liên kết với cây nho, không thể sinh hoa trái. Cành nho không liên kết với cây nho thì dòng nhựa nuôi dưỡng thân cây bị tắc nghẽn. Sâu bọ đục khoét làm cho cành cây bị thương tổn, không còn tiếp nhận được nguồn nhựa sống của thân cây truyền sang. Chỉ khi cành nho kết hiệp chặt chẽ với cây, dòng nhựa từ thân cây mới truyền sang cành, cho cành trổ sinh hoa trái. Hai là cành lá nho phải được cắt tỉa. Ai đã trồng cây thì biết cành lá phải được cắt tỉa thế nao. Nếu cứ để cành lá cây nho phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi xem rất đẹp mắt nhưng không có trái nho nào cả. Muốn cây nho có quả, phải tỉa bớt cành lá. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn.
Như cành gắn liền với thân cây nho mới sống được và sinh hoa trái. Nếu cành nào tách rời khỏi thân cây nho, sẽ khô héo và cho vào lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa.
Như cành nho phải liên kết với thân nho mới sinh hoa kết quả, ta phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu. Người là nguồn cội sự sống của chúng ta. Tách lìa Người, chúng ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Người là dòng sông ân sủng. Khi ta kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào cuộc sống, làm cho chúng ta được vui sống và sống sung mãn. Sự kết hiệp mật thiết với Chúa làm cho chúng ta sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú. Vì vậy, mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu là mối liên hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, vì cùng sống chung một sự sống. Chúa Kitô và các Kitô hữu tạo thảnh một cộng đồng sự sống, như các chi thể trong một thân the mà thánh Phaolô gọi là "nhiệm thể, hay thân thể mầu nhiệm" của Chúa Kitô. Trong nhiệm thể ấy, các chi thể liên kết với nhau và liên kết với một đầu như các cành nho liên kết với thân cây nho và một góc nho. Cũng như nhựa sống lưu thông từ góc nho đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến các chi thể như trong một thân thể. Như thế, các Kitô hữu được gắn với nhau vào một góc là Chúa Giêsu: "Anh em ở trong Thay và Thầy ở trong anh em"
Phải chịu cắt tỉa. Cành nho muốn sai trái phải chịu tỉa bớt những cành lá rườm rà. Cũng vì thế, con người chúng ta cũng phải để Chúa cắt tỉa những gì dư thừa cản trở ơn thánh sinh hoa kết quả. Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư để chuyên tâm tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những phô trương quyền lực để mặc lấy tâm tình đơn sơ khiêm nhường. Chúa cắt tỉa chúng ta bằng những thất bại ta gặp phải. Chúa huấn luyện ta bằng những lời phê bình chỉ trích của những người chung quanh. Chúa mài giũa chúng ta bằng những hiểu lầm nghi kỵ của người khác. Chúa đào tạo chúng ta trong những phản bội của người thân tín. Việc cắt tỉa làm cho ta đau đớn, nhưng đem lại những lợi ích vô cùng phong phú.
Một điểm khác cũng được Chúa Giêsu nhấn mạnh ở đây, đó là"Cành nho phải sinh hoa trái". Người Kitô hữu không chỉ gắn với thân cây mà còn sinh hoa trái nữa. Bởi vì, không thiếu những cành gắn chặt với cây mà không sinh trái nào. Những cành đó sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Không sinh trái là bằng chứng không còn "Ơ trong Thầy", không còn kết hợp với Thầy, mặc dầu bên ngoài vẫn là một cây "xanh rờn"! Sinh hoa kết quả dồi dào mới trở thành người môn đệ thật của Thầy. Hình ảnh có thể làm cho chúng ta sửng sốt. Đâu phải đợiđến khi bị liệt vào hạng khô khan, nguội lạnh hay phạm những tội tầyđình mới bị loại khỏi cộng đoàn của Chúa. Sự sống từ Chúa Giêsu chi có thể là sức sống, làm nở hoa kết trái. chỉ có hai trạng thái: sinh trái hoặc không sinh trái, không có trạng thái thứ ba, hiểu theo nghĩa "cầm hơi hay cầm chừng". Người Kitô hữu trở thảnh môn đệ của Chúa Kitô bằng chính việc sinh nhiểu hoa trái và Thiên Chúa được tôn vinh cũng bằng chính việc người Kitô hữu sinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu đã khẳng định: "điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy".
Thế nào là sinh hoa kết trái? chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: " ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy, và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy". Thánh Gioan còn căn dặn: "Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm" (1Ga 3, 18). Do đó, chúng ta có thể hiểu được rằng, "sinh hoa trái" là yêu thương mot cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo sự hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ thật lợi ích của anh em, thì mới nói được rằng chúng ta đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực, thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là " cây nho Chúa Cha trồng tỉa" đe sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.
Hình ảnh của sự cắt tỉa còn gợi lên sự mất mát, đau đớn. Thế nhưng, mất mát dẫn đến thắng lợi, khổ đau dẫn đến vinh quang, sự chết dẫn đến phục sinh. Đó là bài học xuyên suốt cuộc đời, lơi rao giảng và cái chết của Chúa Giêsu. Nhựa sống từ cây nho là Chúa Giêsu đã không ngừng nuôi sống Giáo Hội. Với cái nhìn đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất, qua việc trở lại với những giá trị của Tin Mừng, Giáo Hội cởi bỏ được chiếc áo của quyền lực và hào nhoáng, để mặc lấy tinh thần phục vụ, khiêm tốn, đơn nghèo. Sự hoán cải của nhiều Kitô hữu trở thành con đường cho những người thành tâm thiện chí của ngươi cần gặp Chúa Kitô. Giáo Hội sinh nhiều con cái là nhờ các chi thể của mình là những cành nho luôn được cắt tỉa.
Như cành liền cây mới sống được và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, Người Kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi người anh em. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu. Chúng ta yêu thương mọi người một cách chân thành, va giúp đỡ họ thỉ chúng ta là người ở trong Thiên Chúa, kết hợp với Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho. Chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Người sống kết hiệp mật thiết với Đức Chúa Cha. Sự ket hiệp ấy được diễn tả qua việc Người chuyên tâm cầu nguyện và luôn luôn làm theo ý Chúa Cha. Người đã để cho Chúa Cha cắt tỉa khi Người từ bỏ ý riêng, nhận uống chén đắng, nhận vác thập giá, nhận lấy cái chết tủi nhục. Chính vì thế, Người đã sinh hoa trái dồi dào nuôi sống tất cả chúng ta. Chính vì thế, Người đã trở nên gốc nho sung mãn sự sống để chuyển thông cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu là Cây Nho thật, xin cho chúng con biết kết hiệp mật thiết với Chúa. Xin hãy cắt tỉa những gì vô ích trong chúng con, để chúng con sinh nhiều hoa trái tốt như lòng Chúa mong ước. Amen.
11. Suy niệm của Lm. Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Tình yêu phải sinh hoa trái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa tuần rồi dạy chúng ta phải sống tình yêu. Lời Chúa hôm nay khuyến cáo chúng ta rằng tình yêu thật không phải chỉ là yêu thương bằng đầu môi chót lưỡi nhưng phải sinh hoa trái. Những hoa trái ấy đối với Chúa là tuân giữ các điều răn của Ngài, và đối với người khác là những việc làm cụ thể biểu lộ lòng yêu thương.
Xin Chúa giúp cho tình yêu của chúng ta sinh hoa trái.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta chưa yêu thương tha nhân cho đủ.
- Tình thương của chúng ta đối với người khác lắm khi chỉ là lời nói suông chứ chưa thể hiện bằng việc làm.
- Chúng ta ít chịu kết hợp gắn bó với Chúa như cành nho gắn liền với thân nho.
III. Lời Chua
1. Bài đọc I (Cv 9, 26-31)
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra với Saulô (Phaolô), không phải chỉ để thánh hóa ông, mà còn trao cho ông một sứ mạng (x. Cv 9, 6: "Ngươi hãy đứng dậy vào thành, và có người sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì"). Ý thức về sứ mạng đã khiến Saolô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ.
Nhưng bước đầu thật khó khăn vì mọi người vừa không tin vừa còn sợ ông. Nhờ Banaba đứng ra bảo lãnh nên Saolô mới được đón nhận. Thế là Saolô bắt đầu thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
Bài tường thuật kết thúc bằng bảng tóm lược những kết quả khả quan của việc rao giảng Tin Mừng.
2. Đáp ca (Tv 21)
Tv này rất hợp với hoàn cảnh của Phaolô: phần đầu (cc 1-19) mô tả cảnh tác giả bị ruồng bỏ. Nhưng trong phần sau (chính là phần được trích đọc hôm nay), tác giả đã được đón nhận, hăng hái truyền tụng những kỳ công của Thiên Chúa và hân hoan chúc tụng Ngài.
3. Tin Mừng (Ga 15, 1-8)
Dụ ngôn Cây Nho.
Dụ ngôn này dạy chúng ta một cách vừa cụ thể dễ hiểu nhưng vừa rất sâu sắc về cuộc đời kitô hữu:
- Kitô hữu nếu muốn sống phong phú thì phải sống trong Đức Giêsu và sống bằng sức sống của Ngài "Thầy là cây nho, các con là nhành... Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều trái"
- Kitô hữu cũng phải chấp nhận để cho mình "được Cha Thầy tỉa sạch" bằng những việc xảy ra không đúng ý mình làm cho mình đau khổ.
- Đức Giêsu còn hứa một điều rất tốt đẹp: "Nếu các con ở trong Thầy và Lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được"
4. Bài đọc II (1 Ga 3, 18-24)
Đoạn thư này cũng giúp hiểu chủ đề "tình yêu phải sinh hoa trái": Yêu thương không phải chỉ bằng lời nói trên đầu môi chót lưỡi
- mà phải bằng việc làm
- và bằng việc tuân giữ các điều răn của Đức Giêsu.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Cây nho và cành nho
Đức Giêsu không viết một quyển sách nào cả. Ngài cũng không xây dựng một ngôi nhà nào cả. Nhưng Ngài đã thực hiện một công trình lớn lao và cần thiết hơn nhiều, đó là xây dựng một cộng đoàn.
Ngài nói với các môn đệ: "Thầy là cây nho, anh em là cành". Đó chính là hình ảnh Ngài dùng để nói về cộng đoàn mà Ngài xây dựng, một hình ảnh rất súc tích:
Vào mùa xuân, các cành nho vươn ra, đơm lá, trổ hoa. Đến mùa thu thì các cành đã nang trĩu những chùm nho tươi tốt. Nhưng sở dĩ cành sinh lá, trổ hoa và kết trái là nhờ chúng nối liền với cây nho. Nếu cắt lìa chúng khỏi cây thì chẳng những chúng không có trái, mà còn héo tàn dần và cuối cùng thì chết. Cành nho cần đến cây nho thế nào, chúng ta cũng cần đến Đức Kitô thế ấy. Nếu không kết hợp với Ngài, chúng ta sẽ không có sức sống và không thể sinh trái.
Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho, bởi vì chính cành nho sinh ra trái nho. Nói thế nghĩa là Đức Kitô cũng cần đến chúng ta. Chúng ta là cành của Ngài. Như thế cây nho và cành nho đều cần tới nhau. Hai bên tạo thành một thể hiệp nhất. Từ đó chúng ta mới hiểu Đức Kitô rất tin tương và trông cậy nơi chúng ta. Có thể chúng ta cảm thấy mình không xứng đáng với sự tin tưởng trông cậy ấy, tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng bên cạnh chúng ta còn có Ngài nữa. Cành nho có thể yếu ớt và mong manh, nhưng cay nho thì rất vững chắc và dồi dào sức sống.
Đức Kitô muốn nhờ chúng ta để sinh trái cho thế giới. Có một khác biệt lớn giữa thành công và sinh trái. Thành công đến từ năng lực, và mang lại vinh quang. Nhưng việc sinh trái thì thường đến từ sự yếu đuối, khổ đau và nhiều khi chẳng ai nhận biết mà khen thưởng. Đức Kitô không bảo chúng ta phải thành công, nhưng Ngài dạy chúng ta sinh trái. Mỗi người chúng ta đều được Ngài ban cho một số khả năng nào đó. Bằng cách sử dụng, phát triển và chia xẻ những khả năng đó với người khác, chúng ta sẽ sinh trái. Thế giới đang chờ những trái ấy. Mà điều quan trọng là yêu thương. Thiên Chúa sẽ làm cho tình yêu của chúng ta sinh trái, những trái chúng ta thấy được và cả những trái chúng ta không thấy.
Sang mùa đông, các cành nho được cắt tỉa. Cắt tỉa là một tiến trình cần thiết cho cành nho: bỏ đi tất cả những gì thừa thải chẳng ích lơi gì mà còn làm hao mòn sức sống của cây nho. Mục đích của cắt tỉa không phải là làm cho cành bị đau mà là để giúp chúng sẽ sinh trái nhiều hơn và tốt hơn nữa. Vì chúng ta là những cành của Cây nho thật là Đức Kitô nen chúng ta cũng cần được cắt tỉa. Có rất nhiều điều chẳng những vô ích mà còn có hại cho sự sống chúng ta, làm hao hụt năng lực chúng ta và cản trở sự sinh hoa trái thiêng liêng của chúng ta. Nếu Đức Kitô cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Sống với
Nhiều người nói rằng: "Tôi cần gì đến nhà thờ chứ? Tôi không thể tôn thờ Chúa theo cách của tôi sao? Tôn giáo là sự liên hệ cá nhân giữa tôi và Chúa cơ mà!"
Hãy nhớ rằng ngay từ những buổi đầu, việc theo Đức Giêsu không bao giờ là một việc cá nhân và riêng tư. Các kitô hữu sống chung trong cộng đoàn, cùng nhau tuyên xưng niềm tin, cùng nhau làm chứng về Đức Kitô sống lại, và cùng nhau sống theo những điều Ngài dạy dỗ. Lý do sâu xa của nếp sống cộng đoàn ấy được chính Đức Giêsu giải thích khi Ngài nói "Thầy là cây nho, anh em la cành".
Cây nho và cành nho là một. Có một sự lệ thuộc hỗ tương giữa cây với cành và cành này với cành khác. Nếu nói "Tôi theo Đức Kitô nhưng không theo Giáo Hội" tức là chia cách Đức Kitô khỏi Giáo Hội, là cắt cành khỏi cây.
Những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu đã nhìn thấy Ngài, ăn uống với Ngài và trò chuyện với Ngài sau khi Ngài sống lại. Nhờ đó họ cảm nghiệm rất sâu xa sự liên kết với Ngài, một sự liên kết mà nhờ đó họ được tăng sức hơn. Đức Giêsu đã chọn họ, làm cho họ thành bạn hữu của Ngài, rồi sai họ ra đi để sinh hoa trái, hoa trái của tình thương.
Chúng ta sẽ biết mình là những cành nho đầy sức sống của cây nho nếu trong chúng ta thực sự có tình thương mến, tình thương mến ngự trị giữa nhau và thể hiện bằng sự chăm sóc cho nhau.
* 3. Hoa trái xum xuê
Nếu ta gắn bó với Người, Đức Giêsu sẽ cho ta hoa trái xum xuê như Người đã hứa: "Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy người ấy sẽ sinh hoa trái xum xuê". Đời ta có thể nên phong phú nhờ sự phong phú của Thiên Chúa. Ta nên những môn đệ đích thực và ta làm vinh danh Chúa Cha. Lời cầu của ta cũng tương tự lời cầu của Đức Giêsu. Người biết Chúa Cha luôn nhận lời Người: "Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con các con hãy xin điều các con muốn và các con sẽ được như ý". Ta có thể xin gì khác hơn thánh ý Chúa Cha? Người môn đệ đích thực của Đức Giêsu không đơn thuần là kẻ đi theo Người. Trong anh ta, chính Đức Giêsu ngự đến sống đời sống của anh, biến đổi đời sống ấy và làm cho nên phong phú. Thánh Phaolô sẽ nói: "Không phải tôi sống, chính Đức Kitô sống trong tôi". Môn đệ là người "mang Đức Kitô". Nếu môn đệ trung tín với Lời Người, anh sẽ nối dài sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu trên trần gian. Tim anh sẽ đập cùng một tình yêu đó, đời anh sẽ dâng lên Chúa Cha cũng niềm vinh danh đó, lời anh sẽ loan báo cũng Tin mừng đó, cử chỉ anh sẽ phiên dịch cũng ơn cứu độ đó. Đây không phải là bắt chước, nhưng là một chuyển biến sâu xa. Chính Thiên Chúa sinh hoa kết quả xuyên qua hoạt động của anh. Chẳng đời nào ta dám tưởng tượng ra một sự thân thiết thâm sâu dường ấy! Nên Đức Giêsu đã phải nhấn mạnh, nhắc đi nhắc lại để hiểu hơn: "Ngoài Thầy, các con không làm được gì". Ta rất dễ bị cám dỗ, chiếm hữu Lời Người, dùng Lời Người để tự mình hướng dẫn đời sống muốn, để tự ta thấy trước những hoa trái ta muốn có... Thực ra, nếu ta là những môn đệ đích thực, thì chính Lời Đức Giêsu sẽ nắm lấy ta, sẽ cắt tỉa ta. Khi ấy, cuộc đời ta sẽ biến đổi, nhựa sống của cây nho thật sẽ căng phòng lên ở các cành nho của ta và sản sinh trong ta hoa trái xum xuê". (Mgr. L. Daloz trong "Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người" DDB, trang 192. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm B)
* 4. Liên kết với Người (Ga 15,1-8)
Một thầy kiện mới mở được một văn phòng luật sư khang trang lịch sự. Bỗng nghe có tiếng chân người ngoài cửa bước vào, ông vờ như không thấy. Vội nhắc ống diện thoại lên, nói thật to trong ống nghe:
- Alô, văn phòng luật sư đây.
- Vâng, từ ngày tốt nghiệp đại học đến nay, tôi đã thắng nhiều vụ kiện lớn. Các công ty danh tiếng đều nhờ cậy tôi. Tôi được rất nhiều người tin tưởng. Tuy thu nhập cao nhưng tôi luôn dành 10% cho các công việc từ thiện.
Có tiếng gõ cửa, ông quay lại, thấy người đàn bà đang đứng chờ từ nãy, ông mới lịch sự thưa:
- Xin lỗi bà, tôi có khách quý đến.
Quay lưng lại, anh hỏi người vừa bước vào:
- Anh cần gì?
- Thưa luật sư, có phải hôm nay là ngày đầu tiên văn phòng của ngài bắt đầu làm việc?
- Đúng thế, anh cần tôi giúp vụ kiện nào?
- Dạ thưa không tôi là người của công ty đien thoại được cử đến để gắn đường dây điện thoại cho ngài!
*
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại mối liên hệ của chúng ta với Chúa. "'Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, ke ấy sinh nhiều trái" (Ga. 15, 5). Đức Giêsu Phục sinh là cây nho, các tín hữu Kitô là cành. Cây và cành có chung một dòng nhựa, nên cùng một sự sống. Càng gắn bó với cây, cành càng sinh nhiều hoa trái. Nếu ngược lại canh sẽ héo tàn. Ví như đường dây điện thoại của ông luật sư, không có nối với tổng đài thì đâu có liên lạc đối thoại: không có liên lạc đối thoại thì đâu có khách hàng, lợi nhuận! Cành chỉ giả vờ gắn liền với cây, nên làm gì có sinh hoa trái.
Cành nào đã sinh trái, càng phải sinh trái nhiều hơn. Muốn sinh nhiều trái hơn, cành cần được cắt tỉa đớn đau. Có cắt tỉa vun xới, cành mới sinh hoa kết quả. Đức Giêsu trên cây thập giá, như một thân nho trơ trụi. Đó là lúc phát sinh hoa trái nhiều hơn cả. Từ cạnh sườn Người bị đâm thấu, Giáo hội đã được sinh ra, và đơm bông kết trái dồi dào.
Mỗi người tín hữu Kitô cũng phải được cắt tỉa, vun xới bằng hy sinh đau khổ hằng ngày, mới trổ sinh hoa trái dồi dào. Niềm vui và đau khổ không nhất thiết phải khử trừ nhau. Đôi khi nó réo gọi nhau, trong những cuộc đàm thoại huyền nhiệm. Vì thế hy sinh không là bóp nghẹt cuộc đời, nhưng lam cho đời thêm triển nở tốt tươi.
Điều quan trọng là "Hãy ở lại trong Thầy" vì "Nếu không có Thầy các con không thể làm gì được" (Ga. 1, 5). Ở lại trong Thầy và liên kết với Thầy qua đường dây "Cầu nguyện và bí tích". Tất cả sức sống của Đức Giêsu được chuyển thông từ đó, khả năng kết trái cũng phát sinh từ đó. Đức Giêsu dạy: "Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin sẽ được" (Ga. 15, 7).
Nếu Đức Kitô là Cây Nho đích thực, và Người Trồng Nho là chính Thiên Chúa thì chúng ta hãy là những cành nho căng nhựa sống, để dâng hiến cho đời những hoa trái tốt tươi.
***
Lạy Chúa, Chúa muốn cắt tỉa chúng con khỏi những rườm rà, để cây đời chúng con trổ sinh nhiều hoa trái. Xin cho chúng con can đảm, dám sống theo những đòi hỏi cắt tỉa của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Ở lại
Đoạn Tin Mừng này chỉ có 8 câu, vậy mà có tới 8 lần chữ "Ở lại".
Thử tò mò đọc lại từng lần để xem mỗi lần có ý nghĩa gì đặc biệt không:
- Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em.
- Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế nếu không ở lai trong Thầy.
- Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều trái.
- Ai không ở lại trong Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo.
- Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý.
Sau đây là một số ý nghĩa mà chúng ta có thể khám phá ra được:
- "Ở lại" là gì? Như cành nho ở lại trong cây nho -(1) Là một sư liên kết chặt chẽ đến nỗi tuy hai nhưng thành một. Cây nho và cành nho tuy một bên là "cây" một bên là "cành", nhưng cả hai đều là "nho". (2) Sự liên kết này không cần cho một bên nhưng rất cần cho bên kia. Cây nho không cần đến cành nho lắm, nhưng cành nho thì nhất thiết phải "ở lại" trong cây nho. (3) Sự liên kết phải vững bền, nghĩa là mãi mãi, không lúc nào mà không liên kết. Khi nào cành không liên kết với cây thì nó không còn la cành nho nữa mà trở thành cành củi. -Tóm lại, "ở lại" trong Đức Giêsu là điều kiện sống còn, không thể không có đối với kitô hữu.
- Ai "ở lại" trong ai? Đức Giêsu và kitô hữu "ở lại" trong nhau. Về phía Đức Giêsu thì đương nhiên Ngài ở lại trong chúng ta rồi. Nhưng Ngài nhắc chúng ta cũng phải "ở lại" trong Ngài: "Hãy ở lại...", "Như Thầy ở lại trong anh em".
- Ích lợi của "ở lại": được sống, sinh hoa trái, muốn gì cứ xin và sẽ được.
- Tai hại của "không ở lại": bị quăng ra ngoài, khô héo, không thể sinh trái.
- Làm thế nào để "ở lại" trong Đức Giêsu? ghi nhớ và thực hành Lời Ngài.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu là cây nho, chúng ta là cành, cành nào liền với cây mới sinh hoa trái, và cành nào được cắt tỉa lại càng sinh nhiều hoa trái hơn. Chúng ta hãy tha thiết dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện sau đây:
1. Xin cho giáo sĩ, tu sĩ, và giáo dân trong Hội thánh / luôn hiệp thông với Đức Giêsu nhờ phụng vụ và bí tích, để có thể sinh nhiều hoa trái trong việc phục vụ và truyền giáo.
2. Xin cho mọi người đang phục vụ trong mọi hoàn cảnh xã hội / biết chấp nhận gian nan thử thách / để rút tỉa kinh nghiệm và phục vụ kết quả hơn.
3. Xin cho những người đau khổ, tật nguyền / những người bị tù đày áp bức / biết hiệp thông với cuộc khổ nạn của Đức Giêsu / để góp phần đền tội cho những kẻ tội lỗi.
4. Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / biết vui lòng đón nhận mọi đau khổ thử thách như được Chúa cắt tỉa / để có thể sinh hoa trái nhiều hơn trong tình mến Chúa yêu người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Đức Giêsu đã dạy chúng con phải hiệp thông với Người như cành liền cây, thì xin gì cũng sẽ được. Xin giúp chúng con đừng bao giờ lìa xa Người, để mọi lời cầu xin đều được Chúa chấp nhận. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là cây nho, chúng ta là cành. Vậy chúng ta hãy kết hợp tâm tình với Đức Giêsu để dâng lên Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu và cũng là Cha chúng ta lời nguyện sau đây.
- Chúc bình an: Trong tình yêu siêu nhiên nối kết chúng ta với Đức Giêsu và với nhau, chúng ta hãy thành thật chúc cho nhau được bình an.
VII. Giải tán
Mặc dù Thánh lễ sắp kết thúc và chúng ta sắp rời khỏi Nhà thờ, nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống kết hợp với Đức Giêsu như cành nho gắn liền với cây nho.
12. Thầy là cây nho, anh em là cành - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Theo tiến sĩ Campell Morgan: “Chúa Giêsu nói dụ ngôn này vào một trong hai cảnh: một số người cho rằng: Đức Giêsu dẫn các môn đệ từ phòng tiệc ly ngang qua đền thờ. Cửa đền thờ trong tuần lễ Vượt Qua mở suốt đêm cho khách hành hương ra vào. Trên cong đền thờ, cây nho bằng vàng là quốc huy của Do thái sáng loáng dưới ánh trăng thanh của những đêm rằm trong mát. Cảnh tượng ấy vô cùng đẹp đẽ và thơ mộng. Một số khác cho rằng: Đức Giêsu dẫn các môn đệ ra khỏi thành xuống khe suối Kêdrôn. Ngồi giữa khung cảnh đó, họ nhìn thấy nho mọc khắp trong vùng, rồi Ngài nói: “Thầy là cây nho thật … anh em là cành”. Đồng thời họ cũng nhìn thấy rải rác trong thung lũng đêm tối những đám cháy đang thiêu rụi những cành nho bị cắt quẳng đi lúc ban ngày. Trong bối cảnh đó Đức Giêsu nói thêm: “Ai kết hợp với Thầy … thì người ấy sinh hoa kết quả dồi dào … Ai không kết hợp với Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho va sẽ khô héo. Người ta sẽ ném nó vào lửa cho cháy đi” (Parables and Metaphores of our Lord, No 62).
Khi Đức Giêsu nói: “Thầy là cây nho đích thực và Cha Thầy là người trồng nho”, Người muốn các môn đệ nhận ra Người là cây nho Chúa Cha đã đưa từ trời xuống trồng cho thế gian được sống nhờ kết hợp với Người. Khác với thứ cây nho là dân Do thái được bứng từ Ai cập về như Thánh vịnh 80 đã mô tả: Thứ nho có bóng rậm cả núi non, nhánh vươn tới biển khơi và chồi lan tới sông cả. Nhưng nó chỉ hào nhoáng bên ngoài như cây nho bằng vàng giả tạo đúc trên cổng đền thờ, nó vô tâm, vô hồn, được người ta ca tụng nó, nhưng nó không biết ca tụng Thiên Chúa, nên Ngài đa để cho kẻ qua lại dầy đạp nó, cho heo rừng và dã thú phá hủy nó.
Tiên tri Isaia, Giêrêmia và Êzêkiel cũng ám chỉ Do thái như vườn nho được Thiên Chúa tạo dựng để sinh hoa kết quả, nhưng nó đã thất bại, chỉ sinh những trái nho dại (Is. 5, 1-7; Ger. 2, 21-5,10; Ez. 15, 1-2 – 17, 3.4 - 19, 10-14).
Chúng ta hãy chiêm ngưỡng cây nho đích thực: Thân cành quấn quít lấy nhau, chi chít những chùm trái chín mọng, không còn thấy đâu là thân, đâu là cành. Chúng cài đan chặt lấy nhau như những nan thúng, nan rá, không đơn độc trơ trọi như cành xoài, cành mít, Chúa Giêsu dùng những hình ảnh cụ thể sống động đó để diễn tả mầu nhiệm kết hợp giữa Người với kẻ tin Người, phải lien kết chặt chẽ gắn bó với Người như hình với bóng, nhìn hình thấu bóng, nhìn bóng biết được hình. Nhìn ta, người ngoài thấy được Chúa, nhìn Chúa, họ thấy ta giống Người, nếu họ nhìn ta không thấy ta giống Chúa, mà chỉ thấy ta như thứ hình bằng vàng giả tạo, vô tâm vô hồn, thì ta sẽ bị ruồng bỏ cho dã thú phá hủy, hay như cành nho bị cắt chặt vất vào lửa đời đời.
Nếu họ nhìn ta mà họ thấy được Chúa như thánh Phaolô nói: “Tôi sống không còn là tôi sống, nhưng Chúa Kitô sống trong tôi”. Như thế, “anh em sinh hoa kết quả dồi dào và trở thành môn đệ của Thầy, thì đó là tôn vinh Cha của Thầy”.
Bài đọc một cho thấy Saolô khi chưa trở nên cành nho của Chúa, ông đã hung hăng bách hại đạo Chúa, đến nỗi khi ông mới trở lại “mọi người vẫn còn sợ vì họ vẫn còn nghi ngờ ông”.
Khi ông đã được nhập đoàn với các môn đệ, trở nên cành nho của Chúa “ông đã mạnh dạn rao giảng danh Chúa Giêsu …” dù cho người Do thái luôn luôn âm mưu giết hại ông. Ông đã là cành nho “sinh hoa kết quả dồi dào và Hội thánh được bình an, ngày càng vững mạnh, sống kính mến Chúa, và ngày một thêm đông nhờ ơn Thánh Thần nang đỡ”.
Họ càng đông, họ càng yêu thương nhau thật sự bằng việc làm, tuân giữ giới răn Chúa và làm mọi sự đẹp lòng Chúa.
Bài đọc hai, đó là những dấu chứng họ đích thực là cành nho của Chúa. “Họ ở trong Chúa và Chúa ở trong họ”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tuân giữ giới răn Chúa trong tình yêu thương nhau tận tâm tận lực và mạnh dạn rao giảng danh Chúa, để “Thầy là cây nho, chúng con là cành mới sinh hoa trái dồi dào”.
13. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Tin mừng hôm nay nhắc tới hình ảnh cây nho, một loài cây rất quen thuộc với người Do Thái. Một trong những nguyên lý phát triển của nó là cành phải gắn liền với cây. Cành gắn liền với cây thì mới có thể sinh hoa trái. Đức Giêsu muốn dùng hình ảnh này để nói lên sự hiệp thông giữa mỗi người chúng ta với Ngài và giữa mỗi người chúng ta với nhau.
1. Sự hiệp thông giữa mỗi người chúng ta với Đức Giêsu
Cành nho phải gắn kết với cây nho thì mới hút được nhựa sống, nhờ đó mới có thể sinh hoa trái. Cũng vậy, mỗi người kitô hữu chúng ta phải gắn kết với Đức Giêsu thì mới có thể sống và sinh hoa trái thiêng liêng. Ngài nói: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì.”(Ga 15,5). Còn khi cành nho không gắn kết với cây nho thì sẽ bị vứt ra ngoài, sẽ khô héo, bị quăng vào lửa và bị đốt đi. Đó cũng là thân phận của những kitô hữu không hiệp thông với Đức Giêsu. Ngài nói tiếp: “Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi.”(Ga 15,6). Cho nên, để có sự sống thiêng liêng, để sinh được nhiều hoa trái, chúng ta cần phải sống hiệp thông với với Đức Giêsu.
Nhưng chúng ta có thể sống hiệp thông với Đức Giêsu bằng cách nào?
Thứ nhất, chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu bằng đời sống cầu nguyện: Vì cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Cầu nguyện là sống, không cầu nguyện là chết;
Thứ hai, chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu bằng cách đọc, suy gẫm và sống Lời Chúa: Vì Lời Chúa là lẽ sống. Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi. Người ta sống không nguyên bởi bánh những còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra;
Thứ ba, chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu bằng cách siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Giao hòa và Bí tích Thánh Thể: Vì mỗi lần chúng ta sa ngã phạm tội trọng, chúng ta mất ơn nghĩa Chúa, mất sự sống siêu nhiên. Để lấy lại ơn nghĩa Chúa, để có sự sống siêu nhiên, chúng ta cần phải thống hối ăn năn tội và lãnh nhận Bí tích Giao hòa. Còn khi dọn mình sốt sắng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể chúng ta được sống hiệp thông mật thiết với Đức Giêsu;
Thứ tư, chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu khi chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thương yêu nhau và đặc biệt là tuân giữ các giới răn của Ngài. Trong bài đọc II, Thánh Gioan Tông đồ cho biết khi chúng ta làm như vậy là chúng ta sẽ ở trong Người và Người ở trong chúng ta. Ngài nói: “Chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Người là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho chúng ta. Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Do điều này mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta.”(1 Ga 3,23-24)
2. Sự hiệp thông giữa các kitô hữu với nhau
Khi chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu là Đầu thì chúng ta dễ dàng sống hiệp thông với các kitô hữu khác là những chi thể của Đầu. Nhưng làm thế nào để sống hiệp thông với nhau?
Thứ nhất, để sống hiệp thông với nhau, chúng ta cần phải bắt chước cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên: “không ai coi bất cứ cái gì có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung”(Cv 4,32). Không những họ lấy của cải vật chất làm của chung, mà họ còn cắt tỉa những suy nghĩ, những quan niệm hiệp hòi để chung một lòng một ý với nhau. Thánh Phaolô Tông đồ quả quyết: “Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”(Gl 3,28).
Thứ hai, để sống hiệp thông, chúng ta cũng được mời gọi tôn trọng, cộng tác và chia sẻ với nhau, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử như tâm tình của Thư Mục Vụ Năm Tân Phúc Âm hoá Giáo xứ 2015 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mời gọi: “Giáo xứ còn là cộng đoàn ‘luôn luôn hiệp thông với nhau’, giữa linh mục và giáo dân cũng như giữa giáo dân với nhau. Sự hiệp thông trong cộng đoàn được thể hiện qua sự tôn trọng, cộng tác và chia sẻ. Thật vậy, trên nền tảng bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá, cho nên phải tôn trọng lẫn nhau, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử.” (Số 4).
Thứ ba, để sống hiệp thông với nhau cần phải biết dẹp bỏ những chia rẽ, dẹp bỏ những hận thù, dẹp bở những loại trừ lẫn nhau từ trong gia đình đến các cộng đoàn lớn nhỏ, nhất là trong cộng đoàn Giáo xứ. Cần có sự hy sinh ý riêng vì việc chung. Cần có sự hy sinh của cải tiền bạc để xây dựng tình hiệp thông trong gia đình, trong cộng đoàn và nơi mọi môi trường sống.
Thứ tư, để sống hiệp thông với nhau cần phải có tinh thần tha thứ cho nhau. Thư thứ không chỉ một lần mà tha thứ mãi mãi. Vì thế, trước khi đến với thánh lễ, đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta cần phải đến với người anh em của chúng ta trước đã, nhất là những người đang có vấn đề với chúng ta. Chúa Giêsu đã đòi hỏi điều đó một cách hết sức quyết liệt khi Ngài nói rằng: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó, trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”(Mt 5,23).
Lạy Chúa Giêsu là cây nho đích thực, xin cho mỗi người chúng con luôn sống liên kết với Chúa qua đời sống cầu nguyện, sống Lời Chúa, tuân giữ các giới răn, lãnh nhận các Bí tích. Xin cho mỗi người chúng con biết sống hiệp thông với nhau để yêu thương và giúp nhau nên thánh. Amen.
14. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
Anh chị em thân mến.
Nước Việt Nam chúng ta đang trên đà phát triển, nên hệ thống giao thông cũng dần dần được nâng cấp. Nếu chúng ta nhìn thấy được tiến trình cho con đường được bằng phẵng tốt đẹp, chúng ta phải công nhận rằng,đó là một kỳ công. Con đường được hình thành từ những viên đá có nhiều góc cạnh khác nhau. Nhưng chúng phải biết nhường nhịn nhau, chúng được xoay trở cách nào đó, để có thể nằm sát bên nhau mà không có một trở ngại nào đáng kể.
Nếu có viên đá nào không muốn đồng số phận, mà lại muốn vươn lên trên để cho mọi người có thể nhìn thấy nó. Khi đó có thể viên đá đó sẽ tự hào vì mình khôn ngoan hơn cấc viên đá khác. Nhưng thực ra, đó là điều hết sức vô phúc cho nó. Viên đá đó sẽ bị nhận xuống bằng những đe, búa rất nặng cho đến đỗi thân hình nó không còn nguyên vẹn. Nếu nó cứng đầu hơn, không chịu chìm xuống, cũng không chịu bể ra, thì số phận của nó sẽ bị loại ra ngoài. Nó không được liên kết với các bạn để tạo nên một con đường tốt đẹp, phục vụ cho con người. Số phận nó từ đây không ai còn biết đến nữa, vì nó đã trở nên vô ích, nên nó phải sống trong sự cô đơn và buồn tẻ.
"Thầy là cây nho, chúng con là cành."
Cành cây luôn dính liền với thân cây mới có sự sống. Cành cây muốn đạt được kết quả tốt đẹp, thì phải được thân cây truyền cho nhựa sống dồi dào. Có những lúc cành cây còn phải chịu sự cắt tỉa,để bỏ đi những gì không cần thiết. Sự bỏ đi sẽ làm cho cành cây nhiều khi trở nên đau đớn. Nhưng đó là sụ đau đớn cần thiết. Khi cơn đau qua đi, cành cây sẽ mạnh mẽ hơn, cho những cành tươi tốt hơn, để có thể cho những hoa trái cần thiết hơn. Nếu những cành nào vượt cao quá mà dùng những tàn lá của mình, che lấp đi những cành khác, nó cũng bị cắt tỉa để cho thân cây được thoang mát và những cành khác cũng có cơ hội phát triển. Còn nếu cành nào tự lìa bỏ thân cây vì bất cứ lý do gì, thì số phận của nó chắc ai cũng biết. Nó không thể nào tự sống nỗi.
Các Môn Đệ là những cành nho thật sự, biết bám chặc vào thân, nên các ông đã sinh nhiều hoa trái tốt đẹp. Những hoa trái mà ngày nay chúng ta còn đang tiếp tục hưởng dùng.
"Thầy là cây nho, chúng con là cành."
Mỗi người trong chúng ta cũng là những cành nho gắng liền với gốc là Chúa Kitô. Chủ vườn luôn chăm sóc vườn nho của mình thật chu đáo. Ông đến cắt tỉa, săn sóc từng cành, sẳn sàng bỏ đi những gì làm nguy hại cho những cành nho yêu quí của mình. Ông muốn cho những canh mà ông chăm sóc được luôn tốt đẹp để nó đạt được kết quả khả quan hơn. Nên ông cũng thường tìm đến để xem sự chăm sóc của mình có kết quả gì không. Ông vui mừng biết bao khi trong tay có những chùm nho tươi đẹp. Trai lại ông cũng rất buồn khi tìm mãi mà chẵng thấy một kết quả nào, cho dù ông đã cố công chăm sóc. Nếu cành nào quá vô dụng đến thế, chắc ông sẽ không để nó đeo bám vào thân làm gì. Số phận nó sẽ bị tách rời khoi thân, tách rời khỏi những cành khác, nó không còn được ở gần những cành khác, mà phải chịu số phận cô đơn và khô héo đi trong sự buồn tẻ, để rồi không còn ai biết đến nó nữa.
Con người chúng ta trong cuộc sống, có những lúc mình gặp những buồn hiền cay đắng, những điều không may. Có thể đó là những lúc chủ vườn nho đang cắt tỉa đi những chồi phát triển không đúng chỗ. Có những lúc chúng ta được sung túc may mắn, làm ăn thuận lợi. Những lúc đó, chủ vườn cũng đến tìm kết quả nơi chúng ta. Nếu những cành nho chỉ biết phát triển những cành lá, làm tổn hao nhựa sống chung của gốc mà không có kết quả, trái lại những cành lá của nó càng ngày càng che lấp đi những cành khác. Nó cũng bị cắt tỉa đi. Đó là những lúc chúng ta tự phụ về những gì mình có được, để rồi không còn biết đến ai, nhưng trái lại còn đè bẹp kẻ khác. Khi đó chủ vườn sẽ làm công việc của mình đoi với những cành lá như thế. Vị chủ vườn sẽ vui mừng biết bao, khi thấy những cành nho mà mình đã chăm sóc có kết quả tốt đẹp. Cũng như những viên đá trên đường biết liên kết và nhường nhịn nhau, tạo nên con đường láng, phẳng, phục vụ cho con người.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết luôn sống kết hợp với Chúa và anh em, để có được sức sống dồi dào và đạt nhiều kết quả tốt đẹp trong đời sống hằng ngày.
15. Liên kết vơi Người
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Một thầy kiện mới mở được một văn phòng luật sư khang trang lịch sự. Bỗng nghe có tiếng chân người ngoài cửa bước vào, ông vờ như không thấy. Vội nhắc ống diện thoại lên, nói thật to trong ống nghe:
- Alô, văn phòng luật sư đây.
- Vâng, từ ngày tốt nghiệp đại học đến nay, tôi đã thắng nhiều vụ kiện lớn. Các công ty danh tiếng đều nhờ cậy tôi. Tôi được rất nhiều người tin tưởng. Tuy thu nhập cao nhưng tôi luôn dành 10% cho các công việc từ thiện.
Có tiếng gõ cửa, ông quay lại, thấy người đàn bà đang đứng chờ từ nãy, ông mới lịch sự thưa:
- Xin lỗi bà, tôi có khách quý đến.
Quay lưng lại, anh hỏi người vừa bước vao:
- Anh cần gì?
- Thưa luật sư, có phải hôm nay là ngày đầu tiên văn phòng của ngài bắt đầu làm việc?
- Đúng thế, anh cần tôi giúp vụ kiện nào?
- Dạ thưa không tôi là người của công ty điện thoại được cử đến để gắn đường dây điện thoại cho ngài!
***
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại mối liên hệ của chúng ta với Chúa. "Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sinh nhiều trái" (Ga. 15, 5). Đức Giêsu Phục sinh là cây nho, các tín hữu Kitô là cành. Cây và cành có chung một dòng nhựa, nên cùng một sự sống. Càng gắn bó với cây, cành càng sinh nhiều hoa trái. Nếu ngược lại cành sẽ héo tàn. Ví như đường dây điện thoại của ông luật sư, không có nối với tổng đài thì đâu có liên lạc đối thoại: không có liên lạc đối thoại thì đâu có khách hàng, lợi nhuận! Cành chỉ giả vờ gắn liền với cây, nên làm gì có sinh hoa trái.
Cành nào đã sinh trái, càng phải sinh trái nhiều hơn. Muốn sinh nhiều trái hơn, cành cần được cắt tỉa đớn đau. Có cắt tỉa vun xới, cành mới sinh hoa kết quả. Đức Giêsu trên cây thập giá, như một thân nho trơ trụi. Đó là luc phát sinh hoa trái nhiều hơn cả. Từ cạnh sườn Người bị đâm thấu, Giáo hội đã được sinh ra, và đơm bông kết trái dồi dào.
Mỗi người tín hữu Kitô cũng phải được cắt tỉa, vun xới bằng hy sinh đau khổ hằng ngày, mới trổ sinh hoa trái dồi dào. Niềm vui và đau khổ không nhất thiết phải khử trừ nhau. Đôi khi nó réo gọi nhau, trong những cuộc đàm thoại huyền nhiệm. Vì thế hy sinh không là bóp nghẹt cuộc đời, nhưng làm cho đời thêm triển nở tốt tươi.
Điều quan trọng là "Hãy ở lại trong Thầy" vì "Nếu không có Thầy các con không thể làm gì được" (Ga. 1, 5). Ở lại trong Thầy và liên kết với Thầy qua đường dây "Cầu nguyện và bí tích". Tất cả sức sống của Đức Giêsu được chuyển thông từ đó, khả năng kết trái cũng phát sinh từ đó. Đức Giêsu dạy: "Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin sẽ được" (Ga. 15, 7).
Nếu Đức Kitô là Cây Nho đích thực, và Người Trồng Nho là chính Thiên Chúa thì chúng ta hãy là những cành nho căng nhựa sống, để dâng hiến cho đời những hoa trái tốt tươi.
***
Lạy Chúa, Chúa muốn cắt tỉa chúng con khỏi những rườm rà, để cây đời chúng con trổ sinh nhiều hoa trái. Xin cho chúng con can đảm, dám sống theo những đòi hỏi cắt tỉa của Chúa. Amen.
16. Ở lại trong Thầy
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
‘Hãy ở lại trong Thầy!’
Chúng ta không rõ đây có phải là một giới răn, một lệnh truyền, một lời khuyên nhủ hay thổ lộ tâm tình của Đức Giê-su với các môn đệ Người…? Cũng có thể là tất cả các điều đó cùng một lúc tùy theo góc độ nhận định; tuy nhiên tầm quan trọng tột cùng của lời gửi gấm này lại là điều không thể chối cãi. ‘Ở lại trong Thầy… Ở lại trong tình thương của Thầy (câu 9)’ là nền móng của chính tòa nhà thiêng liêng ‘mến Chúa – yêu người’ mà mọi Ki-tô hữu đang cố công xây dưng.
Ngũ Kinh của Cựu Ước ghi chép nhiều giới răn mà Mô-sê nhân danh Đức Chúa Gia-vê ban hành; chúng thật sự là những lệnh truyền; thậm chí được lặp đi lặp lại cách khá lôn xộn để buộc phải ghi nhớ. Khi trả lời vấn nạn do nhóm Pha-ri-sêu đặt ra: ‘trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?’, Đức Giê-su đã tóm gọn tất cả trong câu giải đáp: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn”, men Chúa hết lòng và yêu người thân cận như chính mình (Mt 22:34-40). Cái thiếu trầm trọng trong lời giải đáp này (cũng như toàn bộ các luật lệ của Cựu Ước) là chưa cho thấy được một nền tảng, một động lực nào để giữ đươc các giới răn hay lệnh truyền đó. Phao-lô, đặc biệt trong thư gửi giáo đoàn Rô-ma, đã cho mọi người thấy cái giới hạn căn bản của các giới răn hay các lệnh truyền kiểu này chỉ là một áp đặt từ bên ngoài mang tính no lệ (xem đặc biệt chương 2).
‘Hãy ở lại trong Thầy… trong tình thương của Thầy’ chính là cái nền tảng, cái động lực rất cần thiết đó, mà mãi tới giờ Đức Giê-su, trong tâm tình chí thiết với các môn đệ, mới bộc lộ cho thấy. Và để các môn đệ dễ dàng nắm bắt được điều rất căn bản và tối hệ trọng này, Người đã sử dụng một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân vùng Địa Trung Hải: “Thầy là cây nho, anh em là cành… Cành nào gắn liền với cay mới sinh hoa trái”. Đúng thế, làm sao một người có thể ‘yêu mến Thiên Chúa’ nếu không trước hết ngụp lặn trong tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho mình? Thiên Chúa là tình yêu, cho nên mọi thứ tình yêu đều phải do Ngài khởi xướng và chủ động. Con người không thể tự mình chủ động được tình yêu đối với Thiên Chúa, mà chỉ có thể đáp trả tình yêu mình nhận được. Ngay trong Cựu Ước, Gia-vê đã là Đấng chủ động biểu lộ lòng thương xót đối với dân riêng; biết bao lần Ngài đã giải thoát họ, dẫn dắt và chăm sóc họ…; và để có thể duy trì lòng trung thành với Ngài, hàng năm họ phải long trọng cử hành các biến cố đó (Lễ Vượt Qua là một điển hình). Trong Tan Ước, Thiên Chúa nơi Người Con chí ái là Đức Giê-su Ki-tô, nhất là qua cái chết tự hiến thập giá của Người Con đó, đã không những chủ động mà còn cụ thể hóa tình yêu Ngài dành cho con người tội lỗi thấp hèn. Do đó Thập Giá, xét như một biểu hiện tình yêu, cần phải được thường xuyên tưởng niệm và cử hành; “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22:19). Chính trong ánh sáng này mà ta nhận ra ý nghĩa phong phú của biến cố Phục Sinh; Chúa Ki-tô sống lại tiên vàn là để tình yêu cứu độ của Người kéo dài cách hữu hiệu cho tới muôn đời, Người tiên vàn sẽ ‘ở lại cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế’ (Mt 28:20). Như thế chỉ đôi khi cử hành tương nhớ thôi chắc chắn là chưa đủ. ‘Ở lại trong Thầy… Ở lại trong tình thương của Thầy’ không ngơi nghỉ và ngày càng thâm sâu hơn, đó mới đích thực là mục tiêu của toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, “Hãy ở lại trong Thầy như Thay ở lại trong anh em!” Tùy thuộc và tỷ lệ thuận với việc ‘ở lại’ này mà người Ki-tô hữu mới dần học biết phải yêu mến Thiên Chúa như thế nào cho phải lẽ, đồng thời phải yêu mến tha nhân ra làm sao, “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (câu 12). Trong lãnh vực đặc biệt này, ta thấy câu khảng định của Thầy Giê-su: “không có Thầy, anh em chẳng làm được gì!” mới lộ ra tất cả sự khẩn trương của Tin Mừng.
Thế đó, cũng như biết bao tu sĩ và Ki-tô hữu khác, thường thì tôi đã cố công, đã nỗ lực rất nhiều để xây dựng cho mình có được một tình mến lớn hơn đối với Thiên Chúa và tha nhân. Thế nhưng kinh nghiệm cho thấy, sau nhiều năm tháng, ket quả cụ thể vẫn chẳng đi đến đâu. Cái mà tôi còn thiếu, chính là đã rất ít cất công hoặc dành thời giờ đề chiêm ngắm Thánh Giá, để đi sâu vào, và để ở lại trong tình yêu mà Thiên Chúa đã đối xử với tôi. Cứ thử xem lại các lần đi xưng tội, đã mấy khi tôi dành thời giờ sau lúc xét mình hoặc xưng tội để say sưa chiêm ngắm tình yêu thứ tha vĩ đại của Thiên Chúa cứu độ, thay vì chỉ chu chu chắm chắm quyết tâm sửa mình để có thể đạt được tiến bộ trong lý tưởng mến Chúa yêu người? Cũng vậy, đối tượng nguyện gẫm của tôi có thể bao gồm đủ thứ cao đẹp trên trời dưới đất, nhưng chiêm ngắm tình yêu Chúa, và ở lại trong tình yêu đó, quả thực còn quá hiem khi. Cụ thể tôi có thực sự thâm tín rằng, ‘ở lại trong tình thương của Thầy’ là thiết yếu (a must) đối với đời Ki-tô hữu hoặc tu sĩ (linh mục) của tôi chưa?
Lạy Chúa, tâm tình của Chúa tha thiết biết bao khi kêu gọi các môn đệ: “Hãy ở lại trong Thầy…, ở lại trong tình thương của Thầy”. Qua những lời này, Chúa mách nước cho con để dành được chiến thắng trong ván cờ xây dựng tình yêu. Xin nhắc con đừng bao giờ quên nước đi kỳ diệu này, nhat là những khi nhận thấy mình tội lỗi, tức là khi tình mến Chúa và yêu người nơi con thấp kém nhất. Xin cho con biết cử hành Thánh Lễ với tâm tình chiêm ngưỡng sâu xa hơn, và tích cực kéo dài trong cuộc sống hơn. Amen.
17. Sống liên đới
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II, nói đến tổ chức cơ cấu của Hội Thánh, người ta thường nghĩ đến hình ảnh một kim tự tháp: ở chóp đỉnh là Đức Giáo hoàng, dưới la các hồng y, giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, và cái đáy dưới cùng là giáo dân. Hình ảnh này đưa đến một quan niệm không đúng về nhiệm vụ của mỗi thành phần, nhất là giáo dân, bị coi là thấp kém, chỉ biết ngoan ngoan vâng lời cấp trên.
Nhưng từ Công Đồng Va-ti-ca-nô II, hình ảnh trên đã được thay thế bằng hình ảnh có một tâm điểm là Đức Giêsu, từ tâm điểm này có nhiều vòng tròn đồng tâm: một vòng là các giáo sĩ, gồm các giám muc có Đức Giáo hoàng đứng đầu, và các cộng sự viên là linh mục và phó tế; vòng khác là các tu sĩ; và vòng rộng lớn hơn là giáo dân. Hình ảnh này cho thấy mọi thành phần đều liên đới với nhau và tất cả đều qui hướng về trọng tâm là Đức Giêsu.
Một hình ảnh khác sâu sắc hơn, thánh Phaolô đã nói tới và nay được chú ý, đó là hình ảnh một thân thể, có Đức Giêsu là đầu, mọi người Kitô hữu, dù là giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ...đều là cac chi thể của thân thể. Mỗi chi thể có nhiệm vụ riêng, không ai thay thế được. Hình ảnh này diễn tả rõ hơn và đúng hơn mối hiệp thông giữa các thành phần với nhau và với Đức Giêsu; và cũng cho thấy rằng tất cả đều cung có trách nhiệm thi hành sứ vụ mà Đức Giêsu trao phó để xây dựng sự hiệp thông trong Hội Thánh.
Nhưng tất cả những điều trên đây đã được chính Đức Giêsu đề cập tới trong Tin Mừng hôm nay. Đó là hình ảnh cây nho. Đối với dân Do thái, vườn nho và cây nho là một hình ảnh rất lâu đời, rất quen thuộc, được dùng để tượng trưng cho dân tộc, một dân riêng được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc đặc biệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuoc này để áp dụng vào Ngài và chúng ta: Ngài là cây nho, chúng ta là cành. Sự liên kết và hỗ tương giữa thân cây với cành, và giữa các cành với nhau, đó là hình ảnh sự liên kết và hỗ tương giữa Chúa Giêsu với chúng ta, và giữa chúng ta với nhau.
Một điều hiển nhiên và rõ ràng là cành cây phải hoàn toàn cần tới thân cây mới sống được. Nếu cắt lìa thân nho, thì cành sẽ khô héo và chết. Đó là hình ảnh cho chúng ta biết: mỗi người chúng ta cần phải liên kết với Chúa Giêsu, thì chúng ta mới sống và sống mạnh được. Chúng ta cần tới Chúa để đạt ơn cứu rỗi, nghĩa là chúng ta không thể thành toàn, tự giải thoát, thần hóa con người của mình, nếu không sống trong Chúa, nhờ Chúa và với Chúa. Điều này phải hiểu một cách tuyệt đối. Cũng giống như bóng đèn điện: có bao giờ một bóng đèn bị cắt đứt với dòng điện hay bị cúp điện mà còn sáng không? Hay một nhánh sông cắt đứt với con sông cả mà còn nước không? Hay một cành cây cắt đứt lìa thân cây mà còn sống không? Có lẽ nó có thể sống một vài ngày tạm bợ rồi sẽ chết khô.
Cũng thế, một khi chúng ta xa lìa Chúa, tâm hồn chúng ta cũng sẽ chết khô. Bên ngoài chúng ta có thể là thành công trên phạm vi danh vọng, tiền tài, được ca tụng, kính nể... nhưng trước mặt Chúa, chúng ta là kẻ chết và chết khô. Vậy chúng ta có thể kết hợp với Chúa Giêsu cách nào? Bằng những phương thế rất quen thuộc và cụ thể là cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích thánh Thể, bí tích quan trọng và hiệu năng nhất, để chúng ta thường xuyên duy trì mối tương quan huyết mạch với Chúa Giêsu.
Đó là phía giữa Chúa với chúng ta, tức là giữa thân nho và cành nho. Còn giữa chúng ta với nhau, tức là giữa các cành nho thì sao? Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hiệp với nhau trên con đường cứu rỗi. Ở đời này, không ai chủ trương "mỗi người là một hòn đảo" mà sống tốt được. Cũng như một thân cây nho chuyển thông sức sống, nhựa sống cho các cành, thì Chúa Giêsu cũng làm như thế. Cành nho nào không tiep nhận nhựa sống thì sẽ cằn cỗi, khô héo và rụng gẫy đi. Nhựa sống trong thân cây nho hằng lưu chuyển, không cành nào được giữ riêng lại cho mình mà ngăn cản nhựa sống truyền sang cho những cành khác.
Chúng ta sống với nhau trong một cộng đoàn, một gia đình, cũng được ví như thế, được so sánh như một cây nho. Chúng ta tiếp nhận được sự sống của Chúa, chúng ta phải chuyển thông cho nhau để tất cả chúng ta cùng sống và sống tốt đẹp. Thế ma trong cuộc sống rất có thể chúng ta sống mà không quan tâm đến mối tương quan giữa mình với anh em. Vì không để ý "mình vì mọi người và mọi người vì mình", nên chúng ta đã sống "mình vì mình và mọi người vì mình". Như thế la ích kỷ. Chúng ta cứ thử nhìn chung quanh chúng ta xem, thật đáng buồn: người ích kỷ nhiều hơn người vị tha. Ai cũng thấy "cái tôi" của mình là lớn hơn cả và coi người khác không ra gì. Là con cái Chúa, chúng ta không được song như thế. Chúng ta cần có nhau, hãy nâng đỡ nhau, hãy thông cảm nhau. Đó chính là đạo bác ái của chúng ta vậy.
18. Ai đổi đời ai – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh trên đường đi Damas đã đổi đời Phaolô. Từ một người nhiệt thành với truyền thống tổ tiên, làm Phaolô hăm hở đi bắt các Kitô hữu về “trị tội”, trở thành một tông đồ hăng say làm chứng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh làm Phaolô và các Kitô hữu trở thành những con người khác, như dấu chỉ Thiên Chúa đang hiện diện và yêu thương con người.
I. Phaolô làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh
Trước khi ngã ngựa trên đường Damas, Phaolô là một người rất đặc biệt. Ngài là một biệt phái, nghĩa là, một người rất nhiệt thành với lề luật Do Thái, và sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ lề luật. Phaolô đã từng là người giữ áo cho những người ném đá thánh Têphanô. Phaolô đã được phép của các người cầm quyền để đi lùng bắt các Kitô hữu Do Thái đem về Yêrusalem để trị tội. “Có lúc, những người bắt bớ các con, cứ tưởng rằng đó là việc tôn thờ Thiên Chúa” (Ga.16, 2). Nhưng với biến co Damas, Phaolô đã trở thành con người khác.
Trước khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, với Phaolô, Do Thái giáo là tôn giáo duy nhất đúng. Tất cả những gì trái với quan niệm truyền thống cha ông để lại, là sai lầm và phải loai bỏ. Những ai cố tình đi theo một niềm tin khác, phải bị trừng phạt. Đó là lý do tại sao Phaolô đi lùng bắt Kitô hữu ở Damas. Sau biến cố Damas, Phaolô đã thay đổi cái nhìn và thay đổi lập trường sống. Do Thái giáo vẫn đung đó, nhưng “cái khác” vẫn có thể là sự thật. Đức Giêsu Phục Sinh là một thực tại mà Phaolô đã được gặp gỡ, cảm nghiệm, và rồi trở thành chứng nhân cho Ngài. Phaolô được ơn mở mắt để nhìn ra thực tại Đức Giêsu Phục Sinh; qua biến cố ngã ngựa, ông không thể phủ nhận được điều trước đó ông đã một mực chối từ, ông đã nhận ra sự thật, và kể từ đó Phaolô đã rao giảng cho dù bị ghét và bị tìm giết.
Đức Giêsu Phục Sinh đã đổi đời Phaolô. Từ một người không tin vào Đức Giêsu, Phaolô trở thành chứng nhân nhiệt thành của Đức Giêsu Phục Sinh. Từ một người lùng bắt người khác, giờ đây lại là kẻ bị lùng bắt. Biến cố gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh trên đường đi Damas đã làm Phaolô thành một người hoàn toàn khác, đến độ ngài nói: “kể từ khi tôi biết Đức Giêsu Phục Sinh, tôi coi mọi sự như phân bón. Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa tôi” (Pl.3, 8-9). Phaolô đã được Thiên Chúa biến đổi qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh.
II. Đời sống của một người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh
Trong thư thứ nhất của thánh Gioan, Kitô hữu được nhắn nhủ: “chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm”. Đức tin phải chi phối cách sống của Kitô hữu. Đức tin không có việc làm la đức tin chết. Đức tin của Kitô hữu không chỉ là chấp nhận một mệnh đề là đúng, nhưng còn là cái biết chi phối toàn bộ đời sống của họ. Chính việc làm của Kitô hữu giúp cho người khác thấy đức tin của họ.
Lời Chúa trong thư của thánh Gioan hôm nay còn cho Kitô hữu hiểu hơn nữa về Thiên Chúa và về con người. Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, thì chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa; nhưng nếu lòng chúng ta cáo tội chúng ta, thì chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết mọi sự. Thiên Chúa nhân từ và yêu thương chúng ta hơn chúng ta có thể tưởng được. “Như trời cao hơn đất bao nhiêu, tư tưởng của Ta cũng vượt xa tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”. Đừng bao giờ ép Thiên Chúa phải phạt người khác theo phán đoán của mình. Thiên Chúa không phạt ai cả, Ngài chỉ biết yêu thôi. Đau khổ là do con người làm cho nhau hoặc tự chuốc lấy cho mình mà thôi.
Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời mà con người không thể hiểu thấu. Ngài nhân từ yêu thương con người hơn con người có thể nghĩ có thể ngờ. Ngài yêu thương con người ngay khi con người còn là tội nhân, xấu xa hư hỏng. Không ai có thể ngờ Ngài đã cho Đức Giêsu phục sinh. Không ai dám ngờ rằng Thiên Chúa có thể chấp nhận để con người giết Con Ngài. Không ai dám ngờ rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương con người đến độ Lời của Ngài nhap thể làm người, ngay cả khi con người đang phản bội và xa lánh Ngài. Thiên Chúa nhập thể là điều vượt sức hiểu của con người, và vượt ngay cả sức hiểu biết của thiên thần. Thiên Chúa là Đấng vượt quá lòng chúng ta co thể ngờ, và bây giờ Ngài vẫn đang tiếp tục làm những điều kỳ diệu và tuyệt vời cho mỗi người chúng ta, trong đời mỗi người chúng ta.
III. Thầy là cây nho các con là nhành
Tương quan giữa Thiên Chúa, Đức Giêsu, và chúng ta, được Tin Mừng theo thánh Gioan diễn tả như tương quan giữa người trồng nho, cây nho và nhành nho. Đức Giêsu là cây nho, chúng ta là nhành. Một nhành chỉ sống được và sinh hoa trái nếu nhành đó liên kết với thân cây, đe lấy nhựa sống từ cây. Giữa chúng ta và Đức Giêsu, có một mối dây rất gần gũi và mật thiết, như nhành và cây. Nhành nào tách khỏi cây, sẽ khô héo và chết. Tương tự vậy, chúng ta sẽ khô héo và chết nếu chúng ta không liên kết với Đức Giêsu. Đức Giêsu là sức sống của mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa như người chủ vườn nho. Ngài chăm sóc cây nho và nhành nho. Ngài muốn cây nho nhành nho sinh nhiều hoa trái. Ngài chăm bón cắt tỉa, để nhành nho sinh trái nhiều hơn. Hình ảnh Thiên Chúa như người chủ vườn rất quen thuộc đối với Đức Giêsu. Người chủ vườn trông nom, chăm bón vun trồng để cây nho nhành nho sinh trái. Thiên Chúa chăm sóc mỗi người chúng ta như vậy. Nếu Ngài có cắt tỉa, là để chúng ta sinh nhiều hoa trái hơn.
Tương quan giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa như tương quan giữa cây nho và ông chủ vườn. Cây nho luôn tùy thuộc chủ vườn. Người chủ vườn luôn quan tâm và chăm bón để cây nho có nhựa sống cung cấp cho nhành cây, để sinh nhiều hoa trái. Đây là hình ảnh, nó chỉ diễn tả phần nào sự thật. Thiên Chúa luôn có sáng kiến tuyệt vời, để làm những điều kỳ diệu, và ngay cả có thể lam cho những cành nho như thể khô đét có được sức sống và sinh trái. Thiên Chúa là người chủ vườn tuyệt vời. Thiên Chúa làm chúng ta có sức sống và sinh trái qua Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đức Giêsu là ai đối với Phaolô?
2. Sau khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, đời sống Phaolô có gì khác?
3. Bạn nghĩ sao khi đọc câu: “Thầy là cây nho, các con là nhành”? Bạn có cảm được sự thân mật và gần gũi giữa Đức Giêsu và bạn không? Nếu được, xin bạn diễn tả.
19. Bình an trong Giáo hội
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
Trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội thánh được bình an (Cv 9,31)
Năm 2001, Hồng y Walter Kasper và Hồng y Joseph Ratzinger có một cuộc tranh luận sôi nổi nhưng thân tình về bản chất của Giáo hội. Cuộc tranh luận thần học này đã được đăng tải rộng rãi trên các tạp chí. Hồng y Ratzinger biện luận về tính ưu việt của Giáo hội hoàn vu so với các giáo hội địa phương. Ngài lập luận, ngay từ ban đầu, chúng ta đã thấy rất rõ điều ấy. Hồng y Kasper thì lại thách thức với những lập luận khác. Ngài cho rằng tư tưởng này khá giống với thuyết duy tưởng của Platon. Theo Ngài, Giáo hội hiện hữu như một thực thể thiêng liêng nhưng Giáo hội chỉ thực sự trở nên hữu hình trong thế giới hôm nay qua những cộng đoàn địa phương cách cụ thể. Hồng y Kasper lý luận rằng các cộng đoàn giáo hội địa phương chính là nền tảng cho sự hiện hữu của giáo hội toàn cầu. Cuộc tranh luận này không chỉ nói về giáo hội sơ khai, nhưng liên quan đến vấn nạn nêu ra là: Quyền bính giáo hội hiện tại nằm ở đâu, đến từ nơi nao và quyền bính đó được thực thi ra sao.
Những trích dẫn từ Thánh Kinh nghiêng về lập luận của hồng y Kasper nhiều hơn, ít nhất qua việc sử dụng các từ ngữ. Thánh Luca trong sách Tông đồ Công vụ, đã dùng hạn từ “giáo hội” , và trong những lần đó, có 18 lần Ngài ám chỉ về giáo hội địa phương. Nhưng chỉ có một trường hợp duy nhất, Luca nói về giáo hội với tính phổ quát, đó là trong bài đoc phụng vụ hôm nay: “Trong khắp mọi nơi, từ Giuđêa, Galilê và Samaria, hội thánh được bình an.”
Khi tôi nhìn vào giáo hội toàn cầu hiện nay, tôi không thấy có sự bình an mà mọi người đều mong ước. Ngay cả tại giáo hội địa phương nơi tôi sinh sống cũng vậy. Giáo phận tỏ vẻ hơi khó chịu với cộng đoàn địa phương tại đại học này, vì đa phần thuộc giới trí thức. Làm cách nào chúng ta có thể trở về với ý nghĩa sâu xa của sự bình an thời giáo hội sơ khai. Nói thẳng ra, chúng tôi ở đây không thể kien tạo sự an bình thật sự, ít nhất về một vài phương diện nào đó. Nếu chúng ta đọc lại các thơ của thánh Phaolô, chúng ta cũng thấy vấn đề giống như thế. Ngài rất nhiều lần bình phẩm về giáo hội tại các địa phương và ngay cả khi nói về giáo hội phổ quát, Ngài cũng đã phàn nàn giống như thế. Ví dụ, Phaolô đã phê phán Phêrô như một kẻ giả hình ở Antiokia (Gal 2,11.14). Ngài khiển trách các Kitô hữu ở Galát không nhìn nhận vai trò của Ngai trong việc loan báo Tin mừng (Gal 1,8). Ngài trách cứ cộng đoàn Côrinthô vì tình trạng lộn xộn và chia rẽ (1 Cor 11,17;12,31.) Thánh Phaolô nói thẳng là có một vài đồng nghiệp rao giảng Tin mừng với những động cơ xấu xa như ganh tị hay tranh chấp (Phil 1,15). Ngài nài xin các tín hữu phải sống huynh đệ, một lòng một trí, đừng vì ganh tị hay ghen ghét hoặc tìm hư danh.( Phil 2,1.5). Cuối cùng, Ngài cũng nhắc nhở đùng ai coi thường Ngài, coi Ngài như thua kém các vị tông đồ khác (2 Cr 12,11). Những vấn đề Phaolô nêu ra, có những nét tương đồng như giáo hội hiện nay, theo như tôi được biết.
Thánh Luca trình bày một Giáo hội lý tưởng hơn là một Giáo hội với những lộn xộn và bất an mà chúng ta dễ thấy. Tuy nhiên, không phải vì thế mà Luca cảm thấy toại nguyện hoàn toàn. Ở đây, Luca chỉ muốn vạch hướng về lý tưởng mà giáo hội phải vươn tới. Ngài nói rằng, chúng ta vẫn có thể trải nghiem bình an thực sự ngay cả khi chúng ta bị bách hại từ bên ngoài và gặp cả những sóng gió từ bên trong. Thật thú vị, khi chúng ta khám phá ra rằng đoạn văn trích từ sách Tông đồ công vụ mà Giáo hội đọc trong phụng vụ hom nay diễn tả cuộc gặp gỡ giữa thánh Phaolô và những người Do thái có uy tín theo văn hóa Hy lạp tại Giêrusalem. Họ là đại biểu của giới lãnh đạo Giáo hội lúc bấy giờ, giáo hội địa phương ở Giêrusalem và cả Giáo hội toàn cầu nói chung (Cv 9,29 ). Kinh qua những cuộc bắt bớ và sát hại, họ tỏ ra rất dè dặt và thận trọng khi nói chuyện với Phaolô. Barnaba bảo đảm cho họ rằng Phaolô là người thuộc bọn họ chứ không phải kẻ thù. Ngài benh vực Phaolô, và chúng ta thấy Phaolô dần dần đi lại dễ dàng giữa họ.Chính xác hơn, như sách Tông đồ công vụ thuật lại, Ngài đi ra đi vào cùng với họ. Đây là dấu chỉ của sự tương giao bằng hữu. Mối thân tình này có đươc nơi chúng ta, là phát nguyên sâu xa trong Đức Kitô. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói Ngài là cây nho, các môn đệ là cành nho. Ngài nhắc nhở rằng nếu tách lìa khỏi Ngài,chúng ta sẽ bị khô héo và sẽ chết. Ngươc lại, cùng với Ngài và qua Ngài, chúng ta sẽ triển nở và trổ sinh hoa trái.
Nếu chúng ta muốn Giáo hội được bình an, chúng ta phải cảm tạ Chúa, cũng như phải biết ơn các vị lãnh đạo trong Giáo hội. Các Ngài được trao pho trách nhiệm một cách hợp pháp và cũng là những người được Chúa đặt lên để nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cần những tín hữu biết quan tâm lo lắng cho anh chị em mình, như là những bề trên được Chúa cắt đặt, sẵn sàng đối đau với những thách đố, giống như Thánh Phaolô. Chúng ta cũng cần những con người như Barnaba là những vị lãnh đạo trung tín, biết cách khôn khéo để liên kết anh chị em lại với nhau. Nhưng trên hết, chúng ta cần phải nhận thưc rằng mọi người chúng ta đều đang sống cuộc sống thực sự trong Đức Kitô, như cành nho dính kết vào cây nho.
Công đồng Vat II đã dạy rằng “Chúng ta là một Giáo hội duy nhất gồm các Giáo hội địa phương. Tính đơn nhất và tính đa dạng đều góp phần diễn tả đời sống của chúng ta trong Thần khí. Thực hiện cả hai chiều kích này: tính phổ quát toàn cầu và tính cá biệt của các cộng đoàn địa phương, Hội thánh sẽ vươn đạt đến sự bình an thực sự.
20. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
Nếu như có người hỏi rằng: "Với sự cố gắng của riêng bản thân mình, chúng ta có thể sống đẹp lòng Chúa được không?", thì anh chị em sẽ trả lời như thế nào? Có lẽ hầu hết chúng ta đều có thể trả lời ngay được rằng: "Không". Tại sao? Thưa bởi vì chính Đức Giêsu đã quả quyết rằng: "Không có Thầy, chúng con không thể làm gì được.".
Nghĩa là nếu không có ơn Chúa tác động, nếu không có ơn Chúa trợ giúp, thì chúng ta khong thể sống đẹp lòng Chúa được. Nói khác đi là chúng ta có sống đạo tốt hay không, và tốt đến mức độ nào là hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ gắn bó với Đức Kitô. Cho nên trong bài phúc âm ngày hôm nay, Đức Giêsu đa dùng một hình ảnh rất quen thuộc với người Do Thái để nói lên một chân lý quan trọng trong đời sống người Kitô hữu, đó là sự cần thiết phải gắn bó với Chúa Kitô "Thầy là cây nho, chúng con là cành nho, cành nào kết hợp cùng cây, sẽ trổ sinh hoa trái". Cũng như cành nho muốn được sống, muốn đơm hoa kết trái, nó cần phải bám chặt vào thân nho như thế nào, thì đời sống người kitô như thế.
Mặc dù hình ảnh cây nho và cành nho nó không quen thuộc với chúng ta ở đây, nhưng chúng ta có thể dễ dàng hiểu được điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây: Cành cây mà không gắn được với thân cây thì nó sẽ khô héo và chết đi, dù đó là bất cứ cây gì đi nữa. Điều quan trọng mà chúng ta sẽ tìm hiểu ở đây không phải là quá trình sinh trưởng của cây nho, mà là suy nghĩ xem có những cách nào để giúp ta sống gắn bó với Đức Giêsu.
Bởi vì qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được coi là nhưng cành nho của Chúa, mà bổn phận của cành nho là phải cho những trái thơm tho ngọt ngào. Còn ngược lại không thực hiện được bổn phận đó, thì số phận của nó cũng đã được nêu rõ trong bài phúc âm này qua những lời tuyên bố của Đức Giêsu: "Nhành nào không sinh trái thì sẽ bị chặt đi, nó sẽ ra khô héo và người ta sẽ gom nó lại mà đốt đi". Như Thánh Phaolô đã xác quyết rằng: "Nếu Đức Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta sẽ nen trống rỗng", thì hôm nay Giáo Hội cũng khẳng định với chúng ta rằng: Nếu anh chị em là những Kitô hữu, là những cành nho của thân nho Đức Kitô, mà không biết sống gắn bó với Người, thì tất cả những gì chúng ta đang theo đuổi trong đời sống đạo ngày hôm nay, những gì chúng ta hy vọng và tin tưởng ở cuộc sống đời sau sẽ không có nền tảng và cũng chẳng có gì là bảo đảm.
Bởi vì Đức Kitô là Đấng trung gian duy nhất của ơn cứu độ khi Người phán rằng: " Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến đựơc với Cha mà không qua Thầy".
Thưa anh chị em! Nếu như trong đời sống đạo của mình, việc gắn bó với Chúa vẫn còn là một điều mới mẽ, xa lạ, thì ngay từ ngày hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện điều đó đi. Chúng ta có thể sống gắn bó với Chúa bằng tấm lòng yêu mến của chúng ta đối với Người. Kinh nghiệm cho thấy rằng: Khi yêu ai, người ta luôn nghĩ tới người đó, muốn được ở gần người đó và nhất là luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người mình yêu.
Nơi bài đọc II, Thánh Gioan đã khéo léo chỉ cho chúng ta cách thể hiện tình yêu đẹp đẽ, đúng đắn khi Ngài nói rằng: "Chúng ta đừng yêu thương bằng lời nói, nhưng hãy yêu thương bằng chính việc làm chân thật của mình". Mà việc làm ở đây chính là tuân giữ các giới răn của Chúa. Ai tuân giữ giới răn của Chúa là ở lại trong Thiên Chúa. Khi nói tới giới răn, nói tới lề luật, thì dường như chúng ta có cảm giác khó chịu, lắc đầu ngao ngán, bởi vì chúng ta thường coi đó như là một gánh nặng, một thứ dây vô hình trói buột sự tự do của mình.
Thế nhưng nhìn cho kỹ, chúng ta sẽ phải cám ơn Chúa vì lề luật đó là một thứ rào chắn cần thiết che chở chúng ta khỏi phải rơi xuống vực thẳm. Bao lâu chúng ta còn tuân giữ lề luật của Chúa là bấy lâu chúng ta vẫn còn đang đi trên đường dẫn tới hạnh phúc. Còn đi trên đường này là chúng ta còn đi với Chúa, mà còn đi với Chúa là chúng ta còn đang gắn bó với Người. Ngoài ra, chúng ta có thể hiện sự gắn bó với Chúa qua việc sống gắn bó với anh chị em sống xung quanh mình. Tôi là một cành nho, anh chị em tôi, những người đang sống chung quanh tôi, cũng là những cành nho khác như tôi. Tất cả mọi cành nho đều sống nhờ vào nguồn dinh dưỡng của một cây mà thôi. Cho nên giữa những cành nho vơi nhau cũng có những liên hệ đặc biệt khác nữa. Một cành nào đó bất ngờ bị chặt đi, thì không chỉ riêng một mình nó đớn đau mà là toàn bộ cây nho cũng đau đớn như thế.
La Fontaine đã viết một câu chuyện ngụ ngôn như thế này: "Một ngày nọ, tất cả các chi thể trong thân mình quyết tâm đình công, không chịu làm việc để phản đối cái miệng, vì nhận thấy rằng: cái miệng từ đó tới giờ chỉ có ăn mà không chịu làm gì cả. Trước sự phản đối nay, cái miệng quyết định là từ nay sẽ không ăn nữa. Kết quả là chỉ sau một ngày mà thôi, tất cả các chi thể khác đều mệt mỏi rã rời và không còn đủ khả năng để trở lại với công việc của mình nữa".
Trong cuộc sống đời thường, đã muốn hay không muốn chúng ta cũng phải dựa vào người khác để có cái ăn cái mặc để chúng ta có thể sống và tồn tại. Thì trong đời sống đạo, đời sống siêu nhiên cũng vậy, chúng ta không phải là những hon đá nằm cạnh nhau một cách lạnh lùng, mà chúng ta là những anh em với nhau, những anh em có cùng một Cha trên trời, những anh em cũng sống nhờ vào một nguồn sống duy nhất là Đức Kitô, cho nên chúng ta phải yêu thương gắn bó với nhau. Vã lại chính Đức Kitô đã từng xác nhận rằng: "Điều gì các con đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất ở đây, là các con đã làm cho chính Ta". Như thế, sống gắn bó với anh chị em của mình cũng là lúc chúng ta đang sống gắn bó với Chúa.
Thưa anh chị em! Nếu như Phụng Vụ Lời Chúa của ngày Chúa Nhật hôm nay, đã giúp cho chúng ta phần nào hiểu đựơc sự cần thiết phải gắn bó với Đức Kitô và biết đựơc một vài cách thức để thể hiện sự gắn bó đó, thì con tin rằng: Nhờ ơn Chúa soi sáng mỗi người chúng ta cũng sẽ biết được rằng mình sẽ phải làm gì để cành nho đời sống đạo của mình có thể sống và trổ sinh hoa trái như lòng Chúa ước mong.
21. Xin hiệp nhất chúng con nên một
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Nhớ hồi tôi còn học ở Đai Chủng Viện, vào những ngày Tuần Thánh, Cha Linh Hướng thường khuyên chúng tôi trong giờ suy niệm Lời Chúa (Lectio Divina) mỗi ngày, nên đọc Phúc Âm theo Thánh Gioan, các Chương 13, 14, 15, 16 và 17. Trong đời sống Linh Mục, vào những ngày Tuần Thánh, dù rất bận rộn, nhưng chúng tôi vẫn dành thời giờ để đọc và suy gẫm những đoạn Thánh Kinh rất cảm động và rất quan trọng này. Hơn nữa, trong bầu khí thánh thiêng của Tuần Thánh, khi đọc những đoạn Thánh Kinh này, tâm hồn càng thêm thấm thía những Lời Chúa nhắn nhủ.
Đây là những đoạn Thánh Gioan đã ghi lại những lời ‘trối trăn’ tâm huyết Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ vào những giờ phút cuối cùng cuộc đời trần thế của Chúa, trong bữa Tiệc Ly, cũng là bữa ăn ‘Tình thương’ (Agape).
Đặc biệt, Chúa Giêsu nêu lên tình yêu hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, và kêu gọi cũng như cầu xin cho các Tông Đồ luôn biết sống kết hiệp nên một với Chúa, và hiệp nhất với nhau trong tình yêu Chúa.
Để nhấn mạnh sự quan trọng của tinh thần yêu thương và hiệp nhat với Chúa và với nhau, vào cuối Chương 17, trong lời cầu xin với Chúa Cha, bốn lần Chúa Giêsu đã xin để tất cả được “Hiệp Nhất Nên Một!” (Ut Sint Unum! - That They Be ONE!) (Ga 17, 11, 21, 22, 23). Nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ cầu nguyện cho các Tông Đồ thân tín của Chúa được hiệp nhất nên một, mà còn cầu xin cho mọi tín hữu luôn biết đồng tâm hiệp nhất với Chúa và với nhau (Ga 17, 20-22).
Để cụ thể hóa, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh Cây Nho, là loại cây rất phổ thông tại Do Thái, và đã được nhắc đến nhiều lần trong Thánh Kinh Cựu Ước (trong sách Tiên Tri Isaia, Gieremia, Egiekien, Hosea và Thánh Vịnh), cũng như Tân Ước.
Đoạn Phúc Âm hôm nay (Ga 15,1-8) nhắc đến hình ảnh và lời mời gọi của Chúa Giêsu với các Tông Đồ và mọi người tín hữu chúng ta: Thày là Cây Nho, chúng con là ngành nho… Như những ngành nho chỉ sinh hoa kết trái nếu gắn liền với thân cây nho, thì chúng ta cũng chỉ có thể là môn đệ đích thực của Chúa , và ‘sinh nhiều hoa trái’ nếu chúng ta biết sống hiệp nhất với Chúa và hiệp nhất với nhau trong tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
Khi Chúa Giêsu đã về trời, và sau khi đã được ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa (Cv. 2, 1-4), các Tông Đồ theo lời Chúa dạy, đã đi rao giảng Tin Mừng và tập hợp các tín hữu thành MỘT trong Hội Thánh Chúa, và tất cả các tín hữu đều đồng tâm nhất trí với nhau (Cv. 2, 44-47).
Tinh thần yêu thương, hiệp nhất trong Hội Thánh rất quan trọng, nên trong Bài Đọc II hôm nay (Gioan 3, 18-24), Thánh Gioan nhấn mạnh “Đây là Giới Răn của Chúa, là chúng ta hãy yêu thương nhau… và yêu thương không phải chỉ bằng lời nói, mà bằng chính việc làm…”
Trong Bài Đọc I (Cv 9, 26-31), Thánh Luca ghi lại sự việc Thánh Phaolô, sau khi được ơn trở lại, đã mạnh dạn rao giảng Đạo Thánh Chúa, và đã tìm đến Giêrusalem để cùng hiệp thông với các Tông Đồ va các Tín Hữu trong Hội Thánh. Sau đó, Thánh Phaolô lại nhấn mạnh nhiều lần: Các tín hữu phải hiệp nhất với nhau trong cùng Một Hội Thánh để có thể hiệp nhất với Chúa. Ngài đã nói đến Hội Thánh như Thân Thể Mầu Nhiệm mà Chúa Giêsu là đầu (Ep 5, 23) và tất cả các tín hữu là các chi thể. Mặc dầu các chi thể thì nhiều và khác nhau, nhưng cũng trong một thân thể (1Cr 12,12-17); vì thế, Hội Thánh ở nhiều nước trên khắp thế giới, nhưng duy nhất: “Chỉ có một Thiên Chúa, một Đức Tin, một Phép Rửa…” (Ep 4, 5-6). Trong Hội Thánh, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, đàn ông hay phụ nữ, nhưng tất cả chỉ là một trong Chúa Kitô là đầu Hội Thánh (Gl 3, 26-28).
Chúa Giêsu là đầu Hội Thánh, là Chúa Chiên Nhân Lành, nhưng Ngài đã đặt Thánh Phêrô đại diện Ngài ở trần gian (Mt 16, 18-19; Ga 21, 15-17). Các vị Giáo Hoàng và hàng Giáo Phẩm cũng là những vị Chúa đã chọn qua các thời đại để chăn dắt đoàn chiên Chúa ở trần gian. Khi chúng ta hiệp nhất với Chúa và Hội Thánh, là chúng ta cũng hiệp nhất với hàng Giáo Phẩm và toàn thể Dân Chúa trên toàn thế giới.
Dù Hội Thánh luôn thích nghi với nền văn hóa, truyền thống và ngôn ngữ của mỗi dân tộc, nhưng chúng ta tin “Giáo Hội duy nhất”, và vì thế không thể có Giáo Hội tự trị; không thể có Giáo Hội quốc doanh! Khi chúng ta tách ra khỏi Hội Thánh Chúa, là chúng ta ‘như ngành nho đã tách rời khỏi thân cây nho’, hay như một chi thể đã tách rời khỏi thân thể.
Vậy, sau khi chúng ta đã chịu Phép Thánh Tẩy và được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta trở thành một chi thể trong gia đình Giáo Hội, và được hưởng muôn ơn Thánh Chúa qua các Phép Bí Tích, và lúc đó ‘chúng ta như ngành nho được liên kết với thân cây nho, được chung cùng một ‘sức sống’ và sẽ sinh hoa kết quả dồi dào là những ‘việc lành phúc đức’ trong tình bác ái phụng sự Chúa và giúp đỡ lẫn nhau trên cuộc hành trình về Quê Hương Nước Trời.
Lạy Chúa, “xin hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Xin hiệp nhất chúng con như Ngài liên kết với Cha. Xin giải thoát chúng con xa điều bất hòa, chia rẽ! Xin liên kết muôn người trong lòng mến Chúa Cha muôn đời…” (Thành Tâm, Bài Ca Hiệp Nhất).
22. Liên kết với Người – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một thầy kiện mới mở được một văn phòng luật sư khang trang lịch sự. Bỗng nghe có tiếng chân người ngoài cửa bước vào, ông vờ như không thấy. Vội nhắc ống diện thoại lên, nói thật to trong ống nghe:
- Alô, văn phòng luật sư đây.
- Vâng, từ ngày tốt nghiệp đại học đến nay, tôi đã thắng nhiều vụ kiện lớn. Các công ty danh tiếng đều nhờ cậy tôi. Tôi được rất nhiều người tin tưởng. Tuy thu nhập cao nhưng tôi luôn dành 10% cho các công việc từ thiện.
Có tiếng gõ cửa, ông quay lại, thấy người đàn bà đang đứng chờ từ nãy, ông mới lịch sự thưa:
- Xin lỗi bà, tôi có khách quý đến.
Quay lưng lại, anh hỏi người vừa bước vào:
- Anh cần gì?
- Thưa luật sư, có phải hôm nay là ngày đầu tiên văn phòng của ngài bắt đầu làm việc?
- Đúng thế, anh cần tôi giúp vụ kiện nào?
- Dạ thưa không tôi là người của công ty điện thoại được cử đến để gắn đường dây điện thoại cho ngài!
***
Tin mừng hôm nay mời goi chúng ta nhìn lại mối liên hệ của chúng ta với Chúa. "Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sinh nhiều trái" (Ga. 15, 5). Đức Giêsu Phục sinh là cây nho, các tín hữu Kitô là cành. Cây và cành có chung một dòng nhựa, nên cùng một sự sống. Càng gắn bó với cây, cành càng sinh nhiều hoa trái. Nếu ngược lại cành sẽ héo tàn. Ví như đường dây điện thoại của ông luật sư, không có nối với tổng đài thì đâu có liên lạc đối thoại: không có liên lạc đối thoại thì đâu có khách hàng, lợi nhuận! Cành chỉ giả vờ gắn liền với cây, nên làm gì có sinh hoa trái.
Cành nào đã sinh trái, càng phải sinh trái nhiều hơn. Muốn sinh nhiều trái hơn, cành cần được cắt tỉa đớn đau. Có cắt tỉa vun xới, cành mới sinh hoa kết quả. Đức Giêsu trên cây thập giá, như một thân nho trơ trụi. Đó là lúc phát sinh hoa trái nhiều hơn cả. Từ cạnh sườn Người bị đâm thấu, Giáo hội đã được sinh ra, và đơm bông kết trái dồi dào.
Mỗi người tín hữu Kitô cũng phải được cắt tỉa, vun xới bằng hy sinh đau khổ hằng ngày, mới trổ sinh hoa trái dồi dào. Niềm vui và đau khổ không nhất thiết phải khử trừ nhau. Đôi khi nó réo gọi nhau, trong những cuộc đàm thoại huyền nhiệm. Vì thế hy sinh không là bóp nghẹt cuộc đời, nhưng làm cho đời thêm triển nở tốt tươi.
Điều quan trọng là "Hãy ở lại trong Thầy" vì "Nếu không có Thầy các con không thể làm gì được" (Ga. 1, 5). Ở lại trong Thầy và liên kết với Thầy qua đường dây "Cầu nguyện và bí tích". Tất cả sức sống của Đức Giêsu được chuyển thông từ đó, khả năng kết trái cũng phát sinh từ đó. Đức Giêsu dạy: "Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin sẽ được" (Ga. 15, 7).
Nếu Đức Kitô là Cây Nho đích thực, và Người Trồng Nho là chính Thiên Chúa thì chúng ta hãy la những cành nho căng nhựa sống, để dâng hiến cho đời những hoa trái tốt tươi.
***
Lạy Chúa, Chúa muốn cắt tỉa chúng con khỏi những rườm rà, để cây đời chúng con trổ sinh nhiều hoa trái. Xin cho chúng con can đảm, dám sống theo những đòi hỏi cắt tỉa của Chúa. Amen.
23. Sống thân mật với Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Trong Phúc Âm Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu đã tự ví mình như người Mục Tử nhân lành, trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa lại tuyên bố: ”Thầy là cây nho thật”. Trong Thánh Kinh, nho là một hình ảnh, một biểu tượng rất quen thuộc. Có người nói đó là “cây sự sống” trồng ở giữa vườn địa đàng (Stk. 2, 9). Môsê cho người đi do thám đất hứa đã mang về một nhành và một chùm nho vĩ đại phải hai người khiêng, làm cho dân chúng phấn khởi (số 13, 23). Hàng năm dân chúng mừng lễ mùa nho. Isaia sáng tác một bài dân ca mừng vườn nho xinh tươi của người bạn (5, 1-2) để ám chỉ tình thương của Thiên Chúa đối với dân Ngài. Tiên tri Jeremia nói đến việc Thiên Chúa chăn sóc Israel như một khu vườn nho gia bảo; ai ngờ vườn nho đã sinh ra quả đắng đót! (Jr. 2, 21). Và khi sự việc tệ hại xảy ra, nhà Thánh Vịnh vẫn xướng lên một bài ca hy vọng: “Lạy Thiên Chúa, xin hãy viếng thăm và bảo trợ vườn nho mà chính tay Chúa đã vươn trồng” (Tv. 80, 15-16).
Hôm nay, Chúa Giêsu long trọng tuyên bố: “Ta là cây nho thật”, như Ngài là người Mục Tử chân thật. Nơi Ngài Giáo hội bám vào và chia sẻ nhựa sống như nhành nho bám vào một thân nho duy nhất. Thân nho là Chúa Giêsu, nhành nho là các môn đệ, Thánh Augustinô gọi là “Chúa Kitô duy nhất” gồm Chúa, môn đệ và chúng ta hết thảy.
Bạn hãy hát lên để cảm nghiệm lời Chúa từ xa xưa vọng lại cho mỗi người chúng ta: Thầy là cây nho, chúng con là nhành. Nhành nào kết hợp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái, nhành nào lìa cây sẽ khô héo liền. Chúng con hãy hợp trong tình yêu Thầy.
Mầu nhiệm cây nho được Chúa gồm tóm trong hai sự việc sau đây: kết hợp và sinh trái. Càng kết hợp chặt chẽ càng sinh hoa trái nhiều. Chúa muốn dạy chúng ta điều kiện căn bản là kết hợp với Chúa, có kết hợp với Chúa mới đem lại kết quả thiêng liêng cho kẻ khác và cho chính mình.
Kết hợp với Chúa là sống thân mật với Chúa trong tình yêu. Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Tôi đã tìm thấy ơn kêu gọi của tôi: Ơn kêu gọi của tôi là Tình Yêu”. Hai người kết hợp với Chúa trong tình yêu thì Chúa dùng để đem lại kết quả cho các linh hồn một cách phong phú nhiệm lạ. Mặc dù là một nữ tu kín, Têrêsa đã đươc Giáo Hội nhìn nhận và tôn phong làm quan thầy xứ truyền giáo cùng Thánh Phanxicô Xaviê. Vì truyền giáo là đem đức tin, đem lửa đến cho các linh hồn và càng có nhiều lửa, càng gây được đám cháy vĩ đại, như lời Chúa phan: Ta xuống trần gian và đem lửa đến để thiêu đốt lòng mọi người.
Trong bài đọc thứ hai, Thánh Gioan Tông đồ giải thích cho chúng ta lối sống hiệp nhất với Chúa. Người nói: “Ai giữ các giới răn của Chúa thì ở trong Người và Người ở trong họ”; “Đây là giới răn của Người: là chúng ta phải thương yêu nhau…đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân thật”. Anh em đã nghe nói đến nhà phung Quy Hòa ở ngoại ô thành phố Qui Nhơn. Vị sáng lập là Cha Paul Mahen đã dấn thân cho người cùi và chết giữa người cùi. Người cùi thường đến xin Ngài giúp đỡ. Một hôm một người đến nói với Ngài: “Con buồn quá, đêm qua con vừa rụng thêm một ngón tay nưa. Con lượm đây để Cha xem”. Cha Mahen cầm lấy đốt ngón tay, thương tiếc như chính một phần thân thể mình. Ngài an ủi, xin bệnh nhân cứ tiếp tục và thêm thuốc để chữa trị. Ngài nhìn họ là bản thân của Chúa. Ít năm sau, Ngài đã mắc bệnh phung và nằm xuống, xác được chôn cất giữa làng cùi bên cạnh đoàn con đau khổ. “Không có tình thương nào lớn lao cho bằng chịu chết vì bạn hữu”. Đồ đệ đã đi theo vết chân Thầy.
“Các con hãy ở trong Thầy và Thầy ở trong các con: ai ở trong Thầy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái” (Đáp ca)
24. Thầy là cây nho thật
1. Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trong bầu khí thân mật sau buổi tiệc ly với các môn đệ của mình, Đức Giêsu trong tư cach là người bạn, người thầy, người cha. Người đã nhấn mạnh mối tương quan cần phải có giữa Người với các môn đệ, hình ảnh cây nho và cành nho, một hình ảnh rất quen thuộc với người Do thái, được dùng để nói lên sự lien hệ này. Vượt trên không gian và thời gian, dụ ngôn này vẫn phù hợp với chúng ta và đáng cho chúng ta suy gẫm.
2. Chính Đức Giêsu đã giải thích dụ ngôn này, cây nho là Đức Giêsu, cành nho là người môn đệ và người trồng nho chính là Chúa Cha. Chỉ trong liên kết chặt chẽ với Đức Giêsu người môn đệ mới có thể sống phong phú. Để sinh hoa trái tốt đẹp người môn đệ cũng phải được cắt tỉa và chính đời sống tốt đẹp của người Kitô hữu đó la một hình thức tôn vinh Chúa Cha.
3. Người Kitô hữu cần phải được liên kết mật thiết với Thiên Chúa, qua Đức Giêsu. Đức Giêsu là cây nho đích thực mà Chúa Cha đã trồng, bằng cách sai Người xuống thế gian. Nơi Đức Giêsu mới có sự sống thật, sự sống thần linh. Qua cuộc khổ nạn, tử nạn và phục sinh Người ban sự sống thần linh cho tất cả mọi người, mà loài người đã đánh mất vì tội Ađam, để biến họ thành con cái đích thực của Thiên Chúa.
Cây và cành phải có mối tương quan mật thiết với nhau. Cây nho mà không có cành thì không thể có sức sống mạnh và mang trái được. Cũng thế Đức Giêsu mời gọi các môn đệ cộng tác để tiếp nối công trình cứu độ của Ngươi, nhưng dầu sao người môn đệ cũng chỉ là cành mà thôi, Cành muốn sống hữu ích, mang lại hoa trái thì phải liên kết mật thiết với cây nho:"Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ay, thì người ấy sinh nhiều hoa trái". Tôi biết có những giáo dân tuy rất xa nhà thờ, nhưng họ cố gắng đi lễ mỗi khi có dịp và có thể được, ngoài ra họ còn giữ được việc đọc kinh hôm, kinh mai, nhờ thế họ là những tông đồ rất nhiệt thành. Tôi cũng được biết có những người mang danh là Kitô hữu, tuy không xa nhà thờ, mà việc kinh, lễ rất lôi thôi, cho nên con cái của họ đa phần là bị rối rắm trong hôn nhân. Vậy để đức tin được vững manh, người Kitô hữu phải dùng mọi phương thế để kết hợp mật thiết với Đức Kitô.
4. Không những người Kitô hữu phải dùng mọi phương thế để kết hợp mật thiết với Đức Kitô mà thôi, mà cũng như cành nho muốn sinh nhiều hoa trái cần phải vượt qua những trở ngại của thời tiết, môi trường sống và được cắt tỉa.
Cây nho nơi vườn, không hẳn bao giờ môi trường sống cũng luôn thuận lợi, mà có khi gặp nắng hạn hay mưa dầm... Đời sống đạo của người Kitô hữu không phải bao giờ cũng dễ dàng, mà luôn có những thử thách, những khó khăn từ phía bên ngoài hay chính bản thân. Đức Kitô là cây nho đích thực của Thiên Chúa mà cũng phải trải qua thử thách: Người phải qua đau khổ mới trở thành vị lãnh đạo thập toàn đưa mọi người đến ơn cứu độ (x. Dt 2,10). Người cũng luôn mời gọi chúng ta cùng chia sẻ đau khổ thì mới có thể thông phần vinh phúc với Người.
Như cây nho cần được tỉa cành mới có thể tốt được, cũng vậy để đời sống thiêng liêng được phong phú, người môn đệ Chúa cũng rất cần phải được cắt tỉa dần lội lỗi, bỏ các thói hư tật xấu, có như vậy ngày mới có thể thanh sạch và hoàn thiện hơn. Cat tỉa thì tiếc xót và đau đớn nhưng đó là việc cần thiết để sinh kết quả bội phần. Trung kiên qua thử thách, quyết bỏ các tính hư tật xấu, nhờ đó người môn để có thể nên tốt hơn, trở nên muối, men cho đời.
5. Đời sống tốt đẹp của người tín hữu đó là một phương cách hữu hiệu để tôn vinh Thiên Chúa Cha. Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn nguyện xin "danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Xin đưng đọc suông, mà đời sống của người Kitô hữu phải làm sao để tôn vinh Thiên Chúa thực sự. Chính trong liên kết mật thiết với Đức Kitô, cây nho đích thức của Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ được thánh hoá chính nơi bản thân mình bằng đời sống, bằng việc làm tốt đẹp, như ánh đèn toả sáng. Tiến xa hơn đó là thánh hoá tha nhân qua việc tông đồ. Công cuộc cứu rỗi của Đức Giêsu nhờ đó tiếp tục được lan rộng, đó chính là chúng ta góp phần tích cực tôn vinh Thiên Chúa, bởi vì ý của Thiên Chúa là muốn mọi người được nhận biết Thiên Chúa là Cha và họ được cứu rỗi.
6. Lạy Đức Kitô, cây nho đích thực của Thiên Chúa, xin cho mọi người chúng con biết ý thức luôn kết hiệp mật thiết với Người, để cho đời sống của chúng con được tràn đầy ân sủng và đem nguồn ơn cứu độ của Người đến cho tha nhân. Amen.
25. Nối kết để hoàn thiện
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống con người được kết nối với bao mối liên hệ. Liên hệ đồng loại giữa người với người. Liên hệ với vạn vật, với thiên nhiên. Liên hệ với Thiên Chúa, Đấng tạo thành. Sự liên hệ nào cũng đòi con người phải hòa hợp, phải có bổn phận liên đới để cho mình hoàn thiện hơn. Con người sống mà không có liên đới với cộng đồng thì cũng vô giá trị giữa thế giới mình đang sống.
Có một chàng trai gọi điện thoại cho bồ. Nhưng hôm ấy, chuông điện thoại reo vang, ông bố nhấc ống nghe. Chàng trai liền mở lời:
- Con chim non bé nhỏ xinh đẹp của anh đó hả?
- Không, chim bố đây- ông bố trả lời
- Ấy chết! Cháu xin lỗi bác! Bác có khỏe không ạ?
- Khỏe để đánh nhau với ai?
- Dạ... cho cháu hỏi Trang có nhà không ạ?
- Nó không có nhà thì là dân vô gia cư à?
- Dạ, dạ... ý cháu là Trang có ở nhà không ạ?
- Nếu không thì sao?
- Thế... Trang đi đâu ạ?
- Đến cơ quan rồi.
- Bác cho cháu số điện thoại của Trang được không ạ?
- Nó có nhiều số lắm!
- Bác cho cháu xin một số thôi ạ!
- số 8...
-... 8 rồi... mấy nữa ạ?
- Thì cậu bảo chỉ cần một số thôi mà.....
- Dạ bác cho cháu xin nốt mấy số còn lại luôn ạ!
- 5 7 3 6 8 2, còn sắp xếp sao thì tùy cậu!
Thật khó cho chàng trai! Vì các số không được nối kết với nhau thì chẳng có giá trị gì. Nó chỉ là những con số vô hồn, lạnh lùng nằm bên nhau mà thôi. Làm sao chàng trai có thể kết nối với cô gái nếu không có con số hoàn chỉnh? Mỗi một số thuê bao đều được kết nối với nhiều chữ số. Nếu không có sự nối kết thì làm sao có số thuê bao để liên lạc, để nối kết với nhau.
Cuộc sống con người cũng chỉ co giá trị khi có sự kết nối với nhau. Kết nối để tạo thành một cộng đồng nhân loại vì “không ai là một hòn đảo”. Kết nối với vạn vật để con người được vạn vật che chở dưỡng nuôi. Trên hết mọi sự là kết nối với Đấng tạo thành. Con người phải kết nối với Đấng tạo thành vì con người được sống nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài. Con người rời xa Đấng tạo thành tức là rời xa nhựa sống rồi sẽ héo khô theo thời gian. Đó là điều mà dân Việt mình vẫn nhắc nhở nhau muốn sống bình an hạnh phúc thì phải có “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”.
Phúc âm hôm nay Chúa dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên sự nối kết giữa Thiên Chúa và con người. Chúa ví Ngươi như cây nho, Chúa Cha là người trồng nho, còn ta là cành nho. Cây nho gồm nhiều cành được nối kết với nhau tạo thành một thân nho. Tất cả đều được chia sẻ nhựa sống với gốc rễ. Thế nên, nếu không gắn liền với thân cây, cành nho sẽ héo khô. Người Ky-tô hữu chúng ta là những cành nho được liên kết nên một trong Chúa Ky-tô. Tất cả đều phải được nuôi dưỡng trong ân sủng của Chúa, nếu tách lìa khỏi Đức Ky-tô thì chúng ta sẽ không có thể sinh hoa kết quả thiêng liêng trong đời sống.
Sự nối kết nên một với Chúa Kitô không phải là việc kết hợp bên ngoài như gia nhập tổ chức nọ, hội đoàn kia. Người tín hữu nối kết với Chúa Kitô bằng ơn thánh. Vì thế tội phạm sẽ làm giảm ơn thánh, có khi còn cắt đứt sự nối kết với Chúa. Tội phạm sẽ làm cho ta xa lìa Chúa để rồi sẽ không bao giờ sinh hoa kết trái thánh thiện.
Xin cho chúng ta luôn được sống trong ân nghĩa của Chúa, va được hiệp nhất nên một trong Chúa. Xin đừng để những đam mê tội lỗi làm chúng ta xa lìa ân sủng của Ngài, và đánh mất sự liên đới với Ngài. Xin Chúa cho chúng ta được nối kết với Chúa như cành liền cây để sinh hoa ket trái mỗi ngày một thánh thiện hơn. Amen.
26. Tình yêu cần sự quan tâm
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Tình yêu đích thực luôn bày tỏ sự quan tâm lo lắng cho nhau. Không yêu nhau người ta đâu cần để ý đến nhau, chỉ có trong tình yêu người ta mới dành tình cảm, sự quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau.
Thế nên, khi tình yêu chín mùi người ta sẽ thề non hẹn biển với nhau là quan tâm chăm sóc nhau suốt đời. Họ thề hứa một cách công khai sẵn lòng chia sẻ cuộc đời với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe. Nghĩa là gắn bó chia sẻ với nhau trong mọi sướng vui cuộc đời và cùng dìu nhau qua mọi khó khăn của dòng đời.
Nhưng trớ trêu thay! Khi đã thành vợ chồng người ta lại thường quên đi lời thề ước ấy. Họ chỉ quan tâm khi còn tình yêu đôi lứa, nhưng khi đã là vợ chồng lại hờ hững với nhau. Chúng ta vẫn thường nghe những lời trách móc, than vãn: Anh ấy không còn yêu em như trước nữa. Anh hay nói những lời châm chọc, khích bác, phán đoán giọng kẻ cả. Hoặc vợ tôi thường không để lỡ một cơ hội nào mà không phê bình chồng mình trước mặt bạn bè, ngay cả trước mặt con cái. Cô ấy hay kể tật xấu tôi với đồng nghiệp bạn bè cô ấy...
Có một anh chồng đã liệt kê những lần mà họ mở miệng ra là cãi nhau như sau:
Vợ tôi hỏi: Trên TV có gì không anh?
Tôi trả lời: Có rất nhiều bụi bặm, chắc tại em quên lau.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Rồi
Kỷ niệm hai mươi năm cưới nhau, tôi hỏi bả muốn đi đâu.
Bả nói: Em muốn đi đến một chỗ mà từ lâu em đã không đặt chân đến.
Tôi nói: Ủa em muốn vào trong bếp hả?
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Một lần khác:
Vợ tôi: Ngày cưới em có phải là ngày vui nhất đời anh không?
Tôi nói: Không! Chỉ là ngày vui hạng nhì thôi.
Vợ tôi: Chứ ngày vui thứ nhất là ngày gì?
Tôi nói: Là cái ngày em về bên má em 3 tuần. Giời ơi ngày nào cũng xỉn.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau. Giận dỗi.
Có một định nghĩa về tình yêu như sau: "Yêu là muốn cho một cái gì". Một số người có thể nghĩ rằng: khi kết hôn, hai người đã tự hiến mình cho nhau với tất cả những gì họ có, nên không cần biểu lộ sự quan tâm, lòng biết ơn dành cho nhau. Chính vì thiếu điều đó mà làm cho tình yêu mất đi hơi ấm nồng nàn tình yêu. Không có sự quan tâm thì tình yêu đâu còn được nuôi dưỡng, vun đắp, và dĩ nhiên là sẽ chết dần theo năm tháng.
Cách thức để gìn giữ tình yêu chính là làm mới lại tình yêu mỗi ngày bằng sự quan, lo lắng và chăm sóc nhau. Đó mới là một tình yêu chân chính luon hy sinh cho người mình yêu. Một tình yêu chân chính thì luôn vượt lên trên sự ích kỷ bản thân để lo lắng, quan tấm đến người mình yêu.
Chúa Nhật lễ Chúa chiên lành như mời gọi chúng ta hãy học nơi Chúa Giê-su là vị mục tử luôn bày tỏ tình yêu với đàn chiên. Người mục tử luôn đồng hành với đàn chiên. Ngài đã cùng chia vui sẻ buồn với con người qua những thăng trầm của cuộc sống. Ngài biết từng con chiên. Ngài chăm sóc từng con chiên. Ngài sẵn lòng cùi mình phục vụ trong khiêm hạ. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho người mình yêu.
Đó là mẫu mực của mọi tình yêu. Tình yêu luôn đòi sự hy sinh quan tâm đến cho người mình yêu. Xin cho các đoi hôn phối luôn dành sự quan tâm cho nhau. Xin đừng sống ích kỷ chỉ lo cho bản thân mà bỏ rơi người bạn đời. Xin hãy sống vì nhau và cho nhau để tạo nên một mái ấm gia đình ngập tràn hạnh phúc yêu thương. Amen.
27. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
"Thầy là cây nho, chúng con là cành, ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái". (Ga 15,5)
Qua bài Tin Mừng này, ta hết sức cảm phục Chúa Giêsu, vì cách Người dùng hình ảnh thật giản dị, dễ hiểu, để diển tả một mầu nhiệm vừa cao cả, lại vừa hết sức trừu tượng; để nói về mối liên kết chặt chẽ phải có giữa người Kitô hữu với Chúa Giêsu, Người dùng hình ảnh cành nho luôn dính chặt vào thân nho; và cành nho, tự nó ý thức phải luôn dính chặt vào thân cây, nếu không nó sẽ chết. Như vậy muốn là người Kitô hữu thực sự có hạnh phúc, chính là phải "ở lại " trong Chúa Kitô, như cành nho không tách rời rời khỏi thân nho. Nhưng ở lại trong Chúa Kitô như thế nào? Và sinh hoa trái ra sao?
1. Giải thích:
a. Động từ Hy Lạp: ở lại (menein en) từ câu 2 đến câu 10, thánh Gioan dùng đến 10 lần có nghĩa: ở lại trong Chúa Giêsu ở lại trong lời Chúa, ở lại trong tình thương của Chúa, trong các môn đệ v.v.. Còn một nghĩa nữa làgắn liền với: "cành nho gắn liền với thân nho."
b. Với cách dịch động từ Menein en: "ở lại", hay "gắn liền", hay có vài bản dịch khác dịch là: tháp chặt vào, dính liền, không thể tách rời, xem ra cũng không phải là sai nghĩa như điều Chúa Giêsu muốn nói: Như cành nho phải liên kết với Thân nho thế nào thì người Kitô hữu cũng phải kết hợp chặt chẻ với Đức Kitô là sức sống, là hạnh phúc của họ. Sự liên kết đó đòi hỏi người Kitô hữu phải sống và hành động theo Lời của Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương chúng ta.
c. Thực hành: Linh mục nhận lãnh chức vụ Linh mục từ Giám mục, từ Hội Thánh, nhưng lại không có ý hiệp thông, liên kết chặt chẽ với Hội Thánh, Linh mục sẽ ban Bí Tích thành sự, nhưng không sinh hiệu quả sống động cho người lãnh nhận... Như khi người giáo dân bình thường chúc lành cho nhau trong sự chân thành, yêu mến, ơn phúc lành đó sẽ ở lại nơi người được chúc phúc, và sinh ơn ích cho họ biết bao trong đời sống, dù họ không thấy được bằng mắt xác thịt.
2. Gợi ý suy niệm:
a. Ai trong nho, lại không muốn nó sinh trái. Đất đai ở Việt Nam không phù hợp mấy với cây nho, nhưng ta thấy cũng có nhiều nơi trồng được, dù kết quả không cao. Cành, nhánh nho muốn sinh trái, phải được tháp chặt (ở lại, gắn lien, liên kết) với thân nho, nếu không, cành nho không những không sinh trái, mà còn phải chết nữa, vì tự mình cành nho không thể cho mình nhựa sống. Khi ta lãnh nhận Bí Tích Rửa tội là lãnh nhận ơn gọi trở thành cành nho, được gắn liền (tháp chặt, ở lại, liên kết) với Thân nho là Đức Kitô, ta có nhận ra ơn sủng cao cả này không? Ta có biết luôn cảm tạ Chúa mọi nơi mọi lúc và hết sức nỗ lực gắn liền "tháp chặt" và kết hợp với Thân Nho là Đức Kitô không? Là người Kitô hữu, ta có nghĩ mình được quyền sống bên lề họ đạo, không phải tham gia vào sinh hoạt của họ đạo, vì nghĩ rằng, mình đã đi lễ, cầu nguyện và giữ mọi Lề Luật của Hội Thánh là đủ không?
b. Cành nho muốn sinh nhiều trái, phải chịu để cho ông chủ cắt tỉa bớt những cành dư thừa. Ta có muốn và sẵn sàng để Chúa cắt tỉa những tính hư tật xấu, để ta ngày càng được tháp chặt, gắn liền với Thân Nho, để sinh nhiều hoa trái hơn nữa không?
28. Sự sống trong Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Phân tích
Bài giáo lý về Dụ ngôn cây nho. Về sự sống trong Chúa Giêsu.
Dụ ngôn cây nho chúng ta một cách vừa cụ thể vừa dễ hiểu nhưng lại rất sâu sắc về cuộc đời Kitô hữu:
Kitô hữu nếu muốn sống phong phú thì phải sống trong Chúa Giêsu và sống bằng sức sống của Ngài “Thầy là cây nho, các con là nhành… Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiếu trái.”
Kitô hữu cũng phải chấp nhận để cho mình “được Cha Thầy tỉa sạch” bằng những việc xảy ra không đúng ý mình làm cho mình đau khổ.
Chúa Giêsu còn hứa một điều rất tốt đẹp: “Nếu các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin thì sẽ được.”
Suy gẫm
1. Chữ “Kitô hữu” có nghĩa là “Người thuộc về Đức Kitô.” Cho nên cuộc sống Kitô hữu đương nhiên phải là cuộc sống trong Đức Kitô và sống bằng sức sống của Ngài. Muốn thế thì đương nhiên phải kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô: bằng cầu nguyện, bằng tưởng nhớ, bằng thi hành những lời Ngài dạy… Ai không làm những điều đó thì người ấy không phải là Kitô hữu thật, người ay là cành nho khô, sớm muộn gì thì cũng bị chặt đi và quăng vào lửa.
2. Cắt tỉa: cuộc đổi đời nào cũng được đánh giá bằng những cái mất và những cái được. Tuy nhiên với con mắt đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất… Đức Hồng y Etchegaray có lần đã nói “Đứng trước cánh rừng, chúng ta không nên dừng lại ở tiếng ngã đổ của cây rừng, nhưng hãy lắng nghe âm thanh của những mầm non đang mọc lên.”
3. Thánh Anphongxô đã được Thiên Chúa cắt tỉa bằng việc để Ngài thất bại ê chề trong một cuộc xử kiện mà Ngài làm luật sư. Thánh Inhaxiô được cắt tỉa khi bị thương què chân trong một trận chiến. Các Ngài mất một điều nhưng được lại nhiều điều khác quý hơn.
4. “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.”
Mỗi ngày đọc báo, nghe đài, xem truyền hình tôi lại nghe thấy vụ giết người dã man; những thảm họa của chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, hạt nhân; những cái chết đầy thương tâm do các căn bệnh thế kỷ gây ra như Sida, Ebôla… Đâu đâu cũng thấy tang thương và chết chóc.
Có lần tôi đã phải bàng hoàng sửng sốt trước mẩu tin: “Một thanh niên đã chỉa súng bắn chết bố mẹ chỉ vì ông bà không cho cậu ta tiền tiêu vặt.”
Tại sao cuộc sống hôm nay lại có nhiều tội ác đến thế? Nguyên nhân chính phải chăng là vì con người xa lìa Thiên Chúa, chạy theo cuộc sống vật chất, do đó trở nên thoái hóa, buông thả, vô đạo. Đức tin khô héo rồi chết đi.
Lạy Chúa, xin cho con biết lưu lại trong Chúa qua cuộc sống yêu thương và phục vụ. (Cha Carôlô)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là cây nho, còn chúng con là cành, xin cho chúng con biết kết hợp với Chúa qua từng giây phút cuộc sống, nhất là khi chúng con được rước Thánh Thể Chúa ngự đến trong tâm hồn chúng con. Xin đừng để chúng con xa lìa Chúa bởi những tội lỗi, những đam mê mù quáng, những thói đời bất nghĩa, bất trung.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con vẫn biết rằng, để cành nho cuộc đời chúng con sinh hoa kết trái thì cần được cắt tỉa, loại bỏ những gì không phù hợp với sức sống Thần Linh của Chúa. Thế nhưng, Chúa ơi, chúng con vẫn bám víu vào những đam mê tật xấu. Tâm hồn chúng con vẫn chứa đựng đầy những tham lam bất chính, những tư tưởng dâm ô tội loi. Cuộc sống chúng con còn đầy những lầm lỗi gây nên đau khổ cho gia đình và bạn bè. Xin Chúa thứ tha tội lỗi chúng con. Xin Chúa cắt tỉa nơi tâm hồn chúng con khỏi những ước ao phạm tội, những toan tính xấu xa, những mưu đo bất chính để chúng con luôn xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự trị.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được lưu lại trong Chúa mỗi khi chúng con rước Chúa vào lòng, để sự sống của Chúa tuôn chảy trên dòng đời của chúng con, qua các việc đạo đức hằng ngày, qua cuộc sống yêu thương và phục vụ mọi người, nhờ đó mà muôn dân sẽ nhận ra “chúng con là môn đệ của Chúa.” Amen.
29. Con ngoan xin gì cũng được
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Chúng ta vẫn thường nghe những người cha mẹ nói câu này: “Học bài ngoan đi, mẹ mua cho đồ chơi”, “Học kỳ này đứng nhất, mẹ thưởng cho con nhé!”. “Năm nay con ngoan thì tết xin gì mẹ cũng cho”.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng nói với chúng ta: “nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”. Xem ra Chúa cũng hứa ân thưởng mọi điều tốt đẹp cho những ai sống đẹp lòng Ngài. Đời sống đẹp lòng Chúa là luôn ở lại trong Chúa như cành liền cây để luôn hiệp thông với Ngài. Đời sống đẹp lòng Chúa còn là tuân giữ giáo huấn của Chúa để nhờ đó chúng ta muốn gì Ngài cũng ban cho.
Đây là điều mà Mẹ thánh Tê-rê-sa thành Calcutta vẫn tin tưởng và dường như Mẹ luôn được Chúa nhận lời. Một hôm, Mẹ Tê-rê-sa nghe tin một em bé trong nhà trẻ Calcutta bị bệnh nguy kịch không thể qua khỏi, Mẹ đã đến thăm và nói với các sour coi trẻ: Chúng ta hãy cùng đọc kinh lạy Cha. Họ đã đọc và Mẹ đã mang em bé đi khám nghiệm lại. Ba giờ sau em bé tỉnh lại dần. Sự việc này nhiều lần đã xảy ra. Mọi người đều nhìn nhận rằng tuy Mẹ Tê-rê-sa không làm phép lạ nhưng đã cầu nguyện, và Chúa Giê-su đã nhận lời.
Mẹ Tê-rê-sa đã xác tín “Cứ ở” trong Ngài và lời Ngài ở trong kẻ kêu xin, có nghĩa là họ hướng đời sống mình nương dựa nơi Chúa và lắng nghe những điều Ngài phán dạy. Rồi họ có thể cầu xin Chúa bất cứ điều gì Ngài cũng sẽ ban cho.
Đôi khi có những người cầu nguyện mãi mà chẳng được nhận lời, phải chăng vì đời sống họ chưa đẹp lòng Chúa? Họ không còn hiệp thông với Ngài vì những tội lỗi và đam mê. Họ không tuân giữ lời Ngài thì làm sao họ nhận được ân phúc từ Ngài.
Sứ điệp lời Chúa hôm nay cho chúng ta một nguyên tắc trong cầu nguyện chính là phải có đời sống hiệp thông với Chúa thì lời cầu nguyện của chúng ta mới được nhận lời. Lời cầu nguyện của người công chính còn có thể đem lại an bình cho cả xã hội mà họ đang sống. Thánh Kinh cũng từng nói đến việc Thiên Chúa xác quyết chỉ cần 10 người sống đẹp lòng Thiên Chúa thì cũng cứu nguy cho cả thành khỏi bị án phạt vì hậu quả của tội lỗi.
Phúc âm hôm nay Chúa dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên sự hiệp thông với Thiên Chúa và con người. Chúa ví Người như cây nho, Chúa Cha là người trồng nho, còn ta là cành nho. Cây nho gồm nhiều cành được nối kết với nhau tạo thành một thân nho. Tất cả đều được chia sẻ nhựa sống với gốc rễ. Thế nên, nếu không gắn liền với thân cây, cành nho sẽ héo khô. Người Ky-tô hữu chúng ta là những cành nho được liên kết nên một trong Chúa Ky-tô. Tất cả đều phải được nuôi dưỡng trong ân sủng của Chúa, nếu tách lìa khỏi Đức Ky-tô thì chúng ta sẽ không có thể sinh hoa kết quả thiêng liêng trong đời sống.
Sự nối kết nên một với Chúa Kitô không phải là việc kết hợp bên ngoài như gia nhập tổ chức nọ, hội đoàn kia. Người tín hữu nối kết với Chúa Kitô bằng ơn thánh. Vì thế tội phạm sẽ làm giảm ơn thánh, có khi còn cắt đứt sự nối kết với Chúa. Tội phạm sẽ làm cho ta xa lìa Chúa để rồi sẽ không bao giờ sinh hoa kết trái thánh thiện.
Xin cho chúng ta luôn được sống trong ân nghĩa của Chúa, và được hiệp nhất nên một trong Chúa. Xin đừng để những đam mê tội lỗi làm chúng ta xa lìa ân sủng của Ngài, và đánh mất sự liên đới với Ngài. Xin Chúa cho chúng ta được nối kết với Chúa như cành liền cây để sinh hoa kết trái mỗi ngày một thánh thiện hơn. Amen.
30. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
Cây nho và việc trồng nho rất quen thuộc đối với người Do thái nên Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và cành nho nói lên mối liên hệ rất mật thiết giữa Chúa và dân của Ngài. Chúa Giêsu là cây nho còn dân chúng xưa cũng như chúng ta hôm nay là cành nho gắn liền với thân nho là Chúa Giêsu. Cành nho hút nhựa sống từ thân cây nho để sống và sinh hoa kết quả. Nếu không liên kết, không gắn liền với thân nho, cành nho sẽ khô héo, tàn úa và chết đi, không thể sinh hoa quả được.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội chúng ta được tháp nhập vào đời sống của thân nho là Chúa Giêsu, trở thành chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa. Khi tham dự Thánh lễ và Rước lễ chúng ta được nuôi dưỡng, được hút nhựa sống từ thân cây nho là Chúa Giêsu. Khi cành nho là chúng ta bị sâu bệnh, héo úa do tội tội lỗi của chúng ta, chúng ta được chữa lành và tha thứ qua Bí tích Giải tội. Ân sủng Chúa là nhựa sống của thân nho không ngừng cung cap cho ngành nho là chúng ta, để chúng ta được sống và sống dồi dào và để chúng ta sinh hoa kết quả tốt lành trong đời sống đạo của chúng ta.
Ngược lại, nếu chúng ta không liên kết, không gắn bó với Chúa qua việc năng lanh nhận các Bí tích thì đời sống của chúng ta sẽ héo úa, khô cằn vì thiếu nhựa sống từ thân cây là Chúa Giêsu. Như vậy thì đời sống chúng ta sẽ sẽ cằn cỗi, không sinh hoa trái được.
Nhờ đời sống cầu nguyện, nhờ việc năng lãnh nhận Bí tích nhất là Bí tích Giải tội và Thánh Thể, người Kitô hữu chúng ta ngày càng gắn bó hơn với Chúa Kitô, mà gắn bó với Chúa Kitô có nghĩa là cũng gắn bó với Chúa Cha. Nhờ gắn bó với Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ nhận ra những người chung quanh là anh chị em cùng là con một Cha trên trời.
Chúng ta là cành nho cần liên kết mật thiết với thân nho là Chúa Giêsu để chúng ta được sống, nhưng chúng ta cũng cần phải liên kết mật thiết với các cành nho khác là các anh chị em chung quanh chúng ta nữa. Thân nho là Chúa Giêsu cung cấp nhựa sống cho các cành nho, nhưng các cành nho cũng phải chuyển thông sự sống cho nhau nữa. Một cành nho héo úa, bệnh hoạn cũng ảnh hưởng đến sức sống của các cành nho khác.
Cũng vậy tội lỗi của một người trong chúng ta cũng ảnh hưởng đến người khác, đến cộng đoàn họ đạo, làm bớt đi sự thánh thiện của Hội Thánh. Và sự thánh thiện, tốt lành của một người sẽ làm tăng thêm sự thánh thiện, tốt lành của toàn thể Hội Thánh. Nếu họ đạo chúng ta có nhiều người tội lỗi thì sẽ làm giảm bớt đi sự tốt lành, thánh thiện của họ đạo, của mỗi người chúng ta và làm cho họ đạo chậm phát triển. Ngược lại nếu họ đạo chúng ta có nhiều người thánh thiện và rất ít người tội lỗi thì sẽ làm tăng sự thánh thiện tốt lành của họ đạo và của mỗi người chúng ta và sẽ làm cho ho đạo phát triển rất nhanh. Đó là sự liên đới trong cộng đồng của những người có cùng cùng một niềm tin như chúng ta.
Là người Kitô hữu, chúng ta đã trở nên một trong Chúa Kitô qua Bí tích Rửa tội. Chúng ta đang bước theo Chúa Kitô trên con đường tiến đến sự hoàn hảo như Thầy chí thánh của chúng ta là Chúa Kitô. Chúng ta còn trãi qua nhiều cám dổ của ma quỷ, của tội lỗi, của sự xấu để thanh luyện con người chúng ta.
Nếu không có Chúa chúng ta không thể đi trọn con đường như Chúa đã đi, nên chúng ta cần phải liên kết mật thiết với Chúa qua các Bí Tích để chúng ta có đủ sức mạnh thiêng liêng mà bước đi trên con đường theo Chúa. Chúng ta không đơn côi, khong cô độc nhưng chúng ta còn có Chúa, còn có Hội Thánh, còn có biết bao người cùng niềm tin với chúng ta. Chúng ta hãy vững tin vào Chúa, hãy trợ giúp nhau sống tốt, hãy làm gương tốt cho nhau, hãy dìu dắt nhau để chúng ta được tăng thêm sức mạnh và luôn vững bước trên con đường theo Chúa, để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Chúa.
31. Sinh nhiều hoa trái
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Quang Hiền SDB)
Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh rất quen thuộc của người Do Thái đó là người mục tử và đoàn chiên. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên mối liên hệ của Người với ta và của ta với Người. Người là Mục tử nhân lành còn ta là đoan chiên của Người. Chúa nhật tuần này Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh cây nho để nói về đời sống đạo của mỗi người chúng ta. Đời sống đạo của mỗi người chúng ta được sánh ví như đời sống của cây nho.
Chúa Giêsu quan sát cây nho và thấy rằng một cây nho muốn có nhiều hoa quả cần phải có hai điều kiện sau đây:
1. Cành phải liên kết với cây. Cành không liên kết với cây, không thể sinh hoa kết quả. Cành không liên kết với cây khi dòng nhựa nuôi dưỡng thân cây bị tắc nghẽn không luân lưu sang cành. Có những con sâu con bọ đục khoét làm cho cành cây bị thương tổn, không còn tiếp nhận được nguồn nhựa sống của thân cây truyền sang. Chỉ khi cành kết hiệp chat chẽ với cây, dòng nhựa từ thân cây mới truyền sang cành, cho cành trổ sinh hoa trái.
2. Cành lá phải được cắt tỉa. Ai đã trồng nho thì biết: Nếu cứ để cành lá phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi coi rất đẹp mắt nhưng không có hoa trái. Muốn cây có quả, phải tỉa bớt cành lá. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn.
Đời sống đạo của chúng ta cũng cần có 2 điều kiện:
Điều kiện thứ nhất: Phải kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Như cành nho phải liên kết với thân nho mới sinh hoa kết quả, ta phải liên kết mật thiết với Chúa Giêsu, Người là nguồn sự sống của ta. Tách lìa Người, ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Nhìn vào đời sống đạo của chính chúng ta, biết bao lần chúng ta muốn tách lìa khỏi mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu. Tôi quá bận bịu, lo lắng mọi thứ trong cuộc sống: công ăn việc làm, gia đình, những kế hoạch, dự định trong tương lai, lo kiếm tiền, xây cất nhà cửa, sắm sửa cái này cái kia, những chuyến nghỉ lễ, nghỉ hè xa, những bữa tiệc thâu đêm suốt sáng, những trò giải trí, kể cả những thú vui thỏa mãn thân xác… làm sao có giờ đi lễ, cầu nguyện được. Những điều này làm tôi tách lìa khỏi mối bận tâm thiêng liêng và đánh mất đi những giá trị cao đẹp của người kitô hữu trong đời song của mình: không còn nhớ để đi lễ chúa nhật nữa, hay có đi nhưng đầu óc bị chia trí, khô khan, nguội lạnh trong việc cầu nguyện. Những thú vui, hưởng thụ xác thịt làm tôi xa dần đời sống luân lý về trong sạch và tiết đo. Những tìm kiếm danh vọng, tiền bạc biến tôi trở thành người ham mê danh vọng và quyền lực. Tôi trở thành người chỉ biết sống cho mình, không quan tâm đến yêu thương, chia sẻ với người khác. Quả thật, khi đánh mất đi mối bận tâm liên kết với Chúa, bỏ bê đời sống cầu nguyện, khô khan với việc đi tham dự thánh lễ và cử hành các bí tích, đời sống của chúng ta sẽ trở nên khô cằn, tàn lụi, đồng thời không có sức sống, không hữu ích cho xã hội và người khác. Khi chúng ta kết hiệp với Chúa Giêsu đời sống của chúng ta sẽ tràn đầy ân sủng và sẽ giúp ta trổ sinh nhiều hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Điều kiện thứ hai: phải chịu cắt tỉa. Cành nho muốn sai trái phải chịu cắt tỉa bởi những cành lá rườm rà. Cũng thế, đời sống đạo của chúng ta phải để Chúa cắt tỉa những gì dư thừa cản trở ơn thánh sinh hoa kết quả. Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư, những sự ích kỉ, đam mê để chuyên tâm đi tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài, những phô trương, hưởng thụ, ồn ào để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những giả dối, vô cảm với người khac để mặc lấy sự trung thực, bao dung, yêu thương. Chúng ta hãy can đảm để cho Chúa cắt tỉa chúng ta. Chắc chắn việc cắt tỉa này làm cho chúng ta đau đớn, khó chịu, nhưng đem lại những lợi ích vô cùng phong phú.
Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Người sống kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Sự kết hiệp ấy được diễn tả qua việc chuyên tâm cầu nguyện và luôn luôn làm theo thánh ý Chúa Cha. Người để cho Chúa Cha cắt tỉa khi Người từ bo ý riêng, nhận uốn chén đắng, nhận vác thập giá, nhận lấy cái chết tủi nhục. Để từ đó, Người đã sinh hoa trái dồi dào nuôi sống tất cả chúng ta. Chính vì thế, Người đã trở nên gốc nho sung mãn sự sống để chuyển thong cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu là cây nho thật, xin cho con biết kết hiệp mật thiết với Chúa. Xin hãy cắt tỉa những gì vô ích trong con để con sinh nhiều hoa trái thiêng liêng như Chúa mong ước. Amen.
32. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
Cây nho, cành nho và trái nho
Người ta nói rằng ở Ephêsô có 1 ngôi đền rất nổi tiếng. Đó là đền thờ thần Diana. Một trong những nét độc đáo làm cho ngôi đền trở thành nổi tiếng là trong ngôi đền đó có cả 1 thang lầu làm từ 1 gốc cây nho duy nhất được mang về từ đảo Chypre. Rất oai nghi! Rất hùng tráng. Biết được như thế chúng ta mới có thể phần nào hiểu được hình ảnh và ý niệm về cây nho mà hôm nay chúa Giêsu đãsánh ví với Ngài.
Một cách cụ thể, hôm nay Chúa Giêsu xác định và tuyên bố: "Thầy là cây nho các con là nhành". (Ga 15,5). Tại làm sao Chúa lại tyên bố như thế. Lời tuyên bố ấy được nói trong hoàn cảnh nào và có ý nghĩa gì?
Theo chú giải Kinh Thánh thì Đức Giêsu nói những lời này với các môn đệ ngay sau bữa ăn cuối cùng với các ông. Giả thiết rằng có thể trên đường đi từ nhà tiệc ly đến vườn Giêtsêmani. Đức Giêsu biết rằng Người sẽ phải rời xa các môn đệ để bước vào cái chết. Người cũng biết môn đệ Phêrô sẽ chối Thầy, Giuđa sẽ phản bội. Tất cả các môn đệ còn lại cũng sẽ chối bỏ Người. Mọi sự như tan vỡ và chấm dứt. Chính trong hoàn cảnh đó, Đức Giêsu đã xưng mình là cây nho và các môn đệ là cành nho.
Khi khám phá ra điều này, tôi hiểu rằng Chúa muốn bộc lộ một ước mơ, và Ngài muốn ước mơ đó trở thành hiện thực. Cũng có thể nói được rằng ước mơ đó là một chân lý. Chân lý đó ở chỗ này:
Cho dù các môn đệ có phản bội, có khước từ nhưng Ngài vẫn gắn bó vơi họ.
Và cho dù Chúa Giêsu không ở với họ theo nghĩa thể lý nữa thì chính sự liên kết bền chặt giữa các môn đệ là yếu tố nền tảng làm cho các ông vẫn đứng vững và đoàn kết với nhau bất chấp phản bội, bất chấp khước từ, bất chấp yếu đuối đến độ hèn nhát.
Chúa Giêsu diễn tả điều tôi vừa nói bằng hình ảnh gắn liền của thân nho và cành nho. Cây nho và cành nho có cùng một sự sống và cùng một dòng nhựa. Cành sống nhờ cây. Cành có khả năng sinh được hoa quả là nhờ nối kết với thân cây. Nếu cành tách lìa khỏi thân cây, chúng sẽ không chỉ trở nên cằn coi mà còn nhanh chóng bị khô héo và chết rục.
Cũng thế, giống như những cành cây cần thân cây. Chúng ta cần đến Đức Giêsu Kitô vì sự sống của Người. Khi bị tách lìa khỏi Người, chúng ta không có sự sống và không có kha năng sinh trái. Nhưng cây cũng cần đến cành. Chính những cành nho mới sinh những trái nho. Như thế, chúng ta không những cần đến Đức Giêsu mà Người cũng cần đến chúng ta. Người đợi chờ hoa trái của Người trổ sinh nơi chung ta, qua chúng ta. Nói cách khác chúng ta có bổn phận sinh hoa trái cho Người.
Thếnhưng thực tế chúng ta đã thực sự sản sinh ra những trái nho ấy chưa. Người khác có cảm nếm và thưởng thức được vị ngon vị ngọt của những trái nho ấy chưa.
Như thế, hoá ra lời tin mừng hôm nay lại là một lời tra vấn chúng ta, khi ta nhìn thấy sự cằn cỗi của ta, trong Giáo Hội và của thế giới. Đời ta không trổ sinh hoa trái được là vì ta chưa chịu cắt tỉa khi đời sống ta có nhiều cái thừa và không ít những cái thiếu. Thừa tiền bạc, thừa địa vị, thừa ích kỷ, thừa cái tôi chật hẹp của mình. Nhưng ta lại thiếu quá nhiều, thiếu cảm thông, thiếu chia sẻ, thiếu hợp tác, thiếu quan tam đến người khác... Đang khi đó, Giáo Hội tuy có không ít những thánh nhân nhưng lại có quá nhiều người như chúng ta. Điều đó làm cho khuôn mặt Giáo Hội thêm già nua, cằn cỗi. Bên cạnh đó, xã hội càng ngày càng nảy sinh nhiều vấn nạn: sự chênh lệch giàu nghèo, nạn ma túy, tình dục, siđa, nạn tham nhũng ở Á Châu và Việt Nam... đang là vấn đề thời sự. Khuôn mặt thế giới đang héo tàn.
Vì thế trách nhiệm sinh hoa trái thánh thiện đạo đức đòi hỏi ta rất lớn và rất nhiều. Và muốn được như thế đời ta cần chấp nhận cắt tỉa những gì cản trở những gì không cần thiết cho mùa dơm hoa kết trái. Đồng thời, ta hãy đóng góp những hoa trái tốt lành ấy cho nhân loại cho Giáo Hội. Được như thế mọi người sẽ nhận ra cây nho thật là Đức Kitô. Người trồng nho là Thiên Chúa. Và người ta sẽ cảm nếm được hương vị ngọt ngào, thánh thiện, thanh khiết của những trái nho. Amen.
33. Cây Nho hiệp nhất – AM Trần Bình An
Cây mít thường được trồng giáp ranh giữa hai thửa vườn. Với thân mộc xum xuê, cây mít hay mọc hỗn, che phủ tràn lan, nên bị cả đôi bên vườn tận tuỵ cắt cành lá chĩa qua. Nhưng nhờ vậy, cây mít lại càng sai trái, lủng lẳng suốt từ thân đến cành. Vậy mới có câu ca: “Mít chặt, chanh cột. Hoặc là “Mít chặt cành, chanh xén rễ.”
Nếu cứ để cây chanh thoải mái chĩa cành lên trời, thì chẳng thể nào chanh có trái. Nên người ta thường níu cành, cột đá vào kéo xuống, hoặc xén bớt rễ ngang, chanh mới cho sai trái. Cây nhãn muốn ra quả trái vụ, cũng được khắc quanh gốc, cùng các cành lớn. Còn cây dó bầu mà không bị thương tích trên thân, thì khong thể nào tích tụ trầm hương. Như thế, có những cây phải chịu thương đau, uốn nắn, cắt tỉa, mới có thể bội thu.
Trong Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố mình là cây nho, mọi người đều là cành nho. Cành nào khong sinh hoa trái sẽ bị cắt bỏ. Còn cành nào sinh hoa kết trái thì phải chịu cắt tỉa để thêm dồi dào năng suất. Như thế, cành nào muốn sống thì cần liên kết, hiệp nhất với cây nho.
Nhờ Người được sống
Nhờ hiệp nhất với Chúa Giêsu, tín hữu mới được sống thật, sống viên mãn đời này lẫn đời sau. Không như manna trong sa mạc, không như cơm bánh thế gian chỉ đem đến cái chết, bệnh tật, bất an, lo lắng, nỗi buồn, cơn đau, thất vọng, lương thực hang sống của Chúa Giêsu trao ban, chính là thực thi Thánh Ý Chúa, cùng sống Lời Chúa và đón rước Thánh Thể. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4, 34)
Chọn cái chết hay sự sống là quyền tự do của mỗi người, mà Chúa luôn tôn trọng. Nhưng Người luôn tha thiết mời gọi, khuyên răn sống kết hiệp với Người để có thể tu thân, tích đức và được sống:“Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.” (Ga 15, 4)
Với lòng thương xót từ bi, Người ân cần cảnh báo hệ quả dành cho những ai dứt khoát tuyệt tình, từ chối hiệp thông với Người:“Ai không ở trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.” (Ga 15, 6)
Trong xã hội thực dụng hôm nay, thiên hạ đua nhau thờ Thần Tài, sản nghiệp, danh vọng, tham lam vô độ đến vỡ mộng vì mất mát, mất chức quyền, mất tình người. Thay vì hút lấy nhựạ sống thật, thì chỉ toàn tích trữ những nọc độc gian dối, virus đố kỵ, mầm mống chia rẽ, tiêm nhiễm thói xấu, di căn tà đạo, thất đức, bất nhân, bất nghĩa. Vậy làm sao sinh được hoa thơm, trái ngọt?
Thánh Phaolô khuyên nhủ đừng trông cậy vào của cải vật chất phù du, mà luôn trông cậy, hy vọng vào Chúa mà thôi: “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dung.” ( 1Tm 6, 17)
Với Người chịu hy sinh
Hiệp nhất với Chúa Giêsu là đồng nghĩa bỏ mọi sự, mà chấp nhận vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa. “Còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.” (Ga 15, 2)
Con đường Đức Giêsu đi là con đường chông gai, khổ hình và chết nhục nhã, nên Người tiên báo và an ủi các môn đệ qua chính sự phục sinh của Người: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan, khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” (Ga 16, 33)
Chính vì hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, muốn noi gương Người, mà Thánh Phaolô hy sinh chịu khổ nhục, tù đầy, xiềng xích, đã viết thư chia sẻ cùng tín hữu thành Philípphê: “Van đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11)
“Con không hiểu tại sao thánh Augustinô cầu nguyện:“Xin cho con biết Chúa, cho con biết con!” Vì Chúa nói với Philipphê: “Đã bao lâu rồi, Ta ở với các ngươi! Thế mà, Philipphê ngươi đã không biết Ta sao?” (Ga 14, 9). Nếu “biết” thật, đời con sẽ đổi hẳn. (Đường Hy Vọng, số 100)
Trong Người được phục sinh
Chỉ khi nào sống kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, người tín hữu mới được dưỡng nuôi, phat triển, sinh nhiều hoa thơm trái ngọt, những nhân đức cao quý: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15, 5)
Ở trong Người là thấm nhuần Lời Chúa, mà đem thực hành mới được sống đời đời. “Ai nghe lời Tôi, và tin vào Đấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.“ (Ga 5, 24)
Ở trong Người là thường xuyên đón rước Lương Thực cực quý, Mình và Máu Đức Giêsu trong nhiệm tích Thánh Thể: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi, mà được sống như vậy. (Ga 6, 56-57)
Ở trong Người là cùng chịu vác thánh giá, cùng chịu khổ hình với Đức Kitô, như thánh Phaolô chịu nạn, trở nên đồng hình đồng dạng với Người: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” ( Gl 2, 19-20)
“Một cuộc cách mạng thực sự, khả dĩ canh tân tất cả, từ lòng con người, mà chính mình cũng không dò thấu, đến toàn bộ cơ cấu chính trị, kinh tế, xã hội… của thế giới, không thể thực hiện “ngoài con người, ngoài Thiên Chúa,”chỉ thực hiện “bởi con người, trong Chúa Kitô, với Chúa Kitô.” Con hãy dấn thân vào mặt trận cách mạng thế giới ấy.” (Đường Hy Vọng, số 623)
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót cứu giúp chúng con là những cành nho yếu đuối, èo uột, mong được hiệp nhất với Cây Nho Đức Giêsu để được chữa trị, chăm sóc, được sống và sinh hoa trái.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ cầu bầu cho chúng con chịu đựng những gian nan, thử thách, những nhát cắt tỉa đau đớn, những sự từ bỏ xác thịt, thế gian và cám dỗ, để chúng con được sống dồi dào mạnh khoẻ, sống tốt lành và bội thu hoa trái sự sáng. Amen.
34. Cây Nho Thật – AM Trần Bình An
Cây nho là biểu tượng bình an và thịnh vượng của dân Do Thái. Có lẽ vì thế hình ảnh cây nho đã được khắc trên đồng tiền Do Thái dưới thời dòng họ Maccabe, thế kỷ II, trước Công nguyên. Theo sử gia Josephus, sau này vua Hêrôđê còn trang trọng gắn trên cửa vào Đến Thờ, một cây nho bằng vàng.
Trong Kinh Thánh, cây nho cũng từng được nhắc đến với tần xuất khá cao, để khắc họa dân tộc Israel, mà trước đây Thiên Chúa đã từng yêu thương giải thoát khỏi kiếp đọa đầy nô lệ ở Ai Cập: ”Gốc nho này Chúa bứng từ Ai Cập, đuổi chư dân lấy chỗ mà trồng. Chúa khẩn hoang bốn bề quang đãng, cho bén rễ sâu mà lan rộng khắp nơi.” (Tv 80, 9-10) Nhưng Israel đã đền đáp lại bằng thái độ bất trung, bất nghĩa với Thiên Chúa. “Ta đã trồng ngươi như cây nho hảo hạng, cây nho thuần chủng. Sao ngươi lại thoái hóa thành những cây nho tạp chủng?” (Gr 2:21)
Thầy là cây nho thật.
Vì thế, Đức Ki tô muốn xóa đi hình ảnh cây nho đã bị thoái hóa, lai tạo, hay biến đổi gien kia, bằng cách công bố, chính Người chính mới là cây nho thuần chủng, thuần giống, nguyên mẫu do chính Thiên Chúa trồng cấy. Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. (Ga 15, 1) Đồng thời mời gọi nhân loại tái sinh, trở về cội nguồn giống tốt, nguyên thủy, nhân chi sơ, tính bản thiện.“Không ai có thể vào nước Thiên Chúa, nếu không tái sinh bới nước và Thần khí (Ga 3, 5)).
Anh em là cành
Thật bất ngờ, Đức Kitô không hề phân biệt đâu là cành chính, đâu là cành phụ, hoặc ai là nhánh cái, ai là nhánh con. Dưới mắt Người, nhân phẩm mọi người đều bình đẳng, đồng hạng và giá trị ngang nhau, không hơn, không kém. Có khác chăng, chính là mức độ kếp hợp mật thiết với Người như thế nào mới đáng kể.
Từ khi Adam và Eva ăn trái cây biết lành biết dữ, con người bắt đầu vướng vào cái tâm phận biệt. Chính cái tâm phân biệt này tạo ra lắm phiền muộn, nghiệp chướng, đánh mất tình người, tình huynh đệ tương thân, tương ái. Chẳng hạn khi con người trầm luân vào vòng cương tỏa của cái thiện, cái ac, hơn thiệt, tốt xấu, của giai cấp cao thấp, mới phát sinh ra thái độ vô minh, khen chê, cái thói nịnh trên, nạt dưới, trọng phú, khinh bần, bon chen, chà đạp, hãm hại lẫn nhau, coi nhau như thù địch, như bậc thang leo lên danh lợi…
May thay, Người quá đỗi thương yêu nhân loại, đã kịp thời đến giải thoát con người khỏi cái tâm hư đó, cùng ban tặng lại tình người, tình huynh đệ, một khi cành nào biết kết hợp chặt chẽ vào cây nho thật là Người. Nguyện ước của Người là tái lập lại quan hệ song phương hỗ tương hiệu quả.
Chúa luôn hiện diện trong đời sống từng người, từ khi người ta nhận bí tích Thánh Tẩy. Nhưng con người lại không phải luôn luôn ở trong Người, mà có khi ở trong người khác, hay của cải, danh lợi, ham muốn, dục vọng, nên từ chối hợp nhất với Người, như cành nho chối bỏ dưỡng chất cần thiết để sinh trưởng, nên sẽ bị đào thải, bị đốn đi, quăng vào lò lửa. “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi.”(Ga 15, 2)
Chịu cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái
Cây nho luôn được tận tình chăm sóc tỉa cành. Trong ba năm đầu người trồng không cho đơm bông kết trái, mà còn tỉa thật sạch để cây nho phát triển và giữ được sức sống mạnh mẽ. Nếu không được cắt tỉa thật kỹ cây nho sẽ không cho trái nhiều.
Thảo vật còn phải chịu hy sinh như thế, huống hồ con người, tạo vật cao cấp, muốn trở nên tốt lành, đạo hạnh, hầu xứng đáng kết hợp vói Đấng Tối Cao. Ngoài tuân giữ lề luật, còn phải dứt khoát với những thói kiêu căng, tự phụ, khoe khoang, màu mè, phù phiếm, như cây nho phải chịu đau đớn bấm ngọn, tỉa chồi khỏi lãng phí nhựa, mới sinh nhiều hoa trái. “Còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.” (Ga 15, 2)
Lời Thầy ở lại trong anh em
Khi liên kết với nguồn mạch sự sống, con người được Lời Chúa hướng dẫn soi đường.“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”(Tv 119, 105). Lời Chúa chính là mối liên kết chặt chẽ giữa cành và với thân cây nho, điều hoa sức sống, mạch nhựa nuôi dưỡng toàn thân, đem lại phong phú kết quả. Lời Chúa tỉa gọt, mài dũa, chấn chỉnh tâm hồn con người trở nên trong sáng, hoàn thiện, phù hợp với sự sống vĩnh cửu. Khi thật sự sống Lời Chúa, cùng liên lỷ cầu nguyện, thì con người mới có thể trổ hoa kết trái nhiều.
Và anh em trở thành môn đệ của Thầy
Nguyện ước của Người chẳng viển vông, mà rất thực tế và hữu ích cho con người, là trở nên đồng hình đồng dạng với Người, kết hiệp mật thiết với Người, chịu hy sinh thử thách và quên mình như Người, để cho Danh Cha cả sáng, qua vai trò chứng nhân Tình Yêu, phục vụ tha nhân và mở mang Nước Chúa.“Ai muốn làn môn đệ Ta, phải bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”(Mt 16, 24)
Lạy Chúa, xin cho con sống niềm tin vững vàng, cùng thể hiện niềm tin ấy qua cuộc sống liên kết thân hữu với mọi người, biết hy sinh bản thân, từ bỏ những phù phiếm trần tục, để có thể gặt hái nhiều hoa thơm, trái ngọt dang lên Chúa.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin luôn giữ gìn con sống trong ân sủng của Chúa, để con khỏi bị cắt bỏ, và quăng vào ngọn lửa đời đời. Amen.
35. Cây nho đích thực
(Suy niệm của Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 15: 1-8: khi Thiên Chúa cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.
Đối với nông dân vùng Palestine thời Chúa Giêsu, cây nho là một tài sản quí giá nhất. J.P.Charlier đã lưu ý: Để có một ý niệm về cây nho ở Israel và trong những vùng phụ cận nắng cháy, chiêm ngắm những vườn nho vùng Bourgogne hay Bordeaux ở nước Pháp chẳng ích lợi gì. Những gốc nho ôn đới chẳng có gì giống với gốc nho vùng Palestine vốn lớn như cổ thụ xum xuê cành lá chứ không phải là những thân nho được cắt tỉa kỹ lưỡng và nhỏ xíu như ở Âu Châu. Phải biết rằng cả một thang lầu trong đền thờ thần Diana ở Ephêsô tạc từ một gốc nho duy nhất mang về từ đảo Chypre. Nếu không nhớ đến vẻ oai nghi hùng tráng đó, sẽ không tài nào hiểu nối một thành ngữ rất thông dụng trong Thánh Kinh "nghỉ dưới gốc nho" (1V 4,25; Mk 4,4). "Đức Giêsu ở giữa dân Người" ("Đọc Thánh Kinh" số 78, trang 54).
Chẳng lạ gì cây nho, đã trở thành biểu tượng của sự phú túc và sự hào phóng của Thiên Chúa, rất thường được Kinh Thánh dùng như hình ảnh để chỉ Dân Thiên Chúa đã chọn và đã xếp đặt những mối liên hệ yêu thương và âu yếm. Ôsê đã chẳng miêu tả Israel như một cây nho xum xuê nặng trĩu quả đó sao? (Hs 10,1)”. Chính vì vậy Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cây nho để nói với chúng ta: "Thầy là cây nho thật, các con là cành nho”. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài đang nói.
Tại Palestine, cây nho thường mọc trên những thềm đất nơi cao, nền đất phải sạch sẽ. Có khi người ta trồng thành hàng rào, có khi thả bò sát đất trên ít cành cây, cũng có khi người ta cho nó bò lên cửa những ngôi nhà tranh. Nhưng dù mọc ở đâu, việc cần thiết là phải cắt tỉa thật kỹ. Nó mọc xanh tốt đến nỗi phải chia hàng cách khoảng ít nhất 4m, vì nhánh nho phát triển nhanh.
Một cây nho trong ba năm đầu chưa cho trái, mỗi năm, nó phải được cắt tỉa thật sạch để có thể phát triển và giữ được sinh lực. Khi đến độ trưởng thành, người ta cắt tỉa nó vào tháng 12 hoặc tháng 01 dương lịch.
Có hai loại nhánh nho, một loại ra trái và một loại không ra trái. Loại nhánh không ra trái phải cắt bỏ, để chúng khong hút hết sinh lực của cây nho. Cây nho sẽ không thể cho trái đúng mức nếu không được cắt tỉa thật kỹ. (William Barclay)
Muốn nhiều hoa quả, cần phải được cắt tỉa. Nhưng cắt tỉa là một quá trình gây đau thương cho một cây ăn quả. Đây là một thực tế không thể chối cãi được. Nhưng mục đích của việc cắt tỉa này không phải là bắt thân cây phải chịu đựng đau đớn, mà là để giúp cho thân cây tạo ra nhiều quả hơn, và quả được ngon hơn.
Cũng vậy, với con người chúng ta, mục đích của cắt tỉa không phải là làm cho chúng ta đau đớn nhưng là để giúp chúng ta sinh trái nhiều hơn và tốt hơn. Có rất nhiều điều chẳng những vô ích mà còn có hại cho sự sống chúng ta, làm hao hụt năng lực chúng ta và cản trở sự sinh hoa trái thiêng liêng của chúng ta. Tất cả những cái đó cần phải được cắt tỉa.
Chính vì vậy khi Thiên Chúa cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.
Nói tới việc cắt tỉa là chúng ta phải nói đến vấn đề đau đớn, vấn đề đau khổ. Vấn đề đau khổ là một thực tại ngàn đời tồn tại và luôn luôn đòi được giải đáp. Đau khổ đến với ta dưới mọi hình thức: tinh thần, thể xác, bên ngoài, bên trong, cá nhận, tập thể, cộng đoàn. Ta có cảm tưởng đó là một lực lượng đến phá hủy tiềm năng phát triển con người. Nhưng với ánh sáng Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy được một khía cạnh của đau khổ. Thiên Chúa muốn dùng đau khổ để cho ta sinh hoa trái tươi tốt về đàng thiêng liêng. Điều cần thiết là chúng ta có nhận ra được ý nghĩa của những đau khổ mà Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta.
Một tấm gương điển hình: Cha Titus Brandsma trong cũi chó: Cha Titus Brandsma, thời thế chiến thứ hai, là viện trưởng viện đại học Hòa Lan. Ngài bị Đức Quốc xã bắt và giam tại trại Tập Trung Dachau, Người ta nhốt ngài trong một chiếc cũi chó. Đám lính canh, mỗi lần đi qua, bắt ngài sủa lên như chó. Cuối cùng, ngài đã chết thê thảm, vì bị tra tấn quá tàn nhẫn.
Trong không gian nhỏ bé của một cũi chó, bị chế nhạo như con chó và bị đối xử như một con vật ghê tởm…ngài vẫn chịu đựng. Đặc biệt, còn đủ kiên trì viết lại nhiều suy nghĩ về đau khổ, trong một cuốn sách cũ kỹ, trên một khoàng trống ở giữa hai hàng chữ. Chúng ta có thể nêu ra ở đây một lá thư ngỏ của ngài, gởi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, không một nỗi đau nào làm con ngã xuống được, vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa.
Con đường cô độc chúa đã đi qua, đã giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan…Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ở lại với con, chỉ cần Chúa ở lại với con thôi. Nếu khi đưa đôi tay ra, con cảm thấy Chúa đang ở bên, con sẻ chẳng còn sợ hãi nữa”. Amen.
36. Định danh Kitô hữu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Một hình ảnh rất đẹp khác mà Chúa Giêsu đã sử dụng để nói lên tương quan sống còn và tương quan triển nở giữa các môn đệ của Ngài với Ngài là hình ảnh cành nho với thân nho. Muốn sinh nhiều hoa trái thiêng liêng, người Kitô hữu cần phai kết hợp mật thiết với Chúa Kitô là nguồn sống, tức là phải ở lại trong tình yêu của Ngài. Ở lại qua việc tuân giữ lời Ngài. Đồng thời phải chấp nhận để cho Thiên Chúa cắt tỉa, thanh luyện, nghĩa là phải chấp nhận hy sinh thử thách và gian khổ. Dĩ nhiên cắt tỉa là phải đau đớn. Có khi bị rướm máu.
Nhìn lại thực trạng sống đạo hôm nay, chúng ta dễ dàng thấy có 3 hạng Kitô hữu:
- Hữu danh vô thần:
Họ là những người mang danh là Kitô hữu, xưng mình là đạo gốc đạo dòng, là "cành nho" chính thống, nhưng đã tách lìa Đức Kitô và xa lìa Giáo hội. Họ sống như những người vô thần không hơn không kém. Họ không giữ đạo và cũng không sống đạo.
Đây là hạng ngươi đáng sợ nhất vì họ rất dễ rơi vào nguy cơ tháp nối với cây tiền tài, cây danh vọng, cây quyền lực, cây sắc dục.... Và chắc chắn cành nho đời họ sẽ sinh trái nho hoang nho dại, thậm chí là nho độc nho hại nữa.
- Hữu danh vô thực:
Là những người mang danh có đạo, có khi giữ đạo tốt, nhưng không sống đạo hay sống đạo kiểu cầm chừng, đủ rỗi linh hồn là được. Có đạo nhưng không thực hành đạo vì ngại bị cắt tỉa, ngại dấn thân, sợ thua thiet.
Số phận của những người hữu danh vô thực thì sao? Có thể nói được rằng số phận của họ thật đáng buồn vì họ như những "cành nho vô tích sự" không sinh được hoa trái thiêng liêng nào, nên chỉ còn có việc chặt làm củi.
- Hữu danh hữu thực:
Đây là những Kitô hữu sống đạo thực sự. Họ sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh sinh, mọi cắt tỉa mỗi ngày để hoa trái được phong nhiêu: "Hạt 30, hạt 60, hạt 100". Đối với họ, Lời Chúa luôn là nhựa sống đem lại sự sống cho cành nho đời họ. Lời Chúa còn là phương thế cắt tỉa, thanh luyện để họ có thể sinh hoa trái dồi dào hơn: hoa trái bác ái yêu thương, hoa trái công bình chính trực, hoa trái hiệp nhất bình an....
Tôi đang thuộc hạng người nào trên đây? Phúc cho tôi nếu tôi có tên trong danh sách những người thuộc hạng thứ 3, "hữu danh hữu thực". Ngược lại, thật bất hạnh cho tôi nếu tôi bị liệt vào hàng ngũ những người thuộc diện "hữu danh vô thực", hay "hữu danh vô thần", là những hạng Kitô hữu sẽ bị phán xét công thẳng trước toà phán xét của Thiên Chúa sau này.
37. Kết hợp và sinh trái – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Phúc âm Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu dùng hình ảnh con chiên và người chăn chiên để nói về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người. Mục tử chăm sóc đoàn chiên.
Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói đến sự thông hiệp giữa loài người với Thiên Chúa. Cành nho phải gắn vào thân nho để sống và sinh hoa trái.
Ý nghĩa của lối so sánh là kết hợp và sinh trái. Càng kết hợp chặt chẽ càng sinh nhiều hoa trái. Chúa dạy chúng ta điều kiện căn bản là kết hợp với Chúa, mới đem lại hoa quả thiêng liêng cho chính mình và cho người khác.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”(Ga 14,5). Có tới 9 lần cụm tụ “ở lại trong” được lặp lại trong đoạn Tin mừng này. Mỗi người phải “ở lại trong” Thầy, bởi vì: “Không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 14,5).
Nếu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu, được kết hợp với Ngài thì chúng ta sẽ lãnh được sức sống của Ngài. Chúa Giêsu ở trong Thiên Chúa nên khi kết hợp với Ngài, chúng ta cũng được kết hợp với Thiên Chúa và múc được sự sống của Chúa Ba Ngôi.
Cành nho gắn với thân nho và liên kết với những cành khác. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống sẽ cằn cỗi, khô héo. Nhựa sống trong thân cây lưu chuyển, cho mọi cành để cùng nhau sinh nhiều hoa trái. Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hợp với nhau trên con đường nên thánh.
Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Tách lìa Người, chúng ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Thiên Chúa là dòng sông ân sủng. Khi kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho chúng ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Nhờ kết hiep mật thiết với Chúa, chúng ta được sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.
Bài đọc 1, kể chuyện thánh Phaolô trở lại trên đường Đamat. Từ con người phản nghịch trơ thành con người của ơn thánh. Từ con người ghét đạo trở thành con người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng. Phaolô đã đúc kết mối liên kết cuộc đời mình với Chúa Kitô trong một câu bất hủ: "Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi" (Gal 3, 20).
“Đức Kitô sống trong tôi”nên tôi mới sinh hoa trái yêu thương như lời Thánh Gioan trong bài đọc 2: “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ơ trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. “Sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, đem niềm vui và hạnh phúc cho người khác.
Lúc ban đầu, khi các môn đệ mới theo Chúa, Thánh Gioan viết: “Các môn đệ đã đến xem chỗ Ngài ở và lưu lại với Ngài” (Ga 1,39). Sau những năm sống với Chúa, Thánh Gioan đổi cách dùng ngôn ngữ: “Các con hãy ở lại trong Thầy cũng như Thầy ở trong các con” (Ga 15, 17). Ở với là ở bên cạnh. Ở trong là trọn vẹn thuộc về người ấy. Khi Phêrô ở với Chúa là ở bên cạnh thôi nên vẫn còn hai bước chân khác nhau, hai ý nghĩ không chung đường và Phêrô đã có những bước chân sai đi lạc lối. Con ở trong là nên một trong nhau. Chính nhờ ở trong Chúa mà Phêrô đã trở nên con người mới, hoàn toàn thuộc về Chúa.
“Ở lại trong” và “gắn liền với” Chúa là điều kiện cần thiết để “sinh nhiều hoa trái”. Chúa Giêsu đã song chân lý đó trong sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha, và Ngài đã cầu nguyện cho chúng ta được nên một với Ngài trong sự sống đó (Ga 17,21-22).Chúng ta kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện, Thánh Lễ và các Bí Tích. Chúng ta còn kết hợp với Chúa qua việc biểu lộ lòng trung tín như lời Thánh Phêrô: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68).
“Gắn liền với” hay “ở lại trong” Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài, chúng ta sẽ có một cuộc đời tươi đẹp, ý nghĩa, chẳng những đầy nội lực, an vui, hạnh phúc mà còn là nguồn sức mạnh, nguồn an vui hạnh phúc cho mọi người nữa. Moi liên kết này làm cho chúng ta có cùng bản tính với Chúa Giêsu, được nên một với Ngài: một sự sống, một tình yêu, một tinh thần, một ý chí và hành động. Từ đó, trở nên chi thể trong nhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta là oc để suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ đòi hỏi, là vai để vánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người khổ đau, là quả tim để khắc khoải yêu thương, và là miệng để nói những lời bác ái ủi an (ĐHY 341).
Dụ ngôn “cây nho” là bài diễn từ về cuộc sống siêu nhiên. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy luôn gắn bó mật thiết với Chúa. Nhờ ân sủng của Chúa, đời sống chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành. Hoa trái chính là yêu thương, chia sẻ, cảm thông, tấm lòng rộng mở, biết quan tâm đến người khác. Sống được như vậy, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Đấng Phục Sinh, đồng thời cũng làm cho Chúa Cha ngày càng được vinh hiển, như lời dạy của Chúa Giêsu: “Đây là điều làm cho Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế, các con trở nên môn đệ của Thầy”.
38. Không sống trước mặt Chúa, mà sống trong Chúa.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn Phúc Âm này trích ở bài giảng thứ hai của Chúa trong bữa Tiệc ly –Và cần được đặt vào trong bầu khí thánh lễ tạ ơn, tâm điểm của Tiệc ly. Việc Chúa làm phép và tiến dâng rượu khiến ta nhớ đến dụ ngôn cây nho. Cựu Ước từng dùng cây nho để chỉ dân Chúa. Ở đây Chúa muốn cho người ta biết Chúa thực hiện trong Người một tập hợp gồm ơn tuyển chọn, sự quan phòng chiếu cố và phương thế cứu rỗi –mà thời xưa người ta gán cho dân Chúa. Tư tưởng chính của đoạn văn tập trung vào thực tại cảu sự kết hợp, ngay từ dưới thế, gữa người Kitô hữu và Đức Kitô. Kitô hữu không sống trước mặt Đức Kitô, nhưng sống trong Đức Kitô. Ta ghi nhận, trong đoạn văn ngắn này, từ ngữ “trong Ta” được thánh chép sử dùng tới 5 lần.
1) Kitô hữu được nối mạch với Đức Kitô giống như cành nho được tháp vào gốc nho. Không có Đức Kitô thì người Kitô hữu chẳng là gì hết. Nhờ Đức Kitô mà người tín hữu được sống, có được nhựa sống, và khả năng kết trái. Có thể trên gốc nho nảy ra một cành không theo quy luật thiên nhiên về cây giống –nó chỉ tốt cành tốt lá mà không cho quả. Nhà trồng nho gọi nó là “giống tham ăn”, chặt và liệng đi. Phải chăng có thể có những người lãnh nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm mà không sinh hoa kết quả? Thưa có, đấy là những kẻ không quan tâm sống nhờ vào Chúa, vẫn rao giảng Phúc Âm theo lối riêng. Thánh Inhaxiô thành Antiôchia, ở thế kỷ thứ hai, từng nhận xét: “Hãy đề phòng những cục bướu có hại trên thân nho, chúng không do Đức Giêsu Kitô chăm bón, vì chúng không được Chúa Cha vun trồng. Những cục u bướu đó là hình bóng những kẻ nào xưng mình là thuộc về Giáo Hội và Phúc Âm mà thật sự không sống hiệp thông với Đức Giêsu Kitô”.
2) Nhành nào sinh quả, Cha Ta tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn. Nhìn vào cung cách Thiên Chúa dẫn dắt người tín hữu ngay thật, chúng ta thấy tất cả được sắp đặt sao cho nhiều hoa sai quả –quả đây là sự thành toàn số mệnh theo thánh ý Chúa. Sống trong Đức Kitô, người tín hữu được nuoi dưỡng bằng lời giảng dạy và gương mẫu Chúa, bằng lời Chúa, ân sủng nội tâm và Mình Máu Thánh Người. Tuy vậy vẫn có thể xảy ra điều này: do một sự quá dồi dào tư tưởng, quá nhiều dự định, một sự thiếu sáng suốt, mot tật nguyền tâm thần –một sự yếu đuối của ý chí v,v… bỗng nhiên nổi lên trong người đó sự lầm lạc này hoặc sự bất trung nọ. Chính vào lúc đó, nhắm vào quả đang lớn cần được gìn giữ cho tới lúc chín, Chúa ra tay xén tìm lòng trí người đó, thanh luyện y, loại bỏ những cành thừa chẳng ích lợi gì vì tranh chiếm sinh lực cần cho cây sống. Tất nhiên là đau xót, nhưng tránh được, vì đây là quy tắc cuộc chơi. Trung kiên trong đức tin và thanh khiet trong sự ngay lành –cả hai đem lại những thực nghiệm đau khổ.
Lại nữa, làm sao người ta có thể ở trong Đức Kitô mà lại không theo Chúa trên đường hy sinh được? Muốn hái quả kỳ diệu của sự sống lại thì phải làm cuộc vượt qua bằng thập giá. Thập giá Chúa chính là sự lột bỏ trơ trụi cực độ của Chúa. thập giá của chúng ta là sự thanh luyện cực độ. Nếu đôi khi chúng ta cảm tháy như thể Chúa Cha tỉa xén trong xác thịt, trong linh hồn, trong trái tim chúng ta, những lúc đó chúng ta hãy cố thu hút nhiều hơn nữa chất sống từ Đức Kitô, hãy dũng cảm vì lời hứa của những trái đang chờ chín.
39. Kết hiệp với Chúa
(Suy niệm của Huệ Minh)
Đêm trở gió! Sáng dậy, vừa bước chân ra sân thì nhìn thấy cành xoài bị gãy! Đó là hậu quả của đêm hôm qua với cơn lốc và gió mạnh đi qua.
Cành xoài nặng trĩu những bông hoa đang đơm trái cũng như những trái non đang lớn nay đã không còn liền cây nữa. Chỉ có một chuyên duy nhất là lất cái cưa ra để cưa phần còn lại dính cây và dọn dẹp bãi "chiến trường".
Trưa đến, vài người trong xóm ghé nhà thấy cây xoài xum xuê hoa và trái cảm thấy tiếc nuối cùng gia chủ. Không phải chỉ cây xoài nhà tôi bị gãy cành tối qua nhưng những cây gần nhà xung quanh xóm cũng cùng chung số phận với cây xoài nhà tôi do cơn lốc lớn.
Tiếc thương cũng rồi bởi lẽ không có cách nào ghét được cái cành gãy lìa khỏi thân.
Nhìn cây xoài mất cành chợ nhớ đến hình ảnh cây nho ngày hôm nay Chúa nói trong trang Tin Mừng.
Để diễn tả mối tình thân giữa mình với các môn đệ, Chúa Giêsu dùng hình ảnh rất gần gụi trong đời sống đó là cây nho và cành nho. Dĩ nhiên ai ai cũng biết rằng cành nho sinh hoa kết quả khi nó gắn liền thân nó vào cây nho. Cũng như cành xoài kia, muốn có hoa quả tiếp tục thì không có cách nào khác là phải gắn vào cành cây.
Hình ảnh thân thương đó gợi lên cho ta hình ảnh thật gần với Thầy Giêsu. Chúa Giêsu diễn tả mối thân tình giữa các môn đệ và Chúa Giêsu sẽ sinh nhiều hoa trái nếu như cành đó được tỉa sạch đi những chỗ khuyết chỗ dư.
Như thế, càng kết hiệp với Chúa Giêsu, càng cắt tỉa đời mình thì người môn đệ cũng sẽ sinh nhiều bông hạt như lòng Chúa mong muốn.
Hẳn nhiên, nếu ta kết hợp thật, kết hợp thân tình thì ta sẽ sinh những hoa quả thật.
Điều này, ta thấy Thánh Gioan tông đồ vừa nhắc nhở ta rất chân tình trong thư của Ngài: Các con thân mến, chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân thật. Do đó, chúng ta biết mình thuộc về sự thật, và sẽ được vững lòng trước mặt Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có khiển trách chúng ta, thì Thiên Chúa còn lớn hơn lòng chúng ta và Người thông biết mọi sự.
Có lẽ, nếu như Chúa Giêsu đến và hỏi ta thì ta cũng sẽ nói rằng: "Lạy Chúa! Chúa biết con kết hợp với Chúa mà!"
Nhưng, kỳ thực ta sống với Chúa như thế nào? ta kết hợp thân tình với Chúa như thế nào chỉ có ta mới lượng định được thôi.
Một ngày, Chúa ban cho mỗi người chúng ta đồng đều như nhau là 24 giờ và 1 tuần lễ có 7 ngày. Ai cũng biết và ai cũng có quỹ thời gian như thế nhưng thử hỏi ta sống với Chúa được bao nhiêu giờ trong ngày và bao nhiêu giờ trong tuần.
Hẳn nhiên ta cũng sẽ trả lời vời Chúa rằng: "Chúa ơi! Con phải lo cơm áo gạo tiền, con phải vất vả với cuộc sống lắm!"
Lý do ngụy biện của ta đúng lắm vì ai ai cũng phải lo kế sinh nhai. Thế nhưng trong thực tế ta có bận đến độ như ta biện minh với Chúa hay không?
Chỉ là 1 giờ đồng hồ để gắn kết với Chúa 1 tuần nhưng ta vẫn thường tính trước tính sau và cân đo đong đếm với Chúa. Dường như ta sợ đến với Chúa nhiều giờ ta cảm thấy thiệt thòi và lỗ vốn hay sao đó!
Không phải là nhiều nhưng có những người tìm đến vời nhà thờ ở Sài Gòn nổi tiếng với lễ Chúa nhật có giảng luôn chỉ vỏn vẹn 30 phút! Đến với Chúa còn tính đến độ đó thì làm gì có thời gian, có tâm tình ở lại với Chúa được.
Không chỉ với Chúa người ta tính thời gian như thế nhưng rồi ngay cả ở với nhau người ta còn tính toán.
Một thực tế rõ ràng trong cuộc sống: Giữa cuộc sống bộn bề hối hả, các bậc cha mẹ thường bị cuốn theo công việc và những mối lo toan hàng ngày. Vì thế, họ ít dành thời gian để trò chuyện hoặc chơi với con, với gia đình. Điều đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân cách và sự hòa nhập của trẻ trong tương lai cũng như sự gắn kết với nhau trong tình gia đình.
Một câu chuyện thật dễ thương mà chắc ai nào đó cũng đã từng được nghe: Bán cho con 1 giờ của cha”.
Câu chuyện đã làm tôi suy nghĩ mãi, nội dung câu chuyện nói về việc đứa con muốn người cha của em dành cho em một khoảng thời gian nên em đã hỏi cha. "Cha ơi, một giờ làm việc cha kiếm được bao nhiêu tiền?”. Người cha đó mới đầu đã rất bực khi nghe đứa con bé bỏng của mình hỏi vậy. Nhưng ông đã cho con biết một giờ làm được bao tiền, sau khi nghe cha nói em bé đã hỏi xin người cha tiền. Người cha quát: "Sao con ích kỷ thế, cha đã làm việc cả ngày vất vả mà con còn xin tiền để mua đồ chơi vớ vẩn. Thằng bé nhìn cha vội vã trở về phòng. Sau khi tắm rửa, cơm nước và nằm thoải mái xem tivi, người cha sực nhớ lại hành động của mình hồi sáng và cảm thấy tội nghiệp thằng bé. Có thể thằng bé muốn mua một cái gì đó và ông đã đưa cho con tiền. Thằng bé bật dậy lấy tiền của cha và lấy thêm một chút tiền lẻ mà nó đã để dành được dưới gối. Thằng bé nói: "Con đủ tiền rồi, cha bán cho con 1 giờ làm việc của cha đi. Con muốn cha chơi với con nhưng lúc nào cha cũng bận làm việc"!
Hãy dành thời gian cho con cái, cho gia đình của bạn, đó là thông điệp mà các thiên thần nhỏ cũng như gia đình của bạn đang mong muốn.
Vì thế dù bận đến đâu đi chăng nữa ta hãy dành một chút thời gian cho con ta, cho vợ ta cho chồng ta, cho gia đình ta đôi khi chỉ là để nghe con giải thích và đừng bao giờ để con bạn nói rằng: “Bán cho con 1 giờ làm việc của bố đi!”
Chúa cũng sẽ nói với ta: "Bán cho Chúa 1 giờ làm việc của con cho Ta".
Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta vượt giới hạn con người nhỏ bé của ta để ta dành thời gian đời ta cho Chúa và gắn kết đời ta với Chúa. Chỉ khi ta gắn kết đời ta với Chúa thì khi đó ta mới sinh ra những hoa quả như lòng Chúa mong muốn mà thôi.
40. Để sinh trái phải kết hợp với cây Giêsu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật thứ IV vừa qua Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động để diễn tả tương quan rất dễ thương giữa Thiên Chúa với Dân Ngài là " Mục tử" và "đàn chiên". Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng một bức họa phuc dụ về cây nho và nhành nho, tự ví von mình là cây nho thật, các môn đệ là nhành và Chúa Cha là người trồng nho. Chúa nói: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho" (Ga 15,1). Các môn đệ là nhành để có nhiều hoa trái thì phải kết hợp với Chúa như cành với cây, như dây với đàn. Điều này không có gì lạ, vì trong Kinh Thánh, rất nhiều lần dân Itraen được sánh ví với vườn nho sai trái khi trung tín với Thiên Chúa; nhưng một khi họ xa Chúa, tức cành lìa khỏi cây, họ trở nên khô héo, không còn khả năng làm ra "loại rượu làm phấn khởi lòng người" nữa (x. 104,15).
Thuật ngữ "hoa trái" được lặp đi lặp lại cả thảy sáu lần trong đoạn Tin Mừng (Ga 15,1-8), cho thấy hoa trái là điều tối cần đối với cây. Người trồng nho nào khi cắm nho xuống đất lại chẳng hy vọng vào tương lai vườn nho sẽ cho nhiều hoa trái. Chúa Cha muốn chúng ta sinh nhiều hoa trái, đó là chuyện bình thương. Chúa Giêsu khẳng định: "Chính Ta đã chọn các ngươi, và đã đặt các ngươi ra, ngõ hầu các ngươi đi và sinh trái, và trái trăng của các ngươi còn mãi " (Ga 15,16).
Ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, Giáo Hội đã tháp nhập chung ta như những nhành cây nho vào Mầu nhiệm Phục sinh và Khổ Nạn của Chúa Giêsu là thân cây nho. Từ gốc nho này chúng ta lãnh nhận nhựa sống và sống sự sống của Chúa Giêsu, tự bản chất là sinh hoa kết quả khi kết hiep với Chúa Giêsu, hầu được tham dự vào cuộc sống vĩnh hằng. Như các môn đệ, chúng ta cũng vậy, nhờ sự trợ giúp của các Mục tử trong Giáo hội, chúng ta lớn lên trong vườn nho của Chúa, được bao bọc trong tình yêu của Ngai. Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết:"Nếu hoa trái của chúng ta là tình yêu, thì điều tạo ra hoa trái này chính là việc "ở lại" cách thâm sâu và trung tín với Chúa" (Gesù di Nazaret, Milano 2007, 305). Điều quan trọng là luôn gắn kết với Chúa Giêsu, phụ thuộc vào Người bởi vì "nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho" (Ga 15,4). Chúa Giêsu nói rõ ràng, "các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy" (Ga 15,5).
Chúng ta là kitô hữu, nghĩa là người có Đức Kitô, sinh nhiều hoa trái chứng tỏ chúng ta là môn đệ, là chi thể đích thực của Chúa Kitô. Chúa đã từng lên án những cây vả cằn cỗi chỉ có lá không có quả. Người kết an tên đầy tớ vô dụng đã mang bạc của chủ đi chôn. Người trách mắng những người Pharisêu không làm công việc của cha họ là Abraham (Ga 8, 39). Chúng ta đã được ghép vào thân cây mới, cây nho Giêsu. Chính nhựa Giêsu, và sự hiện diện của Chúa Giêsu khi chúng ta nhận lãnh trong Thánh Thể đổi mới chúng ta: " Nhành nào sinh trái thì Cha Thầy tỉa sạch để nó sai trái hơn'' (Ga 15, 2). Chúa Giêsu nói: "Thầy là cây nho thật" (Ga 15, 1).
Hoa quả mà Chúa Cha hy vọng nơi chúng ta, là những việc lành phúc đức, là những công việc tốt chúng ta làm. Mang lại hoa trái không có nghĩa là làm những điều phi thường, nhưng là những điều bình thường. Hoa quả ấy là những việc lành phúc đức, là những việc tốt chúng ta làm. Nhưng thử hỏi: kết hiệp với Đức Kitô như thế nào để giúp chúng ta sinh nhiều hoa trái? Thưa, đức tin và đức ái, nghĩa là ở trong ân sủng của Thiên Chúa. Nếu chúng ta sống trong an sủng, các hành vi đạo đức của chúng ta sẽ là hoa trái dễ chịu của Chúa Cha. Thật quí trọng biết bao khi luôn được sống trong ân sủng của Thiên Chúa! "Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô heo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi" (Ga 15, 6).
Để là những cây sinh trái, chúng ta phải gắn bó với Chúa Kitô như nhành nho với cây nho, được Chúa Thánh Thần soi sáng, chúng ta mới có thể sinh nhiều hoa trái. Hoa trái ở đây theo thánh Phaolô là hoa trái của Thần Khí cụ thể như: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,22-23)
Mang lại hoa trái là đưa ban tay ra giúp người ốm đau bệnh tật, thăm người già sống cảnh cô đơn, giúp đỡ những người khổ đau nghèo đói, an ủi và biết cách lắng nghe cũng như khuyến khích và tha thứ cho những người xúc phạm chúng ta, tích cực tham gia vào đời sống của giao xứ, chia sẻ với mọi người.
Để có được nhiều hoa trái, chúng ta phải là những nhành cây duy trì mối quan hệ thường xuyên với Thầy Chí Thánh Giêsu là thân cây. Vì vườn nho thật của Thiên Chúa, có cây nho thật là Chúa Giêsu. Như Đức Kitô ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, các môn đệ cũng thế, những người được cắt tỉa nhờ Lời của Thầy mình. Nếu các môn đệ gắn kết với Thầy cách thâm sâu, họ trở thành những nhành nho sai trái, làm cho vụ mùa bội thu. Thánh Phanxicô de Sale viết: "Cành liên kết với thân và sinh trái không bởi tự chính nó nhưng là nhờ thây cây: hiện nay chúng ta được gắn kết trong tình mến với Đấng Cứu Thế như chi thể với đầu. Vì thế, nhưng việc lành phúc đức hưởng nhờ từ Người đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu" (Trattato dell'amore di Dio, XI, 6, Roma 2011, 601).
Thiên Chúa cần chúng ta để tái tạo một thế giới tốt hơn, một thế giới của sự tôn trọng, huynh đệ và yêu thương. Thiên Chúa cần đến bàn tay, đôi chân và tấm lòng của chúng ta. Lời Chúa nhắc nhớ chúng ta rằng nếu kết hợp với Đức Kitô, như cành nho với cây nho, chúng ta sẽ nhận được sức mạnh và sức sống, chúng ta yêu mến nhau và chúng ta sinh nhiều hoa trái. "Ai ở lại trong Thầy kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái" (Ga 15, 5).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết luôn gắn bó và kết hiệp với Chúa cho đến trọn đời ngõ hầu sinh được nhiều hoa thơm trái tốt như lòng Chúa mong ước. Amen.
41. Ở trong Chúa để sinh nhiều trái tốt
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
"Mục tử" và "đàn chiên" là hình ảnh tuyệt đẹp và cảm động để diễn tả tương quan rất dễ thương giữa Thiên Chúa với Dân Ngài. Cây với cành nho được Chúa Giêsu dùng còn hơn thế nữa, khi Người ám chỉ chẳng những kết hợp chặt chẽ giữa Thiên Chúa với Dân Người, mà còn thông truyền sự sống, cành sống nhờ cây, cây truyền nhựa cho cành, cả cây lẫn cành ngoài tùy thuộc vào đất cát, khí trời, còn phụ thuộc vào người trồng nho nữa.
1) Ở trong…
Với phúc dụ về cành và cây nho, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự “ở trong”. “Ở trong” là động từ chìa khóa của Tin Mừng Gioan, nghĩa là thiết định một chỗ ở, ở nói lên sự ổn định ‘an cư lạc nghiệp’. Đây là kế hoạch đầy tình thương của Thiên Chúa: chúng ta là những thụ tạo bất xứng, tội lỗi, thế mà Chúa mời gọi chúng ta ở với Chúa. Salomon đã ngỡ ngàng kêu lên ngày ông thánh hiến Đền thờ Giêrusalem: “Liệu, có thực, Thiên Chúa ở trên mặt đất không?” (1 V 8, 27).
Sự ngạc nhiên của Salomon chẳng có là gì so với người kitô khi được Thiên Chúa chọn ở trong đời và trong lòng ta. Thiên Chúa quyết định ở trong chúng ta, thật là tuyệt vời, nhưng Tình Yêu vô biên của Thiên Chúa không thể tháp nhập vào lòng chúng ta được, nếu chính Thiên Chúa không ban ơn để chúng ta lãnh nhận. Thiên Chúa chỉ ở trong tâm hồn những người như Đức Maria, Trinh Nữ, người tớ nữ khiêm nhường của Thiên Chúa, và là Mẹ Thiên Chúa, hơn ai hết, Mẹ đã dành để cho Thiên Chúa một chỗ xứng đáng trong đời của Mẹ, thân xác Mẹ chính là nơi Thiên Chúa ngự.
Như Đức Maria, điều quan trọng là phải có lòng chân thành và ngay thẳng, nghĩa là tâm hồn ước muốn: chỉ một điều là Con Thiên Chúa đến ở cùng chúng ta. Người tín hữu cần phải có ước muốn cao thượng là nên thánh. Như thế, chúng ta có thể tìm thấy nơi Thiên Chúa sự an toàn, niềm vui, lòng thương xót và bình an. Để minh họa hình ảnh này, Chúa Giêsu nói: “Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái…” (x. Ga 15,4-8). Ở trong Chúa Giêsu không thể không sinh trái được, trái lại, ai ở trong Chúa sẽ sinh nhiều hoa trái, là những trái tình yêu, tình yêu nảy sinh niềm vui. Chúng ta có thể nói mà không sợ lầm rằng niềm vui là hoa quả đích thực, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Cây nho sản sinh ra rượu nho, rược làm hoan hỉ lòng người, dấu chỉ của niềm vui.
2) Chúa Kitô là cây nho thật
Cựu Ước mô tả Thiên Chúa có một vườn nho chính là dân Chúa, có lúc Chúa than phiền: “Có điều chi nên làm cho vườn nho ta mà ta không làm cho nó chăng? Cớ sao khi ta mong sanh trái nho, thì nó lại sanh trái nho hoang vậy?” (Is 5,6). Trong Cựu Ước, nói đến vườn nho là nói đến sự mong đợi của Thiên Chúa. Tân Ước khẳng định chính Chúa là cây nho “Thầy là cây nho thật”. Cây nho thật sinh nhiều trái tốt. Ngược lại, cây nho “xấu” không có trái, có đi chăng nữa thì cũng chỉ là trái chua chát.
Thật khủng khiếp biết bao khi Thiên Chúa đến tìm hoa trái nơi con người là tình yêu mà không thấy con người đáp trả tình yêu của Chúa. Người đầu tiên đáp lại tình yêu của Thiên Chúa lại là chính Con Một Thiên Chúa, đã trở nên con của lòng người, đây là Cây Nho sinh toàn trái thơm, trái ngọt như Thiên Chúa mong muốn: hoa thơm quả ngọt là tình yêu. Chúa Giêsu là cây nho thật sinh trái tình yêu dâng lên Chúa Cha và trao tăng cho anh em.
Đối với Thiên Chúa, việc cây nho không đáp ứng được sự mong chờ của ông chủ nên mới có thảm kịch, ông chủ tự hỏi: “Có điều chi nên làm cho vườn nho ta mà ta không làm cho nó chăng?”. Nho sinh trái dại là một điều bi thảm đối với người trồng nho.
Khi nói: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái …” (Ga 15,4-8). Vậy nếu chúng ta ở kết hợp với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ có sự sống nơi Người, và chúng ta sẽ sinh nhiều hoa trái. Khi ở và kết hiệp với Người chúng ta tiếp tục công việc của người là trao ban sự sống và tình yêu cho tha nhân; khi tách lìa Người chúng ta phá hủy công việc của người và sinh ra hoa trái sự chết.
3) Thực hành
Vậy thì, ở trong Người như thế nào, gắn bó và kết hiệp với Người ra làm sao? Trước hết hãy cầu xin Chúa ban ơn để chúng ta có thể “ở trong Người”, thiết lập tương quan Tình Yêu đối với Người. Nếu chúng ta không nài xin Tình Yêu, chúng ta không thể lãnh nhận được ân sủng và Tình Yêu.
Thứ đến, hãy vun trồng lòng biết ơn lúc ở trong nhà Chúa, vì một tấm lòng biết ơn là một tấm lòng trung thành, phúc cho những ai được Thiên Chúa yêu thương, người ấy không còn là tôi tớ nhưng là bạn, bạn hữu của Chúa Giêsu, người ấy yêu Chúa và yêu tha nhân.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta một đức tin vững vàng, đức cậy nồng nàn và lòng mến yêu tha thiết, để chúng ta tin tưởng tháp nhập vào Chúa, gắn chặt với Chúa trong tình yêu, để sinh hoa quả tình yêu là việc lành phúc đức, ngõ hầu thông truyền tình yêu và lòng bác ái cho anh chị em chúng ta. Amen.
42. Cây Nho Thật
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Ga 15: 1-8: Hình ảnh cây nho và các cành nho cho thấy sự kết hợp ("ở lại") thâm sâu và sự hiệp thông thường trực giữa Đức Giêsu và các môn đệ chân thật của Người
Hình ảnh cây nho là một hình ảnh đẹp, đã từng gợi hứng cho các văn nhân nghệ sĩ Công giáo cũng như các nhà thuyết giảng đi tới những sáng tác tưởng chừng lãng mạn, nhưng thật ra sâu sắc về tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu, và tương quan giữa Đức Giêsu và chúng ta.
Trước khi đi vào khám phá sứ điệp của bản văn, chúng ta cũng nên nắm vững cấu trúc của bản văn như sau:
Bản văn đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn (15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu "đóng khung" ("Cha Thầy": 15,1.8; "sinh hoa trái": 15,2.8; "nhiều": 15,2.8; "điều răn/truyền dạy": 15,12.17; "để anh em thương yêu nhau": 15,12.17).
Riêng phân đoạn có bố cục đồng tâm như sau:
A = 1-2
B = 3-4a
C = 4bcd
D = 5
C'= 6
B'= 7
A'= 8
I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 15,1-8
Cho tới đây, trong bài diễn từ cáo biệt (ch. 13 đến ch. 17 của Tin mừng Thứ tư), Đức Giêsu đã đặc biệt cho thấy là Người không để các môn đệ phải cô đơn và đã nói những gì họ phải làm để ở lại kết hợp với Người theo nhiều cách. Bây giờ Người lưu ý họ về sự kiện là, sau khi Người đã được nâng lên, họ sẽ phải mang hoa trái, sẽ phải có một nhiệm vụ truyền giáo. Người cho họ biết họ cần gì để chu toàn được nhiệm vụ này.
Cấu trúc của bản văn 15,1-8 với trung tâm là c. 5 (D): "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được". Bản văn nêu bật đề tài trung tâm là nhu cầu hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ để sinh nhiều hoa trái. Quả thật, dụ ngôn "Cây nho thật" tập trung vào việc mang hoa trái (15,2.4.5.8.16). Chỉ có trong hai đoạn khác, Đức Giêsu mới cũng nói đến trái (quả), đó là trong những đối thoại với các môn đệ. Khi Người nhấn mạnh trên sự kiện là được người Samari đón tiếp và nhận biết, Người đã nói với các môn đệ: "Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi (= trái/quả) để được sống muôn đời […}. Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra" (4,36.38). Khi lần đầu tiên một vài người Hy Lạp đến tìm Người, Người đã giải thích cho các môn đệ: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (12,24; x. 15,5.8). Trong cả hai trường hợp, bản văn nhắm đến sự kiện là cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu tăng trưởng và đi xa hơn vòng các môn đệ hiện thời. Đức Giêsu là hạt lúa chết đi để sinh nhiều hoa trái. Nhưng Người cũng là cây nho mà các cành phải mang những trái tốt tươi. Trong dụ ngôn đầu, Người nói đến tầm quan trọng của cái chết của Người để lôi kéo các tín hữu đến với Người (x. 12,32); trong dụ ngôn thứ hai, Người cho thấy hoa trái của các môn đệ Người hệ tại điều gì.
Nói rằng bản văn nhấn mạnh trên việc "mang hoa trái", chúng ta thấy điều này qua ba lần lặp lại cụm từ "nhiều hoa trái" ở đầu (c. 2), ở giữa (c. 5) và ở cuối (c. 8), tức là ở yếu tố đầu, yếu tố trung tâm và yếu tố cuối của cấu trúc đồng tâm (x. cả "sinh [mang] hoa trái" ở cc. 2ab.4b). Để sinh hoa trái, cần phải "ở lại" (= kết hợp) với Đức Giêsu: điều này được khẳng định thật rõ ràng bằng hai cách: cách tích cực ("ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em": c. 4a; "ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy": c. 5b; "nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em": c. 7ab) và cách tiêu cực ("nếu không ở lại [gắn liền] với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy": c. 4cd; "ai không ở lại trong Thầy": c. 6a). Hệ luận của việc không ở lại trong Đức Giêsu - cây nho, đó là cành ấy không sinh hoa trái (c. 4bc) và sẽ bị chặt đi (c. 2a), bị quăng ra ngoài và bị đốt đi (c. 6bcde). Trong khi các cành không sinh hoa trái thì bị cắt đi (c. 2a), các cành mang hoa trái được Chúa Cha là người trồng nho cắt tỉa (c. 2b) nhờ lời của Người (c. 3b) mà Đức Giêsu đã nói ra. Trong thực tế, chính là lời hoặc mạc khải của Đức Giêsu đã thanh luyện các môn đệ (c. 3; x. 13,10). Sự hiện diện thường trực hoặc sự ở lại của các lời Người trong các môn đệ là một điều kiện để cho lời cầu nguyện của họ được nhận (c. 7) bởi vì chính mạc khải của Đức Giêsu đã được đón vào trong tim các môn đệ mới biến đổi con tim họ, làm cho con tim họ đồng thanh tương ứng với con tim của Đức Giêsu và của Chúa Cha, khiến cho lời thỉnh cầu của họ sẽ phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Các môn đệ ấy, giống như các cành khỏe mạnh thường xuyên hút được nhựa sống từ cây nho, sẽ sản sinh hoa trái dồi dào và tôn vinh Chúa Cha (c. 8), là người trồng nho (c. 1).
II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Từ lễ Phục sinh, xuất hiện một cây nho mới, cây nho đích thật, cây nho sẽ đưa lại sức mạnh và niềm vui cho mọi người. Hình ảnh cây nho và các cành nho cho thấy sự kết hợp ("ở lại") thâm sâu và sự hiệp thông thường trực giữa Đức Giêsu và các môn đệ chân thật của Người, cũng như nêu bật dây liên kết bên trong bằng việc mang hoa trái. Giống như cành nho, vì liên kết với cây nho, được thông dự vào sự sống của cây nho, người tín hữu, nhờ gắn bó với Đức Kitô, được thông dự vào sự sống chân thật, là sự sống của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự thông dự này bó buộc họ phải sống và hành động theo nếp sống mới đã được Đức Giêsu mạc khải cho biết. Nếu không có một sự liên kết hoàn hảo, chúng ta không phải ngạc nhiên khi thấy hoa trái chúng ta sản sinh toàn là hoa trái chua chát và khô khan, không thể lấp đầy các bình rượu thế giới bằng rượu mới.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Ẩn dụ cây nho và Tiệc Thánh Thể.
Đoạn văn này trích từ bài diễn từ thứ hai của bữa Tiệc ly. Muốn đọc phong phú, nên đăt bản văn vào trong bầu khí của cử hành Thánh thể là trung tâm của bữa Tiệc ly. Lời chúc phúc và thánh hiến rượu nhắc đến ẩn dụ cây nho. Cựu ước đã dùng hình ảnh cây nho mà ví Dân Thiên Chúa. Ở đây, Đức Giêsu muốn nói rằng Người thực hiện nơi bản thân Người toàn bộ sự tuyển chọn, sự ân cần và phương tiện cứu độ mà xưa kia được gán cho Dân Chúa. Tư tưởng chính của bản văn tập trung vào sự kết hợp ngay ở trần gian này giữa Kitô hữu và Đức Kitô.
2. Một sự liên kết không thể thiếu.
Bất cứ kết quả phong phú nào về truyền giáo của các môn đệ đều hoàn toàn tùy thuộc việc họ được liên kết với Đức Giêsu. Bất cứ toan tính nào nhắm đạt tới một kết quả mà lại không cần tới Người thì chỉ có thể thất bại. Không có Người, các môn đệ không thể làm gì được. Do đó, họ phải tìm cách ở trong thế liên kết với Người ngày càng chặt chẽ và vững chắc hơn. Sự cần thiết này càng cấp bách do chỗ chính Thiên Chúa quan tâm đến việc họ mang hoa trái và sẽ đối xử với họ tương ứng theo đó (c. 2). Tất cả tùy thuộc sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu. Làm thế nào để họ có thể trở thành những cành nho cứ lớn lên mà vẫn liên kết với cây và được phong phú nhờ dòng nhựa của cây ? Các môn đệ ở lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong họ (c. 7) và nếu họ tuân giữ các giới răn của Người (15,10). Tất cả phát xuất từ Đức Giêsu: các lời và các giới răn phát xuất từ Người. Nhiệm vụ của các môn đệ là đón nhận cách đúng đắn sáng kiến này của Đức Giêsu. Như thế, họ được liên kết với Người và sẽ có thể sinh hoa trái.
3. Hoa trái tôn vinh Chúa Cha.
Trong cách Thiên Chúa hướng dẫn người tín hữu chân thành, mọi sự được quy hướng đến chỗ sinh hoa kết trái, như là dấu chứng tỏ người ấy đã đạt được mục tiêu của đời mình. Khi sống trong Đức Kitô, người Kitô hữu được nuôi dưỡng bằng giáo huấn, gương sáng, Lời, ân sủng bên trong, Thánh thể của Người. Tuy nhiên, có khi do hứng khởi vì những ý tưởng, những dự phóng, hoặc có khi chỉ là do thiếu sáng suốt, do trí tuệ yếu kém, do ý chí yếu đuối, v.v., người tín hữu lạc vào một sai lầm hay rơi vào một thất trung nào đó. Chính khi đó, vì nhắm tới hoa trái, Chúa Cha cắt tỉa linh hồn và con tim con người ấy, thanh luyện người ấy, xén đi những gì đang chiếm các năng lực của người ấy cách vô ích. Khi đó, chắc chắn có đau đớn. Nhưng làm sao tránh khỏi hy sinh, khi muốn bước theo Đức Kitô và ở lại với Người ? Nếu đôi khi Chúa Cha dường như cắt xén vào xác thịt chúng ta, trong linh hồn chúng ta, chúng ta hãy cứ nuôi dưỡng mình thêm bằng dòng nhựa của Đức Kitô và giữ vững can đảm vì nhìn tới các hoa quả đầy hứa hẹn.
Cứ tiếp tục suy tư từ bài dụ ngôn "Cây nho thật", chúng ta biết rằng cây nho sinh trái ở cành. Các cành không có đó để trang điểm cho cây nho. Chính các cành sai trái chứng tỏ sự khỏe mạnh và sức sống dồi dào của cây nho. Nhưng "sinh nhiều trái" không phải là kết quả của một nỗ lực của con người; đó là kết quả của niềm tin sinh động đặt nơi Đức Giêsu. Tuy nhiên, toàn thể tiến trình lại là công việc của người trồng nho, là Chúa Cha.
43. Xây dựng Giáo Hội – Jean-Yves Garneau.
MỘT HỢP ĐỒNG KHÁC HẲN.
Trong sách Tông đồ Công vụ, người ta kể lại rằng nhờ hoạt động của thánh Phaolô và các môn đệ khác, “Giáo Hội (sơ khai) được xây dựng, tiến triển và lớn lên” trong tất cả vùng Giuđê, Galilê và Samari. Khi đọc những dòng này, chúng ta không nên chỉ nghĩ về quá khứ mà thôi; chúng ta cũng phải xem hiện tại nữa vì ngày nay Giáo Hội còn phải được xây dựng. Và chính chúng ta theo gương thánh Phaolô và các môn đệ đầu tiên, phải là các nghệ nhân của việc xây dựng này. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta xây dựng Giáo Hội của Ngài.
Lời mời gọi bắt tay vào việc và hiến dâng tất cả năng lực của chúng ta để cộng tác vào việc xây dựng Giáo Hội, lời đó chúng ta đã thường được nghe, nhất là từ Công đồng Vatican II.
Phải thú nhận rằng lời mời gọi đó khiến chúng ta hơi khó chịu một chút. Quả thật, chúng ta ít có thói quen xây dựng Giáo Hội. Hồi trẻ, người ta đã không thực sự dạy chúng ta truyền đạt cho kẻ khác đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Người ta đã không khai tâm chúng ta để trở thành thừa sai và chứng nhân trong một môi trường ngày càng không biết đến Thiên Chúa hoặc ở đó người ta thường sống như thể không có Ngài. Làm gì đây, phải hành động thế nào để xây dựng Giáo Hội tại nơi nay và hôm nay? Những bài Thánh Kinh chúng ta vừa nghe đã mang đến lời giải đáp cho câu hỏi này, chúng thu hút sự chú ý của ta về nhiều điểm quan trọng. Chúng ta sẽ ghi nhận ba điểm.
1. Tin vào Chúa Kitô và lưu lại nơi Ngài.
Để xây dựng Giáo Hội, trước hết phải tin vào Chúa Kitô. Người ta sẽ nói đó là chuyện hiển nhiên rồi. Có lẽ. Tuy nhiên, ta hãy nhớ rằng đức tin mà thánh Gioan nói đến không phải chỉ là chấp nhận sứ điệp của Chúa Kitô và những chân lý mặc khải trong trí mà thôi. Phải làm hơn thế nữa. Đó là gắn bó với Chúa Kitô. Đó là hiệp thông với Ngài. “Ai lưu lại nơi Thầy và Thầy lưu lại nơi người đó, kẻ ấy mang nhiều hoa trái” (Ga 15,5).
Thánh Phaolô, vị tông đồ vĩ đại đã chăm lo rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, một ngày nọ đã được Chúa Kitô thu hút và đã hiến dâng mình cho Ngài. Thánh Phêrô, Andrê, Giacôbê, Gioan và những vị khác trong nhóm Mười Hai cũng đa say mê Chúa Giêsu và họ đã từ bỏ mọi sự vì Ngài. Họ đã sống nhờ Ngài, trong Ngài… bởi Thần Khí của Ngài. Vậy nên, hết thảy họ đều là những kẻ xây dựng Giáo Hội cách tuyệt vời vào thời đại của họ. Bao giờ cũng thế thôi. Những kẻ lưu lại nơi Chúa Kitô sẽ làm được nhiều việc cho Ngài và cho Giáo Hội của Ngài.
2. Thương yêu nhau.
Điều kiện thứ nhì để xây dựng Giáo Hội được nêu lên trong thư thứ nhất của thánh Gioan: Đó là “thương yêu nhau như Chúa Kitô đã căn dặn chúng ta” (1Ga 2,23). Có sự mâu thuẫn rõ rệt khi muốn xây dựng Giáo Hội mà không thương yêu nhau, vì Giáo Hội là nơi của tình hữu nghị, nơi mà những con người –tứ xứ và hết thảy đều có những đức tính tốt và tật xấu- tụ họp nhau lại và nhận nhau là anh em. Không những chỉ bằng lời nói (điều này bao giờ cũng dễ dàng), nhưng trong sự thật.
Mỗi lần tình yêu thương giữa chúng ta lớn lên và được phát triển –tình yêu thương cụ thể được biểu hiện trong việc đón tiếp kẻ khác, trong việc thông cảm với kẻ khác, tha thứ cho kẻ khác…- thì chính Giáo Hội lớn lên và được phát triển.
3. Dám mạo hiểm.
Điều kiện thứ ba để góp phần xây dựng Giáo Hội: dám mạo hiểm. Ở đây, ta phải nhờ gương thánh Phaolô tông đồ. Ngài biết lên tiếng, dám lên tiếng ngay cả khi điều đó không làm hài lòng mọi người. Ngài không sợ tự khẳng định mình ngay cả khi ngài chắc chắn rằng sự can thiệp của ngài sẽ gây khó khăn cho ngài. Những người Do Thái nói tiếng Hy lạp, đã tranh luận với ngài tại Giêrusalem, tìm cách thủ tiêu ngài, sách tông đồ Công vụ (9,29) kể lại cho chúng ta như thế. Có bao giờ chúng ta dám mạo hiểm… dù là trong những điều rất nhỏ, nhân danh Chúa Kitô… vì quyền lợi và sự phát triển của Giáo Hội Ngài không?
Tóm lại, chúng ta phải xây dựng Giáo Hội và phải có ít nhất ba điều kiện để lam việc đó: kết hợp với Chúa Kitô, thương yêu nhau và đôi khi dám mạo hiểm. Và bây giờ, chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta có phải là những người tích cực xây dựng Giáo Hội trong môi trường sống của mình không?
44. Như cành liền cây.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một trong những chất liệu cần thiết được sử dụng trong Thánh Lễ đó là rượu nho. Rượu nho này được làm thành từ trăm ngàn trái nho ép lấy nước và để lên men đến một nồng độ và chất lượng do Toà Thánh ấn định để được sử dụng làm rượu lễ. Rượu nho ở nước ta chưa đủ tiêu chuẩn để được phép sử dụng trong Thánh Lễ. Vì thế phải nhập khẩu từ các nước Âu Châu, như Pháp, Tây Ban Nha, những nước có truyền thống trồng nho từ lâu đời và chuyên môn sản xuất những loại rượu nho nổi tiếng thế giới. Rượu lễ chúng ta đang sử dụng được nhập khẩu từ Công ty De Muller, S.A. ở Tarragona, Tây Ban Nha.
Nhìn những vườn nho, ai không có kinh nghiệm trong nghề trồng nho chắc chắn phải tiếc xót khi thấy những cành nho bị cắt tỉa khỏi thân nho. Thế nhưng, đây là định luật cơ bản trong nghề trồng nho: có được cắt tỉa, cành nho mới sinh hoa kết quả. Vào tháng hai, tháng ba, người trồng nho cắt những cành nào thấy không thể sinh trái, nhiều khi để lại thân cây trơ trụi. Đến tháng tám khi nho đâm ngành trổ lá, ông lại tỉa hết những nhánh con, để những nhánh lớn có trái được sức sống của thân cây nhiều hơn..
Hình ảnh của vườn nho và cây nho là hình ảnh quen thuộc trong Kinh Thánh và thường được dùng để cảnh cáo, đe doạ, khiển trách dân Israel: Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: “Ta trồng người như cây nho sai trái, được tuyển chọn giống tốt. Sao người lại trở thành cây nho dại, sinh trái chua lòm” (Gr 2,21). Ngôn sứ Isaia cũng đã có cả một bài ca về vườn nho, vì dân Israel như nho quí, nhưng đã trở thành nho dại, khiến chủ vườn nho phải bỏ hoang phế (x. ls, 1-7).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự nhận là “cây nho thật” và “Chúa Cha là người trồng nho”, để xác minh rằng: đây là cây nho dại sinh trái chua lòm. Cây nho thật này do Chúa Cha trong tỉa để đem lại hoa trái sự sống dồi dào:
“Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh trái nhiều hơn”… “Thầy là cây nho, anh em là cành”.
Như cành gắn liền với thân cây nho mới sống được và sinh hoa trái. Nếu cành nào tách rời khỏi thân cây nho, sẽ khô héo và làm mồi cho lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa. Vì vậy, mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu là một mối quan hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, vì cùng sống chung một sự sống. Chúa Kitô và các Kitô hữu tạo thành một cộng đồng sự sống, như các chi thể trong một thân thể mà Thánh Phaolô gọi là Nhiệm Thể, hay là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau và liên kết với một đầu như các cành nho liên kết với thân cây nho và một gốc nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến các cành cây, thì sự sống cua Thiên Chúa cũng được chuyển đến các chi thể như trong một thân thể. Như thế, các Kitô hữu được gắn với nhau vào một gốc là Chúa Giêsu: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”.
Một điểm khác cũng được Chúa Giêsu nhấn mạnh ở đây, đó là “cành nho phải sinh hoa trái”. Người Kitô hữu không chỉ gắn với thân cây mà còn phải sinh hoa trái nữa. Bởi vì, không thiếu những cành gắn chặt với cây mà không sinh trái nào. Những cành đó sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Không sinh trái là bằng chứng không còn “ở trong Thầy”. Không còn kết hợp với Thầy, mặc dầu bên ngoài vẫn là một cây “xanh rờn”! Sinh hoa kết quả dồi dào mới trở thành người môn đệ thật cua Thầy. Hình ảnh có thể làm cho chúng ta sửng sốt. Đâu phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan, nguội lạnh hay phạm những tôị tầy đình mới bị loại khỏi cộng đoàn của Chúa. Sự sống từ Chúa Giêsu chỉ có hai trạng thái: sinh trái hoặc không sinh trái, không có trạng thái thứ ba, hiểu theo nghĩa “cầm hơi”, “cầm chừng”. Người Kitô hữu trở thành môn đệ của Chúa Kitô bằng chính việc sinh nhiều hoa trái và Thiên Chúa được tôn vinh cũng bằng chính việc người Kitô hữu sinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy”.
Thế nào là sinh hoa kết trái? Chúng ta có thể tìm thấy cây trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. Do đó, chúng ta có thể hiểu được rằng, “sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ lợi ích thật của anh em, thì mới nói được rằng chúng ta đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực, thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là “cây nho Chúa Cha trồng tỉa” để sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.
Hình ảnh của sự cắt tỉa còn gợi lên một sự mất mát, đau đớn. Thế nhưng, mất mát dẫn đến thắng lợi, khổ đau dẫn đến vinh quang, sự chết dẫn đến Phục Sinh. Đó là bài học xuyên suốt cuộc đời, lời rao giảng và cái chết của Chúa Giêsu. Trong suốt hơn 2000 năm qua, Giáo Hội đã tiến bước với niềm xác tín ấy. Nhựa sống từ thân cây nho là Chúa Giêsu đã không ngừng nuôi sống Giáo Hội. Với cái nhìn đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất: Qua việc trở lại với những giá trị của Tin Mừng, với cốt lõi của Tin Mừng, Giáo Hội cởi bỏ được chiếc áo của quyền lực và hào nhoáng, để mặc lấy tinh thần phục vụ, khiêm tốn, đơn nghèo. Sự hoán cải của nhiều Kitô hữu trở thành con đường cho những người thành tâm thiện chí tìm gặp được Chúa Kitô. Giáo Hội sinh nhiều con cái là nhờ các chi thể của mình là những cành nho luôn đươc cắt tỉa.
Như cành liền cây mới sống được và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, người Kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi người anh em. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu. Người Kitô hữu nào yêu thương mọi người anh chị em một cách chân thành, có hiệu quả bằng việc làm cụ thể, giúp đỡ, bảo vệ, xây dựng xã hội, đồng bào, đất nước… người Kitô hữu ấy mới thật là người ở trong Thiên Chúa, kết hợp với Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho.
45. Như cành liền cây
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Ga 15: 1-8: "Sinh hoa trái" là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác...
Một trong những chất liệu cần thiết được sử dụng trong Thánh lễ đó là rượu nho. Rượu nho này được làm thành từ trăm ngàn trái nho ép lấy nước và để lên men đến một nồng độ và chất lượng do Tòa Thánh ấn định để được sử dụng làm rượu lễ. Rượu nho ở nước ta chưa đủ tiêu chuẩn để được phép sử dụng trong Thánh lễ. Vì thế phải nhập khẩu từ các nước Âu châu, như Pháp, Tây Ban Nha, những nước có truyền thống trồng nho từ lâu đời và chuyên môn sản xuất những loại rượu nho nổi tiếng thế giới. Rượu lễ chúng ta đang sử dụng được nhập khẩu từ Công ty De Muller, S.A. ở Tarragona, Tây Ban Nha.
Nhìn những vườn nho, ai không có kinh nghiệm trong nghề trồng nho chắc chắn phải tiếc xót khi thấy những cành nho bị cắt tỉa khỏi thân nho. Thế nhưng, đây là định luật cơ bản trong nghề trồng nho: có được cắt tỉa, cành nho mới sinh hoa kết quả. Vào tháng hai, tháng ba, người trồng nho cắt những cành nào thấy không thể sinh trái, nhiều khi để lại thân cây trơ trụi. Đến tháng tám, khi nho đâm ngành trổ lá, ông lại tỉa hết những nhánh con, để những nhánh lớn có trái được sức sống của thân cây nhiều hơn…
Hình ảnh của vườn nho và cây nho là hình ảnh quen thuộc trong Kinh Thánh và thường được dùng để cảnh cáo, đe dọa, khiển trách dân Israel: Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: "Ta trồng ngươi như cây nho sai trái, được tuyển chọn giống tốt. Sao ngươi lại trở thành cây nho dại, sinh trái chua lòm" (Gr 2,21). Ngôn sứ Isaia cũng đã có cả một bài ca về vườn nho, ví dân Israel như vườn nho quí, nhưng đã trở thành nho dại, khiến chủ vườn nho phải bỏ hoang phế (x.Is,1-7).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự nhận là "cây nho thật" và "Chúa Cha là người trồng nho", để xác minh rằng: đây là cây nho giống tốt, sinh trái ngon ngọt, không như cây nho dại sinh trái chua lòm. Cây nho thật này do Chúa Cha trồng tỉa để đem lại hoa trái sự sống dồi dào:
"Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh trái nhiều hơn"… "Thầy là cây nho, anh em là cành".
Như cành gắn liền với thân cây nho mới sống được và sinh hoa trái. Nếu cành nào tách rời khỏi thân cây nho, sẽ khô héo và làm mồi cho lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa. Vì vậy, mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và các kitô hữu là một mối quan hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, vì cùng sống chung một sự sống. Chúa Kitô và các kitô hữu tạo thành một cộng đồng sự sống, như các chi thể trong một thân thể mà Thánh Phaolô gọi là Nhiệm Thể, hay là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau và liên kết với một Đầu như các cành nho liên kết với thân cây nho và một gốc nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến các chi thể như trong một thân thể. Như thế, các kitô hữu được gắn với nhau vào một gốc là Chúa Giêsu: "Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em".
Một điểm khác cũng được Chúa Giêsu nhấn mạnh ở đây, đó là "cành nho phải sinh hoa trái". Người kitô hữu không chỉ gắn với thân cây mà còn phải sinh hoa trái nữa. Bởi vì, không thiếu những cành gắn chặt với cây mà không sinh trái nào. Những cành đó sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Không sinh trái là bằng chứng không còn "ở trong Thầy", không còn kết hợp với Thầy, mặc dầu bên ngoài vẫn là một cây "xanh rờn" ! Sinh hoa kết quả dồi dào mới trở thành người môn đệ thật của Thầy. Hình ảnh có thể làm cho chúng ta sửng sốt. Đâu phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan, nguội lạnh hay phạm những tội tầy đình mới bị loại khỏi cộng đoàn của Chúa. Sự sống từ Chúa Giêsu chỉ có thể là sức sống, là động lực làm nở hoa kết trái. Chỉ có hai trạng thái: sinh trái hoặc không sinh trái, không có trạng thái thứ ba, hiểu theo nghĩa "cầm hơi", "cầm chừng". Người kitô hữu trở thành môn đệ của Chúa Kitô bằng chính việc sinh nhiều hoa trái và Thiên Chúa được tôn vinh cũng bằng chính việc người kitô hữu sinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy".
Thưa anh chị em,
Thế nào là sinh hoa kết trái ? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: "Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy". Thánh Gioan còn căn dặn: "Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm". Do đó, chúng ta có thể hiểu được rằng, "sinh hoa trái" là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ lợi ích thật của anh em, thì mới nói được rằng chúng ta đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực, thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là "cây nho Chúa Cha trồng tỉa" để sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.
Hình ảnh của sự cắt tỉa còn gợi lên sự mất mát, đau đớn. Thế nhưng, mất mát dẫn đến thắng lợi, khổ đau dẫn đến vinh quang, sự chết dẫn đến phục sinh. Đó là bài học xuyên suốt cuộc đời, lời rao giảng và cái chết của Chúa Giêsu. Trong suốt 2000 năm qua, Giáo Hội đã tiến bước với niềm xác tín ấy. Nhựa sống từ thân cây nho là Chúa Giêsu đã không ngừng châu lưu trong Giáo Hội. Với cái nhìn đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất: Qua việc trở lại với những giá trị của Tin Mừng, với cốt lõi của Tin Mừng, Giáo Hội cởi bỏ được chiếc áo của quyền lực và hào nhoáng, để mặc lấy tinh thần phục vụ, khiêm tốn, đơn nghèo. Sự hoán cải của nhiều kitô hữu trở thành con đường cho những người thành tâm thiện chí tìm gặp được Chúa Kitô. Giáo Hội sinh nhiều con cái là nhờ các chi thể của mình là những cành nho luôn được cắt tỉa.
Như cành liền cây mới sống và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, người kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi người anh em. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống kitô hữu. Người kitô hữu nào yêu thương mọi người anh chị em một cách chân thành, có hiệu quả bằng việc làm cụ thể, giúp đỡ, bảo vệ, xây dựng xã hội, đồng bào, đất nước… người kitô hữu ấy mới thật là người ở trong Thiên Chúa, kết hợp với Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho.
46. Nối kết với Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Gioan Cao Vũ Nghi, CRM)
Truyện kể về một người sống trong một làng hẻo lánh thuộc miền thượng du. Nhờ một cơ hội hiếm có, ông được đặt chân lần đầu tiên đến một thành phố. Tuy không có nhiều tiền, nhưng ông cũng muốn đem về một cái gì đó để khoe với dân làng. Sau khi đã thăm nhiều nơi trong thành phố, một trong những cái làm ông thích thú nhất là các ánh đèn chiếu sáng trong phố. Với số tiền trong túi, ông đã mua một ít bóng điện và công tắc điện. Vừa khi trở về tới làng, việc đầu tiên là ông treo những bóng đèn đó trong nhà ngoài ngõ trước nhà ông. Làng xóm qua lại thấy lạ nên hỏi, nhưng ông chỉ trả lời: "Chịu khó chờ đi. Đến tối sẽ biết." Khi ánh mặt trời vừa ngả bóng, ông trịnh trọng bật các công tắc. Nhưng lạ quá, bóng đèn chẳng sáng gì cả. Tội nghiệp cho ông. Chẳng ai bảo cho ông biết là cần phải có điện lực, thì bóng đèn mới chiếu sáng được.
Hồi nhỏ tôi có anh bạn rất giỏi về khoa nói. Chuyện gì hắn cũng nói vào được. Một hôm hắn nghe bài hát “Thầy là cây nho, các con là cành” hắn liền nhái ngay ra “Thầy là con cua, các con là càng. Càng nào kết hợp cùng cua sẽ bò nhanh hơn cáy...” Cả bọn chúng tôi vỗ tay hoan hô, nhưng ông thầy dạy giáo lý nghe được gọi hắn lên cho hắn một bài ‘moral’ khá dài. Ngày nay nghĩ lại, ông thầy hơi nghiêm nghị. Những nơi như ở Việt nam thời xưa, biết cây nho thế nào đâu. Nhưng nói con cua thì ai cũng biết. Nên càng cua cần liên kết với thân cua, chúng ta cần liên kết với Chúa Giêsu.
"Không có Thầy, các con không thể làm gì được" (Ga 15:5). Sống trong cuộc đời, nhiều người nghĩ rằng họ có tất cả: bằng cấp có, việc làm có, gia đình có, nhà cửa xe hơi có. Nhưng khi bóng chiều của cuộc đời buông xuống, khi nhắm mắt lìa đời, họ mới biết họ chỉ có hai bàn tay trắng. Họ có thể thành công trong cuộc đời, nhưng vì không được nối kết với nguồn gốc sự sống đích thực, nên "lời lãi cả thế gian, mà thiệt hại phần linh hồn thì được ích gì?" (Mt 16:26).
Nếu họ đã biết liên kết với Chúa Kitô, thì họ đã "sinh nhiều trái" (Ga 15:5). Tuy là theo giáo lý của Chúa Kitô, để có thể "sinh nhiều trái", điều đòi buộc là phải hy hiến chính mình. Hoa quả đầu tiên phát sinh do sự hy hiến bản thân này chính là tình yêu. Một tình yêu dám hy hiến bản thân mình vì người mình yêu. Vì là những cành cây được nối liền với thân cây là Chúa Kitô, chúng ta tin rằng sức mạnh và ân sủng của Chúa đang tuôn chảy vào tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta có thể sống tình yêu hy sinh như Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta.
Qua Bí tích Rửa tội, các Kitô hữu đã được nối kết với Chúa Kitô. Nhưng nối kết với Chúa Kitô mà thôi thì chưa đủ. Chúng ta cũng cần phải cắt tỉa những cành, những nhánh cây đang cản trở chúng ta sống đời yêu thương. Những cành cây cần phải cắt tỉa là những thành kiến, những ác cảm thù hận, những lối sống buông thả ích kỷ.
Cắt tỉa những cành cây độc hại rồi, chúng ta cũng cần phải củng cố những cành cây tốt mỗi ngày mỗi nối kết chặt chẽ hơn với thân cây. Chúng ta cần năng lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, để chúng ta được nuôi dưỡng bởi ân sủng của Chúa, giúp chúng ta tăng triển trong niềm Tin Yêu. Ngoài ra, Lời Chúa là kho tàng quan trọng cho đời sống tâm linh của chúng ta. Lời Chúa soi đàng hướng dẫn chúng ta sống theo gương lành Chúa Kitô đã để lại cho chúng ta trong Phúc Âm.
Thế giới chúng ta đang sống có thể đem đến cho con người một cuộc sống thoải mái, đến nỗi nhiều người nghĩ rằng họ không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta để tâm nhìn lại bản thân, chúng ta biết rằng chúng ta rất cần Chúa. Một cuộc sống xem ra thoải mái, thường thì lại bị xen lẫn với lắm khổ đau. Chỉ với ơn Chúa, chúng ta mới tìm được sức mạnh để chịu đựng, tìm được ý nghĩa cho những khổ đau và gánh nặng trong cuộc đời. Nếu chúng ta có Chúa trong cuộc đời, và nếu chúng ta để cho Chúa thanh tẩy con người của mình, chúng ta có thể trở nên những cành cây với nhiều hoa trái tốt tươi. Những hoa trái không những làm tươi mát cuộc sống của chính mình, mà còn nuôi dưỡng lòng tin yêu mến Chúa của nhiều tâm hồn.
47. Hiệp thong với Đức Kitô
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh Tín)
Những sinh hoạt liên quan đến nghề trồng nho và ép rượu đã trở thành quen thuộc trong đời sống của người dân tại Palestina. Chúa Giêsu dùng những sinh hoạt này để diễn tả mối liên quan và sự hiệp thông giữa Ngài và các môn đệ. Đây là sự hiệp thông tuyệt đối cần thiết phải có, nếu con người muốn lãnh nhận sức sống thần linh và được cứu độ. Ngài khẳng định: "Như cành nho tự nó không the sinh trái, nếu không dính liền với cây nho. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh hoa trái". Lời tuyên bố này là một chân lý, một điều kiện, một định luật. Thật vậy, con người được Thiên Chúa tạo dựng, mang trong mình hình ảnh của Ngài và cùng đích phải đạt tới chính là được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.
Được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, con người hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa, mang theo những khát vọng cao vời, những tiềm năng thánh thiện và những chiều kích vĩnh cửu. Do đó, con người phải quy hướng về Chúa, phải tiến dần về đích điểm của mình, dù còn đang sống trên trần gian. Khi chưa đạt được khát vọng này, con người vẫn cảm thấy bất an thiếu thốn, đúng như Thánh Augustinô đã nhận định: "Linh hồn tôi được tạo dựng cho Thiên Chúa, nên nó cứ băn khoăn xao xuyến bao lâu chưa gặp được Ngài".
Nhưng làm cách nào để đạt được sự hiep thông trọn vẹn này, khi nhân loại đã thực sự xa lìa Thiên Chúa và đã chết trong sự bất trung của nguyên tổ, như Thánh Phaolô nói, "Tội lỗi đã vào thế gian, mang theo sự chết" (Rom 5,12) bởi vì "những đam mê của xác thịt luôn phản lại Thiên Chúa, không vâng phục lề luật Thiên Chúa" (Rom 8,7)? Chúa Kitô, Đấng Cức Độ nhân loại, chính là câu trả lời và là giải đáp cho vấn đề của chúng ta. Nói cách khác, Đức Kitô đã đến trần gian, đã gap gỡ nhân loại, đã giáo huấn con người, đã dùng chính tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa để tái lập sự hiệp thông này. Một phương thế nổi bật nhất trong kế hoặch được dự liệu, chính là việc thiết lập các bí tích, trong đó, bí tích Thánh Thể được coi là hữu hiệu nhất để dẫn tới sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa. Chúa Kitô tuyên bố: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ có sự sống đời đời".
Ngày 18 tháng 11-2005 tại Roma, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã gặp các em bé mới rước lễ lần đầu. Một em tên là Andrea hỏi Đức Thánh Cha:
- Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha có kỷ niệm gì về ngày rước lễ lần đầu của Đức Thánh Cha không?
Đức Thánh Cha trả lời:
Đó là một ngày Chúa Nhật cuối tháng Ba, năm 1936, cách đây 69 năm. Trong ngày đó, Cha hứa với Chúa Giêsu, theo khả năng của Cha: "Con muốn luôn ở với Chúa". Và Cha đã xin Ngài: "Nhưng trước hết, xin Chúa hãy ở với con". Từ đó, Chúa Giêsu đã luôn nắm tay Cha, dắt Cha đi trong những tình huống khó khăn.
Ở lại với Chúa và Chúa ở lại với ta. Đó chính là sự hiệp thông mang lại hoa trái siêu nhiên, như Chúa đã ước mong và diễn tả trong dụ ngôn về cây nho. Do đó, lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha phải là lời cầu nguyện thường xuyên và tha thiết nhất của mỗi người chúng ta, nếu chúng ta thực sự muốn trở thành những cành nho luôn sinh hoa trái.
48. Thoái hoá làm mất phẩm chất – Lm Tạ Duy Tuyền
Ngày nay người ta đang nói nhiều về sự thoái hoá đạo đức của một số phần tử trong xã hội. Họ tự đánh mất căn tính của mình. Họ không còn giữ được phẩm chất của chính mình. Sự thoái hoá đã làm cho họ biến chất từ tốt ra xấu. Từ thanh sạch ra dơ bẩn. Từ hữu dụng ra vô dụng. Sự thoái hoá đạo đức có thể đến với bất cứ ai. Và cũng có thể làm băng hoại đủ mọi thành phần, cho dù là hàng trí thức hay dân hen, một khi đã bị thoái hoá là họ đã đánh mất căn tính con người là "nhân chi sơ tính bản thiện". Sự thoái hoá có mặt trong mọi ngành nghề, trong mọi cấp bậc. Sự thoái hoá làm mất đi đạo đức nghề nghiệp, mất đi lương tam trong sáng chỉ còn là những tham sân si vô độ.
Trong năm giáo dục gia đình, chúng ta cũng không thể không đau lòng trước những hiện tượng thoái hoá đạo đức và nhân cách của con người hôm nay như: cô giáo hành hung và xúc phạm học trò; học trò đánh thầy giáo, mẹ đánh chết con ruột, cháu nội hành hạ bà nội cho đến chết. Tại sao lại có những chuyện phi nhân thất đức như vậy? Văn hoá đạo hiếu Việt Nam có còn giá trị hay đã bị tha hoá bơi đời sống vô tâm của con người hôm nay?
Có một câu chuyện ngày xưa kể rằng: một lần vua Nước Bắc muốn làm nhục sứ giả Nước Nam qua triều cống. Ông đã bắt một người dân Nước Nam vừa ăn trộm ra trước mặt sứ giả để làm nhục. Vua Nước Bắc bảo rằng: "Phải chăng người Nước Nam hay ăn trộm?". Sứ giả Nước Nam khiêm tốn trả lời: "Thưa bệ hạ! Cây táo trồng ở Nước Nam thì ngọt nhưng khi mang qua Nước Bắc trồng thì quả lại chua. Phải chăng người này ở Nước Nam thì tốt nhưng khi qua Đất Bắc đã biến chất rồi chăng?"
Nhìn lại phận người chúng ta đôi khi cũng giống như Cây Táo được trồng ở Đất Bắc. Con người là hình ảnh Thiên Chúa đôi khi cũng bị biến chất khi trong vào thế gian. Con người cũng bị những thói đời sa đoạ làm băng hoại tâm hồn. Con người cũng bị những đam mê của danh lợi thú làm huỷ hoại danh giá, nhân phẩm của chính mình. Con người dễ bị đánh mất căn tính của mình la "nhân linh hơn vạn vật". Con người dễ bị bị thoái hoá bởi tưởng mình chỉ là một loài vật: sinh ra - lớn lên - rồi chết nên cứ việc lao vào những cuộc truy hoan trác táng, những thói đời hưởng thụ tầm thường.
Các tiên tri thời Cựu ước đã từng tiếc nuối cho dân tộc Israel là "vườn nho của Chúa" đã bị biến chất. Tiên tri Isaia đã thất vọng vì vườn nho nhà Israel đã bị hoang tàn. Tiên tri Giê-rê-mi-a đau buồn vì dân tộc ông đã "biến thành mot cây nho lạ, thoái hoá thành một cây khác". Còn Ô-sê thì kêu lên trong đau đớn: "Israel là một cây nho trơ trụi". Tất cả những từ ngữ đó đều diễn tả một đời sống thoái hoá đạo đức của một số phần tử Do Thái. Họ đa không sống theo đường lối Chúa. Họ đã thờ ngẫu tượng. Họ sống hình thức dẫn đến giả hình, giả dối. Họ bị men biệt phái kiêu căng làm biến chất. Họ thờ Thiên Chúa trên môi miệng nhưng thực chất họ đã xa lìa Chúa từ trong tâm hồn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta kín múc nguồn sống đích thực từ Thiên Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy để cho sự sống của Chúa tuôn chảy trong tâm hồn chúng ta. Hãy sống gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa như cành liên cây để có thể sinh hoa kết trái là những việc lành phúc đức. Hãy ở lại trong Chúa để hiểu rằng con người chúng ta có một phẩm giá vô cùng cao quý là "giống với thần linh, là hình ảnh Thiên Chúa". Hãy biết gìn giữ phẩm giá cao quý ấy bằng việc chế ngự những đam mê tội lỗi, những thói đời truỵ lạc. Hãy làm chủ hành vi của mình bằng việc: biết sống theo lẽ phải, biết thể hiện phẩm giá của mình là tạo vật biết thiện và ác, thế nên phải biết làm điều thiện và tránh điều ác. Hãy bám vào Thiên Chúa hơn là bám vào những phù vân mau qua đời này. Hãy khiêm tốn cúi mình thờ lạy Chúa hơn là thờ lạy tạo vật. Hãy vì Chúa mà sống cao thương hơn là vì tiền, vì tình, vì quyền mà sống thấp hèn. Hãy nhớ rằng: trần gian là tạm bợ. Thiên đàng mới là vĩnh cửu. Đừng vì những vinh hoa phú quý phù hoa này mà xa lìa Thiên Chúa. Xa lìa Thiên Chúa như cành lìa cây sẽ bị thoái hoá và héo khô.
Nguyện xin Chúa Giê-su Phục sinh luôn ở lại trong cuộc đời chúng ta để dẵn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Xin cho nguồn thánh ân Chúa tưới gội tâm hồn chúng ta mãi thanh sạch xứng đáng la hình ảnh của Chúa. Amen.
49. Tinh thần khô – Lm Vũ Đình Tường
Tinh thần héo hon, khô cằn xảy đến khi Kitô hữu tự hào nói tôi mặc dù không đến thánh đường, không tin đạo nhưng sống theo tâm linh. Tâm linh đó không thể đến từ Đức Kitô. Đó là loại tâm linh khô cằn, héo hon, gầy gò.
không có Thầy anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo, người ta nhặt lấy quăng vào lửa cho nó chay đi- Gioan 15,6.
Con người xã hội cần tình yêu để để yêu và được yêu. Có hai loại tình yêu: một là tình yêu từ trời cao hai là tình yêu từ xã hội. Tình yêu từ trời cao đến từ Đức Kitô và tình yêu xã hội đến từ thế giới.
Đón nhận tình yêu từ trời cao, từ Đức Kitô, người đó sẽ nhìn đời bằng con mắt của Thiên Chúa và suy nghĩ cũng như hành động dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần Chúa. Đón nhận tình yêu từ xã hội người đó sẽ nhìn sự vật qua lăng kính xã hội. Người đó sẽ sống và hành động theo phong cách của xã hội. Tình yêu từ trời cao là tình yêu vô vị lợi và không có điều kiện kèm theo trong khi tình yêu xã hội bị giới hạn với những điều kiện đi kèm. Cả hai loại tình yêu đều xén tỉa cuộc sống người đón nhận nó bởi xén tỉa là cách làm cho mới và trong sáng để sinh hoa trái tốt hơn. Cuộc sống không sinh hoa trái không sinh ích cho ai. Kitô hữu tin tưởng bất cứ hình thức xén tỉa nào Thiên Chúa dùng đều có chung một mục đích là làm cho ta trở nên tốt lành hơn, thăng tiến trên đường lành thánh. Chúa chăn nuôi, chăm sóc để ta sinh hoa trái tốt hơn. Mục đích xén tỉa trong xã hội cũng có chung mục đích là làm thế nào có lợi cho công ti. Làm thế nào để cuối năm tính sổ thâu lợi nhuận nhiều hơn. Nếu lợi nhuận nhiều thì người đó sẽ được hưởng một phần của lợi nhuận như được thăng chức với bổng lộc kèm theo; trái lại nếu công ti thua lỗ việc xén tỉa gây lo lắng khôn nguôi vì không biết ai sẽ là nạn nhân của xén tỉa, sa thải. Đuổi việc, giảm công nhân, hoặc tăng sản phẩm, đòi lao động hết mức là cách công ti xén tỉa, đoi mới và mong cuối năm thu thêm lợi nhuận.
Thân nho cung cấp thực phẩm cho cành lớn nhỏ vì thế cành phải dính vào thân để được sống và sinh hoa trái. Đức Kitô trong dụ ngôn ví mình như thân nho và Chúa Cha là người trồng và tất cả Kitô hữu liên kết với Đức Kitô như hình ảnh cành liên kết với thân. Sự liên kết xảy ra khi Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Ngài yêu thương luôn những ai liên kết với Chúa Con. Cuộc sống tâm linh bị cạn dần, kiệt quệ khi điều gì đó ngăn cản, nối kết tình yêu Thiên Chúa với con người. Liên kết mật thiết với Thiên Chúa để sự sống được dồi dào bởi cành cần thuộc vào thân để sống và sinh hoa trái.
Để tạo thân nho mới người ta cắt cành rồi trồng cành đó ở nơi khác. Thân nho mới không còn lệ thuộc vào gốc cũ nữa nhưng nó tự sống và cuộc sống của nó ảnh hưởng bởi điều kiện đất đai, nước, khí hậu và phân bón. Những điều kiện trên ảnh hưởng đen mùa thu hoạch và phẩm chất nho. Đối với thiên nhiên là như thế. Kitô hữu nếu chọn cắt đứt liên hệ với Đức Kitô sẽ không chết về mặt thân xác nhưng chết về mặt tâm linh. Tâm linh bị khô héo dần. Muốn được sống lành, mạnh thì cần liên kết mật thiết với Chúa. Liên kết mật thiết với Chúa không có nghĩa chúng ta tránh khỏi mọi khó khăn trên đời. Khó khăn vẫn xảy đến và đau khổ vẫn tồn tại. Đau khổ, khó khăn trong đời không phải Chúa dùng để phạt con người nhưng nhìn cách tiêu cực chúng ta học qua đau khổ để trở nên tốt hơn, dễ thương hơn, là cơ hội để ta sinh hoa trái tốt và nhiều hơn.
50. Gợi nhớ
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Gọi lại trí nhớ là điều ai trong chúng ta cũng cần bởi vì trong cuộc sống, hứa hẹn đến từng giờ nên cần có cách giúp nhớ để thực hiện điều đã hứa. Thông thường cuốn sổ tay ghi lại công việc sẽ làm giúp nhớ lại điều đã hứa. Không phải ai cũng có sổ tay nên đôi khi cần người nhắc nhớ lại công việc sắp làm trong tương lai. Lại cũng có người có sổ tay nhưng công việc bề bộn cần có người nhắc chừng khi người kia quên điều ghi trong sổ tay. Nhắc nhau nhớ lại công việc cần thực hiện là điều cần thiết. Nhắc nhau đi hội họp là điều tốt. Nhắc nhau sống đạo là điều cần cho đức tin. Nhắc nhau siêng năng lãnh nhận các bí tích là bổn phận của các Kitô hữu. Bổn mạng của người làm công việc nhắc nhớ có nguồn gốc từ xa xưa. Thánh bổn mạng đó không xa lạ gì với người Thiên Chúa giáo, đó chính là Thánh Thần Thiên Chúa. Đấng làm công việc nhắc nhớ lại những điều Đức Kitô đã rao giảng về tình yêu Chúa, việc Đức Kitô đã thực hiện và tiếp nối công việc mặc khải, hướng dẫn, giảng dậy cho các Kitô hữu hiểu thấu đáo hơn, thâm sâu hơn điều đã nghe, đã biết. Đấng này Đức Kitô đã hứa với các môn đệ và những ai tin theo Ngài.
Thầy sẽ gởi Thánh Thần đến, Đấng sẽ hướng dẫn, giảng dạy, chỉ dẫn cho các con mọi điều.
Thánh Thần đến đóng vai trò hướng dẫn, giảng dậy, chỉ bảo, mặc khải và thánh hoá trong cuộc đời tín hữu vì thế Thánh Thần đóng vai trò người gia trưởng trong đời sống đức tin. Chúng ta làm công việc nhắc nhớ lại, gợi lại những gì có thể quên sót. Thánh Thần Chúa làm công việc gợi nhớ. Gợi nhớ vì tiếng nói và hướng dẫn của Thánh Thần thể hiện cho những ai thành tâm, hướng thượng và tìm kiếm sự thật, sự sống, sự bằng an trong tâm hồn. Khi tâm hồn bình thản, bình an nhất lúc đó ân sủng Thánh Thần đánh động tâm hồn giúp ta nhận biết tiếng nói của Thánh Thần.
Đức Kitô Phục Sinh đặt nặng trọng tâm trong vấn đề này vì thế chúng ta thấy mỗi lần hiện ra với các Tông Đồ Đức Kitô luôn hướng dẫn họ bằng cách nhắc giúp họ nhớ lại các điều họ đã nghe từ các bài giáo huấn của Ngài. Những bài giáo huấn và các lời tiên tri đều nhắc đến Đức Kitô Phục Sinh và món quà lớn lao nhất Ngài mang đến cho nhân loại chính là món quà Thánh Thần. Cái chết của Ngài là món quà tình yêu cao cả của người thí mạng mình vì bạn hữu trong cuộc đời tại thế của Ngài. Thánh Thần là món quà trọng đại nhất Đức Kitô Phục Sinh trao tặng cho những tín hữu tin theo làm môn đệ và nhân chứng cho Đức Kitô Phục Sinh sau khi Ngài về trời.
Lần gợi nhớ rõ ràng nhất là lần xuất hiện cùng đồng hành với các môn đệ trên đường về làng Emmaus. Trên đường đi Ngài đã giải thích cho các môn đệ về việc các tiên tri, khởi đầu là Môisen và các tiên tri sau đó nhắc đến các tiên đoán về việc Đấng Cứu Thế giáng trần sẽ chịu đau khổ, bị ruồng bỏ, bị bắt, kết án và đóng đinh trên thập giá nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại từ cõi chết. Các tông đồ lắng nghe và nhận ra Ngài khi cuối ngày Ngài cùng các ông bẻ bánh tạ ơn. Chính lúc đó các ông nhận ra Ngài cũng là lúc Ngài biến khỏi các ông. Các ông đã tự nói với nhau chúng ta không nhận ra Ngài vì lòng chúng ta chai đá khi Ngài nhắc nhớ chúng ta những tiên đoán về Đức Kitô Phục Sinh. Tấm lòng chai đá không nhận biết ơn gọi nhớ của Thánh Thần.
Người đầu tiên được hưởng ơn nhắc nhớ này chính là người môn đệ già kính yêu. Nhớ lại trong bữa Tiệc Li Đức Kitô tiên đoán cùng các môn đệ là các ông sẽ phản bội Ngài. Mọi người đồng thanh hứa là sẽ trung thành. Trong số những người xác tín trung thành thì Phêrô là người mạnh bạo, rõ ràng nhất. Ông tuyên bố dù tất cả các bạn hữu phản bội mình ông nhất quyết trung thành cùng Thầy. Không lâu sau đó trong khi nghe lén người ta xử Thầy, có người đầy tớ gái nhận ra ông là một trong nhóm mười hai liền hô hoán lên ông này cùng bọn với ông Kitô. Phêrô liền chối không biết. Lát sau có người nhận dạng Phêrô lại chối. Ba lần bị nhận diện, ba lần chối. Ngay lúc đó Đức Kitô ngước mắt nhìn ông, đồng thời tiếng gà gáy nhắc ông điều Đức Kitô tiên đoán chiều qua trong bữa Tiệc Li: trước khi gà gáy con chối Ta ba lần. Phêrô nhớ lại điều đó và ăn năn thống hối.
Nhắc nhớ lại trong Kinh Thánh có một mục đích rõ ràng, không phải để khỏi quên công việc mà để củng cố đức tin, để tăng thêm niềm tin của người Kitô hữu vào Đức Kitô Phục Sinh và để thành nhân chứng trung thành hơn cho Đức Kitô giữa đời.
Chúng ta cầu xin ơn khôn ngoan biết lắng nghe tiếng Thánh Thần Chúa hướng dẫn cuộc sống hành trình đức tin và xin ơn biết trung thành trong việc làm chứng nhân cho Chúa giữa đời.
51. Gợi nhớ – Lm Vũ Đình Tường
Gợi lại trí nhớ là điều ai trong chúng ta cũng cần bởi vì trong cuộc sống, hứa hẹn đến từng giờ nên cần có cách giúp nhớ để thực hiện điều đã hứa. Thông thường cuốn sổ tay ghi lại công việc sẽ làm giúp nhớ lại điều đã hứa. Không phải ai cũng có sổ tay nên đôi khi cần người nhắc nhớ lại công việc sắp làm trong tương lai. Lại cũng có người có sổ tay nhưng công việc bề bộn cần có người nhắc chừng khi người kia quên điều ghi trong sổ tay. Nhắc nhau nhớ lại công việc cần thực hiện là điều cần thiết. Nhắc nhau đi hội họp là điều tốt. Nhắc nhau sống đạo là điều cần cho đức tin. Nhắc nhau siêng năng lãnh nhận các bí tích là bổn phận của các Kitô hữu. Bổn mạng của người làm công viec nhắc nhớ có nguồn gốc từ xa xưa. Thánh bổn mạng đó không xa lạ gì với người Thiên Chúa giáo, đó chính là Thánh Thần Thiên Chúa. Đấng làm công việc nhắc nhớ lại những điều Đức Kitô đã rao giảng về tình yêu Chúa, viec Đức Kitô đã thực hiện và tiếp nối công việc mặc khải, hướng dẫn, giảng dậy cho các Kitô hữu hiểu thấu đáo hơn, thâm sâu hơn điều đã nghe, đã biết. Đấng này Đức Kitô đã hứa với các môn đệ và những ai tin theo Ngài.
Thầy sẽ gởi Thánh Thần đến, Đấng sẽ hướng dẫn, giảng dạy, chỉ dẫn cho các con mọi điều.
Thánh Thần đến đóng vai trò hướng dẫn, giảng dậy, chỉ bảo, mặc khải và thánh hoá trong cuộc đời tín hữu vì thế Thánh Thần đóng vai trò người gia trưởng trong đời sống đức tin. Chúng ta làm công việc nhắc nhớ lại, gợi lại những gì có thể quên sót. Thánh Thần Chúa làm công việc gợi nhớ. Gợi nhớ vì tiếng nói và hướng dẫn của Thánh Thần thể hiện cho những ai thành tâm, hướng thượng và tìm kiếm sự thật, sự sống, sự bằng an trong tâm hồn. Khi tâm hồn bình thản, bình an nhất lúc đó ân sủng Thánh Thần đánh động tâm hồn giúp ta nhận biết tiếng nói của Thánh Thần.
Đức Kitô Phục Sinh đặt nặng trọng tâm trong vấn đề này vì thế chúng ta thấy mỗi lần hiện ra với các Tông Đồ Đức Kitô luôn hướng dẫn họ bằng cách nhắc giúp họ nhớ lại các điều họ đã nghe từ các bài giáo huấn của Ngài. Những bài giáo huấn và các lời tiên tri đều nhắc đến Đức Kitô Phục Sinh và món quà lớn lao nhất Ngài mang đến cho nhân loại chính là món quà Thánh Thần. Cái chết của Ngài là món quà tình yêu cao cả của người thí mang mình vì bạn hữu trong cuộc đời tại thế của Ngài. Thánh Thần là món quà trọng đại nhất Đức Kitô Phục Sinh trao tặng cho những tín hữu tin theo làm môn đệ và nhân chứng cho Đức Kitô Phục Sinh sau khi Ngài về trời.
Lần gơi nhớ rõ ràng nhất là lần xuất hiện cùng đồng hành với các môn đệ trên đường về làng Emmaus. Trên đường đi Ngài đã giải thích cho các môn đệ về việc các tiên tri, khởi đầu là Môisen và các tiên tri sau đó nhắc đến các tiên đoán về việc Đấng Cứu Thế giáng trần sẽ chịu đau khổ, bị ruồng bỏ, bị bắt, kết án và đóng đinh trên thập giá nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại từ cõi chết. Các tông đồ lắng nghe và nhận ra Ngài khi cuối ngày Ngài cùng các ông bẻ bánh tạ ơn. Chính lúc đó các ông nhận ra Ngài cũng là lúc Ngài biến khỏi các ông. Các ông đã tự nói với nhau chúng ta không nhận ra Ngài vì lòng chúng ta chai đá khi Ngài nhắc nhớ chúng ta những tiên đoán về Đức Kitô Phục Sinh. Tấm lòng chai đá không nhận biết ơn gọi nhớ của Thánh Thần.
Người đầu tiên được hưởng ơn nhắc nhớ này chính là người môn đệ già kính yêu. Nhớ lại trong bữa Tiệc Li Đức Kitô tiên đoán cùng các môn đệ là các ông sẽ phản bội Ngài. Mọi người đồng thanh hứa là sẽ trung thành. Trong số những người xác tín trung thành thì Phêrô là người mạnh bạo, rõ ràng nhất. Ông tuyên bố dù tất cả các bạn hữu phản boi mình ông nhất quyết trung thành cùng Thầy. Không lâu sau đó trong khi nghe lén người ta xử Thầy, có người đầy tớ gái nhận ra ông là một trong nhóm mười hai liền hô hoán lên ông này cùng bọn với ông Kitô. Phêrô liền chối không biết. Lát sau có người nhận dạng Phêrô lại chối. Ba lần bị nhận diện, ba lần chối. Ngay lúc đó Đức Kitô ngước mắt nhìn ông, đồng thời tiếng gà gáy nhắc ông điều Đức Kitô tiên đoán chiều qua trong bữa Tiệc Li: trước khi gà gáy con chối Ta ba lần. Phêrô nhớ lại điều đó và ăn năn thống hối.
Nhắc nhớ lại trong Kinh Thánh có một mục đích rõ ràng, không phải để khỏi quên công việc mà để củng cố đức tin, để tăng thêm niềm tin của người Kitô hữu vào Đức Kitô Phục Sinh và để thành nhân chứng trung thành hơn cho Đức Kitô giữa đời.
Chúng ta cầu xin ơn khôn ngoan biết lắng nghe tiếng Thánh Thần Chúa hướng dẫn cuộc sống hành trình đức tin và xin ơn biết trung thành trong việc làm chứng nhân cho Chúa giữa đời.
52. Cắt và xén – Lm Vũ Đình Tường
Thầy là cây nho và Cha Thầy là người trồng nho.
Cắt đứt hay xén tỉa. Con người thích cắt đứt, chặt bỏ. Thiên Chúa không cắt nhưng xén tỉa, làm đẹp. Khó biết cắt đứt đau hơn hay xén tỉa đau hơn. Cả hai đều làm cho nhựa chảy lã chã. Sáp đóng đen ngòm. Cắt đứt hay xén tỉa đều đau đớn. Cả hai cùng đau nhưng kết quả khác nhau. Cắt đứt là chia lìa, pha huỷ, làm chết đi. Trái lại, xén tỉa mang lại sự sống dồi dào. Xén tỉa làm cho sinh hoa nhiều hơn và trái cũng tốt hơn.
Thực tế cho thấy không phải mọi đau đớn đều có lợi, đều là ý Chúa. Đau đớn gây nên bởi chia rẽ, pha huỷ, hận thù, bất công, gây nên do lòng ích kỉ, bè phái, chủ thuyết hay do bất cẩn. Đau khổ trên không phải ý Chúa. Giết chết và phá huỷ là sáng kiến của con người. Trái lại, đau đớn mang lại sự sống trường sinh, dẫn ta về với Chúa. Đau đớn sinh bởi hy sinh vì tình yêu, vì nước trời vì Phúc Âm. Đau đớn sinh hoa trái tốt, kiến tạo là sáng tạo của Thiên Chúa.
Đối nghịch
Con người sáng chế phương cách tàn bạo, vô nhân đạo, gây đau khổ, tan nhẫn giết hại nhau. Hành động bất nhân, thất đức gieo đau thương sầu khổ cho nạn nhân, đồng thời để lại tang thương, tàn phá khốc liệt từ đời con lê dài sang đời cháu, gia đình thân nhân, thân hữu nạn nhân. Hành động như thế dù nguỵ biện hợp lí cách nào đi nữa cũng làm mất lòng Chúa.
Thiên Chúa là Đấng đầy yêu thương sáng tạo ơn sống lại, tái tạo hạnh phúc thật, ban bình an tâm hồn và thưởng cuộc sống trường sinh cho những ai lưu lại trong Ngài. Điều này vượt quá trí hiểu và trí tưởng tượng của con người. Vì không thể hiểu nên từ chối chấp nhận lời Chúa hứa ban. Thật là nghịch lí, con người mong trường thọ. Chúa ban ơn sống trường sinh, kẻ từ chối, kẻ coi thường, kẻ đón nhận.
Những ai đặt trọn niềm tin vào Chúa hưởng ơn lộc ngay cuộc đời này. Dù sống nơi có chiến tranh; tâm hồn họ vẫn bình an. Dù bị ngược đãi, đối xử bất công; lòng họ vẫn thư thái. Dẫu có bị tù; họ vẫn hưởng tự do và gần kề cái chết; họ vẫn nhận được sự sống trường sinh.
Tin trước hiểu sau
Hiểu trước tin sau là điều không thể thực hiện. Tin trước hiểu sau là điều có thể xảy ra. Đòi hỏi hiểu rồi mới tin không phải là đức tin. Niềm tin đó không cần thiết vì không dẫn đến ơn cứu độ. Đức tin thuộc thế giới tâm linh, không thể cân đo, không thay hình đổi dạng, bất biến với thời gian. Ánh sáng bộ óc, ánh sáng khoa học soi sáng những gì thuộc về vật thể hữu hình, thuộc về khoa học. Ánh sáng tâm linh soi sáng những gì thuộc về tâm linh. Để có được ánh sáng tâm linh bước đầu tiên cần có là đức tin. Vì thế đức tin được coi là nền tảng cần thiết giúp học hỏi, khám phá tình yêu Chúa. Điều này thực hiện được vì những ai tin vào Thiên Chúa được Thần Khí Chúa hướng dẫn, soi sáng chỉ cho biết Thiên Chúa. Người có đức tin không cậy vào trí khôn, thông minh cá nhân nhưng dựa vào hướng dẫn của Thánh Thần Thiên Chúa. Mà Thánh Thần Chúa chỉ hoạt động trong những tâm hồn có đức tin.
Làm sao trí óc nhỏ nhoi con người hiểu thấu mầu nhiệm tình yêu. Nhờ đức tin hướng dẫn, giúp ta nhận ra tình yêu Chua. Đây là bước khởi đầu dẫn vào đời sống tâm linh. Đức tin không đòi hỏi chúng ta hiểu nhưng đòi chúng ta yêu. Càng yêu mến nhiều càng hiểu nhiều. Càng lí luận nhiều càng gặp bế tắc. Tình yêu chân chính ẩn hình khi có cãi lí, tranh biện. Trái lại tình yêu chân chính xuất hiện nơi đâu có hy sinh và phục vụ không vị lợi.
Tình yêu Chúa vừa soi sáng vừa thanh tẩy làm trong sáng tâm trí nhận biết sự thật. Từ chối tình yêu Chúa là từ chối ơn thanh tẩy giúp tâm trí trong sáng. Vì thiếu ánh sáng nên tâm hồn sống trong tối tăm. Sống trong tối tăm vì từ chối chấp nhận ánh sáng chân lí là sự thật. Từ chối sự thật sẽ không biết sự thật. Vắng bóng sự thật sao có đời sống công chính? Muốn sống công chính cần nhận ơn Chúa. Muốn nhận ơn Chúa cần phải gắn bó mật thiết với Chúa, như cành nho dính liền thân nho.
Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sanh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.
53. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
THẦN LINH SINH SẢN THẦN LINH HAY QUÁI THAI KITÔ GIẢ…
Vì vẫn còn trong Mùa Phục Sinh, bài Phúc Âm của tuần thứ năm Phục Sinh năm B tiếp tục chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh là “Sự Sống” từ tuần trước. Nếu tuần thứ tư Phục Sinh Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh là “Sự Sống” được diễn tả qua hình ảnh “vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên”, vị mục tử nhân lành biết chiên của mình và được chiên của mình biết đến, thì tuần thứ năm Phục Sinh này Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh là “Sự Sống” được tiêu biểu qua hình ảnh “cây nho đích thực”, một cây nho tràn đầy Nhựa Sống Thần Linh trổ sinh muôn vàn hoa trái nơi các cành của mình.
Tuy nhiên, ý nghĩa Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh là “Sự Sống” giữa tuần trước và tuần này khác nhau về đối tượng nhận lãnh. Tuần trước, Lời Chúa trong bài Phúc Âm ngỏ với dân Do Thái, Chúa Kitô Phục Sinh, qua vai trò Chủ Chiên Nhân Lành, là “Sự Sống” đối với chung đàn chiên của Người, một đàn chiên có thể hiểu là cộng đồng Kitô hữu nói riêng và cộng đồng xã hội loài người nói chung, vì Người nói đến cả những chiên chưa thuộc về đàn. Tuần này, Lời Chúa trong bài Phúc Âm ngỏ với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Kitô Phục Sinh, qua hình ảnh Cây Nho Đích Thực, là “Sự Sống” đối với chung Giáo Hội và đối với riêng thành phần giáo sĩ (kể cả tu sĩ) nhất là giáo phẩm, thành phần được Người tuyển chọn để làm bạn hữu với Người (x Jn 15:14-15), nhờ đó có thể cảm nghiệm Người (“ai sống trong Thày”), hầu làm chứng nhân cho Người (“Thày sống trong họ”), và chăn dắt đàn chiên của Người như Người chăn dắt chúng với tinh thần của một vị Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống mình vì chiên (“trổ sinh hoa trái”).
Nếu Chúa Kitô là Cây Nho Đích Thực, và chung Giáo Hội cũng như riêng đời tận hiến tu sĩ, đặc biệt hàng giáo sĩ, nhất là hàng giáo phẩm, là cành nho, thì nhựa sống của Cây Nho Đích Thực thông sang cho các cành nho này là gì? Hoa trái nhờ nhựa sống này được trổ sinh ở các cành nho đây là chi? Tại sao những cành đã sinh trái lại còn bị cắt tỉa cho càng sinh nhiều hoa trái hơn?
Về vấn đề thứ nhất, vấn đề nhựa sống của cây nho, vấn đề liên quan đến bài Phúc Âm tuần tới, Chúa Nhật VI Phục Sinh, nên chúng ta để đến bài chia sẻ tuần tới hãy bàn tới. Bài Phúc Âm Chúa Nhật V Phục Sinh tuần này chỉ nói đến vấn đề tác dụng của “Sự Sống” nơi các cành nho, tức nhấn mạnh đến vai trò sinh hoa kết trái của cành nho mà thôi. Đối với khía cạnh cành nho sinh hoa kết trái cho Cây Nho Đích Thực là Chúa Kitô này, chúng ta thấy Giáo Hội Chúa Kitô thực sự là hiền thê của Người, một người nữ tự mình không thể sinh sản con cái nếu không hiến thân cho chồng, kết hiệp với chồng và nhận được sinh lực từ chồng, như cành nho được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm không dính liền với thân nho chẳng những sẽ không sinh hoa trái còn bị khô héo, trở thành củi bị lửa thiêu rụi đi mất. Tuy nhiên, vì là việc sinh sản thiêng liêng chứ không phải thể chất, sinh sản thần linh chứ không phải phàm nhân, mà Vị Hiền Thê Mẹ Giáo Hội này phải là một Trinh Nữ, Trinh Nữ Sinh Con, như mô phạm của mình là Trinh Nữ Maria, Mẹ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Đó là lý do ở phần đầu của bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nói đến việc thanh sạch của thành phần sẽ sinh sản muôn vàn hoa trái cho Người: “Các con đã được thanh sạch nhờ lời Thày nói với các con”.
Nếu muốn sinh sản muôn vàn hoa trái thần linh, Giáo Hội cần phải thanh sạch, phải là một Trinh Nữ, mà yếu tố làm cho và giữ cho Giáo Hội luôn là một Trinh Nữ, tức luôn sinh hoa kết trái, đó là Lời Chúa. Như thế, dù chưa hoàn toàn cho thấy, như bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Sáu Phục Sinh tuần tới, tất cả bản chất của nhựa sống của Cây Nho Đích Thực, nhựa sống có tác dụng làm cho các cành nho sinh muôn vàn hoa trái, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Năm Phục Sinh tuần này cũng cho thấy trước nhựa sống của Cây Nho Đích Thực đây trước hết là Lời Chúa. Bởi đó, cành nho dính liền với cây nho, ở chỗ, như Chúa Giêsu kêu gọi trong bài Phúc Âm, “hãy sống trong Thày như Thày sống trong các con”, để trổ sinh muôn vàn hoa trái đây không là gì khác ngoài việc tuân giữ Lời Chúa, như Chúa khẳng định trong bài Phúc Âm “nếu các con sống trong Thày và những lời của Thày ở với các con thì các con xin bất cứ sự gì cũng được”, đến độ Lời Chúa hoàn toàn làm chủ con người tự nhiên của họ và chi phối cuộc đời sống đạo của họ, thành phần nhờ đó trở thành phản ảnh sáng ngời Lời Chúa, trở thành những chứng nhân trung thực cho Tin Mừng Sự Sống, cho Đấng “là Sự Sống Lại và là Sự Sống” (Jn 11:25). Cho tới khi được nên một với Chúa Kitô, được Chúa Kitô chiếm đoạt như thế, một tình trạng linh đạo được tu đức học gọi là Thần Hiệp, thành phần môn đệ đích thực của Người nói chung, nhất là thành phần đã được thụ phong để trở thành “alter Christus” nói riêng, mới có thể làm cho thế gian thấy được một Chúa Kitô sống động nơi Giáo Hội mà trở về với Người, hầu được thông phần vào sự sống thần linh với Giáo Hội (x 1Jn 1:1-3).
Vậy hoa trái thần linh được trổ sinh từ cành nho Giáo Hội đây là gì – Chúa Kitô được tái sinh trên thế gian nơi các linh hồn, hay là các linh hồn được tái sinh trong Chúa Kitô bởi nước và Thần Linh (x Jn 3:5)? Nếu hài nhi được sinh ra là tầm vóc hình thành sống động của mầm sống 9 tháng 10 ngày trong bụng mẹ thế nào, thì hoa trái thần linh được Giáo Hội sinh ra cũng thế, cũng chính là Lời Chúa, song là Lời Chúa ở tầm vóc hình thành sống động như vậy, nghĩa là một Chúa Kitô hình thành nơi các linh hồn nhận biết Người (x Eph 4:13, 15; Col 1:28; Gal 4:19), tới độ thành phần nhận biết Chúa Kitô đã được hoàn toàn đồng hóa với Người, một cuộc đồng hóa đến nỗi ai xúc phạm đến họ là xúc phạm đến chính bản thân Người, như chính Người đã xác định với một Saolê ngã ngựa trên con đường đang hung hăng điên cuồng lùng bắt các Kitô hữu tiên khởi: “Saolê, Saolê, sao ngươi bách hại Ta?... Ta là Giêsu, người mà ngươi đang bách hại” (Acts 9:5-6). Như thế, hoa trái thần linh được cành nho Giáo Hội hay Kitô hữu trổ sinh đây chính là Chúa Kitô. Đó là lý do Chúa Kitô khẳng định với những ai báo cho Người biết về việc Mẹ Người và anh em Người đang chờ gặp Người (Lk 8:21) rằng Người có thể trở thành con cái của thành phần lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa như Mẹ Maria, Người Mẹ đã được một phụ nữ khen tặng là có phúc vì được diễm phúc cưu mang và cho Người bú về thể lý (x Lk 11:27-28).
Thế nhưng, cuộc sinh thể lý nào cũng quằn quại đớn đau ra sao, cuộc sinh sản thiêng liêng cũng thế. Đớn đau bao giờ cũng gắn liền với việc sinh sản, dù là sinh sản thể lý hay thiêng liêng. Đớn đau là dấu hiệu đi liền với việc sinh nở, đến nỗi không đau đớn cũng không có vấn đề sinh con. Đớn đau bởi thế còn là dấu hiệu cho thấy một nguồn sinh lực dồi dào phong phú, như dấu tích tử giá là dấu hiệu chứng thực Chúa Kitô Phục Sinh vậy. Nếu một Trinh Nữ Sinh Con Maria Vô Nhiễm Tội mà còn phải bị lưỡi đòng đâm thâu qua dưới chân cây thập giá của Con mình mới làm cho tư tưởng nhiều người tỏ lộ ra (x Jn 19:25; Lk 23:44-48), thì Giáo Hội, cũng là một Trinh Nữ Sinh Con, làm sao có thể nào thoát được thân phận đớn đau này. Đó là lý do, ngay ở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật V Phục Sinh Năm B tuần này Chúa Giêsu đã xác quyết và tiên báo cho các tông đồ biết về tình trạng cần phải đớn đau mới có thể sinh muôn vàn hoa trái rằng: “Cha sẽ chặt đi các cành không sinh hoa kết trái, còn cành nào sai trái thì Ngài cắt tỉa để càng sinh hoa kết trái hơn nữa”. Kinh nghiệm tu đức cho thấy không một vị thánh nào mà không có đau khổ. Không khổ không thánh. Càng khổ càng thánh. Thiên Chúa cũng sử dụng đau khổ để chẳng những thánh hóa linh hồn mà còn làm cho linh hồn có khả năng sinh sản thiêng liêng nữa. “Cành nho nào sai trái” sẽ được Vị Trồng Nho là Chúa Cha cắt tỉa đây phải chăng là cành nho đã được Lời Chúa thanh tẩy, cành nho thánh thiện, cành nho được thần hiệp với Chúa Kitô Tiệc Ly (x Jn 17:21), và cành nho sai trái này sẽ “càng sai trái hơn” còn cần phải trải qua đêm tối tăm với Chúa Kitô ở Vườn Cây Dầu (x Mt 26:38; Lk 22:44) cũng như trên Cây Thập Giá nữa (x Mt 27:46; Mk 15:34).
Tuy nhiên, theo nguyên tắc Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu phải dính liền với Cây Nho mới có thể sinh muôn vàn hoa trái, thì một khi cần phải bị Vị Trồng Nho cắt tỉa như lìa khỏi Cây Nho thì làm sao lại có thể sinh nhiều hoa trái hơn được? Thế nhưng, đó lại là định luật sinh sản. Nếu thai nhi phải lìa bỏ lòng mẹ, ở chỗ cái nhau làm cho mẹ con dính liền với nhau cần phải cắt đứt khi thai nhi lọt lòng mẹ thế nào thì quả thực, chỉ có những ai liều mất mạng sống mình mới giữ được nó cho sự sống đời đời mà thôi (x Jn 12:25). Nếu Chúa Kitô trước khi tắt thở trên Thập Giá đã phải kêu lên não nuột “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ rơi Con” (Mt 27:46; Mk 15:34), một tiếng kêu nói lên tình trạng và tâm trạng cho thấy cái cảm giác Người hoàn toàn bị cắt lìa khỏi Cha thế nào, thì thành phần môn đệ là “cành nho sai trái” cũng sẽ cảm thấy mình bị tách lìa khỏi Chúa Kitô như vậy, như trường hợp các tông đồ sau Bữa Tiệc Ly được Chúa Kitô tiên báo, nhưng lại là một tình trạng tách lìa thiết yếu và quan trọng để thành phần cành nho bạn hữu của Cây Nho Chúa Kitô “càng sai trái hơn”: “Thày đi thì có lợi cho các con… Các con sẽ khóc lóc than van… nhưng nỗi phiền muộn của các con sẽ trở thành niềm vui cho các con” (Jn 16:7,20).
Về vấn đề sống nội tâm thân mật với Chúa Kitô như cành nho với thân nho để có thể sinh nhiều hoa trái được bài Phúc Âm Chúa Nhật V Phục Sinh năm B nhắc đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định về tình trạng sống đạo hiện nay trong Giáo Hội và khuyên giục giới trẻ Tây Ban Nha trong chuyến tông du 99 (3-4/5/2003) của Ngài như sau:
“Thảm kịch của nền văn hóa hiện nay đó là thiếu đời sống nội tâm, thiếu việc chiêm niệm. Không có đời sống nội tâm thì văn hóa chỉ là những gì rỗng ruột, nó như một cái xác nhưng chưa có hồn sống. Các bạn đừng bao giờ tách biệt hoạt động với chiêm niệm; nhờ đó các bạn mới có thể góp phần vào việc biến đổi giấc mơ cao cả trở thành thực tại; trở thành một cuộc hạ sinh cho một tân Âu Châu trong tinh thần. Một thứ Âu Châu trung thành với những cội nguồn Kitô Giáo của mình, chứ không gắn bó với chính nó, song hướng tới việc trao đổi và hợp tác với các dân tộc khác trên thế giới… Các bạn cần đến sự trợ giúp của việc nguyện cầu cũng như cần đến sự an ủi phát xuất từ mối thân tình mật thiết với Chúa Kitô. Chỉ có thế, chỉ khi nào sống cái cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa và chiếu sáng tình huynh đệ Phúc Âm, các bạn mới có thể trở thành những tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, mới có thể trở thành những con người nam nữ chân chính của hòa bình và là những con người đi xây dựng hòa bình… Hãy tham dự vào ‘học đường của Trinh Nữ Maria’. Người là một mô phạm chiêm niệm siêu việt và là một mẫu gương tuyệt vời của đời sống nội tâm sinh hoa trái, hân hoan và phong phú”.
Tuy nhiên, vấn đề sống nội tâm đây không phải chỉ là vấn đề thi hành những việc đạo đức, nhất là cử hành những tác động phụng vụ, như thường xuyên xưng tội rước lễ, mà còn ở vấn đề sống tinh thần Chúa Kitô nữa. Đó là lý do kinh nghiệm sống đạo cho chúng ta thấy, có nhiều người rất đạo đức, xưng tội hằng tháng, rước lễ hằng tuần, đọc kinh hằng ngày, thế mà vẫn làm gương mù gương xấu, vẫn sống như người con cả ở gần cha mà chẳng hiểu cha mình gì hết (x Lk 15:29,31), chẳng khác gì như những cây vả xum xuê hoa lá mà chẳng có trái, đáng bị rủa chết (x Mk 11:13-14). Nói như thế không có nghĩa là phụng vụ là đồ bỏ, trái lại, có đến với Chúa Kitô nơi các bí tích, Kitô hữu chúng ta mới được dồi dào Chúa Kitô, nhờ đó mới có thể thông Người ra qua đời sống chứng nhân cho tinh thần đức ái trọn hảo của Người: “Các bạn đừng bao giờ tách biệt hoạt động với chiêm niệm”. Vấn đề quan trọng ở đây là chúng ta phải làm sao để tâm hồn chúng ta trở thành mảnh đất tốt cho mầm mống thần linh là Lời Chúa lớn lên trổ sinh gấp trăm (x Mt13:23), thì chúng ta sẽ không bị xẩy thai, thậm chí không cưu mang và sinh ra những quái thai, những kitô giả…
54. Cây nho và nhánh.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Mở đầu cho vở kịch mang tên: "Chiếc hài bằng Satin" của Paul Rolden, một văn thi sĩ người Pháp đầu thế kỷ XX là một cảnh thật xúc động. Một trận cuồng phong bỗng dưng kéo dài tới nhận chìm chiếc tàu đang di chuyển đơn độc giữa đại dương. Chiếc tàu vỡ nát và mọi người trên tàu đều bị mất tích, ngoại trừ một vị thừa sai sống sót nhờ cột chặt người vào chiếc cột buồm.
Nhận thấy chiếc cột buồm đang chồm nổi với cơn sóng ác nghiệt và mình cũng đang gần kề cái chết, vị thừa sai đã dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: "Ôi lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa đã cho con đón nhận cái chết như thế này. Cuộc đời con không ít lần con cảm thấy lời dạy của Chúa quá khó khăn và con đã cưỡng lại lời mời gọi của Chúa. Giơ đây con đang gần Chúa hơn lúc nào hết, thân thể con đang bị trói chặt vào chiếc giá gỗ và con sắp chết trên chiếc giá gỗ này. Con có thể tháo gỡ thân thể con khỏi sự trói buộc, nhưng con không muốn, vì sự trói buộc se cho con cảm giác được gần và giống Chúa hơn".
Anh chị em thân mến!
Được gần và giống Chúa, được hiệp nhất với Chúa, không đơn thuần chỉ là những ước mơ trong cuộc sống của người Kitô hữu, mà chúng là những điều kiện can bản cho sự sống Kitô hữu như lời Ngài dạy cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh chị em thân mến!
"Vườn nho" hay "cây nho" là hình ảnh quen thuộc của Kinh Thánh Cựu Ước. Vườn nho được ví là nhà Israel. Các tiên tri lớn như Isaia, Giêrêmia, Ézekiel đều nhìn mối liên lạc giữa người trồng nho và cây nho để nói lên sự quan tâm của Giavê Thiên Chúa đối với dân Ngài, cũng như để khiển trách dân tộc Israel vì vườn nho đã trở nên hoang tàn, dây nho biến thành dây nho dại không còn sinh hoa kết trái.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lấy hình ảnh "cây nho" để ví Ngài như là cây nho: "Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho". Vườn nho của Thiên Chúa phát xuất từ một gốc duy nhất là Chúa Giêsu. Ngoài Ngài không có sự sống: "Thầy là cây nho, các con là ngành". Ngành không thể sống, nếu tách lìa xa thân cây.
"Ở trong Thầy và Thầy ở trong các con", đó là điều mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc đi nhắc lại. Cần thông hiệp với Ngài để có sự sống. Tuy nhiên, một khi đã có sự sống từ thân chuyển sang thì ngành cần phải sinh hoa trái. Sinh hoa trái sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, va đây cũng là điều kiện cho ngành tồn tại. Ngành nào không sinh trái sẽ bị chặt đi ném vào lò lửa. Muốn được sinh hoa trái, ngành nho phải được cắt tỉa. Chẳng có sự cắt bỏ nào mà không gây đau đớn, dù cho phần cắt tỉa chỉ là phần thừa thãi tác hại đến cơ thể. Thế nhưng, chẳng thấy được hoa trái nếu không chấp nhận sự đau đớn của việc cắt tỉa. Chắc hẳn người trồng nho sẽ đau lòng khi cắt tỉa, sẽ xót xa vì phải bỏ đi những phần không sinh lợi, nhưng vì lợi ích của cây nho nên chẳng thế nào làm khác đi được.
Khi thông hiệp vào Đức Kitô, đời sống của người môn đệ sẽ được cắt tỉa nhờ lời của Ngài. Lời của Ngài sẽ đặt các môn đệ trước những quyết định chọn lựa. Chọn lựa con đường hẹp nhọc nhằn, chọn lựa Thập Giá khổ đau. Những hy sinh đau đớn ở đời này sẽ mang lại phần thưởng mai sau. Và những hy sinh ấy tạo cho họ có cơ hội để được trở nên giống Thầy: "Họ ở trong Thay và Thầy ở trong họ".
Thật thế, mọi đau khổ sẽ trở nên phí phạm, nếu không hướng về Thập Giá Đức Kitô, nguồn ơn cứu độ. Cắt tỉa chỉ là cắt bỏ, nếu không nhằm mục đích sinh hoa trái. Mọi hy sinh của người tín hữu cũng sẽ không mang lại hoa trái, nếu từ đầu không vì Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là cây nho đích thực. Xin cho chúng con luôn gắn chặt và hiệp thông với Chúa, để được hưởng nguồn sức sống dồi dào từ Ngài. Chúng con vẫn biết rằng, một khi gắn chặt với Chúa, chúng con sẽ phải đón nhận sự cắt tỉa, phải chấp nhận hy sinh. Xin cho chúng con xác tín rằng: cần phải có hy sinh để mang lại hoa trái. Đó là điều làm vinh hiển cho Cha, Đấng ngự trên trời. Amen.
55. Anh em hãy lưu lại trong tôi
(Suy niệm của Lm. Đặng Quang Tiến)
Là một trong những diễn từ ly biệt từ chương13,31 đến cuối chương 17, đoạn 15,1-16,4a có thể phân ra như sau: 1- Chúa Giêsu là cây nho thật (15,1-8); 2- Giới răn yêu thương (15,9-17); 3- Sự ghét bỏ của thế gian (15,18-16,4a). Căn cứ trên cụm từ “Tôi là cây nho” (cc. 1.5), đoạn 15,1-8 được chia cách thành hai: 15,1-4 và 15,5-8. Hơn nữa, những chữ “Cha tôi” (cc.1.8) đóng khung đoạn nầy; như thế, câu 1 và 8 được xem như nhập đề và kết luận của đoạn nầy.
Đặc điểm của đoạn nầy là dùng những hình ảnh ẩn dụ như cây nho, cành, sinh trái… để nói lên những điều có thực tương ứng là Chúa Giêsu, các môn đệ, kết quả... Về đại danh từ, ngôi thứ nhất dùng cho Chúa Giêsu tương ứng với ngôi thứ hai số nhiều chỉ đến các môn đệ. Về chủ đề, nhấn mạnh liên tục việc “lưu lại” và “sinh trái”. Mục đích là kêu gọi các môn đệ lưu lại trong Người và lời của Người khi xem ra Người sẽ vắng mặt.
Về cụm từ “Tôi là” (c. 1), xem bài chú giải tuần IV Phục Sinh B. Trong Cựu Ước cây nho là hình ảnh tiêu biểu chỉ dân Israel (Os 10,1–2; Isa 5,1–7; Ger 2,21; Tv 80,8–18). Dân nầy bây giờ được thu tóm trong cá nhân Chúa Giêsu; bởi đó, chỉ trong Người, Israel mới, mọi dân tộc mới tìm thấy ơn cứu độ. Tính từ “thật” được dùng cho “cây nho” nêu rõ tính cách duy nhất (x. 10,11). Đây là yếu tố tiêu biểu của Gioan (x. 1,9; 6,32; 8,16; 6,55). Chỉ Người là cây nho thật, nên phải lưu lại trong Người. Hình ảnh Chúa Cha là người trồng nho được dùng trong cả Cựu Ước và Tân Ước (x. Mc 12,1-12; Is 5,1; Tv 8,8). Tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha là hậu cảnh cho tương quan giữa Người và các môn đệ, được xem là chủ đề cốt yếu của đoạn nầy.
Sau những xác định nhập đề (c. 1), nguyên tắc đầu tiên được đưa ra (cc. 2-3) là trong Chúa Giêsu, cành nào không sinh trái thì bị loại ra, cành nào sinh trái thì được cắt tỉa để sinh nhiều trái hơn. Như thế, ai đó dù ở trong Người mà không sinh trái, bị kể là không có Người ở trong họ. Ở đây tuyệt đối cần một quan hệ “ở lại” hỗ tương giữa Chúa Giêsu và người ấy (x. 15,4a.5a). Trong khi, đối với người sinh trái, lời đã rao giảng cho họ luôn là nguồn thanh tẩy để họ có thể sinh trái nhiều hơn (x. 6,63). Nguyên tắc thứ hai (c. 4a) là không ai có thể tự mình sinh trái, mà chỉ có thể sinh trái trong Chúa Giêsu. Do đó, Người đưa ra mệnh lệnh duy nhất trong phân đoạn nầy: “Anh em hãy lưu lại trong tôi” (c. 4a). Ở thể mệnh lệnh động từ “lưu lại” biểu thị một hành đong hơn là một trạng thái. Đó là một cố gắng liên tục bước vào trong hiệp thông với Người, điển hình như hai môn đệ đầu tiên tìm đến và lưu lại với Người (1,39).
Hai nguyên tắc trên được diễn giải và áp dụng cho các môn đệ trong đoạn 15,5-8. Trong câu 5, tìm thấy những từ ngữ tương tự đoạn trên, tóm kết những điều đã nói là ở trong Người thì sinh nhiều trái, và không có Người thì không thể làm được gì cả. Câu 6 và 7 tương đương với hai mệnh đề của câu 2. Ở câu 6, Gioan trình bày một giả thiết có tính tiêu cực, nhấn mạnh những hậu quả sẽ xảy đến nếu không lưu lại trong Người. “Bị quăng ra ngoài”, “bị đốt cháy” là những hình ảnh chỉ sự loại bỏ và hủy diet. Trong khi câu 7 đưa ra những điều kiện tích cực nhưng mang tính treo lửng: “Nếu anh em lưu lại trong tôi và nếu lời của tôi ở trong anh em” (c. 7a), nghĩa là chỉ khi nào hội đủ những điều kiện nầy, thì những điều Người nói ơ vế thứ hai mới được thực hiện; đó là “Anh em hãy xin bất cứ điều gì anh em muốn, điều ấy sẽ được thực hiện cho anh em” (c. 7b). Mệnh lệnh “Anh em hãy xin”, kết thúc lý luận của Gioan, tương ứng và không thể tách lìa với menh lệnh ở trên (c. 5) như thế nầy: Anh em hãy ở lại trong tôi và anh em hãy xin bất cứ điều gì anh em muốn. Đoạn 15,1-8 được kết luận (c. 8) với khẳng định là Chúa Cha được tôn vinh bởi việc sinh nhiều trái và trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Chữ “môn đệ” xuất hiện ở vị trí cuối cùng của câu kết nầy tóm tắt tất cả những gì được đề cập ở trước: trở nên môn đệ của Chúa Giêsu là lưu lại trong lời của Người và qua đó sẽ sinh hoa kết trai trong Người.
Đây là chỗ duy nhất trong Kinh Thánh cho thấy Chúa Cha, người trồng nho, không những hài lòng mà còn được tôn vinh bởi cây nho của mình. Chính bởi vì cây nho ấy là Con của Người luôn sinh trái ngon ngọt theo ý muốn của Người; và cũng thế tất cả những ai lưu lại trong Người Con ấy.
56. Mối thân tình.
Người ta kể lại như sau: đang khi phi hành gia Amstrong chuẩn bị đổ bộ xuống mặt trăng, thì phi hành gia Aldrin ở lại phi thuyền Apollo. Ông ta mở gói bánh mì và chai rượu nho, đặt chúng lên máy vi tính. Và ông ta cho biết:
- Tôi đổ rượu nho vào ly… Vì tại mặt trăng, trọng lượng chỉ bằng 1/6 ở trái đất, nên rượu nho từ từ dâng lên thành ly trông rất đẹp mắt. Thật là thú vị khi nghĩ rằng chất lỏng đầu tiên được rót và uống trên mặt trăng cũng như thực phẩm đầu tiên được ăn tại đó lại là những chất liệu làm nên Mình và Máu Thánh Chúa.
Ngay trước khi dùng những món này, ông ta đã đọc đoạn Phúc âm hôm nay: Ta là cây nho, các con là cành nho. Bất cứ ai ở trong Ta và được Ta ở trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái. Bởi vì không có Ta, các con sẽ không làm được gì.
Câu chuyện trên không phải chỉ gợi ý cho đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, mà còn nhấn mạnh đến cách thức chúng ta hiệp nhất với Đức Kitô, giống như cành nho hiệp nhất với cây nho. Chúng ta có ba cách đặc biệt để hiệp nhất với Chúa Giêsu.
Cách thứ nhất đó là tụ họp với nhau nhân danh Ngài. Đây là điều chính Ngài đã nói với các môn đệ:
- Ở đâu có hai hay ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy sẽ ở giữa họ.
Đức Kitô đã hứa rằng Ngài sẽ hiện diện với chúng ta khi chúng ta tụ họp lại với nhau, hay khi chúng ta cùng cầu nguyện với nhau nhân danh Ngài.
Cách thứ hai đó là hãy lắng nghe lời Ngài. Chính Ngài cũng đã nói với các môn đệ:
- Ai nghe các con là nghe Thầy.
Chúa Giêsu hứa với chúng ta rằng hễ chúng ta nghe người khác đọc và giải thích Tin Mừng là chúng ta nghe chính Ngài vậy.
Sau cùng, cách thứ ba đó là chia sẻ Thịt Máu Ngài. Sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều Chúa Giêsu đã giới thiệu với dân chúng một thứ của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta, đó là Mình và Máu Thánh Ngài. Hơn nữa, Ngài còn xác quyết:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, người ấy sẽ ở trong Ta và Ta ở trong ngươi ấy.
Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta rằng Ngài sẽ hiệp nhất với chúng ta nếu chúng ta đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể của Ngài.
Hãy cầu nguyện với nhau nhân danh Ngài, hãy lắng nghe lời Ngài và hãy tham dự bàn tiệc Thánh Thể của Ngài, đó là ba cách thức giúp chúng ta kết hiệp, gắn bó mật thiết với Chúa, để rồi như ngành nho có dòng nhựa sống thế nào, thì chúng ta cũng sẽ được đón nhận dòng ân sủng của Chúa như vậy.
57. Cây nho.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Người trong một biểu tượng là cây nho và cành nho.
Chúa Giêsu nói: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”. Cây nho là biểu tượng Kinh Thánh rất nổi tiếng trong dân Thiên Chúa. Biến cố dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai cập và được đưa vào ở trong Đất Hứa đã được Thánh Vịnh mô tả như sau: “Gốc nho này, Chúa bưng từ Ai cập, đuổi chư dân lấy chỗ mà trồng”.
Chúng ta cũng biết khi cây nho sum xuê, um tùm quá thì việc tỉa cành là cần thiết. Chúng ta cũng biết cành nho thì chẳng làm được gì, bởi vì nó quá mềm, chỉ còn có cách quẳng vào lửa mà thôi. Chúng ta cũng biết “Cành nào không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho”.
Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta hãy ở lại trong Chúa. Nhưng “Ở lại trong Chúa” nghĩa là gì?
Trước hết, ở lại trong Chúa là lắng nghe và tuân giữ lời của Chúa. Trên thực tế, chúng ta có thể từ chối việc lắng nghe lời Chúa, hay chúng ta có thể lắng nghe nhưng chẳng thực hành lời Chúa dạy. Chúng ta cũng có thể đón nhận Đức Giêsu như là Chúa rồi lại chối bỏ Người khi chúng ta gặp phải những cơn thử thách, những chước cám dỗ.
Thứ hai, ở lại trong Chúa là nhận biết Chúa Kitô chính là cây nho thật, không có Người, chúng ta không thể làm một điều gì có giá trị trước mặt Thiên Chúa.
Thứ ba, ở lại trong Chúa là sống trong Giáo Hội của Chúa vì đó là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô.
Thứ bốn, ở lại trong Chúa là nhìn thấy Chúa hiện diện trong tất cả mọi người và mọi biến cố, ngay cả trong các kẻ thù của chúng ta và trong những điều mà chúng ta không thích.
Thứ năm, ở lại trong Chúa là tích cưc lãnh nhận các bí tích và sống đời sống cầu nguyện.
Cuối cùng, ở lại trong Chúa là xác tín có một nhu cầu cần cắt tỉa những cơ cấu, những phương pháp, những lối tiếp cận và những điều khác nữa khi chúng ta trở nên gia cỗi, lỗi thời để mở ra một con đường cho những điều mới, và việc đổi mới cứ phải diễn ra mãi dựa trên nền tảng là chính Chúa Kitô là cây nho thật.
Lạy Chúa, khi con bị thử thách cám dỗ xin Chúa giữ chặt con, đừng để con xa lìa Chúa bao giờ.
58. Cây nho
Ở nước Do Thái, cây nho là một loại cây rất quen thuộc như cây lúa, cây bắp ở Việt Nam. Nghề trồng nho là một trong những nghề chính và là một trong những nông phẩm chính của miền Palestine, là nơi có khí hậu và đất đai rất thích hợp với cây nho. Vì thế, đối với dân Do Thái, vườn nho và cây nho là hình ảnh rất lâu đời, được dùng để tượng trưng cho dân tộc, một dân riêng được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc đặc biệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này để áp dụng vào Ngài và chúng ta: Ngài là cây nho, chúng ta là cành.
Một cây nho thì gồm rễ, thân, cành và lá. Một cây nho có đẹp là nhờ có hoa lá cành, nếu chỉ có thân không thôi thì xác xơ, trơ trụi. Dù sao thì mọi phần trong một cây nho đều cần nhau: cây cần phải có cành, nếu không có cành làm sao mang được hoa trái, và hoa trái cũng cần lá cành để che nắng, che sương và dự trữ nước. Nhưng có một điều chắc chắn là cành phải hoàn toàn cần tới thân, nếu cành cắt lìa thân nho thì cành sẽ khô héo và chết.
Đó là hình ảnh cho chúng ta biết: mỗi người cần phải liên kết với Chúa Giêsu thì mới sống và sống mạnh. Chúng ta cần tới Chúa để đạt ơn cứu rỗi, chúng ta cần hiệp nhất với Chúa, như Chúa đã nói: “Không có Ta, các ngươi không làm gì được”. Thực vậy, chúng ta không thể thành toàn, tự giải thoát, thần hóa con người của mình, nếu không sống trong, sống nhờ và sống với Chúa Giêsu. Yếu tính của con người là luôn vươn lên, tìm về tuyệt đối. Con người có nhiều bậc thang giá trị sống: khi bụng đói, họ chỉ nghĩ tới ăn trước tiên. Khi no bụng, dư dả để giải quyết vấn đề bao tử rồi, họ lại thấy cần cái khác là may mặc. Dư dả về ăn uống và may mặc rồi, họ bắt đầu thấy thiếu những nhu cầu tri thức, nghệ thuật, và tiến đến nhu cầu tâm linh. Con người bấy giờ thấy rằng không thể hài lòng với cuộc sống hiện tại, không thể chấp nhận bị tiêu tan vô lý theo với cái chết kết thúc cuộc đời, họ muốn vượt khỏi những giới hạn của trần gian, muốn tung vũ tru này để “du hành” vào một cõi thần thiêng. Thế nhưng con người không thể tự giải phóng mình, phải nhờ Thiên Chúa, nhờ một nhân vật ở cõi thần thiêng. Thì chính Chúa Giêsu là mầm giống siêu nhiên được Chúa Cha cấy vào sự sống tự nhiên của con người, để họ có khả năng phát triển và trưởng thành vào cuộc sống thần thiêng.
Nói rõ hơn, chúng ta phải kết hợp với Chúa Giêsu, là huyết mạch duy nhất để chúng ta thực hiện và hoàn thành ươc mơ được vào cuộc sống thần thiêng, phạm vi cứu rỗi, điều này phải hiểu một cách tuyệt đối. Chúng ta lấy vài thí dụ: có bao giờ chúng ta thấy một bóng đèn điện bị cắt đứt với dòng điện hay bị cúp điện mà còn sáng không? Một nhánh sông cắt đứt với con sông cả mà còn nước không? Một nhành cây cắt đứt lìa thân cây mà còn sống không? Cũng thế, một khi chúng ta xa lìa Chúa, tâm hồn chúng ta cũng khô héo, bề ngoài có thể là thành cong trên phạm vi danh vọng, tiền tài, được ca tụng, kính nể, nhưng chúng ta đang đi đến chỗ hư hỏng. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta là kẻ chết và chết khô. Vậy chúng ta có thể kết hợp với Chúa cách nào? Bằng những phương thế rất quen thuộc và cụ thể là cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, là bí tích quan trọng và hiệu năng nhất để chúng ta thường xuyên duy trì mối tương quan huyết mạch với Chúa Giêsu.
Đó là về phía Chúa và chúng ta, tức là giữa thân cây nho và cành nho, còn giữa chúng ta với nhau, tức là giữa các cành nho thì sao? Chúng ta cần cộng tác với nhau, nâng đỡ nhau, kết hiệp với nhau trên con đường cứu rỗi. Ở đời này, bất cứ cái gì và phạm vi nào cũng cần cộng tác, hòa hợp với nhau: một viên thuốc cũng là do phân lượng các chất hợp lại thứ nhiều thứ ít; một bức tranh có đẹp cũng là do các mầu sắc khác nhau dung hòa nhau; một bản nhạc hay cũng là do các nốt gom lại trầm bổng khác nhau mà thành. Vậy thì trên đường về nước trời, chúng ta thật sự phải cộng tác với nhau, giúp đỡ nhau, lá lành đùm bọc lá rách bằng đời sống cầu nguyện, đời sống bí tích, đời sống bác ái.
Cũng như một thân cây nho chuyển thông sức sống, nhựa sống cho các cành, thì Chúa Giêsu cũng làm như thế. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống ấy sẽ cằn cỗi khô héo và rụng gẫy đi. Nhựa sống trong thân cây nho hằng lưu chuyển, không cành nào được giữ riêng lại cho mình mà ngăn cản nhựa sống chuyển sang cho những cành khác. Chúng ta sống với nhau trong một cộng đoàn, một gia đình cũng được ví như thế, được sánh ví như một cây nho. Chúng ta tiếp nhận được sự sống của Chúa, chúng ta phải chuyển thông sự sống của Chúa cho anh em bà con của mình, để tất cả cùng sống tốt đẹp. Chúng ta hãy thử tưởng tượng trong một cây nho, các cành khác chết khô, úa tàn, còn lại một cành xanh tươi, thì hỏi cành đó có gì đẹp không? Hay nói khác đi, đời sống mà chỉ một mình ta sung sướng, còn anh em mình khổ, bất hạnh, thì hạnh phúc của mình có thực là hạnh phúc không?
Tóm lại, chúng ta là các cành nho, chúng ta cần phải liên hệ, liên kết mật thiết với thân cây nho là Chúa Giêsu để nhận được nhựa sống. Liên hệ và liên kết với Chúa bằng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Đồng thời chúng ta cũng phải liên hệ và liên kết với nhau. Rất có thể chúng ta sống mà không quan tâm đến mối tương quan giữa mình với anh em. Vì không để ý “mình vì mọi người và mọi người vì mình”, nên chúng ta đã sống “mình vì mình và mọi người vì mình”, như thế là ích kỷ. Chúng ta cứ thử nhìn chung quanh xem, thật đáng buồn: người ích kỷ nhiều hơn người vị tha. Ai cũng thấy “cái tôi” của mình là lớn hơn cả và coi người khác không ra gì. Chính vì chỗ chung ta coi người khác không ra gì mà chúng ta nghĩ rằng mình sống không cần tới người nào khác, nhưng trên thực tế, trong bất cứ lãnh vực nào chúng ta cũng cần đến nhau. Cho nên, dù chúng ta là ai, chúng ta vẫn cần có nhau, giúp đỡ nhau.
59. Kitô hữu công chức.
Qua phần chia sẻ sáng hôm nay, tôi xin trình bày hai hình ảnh sai lạc về người tín hữu.
Hình ảnh thứ nhất đó là hạng người tín hữu vay mượn, giả nhân giả nghĩa, tựa như quạ mượn lông công, cáo mượn oai hùm.
Thực vậy rảo bước trên đường phố, chúng ta có thể đọc được những tấm bảng quảng cáo, tại đây có cho mướn áo quần, cho mướn xe hơi và nhiều thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác. Những ai không có khả năng tài chánh có thể đến đây thuê mướn.
Chẳng hạn như cô dâu vào ngày cưới, muốn cho mình được mô đen nên phải vận soirée, nhưng may một cái jupe kiểu này vừa tốn kém, lại vừa chẳng sẵn tiền. Hơn nữa, cả đời không biết mặc được mấy lần. Vì thế để cho tiện lợi mọi bề, bèn đến tiệm thuê luôn một cái. Hay như khi chưa có đủ tiền sắm xe hơi, chúng ta cũng có thể đến thuê trong một thời gian nào đó cần phải xử dụng. Chúng ta có thể xuat hiện trong những bộ quần áo sang trọng, ngồi trên một chiếc xe đắt tiền, đầy đủ tiện nghi, có tài xế đưa đón như một ông chủ. Thế nhưng đó chỉ là một sự xuất hiện chóng qua với một chút hư danh. Người ngoài nhìn vào tuy cũng biết đó là những đồ đi mượn, đi thuê, nhưng họ vẫn sẵn sàng cất lời khen ngợi. Còn chúng ta, mặc dù biết rằng đó chỉ là những lời khen ngợi xã giao và bôi bác, nhưng lắm lúc chúng ta vẫn thích, vẫn tự hào và hanh diện.
Trên phương diện đức tin, cũng có những người Kitô hữu giả danh. Họ mượn danh nghĩa là Kitô hữu, để đi lễ, đọc kinh mà che dấu những ý đồ đen tối, như tục ngữ đã diễn tả:
- Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
- Bên ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm…
Đây là một kiểu đạo đức giả hình mà Chúa Giêsu đã từng lên án. Trái lại Ngài muốn chúng ta thật lòng quay trở về với Ngài, với Tin mừng để lãnh nhận ơn tha thứ và cứu độ.
Hình ảnh thứ hai là hình ảnh người Kitô hữu công chức.
Báo chí đã nhiều lần đăng tải những vụ bê bối của các vị tai to mặt lớn, chẳng hạn như tổng thống, bộ trưởng, nghị sĩ hay dân biểu. Có người thì kết án gay gắt vì cho rằng thiếu tác phong đạo đức và đòi buộc phải từ chức. Nhưng cũng có người lại tỏ ra thông cảm, bởi vì ngoài giờ làm việc, những nhân vật này, dù có tai to mặt lớn đến đâu, thì cũng chỉ là một người và có quyền làm những việc riêng theo ý muốn, miễn sao không phương hại tới quyền lợi quốc gia.
Từ sự kiện trên, chúng ta hãy đi vào đời sống đạo đức. Liệu chúng ta có được phép là những Kitô hữu công chức hay không? Liệu chúng ta có được phép chia đời sống thành những ô nhỏ, mỗi ô là một việc chẳng hạn: ô làm việc, ô ăn uống, ô ngủ nghỉ, ô du hí và đức tin cũng như đạo đức chỉ là một ô nhỏ mà thôi?
Chắc chắn là không, bơi vì chúng ta phải là Kitô hữu ở mọi nơi và trong mọi lúc, như lời thánh Phaolô: “Dù làm bất cứ việc gì, anh hãy làm vì Đức Kitô cho danh Chúa được cả sáng”.
Vì vậy không được phép có loại người tín hữu vay mượn, loại người tín hữu công chức, bởi vì hễ giây phút nào chúng ta xa lìa Chúa thì chúng ta sẽ bị tàn úa: Thày là cây nho, các con là ngành… ngành nào lìa cây sẽ khô héo dần. Trái lại, ngành nào kết hiệp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái.
Điều đó nghĩa là có kết hợp cùng Chúa thì bản thân chúng ta mới an bình hạnh phúc và cuộc đời chúng ta mới đem lại thành quả tốt đẹp.
60. Sống liên đới.
Trước Công đồng Vatican II, nói đến tổ chức cơ cấu của Hội thánh, người ta thường nghĩ đến hình ảnh một kim tự tháp: ở chóp đỉnh là Đức Giáo Hoàng, dưới là các Hồng Y, Giám mục, Linh mục, phó tế, tu sĩ, và cái đáy dưới cùng là giáo dân. Hình ảnh này đưa đến một quan niệm không đúng về nhiệm vụ của mỗi thành phần, nhất là giáo dân, bị coi là thấp kém, chỉ biết ngoan ngoãn vâng lời cấp trên.
Nhưng từ Công đồng Vatican II, hình ảnh trên đã được thay thế bằng hình ảnh có một tâm điểm là Đức Giesu, từ tâm điểm này có nhiều vòng tròn đồng tâm: một vòng là các giáo sĩ, gồm các giám mục có Đức Giáo Hoàng đứng đầu, và các cộng sự viên là linh mục và phó tế; vòng khác là các tu sĩ; và vòng rộng lớn hơn là giáo dân. Hình ảnh này cho thấy mọi thành phần đều liên đới với nhau và tất cả đều qui hướng về trọng tâm là Đức Giêsu.
Một hình ảnh khác sâu sắc hơn, thánh Phaolô đã nói tới và nay được chú ý, đó là hình ảnh một than thể, có Đức Giêsu là đầu, mọi người Kitô hữu, dù là giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ… đều là các chi thể của thân thể. Mỗi chi thể có nhiệm vụ riêng, không ai thay thế được. Hình ảnh này diễn tả rõ hơn và đúng hơn mối hiep thông giữa các thành phần với nhau và với Đức Giêsu; và cũng cho thấy rằng tất cả đều cùng có trách nhiệm thi hành sứ vụ mà Đức Giêsu trao phó để xây dựng sự hiệp thông trong Hội thánh.
Nhưng tất cả những điều trên đây đã được chính Đức Giêsu đề cập tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là hình ảnh cây nho. Đối với dân Do thái, vườn nho và cây nho là một hình ảnh rất lâu đời, rất quen thuộc, được dùng để tượng trưng cho dân tộc, mot dân riêng được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc đặc biệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này để áp dụng vào Ngài và chúng ta: Ngài là cây nho, chúng ta là cành. Sự liên kết và hỗ tương giữa thân cây với cành, và giữa các cành với nhau, đó là hình ảnh sự liên kết và hỗ tương giữa Chúa Giêsu với chúng ta, và giữa chúng ta với nhau.
Một điều hiển nhiên và rõ ràng là cành cây phải hoàn toàn cần tới thân cây mới sống được. Nếu cắt lìa thân nho, thì cành sẽ khô héo và chết. Đó là hình ảnh cho chúng ta biết: mỗi người chúng ta cần phải liên kết với Chúa Giêsu, thì chúng ta mới sống và sống mạnh được. Chúng ta cần tới Chúa để đạt ơn cứu roi, nghĩa là chúng ta không thể thành toàn, tự giải thoát, thần hóa con người của mình, nếu không sống trong Chúa, nhờ Chúa và với Chúa. Điều này phải hiểu một cách tuyệt đối. Cũng giống như bóng đèn điện: có bao giờ mot bóng đèn bị cắt đứt với dòng điện hay bị cúp điện mà còn sáng không? Hay một nhánh sông cắt đứt với con sông cả mà còn nước không? Hay một cành cây cắt đứt lìa thân cây mà còn sống không? Có lẽ nó có thể sống mot vài ngày tạm bợ rồi sẽ chết khô.
Cũng thế, một khi chúng ta xa lìa Chúa, tâm hồn chúng ta cũng sẽ chết khô. Bên ngoài chúng ta có thể là thành công trên phạm vi danh vọng, tiền tài, được ca tụng, kính nể… nhưng trước mặt Chúa, chúng ta là kẻ chết và chết khô. Vậy chúng ta có thể kết hợp với Chúa Giêsu cách nào? Bằng những phương thế rất quen thuộc và cụ thể là cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, bí tích quan trọng và hiệu năng nhất, để chúng ta thường xuyên duy trì mối tương quan huyết mạch với Chúa Giêsu.
Đó là về phía giữa Chúa với chúng ta, tức là giữa thân nho và cành nho. Còn giữa chúng ta với nhau, tức là giữa các cành nho thì sao? Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hiệp với nhau trên con đường cứu rỗi. Ở đời này, không ai chủ trương “mỗi người là một hòn đảo” mà sống tốt được. Cũng như một thân cây nho chuyển thông sức sống, nhựa sống cho các cành, thì Chúa Giêsu cũng làm như thế. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống thì sẽ cằn cỗi, khô héo và rụng gẫy đi. Nhựa sống trong thân cây nho hằng lưu chuyển, không cành nào đươc giữ riêng lại cho mình mà ngăn cản nhựa sống truyền sang cho những cành khác.
Chúng ta sống với nhau trong một cộng đoàn, một gia đình, cũng được ví như thế, được so sánh như một cây nho. Chúng ta tiếp nhận được sự sống của Chúa, chúng ta phải chuyển thông cho nhau để tất cả chúng ta cùng sống và sống tốt đẹp. Thế mà trong cuộc sống rất có thể chúng ta sống mà không quan tâm đến mối tương quan giữa mình với anh em. Vì không để ý “mình vì mọi người và mọi người vì mình”, nên chúng ta đã sống”mình vì mình và mọi người vì mình”. Như thế là ích kỷ. Chúng ta cứ thử nhìn chung quanh chúng ta xem, thật đáng buồn: người ích kỷ nhiều hơn người vị tha. Ai cũng thấy “cái tôi” của mình là lớn hơn cả và coi người khác không ra gì. Là con cái Chúa, chúng ta không được sống như thế. Chúng ta cần có nhau, hãy nâng đỡ nhau, hãy thông cảm nhau. Đó chính là đạo bác ái của chúng ta vậy.
61. Yêu thương.
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Gioan nhắc lại những lời từ biệt của Chúa Giêsu cho các môn đệ trong bữa tiệc ly trước khi Ngài chịu khổ nạn và sau khi Giuđa, kẻ phản bội Chúa đã bỏ bàn tiệc đi thực hiện ý đồ phản bội Ngài.
Chúa Giêsu đã căn dặn các Tông đồ rằng: “Căn cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Và điều quan trọng là chúng ta có thi hành lệnh truyền này hay không? Vì thế mà có những hậu quả thật nghiêm trọng, đó là hậu quả của sự sống và sự chết.
Thánh Gioan tông đồ nơi thư thứ nhất có đoạn viết như sau: “Nếu chúng ta yêu thương anh em thì chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống. Trái lại, kẻ không yêu thương anh em thì ở trong sự chết, vì phàm ai ghét anh em mình đều là kẻ sát nhân”. Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cu của Cựu Ước. Quan niệm của luật cũ là: “Yêu thương anh em như chính mình ngươi”, được Chúa Giêsu đổi lại trong luật mới là: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Như vậy, tình yêu thương mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chuẩn mực, nhưng phải phát xuất từ chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy. Giới răn mới của Chúa đươc đồng hóa với tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa như lời Kinh Thánh đã chép: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình thì là kẻ nói dối. Vì ai yêu mến Chúa thì cũng phải yêu thương anh em”. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của con cái Chúa, làm cho chúng ta thuộc về Chúa, trở nên môn đệ Chúa: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”.
Nói lên những điều này chắc rằng mỗi người chúng ta đều có thể nói được như vậy và mỗi người chúng ta cũng có thể hiểu được như vậy. Giữa những bài giáo lý mà chúng ta đã học từ nhỏ, những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua trong xứ đạo, chắc chắn mỗi người chúng ta đều hiểu được như vậy và nói được: “Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Nhưng nếu chúng ta sống thực với những điều này mới là việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Chúng con hãy làm việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”. Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Ngài từ giã các tông đồ, trước khi Ngài hoàn tất sứ mệnh cứu rỗi là chấp nhận chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, Chúa đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng một hành động cao cả là hy sinh chính mạng sống mình để minh chứng tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa Cha và với mỗi người chúng ta.
Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ Chúa Giêsu đã nói: “Bây giờ thì Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa Cha được vinh hiển nơi Ngài”. Vinh hiển qua hành động hy sinh vì tình yêu của Chúa Giêsu, đồng thời Ngài muốn chúng ta sống như thế để làm vinh hiển Thiên Chúa Cha bằng cách sống giới răn yêu thương mà Ngài đã truyền dạy chúng ta. Liền sau đó Chúa nói rằng: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Chúng ta không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người nhìn thấy, nhưng chính những hy sinh nhỏ nhặt hằng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm mới minh chứng tình yêu của chúng ta, mới nói lên mối tình yêu thương thực sự của chúng ta và đo cũng chính là sống cách thiết thực đối với anh chị em. Chúng ta có thể phục vụ anh chị em trong những công việc nhỏ nhặt hằng ngày, những điều đó không ai trông thấy, những điều đó chúng ta cần thực hiện hằng ngày để ton vinh Thiên Chúa.
Trong dịp tiếp xúc và nói chuyện với một người vô thần, một người vô thần đã thốt lên: “Nếu những người Công giáo sống đức tin của mình, sống những gì mà mình nói thì thật là một điều hết sức tốt đep và có thể chúng tôi cũng sẽ tin theo”. Câu nói này nhắc lại trách nhiệm của mỗi người chúng ta là sống điều chúng ta tin. Nếu chúng ta sống điều chúng ta nói, chắc hẳn có rất nhiều người sẽ tin theo Chúa Kitô, và như vậy chúng ta đều có thể nói: “Chúa dạy mình yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em như chính Chúa đã yêu thương”.
Vậy thì chúng ta hãy cố gắng sống yêu thương hằng ngày trong cuộc sống của mình để làm vinh danh Chúa, để cho anh chị em xung quanh nhìn thấy những việc tốt, việc phục vụ mà chúng ta thực hiện, để rồi họ được hướng dẫn tin nhận Chúa là Cha và tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất và họ gia nhập cùng với chúng ta trong một cộng đồng duy nhất là Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập, cộng đoàn của những người yêu mến Chúa và yêu thương anh em, cộng đoàn của những người sống tốt lành để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn. Xin Chua gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin kính.
62. Giờ ra đi.
Để hiểu được trọn vẹn câu nói, chúng ta phải cần nhận biết được bối cảnh của câu nói đó. Điều này đặc biệt đúng trong câu nói của Đức Giêsu, mà Tin Mừng đã ghi lại. Câu nói trong bài Tin Mừng hôm nay – Thầy là cây nho, anh em là những cành nho” – là một hình ảnh đẹp về sự hợp nhất và thân thiện. Khi nhìn vào bối cảnh ma trong đó Đức Giêsu phát biểu câu nói này, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ đánh giá được vẻ đẹp của hình ảnh này hơn nữa.
Đức Giêsu nói những lời này với các tông đồ của Người vào cuối bữa tối, hoặc chắc chắn hơn, lúc đang trên đường đi đến vườn Ghiệtsimani. Dù trong bất cứ trường hợp nào, thì hẳn Người đã nói những lời này một khoảng thời gian ngắn, trước cái chết của Người.
Đó là vào một đêm, khi tất cả mọi sự dường như tan vỡ, thất bại, chấm dứt; khi tất cả các môn đệ sẽ bỏ rơi Người; khi người môn đệ đứng đầu của họ sẽ công khai chối bỏ Người, và một người khác trong nhóm họ sẽ phản bội Người. Tuy nhiên, đây chính là đêm mà Người chọn lựa, để nói về sự kết hợp và thống nhất với nhau.
Lúc đầu, dường như đây là lúc không phù hợp để nói về sự hợp nhất. Nhưng khi suy nghĩ, chúng ta nhận thấy rằng đó là thời điểm tự nhiên và phù hợp nhất. Đây là giờ ra đi. Giờ ra đi làm cho chúng ta dễ tập trung vào những điều chính yếu. Chính vào thời điểm đó, mà chúng ta thực sự đánh giá được vị trí tự nhiên của mình, và đặc biệt là về tình bạn của chúng ta.
Tại bán đảo Dingle, ở Co. Kerry, có một tảng đá được biết đến như là Tảng Đá của những giọt nước mắt, Carraig nan Deoir. Tảng đá đó nằm tại khúc quanh của con đường đi tới Dingle. Dân di cư từ các hòn đảo Blasket và mũi Slea hay dừng chân tại đây mot lúc và khóc. Từ nơi đây, họ liếc nhìn lại quê nhà mà họ vừa mới từ đó ra đi, và sẽ không bao giờ lại được nhìn thấy nữa. Bên kia khúc quanh này, con đường được trải dài tới Dingle, đi đến tận Cobh, và đến những con tàu sẽ đưa họ tới nơi bị lưu đày.
Vào giờ ra đi, Đức Giêsu cảm thấy rất gần gũi với các tông đồ của Người. Và Người đã bày tỏ cho họ về điều này. Người cũng muốn họ gần gũi với Người nữa. Người nhìn thấy trước rằng trong đêm hôm đó, họ sẽ bỏ rơi Người. Người nhìn thấy trước rằng Phêrô sẽ chối bỏ Người, và Giuđa sẽ phản bội Người. Phản bội là một điều khủng khiếp. Rất ít, nếu không muốn nói rằng không một quan hệ nào có thể ton tại được, sau khi có sự phản bội. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng nhìn thấy trước rằng bất chấp những biến động này, sự hợp nhất của họ vẫn tồn tại. Các tông đồ học hỏi được rất nhiều từ sự yếu đuối và hèn nhát của ban thân họ, khi đối diện với những đòi hỏi của sự hợp nhất và đoàn kết. Nhưng họ còn được học hỏi nhiều hơn về Đức Giêsu. Họ học hỏi được rằng Người vẫn yêu thương họ trong khi và thông qua sự yếu đuối của họ. Nếu họ tách lìa khỏi Người, thì không phải là do Người cắt đứt quan hệ với họ. Những sự kiện của đêm hôm đó chẳng những không hề kết thúc sự ràng buộc của họ đối với Đức Giêsu, mà còn củng cố hơn nữa.
Chính thông qua viec đương đầu với những đấu tranh, thất bại, nguy hiểm, và hy sinh, mà tính hợp nhất được phát triển và đào sâu. Mối quan hệ càng trở nên sâu xa hơn, sau khi đã trải qua bão táp.
63. Cây và cành.
Đức Kitô không viết một cuốn sách nào. Người cũng không hề để lại một tòa nhà hoặc một đài kỷ niệm nào cả. Tuy nhiên, Người đã làm một điều gì đó vĩ đại và cần thiết hơn nhiều, mặc dù mang tính cách ít phô trương – Người xây dựng một cộng đoàn. Đó chính là đài kỷ niệm của Người.
Người nói với các tông đồ của Người “Thầy là cây nho, anh em là những cành nho”. Đây là một hình ảnh mà Người sử dụng, khi nói về cộng đoàn mà Người xây dựng. Đây là sự minh hoa đơn giản nhưng sâu xa về sự hợp nhất, thân thiện và tùy thuộc vào nhau.
Vào mùa xuân, những cành nho tràn ngập sức sống, dưới hình thức của những chiếc lá và nụ hoa. Vào mùa thu, chúng trĩu nặng những chùm nho. Nhưng chúng có được sự sống này, và có khả năng tạo ra được hoa quả, chỉ vì chúng nối kết với thân cây. Khi bị cắt khỏi thân cây, chúng sẽ không chỉ trở nên cằn cỗi, mà còn nhanh chóng bị khô héo và chết rục. Giống như những cành cây cần đến thân cây, chúng ta rất cần đến Đức Kitô. Khi bị tách lìa khỏi Người, thì chúng ta không có sự sống, và không có khả năng sinh hoa kết quả.
Nhưng cây nho cũng cần đến những cành nho – chính những cành nho tạo ra hoa quả. Điều này có nghĩa là Đức Kitô cũng cần đến chúng ta. Chúng ta là những cành nho của Người. Cây nho và những cành nho cần đến nhau. Bên nhau, chúng tạo ra một sự hợp nhất. Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng sự tin tưởng mà Người đặt để nơi chúng ta vĩ đại như thế nào. Chúng ta có thể cảm thấy mình không được đầy đủ. Nhưng chúng ta phải ghi nhớ rằng cây nho cứng cáp và đầy sức sống.
Đức Kitô tùy thuộc vào chúng ta, để tạo ra hoa quả trong thế giới này. Có một sự khác biệt lớn lao giữa sự thành công và sinh hoa kết quả. Thành công xuất phát từ sức mạnh, cách điều khiển và sự đáng tôn trọng. Thành công mang lại phần thưởng và đôi khi cũng mang lại sự nổi tiếng nữa. Tuy nhiên, việc sinh hoa kết quả lại thường xuất phát từ sự yếu đuối và dễ bị tổn thương, và thường xuyên không được ai nhận ra và trọng thưởng.
Đức Kitô không đòi hỏi chúng ta phai thành công, nhưng phải sinh hoa kết quả. Mỗi người trong chúng ta đều có một số năng khiếu. Chúng ta trổ sinh hoa quả, bằng cách phát triển, sử dụng và chia sẻ năng khiếu đó cho nhau. Thế giới đang chờ đợi hoa quả. Điều quan trọng là tình yêu thương. Thiên Chúa sẽ làm cho tình yêu thương của chúng ta trổ sinh hoa quả, mặc dù chúng ta nhìn thấy hoặc không nhìn thấy kết quả đó.
Trong suốt những tháng mùa đông, các cành cây đều bị cắt tỉa. Việc cắt tỉa là một quá trình gây đau đớn cho một cây ăn quả. Người cắt tỉa loại bỏ đi những chồi rễ mút và những cành cây non mọc dư ra, làm mất đi nhiều sức sống của thân cây, nhưng lại không tạo ra được quả. Mục đích của việc cắt tỉa này không phải là bắt thân cây phải chịu đựng đau đớn, nhưng là để giúp cho thân cây tạo ra nhiều quả hơn, và quả được ngon hơn.
Chúng ta – những cành cây của Cây Nho Đích Thực – cũng cần được cắt tỉa. Co nhiều thứ vô ích và có lẽ còn có hại trong cuộc sống của chúng ta, làm mất đi nhựa sống là năng lực của chúng ta, và làm suy giảm việc sinh hoa kết quả của chúng ta về mặt thiêng liêng. Nếu Đức Kitô cắt tỉa chúng ta qua những thử thách, chỉ là để làm cho chúng ta trổ sinh hoa quả nhiều hơn nữa. Khi được cắt tỉa bằng nỗi đau khổ, con người sẽ tạo ra được hoa quả của sự hiểu biết và lòng thương xót.
64. Nhu cầu.
Thông thường, con người có một nguy cơ chung, trong việc đến gần với nhau. Người ta có thể đi bên nhau qua nhiều năm, nhưng mỗi người vẫn khóa kín trong thế giới im lặng của riêng mình, hoặc chỉ trao đổi với nhau những lời nói không mang ý nghĩa thực sự nào cả, cho đến khi va chạm với nỗi nguy hiểm. Sau đó, họ mới chịu đứng bên nhau, vai kề vai. Họ phát hiện ra rằng mình đều thuộc về cùng một gia đình. Họ phát triển và lớn lên trong sự nhận biết về nhau như là những con người đồng chí hướng. Họ trở nên những người đồng hành trung thành của nhau. Họ thực sự gặp gỡ nhau.
Con người không tìm thấy hạnh phúc trong những của cải hoặc ngay cả trong những sự thành đạt, nhưng trong các tương quan nhân loại nồng nàn. Thông thường, những sở thích cá nhân và quan niệm của chúng ta giam hãm chúng ta trong những bức tường, và tách lìa chúng ta khỏi người khác. Chỉ nhờ được nắm chặt vào một bàn tay ấm áp và thân thien, mới giải phóng chúng ta khỏi nhà tù này, mà chúng ta đã tự tạo ra cho mình.
Đêm trước khi chịu chết, Đức Giêsu đã ăn một bữa tối rất đặc biệt cùng với các bạn bè của Người – Bữa Tiệc Vượt Qua – mối nguy hiểm ẩn khuất ở tất cả mọi nơi. Thật khó mà nói được rằng có thể tin tưởng vào người nào. Người cảm thấy điều này rõ nét hơn các môn đệ. Trong giờ phút tối tăm và nguy hiểm này, Đức Giêsu cảm thấy gần gũi với các tông đồ của Người hơn lúc nào hết. Để bày tỏ cho họ biết Người cảm thấy như thế nào về họ, Người đã quỳ xuống và rửa chân cho họ. Sau đó, Người nói với họ về tình yêu – về tình yêu của Người đối với họ, và về tình yêu mà họ nên có đối với nhau.
Trên đường đi đến vườn Giệtsimani, Người tìm thấy một biểu tượng lý tưởng về sự ràng buộc mà Người cảm thấy đối với họ. Dừng lại bên cạnh một cây nho, Người nói “Thầy là cây nho, anh em là những cành nho. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người đó, thì người đó sẽ sinh nhiều hoa quả. Nhưng nếu anh em tách lìa khỏi Thầy, thì anh em sẽ bị khô héo và chết rục”. Ngay cả khi Người đã nói như vậy rồi, mà Giuđa, một người trong số họ vẫn tách lìa khỏi Người. Thật là một kết thúc cằn cỗi mà ông ta đã hướng tới.
Đây chính là điều mà Đức Giêsu cảm thấy. Đây chính là điều mà Người mong muốn có giữa Người và các môn đệ của Ngươi. Đây chính là cách thức mà Người mong muốn tạo ra giữa Người và các môn đệ của Người. Đức Giêsu chính là cây nho, và chúng ta là những cành nho. Chúng ta không nên chờ đợi mối nguy hiểm đe dọa, trước khi chúng ta cảm nhận được sự thật này. Đây nên là môi trường mà trong đó chúng ta sống.
Điều này cũng đáp ứng nhu cầu về một cộng đoàn nâng đỡ của con người. Trong thế giới này, có quá nhiều nỗi cô độc rồi. Con người ngày nay đang kêu gào được nhìn nhận. Họ mong muốn được nhận ra, không phải theo một cách thế phô trương, hoặc bởi vì họ có nhiều tiền bạc hoặc danh vọng, nhưng chỉ bởi vì họ là những con người. Nhu cầu lớn nhất vượt lên trên tất cả, đó là nhu cầu được yêu thương. Nhưng thông thường, chúng ta cứ vượt qua mặt nhau, mà không hề có một dấu hiệu nào về sự nhận biết nhau, dù là nhẹ nhàng nhất. Người ta vẫn có thể đi đến nhà thờ và lại trở về, mà không hề gặp gỡ bất cứ ai cả. Có đúng thế không?
Thế giới đang kêu gào một cộng đoàn. Không có một cộng đoàn nào giống như cộng đoàn Kitô hữu đoàn kết với nhau. Hoa quả mà Đức Kitô ao ước nơi chúng ta trước hết, đó là hoa quả của sự hợp nhất giữa chúng ta. Qua sự hợp nhất này, tất cả mọi người sẽ nhận biết rằng chúng ta là những cành nho sống động của cây nho – nhờ sự ràng buộc tồn tại giữa chúng ta, và nhờ sự quan tâm mà chúng ta bày tỏ với nhau.
65. Cây và cành.
Đức Giêsu không viết một quyển sách nào cả. Ngài cũng không xây dựng một ngôi nhà nào cả. Nhưng Ngài đã thực hiện một công trình lớn lao và cần thiết hơn nhiều, đó là xây dựng một cộng đoàn.
Ngài nói với các môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành”. Đó chính là hình ảnh Ngài dùng để nói về cộng đoàn mà Ngài xây dựng, một hình ảnh rất súc tích:
Vào mùa xuân, các cành nho vươn ra, đơm lá, trổ hoa. Đến mùa thu thì các cành đã nặng trĩu những chùm nho tươi tốt. Nhưng sở dĩ cành sinh lá, trổ hoa và kết trái là nhờ chúng nối liền với cây nho. Nếu cắt lìa chúng ra khỏi cây thì chẳng những chúng không có trái, mà còn héo tàn dần và cuối cùng thì chết. Cành nho cần đến cây nho thế nào, chúng ta cũng cần đến Đức Kitô thế ấy. Nếu không kết hợp với Ngài, chúng ta sẽ không có sức sống và không thể sinh trái.
Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho, bởi vì chính cành nho sinh ra trái nho. Nói thế nghĩa là Đức Kitô cũng cần đến chúng ta. Chúng ta là cành của Ngài. Như thế cây nho và cành nho đều cần đến nhau. Hai bên tạo thành một thể hiệp nhất. Từ đó chúng ta mới hiểu Đức Kitô rất tin tưởng và trông cậy nơi chúng ta. Có thể chúng ta cảm thấy mình không xứng đáng với sự tin tưởng trông cậy ấy, tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng bên cạnh chúng ta còn có Ngài nữa. Cành nho có thể yếu ớt và mong manh, nhưng cây nho thì rất vững chắc và dồi dào sức sống.
Đức Kitô muốn nhờ chúng ta để sinh trái cho thế giới. Có một khác biệt lớn giữa thành công và sinh trái. Thành công đến từ năng lực, và mang lại vinh quang. Nhưng việc sinh trái thì thường đến từ sự yếu đuối, khổ đau và nhiều khi chẳng ai nhận biết mà khen thưởng. Đức Kitô không bảo chúng ta phải thành công, nhưng Ngài dạy chúng ta sinh trái. Mỗi người chúng ta đều được Ngài ban cho một số khả năng nào đó. Bằng cách sử dụng, phát triển và chia xẻ những khả năng đó với người khác, chúng ta sẽ sinh trái. Thế giới đang chờ những trái ấy. Mà điều quan trọng là yêu thương. Thiên Chúa sẽ làm cho tình yêu của chúng ta sinh trái, những trái chúng ta thấy được và cả những trái chúng ta không thấy.
Sang mùa đông, các cành nho được cắt tỉa. Cắt tỉa là một tiến trình cần thiết cho cành nho: bỏ đi tất cả những gì thừa thãi chẳng ích lợi gì mà còn làm hao mòn sức sống của cây nho. Mục đích của cắt tỉa không phải là làm cho cành bị đau mà là để giúp chúng sẽ sinh trái nhiều hơn và tốt hơn nữa. Vì chúng ta là những cành của cây nho thật là Đức Kitô nên chúng ta cũng cần được cắt tỉa. Có rất nhiều điều chẳng những vô ích mà còn có hại cho sự sống chúng ta, làm hao hụt năng lực chúng ta và cản trở sự sinh hoa trái thiêng liêng của chúng ta. Nếu Đức Kitô cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.
66. Cây nho thật – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu “cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi” nghĩa là gì? Tại sao gắn liền với Đức Giêsu mà lại không sinh hoa trái? Câu này ám chỉ loại người nào?
2. Câu “cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” nghĩa là gì? Chữ “cắt tỉa” ở đây ám chỉ điều gì? Tại sao lại phải “cắt tỉa”?
3. Từ ngữ “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu phải được thể hiện thế nào trong đời sống của ta?
Suy tư gợi ý:
1. “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi”
Đức Giêsu tự ví mình là cây nho, và những người theo Ngài là những cành nho. Cành nho sống được là nhờ thân nho. Rời thân nho, cành nho sẽ khô héo và bị quăng vào lửa. Tuy nhiên, Đức Giêsu đưa ra trường hợp này: có những cành nho, tuy gắn liền với cây nho, nhưng lại không sinh hoa trái. Trường hợp này, cành nho sẽ bị chặt khỏi cây nho.
Nói đến trường hợp này, người Kitô hữu không khỏi nghĩ về bản thân mình, liệu đó có phải là trường hợp của mình không? Vì người Kitô hữu là người gắn liền với Đức Giêsu, nhưng quả thật có rất nhiều Kitô hữu suốt bao năm trường đã chẳng sinh ra hoa trái nào! Biết bao Kitô hữu theo Đức Giêsu từ nhỏ tới lớn, thậm chí tới già, nhưng xét cho kỹ và nói cho khách quan, thì họ chẳng tốt hơn người ngoại loại trung bình chút nào! Nhiều người còn tệ hơn cả những người ngoại loại ấy nữa! Họ sẵn sàng ăn gian nói dối, đối xử bất công, sống không tình nghĩa, v.v… Tương tự, có biết bao linh mục, tu sĩ, mang danh theo Chúa hàng chục hay mấy chục năm, nhưng chẳng tốt hơn những giáo dân bình thường bao nhiêu, đôi khi còn tệ hơn! Sách Khải Huyền nói về hạng người này: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,15-16).
Trường hợp này rất có thể đúng cho tôi, cho bạn. Vì thế, mỗi người chúng ta cần phải tự vấn mình trước mặt Chúa, để sửa đổi trước khi quá muộn. Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta sửa đổi, để Ngài khỏi phải ra tay! “Ta không muon kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18,23; 33,11; x.33,19).
2. “Cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn”
Người làm vườn giỏi biết chăm sóc cây thì biết cắt tỉa cành để nó sinh nhiều hoa trái hơn. Nếu người Kitô hữu là cành nho, Đức Giêsu là cây nho, Thiên Chúa Cha là người trồng nho, thì ắt nhiên Chúa Cha sẽ phải “tỉa cành” để người Kitô hữu “sinh nhiều hoa trái” hơn. Người Kitô hữu “sinh nhiều hoa trái” là người có nhiều tiến bộ về mặt tâm linh (mến Chúa yêu người ngày càng nhiều hơn). Và Chúa Cha “tỉa cành” là giúp người Kitô hữu bỏ bớt những bận tâm vô ích để có thể tập trung năng lực vào việc tiến bộ tâm linh. Ngài có thể làm điều ấy bằng cách làm cho người Kitô hữu ấy bị thiệt thòi mất mát về vật chất, thể chất, cũng như tinh thần, hoặc cho người ấy trải qua những đau khổ thử thách. Vì những đau khổ thử thách có khả năng thánh hóa rất hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu, thánh thiện như vậy mà cũng được Chúa Cha “tỉa cành” cho Ngài. Thánh Phaolô nói về điều ấy: “Thiên Chúa (…) đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn dẫn đưa mọi người tới nguồn ơn cứu đo” (Dt 2,10). Như vậy, theo thánh Phaolô, nhờ chịu gian khổ mà Đức Giêsu trở nên một người lãnh đạo hoàn hảo. Tin Mừng cũng nói: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26). Còn chúng ta, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta chia sẻ đau khổ với Đức Giêsu, để cùng tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Ngài: “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17). “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hy” (1Pr 4,13). “Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5,10).
Đọc hạnh các thánh ta thấy hầu như vị thánh nào cũng đều có kinh nghiệm được Thiên Chúa thánh hóa bằng đau khổ. Chẳng hạn, thánh Têrêxa Avila đã bị Thiên Chúa thử thách bằng biết bao đau khổ, đến độ thánh nhân phải kêu lên: “Chúa đối xử với bạn bè Chúa như vậy, hèn chi Chúa ít bạn là phải!” “Chúa ít bạn là phải!” vì nhiều người dù biết rằng đau khổ có tác dụng thánh hóa bản thân, nhưng vẫn sợ và tránh né đau khổ: nếu phải đau khổ mới nên thánh thì thôi, thà đừng nên thánh! Nghĩ như thế thật là nông cạn, vì nên thánh, nên hoàn hảo là điều rất quí giá: những đau khổ ta phải chịu chẳng là gì cả so với vinh quang và hạnh phúc ta được nhờ sự hoàn hảo thánh thiện, và sự thánh thiện hoàn hảo này ta đạt được là nhờ đau khổ. Thánh Phaolô viết: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!” (Rm 8,18). Thánh Phêrô cũng khuyên ta đừng sợ hãi đau khổ: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc! Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1Pr 3,14). Vua Đavít cũng nhận ra ích lợi của đau khổ đối với sự thánh thiện: “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119,71).
Người tốt chấp nhận đau khổ vì đau khổ Chúa gửi đến cho mình chẳng những làm cho mình nên công chính, mà còn làm cho những người khác nên thánh thiện nữa: “Vì đã nem mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh được tội lỗi của họ” (Is 53,11). Như vậy, tự nguyện chấp nhận đau khổ (chịu đau đớn, cực hình, chịu thiệt thòi, mất tiền, mat thì giờ, mất sức khỏe, bị nghi ngờ, hàm oan…) vì tha nhân là một hành vi bác ái, là một phương tiện thực hiện yêu thương. Vì nhờ ta chấp nhận đau khổ mà nhiều người nên công chính và được hạnh phúc. Vì thế, người có long yêu thương thật sự sẽ sẵn sàng lợi dụng đau khổ của mình để làm lợi cho người khác.
3. “Gắn liền với” hay “ở lại trong” Đức Giêsu là gì?
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng nhiều lần hai từ ngữ “ở lại trong” và “gắn liền với” Ngài, và coi đó như điều kiện cần thiết để “sinh hoa trái” hay “sinh nhiều hoa trái”. Chẳng hạn câu: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy”. Hai từ ngữ ấy có nghĩa gì? Chúng ta đã thật sự “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu chưa? - Thực ra, ai là người Kitô hữu thì cũng, một cách nào đó, “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu. Nhưng phải nói rằng tình trạng ấy có nhiều mức độ khác nhau, từ hời hợt bên ngoài đến thâm sâu bên trong.
Thật vậy, nhiều người mang danh Kitô hữu, nhưng chẳng có tinh thần Kitô hữu bao nhiêu. Họ là những người Kitô hữu “hữu danh vô thực”. Thánh Phaolô có nói về một tình trạng tương tự như vậy trong Do-thái giáo (x. Rm 2,17-23). Có nhiều Kitô hữu có vẻ rất ngoan đạo, đi lễ và rước lễ hằng ngày, có vẻ rất hăng hái trong những việc liên quan đến nhà thờ, hội đoàn, công tác tông đồ. Nhưng đời sống của họ lại chẳng toát lên được tinh thần Kitô giáo, là chân thật, công bằng, yêu thương, thông cảm, tha thứ.
Tình trạng “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu phải được thể hiện trong ba phạm vi:
* ý thức: luôn luôn ý thức Đức Giêsu ở với mình, ở trong mình. Ngài là tình yêu và sức mạnh của mình. Ngài vô cùng quyền năng, nên với Ngài ta có thể làm được mọi sự. Luôn luôn ý thức Ngài yêu thương mình, nên hoàn toàn tin tưởng và phó thác mọi sự cho tình yêu của Ngài. Nhờ đó, ta luôn luôn bình an, không phải lo lắng gì cho bản thân mình: “Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì…” (Tv 23). Ý thức này phải trở thành một tâm trạng thường hằng của ta.
* tình cảm: luôn luôn yêu mến Ngài, hướng về Ngài, lấy Ngài là lẽ sống cho cuộc đời mình. Vì thế, dấn thân hết mình cho Ngài, cho Nước Ngài, cho kế hoạch cứu độ của Ngài, một cách quảng đại, không so đo tính toán. Ngoài ra, tình yêu của ta đối với Ngài phải được thể hiện cụ thể nơi những hiện thân của Ngài, là tha nhân chung quanh ta, đặc biệt những người gần gũi ta nhất (cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè…)
* hành động: luôn luôn làm theo ý muốn của Ngài, theo sự đòi hỏi của tình yêu trong lòng mình. Ý muốn của Ngài được thể hiện qua lời Ngài, qua luật yêu thương của Ngài, qua tiếng lương tâm, qua những biến cố hay hoàn cảnh xảy ra trong đời, đặc biệt những nghịch cảnh.
Khi luôn luôn “gắn liền với” hay “ở lại trong” Ngài, ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài, và đời ta sẽ trở thành một cuộc đời tươi đẹp, ý nghĩa, chẳng những đầy sức mạnh, an vui, hạnh phúc mà còn là nguồn sức mạnh, nguồn an vui hạnh phúc cho mọi người nữa.
Cầu nguyện
Lay Cha, Cha là nguồn sống, nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu của muôn loài vạn vật. Con muốn kết hiệp với Cha để nhận được sự sống, sức mạnh và tình yêu hầu sống một cuộc sống tươi đẹp, ích lợi, đồng thời để những ai tiếp xúc với con cũng nhận được sự sống, sức mạnh và tình yêu của Cha từ nơi con. Xin hãy giúp con gắn bó mật thiết với Cha.
67. Như cành hợp nhất với cây
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng USA)
Phúc âm Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu dùng cái hình ảnh con chiên và người chăn chiên để nói lên cái mối liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người. Phúc âm hôm nay Chúa dùng hình ảnh cây nho và ngành nho để nói lên cái sự hiệp nhất, nói một cách xác thực hơn, cái sự thông hiệp giữa loài người với Thiên Chúa. Chúa ví Người như cây nho, Chúa Cha là người trồng nho, còn ta là nghành nho. Cây nho gồm nhiều ngành được hợp nhất với nhau, tạo thành một đơn vị của cây, vì cành cây chia sẻ nhựa sống với gốc rễ. Vậy nếu không gắn liền với thân cây, cành cây sẽ không có nhựa sống. Cũng như ngành nho cần phải được gắn liền với thân cây thì mới sinh hoa kết quả, người tín hưũ cũng cần được hiệp nhất với Chúa Ki-tô bằng ơn thánh để có thể sinh hoa kết quả thiêng liêng trong đời sống.
Vậy làm sao để được hiệp nhất với Chúa? Người tín hữu hiệp nhất với Chúa Kitô không phải là việc kết hợp bên ngoài như gia nhập tổ chức nọ, hội đoàn kia. Người tín hữu hiệp nhất với Chúa Kitô bằng ơn thánh. Vì thế tội phạm sẽ làm giảm ơn thánh, do đó làm giảm sự hiệp nhất với Chúa. Để được hiệp nhất với Chúa, người tín hữu cần ở lai trong tình yêu của Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là tuân giữ giới răn Chúa như Thánh Gio-an quả quyết trong Thư gửi tín hữu Do Thái: Ai tuân giữ răn của Thiên Chúa, thì ở lại trong Thiên Chúa (1 Ga 3:24). Chúa hứa cho những ai ở lại trong tình yêu Chúa, mà họ xin điều gì thì Chúa sẽ ban cho. Hợp nhất trong tình yêu Chúa có nghĩa là thần trí của Chúa phải thấm nhập vào mỗi lãnh vực của đời sống: tư tưởng, cảm tình, ước muốn, hành động...
Trong Phúc âm hôm nay, Chúa phán: Ai ở lại trong Thày và Thày ở trong người ấy, sẽ sinh nhiều hoa trái (Ga 15:5). Để cắt nghĩa cái sự hiệp nhất này, Thánh Phaolô nại đến ví dụ cụ thể của thân thể con người. Mặc dù được làm thành bởi nhiều phần, cái thân thể tạo thành một đơn vị độc nhất. Thánh Phaolô nhìn thấy cái sự hiệp nhất trong một thân thể tương tự như cái sự hiệp nhất trong nhiệm thể màu nhiệm của Chúa Kitô là Giáo hội. Trong cái nhiệm thể màu nhiệm này là Giáo Hội thì Chúa Kitô là đầu, còn người tín hữu là những phần chi thể. Thánh Phao-lô là người hơn ai hết hiểu được cái ý niệm thần học về nhiệm thể màu nhiệm Chúa Kitô. Trên đường đi Đamascô để bách hại người Kitô giáo, Phaolô bị quật ngã khoi lưng ngựa, rồi nghe tiếng phán bảo: Saolê, Saolê, tại sao nhà ngươi bách hại ta (Cv 9:4)? Thực ra thì Phaolô chỉ bách hại người Ki-tô giáo, chứ không bách hại Người phán ra tiếng đó. Sau này nhờ cầu nguyện, suy niệm và được ơn thánh soi sáng, Thánh Phaolô hiểu được tại sao bách hại người Kitô giáo là bách hại chính Đức Ki-tô vì người tín hữu là những chi thể trong thân thể mau nhiệm của Đức Kitô. Nói theo tiếng dùng của Chúa trong Phúc âm hôm nay, người tín hữu là ngành nho trong cây nho là Đức Kitô.
Giáo hội là cộng đồng dân Chúa và là gia đình của Chúa chỉ khi nào các thành phần qui tụ và hiệp nhất trong niềm tin cậy mến. Nếu chỉ qui tụ trong thời gian hoặc không gian, thì không phải là cộng đồng dân Chúa. Người ta có thể qui tụ lại cùng nơi, cùng lúc, cùng đợi một chuyến xe, nhưng đó chỉ là đám đông, chứ không phải là cộng đồng, lại càng không phải là cộng đồng dân Chúa. Khi mà người ta đến với nhau thì có sự việc xẩy ra. Đó là một nguyên tắc xã hội học. Nguyên tắc này còn được áp dụng cho lãnh vực tôn giáo. Khi ma người Kitô giáo đến với nhau thì sẽ xẩy ra những hoạt động Kitô giáo, nghĩa là những hoạt động thiêng liêng. Khi mà người Kitô giáo hiệp nhất đến với nhau, họ sẽ mang lại hoa trái thiêng liêng. Sản xuất hoa trái cho bữa ăn đòi nhiều thời giờ và công sức như canh tác, vun xới, trồng, tưới, tỉa bón, hái về nhà gọt rửa rồi nấu nướng. Để có được hoa trái thiêng liêng cũng đòi hỏi nhiều thời giờ luyện tập như cầu nguyện, suy niệm, hy sinh, hãm mình, vị tha, bác ái...
68. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
Trong một chương trình về làm vườn trên truyền hình, khi giải thích cách thức tỉa cành, chuyên gia nọ có nhận xét rằng thật đáng ngạc nhiên là hằng năm sau mùa đông người ta có thể xén tỉa cắt bỏ biết bao là cành khô củi mục từ một cây vẫn còn rất khỏe mạnh tươi tốt, đồng thời lưu ý thêm rằng cần xén tỉa kỹ lưỡng cây cối mới có thể sinh ra quả ngon. Tin Mừng hôm nay cũng nói với chúng ta rằng còn đáng ngạc nhiên hơn khi cuộc sống tốt lành chúng ta cũng có nhiều cây khô củi mục. Xét nhiều phương diện, cuộc đời chúng ta cũng không mấy khác gì với một vườn cây. Nếu chúng ta muốn sau này thu hoạch thật tốt, thì chắc chắn là phải liên tục chăm sóc vun trồng ngay từ đầu. Chúng ta cũng cần chạy tìm Đức Chúa Giêsu tư vấn, vì Người là bậc thầy trong lãnh vực "trồng ngưòi" này. Chúng ta cũng phải tự nhổ bỏ cỏ dại gai góc không thương tiếc, kẻo chúng chen lấn thui chột sức thăng trưởng của niềm tin Kitô giáo. Điều này có nghĩa là cần chặt bỏ những gì vô ích và gìn giữ những gì tốt đẹp. Việc xén tỉa mà Đức Kitô đang nhắc đến chính là việc thanh tẩy trọn vẹn tất cả con người: thân xác, và tâm hồn.
Là một Kitô hữu, không dễ gì giữ mãi vóc dáng tươi tốt ban đầu. Ngay cả những cuộc đời thánh thiện nhất cũng có thể tìm thấy lợi ích khi chịu xén tỉa đôi chút. Hoa trái tốt lành mà chúng ta mong mỏi sản sinh cho đời chính là tình yêu bác ái đối với tha nhân qua lời nói và việc làm. Đây là dấu thử nghiệm chánh hiệu cầu chứng của chúng ta vì hoa trái bác ái nào cũng có dấu ấn của Đức Kitô đóng trên chúng. Thật đáng tiếc nếu chúng ta đóng kín tâm hồn, quay lưng những anh chị em hàng xóm bằng cách nói xấu nói hành, bêu diếu những gương xấu lỡ lầm của họ, dồn họ vào đường cùng, làm mất danh thơm tiếng tốt của họ... Không ai lại không có lỗi lầm, thậm chí những người tốt lành nhất cũng có thể có cái mặt yếu nhất mà người ta có thể lợi dụng tấn công tơi tả. Quyết định nào cũng có cái giá phải trả, chúng ta không nên làm ngơ hay giảm thiểu những khó khăn gắn liền với quyết định sống yêu thương, sống tình yêu. Chúng ta không thể bẽ gẫy phá đổ những rào cản hận thù hay định kiến mở đường cho lòng tốt và khoan dung đi vào cuộc sống của anh chị em, nếu như chúng ta không quyết tâm chăm sóc tu dưỡng ngôn từ của chính mình bằng cách "giữ mồm giữ miệng" hay đúng hơn là "gọt dũa lại" cái lưỡi của mình. Tính hư tật xấu cũng như tội lỗi chúng ta thường ngăn chặn hay làm giảm hiệu quả việc chúng ta sống yêu thương qua tha nhân.
Đức Giêsu đã tạo một ảnh hưởng lớn lao trên đời sống thế gian này nhờ những môn đệ, những kẻ đi theo Người, biết cách sống sao cho mọi người nhìn thấy bàn tay Thiên Chúa hoạt động trong mọi tình huống đời thường. Đức Kitô tùy thuộc vào chúng ta có trở nên đôi tay và môi miệng Người hay không, để đem ánh sáng cứu độ đến cho người khác. Sự đóng góp to lớn nhất mà mỗi người trong chúng ta có thể làm cho Giáo Hội là chúng ta cho phép tình yêu của Đức Kitô thấm nhập vào trong máu của chúng ta. Nếu chúng ta sống trong Đức Kitô và Đức Kitô sống trong chúng ta, thì hoa trái chúng ta mang lại thật là ngoài sức tưởng tượng. Hôm nay là cơ hội cho chúng ta suy tư lại mức độ chúng ta gắn bó với Tin mừng, vì nếu lìa xa Đức Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không tăng trường vững bền. Thiên Chúa đòi hỏi con cái của Ngài cũng nhiều, khi Ngài mong muốn chúng ta xây dựng Giáo Hội trở nên một cộng đồng đầy sức sống năng động qua việc sống một đời tốt lành thánh thiện đầy hoa trái.
69. Hiệp thông với Chúa và với tha nhân
(Suy niệm của Lm Đan Vinh)
1. Têrêsa: Mãu gương hiệp thông với Chúa:
Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, sinh năm 1873 tại A-lăng-sông (Alancon) nước Pháp. Ngay từ năm 15 tuổi, Tê-rê-sa đã được đặc ân gia nhập dòng kín Các-men. Chín năm sau, tức năm 1897, chị Tê-rê-sa đã an nghỉ trong Chúa do bị bệnh lao phổi. Thế mà, ngay sau khi qua đời, tiếng thơm nhân đức của ngài đã vang đi khắp nơi. Rồi 28 năm sau, tức vào năm 1925, Tê-rê-sa đã được Đức Pi-ô XI phong lên bậc hiển thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Mới đây, Đức Gio-an Phao-lô Đệ Nhị lại phong Tê-rê-sa làm tiến sĩ của Hội Thánh.
Đọc tiểu sử của thánh nữ, ta thấy chị không phải vất vả đi khắp nơi giảng dạy giáo lý Thánh Kinh cho dân chúng, đương đầu với lạc giáo như thánh Đa-minh; Không sống khắc khổ hay ăn chay đánh tội như thánh Phan-xi-cô Khó Khăn; Không phải bỏ quê hương đi đến những vùng xa xôi truyền giáo như thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê; Không để lại nhiều tác phẩm có giá trị triết lý và thần học như thánh Tô-ma A-qui-nô; Không làm nhiều phép lạ giúp đỡ những người nghèo kho bất hạnh như thánh Mác-tin Po-rê; Không chịu cực hình đau khổ để làm chứng cho Chúa như các thánh tử đạo Việt Nam... Thế nhưng tại sao Tê-rê-sa lại được Hội Thánh tôn vinh như một đại Thánh của thế kỷ XX và XXI? Thưa chính là nhờ chị có đời sống nội tâm đạo đức, luôn kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su như cành nho gắn liền với thân cây nho. Nhờ sự kết hiệp đó, dù không làm được những việc lớn lao bề ngoài, nhưng Tê-rê-sa đã đem lại nhiều ích lợi cho Hội Thánh, đặc biệt là đường lối nên thánh của chị thánh phù hợp với Lời Chúa dạy và với tâm lý của con người thời đại mới. Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su, mà Tê-rê-sa đã đem lại một sinh lưc mới cho Hội Thánh, như lời Chúa phán: "Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5).
2. Hiệp thông với Chúa như cành nho kết hiệp với thân cây nho:
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự hiệp thông với Đức Giê-su là điều kiện để đức Tin của các môn đệ phát sinh hoa trái. Cũng như cành nho phải kết hiệp mật thiết với thân cây mới sinh hoa kết quả thế nào, thì các tín hữu cũng phải kết hiệp mật thiết vối Chúa Giê-su mới có thể chu tòan sứ mệnh làm vinh danh cho Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi anh em.
3. Hiệp thông với Chúa để hiệp thông với tha nhân:
Qua tác phẩm "Tự thuật" mà Tê-rê-sa đã vâng lời bề trên trình bày về linh đạo của mình. Linh đạo ấy được gọi là Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng, là Đức Bác Ái rút ra từ lời dạy và gương lành của Đức Giê-su trong Tân Ước, và được tóm gon như sau:
- Luôn tin yêu phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng, giống như đứa con thơ ở trong lòng bà mẹ.
- Quyết tâm thực thi tình mến Chúa yêu người trong cuộc sống hằng ngày: "Sống đời thường bằng một cách thức phi thường".
- Tận hiến toàn thân để làm vinh danh Chúa và khiêm nhường phục vụ tha nhân.
- Vui vẻ đón nhận những sự hiểu lầm bất công hay khinh dể của tha nhân, như những món quà Chúa gởi đến giúp ta nên thánh.
Tê-rê-sa đã viết trong cuốn Tự Thuật như sau: "Đức Ái đã cho tôi thấy chìa khóa về ơn gọi của tôi. Tôi hiểu rằng: nếu Hội Thánh là một thân thể gồm nhiều chi thể, thì các chi thể đương nhiên phải có một chi trọng yếu hơn. Đó là trái tim luôn cháy lửa yêu mến. Chỉ có lòng mến mới thúc bách mọi thành viên trong Hội Thánh hăng hái hoạt động. Nếu ngọn lửa mến đó tắt đi thì các tông đồ không còn rao giảng Tin mừng, các vị tử đạo sẽ không hy sinh đổ mau. Tôi hiểu lòng mến bao trùm mọi ơn gọi khác, bao quát mọi không gian và thời gian. Tóm lại lòng mến là vĩnh cửu". Quả vậy, chính lòng mến Chúa tha thiết đã làm cho Tê-rê-sa tiến lên tới đỉnh trọn lành, và kết thúc cuoc đời trong sự bình an hạnh phúc.
Về đời sống nội tâm, Tê-rê-sa đã thưa với Đức Giê-su trong cuốn Tự Thuật như sau: "Ôi Giê-su là Tình Yêu của con. Con đã khám phá ra ơn gọi của con là Sống Tình Yêu! Con đã tìm ra chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh là mẹ con mà Chúa đã ban cho con. Con sẽ là Tình Yêu, và như vậy con sẽ là tất cả..."
4. Lạy Chúa Giêsu.
Hôm nay xin Chúa cũng giúp chúng con biết noi gương Đức Maria trong việc hiệp thông với Chúa và với tha nhân: Sau khi thụ thai Hài nhi Giêsu, Mẹ đã đem Thai Nhi đi viếng thăm bà chị họ để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho cả gia đình Gia-ca-ri-a. Nhờ đó thai nhi Gio-an Tẩy Giả đã nhảy mừng trong dạ mẹ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Xin cho chúng con hôm nay, mỗi lần dự lễ và rước Chúa Giêsu vào lòng, cũng biết đem Chúa là tình yêu đến chia sẻ cho những người thân chưa tin nhận Chúa, thăm viếng thắt chặt tình thân với các thành viên trong cộng đoàn... và sẵn sàng khiêm tốn phục vụ Chúa hiện thân trong những người neo đơn bệnh tật và bất hạnh... Nhờ được luôn hiệp thông với Chúa, chúng con sẽ biết quên mình, vác thập giá là những rủi ro trái ý gặp phải hằng ngày và bước theo chân Chúa trên đường lên Núi Sọ noi gương Mẹ Maria xưa. Amen.
70. Cành nho sinh hoa trái
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Những hình ảnh cành nho, vườn nho, cây nho, cây nho được cắt tỉa la những hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do thái. Vì trên quê hương Chúa Giêsu, nơi đâu, hầu như người ta cũng trồng nho. Mạc khải của Thánh Kinh lại luôn luôn mang tính biểu tượng và hình ảnh rất cao, ít bao giờ thích dung những gì xa lạ, khó hiểu đối với đời sống dân chúng. Vì thế, cành nho, cây nho, vườn nho... đã gắn liền với mạc khải, cho đến mức, dẫu trong số chúng ta, hình như có người còn chưa một lần nhìn thấy cây nho, nhưng do suy niệm Lời Chúa, chúng ta cũng quên đi cả thắc mắc: nho là như thế nào. Nghĩa là cách nào đó, chúng ta cũng đã quen nhiều với hình ảnh cây nho...
Ngay từ rất xa xưa, Cựu ước đã mô tả dân Israel như một gốc nho hay vườn nho của Thiên Chúa: "Vườn nho của Đức Chúa Giavê, ấy là nhà Israel. Cây nho Chúa mến yêu quí chuộng, ấy là người xứ Giuda" (Is 5,7). Nhưng hầu hết những hình ảnh cây nho biểu trưng cho Israel luôn luôn đi liền với lời khiển trach, cảnh cáo hay đe dọa. Chẳng hạn bài ca về cây nho trong sách tiên tri Isaia: "Có gì làm hơn được cho vườn nho của Ta, mà Ta đã chẳng làm? Ta những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?... Ta chỉ mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than" (Is 5, 4. 7). Hoặc như tiên tri Giêrêmia: "Ta trồng ngươi như cây nho sai trái, được tuyển chọn giống tốt. Sao ngươi lại trở thành cây nho dại" (Gr 2, 21). Hay trong sách tiên tri Êgiêkiel, vì sự kiêu ngạo của Israel, bằng hình thức ẩn dụ của cành nho, Thiên Chúa trách cứ dân Người nặng như một lời đe dọa: "Cũng như gỗ cây nho trong đám cây trên rừng đã bị Ta quăng làm mồi cho lửa, thì dân cư Giêrusalem cũng bị Ta thiêu như thế" (Êd 15, 6). Và còn rất nhiều những hình ảnh về cây nho mà mạc khải của Cựu ước dùng như một thông điệp để nói với dân của Chúa.
Và hôm nay trong Tin Mừng, Chúa Giêsu tự nhận là " Cây nho thật", "Chúa Cha là người trồng nho", tất cả chúng ta, những Kitô hữu là "cành nho" gắn vào thân nho là Chúa Giêsu. Có một điều đáng lưu tâm đó là: Nếu trong Cựu ước, hình ảnh của cây nho như một lời cảnh cáo, đe dọa Israel vì tội lỗi của họ thì lời của Chúa Giêsu hôm nay cũng gióng lên một tiếng chuông cảnh báo như thế: "Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa để nó sinh trái nhiều hơn".
Như vậy, Thế nào là sinh hoa trái?
Ngay trong bài đọc hai, Thánh Gioan đã cho ta câu trả lời rất xúc tích nhưng rất đầy đủ. Đó là sống giới răn của Thiên Chúa. Mà "giới răn của Chúa là: ta hãy TIN vào thánh danh Con của Người là Chúa Giêsu Kitô, và phải YÊU THƯƠNG nhau như Người đã dạy". Và chỉ khi sống giới răn của Người, nghĩa là lãnh nhận ĐỨC TIN và thể hiện đức tin ấy bằng TÌNH YÊU, ta mới được một điều quí giá là: "ta ở trong Thiên Chúa và Người ở trong ta". Nhưng nói cho cùng, đức tin và tình yêu chỉ là hai cách diễn tả của một khuôn mặt là chính đời sống của người tín hữu mà thôi. Đức tin thôi thúc ta sống đời sống yêu thương với mọi anh em xung quanh ta. Còn đời sống yêu thương chính là sự biểu lộ ra bên ngoài của một đức tin mạnh mẽ, một tâm hồn phó thác lớn lao. Không chỉ đề cập đến tình yêu của ta đối với anh em, đối với thánh Gioan, tình yêu ấy phải rõ ràng và cụ thể: "Chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và sự chân thật".
Bởi thế bạn và tôi chỉ có thể là những cành nho biết sinh hoa trái khi cả bạn lẫn tôi biết sống hữu hiệu, để nhờ chính cuộc sống ấy, có thể làm biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Điều mà ta có thể làm ngay tức khắc đó là hãy trung thành, hãy tận tụy, hãy yêu quí, hãy ra sức sống hết mình với giây phút hiện tại Chúa ban, để bằng tất cả nỗ lực và chú tâm vào việc làm lương thiện hiện tại này, bạn và tôi đã tạo cho đời, và cho chính mình nữa, biết bao nhiêu hạnh phúc, biết bao nhiêu nụ cười bình an. Bằng cách ấy, bạn và tôi trở thành những cành nho tốt biết sinh hoa trái, biết làm sáng danh chính Cây Nho Thật là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ước mong tất cả chúng ta luôn là những cành nho tốt tươi biết gắn chặt đời mình với thân nho là chính Chúa Kitô, nhờ đó, dù chỉ là một cành nho mang thân phận con người mong manh, ta sẽ làm cho đời mình sinh nhiều hoa trái, nhiều kết quả tốt đẹp cho Giao Hội và cho mọi người quanh ta.
71. Cộng hưởng
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Sự cộng hưởng (resonance) là hiện tượng xảy ra trong dao động vật lý. Đó là khi một vật được kích thích bởi một ngoại lực tuần hoàn có cùng tần số với dao động riêng của nó. Cộng hưởng có thể xảy ra trong nhiều loại dao động – như dao động điện tử, dao động cơ học,… Khi có sự cộng hưởng thì biên độ dao động đạt giá trị cực đại.
Sự cộng hưởng là quá trình “rung động” của một vật với tần số tự nhiên của vật đó, chất liệu và kích thước của vật cũng quyết định đến qúa trình này. Sự cộng hưởng diễn ra quanh chúng ta mọi lúc, mọi nơi: Tiếng chuông ngân, tiếng trống vang, tiếng bật nắp chai,... Người ta gọi đó là sự cộng hưởng âm thanh.
Sự cộng hưởng âm là điều thú vị đáng quan tâm đối với những người mê âm thanh. Hai nhánh của một âm thoa (diapason) có bề mặt rất mỏng so với bước sóng nó tạo ra, nhưng khi thân của một âm thoa đang rung được đặt sát với một vật thể có tiết diện lớn hơn và cũng có khả năng dao động ở cùng một tần số thì sẽ chuyển động nhiều không khí hơn, và tạo ra âm thanh lớn hơn. Hợp âm là sự chồng các âm thanh xảy ra cùng một lúc, khiến chúng ta thích thú với sự cộng hưởng âm như vậy.
Cuộc sống là tập hợp những mối quan hệ đa dạng, không ai là một ốc đảo. Người này luôn có mối liên đới với người kia – dù không quen biết hoặc xa cách nhau hàng ngàn cây số. Liên đới với nhau về những điều tốt đã đành, thậm chí người ta còn liên đới với nhau cả những điều xấu. Mối liên đới càng rõ ràng khi mối quan hệ càng thân thiết. Tính liên đới đó cũng tương tự sự cộng hưởng. Có sự liên đới về điều tốt hoặc điều xấu, nghĩa là cũng có sự cộng hưởng tốt hoặc xấu.
Trong đó có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách chúng ta có thể hành động tốt hay xấu. Về tội lỗi, chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên can các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp. Chúng ta phạm tội qua hành động của người khác bằng cách: Tư vấn, mệnh lệnh, ưng thuận, khiêu khích, nịnh bợ, che giấu, đồng lõa, im lặng, biện hộ – gọi là “liên đới tội lỗi”, một dạng cộng hưởng tinh thần. Vì vậy, cần lưu ý:
a) Chúng ta ĐỪNG gây nguy hiểm cho LINH HỒN MÌNH bằng cách CAN DỰ vào tội lỗi của người khác.
b) Chúng ta ĐỪNG gây nguy hiểm cho LINH HỒN NGƯỜI KHÁC bằng cách LÔI KÉO họ vào tội lỗi của mình.
Hệ lụy tốt hay xấu đều ảnh hưởng người khác với một mức độ nào đó. Sách Công vụ Tông đồ cho biết: “Khi tới Giêrusalem, ông Saolô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cv 9:26). Đó là tâm lý chung, ai cũng sợ, nhất là Saolô (tức là Phaolô) đã từng bách hại đạo của Chúa Giêsu một cách gay gắt và dữ dội. Thế nên, “ông Banaba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Saolô đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giêsu tại Đa-mát thế nào” (Cv 9:27). Con người không chỉ có liên đới với nhau mà đặc biệt còn liên đới với cả Thiên Chúa.
Kể từ đó, một Saolô-dữ-tợn-và-tội-lỗi đã hoàn toàn biến đổi thành một Phaolô-hiền-từ-và-nhân-đức, hăng say cùng với các Tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Trước đây ông hung hăng bách hại đạo Chúa nhưng bây giờ ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Đấng-chịu-chết-và-phục-sinh. Ông là dân trí thức nên ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do Thái theo văn hoá Hy Lạp. Thấy ông tranh luận về Chúa Giêsu một cách say sưa và chí lý, họ ngạc nhiên rồi ghét ông nên tìm cách giết ông. Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô. Hồi ấy, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, “Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ” (Cv 9:29). Sức mạnh của Chúa Thánh Thần thật kỳ diệu vô cùng.
Tất cả chúng ta đều là những người từ nơi xa xăm nhưng diễm phúc được nhận biết và tin vào Đấng Cứu Thế Giêsu Kitô. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao, và đó cũng là cách chúng ta chịu ơn Ngài. Vì thế, chúng ta phải hết lòng “dâng lời ca tụng Ngài” (Tv 22:26a), đồng thời phải chân thành hứa với Ngài: “Điều khấn nguyền, con xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Ngài” (Tv 22:26b). Quả thật là như thế, như Thánh Vịnh gia xác định:
Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê
Người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng
Cầu chúc họ mãi ngàn đời vui sống
Toàn thế giới nhớ lại và trở về
Cùng Đức Chúa là Thiên Chúa nhân từ
Mọi dân tộc phủ phục thờ lạy Chúa
(Tv 22:27-29)
Thánh Vịnh gia nói rằng ngay cả “những kẻ ngủ yên trong lòng đất cũng sẽ đều bái lạy một mình Ngài” (Tv 22:30a), và “những ai trở về cát bụi sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan” (Tv 22:30b). Còn chúng ta, những người được đón nhận làm con cái của Ngài, phải không ngừng tự nhủ: “Nguyện sẽ sống cho Chúa, con cháu tôi sẽ phụng sự Ngài” (Tv 22:30c-31). Bổn phận và trách nhiệm của chúng ta không chỉ phải hết lòng tôn thờ Chúa, mà còn phải dạy cho con cái biết yêu mến Ngài, trung tín tôn thờ Ngài và nói cho người khác biết về Ngài. Đó là trách nhiệm mang tính liên đới, tạo nên sự cộng hưởng truyền giáo – khởi đầu từ gia đình.
Việc yêu mến Chúa không thể chỉ NÓI mà KHÔNG LÀM, như Thánh Gioan đã phân tích rất rõ: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18). Học rồi phải hành, nói rồi phải làm, khuyên dạy người khác thì mình phải giữ trước – nếu không thì chỉ là “giả hình chính hiệu”. Yêu ai thì phải quan tâm người đó, không thể khác hơn. Nói chung, bất cứ điều gì cũng phải “ngôn hành song song”. Thánh Gioan nói tiếp: “Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1 Ga 3:19). Thật vậy, “nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (1 Ga 3:20). Người ta có thể nói dối nhau, thậm chí tự lừa dối mình, nhưng không ai có thể nói dối Thiên Chúa.
Thật diễm phúc cho chúng ta nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, và “chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa”, để rồi “bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Ngài ban cho” (1 Ga 3:22). Chúng ta xin và được ơn là vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài và làm những gì đẹp ý Ngài. Nói đi nói lại, nói xa nói gần, cả Mười Điều Răn cũng chỉ tóm gọn hai chữ Yêu Thương. Nhưng hãy lưu ý: ĐỪNG BAO GIỜ LỢI DỤNG CHÚA! Thánh Gioan nhắc nhở: “Chúng ta PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và PHẢI yêu thương nhau, theo điều răn Ngài đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:23), rồi giải thích: “Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì Ở LẠI trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa Ở LẠI trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa Ở LẠI trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:24). Các mệnh lệnh cách “phải” và tình trạng “ở lại” có liên quan với nhau như một hệ lụy tất yếu vậy.
Trong cuộc đời này, tất cả đều có tính liên đới. Liên đới cũng là một trong bốn điểm chính trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo (thường gọi tắt là Giáo huấn Xã hội Công giáo). Chúa Giêsu cũng đã nhắc tới tính liên đới khi Ngài ví Ngài là Cây Nho, còn chúng ta là cành nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15:1-2). Đó là điều chắc chắn. Khoa học cũng đã chứng minh rằng, trong não bộ có những rãnh chứa “chất xám” (grey matter – chất giúp thông minh), ai lười động não thì các “nhánh chất xám” sẽ khô dần và giảm dần mức độ thông minh, nhưng ai càng chịu động não thì các “nhánh chất xám” càng sản sinh và càng thông minh. Rất tự nhiên mà thật kỳ diệu, giống như cây tốt sinh nhiều nhánh sum suê vậy! Đó cũng dạng liên đới mang tính cộng hưởng lẫn nhau.
Trung thành theo Chúa Giêsu, chúng ta “được thanh sạch nhờ lời Ngài đã nói với chúng ta” (x. Ga 15:3). Ngài căn dặn: “Hãy Ở LẠI trong Thầy như Thầy Ở LẠI trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không GẮN LIỀN với cây nho, anh em cũng thế, nếu không Ở LẠI trong Thầy” (Ga 15:4). Chúa Giêsu không ưa vòng vo, Ngài luôn nói thực tế, rõ ràng, giản dị và bất cứ ai cũng có thể hiểu được.
Một lần nữa, chính Chúa Giêsu tái xác định: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15:5a), và Ngài hứa: “Ai Ở LẠI trong Thầy và Thầy Ở LẠI trong người ấ, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:5b). Nhưng chúng ta có sinh hoa trái hoặc làm được gì thì cũng KHÔNG bởi tài năng của chúng ta, chớ có ảo tưởng, bởi vì Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5c). Ngược lại, Chúa Giêsu nói vế một: “Ai KHÔNG Ở LẠI trong Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15:6). Chúa Giêsu không hù dọa mà Ngài chỉ nói theo nguyên lý liên đới tâm linh. Rồi Ngài nói vế hai: “Nếu anh em Ở LẠI trong Thầy và lời Thầy Ở LẠI trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Ga 15:7). Đó là sự cân bằng trong một phản ứng, giống như sự cân bằng trong phản ứng hóa học vậy. Và Ngài kết luận: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15:8).
Cả cây và cành luôn có tính liên đới chặt chẽ, đặc biệt đó là mối-liên-đới-yêu-thương, sự-cộng-hưởng-tâm-linh. Theo triết lý của Thánh Phaolô, không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô – mặc dù đó là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo,... Chính trong mọi thử thách ấy, chúng ta có thể toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta: “Dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:38-39).
Nói về đau khổ, Thánh Phanxicô Assisi cho biết: “Tôi hy vọng rất nhiều về cái hay, cái tốt. Vì vậy mà tất cả đau khổ đều là dễ thương”. Còn Thánh Vinh Sơn Phaolô: “Một người càng tấn tới trong việc yêu mến Thiên Chúa thì nhất định càng yêu thích đau khổ, chịu bị khinh thường, đó chính là dấu hiệu của lửa tình ái, những thứ khác đều là mây khói”.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con quyết tâm theo Ngài đến cùng, đủ can đảm trong mọi hoàn cảnh để trung thành và kiên tâm chịu đựng mọi nghịch cảnh. Cầu xin Ngài đừng để chúng con lâm cảnh quá nghèo hoặc quá giàu, vì nghèo quá hoặc giàu quá thì chúng con cũng có thể xa Chúa và hư hỏng. Xin thương xót và che chở chúng con như con ngươi trong mắt Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
72. Liên đới
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Cuộc sống là tập hợp những mối quan hệ đa dạng, không ai là một ốc đảo. Người này luôn có mối liên đới với người kia – dù không quen biết hoặc xa cách nhau hàng ngàn cây số. Liên đới với nhau về những điều tốt đã đành, thậm chí người ta còn liên đới với nhau cả những điều xấu. Mối liên đới càng rõ ràng khi mối quan hệ càng thân thiết.
Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách chúng ta có thể phạm tội. Chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên can các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp. Chúng ta phạm tội qua hành động của người khác bằng cách: Tư vấn, mệnh lệnh, ưng thuận, khiêu khích, nịnh bợ, che giấu, đồng lõa, im lặng, biện hộ. Vì vậy, cần lưu ý:
a) Chúng ta đừng gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách can dự vào tội lỗi của người khác.
b) Chúng ta đừng gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách lôi kéo họ vào tội lỗi của mình.
Sách Công vụ Tông đồ cho biết: “Khi tới Giêrusalem, ông Saolô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cv 9:26). Đó là tâm lý chung, ai cũng sợ, nhất là Saolô (tức Phaolô) đã từng bách hại đạo Công giáo dữ dội. Thế nên, “ông Banaba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Saolô đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giêsu tại Đa-mát thế nào” (Cv 9:27).
Từ đó, một Saolô-dữ-tợn-và-tội-lỗi đã biến thành một Phaolô-hiền-từ-và-nhân-đức, cùng với các Tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. Ông là dân trí thức nên ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do Thái theo văn hoá Hy Lạp. Thấy ông tranh luận về Chúa Giêsu một cách say sưa và chí lý, họ tìm cách giết ông. Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô. Hồi ấy, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, “Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ” (Cv 9:29).
Chúng ta, những người từ xa xăm nhưng được nhận biết và tin vào Chúa Giêsu Cứu Thế. Đó là hạnh phúc lớn lao, đó là chúng ta chịu ơn Ngài. Vì thế, chúng ta phải “dâng lời ca tụng Ngài” (Tv 22:26a), và phải hứa với Ngài: “Điều khấn nguyền, con xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Ngài” (Tv 22:26b). Thật vậy:
Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê
Người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng
Cầu chúc họ mãi ngàn đời vui sống
Toàn thế giới nhớ lại và trở về
Cùng Đức Chúa là Thiên Chúa nhân từ
Mọi dân tộc phủ phục thờ lạy Chúa
(Tv 22:27-29)
Ngay cả “những kẻ ngủ yên trong lòng đất cũng sẽ đều bái lạy một mình Ngài” (Tv 22:30a), và “những ai trở về cát bụi sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan” (Tv 22:30b). Còn chúng ta, những người được đón nhận làm con cái của Ngài, phải tự nhủ: “Nguyện sẽ sống cho Chúa, con cháu tôi sẽ phụng sự Ngài” (Tv 22:30c-31). Bổn phận và trách nhiệm của chúng ta không chỉ phải hết lòng tôn thờ Chúa, mà còn phải dạy cho con cái biết yêu mến Ngài, trung tín tôn thờ Ngài và nói cho người khác biết về Ngài.
Yêu mến Chúa không thể chỉ NÓI mà KHÔNG LÀM, như Thánh Gioan đã phân tích rất rõ: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18). Học phải hành. Yêu ai thì phải quan tâm người đó. Nói chung, bất cứ điều gì cũng phải “ngôn hành song song”. Thánh Gioan nói tiếp: “Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1 Ga 3:19). Thật vậy, “nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (1 Ga 3:20). Người ta có thể nói dối nhau, thậm chí tự lừa dối mình, nhưng không ai có thể nói dối Thiên Chúa.
Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, như vậy thật phúc cho chúng ta, và “chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa”, để rồi “bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Ngài ban cho” (1 Ga 3:22). Chúng ta xin và được ơn là vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài và làm những gì đẹp ý Ngài. Nói đi nói lại, nói xa nói gần, cả Mười Điều Răn cũng chỉ tóm gọn hai chữ Yêu Thương. Thánh Gioan nhắc: “Chúng ta phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Ngài đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:23), rồi giải thích: “Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:24).
Tất cả đều có tính liên đới. Liên đới cũng là một trong bốn điểm chính trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo (thường gọi tắt là Giáo huấn Xã hội Công giáo). Chúa Giêsu cũng đã nhắc tới tính liên đới khi Ngài ví Ngài là Cây Nho, còn chúng ta là cành nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15:1-2). Đó là điều chắc chắn. Khoa học cũng đã chứng minh rằng, trong não bộ có những “rãnh chất xám” (chất giúp thông minh), ai lười động não thì các “nhánh chất xám” sẽ khô dần và giảm thông minh, nhưng ai chịu động não thì các “nhánh chất xám” sẽ sinh sôi và càng thông minh. Rất tự nhiên mà thật kỳ diệu! Đó cũng là sự liên đới.
Theo Chúa Giêsu, chúng ta “được thanh sạch nhờ lời Ngài đã nói với chúng ta” (x. Ga 15:3). Ngài căn dặn: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15:4). Chúa Giêsu không ưa vòng vo, Ngài luôn nói thực tế, rõ ràng, giản dị và dễ hiểu.
Chúa Giêsu tái xác định: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15:5a), và Ngài hứa: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:5b). Nhưng chúng ta có sinh hoa trái hoặc làm được gì thì cũng không bởi tài năng của chúng ta, đừng ảo tưởng, vì Chúa Giêsu đã nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5c). Ngược lại, Chúa Giêsu nói vế một: “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15:6). Chúa Giêsu không hù dọa mà Ngài chỉ nói theo nguyên lý liên đới. Rồi Ngài nói vế hai: “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Ga 15:7). Đó là sự cân bằng trong một phản ứng, giống như phản ứng hóa học vậy. Ngài kết luận: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15:8).
Cây và cành luôn có tính liên đới chặt chẽ, đặc biệt đó là mối-liên-đới-yêu-thương. Theo triết lý của Thánh Phaolô, không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, dù đó là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Chính trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta: “Dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:38-39).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con can đảm trong mọi hoàn cảnh để đủ sức kiên tâm chịu đựng và quyết tâm theo Ngài đến cùng. Xin đừng để chúng con quá nghèo hoặc quá giàu, vì nghèo quá hoặc giàu quá thì chúng con cũng có thể xa Chúa. Xin thương xót và che chở chúng con như con ngươi trong mắt Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
73. Sợi tình
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Mạng nhện là thứ rất bình thường, thậm chí còn bị người ta ghét, vì làm bẩn nhà cửa, nhưng nó lại mặc nhiên có mối liên kết kỳ diệu dạy chúng ta bài học giá trị.
Mạng nhện là cái bẫy bắt mồi vô cùng hữu ích của loài nhện, bất kỳ con côn trùng hay sâu bướm nào lỡ rơi vào cái bẫy này, ngay lập tức chúng sẽ bị dính chặt mà không thể nào thoát ra được. Tuy nhiên, chính con nhện luôn tiếp xúc với mạng nhện, nhưng nó lại không hề bị dính. Các khoa học gia phát hiện loài nhện còn khéo léo dệt thêm các sợi tơ trắng trang trí bắt chéo như một thủ thuật nhằm bảo vệ hệ thống mạng của chúng khỏi bị hư hại. Các khoa học cũng phát hiện các mạng nhện tinh xảo còn có thể tạo ra âm thanh như một nhạc cụ dây. Thật kỳ lạ!
Hệ thống internet mà chúng ta gọi là “mạng” hoặc website là “bắt chước” mạng nhện. Các hệ thống khác chúng ta gọi là “mạng lưới”. Mạng nhện thật là độc đáo, bất cứ một điểm nào trên đó, ở bất kỳ nơi nào, cũng có liên kết trực tiếp hoặc gián tiếp với các điểm khác. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, không ai là một ốc đảo, người này có liên đới với người khác về phương diện nào đó, xã hội hoặc tâm linh, kể cả về phương diện tội lỗi, dù người này ở xa với người kia.
Thật vậy, mỗi chúng ta đều là chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô, vì Chúa Giêsu đã nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15:5). Là con người, dù theo tôn giáo nào hoặc chủ nghĩa nào, chúng ta vẫn có “sợi tình” liên kết với nhau một cách vô hình, không thể tách rời. Nghề này hỗ trợ cho nghề khác, không nghề nào cao hơn hoặc thấp hơn nghề nào: “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Đừng ảo tưởng hoặc “sĩ diện” hão huyền – tức là đừng “chảnh”.
Tình yêu vô hình, trừu tượng, nhưng khả dĩ cảm nhận. Đạo Công giáo là đạo yêu thương. Máu-yêu-thương là Máu-Đức-Kitô, ai theo Ngài và muốn nên giống Ngài thì cũng phải có loại máu đó, tương tự máu O có thể chia sẻ cho mọi loại máu khác. Vì thế, Kitô hữu phải tâm niệm: “Dù chết không tấm hình nhưng tình không chấm hết”.
Trình thuật Cv 9:26-31 cho chúng ta biết điều thú vị. Chuyện là khi Chúa Giêsu mới phục sinh, ông Saolô đã tới Giêrusalem để tìm cách “tiếp cận” các môn đệ. Thế nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ. Một sự bất tín, vạn sự chẳng tin. Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Chả biết “ất giáp” thế nào, cứ chắc hơn lép. Đôi khi bụng còn chưa tin rốn kia mà! Vả lại “tay” này đâu phải vừa, đáng sợ thật đấy, vì trước đây “hắn” đã từng phi ngựa vung gươm thấy ớn, gặp bất kỳ kẻ nào tin vào Ông Giêsu thì kẻ ấy hết đường sống. Chém! Kiểu như IS (Nhà nước Hồi giáo) ngày nay vậy. Ui da, ớn thiệt chứ giỡn sao!
Thế nhưng chuyện đâu còn có đó, coi vậy mà không phải vậy. Cú ngã ngựa và mù mắt đã thay đổi não trạng của tay nằm vùng Saolô khét tiếng rồi. Thế là ông Banaba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Saolô đến gặp các tông đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giêsu tại Đa-mát thế nào. Đầu xuôi, đuôi lọt. Mọi chuyện tốt đẹp. Trước là Saolô cứng như sáp nguội, nhưng nay là Phaolô mềm như bún rồi. Đừng sợ chi nữa!
Từ đó ông Saolô cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. Ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do Thái theo văn hoá Hy Lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông, vì thấy Saolô hung hăng thế mà nay lại tâm phục khẩu phục Ông Giêsu. Phải triệt ngay! Các anh em biết thế nên liền dẫn ông xuống Xêdarê và tiễn ông lên đường về Tácxô. Ở lại không ổn rồi. Tính cách khác thôi!
Thật may, thời kỳ yên ổn đã đến. Hồi ấy, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ. Tạ ơn Chúa. Tất cả là Thánh Ý Ngài, “Phaolô trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3:6). Chẳng ai là “cái đinh gỉ” nào cả, chỉ có Thiên Chúa mới là tất cả. Kinh Thánh nói đã cảnh báo: “Chớ khoe khoang vì bộ áo bên ngoài, cũng đừng tự cao trong ngày được vinh dự. Công trình của Đức Chúa thật lạ lùng, nhưng vẫn là bí ẩn đối với phàm nhân” (Hc 11:4).
Vâng, tất cả là hồng ân Thiên Chúa bao la, cao vời khôn ví. Sợi Tình quá đỗi kỳ diệu! Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã thú nhận: “Chịu ơn Người, tôi dâng lời ca tụng, ngày đại hội toàn dân. Điều khấn nguyền, tôi xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Người” (Tv 22:26). Chịu ơn thì phải biết ơn, biết ơn thì phải đáp đền, đó là chuyện tất yếu, như tục ngữ Việt Nam có câu: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Và rồi tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng cụ thể: “Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê, người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng. Cầu chúc họ vui sống ngàn đời. Toàn thế giới, muôn người nhớ lại và trở về cùng Chúa. Mọi dân tộc dưới trần phủ phục trước Tôn Nhan” (Tv 22:27-28).
Người sống đã vậy, người chết cũng chẳng yên, phải động lòng. Tác giả Thánh Vịnh vui mừng bày tỏ cả chuyện người lẫn chuyện mình: “Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất sẽ đều bái lạy một mình Người, phàm những ai trở về cát bụi sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan. Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa, con cháu tôi sẽ phụng sự Người. Thiên hạ sẽ nói về Đức Chúa cho thế hệ tương lai, truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người, rằng: “Đức Chúa đã làm như vậy!” (Tv 22:30-32).
Sợi gì cũng phải thật, dỏm hoặc giả là đứt ngay. Sợi tình cũng vậy, và còn hơn thế nữa. Thánh Gioan nhắn nhủ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18). Yêu thương là đức ái, đức ái liên quan đức tin. Nhân đức nào cũng cần chứng minh bằng hành động. Thánh Giacôbê đã mạnh mẽ so sánh: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26).
Chân lý vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, không thể bóp méo. Thánh Gioan kết luận: “Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự” (1 Ga 3:19-20). Cáo tội mình chứ đừng cáo tội người khác, nhưng vì chúng ta vốn là người xấu (Lc 11:13) nên chúng ta không muốn tố cáo mình, không muốn thú tội.
Cáo tội mình là can đảm, biết hướng thiện, biết phục thiện, sống khiêm nhường, mà Thiên Chúa lại rất quý mến người khiêm nhường, lợi cả mọi đàng: “Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa. Và bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho, bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người và làm những gì đẹp ý Người” (1 Ga 3:21-22). Điều răn của Thiên Chúa rạch ròi và dứt khoát: “Chúng ta PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người, và PHẢI yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta. Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:23-24).
Mối liên kết bằng “sợi tình” như vậy thì luôn chặt chẽ và bền vững, không gì có thể tháo gỡ. Tay không thể trách chân, bụng không thể trách miệng, cổ không thể trách lưng, răng không thể trách lưỡi,… Người ta cũng nói: “Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”. Đó là điều tất yếu vậy!
Nên “thú tội mình”, không nên “cáo tội người”. Vừa khiêm nhường vừa yêu thương. Có những điều chúng ta tưởng vậy mà không phải vậy, nhưng có những điều rất thật mà chúng ta không dám tin đó là sự thật. Cẩn tắc vô ưu: “Chưa tra xét thì đừng buộc tội, suy nghĩ trước rồi hãy trách móc sau” (Hc 11:7). Bênh vực người khác là điều tốt, nên làm. Tuy nhiên, con người dễ “dính” máu-phe-cánh, không bênh vực công lý mà lại bao che cho sự bất công. Sự bao che liên quan động thái giấu nhẹm. Và rồi được nê hoặc ỷ lại, vênh váo ra vẻ “ta đây”, kẻ xấu vẫn tự tung tự tác, thế nên Thánh Phaolô đã kêu lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7).
Chúng ta đã và đang thấy những cảnh trái ngang đó vẫn tiếp tục xảy ra ở xã hội ở khắp thế giới hàng ngày, nhưng trong Giáo Hội cũng không phải không có, thế mới thực sự là điều đáng buồn! Đó là hèn nhát hay nhu nhược? ĐGH Phanxicô nói rằng Giáo Hội phải “nói thẳng nói thật”. Giáo Hội là ai? Là chính mỗi người trong chúng ta. Liệu chúng ta có dám đối mặt sự thật, dù phũ phàng? Khó trả lời hay “ngại” trả lời?
Chúa Giêsu mô tả mối liên kết yêu thương đó bằng hình ảnh cây nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15:1-2). “Chặt” và “cắt tỉa” là hai động từ mạnh mẽ, diễn tả việc tách rời, dạng nào cũng gây đau đớn, nhưng có hai kết quả khác nhau. “Chặt đi” là cắt bỏ, loại bỏ. Cành cây không phát triển không chỉ bất lợi cho chính nó mà còn bất lợi cho cành khác và hại thân cây. Cắt bỏ! Tế bào ung thư là tế bào hư hại, bất lợi cho cơ thể, phải cắt bỏ càng sớm càng tốt. Cắt bỏ! Nhưng có khi phải tỉa bớt cho cây phát triển mạnh. Sức khỏe thể lý, sức khỏe trí tuệ, sức khỏe tinh thần, sức khỏe tâm linh, tất cả đều phải khổ luyện mới khả dĩ đạt được mức tốt nhất. Đó là dạng “tỉa” chính mình.
Chúa Giêsu giải thích: “Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15:3-4). Ngài nhấn mạnh: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Chúng ta chỉ là con số KHÔNG to lớn, có làm được chút gì thì cũng là nhờ ơn Chúa, ngay cả chức quyền cũng vậy, tất cả là do “Trời ban cho” (Ga 19:11). Vì thế, đừng ngu dại mà ảo tưởng bao giờ!
Sự thật hay mất lòng, nhưng đôi khi phải nói thật. Chúa Giêsu đã “nói toạc móng heo” luôn: “Ai không ở lại trong Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15:6-8). Thiên Chúa rất muốn chúng ta sống tốt, trước là có lợi cho mình, sau là có lợi cho tha nhân. Không chỉ vậy, Ngài còn muốn chúng ta “sống dồi dào” (Ga 10:10).
Chính Chúa Giêsu đã chết và phục sinh để chứng mình điều sự mong muốn đầy ắp tình yêu thương đó. Trong Tông sắc “Misericordiae Vultus” (Khuôn Mặt Thương Xót), ấn định Năm Thánh Từ Bi Thương Xót từ 8-12-2015 tới 20-11-2016, ĐGH Phanxicô xác định: “Lòng thương xót là nền tảng của đời sống Giáo Hội” (số 10). Hằng ngày, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta vẫn chúc bình an cho nhau, nhưng có thể chúng ta chỉ làm theo “nghi thức” mà quên “chiều sâu”. Lời chúc bình an rất cần, sau khi sống lại, Chúa Giêsu luôn chúc bình an cho người đối diện mỗi khi Ngài gặp họ. Hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta hãy nối kết với nhau bằng “sợi tình” chân thật qua lời chúc bình an của Niềm Vui Phục Sinh cho nhau với cả tâm thành: “Bình An và Thiện Hảo – Pax et Bonum”. Ai cũng nợ tình nhau, chúng ta phải trả cả đời: “Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8).
Thực tế chúng ta thấy rằng, ngư dân hoặc người bán cá có mùi cá, người chăn vịt có mùi vịt, người nuôi heo (lợn) có mùi heo,... nghĩa là nghề nào cũng có mùi đặc trưng của nghề đó, không lẫn đi đâu được. Tương tự, người chăn chiên phải có mùi của chiên, người không có mùi của chiên thì chắc chắn không phải chủ chiên chính hiệu! Mùi của chiên là mùi gì? Chiên ở vùng miền nào có mùi đặc trưng của vùng miền đó. Các “con chiên” ở Việt Nam không thể “thơm” như chiên ở các nước Âu Mỹ, Tây phương – nghĩa là các “ràn chiên” ở Việt Nam “hôi” lắm. Làm sao phát hiện chủ chiên nào có mùi chiên như vậy? Chắc hẳn ngại nói lắm!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết liên kết với nhau bằng sợi dây liên đới Kitô giáo, xin giúp chúng con luân chuyển cho nhau loại Máu Yêu Thương để cùng nhau sống dồi dào trong Tình Thương Xót của Ngài, luôn hoán chuyển Nhựa Tình để các cành của chúng con luôn sống nhờ Nhiệm Thể Đức Kitô, Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
74. Cây nho.
Có một bộ phim mang tựa đề "Shadow of the Hawk, Bóng Con Ưng". Trong đó, có một cặp vợ chồng trẻ và một người Da Đỏ dẫn đường lên núi chạy trốn đám người dữ.
Tại một nơi, người đàn bà bị vấp ngã và nói, "Tôi không thể cất thêm một bước nào nữa."
Người đàn ông đỡ vợ đứng dậy và nói, "Thế nhưng, em ơi, chúng ta phải tiến tới. Chúng ta không còn đường lựa chọn nữa!" Cô vợ lắc đầu đáp, "Em không thể đi nổi nữa! Em không thể đi nổi nữa!"
Sau đấy, người Da Đỏ chỉ đường nói với người đàn ông, "Hãy ôm bà sát vào lòng ông. Hãy để sức mạnh và lòng can đảm của ông truyền sang bà ấy."
Người đàn ông làm như vậy, và chỉ trong vài phút ngắn ngủi, người đàn bà mỉm cười và nói, "Giờ đây, em đã đi được rồi! Giờ đây, em đã đi lại được rồi!"
Đó cũng chính là điều mà Chúa Giêsu muốn thực thi cho mỗi người chúng ta. Ngài muốn chia sẻ với ta không chỉ có sức mạnh của chính Ngài và lòng can đảm, nhưng còn cả mạng sống của Ngài nữa.
Chúa Giêsu nói rằng: "Ta là cây nho mới, cây nho chân thật, mà Thiên Chúa đã vun trồng trong vườn nho Do Thái. Nếu các ngươi liên kết với Ta, các ngươi sẽ sinh hoa trái mà Thiên Chúa có ý muốn các ngươi sinh sản, khi Ngài tuyển chọn các ngươi làm dân riêng của Ngài."
Vậy Chúa Giêsu muốn nói gì với chúng ta trong thời đại này qua đoạn văn tren? Ngài nói rằng: "Nếu các ngươi trở nên những người mà Thiên Chúa có ý cho các ngươi trở thành, các ngươi phải liên kết với Ta. Nếu các ngươi không liên kết với Ta, thì sẽ không còn niềm hy vọng trong các ngươi nữa. Cuoc sống của các người sẽ kết thúc cách bi thảm."
Liên kết với Ngài, chúng ta có thể làm được mọi sự. Xa cách Ngài, chúng ta không làm được gì cả.
Và như thế, bài Phúc Âm hôm nay dạy chúng ta hai điểm quan trọng: Trước tiên, nó dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu chính là cây nho mới và chân thật mà Thiên Chúa vun trồng trong vườn nho Do Thái. Kế đến, nó dạy cho chúng ta biết chỉ khi nào có sự kết hiệp với Chúa Giêsu, thì chúng ta mới có the sinh hoa trái và trưởng thành nên những người mà Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta trở thành.
Kết hiệp với Chúa Giêsu chúng ta có thể làm được mọi sự. Xa lìa Ngài chúng ta không thể làm gì được.
75. Thầy là cây nho thật - Lm Jude Sicilano.
Với dân tộc Do thái, hình ảnh vườn nho, cây nho mà Thiên Chúa vừa là người canh tác, vừa là ông chủ rất phổ thông và gần gũi. Đó là hình ảnh Kinh thánh Cựu ước áp dụng cho Israel mà mọi người phải đọc, phải học và suy gẫm. Như thế trong bài đọc Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu tự so sánh mình với cây nho Thiên Chúa trồng và các môn đệ là ngành không có gì lạ lẫm, mới mẻ. Trái lại rất dễ hiểu, ngang tầm trí khôn mọi người. Lập vườn trồng nho là nghề sinh sống của một phận không nhỏ trong dân gian Do thái. Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh hôm nay là Ngài đồng hoá mình với cây nho. Sức sống của nó và các cành đều đến từ Thiên Chúa. Ngài không nói về tương lai, hoặc cuộc đời sau cái chết khi nhân loại sống mật thiết với Thiên Chúa, mà chính ngay cuộc đời này. Bởi lẽ Ngài dùng thì hiện tại. Nghĩa là ngay lúc này các môn đệ và chúng ta phải kết hợp vơi Ngài bằng sự sống hữu cơ như cành với cây và cố gắng hết sức duy trì sức sống đó: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà khong sinh hoa kết trái thì Người chặt đi, còn cành nào sinh hoa kết trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.”
Điểm lưu ý thứ nhất trong đoạn Tin mừng là Chúa Giêsu không tách biệt, không loại trừ ai. Tất cả đều được mời gọi vào cuộc sống của Ngài, chẳng cần quốc tịch, màu da, tiếng nói, tầng lớp nào! Chẳng cần giầu nghèo, sang hèn, thông minh hay ngu tối, khẻo mạnh hay yếu đau, tài giỏi hay đần độn, triệu phú hay ăn mày, tu sĩ hay giáo dân. Chỉ cần điều duy nhất: Tình yêu. Cuộc sống mỗi người sẽ minh chứng cho tình yêu đó, nếu như họ thực sự đã tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô. Trong bài đọc 2, thánh Gioan tóm tắt: “Chúng ta phải tin vào danh Đưc Giêsu Kitô, Con của Thiên Chúa và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta.” Nghĩa là chẳng cần căn cước nào khác, chẳng cần quần áo đẹp, đồng phục, huy hiệu, cờ xí, chẳng cần băng đeo tay, đoàn the, trong cộng đồng mới mẻ của Chúa Giêsu. Yêu thương nhau là dấu chỉ duy nhất chứng tỏ chúng ta thuộc về cây nho và ở lại trong sức sống của nó. Yêu thương không loại trừ. Yêu thương hết mọi thành phần trong xã hội nhân loại, chứ không phải chỉ những thân thuộc của mình. Yêu thương cả đến những kẻ thù, người vô đạo hay dửng dưng tôn giáo. Hơn nữa, khi còn ở trần gian Chúa Giêsu tìm đến những kẻ chẳng được xã hội chấp nhận, chẳng được yeu mến, thì đó cũng là đối tượng đặc biệt của những người theo Chúa hiện nay. Sức sống của cây nho lưu thông trong khắp các chi thể. Cành nào ngăn cản, tức khắc bị héo khô. Tín hữu nào mang não trạng loại trừ, tức khắc không còn là môn đệ của Chúa Kitô nữa!
Điểm thứ hai. Chúa Giêsu không xưng mình là gốc hay rễ nho. Nếu Ngài ví như thế, chẳng hoá ra những cành lá gần gốc rễ có thể tự coi quan trọng hơn kẻ khác, vì được ở gần nguồn song. Họ có thể hãnh diện về vị trí của mình, đòi hỏi những đặc quyền đặc lợi (như nhiều vị trong Giáo hội ngày nay). Họ sẽ độc quyền điều khiển dòng chảy của nhựa cây nho, ban cho người này kẻ khác những ưu đãi. Hậu qua là sẽ có môn đệ hạng nhất, hạng hai, ba, bốn và rốt cùng! Sẽ có những tín hữu sang trọng và những tín hữu thấp hèn. Chúa Giêsu không gọi mình là gốc nho, mà đơn giản là “cây nho”. Cho nên, chẳng ai có thể cậy mình hơn kẻ khác, hoặc tự hào về địa vị trong Giáo hội. Điều cần quan tâm là mang nhiều hoặc ít hoa trái. Vì đã được nối kết vào cây nho, cho nên trách nhiệm là phải sinh hoa kết trái. Nhờ bí tích thánh tẩy, các tín hữu đã nên mot với Đức Ki-tô, sức sống của Ngài lan toả tới hết mọi chi thể, thì không ai được miễn trừ mang nhiều hoa trái. Tuy nhiên thực tế có khi ngược lại, vô sinh, cằn cỗi, héo hon.
Điểm thứ ba, điều kiện để mang nhiều hoa trái là “tỉa sạch”. Có lần trong Phúc âm Gioan, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là nguồn nước hằng sống, lần khác, Ngài là bánh bởi trời ban sự sống cho nhân loại. Bài huấn dụ hôm nay ở trong bối cảnh bữa Tiệc ly, Ngài nói với cac môn đệ Ngài là cây nho thực. Các tác giả ban dịch thuật Thánh kinh Anchor (The Anchor Bible) chú giải: dấu chỉ biểu tượng của lòng tin vào Chúa Giêsu là ăn bánh trường sinh và uống nước hằng sống. Các tín hữu tiên khởi khi nghe huấn dụ này thì nghĩ ngay đến nghi lễ bẻ bánh: Hoa trái của cây nho ban sự sống. Kinh tạ ơn cổ nhất của bí tích Thánh Thể đọc rằng: “Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vì tôi tớ của Cha, cây nho nhà Đavit thánh thiện mà Cha đã mặc khải cho chúng con trong Đức Giêsu Kitô, tôi trung của Cha”. Trường hợp khác Phúc âm Gioan nói đến hoa trái là ở đoạn 12,4: hạt lúa mì rơi xuống đất phải thối đi mới sinh nhiều hoa quả. Thối đi theo Phúc âm Gioan là chết. Như vậy hoa quả chỉ phát sinh qua đau khổ và sự chết. Nói cách khác “tỉa sạch”. Cho nên, chúng ta phải sống dấn thân để dính liền với cây nho hầu mang nhiều hoa trái. Nhiều lần Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy điều ấy. Tình yêu đòi hỏi hy sinh và ngay cả sự chết. Sống nhung lụa không thể thực hiện được điều Chúa chỉ dạy, có chăng chỉ là môi miệng. Mùa này, nhất là trong thánh lễ này, chúng ta đang cử hành sự chết và sống lại cua Chúa Giêsu. Khi rước lễ chúng ta sẽ nhận được sự sống của cây nho để có khả năng hy sinh trong cuộc sống thường nhật. Tự nhận là thành viên của cộng đoàn theo Chúa Kitô không đủ. Phải chứng tỏ bằng việc làm, phản anh sức sống của cây nho trong cuộc đời mình. Hằng ngày qua bí Thánh Thể chúng ta nhận được ý chí và nghị lực để sống tình yêu “tỉa sạch” như Chúa Giêsu đã sống.
Bài đọc 1 cho chúng ta hay lúc đầu các môn đệ nghi ngại không dám chấp nhận Phaolô. Những điều họ biết về ông khiến họ sợ hãi. Ông đã mạnh tay bách hại các tín đồ, đồng tình với cái chết của Stephanô. Nhưng Barnaba đứng ra bênh vực cho ông, nói với các Tông đồ rằng Phaolô đã thực sự được nhìn thấy Chúa và đã mạnh dạn đến ương ngạnh rao giảng danh Chúa Giêsu. Phần Phaolô, ông đã minh chứng được ở Giêrusalem những điều ông đã làm ở các giáo đoàn khác trong miền cận đông. Đó là dạn dĩ rao giảng danh thánh Giêsu. Ông đã thực sự hối cải và đã tháp nhập vào cây nho thật của Thiên Chúa. Cuộc đời ông đã thay đổi hẳn và mang nhiều hoa quả tốt đẹp. Cái giá đương nhiên ông phải trả là chính sự sống mình, như Chúa Giêsu đã cam chịu trước ông. Cho nên chúng ta không thể từ chối cuộc đời Phaolô chỉ có thể sinh hoa trái khi tháp thập vào cây nho. Nhựa sống của cây nho đã chảy tràn sang Phaolô. Người tín hữu muốn sống có hiệu quả không thể làm khác hơn Phaolô. Ngoài ra là thất bại.
Trong tiến trình mang hoa kết trái, chúng ta luôn cần đến việc tỉa sạch. Lý do vì những thói hư tật xấu của con người cũ. Con người hoang dã của bản tính hư hỏng: Ghen tương, thù hận, thành kiến, tự tôn, kiêu ngạo, gian dối, lừa đảo, buông thả, trác táng, vô luân, ích kỷ… Những thói xấu đó làm tắc nghẽn dòng chảy tự do của sức sống Chúa Giêsu trong các linh hồn. Cho nên công việc tẩy sạch là cần thiết và bắt buộc. Cây nho không tỉa cành, chẳng bao giờ đâm bông kết trái. Do đó, đến mùa, người làm vườn phải tỉa sạch các gốc nho quí giá. Người tín hữu cũng vậy, luôn phải sửa mình ngõ hầu có thể phát triển trên con đường thiêng liêng. Ngay trong lòng Giáo hội cũng cần có việc “tỉa sạch”: Phân chia bè phái, cãi cọ thần học, giáo lý, nghi thức, chữ đỏ, tự ái cục bộ. Đúng ra trong Giáo hội Chúa Kitô không có cấp bậc quyền bính, mà chỉ có phục vụ. “Ai muốn làm lớn trong anh em thì hãy làm đầy tớ mọi người”. Lời Chúa vang vọng khắp các thế kỷ, nhưng cũng khắp các thời đại, luôn có chia rẽ, tranh giành, trù dập… Sức sống của Chúa Giêsu do Thanh Thần điều hành chứ không phải loài người. Nó mang thiên hình vạn trạng khác nhau, chứ không đơn điệu. Không người nào được phép cho mình ưu tiên trong Chúa Giêsu!
Cứ nhìn vào đời sống Giáo hội tiên khởi tức khắc chúng ta nhận thấy sự thật. Ơn Chúa Phục Sinh thúc đẩy họ bung ra. Bão táp không ngăn cản nổi, trái lại còn giúp Giáo hội gieo rắc hạt giống khắp nơi. Họ luôn một lòng một ý, chăm lo cầu nguyện, nghe giáo lý các Tông đồ. Nhưng khi có tranh giành quyền bính, là bắt đầu có chia rẽ bè phái. Sự chi rẽ lớn mạnh khi tranh cãi thần quyền giáo lý trở nên sôi nổi. Cho nên tiến trình tỉa sạch là cần thiết. Đúng lý, sức sống của ơn Chúa Phục Sinh giống như cây nho âm thầm lan rộng, chẳng cần võ khí, không cần tên lửa, máy bay, tầu chiến, xe tăng giúp đỡ. Nó tự lớn mạnh và toả lan. Khi gươm giáo được sử dụng thì liền có những hậu quả thảm khốc. Danh Thiên Chúa bị chế nhạo ngay trong hàng ngũ các đạo binh Thánh giá. Cờ lệnh, thập tự trên các khiên mộc trở nên dấu hiệu báng bổ Cây Nho đích thật và dịu dàng. Chúng là những cành nho khô, cần được cắt bỏ. Tác giả Luca trong bài đọc 1 gọi Phaolô bằng tên cũ Saulô, cái tên đã làm cho các tín hữu run sợ, thì bây giờ ông đã được tỉa sạch nhờ xem thấy Chúa và nghe Lời Ngài trên đường đi Đamát, ông can đảm rao giảng Danh Chúa Giêsu bằng lời nói và hành động yêu thương của mình. Ông đã thực sự liên kết với sức sống của cây nho.
Tóm lại, đòi hỏi “tỉa sạch” của Tin mừng hôm nay quả hợp lý, quan trọng và tuyệt vời. Nó cần thiết cho mỗi linh hồn, mỗi cộng đoàn tín hữu, tu trì và toàn thể Giáo hội để tiến triển trên con đường nên thánh. Không có “tỉa sạch” thì mọi chương trình, mọi dự phóng đều vô ích. Bởi sự sống cây nho còn bị ngăn cản thì làm sao sinh hoa kết trái? Dương dương tự đắc khong phải là thái độ của người theo Chúa Giêsu. Ngược lại, suy gẫm và sửa mình là công việc thường xuyên để khai thông nhựa sống cho tâm hồn, từ đó mới đưa đến mục tiêu. Bí tích thánh thể là phương tiện hiệu quả kết hợp chúng ta với Chúa Giêsu. Hãy đến ăn, uống bánh bởi trời và nước hằng sống, ngõ hầu tăng cường quyết tâm ở lại trong Cây Nho đích thực. Amen. Alleluia.
76. Thầy là cây nho các con là cành
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Bài đọc thứ nhất của sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại việc thánh Phaolô được Chúa Giêsu kêu gọi trở lại với Giáo Hội trên con đường đi Emmau để bách hại đạo Chúa. Chúa Giêsu đã biến cành cây (Phaolô) cho hợp với thân cây (Chúa Giêsu) thì sẽ biến thành cây sinh nhiều hoa trái. Từ con người phản nghịch trở thành con người của ơn thánh. Từ con người ghét đạo trở thành con người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.
Tại Phi Châu, có ông già vào thăm cha, thấy trong nhà cha có cây đèn đốt ngược (Bóng điện). Ông xin cha một cái. Cha cho ông cái bóng điện hư. Đưa về ông cột dây vào rồi treo lên trần nhà. Không thấy bóng sáng như ở nhà cha. Ông hỏi cha, cha cho biết: Nếu muốn bóng sáng thì phải có điện chuyển qua dây vào bóng đèn mới sáng được. Cũng như ông muốn là người có đạo, sống sốt sáng là nhờ có ơn Chúa thông qua ông khi chịu phép Rửa tội, ông mới trở nên người Công Giao, mới sống đạo, mới biết Chúa, mới được đầy sống sáng trong đức tin.
Muốn cho sinh hoa kết trái, cành nho phải hợp với thân cây nho, thân cây truyền sức sống bổ dưỡng để cành sinh hoa kết quả được. Về mặt tinh thần cũng vậy, muốn có sự sống là Chúa Kitô, phải hiệp thông với Chúa là nguồn, bằng cách năng chịu các Phép Bí Tích, năng đọc Sách Thánh, năng lãnh nhận lời hằng sống, năng xem lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa. Cũng như tấm bánh miến, phải do hàng trăm hạt lúa miến kết hợp lại, biến thành Mình Thánh Chúa. Cũng như giọt rượu nho do trăm ngàn trái nho ép thành chất rượu lại phải được truyền biến thành Máu Thánh Chúa.
Đừng như cây bầu, cây bí có nhánh lá xum xuê, có nhánh bị sâu đục chui vào thân, bề ngoài lành lặn nhưng bên trong sâu ăn làm dây leo bị khô héo. Giáo Hội là nhóm người tụ họp với nhau để cử hành các Bí Tích, có Chúa ở giữa. Giáo Hội cũng là nhóm người tụ họp nhau để cầu nguyện " Ở đâu có hai ba người tụ họp mà cầu nguyện thì Chúa ở giữa". Giáo Hội cũng là nhóm người hợp nhau để làm việc bác ái, việc thiện "Ai làm cho anh em tức là làm cho chính Chúa".
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn kết hợp với Ngài, bằng cách tụ họp nhau nhân danh Ngài, bằng cách lắng nghe lời Ngài, bằng cách chia sẻ Mình và Máu Ngài mỗi khi có thể, để chúng con liên kết với Ngài là thân cây nho, hầu chúng con được lãnh nhận hoa trái dồi dào.
77. Cây nho thật – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Các chương 15 và 16 không ăn khớp với ngữ cảnh, bởi vì làm thế nào có thể liên kết chúng với câu cuối cùng của ch. 14: “Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!”? Nhiều nhà chú giải cho rằng sau khi đã rời bàn ăn, Đức Giêsu lại tiếp tục trò chuyện với các môn đệ trong Nhà Tiệc Ly hoặc trong một phòng kế cận (Maldonat, Schanz, Knabenbauer, Calmes, Tillman). Nhưng ngưới ta không biện minh được là làm thế nào, sau một hiệu lệnh ra đi quá rõ như thế, mà lại còn có một cuộc trò chuyện khá dài (86 câu). Do đó, có những học giả khác nói rằng Đức Giêsu vừa đi vừa nói chuyen (Godet, Fillion, Wescott, Swete). Tuy nhiên, giả thiết này chỉ hợp lý nếu ở miền quê, chứ không phải trong những con phố nhỏ hẹp như trong thành Giêrusalem, mà người ta phải đi qua trước khi đến thung lũng Kítrôn. Đã thế, ngươi ta chỉ đến đó vào đầu ch. 18!
Hai giả thuyết này cũng như giả thuyết về một bố cục khác cho các ch. 1317 đều không đầy đủ và không được biện minh bởi truyền thống các thủ bản. Hợp lý nhất là giả thuyết cho rằng các ch. 15 và 16 là một phần do chính tác giả thêm vào sau (Lepin, Durand, Lagrange, Lebreton, Huby). Điều này hợp lý cả về nguyên tắc cả về thực tế: vì tác giả kể lại các kỷ niệm đã xa rồi trong thời gian, ngài cứ viết rồi lại bổ sung; do đó, bản văn có nhiều tầng soạn thảo.
Để hỗ trợ cho nhận định này, chúng ta ghi nhận rằng các ch. 15 và 16 trình bày ba đề tài chính: sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu và với nhau dưới hình ảnh cây nho (15,1-17); sự thù ghét của thế gian đối với các môn đệ và loan báo những bách hại (15,1816,4a); Đức Giêsu ra đi và ban các lời hứa cho thời gian Người vắng mặt (16,4b-33). Phần cuối cùng này có một đối tượng giống het ch. 14. Như vậy, đây là một bổ túc cho các kỷ niệm đã được bài diễn từ ghi lại.
Về phân đoạn 15,1-17 cũng thế. Nếu giáo lý về sự hiệp nhất của Chúa Cha với Chúa Con không triển khai rõ bằng trong ch. 14, thì đề tài sư kết hợp của Đức Giêsu với các môn đệ, được triển khai bằng những từ ngữ rất sống động, và màu sắc Thánh Thể do sự lặp lại liên tục các từ ngữ như karpos, “trái” (8 lần), agapê, “tình yêu” (4 lần), mênô, “ở lại” theo nghĩa thần bí (11 lần), phải được liên kết với bài Diễn từ Thánh Thể (6,27-56), dường như cho thấy rằng bản văn có lẽ đã được nói trước ch. 14, nhưng trong quan hệ chặt chẽ với việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể.
Còn khối 15,1816,4a, ngay ở đểm nói về vai trò của Đấng Bảo Trợ (15,26), tương ứng với lời loan báo các bách hại của Bài Diễn từ cánh chung theo các TMNL (Mt 24,1-23 //) và chứa những lời thuộc về các hoàn cảnh khác. Hẳn là tác giả TM IV đã thêm các lời đó vào bài diễn từ sau Tiệc Ly để làm trọn phần giáo huấn các môn đệ, giống như Mt đã gom vào Bài Giảng trên núi những giáo huấn khác nhau của Đức Giêsu liên hệ đến luật sống Kitô hữu (Guillemette).
2.- Bố cục
Bản văn đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn (15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu “đóng khung” (“Cha Thầy”: 15,1.8; “sinh hoa trái”: 15,2.8; “nhiều”: 15,2.8; “điều răn/truyền dạy”: 15,12.17; “để anh em thương yêu nhau”: 15,12.17).
Riêng phân đoạn có bố cục đồng tâm như sau:
A = 1-2
B = 3-4a
C = 4bcd
D = 5
C’= 6
B’= 7
A’= 8
3.- Vài điểm chú giải
- người trồng nho (1): Dịch sát geôrgos là người đào xới đất đai, người làm vườn.
- chặt đi … cắt tỉa (2): Trong tiếng Hy Lạp, có một kiểu chơi chữ ở đây do hai động từ có cùng âm điệu (paranomasia): airein (chặt) và kathairein (tỉa). Tuy hai động từ được dùng ở đây cho việc chăm sóc cây nho, dường như airein với nghĩa là “lấy đi, mang đi (= giết) và kathairein với nghĩa là “thanh luyện” được chọn ở đây không phải vì phù hợp với việc trồng nho, nhưng vì phù hợp cho những con người, đó là Đức Giêsu và các môn đệ.
- cắt tỉa … được thanh sạch (2-3): Ở đây cũng có một kiểu chơi chữ giữa katharei, “Người cắt tỉa” và katharoi, “được thanh sạch”.
- lời (3): Đây là toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu (x. Ga 5,38; 1 Ga 2,24). Chính giáo huấn của Người, một khi được lắng nghe và đón nhận, làm cho các môn đệ nên thanh sạch. Chính lòng tin gắn bó với lời giáo huấn của Đức Giêsu đã liên kết họ với cây nho và làm cho họ nên thanh sạch.
- ở lại (4): Động từ “ở lại” (menô) là động từ chính yếu của ch. 15 và của cả TM IV. “Ở lại” có nghĩa là bám chắc nhưng năng động vào những gì đã được ban cho trong quá khứ, nắm lấy nó trong hiện tại và nhìn tới tương lai theo chiều hướng của nó. Có thể theo nghĩa này mà hiểu các câu nói về người tín hữu phải “ở lại” trong lời (8,31), trong tình yêu (15,9-10), trong ánh sáng (1 Ga 2,10), trong Thiên Chúa (1 Ga 4,13-16). Còn với Thiên Chúa hoặc với Đức Giêsu, “ở lại” có nghĩa là bền bỉ ban ơn cứu độ cho các tín hữu (x. 1 Ga 2,27; 3,9.15; 4,12-15). Do trung thành, người tín hữu gắn bó cuộc đời với Đức Giêsu Kitô và thấy rằng nơi Người, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho loài người mãi mãi. Sự trung thanh này cũng hàm ý một sự tương giao năng động và sự hiểu biết tiệm tiến.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Cho tới đây, trong bài Diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã đặc biệt cho thấy là Người không để các môn đệ phải cô đơn và đã nói những gì họ phải làm để ở lại kết hợp với Người theo nhiều cách. Bây giờ Người lưu ý họ về sự kiện là, sau khi Người đã được nâng lên, họ sẽ phải mang hoa trái, sẽ phải có một nhiệm vụ truyền giáo. Người cho họ biết họ cần gì để chu toàn được nhiệm vụ này.
Cấu trúc của bản văn 15,1-8 với trung tâm là a. 5 (D): “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”. Bản văn nêu bật đề tài trung tâm là nhu cầu hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ để sinh nhiều hoa trái. Quả thật Dụ ngôn Cây nho thật tập trung vào việc mang hoa trái (15,2.4.5.8.16). Chỉ có trong hai đoạn khác, Đức Giêsu mới cũng nói đến hoa trái, đó là trong những đối thoại với các môn đệ. Khi Người nhấn mạnh trên sự kiện là được người Samari đón tiếp và nhận biết, Người đã nói với các môn đệ: “Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi (= trái) để được sống muôn đời […]. Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra” (4,36.38). Khi lần đầu tiên một vài người Hy-lạp đến tìm Ngươi, Người đã giải thích cho các môn đệ: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (12,24; x. 15,5.8). Trong cả hai trường hợp, bản văn nhắm đến sự kiện là cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu tăng trưởng và đi xa hơn vòng các môn đệ hiện thời. Đức Giêsu là hạt lúa chết đi để sinh nhiều hoa trái. Nhưng Đức Giêsu cũng là cây nho mà các cành phải mang những trái tốt tươi. Trong dụ ngôn đầu, Người nói đến tầm quan trọng của cái chết của Người để lôi kéo các tín hữu đến với Người (x. 12,32); trong dụ ngôn thứ hai, Người cho thấy hoa trái của các môn đệ Người hệ tại điều gì.
Nói rằng bản văn nhấn mạnh trên việc “mang hoa trái”, chúng ta thấy điều này qua ba lần lặp lại cụm từ “nhiều hoa trái” (karpon pleiona / polyn pherein) ở đầu (c. 2), ở giữa (c. 5) và ở cuối (c. 8), tức là ở yếu tố đầu, yếu tố trung tâm và yếu tố cuối của cấu trúc đồng tâm (x. cả “sinh [mang] hoa trái” ở cc. 2ab.4b). Để sinh hoa trái, cần phải kết hợp (mênô) với Đức Giêsu: điều này được khẳng định thật rõ ràng bằng hai cách: cách tích cực (“ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em”: c. 4a; “ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy”: c. 5b; “nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em”: c. 7ab) và cách tiêu cực (“nếu không ơ lại [gắn liền] với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy”: c. 4cd; “ai không ở lại trong Thầy”: c. 6a). Hệ luận của việc không ở lại trong Đức Giêsu-cây nho, đó là cành ấy không sinh hoa trái (c. 4bc) và se bị chặt đi (c. 2a), bị quăng ra ngoài và bị đốt đi (c. 6bcde). Trong khi các cành không sinh hoa trái thì bị cắt đi (airei: c. 2a), các cành mang hoa trái được Chúa Cha là người trồng nho (geôrgos) cắt tỉa (katharei: c. 2b) nhờ lời của Ngài (logos: c. 3b) mà Đức Giêsu đã nói ra. Trong thực tế, chính là lời hoặc mạc khải của Đức Giêsu đã thanh luyện các môn đệ (c. 3; x. 13,10). Sự hiện diện thường trực hoặc sự ở lại (menein) của lời Người (ta rhêmata) trong các môn đệ là một điều kiện để cho lời cầu nguyện của họ được nhận (c. 7) bởi vì chính mạc khải của Đức Giêsu đã được đón vào trong tim các môn đệ, làm cho con tim họ đồng thanh tương ứng với con tim của Đức Giêsu và của Chúa Cha, khiến cho lời thỉnh cầu của họ sẽ phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Các môn đệ ấy, giống như các cành khỏe mạnh thường xuyên hút được nhựa sống từ cây nho, sẽ sản sinh hoa trái dồi dào và tôn vinh Chúa Cha (c. 8), là người trồng nho (c. 1).
+ Kết luận
Như thế, hình ảnh cây nho và các cành nho cho thấy sự ở lại thâm sâu và sự hiệp thông thường trực giữa Đức Giêsu và các môn đệ chân thật của Người, đồng thời nêu bật dây liên kết bên trong bằng việc mang hoa trái. Giống như cành nho, vì liên kết với cây nho, được thông dự vào sự sống của cây nho, người tín hữu, nhờ gắn bó với Đức Kitô, được thông dự vào sự sống chân thật, là sự sống của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự thông dự này bó buộc họ phải sống và hành động theo nếp sống mới đã được Đức Giêsu mạc khải cho biết.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đoạn văn này trích từ bài Diễn từ thứ hai của Bữa Tiệc Ly. Muốn đọc và nhận được các ánh sáng phong phú, nên đăt bản văn vào trong bầu khí của cử hành Thánh Thể là trung tâm của Bữa Tiệc Ly. Lời chúc phúc và thánh hiến rượu nhắc đến ẩn dụ cây nho. Cựu Ước đã dùng hình ảnh cây nho mà ví Dân Thiên Chúa. Ở đây, Đức Giêsu muốn nói rằng Người thực hiện nơi bản thân Người toàn bộ sự tuyển chọn, sự ân cần và phương tiện cứu độ mà xưa kia được gán cho Dân Chúa. Tư tưởng chính của bản văn tập trung vào sự kết hợp ngay ở trần gian này giữa ki-tô hữu và Đức Kitô.
2. Bất cứ kết quả phong phú nào về truyền giáo của các môn đệ đều hoàn toàn tùy thuộc việc họ được liên kết với Đức Giêsu. Bất cứ toan tính nào nhắm đạt tới một kết quả mà lại không cần tới Người thì chỉ có thể thất bại. Không có Người, các môn đệ không thể làm gì được. Do đó, họ phải tìm cách ở trong thế liên kết với Người ngày càng chặt chẽ và vưng chắc hơn. Sự cần thiết này càng lớn do chỗ chính Thiên Chúa quan tâm đến việc họ mang hoa trái và sẽ đối xử với họ tương ứng theo đó (c. 2).
3. Tất cả tùy thuộc sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu. Làm thế nào để họ có thể trở thành những cành nho cứ lớn lên mà vẫn liên kết với cây và được phong phú nhờ dòng nhựa của cây? Các môn đệ ở lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong họ (c. 7) và nếu họ tuân giư các giới răn của Người (15,10). Tất cả phát xuất từ Đức Giêsu: các lời và các giới răn phát xuất từ Người. Nhiệm vụ của các môn đệ là đón nhận cách đúng đắn sáng kiến này của Đức Giêsu. Như thế, họ được liên ket với Người và sẽ có thể sinh hoa trái.
4. Trong cách Thiên Chúa hướng dẫn người tín hữu chân thành, mọi sự được quy hướng đến chỗ sinh hoa kết trái, như là dấu chứng tỏ người ấy đã đạt được mục tiêu của đời mình. Khi sống trong Đức Kitô, người ki-tô hữu được nuôi dưỡng bằng giáo huấn, gương sáng, Lời, ân sủng bên trong, Thánh Thể của Người. Tuy nhiên, có khi do hứng khởi vì những ý tưởng, những dự phóng, hoặc có khi chỉ là do thiếu sang suốt, do trí tuệ yếu kém, do ý chí yếu đuối, v.v., người tín hữu lạc vào một sai lầm hay rơi vào một thất trung nào đó. Chính khi đó, vì nhắm tới hoa trái, Chúa “cắt tỉa” linh hồn và con tim con người ấy, thanh luyện người ấy, xén đi những gì đang chiếm các năng lực của người ấy cách vô ích. Khi đó, chắc chắn có đau đớn. Nhưng làm sao tránh khỏi hy sinh, khi muốn bước theo Đức Kitô và ở lại với Người? Nếu đôi khi Chúa Cha dường như cắt xén vào xác thịt chúng ta, trong linh hồn chúng ta, chúng ta hãy cứ nuôi dưỡng mình thêm bằng dòng nhựa của Đức Kitô và giữ vững can đảm vì nhìn tới các hoa quả đầy hứa hẹn.
5. Cứ tiếp tục suy tư từ bài dụ ngôn Cây nho thật, chúng ta biết rằng cây nho sinh trái ở cành. Các cành không có đó để trang điểm cho cây nho. Chính các cành sai trái chứng tỏ sức khỏe và sức sống của cây nho. Nhưng “sinh nhiều trái” không phải là kết quả của một nỗ lực của con người; đó là kết quả của niềm tin sinh động đặt nơi Đức Giêsu. Tuy nhiên, toàn thể tiến trình lại là công việc của người trồng nho, là Chúa Cha.
78. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
CÂY NHO VÀ CÁC MÔN ĐỆ
Diễn từ của Chúa Giêsu mở đầu bằng dụng ngữ “Thầy là” được lặp lại ở câu 5. Như ở chương 10 về vị mục tử, đó không phải là một sự so sánh (thiếu phụ ngữ so sánh “như”); đó là một ẩn dụ, hình ảnh qua đó một từ ngữ (ở đây là cây nho) được đem ra khỏi lĩnh vực thông thường để sử dụng vào trong một lĩnh vực khác của diễn từ (ở đây là căn tính của Chúa Giêsu).
Ẩn dụ này hình thành một phần từ những yếu tố quen thuộc của người Do Thái (Chúa Cha như người trồng nho) và từ nhiều yếu tố mới mẻ khác như việc Chúa Giêsu quả quyết Người là “cây nho thật”. Quả vô ích khi tìm kiếm những so chiếu trong thế giới ngộ giáo (nhiều người muốn nhận thấy ở đây mot ám chỉ đến cây sự sống, đôi khi được trình bày như một cây nho). Tốt hơn là nên quay về với Kinh Thánh nơi thường sử dụng hình ảnh cây nho để nói về Israel (Is 5,1-7; 27,2-5; Gr 5,10; 12,10-11).
Tuy nhiên trong Tin Mừng của Gioan, hình ảnh quen thuộc với thính giả, vượt xa ẩn ý của Kinh Thánh: Chúa Giêsu là cây nho thật (cũng cách diễn tả này trong Gr 2,21 trong bản dịch Hy Lạp), và các cành nho phát triển nhờ Người. Cành nào không sinh trái thì cần phải chặt bỏ. Trong bối cảnh của đêm sau cùng, ta thường nghĩ đến Giuđa là kẻ thuộc về thế giới tối tăm (13,2.27). Thế nhưng dụng ngữ căn bản này (loại trừ sự hoán cải như trong Mt 3,10) chắc chắn có thể áp dụng cho mọi Kitô hữu thuộc Giáo Hội của Gioan mà lại đoạn giao với cộng đoàn như “những tên phản Kitô không phải là người của chúng ta” (1Ga 2,19).
Không nên xem như một cách miêu tả hỏa ngục và các hình phạt của nó trong việc so sánh kẻ không “ở lại trong Chúa Giêsu” với những “cành nho bị quăng vào lửa cho nó cháy đi”. Tuy nhiên viễn ảnh đầy đe dọa và diễn đạt một nhị luận không sai biệt giữa các môn đệ trung thành với những kẻ xa lìa Chúa Giêsu. Đối với người chưa tin, Gioan sử dụng cũng một hình ảnh như ông sử dụng để chỉ Thủ Lãnh thế gian này: “nó sắp bị tống ra ngoài” (12,31 và 15,6). Cần phải đặt định các đoạn này vào trong trào lưu cố tình nhị luật của một số cộng đoàn Kinh Thánh sơ khai, phải đương đầu với nhiều cuộc khủng hoảng nội bộ. Ngày nay, độc giả nên ý thức về những hậu quả không thể tránh khỏi từ những lựa chọn của mình. Lời mời gọi hoán cải luôn luôn hien diện trong đề xuất của Tin Mừng.
Như vậy, đối với Gioan, sinh hoa trái có nghĩa là trở nên môn đệ, nghĩa là gắn bó với Chúa Giêsu trong đức tin và đức ái, trong tư thế hoán cải liên lỉ, một đức ái trở thành dấu chỉ cho thế gian do bởi chất lượng và sức mãnh liệt của nó. Câu 3 lặp lại thảm cảnh của đêm sau cùng khi ám chỉ đến việc thanh tẩy (việc rửa chân) được trình bày ở chương 13.
Các câu 6 lặp lại phần dẫn, dưới hình thức một sự bao hàm. Tuy nhiên ở đây chiều kích Kitô được nhấn mạnh: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”. Giữa lời khai mào bài trần thuật nói về “cây nho thật” và phán quyết cuối cùng này, ta có thể đoán được những dấu vết của cuộc bút chiến chống lại những kẻ (Do Thái giáo hay Kitô giáo) muốn tìm nguồn mạch sự sống ngoài Chúa Giêsu. Đối với tín hữu hiện thời, được mời mọc bởi biết bao đề nghị đầy ý nghĩa, lời này cần phải là một cột moc không thể xóa bỏ. Nếu quả thật Chúa Giêsu là Lời của Thiên Chúa, đến đưa sự mặc khải tới đích điểm, thì đối với các tin hữu, Người cần phải là sự quy chiếu bắt buộc (không độc hữu không loại bỏ đối với những kẻ thành tâm gắn bó với các trào lưu tôn giáo và nhân bản khác).
79. Chú giải của Noel Quesson.
Thầy là...
Như Chúa nhật trước, chúng ta sẽ nghe Chúa Giêsu nói Người là ai. Chúng ta chú tâm lắng nghe Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải bằng những từ long trọng này: Con người, dân thành Nagiarét, con của Maria... dám dùng tên Chúa "Ta là Đấng Hằng Hữu” để tỏ cho chúng ta biết Ngài là Đấng Tự Hữu.
Cây nho thật.
Đây là một kiểu nói vô cùng táo bao đối với những thính giả đầu tiên của Chúa Giêsu. Trong toàn bộ Thánh Kinh hình ảnh "Cây nho" tượng trưng cho "dân Israel", bây giờ Chúa Giêsu coi như là một việc đương nhiên, Người tự cho phép mình chiếm chỗ của "cả một dân tộc". Người áp dụng cho chính bản thân Người nhưng gì đã được nói cho Israel. Và Người dám nói rằng chính Người là cây nho đích thật. Cây nho kia chỉ là một phác họa, một chuẩn bị, một "hình ảnh". Dân Israel xưa chỉ là mot sự chuẩn bị cho "dân Israel mới" là Giáo Hội, là chính Chúa Giêsu. Và không phải Chúa Giêsu chỉ đưa ra lời khẳng định đáng ngạc nhiên này. Một lần Người đã nói: Người là bánh "đích thực" của sự sống (Ga 6); đối với Maria, Người đã nói Người là Mục Tử "đích thật" (Ga 10) đối lại với những mục tử giả và những kẻ làm thuê.
Vậy thì một lần nữa, con người bình thường, xuất thân từ một làng quê nhỏ bé trong một tỉnh của đế quốc La Mã, con người không quan trọng đó sẽ chịu chết trong vài tuần nữa, bị xã hội loại trừ, bị các môn đệ phản bội và chối bỏ, bị đối thủ khinh khi chế nhạo, bị mọi người bỏ rơi, Con Người đó dám tự cho là trung tâm của thế giới va của lịch sử – Có đúng không? hay Người chỉ là một con người?
Và Cha Thầy là người trồng nho...
Cha của Người là ai? Người đang nói về ai thế? Chúng ta quá quen với những kiểu nói này. Thực ra những kiểu nói trên diễn tả một điều nào đó không bình thường nhưng là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử những tương quan giữa con người và Thiên Chúa. Dường như Chúa Giêsu đã luôn luôn gọi Thiên Chúa là "Abba", từ ngữ Aramên để gọi "Cha”. Kiểu nói này không phải của một người đàn ông trưởng thành mà là của một con trẻ. Kiểu nói trìu mến mà thánh Têrêsa Lisieux đã diễn tả Thiên Chúa, “Cha tốt lành của con". Vào thời thượng cổ, trong nền văn chương của Do Thái nói về nghi lễ phụng vụ cũng như về đời sống cá nhân, người ta không tìm được một cách cầu nguyện dùng tiếng "Abba" để nói về Chúa. Vì thế lời nói khác thường và thân thiện này đã gây ra sự khó chịu và nên cớ vấp phạm đối với những người đồng thời của Chúa Giêsu, lời này thường được dùng trong tiếng Aramên bởi những cộng đồng tiên khởi dùng tiếng Hy Lạp (Mc 14,36; Mt 26,39; Lc 22,42; Ga 14,31; Rm 8,15; Gal 4,6).
Vâng, trong toàn bộ Kinh thánh "Người trồng nho" của Israel chính là Thiên Chúa, hình ảnh truyền thống này diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với dân của người (Gr 2,4; Ed 15,2; Os 10,1; Tv 80,9).
Cành nào gắn liền với thầy mà không sinh hoa trái thì người cắt tỉa cho nó ra nhiều quả hơn.
Sự so sánh của người trồng nho rất thực tế: Mùa đông ông ta cắt bỏ trành khô và đốt, ông tỉa một phần để cô đọng nhựa làm cho sinh nhiều trái hơn. Một cây nho không được cắt tỉa chỉ sinh lá -Những người trồng nho nói rằng: Khi người ta cắt tỉa cây nho cây này "khóc". Trước khi vết cắt được lành, một số nhựa dồi dào chảy ra. Cũng vậy, gặp cơn thử thách lòng chúng ta cũng khóc khi bị đau khổ.
Người nào đã đi thăm một vườn nho vừa được cắt tỉa, sẽ ngạc nhiên về những cành nho bị "hy sinh" để cây nho cho "nhiều quả hơn". Nếu không biết, ta có thể phê bình người trồng nho "Tại sao lại có nhiều đau khổ như thế này trên thế giới". Thưa ông trồng nho, tại sao ông cắt bỏ nhiều cành thế? Tại sao ông làm cây chảy máu? Hãy đợi đến mùa thu hoạch lúc đó anh sẽ hiểu.
Và Chúa Giêsu, cây nho đích thật được Chúa Cha yêu mến đã bị "cắt tỉa" trước tiên. Oi sự cắt tỉa bi thảm thay! ôi; cây thập giá bên ngoài bị tàn phá, nhưng mang lại: "nhiều quả hơn".
Đó là hình ảnh công việc của Thiên Chúa trong Giáo Hội và trong chúng ta, Người tỉa, xén, thanh tẩy. Việc này gây đau khổ, nhưng đây là quy luật của cuộc sống, để cho mùa thu hoạch tốt đẹp hơn.
Nhưng anh em được thanh sạch rồi nhớ lời Thầy đã nói với anh em.
Đáng lẽ ra khi tỉa xén, người tín hữu phải lắng nghe lời Chúa để khám phá được sự phong phú của sự thanh tẩy này. Người nào chấp nhận bị tỉa xén theo gương Chúa Giêsu và kết hợp với Người, người ấy có thể tìm thấy ý nghĩa trong cơn thử thách của mình. “Hãy luôn luôn kết hợp với Thầy như Thầy luôn kết hợp với anh em ". Lời Chúa trên đây làm cho tín hữu khám phá được rằng, đau khổ kết hợp họ với Chúa Giêsu và làm cho họ ở "trong người".
Động từ "ở" sẽ được dùng trong 6 câu sau này. Hình ảnh thật cảm động: Chung ta có thể "ở” trong Chúa Giêsu, và Người "ở" trong chúng ta, chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu như những nhánh trong một cây nho, được tháp nhập vào Người cách sống động: Từ Chúa Kitô đến chúng ta, chỉ có một dòng nhựa lưu chảy, một sự sống duy nhất truyền lan mà thôi.
Chữ "ở" này không chỉ có nghĩa là ở lại, cư ngụ, nhưng là sống ‘với’, đây cũng là một đề tài xuyên suốt Thánh Kinh. Ước vọng lớn nhất của con người là thấy Thiên Chúa ở với dân của Người: "Người đã dựng lều trong trại của chúng ta, giữa những lều du mục của chúng ta". "Người đã xây một nhà trong thành phố chúng ta, giữa những nhà của chúng ta". Nhưng ở đây, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Không chỉ là một sự đối diện mà là "Người này ở nhà người kia". Một mối liên quan mới kết hợp con người với Thiên Chúa, một sự mật thiết hỗ tương. Chúa Giêsu dùng lại kiểu nói xưa của Giao ước: "Các ngươi sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi". Nhưng Chúa Giêsu đào sâu hơn bằng cách nói về một sự kết hợp hỗ tương: “Anh em hãy ở trong Thầy như Thầy ở trong anh em". Khi nghe lời này, chúng ta phải nghĩ đến phép Mình Thánh Chúa, Bí Tích tuyệt hảo của giao ước, dưới biểu tượng bánh mà chúng ta dùng hằng ngày. Bí tích này làm cho "Chúa Giêsu hiện diện” trong nội tâm sâu kín nhất của chúng ta. Chúa Giêsu đã dùng cách nói này trong bài diễn văn nói về bánh hằng sống (Ga 6,56): "Kẻ nào ăn thịt Ta và uống Máu Ta sẽ ở trong Ta, và Ta sẽ ở trong người đó". Dựa vào mạc khải này, chúng ta hãy cầu nguyện không ngừng.
Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không kết hợp với Thầy.
Người nói quá đáng chăng: Đòi hỏi quá chăng! Người xác quyết: Kết hợp với Người là một điều cần thiết để được sống. Người cũng nói rằng, kẻ nào không kết hợp với Người thì "đã chết", như cành khô chỉ còn đem vào lửa. Con người không có Thiên Chúa sẽ đi về đâu? Nếu bạn hỏi, đa số người ta sẽ trả lời: Cuộc sống của họ sẽ chấm dứt bằng cái chết và sư hư không. Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu có một tư tưởng căn bản hơn: Người không nói về tướng lai nhưng nói về hiện tại.
Không có Thầy, anh em không làm được gì. Ai không kết hợp với Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo, người ta nhặt lấy, ném vào lửa cho nó cháy đi.
Khi nghe, con người có thể khước từ sứ điệp này: Con người được tự do - Nhưng nguy hiểm thay. Con người không thể làm giảm nhẹ Tin Mừng được. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tự đặt mình lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, và đối với Chúa Giêsu, sự lệ thuộc này giải thoát chúng ta khỏi tất cả những gì ngăn cản chúng ta sống". Kẻ nào khước từ không kết hợp với Chúa Giêsu sẽ có "một cuộc sống" rất tầm thường, cuộc sống của con người hay chết, một cuộc sống mà nếu chúng ta trách Chúa về cuộc sống đó chúng ta sẽ có lỗi (các bạn hãy nhìn xem sự đau khổ vô lý của kiếp người này). Chúa đã khong tạo dựng chúng ta để sống "một cuộc sống quá tầm thường" mà cái chết sẽ thắng. Chúa tạo dựng chúng ta để sống "cuộc sống thần linh của Người".
Thầy là Cây nho và anh em là Cành nho. Ai luôn kết hợp với Thầy và Thay luôn kết hợp với người ấy sinh hoa kết quả dồi dào.
Sinh hoa kết quả: Kiểu nói này được lăp lại 6 lần trong vài dòng. Đó là những gì của Chúa Giêsu đã đề nghị với nhân loại. Thiên Chúa không khinh thường con người. Người không đặt ra một cái bẫy để hại con người khi tạo dựng nên con người. Nếu chúng ta suy nghĩ những lời này cách nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ hiểu được sâu hơn là khi chỉ đọc phớt qua, Chúa Giêsu không tự xem mình là "thân cây" nho (như vài bản Tin Mừng đã dịch sai) mà trên cây đó mọc ra những "cành" là chính chúng ta. Người tự ví mình như "Toàn cả Cây nho", mà chúng ta là một phần. Thánh Phaolô, khi suy niệm về hình ảnh cây nho, và về Bí Tích Thánh Thể, sẽ nói rằng chúng ta là "chi thể của Thân mình Chúa Kitô”.
Chúng ta là một phần của Thiên Chúa, một phần của Chúa Giêsu, chúng ta là "con trong Ngôi Con", là những người sống trong Đấng hằng sống duy nhất. Người ta nói rằng tại Nagiarét có một cây nho, mỗi năm sinh ra được từ 350 đến 370 chùm.
Anh em sinh hoa kết quả dồi dào và trở thành môn đệ của Thầy, thì đó là tôn vinh Cha của Thầy.
Thiên Chúa Ngôi Cha là nguyên thủy và chung cuộc của đời sống Cây Nho. Chính Người là người trồng nho, tỉa bớt những cành không sinh quả và cắt xén những cành tươi tốt. Chính Người sẽ vui mừng vào mùa thu hoạch đang được chuẩn bị. Đối với những người có đức tin, đó chính là huyền nhiệm của tình yêu.
80. Chú giải của Fiches Dominicales.
CÂY NHO THẬT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Từ Israel, một dân đã không sinh hoa kết quả như mong đợi.
Với nông dân vùng Palestine thời đó. Cây nho là tài sản quí giá nhất. J.P.Charlier cảnh giác: "Để có một ý niệm về cây nho ở Israel và trong những vùng phụ cận nắng cháy, chiêm ngắm những vườn nho vùng Bourgogne hay Bordeaux chẳng ích lợi gì. Những gốc nho ôn đới chẳng có gì giống với gốc nho vùng Palestine vốn lớn như cổ thụ xum xuê cành lá chứ không phải là những thân nho được cắt tỉa kỹ lưỡng và nhỏ xíu. Phải biết rằng cả một thang lầu trong đền thờ thần Diana ở Ephêsô tạc từ một goc nho duy nhất mang về từ đảo Chypre. Nếu không nhớ đến vẻ oai nghi hùng tráng đó, sẽ không tài nào hiểu nối một thành ngữ rất thông dụng trong Thánh Kinh "nghỉ dưới gốc nho" (1V 4,25; Mk 4,4). "Đức Giêsu ở giữa dân Người" ("Đọc Thánh Kinh" số 78, trang 54).
Chẳng lạ gì cây nho, đã trở thành biểu tượng của sự phú túc và sự hào phóng của Thiên Chúa, rất thường được Kinh Thánh dùng như hình ảnh để chỉ Dân Thiên Chúa đã chọn và đã xếp đặt những mối liên hệ yêu thương và âu yếm. Ôsê đã chẳng miêu tả Israel như một cây nho xum xuê nặng trĩu quả đó sao? (Hs 10,1) Thánh vịnh 79 đã chẳng nài van Chúa cho cây nho mà Chúa đã bứng từ Ai Cập và trồng trên thửa đất đã cày cuốc cẩn thận, "để nó làm đẹp cho xứ sở và vươn cành ra đền tận biển khơi" đó sao? (Tv 79,10-12). Riêng Israel, trong bài ca cây nho thời danh được Thiên Chúa yêu thương dành cho mọi ưu đãi, đã chẳng tuyên xưng: "Tôi sẽ hát cho bạn nghe bài ca của người yêu dấu với cây nho của mình (Is 5,1) đó sao?
2) Đến Đức Giêsu, “cây nho thật”.
Nếu một lần nữa, Đức Giêsu trở về với biểu tượng cây nho, đó là để thực hiện một chuyển vị táo bạo: Người tuyên bố: "Thầy là cây nho thật, các con là cành nho”.
- Khi xưng mình là "cây nho thật”, Đức Giêsu tự giới thiệu mình là người đến để đáp lại sự mong đợi của Thiên Chúa, người mà vì yêu đã tự nguyện hiến ban sự sống của mình, nên đã sinh hoa trái "làm tôn vinh Chúa Cha".
- Những chăm nom săn sóc của "Chúa Cha chủ vườn nho" đối với cây nho cho thấy sáng kiến của Chúa Cha, tình yêu ưu ái Người dành cho Đức Giêsu, Những mối dây duy nhất nối kết Chúa Cha với Chúa Con.
Còn về những "cành nho-môn đệ", phát xuất từ thân nho, chỉ có thể được nuôi dưỡng bằng dòng nhựa chảy ra từ thân nho, chỉ có thể được sinh động nhờ sự sống của thân cây, để sinh hoa ket quả làm tôn vinh Chúa Cha, nếu chúng "ở lại" trong Người.
“Ở lại trong Người”, thực vậy, đó là điều kiện không thể thiếu đối với sự sống của các ‘môn đệ-cành nho’, Người quả quyết: “Vì ngoài Thầy, các con không làm gì được”. "Ở lại trong Người" là kết hiệp với Người bằng những mối dây tình yêu và sự sống, là nhờ Người mà được dẫn đến kết hiệp với Chúa Cha (xem Ga 6,56 và 14,23). Tách mình khỏi Thân Nho thật, xa lìa Đức Giêsu, là dan thân vào chỗ chết: "Nếu ai không ở trong Thầy, người ấy sẽ giống như cành nho bị ném ra ngoài và chúng khô héo đi. Người ta sẽ lượm những cành khô và liệng vào lửa và chúng sẽ cháy”.
Sự gắn bó với Đức Kitô, nếu đung, nếu thực, sẽ được phiên dịch ra thành những xử sự cụ thể. Sự gắn bó ấy được kiểm chứng nơi những hoa trái phát sinh: "Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái”. Thử thách, bắt bớ sẽ là những trắc nghiệm về lòng son sắt và bảo đảm cho hoa trái dồi dào.
Như thế, vinh quang của Chúa Cha, đã biểu lộ ra nơi Đức Giêsu, cũng sẽ biểu lộ ra nơi những ai trổ sinh hoa trái bác ái nhờ kết hiệp, gắn bó với Đưc Giêsu: "Điều làm vinh danh Cha Thầy, là các con sinh nhiều hoa trái: như thế, các con sẽ là môn đệ của Thầy”.
Nên, X.Léon-Dufour đã cảm nhận: "Môn đệ không chỉ là người thụ hưởng hoạt động của Chúa Con, nhưng còn tham dư vào hoạt động đó, là đồng tác giả của những kết quả đó. Kết quả đó chưa có, sẽ có, nếu các tín hữu kết hiệp sâu xa với Đức Giêsu. Kết quả đó sẽ làm vinh danh Chúa Cha” (Sđd, trang 168).
Việc đưa hình ảnh Cây Nho vào diễn từ sau bữa Tiệc ly củng cố thêm âm hưởng Phụng Vụ và Thánh Thể của nó. Cần phải liên hệ hình ảnh này với lời Đức Giêsu ở Ga 12,24: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không mục nát đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó mục nát đi, nó mới sinh nhiều bông hạt”. Chỉ có hai đoạn Tin Mừng Gioan (12,24 và 15,5) nói rõ: “sinh nhiều hoa trái”. Như thế chủ đề cây nho và chủ đề hạt lúa bổ túc cho nhau và là nền tảng của những yếu tố chính yếu trong bữa tiệc Thánh Thể: rượu và bánh. Phải chăng Gioan đã chủ ý tìm kiếm hiệu quả này? Dù sao, hình ảnh Cây Nho, được tuyên xưng trong những buổi quy tụ có tính cách phụng vụ vào những thế kỷ đầu tiên cũng như trong các buổi quy tụ ngày nay, vẫn mời gọi các Kitô hữu thấu hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm mà họ đang sống khi cử hành bí tích Thánh Thể.
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Hoa trái xum xuê”
(Mgr. L. Daloz, trong "Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người", DDB, trang 192).
Nếu ta gắn bó với Người, Đức Giêsu sẽ cho ta hoa trái xum xuê như Người đã hứa: "Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh hoa trái xum xuê”. Đời ta có thể nên phong phú nhờ sự phong phú của Thiên Chúa. Ta nên những môn đệ đích thực và ta làm vinh danh Chúa Cha. Lời cầu của ta cũng tương tự lời cầu của Đức Giêsu, Người biết Chúa Cha luôn nhận lời Người: "Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, các con hãy xin điều các con muốn và các con sẽ được như ý”. Ta có thể xin gì khác hơn thánh ý Chúa Cha? Người môn đệ đích thực của Đức Giêsu không đơn thuần là kẻ đi theo Người. Trong anh ta, chính Đức Giêsu ngư đến sống đời sống của anh, biến đổi đời sống ấy và làm cho nên phong phú. Thánh Phaolô nói: "Không phải tôi sống, chính Đức Kitô sống trong tôi”. Môn đệ là người "mang Đức Kitô”. Nếu môn đệ trung tín với lời Người, anh sẽ nối dài sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu trên trần gian. Tim anh sẽ đập cũng một tình yêu đó, đời anh sẽ dâng lên Chúa Cha cũng niềm vinh danh đó. Lời anh sẽ loan báo cũng Tin Mừng đó. Cử chỉ anh sẽ phiên dịch cũng ơn cứu độ đó. Bây không phải là bắt chước: nhưng là một chuyển biến sâu xa. Chính Thiên Chúa sinh hoa kết quả xuyên qua hoạt động của anh. Chẳng đời nào ta dám tưởng tượng ra một sự thân thiết thâm sâu dường ấy! Nên Đức Giêsu đã phải nhấn mạnh, nhắc đi nhắc lại để hiểu hơn: “Ngoài Thầy, các con không làm được gì”. Ta rất dễ bị cám dỗ chiếm hữu lời Người, dùng lời Người để tự mình hướng dẫn đời sống mình, để tự ta thấy trước những hoa trái ta muốn có. Thực ra, nếu ta là những môn đệ đích thực, thì chính Lời Đức Giêsu sẽ nắm lấy ta, sẽ cắt tỉa ta. Khi ấy, cuộc đời ta sẽ biến đổi, nhựa sống của cây nho thật sẽ căng phồng lên ở các cành nho cua ta và sản sinh trong ta hoa trái xum xuê".
2) “Thánh Thể, bí tích gắn bó với cây nho của Chúa”.
("Sách lễ Emmaus các ngày Chúa nhật", trang 546-547).
Qua việc rước lễ mùa Phục sinh, Giáo Hội mời gọi ta đóng ấn sự ta gắn bó với cộng đoàn Giáo Hội. Cách chung, đó là ý nghĩa sự hiệp thông. Nhưng khi tham dự tiệc Thánh Thể, ta có thực sự tiếp nhận được nhựa sống, tên gọi khác của ân sủng mà Chúa Giêsu muốn dùng để làm cho ta được sống khong? Ta có thực sự để Thiên Chúa "cắt tỉa" đời ta không? Vậy mà đó là điều kiện để cho chính bản thân ta trở nên Thánh Thể. Tạ ơn Chúa.
81. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
CÂY NHO ĐÍCH THỰC
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Ngài tỉa sạch... Các ngươi đã được tỉa sạch rồi": Ở đây có một lối chơi chữ giữa katharei ‘Ngài tỉa sạch’ là katharoi ‘sạch, được tỉa sạch’, lối chơi chữ của tiếng Hy lạp chắc chắn phỏng lại một lối chơi chữ của tiếng Aram. Trong tiếng Syri, vốn cũng là một ngôn ngữ sêmita, dakki có nghĩa là "thanh tẩy" và "tỉa sạch". Việc diễn tả ý niệm "tỉa sạch" bằng ý niệm "thanh tẩy" là một điều tự nhiên, bằng chứng là trong Pháp ngữ, "émender" (tỉa) phát xuất từ la ngữ mun dus (sạch), và rõ ràng trong Việt ngữ cũng thế.
"Bởi lời Ta đã nói với các ngươi": Trong bản văn này cũng như trong nhiều bản văn khác của Gioan (8,31.43; 6,60; 48; 14,23; 15,20) "logos" (lời) là một hạn từ đơn giản hóa "giáo huấn" của Chúa Giêsu. Dĩ nhiên không phải lời Chúa Giêsu được thu nhận vào lỗ tai đã làm cho các môn đồ nên sạch, nhưng là lời được người nghe và đón tiếp. Chính niềm tin vào giáo huấn của Chúa Giêsu đã kết hợp họ vào Cây Nho và nhờ vậy đã làm cho họ tinh sạch. Ý tưởng cho rằng niềm tin vào lời Chúa Giêsu có sức thanh tẩy này còn được Phêrô diễn tả rõ ràng hơn khi nói về những người ngoại đã tin: “Thiên Chúa đã tẩy sạch lòng họ bằng đức tin" (Cv 15,9). "Nếu các ngươi không lưu lại trong Ta". Đối với con người, lưu lại là bám chắc vào điều đã được ban tặng trong quá khứ, nắm giữ nó trong hiện tại, và tùy vào nó mà xét tương lai. Cũng chính trong ý nghĩa này mà người tín hữu phải lưu lại trong lời (8,31), trong tình yêu (15,9-10), trong ánh sáng (1Ga 2, 10), trong Thiên Chúa (1Ga 4,13-16). Ngược lại, đối với Thiên Chúa hay đối với Chúa Giêsu, lưu lai có nghĩa là liên tục ban hồng âu cứu rỗi cho các kẻ tin (1Ga 2,27; 3,9.15; 12-15). Nhờ lòng trung tín, người tín hữu không ngừng nối chặt cuộc sống mình vào Chúa Kitô, Đấng trong đó hồng ân của Thiên Chúa được trao ban luon mãi; lòng trung tín này cũng bao hàm một mối tương giao sống động và một sự hiểu biết ngày càng đào sâu.
KẾT LUẬN
Như cành nho thông phần vào sự sống của cây nho mà nó được liên kết với, thì người tín htĩu, nhờ gắn bo với Chúa Kitô, cũng được thông phần vào sự sống đích thực, sự sống Thiên Chúa: việc tham dự này đòi buộc họ phải sống và hành động theo sự mới mẻ mà Chúa Giêsu đã mặc khải.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Đoạn văn của diễn từ thứ hai sau Tiệc ly này phải được đặt vào trong bầu khí của buổi cử hành Thánh Thể vốn là trung tâm của bữa tiệc. Việc chúc lành và thánh hiến rượu nho gợi lên ám dụ cây nho. Trước đó, Cựu ước đã dùng tỷ dụ vươn nho để chỉ dân Thiên Chúa rồi. Ở đây, Chúa Giêsu muốn nói rằng Người thể hiện trong bản thân Người toàn thể những gì mà người ta vẫn gán cho dân Thiên Chúa như sự được tuyển chọn, được chăm sóc, phương thế cứu rỗi. Y chính của bản văn tập trung vào thực tại của sự kết hiệp vốn thiết lập ngay từ đời này giữa Kitô hữu với Chúa Kitô; nên ghi nhận là trong đoạn văn vắn gọn này, từ ngữ "trong Ta" trở đi trở lại năm lần đấy!
2) Kitô hữu được bắt vào Chúa Kitô như cành nho gắn liền với cây nho. Không có Chúa Kitô, họ chẳng là gì. Họ phải nhờ Chúa Kitô mà được hiện hữu, mà có nhựa sống, có khả năng sinh hoa quả. Có thể xảy ra là trên gốc nho, moc ra một cành không tuân theo định luật của cây con, nhưng phát triển thành gỗ và lá mà không sinh quả. Các người trồng nho gọi đó là cành thừa; họ chặt nó và vứt đi. Có thể có những người tuyên xưng Tin Mừng mà chẳng sinh trái không? Có, đấy là không ai không quan tâm sống nhờ Chúa Kitô đồng thời vẫn tự xưng là Kitô hữu họ tự cho mình thuộc về Giáo hội và Tin Mừng, nhưng chẳng thông hiệp thực sự vào sự sống của Chúa Kitô.
3) Muốn thông hiệp thực sự với Chúa Kitô, thì phải trung thành đáp lại ánh sáng Người đã thông ban. Đối với người ngoại giáo hoặc vô thần không nhìn biết Chúa Kitô mà không phải do lỗi họ, thì ánh sáng ấy đồng hóa với các menh lệnh của lương tâm. Nếu họ quen vâng phục tiếng nói của lương tâm thì họ vâng phục chính Chúa Kitô mà không hay biết, và do đó thực sự thông hiệp với Người. Nhưng đối với Kitô hữu đã được biết ánh sáng tràn đầy cua Chúa Kitô, sẽ không có hiệp thông thực sự với Chúa Kitô nếu không hiệp thông với Giáo hội, bởi vì ngày nay Giáo hội là Chúa Kitô được nối dài. Một trong những sự kiện đau thương của Giáo Hội hiện thời là tính tự phụ của nhiều con người quảng đại nhưng lạc hướng, đã rời bỏ Giáo hội, lấy cớ là Giáo hội làm thứ màn chắn giữa họ với Chúa Kitô. Chắc hẳn Giáo hội chưa phải là Hiền thê ‘trang sức mỹ miều’ (Kh 19,7; 21,2) để nhập tiec cưới vĩnh cửu trong Giêrusalem thiên quốc; nhưng dù tội lỗi và dơ bẩn trong các chi thể, Giáo hội vẫn không kém là Hiền thê của Chúa Kitô và là Mẹ các Kitô hữu. Tách rời khỏi Giáo Hội là tách rời khỏi Chúa Kitô.
4) Trong phương cách Thiên Chúa hướng dẫn người tín hữu chân thành, tất cả đều được xếp đặt để cho họ thành công trong định mệnh của họ là khai hoa, đậu trái, sinh quả dồi dào. Sống trong Chúa Kitô, người Kitô hữu được nuoi dưỡng bằng giáo huấn, gương lành, lời dạy ân sủng bên trong và Thánh Thể của Người. Tuy nhiên, có khi quá ứ đầy tư tưởng dự định hoặc chỉ vì thiếu sáng suốt, bệnh hoạn tinh thần, suy nhược ý chí mà Kitô hữu ấy có thể sai lầm hoặc bất trung cách này cách nọ. Chính lúc đó Chúa tỉa sạch tâm hồn và cõi lòng của người ấy, thanh tẩy họ, chặt đi những gì độc hại chiếm sinh lực của họ cách vô ích để họ sinh hoa trái. Điều đó không thể nào không gây đau khổ. Nhưng làm sao lưu lại trong Chúa Kitô được nếu không theo Người trên con đường hy sinh? Nếu đôi lúc ta cảm thấy hình như Chúa Cha cắt tỉa trong xác thịt ta, trong linh hồn ta, thì ta hãy hấp thụ nhiều hơn nữa nhựa sống của Chúa Kitô và hãy bền tâm can đảm vì Chúa đã hứa ban nhiều hoa trái.
82. Chú giải của William Barclay.
CÂY NHO THẬT
Như thường lệ, ở đây Chúa Giêsu đang sử dụng các hình ảnh và ý niệm thuộc di sản tôn giáo của dân Do Thái. Nhiều lần Cựu Ước mô tả dân Israel như một gốc nho hay vườn nho của Thiên Chúa. “Vườn nho của Đức Chúa vạn quân, ấy là nhà Israel (Is 5,1-7). Qua Giêrêmia, sứ điệp của Chúa đã truyền đến cho dân Israel rằng: “Ta đã trồng ngươi như cây nho tốt” (Gr 2,21). Êdêkien 15 và 19, 10 cũng ví dân Israel với cây nho. Ôsê 10,1 nói “Israel là một cây nho tươi tốt”. Tác giả Tv nghĩ về việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài khỏi vòng nô lệ như sau “Gốc nho này Chúa bứng từ Ai Cập” (80,8). Cây nho đã trở thành biểu tượng của dân Israel. Huy hiệu trên các đồng tiền thời Macabêô là cây nho. Một trong những kỳ công chói lọi trong Đền Thờ là cây nho bằng vàng thật lớn đặt trước Nơi Thánh. Nhiều vĩ nhân đã kể mình có vinh dự lớn khi được phép dâng cúng một số vàng để đúc thêm một chùm trái cho cây nho ấy. Cây nho là một trong những hình ảnh đặc trưng của người Do Thái, và là biểu tượng của dân Israel.
Chúa Giêsu tự xưng Ngài là cây nho thật. Từ alethinos, có nghĩa là thật, có thật, đích thực. Điều đáng lưu ý là trong Cựu Ước, biểu tượng cây nho luôn luôn được gắn liền với ý niệm về sự suy thoái. Trong bức tranh của Isaia, vườn nho đã trở thành vườn nho hoang. Giêrêmia than phiền dân tộc ông đã biến thành “một cây nho lạ, thoái hóa thành một cây nho khác”. Ôsê thì kêu lên “Israel là một cây nho trơ trụi”. Dương như Chúa Giêsu muốn nói: “Các ngươi tưởng vì thuộc về dân Israel nên các ngươi là nhánh cây nho thật. Sự kiện “là người Do Thái” không thể cứu ngươi. Điều duy nhất có thể cứu các ngươi là hãy thông hiệp mật thiết và sống động với Ta, hãy tin Ta vì Ta là cây nho của Thiên Chúa, và các ngươi phải là những nhánh được gắn liền vào Ta”. Chúa Giêsu đã xác định không phải là dòng máu Do Thái, nhưng chính đức tin vào Ngài là đường lối cứu rỗi của Thiên Chúa. Không một yếu tố nào có thể giúp con người được hòa thuận với Thiên Chúa mà chỉ có tình thân hữu với Chúa Giêsu Kitô.
Lúc mô tả bức tranh về cây nho. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài đang nói. Cây nho mọc khắp nơi tại Palestine. Muốn thu hoạch được trái tốt, người ta phải hết sức chú ý chăm sóc nó. Nó thường mọc trên những thềm đất nơi cao, nền đất phải sạch sẽ. Có khi người ta trồng thành hàng rào, có khi thả bò sát đất trên ít cành cây, cũng có khi người ta cho nó bò lên cửa những ngôi nhà tranh. Nhưng dù mọc ở đâu, việc cần thiết là phải tỉa thật kỹ. Nó mọc xanh tốt đến nỗi phải chia hàng cách khoảng ít nhất 4m, vì nhánh nho phát triển nhanh. Một cây nho trong ba năm đầu chưa cho trái, mỗi năm, nó phải được tỉa thật sạch để có thể phát triển và giữ được sinh lực. Khi đến độ trưởng thành, người ta cắt tỉa nó vào tháng 12 hoặc tháng 01 dương lịch. Có hai loại nhánh nho, một loại ra trái và một loại không ra trái. Loại nhánh không ra trái phải cắt bỏ, để chúng khong hút hết sinh lực của cây nho. Cây nho sẽ không thể cho trái đúng mức nếu không được cắt tỉa thật kỹ. Chúa Giêsu biết rõ điều đó.
Hơn nữa, gỗ của cây nho chẳng dùng được vào việc gì, vì quá mềm. Luật quy định mỗi năm vài lần, dân chúng phải đem củi dâng lên Đền Thờ để dùng cho các bàn thờ dâng sinh tế, nhưng dứt khoát không được dâng củi nho. Sau khi cắt tỉa cây nho, việc duy nhất có thể làm đối với số nhánh nho đó là đem đốt bỏ. Điều này làm cho bức tranh Chúa vẽ càng thêm ý nghĩa.
Chúa Giêsu bảo những người theo Ngài cũng giống như vậy. Một số người trong họ là những nhánh nho ra trái thật sai, nhưng một số khác thì lại vô dụng vì không ra trái. Khi nói đến điều này, Chúa nghĩ đến ai đây? Có hai câu trả lời. Một là, Ngài đang nghĩ đến dân Do Thái, họ là nhánh cây nho của Chúa. Đây không phải là hình ảnh mà hết ngôn sứ này đến ngôn sứ khác mô tả sao? Nhưng họ đã không chịu nghe Ngài, không chịu nhận Ngài, do đó, họ chỉ là những nhánh nho khô, vô dụng. Thứ hai, Chúa đang nghĩ một cách tổng quát hơn, Ngài đang nghĩ đến các Kitô hữu mà đạo của họ chỉ là hữu danh vô thực, năng thuyết bất năng thành, có nói mà không làm. Ngài đang nghĩ đến các Kitô hữu vốn là những nhánh vô dung, toàn lá mà chẳng ra trái. Và Ngài đang nghĩ đến những Kitô hữu đang bội đạo, đã nghe, đã nhận đạo nhưng lại sa ngã, bỏ đạo để trở thành những kẻ phản thầy, phản chủ mà có lần họ đã thề hưá sẽ trung thành phục vu.
Chúng ta có thể trở thành những nhánh nho vô dụng theo ba cách:
a/ Chúng ta chối từ không nghe theo Chúa Giêsu.
b/ Chúng ta nghe Ngài và phục vụ Ngài bằng đầu môi chót lưỡi chứ không có hành động cụ thể.
c/ Chúng ta co thể nhận Ngài làm Thầy và làm Chủ, nhưng sau đó khi gặp khó khăn trên đường đời hay khi bị dục vọng lôi cuốn thì từ bỏ Ngài. Nên nhớ nguyên tắc đầu tiên của Tân Ước là vô dụng dẫn đến tiêu diệt. Nhánh nho vô dụng đang trên đường đến chỗ tiêu huỷ.
Đoạn này nói đến việc ở trong Chúa Kitô. Điều đó có nghĩa gì? Kitô hữu ở trong Chúa và Chúa ở trong Kitô hữu mang một ý nghĩa rất huyền nhiệm. Nhưng nhiều người –có lẽ là đa số nữa- chẳng bao giờ có được kinh nghiệm này.
Chúng ta có thể lấy một hình ảnh thông thường để so sánh. Dù mọi lối so sánh đều bất toàn, nhưng chúng ta đành phải dùng những ý niệm mình có. Thí dụ có một người yếu đuối sa vào cam dỗ, đã làm hỏng chuyện, đang trên đà suy thoái tinh thần, trí óc và đạo đức. Người ấy có một bạn thân có bản lãnh mạnh mẽ, đáng mến, đầy lòng yêu thương, cứu anh ta khỏi tình trạng suy thoái kia. Chỉ có phương pháp duy nhất để người yếu đuối kia có thể duy trì tình trạng phục hồi của mình và giữ mình trên con đường tốt, là anh phải giữ liên hệ với người bạn kia. Nếu mất đi sợi dây liên lạc thì sự yếu đuối của anh lại gặp nhiều cơ hoi, những cám dỗ cũ xuất hiện và anh lại sa ngã. Lối thoát của anh nằm trong mối liên lạc liên tục với sức mạnh của bạn mình.
Khi một người hư hỏng được để sống chung với một người tử tế đứng đắn, bao lâu người ấy còn ở trong ngôi nhà tử tế đứng đắn kia thì còn được an toàn. Nhưng nếu người ấy rời bỏ nhà đó, đi theo ý riêng, sống tách biệt người bạn tốt, thế nào cũng sẽ sa ngã lại. Chúng ta phải giữ liên lạc với cái tốt để đánh bại cái xấu. Robertson ở Brighton là một trong những nhà truyền giáo lỗi lạc. Có một nhà buôn mở cửa hiệu, ông để trongn phòng phía sau cửa hiệu một bức ảnh của Robertson, ông xem Robertson như người anh hùng gương mẫu của mình. Khi bị cám dỗ làm chuyện xấu, thương gia này chạy vội về phòng sau, nhìn vào bức ảnh của Robertson, ông thắng được cám dỗ đó. Có người hỏi Kingsley bí quyết thành công trong cuộc sống của ông, ông nhắc đến F. D. Maurice và bảo: “Tôi có một người bạn thân”. Tiếp xúc, liên hệ với người tốt đã khiến ông thành người tốt. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.
Ở trong Chúa Kitô cũng giống như vậy. Bí quyết của đời sống Chúa Giêsu là Ngài luôn tiếp xúc, liên hệ với Thiên Chúa Cha. Nhiều lần Ngài lui vào nơi vắng vẻ để gặp Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu luôn luôn ở trong Thiên Chúa Cha. Giữa chúng ta và Chúa Giêsu cũng phải như vậy, chúng ta phải giữ mối liên hệ tiếp xúc với Ngài luôn. Chúng ta sẽ không đạt được điều đó, nếu không quyết tâm thực hiện. Thí dụ như việc cầu nguyện lúc sáng sớm, dù ngắn ngủi, nhưng cầu nguyện như chất thuốc sát trùng cho suốt một ngày, vì lam như thế, chúng ta không thể nào ra khỏi sự hiện diện của Chúa Giêsu để chạm vào điều xấu. Với một số ít người trong chúng ta, có thể việc ở trong Chúa Giêsu là một kinh nghiệm, không thể diễn tả bằng lời. Với phần đông chúng ta, điều đó có nghĩa là tiếp xúc thường xuyên với Chúa Giêsu, có nghĩa là thu xếp làm sao cho đời sống, giờ cầu nguyện, và cả những lúc phải yên lặng, để không giây phút nào chúng ta có thể quên Ngài.
Cuối cùng, chúng ta cần ghi nhận hai điều liên hệ đến một môn đệ tốt. Một, người ấy làm cho đời sống mình được phong phú. Sự tiếp xúc với Chúa Giêsu làm cho người ấy trở thành một nhánh nho nhiều trái. Thứ hai, người ấy làm vinh danh Chúa. Nhìn vào đời sống đó, người ta nghĩ đến Thiên Chúa, Đấng đã làm cho người đó trở thành người như vậy. Thiên Chúa được tôn vinh khi chúng ta kết nhiều quả và khi chúng ta chứng tỏ mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Chắc chắn, vinh quang lớn nhất cho Kitô hữu là bởi đời sống và cách ăn nết ở của mình, đó là chúng ta tôn vinh Chúa.
83. Thân nho và cành nho – Lm Giacôbê Tạ Chúc
Bất cứ lòai cây cỏ nào, muốn sinh trưởng và phát triển tốt, thì cần:” Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.
Ở môi trường và điều kiện thuận lợi, cây sẽ cho nhiều bông hạt. Nếu sống ở đất nước Việt Nam, chắc Chúa Giêsu sẽ dùng hình ảnh cây lúa, cây ngô, cây mì, cây thanh long… thay vì là cây nho.
Người nông dân xứ sở Palestina chắc không xa lạ gì với nghề trồng nho và ép rượu. Cây nho muốn tốt tươi thì cần chăm bón và cắt tỉa. Cành nho muốn có sức sống tràn trề thì không có cách nào khác hơn là gắn liền với thân nho. Thực tại tự nhiên là thế, thực tại siêu nhiên cũng vậy. Đức Giêsu dùng hình ảnh thân thuộc này để diễn tả một Mầu nhiệm Hiệp thông trong Nước trời. Ngài sánh ví Ngài là cây nho, còn các môn đệ là cành:” Thầy là cây nho, anh em là cành”( Ga 15, 5a). Cành chỉ sống được khi tháp nhập vào thân cây, nếu không cành sẽ chết.
Các môn đệ cũng vậy nếu không kết chặt vào thân mình của Chúa Giêsu thì như cành nho sẽ khô héo:” Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho”( Ga 15, 4b). Muốn cành nho ra trái nhiều thì người nông dân cần cắt tỉa, cắt đi những cành sâu bệnh, cắt để cành cây cho ra nhiều cành mới, vào ngày mùa kết quả sẽ gấp bội. Khi chịu để cắt tỉa, chắc chắn cành nho phải trải qua nhiều đau đớn, máu từ nhựa cây sẽ tuôn trào. Người nông dân cũng hiểu được điều này, nhưng đây là cách tốt nhất để giúp cây nho được sai trái.
Người môn đệ theo Chúa Giêsu cũng phải chịu “cắt tỉa”, để nên đồng hình với Đức Kitô Phục sinh. Cắt tỉa những thói xấu, tội lỗi và những đam mê trần thế. Những chướng ngại ngăn trở người môn đệ trên đường nên Thánh, chúng như những ung nhọt, cần bác sĩ giải phẫu để thân thể mạnh khỏe hơn: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái thì Người cắt tỉa” (Ga 15, 1-2). Các môn đệ được ở lại trong tình yêu của chúa, họ sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu trong từng giây, từng phút. Mối liên hệ thẳm sâu này được Thánh sử Gioan sánh ví như cành nho gắn liền với cây nho.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài chính là hơi thở của chúng con. Tình yêu Ngài cao vời không gì sánh bằng. Ngài là nguồn sống, từ nơi Ngài ân sủng được trao ban, sự sống được tác thành. Mỗi ngày chúng con đón nhận sự sống đầy sung mãn của Thân mình Chúa Giêsu, trong Bí tích Thánh Thể, lương thực vĩnh cửu cho xác hồn mỗi người.
84. Tại sao cành phải liền thân?
(Suy niệm của Lm. Raphael Amore Nguyễn)
1. Tình yêu và tham lam
Có hai thầy tu nọ sống với nhau đã 40 năm trời, họ chưa bao giờ cãi cọ, dù chỉ một lần. Cho đến một ngày nọ, người này nói với người kia: “Này, anh bạn không nghĩ đã đến lúc chúng ta phải cãi nhau, ít nữa một lần sao?”
Người kia đáp: “Đúng vậy, nào chúng ta hãy bắt đầu! Nhưng chúng ta bắt đầu cãi nhau về chuyện gì?”
Người này bảo: “Về chiếc bánh mì này được không?”
“Được, hãy tranh luận về chiếc bánh này. Chung ta sẽ làm thế nào đây nhỉ?”
Người này liền nói: “Chiếc bánh này của tôi; nó thuộc về tôi.”
Người kia đáp: “Nếu thế, thì bạn hãy lấy nó đi”.
Sở dĩ cuộc sống có xích mích và giận hờn, là do chính cái ngã to lớn có trong con người. Khi cái ngã càng trở nên bé nhỏ, sự bình an sẽ càng lớn. Cái ngã sẽ huỷ hoại sự bình an. Bình an chỉ có trong những trái tim mềm mại và trải rộng. Trái tim xơ cứng hoặc khép kín sẽ không thể cho được bình an. Cái ngã chỉ có làm một công việc duy nhất, đó là cột chặt trái tim lại - một trái tim bị ràng buộc. Trái tim này, vì thế, được gọi là ích kỷ. Và, những ai có trái tim này sẽ khổ đau, khổ đau cho chính mình, và làm cho người khác cũng đau khổ.
Tình yêu chỉ trở nên đúng nghĩa khi cái ngã không còn nữa. Hay nói cụ thể hơn, khi ta yêu, ta không còn là ta nữa. Thế giới cũ của ta sẽ biến mất nhường chỗ cho thế giới mới mẻ. Tại sao vậy? Khi yêu, là đi vào mối tương quan. Ta yêu cây yêu cỏ, ta nghĩ đến chúng, ta bảo vệ chúng, ta chăm sóc chúng, ta chờ đợi chúng lớn lên. Ta vui khi chúng lớn lên từng ngày và mạnh khoẻ.
Có bé trai nọ, vui mừng khi những chó con ra đời. Nó đi học cũng nhớ cún, nó học xong là quăng tập vở dưới sàn nhà, chạy ra nâng niu những chú cún con, nó nhịn uống sữa của nó để dành cho cún, nó đút từng thìa vào miệng cún, nó vui mừng khi cún và nó hiểu nhau.
Vì thế, yêu có nghĩa là đi vào mối tương quan giữa ta và đối tượng. Đi vào mối tương quan, có nghĩa là đi vào nguy hiểm, là liều mình. Liều mình, là vì ta chấp nhận không còn là ta như xưa nữa, mà trở thành cái ta khác. Vẫn có nhiều chàng thanh niên đã từng là tay bợm rượu, nhưng khi lấy vợ thì tay ấy không đụng một giọt rượu nào! Cho dù bị bạn bè cười chê là sợ vợ. Vẫn thấy đó đây những cô nàng, khi chưa yêu thì không bao giờ hề đụng vào bếp, nhưng khi đã có tình yêu, bỗng dưng nàng biết nấu ăn ngon, làm bánh và pha café! Người ta vẫn thường nói,“love makes wonders” rất là chí lý. Tình yêu luôn làm nên những việc diệu kỳ.
Vâng. Phải can đảm lắm mới dam yêu, vì yêu là dám ra khỏi mình để thiết lập mối tương quan. Tương quan như là sợi dây nối hai thế giới xa lạ - hai cái tôi khác biệt. Sợi dây càng thu hẹp lại thì tình yêu càng lớn. Tình yêu sẽ trọn vẹn khi sợi dây đo không còn nữa, vì hai thế giới đã trở nên một, không gọi là tương quan nữa, vì “mình với ta tuy hai mà một” rồi vậy. Khi sợi dây vẫn còn dài, có nghĩa là hai thế giới vẫn không chạm nhau được. Người ta có thể ngộ nhận là tình yêu, nhưng đó chỉ là xã giao bề mặt, chỉ là kinh doanh buôn bán lẫn nhau, chỉ là sự đổi trác đôi bên đều có lợi nào đó. Không lạ gì, trái đất ngày hôm nay có nhiều người đang sống như thế, cho nên nảy sinh nhiều cuộc ly dị, nhiều tình bạn đổ vỡ, nhiều vụ tự tử, nhiều kẻ bị tâm bệnh, nhiều người nóng nảy không thể tự chủ... Căn nguyên là hầu như phần lớn không mấy ai hiểu được tình yêu. Ai cũng nghĩ mình biết yêu, ai cũng nghĩ tình yêu là đẹp. Đúng! Tình yêu là đẹp, là vĩ đại hơn bất cứ điều gì trên trần gian này, vì tình yêu mở cửa Thiên Đàng. Nhưng thực tế, con người hôm nay lại chỉ thấy cửa Hoả Ngục.
Khi sợi dây tương quan không còn, khi hai thế giới xưa kia khác biệt giờ đây đã hoà nhập làm một để trở thành một thế giới mới - đó là thế giới của tình yêu. Thế giới này không phải để chiếm đoạt, thống trị, thao túng, điều khiển, nhưng đểhướng đến tự do và bình an mãi nơi nhau. Không thể nào có tình yêu khi một trong hai bên muốn phụ thuộc hay bị phụ thuộc. Phụ thuộc là không tự do. Khi ta làm tất cả mọi sự cho người mình yêu, nhưng khi người kia cảm thấy không thể sống thiếu ta, hay không thể không thể sống được khi ta hết cung cấp những gì là bên ngoài, là trau chuốc cho vỏ bọc, thì ta đang làm cho người yêu ta trở nên phụ thuộc vào ta. Đây chỉ là sự ích kỷ của ta, là sự tàn nhẫn nhất, vì ta đang làm cho đối tượng bị thương mà không thể kêu đau. Triết gia Phạm Công Thiện nói: “Trong dòng sinh diệt thời gian, Tình Yêu vẫn bất diệt vĩnh cửu sẽ vượt thời gian và không gian. Ai nghĩ khôn khéo cho chính mình là người sẽ biết đối xử tốt với người khác, vì rằng, cuối cùng về lâu về dài, chính kẻ ấy sẽ được nhiều lợi lộc. Tôi gọi đó là ích kỷ cách trí tuệ”.
Trong tiếng Anh, chữ love tưởng như bắt nguồn từ tiếng Latinh là amor, nhưng không phải, mà nó lại bắt nguồn từ tiếng Phạn (Sankrit) là lobha. Nguyên nghĩa Lobha có nghĩa là sự tham lam. Tình yêu là trải rộng, cho đi, sống cho, sống vì; còn tham lam thì ngược lại, là thu vén, chiếm giữ, thống lĩnh, chỉ biết nhận, biết lấy. Chỉ trong lĩnh vực ngôn ngữ học, chúng ta cũng đủ thấy rằng cha ông ta xưa kia rất uyên thâm về cuộc sống như thế nào mới sử dụng ngôn từ bên phương Đông một cách độc đáo như thế. Thật vậy, tình yêu và tham lam cũng đang trộn lẫn vào mỗi con người chúng ta. Có không ít cha mẹ người Việt bắt con cái học đủ thứ, và còn lên kế hoạch tương lai cho chúng, làm chúng phải “chạy” bở hơi tai. Cha mẹ kỳ vọng vào chúng, và rất hãnh diện khi chúng thoả mãn niềm ước mong của chính mình. Như vậy, không phải cha mẹ có tình yêu với con cái, nhưng chính là thống trị chúng trong lòng tham khôn khéo của mình. Con cái được đối xử như những món trang sức để tăng vẻ đẹp của bản thân cha mẹ. Tình yêu là sự sống, lòng tham thì đưa đến cõi chết. Chính vì thế, nhiều người con quá căng thẳng, hay quá bế tắc đã tìm đến cái chết, hoặc phản ứng ngược lại như quậy phá, chơi bời, bụi đời... Vì chúng không còn thấy chúng nữa. Chúng bị tước mất tự do. Chúng ta dễ ngộ nhận tình yêu, vì hầu như chúng ta sống tham lam thông qua chiếm hữu, điều khiển, thống lĩnh hơn là yêu đúng nghĩa.
Sự tham lam sẽ không làm cho hai thế giới chạm vào nhau để sinh ra tình yêu được. Người tham lam không dám liều để yêu, vì họ sợ mất thế giới của riêng mình. Họ cho rằng khi thế giới bên trong của mình bị đánh mất, thì họ sẽ chết. Nhưng họkhông biết được rằng, chính khi thế giới cũ của họ mất đi, thì họ mới sống viên mãn. Chính vì thế họ ra sức giữ gìn, bảo vệ. Chỉ có người nào biết trải rộng, có nghĩa là dám liều, dám bỏ trung tâm mình để đi sâu vào trung tâm của đối tượng, mới có kinh nghiệm sự sống viên mãn này.
2. Cành liền thân
Hìnhảnh cành nho gắn liền với thân cây nho trong Tin Mừng Gioan mà Chúa Giêsu diễn tả cho các môn đệ là hình ảnh thật đẹp về tình yêu.
Trước tiên, thiết tưởng cũng nên nhắc lại, Tin Mừng theo thánh Gioan là Tin Mừng vềtình yêu, hay còn gọi là thần học về tình yêu. Tình yêu của Gioan là một thếgiới mới - một thế giới được tạo dựng nên bởi hai thế giới cũ xưa kia của hai đối tượng can đảm dám liều. Đây là thế giới mà Chúa Giêsu gọi là điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34). Như ở đây, có nghĩa là Chúa Giêsu muốn hướng chúng ta đến cội nguồn Tình Yêu của Ngài để kín múc, để tắm gội và để hoà tan vào trong toàn thể châu thân của ta, và từ đó chúng ta sẽ tưới gội cho đồng loại đang khao khát. Tình yêu theo Thánh Gioan là con người cần phải kín múc nơi nguồn mạch yeu thương từ Chúa Giêsu thì con người mới có tình yêu đúng nghĩa, và từ đó, để trao ban.
Ở đây, chúng ta sẽ thấy sự khác biệt. Không phải ta có tình yêu đúng nghĩa là do tự bản thân ta có, nhưng mà ta phải nài đến Chúa Giesu để kín múc thứ tình yêu đó. Để có tình yêu đúng nghĩa và thật, chúng ta phải bước ra khỏi thế giới cũkỹ của mình để đi sâu vào Thánh Tâm của Ngài - Thánh Tâm vẫn không ngừng tuônđổ tình yêu cho con người. Tình yêu không kín múc từ Chúa Giêsu là tình yêu thếgian (x. Ga 15,19), còn tình yêu kín múc từ Ngài thì được gọi là tình yêu trongđiều răn mới, là tình yêu trải rộng cho đến vô cùng như Chúa Giêsu đã trải rộng cho đến chết trên Thánh Giá.
Và Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn cây nho để diễn tả về tình yêu qua một dòng nhựa lưu chảy từ gốc rễ lên thân, ra đến cành nhánh, rồi đến lá kết hoa kết trái. Toàn bộ cây nho đều được nhựa sống ban sức sống cho. Khi cành nho gắn liền vào thân nho có nghĩa là đã có chung một dòng chảy nhựa sống, cho nên tương quan biến mất, và chỉ còn lại sự hợp nhất giữa thân và cành. Đến đây, có một chi tiết nhỏ rấtđáng cho chúng ta suy nghĩ: điều quan trọng trong dụ ngôn cây nho chính là “cành nho”. Thánh Gioan đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần từ “ở trong” trong trình thuật này. Như thế, chúng ta không thể đặt dấu chấm hỏi nữa về gốc, về nhựa sống, về thân nho nữa, nhưng chính là liệu cành có ở trong, có gắn liền với thân không?
Thông thường phần đông chúng ta đòi hỏi đối tượng mình yêu hơn là chính bản thân ta. Có đôi cặp tình nhân nọ đi chơi với nhau. Nàng hỏi chàng: “Anh có yêu em không?” Chàng có vẻ tự ái, hỏi lại: “Thế còn em thì sao?” Và thế là, đôi bạn trẻ mang từ những chuyện quá khứ ra bàn cãi, nào là người yêu xưa của nàng, của chàng... Cuối cùng họ đi đến cãi nhau. Chúng ta thường nói nhiều về đối tượng trong tình yêu, nhưng không bao giờ biết tự hỏi: “Tôi thì sao? Tôi có phải là người yêu thật sự của người ấy không?” Khi chúng ta chỉ hỏi người khác, có nghĩa là chúng ta đang tham lam, đang chiếm hữu họ cách tinh tế. Đối tượng của chúng ta trở thành một con thú cho chúng ta thoả mãn. Họ không còn là người nữa trong cách xử sự của chúng ta. Vì thế, cũng thật chí lý khi người ta nói rơi xuống tình yêu (fall in love) Chữ yêu khó được hiểu đúng nghĩa của nó, nên phần lớn người ta không biết yêu, nên phần lớn đang từ trên cao người ta rơi xuống, từ cao đẹp rơi xuống nhỏ nhen, từ hồn nhiên rơi xuốnghậm hực, từ người rơi xuống thành con. Khi anh ta trả lời rằng có yêu, thì chị kia vẫn sẽ thắc mắc mãi trong tâm trí: “Liệu anh ấy có thực lòng không?”Làm sao chúng ta có thể chắc chắn về người khác được. Không thể nào xác quyết một cách tuyệt đối về một ai, khi mình thậm chí còn không dám chắc chắn vềmình. Nhưng cho dù anh ta phải trả lời triệu lần rằng anh ta yêu đó, thì lại càng nguy hiểm hơn vì sự thật không cần phải lập đi lập lại nhiều lần đến thế. Sự thật là sự thật, nó có ngôn ngữ riêng của nó. Chính vì thế, khi quan tổng trấn Philatô hỏi Chúa Giêsu trước khi đem ra xử tử: “Sự thật là gì?” Chúa Giêsu thinh lặng. Sự thật không nằm trong địa hạt lý trí hoặc cảm xúc. Sự thật không can chứng minh hay phải lặp đi lặp lại.
Vì vậy, điều quan trọng nhất trong tình yêu, đó là chính bản thân chúng ta. Chính chúng ta là chìa khoá mở cửa cho tình yêu toả sáng. Tình yêu đã có sẵn, đã chờ đợi, chỉ cần chúng ta can đảm đứng lên, đi đến tra chìa để mở cánh cửa ấy. “Hãy ở trong Thầy... Ai không ở trong Thầy...”. Chúa Giêsu như đã dọn sẵn tất cảnhững phần thưởng mà chúng ta khát mong nhất, và Ngài mời gọi chúng ta. Ngài tôn trọng tư do của chúng ta. Vì Ngài là Tình Yêu, nên Ngài không ép buộc, không chiếm hữu, không lôi kéo... chúng ta. Ngài mời gọi, còn chúng ta có quyền chối từ. Vì là Tình Yêu, Ngài muốn chúng ta tự do trong viên mãn. Ngài tôn trọng tự do chúng ta đến nỗi Ngài chấp nhận đau khổ khi thấy chúng ta vẫn chọn tách xa trung tâm của Ngài. Vì Tình Yêu, Ngài tôn trọng tự do của chúng ta cách tuyệt đối, và Ngài đau khổ không phải vì Ngài sợ đau đớn, nhưng vì đau khổ với cái khổ đau của ta. Ngài chỉ cần chúng ta bước đến với Ngài, và chúng ta sẽ được toại nguyện: “Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được”.
Lời mời gọi “ở trong” của Chúa Giêsu là lời mời gọi con người đi vào tình yêu của Ngài, để hai bên chỉ thở cho nhau, hoà quyện và hoà tan vào nhau như cành liền cây với nhựa sống tuôn chảy mãi bên trong. Chúa Giêsu mời gọi vì yêu chung ta, Ngài muốn chúng ta đạt đến sự viên mãn nhất, là cứu cánh của con người chúng ta. Chỉ hoà quyện vào trong nhựa sống Ngài, chúng ta mới thể hiện chính mình cách tuyệt đối.
Tình yêu của Chúa tuyệt đối đến nỗi Ngài cho con người khả năng đáp lại hay khước từtrước tình yêu đó. Chính vì thế, khi con người được khả năng tự mình quyết định tất cả, ngay cả sống chết, ngay cả chọn cứu cánh đời mình như thế nào - một cứu cánh đưa đến hạnh phúc thật hay đưa đến trầm luân trong khổ đau - cho thấy Chúa tôn trọng con người cách tuyệt đối. Vì tình yêu, Chúa không muốn con người tách khỏi “thân nho”, vì tách khỏi thân là tự mình đánh mất hạnh phúc thật của mình.
Trong trình thuật về cây nho cành nho, chúng ta thấy đằng sau đó không chỉ là lời mời gọi yêu thương của Ngài để cho con người bước vào cứu cánh hạnh phúc của mình, nhưng hơn thế nữa, lời mời gọi đó của Ngài còn chất chứa sự van xin con người cho Ngài một ân huệ cuối cùng nào đó. Trong bữa tiệc cuối cùng, sự van xin đó rõ nét hơn khi Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để thức tỉnh các môn đệ. Trước khi chịu khổ hình và chịu chết, lời mời gọi ấy vẫn không ngừng biểu lộ qua thái độ cũng như lời nói và cho môn đệ tự chọn và tự quyết cứu cánh của mình: “Này Giuđa, anh dùng nụ hôn để nộp Con Người sao?” (Lc 22,48). Và chỉ có sự mời gọi của tình yêu chất chứa trong cái nhìn của Chúa Giêsu gởi đến cho Phêrô, Phêrô đã rung động và bừng tỉnh, ông đã bước ra khỏi chính mình để đi sâu vào tình yêu của Chúa. Giọt nước mắt lăn trên má của Phêrô là giọt nước tẩy rưa tấm gương soi cho ông thấy rõ thân phận hạn giới của ông trước tình yêu vô hạn của Thầy, cho ông thấy trung tâm ở trong ông còn xa trung tâm Thầy lắm. Giọt nước mắt này của Phêrô cho thấy từ trước tới giờ ông chưa ra khỏi chính ông để tạo nên tương quan, vì thế chưa từng nên một với Thầy. Phêrô đã quá kỳ vọng vào Thầy, quá mơ tưởng đến tương lai sáng lạn mà Thầy sẽ giải thoát dân tộc theo nghĩa chính trị. Càng kỳ vọng, càng thất vong. Phêrô kỳ vọng vào Thầy vì Phêrô yêu chính mình. Phêrô không hiểu được tình yêu thật là gì. Cảnh tượng Thầy mình bị truy bắt và bị lôi ra xử tử đã làm đảo lộn mọi giá trị mà Phêrô đã có trong ông: Thầy của ông đang ở trước mặt ông cách trần trụi. Trần trụi là thuộc tính của tình yêu. Sự giả dối thì không trần trụi, vì nó được mặc nhiều lớp áo đẹp và hấp dẫn. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới dùng ngôn từ“Thầy là cây nho thật”. Khi hai người yêu nhau mà quá lịch thiệp với nhau, có nghĩa là cả hai đang giả dối.
Giả dối là ích kỷ và chỉ xảy ra trong mua bán đổi trác. Đôi tình nhân đó, thực sựhọ bên nhau, nhưng họ chưa từng gặp nhau, vì họ không cho trung tâm của nhau chạm vào. Họ không thể trở thành hơi thở của nhau nên họ chưa bao giờ có tình yêu. Vì thế, họ chỉ là trò chơi của nhau mà đôi bên đều vui. Tình yêu không phải là trò chơi hay tương quan suy tính lợi hại. Tình yêu là sức sống và sẽ thăng hoa nhân vị. Tình yêu thật thì mang tính tâm linh.
Cành nho gắn vào thân nho là sự trần trụi, là sự thật, vì cành và thân nho có nhưthế nào đều biết được lẫn nhau, vì họ có chung một dòng nhưa sống bên trong. Chính vì thế, tình yêu phải là sự hiệp nhất và chân thật. Thân nuôi cành và cành sẽ cho hoa trái.
Chúa Giêsu - là thân nho đã yêu thương sinh ra cành nho - con người chỉ có thể sống viên mãn khi gắn kết vào Ngài qua dòng nhựa sống của tình yêu không ngừng muốn chảy tràn trề trong họ. Để từ đó, tất cả những gì con người có đều là từ Chúa, cho Chúa và vì Chúa. Mong sao, từng hơi thở ra-vào của chúng ta cũng chính là hơi thở trong Hơi Thở của Chúa. Từ đó, chúng ta mới có thể mạnh mẽ và nhiều nội lực để tiếp sức cho những ai đang thoi thóp và héo khô.
Chúa là dưỡng chất nuôi sống con người, nên việc ở lại trong Chúa là tối quan trọng đe con người thể hiện tuyệt đối tự do và cứu cánh đời mình, ngoài ra, không còn chỗ nào khác. Chỉ có thân nho thật mới mang sức sống, thế mà phần lớn mọi người vẫn cứ bám vào những cây nho giả vốn được trang hoàng rất đẹp và nhiều lời gọi mời hứa hẹn rất hấp dẫn đang lan tràn trên khắp thế giới ngày nay... Cái thật thì thầm lặng, không nhiều lời, nhưng đang hiện hữu, ngay lúc này đây, dù cái thật có bị khước từ hay đón nhận, cái that vẫn toả sáng toả hương, như những đoá hoa đồng nội, dù ai có ghét hay thương, hoa vẫn nở.
Lạy Chúa Giêsu, “nếu không có Thầy, chúng con không thể làm được gì”. Amen.
85. Một kết quả đã biến đổi thế giới
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)
Tuy là những Kitô hữu, có lẽ chúng ta cũng đã có lần tự hỏi: Kitô Giáo đã thực sự cải thiện được gì trong thế giới? Đến nay đã hơn hai ngàn năm trôi qua kể từ khi Đức Giêsu rao giảng Nước Thiên Chúa: Một viễn tượng về một thế giới hòa bình, tự do và công bằng! Nhưng người ta sẽ tìm đâu ra được một thế giới lý tưởng như thế? Người ta sẽ tìm đâu ra được những ảnh hưởng, những hoa quả của một tôn giáo lấy Đức Giêsu làm cứu cánh? Vì tình trạng ích kỷ, bạo động, bóc lột, hận thù, đàn áp và nghèo đói vẫn tiếp tục tồn tại trên cuộc sống nhân loại. Thế giới vẫn như cũ, hầu như không hề có gì thay đổi. Nhiều người đã phải chấp nhận thực tại đó và đành cam lòng chịu đựng. Họ chủ trương: Có lẽ một ngày nào đó sẽ có được một thực tại lý tưởng như trong Nước Thiên Chúa, nhưng điều đó chỉ có ở bên kia thế giới! Con người và thế giới muôn đời vẫn the, khó lòng đổi thay được, dù bất cứ quyền lực nào - thế quyền hay cả thần quyền - cũng không đổi thay được, nếu không sẽ xúc phạm đến quyền tự do căn bản của con người.
Tiếp đến, sự hoài nghi về Thiên Chúa. Người ta sẽ đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa không biến đổi thế giới? Nếu Thiên Chúa toàn năng, tại sao Người lại cứ để cho cuộc đời đầy khổ đau như thế mãi? Trước những câu hỏi nghiêm chỉnh và cụ thể như thế, bài Phúc Âm hôm nay đã đưa ra một câu trả lời hết sức thỏa đáng: Để trả lời, Đức Giêsu kể cho thính giả của Người nghe dụ ngôn “ Cây nho và cành nho”. Bổn phận của cành nho là đâm hoa kết qua xum xuê đầy cành. Trong khi đó cây nho lại thông chuyển cho các cành nho nguồn nhựa sống và sức mạnh, để các cành nho có thể đâm hoa kết quả được. Cái hình ảnh về sự tương quan mật thiết giữa cây nho và cành nho như thế đã được Đức Giêsu giải thích như sau: “ Thầy là cây nho, các con là cành nho”. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đâm hoa kết trái, và Đức Giêsu ban cho chúng ta sức mạnh và các khả năng cần thiết để hiện thực được điều đó!
Nhưng thứ hoa quả được đề cập tới ở đay là thứ hoa quà nào? Chính Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi đó khi Người nói về cây nho và cành nho. Người nói: “Các con hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Vậy, thứ hoa quả mà Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải mang lại trong suốt cuộc sống mình là tình yêu. Tình yêu mà chúng ta đã được lãnh nhận từ Thiên Chúa, chúng ta phải tiếp tục thông ban cho người khác như nhựa sống từ thân cây nho thông ra và lưu chuyển giữa các cành nho vậy.
Vâng, thân cây nho chuyển thông cho các cành lá nhựa sống và sức mạnh. Nhưng công việc đâm hoa kết quả là phận sự của cành nho, chứ không phải của thân cây. Đúng thế, Thiên Chúa ban cho con người sức mạnh, các khả năng, các ơn thánh, nghĩa là các phương tiện; Còn việc mang lại hoa quả là bổn phận của con người, việc kiến tạo một thế giới an bình và tươi đẹp là bổn phận của chúng ta. Vâng, bổn phận của chúng ta là phải sống và thực thi tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu đã đổi mới thế giới. Chúng ta phải tiếp tục thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa đến tất cả mọi đồng loại. Thiên Chúa cần đến chúng ta. Thiên Chúa cần đến mỗi người trong chúng ta theo khả năng mà Người đã ban cho từng người. Và nếu mỗi người biết đem khả năng đó của mình để cộng tác vào cuộc sống xã hội và thế giới, đương nhiên sẽ mang lại hoa trái.
Nhưng cành nho tự mình không thể đâm hoa kết trái được, nhưng phải nhờ có sức mạnh và nhựa sống từ thân cây thông chuyển cho. Điều đó có nghĩa là mọi điều thiện hảo chúng ta làm cũng như mọi tình yêu chúng ta trao ban, đều phát xuất từ Thiên Chúa. Còn chính chúng ta, tự bản chúng ta không thể làm được bất cứ điều gì thiện hảo. Vâng, chúng ta chỉ mang lại những hoa trái có giá trị và lành thánh, nếu Thánh Thần Thiên Chúa hành động qua chúng ta. Qua tình yêu của con người, Thiên Chúa hành động trong thê gian. Sự liên đới vô vị lợi với những người nghèo khổ và những người bị coi khinh, sự kính trọng đối với mọi người, sự khước từ bạo động và mù quáng chạy theo danh vọng, sự tôn trọng sự song con người và môi trường thiên nhiên, v.v... là tất cả những điều mà thế giới hôm nay cần đến hơn bao giờ hết, và tất cả đều phát xuất từ Thiên Chúa.
Tuy nhiên, hình ảnh về “ cây nho và cành nho” này xem ra vẫn còn xa lạ đối với một số Kitô hữu nào đó trong chúng ta. Con người chúng ta rất khó tin được rằng qua chúng ta tình yêu Thiên Chúa có thể biến đổi được thế giới. Chúng ta thường tin vào khả năng nhân loại của chính mình hơn! Chúng ta cho rằng tự mình, chúng ta có thể mang lại hoa trái. Nhưng thực ra, chúng ta chỉ có thể mang lại hoa trái trong cuộc sống, nếu chúng ta biết rộng mở lòng mình để đón nhận nhựa sống ơn thánh của Thiên Chúa. Qua mỗi người trong chúng ta, sức sống thần thiêng đó hoạt động và có thể làm cho thế giới trở thành nhân bản hơn và nhờ đó trở thành Kitô giáo hơn. Vậy, các cành nho đâm hoa kết quả đúng với danh xưng của mình, thứ hoa quả làm vui lòng người và đổi mới được thế giới!
Tóm tắt, ở bất cứ nơi nào con người cảm nhận được tình yêu của những đồng loại của mình và qua đó cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, thì ở đó thế giới tự đổi mới. Thế giới nhờ thế sẽ trở nên nhân bản hơn. Vậy, thế giới có tiếp tục phát triển đúng với thánh ý Thiên Chúa hay không, tất cả hoàn toàn đều tùy thuộc vào chúng ta. Ở đây, có lẽ chúng ta có thể nói được rằng: Khi dựng nên thế giới Thiên Chúa không cần con người, không cần sự cộng tác của con người, nhưng để biến đổi thế giới trở nên nhân bản và tươi dẹp hơn, nhất thiết Thiên Chúa phải cần đến con người, cần đến sự góp tay của con người, vì Người tôn trọng sự tự do của con người! Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh qua Lời Người, qua các Phép Bí Tích và qua sự trợ giúp đầy yêu thương của Người dành cho loài người chúng ta. Do đó bổn phận của chúng ta van luôn là: phải đâm hoa kết quả, nghĩa là phải tiếp tục thông ban cho mọi anh em đồng loại sự trợ giúp đầy yêu thương của Thiên Chúa!
86. Thầy là cây nho đích thực – ThapGia
Người làm vườn giỏi thì họ biết cắt tỉa cành đe nó sinh nhiều hoa trái… Người Kitô hữu được Chúa nói đến trong bài Dụ Ngôn Tin Mừng hôm nay, chính là cành nho, Chúa Giêsu chính là thân cây nho, Chúa Cha là người trồng nho. Cha là ông chủ vườn sẽ tỉa cành để người kito hữu “sinh nhiều hoa trái” hơn. Người kitô hữu được Chúa Cha cắt tỉa sẽ “sinh nhiều hoa trái”. Đó là là những tiến bộ về tâm linh đầy tràn nhân đức phong phú tốt lành nơi người kitô hữu con cái của Cha.
Chúa Cha sẽ tỉa canh giúp người Kitô hữu bỏ bớt những bận tâm lo lắng sự đời quá sức mà tập trung năng lực vào việc thắng tiến đời sống thiêng liêng thánh đức. Ngài có thể làm điều đó bằng cách “cắt xén” làm cho người kitô hữu phai đau đớn, bị thiệt thòi mất mát về vật chất cũng như tinh thần… hoặc cho người đó phải trải qua những gian truân thử thách. Như “lửa thử vàng – gian nan thử nhân đức”, những gian khổ tôi luyện người kitô trong đời sống đưc tin, có khả năng thánh hóa bản thân và tha nhân rất hữu hiệu.
Đức Kitô Con Chí ái của Cha rất thánh thiện cũng bị Chúa Cha tỉa cành.Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã làm một việc thích đáng là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa mọi người tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2,10). Nhờ cam chịu khổ hình mà Chúa Giêsu đã trở nên nhà lãnh đạo tuyệt hảo “Nào Đức Kitô lại chẳng chịu khổ hình như thế rồi mới đươc vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,25). Người Kitô hữu muốn “sinh nhiều hoa trái” dứt khoát phải “Ở lại“ và “Gắn liền” với Chúa Giêsu Kitô.
Làm sao để ở lại và gắn liền với Đức Giêsu Kitô? Một người mang danh hiệu là Kitô hữu (thuộc về Đức Kitô); nhưng xem xét lại mình chẳng có tinh thần Kitô hữu, “hữu danh vô thực”, Thánh Phaolô nói tình trạng tương tự như vậy trong Do Thái giáo (x.Rm 2,17–23) Nhiều kitô hữu xem ra có vẻ rất ngoan đạo, siêng đi dâng lễ, rước lễ hằng ngày, lại hăng hái nhiệt thành những công việc liên quan đến nhà thờ, hội đoàn, công tác tông đồ đấy! Nhưng đời sống lại chẳng toát lên tinh thần Kitô giáo khi sống thiếu bác ái, công bình, chân thât, yêu thương, thông cảm, tha thứ….
Người Kitô hữu hôm nay trở thành môn đệ đích thực của Chúa Kitô phải chịu để bị cắt tỉa. Thiên Chúa Cha mời gọi chúng ta chia sẻ nỗi đau khổ của Chúa Giêsu Con Chí Ái của Ngài, để cùng được tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Ngài “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta cùng được hưởng vinh quang bất diệt với Người” (Rm 8, 17); “được cùng chia sẻ đau khổ với Đức Kitô bao nhieu anh em sẽ vui mừng bấy nhiêu, để vinh quang người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ” (1Pr 4,13); “Phần anh em là những kẻ chịu đau khổ ít lâu. Chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5,10); “những đau khổ chúng ta chịu sánh sao với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải cho chúng ta” (Rm 8,18). Thánh Phaolô cũng khuyên chúng ta đùng sợ hãi trước những đau khổ: “Nếu anh em chịu đau khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc! Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1Pr 3,14)
Người Kitô hữu không đi tìm đau khổ, nhưng khi đau khổ đến, người lành thánh vui mừng chấp nhận đau khổ, chẳng những thánh hóa mình mà còn làm cho những người khác nên công chính thánh thiện nữa “Vì đã nếm mọi đau khổ, người công chính tôi trung của Ta; sẽ làm cho muôn người trở nên công chính và sẽ gánh được tội lỗi của họ” (Is 53,11). Người Kitô hữu chấp nhận đau khổ thiệt thòi, cực hình, mất tiền, mất thì giờ, mất sức khỏe, bị nghi ngờ, hàm oan… vì qua tha nhân là một hành vi bác ái, là phương tiện chúng ta thực thi đức yêu thương. Người Kitô hữu biết chấp nhan đau khổ mà nhiều người nên công chính hạnh phúc. Vì thế; người có lòng yêu mến Chúa đích thực sự sẵn sàng lợi dụng mọi hoan cảnh đau khổ của mình để sinh ích cho kẻ khác.
Để sinh nhiều hoa trái người kitô hữu phải ở lại gắn liền với Đức Kitô. Chúa kitô chính là ngưồn sức mạnh vô biên của chúng ta, Ngài quyền năng làm được mọi sự hoàn hảo, vì thế; chúng ta luôn tin tưởng phó thác cho tình yêu của Ngài, và chắc chắn sẽ được ngài che chở bình an “Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn e sợ nỗi gì … (Tv 23)
Chúng ta luôn yêu mến và qui hướng về Ngài là trung tâm cuộc sống để chúng ta dấn than theo Ngài một cách quảng đại, không tính toán so đo, đồng thời gắn bó và yêu thương tha nhân như chính Ngài đã yêu.
Chúng ta luôn làm theo thánh ý của Ngài qua mọi nghịch cảnh trong cuộc đời. Chính Ngài là nguồn sức mạnh là an vui hạnh phúc của chúng ta.
Lời Chúa phán: “Nếu các con ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong các con, thì muốn gì, cứ xin sẽ được”. Xin cho chúng con được hiệp nhất nên một trong Đức Kitô để lời hứa của Chúa sẽ được thực hiện nơi mỗi người chúng con.
Lạy Cha! Cha là nguồn sức mạnh vô biên, tình yêu của muôn loài muôn vật. Chúng con muốn kết hợp với Cha để nhận được sự sống, sức mạnh, tình yêu và một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc hơn, và xin Cha cho những ai tiếp xúc với chúng con cung nhận được sự sống, sức mạnh và tình yêu dào dạt của Cha tuôn chảy đến cho mọi người. Amen.
01/05 Người thợ vô danh
- Viết bởi Mt 13, 54-58
Người thợ vô danh: Thinh lặng, cầu nguyện và xin vâng.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 4 Phục Sinh. – Thánh Giuse thợ.
"Ông ta không phải là con bác phó mộc sao?"
* Là một người thợ ở làng Galilê, thánh Giuse là mẫu gương người Kitô hữu phải noi theo để chu toàn các bổn phận nghề nghiệp, vì thánh Giuse đã làm việc trong tâm tình liên kết với Đức Giêsu. Lao động thì vất vả nhưng cũng đem lại niềm vui.
Lao động phục vụ con người nhưng cũng giúp đưa tới gần Thiên Chúa: đó là điều ta học được nơi trường học Nagiarét.
Lời Chúa: Mt 13, 54-58
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: "Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?" Và họ lấy làm gai chướng về Người.
Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: "Không có tiên tri nào được vinh dự nơi quê hương và nơi nhà mình".
Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Đức Giêsu về quê
Suy niệm:
Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nazareth dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nazareth như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nazareth, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nazareth, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nazareth lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nazareth vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nazareth đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn
"Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn..."
Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse... Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 - 50 và cũng như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế độ.
Lời ca đơn sơ xuất phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu lao động là vinh quang... dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã hơn một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên chiếc xích lô đạp...
Trong cảnh sống đó, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc, bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ. Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách...
Thánh Giuse đã thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực...
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Hôm nay là ngày lao động Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của sự cần lao...
Ðối với người Kitô, ngày Quốc tế lao động này gắn liền với con người của Thánh cả Giuse, quan thầy và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện và tác động và lời kêu mời của Chúa trong cuộc sống...
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 3: Thánh Giuse: người lao động.
“Con bác thợ mộc”! Lời phát biểu này không có gì là khinh chê, chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên, người ta không thể tưởng tượng được cậu con trai tầm thường, mà mọi người trong làng Nadarét đều biết con của Giuse sống trong tối tăm. Thế mà mọi người đều thấy cậu khôn ngoan, đầy quyền lực làm phép lạ. Luca đã dẫn hai câu châm ngôn ngắn gọn: Ngôn sứ không ở quê nhà! thầy thuốc không thiêng cho bà con! để giải thích hoàn cảnh này, họ còn đi xa hơn nữa biến đổi sự ngạc nhiên ra sự xúc phạm: họ dận dữ và quyết định giết đi cho khuất mắt. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều có nói: Đức Giê-su không muốn và cũng không thể làm được phép lạ vì họ cứng lòng tin... Những Phúc Âm hoang đường đã viết, Người đã làm nhiều điều kỳ diệu để tỏ cho họ biết Người là vị anh hùng vĩ đại, chỉ giản dị với danh hiệu: “Con bác thợ mộc”. Bác thợ mộc không có một ngôn sứ, không biết ăn nói, Giêsu chỉ là con ông Giuse thinh lặng thôi...
Giuse, Ngài đã nhận những lệnh của trời không qua cuộc đàm thoại như Ma-ri-a và Giacaria, nhưng qua giấc mơ, Ngài không thể nói gì, chỉ biết tỉnh dậy vâng lời; Giuse chỉ nói một tiếng như thiên sứ bảo; đặt tên con trẻ sinh ra bởi Ma-ri-a là Giêsu (có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ như Giosuê). Ngài đã nhận lệnh đặt tên, để biểu lộ Ngài được những đặc quyền thuộc dòng dõi David. Đó là dấu chỉ ân phúc cho Ngài như thiên sứ nói để giải tỏa nỗi âu lo của Ngài trước sự mang thai của Ma-ri-a: Giuse con dòng David... đó là vai trò thừa kế, không phải bằng đời sống huyết nhục, nhưng bằng sự nghiệp phong phú của lịch sữ Israel để thực hiện lời hứa với David. Nơi người con nuôi duy nhất của mình... vâng, Giuse chỉ nói một tiếng Giêsu, nhưng tiếng nói này quyết định cho lịch sử cứu độ. Rồi Ngài lại đi vào thinh lặng.
Như Claude đã viết: “Khi những dụng cụ được xếp vào chỗ của chúng rồi thì công việc trong ngày đã xong. Khi con lạc đà ở sông Giócdan ở Israel ngủ trong cánh đồng lúa về ban đêm... thì Giuse đi vào trong cuộc nói chuyện của Thiên Chúa với những tiếng thở dài không dứt...”.
L.P
SUY NIỆM 4: Thánh Giuse Thợ
(tonggiaophanhanoi.org // Enzo Lodi)
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm 1955 và được ấn định vào ngày 1 tháng 5 để mang lại cho lao động một chiều kích Kitô-giáo. Thật vậy, khuôn mặt thánh Giuse, người thợ mộc ở Nagiarét, đã kỳ diệu góp phần giúp chúng ta hiểu được giá trị và sự cao cả của giới lao động. Từ Hy-lạp Tectôn được dịch là “thợ mộc” gán cho Giuse có lẽ chỉ định người thợ mộc, thợ đá hoặc thợ kim loại và cũng có thể là thợ xây dựng nhà cửa.
Do truyền thống gia đình, chắc chắn Đức Giêsu đã được hướng dẫn để làm nghề này. Vì thế, chúng ta đọc trong Tin Mừng của Marcô: (Đức Giêsu) không phải là bác thợ, con Bà Maria sao? (Mc 6,3). Đối với người Do Thái thuộc thời soạn thảo Kinh thánh, công việc tay chân cũng thánh thiêng, đối với các Rabbi hay các tư tế cũng thế. Các Rabbi bình giảng sách Giảng viên cũng nói: “Con hãy lo cho mình có được một nghề nghiệp, song song với việc học hỏi lẽ khôn ngoan”. Thế rồi, không những hành nghề mà thôi, song còn phải truyền nghề cho con cái vì như sách Talmud đã chép: “Kẻ nào không dạy nghề tay chân cho con mình, kẻ đó như thể cướp mất sự nghiệp sinh tồn của con cái”. Sách này còn nhấn mạnh đến tính chất thánh thiêng và giá trị của công việc tay chân: “Người thợ, trong lúc lao động, không buộc đứng dậy tiếp bậc kinh sư cho dù là vị cao trọng nhất... Kẻ nào giúp ích cho người đồng loại bằng sức lao động của mình thì cao trọng hơn người học biết Thiên Chúa... Kẻ nào nuôi sống mình bằng sức lao động thì cao trọng hơn người vô công rỗi nghề, chỉ biết giam mình trong các tâm tình đạo đức...”
2. Thông điệp và tính thời sự
a. Lời nguyện trong Thánh lễ gợi cho chúng ta “Gương thánh Giuse”, được Tin mừng gọi là “người thợ mộc” (Mt 13,55). Truyền thống cho thấy ngài sống thân tình với Đức Maria, hôn thê của mình và với trẻ Giêsu, chính Người cũng được gọi là “bác thợ mộc” (Mc 6,3). Như thế cả ba vị đều tôn vinh Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ; Người muốn con người lao động để tôn vinh Người và tiếp tục công trình sáng tạo của Người (lời nguyện nhập lễ).
b. Bài đọc - Kinh sách, trích Vaticanô II (Hội thánh trong thế giới ngày nay) làm nổi bật ý nghĩa Kitô giáo trong các sinh hoạt của con người. “Nổ lực này đáp ứng với ý định của Thiên Chúa... Điều ấy cũng bao gồm các sinh hoạt thông thường nhất. Vì con người, nam cũng như nữ, khi nuôi sống mình và gia đình, đều phải hoạt động phục vụ xã hội. Họ có quyền nghĩ rằng sức lao động của họ mở mang công cuộc của Đấng tạo hóa và mang lại hạnh phúc cho các anh chị em, cũng như khả năng riêng của mỗi người, cũng góp phần kiện toàn kế hoạch của Thiên Chúa trong lịch sử”. Nơi khác, cũng Hiến chế này ghi nhận: “Nhờ việc làm của mình dâng lên Thiên Chúa, con người cộng tác vào chính công cuộc cứu rỗi của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nâng cao giá trị của việc làm khi Người làm việc với chính hai bàn tay của mình tại Nagiarét. Do đó, mỗi người có bổn phận phải trung thành làm việc và cũng có quyền làm việc nữa” (Vaticanô II: LG 67,2).
SUY NIỆM 5: Thánh Giuse
(giaophanvinhlong.net)
Gương thánh nhân: Năm 1955, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đã lập lễ thánh Giuse thợ. Mỗi năm kính nhớ vào ngày 1 tháng 5, ngày mà hầu hết các nước trên thế giới chọn làm ngày lễ lao động, tán dương khích lệ công lao con người đã dùng tài năng sức lực của mình để phục vụ đồng loại. Đức Giáo Hoàng đã nói rõ ý nghĩa ngày lễ thánh Giuse thợ như sau:
"Chắc chắn chúng ta phải hân hoan, vì người thợ vô danh ở Na-da-rét chẳng những là hiện thân cho giá trị chân tay trước mặt Chúa và Hội thánh mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của mọi người và của các gia đình và các bạn lao động."
Như chúng ta biết, thánh Giuse được Chúa chọn làm cha nuôi Chúa Giêsu, khi Người sinh ra làm người để cứu độ nhân loại. Thánh nhân là người công chính, luôn tuân hành thánh ý Chúa, sẵn sàng vâng nghe và làm theo lời Chúa dạy. Ngài tận tâm bảo vệ Đức Mẹ, nhiệt thành cộng tác với Mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc Chúa Giêsu. Để chu toàn sứ mệnh đó. Ngài làm nghề thợ mộc vất vả hằng ngày. Ngài lấy sức lao động của mình bảo đảm cuộc sống hằng ngày của Thánh gia.
Ngài là gương mẫu cho mọi người sống nghề lao động chân tay và cách riêng cho các Kitô hữu: lương thiện, cần mẫn, siêng năng làm việc lo cho gia đình. Chẳng những lo cho gia đình mà còn phát triển xã hội và tôn vinh Chúa, vì theo thánh công đồng Vaticanô II: "Đối với các tín hữu, chỉ có một điều chắc chắn là: hoạt động cá nhân cũng như tập thể của nhân loại, các nỗ lực vĩ đại của con người vất vả qua các thế kỷ là nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống. Việc này tự nó phù hợp với ý định của Thiên Chúa.
Thật vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó. Họ phải cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện. Nhận diện Thiên Chúa là Đấng sáng tạo mọi loài, họ phải quy hướng cả bản thân mình cũng như muôn vật về Người: để khi con người chinh phục được tất cả, thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu.
Điều đó cũng ứng dụng cho những công việc rất thường nhật. Khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, những người đàn ông, đàn bà hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu, đều có lý để coi lao động của mình tiếp nối công trình của Đấng Tạo hóa, phục vụ đời sống của anh em và đóng góp công lao vào việc hoàn thành chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử." 1
Thánh Giuse là gương mẫu của người lao động. Ngài còn là vị Giám hộ của những người làm việc chân tay. Và Ngài là vị Giám hộ đắc lực nhất, như lời Đức Thánh Cha Pi-ô XII nói: "Không có vị Giám hộ nào có đủ khả năng linh nghiệm truyền thông Phúc Âm cho đời sống thợ thuyền bằng thánh Giuse thợ."
Quyết tâm: Hằng ngày, tôi siêng năng làm việc, để giúp ích cho gia đình, xã hội, theo gương thánh Giuse, và chuyên cần kêu xin thánh nhân cầu thay nguyện giúp cho những người lao động nghèo khổ, bất hạnh.
Lời nguyện: Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa.Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, mà cho chúng con biết noi gương người để lại, là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành.
SUY NIỆM 6: Thánh Giuse Thợ
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Viết về thánh Giuse, chúng ta như có một cái gì đó thật ngỡ ngàng về con người im lặng trầm lắng của Người. Nhưng, thánh Giuse lại là một Người đầy quyền thế trước mặt Chúa Giêsu đến nỗi thánh Têrêsa Avila đã cảm nghiệm sâu sắc về vai trò của thánh Giuse, Ngài viết: ”…Trên trời thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin”.
Hôm nay ngày 01/5, ngày Quốc Tế Lao Động, cũng là ngày thánh Giuse được tôn vinh làm Bổn Mạng giới lao động.
CON NGƯỜI CỦA THÁNH GIUSE: MỘT HUYỀN NHIỆM: Nói đến thánh Giuse, mọi người đều hiểu rằng thánh nhân là một con người hoàn toàn im lặng, hầu như không được các Tin Mừng ghi chép lại một lời nào do miệng Người thốt ra. Nhưng chính sự im lặng của thánh nhân giúp chúng ta nghiệm ra mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thánh Giuse sở dĩ im lặng là để giúp nhân loại nhận ra rằng Thiên Chúa nói đã đầy đủ, bao gồm tất cả và thánh nhân không cần phải thêm gì vào Lời của Thiên Chúa.Thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa. Suốt cuộc đời của Người ở làng quê Nagiarét, thánh nhân vẫn im lặng hơn là nói. Sự thinh lặng của thánh Giuse luôn mang ý nghĩa lớn lao về sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nói về thánh Giuse mà không sợ quá lời, Ngài thinh lặng trong chiêm niệm để Chúa Thánh Thần dẫn đưa cuộc đời Ngài và để Ngài hoàn toàn tự do hành động theo ý của Thiên Chúa. Đây là một điều kỳ diệu, một huyền nhiệm cao siêu của cuộc đời thánh Giuse. Thánh Giuse đã thinh lặng để lắng nghe, để đón nhận và để cho trái tim mới của mình hướng dẫn và chỉ bảo con đường của Ngài theo ý của Thiên Chúa. Đúng là thánh Giuse đã biết lắng nghe, biết mở rộng tấm lòng để sống hiệp thông với Thiên Chúa.
THÁNH GIUSE LÀ MẪU GƯƠNG LAO ĐỘNG: Theo Tin Mừng, thánh Giuse sống ở Nagiarét, làm nghề thợ mộc để nuôi sống bản thân và gia đình. Thánh Giuse đã sống đời lao động theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Bởi vì, việc nhập thể của Chúa Giêsu làm người để sống với, sống vì, sống cho nhân loại, cho con người mở ra cho thấy thế giới được Thiên Chúa cứu độ. Thế giới nếu không có sự hiện diện của Thiên Chúa, thế giới sẽ thiếu vắng và không được cứu độ. Việc lao động của con người nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Con người với những suy nghĩ, với sự thiện chí của mình đã không chỉ nghĩ đến lợi nhuận, nghĩ đến làm giầu và tích lũy của cải, vật chất, nhưng có rất nhiều người,nhiều nhóm, nhiều phong trào đã đưa lao động càng lúc càng tiến gần đến kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Lao động sẽ không còn là đơn điệu, lập đi lập lại hàng ngày những công việc, những cách làm một cách máy móc, cho có lệ, qua loa để mau hết giờ để kiếm nhiều lợi ích, tiền của cho cá nhân, cho bản thân của mình, nhưng lao động theo mẫu của thánh Giuse là làm cho lao động mang một ý nghĩa cứu độ và phục vụ, lao động theo lời mời gọi của Thiên Chúa.
Thánh Giuse quả thực đã sống hoàn toàn theo tiếng gọi của Chúa và làm việc cũng theo tác động và lời mời gọi của Chúa. Do đó, ngày hôm nay, ngày Quốc Tế lao động chúng ta hãy cầu nguyện và noi gương bắt chước thánh Giuse sống, lao động theo đúng ý nghĩa lao động là góp tay làm vinh quang cho Thiên Chúa qua sự sáng tạo vũ trụ, con người và làm việc là để ơn cứu rỗi được chan hòa nơi thế giới này.
Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa. Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương Người để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó hầu được hưởng niềm vui, Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành 9 Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giuse thợ ).
SUY NIỆM 7: Thánh Giuse.
(theovetchannguoi)
Ứng với việc tổ chức “Ngày Lao Ðộng” khắp nơi trên thế giới, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.
Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Người huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.
Lời Bàn
“Sau đó Thiên Chúa đưa người đàn ông vào sống trong vườn Êđen, để cầy cấy và chăm sóc khu vườn” (Sáng Thế 2:15). Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên mọi sự và muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng ấy. Con người có phẩm giá là qua công việc, qua sự nuôi nấng gia đình, qua sự tham dự vào đời sống sáng tạo của Chúa Cha.
Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói, “Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, ‘Hãy đến cùng Thánh Giuse”” (xem Sáng Thế 41:44).
SUY NIỆM 8: LỄ THÁNH GIUSE THỢ
(Antôn Lương Văn Liêm)
Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Tay làm thì hàm nhai, tay quai thì miệng trễ”, với thánh Phaolô thì: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2Tx.3,10). Vâng! Đã mang lấy kiếp nhân sinh thì dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, quyền uy hay bần cùng, đời tu hay đời thường… ai cũng phải lao động vất vả mới có miếng ăn. “Lao động là vinh quang”, đây là câu nói khích lệ, trân trọng tất cả những ai đã và đang ngày đêm làm lụng vất vả trong việc mưu kế sinh nhai, trong việc giáo dục, chuyển giao luân lý, tri thức, khoa học, y học cho tầng lớp kế thừa…
Không vinh quang sao được! Vì làm việc, lao động tất cả đều khởi đi từ Thiên Chúa, Đấng hoạt động, làm việc không ngưng nghỉ như lời minh định của Đức Giêsu: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga.5,17). Thiên Chúa là Đấng lao động và thực hiện công việc của Ngài với mục đích duy nhất là bầy tỏ và trao ban tình yêu.
Vì yêu Thiên Chúa đã thực hiện việc tác dựng vũ trụ, vạn vật; vì yêu Thiên Chúa tác dựng và trao ban sự sống cho con người nhân loại, vì yêu mà Thiên Chúa thực hiện một công việc vĩ đại khi tự hạ bước xuống cõi trần mặc lấy thân xác con người yếu đuối, hữu hạn để dạy dỗ và cứu độ con người nhân loại….Khi mặc lấy kiếp phàm nhân (ngoại trừ tội lỗi), Thiên Chúa qua con người của Đức Giêsu, Ngài cũng có một cái tên là Giêsu thành Na-ra-rét, được sinh ra và lớn lên trong mái ấm gia đình, có mẹ là Đức Trinh Nữ Maria và dưỡng phụ là Thánh Cả Giuse, điều mà những người Do Thái khi xưa đã nói về Đức Giêsu Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa: “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ ông không phải là bà Maria sao?” (Mt.13,55); “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả”(Ga.6,42).
Thực trạng xã hội hôm nay, vì chạy theo lối sống “văn hóa thành công” đã và đang làm hình ảnh những người thợ trong mọi lĩnh vực, từ trong nhà đạo cho đến bình diện xã hội không còn mang những nét đẹp, cao thượng, mang những trái tim thịt mềm của Thiên Chúa. Nói theo cách của những anh em làm nghề xây dựng khi ta thán về cách nghĩ và hành động của công nhân: “Họ làm theo lương tuần, chứ không theo lương tâm”, nói như thế không có nghĩa là “vơ đũa cả nắm”, nhưng điều này đang là một đại dịch, là ung nhọt gây nhức nhối cho gia đình, Giáo Hội và xã hội.
Trong ngày lễ kính Thánh Giuse Thợ, Đấng bảo trợ cho tất cả những ai đang ngày đêm làm việc, lao động. Trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống, sức khỏe, tri thức để giúp ta lao động, làm việc, trước là tạo của ăn nuôi thân, giúp ích cho đời, Ngài mời gọi ta cùng cộng tác với Ngài trong chương trình sáng tạo và bảo tồn những gì mà Ngài đã tác dựng, ta cảm tạ Ngài vì Ngài đã và đang song hành, cùng làm việc với ta trong từng ngày sống.
Khi chiêm ngắm hình ảnh và gương sống của Thánh Cả Giuse, một người thợ, dẫu trong Kinh Thánh không nói nhiều về Ngài, không tường thuật một lời nào của Ngài, ngoại trừ lời giới thiệu của thánh sử Mát-thêu: “Ông Giuse, chồng bà là người công chính” (Mt.1,19). Vâng! Với niềm tin vào Thiên Chúa một cách đơn sơ, khiêm nhường, xin vâng theo Thánh ý Thiên Chúa một cách mau lẹ, không do dự; lòng quảng đại và từ bỏ ý riêng, ước mơ và sở thích của mình để thuận theo ý Chúa; chấp nhận và đón nhận những điều trái với ý riêng mình, đặc biệt là thấm nhuần Kinh Thánh và có một trái tim bao dung, yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những đức tính đó đã giúp cho Thánh Nhân lọt vào tầm ngắm của Thiên Chúa khi Ngài mời gọi và trao ban cho Thánh Nhân trách vụ trở thành người bạn đời của Đức Maria, trở thành dưỡng phụ của Đấng Cứu Thế.
Hướng về Thánh Cả Giuse, Ngài là một người thợ, người lao động, người chủ gia đình gương mẫu, thánh thiện, là cành huệ trắng luôn tỏa hương thơm ngát và không bao giờ tàn phai, ta nguyện xin Thánh Nhân giúp ta biết noi gương sống của Ngài, luôn tin tưởng và phó thác cuộc đời cho bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, giúp ta thực hiện mọi công việc từ lời nói tới hành động bằng một tình yêu, yêu Chúa và yêu người, ta xin Ngài cầu thay nguyện giúp cùng Thiên Chúa, nhất là với Thánh Tử Giêsu, để nhờ ơn Chúa giúp ta sáng suốt hơn, khôn ngoan hơn trong việc tìm kiếm kế sinh nhai, luôn chu toàn bổn phận của mình trong gia đình, cộng đoàn và ngoài xã hội, luôn là một người thợ chân chính. Cuối cùng ta nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Cả Giuse giúp ta và nhất là những vị lãnh đạo Giáo hội, những nhà truyền giáo luôn là những người thợ lành nghề trong cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát giữa thế giới hôm nay.
Thánh nữ Têrêsa Avila đã quả quyết một cách mạnh mẽ khi Thánh Nhân cầu cùng Thánh Cả Giuse: “Chưa bao giờ tôi xin Thánh Giuse điều gì mà Ngài không nhận lời”
Để kết thúc xin mượn lời cầu của thánh nữ Têrêsa Avila: “Lạy Thánh Cả Giuse! Trong suốt cuộc đời, Cha là niềm hy vọng, khi sinh hạ Chúa Giêsu, khi trốn sang Ai Cập, khi sống những ngày tha hương. Cha đã tìm thấy sức mạnh trong sự tin tưởng sắt đá vào quyền năng và lòng Nhân Lành của Chúa.
Hôm nay! Chúng con hết lòng trông cậy, chạy đến cầu xin Ngài. Xin Ngài hiệp lời cầu với chúng con, để xin Con Ngài nâng đỡ chúng con trong cơn khốn khó, xin Ngài ban sức mạnh để chúng con tiến lên như Ngài đã đã vượt thắng. xin Ngài ban cho chúng con ơn trông cậy mà Ngài đã có như ánh sáng hướng dẫn mọi ngày trong đời chúng con. Amen.”
SUY NIỆM 9: LAO ĐỘNG BIỂU LỘ VINH QUANG CỦA CHÚA GIÊSU PHỤC SINH
(Linh mục Giuse Đinh Quang Thịnh)
Chúa Giêsu khi từ cõi chết sống lại, Ngài hiện ra với bà Maria Madalêna, Ngài không tỏ vinh quang như trên núi Hiển Dung cho các môn đệ (x Mt 17), mà bà Maria Madalêna thấy Chúa Giêsu Phục Sinh tưởng đó là người làm vườn (x Ga 20,15). Chúa Giêsu Phục Sinh hữu ý mang dáng dấp người làm vườn là Ngài muốn nối tiếp sứ mệnh Thiên Chúa trao cho ông Adam phải canh tác vườn, nói lên quyền làm chủ vạn vật Thiên Chúa đã tạo dựng (x St 1,26 - 2,3.15), để Đức Giêsu trở nên mẫu người lao động cho cả loài người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Thiên Chúa làm người, cho con người được làm Thiên Chúa”. Nghĩa là nơi Đức Giêsu có hai bản tính: Bản tính loài người và bản tính Thiên Chúa. Do đó ai muốn trở nên giống Thiên Chúa trong bản tính loài người, thì phải lao động việc trần thế, và qua Bí tích Khai Tâm, con người đã được thông dự vào bản tính Thiên Chúa, thì còn phải lao động vào việc Nước Thiên Chúa.
I. VỚI BẢN TÍNH LOÀI NGƯỜI, ĐỨC GIÊSU LAO ĐỘNG VIỆC TRẦN THẾ.
Suốt ba mươi năm đầu cuộc đời Đức Giêsu, trong xưởng mộc với ông Giuse, cha Ngài tại Nazareth, thì người ta chỉ nhìn Ngài là “con bác thợ mộc” (x Mt 13,55), Ngài nói: “Con không thể làm gì tự mình, nhưng mọi sự đều vì đã trông thấy Cha làm, điều gì Người làm thì Con cũng làm như thế” (Ga 5,19).
Giáo huấn của Công Đồng Vat.II, dạy chúng ta biết về giá trị lao động trần thế: “Hoạt động của con người phát xuất từ con người, nên quy hướng về con người. Thật vậy, khi làm việc, con người không những biến đổi sự vật và xã hội, mà còn cải thiện chính mình. Bởi vì khi làm việc, con người học biết được nhiều điều, phát triển tài năng, cũng như thoát ra và vượt khỏi chính mình (*). Nếu được hiểu cho đúng thì, sự tăng triển này còn đáng gía hơn mọi của cải thu tích được. Giá trị của con người hệ tại ở “CÁI MÌNH LÀ” hơn là ở “CÁI MÌNH CÓ”. (x Hiến Chế Hội Thánh Trong Thế Giới Hôm Nay số 35).
Như thế làm việc không nhất thiết phải đạt thành công trước mắt, nhưng đã trở nên nghĩa người hơn. Chính Đức Giêsu suốt đời làm việc không ngơi nghỉ giống Cha trên trời (x Ga 5,17), thế mà cuối đời xem ra thất bại, bị mọi người khai trừ! Nhưng chính lúc ấy, Tổng trấn ngồi xử án, lại chỉ riêng vào Đức Giêsu đang đứng trước một rừng người, và ông lớn tiếng tuyên bố: “Này là Người” (x Ga 19, 5).
Kinh thánh kết án kẻ lười: “Kẻ lười tệ kém hòn phân, ai mà đụng nó là tay phủi liền” (Hc 22,2).Ai không chu toàn bổn phận mình, nó là anh em với quân phá hoại (x Cn 18,9).
(*) Khi làm việc con người được THOÁT RA: tức là thoát ra khỏi kiếp loài vật, vì con vật ăn sẵn những gì Thiên Chúa hoặc con người tạo nên cho nó: như con sâu ăn lá cây, con gà ăn giun, con heo ăn cám… Trái lại, con người dùng thực phẩm do tay mình làm ra.
Khi làm việc con người VƯỢT KHỎI CHÍNH MÌNH, tức là nhờ làm việc, con người có thêm của cải để chia sẻ. Chính nhờ biết chia đi, mà con người được biểu lộ giống Chúa, vì Thiên Chúa làm mọi sự chỉ để ban tặng cho loài người.
II. VỚI BẢN TÍNH THIÊN CHÚA, ĐỨC GIÊSU HẾT LÒNG LÀM VIỆC NHẰM THIẾT LẬP NƯỚC THIÊN CHÚA LÀ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO.
Tất cả những việc Đức Giêsu làm trong sách Tin Mừng ghi lại chỉ nhằm mục đích cho mọi người nhận biết Ngài là Thiên Chúa cứu độ duy nhất (x Cv 4,12), để dạy mọi người cách sống yêu. Đức Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Ngài qua việc làm: Kẻ đói Ngài cho ăn, người bệnh tật Ngài chữa lành, nhất là Ngài hết lòng rao giảng Lời Chúa Cha nhằm cứu độ loài người,và huấn luyện các môn đệ để nối tiếp sứ mệnh của Ngài. Những việc làm ấy, chỉ có giảng Lời và huấn luyện môn đệ, dù người ta chống đối, loại trừ, nhưng vẫn còn tồn tại cho đến tận thế. Như vậy, giảng Lời và huấn luyện con người,tạo chất xám phục vụ Nước Thiên Chúa quan trọng nhất. Vì ngay khi Đức Giêsu còn trên dương thế, những ai chỉ muốn Ngài cho bánh ăn, hoặc được lành bệnh, thì Ngài trốn đi cầu nguyện! (x Lc 4).
Thánh Giuse trong Tin Mừng chỉ cho biết ông làm nghề thợ mộc, công việc này để phụ giúp Đức Maria nuôi dưỡng Đức Giêsu. Nhưng ông khuất đi rất sớm, thì chắc chắn Đức Giêsu phải vất vả tiếp nối công việc của cha Giuse để phụ kinh tế trong gia đình với Mẹ Ngài. Thế thì việc lao động cơ bắp của ông Giuse không quan trọng lắm, mà quan trọng nhất là ông luôn tỉnh thức mau mắn làm theo Lời Chúa dạy, để đóng góp vào chương trình cứu độ loài người Con Thiên Chúa thực hiện.
Thực vậy, ông Matthêu ghi lại ba lần trong đêm tối ông Giuse mau mắn chỗi dậy thực thi Lệnh Chúa truyền:
- Lần I: Ban đêm Chúa ra lệnh cho ông Giuse phải chỗi dậy đón Maria, vợ ông về chung sống, để Maria sinh Con Đấng Tối Cao được an toàn, nếu không sẽ bị người đời ném đá, và ông còn có nhiệm vụ đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, để Đức Giêsu được sinh ra làm ứng nghiệm lời Sách Thánh đã tiên báo Đấng Cứu Thế thuộc dòng vua Đavid, vì ông Giuse thuộc dòng này (x Mt 1,18t).
- Lần II: Ban đêm Chúa ra lệnh cho ông Giuse mau chỗi dậy để đưa Hài Nhi trốn sang Ai Cập, vì vua Hêrôđê đang lùng kiếm giết Hài Nhi (x Mt 2,13-18).
- Lần III: Đang đêm Chúa bảo ông Giuse chỗi dậy đưa Maria và Hài Nhi trở về Nazareth, vì Ngài có sứ mệnh giải phóng loài người thoát nô lệ Satan, hơn sứ mệnh của ông Môsê đưa dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập (x Mt 2,19-23).
Ba lần trong đêm ông Giuse chỗi dậy làm theo ý Chúa tiên báo về Đức Giêsu sau ba ngày từ cõi chết sống lại, để hoàn tất việc giải phóng loài người thoát tay tử thần.
Như thế, qua Kinh Thánh Chúa muốn mọi người xác tín: Phải chu toàn việc Nước Thiên Chúa trước khi chu toàn việc trần thế, thì cuộc đời con người mới hạnh phúc. Chính vì thế mà kẻ nào chỉ lo chạy đến cầu cứu Đức Giêsu cho của ăn vật chất, hoặc được lành bệnh, thì Ngài đã trốn họ. Nếu họ cứ tìm đến Ngài, Ngài phải lên tiếng nhắc nhở: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,27-29).
Vậy mọi người muốn được Chúa chăm sóc, thì phải thực hành Lời Ngài dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
“Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước nhất”, cụ thể là mau mắn làm theo ý Chúa để chung tay phát triển Tin Mừng, xây dựng Hội Thánh, với tinh thần thánh Tông Đồ dạy: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha. Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời,vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Kitô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người” (Cl 3,14.17,23-24: Bài đọc).
Muốn sống tinh thần lao động như Đức Giêsu, như thánh Giuse, ta phải cầu nguyện: “Lạy Chúa, việc tay chúng con làm xin Ngài củng cố” (Tv 90/89,). Để “ngày lại ngày, xin chúc tụng Chúa, Thiên Chúa cứu độ ta, Người đỡ nâng ta” (Tv 68/67,20).
Lễ thánh Giuse Lao Động được đặt vào đầu tháng năm, tháng Hoa kính Đức Mẹ. Hội Thánh muốn con cái mình hãy làm việc với tinh thần giống Chúa Giêsu và thánh Giuse, để trở thành những bông hoa tươi thắm dâng kính Mẹ Maria.
Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời,vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Kitô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người (Cl 3,23-24).
SUY NIỆM 10: LỄ THÁNH GIUSE THỢ: BỔN MẠNG CÁC NGƯỜI CHA GIA ĐÌNH
(https://gxkimlong.wordpress.com)
Việc Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người trong một gia đình lao động không phải là một cớ vấp phạm (như đối với những người đồng hương của Chúa Giêsu thời bấy giờ), nhưng mang lại một ý nghĩa cao cả cho sinh hoạt của con người nơi trần thế. Đó là một “Tin Mừng về lao động”, khi Con Thiên Chúa đi vào đời thường của con người để giúp thánh hóa lao động, nâng cao phẩm giá lao động và mang lại ý nghĩa cho lao động.
Lao động không phải là một hậu quả của tội lỗi, bởi vì trước khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt họ vào vườn Ê-đen “để canh tác và chăm sóc”. Lao động chỉ trở nên “vất vả và cực nhọc” khi Adong và Evà phạm tội: “ngươi phải đổ mồ hôi mới có miếng ăn”.
Nhưng giờ đây, với sự hiện diện của Chúa Giêsu trong gia đình nhân loại, xuyên qua một gia đình lao động, Ngài đã trả lại cho lao động giá trị của nó và làm tăng thêm ý nghĩa.
Vạch ra các ý nghĩa khác nhau của lao động, trước tiên nêu lên:
+ ý nghĩa căn bản đầu tiên, đó là kiếm sống, nuôi sống bản thân. Thánh Phaolô nói: “Ai không làm thì đừng có ăn”. ừ đó mỗi người con trong giáo xứ đừng vì lười biếng mà trở nên một gánh nặng cho người khác, ăn bám người khác. Nhưng mỗi người hãy ra sức làm việc để có miếng ăn nuôi sống bản thân. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở ý nghĩa này mà thôi, thì con người vẫn thấp lè tè, vì mỗi ngày con gà, con vịt vẫn kiếm ăn.
+ Chính vì thế phải nâng cao ý nghĩa lao động con người, không chỉ kiếm tiền, kiếm sống mà thôi, nhưng là qua lao động để hoàn thiện bản thân. Hoàn thiện không chỉ về mặt kỹ thuật, kỹ năng, nhưng còn về con người, cần được trưởng thành hơn trong nhân cách, được nhân bản hóa, trau dồi các đức tính con người: trở nên người hơn.
Bởi vì ý thức rằng một người thợ giỏi chưa phải là một con người tốt! Lao động là cơ hội con người khẳng định chính mình, như là một chủ thể lao động, với những quyền và nghĩa vụ.
+ Điều đó dẫn đến ý nghĩa thứ ba của lao động: lao động là phương tiện trao ban chính mình. Qua lao động, con người không chỉ ích kỷ nuôi sống bản thân, vơ vét cho chính mình, nhưng là trao ban và làm phong phú cho người khác: cho gia đình của mình và cho xã hội. Một người cha hay mẹ không đem tiền về nuôi sống gia đình và nuôi dưỡng con cái, nhưng đem tiêu xài, cờ bạc rượu chè, thì không phải là lao động đích thực. Và mỗi người chỉ góp phần xây dựng xã hội khi đóng góp xây dựng tích cực cho xã hội qua công ăn việc làm của mình.
Đó là tham gia vào công trình tạo dựng của Chúa bằng việc nhân bản hóa môi trường xã hội, bằng việc trao ban, như Thiên Chúa đã trao ban cho con người coi sóc và canh tác vũ trụ, thì con người qua lao động cũng biết trao ban những gì mình làm cho người khác.
+ ý nghĩa truyền giáo của lao động. Lao động là phương tiện để thánh hóa bản thân và thánh hóa đời sống xã hội. Nó góp phần vào việc loan báo Tin Mừng qua việc dấn thân xây dựng lòng tôn trọng phẩm giá con người, xây dựng công bằng và liên đới, không trở nên nô lệ cho công việc, cho đồng tiền (một Kitô hữu sửa xe mà gian dối thì không thể loan báo Tin Mừng được!).
Qua lao động, người Kitô hữu còn hướng đến chân trời vĩnh cửu là sự sống đời đời, chứ không chỉ hạn hẹp trong thế giới này, như Đức Bênêđíctô XVI đã nói: “Nếu không có tầm nhìn vào đời sống vĩnh cửu, sự phát triển con người sẽ thiếu sức sống trong thế giới này…” (Caritas in veritate, 11).
+ Sau cùng, đối với người Kitô hữu, lao động là họa lại hình ảnh của Chúa Kitô: không chỉ nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô thánh hóa lao động của mình, nhưng giờ đây, những làm lụng vất vả cực nhọc từ nay mặc lấy một ý nghĩa mới, chúng không còn là hậu quả của tội lỗi, nhưng là tham dự vào mầu nhiệm thập giá của Chúa Kitô. Qua lao động, con người cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Chính trong các ý nghĩa đó mà cha Quản xứ cầu chúc cho các người cha gia đình, trong ngày lễ bổn mạng của mình, không chỉ là những người xây dựng gia đình bằng làm lụng kiếm sống, nhưng còn là những con người biết tạo ra những giá trị và ý nghĩa trong gia đình của mình, những giá trị đức tin, luân lý và nhân bản. Đó là đỉnh cao của lao động, qua lao động con người là những chủ thể biết tạo nên các giá trị và ý nghĩa cho sinh hoạt của mình.
SUY NIỆM 11: LAO ĐỘNG NHƯ PHỤNG TỰ
“Ông ấy không phải là con bác thợ sao?” (Mt 13,55)
Suy niệm: Khi Steve Jobs qua đời, nhiều người trên thế giới đã đặt nến và trái táo cắn dở trước các chi nhánh của tập đoàn Apple, bày tỏ lòng thương tiếc, tri ân một thiên tài đã làm thay đổi cuộc sống con người với các sản phẩm độc đáo như ipod, iphone và ipad.
Bên cạnh các tên tuổi lớn với những phát minh vĩ đại như ông, vẫn có đại đa số những con người vô danh không có một phát minh nào, nhưng lại đóng góp thật to lớn cho sự thiện hảo và hạnh phúc của con người.
Thánh Giu-se là một trong những người lao động thầm lặng ấy. Hội Thánh đặt ngài làm bổn mạng cho những người lao động âm thầm không chỉ để nói lên giá trị về các đóng góp cho hạnh phúc của gia đình và xã hội, mà còn để nêu cao mẫu gương sáng chói nhất của thánh nhân là: biến lao động thành một của lễ dâng để thờ phương Thiên Chúa.
Mời Bạn: Tựa như thánh Giu-se, công việc bạn làm không quan trọng, điều quan trọng trước mặt Chúa là cách bạn làm.
Ý hướng của bạn khi lao động và những đức tính cần thiết kèm theo khi lao động quyết định giá trị việc bạn làm trước cái nhìn của Thiên Chúa.
Sống Lời Chúa: Lao động là món quà yêu thương tôi gởi đến những người thân yêu mà tôi có nhiệm vụ chăm sóc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không giao phó việc giáo dục Đấng Cứu Thế cho một người cha nuôi là tiến sĩ luật hay một kinh sư, nhưng cho một bác thợ mộc.
Chúa muốn cho thấy giá trị cao cả trong lao động của con người, dù là những công việc thô sơ, đơn giản, thông thường. Xin cho chúng con có một cái nhìn mới về lao động, và sử dụng lao động như phương cách đẹp lòng Chúa.
SUY NIỆM 12: Thánh Giuse Lao động
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ kính Thánh Giuse Lao động.
Sở dĩ có Thánh lễ hôm nay là vì Giáo Hội muốn cho chúng ta ý thức được giá trị cao quí của lao động trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Quả vậy, lao động có những giá trị to lớn nhưng nhiều khi chúng ta không nhìn ra.
Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế “Vui Mừng và Hy Vọng” đã có những lời lẽ rất hay về vấn đề này: “Thực vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng mọi loài, họ qui hướng về Người chính bản thân mình cũng như muôn vật: Như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu. Những điều nhận định trên đây cũng ứng dụng được nơi những công việc hoàn toàn thường nhật. Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình, họ tiếp nối công trình của Ðấng Tạo Hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử”.(Chương III số 34)
1. Lao động làm cho con người tìm được niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống mình.
Vào thời Trung cổ, có một tín hữu Kitô nọ muốn thực hiện một cuộc hành hương.
Sau vài ngày đi bộ, người đó bị lạc vào trong một khu rừng vắng. Tuy là khu rừng vắng nhưng hai bên đường, người ta cũng thấy có những người thợ đá đang cố gắng đục đẽo và vác trên vai từng tảng đá lớn đem về. Người khách hành hương mon men đến gần một người thợ, mồ hôi đang chảy ra nhễ nhãi và muốn gợi chuyện, nhưng người thợ đập đá ấy chỉ trả lời một cách nhát gừng:
- Ông không thấy tôi đang lao động một cách vất vả sao mà cứ hỏi hoài vậy?
Người khách hành hương tìm đến người thứ hai, người này còn có dáng vẻ nặng nhọc hơn. Được hỏi đang tham gia vào công trình xây dựng nào, người thợ này chỉ trả lời:
- Người ta thuê tôi làm việc, tôi chỉ biết rằng từ sáng sớm đến chiều tà, tôi đổ mồ hôi xôi con mắt ra là để kiếm cơm bánh cho vợ con tôi thôi, còn xây dựng gì thì tôi không cần biết.
Trong thinh lặng, người khách hành hương lại tiếp tục cuộc hành trình. Lên đến đỉnh đồi ông lại gặp một người thợ đập đá khác. Người này cũng có dáng vẻ mệt nhọc tiều tụy không kém 2 người trước, nhưng nhìn kỹ trong ánh mắt của người thợ đập đá này, người khách hành hương thấy toát lên một sự thanh thản và nhẫn nhục lạ thường. Đến gần người khách hành huơng lên tiến hỏi:
- Ông đang làm gì đó?
Người đàn ông mỉm cười và vui vẻ đáp:
- Ông không biết à, tôi đang góp công xây dựng một ngôi thánh đường
Và người thợ đập đá đưa tay chỉ xuống một thung lũng, nơi đó, người khách hành hương nhận ra một ngọn tháp cao và từng viên đá được xếp lại ngay ngắn để làm nên bốn bức tường của một ngôi thánh đường.
Vâng! Cùng một công việc nhưng người ta đã không có được một cái nhìn giống nhau về mục đích của nó. Và chính vì thế mà cuộc sống của con người khác nhau: Người thì được hạnh phúc, kẻ thì phải đau khổ. Hãy cố mà tìm ra cho cuộc đời của mình một ý nghĩa qua những công việc hằng ngày để từ đó chúng ta có thể có được thật nhiều niềm vui!
2. Lao động còn giúp con người sống tình liên đới một cách tốt đẹp hơn.
Trong suốt mùa hè năm ấy, tôi có dịp quan sát một bé trai khoảng 12 tuổi, mỗi buổi sáng vào lúc 7 giờ, đến làng bên cạnh là địa phương chúng tôi để giao bánh mì. Đây là một em bé linh động, luôn vui vẻ và đúng giờ như một chiếc đồng hồ. Em dừng lại trước cửa những nhà giàu có muốn có bánh mì ăn sáng và sau đó lại vội vã đạp xe trở về nhà.
Ngày nọ, tôi có một cuộc đối thoại lý thú với em bé này như sau:
- Mỗi buổi sáng em phải dậy sớm, vậy em tự mình dậy hay phải có ai thức em dậy?
- Má em! Má em đánh thức tất cả mọi người trong nhà, trước hết là em. Kế đó, má cho em ăn sáng và em ra đi. Sau đó, má đánh thức ba dậy, dọn xúp cho ba ăn trước khi ba đi làm. Rồi lại đến giờ đánh thức mấy đứa em của em dậy đi học. Xong xuôi tất cả thì má lo cho đứa út, cho nó uống sữa và cuối cùng mẹ tự dùng sáng.
Mỗi chuyến giao hàng buổi sáng em được người ta trả cho bao nhiêu?
- Mỗi tuần 20 quan. Em có 10 khách hàng.
- Thế ba em lãnh một ngày được bao nhiêu?
- 30 quan, em nghĩ vậy.
- Còn má em, má em nhận được bao nhiêu?
- Má em ư? - em bé nhìn tôi lộ vẻ kinh ngạc-. Nhưng má làm việc không vì gì cả cơ mà!
Vâng! Công việc làm là phương cách hữu hiệu nối kết con người lại với nhau trong tình tương thân tương ái và nhờ đó họ có thể cảm nghiệm được tình đoàn kết với nhau một cách cụ thể hơn.
Chúa đã tạo dựng nên mỗi người một cách độc đáo không ai giống ai. Chẳng có ai là hoàn toàn trên trần gian này. Chúa tạo dựng nên mỗi người trong hạn hẹp bất toàn như vậy là để cho con người biết quý trọng nhau, biết hợp tác với nhau để nhờ đó mà cuộc sống của con người được tốt đẹp hơn.
3. Lao động là con đường làm cho con người trở nên xứng đáng làm người hơn.
Sau khi tạo dựng nên con người trong vườn địa đàng, Thiên Chúa trao cho con người trách nhiệm trông coi công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Cha Ta và Ta hằng làm việc và làm việc không ngừng” (Ga 5,17).
Thiên Chúa vẫn hằng làm việc. Như vậy khi ta làm việc là ta cộng tác với Thiên Chúa để làm cho trái đất này mỗi ngày mỗi đẹp hơn và cũng làm cho cuộc đời của ta giống Chúa hơn. “Cha ta và ta hằng làm việc và làm việc không ngừng”.
Thiền sư Trung Hoa Hyakyjo thường làm việc với các đệ tử, mặc dù ông đã 80 tuổi. Ông thường nhổ cỏ trong vườn, quét sân, hái củi. Các đệ tử của ông cảm thấy buồn vì ông thầy già của họ làm việc cực nhọc, không chịu nghỉ ngơi theo lời họ khuyên. Vì thế, một lần kia họ đem giấu hết dụng cụ làm việc của thầy Hyakyjo. Ngày hôm đó, thầy Hyakyjo không chịu dùng bữa. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, ông thầy già cũng không ăn. Các đệ tử đoán: “Chắc bởi vì tụi mình dấu đồ làm việc của thầy chứ gì? Thôi, tốt hơn là đem trả lại chỗ cũ cho thầy”.
Thế rồi, ngày họ làm việc, ông thầy già cũng làm và dùng bữa như trước. Chiều đến, Hyakyjo dạy họ: “Không làm, không ăn!”.
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
SUY NIỆM 13: Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn.
(Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên)
Ngày xưa, có một ông vua muốn thử xem thần dân của mình ra sao, ông bèn tổ chức một cuộc vi hành. Ông lén đặt một tảng đá thật to giữa một con đường nhiều người qua lại, không phải để bắt buộc người dân phải bê nó đi, mà muốn xem người dân sẽ phản ứng tự nhiên ra sao với những vật gây cản trở mà họ bất ngờ gặp trên đường.
Sau khi đặt tảng đá, ông nấp vào một chỗ gần đó để quan sát. Nhiều người trông rất giàu có và lịch sự, ăn mặc áo lượt quần là đi qua. Họ than phiền với nhau rằng tảng đá làm nghẽn đường đi, coi nó là một vât đáng ghét. Thậm chí còn xúc phạm Đức Vua đã không cho người giữ đường xá sạch sẽ. Nhưng có một điểm chung là: chẳng ai đoái hoài gì đến tảng đá đó, họ thà đi vòng chứ không chịu đẩy nó ra vệ đường.
Tình cờ một bác nông dân nghèo đi chợ về ngang với một giỏ đầy rau. Nhìn thấy tảng đá, bác đặt giỏ của mình xuống và cố đầy tảng đá đi. Nhiều người đi qua thấy vậy, cười giễu bác là nhiễu sự. Nhưng chẳng một ai dừng lại giúp đỡ bác.
Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng bác nông dân cũng thành công. Khi đẩy tảng đá đi được, bác mới phát hiện có một cái túi nằm trên mặt đường, ở chổ mà lúc nãy tảng đá nằm. Bác mở cái túi thì thấy có rất nhiều tiền. Lúc bấy giờ bác đã hiểu được một điều mà nhiều người khác không hiểu: Sau mỗi trở ngại, đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.
***
Chúng ta biết rằng, vào năm 1955, ĐGH Piô XII đã long trọng đặt thánh Giuse là Đấng Bảo trợ cho những người lao động trên khắp thế giới.
Thông thường, người ta hay gán cho những người quyền thế một tước vị cao sang đi kèm theo… thế nhưng ở đây, ĐGH lại đặt Thánh Giuse làm đấng bảo trợ những người lao động chân tay - một tước vị xem ra, có vẻ bình thường, thế nhưng lại làm toát lên tất cả phẩm chất phi thường của con người “công chính” này.
Chúng ta biết, Thánh Kinh không dùng nhiều lời để nói về Thánh Giuse. Bản thân ngài cũng chẳng để lại một lời nào trong Kinh Thánh, nhưng qua việc làm của ngài, đã mang lại cho chúng ta những bài học quý giá.
Tự ban đầu, lao động vốn không phải là một hình phạt, nhưng là một lời mời gọi cộng tác với công trình tạo dựng của Thiên Chúa để làm cho đất đai, hoa màu sinh sôi, nảy nở. Lao động làm cho con người phát triển một cách toàn diện về sức vóc cũng như nhân cách. Chính Thiên Chúa cũng luôn luôn làm việc, như lời Đức Giêsu nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ, và Ta cũng làm việc liên lỉ”. Thế nhưng, kể từ sau khi Nguyên Tổ phạm tội, thì đất đai trở nên gai góc. Lao động trở nên cực nhọc: Con người phải lao tác, đổ mồ hôi mới có miếng ăn.
Tuy là Cha nuôi Đức Giêsu – Con Thiên Chúa – nhưng thánh Giuse cũng mang thân phận con người như chúng ta, nên bản thân ngài cũng phải lao tâm khổ tứ để có thể nuôi sống gia đình Nadarét. Dù lao động vất vả cực nhọc, nhưng không ai thấy ngài có một lời phàn nàn, kêu trách. Ngài cũng không đòi cho mình được hưởng những quyền lợi mà đáng lý mình được hưởng, nhưng một lòng chấp nhận kiếp sống “Lấy bát mồ hôi đổi bát cơm”. Chắc hẳn, qua việc làm và đời sống của thánh nhân, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của Đức Giêsu.
Không chỉ làm việc cực nhọc vất vả, mà thánh Giuse còn luôn làm việc trong sự “lắng nghe tiếng Chúa”. Ngài mau mắn thi hành ý Chúa mà không một lời phản ứng hay hoài nghi. Ngài sẵn sàng đón nhận Đức Maria về nhà làm vợ mình theo lời Sứ thần yêu cầu, cho dù ngài chưa hiểu được việc Đức Maria mang thai là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Theo lời Sứ thần báo mộng, Ngài tức tốc đưa trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn sang Ai cập đang lúc đêm khuya. Ở nơi đất khách quê người, để kiếm được miếng cơm manh áo nuôi sống một gia đình là điều không hể dễ dàng chút nào. Kinh nghiệm đó, có lẽ những anh chị em đã từng đi làm ăn xa là những người thấu hiểu hơn ai hết.
Rồi cũng chính ngài, theo lời Sứ Thần, lại đưa Đức Giêsu và Mẹ Người từ Ai Cập trở về sống tại miền quê nghèo Nazarét. Ở nơi đây, Ngài sống gần gũi và hòa đồng với mọi người đến nỗi, người làng Nadaret gọi Đức Giêsu là “con bác thợ mộc Giuse”.
***
Trong một xã hội mà đối với nhiều người, lao động đang trở thành một gánh nặng, thì mẫu gương lao động của Thánh Giuse là lời nhắc nhở chúng ta. Câu khẩu hiệu “Lao động là vinh quang” dường như ai ai cũng thuộc, thế nhưng, trong thực tế, không ít người lại tìm cách trốn tránh cái “vinh quang” đó. Trong khi, nhiều người xả thân ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp chung, lo cho sự thăng tiến của cộng đồng, thì cũng có những người chỉ tìm cách vun vén cho lợi ích của bản thân mình. Trong khi nhiều người bôn ba xuôi ngược để kiếm bát cơm, manh áo, thì lại không thiếu những người chỉ muốn ăn trên ngồi chốc hoặc tìm cách làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Trong khi nhiều người làm ăn chân chính, thì cũng không thiếu những người dùng những thủ đoạn, mánh khóe, thậm chí dùng những phương thế tầm thường nhất để tiến thân.
Vậy làm sao để “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn?”, làm sao để sống và làm việc một cách ngay chính giữa cuộc đời vốn có quá nhiều nhiễu nhương này? Thiết tưởng, chúng ta hãy nhìn lên tấm gương của Thánh Giuse: Một con người vĩ đại nhưng cũng rất đỗi khiêm nhường.
Vĩ đại - bởi ngài là cha nuôi Chúa Cứu Thế đồng thời là bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.
Nhưng cũng thật khiêm nhường - bởi ngài sống và làm việc một cách cần mẫn trong sự tin tưởng tuyệt đối vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa.
Mừng lễ Thánh Giuse công nhân hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh Giuse giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của việc lao động, để qua những công việc hằng ngày, dù vất vả nặng nhọc hay an nhàn thư thái, chúng ta vẫn luôn tìm được niềm vui, bởi biết được rằng: Trong và qua lao động, chúng ta đang tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Và nếu có gặp phải những trở ngại trên đường đời hay trong công việc làm ăn thì chúng ta cũng được an ủi, bởi vì chính thánh Giuse - đấng bảo trợ của chúng ta - cũng đã trải qua những giai đoạn khó khăn như vậy, nhưng chúng ta luôn tin tưởng rằng: Ở đằng sau mỗi trở ngại đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.
Lạy Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn. Xin cầu cho chúng con!
SUY NIỆM 14: SUY NIỆM NGẮN VỀ THÁNH GIUSE THỢ
(Trích Gương Thánh Nhân)
Vì muốn nâng cao tầm quan trọng của sức lao động của con người trong việc giữ gìn và phát triển thế giới, nên Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.
Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Ngài huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.
Lời Bàn
"Sau đó Thiên Chúa đưa người đàn ông vào sống trong vườn Eden, để cầy cấy và chăm sóc khu vườn" (Sáng Thế 2:15). Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên mọi sự và muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng ấy. Con người có phẩm giá là qua công việc, qua sự nuôi nấng gia đình, qua sự tham dự vào đời sống sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói: "Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, 'Hãy đến cùng Thánh Giuse''" (xem Sáng Thế 41:44).
************************
*******************************
Thứ Bảy: Ga 14, 7-14
Thứ Bảy 01/05/2021 – Cầu nguyện nhân danh Chúa.
01/05 – Thứ Bảy đầu tháng, tuần 4 Phục Sinh.
"Ai thấy Thầy là xem thấy Cha".
Lời Chúa: Ga 14, 7-14
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm.
Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".
SUY NIỆM 1: Làm những việc lớn hơn nữa
Suy niệm:
Sau khi ông Tôma hỏi Thầy Giêsu về đường (Ga 14, 5),
thì ông Philípphê lại xin Thầy cho các môn đệ thấy Chúa Cha (c. 8).
Không rõ Philípphê muốn thấy Thiên Chúa theo kiểu nào,
bởi lẽ theo niềm tin chung của người Do thái
không ai thấy Thiên Chúa chí thánh mà sau đó còn sống được (x. Xh 33, 20).
Dù sao khát vọng được thấy Thiên Chúa là ước mơ chính đáng.
Thiên Chúa đã thỏa mãn ước mơ mà Ngài đã đặt vào lòng con người.
Nơi Đức Giêsu, là Ngôi Lời nhập thể và là Con Thiên Chúa,
chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa bằng mắt phàm.
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (c. 9).
Nhìn ngắm khuôn mặt Thiên Chúa nơi Đức Giêsu
chúng ta chẳng những không phải chết, nhưng được sống.
Theo quan niệm của người Do thái,
sứ giả là đại diện trọn vẹn cho người sai mình.
Đức Giêsu đã là sứ giả cho Cha một cách tuyệt vời.
Ngài là một với Thiên Chúa, Đấng sai Ngài:
“Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy” (c. 11).
Các lời Ngài nói, Ngài không tự mình nói.
Các việc Ngài làm, Ngài không tự mình làm.
“Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình” (c. 10).
Nhìn những việc Đức Giêsu làm, chúng ta nhận ra đó là việc của Cha.
Cha làm việc của Cha qua Con của mình là Đức Giêsu.
“Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những việc Thầy làm.
Người đó còn làm được những việc lớn lao hơn nữa,
bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (c. 12).
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống chiến thắng.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha và được vào trong vinh quang.
Khi tin vào Ngài, khi gắn bó với một Đấng phục sinh quyền năng như thế,
chúng ta có thể làm được những điều như Ngài đã làm:
trừ quỷ, chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết (Mc, 16, 17-18; Cv 9, 34.40).
Và như Đức Giêsu, điều vĩ đại mà chúng ta có thể làm cho thế giới hôm nay
là yêu thương, yêu như Thầy đã yêu, yêu đến hiến mạng.
Hãy mạnh dạn nhân danh Đức Giêsu mà xin,
vì biết thế nào Ngài cũng làm cho người gắn bó với Ngài.
Tất cả để Cha được tôn vinh nơi Con (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: TRÀN ĐẦY HOAN LẠC VÀ THÁNH THẦN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Phi-lip-phê tâm thành muốn biết Đức Chúa Cha. Nhưng câu trả lời của Chúa Giê-su đầy bức xúc, buồn phiền lẫn với trách móc: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh chưa biết Thầy ư”? Hỏi về Cha mà lại trả lời về Con. Vì “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Vì thế “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Hỏi về Cha như thế là chưa hiểu Con. Chưa hiểu vì chưa đi vào tình yêu. Tình yêu không thể định nghĩa. Chỉ có thể cảm nghiệm. Ai chưa yêu thì chưa hiểu được tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu. Ba Ngôi trong một Chúa. Một tình yêu hoàn hảo. Nên Ba Ngôi kết hợp mật thiết. Vì “Ta và Cha Ta là một”. Chúa Giêsu hoàn toàn kết hợp với Chúa Cha. Đến độ “Các lời Thầy nói với an hem, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình”. Cuộc kết hợp chặt chẽ đến nỗi Chúa Giêsu “sống nhờ Chúa Cha”. Và vì lương thực của Chúa Giêsu chính là làm theo ý Chúa Cha. Như vậy trọn tấm thân, cuộc sống, mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của Chúa Giêsu đều là của Chúa Cha. Tình yêu trong Chúa Thánh Thần khiến Ba Ngôi trở thành nguồn mạch tình yêu, nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng hỏi tôi như hỏi Phi-lip-phê: “Thầy ở với con bấy lâu mà con không biết Thầy sao”. Vì biết Chúa Giêsu thì phải đi vào tình yêu. Phải sống nhờ Chúa Giêsu. Và như Chúa Giêsu sống nhờ Chúa Cha, tôi phải để Chúa Giêsu suy nghĩ, nói năng và hành động trong tôi.
Thánh Phao-lô là người đạt đến trình độ đó. Nên ngài có thể nói: “Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá cùng với Chúa Kitô. Nên nếu tôi sống, không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Các tông đồ sau ngày Chúa Phục Sinh cũng đã đi vào tình yêu Chúa Kitô. Các ngài không còn sống theo xác thịt nữa, nhưng sống theo Chúa Thánh Thần. Các ngài sống trong tình yêu. Các ngài thực sự biét Chúa Kitô, biết Chúa Cha và luôn sống theo Chúa Thánh Thần. nên các ngài luôn bình an. Dù gặp gian nan khốn khó, bắt bớ. Nhưng các ngài luôn tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.
SUY NIỆM 3: Cầu nguyện nhân danh Chúa.
Thường tình chúng ta không tiếc lời ca ngợi kẻ xa lạ vì đã làm được những việc đáng kể, nói ra nhiều câu chí lý, có một hành động đáng phục. Trong khi đó chúng ta lại rất hà tiện lời khen đối với người sống gần bên cạnh, trong chính tập thể chúng ta, dù người đó không những đã làm, đã nói, đã sống, mà còn hơn cả những người được ca ngợi, nhưng lại sống xa chúng ta. Ðây có thể phần nào là hoàn cảnh sống của các môn đệ, nhất là của Philipphê. Họ đã sống gần Chúa Giêsu, Thầy của mình, bao nhiêu năm qua, nhưng dường như họ vẫn chưa hiểu Chúa và mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha. Chính vì thế, mà trong câu nói của Chúa Giêsu cho các môn đệ có mang chút ít sự chua xót và trách móc: "Thầy đã ở với các con lâu rồi mà các con không biết Thầy sao? Hỡi Philipphê, ai xem thấy Thầy thì cũng xem thấy Cha. Hãy tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Ít nhất, các con hãy tin điều đó vì thấy các việc Thầy đã làm".
Thật thế, không thiếu những dấu chỉ cho chúng ta biết mối quan hệ thâm sâu và đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha. Ðặc biệt trong đoạn Phúc Âm vừa đọc trên, chúng ta có thể ghi nhận một dấu chỉ đặc biệt, đó là Chúa Giêsu qua Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban xuống, sẽ ban cho các môn đệ làm những việc cả thể hơn nữa. Họ sẽ hành động nhân danh Chúa, sẽ khai sinh một cộng đoàn mới, một Giáo Hội của Chúa. Nhưng chắc chắn các môn đệ sẽ gặp khó khăn và phương thế để vượt qua những khó khăn là cầu nguyện, cầu nguyện nhân danh Chúa. Hai lần trong cùng một đoạn văn vừa đọc, Chúa Giêsu đã yêu cầu các môn đệ của Ngài hãy cầu nguyện, cầu nguyện hết lòng tin tưởng, cầu nguyện nhân danh Chúa. Chúng ta có xác tín về những gì Chúa Giêsu giãi bày cho chúng ta hay không?
Lạy Chúa, trong ánh sáng phục sinh của Chúa, chúng con được mạc khải cho biết thực thể đúng thực của Chúa, là Ðấng sống hiệp nhất với Thiên Chúa Cha, nhưng đồng thời không bỏ quên chúng con. Chúa muốn chúng con hướng về Chúa. Xin đừng để chúng con đi tìm một vì Thiên Chúa khác, mà quên chính Chúa, là Ðấng luôn luôn hiện giữa chúng con mọi nơi mọi lúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Cảm nghiệm lời chứng
Phi-líp dám liều như Mô-sê và Ê-li-a đã xin thấy mặt Thiên Chúa. Các ông đã nhận được tiếng Chúa nói từ trong bụi gai bốc lửa và trong tiếng gió nhè nhẹ, đó là sự cảm nghiệm huyền nhiệm. Nhưng họ chỉ được đáp lời thật sự lúc Thiên Chúa hiện hình trong Đức Giêsu. Đó là lúc biến hình mà Chúa Cha đã cho thấy Con Ngài vinh quang sáng láng và bao phủ bằng tình yêu dấu của Chúa Cha trước mặt các tông đồ làm cho các ông ngất đi trong ánh sáng.
Ánh sáng này được Đức Giêsu tỏ ra cho những người đồng bàn trong bữa tiệc ly, khi nói về Chúa Cha vô hình, đó là ánh sáng của tình yêu hy sinh tận tình. Chính Đức Giêsu đã đón nhận tình yêu Chúa Cha trong Người, và tình yêu này sẽ đốt cháy Người đến lúc chết.
Thực sự, điều chúng ta thiếu, đó là thiếu nhận biết về Đức Giêsu bằng cảm nghiệm thân mật. Nhờ vốn kiến thức, nhờ nghiên cứu những bản văn thánh, chúng ta chỉ mới nhận được một Đức Giêsu bên ngoài chúng ta, bằng định nghĩa và bản tóm. Đó chỉ là bước đầu: cần thiết nội tâm hóa tất cả những hiểu biết đó trở nên cảm nghiệm sống động làm nguồn suối đặt nền móng cho chính mình, cam kết gắn bó riêng tư với Ngài. Nhưng nhiều lần sự cam kết gắn bó ấy vọt chảy ra một tình cảm luyến ái từ tâm can, một ước muốn cảm mến xúc động như được đụng chạm một niềm vui sướng chóng qua.
Cần thiết phải đào sâu và đi xa hơn nữa, đến tận căn tính trong bản vị tinh thần của chúng ta, mới thực sự là sự hiệp nhất dưới tác động của Thánh Thần. Chỉ có sức mạnh Thánh Thần mới làm cho chúng ta sống sâu sắc mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô. “Tái sinh bởi Thánh Thần” như Đức Giêsu đã nói với ông Ni-cô-đê-mô, là làm cho con người chúng ta từ tâm trí, tình yêu và linh hồn được hiệp thông với Chúa Cha trong Đức Kitô.
Đức Giêsu đã làm chứng cho ta thấy Chúa Cha và Người đã trở nên chứng nhân cho tình yêu của Ngài và cho mọi người bằng việc Ngài làm. Vậy chúng ta làm chứng cho tình yêu nào? Tình yêu đó có được làm chứng bằng việc làm của chúng ta không? Bằng chứng có thể hiện được tài năng nhân tính và sức sống tinh thần của chúng ta không? Những chứng nhân của lòng yêu thương đôi khi trở thành tử đạo như Đức Kitô.
L.P
SUY NIỆM 5: Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống
Một vị vua nọ có lần nẩy ra ý nghĩ táo bạo: ông cho triệu mời các lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu. Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa: làm thế nào có thể thỏa mãn được một ước muốn càn gở như thế. Biết được nỗi lo âu của các nhà lãnh đạo, một kẻ chăn chiên dẫn nhà vua đến đồng cỏ nơi anh thường chăn súc vật. Họ đi bộ, chứ không dùng xe, khi tới nơi, mặt trời đã gần đỉnh ngọ. Kẻ chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và xin nhà vua nhìn. Vua nổi giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của ông hay sao. Bấy giờ kẻ chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thừa: “Tâu bệ hạ, chỉ một vật do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được”. Chính lúc ấy, nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa không phải bằng đôi mắt, nhưng bằng niềm tin.
Trong Tin Mừng hôm nay, Philip, một trong mười hai đã xin Chúa Giêsu tỏ cho thấy Thiên Chúa Cha. Chắc hẳn khi nói điều đó Philip đã liên tưởng đến hình ảnh một Thiên Chúa quyền năng đã tỏ vinh quang Ngài trên núi Sinai, một Thiên Chúa mà Môsê chỉ được thấy phía sau lưng Ngài. Tâm trạng của Philip cũng là tâm trạng của rất nhiều người trong chúng ta, đó là một niềm tin đòi hỏi sự lạ. Bởi thế, không ít người sẵn sàng hao tổn tiền bạc và thời giờ để tìm đến những nơi xẩy ra sự lạ, đối với họ, một lần hành hương có ý nghĩa và giá trị cho cả cuộc đời.
Đáp lại yêu cầu của Philip, Chúa Giêsu đã đưa ra một khẳng định và một câu hỏi: trước hết Ngài nêu lên một chân lý: “Ai thấy Thày là thấy Cha Thày”, đó là một thực tại đã phá hiển nhiên; câu hỏi tiếp sau đó như một nhắc nhở cho Philip: hãy nhìn lại cuộc sống thân tình giữa Thày và các môn đệ. Những lời Thày nói, những việc Thày làm, không phải là của Thày, mà là của Thiên Chúa Cha ở trong Thày. Sự thân tình quen thuộc đã khiến cho các môn đệ không nhận ra Ngài là Thiên Chúa. Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với Philip cũng là lời nhắc nhở chúng ta: đừng để những nét quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước mặt Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm dấu lạ, nhưng dấu lạ xẩy ra trước mặt mà chẳng nhìn thấy: hàng ngày qua lời truyền phép, Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ, nhưng đã mấy khi chúng ta tỏ thái độ cung kính tin nhận Ngài? Trong cuộc sống biết bao lời cầu xin được dâng lên Thiên Chúa nhưng đã mấy lần chúng ta phải tỉnh để nhận ra ơn lành Ngài ban.
Ước gì chúng ta giữ mãi thái độ tìm kiếm, một sự tìm kiếm không ở đâu xa, nhưng trong chính cuộc sống quen thuộc hàng ngày. Đập vỡ chiếc vỏ quen thuộc bằng cách ngạc nhiên đặt câu hỏi, chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: KẾT HỢP VỚI CHÚA – LÀM ĐƯỢC MỌI SỰ (Ga 14, 7-14)
Chúng ta nghe nói đây đó nhiều vị thánh đã làm phép lạ cách phi thường. Có nhiều đấng làm phép lạ ngay khi còn sống, chẳng hạn như thánh Giêrađô, Vinh Sơn, Mattinô...
Đứng trước những phép lạ đó, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng và ngạc nhiên! Tuy nhiên, chìa khóa để mở ra sự bất ngờ này, chính là sự kết hiệp mật thiết sâu xa giữa các thánh và Đức Giêsu. Vì thế, việc phi thường các thánh làm thực ra không phải, mà là Chúa đang hành động nơi các ngài.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rất rõ về sự kết hiệp này. Câu chuyện được khởi đi từ sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên của Philípphê khi ông cất lên hỏi Đức Giêsu về một sự kiện có tính siêu nhiên: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu đã trách nhẹ ông, vì Ngài đã ở với các ông bấy lâu, giảng dạy nhiều điều, đã làm những dấu lạ điềm thiêng, cũng như mạc khải cho ông biết Ngài từ Chúa Cha mà đến, và làm những việc của Chúa Cha, vậy thì tại sao ông và các môn đệ vẫn không tin??? Thật là đáng buồn! Vì thế, Đức Giêsu nói với ông Philípphê rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm”.
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn dạy cho các Tông đồ một bài học về sự kết hiệp. Không kết hiệp với Ngài thì không thể làm được việc gì. Nhưng nếu kết hiệp với Ngài thì sẽ làm được mọi chuyện như chính Ngài đã làm và có khi còn hơn thế nữa... Khuôn mẫu của sự kết hợp chính là giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha. Người môn đệ khi ra đi loan báo Tin Mừng cũng vậy! Phải kết hợp chặt chẽ với Chúa như cành liền cây. Có thế, chúng ta mới trở thành người mang Tin Mừng cho anh chị em mình. Không có điều này, chúng ta sẽ chỉ làm những chuyện mà chúng ta thích chứ không phải là Thiên Chúa muốn! Và theo lẽ đương nhiên, chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì vì chúng ta đã không nhân danh Đức Giêsu mà xin với Thiên Chúa. Chính vì điều này, mà chúng ta thấy nhiều sứ giả của Chúa bị thất bại, gãy cánh...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống sự hiệp thông chặt chẽ với Chúa để chúng con trở thành chứng nhân chân thật nhờ biết gắn bó với Ngài. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ về Chúa Cha. Tất cả đời sống của Đức Giêsu: lời nói, suy tư, việc làm... đều qui về Chúa Cha. Và cũng trong Đức Giêsu, mầu nhiệm cao siêu của Chúa Cha được bầy tỏ cách hoàn hảo nhất. Trong Cha có Con và trong Con có Cha. Vì thế, tin vào Đức Giêsu là tin vào Chúa Cha. Và xin gì với Chúa Cha nhân danh Đức Giêsu thì chính Đức Giêsu thực hiện.
2. Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: “Xin cho chúng con thấy Chúa Cha”, điều đó chứng tỏ khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người, những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa. Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ về Chúa Cha, về mối tương quan của Ngài với Cha: “Ai biết Thầy là biết Cha” và “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”. Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa. Tất cả đời sống của Đức Giêsu: Lời nói, suy tư, việc làm... đều qui về Chúa Cha.
Chúa Cha được bầy tỏ cách hoàn hảo nhất trong Đức Giêsu: Trong Cha có Con và trong Con có Cha. Vì thế, tin vào Đức Giêsu là tin vào Chúa Cha. Và xin gì với Chúa Cha nhân danh Đức Giêsu thì được chính Đức Giêsu thực hiện.
3. Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật và là người thật. Đứng về phương diện loài người, Đức Giêsu giống chúng ta mọi đàng, chỉ khác một điều là không có tội. Quả thế, con người là con đường dẫn về với Chúa. Thiên Chúa xem ra không chọn lựa một con đường nào khác hơn để tỏ mình ra cho bằng con đường con người. Ngài đã nói bằng cả lịch sử của dân Israel, và cuối cùng, như tác giả thư Do thái khẳng định: Ngài đã nói bằng người Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ta là đường”, chỉ qua Ngài, con người mới có thể biết Thiên Chúa là ai và nhất là mới có thể đến với Thiên Chúa.
4. Tuy chưa thấy nhan thánh Chúa, qua Đức Giêsu Kitô, con người vẫn có thể đi vào tương quan mật thiết với Ngài, Thiên Chúa mà chúng ta có thể chiêm ngắm qua Đức Giêsu không phải là một pho tượng bất động, mà là một ngôi vị sống động. Đức Giêsu đã mạc khải ngôi vị ấy như một người cha yêu thương. Do đó, tương quan của con người với Thiên Chúa không phải là tương quan chủ - tớ; con người không đến với Thiên Chúa bằng tâm tình của người nô lệ sợ hãi, mà là bằng lòng tin tưởng phó thác của một người con (Mỗi ngày một tin vui).
5. Khao khát được biết Thiên Chúa là khát vọng chính đáng của con người, và cùng đích của con người là được đời đời chiêm ngưỡng thánh nhan Cha. Chính vì thế mà sau khi Đức Giêsu nói về Thiên Chúa Cha, tông đồ Philipphê đã không ngần ngại thưa với Đức Giêsu rằng: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con đã mãn nguyện”.
Thấy Thiên Chúa Cha ư? Con mắt phàm tục không nhìn thấy Thiên Chúa. Đó là điều được nói đến trong Cựu ước, rằng không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống: Maisen phải che mặt khi đối diện, Êlia chỉ được nhìn thấy phía sau, các tổ phụ, thẩm phán, và tiên tri chỉ thấy Chúa qua các thiên sứ hoặc các biến cố như mây, lửa... Và chính Đức Giêsu cũng khẳng định: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng phải nhờ Chúa Con mạc khải cho”. Mở đầu bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
6. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng phải giới thiệu Chúa cho những người khác. Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, được đứng thẳng như những con người tự do. Như vậy, cũng trong mức độ sống tự do và trưởng thành, con người trở thành con đường dẫn về với Chúa. Thật thế, một nhân cách sung mãn là con đường dẫn về với Chúa. Đức Giêsu là đường dẫn về với Chúa Cha theo ý nghĩa ấy: không ai đã là người một cách sung mãn hơn Ngài. Đi trên con đường về với Chúa Cha là chính Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng được mời gọi trở thành lối dẫn về với Chúa, nhưng họ chỉ có thể là lối dẫn về với Chúa, khi nhân cách của họ cũng được sung mãn như chính Đức Giêsu.
7. Truyện: Không ai nhìn thấy Thiên Chúa.
Một vị vua nọ nảy ra ý nghĩ táo bạo, ông cho mời các lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.
Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm thế nào có thể thỏa mãn được một ước muốn càn rỡ như thế. Biết được mối lo âu của các nhà lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo tôn giáo được làm công việc đó.
Vào một buổi sáng như đã hẹn, kẻ chăn chiên dẫn nhà vua đến đồng cỏ nơi anh ta thường chăn súc vật. Họ đi bộ, chứ không dùng xe, khi tới nơi, mặt trời đã gần đỉnh ngọ. Kẻ chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và xin nhà vua nhìn.
Vua nổi giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của ông hay sao. Bấy giờ kẻ chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thưa: “Tâu bệ hạ, chỉ một vật do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được”?
Chính lúc ấy, nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa không phải bằng đôi mắt trần gian, nhưng bẳng đôi mắt của niềm tin.
30/04 Ðường về quê trời
- Viết bởi Ga 14, 1-6
Ðường về quê trời.
Thứ Sáu tuần 4 Phục Sinh.
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Lời Chúa: Ga 14, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi".
Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?"
Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thầy là đường
Suy niệm:
Sách Công vụ Tông đồ có một lối nói đặc biệt để chỉ Kitô giáo.
Tôn giáo mới này được gọi Đường của Chúa (Cv 18, 25-26),
hay thường xuyên hơn, được gọi là Đường (Cv 19, 9. 23; 22, 4; 24, 14. 22).
Sách Công vụ cũng có lối nói đặc biệt để chỉ các Kitô hữu.
Họ được gọi là những người thuộc về Đường (Cv 9, 2),
và họ đã chịu bách hại vì theo con đường này, theo Đạo này.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
chúng ta nghe Đức Giêsu nói: “Chính Tôi là Đường” (c. 6).
Phải chăng vì thế Kitô giáo được sách Công vụ gọi là Đường của Chúa,
và các Kitô hữu đầu tiên được gọi là những người thuộc về Đường?
Đối với Kitô hữu, theo đạo chính là theo một Con Đường.
Con Đường ấy không phải chỉ là một số lễ nghi hay giáo lý phải giữ,
cũng không phải là những minh triết khôn ngoan phải theo.
Con Đường ấy hiện thân nơi một con người.
Theo đạo chính là theo Con Đường mang tên Giêsu,
là gắn bó sống chết với Giêsu, chia sẻ sứ mạng của Giêsu,
Con Thiên Chúa làm người bằng xương bằng thịt.
Đức Giêsu không chỉ là người dẫn đường.
Chính Ngài là Đường, là Đạo.
Hơn thế nữa, Ngài là Con Đường duy nhất dẫn ta đến với Chúa Cha.
“Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (c. 6).
Phải qua Con Đường Giêsu chúng ta mới vào được thế giới của Thiên Chúa,
bởi lẽ chỉ Đấng từ trời xuống mới có thể đưa chúng ta lên trời.
Ngày nay người ta nói đến nhiều con đường khác để được cứu độ.
Nhưng con đường nào cũng phải đi qua Con Đường Giêsu.
Nơi Con Đường này chúng ta gặp được Sự Thật trọn vẹn về Thiên Chúa.
Nơi đây chúng ta gặp được Sự Sống viên mãn của chính Thiên Chúa.
Khi các môn đệ xao xuyến vì đến giờ chia tay,
Thầy Giêsu cho biết Ngài đi về với Cha để dọn chỗ cho họ (c. 2).
Chỗ ở vĩnh viễn của họ là nơi Thầy trò được ở với nhau mãi mãi.
“Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 3; x. 12, 26; 17, 24).
Thiên đàng là nơi Thầy trò được ở bên nhau, không gì ngăn cách nổi.
Tình Thầy trò đã bắt đầu ở đời này và sẽ kéo dài đến vĩnh cửu.
Là người theo Đạo Giêsu, chúng ta biết mình từ đâu đến và sẽ đi đâu.
Chúng ta không đi loanh quanh cho đời mỏi mệt.
Chúng ta biết hạnh phúc đang chờ mình ở cuối đường.
Nhưng nếu chúng ta không có tình bạn thiết thân với Giêsu ở đời này
thì vào thiên đàng để làm gì?
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: ĐƯỜNG SỰ SỐNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức Phật bi quan vì thấy con người đắm chìm trong vòng xoáy khắc nghiệt của sinh, lão, bệnh, tử. Nên Phúc, Lộc, Thọ mãi mãi là niềm mơ ước của con người. Mơ ước chỉ là mơ ước. Vì chưa ai tìm ra con đường đến được nơi ước mơ. Nhưng hôm nay Chúa Giê-su loan báo một lời làm nức lòng con người. Sáng lên niềm hi vọng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Chúa là đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chúa là sự thật. Đi theo Chúa ta không lo bị lầm lạc. Chúa là sự sống. Sống với Chúa ta không bao giờ chết. Và còn hơn nữa ta sẽ được hạnh phúc. Vì đó là thiên đàng. Thiên đàng là nơi Chúa Giê-su ở với Chúa Cha. Đây không còn là ước mơ. Nhưng là hiện thực. Vì chính Chúa chuẩn bị chỗ cho ta ở thiên đàng. “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Tuy nhiên đi theo Chúa không phải dễ dàng. Vì có những thế lực ma quỷ luôn tìm cách chặn đường. Bằng gian dối. Bằng chết chóc. Chính Chúa Giê-su đã phải chiến đấu để mở ra con đường sự thật và sự sống.
Thế gian là gian dối. Muốn bịt miệng sự thật. “Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử tử”. Người Do thái dùng chứng gian tố cáo Người. Phi-la-tô biết Người vô tội. Nhưng vì sợ người Do thái, ông phải kết án Chúa. Để đánh lừa lương tâm, ông rửa tay và nói: “Ta vô can trong việc đổ máu người này” (Mt 27,24). Gian dối cấu kết với gian dối để tiêu diệt sự thật.
Người chết liên minh với người chết để tiêu diệt sự sống. “Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ”. Hơn nữa họ còn đòi Phi-la-tô niêm phong và cho lính canh gác ngôi mộ. Người sống phải canh giữ người chết. Nhưng chính họ mới là người chết. Vì họ không ngăn nổi sự sống. Chúa Giê-su đã phá tung cửa mồ. Sáng láng bước ra. Vì “Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết”.
Chúa Giê-su đã mở ra con đường. Người là con đường dẫn đến sự thật và sự sống. Đi theo Người ta cũng phải chiến đấu với các thế lực gian dối và sự chết. Nhưng ta hãy tin tưởng. Vì Chúa đã chiến thắng. Chúa là sự thật. Nên đã chiến thắng gian dối. Chúa là sự sống. Đã chiến thắng thần chết.
SUY NIỆM 3: Ðường về quê trời
Khi tìm giải đáp cho một bài đố tìm đường từ một khởi điểm dẫn tới một địa điểm được yêu cầu thì người tham dự thường lúng túng, vì có quá nhiều đường có thể dẫn tới nơi nhưng thực sự lại dẫn đến ngõ cụt. Nhưng nếu tinh ý quan sát một chút, người ta có thể thấy công việc tìm kiếm dễ như trở bàn tay. Ðó là thay vì bắt đầu từ điểm khởi hành với nhiều ngõ rẽ, chúng ta hãy bắt đầu từ nơi đến rồi đi ngược lại. Với phương pháp này ta sẽ dễ dàng tìm ra con đường ngắn nhất dẫn đến nơi phải đến.
Như vậy, điều quan trọng không phải là biết đường không mà thôi, mà còn là và nhất là biết nơi mình đến, cần biết nơi mình đến trước khi bắt đầu đi. Khi hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết đường đi tới", thánh Thomas tông đồ đã lý luận theo cùng một nguyên tắc như nói trên.
Nhưng trường hợp mà thánh Thomas tông đồ đặt ra xem ra như không cần thiết nữa, nếu người tìm đường có được mối liên lạc thân tình với chính Ðấng là Ðường, là sự Thật và sự Sống. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các đồ đệ của Ngài biết nơi phải đến và con đường dẫn đến đó là chính Ngài: "Thầy là Ðường, là sự Thật và là sự Sống". Vậy, điều quan trọng nhất là theo Ngài, sống kết hiệp với Ngài, đừng rời xa Ngài, nhất là khi gặp gian nan thử thách. Chúa đã cảnh tỉnh trước các môn đệ: "Tâm hồn các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".
Ðường về quê trời có nhiều thử thách nhưng người đồ đệ có thể vượt qua dễ dàng nếu biết để cho Chúa hướng dẫn, để cho Chúa đưa mình đến nơi Chúa muốn. Bí quyết căn bản của đời sống Kitô là để cho Chúa tự do hướng dẫn mình đi, là biết cộng tác với ơn Chúa, là để cho Chúa Giêsu Kitô chiếm hữu như thánh Phaolô tông đồ ngày xưa, ngài đã bộc lộ cho những người con tinh thần của ngài bí quyết đời Kitô, đó là: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. Kiếp sống tôi đang sống, tôi muốn sống trong niềm tin hoàn toàn vào Ðấng đã yêu thương tôi và trao nộp chính mình cho tôi".
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Chúa đã nêu chỉ cho chúng con biết đường dẫn về quê trời, đường dẫn chúng con đến nguồn hạnh phúc thật. Nhưng còn có một điều cần, đó là sự cộng tác của chúng con. Chúng con cần tin tưởng vào Chúa, cần để Chúa hướng dẫn cuộc sống mình. Nếu chúng con tự phụ, ỷ lại vào sức riêng mình, thì chúng con sẽ làm hư chương trình của Chúa. Xin Chúa thương ban ơn giúp chúng con thay đổi tâm thức và thay đổi con tim mỗi ngày một trở nên vâng phục và cộng tác tích cực với sự hướng dẫn của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Dọn chỗ cho anh em
Khi chúng ta có những dự tính tương lai, khi chúng ta mơ ước về ngày mai, chúng ta rất hay hy vọng tìm được một chỗ tốt nào đó cho mình gửi tấm thân tàn để sống những ngày còn lại. Hay một ngôi mộ yên mả đẹp cho nắm xương tàn.
Ngày nay, người ta đang hy vọng xây những dẫy nhà chung cư tiện nghi để giải quyết những nhà ổ chuột cho hàng ngàn gia đình. Ai cũng mong muốn có một chỗ ở mới, những láng giềng lân cận tốt. Ai cũng khao khát được ở ngôi nhà của riêng mình với những tiện nghi theo kiểu mới, hợp thời trang, giữa khu vườn có phong cảnh lý tưởng.
Nhưng có biết bao gia đình không bao giờ tìm được một nơi ở tương xứng cho gia đình vì quá nghèo và giá cả quá mắc.
Tin mừng hôm nay dắt đưa chúng ta đến xem kế hoạch của Thiên Chúa đang dọn một chỗ ở mênh mông tráng lệ cho con người. Ngài là kiến trúc sư muôn đời, là sở hữu chủ vô biên.
Nhưng kế hoạch đó giống như những thứ nhà chúng ta đang ở, chỉ là những thứ tân trang theo những kiểu mẫu trần tục, thì chán chết. Hỏi có đáng chúng ta hy vọng vào đó nữa không?
Chúng ta trở lại câu hỏi này: Có gì ở bên kia cuộc đời? Khi tuổi già chấm dứt … Khi người ta nói: “Từ trần, đi rồi, tắt hơi thở cuối cùng …”, tôi sẽ đi về đâu? ở chỗ nào? chỗ chúng ta ở được Đức Giêsu dọn sẵn theo kế hoạch của Thiên Chúa là chỗ ở hiệp thông: sâu thẳm nhất, thông suốt nhất, liên đới nhất. Nơi mà láng giềng lân cận là những bạn chí ái nhất và sở hữu chủ là một người Cha. Chỗ chúng ta được mời đến ở là nhà mình, nhà Cha mình, và trung tâm nơi ở này là Đức Giêsu. Chính Người đã đưa chúng ta về ở với Người gần Thiên Chúa.
Mơ ước của chúng ta đượm mầu sắc rực rỡ về những ngôi nhà. Những vấn đề tương lai được mệnh danh là chỗ ở, “nơi cư trú”. Nhưng Đức Giêsu chỉ cho chúng ta con đường đến một nơi ở khác, nơi người ta hát vang ca khúc khải hoàn “nơi đầy ánh sáng, chan chứa tình thương tha thứ, an vui và tự do hạnh phúc”.
C.G
SUY NIỆM 5: Chúa sẽ đến lại
Cuộc trở lại nào cũng được khởi đầu bằng sự ra đi: có ra đi mới có trở lại. Thế nhưng cũng có những cuộc ra đi không bao giờ trở lại: đi để quên đi một quá khứ đau buồn, đi để thoát ly mọi ràng buộc, chân bước đi mà lòng rộn rã niềm vui. Những cuộc ra đi như thế chẳng bao giờ có hứa hẹn, có chăng chỉ là giả dối. Người ta chỉ hứa hẹn khi chân bước đi mà lòng chẳng muốn rời, lời hứa hẹn xoa dịu nỗi chia ly và hy vọng một ngày tái ngộ.
Chúa Giêsu sắp từ giã các môn đệ để trờ về cùng Cha, và điều đó khiến các ông u buồn xao xuyến. Không u buồn sao được khi đã ba năm tình nghĩa thày trò, không xao xuyến sao được khi đã mất đi điểm tựa. Chúng Giêsu biết rõ điều đó và các môn đệ cũng thấm thía nỗi buồn khi Ngài tuyên bố ra đi. Chính vì thế để trấn an họ, Ngài giải thích việc Ngài ra đi và hứa trở lại. Ngài ra đi không phải vì Ngài, mà vì các ông: Ngài đi dọn chỗ cho các ông và Ngài sẽ trở lại đem các ông đi theo Ngài. Còn gì vui sướng bằng. Người đi nhận chịu gian lao vất vả chỉ vì người ở lại, do đó người ở lại không còn mặc cảm bị bỏ rơi nhưng hãnh diện vì được người đi đặc biệt lưu tâm.
Thái độ của người ở lại không phải là u sầu than khóc, mà là góp sức với người đi bằng cách chuẩn bị sẵn sàng cho giờ hội ngộ. Còn gì bẽ bàng cho bằng khi trở lại người đi chỉ gặp được sự dửng dưng thờ ơ của người ở lại. Còn gì buồn lòng Thiên Chúa hơn khi Ngài đến gõ cửa mà tâm hồn đã đóng kín và đèn dầu đã cạn.
Khi lãnh nhận đức tin, người Kitô hữu cũng được Đức Kitô hứa hẹn. Ngài hứa sẽ trở lại với riêng từng người và với chung cho cả thế giới. Ngài sẽ trở lại đem họ đến nơi Ngài dọn sẵn, để họ hưởng trọn niềm vui mà hiện nay họ chỉ mới cảm nghiệm lờ mờ như dọi qua gương. Ngài không báo trước giờ Ngài trở lại, nhưng muốn họ luôn sẵn sàng như tân nương chờ đón tân lang.
Xin cho chúng ta biết chọn lời hứa trở lại của Chúa làm ngọn đuốc chiếu soi cuộc sống, để chúng ta thoát được mạng lưới của u buồn, và luôn sống trong lạc quan hy vọng vì biết rằng Chúa hằng quan tâm săn sóc chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: “ĐỪNG XAO XUYẾN” (Ga 14, 1-6)
Đứng trước cái chết của người thân, ai trong chúng ta lại không khỏi xao xuyến và lòng lại không quặn đau đến tột cùng vì sắp phải chứng kiến sự chia lìa vĩnh viễn!
Tin Mừng hôm nay trong một văn mạch hết sức ấn tượng, đó là sự đau buồn của các môn đệ trước sự ra đi của Đức Giêsu. Thật vậy, ba năm tình nghĩa thày trò, không xao xuyến sao được khi sẽ mất đi điểm tựa! Tuy nhiên, thấu hiểu được tâm trạng của các ông, nên tình thầy trò thân tín, Đức Giêsu đã tâm huyết chia sẻ với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Thầy đi dọn chỗ cho anh em... để Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”. Lời tâm huyết này được diễn ra trong bữa Tiệc Ly, một bữa ăn cuối cùng của tình thầy trò. Khi nói những lời ấy, Đức Giêsu trao cho các ông chìa khóa để thêm vững tin, đó là: để khỏi bị xao xuyến, thì: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Tin vào Thiên Chúa, vì Người hằng thương yêu chúng ta. Tin vào Đức Giêsu vì Ngài đi để chuẩn bị cho chúng ta như Ngài đã phán: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em [...] và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Chúa trước mọi thử thách trông gai. Không được ủ rũ khóc than. Nhưng là chuẩn bị cho ngày hội ngộ với Đức Giêsu bằng việc sống những điều Ngài dạy. Hãy khước từ mọi sự bất chính, thêm niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu và trung thành đi trên chính con đường của Ngài để được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng con phải vững tin vào Chúa. Sống những gì Chúa dạy để được sự sống đời đời. Xin Chúa ban cho chúng con được sống xứng đáng với ơn gọi cao quý, đó là được làm con Chúa. Xin cho chúng con được sống bên Chúa khi đã hoàn thành sứ vụ trên trần gian, nơi mà chính Chúa ra đi trước để dọn chỗ cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Đức Giêsu là con đường
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu chia sẻ với các môn đệ những lời rất thân tình, tha thiết: Ngài sẽ ra đi về cùng Cha rồi Ngài sẽ trở lại đón các ông để Ngài ở đâu, môn đệ cũng ở đó với Ngài. Ngài cho các ông biết sứ mạng của Ngài là đến trần gian để dẫn đưa nhân loại về cùng Chúa Cha, đến sự sống đời đời. Chính Ngài là con đường duy nhất. Ai muốn đến cùng Cha, muốn có sự sống đích thực thì phải qua con đường đó. Nếu từ chối Ngài, không bao giờ chúng ta có thể đạt tới hạnh phúc viên mãn.
2. Trong khung cảnh bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã dùng những lời lẽ rất thân tình, tha thiết để tâm sự với các môn đệ. Ngài báo cho họ biết là Ngài sẽ ra đi, đi đến một nơi rất lạ mà họ chưa bao giờ được biết. Nhưng rồi Ngài lại hứa sẽ trở lại đón họ đề cùng đưa họ đến nơi đó. Ông Tôma tò mò hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi”? Đức Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,5-6).
Khi nói như thế, ít nhiều Chúa đã muốn cho mọi người biết: mục tiêu hành trình của mọi người là về với Thiên Chúa là Cha. Đức Giêsu chính là người dẫn đường, hơn nữa chính Ngài là con đường dẫn ta đến đích điểm đó.
3. Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết: “Chính Ngài là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tỏ bầy mầu nhiệm về Thiên Chúa, chỉ đường cho con người đến gặp Chúa Cha và dạy họ sống thế nào cho hợp ý Thiên Chúa. Ngài mạc khải chính Ngài, Đấng thực thi sứ mạng của Thiên Chúa bằng lời nói và hành động quyền năng nơi thế gian để cứu chuộc nhân loại. Ngài là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha như chính Ngài đã nói: “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Ngài là con đường dẫn đến sự thật; sự thật giải thoát con người và là sự sống sung mãn cho con người vì chính Ngài là sự sống (Ga 11,25). Như thế, chỉ Đức Giêsu mới là con đường, là sự thật, là sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài (Ga 10,28).
4. Mọi người muốn vươn tới hạnh phúc, hạnh phúc tuyệt đối và trường cửu. Hạnh phúc này chỉ có trên nước Thiên Chúa. Vậy đâu là con đường đưa tới hạnh phúc đó? Chúng ta biết Đức Giêsu vừa là Chúa vừa là người. Ngài là trung gian hoàn hảo duy nhất giữa Chúa Cha với chúng ta. Biết bao con đường mở ra trước mắt chúng ta, nhưng chỉ có Ngài mới là con đường đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha và bởi Chúa Cha mà ra. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo Ngài vì chính Ngài đã khẳng định với chúng ta: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
5. Mục đích tối thượng của chúng ta là đi về nhà Cha, đi vào quê trời là quê hương của chúng ta.
Đường về quê trời có nhiều thử thách, nhưng người môn đệ có thể vượt qua dễ dàng nếu biết để cho Chúa hướng dẫn, để cho Chúa đưa mình đến nơi Chúa muốn. Bí quyết căn bản của đời sống Kitô là để cho Chúa tự do hướng dẫn mình đi, là biết cộng tác với ơn Chúa, là để cho Chúa Kitô chiếm hữu như thánh Phaolô tông đồ ngày xưa, ngài đã bộc lộ cho những người con tinh thần của ngài bí quyết đời Kitô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính Đức Kitô sống trong tôi. Kiếp sống tôi đang sống, tôi muốn sống trong niềm tin hoàn toàn vào Đấng đã yêu thương tôi và trao nộp chính mình cho tôi”.
6. Khi nghe Đức Giêsu nói “Thầy là đường”, chúng ta cũng nhớ lại một chân lý bất biến là “qua thập giá tới vinh quang”. Đó là con đường duy nhất mà Đức Giêsu đã đi, để tiêu diệt sự chết và đi vào cõi sống đời đời. Theo đạo chính là Con Đường mang tên Giêsu, là gắn bó sống chết với Giêsu, chia sẻ sứ mạng của Giêsu, Con Thiên Chúa làm người bằng xương bằng thịt. Vì thế, muốn đạt đến Nước Trời, Kitô hữu cũng phải bước theo con đường đó. Về vần đê này, chúng ta hãy nghe John Newton chia sẻ:
“Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.
7. Truyện: Triết gia Diogène bán sự khôn ngoan.
Một ngày nọ, triết gia Diogène của Hy Lạp đã đến giữa chợ Athènes và dựng lên một căn lều có ghi đậm hàng chữ như sau: “Ở đây có bán sự khôn ngoan”.
Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều đọc được lời rao bảo, mới cười thầm trong bụng... Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ... Anh đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào tủi, triết gia Diogène nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh câu này: Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích”.
Vị khoa cử thành Athènes vô củng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và tất cả nhưng ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.
29/04 Củng cố đức tin
- Viết bởi Ga 13, 16-20
Củng cố đức tin.
Thứ Năm tuần 4 Phục Sinh. – Thánh Catarina Siêna, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy".
* Thánh nữ sinh năm 1347 tại Xiêna. Ngay từ thuở niên thiếu, chị đã khao khát sống cuộc đời hoàn thiện, khát khao chiêm ngưỡng Chúa Kitô chịu đóng đinh, và phục vụ Hội Thánh bấy giờ đang bị xâu xé. Vì thế, chị đã gia nhập Dòng Ba Đaminh.
Thấm nhuần tinh thần của thánh Đaminh, chị yêu mến Thiên Chúa và tha nhân một cách nồng nàn, cổ võ bình an thuận hòa giữa các thành của nước Italia, can đảm bênh vực quyền lợi và sự tự do của Đức Giáo Hoàng và canh tân đời sống đạo đức. Chị là tác giả của nhiều tác phẩm đạo lý và tu đức.
Chị qua đời năm 1380. Ngày 18 tháng 06 năm 1939, Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên phong chị làm bổn mạng nước Italia. Và ngày 04 tháng 10, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên phong cho chị là tiến sĩ Hội Thánh.
Lời Chúa: Ga 13, 16-20
Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: "Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc.
Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy nói điều đó với các con ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thật phúc cho anh em
Suy niệm:
Khi giảng cho các Giám mục Anh Giáo,
ông Jean Vanier có kể câu chuyện như sau xảy ra tại cộng đoàn của ông,
một cộng đoàn được lập tại nước Pháp để giúp những người cơ nhỡ.
Nhà ông có nhận nuôi anh Eric, 16 tuổi, vừa mù lại vừa điếc.
Anh không đi được, không muốn ăn, chỉ quậy phá và muốn chết.
Anh thật là mối kinh hoàng cho những ai phải chăm lo cho anh.
Làm sao để anh yêu cuộc sống này?
Làm sao để anh thấy mình được yêu và đáng quý,
bất chấp những khiếm khuyết của mình?
Tìm đâu thứ ngôn ngữ để một người vừa mù vừa điếc hiểu được điều ấy?
Ông Jean Vanier có nhiệm vụ tắm cho anh mỗi sáng.
Và ông đã tìm ra được thứ ngôn ngữ mà anh hiểu được, cảm được,
thứ ngôn ngữ của bàn tay, ngôn ngữ của thịt.
“Lời đã thành thịt, để thịt của chúng ta thành lời,” ông đã nói như thế.
Khi Thầy Giêsu chạm tay của mình vào chân các môn đệ để rửa
với sự trân trọng và yêu thương,
chắc họ đã cảm được thứ ngôn ngữ không lời đó.
Kinh nghiệm được Thầy rửa chân là kinh nghiệm chẳng thể nào quên.
Thầy muốn các môn đệ tiếp tục làm điều Thầy đã làm:
“Thầy đã nêu gương cho anh em,
để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 15).
Thầy Giêsu nhắc các môn đệ về vị thế của họ,
vị thế của người tôi tớ, người được sai.
Vị thế này hẳn thấp hơn vị thế của Thầy là chủ, là người sai họ đi (c. 16).
Bởi đó việc rửa chân cho nhau giữa các tôi tớ là một đòi buộc (c. 14).
“Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành,
thì thật phúc cho anh em!” (c. 17).
Đức Giêsu đã biến hành vi rửa chân thành mối phúc.
Con người thường tìm hạnh phúc nơi việc được phục vụ, được tôn vinh.
Thầy Giêsu dạy ta tìm hạnh phúc nơi việc cúi xuống khiêm hạ.
Nhiều Kitô hữu đã nếm được thứ hạnh phúc này,
trong đó có ông Jean Vanier, Mẹ Têrêsa, cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne…
Họ đã tình nguyện dâng đời mình cho những người cùng khổ.
Hôm nay, Đức Giêsu vẫn ở nơi những người cần được rửa vết thương,
vết thương thể chất và tinh thần.
Hôm nay, Ngài vẫn ở nơi những người đang cúi xuống,
âm thầm, nhẹ nhàng băng bó các vết thương của thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thầy dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.
Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: ĐÓN TIẾP CHÚA GIÊ-SU
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su là trung tâm lịch sử. Trước Chúa Giê-su, tức thời Cựu Ước, dân chúng mong chờ. Giê-su nghĩa là Thiên Chúa Cứu. Từ ngàn xưa vì con người tội lỗi hư hỏng. Nên phải chịu nhiều đau khổ. Chịu chết. Nhưng vì tình thương yêu, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Độ. Đấng Cứu Thế phát sinh từ dòng tộc Đa-vít, Vị Thánh Vương lẫy lừng và đạo hạnh. Đã đưa vương quốc Giu-đa đến đỉnh vinh quang. Và toàn dân luôn mong chờ Đấng Cứu Thế mau đến để thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Phục hồi vương quốc lẫy lừng. Đấng Cứu Thế chính là Chúa Giê-su Ki-tô. Khi Gio-an Tẩy giả xuất hiện, người ta cứ tưởng đó là Đấng Cứu Thế. Nhưng Gio-an Tẩy giả đã làm chứng về Người khi nói: “Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người”.
Thời Tân Ước chính là thời đón tiếp Chúa Giê-su. Nhưng tiếc là khi Chúa đến người ta đã không đón tiếp Chúa. Trái lại còn trao nộp Chúa. Kết án Chúa. Hành hình Chúa. Và đóng đinh Chúa trên thánh giá. Vì Chúa Giê-su không đến như một vị Quân Vương oai phong lẫy lừng. Nhưng đến như một tôi tớ hèn mọn. Không sinh ra trong hoàng cung lộng lẫy tại thủ đô. Nhưng sinh ra trong chuồng súc vật tại một làng quê nhỏ bé. Không sống trong gia đình quyền quý. Nhưng sống trong gia đình thợ thuyền. Không đến như vị tướng bách chiến bách thắng. Nhưng như một tôi tớ phục vụ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho môn đệ.
Người truyền cho môn đệ phải tiếp tục sứ mạng cứu thế bằng phục vụ như Người: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em”. Chúa cho mọi người biết, tuy các môn đệ sống nghèo hèn phục vụ. Nhưng là thừa sai của Chúa. Và “ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Đó là đón tiếp Chúa Cha. Là đón tiếp ơn cứu độ. Là đón tiếp phúc trường sinh.
Ta hãy rút kinh nghiệm của người Do thái. Đừng mơ tưởng một vị quân vương hiển hách. Người môn đệ hãy biết sống nghèo hèn phục vụ như Chúa. Và mọi người hãy biết đón tiếp người được Chúa sai đến. Có thể đó là Giáo hội, giáo quyền, bề trên. Nhưng có thể đó là những người nghèo hèn bất hạnh trong xã hội. Hãy biết nhận ra Chúa. Hãy đón tiếp người nghèo như đón tiếp chính Chúa. Ta sẽ được hạnh phúc. Ta sẽ được ơn cứu độ.
SUY NIỆM 3: Củng cố đức tin
Ðó là những lời Chúa Giêsu tâm sự với các tông đồ vào lúc khởi đầu cuộc khổ nạn của Ngài, loan báo tương lai cuộc sống của các tông đồ sẽ như thế nào. Nhưng tại sao Giáo Hội lại chọn để chúng ta suy niệm đoạn Phúc Âm này trong những ngày của mùa phụng vụ Phục Sinh? Những gì đã xảy ra đúng theo như lời Kinh Thánh và theo lời loan báo trước của Chúa, nhằm củng cố các tông đồ và cả chúng ta ngày hôm nay trong đức tin vào Chúa. Tin Chúa là Thiên Chúa, là Ðấng Hằng Hữu, là Ðấng Ta Là, "Ta bảo các con điều đó ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy ra để đến khi sự việc xảy ra, các con tin Ta là Ðấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa".
Bản văn Phúc Âm thánh Gioan dùng từ "Ta là Ðấng Ta Là", từ dùng để chỉ chính Giavê Thiên Chúa. Trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu, các tông đồ và mỗi người chúng ta được mời gọi suy niệm những lời Chúa Giêsu có liên quan đến vận mệnh tương lai của những ai làm đồ đệ Chúa. Trước hết là hồng ân được Chúa sai đi, được đại diện cho Ngài "Ai đón rước kẻ Ta sai là đón rước Ta và ai đón rước Ta là đón rước Ðấng đã sai Ta". Ðó là chiều dọc từ con người lên cùng Thiên Chúa Cha qua Chúa Giêsu Kitô. Mọi đồ đệ của Chúa cần phải duy trì trọn vẹn chiều dọc này. Ðây là hồng ân Chúa ban cho những con người Chúa chọn làm kẻ đại diện của Ngài, mang sứ điệp của Ngài đến cho anh chị em khác và hồng ân này có thể bị mất đi do chính quyết định tự do của con người như trường hợp của Giuđa ngày xưa, người môn đệ phản Thầy, "Ta biết những kẻ Ta đã chọn, kẻ ăn bánh cùng Ta đã giơ gót chân đạp Ta".
Lời cảnh tỉnh của Chúa thôi thúc mỗi người chúng ta xét lại cuộc sống làm đồ đệ theo Chúa của mình đang ở mức độ nào. Chúng ta sẽ làm đại diện cho Chúa một cách hữu hiệu hơn nếu chúng ta trở nên giống Chúa hơn và chia sẻ vận mệnh của Chúa: "Tôi tớ không hơn chủ; kẻ bị sai đi không trọng hơn người sai họ". Chúa đã đi qua con đường thập giá, thì đồ đệ của Ngài chắc chắn cũng sẽ đi qua con đường này. Hơn nữa, cám dỗ phản bội Chúa như Giuđa ngày xưa luôn là cám dỗ thường hằng của mọi môn đệ Chúa cả ngày hôm nay. Chúng ta hãy tỉnh thức đề phòng.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con ơn can đảm theo Chúa cho đến cùng trong mọi hoàn cảnh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Chỗ cho đức khiêm nhường
Chúng ta không còn nghe nói đến những nhân đức Kitô giáo nữa hay cả đến những nhân đức thường nữa. Tất cả mang tiếng xấu. Chúng không còn chỗ trong văn hóa của chúng ta. Thời nay sống khiêm nhường khó biết bao! Hãy nhìn xem: Để được thăng cấp, phải tự đặt giá trị của mình nổi lên. Mọi kiểu đánh giá đều được đặt trên sự cạnh tranh và tham vọng. Người ta còn tính rằng để sống, cần phải đè nén và hạ bệ người khác để cho mình lên. Làm sao sống khiêm tốn trong một thế giới văn minh tôn sùng minh tinh, thần tượng, siêu sao, thị trường, thời trang …
Chúa nói đến đức này bằng hành động và giải thích. Bằng hành động: Trước lễ vượt qua, Người rửa chân cho các môn đệ. Đức Giêsu đã làm tôi tớ, Người có mục đích sẵn sàng phục vụ người khác. Nhưng chúng ta lại quên cử chỉ của Đức Giêsu ngay sau lễ chiều thứ năm tuần thánh. Chúng ta đã mừng lễ rất tốt, nhưng chúng ta trước và sau lễ chẳng sống chút gì với Thánh lễ.
Bằng lời nói, Đức Giêsu lưu ý chúng ta đến đức khiêm nhường: “Tôi tớ không lớn hơn chủ. Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai bảo”.
Điều đó kêu mời chúng ta phải lãnh lấy sứ điệp Tin mừng với hết lòng khiêm nhường: “Thầy nói điều đó, anh em hãy thực hành thì thật có phúc cho anh em”. Thánh Phao-lô đã nhắc lại lời khuyên đó và nói: “Anh em đừng cưu mang những thứ học thuyết tân kỳ theo sở thích, anh em hãy chỉ rao giảng Đức Giêsu và Đức Giêsu chịu đóng đinh”.
Đức khiêm nhường được Phúc âm trình bày cho chúng ta trong lễ hôm nay: Ngay sau khi Đức Giêsu trao bánh cho Giu-đa, Giu-đa liền ra đi phản bội Người. Đây là tột đỉnh của đức khiêm nhường. Chúa đã ban bánh cho ăn, được ăn rồi Giu-đa vẫn đi phản bội. Chúng ta nhớ rằng sự phản bội luôn rình mò chúng ta, chúng ta hãy khiêm tốn đón nhận những yếu đuối nơi mình và nơi người khác. Nhờ thế khiêm nhường trở nên bác ái.
C.G
SUY NIỆM 5: Tiếp nối sứ mệnh của Chúa
Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài đến thế gian để giảng dạy cho mọi người con đường cứu rỗi, và khi đã hoàn tất sứ mệnh của Ngài trên trần gian này, Chúa Giêsu sai các môn đệ Ngài đi loan báo Tin mừng cứu rỗi cho mọi tạo vật. Sự chính thống đó được Chúa Giêsu quả quyết như chúng ta có thể đọc thấy trong Tin mừng hôm nay: “Thày bảo thật các con, ai đón nhận kẻ Thày sai là đón nhận Thày, và ai đón nhận Thày là đón nhận Đấng đã sai Thày”.
Trong văn mạch của Phúc âm, trước khi nói những lời trên, Chúa Giêsu đã làm gương cho các Tông đồ của Ngài: Ngài rửa chân họ và sau đó khi trở lại bàn ăn, Ngài nói với họ: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai không trọng hơn kẻ đã sai mình”. Thật là đơn giản, nhưng là một sự đơn giản đòi hỏi: đời sống truyền giáo của Giáo Hội phải rập khuôn với cuộc đời của Chúa Giêsu, với tấm gương Ngài đã sống và đã giảng dạy. Giáo Hội phải biết phục vụ trong khiêm tốn, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa.
Là những người đã lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta đều là những môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu bằng đời sống yêu thương và Phục vụ, trở nên muối và ánh sáng cho thế gian.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: GIỚI THIỆU CHÚA CÁCH TRUNG THỰC (Ga 13, 16 – 20)
Trong nghề thuốc hay võ thuật, những thần y hay tổ sư thường lưu nghề bí truyền cho một ai đó, để đến khi họ có khuất núi thì vẫn còn có người lưu danh hậu thế nhờ lưu truyền lại gia bảo của cha ông.
Với Đức Giêsu cũng vậy! Sau hành trình loan báo Tin Mừng, trước khi về trời, Ngài cũng truyền cho các môn sinh của mình: “Hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian”. Đây chính là lệnh truyền, gia bảo cho Giáo Hội tới muôn đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu như muốn khẳng định rằng: nếu là người môn đệ chân chính, sẽ nói lời của chính Thiên Chúa, và như thế thì: “A i đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy".
Muốn làm được điều đó để cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta phải mặc lấy chính tâm tình của Đức Giêsu, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi phục vụ con người cách vô vị lợi trong sự khiêm tốn...
Có thế chúng ta mới lưu lại cho người đương thời và hậu thế gia tài quý giá là chính Đức Giêsu, nhờ đó, con người hôm nay và mai sau mới nhận ra Đức Giêsu là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống ngang qua đời sống và hành vi của chính chúng ta.
Mong sao mỗi người chúng ta biết được điều đó để thi hành, ngõ hầu trở thành người có phúc như Đức Giêsu đã nói: "Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!”. Ngược lại, chúng ta đừng như Giuđa, kẻ phản thầy mà hôm nay, Đức Giêsu đã tiên báo một cách đau đớn: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết sống trung thành với Chúa và sứ điệp của Chúa. Xin cho chúng con biết loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của chính mình, để cuộc đời và sứ vụ của chúng con chính là hiện thân cách sống động như chính Chúa đang trực tiếp hành động. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Tinh thần phục vụ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong khung cảnh bữa tiệc ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu tiếp tục giáo huấn cho các ông biết tinh thần phục vụ trong yêu thương và khiêm nhường. Ngài hạ mình rửa chân cho các ông. Đức Giêsu đã mang lại ý nghĩa đích thực cho hai chữ “phục vụ”: phục vụ là sống như người tôi tớ, là sống trọn vẹn cho tha nhân, vì tha nhân...
Ngoài ra, Đức Giêsu dạy tiếp một bài học rất cần cho mọi Kitô hữu: hãy biết đón nhận những kẻ Chúa sai đến với mình: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy; và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy”.
2. Việc rửa chân cho các môn đệ không chỉ là một cử chỉ hay là một bài học của phục vụ, nhưng qua đó Đức Giêsu còn muốn loan báo chính cái chết của Ngài như tột cùng của thân phận tôi tớ mà Đức Giêsu đã đón nhận. Thật thế, người tôi tớ không sống cho mình, mà hoàn toàn sống cho người khác, đến độ trao nộp cả mạng sống mình. Như vậy, đối với Đức Giêsu, phục vụ là sống trọn vẹn cho người khác. Chính qua sự phục vụ cho đến chết ấy mà Đức Giêsu thể hiện thiên tính của Ngài. Ngài là Đấng Hằng hữu, vì Ngài có thể đón nhận thân phận con người và trao ban thân phận ấy cho người khác; Ngài là Đấng toàn năng vì cách thế thể hiện quyền năng ấy chính là phục vụ và phục vụ cho đến chết.
3. Quyền năng của Thiên Chúa là quyền năng của phục vụ; sức mạnh của Thiên Chúa là sức mạnh của tình yêu. Chúng ta hiểu được sự thành công của Mahatma Gandhi trong cuộc tranh đấu bất bạo động của ông, ông nói như sau: “Tình yêu là sức mạnh vạn năng mà con người có thể có trên mặt đất này”. Yêu thương như Thiên Chúa yêu có nghĩa là yêu thương cho đến cùng, yêu thương cả kẻ thù và sẵn sàng hiến thân hy sinh cho họ. Phục vụ như Thiên Chúa phục vụ có nghĩa phục vụ mà không tranh giành, không tính toán hơn thiệt, không tìm lợi danh cho bản thân (Mỗi ngày một tin vui).
4. Đón tiếp người được Chúa sai đến.
Sau bài học về hy sinh phục vụ, Đức Giêsu dạy tiếp về sự đón tiếp. Lời nói về sự đón tiếp của Đức Giêsu nhằm tới chính sự thờ ơ của người Do thái đã không đón nhận Ngài, khi “Người đến nhà mình mà người nhà không ra nhận” (Ga 1,11). Người Do thái tự hào mình tin Thiên Chúa, nhưng lại không đón tiếp Đấng được Thiên Chúa sai đến, âu cũng vì họ vẽ ra: “Đấng được sai đến” đó theo ý họ, và họ không chấp nhận một Đấng Thiên Sai không thỏa mãn những tiêu chuẩn trần thế của họ.
Người Chúa sai đến với chúng ta cụ thể nhất chính là những người có trách nhiệm rao giảng, thánh hóa và dẫn dắt chúng ta. Các vị đến với chúng ta nhân danh Chúa trong phẩm vị và sứ vụ được Chúa giao phó cho Giáo hội, chúng ta đã đón tiếp các ngài như thế nào? Ít nhiều chúng ta cũng giống dân Do thái xưa, thích đón tiếp những vị được sai đến hợp ý chúng ta hơn là đón tiếp vị được sai đến theo ý Chúa.
5. Phục vụ Chúa trong anh em.
Thánh Biển Đức căn dặn các đan sĩ: “Khi anh em đón tiếp và phục vụ khách, thì không phải anh em đang đón tiếp và phục vụ khách, mà là cung kính đón tiếp chính Đức Kitô ở trong khách”. Và Đức Giêsu cũng đã đồng hóa chính Ngài hiện thân trong mọi mảnh đời khi Ngài nói về ngày phán xét chung: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Như thế, khi ý thức được Chúa ở trong mọi người, thì chúng ta không thể nổi giận cau có với “Chúa” được, mà là một sự kính trọng và chu đáo như Mattha và Maria đã đón Chúa vào nhà mình. Thấy Chúa trong anh em thì chúng ta sẽ dễ tôn trọng và yêu thương nhau...
6. Truyện: Khai sinh hội bác ái Vinh Sơn.
Khoảng năm 1883, dưới sự lãnh đạo của một thanh niên Ozanam, 8 thanh niên Công giáo trường đại học Paris thường gặp nhau để thảo luận chiến thuật bảo vệ Giáo hội đang bị tấn công tứ phía. Những buổi thảo luận đã diễn ra suốt một năm, nhưng chưa đưa đến một hành động nào. Tình cờ 8 sinh viên nghe một lời thách thức của kẻ chuyên chống phá Giáo hội:
“Các anh luôn nói đến công lao Giáo hội của các anh trong quá khứ, nhưng Giáo hội các anh bây giờ đã chết rồi. Nếu các anh bảo Giáo hội vẫn đang sống, hãy chứng minh đi. Một năm qua, tôi chỉ thấy các anh thảo luận tranh cãi nhau bằng môi mép, nhưng chưa thấy một hành động cụ thể nào”.
Lời thách đố ấy được 8 sinh viên Công giáo tiếp nhận như một bài học quí giá. Buổi chiều hôm đó, thay vì thảo luận, hành động đầu tiên của họ là thu nhặt số củi khô dùng để sưởi ấm ở phòng trọ và họ còn mang biếu cho người nghèo đang rét run tại phòng bên cạnh vì không có tiền để mua chất đốt.
Đó là buổi chiều đầu tiên khai sinh hội Bác ái Vinh Sơn chuyên hoạt động giúp đỡ người nghèo theo tinh thần thánh Vincent de Paul. Những người tiên phong của hội này hiểu rằng: Người tín hữu Kitô không thể bênh vực Giáo hội bằng những lời nói suông mà phải bằng chính những hành động cụ thể, bằng chính cả cuộc sống của họ.
28/04 Ðức tin là ánh sáng
- Viết bởi Ga 12, 44-50
Ðức tin là ánh sáng.
Thứ Tư tuần 4 Phục Sinh.
"Ta là sự sáng đã đến thế gian".
Lời Chúa: Ga 12, 44-50
Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Đấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Đấng đã sai Ta.
Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.
Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Đấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Không tự mình nói
Tự do là điều con người trân trọng.
Bao người dám chết để đổi lấy một chút tự do.
Các bạn trẻ thèm được tự do, để được là mình.
Người ta vẫn hiểu người có tự do là người muốn làm gì thì làm,
muốn nói gì thì nói, không bị bất cứ ràng buộc nào.
Nếu thế thì Đức Giêsu có tự do không?
Đức Giêsu có tự do không khi trong bài Tin Mừng Ngài khẳng định:
“Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi,
truyền lệnh cho tôi phải nói gì, phải tuyên bố gì” (c. 49)?
“Những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” (c.50).
Ngài có tự do không khi Ngài cũng chẳng tự mình làm bất cứ điều gì?
“Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi, Người không để tôi cô độc,
vì tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Bao nhiêu lần trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu quả quyết
Ngài không tự mình nói gì, cũng không tự mình làm gì.
Ngài chỉ sống theo lệnh truyền của Cha (Ga 15, 10).
Lệnh truyền này không áp đặt Ngài từ bên ngoài,
nhưng chi phối sâu xa từ bên trong
toàn bộ hướng đi và những chọn lựa cụ thể của cuộc sống trần thế.
Đức Giêsu đã tự do đón lấy ý Cha, lệnh truyền của Cha.
Chính khi hoàn toàn để Cha chi phối, mà Ngài được tự do thật sự.
Chính khi đó Đức Giêsu trở thành sự hiện diện trong suốt của Cha.
“Ai thấy tôi là thấy Chúa Cha, Đấng đã sai tôi (Ga 12, 45; 14, 9).
Lời của Ngài là lời của Cha, việc Ngài làm là việc của Cha.
Chúng ta có thể gặp được Thiên Chúa một cách nguyên tuyền nơi Đức Giêsu,
Đấng đã dâng hiến tất cả tự do để sống hoàn toàn tùy thuộc.
Chính khi hoàn toàn tùy thuộc mà Ngài được hoàn toàn tự do.
Người được sai là một với người sai mình.
“Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30).
Hãy đến với Giêsu Ánh Sáng và ra khỏi những bóng tối (c.46).
Hãy nghe, đón nhận và tuân giữ lời của Giêsu (cc. 47-48).
Chỉ khi ở lại trong lời của Giêsu chúng ta mới gặp được sự thật
và sự thật sẽ cho chúng ta được tự do (Ga 8, 31-32).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: ÁNH SÁNG SỰ SỐNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su đi từ hữu hình đến vô hình. Từ lời nói đến ý tưởng. Từ ngọn đến nguồn. Nguồn sự sống. Nguồn sáng. Từ người được sai đi đến Đấng sai đi. Từ Chúa Con đến Chúa Cha. Chúa Cha vô hình nhưng Chúa Con hữu hình. Chúa Con nói nhưng là lời của Chúa Cha. “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi”.
Tất cả phát xuất từ Chúa Cha. Chúa Giê-su phát xuất từ Chúa Cha. Lời Chúa nói, việc Chúa làm, đều phát xuất từ Chúa Cha. “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì…Vậy những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi”.
Mà lời Chúa Cha chính là lời sự sống: “Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời”. Sự sống là ánh sáng. Cái chết là bóng tối. Chúa Giê-su đến đem lời Chúa Cha ban sự sống đời đời. Đem ánh sáng sự sống soi vào bóng tối chết chóc cõi nhân gian. “Tôi là ánh sáng, tôi đã đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Vì thế ai đón nhận Chúa Giê-su là đón nhận Chúa Cha. Là đón nhận ánh sáng. Là đón nhận sự sống.
Cộng đoàn các môn đệ và các tín hữu đầu tiên đã tin nhận Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Vì thế các ngài đón nhận được ánh sáng và sự sống. Vì thế cộng đoàn không ngừng phát triển mạnh mẽ. Khi làm cho lời lan tràn khắp nơi. Bác-na-ba liên tục kêu gọi tăng cường nhân sự. Thoạt tiên là đi đón Phao-lô ở Tác-sô. Nay lại cho vời Gio-an Mác-cô. Cho một sức sống bừng lên mạnh mẽ, tại An-ti-ô-khi-a có một bộ khung hùng hậu: “có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông Ba-na-ba, Si-mê-on biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô”.
Vì phát triển mạnh mẽ, nên phải tách ra: “Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm”…Vậy được Thánh Thần sai đi, …. Đến Xa-la-min, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người Do thái”.
Đón nhận Lời Chúa là ánh sáng ban sự sống, các môn đệ lớn mạnh. Ra đi khắp nơi. Rao giảng Lời Chúa không ngừng. Để soi sáng sự sống vào mọi chân trời trần gian.
SUY NIỆM 3: Ðức tin là ánh sáng
Theo cơ cấu của Phúc Âm thánh Gioan thì những câu chúng ta vừa đọc trên là những câu cuối cùng trong cuộc đời rao giảng công khai của Chúa Giêsu, bởi vì liền đó với chương 13, tác giả Phúc Âm thánh Gioan bắt đầu nói về biến cố Chúa rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly, khởi đầu cuộc Thương Khó của Ngài. Vì thế, những lời vừa trích dẫn trên có thể tóm lược một cách tổng quát những lời giảng công khai của Chúa Giêsu cho dân chúng và Chúa Giêsu nhắc đến hai điểm chính yếu nhất:
- Tin Chúa là tin Thiên Chúa Cha, thấy Chúa là thấy được Thiên Chúa Cha. Tin Chúa sẽ mang lại ánh sáng soi cho cuộc đời của mình. Ðức tin là ánh sáng, không tin là sống trong bóng tối.
- Từ chối không tin. Con người tự kết án mình. Mặc dầu Chúa Giêsu không đến để kết án mà để cứu rỗi, không ai có thể thoát ra khỏi sự cứu rỗi cuối cùng này, và sự xét xử đến từ thái độ của người đó, đón nhận hay chối từ Thiên Chúa. "Ai nghe lời Ta mà không tuân giữ thì không phải Ta là người kết án kẻ ấy vì Ta không đến để luận phạt thế gian mà đến để cứu rỗi. Ai chê chối Ta và không nhận lời Ta thì sẽ có người xét xử kẻ ấy, tức là lời giảng dạy của Ta sẽ xét xử kẻ ấy trong ngày sau hết. Không ai có thể thoát khỏi sự xét xử này, nhưng sự xét xử đó sẽ đến trong ngày sau hết".
Trong hiện tại, Thiên Chúa luôn luôn kêu mời con người hãy trở về lại với Ngài sau những lần sa ngã, chối từ không tin Ngài. Thời giờ chúng ta đang sống là thời giờ của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta đừng lợi dụng lòng nhân từ này, đừng khinh dễ bỏ qua ơn soi sáng của Chúa. Những trang Phúc Âm cho chúng ta biết rõ ý muốn của Thiên Chúa như thế nào nơi mỗi người chúng ta. Ngài muốn chúng ta tin nhận Ngài, lắng nghe lời Ngài và sống kết hiệp với Ngài.
Lạy Chúa, Chúa đã vạch ra một con đường cho mỗi người chúng con, đó là những dự án của tình yêu của Chúa để chúng con thực hiện. Xin Chúa giúp chúng con được luôn sẵn sàng thực hiện thánh ý Chúa lắng nghe lời Chúa chứ không phải là kẻ chịu đựng bất đắc dĩ, ý Chúa phải là ý con chứ không phải ý con là ý Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Từ bóng tối đến ánh sáng
Tin mừng theo thánh Gio-an được viết ra sau một thời gian dài cầu nguyện đến lúc chín mùi. Trước khi cho chúng ta những lời chứng, thánh nhân đã dầy kinh nghiệm sống với sức sống của Thiên Chúa, Cha, Con và Thánh Thần. Tin mừng này bày tỏ về Thiên Chúa Ba ngôi, qua con tim của một người, một người xác tín, một người tông đồ yêu dấu.
Đức Giêsu tự định nghĩa mình là người được sai đi của Cha. Thánh Gio-an không giới thiệu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Cha. Hầu như bất cứ điều quan trọng nào đều chỉ về Cha và không chỉ về Con. Tất cả đều tương quan với Cha. Đức Giêsu thực hiện sứ mệnh do Cha ban, Người làm cho họ nhận biết sứ điệp của Cha. Đức Giêsu chính là sứ điệp của Cha.
Thái độ của Đức Kitô luôn luôn bày tỏ sự hoàn toàn tùy thuộc, hoàn toàn vâng lời lúc nào cũng sẵn sàng đối với Cha. Nếu Người cho lời Người là quan trọng vì đó là lời của Cha: “Chính lời Tôi nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết, thật vậy, không phải Tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai Tôi, truyền lệnh cho Tôi phải nói gì và tuyên bố gì”.
Chúng ta có lẽ phán đoán đây là một sự lệ thuộc quá nô lệ. Đức Giêsu không có một sự tự chủ của người trưởng thành …
Trái lại, chính đó là một hành động tự do của Đức Giêsu vì Người tự ý đặt mình sẵn sàng theo ý Cha: Đó chính là con đường cứu chuộc.
Con người muốn độc lập với Thiên Chúa, không muốn sống hợp với nguyên lý sự sống. Nhưng muốn được cứu chuộc phải vâng lời, phải tiến lại sống thân mật với Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: Vì không vâng lời của một người, mà án phạt đã đến trong thế gian.
Chúng ta hãy để cho con tim chúng ta được tự do dâng lời cảm tạ biết ơn Đức Giêsu, là nguồn ơn cứu chuộc chúng ta, và Thánh lễ tạ ơn chúng ta sắp cử hành để tuyên xưng hồng ân của Chúa Cha là đã sai Con Một Ngài đến cho chúng ta.
C.G
SUY NIỆM 5: Ánh sáng của Đức Kitô
Nơi con người Chúa Giêsu có nhiều thứ ánh sáng. Đó có thể là thứ ánh sáng phản chiếu vinh quang quyền năng, thứ ánh sáng mà khi đối diện con người phải cúi đầu. Chúa Giêsu không tỏ lộ ánh sáng này cho các môn đệ và dân chúng theo Ngài, ngoại trừ một lần trên núi Thabor, Ngài biến hình sáng láng trước mặt ba môn đệ: Phêrô, Yacôbê và Gioan.
Ánh sáng thường gặp nơi Ngài là ánh sáng soi đường dẫn lối, một thứ ánh sáng không làm cho con người sợ hãi, nhưng mời gọi bước theo. Anh sáng phát xuất từ ngọn lửa yêu thương phục vụ xem ra không huy hoàng rực rỡ, nhưng lại hữu hiệu. Đối diện với ánh sáng này, con người sẽ hoặc là tiếp nhận, hoặc là chối từ. Khi chối từ tức là con người còn nằm trong bóng tối và ánh sáng trở thành ánh sáng xét xử. Chúa Giêsu không kết án, vì Ngài đến để cứu chuộc, nhưng chính thái độ cố chấp của con người sẽ kết án họ.
Không có ánh sáng đồng thời với bóng tối, ở đâu có ánh sáng, ở đó sẽ không còn bóng tối. Nhưng để tiếp nhận ánh sáng, con người phải chấp nhận từ bỏ, tiêu hao chính mình. Chúa Giêsu đã đem lửa xuống trần gian và Ngài ước mong cho nó cháy lên. Gặp gỡ Đức Kitô, con người sẽ gặp được ngọn lửa yêu thương của Ngài. Ngọn lửa càng sáng, càng đòi tiêu hao nhiều nhiên liệu. Ngọn lửa Đức Kitô đã tỏa sáng khắp vũ trụ khi Ngài được giương cao trên Thập giá và hiến thân cho đến giọt máu cuối cùng.
Bước theo Đức Kitô, người kitô hữu chúng ta không những được mời gọi tiến vào miền ánh sáng, mà còn có bổn phận trở thành ánh sáng. Ngài không cần chúng ta phải chiếu ánh sáng quyền năng của Ngài bằng những việc phi thường, nhưng là sẵn sàng tiêu hao chính mình để ánh sáng Đức Kitô được chiếu tỏa, và nhờ đó chính chúng ta cũng được đổi mới và nhận được vinh quang Phục Sinh của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: NHỜ ÁNH SÁNG, CON NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG (Ga 12,44-50)
Trong cuộc sống, ánh sáng là thứ cần thiết đến độ không thể có gì thay thế. Ánh sáng làm cho con người và vạn vật có được sự sống và triển nở. Vì thế, không có ánh sáng, thì cho dù một sự sống sơ đẳng cũng không thể sống nổi như cỏ cây...thảo mộc...
Đây là sự cần thiết của ánh sáng dưới góc độ tự nhiên, còn với góc độ siêu nhiên, ánh sáng còn cần hơn gấp bội. Nếu không có ánh sáng siêu nhiên, thì con người sẽ lầm lũi bước đi trong đêm tối và có nguy cơ bị tận diệt sự sống đời đời. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì ánh sáng siêu nhiên chính là biểu tượng chỉ về Thiên Chúa (x. Xh 19,18). Đấng đã dùng cột lửa để soi sáng và dẫn dân Dothái về Đất Hứa (x. Xh 13,21t). Như thế, khi dân thấy ánh sáng là an tâm (x. Tv 4,7.31; Cn 16,15). Ánh sáng còn là dấu chỉ về giới luật của Thiên Chúa (x. Cn 6,23). Người dẫn dân đi trong đường lối của Người (x. Tv 119,105). Người làm tội ác loạng choạng trong tối tăm (x. Is 59,9).
Hôm nay, chính Đức Giêsu mạc khải rõ nét chân tính của Thiên Chúa, và Ngài là Đấng Bởi Thiên Chúa mà đến, nên khẳng định: “Ta là ánh sáng đến trong thế gian” (Ga 12,46).
Như vậy, Ánh Sáng là biểu trưng cho hạnh phúc viên mãn trong nguồn ơn cứu chuộc và được sự sống đời đời. Đi ngược lại với Ánh Sáng chính là ở trong bóng tối và sẽ đi về chỗ diệt vong (x. Mt 22,13). Cho nên có Ánh Sáng là có sự sống, có ơn cứu chuộc.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Đức Giêsu là Ánh Sáng thật để được hạnh phúc như chính Ngài đã nói: “Ta là ánh sáng đến trong thế gian để ai tin Ta không đi trong tăm tối”. Vì thế, ngay trong giây phút này, chúng ta hãy sống những điều thuộc về Ánh Sáng như thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep 5,8).
Không những chúng ta thuộc về Ánh Sáng, nhưng chúng ta còn phải trở nên ánh sáng cho trần gian, để soi sáng cho người khác đến nguồn Ánh Sáng là chính Đức Giêsu, để họ cũng được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được đi trong đường lối của Chúa là Ánh Sáng. Xin cho chúng con được tránh xa bóng tối là kẻ thù của Ánh Sáng. Và xin cho chúng con được trở nên ánh sáng soi đường cho người khác bằng đời sống tốt lành của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Tin và đón nhận Chúa Giêsu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đức Kitô là Ngôi Lời, là tiếng nói tỏ bày Thánh Ý Chúa Cha. Ai tin và đón nhận Người, sẽ được sống đời đời. Ai từ chối Người thì chính họ sẽ bị xét xử.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con tưởng tượng chính lúc mà Chúa nói lên những lời Tin Mừng hôm nay, con mới thấy được tâm huyết và tấm lòng Chúa dành cho con.
Lời Chúa mạc khải cho con biết Chúa Cha, cho con nhận ra Chúa là lẽ sống của con. Thế mà con vẫn chưa nhận ra được điều ấy. Chúa phải nói to lên, Chúa phải cậy dựa vào thế lực và uy tín của Chúa Cha để minh chứng cho chân lý Lời Chúa. Không có Chúa con sẽ phải chết, sẽ lãnh án phạt, sẽ ở lại mãi mãi trong tăm tối.
Chúa là tất cả cuộc sống con. Xin cho con đừng bao giờ quên điều ấy. Xin cho con biết khao khát chính Chúa, biết trân trọng sự hiện diện của Chúa trong đời sống con: một sự hiện diện không thể thiếu được.
Cho đến bây giờ Chúa vẫn chưa được hiện diện giữa cuộc sống loài người. Trên thế giới này, chỉ có một phần tư nhân loại mang danh Kitô hữu. Trong số một phần tư ít ỏi đó, lại càng có ít người ý thức được rằng họ cần Chúa mỗi ngày, và nếu vắng Chúa, họ không thể sống được. Rất nhiều người lầm tưởng rằng họ vẫn có thể sống mà không cần Chúa. Có khi chính con cũng ở trong số những người sai lầm đó.
Hôm nay, con đón nhận Lời Chúa, xin cho con ngày càng tin vào Chúa, để con đón nhận ánh sáng sự sống rất cần thiết cho cuộc đời của con. Xin Chúa ở lại với chúng con và ban ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
Ghi nhớ: “Ta là sự sáng đã đến thế gian”.
SUY NIỆM 8: Tin Chúa Giêsu, sẽ không tối tăm
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Chú bé cùng với bố đang đi trên con đường mòn trong đêm dày đặc, trên tay chỉ có cây đèn nhỏ. Bóng đêm trước mặt gây cho chú cảm giác sợ hãi mơ hồ. Chú nói với bố: “Bố ơi, chiếc đèn này chỉ chiếu sáng có chíu xí trên đường, con sợ quá!”. Bố đáp: “Con ạ, ánh sáng này đúng là hơi yếu, nhưng nó cũng đủ soi cho con đi tới cuối đường”.
Đời sống Kitô hữu cũng là một con đường đầy tăm tối, nhưng Chúa luôn ban đủ ánh sáng cho mỗi bước đi. Và ta cũng chỉ cần bấy nhiêu. Nhưng ta chắc chắn một điều: Ánh sáng đó không bao giờ tắt. Nếu ta lên đường, ánh sáng đó đủ soi cho ta đến cuối đường đời.
Suy niệm
Ánh sáng luôn rất cần thiết trong cuộc sống con người. Chúa Giêsu - Ngôi Lời đến như là ánh sáng siêu nhiên cho con người như Tin Mừng thứ tư khẳng định: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9) soi chiếu sự hiện diện của Thiên Chúa ở trần gian.
Người không tin thì không giữ lời Ngài và sống trong tối tăm bất hạnh. “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Thật thế, tin vào Chúa thì sẽ mang lại ánh sáng cho cuộc đời.
Ðức Giêsu được sai đến không để xét xử nhưng để ban ơn cứu độ như ánh sáng chiếu soi vào bóng tối. Nhưng nếu khước từ lời Ngài, là tự lên án chính mình, tự tách mình ra khỏi ánh sáng vinh quang Thiên Chúa. Không thể thoát ra khỏi sự xét xử cuối cùng, vì sự xét xử ấy là bởi thái độ do con người tin nhận hay từ chối từ Thiên Chúa: “Ai nghe lời Ta mà không tin giữ thì không phải Ta kết án kẻ đó, nhưng chính lời Ta sẽ xét xử nó” (Ga 12,47-48),
Thật thế, người từ chối không tin vào Ngài, không nghe lời Ngài, hoặc nghe mà không thực hành thì tự kết án mình như người từ chối ánh sáng để sống trong tăm tối.
Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta trở về với Ngài, với lòng nhân từ, lòng Chúa thương xót. Ngài muốn chúng ta lắng nghe lời Ngài và sống kết hợp với Ngài “biết giới răn Cha Ta là sống đời đời” (Ga 12,50).
Nhờ ánh sáng của Chúa Kitô, chúng ta tìm ra con đường đem lại hạnh phúc: Khi nghe, biết, tin tưởng phó thác và sống theo sự hướng dẫn của Ngài cũng trở nên ánh sáng nhỏ soi chiếu cho anh em.
Ý lực sống: “Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm” (Ga 12,46).
SUY NIỆM 9: Chúa là ánh sáng thế gian
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu khẳng định Ngài là Ánh Sáng cho thế gian. Ngài là ánh sáng xuất phát từ Cội Nguồn Ánh Sáng là Chúa Cha, Ngài phản chiếu hình ảnh của Chúa Cha. Vì thế, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu làm là theo điều Ngài đã thấy nơi Chúa Cha. Thế nhưng, người Do thái đã dường như cố tình không nhận ra điều đó, bởi chính ánh sáng thật từ Thiên Chúa đã phơi bầy mọi tâm can đen tối của con người.
2. Tất cả phát xuất từ Chúa Cha. Đức Giêsu phát xuất từ Chúa Cha. Lời Chúa nói, việc Chúa làm, đều phát xuất từ Chúa Cha: “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì... Vậy những gì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi”.
Mà lời Chúa Cha chính là sự sống: “Và tôi biết: mệnh lệnh của Ngài là sự sống đời đời”. Sự sống là ánh sáng. Cái chết là bóng tối. Đức Giêsu đến đem lời Chúa Cha ban sự sống đời đời. Đem ánh sáng sự sống soi vào bóng tối chết chóc cõi nhân gian: “Tôi là ánh sáng, tôi đã đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Vì thế ai đón nhận Đức Giêsu là đón nhận Chúa Cha. Là đón nhận ánh sáng. Là đón nhận sự sống.
3. Qua lời Đức Giêsu đã khẳng định, con người chúng ta phải có thái độ tin hay không tin nhận.
- Tin Chúa là tin Thiên Chúa Cha, thấy Chúa là thấy được Thiên Chúa Cha. Tin Chúa sẽ mang lại ánh sáng soi cho cuộc đời của mình. Đức tin là ánh sáng, không tin là sống trong bóng tối.
- Từ chối không tin, con người tự kết án mình. Mặc dầu Đức Giêsu không đến để kết án mà để cứu rỗi, không ai có thể thoát ra khỏi sự cứu rỗi cuối cùng này, và sự xét xử đến từ thái độ của người đó, đón nhận hay từ chối Thiên Chúa: “Ai nghe lời tôi mà không tuân giữ thì không phải tôi là người kết án kẻ ấy vì tôi không đến để luận phạt thế gian mà đến để cứu rỗi. Ai chê chối tôi và không nhận lời tôi thì sẽ có người xét xử kẻ ấy, tức là lời giảng dạy của tôi sẽ xét xử kẻ ấy trong ngày sau hết”.
4. Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cả trời và đất. Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quần áo. Nhờ có ánh sáng ta mới thấy được sự vật chung quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại. Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy đường mà đi trong đêm tối. Nếu không có ánh sáng, sinh vật không lớn lên được và sẽ chết dần mòn... Bởi thế người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng (Frank Mihalic).
5. Khi suy niệm về Đức Giêsu Kitô, có người ví Đức Giêsu là người thầy tốt lành luôn giảng dạy điều hay lẽ phải, người khác lại xem Đức Giêsu là người bạn thân thiết luôn đồng hành chia sẻ niềm vui nỗi buồn. Đối với linh mục nhạc sĩ Nguyễn Duy, Đức Giêsu là ánh sáng, là đường đi. Vì thế, linh mục viết như sau: “Giêsu ơi, Ngài là ánh sáng, xin cho con được tan chảy trong Ngài. Giêsu ơi, Ngài là đường đi xin cho con đồng hành với Chúa” (Bài hát Giêsu Ánh sáng).
Đức Giêsu ví mình là ánh sáng của thế gian này. “Ánh Sáng” ở đây không phải là ánh sáng vật lý như vẫn thường thấy nơi bóng đèn, tivi... nhưng là mạc khải đích thực về Thiên Chúa, con người và thế giới.
6. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Đức Giêsu là Ánh sáng thật để được hạnh phúc như chính Ngài đã nói: “Ta là ánh sáng đến trong thế gian để ai tin Ta không đi trong tối tăm”. Vì thế, ngay trong giây phút này, chúng ta hãy sống những điều thuộc về Ánh sáng như thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep 5,8).
Không những chúng ta thuộc về Ánh sáng, nhưng chúng ta còn phải trở nên ánh sáng cho trần gian, để soi sáng cho người khác đến nguồn Ánh sáng là chính Đức Giêsu, để họ cũng được sự sống đời đời.
7. Truyện: Hãy bật sáng lên
Tại nhà thờ nọ, trong một buổi tối giảng tĩnh tâm, có hàng ngày tín hữu đến tham dự, nhằm khuyến khich con cái Chúa biết chiếu sáng lòng tốt của mình ra cho mọi người, linh mục thuyết giảng ra lệnh cho tắt hết các đèn trong nhà thờ.
Trong giây lát, bóng tối bao trùm cả nhà thờ. Cha nói:
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Tất cả những ai nhìn thấy ánh sáng của que diêm này, xin hô lên rằng mình thấy nhé!
Cả nhà thờ to lớn, song chỉ ánh sáng một que diêm nhỏ, ai cũng nhìn thấy nên đồng thanh hô to:
- Thấy!
Cha liền giải thích:
- Bất cứ hành động nào của lòng tốt cũng đều tương tự như thế. Một nguồn sáng dù nhỏ cũng có thể chiếu sáng ra giữa muôn ngàn tội lỗi xấu xa của nhân loại. Một hành động của lòng tốt dù thật nhỏ, cũng vẫn được phơi bầy trước Chúa và loài người.
Kế đến, linh mục cho phân phát mỗi người một que diêm và bảo:
- Bây giờ mỗi người hãy đốt que diêm lên!
Trong giây lát, bóng tối trong nhà thờ đã nhường chỗ cho ánh sáng tỏa ra từ những que diêm li ti khiến nhà thờ tràn ngập những ánh sáng lung linh một cách kỳ diệu. Vị linh mục kết luận:
- Hãy coi đó, dù nghèo nàn về phần thiêng liêng, chúng ta cũng có thể đánh bại bóng tối tăm của tội lỗi và chiếu sáng cả thế giới bằng tình yêu và sự thánh thiện của mình.
27/04 Sự thật cứu rỗi
- Viết bởi Ga 10, 22-30
Sự thật cứu rỗi.
Thứ Ba tuần 4 Phục Sinh.
"Tôi và Cha Tôi là một".
Lời Chúa: Ga 10, 22-30
Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết".
Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi.
Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Không ai cướp được chúng
Suy niệm:
Có những Kitô hữu theo đạo để mong tránh sóng gió của cuộc đời.
Nhưng đã có lần con thuyền chở Đức Giêsu và môn đệ gặp bão lớn,
nước tràn vào khiến thuyền gần chìm, làm môn đệ hốt hoảng.
Theo Chúa đâu phải để tránh bão, nhưng để vượt qua cơn bão.
Theo Chúa đâu phải để khỏi bị cám dỗ, nhưng để thắng cơn cám dỗ.
Cuộc sống của người Kitô hữu không tránh khỏi những khó khăn
mà những người không Kitô hữu phải đối mặt mỗi ngày.
Hơn nữa, người Kitô hữu còn gặp nhiều khó khăn hơn.
Có những cơn bão ập đến bất ngờ chỉ vì họ là Kitô hữu.
Làm chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu
không có nghĩa là được hưởng một sự êm ả dễ chịu.
Được ở trong ràn chiên của Chúa,
không có nghĩa là được yên ổn, chẳng bị ai quấy phá.
Đức Giêsu đã nói đến chuyện kẻ trộm, kẻ cướp, leo tường mà vào (c.10).
Chúng đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy đàn chiên (c. 10).
Khi được dẫn đi ăn nơi đồng cỏ, chiên còn phải đối đầu với sói dữ.
“Sói cướp lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” (c. 12).
Đức Giêsu khẳng định mình không phải là người làm thuê,
nên khi sói đến, Ngài không bỏ chiên mà chạy.
Chiên là điều quý giá đối với Ngài đến độ Ngài dám nói nhiều lần:
“Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (cc. 11.15.17.18.).
Và thực sự Ngài đã làm điều đó trên thập giá.
Rõ ràng bảo vệ đoàn chiên là chuyện mấy chẳng dễ dàng.
Nếu Đức Giêsu, người mục tử nhân hậu mà bất khuất,
đã phải hy sinh mạng sống cho đoàn chiên,
thì hẳn cuộc chiến giằng co phải rất là ác liệt.
Kẻ thù của chiên chẳng phải là kẻ kém cỏi tầm thường.
Trong cuộc chiến để bảo vệ chiên, còn có sự hiện diện của Cha.
Chiên là của Cha và Cha đã giao chiên cho Đức Giêsu (c. 29).
Cha và Con cùng hợp tác để bảo vệ đoàn chiên,
không để ai cướp chiên ra khỏi vòng tay che chở của mình (cc. 28-29).
Cha và Con một lòng một ý trong nhiệm vụ này (c. 30).
Việc bảo vệ chiên còn kéo dài mãi đến tận thế.
Chúng ta làm gì để cộng tác với Chúa trong việc bảo vệ mình khỏi sói dữ?
Hãy tin vào Giêsu và nhận ra giọng nói của Giêsu để khỏi bị lừa.
Hãy theo sát sự dẫn đường của Giêsu, vị Mục tử đã chiến thắng cái chết.
Và hãy tin vào Chúa Cha, Đấng mạnh mẽ hơn tất cả (c. 29).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến ru bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: SỰ SỐNG CỦA THIÊN CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sự sống của Thiên Chúa thật kỳ diệu. Đó là sự sống hiệp thông. Một sự hiệp thông mầu nhiệm. Nên một. “Tôi và Chúa Cha là một”. Không còn gì xác tín hơn. Không còn gì sâu xa hơn. Chỉ Thiên Chúa mới có sự sống ấy.
Sự sống hiệp thông ấy biểu lộ trong suốt đời dương thế của Chúa Giê-su. Người không nói gì, làm gì mà không bởi Chúa Cha. Đó là dấu chỉ chắc chắn nhất chứng minh Người là Đấng Ki-tô. “Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi”.
Sự sống hiệp thông lan toả đến đoàn chiên của Chúa. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Đó là sự sống phong phú, viên mãn. Không bao giờ mất. Không ai cướp đi được.
Sự sống hiệp thông tràn lan khắp nơi. Càn tản mát lại càng lan toả. “Hồi ấy, những người phải tản mác vì cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Tê-pha-nô, đi đến tận miền Phê-ni-xi, đảo Sýp và thành An-ti-ô-khi-a”.
Sự sống hiệp thông tràn lan sang cả dân ngoại. Không chỉ trong người Do thái. Nhưng còn lan toả đến mọi dân tộc. “Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc Sýp và Ky-rê-nê; những người này, khi đến An-ti-ô-khi-a, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giê-su cho họ”.
Và thật lạ lùng. Sự sống ấy giữ được nét nguyên tuyền. Như Chúa Cha và Chúa Giê-su là một. Giờ đây đoàn chiên hiệp thông với chủ chiên. Tín hữu hiệp thông với Chúa Ki-tô. Đến nỗi người ta gọi họ là “Ki-tô hữu”. Người mang Chúa Ki-tô. “Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu”.
Xin cho con được kết hiệp trọn vẹn với Chúa. Sống sự sống của Chúa trong mình. Để con xứng đáng mang danh hiệu Ki-tô hữu rất cao quý này.
SUY NIỆM 3: Sự thật cứu rỗi
Không phải chỉ trong thời đại văn minh này người ta mới lịch sự đón tiếp đại sứ của một chính phủ hay nguyên thủ của một quốc gia đúng theo địa vị đại diện của họ. Nhưng ngay từ thời xưa, hậu đãi hay ngược đãi sứ giả của một vua là đã phụ đãi hay ngược đãi chính nhà vua và chính quốc gia mà người ấy đại diện. Không phải vì tiếng tăm, học vấn hay tài trí của sứ giả làm cho họ được kính trọng mà chính vì thay mặt nhà vua và một quốc gia mà họ có quyền được hậu đãi như thế. Ðây cũng là điều mà Chúa Giêsu nói với những người Do Thái thời xưa như được kể lại trong đoạn Tin Mừng vừa trích dẫn trên đây.
Câu hỏi mà họ đặt ra trong lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy tại đền thờ làm ta nhớ đến câu hỏi của thượng tế Caipha trong phiên họp thượng hội đồng: "Nếu ông là Ðấng Kitô thì xin hãy nói thẳng ra đi. Ông có phải là Ðấng Mêsia không?". Trong câu chất vấn này, Chúa Giêsu đã không phủ nhận. Chỉ có điều Chúa Giêsu trả lời một cách hơi gián tiếp như sau: "Tôi đã trả lời câu hỏi này mà các ông không tin". Nhưng dù vậy, Chúa Giêsu không bỏ rơi họ để giúp họ tìm thấy sự thật, tìm ra câu trả lời. Chúa Giêsu đã khéo léo làm cho họ chú ý đến quan hệ mật thiết giữa Ngài với Thiên Chúa Cha, mật thiết đến độ Ngài gọi Thiên Chúa là Cha Ngài và làm chứng cho mối quan hệ mật thiết đó bằng việc làm nhân danh Cha Ngài, và việc cao trọng nhất là ban cho kẻ tin Ngài được sự sống đời đời: "Ta sẽ cho họ sống đời đời. Họ sẽ không chết bao giờ và không ai có thể cướp họ khỏi tay Ta".
Nếu đã nhìn nhận mối quan hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, thì hẳn những người Do Thái sẽ biết trả lời cho câu hỏi "Ông là ai?" như thế nào rồi. "Ta và Cha Ta, chúng ta là một". Ðây là mạc khải quan trọng nhất nhắc ta nhớ lại những suy tư mở đầu Phúc Âm thánh Gioan: "Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Ngôi Lời sống với Thiên Chúa ngay từ đầu. Vạn vật do bởi Ngài mà có và nếu không có Ngài thì sẽ không có gì cả". Tác giả Phúc Âm thánh Gioan đã có những suy tư cao siêu như vậy khi nhìn về mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô trong viễn tượng Chúa Phục Sinh.
Ước chi mỗi người đồ đệ của Chúa trong ngày hôm nay cũng tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi nhân loại.
Lạy Chúa, với sự kiện Chúa sống lại, không ai trong chúng con nên hồ nghi về mối quan hệ giữa Chúa và Chúa Cha. Xin thương ban ơn giúp mỗi người chúng con sống xứng đáng với niềm tin vào Chúa và đừng bao giờ để con lìa xa Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Thắc mắc đến bao giờ
Chọn theo đức tin mà Đức Giêsu đòi hỏi không phải là để yên tâm nghỉ ngơi. Đức tin không cất đi những thắc mắc căng thẳng. Chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng lơ lửng: “Hãy nói cho chúng tôi biết ông có phải là Đức Kitô không?”. “Nếu ông là Đấng sống lại thì xin nói cho chúng tôi biết”. “Nếu ông là bánh ban sự sống thì xin nói cho chúng tôi hay”.
Trái lại, gắn bó với Đức Giêsu bằng đức tin chỉ có sự chắc chắn theo kiểu tin cậy của người yêu đối với người được yêu, khi đó dù có chuyện gì xảy ra, thì chẳng có gì quan trọng. Tôi sẵn sàng gắn bó quyến luyến anh, thì tôi luôn trung tín với anh. Cũng thế, chính niềm tin cậy vào Đức Giêsu, được đặt nền trên tình liên kết với Người, mà chúng ta chấp nhận lời Người như một bảo đảm bất biến.
Hôm nay, trong cuộc đàm thoại với chúng ta Người đã bảo đảm sự trung tín và sự cam kết của Người với chúng ta. Người biết rõ chúng ta, Người ban sự sống đời đời và giữ gìn chúng ta trong tay Người. Lòng trung tín của Chúa đã in đậm trong Cựu ước, giờ đây được xác nhận lại rõ ràng nồng nàn đậm đà hơn nữa bởi chính Con Chúa. Chúa không bao giờ bỏ giao ước của Ngài.
Nhưng có lần nào chúng ta nhắc lại lòng trung thành của chúng ta với Đức Kitô không? Nếu chúng ta không trung thành với những người chung quanh thì kể như chưa trung tín với Ngài. Nếu chúng ta thông phần vào đời sống Đức Kitô thì chúng ta phải hội nhập với mọi người.
Nếu chúng ta không biết sát cánh hoạt động với mọi người, không biết liên đới với họ trong tình huynh đệ, chúng ta không trung tín. Như thế chưa có thể nhận biết ai là Đức Giêsu Kitô. Chắc chắn rằng Đức Kitô chăm lo săn sóc cho mọi người đến tột đỉnh, thì những Kitô hữu cũng phải thực hiện theo hình ảnh trung tín của Người như vậy.
SUY NIỆM 5: Thái độ đáp trả của chiên
“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Đó là khẳng định của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay.
Nghe tiếng chủ chiên là nghe hiểu và đáp trả. Thái độ đó sẽ được đền bù xứng đáng: người chăn chiên sẽ dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi, sẵn sàng liều mạng để bảo vệ chúng. Nghe để rồi tách khỏi bầy, tìm cho mình một lối đi riêng thì đâu còn phải là nghe theo tiếng của người chăn. Người chăn sẵn sàng băng rừng vượt suối để tìm con chiên lạc, chứ chẳng bao giờ muốn chiên lạc xa bầy. Đồng cỏ mà người chăn dự tính trong đầu được dành cho cả bầy, tách rời khỏi bầy chắc chắn chiên không thể đến được đồng cỏ này. Tưởng rằng chỉ một mình thức tỉnh nghe và theo tiếng gọi, trong lúc cả bầy chiên chưa nghe biết, rất có thể đó là tiếng gọi giả hiệu của sói dữ muốn chiên rời xa sự chăm sóc của chủ để dễ dàng tấn công.
Giáo Hội là đàn chiên của Chúa. Lời hứa chăm sóc bảo vệ đàn chiên của Chúa Giêsu không chỉ dành riêng cho thời các Tông đồ hoặc các cộng đoàn tiên khởi, nhưng đã trải dài suốt 20 thế kỷ nay. Biết bao thế lực chống đối chủ trương triệt hạ Giáo hội, nhưng Giáo Hội vẫn tồn tại nhờ sự bảo về đầy quyền năng của chủ chăn. Trong đàn chiên Giáo Hội này, mỗi con chiên đều được người chăn biết rõ, và gọi tên và chiên có bổn phận phải nghe và đáp trả. Sự đáp trả có thể mang nhiều sắc thái khác nhau, nhưng dù sao vẫn không thể ra ngoài lối đi của tất cả đàn chiên, vì đó là lối dẫn đến sự sống.
Ước gì chúng ta biết lắng nghe và đáp lại tiếng gọi của Chúa, đồng thời trung thành với đàn chiên Giáo Hội, bởi vì một khi lạc xa đàn, chúng ta sẽ không thể tìm được đồng cỏ và suối nước trong, nơi mà người chăn chiên muốn cho cả đàn chiên vui hưởng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: XIN ĐƯỢC Ở TRONG ĐÀN CHIÊN CỦA CHÚA (Ga 10,22-30)
Cùng một lời nói được phát ra, có người nghe thấy, có người chẳng nghe; có người nghe đúng, có người nghe sai; có người nghe đủ, có người nghe thiếu...
Thực trạng đó rất đúng với bài Tin Mừng hôm nay. Thật vậy, những người Dothái hỏi Đức Giêsu: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết".
Những người Dothái không biết Đức Giêsu là bởi vì họ đã không nhận ra Ngài. Họ bị thói kiêu ngạo che lấp tâm trí, nên đứng trước biết bao nhiêu phép lạ, lời giảng dạy và nhiều mạc khải khác, họ vẫn bị mờ tối lương tâm nên không “biết” Đức Giêsu. Vì thế, khi được hỏi, Đức Giêsu đã khẳng khái trả lời cho họ biết nguyên nhân tại sao, đó là: “Vì họ không thuộc về đàn chiên của Ngài”. Bởi vì: “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” Khi đã “biết” và nghe theo tiếng Chủ chiên là chính Đức Giêsu, thì sẽ được sự sống đời đời, không bao giờ diệt vong. Nhất là được đảm bảo khỏi sói dữ, quỷ thần ám hại, vì được ở trong vòng tay của Vị Mục Tử Nhân Lành.
Nếu Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, thì Giáo Hội là đàn chiên của Chúa. Nơi đàn chiên này, luôn được Vị Mục Tử Nhân Lành chăm sóc, giữ gìn. Thế nên, dù sự dữ có mạnh đến đâu, quyền lực của ma quỷ có lớn lao cỡ nào, thì Giáo Hội Chúa vẫn tồn tại nhờ vào sức mạnh, uy quyền của Chủ Chăn.
Mong sao, mỗi người chúng ta luôn tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, đồng thời hãy biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, để xứng đáng trở thành con chiên ngoan hiền trong đàn chiên của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa ban cho chúng con luôn biết dõi theo Chúa dưới cây gậy mục tử là chính Lời Chúa, để chúng con được sống trong đàn chiên của Chúa đến trọn đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Chiên Tôi nghe tiếng và theo Tôi
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu thực sự là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa. Người đến để ban sự sống đời đời cho đoàn chiên và giữ gìn bảo vệ đoàn chiên an toàn. Hãy tín nhiệm đi theo Người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con được hạnh phúc biết bao vì biết rằng con đang được bàn tay yêu thương của Chúa ôm ấp và bảo vệ. Chúa như người mục tử yêu thương con, hy sinh liều mạng sống vì con để bảo vệ con khỏi những hiểm nguy tấn công con tứ phía. Trước mặt Chúa, mạng sống thân xác con thật quý giá, sự sống linh hồn con thật cao cả. Chúa muốn con được sống, được an toàn, được sống sung mãn và hạnh phúc.
Lạy Chúa, Sa-tan muốn cướp giựt con khỏi bàn tay Chúa. Sa-tan muốn biến thế gian này làm tay sai cho nó, thành sào huyệt đầy những hiểm nguy và ác độc. Có những cám dỗ ngọt ngào, có những thử thách khổ đau, tất cả đều muốn lôi kéo con xa rời đường lối Chúa và phản bội tình thương Chúa. Nhưng Chúa không đành lòng nhìn con rơi vào tay quỷ dữ. Chúa đã cầu nguyện xin Chúa Cha gìn giữ con đang phải chiến đấu giữa thế gian. Chúa còn liều mạng sống trên thánh giá để con khỏi phải diệt vong. Con cảm tạ tình Chúa thương con.
Thế mà lạy Chúa, rất nhiều lúc con lại muốn chạy trốn để vuột thoát khỏi bàn tay Chúa. Con không còn muốn bước theo Chúa. Con đã đi tìm sự tự do buông thả như người con hoang đàng để rồi chuốc lấy đau khổ và bất hạnh. Xin Chúa cho con tín nhiệm vào Chúa. Con muốn từ nay trung thành sống theo lời Chúa dạy. Trước mỗi cám dỗ hoặc mỗi thử thách, xin Chúa cho con được sáng suốt để nhận định, được can đảm để trung thành, và được tin tưởng để cầu nguyện. Amen.
Ghi nhớ: “Tôi và Cha Tôi là một”.
SUY NIỆM 8: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Hành hương Rôma, pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng: “Ta là môn đệ của một mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.
Chúa Kitô chính là người mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa (Theo Lm. Hồng Phúc).
Suy niệm
Tình thương của Thiên Chúa qua hình ảnh mục tử trải qua bao năm tháng luôn tràn đầy như Thánh Vịnh đã nhấn mạnh: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” (Tv 22,6). Hôm qua, hôm nay và qua mọi thời, Thiên Chúa vẫn chăm sóc chúng ta, Ngài vẫn luôn cất tiếng gọi chiên, dẫn đưa trên đường chân lý như Thánh Vịnh ca ngợi: “Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính” (Tv 22,3).
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự tương quan giữa Thiên Chúa chính là Ngài - Mục tử và đoàn chiên là những người tin vào Ngài: Đức Kitô Mục tử như vừa là người cha vừa là người mẹ hiền chăm sóc cho từng chiên và bảo vệ chúng. Thật thế, Ngài luôn bảo vệ chúng ta trước những cạm bẫy, nguy hiểm của thế gian. Ngài mạnh mẽ như người mục tử đầy sức mạnh, kiên cường của một người du mục, luôn sẵn sàng chiến đấu, có khả năng bảo vệ đoàn vật mình khỏi thú dữ đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (x. 1Sm 17,34-35). Vì thế Ngài khẳng định: “Ta ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,28). Chúa khẳng định: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta”. Trong mọi giây phút của cuộc đời, tôi và bạn cùng “gạn đục khơi trong” tiếng mục tử giữa cuộc đời. Tiếng đó thì thầm trong lương tâm ngay thẳng được chiếu sáng bằng đức tin và Lời Chúa: “Lời Chúa soi rọi bước chân con” (x. Tv 118,105). Tiếng Ngài nói qua những biến cố thăng trầm của cuộc sống: Luôn thẳng đứng trong hy vọng và tin tưởng. Lời của Chúa dạy phải biết vâng phục sự thật (x. 1Pr 1,22) và bước đi trong sự thật (x.3Ga 4), mọi tiếng nói, mọi sự việc, mọi biến cố đều đặt trong gương sự thật và như Chúa khẳng định: “Chính chân lý sẽ giải phóng các con” (Ga 8,32).
Nghe Lời mục tử, không để Lời Ngài bị lấn át bởi những âm thanh xào xạc của thế gian. Trái lại, chính nhờ Lời của mục tử “chỉnh lại” âm thanh vừa phải của những lời xào xạc của cảm xúc, thanh lọc âm điệu ồn ào của thế gian. Đặc biệt, Lời mục tử chỉnh sửa và phối hợp chúng làm những âm thanh trầm bổng của cuộc sống tạo thành bản tình ca “Chúa Chiên nhân lành Người thương chăn dắt tôi…”. Chính lúc đó, tôi và bạn học “biết” mục tử, tham dự vào cái “biết” của Ngài. Với cái “biết” linh thiêng này, tôi và bạn gắn bó trọn vẹn với Đức Kitô, dù thuộc bất cứ thành phần nào, cương vị nào: Người tín hữu gắn bó với Ngài hơn qua đời sống hằng ngày, người đang sống với ơn gọi linh mục, tu sĩ cảm nhận được hạnh phúc của đời thánh hiến và dấn thân quên mình như người mục tử nhân lành, sinh viên, học sinh nghe được tiếng Chúa gọi, nhắn nhủ đầu tư cho tương lai cần chăm chỉ học hành, rèn luyện nhân cách cho mình và cho xã hội là đồng cỏ xanh mới đang được kiến tạo. Đặc biệt, người đang được tiếng Chúa gọi trở nên mục tử tương lai, sẽ cảm nhận ơn gọi đã được gieo trong tâm bạn và bạn đang “biết” Chúa hơn, theo Ngài trọn vẹn để làm nảy nở và sinh trái. Đó cũng là ý nghĩa đặc biệt của Chúa Nhật hôm nay - Chúa Nhật Chúa Chiên Lành.
Như Chúa nói: “Chúng theo Ta”, “theo” là thái độ tự do đáp trả dấn thân với Chúa. Như các môn đệ gặp gỡ Đức Kitô, nghe Ngài và khi Ngài gọi “Hãy theo tôi” (Ga l,42). Các ông lập tức đáp trả lại: Bỏ mọi sự theo Thầy (x. Mt 4,20; Mc 1,18.20…). Theo Đức Giêsu là gắn bó trọn với Ngài. Được Ngài bảo vệ, hơn nữa kết hợp mật thiết tình thầy trò, và qua Thầy gắn bó với Cha vì gắn bó với Thầy là gắn bó với Cha như Chúa Giêsu nói “Ta và Cha Ta là một” (Ga 10,30).
Ý lực sống: ”… Chúng theo tôi … không ai cướp được chúng trong tay tôi” (Ga 10, 27-28).
SUY NIỆM 9: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nhân kỷ niệm cuộc tẩy uế Đền thờ Giêrusalem và khánh thành bàn thờ mới thời Giuđa Maccabê, Đức Giêsu cũng có mặt. Trong khi Đức Giêsu đi bách bộ tại hành lang Salômôn, người Do thái vây quanh và chất vấn Ngài về nguồn gốc của Ngài. Nhân đây, Ngài tuyên bố một chân lý quan trọng: “Tôi với Chúa Cha là một”, nghĩa là Ngài đồng bản tính với Chúa Cha.
2. Năm 165 TCN, một trong những nhà ái quốc nổi tiếng của Do thái là Giuđa Maccabê đã lãnh đạo cuộc nổi dậy của người Do thái chống lại ách thống trị của vua Syria là Antiôkô Epiphane. Chiến công vẻ vang nhất trong cuộc nổi dậy là tái lập và thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem vốn đã bị tục hóa bởi bàn tay thô bạo của ngoại xâm. Từ đó, hàng năm vào khoảng Mùa Đông, người Do thái tưởng niệm biến cố này trong vòng 8 ngày liền, tuần lễ này được gọi là Cung hiến Đền thờ.
3. Đức Giêsu đã có mặt tại Giêrusalem nhân tuần lễ tưởng niệm này. Lễ Cung hiến Đền thờ vốn khơi dậy lòng ái quốc của dân chúng. Chính vì thế nhiều người đã vây quanh Đức Giêsu và yêu cầu ngài tuyên bố dứt khoát Ngài có phải là Đấng Kitô nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và sai đến như vị cứu tinh của dân tộc không?
Đối với họ, Đức Giêsu có thể là vị anh hùng dân tộc hay một nhà cách mạng nào đó. Chính vì thế, Đức Giêsu đã không trả lời dứt khoát cho câu hỏi của họ. Mối tương quan giữa Chúa Cha và Ngài mà Đức Giêsu vén mở trong câu trả lời mời gọi người Do thái đi vào mầu nhiệm của Ngài.
4. Chúng ta thấy Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi họ đặt ra, nhưng một lần nữa, Chúa cho họ biết Đấng Kitô không phải như quan niệm trần tục của họ, Đấng Kitô không đến để làm thỏa mãn những tham vọng chính trị của họ là giải phóng dân tộc của họ và đem lại thịnh vượng vật chất cho họ. Cho nên, Chúa vượt lên trên quan niệm thiên sai trần thế, và tuyên bố cho họ biết Ngài đồng bản tính với Chúa Cha: ”Tôi và Cha tôi là một”.
5. Như vậy, Đức Giêsu đã khẳng định rõ Ngài là ai. Ngài không những là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, mà còn là chính Thiên Chúa nữa. Trong vấn đề này, chỉ trong đức tin, con người mới có thể biết Đức Giêsu, nhận diện được khuôn mặt đích thực của Ngài và loan truyền một cách đúng đắn về Ngài. Nhiều khi qua cuộc sống và cung cách tuyên xưng niềm tin của mình, người Kitô hữu chỉ trình bầy một khuôn mặt, nếu không méo mó về Đức Giêsu, thì cũng giới hạn Ngài trong những quan niệm hoàn toàn trần tục. Biết Đức Giêsu và đi vào mầu nhiệm thẳm sâu của Ngài thiết yếu là đi vào cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài. Liền sau khi Phêrô tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, Đức Giêsu đã loan báo cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài.
6. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”.
Giáo hội là đàn chiên của Chúa. Lời hứa chăm sóc bảo vệ đàn chiên của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho thời các Tông đồ hoặc các cộng đoàn tiên khởi, nhưng đã trải dài suốt 21 thể kỷ nay. Biết bao thế lực chống đối chủ trương triệt hạ Giáo hội của Đức Kitô, thế nhưng Giáo hội của Chúa vẫn tồn tại nhờ sự bảo vệ đầy quyền năng của chủ chăn.
Trong đàn chiên Giáo hội này, mỗi con chiên đều được người chăn chiên biết rõ, gọi tên, và chiên có bổn phận phải nghe và đáp trả. Sự đáp trả có thể mang nhiều sắc thái khác nhau, nhưng dù sao không thể ra ngoài lối đi của tất cả đàn chiên, vì đó là lối dẫn đến sự sống.
7. Cuộc sống của người Kitô hữu là lời tuyên xưng và rao giảng về một dung mạo của Đức Giêsu khi nào họ kết hiệp với Ngài trong mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Người Kitô hữu phải cố gắng để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô để có thể nói như thánh Phaolô: ”Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta nghe lời văn sĩ John Bayer đã khen vợ mình vào giây phút cuối đời ông: ”Mình thân yêu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.
8. Truyện: Bức tượng Chúa chiên lành
Hành hương Rôma, pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào thế kỷ thứ II rằng: ”Ta là môn đệ của một mục tử thánh thiện đã dẫn dàn chiên ra đồng có xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.
Chúa Kitô chính là người mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.