Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
26/04 Chúa chiên lành
- Viết bởi Ga 10, 1-10
Chúa chiên lành.
Thứ Hai tuần 4 Phục Sinh.
"Ta là cửa chuồng chiên".
Lời Chúa: Ga 10, 1-10
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ".
Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Mục tử nhân lành
Suy niệm:
Mục tử và đàn chiên trên đồng cỏ
là một hình ảnh quen thuộc đối với người Palestin.
Giữa người và chiên có một mối tương quan mật thiết.
Ở đây Ðức Giêsu tự ví mình như người mục tử.
Mục tử nhân lành khác với người chăn thuê,
vì dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên,
chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ.
Hội Thánh là đoàn chiên của Ðức Giêsu Kitô.
Giữa Ngài và từng con chiên, có mối dây gắn bó.
Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi,
như Cha biết tôi và tôi biết Cha.
Ðây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều.
Chiên không phải là một con vật ngờ nghệch, thụ động.
Chiên là hình ảnh của một ngôi vị tự do.
Vị Mục Tử gọi tên từng con bằng giọng quen thuộc.
Chiên nghe tiếng của Ngài và đi theo.
Như thế giữa Mục Tử và đoàn chiên
có sự hiểu biết nhau sâu xa, nhận ra nhau dễ dàng,
và một sự trân trọng quý mến nhau đặc biệt.
Sau Phục Sinh, Ðức Giêsu đã giao cho Phêrô sứ mạng
chăn dắt và chăm sóc đoàn chiên của Ngài.
Sứ mạng này bắt nguồn từ một tình yêu.
Yêu mến Ngài dẫn đến yêu mến đoàn chiên Ngài.
Ðức Giêsu là Mục Tử tối cao và gương mẫu.
Mọi mục tử khác chỉ là phụ tá
giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài.
Mọi mục tử phải noi gương Ngài,
dám chết để cho chiên được sống.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn cần những người tiếp nối công việc của Ngài,
để lo cho đoàn chiên trên thế giới.
Các bạn trẻ khi lớn lên thường lập gia đình.
Ðiều đó thật là tốt đẹp.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số bạn trẻ
ở bên Ngài cách đặc biệt để được Ngài sai đi.
Họ chấp nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm,
để có thể yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn.
Tiếng gọi của Chúa vẫn vang lên
ở ngay nơi lời nài xin của con người.
Những người đói khát Lời Chúa, đói khát tình thương,
đói khát bánh ăn, đói khát ý nghĩa cuộc sống.
Khước từ tiếng kêu của con người là khước từ tiếng Chúa.
Chúa Giêsu mời các bạn trẻ nhìn thấy đám đông bơ vơ.
Những người bệnh hoạn tật nguyền, những trẻ em đường phố,
những người lầm lỡ, tự đặt mình ở bên lề xã hội...
Thấy họ bằng trái tim và để cho tim mình đáp trả.
Tạ ơn Chúa đã cho Hội Thánh biết bao đại chủng sinh,
các linh mục, và các tu sĩ nam nữ, các nhà thừa sai.
Nhưng đồng lúa chín vàng vẫn cần nhiều thợ gặt,
tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn.
Có thể chính bạn được Chúa bất ngờ mời gọi
để đứng trong đội ngũ những người phục vụ đó!
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn
để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho,
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục
có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: CỬA GIÊSU
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lời Chúa hôm nay chứa đầy tâm tình yêu thương. Chúa Giêsu tự ví mình như cánh cửa. Quả thật cánh cửa của Chúa đã mở ra hết mọi chiều kích phong phú cuả sự sống để ban cho ta muôn vàn ân sủng.
Cánh cửa Giê-su mở ra chiều rộng vô biên của Nước Trời. Cửa mở rộng để đón nhận mọi người. Chúa không ngừng mời gọi mọi người đến với Chúa. Thoạt tiên là người Do Thái: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái các ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh”(Mt 23, 37). Rồi đến tất cả mọi dân tộc: “Tôi còn những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về”(Ga 10, 16). Hôm nay, trong một thị kiến lạ lùng, Chúa đã truyền cho thánh Phê-rô phải mạnh dạn đi đến với dân ngoại tại Ma-kê-đô-ni-a. Quả thật cánh cửa là tấm lòng của Chúa rộng mở đến vô biên để đón nhận tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, mọi mầu da, mọi ngôn ngữ vào Nước Chúa.
Cánh cửa Giêsu mở ra chiều cao vời vợi của ân sủng. Cửa mở ra cho ta đi vào cuộc sống mới trong một chân trời mới cao vượt cõi nhân gian phàm trần. Đó là cuộc sống trong Thánh Thần vượt xa mọi ràng buộc nặng nề của xác thịt. Được sinh trong Thánh Thần, ta tự do như gió, muốn thổi đâu thì thổi. Được nâng lên làm con Thiên Chúa, ta được ngồi ngang hàng với các bậc thần thánh. Chúa nâng cao phẩm giá con người. Con người không còn bị kết án dính chặt vào mặt đất. Con người trở nên Con Chúa và có một định mệnh mới cao quí vô cùng.
Cánh cửa Giê-su mở ra chiều sâu thăm thẳm của tình yêu. Chúa đến với ta trong tình yêu. Chúa yêu thương nên gọi tên từng người. Theo quan niệm của người Do Thái, tên tức là người. Biết tên là biết người. Chúa biết rõ ta từ khi ta chưa có mặt trên đời. Như lời Thánh vịnh 138: “Con mới là bào thai mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con. Đều thấy ghi trong sổ sách Ngài “. Ta đến với Chúa bằng tình yêu vì Chúa cho ta được biết tiếng ngài. Biết tiếng không khỏi gợi nhớ đến nguồn gốc của từ ngữ “tri âm, tri kỷ” tức là một người hiểu biết mình tường tận. Chúa cho ta được nghe tiếng Chúa để trở thành bạn hữu tri âm của Chúa, để hiểu và tham dự vào mọi chương trình của Chúa như lời Chúa nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15).
SUY NIỆM 3: Chúa chiên lành
Có một chàng sinh viên, sau khi tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một ngành nghề chuyên môn, nhưng lại đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh phải làm việc tới mười tám tiếng đồng hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt thời gian ở trên núi, anh hoàn toàn cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn con cừu.
Mỗi tuần một lần, người ta đem đến cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc của anh là làm sao giữ cho đàn cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ và có nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.
Anh kể: một buổi sáng nọ, có một nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả thời gian để lần theo dấu vết của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn mưa bão ập xuống, khiến tôi và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt đêm.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy nghề chăn cừu thời nay thật là khó khăn và cực nhọc. Nhưng ngày xưa, khi chưa có súng đạn thì công việc của họ không chỉ cực nhọc mà còn rất nguy hiểm nữa.
Trong sách Samuel, Đavid đã trả lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như sau: Tâu bệ hạ, thần đã từng chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một con sư tử hay một con gấu cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn công nó để cứu con cừu. Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần sẽ xông tới, chộp cổ họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và gấu. Thần cũng sẽ làm như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.
Từ những mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay, trong đó Chúa đã nói: Ta là mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Nói cách khác Chúa Giêsu chính là vị mục tử mà tiên tri Egiechiel đã loan báo: Ngài chăm sóc những con bơ vơ yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn và đi tìm những con bị lạc. Chúa Giêsu còn làm hơn thế nữa, Ngài tự hiến mạng sống cho đoàn chiên. Và từ cõi chết sống lại, Ngài đã chia sẻ vinh quang Phục sinh cho đoàn chiên của Ngài. Từ đó chúng ta hãy rút ra một vài điểm thực hành:
Điểm thứ nhất, đó là hãy tỏ lòng biết ơn Ngài vì nhờ sự chết và Phục sinh, Ngài đã cứu chúng ta khỏi manh mối của thú dữ là ma quỷ và tội lỗi.
Điểm thứ hai, đó là hãy bước đi dưới sự dẫn dắt của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta chẳng bao giờ bị lầm đường lạc lối. Trái lại, cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm an toàn, bởi vì như lời thánh vịnh cũng đã xác quyết: Chúa là Mục tử, Ngài dẫn lối chỉ đường cho con đi. Đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ non rợn đồng xanh con không bao giờ thiếu suối nước trường sinh con nghỉ uống no đầy.
SUY NIỆM 4: Mục tử nhân lành
(TGM Ngô Quang Kiệt)
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?
4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?
SUY NIỆM 5: Ta Là Cửa Ðoàn Chiên
Phần lớn vùng đất Giuđêa nằm trên độ cao, nhiều gồ ghề và sỏi đá, thuận tiện cho việc chăn nuôi hơn là trồng trọt. Bởi thế, người dân vùng này nói riêng và toàn thể vùng Palestina nói chung thường sống bằng nghề chăn nuôi. Họ nuôi nhiều cừu để lấy lông chiên hơn là ăn thịt. Thế nên, mối liên lạc giữa đàn chiên và người chăn thật mật thiết. Chiên hiểu chủ và chủ biết từng con chiên một.
Hình ảnh người chăn chiên là một diễn tả quen thuộc của lòng nhân từ, yêu thương. Trong Kinh Thánh các tác giả Cựu Ước đặc biệt là Thánh Vịnh thường hay so sánh mối quan hệ giữa Giavê Thiên Chúa và dân Israel như người chăn và đàn chiên. Israel và đàn chiên Giavê chăm sóc trong đồng cỏ của Ngài.
Qua tân Ước, hình ảnh người chăn và đàn chiên cũng được nhiều lần nói đến, đặc biệt là người chăn chiên được Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với người chăn chiên nhân lành. Nỗi lòng của người chăn chiên cũng là nỗi lòng của Ngài. Một trong những diễn tả ấy được thánh sử Gioan ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh chị em thân mến!
Thấy người Do Thái không lãnh hội được ý nghĩa là người chăn chiên, Chúa Giêsu nói rõ cho họ biết: "Ta là cửa chuồng chiên". Qua đó, chính Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết con đường đi tới Chúa Cha như là cửa mà đàn chiên ra vào và được hưởng sự an toàn, được sống dồi dào. Còn những kẻ đến trước mà vào là kẻ trộm cướp nên chiên đã không nghe tiếng họ. Những người đến trước ở đây không phải là các ngôn sứ, nhưng là những người dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian. Chính họ là những người Thiên Chúa dấu không cho biết những điều thuôc về ơn cứu độ. Trong thực tế, mặc dù bị áp đặt, nhưng người mù được Chúa Giêsu chữa lành không nghe lời người Pharisiêu và chỉ tin vào Chúa Giêsu. Vì họ là kẻ trộm đã giết hại chiên và phá hủy, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã tóm tắt vai trò của Ngài, Ðấng chăn chiên với đàn chiên là hình ảnh cửa đàn chiên: "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu độ". Ðây là hình ảnh quen thuộc của vùng Trung Ðông đối với các mục tử chăn chiên. Người mục tử nhân lành biết lo liệu cho đàn chiên của mình vào ban đêm và ban ngày, sẽ dẫn chiên tới đồng cỏ xanh tươi với dòng suối mát như tác giả Thánh Vịnh 22 vẫn hát lên "trong đồng cỏ xanh tươi Người cho tôi nằm nghỉ, Người cho tôi dòng nước trong lành".
Chúa Giêsu là cửa để qua đó từng con chiên vào và được nghỉ qua đêm an toàn. Chính nơi cửa, người mục tử sẽ cầm gậy để kiểm từng con chiên, không để một con nào bị lạc mất. Chúa Giêsu là cửa, qua đó các con chiên được dẫn đi ăn mỗi buổi sáng, để các chiên nghe và nhận biết tiếng gọi của chủ chăn. Chủ chăn gọi đàn chiên và dẫn chúng đi, người chăn chiên đi trước và chiên theo sau, vì chiên biết tiếng chủ chiên của mình. Hình ảnh cửa chuồng chiên và hình ảnh vị chủ chăn cho chúng ta thấy Ngài là Ðấng chăn chiên, là Ðấng Cứu Ðộ cho những ai nghe tiếng Ngài.
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 6: “TA BIẾT CHÚNG VÀ CHÚNG THEO TA” (Ga 10, 1-10)
Chuyện kể rằng: một du khách đến Palestin, gặp được người mục tử đang làm việc tại trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh đồi núi và bày cừu đang tung tăng trên cánh đồng cỏ.
Phóng tầm nhìn, du khách hỏi: “Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu?” Người mục tử hỏi lại: “Cửa hả? Chính tôi là cửa. Ban đem tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi”.
Trong cuộc đời của Đức Giêsu, một trong những phương pháp sư phạm của Ngài khi rao giảng Tin Mừng chính là phương pháp ẩn dụ. Tức là mượn hình ảnh của thiên nhiên, động vật... để nói lên một chân lý thuộc về Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cho biết: Đức Giêsu dùng hình ảnh mục tử, đàn chiên và cửa chuồng chiên để nói lên mối tương quan giữa Ngài và dân Israel.
Mục tử là khái niệm rất quen thuộc của người Dothái; đàn chiên chính là gia sản của họ, nên ai cũng biết. Mục tử và đàn chiên cả hai đều sống du mục, nay đây mai đó, luôn tìm đến chỗ có đồng cỏ tươi, dòng suối mát để hạ trại.
Hôm nay, Đức Giêsu khẳng định Ngài là Mục Tử Nhân Lành, được Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Mục Tử Nhân Lành này sẵn lòng hy sinh tất cả vì đàn chiên. Ngài tự ví mình là “Cửa Chuồng Chiên”, tức là người canh phòng, bảo vệ chiên khỏi sói dữ tấn công. Vì thế, ai qua “Cửa” mà vào thì sẽ được sống.
Người Mục Tử Nhân Lành này sẵn sàng dùng mọi cách để giữ gìn chiên, ngay cả cái chết. Ngài yêu thương chiên bằng tình yêu mục tử, nên Ngài “biết” từng con chiên và từng con chiên “biết” Ngài. Vì thế, sự sống của chiên là của Ngài và sự sống của Ngài luôn dành cho chiên.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa và Chúa thuộc về ta. Chúa “biết” chúng ta và Ngài “biết” cách thấu đáo. Còn chúng ta, chúng ta có “biết” Ngài không, hay có “biết” nhưng “biết” cách vu vơ, lúc biết lúc không?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nghiêm túc đặt lại câu hỏi ấy cho chính mình, ngõ hầu mỗi người làm mới lại mối tương quan với Thiên Chúa để được đi trong đường lối của Ngài. Đồng thời luôn sẵn sàng làm chứng về những gì mình “biết” về Thiên Chúa cho con người và cuộc sống hôm nay, ngang qua hành vi được biểu lộ nơi lòng mến và niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa ban cho chúng con được “biết” Chúa như chính Chúa đã “biết” chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Đức Giêsu Chúa chiên nhân lành
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay trình bầy Đức Giêsu là cửa chuồng chiên:
- “Ai không qua cửa chuồng chiên mà vào thì là quân trộm cướp”: Đức Giêsu ám chỉ những người biệt phái và luật sĩ. Họ không được Thiên Chúa ủy nhiệm, họ chỉ giành quyền lãnh đạo tôn giáo, không phải mưu cầu lợi ích cho dân, mà để tìm vinh dự và quyền lợi riêng.
- “Ta là cửa chuồng chiên”: Đức Giêsu là mục tử đích thật của dân. Ngài đi vào đường hoàng, được người canh gác mở cửa cho, gọi tên từng con chiên, chiên quen tiếng nên đi theo, Ngài dẫn chúng đi ăn.
2. Nhiều người đã nghe Đức Giêsu giảng và xem nhiều phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của Ngài, nhưng chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Câu hỏi “Ngài là ai” phải được đặt ra. Tuy nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ như vậy, nhưng họ vẫn nghi ngờ về thân thế, uy quyền và sứ mạng của Ngài.
Để nói lên sứ mạng của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người mục tử tốt lành. Người mục tử biết lo cho con chiên, tha thiết với đàn chiên, hiệp thông với đàn chiên, quên bản thân mình và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Đức Giêsu tự nhận lấy danh hiệu ấy cho mình khi Ngài nói với họ: “Ta là mục tử nhân lành” (Ga 10,14).
3. “Ta là cửa chuồng chiên”.
Đức Giêsu còn xác định Ngài là cửa chuồng chiên để bảo vệ đàn chiên. Hình ảnh này hơi khó hiểu đối với chúng ta vì phong tục nuôi chiên của người Palestin khác với chúng ta.
Trong cuốn “The Holy Land”: vùng đất thánh, tác giả John Kellman mô tả: chuồng chiên ở Do thái có một bức tường bằng đá chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Ngày nọ một du khách Thánh Địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngoài đồng gần Hebron. Người du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh đâu”? Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng”. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe biết, ban đêm anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không có con chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.
4. “Khi sói đến, người làm thuê bỏ chiên mà trốn”.
Đức Giêsu khẳng định “Ta là mục tử tốt lành”, do đó Ngài đã quên bản thân mình để phục vụ lợi ích của dân chúng và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên.
Trong quyển “The land and the Book”, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có một chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn chiên của chàng.
5. “Anh đi trước và chiên đi theo anh”.
Hình ảnh người chăn chiên đi trước và đàn chiên theo sau thật đẹp. Điều đó nói lên sự hiệp nhất giữa chủ chăn và đàn chiên, chiên nghe theo chủ chăn và do đó, chỉ có một chủ chiên và một đàn chiên.
Hiệp nhất vốn là dấu chỉ của tình yêu. Đức Giêsu mượn hình ảnh người mục tử không ngừng đi tìm kiếm những con chiên lạc, để nói lên mối quan tâm của Ngài đối với Giáo hội. Đó chính là chúc thư Ngài để lại trong những giây phút cuối đời. “Xin cho chúng nên một”, “một đàn chiên và một chủ chiên”: đó là hình ảnh của sự hiệp nhất mà Đức Giêsu luôn quan tâm đến. Hình ảnh người mục tử đi tìm kiếm những con chiên lạc cũng nói lên tất cả mối tương quan của Thiên Chúa đối với con người: không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Mọi cố gắng của con người xét cho cùng cũng đều là những lôi kéo của Thiên Chúa.
6. Truyện: Theo anh là thủ lãnh.
Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.
Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói:
- Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ... Em ở lại hay theo anh? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước, thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em quyết định.
Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói:
- Theo anh là thủ lãnh của em.
Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:
- Em có bỏ không?
Lời thưa đầy hăng hái:
- Em đã chẳng hứa với anh sao?
Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.
25/04 Mục tử tốt lành.
- Viết bởi Ga 10, 11-18
Mục tử tốt lành.
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH năm B. CHÚA CHIÊN LÀNH.
"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên".
Lời Chúa: Ga 10, 11-18
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên.
Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên.
Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH – Năm B
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Cầu cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ
Lời Chúa: Cv 4,8-12; 1Ga 3,1-2; Ga 10,11-18
1. Mục tử nhân lành.
Suy Niệm
Mục tử và đàn chiên trên đồng cỏ
là một hình ảnh quen thuộc đối với người Palestine.
Giữa người và chiên có một mối tương quan mật thiết.
Ở đây Đức Giêsu tự ví mình như người mục tử.
Mục tử nhân lành khác với người chăn thuê,
vì dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên,
chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ.
Hội Thánh là đoàn chiên của Đức Giêsu Kitô.
Giữa Ngài và từng con chiên, có mối dây gắn bó.
Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi,
như Cha biết tôi và tôi biết Cha.
Đây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều.
Chiên không phải là một con vật ngờ nghệch, thụ động.
Chiên là hình ảnh của một ngôi vị tự do.
Vị Mục Tử gọi tên từng con bằng giọng quen thuộc.
Chiên nghe tiếng của Ngài và đi theo.
Như thế giữa Mục Tử và đoàn chiên
có sự hiểu biết nhau sâu xa, nhận ra nhau dễ dàng,
và một sự trân trọng quý mến nhau đặc biệt.
Sau Phục Sinh, Đức Giêsu đã giao cho Phêrô
sứ mạng chăn dắt và chăm sóc đoàn chiên của Ngài.
Sứ mạng này bắt nguồn từ một tình yêu.
Yêu mến Ngài dẫn đến yêu mến đoàn chiên Ngài.
Đức Giêsu là Mục Tử tối cao và gương mẫu.
Mọi mục tử khác chỉ là phụ tá
giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài.
Mọi mục tử phải noi gương Ngài,
dám chết để cho chiên được sống.
Hội Thánh dành Chúa Nhật hôm nay để cầu cho ơn thiên triệu.
Chúa Giêsu vẫn cần những người tiếp nối công việc của Ngài,
để lo cho đoàn chiên trên thế giới.
Các bạn trẻ khi lớn lên thường lập gia đình.
Điều đó thật là tốt đẹp.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số bạn trẻ
ở bên Ngài cách đặc biệt để được Ngài sai đi.
Họ chấp nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm,
để có thể yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn.
Tiếng gọi của Chúa vẫn vang lên
ở ngay nơi lời nài xin của con người.
Những người đói khát Lời Chúa, đói khát tình thương,
đói khát bánh ăn, đói khát ý nghĩa cuộc sống.
Khước từ tiếng kêu của con người là khước từ tiếng Chúa.
Chúa Giêsu mời các bạn trẻ nhìn thấy đám đông bơ vơ.
Những người bệnh hoạn tật nguyền, những trẻ em đường phố,
những người lầm lỡ, tự đặt mình ở bên lề xã hội...
Thấy họ bằng trái tim và để cho tim mình đáp trả.
Tạ ơn Chúa đã cho Hội Thánh 408.024 linh mục
(Niên giám Toà Thánh năm 2007)
Nhưng đồng lúa chín vàng vẫn cần nhiều thợ gặt,
tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn.
Có thể chính bạn được Chúa bất ngờ mời gọi
để đứng trong đội ngũ những người phục vụ đó!
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về cuộc sống của các linh mục và tu sĩ ở vùng bạn sống? Các vị ấy đã làm gì và còn phải làm gì cho dân Chúa?
Theo ý bạn, cuộc sống thực dụng hôm nay có làm cho ít người muốn đi tu không? Đi tu có phải là làm một việc khác thường hay bất thường không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con
những linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho,
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con
những linh mục có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
2. Chiên lành
(Suy niệm của Huệ Minh)
Thi thoảng có dịp tôi ghé nhà bạn bè chơi. Lúc thì trao đổi chuyện đời, lúc thì thư giãn với nhau bằng những câu chuyện cười.
Gia đình người bạn thân không xa nhà cho lắm có một hồ cá khá đẹp cũng như những con cá thật dễ thương. Lâu lâu chủ nhà đi ngang qua cho chút thức ăn và lấy bàn tay vuốt vuốt thành hồ. Thật lạ mắt cả đàn cá đi theo bàn tay chủ của chúng.
Ngồi chơi khá lâu, tôi cũng lấy ít thức ăn bỏ cho chúng và cũng đưa bàn tay của mình ra để vuốt quanh thành hồ như chủ của chúng làm. Thật ngạc nhiên khi thấy bàn tay của tôi đưa ra đàn cá cứ như đơ như cây cơ vậy.
Dĩ nhiên tôi thắc mắc hỏi người bạn làm sao đàn cá lại như thế?
Để giải đáp thắc của tôi, người bạn giải thích đơn giản là ngày ngày bạn cho chúng ăn, ban chơi với nó nên bàn tay của bạn quá quen với chúng nên khi thầy đưa tay ra thì chúng bơi theo bạn. Thấy cũng hay! Loài cá vô tri vô giác nhưng dường như nó có cái cảm khi chủ của chúng cho chúng ăn, chơi đùa với chúng. Bàn tay cho thức ăn và bàn tay đùa vui với chúng đã trở nên thân thuộc đến độ không có người nào khác thay bàn tay đó dù có cho ăn hay chơi với chúng.
Hình ảnh của đàn cá trong hồ ở nhà người bạn làm cho tôi liên tưởng đến đàn chiên. Người Việt Nam chúng ta khá xa lạ với đàn chiên bởi lẽ khí hậu không phù hợp cho chuyện chăn nuôi chiên. Chỉ ở Do Thái người ta mới nuôi chiên để lấy lông hay lấy thịt. Đặc tính của chiên là sống đoàn lũ và nghe theo người chủ chăn.
Rất gần gụi với đời sống của người Do Thái, Chúa Giêsu đã lấy hình ảnh của người mục tử để nói về mình và những người đi theo mình, những người thuộc về mình: "Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14),
Trang Tin Mừng theo Thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe (Ga 10, 11-18): Cho thấy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài biết chiên của Ngài, và chúng cũng nhận ra Ngài. Không giống như người chăn thuê, Chúa Giêsu sẵn sàng hiến mạng sống của mình để bảo vệ đoàn chiên.
Không chỉ ở đoạn Tin Mừng này ta thấy hình ảnh của đoàn chiên, của chủ chiên, của từng con chiên nhưng đâu đó ta thấy hình ảnh mà Thiên Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta và với mọi người rằng Ngài chính là Chủ, là Chúa của đời ta. Nếu ta tín thác đời ta nằm trong bàn tay của Chúa ắt hẳn ta sẽ cảm thấy bình an và thanh thản.
Với tâm tình xác tín rằng Chúa là mục tử, Chúa là đấng chăn dắt đời mình, vua Thánh Đavit đã bày tỏ lòng mình:
Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Ðầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Rõ ràng rằng nếu ta để cho đời Chúa dẫn dắt ta thì ta sẽ bình an như những con chiên lành ngoan ngùy đi theo tiếng gọi của chủ. Hẳn nhiên rằng con nào ngoan ngùy đi theo đàn thì sẽ được hưởng những điều tốt nhất mà chủ lo cho chúng. Ngược lại, nếu chúng ngỗ nghịch, chúng bất tuân thì cuộc đời chúng sẽ khổ và có khi hư đi bởi trộm cướp và thú dữ luôn rình rập.
Ngày hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Chúa Chiên Lành như nhắc nhở mỗi kitô hữu chúng ta về chân tính của mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta là những con chiên trong vòng tay của vị Mục Tử Nhân Lành là chính Chúa Giêsu. Nếu chúng ta ngoan ngùy để cho Chúa hướng dẫn, Chúa dẫn đát đời ta thì chắc chắn ta sẽ bình an thanh thản.
Như Chúa đã nói Chúa là đấng chăn chiên thật và lòng của vị chủ chăn thật này hết sức đặc biệt đó chính là người chủ này sẵn sàng để lại 99 con chiên lành để đi tìm con chiên lạc. Tâm tình ấy được trải dài bằng lòng thương xót của vị chủ chăn dành cho những con chiên tật nguyền, những con chiên khuyết tật.
Nghĩ như thế, nói như thế, suy như thế để ta luôn luôn tin tưởng và tín thác cuộc đời của ta trong lòng bàn tay của vị mục tử nhân lành là chính Chúa.
Giữa thời cuộc lữ thứ trần gian này có quá nhiều tiếng gọi: tiếng gọi của vật chất, tiếng gọi của danh vọng, của quyền lực, của xác thịt... Những tiếng gọi đó đôi khi làm át đi tiếng gọi của chủ chăn Giêsu để rồi ta mãi mê đi theo những tiếng gọi đó.
Mỗi người chúng ta có quá nhiều cảm nghiệm nay nói đúng hơn là kinh nghiệm về những tiếng gọi không phải là tiếng gọi của mục tử Giêsu.
Có khi ta thấy những người thân của chúng ta, ngay trong gia đình của chúng ta cứ mãi miết đi tìm đồng tiền, đi tìm quyền lực, đi tìm danh vọng bất chấp bằng mọi cách.
Có khi ta thấy người gần bên cạnh ta lao đầu vào những cuộc vui vô bổ và chi tiêu thật phung phí và lệ thuộc nặng nề vào tiền của vật chất.
Có khi ta thấy người rất gần chúng ta cứ mãi say theo cuộc tình không có điểm dừng và ngang trái...
Tất cả những ngổn ngang của cuộc đời như thế đập vào mắt ta, len vào lòng ta tự lúc nào ta không biết.
Và bản thân ta, nhiều lần nhiều lúc ta cũng rơi vào cạm bẫy của thế gian, của cuộc đời để ta không còn đủ thinh lặng để nghe tiếng của mục tử Giêsu nữa.Chỉ trong thinh lặng, chỉ trong tĩnh lặng của cuộc đời ta mới nghe rõ được tiếng của mục tử Giêsu mà thôi.
Để bước theo chân của vị mục tử mang tên Giêsu, điều quan trọng là ta phải lắng nghe tiếng của Ngài.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta đủ thinh lặng để nghe tiếng của mục tử Giêsu và bước theo tiếng gọi của chủ chăn. Xin Chúa cho ta trở thành như những con chiên lành, chiên ngoan luôn đi theo con đường của mục tử đã đi. Ước gì mỗi người chúng ta là những con chiên ngoan, những con chiên hiền lành, những con chiên ngoan ngùy luôn lắng nghe và bước theo bước của mục tử nhân lành mang tên Giêsu.
3. Trở nên mục tử như lòng Chúa mong ước
(Suy niệm của Huệ Minh)
Vào thời Chúa Giêsu, thì cái nghề chăn chiên là một cái nghề phổ biến tại Palestine. Và cái nghề chăn chiên này nó mang một cái đặc thù, nó khác những cái nghề khác lắm.
Khi mà người chăn chiên lãnh lấy đàn chiên từ chủ, thì người chăn chiên phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về đàn chiên mà mình được trao phó. Nếu mà có chuyện gì xảy ra cho đàn chiên, thì người chăn chiên phải trưng dẫn bằng cớ để chứng minh rằng là mình không có lỗi, để mà cho con chiên nó phải bị tàn tật, hay con chiên nó bị giết chết.
Luật pháp thời đó quy định rất là rõ ràng: ở trong sách xuất hành chương 22 câu 12
Nếu mà con vật bị thú rừng xé chết, thì người lãnh giữ chiên phải đem xác chết của con chiên ra làm bằng chứng.
Thế đấy, cái nghề chăn chiên xem ra nó là một cái nghề rất là đặc biệt, tức là khi mà chấp nhận vào cái nghề chăn chiên là chấp nhận sẵn sàng hi sinh, chết để bảo vệ, để che chở đoàn chiên, chấp nhận liều mình để cứu đoàn chiên và nhất là khi mà chúng bị trộm cướp hay là bị thú dữ tấn công. Và như thế với cái đặc thù của nghề chăn chiên như vậy thì ta có thể gọi cái nghề chăn chiên là một ơn gọi.
Ơn gọi, chứ không phải là một cái nghề kiếm kế sinh nhai. Nếu mà đi chăn những vật khác thì không phải vất vả như cái nghề chăn chiên vậy.
Và một cái người mục tử như thế, mà gọi là Mục Tử nhân lành đúng nghĩa thì không có cái mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên. Buổi sáng thì vui sướng để mà đưa đoàn chiên đi tới tìm đồng cỏ xanh tươi, buổi tối thì đưa chiên về nghỉ ngơi. Những người mà Mục Tử chẳng đặng đừng thì họ coi sóc đoàn chiên của họ như người làm thuê, khi mà thấy sói đến thì người đó bỏ chiên mà chạy.
Ngược lại với người làm thuê, không phải rằng là một cái người đi chăn bình thường, mà là người đi chăn để mà được trả công, để mà hưởng công, hưởng lương, để mà nghĩ tới tiền bạc.
Nhưng mà cái người Mục Tử nhân lành đó là cái người Mục Tử biết chiên của mình.
Còn nhớ ở trong thời Cựu Ước, thì hình ảnh người mục tử được áp dụng cho các nhà vua. Mà hình ảnh của người mục tử và con chiên là hình ảnh rất quen thuộc. Để mà chúng ta thấy cái mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân của Ngài tuyển chọn tức là dân Israen. Ngài hướng dẫn, Ngài bảo vệ, Ngài nuôi dưỡng dân Israen.
Thế nhưng rồi, ta thấy kinh nghiệm của dân Israel và các nhà lãnh đạo là một cái kinh nghiệm đáng tiếc, kinh nghiệm đáng buồn. Có nhiều nhà vua chỉ rắp tâm gọi là bóc lột, và thậm chí giết chiên, để rồi có những ngôn sứ chỉ thẳng vào mặt các vua với ngôn ngữ nặng nề để mà chỉ trích sự cái sự gian ác của các vua; thay vì họ nuôi dưỡng, họ ôm ấp họ ấp ủ chiên, thì họ lại bóc lột và thậm chí giết chiên.
Và ngày hôm nay trong ngày Chúa nhật 4 Phục sinh còn gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành, thì Chúa Giêsu đã dùng cái hình ảnh của người mục tử để mà nói về mình, để diễn tả về mình, về người Mục Tử nhân lành.
Người Mục Tử nhân lành là gì? là người mục tử biết rõ từng con chiên của mình, cũng như biết để mà chiêm nhận, biết để mà đi theo.
Và thứ 2, người Mục Tử nhân lành là cái người quan tâm đến đoàn chiên và đặc biệt quan tâm đến những con chiên bị đau ốm, thương tích, hay là lạc đàn.
Và thứ ba, người mục tử đó sẵn sàng hiến mạng sống của mình đương đầu với sói dữ, thú dữ gì để mà bảo vệ đoàn chiên.
Và chúng ta thấy, nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã mang lấy trong mình cái đặc tính của Người Mục Tử rất tuyệt vời đó! Chúa Giêsu là một người mục tử nhân lành cũng có nghĩa là mục tử xinh đẹp. Nhân lành không có phải có nghĩa là theo nghĩa tình cảm êm ái hay dịu dàng nhưng là chân chính, nhưng là đích thực. Mà cái từ ngữ này gợi lên rằng Chúa Giêsu không chỉ là những người làm việc có hiệu năng, nhưng Chúa Giêsu có một nhân cách xinh đẹp toàn diện, duyên dáng, hấp dẫn, cộng với cái tài lãnh đạo đầy uy lực và quyền năng của Người. Chúa Giêsu đã trở nên tư cách của một người Mục Tử nhân lành, chứ không phải là người Mục Tử đi vuốt ve các con chiên. Nhưng chính là tình yêu và sự đồng cảm của Ngài đối với những con chiên mà được Ngài trao phó. Chúa Giêsu có một cái cảm thức rất là đặc biệt về các con chiên, các con chiên thuộc về Người. Chính vì thế, Chúa Giêsu là người đáng tin cậy, và Chúa Giêsu là người chu toàn trách nhiệm của mình với đoàn chiên được trao phó.
Động lực căn bản để mà hướng dẫn Người Mục tử nhân lành đó là tình yêu. Và người nào mà yêu thương thật sự thì muốn ban tặng cả đời sống của mình chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là tình yêu sẵn sàng chấp nhận hi sinh cả mạng sống mình, sự dấn thân không biên giới của Người Mục Tử nhân lành nhằm đưa lại cái sự sống như CHÚA Giêsu nói: « tôi đến để cho chiến được sống và sống dồi dào. Sự dấn thân này không có giới hạn sự dấn thân này Không Biên Giới cái biết mà Chúa Giêsu biết ở đàn chiên đó là sự biết đó được thể hiện trong hiến dâng mạng sống mình cho người mình yêu. Đặc biệt chúng ta được mời gọi để nhìn lên Người Mục Tử nhân lành để chúng ta được soi chiếu. Mời gọi để được soi chiếu cái hình ảnh Người Mục Tử nhân lành là người Mục Tử biết chiên. « Biết» đây không phải là biết về lý trí, nhưng là cái biết về cái tình cảm, biết về cái cảm nhận sâu xa.
Chúng ta thấy tuyệt vời, Nơi tâm tình của nhạc sĩ Xuân Quỳnh:
Chỉ có thuyền mới hiểu,
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu!
Những ngày không gặp nhau,
biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau,
lòng thuyền đau- rạn vỡ.
Nếu mà thuyền không gần biển thì cảm thấy một cái sự thiếu thốn. Nếu mà biển mà không có thuyền và thuyền mà không có biển thì coi như cái sự hiện diện của thuyền và biển coi như vô nghĩa. Cái biết đó là cái biết: thuyền đi đâu về đâu. Những ngày không gặp nhau lòng thuyền đau rạn vỡ! Tuyệt vời!
Cái biết đó chính là cái biết của tình yêu. Đó là cái biết của tâm sự. Đó là cái biết của sự dấn thân, cái biết của sự hi sinh. Giống như cái biết của chồng biết vợ, vợ biết chồng, của người mẹ biết con, của người con biết mẹ. ‘‘Tôi biết chiên tôi như Chúa Cha biết tôi.’’
Chúa Giêsu phải chấp nhận đau khổ, và Chúa Cha đã hiểu được sự đau khổ đó. Và rồi cái biết cái sự đau khổ đó đã kết nên cuộc đời dâng hiến của người tử nhân lành, nhân vật dám hi sinh tính mạng của mình.
Và chúng ta được mời gọi đi theo Chúa Giêsu trong hình ảnh của Người Mục Tử nhân lành, Người Mục Tử nhân lành là hình ảnh nói về sự chăm sóc, yêu thương: có trách nhiệm, có hướng dẫn, có chở che,có an ủi, có bảo vệ.
Hôm nay chúng ta lại nhìn thấy mỗi người chúng ta, trong vai trò là người Mục Tử. Mỗi người chúng ta, không phải là linh mục tu sĩ mới là người Mục Tử, nhưng khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta mang trong mình trách nhiệm của người mục tử. Chúng ta có là người mục tử như thế nào? Đó là sự trả lời của mỗi chúng ta.
Chúng ta có biết được cái người mà Chúa trao phó, cái người mà Chúa gửi đến cho chúng ta là người vợ, người chồng, người cha, người mẹ trong gia đình chúng ta hay không?
Ngày hôm nay dường như cái biết đó nó chỉ còn ở cái biết ở bên ngoài, nhưng người ta không còn cảm thức về nhau.
Một cái báo động đỏ về đời sống gia đình: vợ sống chung với chồng đó, nhưng mà không có cái cảm thức về chồng, cha mẹ sống chung với con cái đó, nhưng không có cái cảm thấy con cái nữa. Và điều đáng tiếc rằng ngày hôm nay có một số mục tử sống không như là những mục tử như lòng Chúa mong muốn. Những mục tử chỉ suốt ngày chỉ biết vun vén cho mình, chỉ biết lo cho mình và quên đi cái sự đau khổ, cái đời sống khó khăn của con chiên. Và đó là một thách đố của mỗi người chúng ta.
Chúng ta không ngồi đó để chúng ta lên án các mục tử. Chúng ta không có lên án ai cả! bởi vì mỗi người chúng ta vẫn mang trong mình cái thân phận yếu đuối của con người. Chúng ta được mời gọi lên, nhìn Đấng chăn chiên lành tuyệt vời, và hoàn hảo: Đó là Chúa Giêsu.
Chúng ta có dám dấn thân, chúng ta có dám hi sinh mạng sống mình vì người mình yêu. Chúng ta có can đảm để mà bước theo Đức Kitô hay không? Đó là câu trả lời của mỗi người chúng ta.
Ngày hôm nay chúng ta cầu nguyện cho các linh mục là những mục tử được mời gọi cách riêng để chăm sóc cho đoàn chiên. Và chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người chúng ta, để trong cái bổn phận là người Mục Tử, chúng ta được Chúa trao phó cho những người này, người kia là những người chồng người vợ, người con trong gia đình. Chúng ta có biết, chúng ta có dám hi sinh, hi sinh tính mạng mình vì người mình yêu hay không hay Chúng ta là những người chăn thuê hay chúng ta là những người mục tử Gian ác như các vua ở trong Cựu Ước đã ăn thịt con chiên của mình, đã giết mạng sống con chiên của mình thay mình thí mạng sống mình vì người mình yêu.
Chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu, một con người đã đến trong trần gian này sống trong vai trò một mục tử, một cái vai trò Mục Tử rất là tuyệt vời. Chúa Giêsu đã dám chấp nhận hy sinh đến giọt máu cuối cùng, đổ giọt máu cuối cùng mình để cho nhân loại được sống và sống dồi dào.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, và đặc biệt chúng ta cầu nguyện cho các mục tử ngày hôm nay dưới cơn sóng xô của Tiền bạc, của Quyền Lực của Danh Vọng. Để chúng ta cầu nguyện cho các ngài, để các ngài nhìn lên Chúa Giêsu chính là vị mục tử nhân lành, đặc biệt là mục tử nhân lành hoàn hảo để các linh mục bước theo Chúa Giêsu dấn thân với Chúa Giêsu.
Và xin cho các ngài biết từng con chiên trong họ đạo của mình, biết từng con người khổ đau và biết băng bó những con người bị bỏ rơi, biết yêu thương và biết chấp nhận hi sinh tính mạng của mình để lo cho đoàn chiên.
Có như thế, các linh mục mới trở thành những mục tử như lòng Chúa mong muốn. Và có như thế chúng ta mới hoàn thành sứ mạng là Mục Tử mà Chúa trao phó cho mỗi người chúng ta. Amen.
4. Chúa Chiên Lành
Từ ông Abraham cho tới vua Đavid, biết bao tổ phụ của dân Do Thái đã từng là những người chăn chiên. Họ không được huấn luyện trong những trường hành chánh hay trường đào tạo cán bộ, cũng chẳng được qua những lớp bổ túc văn hoá, nhưng chỉ được học từ kinh nghiệm duy nhất của nghề chăn chiên để có thể đứng ra lãnh đạo dân tộc. Hơn thế nữa, chính quan niệm của họ về Thiên Chúa cũng đã từng dựa trên kinh nghiệm đó, cho nên họ gọi Thiên Chúa là mục tử và tự coi mình là đàn chiên của Ngài.
Chúa Giêsu làm người, sinh trưởng trong môi trường xã hội Do Thái, cũng đã thừa hưởng một nền văn hoá và một quan niệm tôn giáo Do Thái, nên cũng đã sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh cùng những khái niệm Do Thái, để công bố cho họ thông điệp cứu độ của Thiên Chúa. Nếu từ thời các tiên tri, dân Do Thái vẫn mong chờ ngày Thiên Chúa đích thân đến chăn dắt họ như mục tử chăn dắt đoàn chiên, thì ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã xac quyết với họ rằng: Ngài là vị mục tử. Điều đó có nghĩa là Ngài tỏ lộ cho họ biết Ngài chính là hiện thân của Thiên Chúa.
Tuy nhiên Ngài còn đi xa hơn nữa. Đúng thế, Ngài đến không phải chỉ để chăn dắt đoàn chiên, mà còn hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Đây là điều vượt ra ngoài sự tưởng tượng của chúng ta. Bởi vì ngoài mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, chúng ta khó có thể nghĩ tới chuyện Thiên Chúa chịu chết. Thực vậy, tự bản tính Thiên Chúa là Đấng vĩnh cửu, Đấng trường tồn bất biến, nơi Ngài chỉ có sự sống mà thôi, thế nhưng vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chấp nhận cái chết ê chề nhục nhã trên thập giá để giải thoát chúng ta khỏi án phạt đời đời của tội lỗi và sự chết.
Cùng với Đức Kitô, thì đoàn chiên của Ngài không còn bị giới hạn trong phạm vi dân Do Thái, mà đã mở rộng cho toàn thể nhân loại, như lời Ngài đã nói: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Người Con ấy thì sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời. Như thế là đã rõ: Chúa Giêsu đã đến trần gian, đã sống, đã yêu thương và đã chết, không phải chỉ cho dân tộc Do Thái mà thôi, nhưng còn cho toàn thể loài người.
Tình yêu thương không chỉ thôi thúc Chúa Giêsu đi tìm cứu những con chiên lạc, cũng không dừng lại ở việc hy sinh mạng sống để cứu chuộc đoàn chiên, mà còn chu yếu là quy tụ những con chiên đã được tìm thấy, đã được cứu chuộc, để chúng làm thành một đoàn chiên, quây quần chung quanh một vị mục tử duy nhất, để rồi dưới sự chăn dắt của Ngài, chúng sẽ được sống trong tình yêu thương, hợp nhất và bình an.
5. Mục tử như Chúa
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Kết quả hình ảnh cho chúa chiên lành Tu viện nổi tiếng nhất nọ cứ một lần trong năm mở cửa thâu nhận duy nhất 1 thỉnh sinh. Viện Phụ đích thân phỏng vấn các ứng sinh chỉ hỏi một câu duy nhất. Nhưng trớ trêu thay, không ai biết được câu hỏi duy nhất đó là câu gì, bởi vì tất cả những ứng viên nào mà rớt cuộc thi, đều phải uống một viên thuốc do chính Viện Phụ chế ra, công dụng làm cho các ứng sinh dự thi quên mất câu hỏi được đặt ra. Chính vì thế mà việc chiêu sinh của Tu viện đã trải qua nhiều năm rồi mà chưa ai có thể biết câu hỏi đó là gì. Thế là cậu Ramin là tỏ ra quyết chí hơn cả. Cậu dành dài năm cố gắng đọc và học qua thật nhiều sách: lịch sử, địa lý, văn chương, triết lý, nghệ thuật, tâm lý, xã hội học, v.v... Rồi mùa thi đến, Ramin vào thi và tin chắc mình sẽ trả lời được câu hỏi mà Viện Phụ sẽ hỏi. Hồi hộp bước vào phòng thi, Ramin được Ngài hỏi câu duy nhất này là: Con hãy tự hỏi: Tôi là ai? Và trả lời cho ta biết. Tôi là ai? Ramin lặp lại câu hỏi, nhưng không biết phải trả lời như thế nào cho đúng, bèn rút lui không bao giờ trở lại Đan viện nữa.
Tôi là ai? Ðây là câu hỏi căn bản nhất, để bắt đầu mọi cuộc dấn thân thực hiện chương trình sống của đời Kitô hữu. Nhất là cuộc sống tu luyện bản thân, trở nên mục tử tốt. Như vậy rõ ràng những vốn liếng trí thức không mà thôi thì chưa đủ để trở nên mục tử tốt lành mà Lời Chúa mời gọi chúng ta hôm nay.
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta tham dự vào chức tư tế (chức linh mục cộng đồng) của Đức Kitô, tham dự vào sứ mạng Ngôn sứ, và vương đế của Ngài (GLHTCG, số 1267). Vì thế, thánh lễ này Hội muốn kêu gọi mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện và thực hành sứ mạng mục tử được Thiên Chúa trao phó cho chúng ta giữa lòng thế giới hôm nay theo mẫu gương Mục Tử Nhân lành Giêsu. Người là Mục tử nhân lành, còn chúng ta là đoàn chiên của Người. Người chăn giữ đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Thứ nhất, tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí hay do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Chẳng hạn, một đứa trẻ đang chơi ngoài đồng, chạy vào xin mẹ cho con mượn con dao. Mẹ nói: con lấy để làm gì? Nó nói: con làm cái này. Mẹ nói không cho nhưng nài nỉ hoài mẹ nó đưa cho nó nhưng theo dõi nó làm cái gì? Nó cầm dao chạy ra đồng và nhặt một trái lựa đạn 79 mà nó tưởng là trái ô ma, nó vừa cầm lên thì mẹ nó nhào tới chụp ngay con dao nó định cắt ra để ăn. Vâng, chỉ tình yêu xuất phát từ trái tim, người mẹ mới biết trước được rủi ro hay chăm sóc kỹ lưỡng từng hành động đứa con, làm cho nó nên hoàn thiện. Chúa Giêsu hôm nay nói: “Ta biết chiên Ta”, có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta, biết rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, biết rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta nên Ngài luôn luôn muốn làm cho ta vơi được nỗi sầu, nhẹ đi âu lo sợ hãi bằng việc hiến mình cho ta và cư ngụ nơi tâm hồn ta mọi nơi mọi lúc khi chúng ta tha dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Ngài. Vì vậy, Ngài luôn mời gọi chúng ta rằng: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhút nhát, yếu ớt nhưng là để giúp ta trưởng thành, mạnh mẻ tự tin. Người chăm sóc ta không phải theo kiểu Mẹ con sáng-sang trong phim truyền hình Việt Nam “Hoa hồng không dành cho em”, bà chăm sóc con quá đến độ mà mẹ con bị bệnh tự kỷ. Ngược lại, Chúa Giêsu chăm sóc ta bằng cách cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh đó là đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Chúng ta hãy trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái, thầy cô giáo là mục tử của học sinh, giám đốc là mục tử của công nhân, y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân, anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ, linh mục là mục tử của giáo dân, tu sĩ là mục tử của tha nhân... hãy thực hiện lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp Ngày Thế giới cầu cho ơn Thiên Triệu 2015 rằng hãy ra khỏi chính mình, đi ra khỏi sự thoải mái và cứng nhắc của cái tôi để đặt trọng tâm đời sống mình nơi Đức Giêsu Kitô, có nghĩa rằng phải lấy Tình yêu Chúa Giêsu là tiêu chí và lẽ sống cho đời Kitô hữu chúng ta. Mà tình yêu Chúa cố ở điểm này là hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong giáo xứ, trong khu phố và xã hội hôm nay hầu làm cho cuộc sống thêm phong phú và hạnh phúc hơn. Amen.
6. Nghe-Biết-Theo – Lm Trịnh Ngọc Danh
Những dấu hiệu để nhận ra người thân quen là gương mặt và giọng nói.
Tuy cách nhau, nhưng nhớ đến ai, ta vẫn hình dung ra được gương mặt người ấy; nghe giọng nói qua diện thoại, ta nhận ra ngay người thân quen của ta là ai.
Chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Các chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga. 10,27), hay “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga. 10,14).
Động từ “biết” trong Kinh Thánh có một ý nghiã đặc thù diễn tả tình yêu thương kết hợp nơi thân xác của vợ chồng để cả hai trở nên một như Chúa Cha biết Chúa Con và Chúa Con biết Chúa Cha. Khi nghe Thiên Thần báo tin: “Này Trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu…”, Trinh nữ Maria đã trả lời: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Như thế “biết” là không chỉ có ý nghiã thuần túy thuộc phạm trù nhận thức mà còn bao gồm cả về phương diện tình cảm. Biết là thân thương, trìu mến, gắn bó, kết hợp.
Ta biết các chiên Ta
Chúa Giêsu đã tự xác nhận mình là Mục Tử. Ngài là chủ đàn chiên chứ không phải người chăn thuê và là một Mục Tử Nhân Lành. Khác với chủ chăn đích thực, người chăn thuê, vì đàn chiên không thuộc về anh ta, anh ta không thiết gì đến đàn chiên, nên khi thấy sói đến, anh ta bỏ chiên mà chạy, mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chúng chạy tán loạn.
Người Chăn Chiên Nhân Lành ấy biết đàn chiên của mình là con cái cùng một Cha, cùng chung một mái nhà, là anh em, là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ…, biết từng con chiên một, biết đàn chiên yếu đuối hay sa ngã, biết chúng đang phải sống một kiếp sống hủy diệt vì tội lỗi, biết chiên đang khát vọng tìm một đồng cỏ xanh tươi, một dòng suối mát cho cuộc sống để nghỉ ngơi…
Vì yêu thương đàn chiên, muốn giải cứu chúng khỏi kiếp sống diệt vong ấy để được sống hạnh phúc viên mãn nơi Nhà Cha trên trời, người Mục Tử Nhân Lành ấy đã xuống thế mang thân phận thấp hèn của con chiên, đã hy sinh mạng sống vì đàn chien để từ sự phục sinh của người Mục tử Nhân Lành ấy, đàn chiên được sống trong an bình và hy vọng.
Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, Mục Tử Nhân Lành đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, cho từng con ngươi. Ngài muốn chăn dắt, gìn giữ, nuôi sống từng con chiên một trong đàn chiên. Mục Tử Nhân lành biết các chiên của mình là như thế đó! Và dung mạo của Chủ Chăn ấy là nhân lành, yêu thương, biết các chiên, hy sinh mạng sống vì đàn chiên và bảo vệ đàn chiên là như thế đó!
Là con chiên thuộc đàn chiên của Mục Tử Nhân Lành, ta đã biết chủ chăn, nghe tiếng Đấng ấy như thế nào? đã cảm nhận được sự hy sinh, bảo vệ, chăm sóc qua cái “ biet” của Mục Tử ấy chưa?
và các chiên Ta biết Ta, chúng nghe tiếng Ta
Nhờ dấu hiệu nào giúp chúng ta “ biết” Chủ Chăn?
Qua Kinh Thánh và nhất là qua Tin Mừng và phép Thánh Thể, ta biết Ngài, nghe tiếng Ngài kêu gọi. Ngài là Đấng Phục Sinh, nghĩa là Đấng Hằng Sống. Ta sẽ biết rõ Ngài hơn, nhiều hơn, thân mật hơn, nếu ta sống và đi vào cuộc sống với, sống cùng các chiên khác.
Chúng ta đọc Kinh Thánh để nhận biết Người Chăn Chiên, để nghe tiếng Đấng ấy kêu gọi, nhưng ta nhận biết và nghe được tiếng gọi ấy bằng cách nào? Bằng phân tích, lý luận hay bằng tình cảm tin yêu?
Ba người ngồi trao đổi với nhau về bản dịch Kinh Thánh.
Ông thứ nhất nói:
- Tôi thích bản dịch A. Nó sáng sủa hơn những bản dịch trước. Bản dịch này đọc dễ hiểu hơn.
Ông thứ hai nhận định:
- Tôi thì thích bản dịch B hơn. Bản dịch vừa rõ ràng lại vừa văn chương, rất thích hợp cho chúng ta cầu nguyện.
Ông cuối cùng nhỏ nhẹ nói:
- Phần tôi, tôi thích bản dịch của mẹ tôi nhất. Mẹ tôi dịch Thánh Kinh ra thực thế, làm cho Thánh Kinh dễ dàng áp dụng vào đời sống hằng ngày.
Mỗi ngày, có thể ta sẽ viết thêm một trang mới vào cuốn sách Tin Mừng sống của thời đại bằng chính những việc ta làm, bằng những lời ta nói.
Nếu những lời nói và hành động của ta không phản ảnh được những giá trị của Tin Mừng, thì những lời nói và hành động ấy cũng chẳng nói lên được gì cả.
Nói đến đây, có lẽ cũng là dịp để ta nhớ lại dụ ngôn người gieo giống.
Sống và thực hành lời Chủ Chăn kêu gọi: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, nhiệt thành tham dự Thánh Lễ để từ đó sống kết hợp với Ngài là ta biết và nghe tiếng Mục Tử Nhân Lành kêu gọi.
Bổn phận của con chiên là biết nghe tiếng của chủ chăn. Chỉ có một tiếng thôi, không có tiếng nào khác để chiên nghe theo mà được yên ổn, an vui, sống hạnh phúc ngoài tiếng Giêsu.
Nhưng chỉ có thế thôi thì chưa đủ, chưa trọn vẹn bổn phận mà còn phảibước theo sự dìu dắt của Mục Tử nhân lành.
và chúng theo Ta” (Ga. 10, 27)
Đã biết Chủ Chăn, và đã phân biệt được tiếng gọi của Ngai với tiếng gọi của người chăn chiên thuê, ta phải mau mắn, tin tưởng đi theo. Đi theo để được chăm sóc, được bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy trong bất cứ hòan cảnh nào.
Không như người chăn thuê, khi thấy sói rừng đến thì bỏ mặc đàn chiên mà chạy thoát thân; trái lại, Mục Tử Nhân Lành của ta sẵn sàng thí mạng sống mình vì đàn chiên. Đi theo và tin tưởng phó thác vào sự bao bọc chở che của Chủ Chăn đã lấy mạng sống Ngài để bảo vệ, cứu thoát ta khỏi tội lỗi và cái chết hủy diệt để đưa ta vào sự sống Phục sinh vĩnh cửu như tác giả Thánh vịnh 22 đã cảm nghiệm:
Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Ngài cho tôi nằm nghỉ.
Ngài đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Ngài dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính, vì danh dự của Ngài.
Lạy Chúa, dầu qua thung lũng tối tăm,
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm…
Thế nhưng, ta có sẵn sàng chịu nghe tiếng của Chủ Chăn để tìm về với Ngài mỗi khi đi lạc đường, có sẵn sàng đi theo Ngài để cho Ngài bảo vệ, chăm sóc hay lại tìm cách tách rời đàn chiên để đi tìm những bãi cỏ tiền tài, danh vọng, bãi cỏ ý riêng…thay vì gặm cỏ xanh tươi, uống nước dòng suối mát nơi đồng Tin Mừng và Thánh Thể!
Phải coi chừng chủ chăn giả hay người chăn thuê, vì đàn chiên không thuộc về ngưới ấy, nên họ thiếu trách nhiệm với đàn chiên, ích kỷ sợ nguy hại đến bản thân mình hơn đến số phận của đàn chiên..
Ngược lại, Mục Tử nhân lành là người yêu thương, bảo vệ, chăm sóc đàn chiên, biết từng con chiên một.
Tiêu chuẩn cuối cùng để phân biệt chủ chăn đích thực và ngươì chăn chiên thuê là thí mạng sống vì đàn chiên. Chỉ có Mục Tử Nhân Lành Giêsu là Đấng đã làm như thế cho đàn chiên của mình.
Là chiên trong đàn chiên của Chúa, co ba điều ta cần phải suy xét và thực hành trong cuộc sống của mình là:
Chiên Ta nghe tiếng Ta, chúng biết Ta và chúng theo Ta. Sống và thực hành ba điều đó không phải chỉ để mưu tìm hạnh phúc cho riêng mình mà còn phải cùng Mục Tử nhân Lành thực hiện một sứ vụ khác, một nỗi trăn trở khác là:“Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này, cả những chiên đó ta cũng phải mang về đàn, chúng sẽ nghe tiếng ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”
Khi gặm cỏ, gặp những chiên khác chưa thuộc đàn chiên của Chủ Chăn Giêsu, chúng ta có thái độ nào? Đố kỵ hay thân thiện, nhường nhịn chia sẻ hay ganh ghét tranh phần, yêu thương hay thù hận, tiếp đón giúp đơ hay làm ngơ bỏ mặc, cộng tác hay dửng dưng, đối thoại hay khép kín?
Ghen ghét, đố kỵ, phân cách, tự mãn, tự kiêu, ích kỷ... có giúp gì được cho mong ước quy tụ những chiên khác chưa thuộc về đàn chiên của Mục Tử Giêsu thành một đàn chiên duy nhất và chỉ một chủ chiên mà thôi không?
7. Chân dung mục tử Giêsu – Lm Ignatiô Trần Ngà
Hình ảnh mục tử sống giữa đàn chiên là hình ảnh rất thân quen đối với dân Do Thái ngày xưa chuyên sống đời du mục. Hình ảnh nầy được Thánh Kinh Cựu Ước sử dụng nhiều lần để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng lại hình ảnh nầy như một biểu tượng cao đẹp để diễn tả tình thương cao vời Người dành cho nhân loại với những nét lớn sau đây:
1. Mục tử Giêsu sống hoà mình thân mật với đoàn chiên.
Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng quyền năng cao cả, còn loài người chỉ là tạo vật thấp hèn. Cách biệt giữa đôi bên thật là quá lớn.
Thế nhưng Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua mọi cách biệt để sống hoà đồng với con người. Người không muốn duy trì quan hệ đẳng cấp kiểu vua-tôi, chủ-tớ với con người nhưng muốn sống hài hoà thân mật với hết thảy chúng ta.
Qua biểu tượng mục tử với đàn chiên, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người vui sống chan hoà với mọi người và tương quan giữa đôi bên hết sức thân mật không còn khoảng cách.
Người đã từng hoà mình với dòng người tội lỗi chờ được thanh tẩy bên bờ sông Gio-đan (Mát-thêu 3, 13-16). Người cùng ăn uống đồng bàn và trọ nhà những người tội lỗi. (Lc 19,7). Người nâng li rượu chúc mừng đôi tân hôn trong tiệc cưới Ca-na (Ga 2, 1-11). Người khóc thương La-da-rô bạc mệnh (Ga 11,35). Người cứu chữa kẻ bệnh tật, vui đùa với các trẻ thơ… Nói tóm lại, tất cả mọi người đều có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim Mục tử Giêsu.
2. Mục tử Giêsu cho chiên được sống dồi dào.
Thánh vịnh 23 phác hoạ chân dung Chúa Giêsu như Vị Mục Tử nhân lành tận tình nuôi dưỡng đoàn chiên cách chu đáo, chẳng để chiên phải thiếu thốn điều gì.
“Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi” (Tv 23, 1-3)
Các mục tử trên đời nầy nuôi chiên nhằm khai thác chiên: xén lông, xẻ thịt hoặc bán chiên lấy tiền, còn Mục Tử Giêsu thay vì khai thác trục lợi đoàn chiên thì lại hiến thân mình làm lương thực để chiên được dồi dào sức sống: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào” (Gioan 10, 10)
Người chấp nhận trao ban chính mình làm lương thực nuôi sống đoàn chiên đang lầm than đói khát: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Gioan 6, 35),
3. Mục tử Giêsu chăm sóc từng con chiên một, không bỏ rơi bất cứ con chiên nào.
Lời tiên báo của ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã được ứng nghiệm từng chữ nơi Mục tử Giêsu: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh” (Edekien 34, 15-16)
Qua dụ ngôn mục tử bỏ 99 con chiên nơi hoang địa để đi tìm con chiên lạc, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người chăm sóc chi li từng người một, không muốn bất kỳ một ai phải hư vong. (Luca 15, 4-7)
4. Mục Tử Giêsu hiến thân mình cho chiên được sống.
Khác xa người chăn thuê cao chạy xa bay khi thấy đàn sói hung tàn xông tới vồ xé bầy chiên, Mục tử Giêsu chấp nhận hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đến cùng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành... tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Gioan 10, 11-15)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Mục tử có một không hai trên đời: Chúa sống hoà mình thân mật với chiên, nuôi chiên sống dồi dào, chăm lo cho từng con một, không bỏ rơi bất cứ con nào và thậm chí sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đoàn chiên.
Xin cho gương sống tuyệt vời nầy sẽ mãi mãi là lời mời gọi và là động cơ thúc đẩy chúng con trở nên mục tử nhân lành như Chúa.
Xin thương giúp cho các bậc cha mẹ trở thành mục tử tốt trong gia đình, các linh mục trở thành mục tử nhân lành trong giáo xứ, Thầy Cô trở thành mục tử cao quý ở trường học… để mỗi người chúng con tuỳ theo chức phận mình, biết tận tình nuoi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên Chúa trao cho chúng con theo gương người Mục Tử nhân lành là chính Chúa. Amen.
8. Tình người mục tử – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một thai nhi sắp được chào đời. Nó mới hỏi Thượng đế rằng: “Thưa Ngài, có phải ngày mai Ngài sẽ đưa con vào đời không?
Thượng đế trả lời: Đúng đó con ạ!
Đứa bé đáp: Nhưng làm sao con sống nổi ở đó khi mà con quá nhỏ bé và bất lực như thế này?”.
Thượng đế đáp: “Hãy yên tâm, trong số những thiên thần, ta đã chọn cho con một người. Thiên thần của con sẽ ở bên con và chăm sóc con chu đáo”.
Đứa bé lại hỏi: “Và làm sao con có thể hiểu được khi họ nói chuyện với con bằng ngôn ngữ mà con chưa hề biết đến?”
Thượng đế trả lời: “Thiên thần của con sẽ nói với con bằng những lời ngọt ngào và đẹp đẽ nhất mà con chưa từng được nghe, đồng thời với sự nhẫn nại và cẩn trọng, thiên thần của con sẽ dậy con biết nói nhưng điều hay lẽ phải”.
- Con nghe nói chốn trần gian lắm kẻ xấu xa. Vậy, ai sẽ bảo vệ con?
- Thiên thần của con sẽ hộ trì con ngay cả khi điều đó đe dọa đến tính mạng của mình.
- Nhưng con sẽ rất buồn vì không còn được thấy ngài nữa.
- Thiên thần của con sẽ luôn nói với con về Ta, và dạy con cách thức quay về với Ta mỗi khi lạc lối.
- Vậy thưa Ngài, nếu con phải đi ngay bây giờ, xin hãy cho con biết tên thiên thần hộ mạng của con là gì?
- Tên của người không quan trọng, con chỉ giản đơn gọi người là Mẹ.
Nếu người mẹ cần thiết cho con cái thế nào, thì người mục tử cũng cần thiết cho đàn chiên như vậy. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Người mục từ luôn sống vì lợi ích đàn chiên, luôn sống cho và vì đàn chiên. Người mục tử gắn liền đời mình với đàn chiên tựa như người mẹ gắn liền với định mệnh đời con. Người mẹ được Thiên Chúa sắp đặt để bảo vệ đứa con, chăm sóc đứa con, dậy dỗ và gìn giữ đứa con khỏi những nguy hiểm trong suốt hành trình cuộc đời. Không có mẹ đứa con sẽ không lớn nổi thành người. Đàn chiên cũng không thể có đồng cỏ xanh tươi, có suối mát ngọt ngào nếu không được người mục tử miệt mài tìm kiếm cho đàn chiên. Đàn chiên sẽ không thể sống an toàn khỏi cạm bãy, khỏi thú dữ rình chờ, nếu không có chủ chiên canh phòng với đầy đủ trách nhiệm và đầy yêu thương.
Chúa Giêsu sánh ví tình thương của mình như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên. Ngài yêu thương con người nên đã mang lấy thân phận con người để cùng đồng hành với con người. Ngài đã cùng chia vui sẻ buồn với con người qua những thăng trầm của cuộc sống. Ngài đã sống một cuộc đời yêu thương và phục vụ như một người đầy tớ phục vụ chủ nhân. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho đàn chiên được sống. Ngai còn hiến mình thành lương thực nuôi dưỡng đàn chiên qua bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày. Ngài chính là vị mục tử mà bài đáp ca đã ca ngợi rằng: Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tuơi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có chúa ở cùng con”.
Hình ảnh người mục tử còn là hình ảnh của những người cha, người mẹ đang ngày đêm lo lắng bảo vệ con con cái. Các ngài đã hy sinh cuộc đời vì hạnh phúc các con. Các ngài đã trải qua những mưa nắng khắc nghiệt của dòng đời để mang lại cơm no áo ấm cho đàn con. Các ngài đã chấp nhận chịu tiêu hao như hạt lúa chịu mục nát đời mình cho con cái lớn khôn.
Hôm nay lễ Chúa chiên lành, chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội luôn có những mục tử hết lòng vì đàn chiên. Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta có cha, có mẹ luôn hết mình hy sinh cho chúng ta. Cám tạ Chúa đã thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta bằng muôn nghìn cách. Cám ơn Chúa vẫn nuôi dưỡng chúng ta trên đồng cỏ xanh tươi là bàn tiệc Thánh thể, nhờ đó mà ta được no thoả ân tình của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta biết siêng năng đến với bàn tiệc Thánh Thể. Xin đừng bao giờ để tâm hồn mình bị chết đoi, chết khát ngay bên nguồn nước trong lành với đồng cỏ xanh tươi là Bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa Giêsu với tình mục tử đã dọn sẵn cho chúng ta. Amen.
9. Đóa hoa yêu thương
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống cho ta những cái đẹp để mang lại niềm vui hạnh phúc cho ta. Cái đẹp của thiên nhiên cho ta thư thái bình an. Cái đẹp của tình người cho ta niềm vui hạnh phúc. Cái đẹp của tâm hồn cho ta tin tưởng lạc quan. Một trong những cái đẹp để lại cho ta những ấn tượng nhất không hẳn là cái đẹp hoàn mỹ, sắc xảo của thể xác mà là cái đẹp của những nghĩa cử hy sinh đầy ắp tình người. Hy sinh càng nhiều thì nghĩa cử càng cao đẹp bấy nhiêu.
Cư dân mạng vừa qua có dịp trầm trồ về tình yêu lứa đôi. Tại làng Liangwang thuộc Tế Nam, Sơn Đông, Trung Quốc, có một câu chuyện tình yêu khiến nhiều người không khỏi rung động. Sun Guofang, một người vợ chưa cưới đã dũng cảm hiến tặng một bên thận của mình để cứu sống người yêu bị nhiễm độc đường niệu cần cấy ghép. Cô nói rằng: "Đây là món quà giá trị nhất tôi có thể mang lại cho anh ấy trong ngày Valentine”.
Đây là một tình yêu đẹp. Đẹp như một đóa hoa mà ai đó nói rằng:
Sắc là dâng hiến
Hương là hy sinh
Thiên Chúa đã yêu thương con người bằng một tình yêu cao đẹp hơn thế! Ngài yêu thương không phải dành tặng cho con người một quả thận, một đôi tay, một đôi mắt... ; Ngài dành tặng cho con người cả mạng sống hiến thân vì anh em. Tình yêu của Ngài là tình yêu dâng hiến đến hy sinh cả tính mạng cho con người. Tình yêu của Ngài rực rỡ như một sắc hoa và tỏa lan hương thơm nhờ hy sinh đến quên cả chình mình.
Tình yêu ấy hôm nay Ngài ví tựa như tình yêu của người mục tử dành cho đàn chiên. Một tình yêu vượt lên trên trách nhiệm để có thể lo cho đàn chiên. Thức ăn nước uống và nhất là canh thức để bảo vệ đàn chiên khỏi hiểm nguy của thú rừng luôn rình chờ. Thiên Chúa yêu con người. Tình yêu của Ngài luôn mang con người trong trái tim đến nỗi biết từng con chiên, lo lắng cho từng con chiên, chăm sóc cho từng con chiên. Ngài biết từng nỗi khổ của con người vì từng “sợi tóc trên đầu rơi xuống Ngài cũng biết”. Cái biết của Ngài là cái biết thông cảm, thương xót. Cái biết kèm theo sự dấn thân để xoa dịu nổi khổ của con người.
Xin cho chúng ta biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa luôn ban tặng cho thế gian. Tình yêu của Ngài vẫn đong đầy trên cuộc đời chúng ta. Một tình yêu quan phòng, chở che, nâng đỡ chúng ta. Xin cho chúng ta cũng biết đền đáp tình yêu ấy bằng cả một đời họa lại chân dung đầy yêu thương của Chúa cho anh em. Nhất là nơi gia đình chúng ta, nơi mà ai cũng từng được yêu thương và cũng cần thể hiện tình yêu thương. Tình yêu nơi vợ chồng luôn hy sinh dâng hiến cho nhau. Tình yêu nơi cha mẹ luôn tận tụy cho con cái. Tình yêu nơi con cái luôn sống hiếu thảo với mẹ cha... Mỗi một tình yêu dâng hiến nơi gia đình là một đóa hoa đang trang trí cho gia đình thêm rạng rỡ và thơm hương. Ước gì mỗi người chúng ta luôn là một đóa hoa yêu thương dâng tặng gia đình như tình yêu của Thiên Chúa hiến dâng vì chúng ta. Amen.
10. Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chính Đức Kitô là Vị Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên (Ga10,11). Ngài đến trong thế gian với sứ mệnh quy tụ tất cả các con chiên về một mối: ngõ hầu chỉ có một Chủ chiên duy nhất và một đàn chiên duy nhất.
Qua thánh Phêrô Tông Đồ, Chúa Giêsu Phục Sinh đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người cho Giáo Hội (xem Ga 21,15-17). Theo gương Chúa Kitô Mục Tử, Giáo Hội không ngừng dấn thân trong việc chăm sóc đàn chiên. Vào mọi nơi mọi thời, không thiếu những tấm gương của những vị mục tử trong Giáo Hội đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời của mình để sống chết vì đàn chiên.
Ý thức được trách nhiệm cao cả của mình, Giáo Hội luôn luôn kêu mời các bạn trẻ nam nữ đáp lại lời mời gọi của Vị Mục Tử nhân lành biết quảng đại dấn thân trên con đường tận hiến để phục vụ Giáo Hội của Chúa Kitô và tha nhân. Vì vậy, Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh hàng năm để cầu nguyện cho ơn gọi thánh hiến nói chung và ơn gọi linh mục nói riêng.
Việc Chúa chọn gọi luôn đồng nghĩa với việc Chúa trao phó một sứ mạng đi kèm. Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ để các ông đến ở với Người và được Người sai đi rao giảng (xem Mc 2,14). Được Chúa gọi luôn là một màu nhiệm vượt qua sự so đo tính toán của con người. Chúa gọi ai đó cộng tác với Người không phải vì họ tài giỏi. Người đã chọn các Tông Đồ vốn là những kẻ chài lưới tầm thường và ít học. Nơi họ vẫn còn mang nặng tính vụ lợi hơn thiệt (xem Mt 19,27), tranh cãi về địa vị thứ bậc (xem Mc 9,34), ham hố danh vọng (xem Mt 20,21), và thậm chí cũng có cả tội bất trung như Phêrô chối Chúa (xem Mc 14,71). Việc chọn và gọi luôn là sáng kiếng riêng của Chúa và cũng là cách thức để Chúa chia sẻ sứ mạng của Ngài với những người được yêu mến và được tuyển chọn.
Việc Chúa trao phó sứ mệnh cho ai đó luôn đi kèm theo lời hứa và phương tiện để thi hành (xem Mt 28, 19-20). Các Tông Đồ đã được Chúa Giêsu hứa sai phái Thánh Thần đến để thánh hóa, dạy dỗ, ban sức mạnh cũng như ơn khôn ngoan hiểu biết (xem Ga 16,13).
Điều này đã được kiểm chứng nơi bài đọc thứ nhất. Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại việc thánh Phêrô và Gioan bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng. Hai ông bị kết án với tội danh vì đã chữa lành cho một người què từ khi lọt lòng mẹ ngay tại cửa Đền Thờ và vì đã lôi kéo được chừng năm ngàn người tin vào lời rao giảng của các ông. Chính nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà một Phêrô khiếp đảm ẩn mình trong gian phòng cửa đóng then cài thành một Phêrô can đảm xuất hiện trước dân chúng. Cũng nhờ Chúa Thánh Thần, từ một anh chàng chài lưới quê mùa năm xưa, Phêrô đã trở nên người người giảng giải hết sức lưu loát thu hút được rất nhiều người theo đạo. Chúa Thánh Thần cũng biến đổi một Phêrô chối Thầy thành một
Phêrô dõng dạc làm chứng về Đức Kitô bị đóng đinh và nay đã phục sinh để trơ nên nguồn ơn cứu độ duy nhất cho nhân loại.
Thật kỳ diệu. Chúa Thánh Thần đã hoán chuyển vị trí của một Phêrô bị cáo trong phiên tòa người đời thành một Phêrô thẩm phán để vạch tội giết Đấng Công Chính của họ, để kêu gọi họ sám hối và đặt niềm tin vào Đấng mà chính họ đã đóng đinh vào thập giá.
Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta được sát nhập vào thân thể của Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta được sinh ra trong Thánh Thần để tham gia vào sứ mệnh và các chức năng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Kitô. Trung tâm điểm của đời sống Kitô hữu là được mời gọi để trở nên những chứng nhân cho một Đức Kitô đã bị kết án, bị đóng đinh trên thập gia, đã chết một cách bi thảm và đã Phục Sinh vinh hiển.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy ngự đến để sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Xin soi lòng mở trí chúng con để ánh sáng Phục Sinh xua tan mọi u mê tăm tối. Xin hãy canh tân bộ mặt trái đất. Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa xin hãy ngự đến vì chúng con đang mong chờ Ngài.
11. Chúa chiên lành – Anmai, CSsR
Hình ảnh của những người Pharisêu quá quen thuộc với mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu vẫn thường lên án, chỉ trích thái độ của người Pharisiêu. Lẽ ra, người Pharisiêu có nhiệm vụ hướng dẫn anh mù nhưng họ lại khai trừ anh. Đức Giêsu khác những người Pharisiêu, Đức Giêsu đã hướng dẫn anh mù. Những người Pharisiêu chỉ là những người chăn thuê còn chính Đức Giêsu mới là mục tử gương mẫu. Người mục tử gương mẫu như Chúa Giêsu ấy đã giữ gìn cho chiên khỏi chết và hiệp nhất các chiên lại. Đặc tính của Chúa Giêsu là làm cho chiên được sống và được sống dồi dào và gìn giữ cho đoàn chiên được hiệp nhất.
Thánh lễ Chúa Chiên Lành ngày hôm nay rất ý nghĩa cho mỗi người chúng ta vì lẽ chúng ta, người ở vai trò con chiên, người ở vai trò mục tử.
Mục tử là một hình ảnh quen thuộc đối với dân Israel cả trong thời kỳ họ còn sống nghề du mục lẫn trong thời kỳ họ đã định cư: thời du mục thì họ chuyên chăn nuôi; đến thời định cư hẳn trong xừ Palestina thì tuy họ đã chuyển sang nghe nông nhưng vẫn còn giữ nghề chăn nuôi.
Trong chăn nuôi, vai trò và nhiệm vụ của mục tử rất quan trọng và khó khăn: a/ Không phải chỉ nuôi vài ba con chiên mà cả đàn lên tới mấy trăm hoặc mấy ngàn con; b/ Muốn nuôi song một mớ chiên đông như thế, không phải chỉ cần đi cắt một mớ cỏ đem về là đủ, mà phải tìm những đồng cỏ lớn, phải tính sẵn trong đầu xem khi đoàn chiên ăn hết đồng cỏ này thì phải dẫn chúng tới đồng cỏ khác ngay; phải chọn những chỗ vừa có cỏ xanh vừa có bóng mát vừa có nước uống (x. St 13,1-9: đầy tớ của Loth và của Abraham dành nhau những đồng cỏ và giếng nước); c/ Ngoài ra còn phải bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm thường xuyen đe dọa như trộm cướp và thú dữ. Có khi phải chiến đấu đến bị thương hoặc bị chết.
Trong bối cảnh trên, hình ảnh mục tử rất đẹp: thân thiết, tận tụy, can trường, chu đáo v.v. Bởi đó Thánh Kinh thường dùng hình ảnh này để mô tả những nhân vật quan trọng như Môisê (Xh 3,1-2 15,22-27...), các nhà lãnh đạo dân như vua, tư tế, thẩm phán, ngôn sứ (Gr 10,21; 12,10; Ed 34; Is 36,11 Dcr 11,15-17...). Đặc biệt nhất chính Thiên Chúa tự mô tả mình là mục tử (Tv 23 80), dân Israel được coi là đoàn chiên của Ngài (Tv 80,2), cuộc Xuất hành là việc Thiên Chúa dẫn dắt đoàn chiên Israel ấy qua những nơi khó khăn để tới chốn an lành (Tv 78,52, 77; Is 63,11-14). Và sau cùng Đấng Messia cũng được mô tả là mục tử (Ed 34; Dcr 13,7-9...)
Mô tả Thiên Chúa và Đấng Messia bằng hình ảnh mục tử thì rất đẹp, nhưng mô tả dân Thiên Chúa như đoàn chiên thì không được đẹp lắm vì hình ảnh đoàn chiên gợi lên ý tưởng một đám đông trong đó những cá nhân không có cá tính mà chỉ như một con số bị mất hút trong đa số. Bởi thế trong đoạn Tin Mừng này Đức Giêsu cũng dùng hình ảnh đoàn chiên nhưng Ngài làm nổi bật tính cá nhân riêng biệt của từng con chiên: "Ta biết các chiên của ta và các chiên của Ta biết Ta" (c 14).
"Ta là mục tử": Trong Tin Mừng Ga nhiều lần Đức Giêsu dùng công thức "Ta là". Những lần như thế không phải chỉ là một lời tự xưng suông mà còn hàm chứa một mặc khải cho người ta hiểu thêm về bản thân Ngài. Hơn nữa công thức này mang âm hưởng lời Giavê tự mặc khải (St 3,13-14). Như vậy khi Đức Giêsu nói "Ta là mục tử" thì ý nghĩa là bản chất của Ngài chính là mục tử, vì thế Ngài đã, đang và sẽ mãi mãi là mục tử.
"Ta là mục tử tốt": Tính từ hy lạp kalos vừa có nghĩa "tốt" (bon) vừa có nghĩa "đẹp" (beau). "Tốt" diễn tả tấm lòng, còn "đẹp" diễn tả một hình ảnh tuyệt vời, mau mực, lý tưởng. Vì thế ta cũng có thể dịch "Ta là mục tử đẹp".- - - "Mục tử đẹp thí mạng sống mình vì chiên": Nét đặc thù phân biệt ai là mục tử đẹp là nếu người đó dám thí mạng sống mình vì đàn chiên. Ý tưởng này được lặp lại tới 4 lần trong đoạn Tin Mừng ngắn này (cc 11.15.17.18). Chính khi thí mạng sống mình, mục tử đẹp chứng tỏ được tinh thần trách nhiệm và lòng vô vụ lợi tuyệt đối khi đón nhận và chăm sóc đàn chiên. Đán chiên này chính là "xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi", do đó bất cứ điều gì đụng tới đàn chiên đều đụng tới bản thân mục tử, bất cứ nguy hiểm nào đe dọa đàn chiên đều động viên toàn thể con người mục tử, vì người mục tư đẹp phục vụ đàn chiên, chứ không phải là kẻ chăn thuê.
Kẻ chăn thuê không phải là chủ đàn chiên nên khi gặp nguy hiểm thì lo bảo vệ thân mình chứ không bảo vệ đàn chiên, không dám thí mạng vì đàn chiên. Cũng như ở Êd 34, ở đây Đức Giêsu ám chỉ các nhà lãnh đạo dân Israel (tư tế, luật sĩ v.v.) Họ khư khư bám lấy quyền lãnh đạo dân chỉ vì tư lợi. Họ không phục vụ chiên trái lại bắt chiên phục vụ họ. Khi gặp nguy hiểm, họ không màng chi sự an toàn của chiên mà chỉ lo cho sự an toàn của họ, như lời thượng tế Caipha tuyên bố về Đức Giêsu "Nếu ta cứ để yên như thế thì thiên hạ sẽ tin vào ông ấy hết, rồi quân Rôma sẽ đến tiêu trừ cả nơi thánh của ta và dân ta nữa" (11,48).
Mục tử nhân lành (hoặc, đúng hơn phải nói là, gương mẫu) đi trước đàn chiên, hứng lấy mọi nguy hiểm, để cứu vớt đàn chiên, dù phải hy sinh mạng sống. Như vậy, Đa-vít là một mục tử gương mẫu: khi sư tử đến bắt một con chiên, ông đã rượt theo, đánh sư tử và giựt con chiên lại (1 Sm 17,34-35).
Hình ảnh "mục tử nhân lành" là một hình ảnh quen thuộc trong Thánh kinh. Trong Cựu Ước, hình ảnh ấy được áp dụng khi thì cho Thiên Chúa (Tv 23,1; Is 40,11). Khi thì cho vua Mêsia (2 Sm 7,8; Tv 78,70-72), khi lại cho những nhà chức trách trong dân Israel (Gr 2,8; 10,21; 23,1-8; Ed 34). Trong các sách nhất lãm, chúng ta cũng gặp những hình ảnh ấy (Mc 6,34; 14,27; Mt 9,36; 18,12-14; 25,32; 26,31; Lc 15,3-7).
Đức Giê-su thực hiện một cách hoàn hảo chức năng mục tử, vì Người là Con Người chia sẻ thân phận con người để dẫn đưa họ đến cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Giêsu chính là mẫu gương tuyệt vời cho các mục tử.
Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, có những mục tử sống hết mình vì đàn chiên nhưng cũng có những mục tử chăn thuê.
Tạ ơn Chúa, cám ơn Đức Mẹ vì tôi đang được sống với một vị mục tử "chính hiệu con nai vàng" ở mảnh đất truyền giáo nghèo. Phải nói rằng Ngài không có cái tội gì ngoài cái tội thương người nghèo. Cuộc sống của Ngài đơn sơ đạm bạc, chỉ với chiếc xe cọc cạch là phương tiện tới lui. Nhiều lần nhiều lúc bảo Ngai đổi xe nhưng cứ khất lần khất lựa.
Lần nọ, đoàn cứu trợ từ thiện kia gửi 100 phần quà cho vùng truyền giáo nghèo. Xin thêm thì ngại mà thiếu thì người dân so bì, thế là Ngài đã cố gắng hết sức để tìm thêm 50 phần nữa để lo cho tạm gọi là nhu cầu của người nghèo tại chỗ.
Nhìn dáng hao gầy của cha đặc trách giáo điểm truyền giáo chắc có lẽ mọi người nhìn thấy được đó là kết qủa của một cuộc đời sống cho chiên và vì chiên.
Nói đến cha đặc trách mà không nói đến giáo dân quả là một điều thiếu sót lớn. Có thể nói cha đặc trách của tôi là một mục tử tuyệt vời nhưng đối lại, con chiên của Ngài ở đây làm sao ấy!
Ngài vốn dĩ hiền lành, chịu thương chịu khó và chịu đựng thế nhưng vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh - ngày Giáo Hội kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể và truyền sứ vụ linh mục - nhưng khi nhìn tới nhìn lui nhà thờ chỉ có 80 giáo dân (tổng số giáo dân là 600) Ngài mới buông miệng nói một câu là Ngài cảm thấy buồn! Không buồn sao được khi mà cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã gần như hiến mạng sống của mình ở vùng đất nghèo này mà giáo dân cư xử với Ngài như vậy. Nhưng ngày Ngài đau yếu bệnh tật chẳng thấy ai ngó ngàng gì đến. Dường như con chiên chỉ đến để nhận tình thương từ mục tử và không có chiều ngược lại.
Đau đớn hơn là lần nọ, Cha đặc trách xây cái nhà mát ở, có vài mạng vào phụ Ngài để dựng cái nhà mát ấy. Ít lâu sau, cha đặc trách cũ cũng làm nhà mát và một mớ giáo dân hăng hái xuống để giúp cha xứ cũ dù hai giáo điểm cách nhau trên dưới 50 km. Nhìn cách hành xử của con chiên ở đay tôi thấy làm sao đấy, còn Ngài, Ngài bảo là "cổ võ cho họ đi để sống tinh thần truyền giáo!".
Vâng! Một linh mục thánh thiện như Ngài thì có cái nhìn như thế nhưng thật sự đau đấy chứ! Giáo điểm nhà thì không thấy vào giúp mà đi giúp giáo điểm bạn!
Không chỉ có như vậy, Tết Nguyên Đán vừa rồi, sau khi nhận quà, vừa bước ra khỏi cửa nhà thờ thì lời ra tiếng vào ngay. Nào là cha cho nhiều, cha cho ít... Nào là người này không xứng đáng để nhận, người kia mới đáng để nhận... Có để đi cho cũng phức tạp chứ không phải cứ có là cho một cách vô tư.
Và không chỉ dừng lại ở chuyện hơn thua nhưng còn chuyện miệt thị người này siêng đi lễ, người kia bỏ nhà thờ cũng là điểm nổi bật ở vùng truyền giáo nghèo này. Những ai lỡ bận công chuyện bỏ nhà thờ chừng vài lần là sẽ nghe lời ra tiếng vào ngay.
Hình ảnh của con chiên xứ đạo này bỗng nhiên lại tô điểm thêm nét hiền lành và khiêm nhường của vị mục tử nhân lành. Không phải ca tụng cha đặc trách là thánh hay phong thánh cho Ngài nhưng thật sự khi nhìn vào đời sống của Ngài, Ngài quả là vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong muốn.
Hình ảnh của cha đặc trách đây có lẽ là một mẫu gương nho nhỏ cho những ai sống đời mục tử.
Hình ảnh của giáo dân giáo điểm này cũng là một bài học cho những con chiên.
Sống trên đời ai cũng cần vật chất cả, đành biết là vậy, nhất là với những người nghèo nhưng cùng đích cuộc đời này đâu phải là vật chất. Cuộc đời này người ta đâu chỉ "sống bằng cơm bánh" như Chúa Giêsu đã từng nói. Cuộc đời này còn đó đời sống của tâm linh, đời sống cua tinh thần.
Chỉ vì yêu, Cha đặc trách giáo điểm mới sống xả thân hết mình như vậy. Thật ra thì Cha đặc trách cũng đâu có làm gì ra tiền, Cha đặc trách cũng chạy đầu này đầu kia để kiếm chút gì đó về cho con cái. Tất cả là vì yêu và vì yêu.
Ngược lại, với giáo dân nghèo, ta có thể nghèo vật chất nhưng không thể nào nghèo tinh thần, không thể nào nghèo tình yêu được. Một lời thăm hỏi, một nụ cười, một chút việc nho nhỏ trong nhà thờ cung đủ để an ủi cho vị truyền giáo đơn sơ này. Thế nhưng làm gì có! Cha đặc trách đau lưng, đau bao tử giáo dân nào có biết. Ngày mỗi ngày, Cha đặc trách vẫn âm thầm lặng lẽ làm công việc của một ông từ đi đóng cổng thơ, đi quét chuông...
Cha đặc trách đã làm hết lòng mình, đã sống hết sức mình nhưng chưa bao giờ Ngài than thân trách phận. Tất cả cũng xuề xoà cho xong vì lòng thương dân nghèo.
Bài học chủ chăn nhân lành của vị truyền giáo ở giáo điểm truyền giáo này là một bài học hay của sự dấn thân, sự chịu đựng. Ngày mỗi ngày, Cha đặc trách sống như một "con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt".
Nguyện xin Chúa Giêsu là vị Mục tử tối cao ban nhiều ơn lành để Giáo Hội ngày càng có thêm những vị mục tử sống hết mình vì con chiên như vị mục tử ở vùng truyền giáo nghèo này.
Và cũng nguyện xin Chúa Giêsu biến đổi lòng con chiên ở mảnh đất này để họ ngày mỗi ngày yêu thương đùm bọc lẫn nhau hơn và nhất là yêu thương vị chủ chăn hết lòng yêu thương họ hơn.
12. Chủ chăn và đoàn chiên.
Chúa Giêsu muốn nói gì qua hình ảnh chủ chăn và đoàn chiên? Tôi xin thưa đó là sự gắn bó mật thiết.
Thưc vậy, giữa chủ chiên và đoàn chiên có một sự gắn bó mật thiết với nhau thế nào, thì giữa Chúa Giêsu và những người được Chúa Cha trao cho Ngài cũng có một sự gắn bó mật thiết với nhau như vậy, bởi vì họ thuộc về Ngài và Ngài biết tên họ. Điều này cũng có nghĩa là Ngài biết tường tận từng người một với những ưu điểm và khuyết điểm, với những suy tư và tính toán, với những âu lo và khát vọng. Giữa Ngài và những người tin vào Ngai đã tạo nên được một sự cảm thông chân thành. Họ nhận ra tiếng Ngài và bước đi theo Ngài. Điều ấy không thể xảy ra cho những kẻ xa lạ.
Tất cả những sự kiện kể trên đều là những biểu hiện của tình yêu thương. Chúng ta không thể hồ nghi về những lời khẳng định của Chúa Giêsu, bởi lẽ Ngài đã chết để bảo vệ đoàn chiên của Ngài như một người mục tử tốt lành và nhân hậu. Ngài phán: Không ai yêu hơn người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Hay như thánh Phêrô đã viết trong: Chính Ngài đã gánh lấy tội lỗi chúng ta nơi thân xác của Ngài trên cây thập giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính. Nhờ vết thương của Ngài, anh em đa được chữa lành. Xưa kia anh em như những con chiên lạc, thì giờ đây anh em đã trở về cùng vị mục tử, Đấng canh giữ linh hồn anh em.
Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là mỗi người chúng ta phải làm gì và phải sống như thế nào, để được xứng đáng là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa? Khi người chủ chăn đứng ngoài cửa và vên tiếng gọi, lập tức những con chiên nhận biết tiếng họ, chúng liền tụ lại quanh người ấy và bước đi theo sự hương dẫn của người ấy. Và người ấy sẽ dẫn đoàn chiên của mình tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát.
Với chúng ta cũng thế, là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta phải biết nhận ra tiếng Chúa mời gọi. Nhưng nhận ra tiếng Chúa mời gọi mà thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn, đó là chúng ta còn phải tụ lại bên Ngài và bước đi dưới sự hướng dẫn của Ngài bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy, bằng cách tuân giữ nhưng giới luật của Ngài.
Bởi vì chỉ bước đi theo sự hướng dẫn của Ngài, chúng ta mới có thể đạt tới miền đất hứa là quê hương Nước Trời mà thôi.
13. Mục tử tốt lành – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Dưới thời bạo Chúa Nêrô bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao tín hữu đã chết dưới tay ông vua điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
- Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?
- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
- Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên, và để chịu đóng đinh thập giá như Thầy.
"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên" (Ga.10,11). Đức Giêsu ví mình như một mục tử tốt lành khác với người chăn thuê, vì người đã dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Cái chết của Người không bất ngờ, cũng không đầu hàng bạo lực, nhưng là một cái chết tự hiến. Đức Giêsu chết để nói nên lời yêu thương. Một tình yêu tột đỉnh, yêu cho đến cùng. Thánh Gioan viết: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga.15,13).
Chính tình yêu đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con chiên, khiến Người nói: "Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta" (Ga.10,14-15). Đó là sự hiểu biết nhau sâu xa, sự trân quí giữa mục tử và đoàn chiên.
Đức Giêsu là mục tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá giúp chăn dắt đoàn chiên của Người. Mọi mục tử phải noi gương Người, dám chết cho đoàn chiên được sống. Phêrô là người mục tử đầu tiên. Phêrô có thể trốn bắt bớ, tù tội, chết chóc. Nhưng chính khi đổ máu, Phêrô đã giữ vững đoàn chiên. Cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục hơn bất cứ lời rao giảng nao: "Thầy làm vững đức tin của con. Rồi đến lượt con, con sẽ làm vững đức tin của anh em con". Các mục tử tiếp bước Phêrô vui lòng nằm xuống để nên nhân chứng, và củng cố niềm tin cho các anh em.
Dụ ngôn người "Mục tử tot lành" cho thấy tình yêu sâu sắc của Thiên Chúa:
- Người yêu thương mỗi người một cách cá biệt, không yêu cách chung chung.
- Người yêu thương vô điều kiện, ngay cả khi chúng ta lầm đường lạc lối.
- Người yêu thương bằng tình yêu vui mừng, chứ không la rầy khiển trách khi tìm thấy chiên lạc.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên trên thế giới. Người rất cần các bạn trẻ hiến thân cho sứ mạng mục tử này. Người mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời Chúa, đói tình thương, đói của ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người kêu gọi chúng ta hãy tha thiết xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn, và thánh đức hơn. Những mục tử sẵn lòng âm thầm chết từng ngày cho đoàn chiên.
***
Lạy Chúa, xin gởi đến cho chúng con những mục tử có trái tim của Chúa: luôn say mê Thiên Chúa và yêu thương con người, có tình bạn thân thiết với Chúa, dám hy sinh cho đoàn chiên, dẫn đưa chúng con về với Cha là nguồn hạnh phúc thật của chúng con. Amen.
14. Tôi biết chiên của Tôi - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Câu nói có vẻ tầm thường, nhưng thật lạ lùng.
Nếu một ông thủ tướng trong sạch, biết rõ từng bộ trưởng, từng tỉnh trưởng, từng giám đốc, bí thư, thì không một ai dám tham nhũng, hối lộ.
Nếu cha mẹ tốt lành, biết rõ từng đứa con, sẽ dễ dàng dạy con ngoan chăm con giỏi, và không có con nào dám qua mặt làm điều hỗn láo.
Nếu người trên nhân hậu biết rõ người dưới, chắc chắn sẽ dễ cảm thương cho số phận khổ sở kẻ dưới và sẽ hết mình giúp đỡ họ.
Vậy làm sao có thể biết rõ được?
Muốn biết rõ người phải xuyên suốt bốn giai đoạn sau:
Thứ nhất, biết những hành động bên ngoài, từ lời nói, cử chỉ đến việc làm.
Thứ hai, biết những hanh động bên trong, là những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, ước muốn và ý định.
Thứ ba, biết quá khứ, hiện tại, tương lai xẩy ra sao.
Thứ bốn, biết số phận, vận mệnh may rủi sống chết thế nào?
Thường người ta, dù người tai giỏi, thông thái hay gần gũi như cha mẹ sống với con cái, cũng chỉ biết được người khác qua những hành động bên ngoài. Những nhà tâm lý giáo dục biết được tâm tính con người thường dùng phương pháp quan sát ba yếu tố: cảm xúc (Emotivité: E), hoạt động (Activité: A) và xem phản ứng sơ khởi hay sâu lắng (retentivité primaire ou secondaire) để xếp xem người đó thuộc loại tính tình nào trong tám loại tính tình.
Thực ra, con người chỉ có thể biết nhau ở giai đoạn thứ nhất, tới giai đoạn thứ hai chỉ là đoán mò, nên mới có câu: “Sông sâu còn có người dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”.
Khi Chúa Giêsu nói với ta: “Tôi biết chiên của Tôi” thì Người biết hết mọi sự: từ hành động bên ngoài đến bên trong ta, từ quá khứ hiện tại đến số phận đời đời của ta, Người thấu suốt cả cuộc đời ta.
Người biết rõ Nathanael ở đâu, đang làm gì.
Người biết rõ Pharisiêu nghĩ gì, biết rõ âm mưu của Giuđa và các thượng tế. Người biết rõ quá khứ của người đàn bà xa lạ đến kín nước giếng Giacóp có bảy đời chồng và kẻ đang sống với bà không phải là chồng bà. Người biết rõ tương lai của các môn đệ sẽ bị bắt bơ, tù đầy, xét xử và bị giết đi vì làm chứng về Người, và Người khuyên các ông đừng sợ vì họ chỉ giết được xác mà không giết được hồn. Người biết rõ phần thưởng Chúa Cha ban cho các ông bội hậu trên trời.
Người biết rõ số phận của thành Giêrusalem sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào và Người khóc thương họ.
Chính vì biết rõ thân phận con người như thế mà Người cảm thương ta vô cùng.
Khi ta nhìn một người quằn quại trên vũng máu vì tai nạn hay một người rên xiết trên giường bệnh, ta không cầm được nước mắt. Ta chỉ biết được chút bên ngoài chốc lát thôi, ta còn biết mủi lòng, huống chi là Thiên Chúa biết quá rõ số phận ta từ đời đời, Thiên Chúa còn phải thương yêu ta đến thế nào! Người đã thấy thân phận ta như “con chiên ở giữa sói rừng, sói liền bắt và làm tan tác đoàn chiên”. Vì thế, không lạ gì Thiên Chúa Cha đã phải hy sinh Con Một yêu dấu của Ngài, xuong thế làm người, sống lăn lộn cứu chữa con người cho đến chết và bị chết đóng đinh trên thập giá. Hôm nay chúng ta thấy: tại sao Người nói: Tôi biết chiên Tôi và Tôi hy sinh mạng sống Tôi cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một người mục tử”.
Trong bài đọc một, thánh Phêrô đã chứng tỏ cho thượng hội đồng thấy: “Chính nhờ danh Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã cho Người chỗi dậy, từ cõi chết, đã cứu chữa người tàn tật này được lành mạnh”.
Trước tình yêu của Đấng chăn chiên nhân lành như thế, thánh Gioan kêu gọi chúng ta: “Anh em hãy xem Thiên Chúa yêu ta dường nào để ta được gọi làm con Thiên Chúa. Và được nên giống như Người”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cố gắng nên giống Người Mục Tử nhân lành, biết nhận trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, thánh hóa đoàn chiên, chúng con mới được giống Người trong vinh quang.
15. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Đức Giêsu tự xưng mình là mục tử nhân lành. Ngài biết từng con chiên, yêu thương chăm sóc và sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đàn chiên.
Thật vậy, Đức Giêsu biết hết tất cả mọi người chúng ta. Ngài biết từng người trong chúng ta. Ngài biết người nào khỏe mạnh, người nào ốm đau, người nào tàn tật. Ngài như người mục tử đi tìm con chiên bị mất; con nào đi lạc, Ngài sẽ đưa về; con nào bị thương, Ngài sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ngài sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ngài sẽ canh chừng (x. Ed 34,16). Ngài yêu thương chăm sóc từng người trong chúng ta một cách tận tình (Is 40,11). Ngài luôn tạo điều kiện tốt đẹp cho mọi người như người muc tử chăn dắt đàn chiên trong đồng cỏ tốt tươi, màu mỡ (x. Ed 34,14). Cụ thể, Ngài nuôi chúng ta bằng Lời của Ngài, bằng các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể. Đặc biệt, Ngài đã hy sinh tính mạng của mình vì hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Đó là tình yêu cao quý hơn mọi tình yêu. Đúng như lời Ngài khẳng định: “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Vì thế, những ai được sống dưới sự chăn dắt của vị mục tử Giêsu, thì luôn được vững dạ an tâm, không sợ nguy khốn (Tv 23,4), không sợ thiếu thốn gì (Tv 23,1).
Để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho con người, Đức Giêsu còn tuyển chọn một số người cộng tác trực tiếp vào sứ mạng mục tử của Ngài. Vì thế, trước khi về trời, Ngài đã chọn các Tông đồ và đặt Thánh Phêrô thay mặt Ngài tiếp tục vai trò đó. Vai trò mục tử đó được tiếp tục nơi các Tông đồ đoàn, các Đức Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô, các Đức Giám mục, các linh mục cho đến tận thế. Nhưng số lượng giám mục, linh mục trong Giáo hội chưa bao giờ có thể đáp ứng đủ với nhu cầu của đoàn chiên. Cho nên, Đức Giêsu đã từng nói: “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin Chúa sai thợ gặt đi gặt lúa về.” (Lc 10,2). Vâng lời Đức Giêsu, suốt 2000 năm qua, Giáo hội luôn luôn quan tâm đến việc đào tạo các linh mục. Thông thường tại các Giáo phận hoặc liên Giáo phận đều có Đại chủng viện, nơi đào tạo các linh mục tương lai. Ngoài các đại chủng viện còn có các đào tạo các ứng sinh linh mục của các dòng tu. Giáo hội không những mời gọi giới trẻ dấn thân trong đời sống tu trì, làm linh mục. Giáo hội còn mời gọi các thành phần trợ giúp vật chất cũng như tinh thần cho các chủng viện, cho công cuộc đào tạo linh mục. Cụ thể, Giáo hội dùng Chúa nhật IV Mùa Phục Sinh hằng năm để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Đây là một sáng kiến đặc biệt của Giáo hội. Vậy, chúng ta phải làm gì để góp phần vào việc đào tạo linh mục? Chúng ta phải làm gì để giúp đỡ các giám mục, linh mục đang trực tiếp coi sóc chúng ta?
Thứ nhất, chúng ta cần phải làm gì để góp phần vào việc đào tạo linh mục:
- Vai trò của các bậc cha mẹ: Cần phải quan tâm giáo dục con cái về đời sống đức tin, nhân bản và tri thức; giúp con cái hiểu biết hơn về ơn gọi linh mục và tu sĩ; khi thấy con cái có ý hướng dâng mình cho Chúa trong ơn gọi linh mục và tu sĩ thì cần phải giúp đỡ và hướng dẫn con cái thực hiện ý hướng tốt lành đó.
- Vai trò của các thầy cô giáo lý viên: Không chỉ truyền đạt về kiến thức giáo lý mà còn giúp các em về mọi mặt để các em có thể trở thành những người trưởng thành quân bình về tri thức, nhân bản và đạo đức.
- Vai trò của cha xứ: Không chỉ hướng dẫn và giúp đỡ các em trong việc phân định ơn gọi mà còn giúp các em có đủ điều kiện để thực hiện ơn gọi của mình. Đặc biệt, đời sống độc thân dâng hiến của cha xứ luôn trở nên mẫu mực cho các em noi theo.
- Vai trò của mọi thành phần trong Giáo hội: Cần giúp đỡ các ứng sinh linh mục tương lai bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng sự động viên khích lệ, bằng sự giúp đỡ về mặt vật chất...
Hầu hết các linh mục trưởng thành như hôm nay, ngoài ơn Chúa, sự nổ lực của bản thân thì đều có sự cộng tác trực tiếp hay gián tiếp của gia đình, thân nhân, ân nhân và các thành phần trong giáo xứ và Giáo hội.
Thứ hai, chúng ta cần cầu nguyện và cộng tác với các giám mục, linh mục:
Chúng ta không chỉ có trách nhiệm đối với các ứng sinh linh mục mà còn có trách nhiệm đối với chính các giám mục, các linh mục nhất là giám mục và các các linh mục đang trực tiếp phục vụ chúng ta. Chúng ta giúp đỡ bằng lời cầu nguyện, sự nâng đỡ, cộng tác với các ngài để các ngài chu toàn bổn phận mà Chúa và Giáo hội trao phó. Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử bởi vì trong thực tế, tuy có nhiều mục tử giống mục tử Giêsu, nhưng vẫn có những mục tử giả, mục tử xấu, mục tử không tha thiết gì đến đàn chiên, “khi thấy sói đến liền bỏ chiên mà chạy: sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn”; vẫn có những mục tử sống vô trách nhiệm với đàn chiên: chẳng quan tâm khi chiên đi mất, không đi tìm khi chiên thất lạc, không chạy chữa khi chiên bị thương…(x. Dc 11,16a); vẫn có những mục tử bóc lột đàn chiên để hưởng thụ chứ không chịu chăn dắt đàn chiên: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Ed 34,3); vẫn có những mục tử độc ác, thống trị đàn chiên một cách tàn bạo và hà khắc (x. Ed 34,3); vẫn có những mục tử mà sự hiện diện của họ chỉ làm cho đàn chiên tan tác (x. Gr 23,2).
Trong bài huấn dụ có sự hiện diện của các linh mục và giáo dân, Đức Cha Anphôngsô, Giám mục Phụ tá Giáo phận Hưng Hóa mời gọi giáo dân cầu nguyện và cộng tác với các linh mục như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Linh mục cần lời cầu nguyện lắm, vì sứ vụ và trách nhiệm của linh mục rất nặng nề. Nhiều khi anh chị em xin linh mục cầu nguyện cho mình, mà quên cầu nguyện cho linh mục.
- Hãy tôn kính linh mục vì là người thay mặt Chúa hướng dẫn giáo dân. Nhưng hãy tôn kính cách đúng mực, bình dị, thân tình, chứ đừng thần thánh hóa, khép nép, sợ hãi, tâng bốc. Linh mục là người của Chúa và của mọi người, chứ không phải của riêng ai.
- Hãy nâng đỡ tinh thần cho linh mục. Linh mục cũng cần sự nâng đỡ, nhất là trong những lúc gánh nặng của sứ vụ đè trên đôi vai và trong tâm hồn. Tôi xin anh chị em quan tâm nâng đỡ tinh thần, chứ không phải vật chất, cho các linh mục. Chỉ chú trọng nâng đỡ vật chất sẽ có thể làm thoái hóa linh mục.
- Hãy cộng tác cách chân thành, tích cực và hữu hiệu, để linh mục chu toàn sứ vụ của mình. Linh mục chẳng thể làm được gì nếu không có giáo dân đồng tâm hiệp lực.
Lạy Chúa Giêsu mục tử nhân lành, xin ban cho Giáo hội có thêm nhiều mục tử như lòng Chúa mong muốn. Amen.
16. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Anh chị em thân mến.
Người Việt Nam chúng ta thường thì ai cũng biết đến cau chuyện cổ tích: Cái Đực rựa. Câu chuyện nói lên đời sống của hai anh em được người cha rất thương yêu.
Chính vì thế ông đã chuẩn bị tất cả, không để cho con của mình phải thiếu thốn điều gì. Khi ông nhắm mắt lìa đời, ông đã để lại một tài sản xứng đáng cho hai người con của mình. Không chỉ để lại mà thôi, ông còn dạy bảo nhắc nhở: Anh em phải yêu thương lo lắng cho nhau. Nhưng rồi, những điều lo lắng, những điều chỉ dạy và lời trối sau cùng của người cha kính yêu, không được thực hiện chu đáo.
Người anh cả khôn ngoan hơn, lại thêm tính tham lam, nên cuối cùng, người em hiền từ đơn sơ chỉ còn nhận được Cái đực rựa. Người em phải rời khỏi nhà cùng với gia tai mình được chia, gia tài mà người cha đã để lại, giờ đây anh chỉ nhận được có thế. Anh đã bị chính người thân thuộc nhất của mình tước đoạt tất cả. Anh cũng không có quyền ở trong nhà cha của mình, vì chính người con của cha mình, người anh ruột của mình, người thân nhất của mình, lại là người loại trừ anh ra khỏi cuộc sống. Đoạn kết câu chuyện, mọi người chúng ta đều biết: Ở hiền gặp lành.
Qua câu chuyện, tôi suy nghĩ: người cha rất thương yêu con của mình, nên ông đã dạy dỗ, chuẩn bị tất cả. Đáng lẽ những người con của ông đều được sung sướng. Nhưng cũng vì con ông không biết thương nhau, nên có những người phải cơ cực. Mặc dù ông đã làm tròn bổn phận cua mình, nhưng ông không khỏi phiền lòng khi nhìn thấy những đứa con của mình đối xử với nhau như thế. "Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi." Chúa Giêsu là chủ đàn chiên của Ngài. Ngài là Người Cha nhân hậu, Ngài đã chuẩn bị tất cả những gì cần thiết cho đàn chiên của Ngài được hạnh phúc, được sung sướng. Chính vì thương yêu đàn chiên nhỏ bé, còn bơ vơ chưa thể tự mình đạt tới hạnh phúc được, nên Ngài dám hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên. Ngài biết từng con chiên, lo lắng cho từng con một. Ngài chỉ có mong ước duy nhất là làm sao các chiên của Ngài đều nghe tiếng để bước đi theo Ngài.
Chúng ta là con cái Thiên Chúa, chúng ta thuộc về đàn chiên của Chúa Kitô. Mỗi người trong chúng ta được Ngài yêu thương, chăm sóc, giữ gìn, và mỗi người cũng được bảo vệ bằng chính mạng sống của Ngài. Những con chiên trong đàn có được một Người chủ chăn tuyệt vời, thế mà cũng vẫn còn có nhiều con chiên ăn không đủ no, nó cũng không thể nào chống chọi lại nỗi với những cơn giá rét luôn ập xuống trên mình. Đôi khi còn tệ hại hơn nữa, nó phải đành chấp nhận nỗi cô đơn mà tách khỏi đàn để đối mặt với bao nhiêu nguy hiểm đang chờ đón.
Nó đói không phải vì trong đàn chiên thiếu thức ăn, trái lại, thức ăn vẫn đầy đủ và phần của nó vẫn còn đó. Nó lạnh, nó cô đơn, nó gặp nguy hiểm, không phải vì chủ không quan tâm. Nhưng nó phải chịu tất cả những điều bất hạnh đó, vì nó không tìm được sự cảm thông của những con chiên đồng loại. Nó cũng không tìm thấy được một sự quảng đại, nó cũng chẵng nhan được những cử chỉ yêu thương chân thành, mà nó chỉ thấy trước mắt nó những điều làm nó đau lòng. Trước một thực tế như thế, cùng với sự hiểu biết nông cạn, nó không thể nào nhận ra được tình yêu của Người Chủ Chăn Tuyệt Vời qua những chú chiên bạn bên cạnh nó được.
Câu chuyện cổ tích ở trên, chúng ta ngở rằng nó đã cổ xưa, đã đi vào quá khứ, nhưng thực ra nó rất hiện đại và vẫn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hom nay. Cũng vẫn những tham lam, vẫn những tranh giành, vẫn những thủ đoạn loại trừ nhau. Cho dù tiếng chủ chăn vẫn vang lên thống thiết, còn những con chiên thì vẫn cứ mặc tình, vẫn cứ ồn ào náo nhiệt, vẫn cứ tranh chấp nhau, nên không thể nào nghe được hết những gì chủ chăn muốn nói.
Tiếng vị Chủ Chăn tuyệt vời cũng vang bên tai mỗi người chúng ta. Chúng ta có phải là con chiên trong đàn của Chúa Kitô thật sự không? chúng ta đã nghe tieng Ngài, và bước đi theo Ngài như thế nào trong cách sống của mình?
Xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, lời của vị Chủ Chăn Tốt Lành, để chúng ta luôn là con chiên ngoan trong đàn của chủ chăn, và là một bạn chiên tốt của các chiên.
17. Nơi bạn thuộc về – Peter Feldmeier
(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết các chiên tôi và các chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14)
Vài năm trước, tôi có dịp nói chuyện với một anh bạn. Vợ anh ta vừa chết và mới được chôn cất. Cuộc sống của anh ta trước đây khá bệ rạc, và anh đã đối xử với vợ con rất tồi tệ. Anh ta hỏi tôi, theo tôi nghĩ, liệu anh ta có được lên thiên đàng hay không. Đây không phải là một câu hỏi khó trả lời, vì việc cứu rỗi chẳng phải là vấn đề quá nan giải. Chính Đức Giêsu đã quả quyết ai tin sẽ được sống đời đời. Hiển nhiên, không phải như nhiều người cứ đinh ninh rang ơn cứu rỗi sẽ được tặng ban một cách nhưng không, chẳng cần con người cộng tác chút nào.
Sau khi đã hiểu khá rõ cuộc sống của anh, tôi trả lời. Nhưng trước hết tôi hỏi lại anh ta: Thế bây giờ anh sống ra sao, có biến chuyển khá hơn trước hay không? Anh trả lời “Tôi nghĩ, khó thay đổi. Tôi còn có nhiều buồn bực và vẫn hay uống rượu để giải khuây”. Tôi hỏi tiếp “Anh có đến nhà thờ thường xuyên không? Anh ta đáp: “Không. Trừ hôm an tang vợ tôi, đã 30 năm nay, tôi không đến nhà thờ nũa. Tôi nghĩ cuộc sống tôi vẫn vậy, chẳng thể thay đổi”. Tôi hỏi vặn lại “Nhưng vì anh đã bỏ nhà thờ, bỏ cả Chúa? Trước đây cuộc sống anh có tồi tệ như thế đâu.” Anh ta nói “Tôi biết, cuộc sống tôi hiện nay như là hỏa ngục thực sự, không phải như nhà thờ mà tôi đã bỏ suốt 30 năm qua”. Tôi tiếp tục hỏi anh “Thế ít nhất, anh có cầu nguyện không?” Anh trả lời “Hầu như không, tôi cũng chẳng còn tha thiết cầu nguyện như trước đây nữa.”
Tôi động viên anh hãy đến tòa cáo giải và trình bày tất cả. Tôi nhẹ nhàng khuyên anh hãy cố gắng sửa chữa và hàn gắn lại những đổ vỡ trong những tháng ngày còn lại cua cuộc đời. Tôi gợi mở cho anh con đường trở về, song từ trong thâm tâm, tôi cũng lấy làm lạ và tự hỏi, tại sao một con người chẳng thiết tha gì đến Thiên Chúa như thế, nhưng vẫn mong muốn được vào thiên đàng. Họ không hiểu rằng thiên đàng chính là tình trạng con người gắn kết với Thiên Chúa và thuộc về Ngài trọn vẹn hay sao.
Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, Thánh Gioan đã viết “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con cái Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy (1Ga 3,2). Đó chính là thiên đàng thực sự của chúng ta, là tình trạng con người kết hiệp với Thiên Chúa và trở nên giống Ngài.
Thánh Phêrô tông đồ diễn tả trạng thái căn bản về việc Thiên Chúa hiện thực tròn đầy lời hứa cứu độ, khi Ngài viết “Chúng ta sẽ được thông phần bản tính Thiên Chúa (2Ph 1,4). Giáo hội gọi đó là sự “Thần hóa” Theosis, một khi chúng ta qua ân sủng được sống chính sự sống của Thiên Chúa, sống như Ngài đã sống, và yêu như Ngài đã yêu.
Neu cách diễn đạt này xem ra có vẻ trừu tượng và khó hiểu, chúng ta sẽ dễ thấu triệt hơn khi đọc lại bài Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu nói cho đám đông, Ngài là Mục Tử Nhân Lành. Không như các mục tử bất cẩn khác đã bo chiên để tháo chạy vào những thời khắc nguy hiểm, vị Mục Tử tốt lành đã liều cả mạng sống để bảo vệ đoàn chiên của mình. Chủ đề về chăn chiên được nói đến khá nhiều, và dàn trải đều khắp trong cựu ước. Ezekiel chương 34 là một đoạn văn cổ, qua đó vị tiên tri nặng nề cảnh báo các mục tử xấu xa, ám chỉ các vị lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ, đã bỏ rơi các con chiên, tức dân Israel, và chểnh mảng việc chăm sóc chúng. Ezekiel tiên bao rằng chính Thiên Chúa sẽ chăn dắt và săn sóc đàn chiên của Ngài (Ez 34,15-23). Đức Giêsu là Đấng sẽ thực hiện lời hứa đó, và Ngài sẽ là mục tử đích thực về cả hai phương diện: Chăn dắt và nuôi sống đoàn chiên.
Đức Giêsu đã đến và nuôi dưỡng chúng ta. Ngài bảo vệ, dẫn dắt và yêu thương chúng ta. Điều đánh động chúng ta sâu xa nhất, chính là Đức Giêsu đã hai lần nhắc đến sự tương giao thân tình giữa Ngài và các học trò, tức giữa người chăn chiên và các con chiên trong đàn. Ngài nói “Tôi biết chiên tôi và chiên của tôi biết tôi”, đồng thời Ngài nói tiếp “Chúng sẽ nghe tiếng tôi”. Qua hình ảnh người chăn chiên nhân lành, Đức Giêsu bộc lộ sự hien dịu sâu xa nơi chính Ngài. Về phía chúng ta, khi chúng ta biết Ngài và để Ngài biết chúng ta, chúng ta sẽ đi vào sự gắn kết sâu xa với Ngài, và thuộc trọn về Ngài.
Khi còn là sinh viên, có lần tôi được trao cho một quyen sổ nhỏ có ghi một câu hỏi để tôi trả lời: “Khi đến trước cổng thiên đàng, để được đón nhận vào, bạn phải nói điều gì?” Chắc chắn câu trả lời là “Tôi tin, vì Đức Giêsu đã chết cho tôi”. Bài Tin mừng hôm nay còn vạch dẫn cho ta một câu trả lời khác: “Vì nơi đó chính là chỗ tôi thuộc về”. Cũng như đối với gã đàn ông ngược ngạo kia đã hỏi tôi như tôi nói ở đầu, tôi sẽ trả lời cho anh ta “thế thì bạn, bạn đang thuộc về đâu?”
18. Ý nghĩa của cuộc sống
Bài đọc I (Cv 4, 8-12): Thánh Phêrô tuyên bố trước những nhà lãnh đạo Do thái rằng: Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng Cứu Độ duy nhất. Ngài chính là chính là viên đá góc tường của toà nhà mới mà người ta loại bỏ. Động lực nào đã làm cho thánh nhân can đảm lạ thường? Phải chăng ông đã cảm nhận được tình yêu mà Chúa Giêsu đối với ông, một người phản bội!
Bài đọc II (1Ga 3, 1-2): Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta làm con Chúa trong Chúa Giêsu. Để chúng ta được thông phần hạnh phúc với Chúa, đồng thời mời gọi chúng ta hãy vui mừng và biết chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao ấy cho nhân loại.Vì chưng, ơn gọi của người Kitô hữu là ơn gọi để yêu thương.
Bài Tin Mừng (Ga 10, 11-18): Cho thấy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài biết chiên của Ngài, và chúng cũng nhận ra Ngài. Không giống như người chăn thuê, Chúa Giêsu sẵn sàng hiến mạng sống cua mình để bảo vệ đoàn chiên.
Ba bài đọc đã cho ta một cái nhìn mới về ý nghĩa của cuộc đời. Cuộc sống của chúng ta hôm nay phần lớn được bao bọc bởi công việc. Vì vậy chúng ta hãy xem công việc hiện nay của tôi đang làm có tầm quan trọng và có ý nghĩa như thế nào? Nếu công việc tôi đang làm thật sự có ý nghĩa cho xã hội, thì quả thật đây là một diễm phúc cho ta. Còn nếu nó không mang một ý nghĩa nào, hay có nhưng rất ít thì thật là vô phúc.
Người ta nói: vấn đề đầu tiên của chúng ta trong cuộc sống là hãy tìm một việc làm có ý nghĩa. Khi đó nó sẽ thay đổi cuộc đời chúng ta. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại hai danh từ đối lập: Chủ chăn và người chăn thuê. Vậy đâu là sự khác biệt giữa vị mục tử nhân lành và người chăn thuê? Đó chính là hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên. Người chăn thuê làm công việc này vì đây là một sự bắt buộc, làm để lãnh lương. Đối với anh ta đây chỉ là cái nghề, vì thế anh ta không đặt con tim của mình vào trong công việc. Còn vị mục tử nhân lành làm công việc chăn dắt đoàn chiên vì anh ta yêu mến no, đó chính là lý tưởng của anh. Vì vậy, anh ta làm với một con tim nhiệt thành và hoàn toàn tự nguyện.
Người ta yêu vị mục tử nhân lành vì cuộc sống của anh ta hoàn toàn vì lợi ích của đoàn chiên. Đối với vị chủ chăn nhan hậu, anh ta tìm thấy một cái gì quý giá thật sự khi được chăm sóc đoàn chiên. Đối với anh ta đây không chỉ là công việc mà còn là một ơn gọi, một lý tưởng của cuộc đời.
Vì vậy anh ta đặt tất cả mọi tâm quyết cho công việc và làm hết khả năng. Khi đó anh ta sẽ có đủ sáng kiến để thực hiện hoài bảo, nhờ đó mà tài năng bắt đầu được nở rộ. Dù cho công việc có nhiều khó khăn trắc trở nhưng nhờ có lý tưởng và có động lực là tình yêu nên mọi chuyện đều trở nên nhẹ nhàng và đơn giản không gì là nặng nhọc. Chúng ta không thể có được hạnh phúc từ cuộc sống dễ dãi. Trách nhiệm nặng nề trong việc tự nguyện phục vụ tha nhân sẽ làm cho cuộc sống yêu thương sẽ càng có giá trị.
Chúa Giêsu đã tìm thấy lý tưởng của Ngài Khi Ngài khẳng định: Ta là mục tử nhân lành của đoàn chiên mà Chúa Cha trao phó. Hai đặc tính nổi bật trong sự liên hệ giữa chủ chăn và đoàn chiên là: Ngài chăm sóc đoàn chiên tận tình, sẵn sàng hiến mạng sống để bảo vệ đoàn chiên. Và Ngài biết các chiên của Ngài và chúng cũng biết Ngài. Đây là sự gần gũi giữa chủ chăn và đoàn chiên. Thiếu điểm này thì sự lãnh đạo trở thành sự áp bức.
Mỗi người chúng ta cũng phải chọn cho mình một lý tưởng. Khi có lý tưởng chúng ta sống và làm việc với một thái độ hoàn toàn khác hẳn với người không có định hướng, không có lý tưởng. Khi chúng ta thực hiện một công việc hay một bổn phận với một con tim héo úa mà không có động lực yêu thương chắc chắn chúng ta sẽ thất bại. Và quả thật, đây là một nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống. Vì chúng ta không tìm thấy niềm vui và hạnh phúc từ trong công việc, và khi đó cuộc sống quả là gánh nặng.
Nhưng để chọn cho mình một lý tưởng không phải là vấn đề đơn giản. Vì chọn lựa nào cũng phải từ bỏ, chọn lựa nào cũng làm cho chúng ta phải nuối tiếc và mang lại đau thương. Nhưng chúng ta phải can đảm chấp nhận vì hiểu rằng chúng ta chỉ có hạnh phúc thật sự khi đi đúng con đường, đúng lý tưởng.
Khi đó chúng ta mới yêu mến công việc của mình. Vì chưng thánh giá nào cũng nặng, nhưng điều quan trọng là thái độ của chúng ta đối với thánh giá cuộc đời. Nếu chúng ta nhìn công việc của mình như là quà tặng và phương tiện nên thánh thì mọi chuyện sẽ trở nên nhẹ nhàng. Chúa Giêsu là người sống có định hướng và lý tưởng hơn ai hết, khi Ngài đưa ra dụ ngôn mục tử nhân hậu và người chăn thuê. Người mục tử thì yêu mến công việc của mình, đảm nhận cônmg việc chăn dắt vì tình yêu. Đây không phải là điều dễ dàng. Nhưng cho dù gặp nhiều khó khăn gian khổ anh cũng dễ dàng vượt qua. Vì tình yêu đã cho anh sức mạnh.
Mỗi người chúng ta đều là mục tử trong địa vị và bổn phận của mình. Vì vậy chúng ta phải đối xử với nhau cách có trách nhiệm và hoàn toàn vì yêu thương. Tránh thái độ thờ ơ đối với nổi khổ của anh em, cũng như hành quyền trên người khác. Vì Chúa Giêsu đã chết và phục sinh cho tất cả chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, là vị mục tử nhưng Ngài lãnh đạo dân Ngài bằng tình yêu chớ không bằng quyền lực.
Lạy Chúa là Đấng nhân hậu và hay thương xót. Xin cho chúng con vững tin vào tình yêu của Đức Kitô phục sinh, vị mục tử nhân hậu đã thí mạng vì chúng con. Xin cho chúng con tỏ lòng biết ơn Chúa qua việc đối xử tốt với anh em. Xin Chúa cũng ban thêm cho chúng con có nhiều vị mục tử biết quảng đại dấn thân hoàn toàn vì lòng yêu mến Chúa và các linh hồn. Amen.
19. Mục tử tốt – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tình yêu Chúa cao vời biết bao, ngút cao như mây trời và mênh mang như biển cả. Chúa yêu thương con người qúa bội. Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ và đã thực hiện trọn vẹn lời hứa. Chúa Giêsu đã xuống thế mang thân phận con người để hoà nhập cuộc sống. Thiên Chúa làm người để cùng chia sẻ mọi nỗi truân chuyên, cơ cực, khổ đau, chối bỏ và ruồng rẫy trong thân phận người. Ngài đã dám hy sinh xa thân vì đàn chiên. Hình ảnh người mục tử chăn chiên thật ấn tượng. Chủ chiên đi trước và đoàn chiên theo sau. Chủ chiên mong tìm nguồn suối mát để chiên được giải khát. Chủ chiên đi tìm cánh đồng cỏ xanh tươi để chiên bồi dưỡng, nghỉ ngơi. Chúa Giêsu ví Ngài như người Chủ Chiên nhân lành.
Người mục tử tốt lành lo chu đáo cho mọi nhu cầu của đoàn chiên. Đối với người Dothái, hình ảnh người chăn chiên rất quen thuộc. Họ hiểu trọn vẹn ý nghĩa về vai trò của người chủ chiên và người làm thuê. Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Tác giả sách Tông đồ Công vụ đã viết về Chúa Giêsu chủ chiên tốt lành: “Chính Người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên đá góc tường”. Để được ơn cứu độ sẽ không có một Danh nào khác, mà chỉ nhờ Danh Chúa Giêsu Kitô.
Thư của Thanh Gioan Tông Đồ đã minh chứng rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta là dường nào. Ngài cho chúng ta được quyền làm con cái Thiên Chúa và hưởng nhờ ơn cứu độ. Ngài chăn dắt chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình. Thánh Gioan đã viết: “Chúa phán: Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10,14). Chúa biết nhu cầu tâm linh của từng con chiên. Mục đích tối hậu là dẫn dắt mọi người về chung hưởng hạnh phúc viên mãn trong một đàn chiên theo một Chúa Chiên: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16).
Chúng ta biết rằng nhu cầu cuộc sống thì vô vàn và sức lực cùng khả năng của con người thì giới hạn. Sống giữa một xã hội đổi thay và hỗn hợp văn hoá, tuyền thống, ngôn ngữ và tôn giáo, chúng ta khó có thể đáp ứng thoả đáng mọi nhu cầu của con người. Để tìm một một nguồn dưỡng nuôi thích đáng, mỗi người đều phải cộng tác nâng đỡ và mở cửa tâm hồn đón nhận. Sống trong một nền văn hoá đa dạng có các phương tiện truyền thông tốc độ, người có trách nhiệm giáo dục và hướng dẫn cần tỉnh thức nhiều hơn. Đàn chiên không đơn thuần nhập đàn theo nhau tìm đến dòng suối mát hay cánh đồng tươi xanh để cùng ăn uống thoả thuê. Nhu cầu cuộc sống không đơn giản đi theo bầy đàn.
Sứ mệnh mục tử được lan trải và áp dụng trong các vai trò cụ thể qua sự dưỡng nuôi và giáo dục. Chúng ta đang cần có các mục tử tốt trong mọi bước đi của cuộc đời. Chúng ta cùng chia sẻ vai trò quan trọng này trong chức vụ là cha mẹ, huynh trưởng, nhà giáo dục, các thầy thuốc, bác sĩ, các công nhân viên, các quan chức chính phủ và các nhà giáo dục tôn giáo.
Tại gia đình, vai trò giáo dục chủ yếu là của cha mẹ, phụ huynh lo lắng cho con cái về mọi mặt. Hãy yêu thương và dùng thời gian ở bên để chia sẻ buồn vui và những khó khăn với con cái. Đôi khi có những đứa con ngỗ nghịch, chúng ta cần kiên nhẫn dạy bảo với tình thương bao dung. Cha me phải luôn là mục tử gương mẫu dám hy sinh cho đàn con.
Nơi nhà trường, chúng ta cần các thầy cô. Các thầy cô cần học biết hoàn cảnh và nhu cầu của từng học sinh. Các em không phải là một đám học trò nhưng là từng cá vị có những khả năng riêng biệt cần phát triển. Kiến thức, văn hoá và đạo đức là tinh hoa cần được trau dồi và truyền đạt cho các thế hệ tiếp nối.
Trong nhà thương, cần có các bác sĩ và y tá như là từ mẫu. Các bác sĩ chăm sóc và chữa lành bệnh nhân và đối xử với họ đầy phẩm chất của một con người. Đem tình yêu thương để phục vụ đồng loại với lương tâm ngay chính. Chữa lành và cứu sống chứ không huỷ hoại và tiêu diệt.
Nơi công cong và xã hội, chúng ta cần các nhân viên công chức lo cho sự an ninh trật tự, an vui và hạnh phúc chung của mọi người hơn là chỉ vì lợi ích riêng tư. Các nhân viên chính quyền lo cho dân như phụ mẫu.
Trong Giáo Hội, nơi nhà thờ và các trung tâm mục vụ, cần các tu sĩ nam nữ, các giám mục và linh mục phục vụ mọi người trong yêu thương. Hướng dẫn con đường tâm linh chính thật. Không gây hoang mang mập mờ làm lung lạc đức tin. Biết nêu gương sáng và chăm sóc lo lắng đời sống tâm linh cho các tín hữu. Đời sống phải đi đôi với lời giảng dạy. Giáo dân cần thấy bài giảng hơn là nghe bài giảng. Sống niềm tin một cách chân thành và trong sáng. Dám hy sinh xả thân vì anh chị em.
Trong gia đình nhân loại, mỗi thành viên đều nhận những vai trò khác nhau từ đời sống trong gia đình ra ngoài xã hội. Chúng ta không phân biệt giai cấp, chức vụ hay nguồn gốc, mỗi người đều có trách nhiệm và bổn phận lo xây dựng một cuộc sống xã hội tốt đẹp chung. Vì thế, chúng ta không thể đổ trách nhiệm cho riêng một thành phần nào. Ai cũng được kêu gọi đóng góp công sức và khả năng của mình để làm cho cuộc sống con người tươi đẹp hơn.
Chúng ta thường có khuynh hướng gán trách nhiệm, những lời trách móc và đổ lỗi cho người khác hơn là quy chiếu trách nhiệm cho chúng ta. Dễ dàng so sánh và phê bình người khác hơn là xét lại những ngôn hành của chính mình. Chúng ta nên nhớ rằng từ sự suy tư, lời nói đi tới hành động có một khoảng cách rất lớn. Mỗi người cần có một sự dấn thân tu tâm và quyết chí thực thi lời dạy hằng ngày. Nếu lời nói không đi đôi với việc làm thì ngôn hành trở thành bất nhất. Chỉ nói mà không làm. Ai trong chúng ta cũng có những kinh nghiệm tiêu cực này.
Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành. Chúng ta gẫm suy về những lời truyền dạy và thực hành của Chúa. Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt vời giúp chúng ta tu tập sống đạo. Chúa đã giảng và sống lời giảng qua sự cầu nguyện, yêu thương, hy sinh, tha thứ, khiêm nhường, từ bỏ và công bằng chân thật. Chúng ta cần tu tâm tích đức, tu tâm luyện tính và tu tâm hành đạo. Chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu là Chúa, là Mục Tử và là Đấng Cứu Độ. Bước theo Chúa Chiên, chúng ta sẽ tìm được nguồn sống thật và no thoả trong nguồn suối ân tình.
Chúa Giêsu là Chủ Chiên và là cửa chuồng chiên. Đức Giêsu nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7). Trong cuộc sống, có rất nhiều cánh cửa mở rộng đón mời chúng ta vào. Có những cánh cửa dẫn chúng ta vào con đường lầm lạc và hư mất. Có những cánh cửa đưa dẫn chúng ta xa lạc trong thế giới tục hoá với nền văn minh sự chết. Có những cánh cửa mở ra cho chúng ta tìm những thoả mãn hưởng lạc và vui thú truỵ lạc. Có những cánh cửa đưa chúng ta vào chung hưởng nguồn vui an lạc thật sự. Chúa Giêsu nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9). Chúa Giêsu là cửa. Cửa của sự sống và sự sống lại. Đến với Chúa Giêsu và qua Ngài, chúng ta sẽ tìm được nguồn sống chan hoà trong niềm an vui, hy vọng và hoan lạc muôn đời.
20. Thái độ đối với công việc
Tin Mừng Chúa Nhật 4 Phục Sinh cho chúng ta hai cái nhìn của hai con người về cùng một công việc. Đó là chủ chăn là người chăn thuê.
Chúa Giêsu đưa ra hai tiêu chuẩn để phân biệt đâu là chủ chăn thật sự và người chăn thuê. Chủ chăn thật sự thì sẵn sàng hiến mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên. Còn người chăn thuê thì không. Anh ta chỉ làm công. Và tiền lương là động lực duy nhất để lôi kéo anh ở lại với đàn chiên. Khi gặp nguy hiiểm, anh ta lập tức quay đi mặc tình cho đàn chiên phải đối diện với nguy hiểm.Cùng một công việc là chăn chiên. Nhưng hai người có hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau.
Vậy động lực nào đã làm cho người chủ chăn thật có thể quên mình vì đoàn chiên? Tôi thiết nghĩ, có lẽ vì anh ta yêu mến công việc của mình, và xem nó như là một hoài bảo, một phần của cuộc sống, một ơn gọi trong cuộc đời mà anh hằng tìm kiếm. Chăm sóc đoàn chiên đối với anh không phải là cái nghề, cũng không vì lương bổng nhưng tất cả chỉ vì lý tưởng.
Còn người chăn thuê thì không như vậy. Trong thâm tâm anh chỉ là người làm thuê. Nên hay xo đo, tính toán, ngại khó khại khổ... Nên công việc đối với anh luôn là gánh nặng.
Chúng ta thấy, cùng một công việc là chăn chiên nhưng hai người có hai cách nhìn hoàn toàn trái ngược nhau. Không phải công việc nặng nhọc nhưng nặng hay nhẹ là do tự mình cảm nhận. Người ta kể rằng: có anh chàng kia vác thập giá về thiên đàng. Cùng đi với anh là cả một đoàn người. Không ai bảo ai. Với cây thập tự trên vai. Mọi người cứ âm thầm tiến bước.
Nhưng anh chàng này thấy những người kia vác thập giá như mình sao họ lại đi cách nhanh nhẹn và vui vẻ. Nên anh cằn nhằn Chúa vì nghĩ rằng: Thiên Chúa thật bất công khi trao cho anh một thánh giá nặng hơn thánh giá của những người khác. Cứ thế, đi một quảng, anh dừng lại và tỏ thái độ không bằng lòng với Thiên Chúa. Cuối cùng Chúa hiện ra với anh và bảo: Không phải thánh giá của con nặng hơn của nhưng người kia đâu. Thánh giá của mọi người đều như nhau cả. Con hãy cố gắng lên.
Nhưng anh ta vẫn không chịu, nhất quyết cho là thánh giá của mình nặng hơn. Cuối cùng Chúa chìu anh ta nên Ngài nói: nếu con cảm thấy nặng thì con hãy cưa bớt đi. Vẻ mặt anh ta trở nên vui tươi hớn hở và anh nói: nếu Chúa cho phép con sẽ làm ngay. Ngay lập tức anh ta cưa bớt thánh giá của mình một khúc. Rồi anh vui vẻ lên đường.
Khi đến trước cổng thiên đàng mọi người đều dừng lại vì phía trước họ là một con sông. Muốn qua sông để vào thiên đàng thì mọi người phải lấy thánh giá của mình làm cầu để đi qua. tất cả đã qua sông và vào được thiên đàng. Sau cùng anh chàng này cũng đến. Anh dùng thánh giá định bắc qua sông để vào thiên đàng. Nhưng hỡi ôi! Vì bị cưa đi một khúc nên thánh giá của anh không thể nào chạm được bờ bên kia của thiên đàng nên anh đành đau khổ khi thấy những người khác vui vẻ ở bên kia.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta giống như anh thanh niên trong câu chuyện trên. Chúng ta hay phiền trách Chúa tại sao để cho tôi đau khổ như thế này? Hay tại sao Chúa gởi thánh giá cho con nặng như vậy?
Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho chúng ta hiểu vấn đề này một cách thấu đáo. Vấn đề quan trọng không phải là thánh giá nặng hay nhẹ nhưng là ở thái độ của chúng ta đối với thánh giá. Nếu chúng ta đón nhận công việc với thái độ tự nguyện, vui tươi thì cho dù có nặng nề nhưng nhưng ta cũng cảm thấy nhẹ.
Vì hiểu rằng công việc làm tăng phẩm giá con người, làm cho con người trưởng thành hơn. Chính nhờ lao động mà con người phát huy hết tiềm năng mà Thiên Chúa đã ban.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con hiểu rằng thánh giá là cái giá phải trả cho sự nên thánh. Xin cho con đón nhận tất cả nhưng gì Chúa gởi đế với tinh thần tự nguyện, chấp nhận tất cả với thái độ vui tươi, nhờ đó mà mỗi ngày chúng con được lớn lên.
21. Chủ chăn hoàn hảo – AM Trần Bình An
Người ta đã nghe các lời Đavít nói và thuật lại cho vua Sa un. Vua cho gọi Đavít đến. Đavít nói với vua Sa un: “Đừng ai ngã lòng vì nó. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Philitinh ấy.” Vua Sa un nói với Đavít: “Con không thể đến với tên Philitinh ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ.”
Đavít thưa với vua Saun: “Tôi tớ ngài là người chăn chiên dê cho cha. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, thì con ra đuổi theo nó va giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó, đánh cho nó chết. Tôi tớ ngài đã đánh cả sư tử lẫn gấu, thì tên Philitinh không cắt bì này cũng sẽ như một trong các con vật đó, vì nó đã thách thức các hàng ngũ của Thiên Chúa hằng sống.” Đavít nói: “Đức Chúa là Đấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay Philitinh này.” Vua Sa un nói với Đavít: ”Con hãy đi, xin Đức Chúa ở với con!” Vua Sa un lấy y phục của mình mặc cho Đavít, đội mũ chiến bằng đồng lên đầu và mặc áo giáp cho cậu. Đavít đeo gươm của vua ngoài y phục, rồi thử bước đi, vì cậu không quen. Đavít nói với vua Sa un: “Con không thể bước đi với những thứ này được, vì con không quen.” Rồi Đavít bỏ những thứ đó ra. Cậu cầm gậy trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối, bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía tên Philitinh. (1 Sm 17, 31- 40)
Trích đoạn trong sách Samuen thứ nhất phác họa phần nào chân dung mục tử nhân lành. Đavít thuở thiếu thời đã dũng cảm chiến đấu với sư tử và gấu, để bảo vệ đoàn chiên chăn dắt. Nay sẵn sàng thân chinh giết Philitinh, Đavít dám hy sinh mạng sống cứu đoàn chiên của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay, Đức Giêsu tuyên xưng là Mục Tử nhân lành với tất cả tình cảm, trách nhiệm và chịu chết để cứu đoàn chiên. “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 14)
Đức Giêsu hiểu biết rành mạch từng con chiên trong đoàn chiên đông đảo vô số. Không những biết mặt mũi, vóc dáng, tên tuổi từng con, mà còn thấu hiểu cả tâm tính, đức hạnh để kỹ lưỡng chăm sóc, băng bó, dìu dắt, cứu giúp và hy sinh để chiên sống khỏe mạnh: “Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10)
Chủ Chiên phục vụ
Dĩ thực vi tiên, được ăn no đã là sung sướng như được ở cõi tiên rồi. Thế gian vẫn quan tâm nhiều đến cái ăn cái mặc, dĩ nhiên đó là nhu cầu chính đáng, nhưng sự lo lắng thái quá sẽ dễ quên đi điều còn vô cùng quan trọng và cấp bách hơn, như Đức Giêsu đã khẳng định với ma quỷ cám dỗ: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4)
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không nỡ để những ai theo Người chịu mãi cảnh đói khát, một khi đã bỏ mọi sự mà theo Người. Hai lần Người hóa bánh và cá ra nhiều cho hằng ngàn người được ăn no nê. Một lần sau khi Phục Sinh, Người cũng hóa bánh và cá phục vụ các môn đệ được sau đêm chài lưới đói khát, mệt nhọc, vất vả.
Đức Giêsu đã chăm lo đoàn chiên toàn tâm toàn ý với trách nhiệm rất cao, như sách Êdêkien đã ghi sấm ngôn của Đức Chúa: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ.” (Ed 34, 14)
Người ân cần chăm sóc mọi bề, sao cho đoàn chiên luôn ấm no, hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.” (Tv 23,1)
Từ lương thực và nước uống vật chất, hữu hình, Đức Giêsu, Mục Tử Nhân Lành dẫn dắt tín hữu, con chiên đến nước trường sinh: “Ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4, 14) và lương thực đến sự sống đời đời là vâng phục theo Thánh Ý Thiên Chúa: “Lương thực của Thầy là thực hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 14, 34)
Chủ Chiên yêu thương
Mục Tử Nhân Lành chan chứa tình yêu, tận tụy với đoàn chiên: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.” (Is 40, 11)
Với tình yêu nồng nhiệt, Chủ Chiên đích thực không chỉ chăm lo, nuôi nấng, mà còn tận tình chăm sóc, quan tâm đến con đi lạc bầy, đau yếu, bệnh hoạn, để đi tìm về, cứu chữa, dưỡng nuôi, bảo vệ, gìn giữ: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng.” (Ed 34, 16)
Đoàn chiên luôn được Chủ Chăn bảo vệ bình an, yên lành, trước những cơn bão táp cuộc đời hung hăng, dữ tợn, hiểm nguy, ào ạt đe dọa tràn đến: “Dầu qua lũng am u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 23,4)
Mục Tử chân chính không chạy theo số đông, mà quên đi một con chiên đi lạc. Một con chiên lạc đối với Người cũng giá trị không kém chín mươi chín con ở lại: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc.” (Mt 18, 12-13)
Với trái tim nhân ái, vị Mục Tử Nhân Lành không muốn bất cứ ai bị hư mất. Nên Người quan tâm chiên đi lạc, chăm sóc chiên ốm yếu, bệnh tật, hoạn nạn, thương tích: “Tôi không đen để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 32). Mặc dù, Chủ Chiên nhìn thấu suốt đáy lòng những con chiên giả hình, kiêu ngạo, tham lam, cố chấp, ỷ lại, bất nghĩa, bất tín, bất trung, nhưng Người thương xót, không phạt vạ ngay, mà chỉ ân cần kêu gọi sám hối, ăn năn, cải tà quy chánh, với lòng thương xót để hồi phục và chữa lành.
Chủ Chiên hy sinh
Sấm ngôn của Thiên Chúa qua ngôn sứ Dacaria đã khang định: “Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên.” (Dcr 9, 16) Nay Mục Tử nhân lành đã chu toàn thực hiện lời Thiên Chúa hứa ngàn xưa: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn.” (Ga 10, 11)
Thế nhưng muốn sống đời đời, con chiên phải dứt khoát quyết định đi qua cửa Chủ Chiên Nhân Lành: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” (Ga 10, 7) Dĩ nhiên, con chiên phải bỏ lại sau lưng những thứ hư ảo, phù phiếm kềnh càng, cả chính bản thân hẹp hòi, ích kỷ, nặng nề, mà cố gắng vác thập giá, trách nhiệm, bổn phận với gia đình, cộng đoàn, tha nhân, mới được cứu rỗi vĩnh cửu.
Hơn nữa Người còn tự nguyện trở nên lương thực cho đoàn chiên được no đủ, mạnh khoẻ, giầu sinh lực, can đảm thẳng tiến trên đường hy vọng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ." (Ga 6, 24-35)
Tuyệt đỉnh chính là cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Mục Tử Nhân Lành đã giải thoát đoàn chiên khỏi sự chết, mà dẫn vào cõi sống viên mãn muôn đời. Người chính là Chủ Chăn hoàn hảo độc nhất vô song, Người đích thực là Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên.
“Chúa không sinh con để làm đàn cừu, đàn vịt, nhưng để lãnh đạo môi trường của con. Lãnh đạo là thúc đẩy, là lôi cuốn.” (Đường Hy Vọng, số 214)
Lạy Chúa Chiên Lành, Mục Tử chí nhân chí ái, xin luôn mãi kiếm tìm chúng con trở về đoàn tụ với đoàn chiên, mỗi khi chúng con đi lạc, ham vui đi hoang. Xin dạy bảo chúng con noi gương Người, cũng trở nên chủ chiên tốt lành từ gia đình, cộng đoàn, đến xã hội, hầu dẫn dắt mọi người về với Chúa.
Lạy Mẹ Maria nhân từ, Hiền Mẫu của chúng con, xin giúp chúng con biết yêu thương, phục vụ và hy sinh, hầu dẫn dắt mọi người về đường ngay nẻo chính, hiệp nhất trong Đoàn Chiên duy nhất của Chúa Giêsu. Amen.
22. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Chăn chiên là một nghề rất thịnh hành ở Palestina từ thời Cựu Ước cho tới thời Tân Ước. Người ta nuôi chiên vì nó mang lại nhiều nguồn lợi như sữa, thịt, lông... nên người Mục tử là hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Israel.
Trong chăn nuôi vai trò và nhiệm vụ của mục tử rất quan trọng và khó khăn: vì không phải chỉ nuôi vài ba con chiên mà cả đàn lên tới mấy trăm hoặc mấy ngàn con chiên, muốn nuôi tốt một đàn chiên đông đúc như thế khong phải chỉ cần đi cắt một mớ cỏ đem về là đủ, mà phải đi tìm những đồng cỏ lớn, và phải tiên liệu khi đàn chiên ăn hết đồng cỏ này thì phải dẫn đến đồng cỏ khác ngay; phải chọn những chỗ vừa có cỏ xanh vừa có bóng mát vừa có nước uống, ngoài ra còn phải bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm thường xuyên đe doạ như trộm cướp và thú dữ.
Có khi phải chiến đấu đến bị thương hoặc chết để bảo vệ đàn chiên, phải vất vả đi tìm những con chiên lạc. Người mục tử gắng bó mật thiết với đàn chiên nên phát sinh những tình cảm giữa chủ chăn và đàn chiên: người chăn chiên biết rõ từng con chiên với những đặc tính của nó, các con chiên cũng biết ai là chủ chan của mình. Các chủ chăn thường đặt tên cho những con chiên làm "trưởng", ông chỉ cần gọi tên những con này, khi chúng đi theo chủ thì các con chiên khác cũng đi theo.
Ban đêm các mục tử thường nhốt chiên lại chung với nhau trên một khoảng đất trống có rào xung quanh, đến sáng các mục tử vào gọi tên các con chiên "tổ trưởng", chúng đi ra các chiên khác cùng đàn sẽ đi theo. Khi đếm đủ số, mục tử đi đầu dẫn đoàn chiên của mình ra đồng cỏ. Những con chiên không bao giờ nghe tiếng người lạ, nhưng sẽ bỏ chạy tán loạn.
Kinh Thánh thường dùng hình ảnh Mục tử hay chủ chăn để áp dụng cho những nhân vật lãnh đạo quan trọng trong Israel như Môisen, các Vua, các thẩm phán, các ngôn sứ. Đặc biệt nhất chính Thiên Chúa tự mô tả mình là mục tử (Tv 23, 80) và sau cùng Đấng Messia cũng được mô tả là Mục tử.
Quả thật, Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, mục tử tốt, mục tử chăm sóc từng con chiên một, nhất là những con chiên yếu kém. Chúa Giêsu nhiều lần đã rơi lệ xót thương dân Do thái, vì họ như đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt. Chúa giảng dạy, chỉ cho họ đường đi để có được hạnh phúc thật sự. Chúa cho họ ăn uống no nê trong những lần hoá bánh ra nhiều và dân chúng đã muốn tôn Ngài lên làm vua.
Chúa yêu thương những con chiên tật nguyền và chữa cho họ được lành bệnh chỉ nhờ vào lòng tin của họ. Đó là người mù từ thuở mới sinh, những người bị bại liệt, bị phong hủi, người đàn bà bị băng huyết, tất cả đều được Chúa Giêsu là mục tử chăm sóc chữa lành.
Những con chiên bị chết được Chúa cứu sống cho lành mạnh: đứa con gái ông Gairô, đứa con trai bà góa thành Naim, anh chàng Lagiarô bạn của Chúa, Chúa cứu chữa và thương xót những con chiên bị bệnh tật tinh thần như người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tan, Chúa đến để cho chiên được sống va sống dồi dào.
Không những là chăm lo, cứu chữa mà Chúa còn hiến mạng sống vì đàn chiên của mình "không có tình yêu nào cao quý hơn là chết cho người mình yêu."
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn là mục tử tốt đối với chúng ta. Chúa không ngừng ban ơn chăm sóc chúng ta qua các Bí tích. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa không ngừng bằng đời sống thờ phượng Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em chung quanh như Lời Chúa dạy.
23. Chủ chăn nhân lành – AM Trần Bình An
Trong đàn, thường có chiên chưa ngoan, nghịch ngợm, hay dại dột ham vui, mải mê đuổi theo những cánh bướm lả lướt, sặc sỡ, quyến rũ, hoặc thích lân la tìm kiếm hoa thơm cỏ lạ. Rồi lang thang vui chân lạc bầy, vô tình sa vào vòng vây sói dữ. Chủ Chăn Nhân Lành liền vội vã chạy đến che chở, giải thoát, cất tiếng an ủi, vỗ về đừng sợ, ngọt ngào gọi chiên trở về. Chẳng hề chần chừ, phân vân, bối rối, hay giả đui giả điếc, giả dai làm ngây, lưỡng lự lên tiếng hay không lên tiếng?
1. Chủ Chăn luôn âu yếm gọi tên và chăm sóc từng con chiên.
Người không thích chạy theo đám đông, không hoa mắt với những dãy số dài ngoằng, không hề mặn mà chạy theo thành tích tập hợp số đông xô bồ, mà mỗi cá thể chỉ được hiển thị bằng một con số lạnh lùng. Trái lại, Người quan tâm đến từng thân phận nhỏ nhoi, hèn mọn, chăm lo, gần gũi và thân mật gọi tên từng con, rổi dẫn chúng ra(Ga 10, 3)
Thậm chí, khi thấy một chiên bị lạc, Người không nỡ bỏ rơi, mà vội vàng tìm về cho bằng được. “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. (Lc 15, 4-6)
2. Chủ Chăn luôn bảo vệ và dưỡng nuôi chiên
Người luôn yêu thương, chu đáo bảo vệ và dẫn dắt chiên khỏi lạc lối, khỏi nguy hiểm đồi cao, vực thẳm, khỏi lang sói hung tàn, khỏi dã thú đe dọa, khỏi cam bẫy ác nhân thù địch. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau. (Ga 10, 4) Chiên muốn được an toàn, khỏe mạnh, hồi sinh, phải cậy nhờ Người nuôi dưỡng, bằng những thảo dược thần linh. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (Ga 10, 9)
3. Chủ Chăn luôn luôn thấu hiểu và chiên luôn trông cậy Chủ.
Người luôn đồng hành, đồng cảm với chiên. Biết rõ những nhu cầu cấp bách của chiên, biết rành rẽ sức khỏe, sinh lực, lẫn năng lực, đồng thời biết cả những nhược điểm, yếu đuối, đam mê, dục vọng của chiên, để chăm sóc, giúp đỡ, vỗ về, hay bắt mạch kê toa chữa chạy. Ngược lại, nếu muốn ton tại, sống còn, chiên cũng chỉ biết cậy trông vào Chủ Chăn Nhân Lành.
Chiên xa lánh chủ chăn giả mạo, kẻ chăn thuê, hoặc kẻ lạ nói tiếng lạ, bẻo mép, xảo ngôn, ngụy biện, nham hiểm đầu độc chiên bằng những tà thuyet, tà đạo phản nghịch với Tin Mừng. Vì thế, ngôn sứ Êdêkien đã phải nhắc lại cơn cuồng nộ của Thiên Chúa:
Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các người làm thịt; nhưng các ngươi lại không lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các người không làm cho mạnh. Chiên bệnh tật, các ngươi khong chữa cho lành. Chiên bị thương các ngươi không băng bó. Chiên đi lạc các ngươi không đưa về. Chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi thú dữ…
Vì thế, hỡi các mục tử, hãy nghe lời Đức Chúa. Ta lấy mạng sống Ta mà thề.- sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng-, bởi chiên của Ta bị cướp phá và biến thành mồi cho mọi dã thú vì thiếu mục tử, bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình, mà không chăn dắt đàn chiên cũa Ta, nên các mục tử hãy nghe Lời Đức Chúa, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên…Ta sẽ giải thoát các chiên khỏi miệng chúng, để chiên Ta không còn làm mồi cho chúng nữa.(Ed 34, 2-10)
Chiên hiểu tấm lòng từ bi nhân ái của Chủ Chăn, cũng như đặt hết niềm trông cậy, phó thác vào Chủ Chăn. Chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì không nhận biết tiếng người lạ. (Ga 10, 5) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy.( Ga 10, 10) Người làm thuê, vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, không thiết gì đến chiên.(Ga 10, 12-13) Tôi biết Chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.(Ga 10, 14)
4. Chủ Chăn luôn tìm các chiên khác đem về chung một đàn.
Người không chỉ hài lòng với chiên ngoan đang chăn dắt, mà còn sẵn lòng tìm kiếm những chiên khác còn bơ vơ, lạc loài, đem về chung đàn. Sứ vụ muôn thuở của Chủ Chăn Nhân Lành, là quy tụ lại muôn chiên tứ phương, hầu chúng đều được no thỏa trong đồng cỏ xanh tươi, được sống viên mãn. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ ghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đòan chiên và một mục tử. (Ga 10, 16)
5. Chủ Chăn hy sinh để cứu rỗi chiên
Người chẳng tiếc mạng sống, mà sẵn lòng chịu hy sinh, chịu khổ nạn, chịu chết đi, để cứu vớt chiên được sống, thoát khỏi kiếp trầm luân vĩnh viễn. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. (Ga 10, 10) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (Ga 10, 15)
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa gọi, mỗi khi con lỡ bước lạc bầy, để con tỉnh ngộ, nhận biết và đi theo Chúa luôn mãi.
Lạy Mẹ xin cho nhiều người mở lòng đón nhận tiếng Chúa mời gọi, để dâng hiến phục vụ tích cực Nước Chúa, cũng như nhắc nhở con luôn cộng tác vào việc chăm sóc Ơn Gọi. Amen.
24. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Chúa nhật thứ tư Phục sinh bao giờ cũng là Chúa nhật Chúa Chiên Lành.
Có bao giờ anh chị em và các bạn tự dặt cho mình câu hỏi này: Bạn là ai? Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tôi sẽ đi về đâu? Cuộc sống này có ý nghĩa gì?.....Có lẽ khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta sẽ cho rằng đấy là vấn đề xa lạ, trừu tượng, không ăn nhập gì đến cuộc sống hiện tại của tôi. Không xa lạ đâu. Có chăng là vì chúng ta quen sống thực dụng quá, cho nên chúng ta không để y đến thôi. Nhưng đấy lại là một câu hỏi rất căn bản. Hay nói một cách khác Chúa Giêsu là ai đối với tôi?
Và Ngài đã trả lời chúng ta trong Chúa Nhật 4 Phục Sinh nầy: "Ta là Mục tử tốt lành. Ta biết các chiên ta " ( x.Yn 10,14). Nhưng cái biết của Chúa Giesu không phải chỉ là cái biết thuần tuý, mà là cái biết của con tim và bằng con tim. Khi Chúa Giêsu nói rằng: " Tôi biết chiên của tôi ", thì đấy không phải chỉ là cái biết thuần tuý của lý trí mà là cái biết của tình yêu. Cái biết của một người không ngại chung chạ, gần gũi với những kẻ tội lỗi và những kẻ bị loại trừ ra khỏi xã hội để cảm thông, chia sẻ và cứu chữa họ. Cái biết của một ngươi cha đang đợi chờ dứa con đi hoang trở về. Cái biết của một người không cầm được nước mắt khi đứng trước cái chết của đứa con một bà goá thành Naim. Cái biết của một vì Thiên Chúa không ngại để quỳ xuống rửa chân cho đám học trò của mình như một tên đầy tớ vậy. Cái biết của một người chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì người khác và cho người khác được sống... Chính vì thế mà Ngài nói thêm: "Ta đến để cho chiên được sống và sống doi dào." (Ga 10,10)
Chúa Giêsu là đấng duy nhất đem lại cho ta câu trả lời trọn vẹn nhất.
Như vậy, anh chị em và các bạn hỏi tôi, làm sao tôi có thể cảm nhận được chức năng Mục tử của Chúa Giêsu đây, khi mà cuộc sống tôi có biết bao nhiêu là khó khăn từ vật chất cho đến tinh thần? Làm sao chức năng mục tử của Chúa Giêsu được tiếp nối trong lịch sử nhân loại và trong mọi hoàn cảnh cửa cuộc sống con người. Chúa Giêsu đã nghĩ đến điều đó từ lâu. Cho nên Ngài đã để lại trong Hội Thánh những con người có khả năng chia sẻ và tiếp tục sứ mạng mục tử ấy.
Đó là các Giám mục, các Linh mục. Đúng như thế. Các Ngài là những người được mời gọi sống theo tinh thần của Vị Mục Tử nhân lành để dẫn dắt đàn chiên Chúa hôm nay.
Sống tinh thần của Vị Mục Tử nhân lành còn là tất cả những ai có trách nhiệm với cộng đoàn của mình: Cha mẹ không phải là mục tử cho con cái mình sao? Các giáo viên lại chẳng phải là những mục tử cho học trò của mình à? Và trong mối hiệp thông của Hội Thánh, của con người, chúng lại không có trách nhiệm với người bên cạnh mình hay sao. Nói cách khác, chúng ta lại chang phải là mục tử của họ hay sao? Một lời thăm hỏi, một lời dộng viên khích lệ, một ánh mắt cảm thông, một con tim biết rung động và thổn thức, một hành vi chia sẻ, một cử chỉ bái ái yêu thương... Tất cả chẳng là gì so với người khác, nhưng đấy lại là con tim, ánh mắt, việc làm cho một thế giới đang thiếu vắng tình yêu và một xã hội đang đói tình người
Thưa anh chị em và các bạn, Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên nhân lành, nhân dịp xin anh chị em hãy chiêm ngắm lại chân dung của vị mục tử nhân lành Giêsu để chúng ta biến đổi cái nhìn và cách sống sao cho cuộc đời này được đẹp hơn cho mình và cho tha nhân.
25. Mục tử tốt lành & Kẻ làm thuê
(Suy niệm của John W. Martens - Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10,12-13).
Trong 4 Ezra 5,19, một bản văn khải huyền Do thái vào thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên, Ezra bị chất vấn bởi “Phaltiel, một thủ lãnh của dân” về việc ong có biết rằng “dân Ít-ra-en đã được ủy thác cho ông trong miền đất lưu đày không? Vậy hãy đứng lên và ăn chút bánh, đừng bỏ rơi chúng tôi như một người mục tử bỏ rơi đàn chiên trước sự tấn công của đàn sói dữ tợn”. Hình ảnh ở đây tương tự với hình ảnh người mục tử mà Tin mừng Gio-an đã viết, trong đó Đức Giê-su nói: “Ta là Mục tử tốt lành. Người mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên”.
Trong tác phẩm “Hãy để các trẻ em đến với Ta”, Cornelia Horn và tôi đã viết “Trình thuật về Người Mục tử tốt lành trong Tin mừng Gioan chương 10 đã phác họa cho chúng ta thấy một dung mạo thần học về Tình yêu của Đức Giê-su đối với dân của Ngài, thế nhưng lối ám chỉ về Tình yêu của Đức Giê-su lại được lấy từ những gì rất quen thuộc trong cuộc sống. Đức Giê-su không phải là một “kẻ làm thuê” (misthotos), nhưng là một người biết chăm sóc đàn chiên, một người dám hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên (Ga 10,11-15). Trái lại, những kẻ làm thuê thì sẽ làm gì khi sói dữ đến tấn công? Nó sẽ chạy trốn”.
Những kẻ làm thuê được Đức Giê-su xác định rõ ràng trong lối ám dụ này. Vậy nếu Đức Giê-su là Mục Tử tốt lành, vậy ai là kẻ làm thuê? Đó là những kẻ mà trong 4 Ezra mô tả, những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái đã không chăm lo cho đàn chiên như một người mục tử tốt lành. Một khi dùng thứ hình ảnh thực te trong đời sống nông nghiệp và chăn nuôi rất quen thuộc với dân chúng, hẳn dân chúng sẽ hiểu ngay lập tức, và lên án những kẻ chăn thuê.
Đức Giê-su chăm sóc, lo lắng cho dân chúng là đàn chiên, vì họ là chiên của Ngai và Ngài sẽ bảo vệ họ. Chuyện này thật hiển nhiên, tuy thế hình ảnh người mục tử này xem ra có vẻ kỳ lạ, khi Đức Giê-su nói: “Và Tôi sẽ hiến mạng sống mình vì đàn chiên”. Những con chiên có xứng đáng với việc này không? Đàn chiên có đáng để người mục tử hy sinh mạng sống của mình không? Nếu người mục tử chết vì đàn chiên, thì ai sẽ bảo vệ chúng? Hình ảnh này xem ra có sự phi lý nào đó trong việc Đức Giê-su hy sinh mạng sống vì nhan loại. Thật ra, sự hy sinh này chỉ thực sự có nghĩa nếu như nhờ đó mà đàn chiên sẽ được bảo vệ tốt hơn nữa.
Đức Giê-su dùng chính trường hợp này để nói về cái chết của Ngài, một cái chết sẽ “đưa về những chiên khác không thuộc về ràn này… Như thế, sẽ chỉ có một đàn chiên và một mục tử.” Đức Giê-su nói về việc hy sinh mạng sống của Ngài, nhưng “để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạmg sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.” Như vậy thoạt đầu, việc chết cho đàn chiên dường như để nhằm tới mục đích là chăm sóc đàn chien, thế nhưng đó cũng chính là lý do để cho đàn chiên được phát triển và lan rộng như ngày nay ở trên khắp thế giới.
Khi “các thủ lãnh trong dân và các kỳ mục” chất vấn Phê-rô để xem ông đã làm thế nào khiến người què được chữa lành; Phê-rô trả lời rằng chuyện đó là “do danh Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng mà các ông đã đóng đinh vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết. Chính Đức Giê-su là ‘viên đá bị các ong là thợ xây loại bỏ, nhưng lại trở thành đá góc tường’. Ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,8-12).
Vị mục tử tốt lành không chỉ cứu đàn chiên qua việc hy sinh mạng sống mình cho chúng, nhưng có khả năng làm cho chúng không còn là những con chiên nữa, mà “tất cả chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thật sự chúng ta là con Thiên Chúa… Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3,1-2). Tất cả chúng ta được cứu độ và trở thành con cái Thiên Chúa, nhưng mục tiêu tối hậu, một điều chúng ta không tưởng tượng ra được, là chúng ta trở nên giống như vị Mục Tử Tốt Lành.
Suy nghĩ: Trở thành chiên trong đàn chiên của Đức Giê-su có nghĩa là thế nào? Trở thành con cái Thiên Chúa có nghĩa ra sao?
26. Vị mục tử nhân lành
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Nhiều người đã nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của Ngài nhưng chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Câu hỏi “Ngài là ai” phải được đặt ra. Tuy nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ như vậy, nhưng họ vẫn nghi ngờ về thân thế, uy quyền và sứ mạng của Ngài.
Để nói lên sứ mạng của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người mục tử tốt lành. Người mục tử biết lo cho con chiên, tha thiết với đàn chiên, hiệp thông với đàn chiên, quên bản thân mình và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Đức Giêsu tự nhận lấy danh hiệu ấy cho mình khi Ngài nói với họ:”Ta là Mục tử nhân lành”(Ga 10,14). Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta như mục tử ở giữa đàn chiên. Sự hiện diện của Ngài không phải là sự hiện diện của một người lãnh đạo đầy tham vọng, cũng không phải là sự hiện diện của một người cầm đầu mong được tung hô, nhưng là sự hiện diện của một người mục tử sống chỉ vì đoàn chiên và chỉ lo cho đoàn chiên được nuôi sống và được sống dồi dào.
Chúa Giêsu là mục tử nhân lành tối cao, Ngài lo cho mọi con chiên, nhưng Ngài cũng muốn dùng con người làm mục tử thay mặt Ngài mà săn sóc cho đàn chiên như khi Ngài nói với thánh Phêrô: ”Hãy chăm sóc các chiên của Thầy”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 4,8-12
Sau khi Phêrô chữa cho người què từ mới sinh được lành bệnh, ngài cùng với ông Gioan bị điệu đến Thượng hội đồng Do thái về việc chữa lành người què và vì việc ấy đã phạm đến cấm kỵ không cho phép người tàn tật vào đền thờ.
Trước Thượng hội đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh Đức Giêsu, Đấng mà họ đã giết chết nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại.
Lợi dụng dịp này, Phêrô giảng về Đức Giêsu: Ngài là viên đá bị những người thợ xây loại bỏ, nhưng Thiên Chúa dùng Ngài làm viên đá góc. Trên trần gian này khó có một Đấng cứu độ nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô, nhờ danh Ngài mà mọi người được ơn cứu độ.
+ Bài đọc 2: 1Ga 3,1-2
Thánh Gioan nói đến mức độ vô cùng lớn lao của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu. Ngài nói về tình yêu tuyệt vời mà Thiên Chúa đã bầy tỏ cho chúng ta, bằng cách làm cho chúng ta trở nên những con cái của Ngài. Tình trạng tương lai của chúng ta sẽ được trở nên giống như Đức Giêsu vinh quang. Bài học này mời gọi chúng ta hãy vui lên trong tình trạng của mình, với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa.
+ Bài Tin mừng: Ga 10,11-18
Trong những người nghe Đức Giêsu giảng, có nhiều thính giả là người chăn chiên. Đức Giêsu muốn giới thiệu mình là mục tử nhân lành đối với đàn chiên. Ngài muốn so sánh và phân tích mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê.
* Người mục tử tốt lành có những đặc điểm này:
a) Thí mạng sống để bảo vệ đàn chiên.
b) Sống thông hiệp với đàn chiên: biết các chiên từng con một, và được các chiên biết.
c) Lo cho đàn chiên được no đủ và tăng thêm, lo tìm chiên lạc và đưa các chiên khác về cùng một đàn và cùng một chủ chiên.
* Kẻ chăn chiên thuê thì không tha thiết gì với đàn chiên, gặp nguy hiểm thì bỏ chạy, họ chỉ biết lo cho bản thân mình, để cho đàn chiên tan tác.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Ta là Mục tử nhân lành
I. MỤC TỬ TRONG THÁNH KINH
1. Trong Cựu ước.
Ngày xưa, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh kinh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Đấng Mục tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh vịnh đã hát lên:
Đức Giavê là Mục tử tôi,
Tôi không còn thiếu gì.
Dù phải đi qua thung lũng tối đen
Tôi cũng không hề lo sợ.
(Tv 23,1-4)
Đức Giavê là Chúa chăn dắt Israel. Đây là một hình ảnh được thành hình do kinh nghiệm đời sống du mục từ thời tổ phụ của Israel. Hình ảnh người chăn chiên đưa ra hai liên lạc giữa Giavê và Israel: Ngài vừa là Thủ lãnh của Israel, nhưng đồng thời lại là Bạn. Ngài có đủ uy quyền với Israel, và đủ quyền lực để bảo vệ Israel, nhưng đồng thời Ngài đối xử với Israel một cách hết sức nhân từ và tế nhị. Chính Ngài lo liệu việc chăm sóc đó (x. Tv 23).
Từ đó những nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Nhưng tiếc thay, có một số thủ lãnh thay vì lo cho đàn chiên, lại tác hại chúng, lợi dụng chúng cho mục đích riêng tư, làm cho chúng tan tác đáng thương hại. Khi điều này xẩy ra, tiên tri Ézéchiel đã nhân danh Chuá nói lên:
“Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi ! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên... Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng... Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi... Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng”(Ez,2-4,9-10,23).
2. Trong Tân ước
Đứng trước bối cảnh này, Đức Giêsu đã thổ lộ tâm tình khi Ngài nói:”Ta thương dân này, vì chúng như đàn chiên không người chăn dắt”(Mt 9,36; Mc 6,34). Vậy chúng ta phải đọc bài Tin mừng hôm nay trong bối cảnh này để hiểu lời tuyên bố của Đức Giêsu:”Ta là Mục tử nhân lành, sẵn sàng liều mạng vì đàn chiên... Chúng sẽ nghe tiếng Ta và chúng sẽ trở nên một đàn chiên dưới quyền một chủ chiên”.
Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà tiên tri Ezéchiel tiên báo. Giống như Đavít, người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con chiên lầm đường lạc lối. Nhưng Đavít chỉ là hình ảnh một người chăn chiên khác hoàn hảo hơn. Đó là Đavít mới (Gr 3,15; Ez 34,23t). Người chăn chiên hoàn hảo Thiên Chúa sai đến là Đức Giêsu Kitô.
II. ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Người Do thái thời Đức Giêsu thường có thái độ nghi ngờ về thân thế, việc làm, uy quyền và sứ mạng của Đức Giêsu. Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người chăn chiên nhân lành để họ thấy rõ uy quyền đích thực của Ngài. Ngài khẳng định:”Ta là Mục tử nhân lành”
Ta thấy có sự khác biệt giữa người chủ chăn và người chăn chiên thuê:
1. Người chăn chiên thuê:
Người chăn chiên thuê không phải là chủ đàn chiên nên không mấy tha thiết với đàn chiên, họ không dám hy sinh bảo vệ đàn chiên khi gặp nguy hiểm. Vì không có tình yêu tha thiết với đàn chiên nên họ cũng không sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, vất vả, họ trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng.
Đức Giêsu gọi những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái là những kẻ chăn thuê, họ chỉ lo lắng đến các tư lợi do chức vụ đem đến, chứ không tha thiết gì đến đàn chiên, vì vậy khi gặp nguy hiểm là họ chạy trốn để đàn chiên tản mát.
2. Người chủ chăn
Trái lại, người chủ chăn thương yêu đàn chiên, tha thiết với đàn chiên, không nghĩ đến ích lợi cho mình, sẵn sàng hy sinh cho đàn chiên bất chấp nguy hiểm. Người chủ chăn có ba đặc điểm sau đây:
a) Hiệp thông với đàn chiên:
Người chủ chiên biết các chiên, biết từng con một, và ngược lại chiên biết chủ. Đây là hành động hỗ tương. Biết một cách riêng biệt, từng con chiên một với các hoàn cảnh, nhu cầu, khát vọng của con chiên. Con chiên biết nhận ra tiếng của chủ chăn. Thật là những người bạn tri âm. Như thế sự biết hỗ tương này sẽ đưa đến một cuộc sống thân mật giữa hai bên. Đúng thế, chữ “Biết” của Gioan, không những bao hàm nghĩa trí tuệ, nhưng còn là sự hiệp thông cuộc sống dựa trên tình yêu và lý trí. Sự thông hiệp này đã có nơi Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu cũng sánh ví sự hiệp thông như thế giữa Ngài và các con chiên.
Truyện: Con mắt của vị hoàng đế
Đại tướng Marbot, trong một tập ký sự có kể lại: một hôm khi còn là thiếu úy, vua Napoléon sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Đó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế quân địch. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sống và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng giòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó báo hiệu cho bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa toả ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng Napoléon đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
Đôi mắt phượng hoàng của Napoléon đã xoá tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ võ, khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
Như người Mục tử nhân lành, Chúa cũng đã chăm chú theo dõi, và nhìn chúng ta như thể chỉ có mỗi người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa chăm sóc chúng ta như chăm sóc một đàn chiên trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Ngài đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này.
(Cử hành Phụng vụ CN và Lễ trọng, tr 136)
b) Qui tụ và hợp nhất đàn chiên
Người chủ chăn mở đường tìm lối cho những con chiên lạc trở về một đàn vì có những con chiên lầm đường lạc lối. Ngoài ra, còn muốn thu thập các con chiên khác qui tụ lại trong đàn chiên này là dân Israel, ám chỉ Giáo hội sau này, nói lên tính cách phổ quát của Giáo hội. Biểu tượng người chăn chiên nhân lành là một dịp để Chúa quảng diễn vai trò của Ngài hướng dẫn cả thế giới:”Ta còn những con chiên khác không thuộc về đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn... và sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Tất cả mọi người là con chiên của Chúa, chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và một Giáo hội duy nhất.
Truyện: Pho tượng Chúa chiên lành
Pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương La mã là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng:”Ta là môn đệ của một Mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.
Chúa Kitô chính là người Mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới.. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.
(Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm B, tr 70-71)
c) Thí mạng để bảo vệ đàn chiên.
Đoạn Kinh thánh này vạch ra nét tương phản giữa người chăn tốt và kẻ chăn xấu, người chăn trung thành và kẻ chăn bất trung. Người chăn ở Palestine phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về bầy chiên, nếu có sự gì xẩy ra cho chiên, người ấy phải trưng bầy bằng cớ để chứng minh mình không có lỗi. Luật pháp qui định: ”Nếu con vật bị thú rừng xé chết, người lãnh giữ phải đem nó ra làm chứng”(Xh 22,12). Ở đây muốn nói la kẻ chăn phải mang về một bằng cớ nào đó, để chứng minh rằng chiên ấy đã chết, và anh không thể ngăn chặn được cái chết ấy.
Với người chăn, liều mạng để bảo vệ bầy chiên là điều tự nhiên. Lắm khi họ còn phải làm nhiều điều hơn thế nữa để cứu chiên.
Truyện: Liều mạng cứu chiên
Trong quyển The land and the Book, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn cừu của chàng.
III. KITÔ HỮU CŨNG LÀ MỤC TỬ
1. Sứ vụ của Đức Giáo hoàng
Đức Giêsu đã trao phó trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Chúa khi Chúa nói với ông Phêrô tới ba lần:”Hãy chăm sóc chiên của Thầy”(Ga 21,15-17). Và sau khi Chúa về trời, thánh Phêrô trở nên vị lãnh tụ tối cao trong Giáo hội, vị Giáo hoàng đầu tiên đặt ngai tòa tại Rôma, các tông đồ và mọi tín hữu phải qui phục quyền hướng dẫn của Ngài. Giáo hoàng là vị đại diện Thiên Chúa ở trần gian.
Truyện: Quo vadis?
Dưới thời bạo chúa Néron bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao nhiêu tín hữu đã chết dưới tay ông bạo chúa điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục hướng dẫn đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
- Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?
Chúa Giêsu trả lời:
- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên.
2. Sứ vụ các Giám mục, Linh mục
Theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, một số ít người trong dân Chúa được gọi, được chọn để đóng vai người mục tử của cộng đoàn. Đó là các Giám mục. Linh mục tức các thừa tác viên có chức thánh. Công việc được giao cho các vị, chính là việc chăn dắt, chăm lo cho đoàn chiên của Thiên Chúa. Tác vụ của các vị là làm sao cho đoàn chiên chẳng những được an toàn mà còn được ăn uống no nê, béo tốt. Trách nhiệm ấy thật cao cả nhưng cũng thật khó khăn và nặng nề. Cao cả vì các vị phải hiện-tại-hoá tấm lòng và cách sống yêu thương và hy sinh xả kỷ của Chúa Giêsu và của Thiên Chúa đối với cộng đồng anh chị em được giao phó cho các vị. Khó khăn và nặng nề vì các vị vẫn là những con người phàm trần với nhiều yếu đuối và đam mê như mọi người khác.
Nhìn vào thực tế, một thực tế không thể chối cãi được và cũng rất bình thường, chúng ta thấy các vị chủ chăn có một vai trò quan trọng trong đời sống thiêng liêng của một cộng đoàn. Nhìn vào thực tế chúng ta cũng thấy rõ là không phải tất cả các vị chủ chăn đều có được tấm lòng yêu thương và cách sống hy sinh quên mình vì đoàn chiên. Vẫn còn đó, những ích kỷ, nhưng vụ lợi, những hưởng thụ không chính đáng ! Vẫn còn đó, những lạm dụng danh nghĩa, những tự tôn tự đại ! Vẫn còn đó những ngại hy sinh, những cách phục vụ nửa chừng nơi các vị chủ chăn của chúng ta.
Nhưng cũng không thiếu gì những vị mục tử hy sinh vì đàn chiên, những gương lành sáng chói còn ghi trong sử sách. Một Gioan Vianney đã tô điểm sáng chói cho khuôn mặt vị Mục tử nhân lành tối cao ! Chính vì thế mà Giáo hội mới tha thiết mời gọi tất cả mọi Kitô hữu cầu nguyện cách đặc biệt cho các vị, để các vị trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành. Không có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, không ai làm được những chuyện “ngược đời” mà Phúc âm đòi hỏi.
3. Sứ vụ của mọi Kitô hữu
Mọi người đã được chịu phép Thánh tẩy đều được tham gia vào ba chức năng của Chúa Kitô, đó là: chức năng tư tế, chức năng tiên tri và chức năng cai trị. Nhưng theo tư tưởng của Đức Kitô thì “Cai trị là phục vụ”. Ai mà không có quyền phục vụ? Ai có thể nói là mình không thể phục vụ được trong bất cứ một lãnh vực nào hay một hoàn cảnh nào?
a) Trong đời sống Kitô hữu nói chung
Nhìn sâu hơn nữa vào tinh thần Phúc âm, chúng ta phải quả quyết rằng: không chỉ có các thừa tác viên có chức thánh mới có sứ vụ mục tử, mà mọi Kitô hữu lớn nhỏ, nam nữ đều được tham gia vào sứ vụ chăm sóc của Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, bí tích Thánh Tẩy đã khiến chúng ta thành chi thể của Thân Mình Mầu nhiệm mà Chúa Kitô là Đầu. Là chi thể, chúng ta mang trong mình tư cách, tính chất, sứ vụ của Đầu. Nếu Đức Giêsu là Mục tử thì mọi Kitô cũng đều là người chăm lo cho anh em là chi thể của Thân mình
b) Trong đời sống gia đình nói riêng
Gia đình được gọi là Hội thánh tại gia. Trong Hội thánh lớn hay nhỏ đều phải có tổ chức, phải có đầu có cuối như người ta thường nói: ”Kim chỉ phải có đầu”. Chúa Kitô đã trao cho thánh Phêrô nhiệm vụ coi sóc Hội thánh toàn cầu, thì Ngài cũng trao cho các Giám mục, rồi đến Linh mục nhiệm vụ chăm sóc Hội thánh tại địa phương là Giáo phận, giáo xứ.
Như vậy, Chúa cũng trao cho cha mẹ nhiệm vụ chăm sóc gia đình – một Hội thánh tại gia – để cha mẹ thi hành sứ vụ mục tử đối với con cái cũng như con cái có sứ vụ chăm lo cho cha mẹ; vợ có sứ vụ mục tử đối với chồng và chồng có sứ vụ mục tử đối với vợ; anh em chị em có sứ vụ mục tử đối với nhau và cứ thế mà rộng ra toàn xã hội và thế giới: mọi người có sứ vụ chăm lo cho nhau, vì mọi người là con cái của Thiên Chúa, đều là anh chị em của nhau, đều thuộc về một ràn chiên duy nhất của Chúa Giêsu Kitô.
4. Sứ vụ hiệp nhất của Kitô hữu
Đức Giêsu muốn qui tụ tất cả các chiên vào trong một đàn chiên, dưới sự hướng dẫn của một Chúa chiên. Nỗi thao thức của Đức Giêsu trước khi vào cuộc tử nạn là cho mọi người hiệp nhất nên một. Tâm tình này đã được Đức Giêsu thổ lộ trong bữa Tiệc ly:”Xin cho chúng hiệp nhất nên một”(Ga 17,23). Nhưng sau khi Chúa về trời rồi, Hội thánh vẫn còn chia rẽ. Hội thánh được ví như một tấm vải bị xé ra nhiều mảnh, cần phải được nối kết lại.
Công đồng Vatican II tha thiết mong mỏi tái lập sự hiệp nhất giữa tất cả các môn đệ của Chúa Kitô, nên muốn cung ứng cho mọi người Công giáo sự trợ lực, đường lối và phương sách để họ có thể đáp ứng lời mời gọi và ân sủng của Thiên Chúa (Sắc lệnh về hiệp nhất, số 1).
Hàng năm Giáo hội tổ chức tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất từ ngày 18-25 tháng giêng. Tuần lễ hiệp nhật này là sáng kiến của một mục sư Anh giáo ở New York, ông Wattson và người bạn của ông là ông Spencer Jones ở Luân đôn. Kết quả đầu tiên của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất này là sự trở lại Công giáo của chính mục sư Wattson, sau là Linh mục Paul Francis, đồng thời cả cộng đoàn (Association de Réparation) của ông lập cũng trở lại Công giáo. Đức Piô X đã chấp thuận tuần lễ hiệp nhất này trong Giáo hội.
27. Hiến mạng vì đoàn chiên
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Tại San Salvador ngày 24.3.1980, Đức Tổng Giám Mục Oscar Romeno đang sốt sắng dâng Thánh Lễ, thì bỗng nhiên một phát súng từ một kẻ sát nhân nào đó, bay tới trúng trái tim ngài, khiến ngài tắt thở ngay tại chỗ. Chỉ trước đó vài phut, ngài đã giảng một bài thật hùng hồn về niềm hy vọng tràn đầy vào hạnh phúc vĩnh cửu của con cái Chúa; trong đó, ngài tha thiết khuyên Giáo Dân hãy hy sinh phục vụ tha nhân theo mẫu gương hy sinh bác ái của Chúa Kitô.
Sau lúc đọc lời truyền phép, biến đổi bánh rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa, ngài được tràn đầy sung sướng thốt lên những lời sau hết này: "Chớ gì Thân Thể đã chịu sát tế và Máu Thánh đã đổ ra vì nhân loại, tăng thêm sức mạnh cho thân xác và khí huyết chúng ta, để chúng ta có thể hy sinh bản thân chúng ta, chịu đau khổ và tử nạn như Chúa Kitô, để có thể trao tặng cho Dân Chúa một viễn tượng công lý và Hòa Bình".
Từ ngày Đức Tổng Giám Mục Romeno tranh đấu đòi nhân quyền cho Giáo Dân của ngài đang bị áp bức, ngài đã quá biết rằng tính mạng ngài đang bị đe dọa. Dầu vậy, Ngài vẫn cương quyết hô hào dân chúng chống lại sự áp bức bất công và đòi quyen tự do cho con người. Một lần kia đầy lòng tin tưởng ngài đã quả quyết với các phóng viên báo chí rằng: "Mặc dầu kẻ thù có giết chết tôi, tôi cũng sẽ "Chỗi dậy" giữa dân của tôi". Bởi vì Đức Tổng Giám Mục rất thương mến Giáo Dân của Ngài tại San Salvador, và chính bởi thế, ngài đã chịu chết để bênh vực quyền lợi cho họ. Ngài đã thực sự làm ứng nghiệm nơi bản thân ngài lời Chúa phán trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe: "Ta là Mục Tử nhân lành, Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì Đoàn Chiên... Ta biết chiên của Ta và Ta hy hiến mạng sống Ta vì chiên của Ta".
I. MẪU GƯƠNG CỦA CÁC VỊ CHỦ CHĂN
Chúa Kitô tự xưng mình là Mục Tử Nhân Lành. Chúa đã dùng một hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống người Do Thái: Đó là hình ảnh người chăn chiên, để mặc khải cho chúng ta nhận biết tình thương của Thiên Chúa đối với nhân loại. Vì thương yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người, như một thụ tạo đặc biệt giống hình ảnh Chúa và giống bản tính Người. Chúa còn quan phòng, săn sóc, bảo vệ, che chở và dưỡng nuôi; cung cấp mọi nhu cầu cần thiết để chúng ta sống mà phụng sự Người, hầu có thể đạt tới cùng đích tối hậu là hạnh phúc vĩnh cửu Người đã sắm sẵn cho chúng ta trên Quê Trời.
Sau khi nguyên tổ phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa, Người đã sai Đấng Cứu Thế đến trần gian, như hiện thân của lòng nhân từ, như Mục Tử Nhân Lành chăn dắt Đoàn Chiên của Người là tất cả chúng ta, ban lời giáo huấn làm lẽ sống hướng dẫn cuộc đời, rộng tay ban phát mọi ơn lành. Sau cùng, Người đã hiến chính mạng sống mình để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, đền phạt tội lỗi chúng ta, lập nên Giá Ơn Cứu Độ cho chúng ta và cho tất cả những ai thành tâm thiện chí, muốn hưởng nhờ công Ơn Cứu Độ của Người.
Chúa còn thiết lập Giáo Hội, chỉ định Hàng Giáo Phẩm như các vị Chủ Chăn, trao quyền chăn dắt Đoàn Chiên Chúa, cai quản, giáo huấn và thánh hóa Đoàn Chiên Chúa trao phó cho các Ngài, đặt mình như mẫu gương trọn hảo cho các ngài noi theo bắt chước trong khi thi hành sứ mạng Ngai đã trao phó.
II. CHỦ TRƯƠNG CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Chính vì thấu hiểu giáo huấn của Chúa Kitô, nên Giáo Hội Công Giáo chúng ta đã thiết lập luật độc thân cho Hàng Giáo Phẩm, để các ngài được theo sát mẫu gương của Thầy Chí Thánh, Đấng thiết lập Giáo Hội, hy hiến tất cả bản thân và cả cuộc sống để phục vụ Đoàn Chiên đã được ủy thác cho các ngài. Nhưng ngày nay có nhiều người đã đưa ra những luận điệu có vẻ xây dựng, đề nghị cho các Linh Mục được lập gia đình giống như các Mục Sư Tin Lành, để cứu vãn tình trạng thiếu ơn gọi, khan hiếm Linh Mục, vì sợ rằng mai ngày không còn đủ Tông Đồ làm việc cho Chúa, thiệt hại cho các linh hồn.
Nhưng chúng ta hãy nghe thuật lại những phức tạp sau đây, đã được chính các vị Chủ Chăn tiết lộ về tình trạng của các giáo phái có luật cho phép Linh Mục lập gia đình và Mục Sư có đôi bạn.
Đây là những nhận định của các vị hữu trách trong các giáo phái, đã chân thành chia sẻ với các vị Chủ Chăn Công Giáo trong một phiên họp thân mật:
1. Mục Sư Jungmann nói: "Qúi vị đừng nghĩ rằng chỉ có Giáo Hội Công Giáo của quí vị gặp khủng hoảng, bên Tin Lành chúng toi còn gặp khủng hoảng nặng hơn bên quí vị rất nhiều.
2. Trong một cuộc họp mặt giữa Linh Mục Công Giáo và Mục Sư Tin Lành, một Mục Sư phát biểu về đời sống độc thân: "Tôi bắt đầu hiểu giá trị đời sống độc thân nơi Giáo Hội Công Giáo. Tôi cảm thấy các Cha là anh em với nhau, và tạo nên một gia đình thực sự, chúng tôi không thể nói được như thế đối với chúng tôi... Nếu một Mục Sư nào đó thành công, tôi không sung sướng gì; nếu một Muc Sư nào đó thất bại, tôi cũng không đau xót gì với ông. Giữa chúng tôi không có bầu khí gia đình, họa chăng cũng chỉ có giữa vợ chồng chúng tôi thôi".
3. Đức Tổng Giám Mục Công Giáo ở Beyrouth (Liban) tâm sự: "Các Đức Cha hãy cố giữ lấy kho tàng quí báu của Giáo Hội Latinh, tức là luật Linh Mục độc thân. Tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này; vì Giáo Phận tôi, một Giáo Phận theo nghi lễ Đông Phương: Có Linh Mục độc thân và co Linh Mục lập gia đình. Lắm vấn đề phức tạp mà quí vị không thể tưởng tượng được".
4. Giáo Hội Công Giáo chúng tôi cũng như bên Chính Thống Giáo luôn nuôi ở tòa Giám Mục vài Cha sống độc thân, để dự phòng sau này làm Giám Mục kế vị chúng tôi, vì Giáo Luật đòi buộc Giám Mục phải sống độc thân.
5. Lại còn phức tạp do luật buộc Linh Mục chỉ được kết hôn một lần trước khi chịu Chức Thánh. Có những trường hợp Linh Mục mới có 30 hoặc 35 tuổi, vợ ông đã chết, tay bồng tay bế, lũ con nheo nhóc, không ai nuôi dưỡng, thật nan giải.
6. Trong việc mục vụ càng phức tạp hơn: Mặc dầu tập quán Linh Mục lập gia đình đã có từ xưa truyền lại, Giáo Dân vẫn quí mến Linh Mục độc thân hơn, các ngài dù ở xa hoặc đi đến đâu, họ cũng tìm cách gặp gỡ, để xưng tội và xin lễ.
7. Linh Mục có gia đình chỉ phục vụ trọn vẹn ngày Chúa Nhật, còn các ngày khác họ phải lo làm ăn để nuôi sống gia đình. Như thế làm sao tiếp xúc được với mọi người.
8. Thuyên chuyển một Linh Mục có gia đình thật là một vấn đề khó khăn. Được lệnh ông sẽ bảo: "Con sẵn sàng, nhưng vợ con mắc làm ở sở kia, các cháu lại đang học ở trường nọ, gia đình con không cùng đồng tâm đến địa phương đó".
9. Có khi Linh Mục thì tốt, nhưng bà vợ hoặc con cái chưa nói là xấu, chỉ không được Giáo Dân trong xứ có thiện cảm, thì cũng đủ để họ ghét luôn cả Linh Mục, rồi dan dà xa việc đạo. Trường hợp mà xảy ra thù hằn thì còn mất cả Đức Tin nữa. Nếu thuyên chuyển Linh Mục ấy không được, thì cha truyền con nối, tiếp tục giữ Giáo Xứ từ thế hệ này qua thế hệ khác, làm cho cả Xứ Đạo phải chịu sự áp bức của một gia đình, nên đời sống đạo hạnh sa sút không thể lường được.
Kết Luận
Là con cái Chúa và Giáo Hội, chúng ta hãy nên giống Chúa sẵn sàng hy sinh tư lợi, tư kỷ, tư kiến, để hy hiến bản thân phục vụ tha nhân, đem Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho họ, an ủi những người sầu khổ, nâng đỡ kẻ túng thiếu nghèo nàn, cầu nguyện cho những người bị bách hại, tha thứ cho kẻ chống đối mình, nâng dậy kẻ yếu đuối sa ngã.
Đặc biệt cau cho mọi thành phần của Giáo Hội được luôn trung kiên noi theo gương Chúa Kitô, để Hàng Giáo Phẩm, Giáo Sĩ giữ vững truyền thống luật độc thân thánh thiện của chức Linh Mục, hầu các Vị Chủ Chăn có thể chu toàn sứ mạng chăn dắt Đoàn Chiên và nên gương mẫu đời sống trong sạch, thánh thiện cho Đoàn Chiên Chúa trao phó cho các Ngài.
28. Những con dê lột xác thành chiên
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Đúng như đã nhận định và chia sẻ ở bài suy niệm Phúc Âm tuần trước, “trong ba tuần đầu của Mùa Phục Sinh, Giáo Hội cố ý nhấn mạnh đến chủ đề ‘Thày là sự sống lại’, và bốn tuần còn lại của Mùa Phục Sinh Giáo Hội nhấn mạnh đến chủ đề ‘Thày là sự sống’”, mà ở Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh năm B nói riêng và cả chu kỳ 3 năm nói chung, Giáo Hội đã chọn bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan nói về vị Chủ Chiên Nhân Lành, “người mục tử nhân lành thì thí mạng sống mình vì chiên”. Phải chăng vì chủ đề của bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Phục Sinh này liên quan đến vai trò của Vị Chủ Chiên Nhân Lành (ở cả ba chu kỳ A, B và C) như thế mà Giáo Hội cũng đã cử hành Ngày Thế Giới Ơn Gọi lần thứ 40 vào chính Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh này, cũng như Giáo Hội đã bắt đầu cử hành Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh từ năm 2000 như là Ngày Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa, theo Lời Chúa Giêsu yêu cầu qua chị Thánh Faustina, vì ý nghĩa của bài Phúc Âm của Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh hợp với những gì được diễn tả nơi tấm ảnh Chúa Tình Thương (xin xem lại bài chia sẻ Chúa Nhật Hai Phục Sinh)?
Trong bài Phúc Âm hôm nay, trước hết, chúng ta lại thấy Chúa Giêsu tiên báo xa xa về Cuộc Vượt Qua của Người, chẳng những ở câu “người mục tử nhân lành hiến mạng sống vì chiên”, hay “Tôi hiến mạng sống mình vì những con chiên ấy”, mà còn rõ hơn nữa ở câu cuối cùng của bài Phúc Âm: “Tôi tự ý bỏ mạng sống. Tôi có quyền bỏ nó đi và có quyền lấy nó lại”. Theo lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh Năm B thì Người chính là Vị Mục Tử Nhân Lành như chính Người đã tự nhận và công bố ở ngay câu đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay: “Tôi là mục tử nhân lành”. Người “là mục tử nhân lành”, trước hết, bởi Người thí mạng sống mình vì chiên, và sau nữa, bởi Người biết chiên của Người cũng như chiên của Người biết Người. Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô thực sự là biến cố chẳng những cho thấy Người thí mạng sống vì chiên mà còn cho thấy Người đi trước chiên và biết chiên, cũng như Người được chiên biết: “Thày đi để dọn chỗ cho các con, để rồi Thày sẽ trở lại để đưa các con đi với Thày, để Thày ở đâu các con cũng ở đó. Các con biết Thày đi con đường nào rồi” (Jn 14:3-4).
Hành động Người bảo vệ chiên khi đám sói xông đến tấn công khi Thày trò của Người sau Bữa Tiệc Ly đang ở trong Vườn Cây Dầu bấy giờ không phải đã ứng nghiệm những gì Người nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay về vị mục tử nhân lành hoàn toàn khác với thành phần chăn chiên thuê thấy sói đến thì bỏ chiên chạy giữ mạng hay sao? Phải, chính vì Người thực sự là Mục Tử Nhân Lành chứ không phải là kẻ chăn thuê mà Người “đã yêu thương đến cùng” (Jn 13:1) chiên của Người, yêu thương như chính bản thân Người, đến nỗi chiên trở thành mạng sống của Người, quí như mạng sống của Người. Đó là lý do, khi đám sói được Hội Đồng Do Thái sai phái với gậy gộc giáo mác xông tới, như Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, Người đã nói: “Nếu thực sự Tôi là người quí vị muốn thì hãy để những người này đi” (Jn 18:8).
Như thế, căn cứ vào nguyên tắc hay tinh thần của Vị Mục Tử Nhân Lành mô phạm này thì những mục tử nào không dám chết cho chiên, không biết chiên mình là ai và như thế nào, trái lại, còn bị chiên xa lánh v.v. thì quả thực chưa phải hay không phải thực sự là người mục tử nhân lành, nếu không muốn nói theo kiểu diễn tả của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm, là những tay chăn thuê, chỉ làm vì lợi lộc của mình vậy thôi. Thực tế đã cho thấy rõ như vậy. Nếu bất cứ lúc nào vị linh mục tìm mình là các vị bắt đầu thụt lại đi đằng sau chiên, chứ không còn hiên ngang và hăng say đi trước chiên (x Jn 10:4), để đương đầu với những nguy hiểm có thể xẩy ra cho chiên. Thái độ đi trước chiên chẳng những tiêu biểu cho đời sống gương mẫu của chủ chiên, đáng cho chiên noi theo, mà còn là hành động chứng tỏ chủ chiên thực sự biết rõ chiên của mình, biết trước chiên cần gì và muốn gì để kịp thời đáp ứng và hướng dẫn chiên đến những nơi hợp với chiên, một hành động cũng cho thấy vị mục tử tỏ ra hoàn toàn tin tưởng chiên, không sợ chiên ở đằng sau tẩu thoát, vì “chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27).
Nếu thành phần được thay thế Vị Mục Tử Nhân Lành này chăn sóc chiên của Người phải làm sao phản ảnh Người bao nhiêu có thể, như trường hợp của tông đồ Phêrô được Thày trao cho trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Người đã được “dự phần” (Jn 13:8) với Người trong việc hiến mạng sống mình vì chiên thế nào (x Jn 21:15-19), thì hàng giáo sĩ mục tử Công Giáo cũng phải sẵn lòng hiến mạng vì chiên mới có thể đắc lực phục vụ chiên. Đây là một trong những lý do sâu xa cho thấy linh mục Công Giáo cần phải sống độc thân mới có thể hoàn toàn dấn thân phục vụ đàn chiên của mình một cách vô tư, tận tuyệt, đến dám thí cả mạng sống của mình.
Khi các vị mục tử Công Giáo, linh mục hay giám mục, dám liều mạng sống mình vì chiên, các vị đã thực sự trở thành một Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, ở chỗ, các vị đã tiến đến chỗ đồng hóa bản thân mình với lời các vị truyền phép trên bàn thờ: “Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con”. Khi đọc lời truyền phép này lúc cử hành Hy Tế Thánh Thể, các vị đóng vai trò Chúa Kitô Thượng Tế, tác hành “nhân danh Chúa Kitô”: chữ “Ta” trong lời truyền phép đây là Chúa Kitô; nhưng khi các vị hiến mạng sống vì chiên, các vị trở thành Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, được hoàn toàn đồng hóa với Người, đến nỗi, chữ “Ta” trong lời truyền phép có thể được hiểu là chính bản thân của các vị. Khi các vị hoàn toàn sống cho chiên, thậm chí chết vì chiên, thì các vị hiện thực những gì Chúa Kitô truyền cho các vị làm “mà nhớ đến Thày”, ở chỗ, các vị chẳng những “làm” bánh và rượu trên bàn thờ biến thể thành Mình và Máu của Người, các vị còn “làm” cho cuộc hy hiến của Chúa Kitô được sống động tái diễn nơi cuộc đời của các vị nữa, qua việc các vị biến Mình và Máu của Người thành mình và máu của các vị.
Tuy nhiên, thành phần được Vị Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống cho đây là thành phần nào? Dân Do Thái? Dân Ngoại?? Giáo Hội??? Bởi vì, những lời Chúa Kitô nói trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy tính cách khác biệt của đàn chiên của Người: “Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi, như Cha biết Tôi và Tôi biết Cha; Tôi sẽ hiến mạng sống mình vì những con chiên ấy. Tôi còn những con chiên khác chưa thuộc về đàn này. Tôi phải dẫn dắt chúng nữa, và chúng sẽ nghe thấy tiếng Tôi. Sẽ chỉ có một đàn chiên và một vị chủ chiên duy nhất”. “Những con chiên ấy” và “những con chiên khác” đây là thành phần nào? Nếu “những con chiên ấy” là dân Do Thái thì “những con chiên khác” đây là Dân Ngoại. Vì sự kiện “sẽ có một đàn chiên và một vị chủ chiên duy nhất” đây mới xẩy ra việc dân Do Thái cuối cùng sau khi đã đủ số Dân Ngoại sẽ trở lại nhận biết Chúa Kitô, đúng như lời tiên báo của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô (x. Rm 12:25-26). Thật ra chiên đây, nói chung, là tất cả những ai nhận biết Chúa Kitô.
Trái lại, những ai không nhận biết Chúa Kitô thì không phải là chiên của Người, như Người đã khẳng định với dân Do Thái: “Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi đều làm chứng cho Tôi, nhưng quí vị không chịu tin vì quí vị không phải là chiên của Tôi” ( Jn 10:25-26). Như thế, kể cả những con chưa thuộc về đàn, có thể là những con chiên Dân Ngoại, hay là những con chiên tội nhân nói chung, kể cả con chiên tội nhân Do Thái, tự thâm tâm họ, nếu thành tâm thiện ý, vào một lúc nào đó, vẫn có thể nhận ra sự thật, vẫn có thể nghe thấy tiếng của Người và trở về cùng Người, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô ngoại lai (x Jn 4:29), hay như trường hợp của trưởng ban thu thuế Do Thái Giakêu lùn (x Lk 19:1-10). Sự kiện “sẽ nghe thấy” trong lời Chúa Giêsu nói về một số con chiên tương lai của Người đây cho thấy dù còn là Dân Ngoại hay còn là một tội nhân đi nữa, con người vẫn có thể là chiên của Chúa Kitô và đã được gọi là chiên của Người rồi, vì thành phần chiên này có khả năng nghe được tiếng của vị chủ chiên mình, có khả năng nhận biết Người. Có những con chiên cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mới nghe được tiếng của vị chủ chiên và đã nhận biết Người để ngỏ ý muốn trở về với Người, như những trường hợp đã xẩy ra và được kể đến trong bài suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật V Mùa Chay Năm B, bài Phúc Âm nói về lời Chúa Giêsu phán: “Khi nào Tôi bị treo lên, Tôi sẽ kéo mọi sự lên cùng Tôi”. Bởi thế, những ai tự cho mình là công chính như thành phần Pharisiêu đạo đức giả hình hãy coi chừng trước những con dê tội nhân, những con dê một lúc nào đó lột xác trở thành những con chiên trước mặt Chúa Trời!
29. Tôi là mục tử nhân lành
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Ga 10: 11-18: Hiến tặng mạng sống, đó là bằng chứng về một tình yêu chân chính...
Hiến tặng mạng sống, đó là bằng chứng về một tình yêu chân chính. Trên thế giới, không thiếu những con người, biết đâu chính là anh là chị, vẫn âm thầm làm những hành vi anh hùng hầu duy trì sự sống cho kẻ khác. Những con người ấy đúng là "mục tử nhân lành", đang họa lại cái mẫu Đức Kitô, Mục tử nhân lành. Hôm nay, toàn thể Họi thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Lời Chúa của "Chúa nhật Chúa Chiên Lành" năm nay đặc biệt nêu bật khía cạnh hy sinh: Người mục tử tốt hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Chúng ta cầu nguyện để Thiên Chúa ban thêm cho Họi thánh những mục tử "như lòng Ngài mong ước".
I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 10,11-18
Trong truyền thống Cựu ước, hình ảnh mục tử và con chiên là một hình ảnh quá quen thuộc để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài tuyển chọn, tức Israel. Khi Đức Giêsu nói: "Tôi chính là Mục tử nhân lành" (cc. 11.14), thì lời Thiên Chúa hứa đã nên hiện thực, nhưng vượt quá mọi chờ đợi. Đức Giêsu làm điều mà không mục tử nào làm, cho dù là mục tử tốt: "hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (điều này được nhắc lại 5 lần trong bản văn: cc. 11.15.17.18 [2x]). Giữa Đức Giêsu và đoàn chiên, có một sự hiểu biết hỗ tương chứng tỏ một dây liên kết rất thân tình giữa Người và đoàn chiên (c. 14), cũng như giữa Người cùng đoàn chiên với Chúa Cha (cc. 15.18).
Các lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa các độc giả đến chỗ có một cái nhìn rộng lớn về công trình của Đức Giêsu: mầu nhiệm Vượt qua và sự hy sinh chính bản thân Người.
ª Người mục tử đích thật (11-13).
Đức Giêsu là "Mục tử nhân lành", cũng có nghĩa là "Mục tử xinh đẹp". Điểm này gợi ý rằng Đức Giêsu không chỉ là người làm việc có hiệu năng (điều hành) nhưng Người còn có một nhân cách xinh đẹp toàn diện và duyên dáng hấp dẫn. Cộng với tài lãnh đạo đầy uy lực và hiệu năng của Người, điều làm nên tư cách mục tử nhân lành của Người chính là tình yêu và khả năng đồng cảm của Người.
Người có một cảm thức về trách nhiệm: "các chiên thuộc về Người" (x. c. 12). Chính vì thế, Người đáng tin cậy, và sẽ chu toàn nhiệm vụ hết sức mình. Vào thời Đức Giêsu, người ta có thể nói "nghề chăn chiên" là một "ơn gọi" chứ không chỉ là một kế sinh nhai. Một người mục tử như thế thì không có mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên ; buổi sáng, khi thức dậy, người ấy vui sướng tìm đường đến với đoàn chiên. Còn những ai làm mục tử chẳng đặng đừng, họ không coi trọng trách nhiệm đối với đoàn chiên, họ chỉ là "người làm thuê" (c. 12). Ngược lại với người làm thuê, người mục tử nhân lành coi các con chiên như chính mình nên cũng không chờ đợi được trả công. Người nào làm việc chỉ để được trả lương dựa trên công việc của mình thì chỉ nghĩ đến tiền bạc, và khi không có tiền bạc hay thứ tương tự bù lại, thì họ bỏ việc. Còn ở đâu có cảm thức về sự "thuộc-về", ở đó cũng có tình yêu, và ở đâu có tình yêu, ở đó người ta vui sướng làm việc dù không được trả công.
Động lực căn bản hướng dẫn người mục tử nhân lành là tình yêu, và người nào yêu thì trước tiên muốn ban tặng, chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là sẵn sàng hy sinh thậm chí cả mạng sống mình (x. Ga 15,13).
Sự dấn thân không biên giới của người mục tử nhân lành nhằm đưa lại sự sống: "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (c. 10). Sự dấn thân này không có giới hạn: cách thức Đức Giêsu làm việc để có sự sống là Người ban tặng chính sự sống của Người: "Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (c. 11). Người mục tử đích thực không ngần ngại chấp nhận những phiêu lưu, rủi ro, chấp nhận hy sinh cả mạng sống, để cứu con chiên khỏi bất cứ mối nguy hiểm nào đang đe dọa chúng. Điều này có nghĩa là người mục tử nhân lành không tháo lui, cho dù khi mạng sống của mình bị đe dọa. Người mục tử nhân lành yêu thương con chiên hơn chính mình, và tình yêu này thúc bách Người làm mọi sự cho con chiên.
ª Người mục tử ưu việt (14-18).
Đến đây, đề tài được đào sâu hơn nữa: phân đoạn này mô tả vẻ đẹp nơi nhân cách, hoặc đúng hơn, của linh đạo của người mục tử nhân lành, bí mật thâm sâu của Người, để trả lời cho các câu hỏi: Hy sinh mạng sống nghĩa là gì? Sự sống này hệ tại điều gì? Nó đưa tới đâu? Sự hiến mình của người mục tử dựa trên nền tảng nào? Nói cách khác, phân đoạn này triển khai nội dung của mối tương quan của người mục tử nhân lành với đoàn chiên.
Một tương quan đầy say mê (cc. 14-15). Tương quan của người mục tử nhân lành với con chiên là một tương quan không lạnh lùng, về thể lý, vô ngã. Trái lại nó mang dáng vẻ một tương quan thân ái nhất, riêng tư nhất: tình hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 1,1-3 và 1,18): "Như Chúa Cha biết Tôi…" (c. 15). Thái độ của Đức Giêsu mang dấu ấn là tương quan của Người với Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Con biết nhau sâu xa, sống một cuộc sống trong tin tưởng lẫn nhau, trân trọng nhau, yêu thương nhau thắm thiết. "Tôi biết chiên của Tôi…" (c. 14): Nếu tương quan của Đức Giêsu với chúng ta là kiểu này, chúng ta có thể hiểu rằng tương quan của người mục tử là nồng nàn, say mê, thắm thiết. Và nếu đó là cách Người ở với chúng ta, thì chúng ta cũng phải quan hệ với Người như thế: "chiên của Tôi biết Tôi" (c. 14b). Tác giả nói đến "biết" thay vì tình yêu, bởi vì "tình yêu" hệ tại việc "biết" riêng. Đối với Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành, chúng ta không phải là những con số ; Người biết lịch sử đời ta, các vấn đề, các khiếm khuyết của chúng ta - tất cả các đặc điểm và phẩm chất của chúng ta. Bởi vì Người biết chúng ta, Người yêu thương chúng ta. Điều này có nghĩa là Người chấp nhận chúng ta trong hiện trạng, và đưa chúng ta vào hiệp thông trọn vẹn với Người. Nhưng cần phải thấy mặt bên kia: đối với chúng ta, "Giêsu" không được chỉ đơn giản là một cái tên ; chúng ta phải càng ngày càng biết Người hơn, như "những con chiên tốt, đẹp", và phát triển một tương quan với Người, một tương quan mang dấu ấn là một tình yêu sâu sắc và trung thực.
Tương quan với Đức Giêsu, Mục tử nhân lành, là tương quan hiệp thông thâm sâu. Người mục tử nhân lành không giữ thế cách biệt với chúng ta ; Người không muốn chúng ta cứ mãi bé nhỏ và thiếu chín chắn. Như thế, chúng ta cứ phải ngày càng nên chín chắn cho đến khi có thể đi vào hiệp thông riêng tư với Người.
Một tương quan dành chỗ cho mọi người (c. 16). Sự hiệp thông được thiết lập với Đức Giêsu bắt đầu dần dà nắm lấy mọi tương quan của chúng ta và có mục tiêu là một cuộc sống được kết hợp (với tất cả các dạng cũng như những nét phức tạp của nó) trong tình yêu của Đức Giêsu. Tình yêu giả thiết có "hiểu biết", nhưng sau này, sẽ xuất hiện một sự hiệp nhất vượt trên các khác biệt, bởi vì tình yêu thì "kết hợp".
Sự nhiệt thành và quan tâm của Đức Giêsu - Mục tử không giới hạn vào dân Israel. Công việc Người đã nhận từ Chúa Cha là lo lắng chăm sóc toàn thể nhân loại, làm cho thành một đoàn chiên duy nhất, một cộng đoàn gồm những người tin vào Người. Nói cho cùng, đó chính là sứ mạng của Người. Không một ai bị loại khỏi sự quan tâm của Người, và như thế, sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa nơi Người là nhắm đạt đến mọi dân tộc. "Đoàn chiên duy nhất" này mang hai chiều kích lịch sử chính yếu: (1) chiều đứng liên kết quá khứ, hiện tại và tương lai (cộng đồng Israel, cộng đoàn Nhóm Mười Hai, cộng đoàn tất cả các tín hữu tương lai) ; và (2) chiều ngang, nối kết các nhóm tín hữu khác nhau trong Đức Kitô, nhưng cũng đi đến với tất cả những người không tin.
Qua Đức Giêsu, là Mục tử duy nhất, và qua sự hiệp thông với Người, mọi dân tộc (và mọi cộng đoàn) được kêu gọi trở thành một cộng đoàn lớn duy nhất. Sự hiệp thông này là công trình của Người, chứ chúng ta, dù có tạo ra thứ liên minh nào, vẫn không đạt tới bằng sức của mình được. Chúng ta sẽ có khả năng sống thành cộng đoàn bao lâu chúng ta còn đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, vị Mục tử duy nhất. Tính chất cao quí của mỗi mục tử nhân loại sẽ được đo lường theo khả năng người ấy tạo được sự hiệp nhất tại nơi người ấy hiện diện - một sự hiệp nhất không tập trung lại quanh người ấy nhưng quanh Đức Giêsu.
Sự trung thành là gốc rễ của tình yêu mê say và hiệp nhất của người mục tử nhân lành (cc. 17-18). Những lời dạy về người mục tử nhân lành kết thúc với một cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc về "mầu nhiệm Vượt qua". Buổi chiều cuộc đời người mục tử nhân lành, vinh quang cũng như sự viên mãn của thời khắc này là lễ dâng cuộc đời Người trên thập giá, vào giờ của lòng trung thành. Tiêu chuẩn cuối cùng này của sự ưu việt của người mục tử được liên kết với tiêu chuẩn trước (sự hiệp nhất). Chúng ta ghi nhận là đến cuối c. 15, có lời "Tôi hy sinh mạng sống" để đưa sang c. 16 nói về mục tiêu của người mục tử nhân lành là kiến tạo một đoàn chiên duy nhất ; rồi mở đầu c. 18, lại có lời "Tôi tự ý hy sinh mạng sống". Đây là cấu trúc "đóng khung" để nói rằng chính là khi hy sinh mạng sống trên thập giá, mà Đức Giêsu kiến tạo được "sự hiệp nhất vĩ đại" này. Bởi vì Người chết chắc chắn "không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối" (Ga 11,52).
Nhưng nếu chúng ta nhìn vào cc. 17-18, chúng ta lại ghi nhận rằng ghi chú về Thiên Chúa Cha "đóng khung" các câu 17 và 18: "Chúa Cha yêu mến Tôi…" và "đó là mệnh lệnh của Cha mà Tôi đã nhạn được", trong đó nói ba lần đến việc "hy sinh mạng sống". Tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha giải thích sự trung thành của Người và sự trung thành chính là nét làm cho Người là người mục tử ưu việt. Sự trung thành này được nâng đỡ bởi nền tảng là tình yêu của Chúa Cha, được sống cách tự do và được diễn tả ra trong sự vâng phục. Sự trung thành này nên hình nên dạng trong hành vi "hiến tặng [hy sinh]" và "đón nhận [lấy lại]", trong sự "tự chủ" (Tôi có "quyền") và "trách nhiệm" (Người hành động cho, hành động nhân danh), và trong việc lắng nghe (= tuân giữ) mệnh lệnh và đáp trả (vâng phục: "Tôi đã nhận được").
Câu 18 có thể được coi như đỉnh cao của bản văn. Đức Giêsu nói: "Chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình", rồi Người nói tiếp: "Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy". Nói cho cùng, "quyền" của Đức Giêsu (được dùng 2 lần để nhấn mạnh) được Người thực thi trong hành vi trách nhiệm là "hiến mình". Như tất cả mọi điều khác, hành vi này được nâng đỡ bởi tình yêu làm nền của Chúa Cha, nơi Người Đức Giêsu nhận được mọi sự (sự sống luôn luôn là một điều nhận được) và là Đấng Người được liên kết với bằng một tình yêu duy nhất (gốc rễ của đời sống Người là một tình yêu chín muồi: tình yêu này là một với tình yêu của Đấng mà Người yêu mến). Đây là ý thức sắc bén của Đức Giêsu trên thập giá, ý thức Người có vào thời điểm cao vời khi mà Người hiến tặng "sự sống dồi dào" cho mọi con chiên. Mọi sự đều dựa trên chỗ này.
II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Bản văn này, khi giới thiệu Đức Giêsu là người Mục tử nhân lành, với giọng văn đơn giản nhưng súc tích, đã cho chúng ta khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng mạc khải tình yêu tại nguồn, là Đấng đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn, Đấng cung cấp ánh sáng và sự sống. Nơi bản thân Đức Giêsu, chủ đề cổ xưa về Thiên Chúa Mục tử của Cựu ước nay đã được trẻ-hóa cách tuyệt vời và được hoàn tất vượt quá mọi ước mong. Người sẽ mãi mãi là Đấng nuôi dưỡng, giáo huấn chúng ta, và dẫn đường cho tất cả chúng ta về cùng Chúa Cha.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Nói tới "mục tử" là nói tới tương quan.
Trong xã hội Israel cổ thời, tương quan giữa mục tử và đoàn chiên không chỉ là một vấn đề lợi ích kinh tế, dựa trên sản phẩm các con chiên cung cấp để mục tử sử dụng mà nuôi sống mình và gia đình: len, sữa, thịt, tiền bạc, v.v… Nói cách khác, đây không chỉ là một tương quan sở hữu. Trong thế giới Kinh thánh, giữa mục tử và đoàn chiên có một tương quan hầu như riêng tư. Ngày qua ngày, các mục tử và đoàn chiên sống với nhau tại các nơi hoang vắng, chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh. Do đó, chẳng mấy chốc, người mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên nhận biết tiếng nói của mục tử, và dễ dàng phân biệt với tiếng của người khác. Chính vì tương quan giữa mục tử và đoàn chiên là một trong những tương quan gần gũi nhất mà một người Israel có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày, ta hiểu vì sao Thiên Chúa đã sử dụng biểu tượng này để mô tả tương quan của Người với Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Chúng ta nghĩ đến Tv 23. Kiểu tương quan này trở thành mẫu mực cho các nhà lãnh đạo (vua chúa, tư tế, ngôn sứ): như Thiên Chúa, họ phải chu cấp sự an toàn và che chở cho Dân. Chúng ta cũng có thể nhớ tới những lời Thiên Chúa trách các nhà lãnh đạo qua miệng Ngôn sứ Êdêkien (ch. 34).
2. Trách nhiệm lớn của một mục tử là đời sống của con chiên.
Tiêu chuẩn giúp phân biệt một mục tử tốt với một mục tử xấu là ý thức về trách nhiệm của mình đối với đoàn chiên. Người mục tử bên Paléttin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên của mình: nếu có chuyện gì xảy ra với dù chỉ một con chiên mà thôi, người ấy phải chứng minh là không do lỗi mình. Ý thức về trách nhiệm này được minh họa bởi hai đoạn Kinh thánh: Am 3,12 ; Xh 22,9-13. Nói tóm, người mục tử sống hoàn toàn cho con chiên, người ấy chiến đấu dũng cảm để bảo vệ chúng khỏi thú dữ và còn sẵn sàng hy sinh mạng sống (x. Đavít: 1Sm 17,34-35). Lòng nhiệt thành của người mục tử chính là tình yêu làm tuôn trào sự sống. Như Thánh vịnh 23 cho thấy, người tín hữu thời Kinh thánh thấy nơi hình ảnh người mục tử dung mạo đích thật của Thiên Chúa: Tình yêu của Ngài, sự quan tâm, tình yêu hy sinh cho nhân loại. Nếu họ vững vàng đối phó với các thử thách của cuộc đời, là vì họ bám vững vào Thiên Chúa. Trong tâm trí và trong tim họ, họ xác tín rằng như mục tử tốt lành, Thiên Chúa dám làm mọi sự vì họ ; Thiên Chúa luôn trông chừng trên họ, luôn luôn chiến đấu bên cạnh họ (x. Is 31,4 ; Ed 34,16).
3. Một sự hiểu biết sâu sắc.
"Tôi biết chiên của Tôi…, như Chúa Cha biết Tôi". Con người phải đau khổ vì không được ai hiểu biết sâu xa. Thế mà Đức Giêsu lại nói rằng Người biết con người bằng một sự hiểu biết tương đương với sự hiểu biết nhờ đó Chúa Cha biết Con. Đây lại là một sự hiểu biết trong tình yêu. Như thế, con người sẽ không còn cảm thấy cô đơn và sợ hãi vì Đấng biết họ trọn vẹn lại không kết án họ, nhưng yêu thương họ bằng một tình yêu trọn vẹn và cứu chuộc. Thánh Phaolô đã làm chứng về tình yêu ấy qua một đoạn văn hùng hồn là Rm 8,35.38-39: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta".
Đã được yêu thương như thế, chúng ta có trách nhiệm đối với anh chị em chúng ta: chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em mình đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, theo gương Đức Giêsu.
30. Chúa là Mục tử và là người phục vụ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày Thế Giới lần thứ 55 cầu cho ơn gọi sẽ được cử hành vào ngày 22-2-2011, Chúa nhật thứ 4 Phục Sinh, mời gọi chúng ta suy tư về đề tài: "lắng nghe, biện phân, và sống". Chúng ta bị chìm đắm trong một xã hội ồn ào, giao động vì nhiều thứ kích thích và thông tin tràn ngập bủa vây chúng ta. Để nhận ra tiếng Chúa gọi, cần có thái độ mặc niệm trong thinh lặng, lắng nghe (x. Sứ Điệp Cầu Cho Ơn Gọi 2018). Chăm chú lắm mới khám phá ơn gọi đặc thù và cách riêng mà Chúa đã nghĩ ra cho mỗi người chúng ta. Nhưng để sống, chúng ta phải chiêm ngắm Chúa Giêsu là Mục Tử.
Mục Tử giầu lòng thương xót
Trong Cựu Ước hình ảnh người mục tử có một tầm quan trọng. Khi nói về mục tử, người ta liên tưởng ngay đến điều đã viết trong sách Ngôn sứ Ezekiel nhân danh Thiên Chúa ông nói: "Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta. Chính Ta, Ta sẽ cho chúng được an nhàn. Sấm của Ðức Chúa Yavê. (Chiên) thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. (Chiên) tản mác, Ta sẽ lùa về. (Chiên) xây xát, Ta sẽ băng bó. (Chiên) bịnh hoạn, Ta sẽ bổ sức. Còn con nào béo, mạnh, Ta sẽ diệt đi. Một cách công minh, Ta sẽ chăn dắt chúng" (Ed 34, 15-16). Lời tiên tri này được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô, Vị Mục Tử nhân lành như chúng ta thấy trong Tin Mừng hôm nay. Vị Mục Tử giầu lòng thương xót biết và thương từng con chiên, ôm ấp con chiên ốm, chiên gặp nạn thì băng bó vết thương, chiên lạc đi tìm về. Chữ "mục tử" gợi lên sự dịu dàng và cảm động, khiến mỗi người chúng ta muốn trở thành con chiên lạc (Lc 15, 3-7) được Người Mục Tử quyết tâm đi tìm bằng được và vác trên vai.
Mục Tử tốt lành trao ban mạng sống mình.
Hình ảnh người mục tử không chỉ quan trọng trong Kinh Thánh, mà chính trong Giáo hội hôm nay hình ảnh này vẫn con hấp dẫn. Điều mà Thiên Chúa hứa với dân xưa rằng: "Ta sẽ ban cho những mục tử như lòng Ta mong muốn" (Gr 3,15) là kinh nghiệm hàng ngày của Giáo hội, dân mới của Thiên Chúa. Giáo hội biết rằng chính Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao hoàn thành cách sống động lời Thiên Chúa hứa: "Ta là Mục Tử tốt lành " (Ga 10,11); Người là "Mục Tử vĩ đại" (Dt 13,20) ủy thác cho những người kế nhiệm là các tông đồ nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên Chúa (x. Eph 21, 15... 1 P.5, 2). Nhờ các linh mục vâng theo lệnh Chúa Giêsu truyền: "Hãy đi, làm cho môn dân trở thành môn đệ của Thầy" (Mc 16,19) mà dân Chúa có thể sống dồi dào.
Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa sai các thợ gặt lành nghề đến gặt lúa của Người và xin cho các mục tử ngày hôm nay theo gương Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành. Ước mong họ dâng hiến sự sống mình và can đảm cống hiến mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên. Xin cho họ yêu mến đoàn chiên như Chúa Kitô đã yêu mến ngõ hầu họ có thể dẫn chiên đến sự hiệp nhất với Chúa Kitô.
Sự tốt lành của người mục tử được thể hiện trong hồng ân mà vị ấy làm cho đoàn chiên được giao phó được sống và sống dồi dào trong sự nhận biết chiên của mình. Người mục tử biết từng con chiên một với tình yêu cao cả và chăm sóc mỗi con chiên. Chiên "cảm nhận" được điều đó và biết mục tử của mình thật tốt lành.
"Biết" trong Kinh Thánh có nghĩa là biết trong tình yêu: biết vì tình yêu và trong tình yêu. Như một người mẹ, trong bóng tối đêm đen "cảm thấy" con mình bị bệnh, bà thức dậy để chăm sóc cho con, ngay cả khi người con ấy không phàn nàn, người con "cảm thấy" người mẹ chăm sóc cho mình. Tình yêu đích thực là sự biết hoàn hảo. Giống như Người Mục Tử tốt lành, các mục tử và đoàn chiên sống trong sự hỗ tương để lớn lên trong sự qui chiếu vào Chúa Kitô.
Thuộc về Đức Kitô
Chúng ta bởi Chúa mà ra và chúng ta thuộc về Chúa, Chúa biết mỗi người chúng ta để thí mạng và sống lại vì đoàn chiên. Nếu chúng ta nghe tiếng Chúa, tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ có được sự sống của chính Chúa. Chúa Giêsu nói: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ nghe lời Ta và tin vào Ðấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời, và khỏi đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống" (Ga 5 , 24). Với đức tin, chúng ta hoàn thành bước quyết định: đi từ cõi chết đến cõi sống, bỏ miền đất của kẻ chết và bước vào miền đất của kẻ sống.
Giáo hội đề nghị các mục tử suy niệm đoạn Tin Mừng này: để suy ngẫm về chính mình. Tại sao vậy? Thưa mỗi mục tử đơn giản chỉ là "dấu chỉ" của Chúa Giêsu là Mục Tử. Vậy chúng ta suy gẫm trang Tin Mừng này và tìm cách sống bằng cách sống hiệp thông giữa chúng ta để chúng ta hiểu biết Chúa Kitô cách sâu xa và thuộc trọn về Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay, tương quan giữa mỗi người với Chúa Phục Sinh được chỉ ra trước hết là mối quan hệ "thuộc về": chiên không thuộc về kẻ trộm nhưng thuộc về mục tử. Thuộc về trước hết là sự nhận biết hỗ tương: "Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10,14). Sự nhận biết này rất quan trọng, chúng ta thuộc về Chúa khi chúng ta đón nhận Lời Chúa Giêsu ("chúng sẽ nghe tiếng Ta"). "Biết Chúa Giêsu là Mục Tử" là nghe tiếng Chúa và đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Nhớ lại lời đề nghị của Chúa Giêsu: "Mùa lúa thật nhiều, mà thợ gặt lại ít! Chúng con hãy cầu xin Chủ Mùa sai nhiều thợ đến gặt lúa!" (Mt 9,37), chúng ta ý thức thật nhiều về nhu cầu phải cầu nguyện cho những ơn gọi linh mục và ơn gọi sống đời tận hiến. Chúng ta hãy xin Chúa Cha trên trời đốt nóng tâm hồn những người trẻ để họ quảng đại đáp lại tiếng Chúa, đồng thời xin Chúa phù giúp các linh mục mà Chúa đã ban cho cộng đoàn Dân Chúa. Amen.
31. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lễ “Chúa Chiên lành” là lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã tự xưng "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10, 11). “Mục tử” là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông. "Người chăn chiên" được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tương quan vừa mật thiết, vừa rất "dễ thương" giữa Người và chúng ta.
Chúa là mục tử
Thông thường, trong Cựu Ước, người ta gọi Thiên Chúa là mục tử của dân Ngài (St 49, 24 – 31; Gr 31, 10; Mk 7,14 v.v...) Sự so sánh này có nguồn từ đầu lịch sử thánh, vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước hết là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môisen, kẻ chăn cừu nhận được mạc khải từ bụi gai đang cháy trong sa mạc, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.
Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng và trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đàn của chúng để cùng chia sẻ một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử va tự ví mình như thế, Chúa Giêsu đưa chúng ta về với hình ảnh cổ xưa trong Kinh Thánh, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân, sự sống ấy bắt nguồn từ tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, vì trong Người, mệnh lệnh và tự do đồng nhất với nhau: "Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta "(Ga 10, 18).
Mục tử tốt lành thí mạng song vì chiên
Chúa Giêsu yêu thương con người bằng một tình yêu thí mạng khi tự ví mình là "mục tử tốt lành"sẵn sàng thí mạng vì đoàn chiên. Người nói thẳng: "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10, 11). Đối với Chúa Giêsu, tất cả là hiện tại, không có gì là quá khứ hay tương lai hết. Điều này đã được nói trong sách Khải Huyền: "Ta là Alpha và Ômêga chính là Ta, Chúa, Thiên Chúa phán, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, Ðấng toàn năng!" (Kh 1,8). Và trong sách Xuất Hành: "Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này: "Ta có" đã sai tôi đến với các người!” (Xh 3,14).
"Ta là mục tử tốt lành". Từ "mục tử" có nguồn gốc từ động từ "chăn nuôi". Chúa Giêsu Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thịt máu mình hằng ngày trong bí tích Mình Thánh. Khi Samuen hỏi Giêsê, cha của Đavít: "Các cậu này tất cả là con trai của ông sao?" Ông đáp: "Còn đứa nhỏ nhất nữa; này nó đang phải chăn cừu!" (1S 16,11). Đavít, một con người bé nhỏ và khiêm nhu, đã chăn sóc đoàn chiên mình như một người mục tử.
Chúng ta cũng đọc thấy trong sách Isaia: "Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thâu họp chúng lại; Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con" (Is 40,11)... Quả thật, mục tử tốt lành dẫn chiễn tới đồng cỏ xanh tươi, tập hợp những con chiên yếu kém không thể đi được; vác chúng trên vai, ôm chúng vào lòng; như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa Giêsu cũng làm như thế: hàng ngày, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống và các bí tích của Hội Thánh. Người giang cánh ta trên thập giá để thâu họp "con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một" (Ga 11,52). Người đón nhận chúng ta vào lòng nhân ái của Người, như mẹ hiền ấp ủ con thơ.
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có phải là chiên của Chúa không? Nếu phải thì tôi có biết Chúa không và nếu biết thì biết thế nào? "Biết" ở đây, không có nghĩa là "biết" nhờ đức tin, nhưng là "biết" nhờ đức mến. "Biết" không có nghĩa là "biết" được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là "biết" được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác: "Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đo là kẻ nói dối"(1 Ga 2, 4).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa nhật Chúa Chiên lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên.
Cầu cho các mục tử
Đối mặt với hiểm nguy, Chúa Giêsu không chạy trốn như lính đánh thuê, Người sẽ chết, nhưng cái chết của Người sẽ chiến thắng và sống mãi, Người sẽ thâu họp những con chiên tán mát khắc nơi về. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước theo mình, Người còn muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về. Người mong ước các mục tử vơi ơn Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.
Với chủ đề của Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Năm 2015: "Xuất hành, kinh nghiệm nền tảng của ơn gọi". Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi "những người trẻ bước đi theo dấu chân của Ðức Giêsu, trong việc phụng thờ mầu nhiệm Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho người khác! đừng sợ ra khỏi chính mình và đặt mình vào một cuộc hành trình! " Chúng ta hãy khẩn cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của mọi ơn gọi, đã không sợ hãi khi thưa tiếng "xin vâng" trước lời mời gọi của Thiên Chúa, đồng hành với chúng ta và dẫn dắt chúng ta. Amen.
32. Hiến mạng sống cho đoàn chiên
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Ga 10: 11-18: Chúa Giêsu nói: "Tôi chính là người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên và một Chủ chiên".
Tháng 3 năm 1980, Đức Cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết lên tiếng phản đối chính phủ vi phạm nhân quyền, vì đã ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản áp bức bóc lột nông dân. Người dân ở đây tuyệt đại đa số là người công giáo (98%). Đức Cha đã đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động của Ngài có thể đưa Ngài đến chổ bị cầm tù và cả cái chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giêsu, Người Mục Tử nhân lành, Ngài sẵn sàng hiến mạng sống cho đàn chiên được sống và sống dồi dào, vì tin rằng đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày 24/3/1980, một tay súng bắn thuê đã hạ sát Đức Tổng Giám Mục Rômêrô trong lúc Ngài đang cử hành Thánh Lễ với giáo dân, đàn chiên của Giáo phận Ngài.
Thưa anh chị em,
Ngày xưa, ở Palestin, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là một nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh Kinh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Mục Tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh Kinh đã hát lên:
"Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi,
Tôi chẳng thiếu thốn gì…
Dầu qua lũng âm u,
Tôi sợ gì nguy khốn,
Vì có Chúa ở cùng…"
Từ đó các nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Tiếc thay, theo thời gian, vai trò lãnh đạo tôn giáo của Israel đã bị thoái hóa. Vào thời kỳ ấy, Ngôn sứ Êzêkiel đã nhân danh Chúa cảnh cáo các vị mục tử này: "Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi: các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến đàn chiên. Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh tật, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lạc đường, hoặc tìm kiếm những con lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, Vị Chủ Tể Tối Cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách đàn chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao đàn chiên một Vị Vua, giống như Đavít, Tôi tớ Ta để làm Mục Tử và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc cho đàn chiên" (Ez 34,2-4,9-10.23).
Chúng ta phải đọc Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh này. Chúa Giêsu nói: "Tôi chính là người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên và một Chủ chiên". Nói cách khác, Chúa Giêsu chính là nhân vật mà Ngôn sứ Ezêkiel đã tiên báo. Giống như Đavít, Người Mục Tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con chiên yếu đuối, bơ vơ, chữa lành những con bệnh tật và tìm kiếm những con lạc đường. Còn hơn thế nữa, Ngài hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Lại còn hơn thế nữa, Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ sự sống phục sinh của Ngài cho đàn chiên. Đây chính là điều Thánh Gioan đã nói trong bài đọc 2 hôm nay: "Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Kitô, không những chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi, được cứu thoát mà còn được làm con cái Thiên Chúa từ bây giờ và sau này được nên giống như Thiên Chúa, được đồng vinh quang với Thiên Chúa nữa". Và trong bài đọc 1, Thánh Phêrô cũng quả quyết trước công nghị: "Không có Đấng Cứu Độ nào khác ngoài Đức Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, vì dưới bầu trời này, ơn cứu độ không gặp được ở một ai khác".
Như thế, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, chúng ta hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn Người Mục Tử nhân lành một cách sâu xa hơn: Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, Ngài đã cứu chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi phải chết. Ngài đang hiện diện giữa thế giới chúng ta để tập họp chúng ta lại thành một đàn chiên của Ngài và ban cho chúng ta sự sống đời đời, để chiên của Ngài nghe tiếng Ngài, đi theo Ngài, thì "không bao giờ phải diệt vong, không ai có thể giựt khỏi tay Ngài được" (Ga 10,28).
Anh chị em thân mến,
Chúa Nhật hôm nay được chọn làm ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, Tu sĩ. Cầu nguyện và hoạt động để có nhiều, có thêm số các mục tử. Làm mục tử là chăn dắt với Chúa Kitô, phụ một tay cho Chúa Kitô, chia sẻ công việc chăn dắt của chính Chúa Kitô. Chỉ có Chúa Kitô là Mục Tử nhân lành duy nhất, còn các mục tử khác chỉ là thay mặt Ngài mà chăn dắt đàn chiên của Chúa. Hơn nữa người mục tử vẫn là chiên của Chúa Kitô, cũng phải được chính Chúa Kitô chăn dắt. Như thế, không phải chỉ có các giám mục, linh mục mới là mục tử, nhưng là mọi người tín hữu cũng là "mục tử" theo gương Người Mục Tử nhân lành là Chúa Kitô, vì Ngài đã trao phó trách nhiệm chăn dắt đàn chiên cho chúng ta, cho từng người tín hữu trong phạm vi, trong lãnh vực của mình. Dù là Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam nữ hay giáo dân, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những người chung quanh, và do đó, chúng ta là "mục tử" trong mức độ trách nhiệm của chúng ta: cha mẹ có trách nhiệm với lợi ích thể xác và tinh thần của con cái ; các thành viên trong gia đình có trách nhiệm với nhau. Các thầy, cô có trách nhiệm với các học sinh ở trường, lớp. Các viên chức từ xã ấp đến chủ tịch hay tổng thống đều có trách nhiệm nặng nề với nhân dân. Cũng thế, cha sở có trách nhiệm với mọi người trong họ đạo, gồm cả người chưa tin, người trễ nãi, người bỏ đạo. Các tu sĩ nam nữ phụ trách các cộng đoàn lớn nhỏ đều có trách nhiệm với các thành viên của cộng đoàn và các thành viên của cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, cũng có trách nhiệm với nhau. Đức Giám Mục cũng có trách nhiệm với mỗi người trong Giáo Phận của Ngài. Đức Giáo Hoàng có trách nhiệm trên toàn thể thế giới. Trách nhiệm vô cùng nặng nề !
Và vì là mục tử, chúng ta phải biết đến nhu cầu của người khác. Biết nhìn, biết chăm lo, biết dấn thân phục vụ đến độ sẵn sàng thí mạng sống cho anh em theo gương Người Mục Tử nhân lành như Đức Tổng Giám Mục Rômêrô đã hiến mạng sống cho giáo dân trong Giáo phận San Salvador của Ngài. Với ý thức trách nhiệm mục tử, người tín hữu không còn sống cho riêng mình nữa, không còn được phép mưu lợi cho cá nhân mính nữa. Là kitô hữu, linh mục, tu sĩ hay giáo dân, tôi phải là mục tử, tôi phải chăn dắt đàn chiên Chúa giao phó cho tôi: gia đình tôi, cộng đoàn tôi, giáo xứ tôi, giáo phận tôi, đồng nghiệp, đồng bào tôi. Có hoàn thành trách nhiệm chăn dắt theo ý Chúa, tôi mới tìm được hạnh phúc đích thực hoàn toàn.
Anh chị em hiệp ý với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu xin cho các kitô hữu thực sự là đàn chiên của Chúa, đồng thời là mục tử theo gương Chúa Kitô, trong khi thi hành chức vụ của mình, và cho Giáo Hội có thêm nhiều người biết dấn thân theo lời mời gọi của Chúa, trở nên những mục tử nhiệt thành, biết quên mình phục vụ đàn chiên. Với tâm tình này, chúng ta dâng Thánh Lễ như tiến vào đồng cỏ xanh tươi, suối nước mát trong, để được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Chúa Kitô và được hạnh phúc sống dưới sự chăn dắt chở che của Ngài.
33. Chúa chiên lành.
Có một chàng sinh viên, sau khi tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một ngành nghề chuyên môn, nhưng lại đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh phải làm việc tới mười tám tiếng đồng hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt thời gian ở trên núi, anh hoàn toàn cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn con cừu.
Mỗi tuần một lần, người ta đem đến cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc của anh là làm sao giữ cho đàn cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ và có nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.
Anh kể: một buổi sáng nọ, có một nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả thời gian để lần theo dấu vết của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn mưa bão ập xuống, khiến tôi và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt đêm.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy nghề chăn cừu thời nay thật là khó khăn và cực nhọc. Nhưng ngày xưa, khi chưa có súng đạn thì công việc của họ không chỉ cực nhọc mà còn rất nguy hiểm nữa.
Trong sách Samuel, Đavid đã trả lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như sau: Tâu bệ hạ, thần đã từng chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một con sư tử hay một con gấu cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn công nó để cứu con cừu. Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần sẽ xông tới, chộp cổ họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và gấu. Thần cũng sẽ làm như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.
Từ những mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay, trong đó Chúa đã nói: Ta là mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Nói cách khác Chúa Giêsu chính là vị mục tử mà tiên tri Egiechiel đã loan báo: Ngài chăm sóc những con bơ vơ yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn và đi tìm những con bị lạc. Chúa Giêsu còn làm hơn thế nữa, Ngài tự hiến mạng sống cho đoàn chiên. Và từ cõi chết sống lại, Ngài đã chia sẻ vinh quang Phục sinh cho đoàn chiên của Ngài. Từ đó chúng ta hãy rút ra một vài điểm thực hành:
Điểm thứ nhất, đó là hãy tỏ lòng biết ơn Ngài vì nhờ sự chết và Phục sinh, Ngài đã cứu chúng ta khỏi manh mối của thú dữ là ma quỷ và tội lỗi.
Điểm thứ hai, đó là hãy bước đi dưới sự dẫn dắt của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta chẳng bao giờ bị lầm đường lạc lối. Trái lại, cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm an toàn, bởi vì như lời thánh vịnh cũng đã xác quyết: Chúa là Mục tử, Ngài dẫn lối chỉ đường cho con đi. Đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ non rợn đồng xanh con không bao giờ thiếu suối nước trường sinh con nghỉ uống no đầy.
34. Mục Tử Nhân Lành- ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoan cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để rang buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?
4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?
35. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI CHÚNG TA
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Mỗi năm, Giáo Hội dành ngày Chúa nhật thứ IV mùa Phục sinh để nhắc cho chúng ta biết Đức Giêsu là mục tử nhân lành rất yêu thương chúng ta là những con chiên của Ngài. Ngài chăm sóc chúng ta và dẫn chúng ta đến cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
Ngày hôm nay cũng là ngày Giáo Hội trên toàn thế giới cau nguyện cho ơn thiên triệu.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu biết hơn về tình yêu của Ngài ; đồng thời chúng ta cũng cầu nguyện cho có nhiều người trẻ hiến thân làm Linh mục để tiếp nối sứ mạng Đức Giêsu là làm mục tử chăm sóc đoàn chiên Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúng ta là những con chiên được Đức Giêsu là mục tử nhân lành dẫn dắt. Nhưng nhiều khi chúng ta không ý thức tình thương Chúa luôn bao bọc cuộc sống chúng ta.
Đôi khi chúng ta còn tỏ ra là những con chiên bướng bỉnh không đi theo sự dẫn dắt của Chúa.
Chúng ta ít quan tâm đến việc khuyến khích và nuôi dưỡng các ơn thiên triệu.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Cv 4,8-12
Sau khi Phêrô chữa cho một người què được khỏi, ông bị bắt dẫn ra trước Thượng Hội Đồng Do thái giáo cùng với bạn đồng hành là Gioan.
Trước Thượng Hội Đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh thánh Đức Giêsu.
Nhân dịp đó, Phêrô giảng về Đức Giêsu: Ngài đã bị các thủ lãnh do thái giết chết, nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại và tôn vinh Ngài lên đến tuyệt định vinh quang. Nhờ danh Ngài mà moi người được ơn cứu độ.
2. Đáp ca: Tv 117
(như Chúa nhật I Ps)
Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù la khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.
3. Tin Mừng: Ga 10,11-18
Đức Giêsu xưng mình là mục tử tốt lành. Ngài cũng phân biệt mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê:
Những đặc tính của Người mục tử tốt lành: a/ thí mạng sống vì chiên ; b/ biết các con chiên và được các con chiên biết ; c/ muốn quy tụ những con chiên khác ở ngoài vào đàn chiên mình, để rồi sẽ chỉ có một đàn chiên va một chủ chiên.
Kẻ chăn chiên thuê chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Hắn ưu tiên lo cho bản thân nên khi gặp nguy hiểm thì bỏ mặc đàn chiên để chạy trốn.
4. Bài đọc II: 1 Ga 3,1-2
Thánh Gioan nói đến mức độ to lớn vô cùng của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu:
Hiện nay Thiên Chúa cho chúng ta làm con của Ngài.
Sau này Ngài còn cho chúng ta được giống như Ngài.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Mục tử tốt lành
Dưới thời bạo Chúa Nêrô bắt đạo. Roma ngập tràn máu lửa, biết bao tín hữu đã chết dưới tay ông vua điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyen khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
- Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?
- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên, và để chịu đóng đinh thập giá như Thầy.
"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên" (Ga.10,11). Đức Giêsu ví mình như một mục tử tốt lành khác với người chăn thuê, vì người đã dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Cái chết của Người không bất ngờ, cũng không đầu hàng bạo lực, nhưng là một cái chết tự hiến. Đức Giêsu chết để nói nên lời yêu thương. Một tình yêu tột đỉnh, yêu cho đến cùng. Thánh Gioan viết: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga.15,13).
Chính tình yêu đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con chiên, khiến Người nói: "Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta" (Ga.10,14-15). Đó là sự hiểu biết nhau sâu xa, sự trân quí giữa mục tử va đoàn chiên.
Đức Giêsu là mục tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá giúp chăn dắt đoàn chiên của Người. Mọi mục tử phải noi gương Người, dám chết cho đoàn chiên được sống. Phêrô là người mục tử đầu tiên. Phêrô có thể trốn bắt bớ, tù tội, chết chóc. Nhưng chính khi đổ máu, Phêrô đã giữ vững đoàn chiên. Cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục hơn bất cứ lời rao giảng nào: "Thầy làm vững đức tin của con. Rồi đến lượt con, con sẽ làm vững đức tin của anh em con". Các mục tử tiếp bước Phêrô vui lòng nằm xuống để nên nhân chứng, và củng cố niềm tin cho các anh em.
Dụ ngôn người "Mục tử tốt lành" cho thấy tình yêu sâu sắc của Thiên Chúa.
Người yêu thương mỗi người một cách cá biệt, không yêu cách chung chung.
Người yêu thương vô điều kiện, ngay cả khi chúng ta lầm đường lạc lối.
Người yêu thương bằng tình yêu vui mừng, chứ không la rầy khiển trách khi tìm thấy chiên lạc.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên trên thế giới. Người rất cần các bạn trẻ hiến thân cho sứ mạng mục tử này. Người mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời Chúa, đói tình thương, đói của ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người kêu gọi chúng ta hãy tha thiết xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn, và thanh đức hơn. Những mục tử sẵn lòng âm thầm chết từng ngày cho đoàn chiên.
***
Lạy Chúa, xin gởi đến cho chúng con những mục tử có trái tim của Chúa: luôn say mê Thiên Chúa và yêu thương con người, có tình bạn thân thiết với Chúa, dám hy sinh cho đoàn chiên, dẫn đưa chúng con về với Cha là nguồn hạnh phúc thật của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 2. Ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ
a/ Đối với người Việt chúng ta thì hình ảnh "chiên và người chăn chiên" không phải là một hình ảnh gần gũi, vì xứ sở chúng ta không thuộc vùng Cận Đông với nghề chăn nuôi chiên cừu như Pa-lét-tin xưa. Hơn nữa trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện "đàn chiên với mục tử", thì e rằng chúng ta bị coi là những người lạc hậu! Nhưng nếu đi sâu vào ý nghĩa và biểu tượng tôn giáo của hình ảnh "chiên và muc tử" thì chúng ta lại chẳng thấy lạc hậu tí nào. Vì chưng những người tin ở Thiên Chúa đều xác tín rằng họ luôn được Thiên Chúa và Chúa Ki-tô quan tâm và tận tình chăm sóc, không chỉ về phương diện tâm linh mà về mọi phương diện con người, không chỉ ở đời sau mà ở cả đời này lẫn đời sau. Mối tương quan gắn bó giữa người chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúa và người tín hữu.
b/ Những nét đac trưng của Vị Mục Tử nhân lành
Đức Giêsu đã công bố Người là Vị Mục Tử nhân lành, với những nét đặc trưng sau đây:
* Vị Mục tử nhân lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì? họ cần gì? họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào?
* Vị Mục tử nhân lành luôn đi đầu, đi trước tức hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, tức đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Vị ấy sẽ đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát và cỏ xanh, để chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chien sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Thậm chí vị Mục tử sẽ hy sinh mạng sống vì chiên.
c/ Lý do Hội Thánh lấy ngày chủ nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ:
Bản tin Hiệp Thông (tiếng nói của Hội đồng Giám Mục Việt Nam) số 11, ra ngày 15 tháng 02 năm 2002 (trang 8-9) cung cấp cho chúng ta những con số cụ thể và đáng chúng ta suy nghĩ trong ngày hôm nay:
(1): Tổng dân số của Việt Nam hiện là: 80.489.857 người (76.683.203 dân tộc kinh + 3.806.654 dân tộc thiểu số). (2): Tổng số công giáo của 25 giáo phận: 5.324.492 người (5.065.105 dân tộc kinh + 259.387 dân tộc thiểu số). (3): Tổng số linh mục của 25 giáo phận: 2.526 Lm (2.133 triều + 393 dòng). (4): Tổng số tu sĩ trong 25 giáo phận: 11.282 Ts (1.524 nam + 9.758 nữ). (5): Tổng số chủng sinh của 25 giáo phận: 1.765 Cs (1.044 đang học + 318 học xong + 403 dự bị). (6): Tổng số giáo lý viên của 25 giáo phận: 45.858 Glv (671 giáo phu + 219 có lương + 44.968 không có lương).
Nếu chia bình quân số giáo dân cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 2.107 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 31.865 người. Nếu chia bình quân số giáo dân cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 472 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 7.134 người. Nếu chia bình quân tổng số người VN không công giáo cho tổng số người VN công giáo thì một người VN công giáo phải giúp cho 14 người VN không công giáo biet Chúa và gia nhập Giáo hội.
Nguyên nhìn vào những con số trên, chúng ta cũng đã thấy được nhu cầu to lớn về nhân sự của Giáo hội Việt Nam trong sứ mệnh sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng mà Giáo hội đã nhận được tư chính Chúa Giê-su. Đã đành rằng ngày nay trách nhiệm sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng không chỉ của riêng các linh mục, tu sĩ mà của mọi Ki-tô hữu. Nhưng các linh mục, tu sĩ vẫn là lực lượng quan trọng nhất, là lực lượng nòng cốt và đầu tầu trong lãnh vực này. Thế nhưng ơn gọi linh mục, tu sĩ càng ngày càng giảm sút trong các Giáo hội địa phương, thậm chí giảm trầm trọng trong một số Giáo hội. Riêng tại Việt Nam, thì tình hình có mấy nét riêng sau đây: (1) Việc thanh niên nam nữ muốn vào chủng viện, dòng tu còn gặp nhiều cản trở từ những qui định của Nhà Nước. (2) Việc các Giám mục, Dòng tu gửi các linh mục, tu sĩ đến nơi cần gửi, đặc biệt đến vùng sau vùng xa, cũng chẳng dễ dàng gì. (3) Ơn gọi tu trì đã có dấu hiệu sút giảm ở thành thị, nhất là ở các quận nội thành.
Vì thế cho nên chúng ta không chỉ cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo hội -nhất là Giáo hội Việt Nam- nhiều linh mục, tu sĩ tài đức thánh thiện, nhiệt thành mà chúng ta còn phải nài xin Thiên Chúa tạo thuận lợi cho các ứng sinh linh mục tu sĩ được đào tạo đến nơi đến chốn và cho các linh mục tu sĩ có điều kiện cần thiết để thực thi sứ vụ của mình. (Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội).
3. "Tình yêu, con đường duy nhất để đến với thế giới bất tín".
"… Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với thế giới những người không tin: đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình yêu. Trước tấm thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại mà con người đã khước từ Thiên Chúa, mọi Kitô hữu, mọi Linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu (…) thánh Phanxicô đệ Salê đã nói: "Tất cả đều dành cho tình yêu, đều ở trong tình yêu, đều vì tình yêu và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo hội". Nhưng cái chân lý cao cả ấy hau như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chận. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hon thê của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính thị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phụ. "Trong trái tim giáo hội tôi sẽ là tình yêu" thế là đã rõ, mot xác quyết như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu trong chân lý (…)
Thánh Nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của Trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự sống cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường la Sự Thật và là sự sống. Công đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia mai ngày có thể thắc mắc "Giáo hội thời Công đồng đã làm gì?" Đức Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14.9.1965: "Giáo hội yêu, giáo hội yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đại kết, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi người kể cả những người bắt bớ giáo hội". Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng la trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux: "Giáo hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu". Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
Thánh nữ Têrêxa đã khơi gợi hàng ngàn, hàng ngàn ơn gọi làm Linh mục trên khắp thế giới. Những Linh mục ấy đã tìm thấy nơi thánh nữ một tình yêu tuyệt đối dành cho Đức Giêsu và tình yêu Giáo hội, một ý nghĩa sâu xa trong kinh nguyện và trong sứ mệnh truyền giáo trên khắp hoàn cầu, một sự kết hợp bằng chiem niệm và hoạt động, một mẫu gương dùng con đường tình yêu bé nhỏ và phó thác, đường nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, thánh nữ Têrêxa vẫn tiếp tục làm phong phú tác vụ của các Linh mục, đặc biệt là nhưng Linh mục trẻ bị cuốn hút bởi sứ điệp tình yêu giữa lòng Giáo hội (…)
Tất cả hành trình đức tin thâu tóm trong đức cậy và đức ái. Niềm tin là niềm hy vọng của tình yêu, tin là hy vọng vào tình yêu. Phải chăng vai trò đã được quan phòng của sứ điệp của thánh nữ Têrêxa, ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 3, chính là trả lại cho ta tình yêu và niềm hy vọng? Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Tình yêu là để yêu thương. Trong lãnh vực tình yêu, thánh nữ Têrêxa là bậc thầy linh đạo trong tình yêu, không có dè dặt, không có tính toán, không có trung dung, không có quân bình vì con người chẳng bao giờ có thể yêu Thiên Chúa cho xứng với tình Ngươi yêu ta (…).
Một nữ tu hỏi thánh nữ Têrêxa: "Chị nói gì với Đức Giêsu?" Chị thánh trả lời: "Em không nói gì hết, em yêu Người", Chỉ tình yêu là quan trọng. (Đức Hồng Y P.Poupard, tài liệu cho ngày ơn thiên triệu. Trích dẫn bởi Fiches dominicales, năm B)).
4. "Trong trái tim Giáo hội, tôi sẽ là Tình yêu"
(Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng, bản văn được trích dẫn trong tài liệu của Ủy ban quốc gia về ơn thiên triệu).
"… Sau cùng con đã tìm thấy an nghỉ… tìm trong thân thể mầu nhiệm của Giáo hội, con chẳng thấy mình trong bất cứ chi thể nào đã được thánh Phaolô miêu tả, đúng hơn con muốn có mặt trong tất cả những chi thể ấy… Đức Ái đã cho con chìa khóa ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu giáo hội có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, chi thể quan yếu nhất, cao cả nhất không thể thiếu được, con hiểu đó là Trái Tim và Trái Tim đó cháy đỏ Tình yêu. Con hiểu rằng chỉ có Tình yêu mới làm cho các chi thể của Giáo hội hoạt động và nếu tình yêu vụt tắt, các Tông đồ sẽ thôi không loan báo Tin mừng, các thánh tử đạo sẽ từ chối đổ máu… Con hiểu rằng Tình yêu phủ trùm lên mọi ơn gọi và tình yêu là tất cả, bao gồm mọi không gian và mọi thời gian. Tắt một lời, Tình yêu là vĩnh cửu!
Thế là, trong niềm vui tột đỉnh, con kêu lên: "Ôi Giêsu, Tình yêu của con… ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là Tình yeu!…
Phải rồi, con đã tìm được vị trí của con trong Giáo hội. Chỗ ấy, ôi Lạy Chúa, chính Chúa đã ban cho con… Trong Trái Tim Giáo hội, thưa Mẹ, con sẽ là Tình yêu… như thế con sẽ là tất cả… như thể giấc mơ của con đã thành hiện thực!!!..."
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và tu sĩ, chúng ta cầu xin Chúa sai đến đoàn chiên Chúa những chủ chăn tốt lành như lòng Chúa mong muốn.
1. Chúng ta hãy cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / đều tích cực quan tâm đến việc nâng đỡ, đào tạo và chọn lựa những người xứng đáng với ơn gọi làm Linh mục và tu sĩ.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả nhưng ai đang thi hành trách nhiệm làm Mục tử trong Hội thánh / biết noi gương Đức Giêsu là mục tử tốt lành / sẵn sàng hiến thân chăm lo cho đoàn chiên Chúa đã trao phó cho mình.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa / và quảng đại đáp trả tiếng gọi ấy / để dấn thân vào đời sống giáo sĩ và tu sĩ
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm cha mẹ trong họ đạo chúng ta / biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần Tin mừng / để cống hiến cho Hội thánh những mầm giống ơn gọi tốt lành.
Chủ tế: Lạy Chúa, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, xin cho chúng con biết rộng rãi góp phần vào việc đào tạo Linh muc và tu sĩ, bằng lời cầu nguyện, và bằng sự giúp đỡ nhiệt tình. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
36. Chúa Giêsu - Mục Tử Nhân Lành
(Suy niệm của Lm. Barnaba Lê An Phong, SDB)
Từ Phúc Âm của Thánh Gioan, chúng ta nghe lại lời của Chúa Giêsu về Mục Tử Nhân Lành trong cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó, đặc biệt là nhóm Pharisêu. Sau khi xác nhận những khác biệt cơ bản giữa các mục tử that và mục tử giả hiệu (Ga 10, 1-18), Chúa Giêsu đã tuyên bố những yếu tố quan trọng mối quan hệ giữa người tin vào Người và bản thân Người, giữa người chăn chiên tốt lành với đàn chiên của mình. Chúng ta suy niệm với nhau hai điểm sau đây.
Về người chăn chiên
- “Chiên của tôi nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” Biết là động từ diễn đạt cho chúng ta hay về hoạt động của lý trí, của việc nắm bắt một thực tại. Mục Tử Nhân Lành biết đàn chiên của mình. Người không chỉ biết số lượng (100 con), biết tính toán (99 con tốt và 01 con lạc đàn). Ngài còn nhận biết chiên của mình, cả con tốt lành, ngoan hiền lẫn con làm loạn, hư đốn; biết những con đau yếu và cả những con mạnh khỏe.
Là một mục tử tốt lành, Chúa Giêsu còn biết nhiều hơn cùng với việc “lắng nghe” và “dõi theo” đàn chiên; nhưng việc nhận thức ấy không là “kiến thức thực tế” theo kiểu của một giám sát viên đang theo dõi một hoạt động xây dựng, của một công an đang theo người phạm luật giao thông, của một thẩm phán đang xét xử. Chúa Giêsu - Mục tử nhân lành biết đến chiên của mình như một người có sự dịu dàng của mot người mẹ khi bà dành cho cậu con trai nhỏ của mình sự nâng đỡ hướng dẫn, chăm sóc; và giống như của một người cha đã nhìn thấy trước và chuẩn bị tương lai cho những đứa con của mình, khi ông biết sức lực và tài năng, biet cả những cố gắng, những thành công và những thất bại của chúng... Đây là “kiến thức của cõi lòng” (sapientia cordis) của người chăn chiên tốt biết đàn chiên và từng con chiên của mình.
- “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, chúng sẽ không bị hư mất mãi mãi và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. Mục tử nhân lành đã khẳng định một sự thật tuyệt đối: Người sẽ sử dụng tất cả sức mạnh của mình để giữ an toàn cho con chiên của mình.
Nhưng với sức mạnh nào mà Chúa Giêsu Mục tử nhân lành giữ lấy chiên của mình? Vị Mục tử Nhân lành yêu thương và đối xử tốt lành với từng con. Sợi dây làm hàng rào nơi ràn chiên và giữ chúng lại trong đàn là tình yêu thương và sự quan tâm, là việc hy sinh bản thân mình cho cuộc sống của đàn chiên bằng cách chết trên thập tự giá. Và đây chính là sức mạnh của Mục tử nhân lành, cũng là sức mạnh của Thiên Chúa Cha, bởi vì “Tôi và Chúa Cha là một”.Và Người làm điều hy sinh lớn lao đó không chỉ cho bản thân mình, nhưng làm như vậy vì Thiên Chúa, nhân danh Chúa Cha và với tất cả thẩm quyền của Chúa Cha.
- “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời và sẽ không bị hư mất mãi mãi”. Đây là công việc và tất cả kết quả trong tay của Mục tử nhân lành. Việc bảo vệ và hướng dẫn đàn chiên là hành động nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho đàn chiên. Đó là một cái gì đặc biệt, nhiều hơn, cao hơn, sâu hơn so với những gì thuộc thế giới này mà vị mục tử nhân lành muốn làm cho đàn chiên – sự sống đời đời. Đó phải đích đến cho một thế giới khác, là sự sống nơi Thiên Chúa và Vương quốc tình yêu của Ngài.
Về đàn chiên
- “Chiên của tôi nghe tiếng tôi”. Lời Chúa như muốn chúng ta tự vấn: Mỗi người Kitô hữu luôn luôn là người biết lắng nghe? Đâu là lời mà họ muốn nghe từ chủ chăn của mình?
Lắng nghe phải là một thái độ đón nhận vàchuyển hoá lời đó qua hành động. Đối với chúng ta, Chúa Chiên Lành được coi là Thầy dạy căn bản và đầu tiên. Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa, và Lời của Người đồng thời cũng là điều cần thiết cho cuộc sống chúng ta. Trong Ngài, đàn chiên còn được nghe lời yêu thươngvà từ ái của một Thiên Chúa – Đấng giàu lòng xót thương.
- “Tôi biết chúng và chúng biết tôi”: Như đàn chiên thuộc về Đức Kitô, chúng ta biết gì về Mục tư của mình? Bước theo Mục Tử Nhân Lành, chúng ta phải đi theo một cuộc hành trình: Thông qua Bí tích rửa tội, mỗi con chiên có thể bước đi bằng đức tin của mình với Chúa Giêsu; nhưng đích đến của cuộc hành trình vẫn còn xa. Sống trong đàn chiên là Giáo Hội và từng bước, từng bước trong đời sống hằng ngày, người kitô hữu phải tiến về phía trước theo lời mời gọi của Mục tử -Đấng yêu thương họ: Đó là sống theo Tin mừng, tập luyện đời sống nhân đức và luôn bước đi trên con đường ngay chính, hướng về sự thiện hảo là chính Thiên Chúa, không tách mình ra khỏi đàn chiên, không rẽ ngang bước tắt trên đường đi vì những đam mê và tính toán và lợi ích của riêng mình…
Trong ngày lễ Chúa Chiên lành, chúng ta cùng cầu nguyện cho các mục tử và cầu nguyện cho ơn gọi.
Những lời nói của Chúa Giêsu đã từng gây sốc cho người Pharisêu, bởi vì đôi tai và trái tim mục tử của họ đã khô cứng theo mô hình trong Cựu Ước. Khi mà vị trí của họ được coi là thầy dạy quan trọng và nắm trong tay quyền lực mạnh mẽ thì họ đã không muốn thay đổi, không muốn yêu thương, cũng như không muốn nhìn thấy sự hiện diện đầy yêu thương của vị Mục tử là chính Đấng Cứu thế. Lời cảnh cáo của Đức Giêsu Mục tử tiếp tục gây sốc cho nhiều mục tử của Giáo Hội ngày nay, trong công việc mà thường được gọi là “mục vụ”. Chúng ta hãy cầu nguyện cho điều nay: Cầu cho các mục tử ai ai cũng biết sứ vụ quan trọng của mình, nhận biết đàn chiên và từng con chiên, biết sử dụng sức mạnh của tình yêu thương và sự hy sinh để canh giữ đàn chiên, và biết quan tâm hơn cho sự sống đời đời của đàn chiên.
37. Mục tử nhân lành
Ở Trung Đông, người ta sống bằng nghề chăn nuôi, chủ yếu là chiên và cừu. Tổ phụ Abraham và con cháu ông đều có những đàn chiên, đàn cừu khổng lồ. Vua Đavid, khi còn là một cậu bé tóc hung, cũng đã đi chăn giữ đoàn chiên của cha cậu. Và cũng từ giữa đàn chiên, Thiên Chúa đã gọi Đavid và xức dầu cho cậu làm vua. Đối với dân Do thái, hai chữ mục tử còn được dùng để chỉ những vị lãnh đạo của dân Chúa.
Đức Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người giữa một dân tộc đã bao phen bị chiếm đóng, bị lưu đày. Và thời bấy giờ đang bị đế quốc Rôma đô hộ. Dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn. Ngài thường cứu chữa nhiều người mắc những chứng bệnh nan y như phong cùi, bai liệt, mù lòa…Những người này vốn đã bị liệt vào phường tội lỗi, phải sống tủi nhục bên lề xã hội. Chúa Giêsu rất thương xót họ. Ngài chữa họ lành, để họ được trở về với cuộc sống bình thường của xã hội, an vui với gia đình.
Đức Kitô không phải chỉ chữa lành phần xác, mà còn chữa lành cả phần hồn. Ngài vừa là mục tử, lại vừa là Thiên Chúa, nên Ngài thấu suốt mọi tâm hồn. Từ một Giakêu thu thuế, tham ô xảo trá, đã được Ngài thức tỉnh lương tâm bằng một cái nhìn trìu mến và đôi lời trao đổi chân tình. Ngài không sợ dư luận quần chúng, khi bênh vực một cô gái điếm và dám để cho Mađalêna lấy tóc mình mà lau chân Ngài, giữa một bữa tiệc tại nhà ông biệt phái. Đức Kitô biết rõ đây là những kẻ tội lỗi và chỉ có thể cứu chữa họ bằng tìnhyêu thương tha thứ.
Các thánh sử còn thuật lại nhiều chứng từ yêu thương khác nữa. Thề nhưng, chứng từ cao cả nhất của Chúa Giêsu, người mục tử nhân lành, chính là cái chết trên thập giá vì yêu thương chúng ta. Thực vậy, với tư cách người mục tử nhân lành, Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết ê chề và tủi nhục trên thập giá, để tỏ tình liên đới với đàn chiên khổ đau, và nhất là để cứu tất cả những con chiên còn đang lầm đường lạc lối.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về cha thánh Đamiêng, vị tông đồ người hủi. Ngài là một linh mục đạo đức, thánh thien và nhiệt thánh. Ngài đã từ bỏ mọi sự, để lại sau lưng tất cả, dấn bước tới hải đảo Molokai, một hải đảo xa côi và hẻo lánh, một hải đảo biệt lập và được dành riêng cho những người mắc phong cùi. Ngài đã đến với họ, đã sồng giữa họ, đã chăm sóc và giúp đỡ họ, những người bất hạnh bị xã hội khai trừ. Cuối cùng chính ngài cũng đã mắc phải chứng bệnh này và đã chết ở giữa họ.
Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành cũng đã đến với chúng ta, sống giữa chúng ta, đã chăm sóc và giúp đỡ chúng ta. Tất cả chúng ta đều được Ngài yêu thương, bởi vì tất cả chúng ta đều là con cái Chúa Cha, tất cả chúng ta đều là em của Ngài. Tất cả chúng ta đều là con chiên trong đàn chiên mà Ngài là vị mục tử nhân lành. Đồng thời, Ngài còn muốn tất cả chúng ta cũng lãnh nhận và chia sẽ trách nhiệm mục tử với Ngài. Có nghĩa là mỗi người chúng ta trong phạm vi và khả năng của mình, co gắng chăm sóc, yêu thương, giúp đỡ và phục vụ anh em, góp phần xây dựng một thế giới công bình và hạnh phúc, đề rồi chỉ còn một đàn chiên và một chủ chiên.
38. Rao giảng Đức Giêsu đã phục sinh
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Các tông đồ là những người đã được thấy và đụng chạm vào Đức Giêsu Phục Sinh. Vì thế, sứ mạng của các tông đồ là làm chứng điều mắt các ngài đã thấy và tai các ngài đã nghe: Đức Giêsu đã phục sinh. Chỉ nhờ Đức Giêsu phục sinh mà tất cả con người đươc cứu độ.
I. Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết
Hôm nay, qua dịp chữa lành người tàn tật và rồi bị tra hỏi, Phêrô có dịp rao giảng tin mừng Đức Giêsu phục sinh trước mặt những người lãnh đạo dân Do Thái. Phêrô nói: “Xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh Đức Giêsu Kitô, người Nazaret, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv.4, 10). Phêrô không chủ ý kết tội những người đóng đinh Đức Giêsu, nhưng ngài xác định rõ Đức Giêsu là Đấng chính các vị lãnh đạo dân đã đóng đinh Ngài.
Phêrô còn rao giảng: “ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để nhờ danh đó mà tất cả chúng ta được cứu độ” (Cv.4, 12). Theo lời rao giảng của Phêrô, Đức Giesu là người của Thiên Chúa; và Thiên Chúa đã dùng Ngài là phương tiện duy nhất cứu độ con người. Từ ngữ “phương tiện cứu độ duy nhất” ở đây có thể được hiểu theo nghĩa, nếu có một phương tiện cứu độ nào đó, thì vẫn nhơ và qua Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất, phải chăng chỉ vì Thiên Chúa muốn vậy? Phải chăng Đức Giêsu cũng chỉ là một người như bao người khác, như bao trung gian khác, hay nơi Đức Giêsu còn có điều gì khac? Thiên Chúa muốn Đức Giêsu là trung gian cứu độ duy nhất, vì Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa.
II. Đức Giêsu là mục tử tốt lành
Đức Giêsu yêu thương con người. Ngài dung hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái để diễn tả tình yêu và sự quan tâm của Ngài đối với con người. Ngài như một mục tử chăn chiên, Ngài muốn con người sống an lành và triển nở, như một mục tử tốt lành bảo ve chiên khỏi nguy hiểm và chăn dắt để chiên được no đủ. Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh và nhiều cách để diễn tả tình yêu của Ngài đối với con người. Hình ảnh cây nho cành nho cũng là một hình ảnh rất thân thương được dùng để diễn tả tương quan giữa Đức Giêsu và con người.
Người chăn chiên tốt, là người dám hy sinh mạng sống vì đoàn chiên (Ga.10, 11); Đức Giêsu là người đã hiến mạng sống vì bạn hữu (Ga.15, 13). Bí tích Thánh Thể diễn tả cách thật đặc biệt tình yêu của Đức Giêsu đối với con người. Đức Giêsu yêu con người đến độ dám chết cho con người, dám hy sinh tất cả để con người được sống. Đức Giêsu là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con ngươi.
Thiên Chúa yêu thương con người một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Ngày nay Thiên Chúa vẫn dùng nhiều người như dấu chỉ Ngài hiện diện và yêu thương con người hiện tại. Trong Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh, Giáo Hội cho tín hưu nghe bài phúc âm về Chúa Chiên Lành; và Giáo Hội cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu tu sĩ và linh mục. Xin Chúa tiếp tục khơi dậy và đánh động, để ngày nay có nhiều người quảng đại dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa qua việc phục vụ anh em mình.
III. Chúng ta là con Thiên Chúa
Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng và sinh ra qua cha mẹ mình. Một khi người cha người mẹ sinh ra con, cho dù người con đó chấp nhận hay phủ nhận, kính trọng hay khinh thường, thì cha mẹ người đó vẫn là cha mẹ người đó; vì thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, cho dù người đó có biết hay không, có chấp nhận hay không, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, của Kitô hữu và của cả những người đang theo bất kỳ một tôn giáo nào.
Nếu vậy, Đức Giêsu Phục Sinh thêm gì cho hiểu biết và tương quan giữa con người và Thiên Chúa? Một khi người ta nhận ra chân tướng của Đức Giêsu, người ta sẽ nhận ra tương quan rất đặc biệt của Thiên Chúa đối với con người. Nếu Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, hẳn Thiên Chúa phải yêu thương con người vô cùng nên Ngài mới cho Con Ngài nhập thể làm người. Con người không phải là tạo vật tầm thường, nhưng con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa, chính vì thế Lời Thiên Chúa mới nhập thể làm người. Cái chết ô nhục của Đức Giêsu trên thập giá, làm người ta còn hiểu hơn tình yêu cua Thiên Chúa đối với con người. Con người là gì, mà Thiên Chúa đã cam chịu để con người hành hạ Con của Ngài như vậy!
Chính Đức Giêsu, theo tin mừng Yoan, cũng khẳng định Thiên Chúa yêu thương con người như yêu chính Ngài (Ga.17, 23.20). Và chính Đức Giêsu cũng khẳng định Ngài yêu thương con người như Thiên Chúa yêu thương Ngài (Ga.15, 9). Một người có thể là con nhưng không được yêu thương, chẳng hạn có những người cha người mẹ bỏ con mình. Qua và nhờ Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương con người như yêu thương Đức Giêsu, Con Một Yêu Dấu của Ngài. Đức Giêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao các tông đồ lại rao giảng Đức Giêsu đã phục sinh?
2. Đức Giêsu phục sinh, điều này có đủ để chứng minh Ngài là Thiên Chúa không? Tại sao?
3. Thiên Chúa tạo dựng con người, điều này đủ để chứng tỏ con người là con Thiên Chúa. Vậy Đức Giêsu mang gì thêm cho khẳng định “chúng ta là con Thiên Chúa”?
39. Những con đường hy vọng – Rolland Dionne.
Xưa kia, người ta đã cầu nguyện cho các ơn gọi, và lúc ấy môi trường Kitô thuận lợi cho các ơn gọi. Cha mẹ hãnh diện dâng con cái cho Chúa. Sự trung thành không bị nghi ngờ, người ta dễ dấn thân trọn đời. Không thiếu cách tuyên truyền để khơi dậy các ơn gọi. Ngày nay, người ta ít cầu cho ơn gọi hơn. Ơn gọi rất hiem hoi. Các gia đình có ít con cái hơn. Những năm về sau này, nhiều trường hợp bỏ đời tu đã gây nên nghi ngờ đối với khả năng có thể triển nở trong việc phục vụ Chúa. Có bao nhiêu lý do giải thích sự thiếu hăng hái trong việc chiêu sinh.
Đâu là điều gì chúng ta phải quan tâm suy nghĩ trong ngày Chúa nhật cầu cho ơn gọi này? Đâu là những đường hướng cho tương lai? Người ta còn tin vào ơn gọi nữa không?
Đón tiếp giới trẻ.
Chúng ta đều biết đen những vấn đề của các thế hệ. Ta biết tất cả những nỗi khó khăn mà giới trẻ gặp trong việc tìm chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, ta cũng biết rằng tương lai của Giáo Hội là giới trẻ. Đó là một giới trẻ còn có khả năng sống quảng đại và dấn thân, nhưng đòi hỏi ta phải tin tưởng nơi họ. Trong các chuyến viếng thăm của Ngài, Đức Giáo Hoàng đã cho chúng ta một gương mẫu về sự tin tưởng nơi giới trẻ. Người lắng nghe họ. Ngài nói với họ: “Các bạn là Giáo Hội… Các bạn có chỗ đứng của các bạn trong Giáo Hội… Đừng chờ người ta cho bạn chỗ đứng ấy. Hãy nắm lấy nó…” Không đón tiếp giới trẻ như thế, làm sao có ơn gọi được?
Chứng tá của những người lớn.
Tư vài năm nay, chứng tá đó mất đi giá trị bởi nhiều vụ cởi áo ra đi trong Giáo Hội của chúng ta. Giới trẻ đã trở thành người đa nghi. Ai lại liều mình dấn thân vào một cuộc sống không có hạnh phúc hoặc khó thể hiện chính mình.
Cách đây hai năm, một giám mục thành thật thú nhận với một vị khách rằng điều đã ảnh hưởng nhất đến các chủng sinh trẻ trong sự lựa chọn của họ, chính là niềm hạnh phúc giãi tỏa ra nơi cuộc sống của các linh mục cao niên. Một cuộc sống như thế vẫn là cách quảng cáo tốt nhất cho ơn gọi làm linh mục. Kẻ vui thích trong một bậc sống sẽ làm cho kẻ khác ưa thích bậc sống ấy.
Đồng hành với giới trẻ.
Ngày xưa người ta săn sóc giới trẻ như một cây non. Người ta chăm nom cho sự phát triển của họ. Người ta ân cần lo toan cho họ. Họ lớn lên về sức lực và vẻ đẹp. Ngày nay, có bao nhiêu người trẻ sống trong cô đơn và trong những gia đình thiếu vắng tình thương, họ gần như cây thiếu nước và không khí, họ èo uột. Việc đồng hành với giới trẻ trở nên cần thiết. Họ cần gặp Chúa nơi một người đồng hành.
Tin vào những tiếng gọi của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu tiếp tục gọi. Những lời mời gọi của Ngài cũng vẫn quyến rũ và đầy hứa hẹn cho tương lai. Chúng ta có quan tâm đủ để trình bày cho giới trẻ tương lai được chứa đựng trong những câu đáp đẹp đẽ của những kẻ Ngài đã gọi không? Câu đáp trả của Phêrô và Andrê em ông: “Và tức khắc, bỏ lưới, họ đi theo Ngài” (Mt 4,20). Câu đáp của Lêvi, người thu thuế: “Từ bỏ mọi sự, ông đứng dậy và theo Ngài” (Lc 5,28).
Chúng ta có trách nhiệm giới thiệu cho giới trẻ kinh nghiệm về Thiên Chúa. Lời mời gọi này đã thu hút bao nhiêu người nam, người nữ vẫn còn có thể lôi cuốn giới trẻ.
Tin tưởng vào việc cầu nguyện.
Việc cầu nguyện xem ra như là ít được thực hiện hơn xưa kia: “Hãy xin thì sẽ được”. Có lẽ tất cả những cuộc khủng hoảng mà chúng ta đã trải qua và những nẻo đường mới mẻ mà người ta phải tìm kiếm đều làm cho chúng ta quên cầu nguyện cho ơn gọi. Chúa nhật cầu nguyện cho ơn gọi nhắc nhở chúng ta về công việc cấp bách này.
40. Mục tử đích thực
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Có lẽ chúng ta quá quen với câu: “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” [Tv 22 (23):1]. Câu này diễn tả sự an tâm thanh thản, thế nhưng chúng ta có thực sự thấy an tâm?
Dù chúng ta chỉ là những con chiên lạc, chiên ghẻ, chiên quậy phá, chiên bướng bỉnh,… (x. Lc 15:4-7), nhưng Thiên Chúa quá đỗi yêu thương chúng ta và muốn chúng ta đồng hưởng vĩnh phúc với Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Ngài sai Con Một đến thế gian không để luận phạt mà để giải thoát chúng ta: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ” (Ga 3:17). Ngài “không lên án” cũng đủ hạnh phúc đối với chúng ta rồi, thế mà Ngài còn muốn chúng ta “được cứu độ”. Hạnh phúc của chúng ta được nhân đôi. Đó là điều tích cực nơi Thiên Chúa.
Sách Công vụ Tông đồ kể: Bấy giờ, ông Phêrô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: “Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4:8-10). Các tông đồ đã nhân danh Đức Kitô chữa lành bệnh tật cho người khác, điển hình là một người tàn tật được chữa lành và đang đứng trước mặt mọi người
Thánh Phêrô nói thêm: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4:11; Tv 118:22). “Viên đá bị loại bỏ” lại hóa thành “viên đá nền tảng”, mà người loại bỏ viên đá đó là chính chúng ta. Thế mà Đức Kitô vẫn yêu thương và tìm kiếm chúng ta về hưởng hạnh phúc với Ngài. Thật quá kỳ diệu!
Đức Kitô là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Đấng-Gánh-Tội-Trần-Gian và là Đấng-Xóa-Tội-Trần-Gian. Thế nên, “ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:12).
Vì thế, chúng ta phải hết lòng “tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1 & 29). Thật vậy, tác giả Thánh vịnh xác định:
Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời
Thì hơn tin cậy ở người trần gian
Cậy vào thần thế vua quan
Chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời
Con xin cảm tạ Ơn Ngài
Vì đã đáp lời và cứu độ con
(Tv 118:8-9.21)
Thiên Chúa đã chuyển bại thành thắng, biến yếu thành mạnh, làm đồ bỏ thành đồ quý. Với loài người thì đành “bó tay”, nhưng với Thiên Chúa lại hoàn toàn khả thi (x. Mt 19:26). Đó là công trình kỳ diệu của Ngài trước mắt loài người! Chúng ta có một Vị Chúa như vậy thì sao lại không hạnh phúc và hãnh diện chứ? Và chắc chắn đó là sự tôn thờ chính đáng của chúng ta, không hề mơ hồ hoặc uổng phí.
Thánh sử Gioan nhắc chúng ta: “Anh chị em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Ngài yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con của Thiên Chúa” (1 Ga 3:1a). Chúng ta là những tội nhân khốn nạn, đáng trừng phạt muôn kiếp vẫn chưa đủ, vậy mà Thiên Chúa bắt Con của Ngài chết thay chúng ta, và tiếp tục nhận những tử-tội-chúng-ta làm “thiên tử”, thực sự là con-của-Trời chứ đâu phải các vua chúa hay quan quyền mới được làm thiên tử. Hơn cả tuyệt vời, vượt mức kỳ diệu, làm sao chúng ta có thể tưởng tượng nổi!
Thánh Gioan giải thích: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Ngài” (1 Ga 3:1b). Thế gian không nhận ra Chúa Giêsu là ai, không công nhận Ngài là Chúa, thế nên họ cũng không thể nhìn nhận chúng ta là con cái của Thiên Chúa, nói cho “oai” theo Hán-Việt là thiên tử. Thánh Gioan nói: “Hiện giờ chúng ta là con của Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng, khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3:2). Câu này là niềm hy vọng cho mỗi chúng ta. Là con của người cha thì “con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh” và được ở trong nhà của người cha, là con của Thiên Chúa thì chắc chắn cũng được ở trong Nhà của Thiên Chúa – tức là Nước Trời, và cũng được giống Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:11). Đó là chân dung một vị mục tử đích thực. Ngài giải thích: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (Ga 10:12a), do đó “sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10:12b-13).
Vì thế, có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Anh chị em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh chị em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai” (Mt 7:15-16). Xem trái biết cây, đơn giản mà thâm thúy, như người Việt Nam cũng có ý tương tự: “Rau nào sâu nấy”.
Chúa Giêsu cũng đã xác định Ngài là “Cửa của chuồng chiên” (Ga 10:7 & 9). Và Ngài nói: “Ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Đồng thời Ngài cũng nhận định để “lưu ý” các ngôn-sứ-giả: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ” (Ga 10:10a), và nói về chính Ngài: “Phần Tôi, Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10b).
Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu 2 lần xác định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10:11 & 14a). Tại sao? Chúa Giêsu giải thích một đặc điểm khác của vị mục-tử-đích-thực: “Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi” (Ga 10:14b). Chủ chiên luôn biết rõ từng con chiên, người chăn chiên thuê thì chiên nào ra sao cũng mặc kệ! Ngài so sánh rất thực tế và dễ hiểu: “Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha, và Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:15). Thậm chí Ngài còn nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10:16).
Đọc từng câu và để ý từng chữ trong Phúc âm hôm nay, chúng ta như uống từng giọt-mật-ngọt-ngào, và rồi có thể vừa thú vị vừa thấm thía nhiều điều.
Chúa Giêsu quả quyết: “Mạng sống của Tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10:18a). Tại sao? Ngài cho biết lý do: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được” (Ga 10:18b). Chúa của chúng ta như vậy nên hạnh phúc của chúng ta phải tính theo cấp số nhân!
Lạy Chúa, xin muôn vàn tạ ơn Ngài đã tha thứ và tái nhận chúng con làm con cái của Ngài, đồng thời là tiểu đệ và tiểu muội của Đại huynh Giêsu. Xin Chúa luôn ban cho Giáo hội có những tâm hồn quảng đại biết dấn thân trong chức linh mục, trở thành tu sĩ, trở thành những tông đồ đích thực tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu Kitô, hôm nay và mãi đến tận thế. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
41. Quyền hành và trách nhiệm
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành, là Cửa cho chiên ra vào (Ga 10:7), ai qua cửa đó thì được cứu và gặp được đồng cỏ xanh rì (Ga 10:7), Ngài đã xác nhận: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Ngài là Chủ Chiên, là Mục Tử Nhân Lành, nên Ngài có quyền đối với đoàn chiên, nhưng quyền của Ngài là “quyền hy sinh” và “quyền yêu thương” – đặc biệt là “yêu thương đến cùng” (Ga 13:1).
Xã hội loài người có nhiều loại quyền, cơ bản nhất là nhân quyền – quyền của con người. Mọi người đều bình đẳng, vì ai sinh ra cũng có nhân phẩm và nhân vị. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, nhóm có nội quy. Mỗi quốc gia có ba quyền cơ bản: Quyền lập pháp, quyền tư pháp, và quyền hành pháp.
[1] Quyền lập pháp là quyền làm luật, xây dựng luật và ban hành những văn bản luật được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. [2] Quyền tư pháp pháp là quyền bảo vệ luật pháp, do Tòa án và Viện Kiểm sát tiến hành, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện và chống lại các hành vi phạm pháp. Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là hệ thống tòa án nhân danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý, một cơ chế giải quyết các tranh chấp. [3] Quyền hành pháp do các cơ quan hành chính Nhà Nước thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của mình, bao gồm hai quyền: quyền lập quy và quyền hành chính.
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10-12-1948 tại Palais de Chaillot (Paris, Pháp). Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất 375 ngôn ngữ.
Có CHỨC thì có QUYỀN, có QUYỀN nên dễ HÀNH người khác, và có QUYỀN rồi thì chỉ muốn có LỢI. Quyền hành hoặc quyền lực như con dao sắc bén, như chiếc kéo nhọn, phải rất cẩn thận kẻo tác hại. Chính mình bị tác hại đã đành, nguy hiểm nhất là tác hại người khác, làm khổ người khác – tức là ỷ thế cậy quyền mà “hành” người khác. Có điều “lạ” là người ta THÍCH có quyền hành nhưng lại KHÔNG MUỐN có trách nhiệm!
Bác học lừng danh Albert Einstein (1879-1955, người Đức) nói: “Quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ kém đạo đức – Force always attracts men of low morality”. Một cách nhận xét nhẹ nhàng mà “đau điếng”.
Chúa Giêsu có mọi quyền hành – trên trời và dưới đất, nhưng Ngài lại không muốn dùng quyền để hành hạ người khác, mà Ngài chỉ muốn phục vụ, yêu thương và tha thứ. Ngài xác định: “Tôi là mục tử tốt lành, Tôi biết các chiên của Tôi, và các chiên của Tôi biết Tôi” (Ga 10:14). Chủ chiên thật thì phải yêu thương chiên, nếu không thì chỉ là “thợ chiên”, là “kẻ chăn thuê” mà thôi – điều mà Phúc Âm hôm nay có đề cập. Thật vậy, những kẻ có chức quyền mà tránh né trách nhiệm, chỉ muốn dùng quyền mà hành người khác, Chúa Giêsu đã nguyền rủa là “đồ khốn” (Mt 23:13-30; Mc 12:40; Lc 11:39-48; Lc 20:47) và “đồ mãng xà” (Mt 23:33-36; Lc 11:49-51). Đáng sợ thật!
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, ông Phêrô được đầy Thánh Thần và mạnh dạn nói: “Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4:8-10). Phêrô hôm nay khác hẳn Phêrô hôm qua, không còn khiếp đảm, dám bênh vực sự thật, dám bảo vệ công lý. ĐGH Phanxicô cũng đã mạnh mẽ lên tiếng nói rằng Giáo Hội phải “nói thẳng, nói thật”.
Dùng ý Thánh Vịnh 118:22, ông Phêrô cho biết: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:11-12).
Chết đi để sống lại. Chúa Giêsu đã trải qua “hành trình kỳ diệu” đó. Chúng ta chỉ là tội nhân nhưng lại được hưởng ơn tha thứ và được quyền sống, không chỉ sống ở đời tạm này mà còn được sống đời đời. Đặc quyền quá lớn, phàm nhân chúng ta có mơ cũng không thấy, nhưng đó lại là sự thật hiển nhiên, không chút mơ hồ, không là chiếc bánh vẽ. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh tha thiết nhắn nhủ chúng ta: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1 và 29).
Thật là khôn ngoan nếu biết tạ ơn Chúa, vì đó là điều minh nhiên: “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời thì hơn tin cậy ở người trần gian. Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời” (Tv 118:8-9). Mỗi lần ngủ là chúng ta “chết lâm sàng”, giống như “chết giả” để có thể trải nghiệm sự chết vậy. Do đó, mỗi khi thức dậy, chúng ta lại trải nghiệm sự sống lại. Thật là kỳ diệu, vì thế hãy hân hoan dâng lời cảm tạ Thiên Chúa: “Lạy Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa của con, xin dâng Ngài muôn câu cảm tạ; lạy Thiên Chúa con thờ, xin dâng Ngài vạn tiếng tôn vinh” (Tv 118:28).
Là con người của tình yêu, thích nói về tình yêu và nhìn theo lăng kính tình yêu, Thánh Gioan cho biết: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người” (1 Ga 3:1). Nếu có hỏi “Bạn là ai?”, liệu chúng ta có mạnh dạn nói ngay rằng “Tôi là con (của) Thiên Chúa” hay không? Cũng dễ mà cũng không dễ đâu!
Không nhiều thì ít, chúng ta cũng có “máu” Tào Tháo hoặc dòng dõi của ông “đá xanh” Tôma. Con người yếu đuối thế đấy, nói tin mà vẫn “hình như…”, chưa tin thật 100% đâu. Thánh Gioan nói thêm: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3:2). Quả là điều vô cùng lạ. Hiện nay chúng ta không thể nào tưởng tượng ra nổi. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nhiều người được thấy Ngài mà không thể nhận ra Ngài, dù Ngài vẫn là Ngài như khi chưa chịu chết. Quen mà lạ, lạ mà quen.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay chỉ có 8 câu do chính Chúa Giêsu nói chứ không có lời dẫn, ngắn gọn nhưng đầy đủ chi tiết cần thiết. Chúa Giêsu xác nhận và phân tích rạch ròi: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:11-15). Hai lần Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử nhân lành, và hai lần đề cập sự “hy sinh mạng sống”, cho thấy tầm quan trọng của việc dấn thân và quên mình. Hạnh phúc thay Việt Nam chúng ta có một tấm gương sáng về mục tử, đó là Lm Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp (1897-1946).
Chúa Giêsu “mở rộng” hơn về vấn đề chức quyền và trách nhiệm truyền giáo: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10:16-18). Ngài nhắc lại hai quyền của Ngài, khác hẳn các quyền chúng ta muốn. Ngài nói đến QUYỀN nhưng Ngài không nói đến LỢI, hoàn toàn khác hẳn với “sở thích” của chúng ta. Nghiêm túc xét mình thì thấy rằng chúng ta thật đáng xấu hổ vô cùng, vì chỉ nói hay mà làm chẳng ra gì!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con can đảm chân nhận các nhược điểm của mình để khả dĩ được biến đổi nhờ ân sủng thương xót của Ngài, biết phục vụ chứ không muốn hưởng thụ (Mt 20:28; Mc 10:45). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng phục sinh cứu độ chúng con. Amen.
42. Trục nhìn của chúng ta.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Chúng ta khó biết được mức sâu đậm của chất “thực” ẩn dưới hình ảnh “chủ chiên” trong sự so sánh của Chúa Giêsu. Ngày nay khong còn thấy cảnh những mục đồng hòa mình với đàn chiên nữa. Đám đông nghe Chúa giảng dạy có một não trạng thấm nhuần lịch sử tổ tiên họ. Abraham và những tổ phụ khác sống một đời du mục bị chi phối bởi sự tìm kiếm đồng cỏ gia súc, các ông sống giữa đàn chiên mình, biết rõ từng chiên một, và chiên cũng biết rõ chủ của chúng. Khi xưng mình là Chúa chiên lành, Chúa Giêsu biết rằng đám đông hiểu Người. Chúa đưa ra một sự so sánh hoàn toàn phù hợp với tâm lý thính giả. Nền văn mình chúng ta biết đến một loại bầy lũ khác, đó là bầy xe hơi vô trật tự, là lũ người đông như kiến trong các thành thị. Giả sử Chúa sống ở thế gian ngày nay, chắc hẳn là Người sẽ dùng một hình ảnh so sánh khác để nói với chúng ta, nhưng giáo huấn của Nguòi cũng sẽ như xưa mà thôi. Chúa Giêsu dạy chúng ta điều gì?
1) Trước hết, dạy chúng ta biết đến một sự hiện diện. Chúa hiện diện giữa thế giới như người chủ chăn sống lẫn với đàn chiên mình. Một trong những đặc tính của chủ chăn là tham gia đời sống đàn chiên, chủ và chiên nên như một: Chủ chiên không đứng ngoài đàn, nhưng dẫn đầu đàn chiên. Xuyên qua sự so sánh Chúa muốn cho người ta hiểu rằng Người có mặt trong nhân loại và dẫn dắt nhân loại. Không một ai ở bất cứ thời nào lọt ra ngoài cặp mắt cảnh giác chăm nom của Đấng muốn chăn dắt y tới chốn mà y sẽ tìm ra lương thực và an toàn. Lương thực cho tâm trí, cho trí tuệ và ý chí, cho cơ thể nữa –đó là mối quan tâm chiếu cố luôn luôn sẵn sàng của Chúa đối với con người ngày nay. Tuy nhiên muốn được chăm nom thì phải thỏa mãn một điều kiện: con người phải chấp nhận làm thành viên, nhất là do đức tin, của “bày chiên” mà Đức Kitô là Chúa chiên lành.
2) Ta biết chiên Ta… như Cha biết Ta. Ở đây chúng ta vào một lĩnh vực của linh hồn trong đó ẩn náu cái nhu cầu sâu kín nhất của con người. Thật vậy, bởi đâu con người đau khổ nhất? Đau khổ vì cảm thấy mình cô đơn: Không một tình thương mến nào, không một trực giác nào, không một sự chăm sóc nào có thể đi vào tâm kham của bản thể chúng ta. Trong lương tri chúng ta có một trung khu, nơi đây không một ai (kể cả chính ta nữa) được quyền vào sâu, và ở trong trung khu đó, chúng ta cảm thấy lẻ loi cô quạnh. Những ngành khoa học nhân văn, nhat là khoa tâm lý học, cố gắng tìm hiểu những cơ chế âm u của vô thức. Cho dù những khoa đó đạt được kết quả thì vẫn còn đó cái lối cá biệt không sao phân tích được, trong cái nhân ấy con người cảm thấy vấn đề của mình –với số mệnh mình. Con người đau khổ và không được ai hiểu biết mình đến tận cùng nội tâm.
Thế mà, này đây Chúa nói Chúa hiểu biết con người như Cha hiểu biết Con. Như Cha biết Ta, nghĩa là Chúa biết rõ con người bằng một sự hiểu biết trực tiếp vào sâu tới chỗ tận cùng tâm khảm giữa Cha và Con có một sự hiểu biết tương giao toàn diện, hiểu tới tận cùng. Chúa hiểu biết tới đáy lòng con người. Chúa làm cho con người hết lẻ loi. Nếu toi tự hỏi lòng thì tôi biết rằng có một Đấng biết rõ tâm khảm tôi, vào sâu trong tôi, hiểu tôi, và –đây là một niềm an tâm tuyệt đỉnh- Người xét đoán tôi, không phải để lên án, nhưng là để cứu vớt tôi, vì Người thương tôi.
Có một hệ quả (trong số biết bao hệ quả): chúng ta có nhậy cảm không, đối với nỗi cô đơn của những người anh em ở quanh ta? Họ sẽ cảm thấy được chúng ta hiểu biết họ đôi chút, do đó thấy vơi đi được một ít nỗi buồn lẻ loi cô quạnh. Nếu như chúng ta cố hiểu họ như Chúa hiểu họ, nghĩa là nếu chúng ta đứng vào đúng trục nhìn của đôi mắt yêu thương Chúa Giêsu hướng thẳng về họ.
43. Hiến mạng cho chiên.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tháng 3 năm 1980 Đức cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết lên tiếng phản đối chính phủ vi phạm nhân quyền, vì đã ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản áp bức bóc lột nông dân. Người dân ở đây tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức cha đã đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động của ngài có thể đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và cái chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giêsu, Người Mục Tử nhân lành, Ngài sẵn sàng hiến mạng sống cho đàn chiên được sống và sống dồi dào, vì tin rằng đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày 24/3/1980, một tay súng bắn thuê đã hạ sát Đức cha Rômêrô trong lúc ngài đang cử hành Thánh Lễ với giáo dân, đàn chiên của Giáo phận ngài chăm sóc.
Ngày xưa, ở Palestin, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là một nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Kinh Thánh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Mục Tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh Kinh đã hát lên:
“Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi,
Tôi chẳng thiếu thốn gì…
Dầu qua lũng âm u,
Tôi sợ gì nguy khốn,
Vì có Chúa ở cùng..”
Từ đó các nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Tiếc thay, theo thời gian, vai trò lãnh đạo tôn giáo của Israel đã bị thoái hoá. Vào thời kỳ ay, Ngôn sứ Ezekiel đã nhân danh Chúa cảnh cáo các vị mục tử này: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi: các người chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến đàn chiên. Các ngươi chẳng chăm soc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh tật, băng bó những bị thương tích, dẫn về những con lạc đường, hoặc tìm kiếm hững con lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, Vị Chủ Tế Tối Cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách đàn chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao đàn chiên cho một Vị Vua, giống như Đavít, tôi tớ Ta để làm Mục Tử và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc cho đàn chiên” (Ez 34,2-4,9-10.23).
Chúng ta phải đọc Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh này. Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Nói cách khác, Chúa Giêsu chính là nhan vật mà Ngôn sứ Ezêkiel đã tiên báo. Giống như Đavít, người Mục Tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con chiên yếu đuối, bơ vơ, chữa lành những con bệnh tật và tìm kiếm những con lạc đường. Hơn nữa, Ngài hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Lại còn hơn thế nữa, Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ sự sống Phục Sinh của Ngài cho đàn chiên. Đây chính là điều Thánh Gioan đã nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Kitô, không những chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi, được cứu thoát mà còn được nên giống như Thiên Chúa, được đồng vinh quang với Thiên Chúa nữa”. Và trong bài đọc 1, Thánh Phêrô cũng quả quyết trước công nghị: “Khong có Đấng Cứu Độ nào khác ngoài Đức Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, vì dười bầu trời này, ơn cứu độ không gặp được ở một ai khác”.
Như thế, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, chúng ta hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn người Mục Tử nhân lành một cách sâu xa hơn: Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, ngài đã cứu chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi phải chết. Ngài đang hiện diện giữa thế giới chúng ta để tập họp chúng ta lại thành một đàn chiên của Ngài và ban cho chúng ta sự sống đời đời, để chiên của Ngài nghe tiếng Ngài, đi theo Ngài, thì “ không bao giờ phải diệt vong, không ai có thể giựt khỏi tay Ngài được”(Ga 10,28).
Chúa Nhật hôm nay được chọn làm ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, Tu sĩ. Cầu nguyện và hoạt động để có nhiều, có thêm số các mục tử. Làm mục tử là chăn dắt với Chúa Kitô, phụ một tay cho Chúa Kitô, chia sẻ công việc chăn dắt của chính Chúa Kitô. Chỉ có Chúa Kitô là Mục Tử nhân lành duy nhất, còn các mục tử khác chỉ là thay mặt Ngài mà chăn dắt đàn chiên của Chúa. Hơn nữa người mục tử vẫn là chiên của Chúa Kitô, cũng phải được chính Chua Kitô chăn dắt. Như thế, không phải chỉ có các giám mục, linh mục mới là mục tử, nhưng mọi tín hữu cũng là “mục tử” theo gương người Mục Tử nhân lành là Chúa Kitô, vì Ngài đã trao phó trách nhiệm chăn dắt đàn chiên cho chúng ta, cho từng người tín hữu trong phạm vi, trong lãnh vực của mình. Dù là giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ hay giáo dân, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những người chung quanh, và do đó, chúng ta là “mục tử” trong mức độ trách nhiệm của chúng ta: cha mẹ có trách nhiệm với lợi ích thể xác và tinh thần của con cái; các thành viên trong gia đình có trách nhiệm với nhau. Các thầy, cô có trách nhiệm với các học sinh ở trường, lớp. Các viên chức từ xã đến chủ tịch hay tổng thống đều có trách nhiệm nặng nề với nhân dân. Cũng thế, cha sở có trách nhiệm vơí mọi người trong họ đạo, gồm cả người chưa tin, người trễ nãi, người bỏ đạo. Các tu sĩ nam nư phụ trách các cộng đoàn lớn nhỏ đều có trách nhiệm với các thành viên của cộng đoàn và các thành viên của cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, cũng có trách nhiệm với nhau. Đức Giám Mục cũng có trách nhiệm với mỗi người trong giáo phận của ngài. Đức Giáo Hoàng có trách nhiệm trên toàn thế giới. Trách nhiệm vô cùng nặng nề!
Và vì là mục tử, chúng ta phải biết đến nhu cầu của người khác. Biết nhìn, biết chăm lo, biết dấn thân phục vụ đến độ sẵn sàng thí mạng sống cho anh em theo gương người Mục Tử nhân lành, như Đức Tổng Giám Mục Rômêrô đã hiến mạng sống cho giáo dân trong Giáo phận San Salvador của ngài. Với ý thức trách nhiệm mục tử, người tín hữu không còn sống cho riêng mình nữa, không còn được phép mưu lợi cho cá nhân mình nữa. Là Kitô hữu, linh mục, tu sĩ hay giáo dân, tôi phải là mục tử, tôi phải chăn dắt đàn chiên Chúa giao phó cho tôi: gia đình tôi, cộng đoàn tôi, giáo xứ tôi, giáo phận tôi, đồng nghiệp, đồng bào tôi. Có hoàn thành trách nhiệm chăn dắt theo ý Chúa, tôi mới tìm được hạnh phúc đích thực hoàn toàn.
Anh chị em hiệp ý với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu xin cho các kitô hữu thực sự là đàn chiên của Chúa, đồng thời là mục tử theo gương Chúa Kitô, trong khi thi hành chức vụ của mình, và cho Giáo Hội có thêm nhiều người biết dấn thân theo lời mời gọi của Chúa, trở nên những mục tử nhiệt thành, biết quên mình phục vụ đàn chiên. Với tâm tình này, chúng ta dâng Thánh Lễ như tiến vào đồng cỏ xanh tươi, suối nước mát trong, để được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Chúa Kitô và được hạnh phúc sống dưới sự chăn dắt chở che của Ngài.
44. “Ta Là Mục Tử Tốt Lành” – Noel Quesson.
“…Người mục tử tốt lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”.
Trên một tờ báo y học ở Achentina, bác sĩ Gioan Coóctê (Jean Cortez) đã kể một trường hợp đặc biệt chính ông chứng kiến. Ông chữa bệnh cho một bé gái tên là Angien. Bé Angien bị ung thư bao tử, một bệnh ít khi xảy tới cho người trẻ tuổi. Sau mấy lần giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành báo tin buồn cho bà mẹ rằng ông chịu bó tay, bé Angien đã chết.
Mẹ em bé, bà Maria gần như hoá điên trước tin này. Bà không cho ai đụng tới thi thể con gái và quì cầu nguyện lâu giờ bên giường em. Bác sĩ Cortez nghe bà cầu xin Chúa để bà chết thay cho con. Ông rất cảm động, làm hiệu cho mọi người ra ngoài để bà mẹ một mình với con. Lúc trở lại, ông bỡ ngỡ thấy em Angien đứng bên giường, dáng vẻ rạng rỡ khoẻ mạnh. Còn bà mẹ gục đầu trên giường và thều thào với bác sĩ Cortez: Thưa bác sĩ, Chúa đã nhận lời tôi. Bác sĩ Cortez cho làm mọi loại thử nghiệm và thấy em Angien đã hoàn toàn khoẻ mạnh không còn dấu vết đau ốm nào. Còn bà Maria thì đang hấp hối vì bệnh ung thư bao tử, căn bệnh mà con gái bà đã mắc từ hai năm nay. Các thân nhân xúm quanh bà mẹ, an ủi bà và hứa chăm sóc bé Angien chu đáo. Vài giờ sau, bà tắt thở. Bác sĩ Gioan Coóctê kết luận: “Tôi không thể giải thích chuyện này vì rõ ràng em bé đã chết. Một nguồn lực siêu nhiên đã chứng giám và can thiệp vào tình mẫu tử mạnh mẽ của bà mẹ”.
Tình mẫu tử khiến bà Maria sẵn sàng chết thay con. Người ta lý giải cường độ mạnh mẽ của tình mẫu tử là vì chính bà mẹ đã chia sẻ cuộc sống cho con. Hai mẹ con dường như chỉ có một sự sống duy nhất. Và Chúa Giêsu đã muốn dùng hình thức sự sống này để diễn ta mối liên kết giữa Chúa với mọi người chúng ta. Người diễn tả ý này bằng nhiều cách: “Ta là bánh sự sống; Ta là ánh sáng thế gian; Ta là cửa; Ta là Mục tử nhân lành; Ta là cây nho; Ta là sự sống lại và là sự sống”. Còn chúng ta là con người được nuôi dưỡng bắng bánh sư sống, chúng ta là chiên, là cành nho, được thông ban sự sống của Chúa. Vì thế, Người sẵn sàng chết để cứu độ chúng ta.
Lời lẽ của Chúa hoàn toàn khác biệt với bất cứ một người sáng lập học thuyết, tôn giáo nào. Kiểu nói làm ta nghĩ tới Thiên Chúa, Đấng mạc khải tên mình cho Môi-sê; Đấng đã phán từ bụi gai bừng cháy; Ta là Đấng tự hữu.
Danh hiệu Người Mục tử đã thành cổ điển trong mọi nền văn hoá Đông phương. Chúa là Mục tử chân chính, khác hẳn những người chăn thuê, làm mướn. Vì chỉ có Mục tử chân chính mới sẵn sàng hiến mạng vì chiên. Chúa đã thực hiện điều này để chúng ta thấy rõ Tình Yêu của Người, thấy rằng Chúa là Mục tử duy nhất chan thực, vị Mục tử nhân lành đã hy sinh mọi thứ vì đàn chiên, kể cả tài sản quý hoá nhất, đó là mạng sống mình, nhất nữa đó lại là mạng sống của Chúa, mạng sống mà Chúa tự nguyện hy sinh. Cái chết của Chúa không phai bất ngờ, không phải chịu thua bạo lực, nhưng là một hiến ban hoàn toàn ý thức và tự do. Chúa chết như một hành động yêu thương… Một Tình Yêu tột đỉnh (Ga 13,1; 15,13)
Chúa là Mục tử thực, Chúa biết rõ các chiên và các chiên biết Chúa. Hiểu biết này không phải chỉ là nhận thức, nhưng là thấu hiểu, là chia sẻ cuộc sống. Một hiểu biết ở mức độ chặt chẽ nhất, cao thượng nhất: Như Cha biết Ta và Ta biết Cha. Tình thân giữa Chúa với những người được Chúa cứu chuộc bằng cái chết của Người cũng chính là tình thân mật giữa các ngôi vị Thiên Chúa, và chúng ta được thông hiệp trong sự sống, trong tình yêu của Thiên Chúa cao cả.
Kinh Thánh dùng từ ngữ đoàn chiên để nói về dân Israel: Chúa Giêsu đã mở rộng từ này tới một giới hạn vô tận: Ta còn nhiều chiên khác ngoài đàn, Ta phải đem tất cả về, và sẽ chỉ còn một đoàn chiên, một Mục tử. Chúng ta có sứ mệnh cùng Chúa thưc hiện mục tiêu của tình yêu lớn lao cao cả đó.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con là những người cộng tác với Chúa, được chu toàn nghĩa vụ loan báo Tin Mừng cứu độ cho cả những chiên ngoài đàn như lòng Chúa ước mong.
45. Làm sao nghe được tiếng Chúa?
(Suy niệm của Lm. Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống luôn náo nhiệt. Ồn ào trong mọi nơi mọi lúc. Con người như lạc lõng giữa muôn vàn âm thanh trong thế giới ồn ào. Có đôi khi chúng ta không còn nghe được tiếng gọi của sự thật hay tiếng nói của lương tâm.
Anh A đã từng nhiều lần vào tù vì tội tham lam trộm cắp nhưng anh nói giữa cuộc đời bon chen anh không bao giờ nghe được tiếng nói của lương tâm mà chỉ nghe những thét gào của tranh giành, lừa đảo và bon chen... Anh bảo rằng mình không biết phải sống thế nào cho đúng với lương tâm, vì lương tâm đồng nghĩa thua thiệt và mất mát.
Chị B cũng từng ngụp lặn trong biển tình say đắm. Với chị có sắc đẹp là có tiền, có tình. Chị chỉ nghe thấy tiếng gọi của đồng tiền và thú vui xác thịt. Chị được người đời đeo đuổi réo gọi vì chị có nhan sắc trời cho. Cuộc đời chị cần tiền để bồi dưỡng thân xác và được cưng phụng. Thế giới của chị luôn phải chạy theo tiếng gọi của đồng tiền và sắc đẹp.
Cậu C bảo rằng giữa một thế giới chạy theo tiếng gọi của danh lợi thú làm sao nghe được tiếng Chúa. Tiếng gọi của tình, tiền, và quyền luôn hấp dẫn, lôi cuốn khiến con người luôn bị lạc lối một trong ba tiếng gọi ấy!
Điều đáng buồn là con người dường như mất định hướng trong thế giới náo nhiệt hôm nay. Con người dường như không bao giờ hạnh phúc trong danh lợi thú khi họ vất vả tìm kiếm, và càng không có bình yên trong thế giới đầy bon chen giành giựt để sống. Vậy làm sao con người có thể thoát ra được thế giới náo nhiệt này?
Người ta kể rằng một lần đội vệ binh đang đứng làm thành hàng chào một vị quan lớn tới thăm. Đúng lúc vị quan lớn gần tới thì một đàn cừu ở đâu hiên ngang đi ra. Con đường độc đạo giờ đây bị đàn cừu chiếm lĩnh. Người chỉ huy ra lệnh cho thuộc cấp:
- Bằng mọi giá anh em hãy lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường.
Đội vệ binh dùng đủ mọi cách, kể cả việc dùng súng bắn chỉ thiên để lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường nhưng vô vọng!
Một người lính liền nói: xin mọi người yên lặng. Và từ xa tiếng sáo du dương trầm bổng đang réo gọi. Không cần đuổi, chẳng nhọc công, đàn cừu hướng tầm nhìn và ùa chạy về phía tiếng sáo. Hân hoan và vui mừng, chúng quây quần bên người mục đồng nhỏ bé đang đứng trên gò đất cao.
Giữa muôn vàn tiếng ồn ào của đám đông, chỉ cần thinh lặng, một chút lặng yên thôi, cũng đủ để đàn chiên nghe được tiếng gọi của người chăn dắt. Thế giới chúng ta đang sống cũng có quá nhiều tiếng động xô bồ và âm thanh hỗn tạp, quá nhiều đến độ chúng ta không còn có thể nghe được tiếng nói của lương tâm của sự thiện, và càng không thể lắng lòng để nghe được tiếng gọi Đức Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành.
Phải chi chúng ta cũng có được những khoảnh khắc trầm lắng quý giá như thế, để rồi nghe được thứ thanh âm của sự tĩnh lặng, nghe được lời gọi của Thiên Chúa và nhận ra Người? Phải chi chúng ta cũng biết trao tặng cho chính mình mỗi ngày một vài phút cô tịch để đọc Lời Chúa, để nghe và nhận ra tiếng thì thầm của Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta: “Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi, và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử”.
Hôm nay lễ Chúa chiên lành, là dịp để chúng ta tạ ơn vì Ngài luôn yêu thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta bằng muôn nghìn cách. Dù cuộc đời có biết bao cám dỗ mời mọc chúng ta vào con đường tội lỗi. Có biết bao đam mê khiến chúng ta lầm đường lạc lối. Có biết bao con đường dẫn chúng ta xa lìa sự sống đời đời. Nhưng Chúa luôn ở bên và kêu gọi chúng ta ra khỏi bến mê tội lỗi. Xin cho chúng ta biết nhận ra tiếng Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì ở nơi Ngài mới có hạnh phúc bền vững còn những danh lợi thú chỉ là phù vân mau qua và chẳng bao giờ đem lại niềm vui trường cửu cho ta. Amen.
46. Mục tử thật - mục tử giả.
(Suy niệm của Lm. Tạ Duy Tuyền)
Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: "Vàng thau lẫn lộn". Hàng thật hàng giả đã khó phân biệt mà người tốt, người xấu càng khó phân biệt hơn. Co những mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng nuốt cay khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người vì cả tin nghe người nên bị lừađến thân bại danh liệt. Kẻ bị lừa tình mà ôm hận suốtđời. Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa nhà. Có kẻ giảnhân giả nghĩa để đánh lừa đồng loại và vun quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa. Người công chính phải tù tội lầm than vẫn còn đó trong kiếp người hôm nay. Đó là kết quả tất yếu của chủ nghĩa thực dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Con người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình. Tìm hạnh phúc cho mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh phúc cua mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại, cho dù đó là cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ phàng đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.
Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa con sinh ra sẽ thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình. Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa đường chỉ vì một mối tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con đã bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo cho chính bản thân mình.
Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh. Không có hy sinh làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân nghĩa, nên người ta đâu cần hy sinh và đối xử tốt với nhau. Câu chuyện "Anh phải sống" của Khái Hưng không còn là văn học phản ánh hiện thực xã hội hôm nay nữa! Nó chỉcòn là huyền thoại, một dĩ vãng đã qua.
Chuyện kể rằng: có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiec thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dỏng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống đểnuôi nấng đàn con".
Tác phẩm "Anh phải sống" đã một thời đi vào lòng người, vì nó phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc. Nhưng xem ra, tác phẩm này không còn chỗ đứng trong xã hội hôm nay. Vì giá trị con người hôm qua được đo bằng tấm lòng biết xả thân vì đồng loại, biết quên mình vì giađình, vì dân tộc, còn giá trị của con người hôm nayđược cân nhắc bằng tiền bạc và địa vị. Người càng có lắm tiền nhiều của càng được kính trọng, nể vì. Người càng có địa vị cao càng có nhiều kẻ hầu người hạ. Có mấy ai dùng quyền để phục vụ vô vị lợi cho tha nhân? Có mấy ai dùng tiền để mua lấy tình bạn? Thế giới đã đổi thay! Cách sống cũng đổi thay. Con người chạy theo lợi nhuận. Mọi quan hệ, mọi việc làm đều được căn nhắc thiệt hơn. Vì quyền lợi của mình mà bỏ rơi đồng loại. Vì lợi ích của mình mà chà đạp lên danh dự, nhân phẩm người khác. Lòng đại nghĩa hy sinh đã bị chôn vùi khi đặt quyền lợi mình trên lợi ích của anh em.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tửgiả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên nođầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên. Chúa Giêsu đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi đểtìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiênđược sống.
Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụchăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không aiđược phép bàng quan trước sự dữ dang bủa vây gia đình, xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm với anh em thì giòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chung ta đều biết đưa vai gánhđỡ gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc đời này sẽ là một thiênđàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của hanh phúc yêu thương.
Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì "ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời.
Nguyện xin Chúa Giêsu mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen.
47. Ơn kêu gọi.
Hôm ấy thánh Phêrô và Gioan bị điệu đến trước tòa án Do Thái vì những tội trạng như đã chữa lành cho một người què, đã rao giảng danh Đức Kitô cho dân chúng, khiến nhiều người nghe lời giảng mà tin theo, để rồi trở nên những con chiên trong đàn chiên của vị mục tử duy nhất là chính Đức Kitô.
Tuy nhiên, để họ được nghe tiếng Ngài, thì phải có những người được sai đi rao giảng, như Phêrô và Gioan mà tôi vừa nhắc đến.
Phải cần thật nhiều những vị tông đồ đi rao giảng thì nhân loại này mới thực sự trở nên một đoàn chiên dưới quyền dẫn dắt của một chủ chiên. Vì thế, nhân ngày ơn thiên triệu hôm nay, trước hết phải là ngày cầu nguyện và hành động để có thêm, thêm nữa số các tông đồ.
Nếu như con người thời nay không muốn lắng nghe Tin Mừng thì lại càng cần phải có nhiều người đi rao giảng, để ở mọi nơi và trong mọi lúc, Tin Mừng được trình bày dưới mọi góc cạnh cho mọi người, để rồi không ai nói được rằng mình chẳng hề được nghe nói về Tin Mừng ấy.
Tuy nhiên, đông số tông các tông đồ mà thôi chưa đủ, điều cần thiết là phải có những tông đồ hội đủ tư cách và khả năng, mà Phêrô hôm nay là những tấm gương sáng ngời. Ông không ngừng rao giảng khi được thong dong, trước đám đông dân chúng đang ngạc nhiên và ngưỡng mộ vì phép lạ người què vừa mới được chữa lành. Hơn thế nữa, ông còn rao giảng hùng hồn và dạn dĩ khi đứng trước tòa án Do Thái, trước những vị đầu mục của dân chúng. Nếu chúng ta có nói rằng ông đang hiến mạng sống mình vì đoàn chiên, thật cũng chẳng sai. Cứ thử so sánh phiên tòa hôm nay với phiên tòa xét xử Chúa Giêsu mà xem, chúng ta sẽ thấy có những điểm thật giống nhau.
Trước đây người ta hỏi Chúa Giêsu: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy. Còn bây giờ người ta cũng hỏi các ông: Bởi quyền phép nào hay nhân danh ai mà các ngươi đã làm những điều ấy. Tòa chỉ chờ họ thưa: nhân danh Chúa Giêsu, để khép tội, vì thưa như vậy là coi Đức Kitô là Thiên Chúa. Đó cũng chính là tội trạng của Chúa Giêsu vì dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa.
Nếu Đức Kitô đã không sợ chết, thì các môn đệ của Ngài cũng không sợ phải hiến mạng sống mình. Các ông tuyên xưng một cách mạnh dạn Đưc Kitô là Đấng Cứu Thế. Vụ án của Ngài đã được nói trước trong Kinh Thánh, vì Ngài chính là viên đá bị thợ xây loại bỏ, lại trở thành viên đá góc xây nên đền thờ Thiên Chúa.
Phêrô và Gioan là những tông đồ sẵn sàng hiến mạng sống mình vì danh Đức Kitô, để giống như Ngài và kết hợp với Ngài trong mầu nhiệm cứu độ, tiếng các ông đã vang vọng, để rồi đã được lắng nghe, đã được đón nhận và đã thôi thúc được nhiều người đã trở ve trong đoàn chiên của Chúa.
Tóm lại trong ngày cầu nguyện cho ơn kêu gọi, chúng ta hãy kêu xin Chúa sai thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài, nhưng đồng thời phải là những thợ biết gặt, phải là những mục tử dám hy sinh vì đoàn chiên, để nhờ đó qui tụ được những con chiên còn lạc đường vào một đoàn chiên và dưới sự dẫn dắt một chủ chiên duy nhất mà thôi.
48. Mục tử nhân lành
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Mục tử nhân lành là một hình ảnh rất đẹp ở xứ Palestin. Danh xưng mục tử nhân lành không phải là tôn danh người ta gán cho Chúa Giêsu để ca tụng Ngài, nhưng đây chính là mạc khải của Chúa Giêsu cho biết Ngài là ai. Ngài là mục tử thứ thiệt, mục tử chính hiệu, mục tử nhân lành đúng nghĩa.
- Mục tử nhân lành là mục tử biết rõ đàn chiên:
Ngài biết rõ từng con chiên. Biết theo nghĩa Thánh kinh, tức là không phải chỉ biết trên lý thuyết, biết theo con số, nhưng là biết tường tận từng đặc điểm, từng tính cách của mỗi con chiên và Ngài có thể gọi tên từng con một, dẫu đàn chiên của Ngài là vô cùng đông đảo. Tương quan giữa Ngài và đàn chiên là rất gần gũi và mật thiet. Đàn chiên trở nên lẽ sống của Ngài.
Ngài gọi tên rồi đi trước dẫn đường cho đàn chiên theo sau. Ngài đi trước chứ không phải đi sau để "lùa". Chiên đi sau cũng có nghĩa là chúng được Ngài cho tự do để có thể theo hoặc không theo Ngài. Ngài đi trước bằng lời nói, bằng việc làm. Ngài đi trước bằng gương sáng phục vụ cách tận tuỵ.
- Mục tử nhân lành là mục tử yêu thương đàn chiên:
Ngài không chăn dắt bằng quyền uy và bạo lực như những mục tử trong Cựu Ước. Ngài cũng không chăn dắt kiểu tắc trách, gặp chăng hay chớ như những kẻ chăn thuê. Ngài chăn dắt hoàn toàn bằng tình yêu và trách nhiệm. Tình yêu được thể hiện đặc biệt ở chổ: đối với những con chiên đau yếu, Ngài tận tuỵ chạy chữa; những con chiên thương tích, Ngài tận tình băng bó; những con chiên lạc đàn, Ngài tận lực kiếm tìm; những con chiên có nguy cơ làm mồi cho sói hùm, Ngài tận trung canh giữ... Ngài chưa thể an giấc, bao lâu còn những con chiên bị yếu đau, thương tích. Ngài chưa thể an phận, bao lâu còn những con chiên ngơ ngác lạc đàn. Ngài chưa thể an tâm, bao lâu còn những con chiên hoang đàng đùa giỡn trước nanh vuốt của ac thú. Mục tử nhân lành là thế, và nhất là Ngài còn sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.
- Mục tử nhân lành là mục tử hiến mạng vì đàn chiên:
Thường tình thì chủ chiên bắt các con chiên hiến lông, hiến thịt, hiến sữa và cả hiến mạng cho mình. Hiếm có trường hợp ngược lại. Đây là điểm khác biệt rõ nét giữa mục tử nhân lành và người chăn thuê. Chỉ có mục tử chính hiệu Giêsu nhân lành mới sẵn sàng tự nguyện hiến mạng cho đàn chiên. Ngài hiến mạng để bảo vệ sự hiệp nhất cho đàn chiên. Ngài hiến mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Nói cách khác để đàn chiên có được sự hệp nhất và sự sống sung mãn, Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính giá máu của mình. Đây là đỉnh cao của tình yêu mà Ngài dâng hiến cho đàn chiên.
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trở nên những con chiên tốt lành của Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, mục tử chính hiệu. Trở nên tốt lành qua hai tương quan tình yêu:
- Tương quan với người mục tử: biết - nghe - đi theo. Biết mục tử của mình là Đấng đã yêu thương và hiến mạng sống vì mình. Biết qua Lời của Chúa, qua Phụng vụ các Bí tích, qua cầu nguyện.... Nghe theo tiếng người mục tử, tiếng mang lại hạnh phúc đời đời, chứ không nghe tiếng người lạ. Đi theo mục tử của mình, chứ không đi theo người lạ, kẻ trộm hay sói dữ. Nếu chiên mà nghe và đi theo người lạ thì sẽ bị lạc; nghe và đi theo kẻ trộm sẽ bị bắt; nghe và đi theo sói dữ sẽ bị ăn thịt. Chỉ khi biết nghe và đi theo chủ mình thì mới có sự sống đích thực. Vì chỉ có chủ chiên mới đưa đàn chiên tới những nơi có đồng cỏ xanh tươi, có suối nước mát lành.
- Tương quan với các con chiên khác: hiệp nhất trong yêu thương, phục vụ trong quên mình. Biết, nghe và đi theo chủ chiên, con chiên cũng phải biết yêu thương hiệp nhất trong đàn chiên nữa. Chiên không thể cấu xé nhau, hay mạnh con nào con đó sống. Trái lại các con chiên khoẻ mạnh phải biết phục vụ nâng đỡ các con chiên ốm yếu theo gương của chủ mình. Sẽ không thể nào có một đàn chiên duy nhất, nếu các con chiên không hoà hợp với nhau, không yêu thương nâng đỡ nhau. Sẽ không thể nào trở nên gương sáng cho các con chiên khác không thuộc về đàn noi theo, nếu đàn chiên không biết hy sinh phục vụ lẫn nhau theo tinh thần của người mục tử nhân lành.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân được thuộc về đàn chiên của Chúa. Và hãy xin Người giúp chúng ta luôn biết trung thành nghe và đi theo vị mục tử tuyệt hảo là chính Chúa, qua các các vị chủ chăn đại diện cho Chúa ở trần gian. Xin Chúa cũng gởi thêm cho chúng ta nhiều mục tử nhân hậu biết noi gương Chúa hết lòng yêu thương và sẵn lòng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên được Chúa trao phó. Amen.
49. Câu hỏi.
Lần kia, có một thanh niên đến thăm chủng viện. Trên các bức tường của hành lang và trên các bảng yết thị có những áp phích với dòng chữ: “Chúa Kitô là câu trả lời”. Ngạc nhiên trước lời này, người khách trẻ tuổi đến bên một áp phích và ghi nguệch ngoạc bên dưới dòng chữ sau: “Cái gì là câu hỏi?”
Cái gì nằm sau những đau khổ? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Nếu cuộc đời là vô nghĩa thì tại sao con người phải nhọc nhằn tranh đấu vất vả để chỉ có được vài niềm vui cỏn con, mà cuối cùng kết thúc bằng cái chết? Trong thư của thánh Phaolô, chúng ta thấy ngài nhắc đến một khẩu hiệu của thế gian này: “Hãy ăn, hãy uống đi vì ngày mai chúng ta sẽ chết?”
Qua việc sống lại, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy cuộc đời không phải là một cuộc đánh đố vô nghĩa. Sự Phục sinh của Chúa đã mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của chúng ta. Hơn thế nữa, việc Chúa Kitô Phục sinh từ cõi chết là biến co quyết định xác nhận tính chân thật của mọi lời Ngài nói, mọi việc Ngài làm và cả cuộc đời Ngài đã sống. Chúa Giêsu không phải là một kẻ lừa đảo, cũng không phải là một con người tầm thường. Như lời thánh Phaolô đa nói trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng”.
Chúng ta được mời gọi trở nên những người thông phần tích cực vào sự thương khó, cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô để sống những thực tại đó trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chẳng hạn, cái chết của Chúa Kitô dạy chúng ta phải chết đi cho con người cũ của chúng ta. Như vậy, khi một người chiến đấu để bỏ tật nghiện thuốc lá, bỏ chơi bài bạc và những tật xấu khác của mình thì người ấy đã minh họa cho việc sống lại với Chúa Kitô trong một cuộc sống mới. Trong một xã hội tràn ngập việc hối lộ và tham nhũng, khi một người Kitô hữu làm việc một cách lương thiện, bất chấp những cám dỗ chung quanh mình, người ấy biểu lộ sự trung tín của Chúa Kitô với thánh ý của Chúa Cha.
Lần kia, một linh mục cao nien, thành viên của một cộng đoàn tu sĩ, ngài có tiếng là hay cáu gắt, nóng nảy đã đi dự một tuần tĩnh tâm trong mùa chay. Khi trở về, con người của ngài đã thay đổi hẳn, ngài dán một tấm biển ở cửa phòng: “Con người mới đang sống ở đây. Con người cũ đã chết và được chôn cất rồi”. Toàn thể cộng đoàn rất vui mừng trước những thay đổi trong cuộc sống của ngài. Nhưng sự thay đổi cũng chỉ được vài tuần lễ, những tính xấu của ngài lại xuat hiện một lần nữa.
Một ngày nọ, một thành viên trong cộng đoàn đến viết vào tấm biển của vị linh mục cao niên đó dòng chữ sau đây: “Nhưng ngày thứ ba, con người cũ đã trỗi dậy từ cõi chết”.
Lạy Chúa Giêsu, cũng như cac tông đồ, con thường đóng cửa của lòng con lại. Xin Chúa cử Thánh Thần của Chúa đến để Ngài mở cửa tâm hồn con đón nhận và thi hành những điều Chúa muốn.
50. Mục tử.
Chúa nhật thứ IV mùa Phục Sinh được gọi là Chúa nhật Đấng Chăn Chiên nhân lành. Vì thế, toàn bộ lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề này. Mục tử, tức là người chăn chiên, là hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái du mục ngày xưa nói riêng, và cả xa hội Do Thái cho tới thời Chúa Giêsu nói chung. Vì vậy, suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một trong những biểu tượng phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người nuôi nấng, chăn dắt, săn sóc đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chúng ta. Chúng ta thấy Chua dùng hai hình ảnh: người chăn chiên thuê và người chăn chiên tốt lành để so sánh và diễn tả cho mọi người biết Ngài là người chăn chiên thật, là mục tử tốt lành.
Thế nào là một mục tử tốt lành? Chúng ta có thể tóm tắt trong hai điều: biết các con chiên của mình và ân cần săn sóc chúng. Chúa Giêsu là một chủ chăn tốt lành vì Ngài có đầy đủ và hoàn toàn hai yếu tố đó.
Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Họ biết từng con một, về ngày sinh tháng đẻ, để có thể xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho từng con, biết bệnh tật từng con để cứu chữa: con nào hay bị lạnh, con nào cận thị, con nào hay lạc bầy ăn rong, hơn nữa, có khi họ còn chụp hình, ghi sổ từng con mỗi năm và cân ký hàng tháng.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh đó áp dụng cho Ngài như Ngài đã tuyên bố: “Tôi biết chiên của tôi”, và Ngài còn quả quyết sự hiểu biết của Ngài đối với mỗi người cũng như sự hiểu biết giữa Ngài với Cha Ngài: “Tôi biết chiên tôi như Cha tôi biết tôi và tôi biết Cha tôi”. Thực vậy, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết chúng ta là những nhân vị, là những tín hữu, là những người có tính tình thế nào, dòng máu huyết thống ra sao. Ngài biết chúng ta hơn chúng ta biết mình. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo; ai là con chiên ghẻ, lười biếng, khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết.
Rồi Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, vì Ngài ân cần săn sóc chúng ta. Thực vậy, Chúa hằng ở bên săn sóc từng người chúng ta, dù chúng ta không quan tâm đến, như cá sống dưới nước, dù không để ý tới nước, nơi nó bơi lội, nhưng không có nước, nó sẽ chết. Chúa biểu lộ tình yêu đặc biệt đối với những ai mang thương tích linh hồn. Ai trong chúng ta đã không nhiều lần nghe những câu chuyện Tin Mừng tỏ rõ lòng ưu ái của Chúa, như chuyện đứa con hoang đàng, chuyện Giakêu hối cải, chuyện người đàn bà ngoại tình, chuyện người trộm lành trên thập giá, và tột đỉnh của tình yêu này là tự hiến mình cho đoàn chiên. Quả thực, cả một đời tận tụy, hy sinh, giảng dạy và ban ơn, Chúa chưa cho là đủ, Chúa còn muốn thực hiện đặc tính sau cùng của một chủ chăn tốt lành là chết vì con chiên và cho con chiên, để minh chứng lời Ngài đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn, cao quý hơn là chết cho người mình yêu”.
Chúa Giêsu tự xưng mình là mục tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng tước vị đó, thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Vật không lý trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, vật có linh tính, càng phải đền đáp sao cho xứng tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy. Vậy bổn phận của chúng ta là gì?
Chúng ta phải suy tôn Chúa là chủ chăn chúng ta bằng lòng tin tưởng và yêu mến. Nhưng suy tôn không phải chỉ ngoài miệng mà phải suy tôn Chúa trong đời sống, trong công ăn việc làm, trong sự đối xử với người chung quanh, và làm chứng nhân cho Chúa. Rồi chúng ta phải tín nhiệm vào Ngài. Con cái tín nhiệm cha mẹ, tôi tớ tín nhiệm vào chủ, chúng ta càng phải biết tín nhiệm vào Chúa hơn. Sau cùng, chúng ta phải biết nghe lời Chúa. Một con chiên ngoan bao giờ cũng biết tuân ý chủ. Luôn vâng theo ý Chúa và sống theo lời Chúa là làm hài lòng Chúa nhất, giống như con cái tuyệt đối vâng lời cha mẹ vậy.
Có lẽ những điều trên chúng ta đều biết cả, nhưng biết mà không đem thực hành là biết uổng. Chúng ta hãy kiểm điểm xem thái độ và hành động của chúng ta đối với Chúa, chủ chăn của chúng ta thế nào? Thành thực mà nói: chúng ta không chối Chúa ra mặt, nhưng chúng ta hay xâm lấn một số quyền lợi của Chúa. Chúng ta chỉ công nhận Ngài là chủ chăn, là Chúa trong vài hoàn cảnh, trường hợp đời sống, chứ không cả đời sống, sự thường xuyên của chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta chỉ giữ đạo, chỉ giữ điều răn khi hứng thú, gặp may mắn; bao lần chúng ta thiếu tín nhiệm vào Chúa, quá lo lắng vật chất đến xao nhãng các bổn phận thiêng liêng; bao lần đời sống, cách ăn ở, cư xử của chúng ta không làm chứng cho Chúa trước những người chung quanh. Sửa chữa những khuyết điểm đó là cốt yếu của lời Chúa dạy hôm nay. Lạy Chúa, xin làm cho chúng con trở thành chiên ngoan tốt lành Chúa.
51. Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành
1. Hình ảnh người chăn chiên và đoàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái, vì chăn chiên là nghề truyền thống của họ. Có lẽ hơn ai hết, họ hiểu rất rõ tấm lòng của người chăn chiên đối với đoàn chiên, nhất là người chăn chiên đó không phải là người chăn thuê, mà là người chủ của đàn chiên. Đức Giêsu đã mượn hình ảnh thân quen ấy để diễn tả tấm lòng của Người đối với dân Người, của Thiên Chúa đối với nhân loại. Đức Giêsu thật là Mục tử nhân lành, cả cuộc đời của Người đã nhằm phục vụ cho đàn chiên: giảng dạy, chữa bệnh... rồi cuối cùng đã hiến cả mạng sống mình cho đàn chiên (Ga 10,11-15), Người hy sinh tính mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào.
2. Vì Người biết mình phải trở về cùng Cha, nên Người đã ủy thác sứ mạng của mình cho các Tông đồ, các môn đệ và những người kế vị các ngài tiếp tục được thực hiện trong Hội Thánh cho đến tận thế (Lc 22,19 ). Như vậy, cũng như thời đã qua, hôm nay và mãi cho đến ngày tận thế Hội Thánh vẫn cần đến những người dấn thân trong ơn gọi linh mục, tu sĩ để phục vụ Chúa, Giáo hội và tha nhân. Vì thế, Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội còn dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.
3. Có thể nói linh mục, tu sĩ là món quà hết sức đặc biệt mà Thiên Chúa ban cho loài người. Ai trong chúng ta cũng biết dù sống đời sống hôn nhân gia đình hay dâng mình cho Chúa trong đời tu đều quý. Bởi trước mặt Chúa phẩm giá mọi người đều như nhau, điều Chúa muốn chúng ta lưu tâm là phải cố gắng chu toàn trong bậc sống của mình. Nhưng dầu sao, có thể nói dâng mình cho Chúa trong ơn gọi tu trì đó là điều kiện thuận lợi để chúng ta phục vụ Chúa phục vụ Hội Thánh và tha nhân. Thiết nghĩ rằng những ai dấn thân vào đời sống tu trì, sẽ thấy cuộc đời không đơn điệu, mà dễ cảm nhận được cuộc sống đầy tràn ý nghĩa, thú vị. Dấn thân trong đời tu theo sát Đức Kitô không phải là một cách trốn chạy cuộc đời, mà là một sự dấn thân phục vụ theo gương của Người. Vì thế ai có thể đừng ngại dâng mình cho Chúa trong đời tu và hãy cầu nguyện càng ngày càng có nhiều người dấn thân trong ơn gọi này, bởi cánh đồng truyền giáo tại Việt Nam và trên thế giới còn bao la: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít" (Mt 10,37).
4. Không phải chỉ các linh mục, tu sĩ là những người được mời gọi cách đặt biệt để tham gia vào sứ mạng của Đức Kitô, mục tử nhân lành, mà mọi người chúng ta qua Bí Tích Rửa Tội đều được mời gọi tham gia sứ mạng này.
Nhưng trước hết, chúng ta hãy lắng nghe theo tiếng vị Chủ Chăn đích thực của chúng ta là chính Đức Kitô, hãy nghe và giữ lời Người. Cũng đừng quên hãy nghe theo sự hướng dẫn của Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm của Người. Chúng ta de thấy những con chiên không nghe theo hướng dẫn của người chủ chăn thì dễ gặp thú dữ, dễ bị lạc đường... bề ngoài xem ra nó được tự do, nhưng lại đi đến chỗ bị thiệt thân. Vậy chúng ta đừng để mình là những con chiên lạc.
Kế đến, các Kitô hữu dù không phải là linh mục, tu sĩ nhưng tất cả đều được mời gọi tham gia vào vai trò mục tử của Đức Kitô: khi giới thiệu Thiên Chúa cho người khác, khi nhắc nhau sống đẹp lòng Người. Vợ chồng hãy là mục tử của nhau, cha mẹ hãy là mục tử của con cái, anh chị hãy là mục tử của các người em, bạn bè hãy là mục tử của nhau... Chúng ta dễ thấy có rất nhiều người giáo dân đã ý thức thực hiện điều này rất tốt. Khi thực hiện như thế chính là họ tham gia vào vai trò mục tử của các linh mục sở tại, của Giám Mục Địa Phận mà tất cả đều xuất phát từ vai trò Mục Tử của Đức Kitô.
5. Mừng lễ Đức Giêsu mục tử nhân lành hôm nay, đây là dịp rất tốt để mỗi người chúng ta suy nghĩ:
- Chúng ta có nhận ra Đức Giêsu là vị Mục Tử nhân lành không? Nếu ta tin nhận Người là vị Mục Tử nhân lành, hãy xem coi ta có vâng nghe theo lời Ngài dạy trong cuộc sống không?
- Mỗi người trong chúng ta đã làm gì để tham gia vào sứ vụ của Đức Giêsu Mục Tử nhân lành?
- Mỗi người cũng hãy xem lại, mình đã làm gì và sẽ làm gì để góp phần cho ơn gọi linh mục, tu sĩ?
52. Mục tử.
Du khách dừng chân trước một đàn cừu, bỗng lưu ý tới một con vật nằm dài trên đất được chủ nó vuốt ve, và băng bó vết thương ở một chân bị gẫy.
Du khách hỏi chuyện nhưng bị người chăn cừu đáp lại bằng một bộ mặt khó chịu. Sau khi thấy du khách là người hiền lành, người chăn cừu mới tiết lộ sự thật:
- Con cừu này có những đức tính tuyệt hảo. Khi còn lành mạnh, nó luôn dẫn đầu đàn. Nó biết cách làm cho mọi con trong bầy vâng phục. Tiếc thay vì quá tự tin, nó không chịu vâng lời tôi và thường hay dẫn đàn cừu đi theo sở thích của nó. Cuối cùng, tôi buộc lòng phải áp dụng biện pháp khá đau đớn.
Nói tới đây, người chăn cừu dừng lại vì bị xúc động. Anh giải thích tiếp:
- Tôi đành phải bẻ gẫy chân nó. Kể từ đó, nó hoàn toàn phụ thuộc vào tôi. Mỗi buổi sáng, tôi vác nó lên vai, đưa ra đồng cỏ. Rồi buổi chiều, tôi lại vác nó về. Nó không tự mình đi ăn cỏ. Từ một tháng nay, nó ăn cỏ giữa lòng bàn tay của tôi. Những chăm sóc tôi dành cho nó đã tạo nên mối tương quan mật thiết giữa nó và tôi. Mong sao nó giảm đau, để rồi từ nay nó sẽ là con vật biết vâng lời và tôi sẽ lại đặt nó đặt nó làm con vật đầu đàn.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Vậy trước hết, mục tử là người như thế nào? Tôi xin thưa:
- Mục tử là người chăm sóc đàn chiên.
Họ có thể là chính ông chủ, hay con trai, con gái của ông ta. Họ cũng có thể là người làm thuê được trả công bằng tiền, hay bằng sản phẩm của đoàn vật, với trách nhiệm phải tìm đồng cỏ cho đàn vật ăn và suối nước cho đàn vật uống.
Ngoài ra, người mục tử còn có bon phận phải bảo vệ đàn chiên khi chúng bị kẻ trộm hay thú dữ đe dọa. Trách nhiệm này không nhỏ, vì họ có thể bị buộc phải đần bù về số con vật bị mất.
So sánh Chúa Giêsu với người mục tử trong câu chuyện vừa nghe, chung ta thấy có một số điểm khác biệt như sau.
Trước hết tương quan giữa chủ chăn và con vật gẫy chân là một tương quan thu hẹp. Chủ chăn muốn nắm giữ quyền sở hữu trên mọi con vật trong đàn. Trong khi đó, con vật đầu đàn lại muốn chiếm quyền điều khiển cả đàn, nên đã bị sửa phạt.
Còn tương quan giữa Chúa Giêsu, vụ mục tử nhân lành với đàn chiên thì lại khác, đó là một tương quan mở rộng và luôn hướng tới Chúa Cha. Ngài không qui đàn chiên về mình, trái lại luôn qui hướng về Chúa Cha, như lời Ngài đã phán:
- Cha của anh em, Đấng ngự ở trên trời, không muốn một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
Người chủ chăn trong câu chuyện đã sửa phạt con vat đầu đàn để nó được thuần tính, bằng cách bẻ gẫy một chân để nó hoàn toàn lệ thuộc vào mình.
Còn Chúa Giêsu thì khác. Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn cả đàn đi ăn. Ngài biết từng con chiên như Chúa Cha biết Ngài. Đồng thời, Ngài đích thân chắm sóc các con chiên. Mỗi người đều có một vị trí, một giá trị của mình trong đàn, vì chính Ngài đã nói:
- Trên trời sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi sám hối trở lại, hơn chín mươi chín người công chính không cần ăn năn.
Sau cùng, kẻ chịu đau đớn trong câu chuyện là con đầu đàn bướng bỉnh.
Còn Chúa Giêsu thì khác, chính Ngài, với tư cách là mục tử nhân lành, đã hy sinh mạng sống cho đàn chiên, như lời Ngài đã nói:
- Ta hoàn toàn tự nguyện hiến mạng sống của Ta, trước là để làm đẹp lòng Chúa Cha, sau là để các chiên Ta được sống và sống dồi dào.
Hãy bước đi dưới sự hướng dẫn của vị mục tử nhân lành là Chúa Giêsu, nhờ đó chúng ta sẽ tới được bến bờ hạnh phúc.
53. Tốt lành.
Thế nào là một mục tử tốt lành? Đó là người biết các con chiên của mình, ân cần săn sóc chúng, và sẵn sàng hy sinh, chịu cực khổ để bảo vệ chúng, thậm chí sẵn sàng hy sinh cả mạng sống cho chúng nữa. Đó là những đặc điểm hay những vẻ đẹp của một người chăn chiên tốt lành mà Chúa Giêsu đã phác họa trong bài Tin Mừng hôm nay và áp dụng cho chính Ngài.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành của chúng ta, vì Ngài biết chúng ta. Chúa biết từng con chiên một, Chúa biết tình trạng sức khỏe của từng con, và con nào đi lạc trong cả bầy trăm con Ngài cũng biết. Chúa biết tất cả và biết rõ từng người một. Không phải Chúa chỉ biết một cách chung chung, nhưng có thể nói Chúa đi guốc trong bụng chúng ta.
Người đời không đo được lòng người: “Dò sông dò biển dễ dò. Đố ai đo nổi lòng người nông sâu”. Nhưng với Chúa, Chúa biết từng chân tơ kẽ tóc của chúng ta. Chúa hiểu biết chúng ta hơn bất cứ ai, hơn cả chúng ta biết về chính mình nữa. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài còn biết tất ca chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngài biết những ai đã bê tha trong tội lỗi, những ai đang đau khổ về thể xác và những ai đang bị dằn vặt trong tâm hồn. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo, ai là con chiên ghẻ, lười biếng, khô khan, phản bội… Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết, biết tất cả, biết từng ly từng tí, theo kiểu “Một sợi tóc trên đầu cũng được đếm cả rồi, sợi nào rơi xuống đất Chúa đều biết hết”.
Tuy nhiên, Chúa biết rõ mọi con chiên và từng con chiên. Đây không phải là cái biết lý thuyết: biết để biết hay biết suông vậy thôi, nhưng là cái biết để đối xử với đàn chiên và từng con chiên theo tình trạng của nó. Thông thường, tiến trình của hầu hết các tình cảm của chúng ta đều theo một diễn tiến như sau: quen – biết – hiểu – thông cảm – thương mến – yêu, nghĩa là khi chúng ta quen một người, dần dần chúng ta hiểu biết về người ấy, rồi mới dễ dàng đi tới cảm thông, giúp đỡ và thương yêu.
Đó là chưa kể trường hợp nhiều khi biết rõ nhau, người ta lại ghét nhau hơn. Đó là về phía con người chúng ta với nhau. Còn đối với Chúa, là Đấng toàn tri, toàn năng và yêu thương, nơi Ngài không có vấn đề tách rời từng giai đoạn như diễn tiến nơi con người. Cùng một lúc, sự hiểu biet và yêu thương của Ngài gồm tóm tất cả mọi yếu tố, nên không thể có trường hợp Chúa biết rồi Chúa mới yêu hay Chúa biết mà Chúa không yêu thương.
Thực vậy, Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, vì Ngài ân cần săn sóc cac con chiên. Trong ba năm giảng dậy, chúng ta thấy Ngài ân cần săn sóc tất cả những ai đến với Ngài, nhất là những người vất vả, khó khăn. Ngài kêu gọi: “Những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ, bổ sức cho”. Đặc biệt những người tội lỗi. Ngài không bao giờ xua đuổi, xa lánh họ, nhưng tìm kiếm, kêu gọi, tha thứ. Cả một đời tận tụy, hy sinh, giảng dạy và ban ơn, Chúa chưa cho là đủ, Chúa còn muốn thực hiện đặc tính sau cùng của một mục tử tốt lành nữa, là chết vì con chiên và cho con chiên, như Ngài đã tuyên bố: “Không có tình yêu nào cao quý hơn, lớn hơn là chết cho người mình yêu”.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, nhưng sứ vụ muc tử ấy Chúa cũng đã trao cho Giáo Hội, cho mỗi người trong Giáo Hội. Dù có chức vụ gì, hay chỉ có vị trí khiêm nhường, nhỏ bé đến đâu trong cuộc sống, mỗi người đều là mục tử: Giám mục là mục tử trong giáo phận; linh mục là mục tử trong giáo xứ; vợ chồng, cha mẹ là mục tử trong gia đình. Có thể con cái cũng là mục tử cho cha mẹ và anh chị em với nhau; thầy cô giáo là mục tử trong lớp, trong trường mình. Rất có thể học sinh cũng là muc tử cho thầy cô giáo và các bạn học; các bạn trẻ là mục tử cho nhau… Tóm lại, mục vụ là sứ mệnh của Giáo Hội và mỗi tín hữu đều có phần của mình trong sứ mệnh ấy, vừa được chăn dắt vừa có trách nhiệm chăn dắt.
Là mục tử, dù trong vị trí nào, chúng ta cũng phải nhìn vào mục tử gương mẫu là Chúa Giêsu. Chúng ta phải biết nhau, ân cần quan tâm đến nhau, giúp đỡ nhau, yêu thương nhau. Đặc tính nổi bật của mục tử tốt lành là nhân hau, thương xót. Vì thế, ai muốn nên trọn lành thì phải tập sống nhân hậu, thương xót. Ai muốn kéo người ta về với Chúa thì càng phải cố gắng có những cử chỉ và những việc làm nhân hậu, thương xót.
Chúng ta hãy nhớ: mỗi người chúng ta đều được Chúa trao cho trách nhiệm chăn dắt một ai đó trong đoàn chiên hay đưa một ai đó vào đoàn chiên, hay đưa một ai đó về lại trong đoàn chiên… bằng cách sống biểu hiện nhân hậu và thương xót của chúng ta.
54. Chúa chiên lành.
Trong việc tham dự hội nghị tại An Độ, tôi đã được dịp nghe bài thuyết trình của một nhà trí thức Công giáo người An Độ nói về những ước nguyện của người giáo dân trong cộng đồng Giáo Hội. Nhà trí thức An Độ này là một tổng giám đốc của một công ty phổ biến những kỹ thuật truyền thông mới mẻ và có uy tín trong cộng đồng Giáo Hội địa phương. Và một trong những ước nguyện của một giáo dân trưởng thành và có thể nói là đã thành đạt trong đời sống cộng đoàn, đó là không muốn được gọi là con chiên của Chúa, ông đã hãnh diện chia sẻ như sau:
Trong thời đại kỹ thuật tân tiến hiện nay, thời đại mà người giáo dân đã đạt được mức trí thức cao thì ta không thể nào đối xử với họ là những con chiên ngoan ngoãn chỉ biết vâng phục lệnh của bề trên, và ông ta nói, tôi không thích hình ảnh con chiên trong đoàn chiên của Chúa, tôi cũng không muốn sống như những con chiên, tôi muốn được gọi, được kể như là những con chiên chỉ biết cúi đầu nghe lệnh.
Kể từ lần nghe được bài chia sẻ của giáo dân trí thức này bên An Độ đến nay, thỉnh thoảng tôi lại đặt vấn đề cho mình suy nghĩ về hiền thánh này, Chúa là Đấng chăn chiên nhân lành, còn ta là đoàn chiên của Người. Đây là một hình ảnh hết sức quen thuộc và cũng hết sức quan trọng trong mạc khải Cựu cũng như Tân Ước, đến nỗi Chúa Giêsu đa dùng đến nó không những nhiều lần, mà nhất là trong lần quan trọng nhất khi trao cho Phêrô quyền chăn dắt đoàn chiên của Chúa: “Hãy chăn dắt chiên con, chiên mẹ của Thầy”.
Nhiều lần tôi đã đặt cho mình câu hỏi: “Hình ảnh về đoàn chiên còn hợp thời nữa hay không?”, và có thể nói tôi đã tìm được câu trả lời trong một lần dừng chân tại miền Nam quốc gia Au Châu, và được dịp tận mắt chứng kiến cảnh những người chăn chiên hướng dẫn đoàn chiên tiến về đồng cỏ tươi tốt nuôi sống đàn chiên.
Kinh nghiệm sống này tôi chỉ được nhìn qua và trước khi có kinh nghiệm sống này, tôi chỉ được nhìn đoàn chiên qua hình ảnh Chúa Giêsu hướng dẫn đoàn chiên trong những bức tranh, và giờ đây qua kinh nghiệm tận mắt nhìn ngắm đoàn chiên sinh hoạt như thế nào với người chăn, tôi chợt như được hiểu thêm về ý nghĩa sâu xa của hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng và được Giáo Hội cử hành hằng năm vào Chúa nhật hôm nay, Chúa nhật IV Phục sinh được gọi là Chúa nhật “Chúa Chiên Nhân Lành”.
“Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta và chúng theo Ta”. Đây là một hình ảnh cụ thể và hình ảnh cụ thể đoàn chiên im lặng hiệp nhất đi theo người chăn mà tôi đã chứng kiến tận mắt giúp tôi hiểu thêm mối tương quan giữa người chăn và đoàn chiên. Đây không phải là một mối tương quan trí thức của sự hiểu biết thuần lý của lý trí khô khan, nhưng là một tương quan sống động của con tim, của tình yêu thương vật chất, một tình yêu không thể diễn đạt thành lời nói, không thể gói ghém trọn vẹn trong ngôn ngữ con người, nhưng được diễn tả một cách cụ thể trong hành động.
Từ ngữ “biết” có nghĩa là tin tưởng và yêu thương. Tin và yêu thì không có sự đàn áp nào cả, những con chiên như hiểu được ý muốn của người chăn và trung thành gắn bó với người chăn, nhưng không phải chỉ là một sự gắn bó bên ngoài.
Trong bài Phúc Am chúng ta vừa nghe qua, Chúa Giêsu còn nhắc đến một sự gắn bó chặt chẽ nội tâm, đó là một sự chia sẻ được cuộc sống để chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất, không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi: “Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi thì cao trọng hơn tất cả, không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi”. Đây là lúc mà Chúa Giêsu vượt qua giới hạn của hình ảnh đời thường, của hình ảnh một đoàn chiên đi theo người chăn, để tiến xa hơn vào trong mối tương quan giữa Chúa và mỗi người chúng ta.
Trong đời thường, người chăn chiên không thể nào chia sẻ sự sống của mình cho con chiên, nhưng ở đây Chúa Giêsu vượt qua giới hạn của hình ảnh mà đi vào thực tại và Chúa mạc khải cho chúng ta biết, Chúa chia sẻ cho chúng ta sự sống của chính Chúa, để được sống kết hợp mật thiết với Chúa, một sự kết hiệp mật thiết có thể nói giống như mẫu lý tưởng sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa và Thiên Chúa Cha: “Tôi và Cha Tôi là một”.
Cử hành lễ Chúa Chiên Lành hôm nay, chúng ta được mời gọi vượt qua tính tự phụ, tự kiêu của mình để tin tưởng vào tình yêu của Chúa và sống trong tình yêu này. Và không những chỉ tin tưởng và sống trong tình yêu này mà thôi, nhưng chúng ta còn được mời gọi để chia sẻ sự sống của Chúa, được mời gọi mỗi ngày một lớn thêm trọn hảo trong tình yêu của Chúa.
Do đó chúng ta biết rằng, mối tương quan giữa ta và Chúa là mối tương quan đặc biệt có ưu tiên trên mọi mối tương quan khác như Chúa đã nói: “Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi thì cao trọng hơn tất cả”. Chúa Giêsu đã đặt mối tương quan giữa ta và Chúa, tình yêu thương kết hiệp giữa ta và Chúa thành mối tương quan ưu tiên của Ngài, đến độ Ngài phải hy sinh mạng sống của mình trên thap giá để ban cho chúng ta được mối tương quan này, được chia sẻ sự sống của Chúa và chia sẻ mãi mãi.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trong đời sống mình và cho chúng ta được trưởng thành trong đời sống, trong tình yêu của Chúa và trong đức tin mà chúng ta giờ đây cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin kính.
55. Tìm thấy.
Công việc chiếm một phần rất lớn trong cuộc sống của chúng ta. Do đó, điều quan trọng nhất là cách thức chúng ta quan niệm về công việc. Nếu công việc của chúng ta có ý nghĩa, thì nó trở thành một lời chúc phúc. Nhưng nếu nó không có ý nghĩa, hoặc có ít ý nghĩa, thì hầu như nó trở thành một tai họa.
Người ta nói rằng điều đầu tiên trong vấn đề của chúng ta, đó là tìm ra được công việc nào mà chúng ta muốn làm trong thế giới này. Vincent Van Gogh đã trải qua nhiều năm, để cố gắng tìm cho được công việc mà ông muốn làm trong cuộc đời của ông. Cuối cùng, sau nhiều cuộc tìm kiếm, ông phát hiện rằng ông muốn trở thành một họa sĩ. Kể từ ngày đó, cuộc đời của ông được thay đổi hẳn. Dường như cuộc đời ông đột nhiên trở nên dễ dàng. Điều trái ngược lại tiếp cận hơn sự thật.
Đúng là cho đến nay, cuộc sống của ông không đi đến đâu, bây giờ, cuộc đời của ông đang đi đến một nơi nào đó xác định. Ông nói:
“Dù sao, tôi thường cảm thấy rằng mình cũng giàu có như Croesus, không phải là giàu có về tiền bạc. Tôi giàu có, bởi vì tôi cảm thấy trong công việc của mình, có một điều gì đó mà tôi có thể cống hiến cả tâm hồn và lòng trí tôi, điều đó còn mang lại ý nghĩa và cảm hứng cho cuộc đời tôi. Tôi nghĩ rằng thật là một ơn phúc rất lớn, khi người ta tìm được công việc của mình”.
Nếu đôi khi, tôi cảm thấy trong lòng tôi dâng lên một ham muốn đến với một lối sống dễ dãi, thì tôi thích quay trở lại với một lối sống khó khăn. Đây không phải là con đường mà trên đó, người ta sẽ bị tàn lụi, nói đúng hơn, đây chính là nguồn sức mạnh sẽ đưa tôi đến bến bờ một cách an toàn.
Sự khác biệt giữa người chăn chiên tốt lành và kẻ làm thuê là gì? Đó là những thái độ trái ngược của hai người đối với công việc chăn dắt đoàn chiên. Kẻ làm thuê làm công việc đó, bởi vì họ buộc phải làm. Đối với người này, đây chỉ là một công việc; tam hồn của họ không đặt vào công việc này. Người chăn chiên tốt lành làm công việc đó, bởi vì họ muốn làm. Họ đặt cả tâm hồn mình vào công việc này.
Người nào giống như người chăn chiên tốt lành, là người rất may mắn. Họ đã tìm ra một kho tàng thực sự. Họ không chỉ tìm thấy một công việc, mà còn tìm thấy một ơn gọi trong cuộc đời. Họ có một công việc mà họ có thể đặt cả tâm hồn của mình vào, và công việc đó còn mở lối tạo thuận lợi cho những năng khiếu nơi họ nữa.
Mặc dù công việc của họ có thể gặp khó khăn và không có gì là kỳ diệu cả, nhưng nó vẫn rực sáng ý nghĩa, bởi vì đó là một công việc của tình yêu. Mặc dù cuộc sống của họ có thể chứa đựng nhiều khó khăn vất vả, nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn, họ vẫn cảm thấy hài lòng. Chúng ta không bao giờ được đánh giá ngang hàng nhau, giữa cuộc sống hạnh phúc với cuộc sống dễ dãi. Công việc nào cang khó khăn, nhưng chúng ta vẫn tự hiến thân vì mục đích yêu thương, thì công việc đó càng làm cho chúng ta trở nên cao quí.
Thật hạnh phúc cho người nào tìm được công việc của mình, bất kể đó là một công việc tầm thường đến thế nào. Họ được giải thoát khỏi tình trạng không tha thiết, và khỏi bi kịch chỉ sống cuộc sống của họ một cách nửa vời. Tự thân công việc đó mang những nét tốt đẹp nhất. Không phải là cường điệu khi nói rằng đoi với họ, công việc đó trở thành con đường cứu độ.
Đức Giêsu đã tìm ra công việc của Người. Công việc này hệ tại ở việc trở nên một người chăn chiên tốt lành đối với đàn chiên của Chúa Cha. Trước hết, Người quan tâm đến đàn chiên của mình, đến mức độ sẵn sàng chết đi để bảo vệ chúng. Và Đức Giêsu đã tự hiến cuộc đời mình cho đàn chiên của Người. Những nhà lãnh đạo tốt đều biết rõ thuộc hạ của mình, và những người này cũng nhận biết cấp trên của họ. Có một tương quan thân thiện giữa nhà lãnh đạo và thuộc hạ. Nếu không được như vậy, thì sự lãnh đạo dễ dàng trở thành cảnh đàn áp.
Không cần nói rằng chúng ta là những con chiên. Như thánh Gioan nhắc nhở chúng ta: Chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa, Thiên Chúa mong muốn chúng ta được sống cuộc sống bây giờ và mai sau.
56. Ơn gọi.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về sự quan tâm và không quan tâm. Kẻ làm thuê không biết hoặc không quan tâm gì đến đàn chiên. Người chăn chiên tốt lành quan tâm đến đàn chiên của mình, đến mức độ sẵn sàng chết đi để bảo vệ chúng. Sự quan tâm thật đáng giá và mang tính cách rủi ro. Người quan tâm san sóc là loại người rất đặc biệt.
Ngày nay, người ta chú ý nhiều đến lối làm việc của người quá quan tâm, và đúng là như vậy. Tuy nhiên, không phải lúc nào quá quan tâm cũng là hậu quả của lối làm việc quá nhiều. Chắc hẳn, đó là hậu quả của lối suy nghĩ phù phiếm. Người ta có thể làm việc lâu giờ, miễn là họ cảm thấy rằng công việc của họ đang tạo ra được một sự khác biệt. Nhưng nếu họ cảm thấy rằng những nỗ lực của họ đang bị uổng công, rằng bất chấp họ đã làm việc lâu dài và vất vả đến đâu, nhưng công việc đó vẫn không hề tạo ra được một sự khác biệt nào cả thì họ sẽ cảm thấy mệt lử và bị kiệt sức.
Sự quan tâm không hệ tại nhiều ở tự thân công việc có khó khăn hay không, nhưng hệ tại ở sự kiện công việc đó có mục đích hay không. Tự hiến thân mình một cách không có mục đích chính là làm xói mòn năng lực của mình. Việc hiến thân theo mục đích không phải là một khả năng có thể làm suy kiệt năng lực của con người.
Khi có được một công việc thu hút con người, thì càng tạo ra cho người đó một sức mạnh và năng lực lớn lao. Alexander Solzhenitsyn đã trải qua nhiều năm làm việc lao động tại trại Siberia. Yếu tố lớn nhất giúp ông tồn tại được, chính là công việc viết lách của ông. Trong tác phẩm bất hủ của ông, The Gulag Archipelago, ông nói:
“Đôi khi, trong một đội lao động ảm đạm, với những cỗ máy pháo thủ gầm rú chung quanh tôi, những phòng tuyến và hình ảnh tập trung một cách quá dồn dập, đến nỗi chính tôi cũng cảm thấy mình bị hất tung lên không trung, tôi bỏ qua đội hình, đến chỗ trại làm viec, và tìm một góc để viết. Những lúc như vậy, tôi vừa có được cả sự tự do lẫn niềm hạnh phúc.
“Tôi cứ tiếp tục viết. Vào mùa đông tại lán trại ấm áp, vào mùa xuân, trên giàn giáo đặt tại tòa nhà; ở khoảng giữa hai xe cút kít chất đầy hồ vữa, tôi sẽ đặt mảnh giấy của tôi trên mấy viên gạch, và bằng một mẩu bút chì, tôi viết ra những vần thơ vừa mới chảy dồn vào đầu óc tôi, trong khi tôi vẫn đang vỗ vào cái sô đựng mảng hồ vữa cuối cùng. Tôi bị thẩm vấn, để ý, và đẩy đi sống tại thảo nguyên. Tôi ngồi trong phòng ăn lớn, với món cháo mà đôi khi thậm chí tôi không buồn để ý đến hương vị của nó, tôi như câm điếc trước những sự việc diễn ra chung quanh mình – tìm cách viết ra những vần thơ của tôi, và lựa chiều sắp xếp sao cho phù hợp, giống như những viên gạch trên một bức tường vậy”.
Khi có được một công việc thu hút con người mình, thì thật là một ơn phúc rất lớn. Nhưng khi có được một ý thức về ơn gọi thì còn là một ơn phúc lớn lao hơn. Thật vậy, đó là một trong những ân sủng vĩ đại nhất trong cuộc đời. Đức Giêsu đã có được ân sủng này, và Người đạt tới một mức đo mà sẽ không bao giờ chúng ta đạt được. Có một lần, Người nói với các tông đồ của Người “Thầy có một thứ lương thực mà anh em không biết. Lương thực của Thầy chính là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. Và chúng ta còn nhận thấy điều này một cách rõ ràng hơn trong bài Tin Mừng hôm nay, trong đó, Người nói về chính Người như là một người chăn chiên tốt lành.
Không giống như kẻ làm thuê, người chăn chiên tốt lành yêu thích công việc của mình. Đối với người này, đàn chiên là một ơn gọi. Điều này không có nghĩa là cuộc sống của họ dễ dàng hơn, so với cuộc sống của kẻ làm thuê. Trên thực tế, so với kẻ làm thuê, cuộc sống của họ còn khó khăn hơn. Nhưng cuộc sống của họ được thỏa mãn hơn. Công việc của họ nuôi dưỡng họ.
Tình yêu là một nguồn sức mạnh và năng lực tuyệt vời. Tình yêu làm cho người ta trở nên can đảm. Ở nơi nào hiện diện một tình yêu đích thực, thì không có sự hy sinh nào là quá to lớn cả. Tình yêu chế ngự tất cả những khó khăn. Nếu chúng ta biết yêu mến, thì năng lực sẽ đến với chúng ta.
Hôm nay, người ta thường ám chỉ đến mot ngày Chúa nhật dành cho những ơn gọi. Đối với người Kitô hữu, tất cả những ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương.
57. Tình yêu.
Khi không có động cơ là tình yêu, thì việc thực hiện một bổn phận, thậm chí kể cả việc thể hien lòng tin, cũng đều có thể đưa đến hậu quả là làm khô héo tâm hồn con người.
Hai người có thể đang làm cùng một công việc như nhau, ngay cả đang làm việc bên nhau, tuy nhiên, họ vẫn có thể có những thái độ trái ngược nhau đối với công việc đó. Một người thì yêu mến công việc của mình, và hoàn toàn hết mình với công việc. Người đó tự hào về việc mình đang làm, và đặt tâm hồn của mình vào đó. Còn người kia thì ghét công việc của mình, và chỉ làm nửa vời. Đối với người này, đây chỉ là thuần túy là một công việc mà thôi. Điều duy nhất mà người này quan tâm đến, đó là số tiền thù lao.
Đức Giêsu cho ta một ví dụ hay về điều này, trong dụ ngôn của Người, nói về kẻ làm thuê và người chăn chiên tốt lành. Giữa hai người này, có một sự mâu thuẫn. Đối với kẻ làm thuê, quan tâm đến đàn chiên chỉ là công việc. Anh ta làm việc chỉ vì đồng lương, mà không hề biết gì ve đàn chiên, hoặc chăm sóc gì đến chúng. Hậu quả là đàn chiên bị đói khổ.
Đối với người chăn chiên tốt lành, quan tâm đến đàn chiên không chỉ là công việc, mà còn là một lối sống, một ơn gọi. Người đó biết rõ về đàn chiên, và quan tâm chăm sóc chúng, đến mức độ sẵn sàng liều cả mạng sống của mình, để cứu đàn chiên. Kết quả là đàn chiên được phát triển.
Nét khác biệt rất lớn giữa người chăn chiên tốt lành và kẻ làm thuê chính là tình yêu của người đó đối với công việc của mình. Người đó yêu thích và tận tụy với công việc. Điều này không làm cho công việc của họ trở nên dễ dàng hơn. Nếu bất cứ điều gì cũng làm cho công việc của người đo khó khăn hơn, là bởi vì họ làm công việc đó một cách kỹ lưỡng. Nhưng điều này lại làm cho họ có khả năng đặt hết tất cả năng lực của mình vào công việc. Nếu bạn muốn yêu mến, thì năng lực sẽ đến với bạn. Không chỉ có công việc được lợi ích, mà người làm công việc đó cũng được lợi ích nữa – trong cùng một hành động, công việc này đem lại điều tốt đẹp nhất. Cách làm việc như vậy đem lại sự giải phóng cho con người.
Hầu hết chúng ta đều là những kẻ làm thuê, theo ý nghĩa là chúng ta không làm việc cho bản thân mình. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta phải có tư tưởng của người làm thuê. Chỉ vì con người đòi hỏi phải được trả công đầy đu, nhưng điều đó không có nghĩa là người đó thuộc loại làm thuê mà Đức Giêsu nói đến. Người đó không được mang thái độ của kẻ làm thuê vào công việc của mình. Người đó không được làm việc chỉ vì đồng lương, mà vẫn có thể mang thái độ của người chăn chiên tốt lành.
Chúng ta có quyền đòi một số tiền trả công xứng đáng. Ngoài những sự đền đáp khác, đây là điều đúng đắn, do nhân phẩm của con người. Nhưng với tư cách là những Kitô hữu, chúng ta phải cố gắng nhìn vào công việc như là một cách thế phục vụ người khác, bất kể điều gì xảy ra. Nếu được như vậy, chúng ta mới là những người chăn chiên tốt lành. Chúng ta phải rời bỏ hàng ngũ của những ke làm thuê. Chúng ta đều là thành viên của một cộng đoàn thánh thiêng – đó là những người thực hiện những công việc cần thiết, nhưng tẻ nhạt, trong một tinh thần phục vụ. Công việc vất vả nhưng lương thiện làm cho cơm bánh của con người trở nên có hương vị ngọt ngào. Kẻ làm thuê làm việc trong sự bất lợi trầm trọng nhất – tâm hồn của người đó không đặt vào trong công việc. Người ta vẫn có thể sống suốt cả cuộc đời mình, với tâm lý của một kẻ làm thuê. Hầu như kẻ bị lạc lối không mang tư tưởng gì cả. Có một sự xói mòn xảy ra trong tâm hồn của những người nào không quan tâm đến phẩm chất công việc, mà chỉ để ý đến những động cơ mà thôi.
“Nếu bạn cảm thấy mình không có tình yêu, hãy cứ để mặc người khác một mình. Thay vào đó, bạn nên bận rộn với nhiều thứ” (Tolstoy).
58. Cầu nguyện.
Đối với người Việt chúng ta thì hình ảnh “chiên và người chăn” không phải là mot hình ảnh gần gũi, vì xứ sở chúng ta không thuộc vùng Cận Đông với nghề chăn nuôi chiên cừu như Palestin xưa. Hơn nữa trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hóa, mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện “đàn chiên với mục tử”, thì e rằng chúng ta bị coi là những người lạc hậu! Nhưng nếu đi sâu vào ý nghĩa và biểu tượng tôn giáo của hình ảnh “chiên và mục tử” thì chúng ta lại chẳng thấy lạc hậu tí nào. Vì chưng những người tin ở Thiên Chúa đều xác tín rằng họ luôn được Thiên Chúa và Chúa Kitô quan tâm và tận tình chăm sóc, không chỉ về phương diện tâm linh mà về mọi phương diện con người, không chỉ ở đời sau mà cả ở đời này lẫn đời sau. Mối tương quan gắn bó giữa người chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúa và người tín hữu.
Đức Giêsu đã công bố Người là vị Mục tử nhân lành, với những nét đặc trưng sau đây: Vị mục tử nhân lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì? họ cần gì? họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào? Vị mục tử nhân lành luôn đi đầu, đi trước tức hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, tức đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Vị ấy sẽ đem chiên đến những mien an toàn, có suối mát và cỏ xanh, để chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Thậm chí vị mục tử sẽ hy sinh mạng sống vì chiên.
Lý do Hội thánh lấy ngày Chủ nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ: Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Niên giám 2005 (Các số liệu thống kê về Hiện tình Giáo Hội Việt Nam – Trong Đại Hội IX của HĐGMVN năm 2004) cung cấp cho chúng ta những con số cụ thể và đáng chúng ta suy nghĩ trong ngày hôm nay: Tổng dân số của Việt Nam: 82.320.147 người. Tổng số công giáo của 25 giáo phận: 5.667.428 người. Tổng số linh mục của 25 giáo phận: 2.927 Lm. Tổng số tu sĩ trong 25 giáo phận: 16.437 tu sĩ. Tổng số giáo lý viên của 25 giáo phận: 52.513 Glv. Nếu chia bình quân số giáo dân cho số linh mục (triều dòng, khỏe yếu) thì một linh mục phải phục vụ 1.937 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số linh mục (triều dòng, khỏe yếu) thì một linh mục phải phục vụ 28.124 người. Nếu chia bình quân số giáo dân cho số tu sĩ (nam nữ, khỏe yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 344 giáo dân. Nếu chia bình quan tổng số dân Việt Nam cho số tu sĩ (nam nữ, khỏe yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 5.008 người. Nếu chia bình quân tổng số người Việt Nam không công giáo cho tổng số người Việt Nam công giáo thì một người Việt Nam công giáo phải giúp cho 13 người Việt Nam không công giáo biết Chúa và gia nhập Giáo hội.
Nguyên nhìn vào những con số trên, chúng ta cũng đã thấy được nhu cầu to lớn về nhân sự của Giáo hội Việt Nam trong sứ mệnh sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng mà Giáo hội đã nhận được từ chính Chúa Giêsu. Đã đành rằng ngày nay trách nhiệm sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng không chỉ của riêng các linh mục, tu sĩ mà của mọi Kitô hữu. Nhưng các linh mục, tu sĩ vẫn là lực lượng quan trọng nhất, là lực lượng nòng cốt và đầu tầu trong lãnh vực này. Thế nhưng ơn gọi linh mục, tu sĩ càng ngày càng giảm sút trong các Giáo hội địa phương, thậm chí giảm trầm trọng trong một số Giáo hội. Riêng tại Việt Nam, thì tình hình có mấy nét riêng sau đây: (1) Việc thanh niên nam nữ muốn vào chủng viện, dòng tu còn gặp nhiều cản trở từ những qui định của nhà nước. (2) Việc các Giám mục, Dòng tu gửi các linh mục, tu sĩ đến nơi cần gửi, đặc biệt đến vùng sâu vùng xa, cũng chẳng dễ dàng gì. (3) Ơn gọi tu trì đã có dấu hiệu sút giảm ở thành thị, nhất là ở các quận nội thành. Vì thế cho nên chúng ta không chỉ cầu xin Thiên Chua ban cho Giáo hội – nhất là Giáo hội Việt Nam – nhiều linh mục, tu sĩ tài đức thánh thiện, nhiệt thành mà chúng ta còn phải nài xin Thiên Chúa tạo thuận lợi cho các ứng sinh linh mục tu sĩ được đào tạo đến nơi đến chốn va cho các linh mục tu sĩ có điều kiện cần thiết để thực thi sứ vụ của mình.
59. Phải là chiên trước – Lm. Phạm Quốc Hưng
Chúa Nhật tuần này thường được gọi là “Chúa Nhật-Chúa Chiên Lành”, và được Giáo Hội đặt làm Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu linh mục. Ý lực này có thể được rút ra từ nội dung của Phúc Âm dùng trong Phụng Vụ hôm nay, và được thấy rõ nơi lời tung hô Alleluia được dùng trong Phụng Vụ cho cả 3 chu kỳ A, B, C: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10:14). Đây là câu Phúc Âm được trích trong chính Tin Mừng hôm nay.
Hình ảnh chủ chăn và đàn chiên là một trong hình ảnh đã được dùng trong Cựu Ươc để diễn tả liên hệ giữa Thiên Chúa và Dân Do thái. Liên hệ này được diễn tả thật đẹp trong Thánh Vịnh 23-“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”-một trong những Thánh Vịnh được yêu chuộng hơn cả. Thánh Vịnh nay đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và được phổ biến rộng rãi trong Phụng Vụ tại Việt Nam. Danh xưng “mục tử” còn được dùng trong Cựu Ước, đặc biệt là Sách Tiên tri Êzekiel, để nói về những người lãnh đạo Dân Chúa. Trong Sách này, Thiên Chúa đã quở trách các mục tử xấu, và Người hứa sẽ đích thân chăm sóc đàn chiên và sẽ ban những mục tử như lòng Người mong ước.
Khi tự xưng mình là Mục Tử tốt lành, Chúa Giêsu vừa xác định thần tính của Người, vừa xác định vai trò lãnh đạo của Người đối với những người tin vào Người, và nhất là diễn tả tình yêu lớn lao Người dành cho từng người trong gia đình nhân loại. Liên hệ giữa Chúa Chiên và đàn chiên-giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu-được diễn tả bằng từ ngữ “biết”: “Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10:14). Theo nghĩa Thánh Kinh, chữ “biết” ở đây không phải chỉ là sự hiểu biết thuộc trí tuệ, nhưng còn là một sự hiệp thông trọn vẹn trong tình yêu bao gồm cả con người và cuộc sống, như được diễn tả trong tương giao vợ chồng.
Chính trong tương quan yêu mến này, Chúa Giêsu-Mục Tử tốt lành-đã tận tình dẫn dắt, chăm sóc, dưỡng nuôi, kiếm tìm, bảo vệ và thí mạng vì đàn chiên. Trót cuộc đời của Chúa Giêsu, từ việc giáng sinh trong cảnh đơn nghèo của máng cỏ Bêlem cho đến cái chết thảm thương trên Thánh Giá nơi Đồi Canvê, là một cuộc tìm kiếm con chiên lạc là nhân loại tội lỗi để đưa về đồng cỏ tốt tươi là Nước Trời của Chúa Chiên Lành. Trước khi xưng mình là Chúa Chiên Lành, Đức Kitô trước hết đã trở thành Con Người, thành Chiên Thiên Chúa, Chiên Vô Tội phải gánh tội trần gian. Ngài đã trở thành “Con Chiên” tuyệt hảo, khi hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, khi trở thành người con yêu dấu đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng, và trở nên mẫu mực cho mọi người tin vào Thiên Chúa.
Bên cạnh hình ảnh mục tử tốt lành, Chúa Giêsu cũng nói đến những kẻ chăn thuê. Đây là những mục tử xấu, những kẻ làm công việc chăn chiên nhưng không biết thương yêu đàn chiên. Đây là những mục tử chỉ làm việc vì lợi ích ban thân mà không quan tâm đến đàn chiên, sẵn sàng thí bỏ chiên để giữ an toàn cho riêng mình.
Khi chú giải đoạn sách Tiên Tri Êzêkiel bàn về các mục tử, Thánh Augustinô đã đưa ra một tiêu chuẩn để phân biệt giữa các mục tử tốt và các mục tử xấu trong Hội Thánh: Mục tử tốt là mục tử biết quên mình để phục vụ đàn chiên và tìm kiếm những gì thuộc về Chúa Kitô, thuộc về Thiên Chúa; còn mục tử xấu là mục tử chỉ nghĩ đến mình, chuyên lo bản thân, tìm kiếm vinh quang phúc lộc trần thế cho riêng mình, bất chấp việc gây hại cho đàn chiên.
Chúa Giêsu-Chúa Chiên Lành vẫn tiếp tục chăn dắt Đàn Chiên Hội Thánh qua các chủ chăn trong Hội Thánh là các giám mục và linh mục. Phúc lộc của các tín hữu tùy thuộc rất nhiều vào các mục tử trong Hội Thánh. Điều này được diễn tả qua câu giáo ngạn: “Linh mục hoàn hảo, giáo dân thánh thiện; linh mục thánh thiện, giáo dân đạo đức; linh mục đạo đức, giáo dân tầm thường.” Chúng ta thấy ở đây người ta không dám thêm câu: “linh mục tầm thuờng” vào; đừng nói đến “linh mục đồi bại”!!!
Thật thích hợp khi Hội Thánh đặt Chúa Nhật-Chúa Chiên Lành hôm nay làm “Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu”. Thánh Giám Mục Tiến Sĩ Anphong Liguori đưa ra ba dấu chỉ để xác định một ơn gọi linh mục đích thực. Đó là phải có ý hướng ngay lành, phải có những đức tính và khả năng xứng hợp, và phải được Bề Trên chuẩn nhận.
Các nhà tu đức có thể đưa ra nhiều dấu chỉ khác để nhận định một ơn gọi linh mục đích thực. Nhưng có một điều hiển nhiên là tất cả các linh mục đích thực phải là “những mục tử như lòng Chúa mong muốn”, hay là những mục tử có trái tim giống như Thánh Tâm Chúa Giêsu, trái tim đầy lửa mến Chúa yêu người. Trước khi là mục tử đích thực, họ phải là một con chiên thực sự của Chúa đã! Trước khi là linh mục chân chính, họ phải là Kitô hữu chính danh đã! Trước khi nhiệt thành rao giảng Lời Chúa, họ phải biết say mê việc đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và sống Lời Chúa đã! Trước khi trở thành những nhà lãnh đạo chân chính, họ phải là những con người biết vâng phục đã!
Một linh mục giáo sư Chủng Viện nhận xét: “Muốn trở nên linh mục đích thực, chúng ta phải giống Chúa Giêsu vừa là Linh Mục vừa là Tế Vật. Nhiều người muốn là linh mục, nhưng không mấy ai muốn là tế vật. Nếu linh mục không biết hy sinh chính mình, họ sẽ hy sinh kẻ khác và gây hại cho đàn chiên”.
Một lý do hiển nhiên cho việc khan hiếm ơn gọi linh mục ngày nay là vì sự khan hiếm những Kitô hữu đích thực. Thiếu con chiên chính danh thì làm sao có được mục tử chân chính? Thiếu những con người biết yêu cầu nguyện hy sinh, xả kỷ vị tha, thì làm sao có được những mục tử thí mạng vì đàn chiên?
Một tai hại lớn lao nhất cho Hội Thánh hôm nay là có nhiều linh mục bất phục Hội Thánh. Một khi bất phục Hội Thánh-Nhiệm Thể Chúa Kitô-người ta không còn là con chiên của Chúa nữa mà biến thành sói dữ và là kẻ chăn thuê, thành ngôn sứ giả!
Lễ Chúa Chiên Lành hôm nay chắc hẳn khiến nhiều người trong chúng ta nhớ đến những linh mục chúng ta từng gặp gỡ trong cuộc đời: Cha xứ, Cha phó, Cha linh hướng, Cha giáo, Cha linh hồn, Cha rửa tội cho ta, Cha dâng lễ cho ta, Cha giải tội, Cha từng chứng hôn cho ta, Cha xức dầu cho ta hay người thân của ta…Có vị với đời sống xả kỷ vị tha và những lời giảng dạy đầy xác tín đã để lại trong lòng ta những ấn tượng thật cao đẹp thần thiêng, khiến ta thêm quý mến cảm phục ơn gọi linh mục và thêm phấn chấn trong đời sống đức tin. Có vị với lối sống quá phàm tục phản chứng và lời giảng tầm thường hay lệch lạc khiến chúng ta phải đau buồn, bực dọc và thẹn thùng, va cảm thấy đức tin mình bị chao đảo. Có vị đang trung thành hăng say trong ơn gọi, nhưng cũng có vị đã rút lui.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những linh mục tốt lành thánh thiện đã góp phần xây dựng đức tin cho chúng ta. Chúng ta hãy thương cảm tha thứ và cầu nguyện cho những linh mục từng gây tổn thương cho chúng ta. Chúng ta hãy nhớ rằng các linh mục dù mang thánh chức linh mục thì cũng như chúng ta, họ vẫn là những con chiên thuoc đàn chiên của Chúa. Cũng như chúng ta, các linh mục có thể có những lúc như những con chiên lìa xa Chúa Chiên Lành hay mang thương tích bệnh tình nên cần được tìm kiếm, cần được chữa lành. Xin Chúa ban cho chúng ta biết gop phần vào việc đưa các ngài trở về đường ngay, giúp các ngài được chữa lành, qua đời sống cầu nguyện hy sinh và yêu thương chân thành của chúng ta.
Điều đáng chúng ta quan tâm hơn cả đó là chúng ta phải yêu quý ơn gọi được là tín hữu của Chúa, là con chiên của Chúa Chiên Lành, Đấng hằng yêu thương săn sóc chúng ta. Nhờ vậy, chúng ta sẽ nỗ lực sống xứng danh là con chiên chân thực của Chúa và ở lại trong đàn chiên của Người là Hội Thánh.
Chúng ta cũng cần biết rằng mọi tín hữu đều được chia sẻ sứ vụ và ơn gọi của Vị Mục Tử Tối Cao, mỗi khi chúng ta góp phần vào việc xây dựng và củng cố niềm tin nơi tha nhân. Đặc biệt, tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo, hướng dẫn và phục vụ tha nhân-chủ nhân, giám đốc, thầy cô giáo, cha mẹ-đều phải đặt Chúa Giêsu-Chúa Chiên Lành là gương mẫu và lý lưởng của mình. Chỉ khi ấy, họ mới trở thành những nhà lãnh đạo và nhưng người phục vụ chân chính, vì biết hy sinh bản thân để đem lại phúc lộc cho tha nhân, cho cộng đồng.
Lạy Mẹ Maria là Nữ Vương và là Mẹ các Linh Mục, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho mọi tín hữu chúng con luôn sống như những con chiên đích thực của Chúa, những người biết nghe và sống theo Lời Chúa; và xin Mẹ cầu cùng Chúa ban cho chúng con thêm nhiều ơn gọi linh mục thánh thiện đúng như lòng Chúa mong muốn. Amen.
60. Vị Mục tử nhân lành – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Mục tử là gì? Xét về phẩm chất, có mấy loại mục tử? Mỗi loại có những tính chất gì? Làm sao phân biệt được loại nào với loại nào?
2. Đức Giêsu là mục tử nhân lành: đặc điểm cao quí nhất của Ngài là gì? Ngài có thể hy sinh cho đàn chiên tới mức độ nào?
3. Những bậc cha mẹ trong gia đình, những tổ trưởng trong khu phố hay trong các xí nghiệp, những thầy giáo trong các trường học, những giám đốc công ty... có thể hiểu là những mục tử không? Bài Tin Mừng này có áp dụng cho họ được không?
Chia sẻ
1. Mục tử - tốt và xấu - trong xã hội và Giáo Hội
Xã hội nào cũng đều có tổ chức, cơ cấu, trong đó luôn luôn có những người lãnh đạo, điều khiển. Trong các tôn giáo cũng thế. Trong lịch sử Do Thái, những người lãnh đạo dân chúng được gọi là mục tử (x. Gr 10,21; Ed 37,23-24): chẳng hạn như vua Sa-un, vua Đavít. Kitô giáo, vốn tiếp nối truyền thống Do Thái, cũng gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội (như linh mục, mục sư, giám mục, hồng y, giáo hoàng) là mục tử. Những mục tử hay những người lãnh đạo ấy thường được xã hội hay tôn giáo tạo cho những điều kiện thuận lợi và trao cho những phương tiện hữu hiệu để có thể thi hành hữu hiệu công việc lãnh đạo đó: chẳng hạn địa vị, chức vụ, quyền bính, tiền bạc, tiếng nói... Những điều kiện và phương tiện này là một thứ dao hai lưỡi. Nó có thể giúp các mục tử hay các nhà lãnh đạo phục vụ dân chúng hay các tín hữu hữu hiệu hơn. Nhưng nó có thể làm tha hóa, biến chất các mục tử khi sử dụng nó. Và nó cũng có thể bị những kẻ lắm tham vọng tìm cách đạt tới để lợi dụng nó, để phục vụ cho những tham vọng hay lợi ích cá nhân của mình, của gia đình hay phe nhóm mình.
Như vậy, chiếu theo thái độ đối với những điều kiện và phương tiện mà xã hội hay tôn giáo dành cho những người lãnh đạo hay mục tử, ta có thể có 2 loại mục tử tương ứng:
- Mục tử tốt: là những người lãnh đạo thật sự có ý hướng phục vụ dân chúng hay các tín hữu, chứ không nhằm lợi ích cho riêng mình. Họ sử dụng những điều kiện hay phương tiện xã hội hay Giáo Hội trao cho hoàn toàn để phục vụ tha nhân và công ích.
- Mục tử xấu: là những người lãnh đạo không nhắm phục vụ dân chúng, mà nhắm đạt được những điều kiện và phương tiện thuận lợi kia để hưởng thụ hoặc chỉ để thăng tiến bản thân, thỏa mãn những tham vọng riêng tư.
Loại sau này còn bao gồm những mục tử bị tha hóa, là những người lãnh đạo khởi đầu có ý hướng tốt, nhưng khi tiếp xúc hay sử dụng những điều kiện hay phương tiện xã hội trao cho, thì bị chúng hấp dẫn, mê hoặc và làm cho biến chất, để cuối cùng trở thành những mục tử xấu.
2. Mục tử tốt và xấu trong bài Tin Mừng và trong Thánh Kinh
Trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 10,11-18), Đức Giêsu mô tả và đối chiếu hai loại mục tử ấy: một loại được gọi là mục tử nhân lành, còn loại kia là kẻ chăn chiên thuê.
* Mục tử nhân lành thì: “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên”, “tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi... chúng sẽ nghe tiếng tôi”. Ngài tự nhận mình chính là mục tử loại này. Trong Thánh Kinh có rất nhiều câu mô tả những đức tính tốt của những mục tử nhân lành, mà chính Thiên Chúa là mô hình gương mẫu nhất:
- yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11).
- yêu quí từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc” (Mt 18,12-13).
- lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ” (Ed 34,14).
- làm chiên sống no ấm, hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: “Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (23,4).
- tinh thần trách nhiệm rất cao: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng” (Ed 34,16).
- cứu thoát, giải phóng đàn chiên: “Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên” (Dc 9,16).
Tóm lại, người mục tử tốt thật sự yêu thương đàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho sự an nguy và hạnh phúc của đàn chiên. Thậm chí như Đức Giêsu, người mục tử tuyệt vời nhất, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình: coi sự sống còn của đàn chiên quý hơn cả sự sống mình.
* Kẻ chăn chiên thuê hay mục tử xấu thì: “không thiết gì đến chiên”, “khi thấy sói đến liền bỏ chiên mà chạy: sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn”. Thánh Kinh cũng có nhiều câu mô tả hạng mục tử này với những đặc tính:
- vô trách nhiệm: “Con chiên nào mất, nó chẳng quan tâm; con thất lạc, nó chẳng đi tìm; con bị thương, nó không chạy chữa; con mạnh khoẻ, nó chẳng dưỡng nuôi” (Dc 11,16a); “Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm” (Ed 34,4)
- chỉ nghĩ tới hưởng thụ, sẵn sàng bóc lột: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Ed 34,3). Thậm chí bóc lột đến tận xương tủy: “Con nào béo thì chúng ăn thịt, rồi lóc luôn cả móng” (Dc 11,16b)
- ích kỷ, vụ lợi, đầy tham vọng: “Chúng là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử! Cả bọn - chẳng trừ ai - chỉ mưu tìm lợi lộc cho riêng mình” (Is 56,11).
- tàn bạo, độc ác: “Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc” (Ed 34,3); “Các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng” (Gr 23,2b).
- tác hại vô cùng đến đàn chiên: “Các ngươi đã làm cho đàn chiên của Ta phải tan tác” (Gr 23,2).
Tóm lại, mục tử xấu coi đàn chiên chỉ là phương tiện, bắt chúng phải hy sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư của mình, không một chút tình thương đối với chúng. Nhưng kết cục của hạng mục tử này rất bi thảm: “Khốn cho mục tử vô tích sự đã bỏ mặc đàn chiên. Gươm sẽ chặt đứt tay nó, sẽ chọc mắt phải của nó. Cánh tay của nó sẽ khô đét, và mắt phải của nó sẽ mù loà” (Dc 11,17); “Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác (…) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23,1-2).
3. Hãy trở nên những mục tử nhân lành
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu tự xưng mình là “mục tử nhân lành”, luôn yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên. Khi tự xưng như thế không phải để chúng ta nể phục cho bằng để chúng ta bắt chước, noi gương Ngài trong công việc “mục tử” của chúng ta. Chúng ta thường giới hạn ý nghĩa của từ “mục tử” này, đến nỗi chỉ áp dụng nó cho những người lãnh đạo tôn giáo. Thật ra, tất cả những ai đảm trách việc lãnh đạo, từ một gia đình đến một phường, một tỉnh, hay một quốc gia, từ một hội đoàn, một xứ đạo, đến một giáo phận, một giáo hội địa phương hay Giáo Hội toàn cầu, một cách nào đó, đều có thể gọi là mục tử. Ước chi mọi mục tử đều biết thật sự yêu thương đàn chiên của mình và lãnh đạo chúng một cách sáng suốt! Ước chi mọi cha mẹ đều yêu thương con cái, mọi cha xứ đều sẵn sàng hy sinh phục vụ giáo dân, mọi giám mục đều hết lòng chăm sóc các linh mục và giáo dân dưới quyền mình! Ước chi mọi vị lãnh đạo xã hội và đất nước biết quên những quyền lợi riêng tư để nghĩ đến lợi ích chung của dân chúng!
Mọi quốc gia, mọi giáo hội, đều rất cần những vị minh quân, những mục tử nhân lành. Cần hơn cả việc có thật đông những cá nhân tài giỏi, xuất sắc. Câu chuyện sau đây minh họa điều đó.
Có hai người thuộc hai quốc gia nói chuyện với nhau: - “Tôi rất khâm phục đất nước anh, vì nước anh có rất nhiều anh hùng”. - “Thế đất nước anh có nhiều anh hùng không?” - “Rất tiếc, đất nước tôi ít anh hùng lắm!” - “Lạ nhỉ, đất nước tôi nhiều anh hùng thế mà sao vẫn cứ nghèo nàn và lạc hậu, còn đất nước anh không có anh hùng mà sao lại phát triển và giàu có như vậy?” - “À, đất nước tôi thì bù lại, được khá nhiều vị minh quân!” Thì ra chỉ một vị minh quân - hay mục tử nhân lành - cũng đủ quí giá và ích lợi cho đất nước và Giáo Hội hơn nhiều anh hùng hay cá nhân xuất sắc hợp lại! Cầu mong cho đất nước và Giáo Hội Việt Nam có được những minh quân!
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin Cha hãy ban cho Giáo Hội và đất nước con nhiều vị mục tử nhân lành hơn! Xin cho các nhà lãnh đạo đất nước và Giáo Hội con biết thật sự yêu thương người dân cũng như các tín đồ của mình hết lòng và sẵn sàng hy sinh phục vụ họ. Có như thế, đất nước và Giáo Hội con mới tiến bộ lên đươc. Amen.
61. Con Ốc "Jesus"
Vài năm về trước, tôi đọc được một bài báo của Carolyn Moran với tựa đề là "Con Ốc Cứu Vãn Cuộc Hôn Nhân Chúng Tôi." Con ốc là ai? Carolyn giới thiệu "con ốc" bằng câu chuyện: Một ngày nọ, bà ta đang ăn trưa với chồng và người con trai tên Mike tại nhà ở Los Angeles. Mike là một phi công trực thăng. Trong lúc ăn, Mike và ba anh nói chuyện với nhau về chiếc trực thăng mà anh lái: "Này ba, ba có biết không, chiếc trực thăng coi thì nó thật là kiên cố, nhưng chiếc quạt chong chóng của nó chỉ được giữ bởi một con ốc sáu cạnh."
Sau đó, anh quay qua mẹ anh, Mike hỏi, "Này mẹ ơi, mẹ có biết họ gọi con ốc đó là gì không?" Mẹ anh ta nhún vai trả lời: "Mẹ chịu thua."
Mike mỉm cười và nói, "Họ gọi nó là con ốc 'Jesus'." Chúa Giêsu, qua cái chết và phục sinh, Ngài đã ôm ấp toàn thể nhân loại với nhau, cũng như chiếc ốc đã nối kết các bộ phận của chiếc trực thăng với nhau.
Carolyn đã nhìn thấy Chúa Giêsu trong cùng một nhiệm vụ đối với cuộc hôn nhân của bà y như chiếc ốc có nhiệm vụ trong chiếc trực thăng của Mike. Chính Chúa Giêsu đã gìn giữ cho cuộc hôn nhân của bà được êm đẹp.
Giống như chiếc trực thăng, hôn nhân cũng là một vấn đề phức tạp. Có rất nhiều sự kiện có thể đưa đến xáo trộn.
Khi loại bỏ Chúa Giêsu ra khỏi đời sống hôn nhân thì sẽ giống như là loại bỏ chính con ốc "Jesus" ra khỏi chiếc trực thăng của Mike vậy. Nó sẽ bị tan rã liền.
Khái niệm Chúa Giêsu là Người giữ gìn cho mọi sự được thuận hòa cũng chính là chủ điểm cho những bài đọc hôm nay.
Bài đọc I diễn tả Chúa Giêsu như là tảng đá góc tường. Trong những tòa nhà ngày xưa, tảng đá góc tường thật là quan trọng. Nó giúp chống đỡ và giữ cho cả tòa nhà đứng vững. Rút bỏ tảng đá góc tường khỏi tòa nhà là làm cho nó sụp đổ.
Cùng một phương thức, Chúa Giêsu chính là tảng đá góc tường gìn giữ đời sống hôn nhân Kitô giáo lại với nhau. Loại bỏ Chúa Giêsu, chính là tự tìm lấy diệt vong.
Bài Phúc Âm nhắc lại tư tưởng trên. Nó diễn tả Chúa Giêsu chính là người chăn chiên. Nhiệm vụ của người chăn chiên là gìn giữ đàn chiên lại với nhau và bảo vệ chúng khỏi những nguy nan sẽ gây hại chúng.
Một lần nữa, đấy cũng chính là nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đã làm cho đời sống hôn nhân Kitô giáo. Ngài gìn giữ chúng lại với nhau và bảo vệ chúng khỏi những nguy nan sẽ nguy hại chúng.
Nếu đời sống hôn nhân hay đời sống gia đình của ta gặp phải những khó khăn, đấy có thể là vì, chúng ta đang quên đi chiếc ốc mà Thiên Chúa đã tiền định để gìn giữ nó lại với nhau.
Có thể chúng ta đang lãng quên Chúa Giêsu. Có thể chúng ta đang loại bỏ Ngài ra ngoài. Có thể chúng ta không mời Chúa Giêsu vào trong đời sống hôn nhân hay vào trong nhà chúng ta. Điều đáng chú ý là rất nhiều lần trong thời Chúa Giêsu, khi Ngài được mời vào nhà nào, thì Ngài thường làm phép lạ cho những người sống trong đó.
Ví dụ như khi cặp tân hôn đã mời Chúa Giêsu đến nhà họ, Ngài đã biến nước thành rượu.
Khi Phêrô mời Chúa Giêsu đến nhà ông, Chúa Giêsu đã chữa cho bà nhạc mẫu của ông. Khi viên đại đội trưởng Rôma mời Chúa Giêsu đến nhà ông, Chúa Giêsu đã chữa lành cho người đầy tớ của ong.
Khi hai chị em đã mời Chúa Giêsu đến nhà họ, Ngài đã làm cho em họ sống lại từ cõi chết. Khi Jairus mời Chúa Giêsu đến nhà ông, Chúa Giêsu đã làm cho con gái ông sống lại.
Điều đó làm cho chúng ta phải tự hỏi, chẳng lẽ chúng ta mời Chúa Giêsu về nhà mình, mà Ngài lại không thực hiện những việc như vậy cho ta sao?
Và như thế những bài đọc hôm nay chính là lời mời gọi chúng ta hãy mời Chúa Giêsu trở lại với gia đình ta và vào trong đời sống của ta.
62. Suy niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng.
CHA MẸ LÀ MỤC TỬ
THEO GƯƠNG CHÚA KITÔ MỤC TỬ
Nếu anh bạn để ý, sẽ nhận ra rằng: các Chúa Nhật đầu mùa Phục Sinh, Hội Thánh muốn chúng ta suy niệm các trình thuật Tin Mừng liên quan đến biến cố Phục Sinh. Nhưng Chúa Nhật này, cũng trong bối cảnh Mùa Phục Sinh, Hội Thánh lại cho ta biết, Chúa Kitô là Đấng Chăn Chiên Lành. Bạn thử nghĩ xem, Hội Thánh muốn dạy điều gì khi làm như thế? Hội Thánh muốn dạy rằng: Chúa Kitô vẫn là Mục Tử Nhân Lành cho đến đời đời. Chúa đã là Mục Tử Tốt Lành hiến dâng mạng sống để cứu lấy đoàn chiên. Chính khuôn mặt đau thương của Thập Giá đã biểu lộ mạnh mẽ tình yêu không giới hạn của vị Mục Tử Tốt Lành tối cao ấy.
Chúa Kitô đã nói như thế về mình trong bài Tin Mừng: "Ta thí mạng sống vì đàn chiên... Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta là Ta thí mạng sống, để rồi sẽ lấy lại. Không ai cất mạng sống của Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại".
Và hôm nay khi đã phục sinh, Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt đoàn chiên là từng người chúng ta, là chính bạn và tôi, bằng chính Thánh Thần của Người. Bởi qua sự hiện diện mới mẽ, hiện diện nhờ Thánh Thần, trong Thánh Thần, với Thánh Thần, sự hiện diện ấy trở nên hiện diện tròn đầy nhất: sự hiện diện thần linh, một sự hiện diện vượt trên tất cả mọi cách thế hiện diện. Chính nhờ được chăn dắt bằng Thánh Thần, đoàn chiên lãnh nhận một Tình Yêu Phục Sinh, một sức sống mới tràn đầy. Và vì thế, mãi mãi Chúa Kitô vẫn hiện diện giữa đoàn chiên, không ngừng hiện diện, Người vẫn là Mục Tử không ngừng là Mục Tử. Vị Mục Tử nhân từ và yêu thương vẫn không ngừng nhân từ, không ngừng yêu thương.
Như Chúa Kitô, tất cả mọi người đều có thể trở thành mục tử, chia sẻ chức vị Mục Tử của Chúa Kitô. Nhưng cách riêng, trong Lễ Chúa Chăn Chiên Lành hôm nay, tôi muốn hướng về những ai mang trọng trách làm cha, làm mẹ.
Còn nhớ có một lần, tôi đến thăm một đôi vợ chồng trẻ. Cuộc thăm viếng này đe lại trong tôi lòng cảm phục, vì đối với tôi, đôi vợ chồng này đã phải chịu đựng và vượt qua những khắc nghiệt quá sức con người. Họ là một đôi vợ chồng nghèo, có ba đứa con. Cả ba đều không hiểu biết gì, không nói được. Đứa con trai đầu có khuôn mặt dị dạng trông rất sợ. Lúc tôi đến, anh đã đi ra rẫy, còn chị đang ngồi đan từng chiếc nan tre để kiếm thêm tiền chợ, vừa phải trông con. Chị nói về ba đứa con của chị trong nước mắt: "Nhieu lúc con muốn chết cho rồi, nhưng nghĩ lại ba đứa con, con phải gượng sống. Cha nhớ cầu nguyện cho vợ chồng con can đảm".
Bạn cứ nghĩ mà xem, trong tình cảnh đó, ta sẽ làm gì? An ủi ư? Tôi nghĩ rằng, lời an ủi lúc đó sẽ vô nghĩa, sẽ lạc điệu vô cùng. Tôi đã im lặng nghe chị kể, để người mẹ đau khổ ấy vơi bớt nỗi lòng, cũng là để sự thông cảm trong tôi lắng sâu hơn, mạnh hơn đối với những người cha, người mẹ đáng trân trọng ấy.
Người mục tử yêu mến đàn chiên thật, sẽ là người chấp nhận hao mòn sức lực, một mực bảo vệ sự sống đàn chiên. Cũng thế, ba đứa bé tật nguyền kia, nếu chúng không được sống hạnh phúc hơn do những khiếm khuyết trên cơ thể, thì trong tình yêu của cha mẹ, chúng đang sống hết sức dồi dào. Ta cứ tưởng tượng, nếu một ngày nào đó, chúng suy nghĩ được, và ai đó bảo chúng chết cho người cha, người mẹ ấy, chắc chúng sẽ không dám chối. Còn chính trong tình yêu dành cho con mình, anh chị đã trở thành mục tử giống như Chúa Giêsu mà anh chị tôn thờ. Tình yêu ấy đã làm tăng nghị lực, tăng sức mạnh, tăng sức chịu đựng. Bởi anh chị đã từng nghĩ đến cái chết để có thể tự giải thoát mình, nhưng vì những đứa con, anh chị đã vượt qua nó.
Tôi và bạn, ai cũng từng là những đứa con, và vẫn là những đứa con. Tôi cứ tin rằng, cha mẹ chúng ta là những mục tử tốt lành. Hãy sống thảo hiếu, hãy cầu nguyen và làm tất cả những gì có thể làm để cha mẹ vui lòng. Không bao giờ được phép coi khinh, hay ít là coi thường cha mẹ. Hãy yêu mến cha mẹ chúng ta. Tình yêu sẽ chỉ cho biết phải làm gì, phải sống thế nào để gọi là hiếu thảo!
Còn các bậc cha mẹ, ta vui mừng nhận thấy những người cha, người mẹ Công Giáo đều yêu thương con mình và chăm lo cho con tận tình tận lực. Họ yêu con, nhưng không có nghĩa là chìu chuộng con, nhưng biết giáo dục con, cho con ăn học, lo cho con từng chén cơm khi con đói, từng viên thuốc khi con ốm đau...
Chúa Kitô đã làm trọn vai trò Mục Tử Nhân Lành của Người khi nhập thể làm người để cùng sống kiếp người với chúng ta. Người đã chịu chết, đã phục sinh để chứng minh rằng Người yêu ta bằng cả cuộc đời, bằng cả cuộc sống của Người. Ngoài hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử, tôi đã kể câu chuyện về đôi vợ chồng trẻ kia để chứng minh rằng, đã từng có những bậc làm cha, làm mẹ phản chiếu hình ảnh mục tử của vị Mục Tử Nhân Lành tối cao kia. Bạn và tôi hãy xem đó, và hãy bắt chước. Lòng yêu thương mang một trái tim mục tử của những bậc cha mẹ như thế, chắc chắn sẽ không có đứa con nào có thể đang tâm phủ nhận được.
Như Chúa Kitô Mục Tử, xin kính chúc những người cha, người mẹ cũng là những mục tử tốt lành. Như chúng ta yêu mến Chúa Kitô, xin chúc những người làm con cũng biết yêu thương cha me mình.
63. Chúa Giêsu là vị mục tử nhân lành
Các Chúa Nhật đầu mùa Phục Sinh, Hội Thánh trình bày cho chúng ta suy niệm các trình thuật Phúc âm liên quan đến biến cố Chúa Phục Sinh. Nhưng Chúa Nhật này, cũng trong bối cảnh Mùa Phục Sinh, Hội Thánh lại trình bày cho chúng ta biết, Chúa Kitô là Đấng Chăn Chiên Nhân Lành. Hội Thánh muốn nhắc nhở rằng: Chúa Kitô vẫn là Mục Tử Nhân Lành cho đến đời đời. Chúa đã là Mục Tử Tốt Lành hiến dâng mạng sống để cứu lấy đoàn chiên. Và hôm nay khi đã Phục sinh, Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt từng người chúng ta, bằng chính Thánh Thần của Người. Chính nhờ được chăn dắt bằng Thánh Thần, đoàn chiên lãnh nhận một Tình Yêu Phục Sinh, một sức sống mới tràn đầy. Vì thế, mãi mãi Chúa Kitô vẫn hiện diện giữa đoàn chiên, không ngừng hiện diện trong vũ trụ, Người vẫn là Mục Tử và không ngừng là Mục Tử. Vị Mục Tử nhân từ và yêu thương vẫn không ngừng nhân từ, không ngừng yêu thương.
Toàn bộ Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề Đấng Chăn Chiên nhân lành. Mục tử là người chăn chiên. Đây là hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái chuyên sống nghề du mục. Vì vậy, suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một trong những hình ảnh biểu tượng phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người chăm sóc đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chính chúng ta.
Chúa Giêsu đã nói: "Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14), và Ngài còn quả quyết sự hiểu biết của Ngài đối với mỗi người cũng như sự hiểu biết giữa Ngài với Cha Ngài: "Chúa Cha biết Ta, và Ta biết Chúa Cha, và Ta hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên"(Ga 10, 15). Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Họ biết từng con một, về ngày sinh tháng đẻ, để có thể xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho từng con, biết bệnh tật từng con để cứu chữa. Thực vậy, Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết chúng ta là những nhân vị, là những Kitô hữu. Ngài biết chúng ta hơn chúng ta biết mình. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo; ai là con chiên khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết.
Hơn nữa,Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, vì Ngài ân cần chăm sóc chúng ta. Ngài đã phục sinh nên luôn ở bên chăm sóc từng người chúng ta, Ngài yêu thương chúng ta dù chúng ta không quan tâm đến. Quả thực, suốt cả một đời hy sinh, giảng dạy, ban ơn cứu độ cho con người và Chúa còn muốn thực hiện đặc tính sau cùng của một chủ chăn tốt lành là chết vì con chiên và cho con chiên, để minh chứng lời Ngài đã nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn, cao quý hơn là chết cho người mình yêu".
Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà ngôn sứ Ezekiel tiên báo. Giống như David người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con lạc đường mất lối. Đức Giêsu còn làm hơn thế nữa. Ngài tự hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Và Ngài lại còn làm hơn như thế. Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ đời sống Phục sinh của riêng Ngài với đàn chiên.
Thánh Phêrô nhắc nhủ trong bài đọc thứ nhất ngày hôm nay, Ngài nói với dân chúng rằng chính nhờ quyền năng Đức Giêsu mà người tàn tật ấy được chữa lành. Ngài mời gọi dân chúng tin vào Chúa Giêsu để được chữa lành phần hồn giống như kẻ tật nguyền được chữa lành phần xác. Đây cũng là điều thánh Gioan nhắc nhớ trong bài đọc thứ hai hôm nay; nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha đã làm cho chúng ta trở nên con cái riêng của Ngài.
Chúng ta phải đáp lại tất cả những lời đó cách nào đây?
Trước hết, chúng ta hãy tỏ lòng biết ơn đối với Chúa Giêsu, vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà chúng ta được cứu khỏi phải chết đời đời để được sống vĩnh viễn.
Đây là điều thánh Gioan nhắm nói đến trong bài đọc thứ hai: "hiện giờ chúng ta là con cái Chúa, nhưng vẫn chưa biết rõ chúng ta sẽ trở nên thế nào, tuy nhiên chúng ta biết rằng khi Đức Kitô hiện ra, chúng ta sẽ nên giống như Ngài. Bởi vì Ngài thế nào thì chúng ta sẽ nhìn thấy Ngài như vậy" (1Ga 3, 2).
Thứ đến chúng ta phải cởi mở tâm hồn mình với Đức Giêsu, vì Ngài đang ở với chúng ta ngay lúc này để tiếp tục công việc cứu rỗi của Ngài. Ngài vẫn tiếp tục chăm sóc kẻ yếu đuối, chữa lành người đau ốm, băng bó người bị thương tích, đem người lầm lạc trở về và tìm kiếm những người đã lạc mất.
Đức Giêsu quả là Mục tử nhân lành mà Thiên Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ngày nay, Ngài vẫn còn tiếp tục cư ngụ giữa chúng ta và thông ban sự sống phục sinh của Ngài cho chúng ta.
Là con cái của Chúa Giêsu, chúng ta hãy mau mắn bước theo Ngài, đó là cách đáp trả của lòng tin. Đồng thời, chúng ta hãy yêu mến và phó thác cuộc đời vào Ngài bởi vì Ngài chính là lẽ sống cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống tâm tình của người con thảo hiếu, cảm thấy hạnh phúc vì được sống trong Hội Thánh, trong sự che chở của Ngài. Lạy Chúa Giêsu, Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Lành, xin hãy thương xót chúng con. Amen.
64. Mục Tử Tốt Lành với ba chữ D
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đan chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài.
Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành với những nét đặc trưng sau đây:
- Vị Mục Tử Tốt Lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Ngài quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì, họ cần gì, họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào.
- Vị Mục Tử Tốt Lành luôn đi đầu, đi trước, hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Mục Tử Tốt Lành đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát có cỏ xanh, cho chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Mục Tử Tốt Lành dám hy sinh mạng sống vì chiên.
- Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm sóc, quy tụ mọi con chiên. Ngài biết tên từng con chiên như Cha Ngài biết Ngài (Ga 10,14-15). Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn đi (Ga 10,3). Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên: "Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15,13). Chúa Giêsu đã chưng tỏ Ngài là vị Mục Tử Tốt Lành, vị chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt, tập họp, chăn dắt (Ga 10,9.16).
Chúa Giêsu còn cho thấy tính tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
Đức Hồng Y Yvan Dias, Tổng trưởng Thánh bộ Phúc âm hóa các Dân tộc, đại diện Đức Thánh Cha đã chủ toạ bế mạc Năm Thánh 2010 tại Thánh Địa La Vang.
Sau đại lễ, ĐHY Ivan Dias đã gặp gỡ các Giám Mục Việt Nam trong một tiếng đồng hồ để chia sẻ về tình hình cũng như gởi gắm sứ điệp. Về sứ điệp, ngài mời gọi tất cả Giám mục chia sẻ lại cho các linh mục, chủng sinh của mình về 3 chữ D rất cần thiết trong đời sống của người thuộc về Giáo Hội. 3 Chữ D là: Doctrine, Discipline, Dévotion.
1. Doctrine, về giáo thuyết. Mỗi Linh mục hôm nay được mời gọi nắm vững giáo lý Giáo hội Công giáo, giáo huấn Giáo hội, học thuyết xã hội của GHCG, bởi vì nếu không nắm vững những hướng đi trong đó, thì trong cách ứng xử một Linh mục ở tại giáo xứ nhiều khi có những cái chưa chuẩn mực và nếu như cả một Giáo hội mà lại không nắm vững về Doctrine này thì rất nguy hiểm, sẽ đưa Giáo hội đến chỗ không cứu vãn được. Tại sao Tòa Thánh phải lên tiếng về Giáo hội Trung Quốc? Câu trả lời cho biết vì yếu về giáo thuyết. Nếu hiểu Giáo hội không thể tự lực tự cường được thì người ta sẽ có chọn lựa khác. Chẳng phải nói đâu xa, trường hợp của GHVN ngày nay cũng cho thấy thấp thoáng nguy cơ. Hết rồi thời đối đầu, đã bước sang thời đối thoại. Nhưng đối thoại như thế nào để mình vẫn là GHCG, đó lại là cả một tuyến mở ra cho suy nghĩ và vì vậy quan trọng là nắm vững giáo thuyết để có những quyết định phù hợp.
2. Discipline, về kỷ luật. Đây là một vấn đề thường gây khủng khoảng cho các Giáo hội phương Tây. Vấn đề Linh mục lạm dụng tình dục là do việc không tuân thủ kỷ luật của Giáo hội, để đến khi bùng nổ ra thì không vớt vát được. Hiện nay ở nhiều địa phận của Hoa Kỳ đã phải bán hết cơ sở của mình đi để trang trải cho việc xao lãng kỷ luật của một thời. Đây là một vấn đề đau lòng. Do đó, tuan thủ kỷ luật đời sống Linh mục là một cách để giúp Linh mục một đàng thánh hóa bản thân và đàng khác tránh tất cả những hậu quả tai hại. Thời mới bước chân vào Chủng viện, chắc chắn các chủng sinh đều thuộc lòng câu: Ai sống theo kỷ luật là sống theo ý Chúa, và sau này trên bước đường lớn hơn, Linh mục vẫn thường được nghe nhắc nhở: hãy giữ luật thì luật sẽ giữ cho mình, sẽ bảo vệ mình. Cho nên chữ Discipline mời gọi mỗi người trong hướng đi đời Linh mục cũng gắn bó với luật lệ của Giáo hội cách khít khao.
3. Dévotion, lòng đạo đức sốt sắng. Ở đây theo như lời chú giải của ĐHY Dias, thì nó gắn liền với những phong trào đạo đức, có một thời tưởng như bị bỏ rơi vì đi liền với lòng đạo đức bình dân của đại chúng. Thí dụ: tràng hạt Mân Côi, có một thời người ta rẻ rúng cho là loại kinh dành cho phụ nữ, người nhàn rỗi, người già… nhưng sau này người ta cảm nghiệm đươc sức mạnh của kinh Mân Côi, nhất là sức mạnh hoán cải, sức mạnh thánh thiêng giúp người ta tiến xa trên đường nên thánh. Những cái thuộc loại Dévotion thì thường gắn liền với những hình thức văn hóa. Ví dụ: hành hương coi như chuyện đi chơi, nhưng ở đó cũng là một thứ Dévotion mời gọi Linh mục không nên xem thường. Tất nhiên không thể loại trừ những hình thức Dévotion truyền thống tôn sùng Thánh Tâm, Chầu Thánh Thể, hay là những hình thức khác nhau dành cho các Thánh. Một Linh mục mà rẻ rúng những hình thức đạo đức bình dân thì coi chừng, tưởng là mình ở trên đỉnh cao trí thức, biết đâu lúc nào đó mình rớt xuống vực mà không hay. Lần hạt Mân Côi, đó là một lời kinh tháp tùng Linh mục trên mọi bước đường, trong mọi hoàn cảnh, đó là lời kinh còn lại duy nhất sau khi đã quên đi tất cả. Gắn bó với một sự đạo đức như thế cũng là một cách giúp cho đời Linh mục được vươn lên, được thăng tiến. (x. Huấn từ khai mạc Tình tâm Linh Mục Giáo Phận Phan Thiết, ngày 10.1.2011, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống).
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
Trong Sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho các ơn gọi năm 2012, ĐTC Bênêđictô xác định: Lời Chúa, cầu nguyện và Thánh Thể là kho tàng quý giá giúp cho các ơn gọi hiểu vẻ đẹp của một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Nước Thiên Chúa.Ngài mời gọi mời gọi các mục tử: Khi kín múc ở nguồn mạch tình yêu Thiên Chua trong đời sống cầu nguyện, cùng với việc năng lui tới với Lời Chúa và các Bí tích, cách riêng Bí tích Thánh Thể, mà ta có thể sống tình yêu đối với tha nhân trong đó ta học biết khám phá khuôn mặt của Chúa Kitô (x. Mt 25,31-46). Trở nên mục tử tốt lành nhờ biết trau dồi giáo thuyết Kinh Thánh (Doctrine), sốt sắng trong lời cầu nguyện gắn bó với Chúa Giêsu (Dévotion) và có tinh thần kỷ luật trong đời sống tu trì (Discipline).
Mục tử tốt lành là phải luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên,yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Ơn gọi Linh mục Tu sĩ chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc 3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Chúa trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Giáo dân cần Linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ, như học sinh cần thầy cô giáo, như một người bạn sẵn sàng cảm thông chia sẻ vui buồn trong đời sống và như người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục được trở nên những mục tử như Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tốt Lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm soc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đàn chiên.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục có những đức tính tốt của những Mục Tử tốt Lành mà Thánh Kinh đã mô tả:
- Yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tam hồn: "Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt" (Is 40,11).
- Yêu quý từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: "Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc" (Mt 18,12-13).
- Lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: "Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ" (Ed 34,14).
- Làm cho chiên được sống no ấm, hạnh phúc: "Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì" (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: "Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm" (23,4).
- Tinh thần trách nhiệm đối với đàn chiên rất cao: "Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo map, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng" (Ed 34,16).
- Cứu thoát, giải phóng đàn chiên: "Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên" (Dc 9,16).
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử Tốt Lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Amen.
65. Ơn gọi phục vụ – Lm. Nguyễn Hữu An.
Chúa Nhật 4 Phục Sinh, Lễ Chúa Chăn Chiên Lành, Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Thiên Triệu. Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành chính là mẫu gương tuyệt hảo cho mọi Ơn Gọi Phục Vụ.
1. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành
Từ Abraham cho đến Môsê, Đavít, biết bao Tổ Phụ Do thái đã từng là những người chăn chiên. Từ kinh nghiệm của nghề chăn chiên, họ đứng ra lãnh đạo dân tộc. Quan niệm của họ về Thiên Chúa cũng dựa trên kinh nghiệm đó nên họ gọi Thiên Chúa là Mục Tử và coi mình là đoàn chiên của Ngài.
Các Ngôn Sứ thường dùng hình ảnh này để nói về tương quan thân tình giữa Thiên Chúa và dân của Người. Nhất là trong Sách Ngôn Sứ Êdêkien chương 34, Sách Giôna chương cuối và Thánh Vịnh 23. Đặc biệt chương 10 Phúc Âm Thánh Gioan: Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, là Cửa chuồng chiên. Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất đẹp gắn liền với dân du mục. Khác với hình ảnh những đứa trẻ chăn trâu, chăn bò ở làng quê Việt Nam, chúng đi sau đàn vật. Người mục tử đi trước đàn chiên, dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, tìm suối mát cho chiên, dẫn về đàn những con chiên lạc, bảo vệ chiên khỏi thú dữ, biết từng con chiên một.
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, mọi Kitô hữu là đàn chiên của Chúa. Chúa ban cho đàn chiên sự sống cách dồi dào, đó là sự sống đời đời. Mỗi con chiên đều quý giá vô ngần đối với Chúa. Người hy sinh mạng sống vì chiên. Mối tương giao này giống như tương giao Chúa Cha và Chúa Con, dựa trên sự hiểu biết riêng tư về nhau tức là trên tình yêu.
Không những là mục tử, Chúa Giêsu còn là Cửa: "Tôi là cửa cho chiên ra vào. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ". Câu trả lời đó khẳng định Chúa Giêsu chình là Cửa Cứu Độ.
Cánh cửa mở ra một chân trời mới: Cánh cửa tương lai; Cánh cửa đại học; Thời mở cửa; Bước qua ngưỡng cửa Hy Vọng; Cửa Nước Trời. Tại sao Chúa Giêsu là Cửa Cứu Độ? Bởi vì Ngài là trung gian duy nhất và trọn hảo giữa Thiên Chúa và nhân loại. Ngài có vai trò thủ lãnh trong sự thánh hoá. Ngài thông truyền giáo huấn Thiên Chúa. Ngài đền tội và cầu khẩn cho nhân loại trước mặt Thiên Chúa. Ngài thâu hợp toàn thể nhân loại và vu trụ cho Thiên Chúa. Khi nhập thể, Ngài thông truyền ân sủng Thiên Chúa cho mọi chi thể. Bằng hy lễ Cứu Độ Thập Giá trong tâm tình vâng phục yêu mến Chúa Cha, Ngài lập nên công phúc cứu độ loài người. Đức Giêsu Phục Sinh vinh quang mở đầu cho sự giao hoà giữa Thiên Chúa và nhân loại đưa nhân loại về với Thiên Chúa để dự phần đời sống Thần Linh cách dồi dào phong phú. Như thế Đức Giêsu là Cửa Cứu Độ duy nhất, là người mở đầu, là Đang hướng dẫn, thông truyền ân sủng nên Người là Mục Tử Tốt Lành vì đem lại sự sống phong phú và dư đầy cho đàn chiên.
Kitô Giáo là đạo đi từ con người tới Thiên Chúa. Đây quả thật là "Đạo bất viễn nhân", không xa nhưng rất gần gũi với con người. Bởi lẽ đạo ấy đi vào chính giữa lòng đời, đã nhập thể vào chính cuộc đời, làm men, làm muối, làm ánh sáng để biến đổi lòng người, biến đổi trần thế.
Thánh Grêgôriô Cả nói rằng: Chúng ta đi theo Chúa Giêsu là đi theo con đường cứu độ, được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Quả thế, đồng cỏ của những người được chọn là chính thánh nhan Thiên Chúa luôn hiện diện. Khi con người không ngừng chiêm ngưỡng thánh nhan, lòng trí họ được thoã thuê mãi mãi nhờ lương thực ban sự sống. Vậy hãy tìm kiếm đồng cỏ này, hãy làm cho lòng bừng cháy niềm khát khao những kho tàng trên Trời.
2. Đức Giêsu vị Mục Tử hết mình phục vụ đoàn chiên
Cả cuộc đời Đức Giêsu từ khi nhập thể làm người đến chết và phục sinh có thể tóm tắt cách đơn giản là phục vụ đoàn chiên vì yêu thương. Đỉnh cao phục vụ là thí mạng vì đoàn chiên. Việc gặp gỡ Người, kết hợp với Người sẽ dần dần biến đổi chúng ta trở nên những người phục vụ. Mỗi người Kitô hữu đều có trách nhiệm phục vụ anh chị em mình trong tư cách tham dự vào trách nhiệm Mục Tử của Đức Giêsu.
Trong sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Thiên Triệu năm 2003, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 đã chọn chủ đề Ơn Gọi Phục Vụ. Khởi đi từ Đức Kitô: Người không đến để phục vụ,"nhưng để phục vụ và trao ban mạng sống để cứu chuộc nhiều người" (Mt 20, 28). Người đã rửa chân cho các môn đệ và tuân phục chương trình của Chúa Cha cho đến chết, chết trên Thánh Giá (x. Pl 2, 8). Vì thế, Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu mới và đặt Người làm Chúa tren trời dưới đất (x. Pl 2, 9-11). Đức Thánh Cha xác định: Một cách huyền nhiệm, ơn gọi phục vụ luôn là một ơn gọi thông phần một cách rất riêng tư vào trong sứ vụ cứu độ" (số 2). "Ơn Gọi Linh Mục hoặc Ơn Gọi Tu Trì, bởi chính bản chất của nó,luôn là những ơn gọi để quãng đại phục vụ Thiên Chúa và người lân cận" (số 3).
Đức Thánh Cha đã từng nói rằng: "Trong thời đại chúng ta, một thời đại tuy đã bị tục hoá, giải thiêng nhưng vẫn được thúc đẩy đi tìm sự thánh thiện; một thời đại rất cần có những vị thánh làm sáng tỏ sự hiện diện đầy yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa. Nhân loại đang cần có những linh mục thánh thiện và những tâm hồn được thánh hiến, họ là những người ngày ngày sống hết mình cho Thiên Chúa, cho tha nhân, họ là những bậc cha mẹ sống chứng nhân ngay trong bầu khí gia đình nhờ ân sủng của bí tích hôn nhân, họ là những người trẻ có kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô và được Người thu hút để hướng dẫn anh chị em đồng loại tới cội nguồn tin mừng" (Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu cho Ơn Thiên Triệu lần thứ 36).
Ngài gởi lời mời gọi thiết tha đến các bạn trẻ: "Cha hy vọng các con có thể biết cách lắng nghe tiếng Thiên Chúa mời gọi các con phục vụ. Đó là con đường mở ra biết bao hình thức của sứ vụ vì lợi ích của cộng đoàn: từ các tác vụ được phong cho đến các tác vụ khác nhau được thiết lập và được nhìn nhận là những thừa tác vụ, như dạy Giáo Lý, linh hoạt Phụng Vụ, giáo dục giới trẻ và những diễn tả khác nhau về đức ái" (Số 4).
3. Ai phục vụ Thầy, người ấy phải theo Thầy
Một xã hội thiếu bóng dáng những người sống đời tận hiến là một xã hội thiếu lòng quãng đại, một xã hội bị khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống. Chính sự có mặt của những người sống đời tận hiến phục vụ như là một nhắc nhở rằng, con người có khả nang sống yêu thương, phục vụ như Đức Kitô và sống quãng đại hy sinh dấn thân cho người khác.
Những người trẻ lớn lên thường lập gia đình, điều đó thật tốt đẹp. Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số người trẻ dâng hiến đời mình cho Chúa, ở bên Chúa cách đặc biệt để được sai đi. Vì thế Đức Thánh Cha nhắn nhủ những người trẻ "Lời mời gọi của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng ngày hôm nay "Nếu ai phục vụ Thầy, người ấy phải theo Thầy" (Ga 12, 26). Đưng e ngại đón nhận lời mời gọi này. Chắc chắn các con sẽ gặp phải những khó khăn hy sinh, nhưng các con sẽ hạnh phúc khi phục vụ, các con sẽ là chứng nhân của niềm vui mà thế gian không thể ban tặng. Các con sẽ là nhưng ngọn lửa sống động của một tình yêu vô biên và vĩnh cửu. Các con sẽ nhận biết những phong phú thiêng liêng của chức vụ Linh Mục, quà tặng và mầu nhiệm thần linh" (Số 5).
Người sống đời tận hiến chấp nhận hy sinh quyen được lập một tổ ấm. Họ dâng tình yêu lứa đôi cho một tình yêu cao hơn trong Ơn Gọi Tu Trì để có thể yêu mãnh liệt và bao la hơn. Đức Thánh Cha khẳng định: "Họ không tìm kiếm những lợi lộc vị kỷ, nhưng hiến mình cho kẻ khac, khi cảm nghiệm niềm vui của tính nhưng không qua việc hiến tặng bản thân" (số 4).
Người đi tu là người muốn nên trọn lành, muốn đạt đến đỉnh cao của sự toàn thiện. Cũng tựa như người leo núi, muốn có ánh sáng thì phải lên cao. Để lên cao phải vất vả, nhiều khi phải leo lên những sườn dốc cheo leo. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo và nhất là sự can đảm. Đời sống tu trì cũng vậy. Nó đòi hỏi một sức khoẻ tinh thần, thể xác, sự khôn ngoan, nhẫn nại, lòng can đảm, sức chịu đựng bền bỉ. Nếu không người ta sẽ sợ hãi chóng mặt, dừng lại và rút lui. Đổi lai, người leo núi được hưởng những niềm vui mà người khác không biết đến. Đó là, được ở trong ánh sáng không bao giờ tắt, được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ, cảnh mây bay lững lờ tận dưới xa chân mình, càng leo những núi cao càng khám phá ra muôn vàn những đỉnh núi khác.
4. Cầu nguyện cho những người Mẹ
Ơn Gọi Tu Trì là ân huệ đến từ Thiên Chúa. Gia đình là Chủng Viện đầu tiên, Dòng Tu đầu tiên ươm mầm ơn gọi phát triển. Các bậc cha mẹ là những người phát hiện và vun trồng cho Ơn Gọi lớn lên, trổ sinh hoa trái.
Bài Tin Mừng hôm nay đặc biệt thích hợp cho các người Mẹ. Giống như người mục tử, giống như Chúa Giêsu, một bà mẹ luôn có mối tương giao gần gũi sâu sắc với đàn con cái. Người Mẹ yêu thương chăm sóc từng đứa con, tuỳ tính tình mỗi đứa để có cách giáo dục thích hợp. Không gì mà người Mẹ không làm để bảo vệ con khỏi nguy hiểm. Bà sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ để tìm kiếm đứa con lầm đường lạc lối trở về.
Ơn Gọi Tu Trì thường do người Mẹ phát hiện và dìu dắt từng bước. Hầu như Linh Mục nào cũng giống Mẹ và rất kính yêu Mẹ của mình. Tấm lòng người Mẹ bao la như bien cả. Trái tim người Mẹ nhân hậu bao dung như đất trời. Bởi vậy Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Thiên Triệu cũng cần dành lời cầu nguyện đặc biệt cho mọi người mẹ trên thế giới. Xin cho mọi người mẹ luôn sống vai trò Mục Tử Nhân Lành với con cái và luôn biết quảng đại dâng con mình cho Chúa, cho Giáo Hội trong Ơn Gọi Phục Vụ.
66. Nhận diện Mục Tử và Người Chăn Thuê
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hằng năm cứ đến ngày Lễ Chúa Chiên Lành (Chúa Nhật IV Phục Sinh), cả Giáo hội hướng đến việc cổ võ ơn thiên triệu trong bậc tu trì nói chung và cách riêng ơn gọi làm linh mục. Một trong những nội dung làm việc của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kỳ I năm 2012 tại giáo phận Xuân Lộc, đó là việc đào tạo linh mục. Dĩ nhiên là mục tiêu nhắm là để có những vị “mục tử như lòng Chúa mong ước”. Có thể luận suy rằng khi người ta yêu sách phẩm hạnh cần có của một bậc sống thì mặc nhiên người ta khẳng định sự cao quý và cần thiết của bậc sống ấy.
Một sự thật dễ thấy, đó là khi đề cập đến mặt tích cực và khi đó là một trong những nhân đức hay lý tưởng thì người ta dễ đón nhận và cũng dễ tự bang lòng khi thấy mình chưa đạt đến. Một trong những luận lý để tự châm chước đó là phận người còn nhiều hạn chế, thiếu sót vì như lời người xưa: “nhân vô thập toàn”. Trái lại khi nói đến điều tiêu cực, hay mặt trái cua vấn đề thì người ta khó đón nhận, vì ai ai cũng vấn vương chút sĩ diện, chút tự ái nào đó. Nói rằng bạn chưa hoàn hảo thì chúng ta dễ chấp nhận ngay nhưng nếu nói rằng bạn xấu xa thì xem ra dễ có phản ứng. Hoặc giả như cho rằng bạn nói chưa đúng thì dễ chấp nhận nhưng nếu ai đó cho rằng chúng ta nói sai thì vấn đề lại trở thành trầm trọng. Dẫu sao đi nữa thì bài trích Tin Mừng thánh Gioan của Chúa Nhật IV Phục Sinh năm B, qua những lời của chính Chúa Kitô, chúng ta cũng cần xem xét đôi điều để phân biệt mục tử với người chăn thuê.
Đã nói là phân biệt hai thực thể nào đó thì chắc chắn giữa chúng phải có nét tương đồng khiến người ta dễ lầm lẫn. Vì thế, trước hết chúng ta cùng xem xét một vài nét xem ra tương đồng giữa người chăn thuê và vị mục tử:
1. Qua cửa ràn chiên: Cả hai, vị mục tử và kẻ chăn thuê đều đường đường chính chính qua cửa ràn chiên mà vào và ra chứ khong leo tường hay chui rào. Có thể nói rằng dù được tấn phong giám mục thành sự, được truyền chức linh mục thành sự, dù có sắc phong, có văn thư bổ nhiệm hợp pháp… thì cũng chưa hẳn đã là mục tử chính hiệu.
2. Biết chiên: Dù rằng khó có thể có cái “biết” theo nghĩa Kinh Thánh đó là đồng thân, chung phận, nhưng người chăn thuê cũng biết con chiên một cách nào đó khả dĩ đáng gọi là biết theo nhãn quan nhân loại.
3. Chiên nghe tiếng và đi theo mục tử cũng như kẻ chăn thuê: Ít ai phản đối sự thật này, vì người chăn thuê không phải là người lạ hay là kẻ trộm (x.Ga 10,5;8). Ngoại trừ một số ít chiên “cá biệt” hoặc bị gán nhãn mác là “chống giáo sĩ”, thì có thể nói là đại đa số giáo dân Công giáo, cách riêng giáo dân Công giáo Việt Nam đều ngoan, theo nghĩa là biết vâng nghe lời các đấng bậc.
4. Người chăn thuê và mục tử đều dẫn chiên đến đồng cỏ và nguồn nước: Rất có thể chiên không được hưởng dùng các loại cỏ xanh tươi hay dòng nước mát trong cách tốt nhất, nhưng người chăn thuê vẫn không quên bổn phận cung cấp thức ăn và nước uống cho đàn chiên.
Tiếp đến chúng ta cùng nhận diện những điểm khác biệt giữa người chăn thuê và vị mục tử. Đây là nội dung muốn chia sẻ. Hy vọng rằng khi trực kiến với hình ảnh mang tính phản diện thì chúng ta dễ giật mình hơn, không chỉ với những người đang trong phận vụ muc tử mà còn với cả những người trong danh phận con chiên.
1. Làm chỉ vì tiền: Mục đích nhắm của bất cứ người làm thuê nào, nếu thực sự là làm thuê, thì đều vì tiền công. Người chăn thuê cũng có thể có tấm lòng với đàn chiên, nhưng ưu tiên số một vẫn là tiền công, dù là công nhật, công tháng, công năm hoặc hưởng lương theo sản phẩm.
2. Làm hết giờ hơn là làm hết việc: Trong thân phận người làm thuê thì người ta rất mong đến giờ tan sở. Giả như người làm thuê nếu có làm hết việc thì ít khi hết lòng. Nếu người làm thuê làm ăn lương theo sản phẩm thì có đó chuyện làm hết sức, nhưng làm cách công tâm và hết tình thì chưa hẳn có. Trái lại, nếu đúng la mục tử thì có thể nhiều khi làm không hết việc, thậm chí có khi không được việc trước mắt, nhưng luôn thực thi hết lòng.
3. Không quan tâm đến chiên ngoài đàn: Đây là một điều tất yếu đương nhiên. Đã là làm thuê thì ít có ai thích dài tay với những việc xem ra không quá đòi buộc phải làm hoặc có xao nhãng hay không làm cũng chẳng bị trừ lương. Đã là mục tử thì không thể quên lời của Thầy chí thánh, Giêsu: “Ta còn nhiều chiên ở ngoài đàn…”
4. Không bao giờ sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì chiên: Cần thú nhận rằng chẳng có ai dại gì tự nguyện bị thiệt thân vì những gì không thuộc về mình. Khi thấy sói đến người chăn thuê sẵn sàng bỏ chiên để giữ lấy mạng sống mình (x.Ga 10,12). Chuyện hiến dâng mạng sống vì chiên xem ra chẳng hề có trong tâm trí của người chăn thuê. Trái lại, đây là điểm không thể thiếu để thẩm định ai mới là mục tử.
Với bốn điểm đồng và bốn điểm dị, thầm mong khi phân biệt mục tử với người chăn thuê, chúng ta thêm xác tín rằng ngoài việc cần thiết cầu nguyện liên lỉ cho các mục tử trong Giáo hội, thì đang còn đó nhiều việc đáng làm và nên làm. Cũng hy vọng rằng một số mục tử nào đó trong Giáo hội, dù chưa hẳn xứng danh mục tử tốt lành nhưng không phải là những người chăn thuê. Và mong sao không hề có những kẻ chăn thuê đang mang danh mục tử.
“Hãy ra khỏi ngôi mộ trống!” Hy vọng rằng lời nhắn nhủ của Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, vị đại diện của Đức Thánh Cha giúp cho nhiều đấng bậc, cách riêng trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam biết thức tỉnh để sống lại con người mục tử chính danh chính hiệu của mình. Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn đoàn chiên của Người sống và hành xử như “đoàn cừu của Panurge”, mà là như đoàn dân Thiên Chúa trưởng thành, đầy ý thức và tinh thần trách nhiệm, luôn tích cực cộng tác với ơn Chúa để dệt xây những mục tử tốt lành như lòng Chúa ước mong.
67. Đức Giêsu, Vị mục tử nhân lành - Lm. Đan Vinh
Tìm hiểu lời Chúa
1) Ý chính: Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tự ví mình như một Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử biểu lộ qua 3 hành động sau: một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả đàn chiên, nhất là những con bị đau ốm, bị thương tích hay lạc mất. Ba là can đảm thí mạng đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.
2) Chú thích:
- Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên (Ga 10,11-13):
+ Tôi chính là: Đây là kiểu nói mặc khải về Danh xưng của Thiên Chúa: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Đức Giêsu đã nhiều lần khẳng định: “Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,24.28); “Chính tôi là bánh trường sinh” (Ga 6,35), “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41); “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12; 9,5); “Tôi là cửa cho chiên vào” (Ga 10,7.9); “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14); “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25); “Chính Thầy la con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6); “Thầy là cây nho thật…Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,1.5).
+ Mục Tử nhân lành: Mục tử là người chăn chiên, một hình ảnh quen thuộc đối với dân Do Thái. Thiên Chúa chính là Mục Tử cai trị, hướng dẫn dân Người (x. Tv 23,1). Ngôn sứ Edêkien đã tuyên sấm lời Đức Chúa phán như sau; “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; Con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; Con nào bệnh tật, Ta sẽ cho mạnh; Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16). Thiên Chúa cũng dùng một số mục tử để thay Người mà coi sóc dân như Môsê (x. Is 63,11), Đavít (x. Tv 78,70-71). Bên cạnh các mục tử tốt cũng có những kẻ xấu xa bất xứng (x. Gr 10,21; 12,10). Thiên Chúa hứa ban một Mục Tử thuộc dòng dõi Đavít, luôn làm đẹp lòng Người (x. Gr 23,4-6; Ed 34,23-24). Vị Mục Tử duy nhất ấy chính là Đức Giêsu như Người đã từng khẳng định: “Tôi là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14).
+ Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên: Đây là sự khác biệt quan trọng giữa mục tử chân chính với kẻ chăn thuê. Hy sinh mạng sống là dấu hiệu của một tình yêu tột đỉnh (x. Ga 15,13).
+ Người làm thuê không phải là Mục Tử: Đức Giêsu dùng kiểu nói tương phản để làm nổi bật tính cách nhân lành của Mục Tử chân chính. Người chăn thuê thường tỏ ra hèn nhát và vô trách nhiệm đối với đoàn chiên (x. Ga 10,12-13). Ở đây, người làm thuê ám chỉ là các đầu mục dân Do Thái như các kinh sư, các người pha-ri-sêu gỉa hình (x. Mt 23,2), các Ngôn sứ giả (x. Mt 24,11). Những đầu mục này chỉ lo tìm tư lợi, là kẻ dẫn đường sai lạc, là người nói mà không làm, là người đạo đức giả (x. Mt 23,14.16.25.28).
- Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi. Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử (Ga 10, 14-16):
+ Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi: Từ ngữ “Biết” trong Kinh Thánh không những nói về sự hiểu biết đối với tha nhân về tri thức, mà còn có nghĩa là một sự quan hệ mật thiết: Biết cái gì nghĩa là có kinh nghiệm cụ thể về cái đó. Biết một người nào là có liên hệ mật thiết với người đó (x. St 4,1; Lc 1,34). Đức Giêsu biết các tín hữu là đoan chiên của Người, và họ cũng biết Người là Mục Tử của họ và sẵn sàng vâng nghe lời Người. Tuy nhiên những điều mặc khải của Đức Giêsu thường khó hiểu và khó chấp nhận, bao lâu Đức Giêsu chưa được tôn vinh, nghĩa là chưa được treo trên thập giá(x. Ga 8,28). Sự tôn vinh này là điều kiện để các môn đệ đón nhận được ơn Thánh Thần (x. Ga 7,39). Rồi nhờ Ơn Thánh Thần tác động, các ông sẽ hiểu biết trọn vẹn các chân lý đã được Đức Giesu mặc khải trước đó (x. Ga 16,3).
+ Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này: Sự quan tâm săn sóc của Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, không chỉ dành riêng cho các tín hữu, mà còn phổ biến đến mọi dân tộc nhờ các môn đệ của Người. Sứ mạng loan Tin Mừng và làm chứng cho Đức Kitô được trao cho các môn đệ và cũng là trao cho Giáo Hội, trao cho mỗi tín hữu chúng ta trước khi Người về trời (x. Mt 28,19; Cv 1,8).
+ Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử: Với cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, biên giới ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại đã bị phá hủy (x. Gl3,28). Mọi người mọi dân tộc đều có thể gia nhập đoàn chiên của Người, vì Người đã đổ máu ra để cứu chuộc toàn nhân loại (x. 1 Tm 2,4). Viễn tượng về một ngày đoàn tụ nhân loại trong một đại gia đình, một đoàn chiên duy nhất dưới quyền một Mục Tử tối cao là Đức Giêsu (Vua Mêsia) có trở thành hiện thực hay không, là tùy vào sự ý thức và quyết tâm của mỗi người tín hữu chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mạng “được sai đi khắp thế gian, đến với muôn dân” hay không.
- Sở dĩ Chúa Cha yêu mến toi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại Mạng Sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha toi mà tôi đã nhận được (Ga 10,17-18):
+ Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi: Khi hiển dung trên quả núi cao, Đức Giêsu đã được Chúa Cha công nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về người” (Mt 17,5). Lý do Người được Chúa Cha yêu mến:
+ Là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại: Đức Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập giá vâng theo ý Chúa Cha như Người đã cầu nguyện trước cuộc khổ nạn: “ Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Người sẵn sàng chịu chết để rồi nhờ quyền năng Thánh Thần, Người sẽ lấy lại mạng sống bằng sự phục sinh vinh quang.
+ Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình: Việc Đức Giêsu chịu chết không phải do ý muốn của các đầu mục Do Thái, tổng trấn Philatô, Giuđa, quân lính và dân chúng…Nhưng là do Người tự ý chấp nhận vâng phục thánh ý Chúa Cha(x. Mt 26,39) khi đến “GIỜ” Con Người được tôn vinh (x.Ga 12,23).
+ Để rồi lấy lại: Đức Giêsu đã báo cho các môn đệ biết trước: Người sẽ đi lên Giêrusalem, chịu đau khổ do các đầu mục Do Thái gây ra, sẽ bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (x. Mt 16,21; 17,22; 20,18-19), nhờ quyền năng Thiên Chúa Cha (x. Cv 2,32-33).
+ Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được: Đức Giêsu đã luôn vâng lời Chúa Cha (x. Mc 14,36), đến nỗi bằng lòng chịu chet, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8).
Học sống lời Chúa
1) “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
- Câu chuyện: Mẹ chết thay con:
Trên một tờ báo y học ở Achentina, bác sĩ Giăng Coóctê (Jean Cortez) đã kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Angien. Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp nơi trẻ em. Sau mấy lần giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành báo tin buồn cho bà mẹ là ông đành chịu bất lực trước căn bệnh hiểm nghèo này, và cho biết Angien đã chết! Bà Maria mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và quì cầu nguyện nhiều giờ bên giường con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe thấy lời bà cầu xin cho mình được chết thay con. Ong cùng mọi người im lặng ra bên ngoài để bà một mình với đứa con yêu đã chết.
Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng. Mọi người hiện diện đều rất ngạc nhiên khi thấy Angien đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ. Em đang ngồi trên giường và ôm mẹ, còn mẹ em thì lại nằm gục trên giường và đang ở trong tình trạng sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: “Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa đã thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay thế cho con tôi!”. Bấy giờ bác sĩ Coóctê lập tức cho tái xét nghiệm va kết quả là bé Angien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Maria mẹ em lại mắc chứng bệnh ung thư bao tử của em mà trước đó bà không hề mắc phải. Thân nhân xúm lại chung quanh bà Maria để động viên an ủi bà và có người hứa sẽ thay bà mà nhận bé Angien làm con và chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt. Vài giờ sau bà Maria tắt thở trong bình an, Bà được mọi người kính phục về tình mẫu tử cao quí bà dành cho con. Bác sĩ Coóctê kết luận: “Tôi không thể giải thích lý do tại sao chuyện này lại có thể xảy ra được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Angien đã chết. Có thể đã có một quyền năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ nơi đứa con sang cho bà mẹ!”
- Suy nghĩ: Tình mẫu tử thiêng liêng đã khiến bà Maria hy sinh chịu chết thay cho con. Tình mẫu tử ấy là phản ảnh tình yêu của Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành đối với các tín hữu là đoàn chiên của Người. Người đa nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong bài Tin Mừng hôm nay Người nói: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.
- Câu hỏi: 1) Mỗi người chúng ta đều có thể là mục tử đối với đoàn chiên là những người được Chúa trao cho ta nhiệm vụ trông nom săn sóc. Vậy đoàn chiên ấy gồm những ai?
* Đáp: Đoàn chiên ấy chính là các con cái và các em trong gia đình mà ta có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng, dạy dỗ và săn sóc; Đoàn chiên ấy cũng là các công nhân trong nhà máy xí nghiệp mà ta đang giữ nhiệm vụ quản lý điều hành; Đoàn chiên ấy cũng là các học trò trong một lớp học mà ta là giáo viên chủ nhiệm; Đoàn chiên ấy còn là các hội viên trong hội đoàn Công Giáo Tiến Hành mà ta có nhiệm vụ là huynh trưởng trong Ban Chấp Hành…
- Câu hỏi: 2) Phân biệt giữa Mục Tử nhân lành với các kẻ chăn thuê giống và khác nhau thế nào?
* Đáp: Giống nhau vì cả hai đều có nhiệm vụ phải chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên. Tuy nhiên Mục Tử nhân lành và kẻ chăn chiên lại có nhiều điểm khác nhau như sau:
** Mục tử nhân lành: là chủ đoàn chiên và chiên thuộc về người ấy, nên ông yêu thương chúng và sẵn sàng thí mạng chống lại với sói dữ để bảo vệ đoàn chiên; Ong lại cũng biết rõ từng con chiên một như về tính khí và các khó khăn con chiên phải chịu đựng, các nhu cầu của chiên cần được đáp ứng. Do đó đoàn chiên luôn yêu mến và vâng nghe lời ông. Ngoài ra Mục Tử nhân lành còn phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với đoàn chiên như: băng bó chữa lành các con chiên bị đau ốm hay thương tích, đi tìm các con chiên thất lạc và tìm được thì vác trên vai mà đưa về đoàn, để sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.
** Kẻ chăn thuê chỉ là người làm công và chiên không thuộc về hắn, nên hắn không yêu thương chiên mà chỉ lo tìm tư lợi ích kỷ như chỉ lo vắt sữa và xén lông chiên đem bán lấy tiền, không quan tâm chăm sóc cho đoàn chiên, không chịu băng bó chữa bệnh cho chiên đau yếu, không đi tìm các con chiên lạc. Nhất là khi thấy sói rừng kéo đến tấn công đoàn chiên, kẻ chăn thuê cảm thấy nguy hiểm cho bản thân mình thì sẵn sàng bỏ rơi đoàn chiên mà chạy thoát thân một mình, mặc cho sói rừng cắn xé các con chiên và làm cho đoàn chiên tan tác…
2) “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14)
- Câu chuyện: “Vì tôi là linh mục”:
+ Cách đây ít lâu, Nguyễn Đức Quang đã sáng tác một bài hát mang tựa đề: “Vì tôi là Linh Mục” để tặng một người bạn thân là linh mục “cấp tiến” đã phá giới hồi tục. Nội dung bài hát về một linh mục vì không mặc áo dòng nên đã bị sa chước cám dỗ vào cuộc tình. Để rồi cả đời bị lương tâm cáo trách và đánh mất lý tưởng của cuộc đời mình.
+ Linh mục là người phàm, không phải là thần thánh: Linh mục cũng là một con người yếu đuối và bất toàn như bao người khác: “Nhân vô thập toàn”, Tuy nhiên Linh Mục đã được thánh hiến cho Chúa, nghĩa là thuộc trọn về Chúa, hiến thân phụng sự Chúa và trở thành khí cụ Chúa dùng mà thánh hóa thế gian. Linh Mục là người được Chúa mời gọi và đã đáp lại tiếng Chúa bang sự hy sinh tình cảm gia đình, thôi bỏ nghề nghiệp mà đi theo làm môn đệ Chúa. Được Người đào tạo và huấn luyện trong môi trường chủng viện. Sau đó, được thụ phong Linh Mục và được sai đi để chu toàn ba sứ vụ đặc biệt la: Sứ vụ tiên tri để đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, sứ vụ Tư Tế để cử hành các phép Bí Tích nhất là Thánh Thể mà thánh hóa người ta, và sứ vụ Vương Đế để chăn dắt đoàn chiên được Chúa trao phó.
+ Những khó khăn của Linh mục thời đại mới: Trong bài “Linh mục, người là ai?”, văn hào Giuăng Aria (Juan Arias) viết: “Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy của tôn giáo”. Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục năng tiếp xúc với các người giàu có. Họ rủa Linh mục là ‘Đồ tư bản chết liệt!”, Nếu Linh mục hiến thân chuyen lo phục vụ cho người nghèo hèn ít học, bệnh tật, cô đơn…thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là “Đồ Tả Khuynh bần tiện!”. Làm Linh mục thời đại này thật không đơn giản chút nào!
+ “ Một người luôn luôn sai lầm” (He is always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông của các tín hữu đối với Linh mục chủ chăn như sau:
* Giảng ngắn dưới 10 phút: “Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giãng!”. Giảng quá 20 phút: “Ong ta là người ưa nói dai và nói dài!”
* Nếu giảng hùng hồn: “Ông ta la lối om sòm thật bất kính đối với Chúa đang ngự trong nhà chầu!”. Nếu giảng với giọng bình thường: “Ông ta có tài dỗ ngủ cho người mang bệnh khó ngủ!”.
* Nếu năng đến thăm các gia đình trong xứ: “ Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp hay để đi kẻ liệt!”. Nếu ít đi thăm: “Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!”.
* Nếu Linh mục còn trẻ: “Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ giáo xứ!”. Nếu đã cao niên: “Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm xin về hưu đi là vừa!”.
- Quyết tâm: “Ở sao cho vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê”: Câu ca dao thật đúng khi áp dụng cho Linh mục. Vậy bạn quyết tâm sẽ làm gì để trở nên con chiên ngoan trong đoàn chiên Chúa, do các Mục Tử là các Linh Mục chăm sóc?
(Đáp: Cầu nguyện, cảm thông, cộng tác, giúp đỡ, trở nên cánh tay nối dài…)
68. Mục tử nhân lành - Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: "Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11).
2. CÂU CHUYỆN: MẸ CHẾT THAY CON
Trên một tờ báo y học ở Ac-hen-ti-na, bác sĩ Giăng Coóc-tê (Jean Cortez) đã kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Ăng-gien (Angel). Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp thấy nơi trẻ em. Sau khi giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành phải báo tin buồn cho bà mẹ của bé sự bất lực của ông trước căn bệnh hiểm nghèo này, và cho biết bé Ang-gien đã chết! Bà Ma-ri-a mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin dữ ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và quỳ cầu nguyện nhiều giờ bên giường con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe bà cầu xin để bà được chết thay cho con. Ông cùng mọi người im lặng ra ngoài để bà một mình với đứa con đã chết.
Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy bé Ăng-gien bây giờ đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ như không có bệnh tật gì. Em đang ngồi trên giường, còn mẹ em thì nằm gục bên cạnh giường và sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: "Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay cho con tôi!". Bấy giờ bác sĩ Coóc-tê lập tức cho tái xét nghiệm và kết quả là bé Ăng-gien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Ma-ri-a thì lại mắc chứng bệnh bao tử của em mà trước đó bà chưa hề mắc phải. Thân nhân xúm lại xung quanh bà Ma-ri-a để động viên an ủi bà và hứa sẽ nhận bé Ăng-gien làm con và sẽ chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt sau này. Vài giờ sau bà Ma-ri-a đã ra đi trong bình an. Bà được mọi người kính phục vì tình mẫu tử cao quý bà dành cho con. Bác sĩ Coóc-tê kết luận: "Tôi không thể giải thích tại sao lại có thể xảy ra như thế được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Ăng-gien đã chết. Có thể đã có một tài năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ nơi đứa con sang cho bà mẹ!".
3. NỘI DUNG TIN MỪNG: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tự ví mình như vị Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử được biểu lộ qua 3 hành động sau: Một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả đoàn chiên, nhất là những con chiên bị đau ốm, thương tích hay lạc đàn. Ba là sẵn sàng thí mạng đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.
4. SUY NIỆM: NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA LINH MỤC THỜI ĐẠI MỚI:
Linh mục là mục tử dẫn dắt dân Chúa về phần linh hồn.
- "Linh Mục, Người Là Ai?": Văn hào Giu-ăng A-ri-a (Juan Arias) viết: "Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là một người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy của tôn giáo". Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục hay tiếp xúc với người giàu có và rủa Linh mục là "đồ tư bản chết tiệt!". Nếu linh mục hiến thân chuyên lo phục vụ cho người nghèo ít học, bệnh tật, cô đơn... thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là "Đồ tả khuynh bần tiện!".
Làm Linh mục thời đại ngày nay thật không đơn giản chút nào!
"Một người luôn luôn sai lầm" (He is always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông của các tín hữu đối với các Linh mục chủ chăn như sau:
* Giảng ngắn dưới 10 phút: "Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giảng!".
* Giảng quá 20 phút: "Ông ta là người ưa nói dai và nói dài!"
* Nếu giảng hùng hồn: Ông ta la lối om sòm thật bất kính với Chúa đang ngự trong nhà chầu!
* Nếu giảng với giọng bình thường: "Ông ta có biệt tài dỗ ngủ cho người bệnh khó ngủ!"
* Nếu năng đến thăm các gia đình trong giáo xứ: "Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp hay để đi kẻ liệt!".
* Nếu ít đi thăm: "Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!".
* Nếu linh mục còn trẻ: "Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ!".
* Nếu đã cao niên: "Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm về hưu đi là vừa!"
Thật đúng như người đời thường nói: "Ở sao cho vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê". Làm Linh mục thật không dễ chút nào!.
5. CẦU NGUYỆN
- Lạy Chúa Giêsu. Thật hạnh phúc biết bao khi con biết rằng con đang được Chúa nâng niu bảo vệ. Chúa là Mục Tử tốt lành hằng yêu thương con. Chúa đã hy sinh chịu chết để đền tội thay cho con và không ngừng bảo vệ con khỏi bị ma quỉ tấn công. Xa-tan muốn cướp con khỏi bàn tay Chúa và biến con trở thành tay sai của chúng. Có những cám dỗ ngọt ngào, có những thách thức khổ đau. Xatan muốn con lạc xa tình thương của Chúa. Nhưng con tin rằng Chúa luôn nâng đỡ phù giúp con. Vì Chúa đã hy sinh mạng sống chịu chết đền tội thay cho con. nhiều lúc con đã từ chối tình thương của Chúa để phạm tội. Có lần con đã chán nản không muốn theo Chúa nữa. Con đã chọn lối sống tự do buông thả để cuối cùng phải lãnh lấy bao đau khổ bất hạnh. Xin cho con can đảm từ bỏ tội lỗi và bước theo con đường hẹp và đầy chông gai như Chúa khi xưa. Xin cho con luôn tuân giữ các giới răn, nhất là giới răn yêu người như Chúa đã dạy. Xin cho con luôn tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu, cậy trông phó thác vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Nhờ đó, con hy vọng sau này sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời.- Amen.
69. Tôi là mục tử nhân lành – Lm. FX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Bài Diễn từ về Cửa chuồng chiên và người Mục tử (Ga 10,1-21) vừa chấm dứt các Diễn từ dịp Lễ Lều vừa đưa vào Diễn từ dịp Lễ Cung hiến Đền Thờ.
Bản văn có thể được phân bố tổng quát như sau:
1) Các dụ ngôn (10,1-5);
2) Phản ứng của người Do Thái (10,6);
3) Các giải thích:
a) Cửa (10,7-10),
b) Người mục tử (10,11-18);
4) Phản ứng của người Do Thái (10,19-21).
Hôm nay, chúng ta đọc phần giải thích Người mục tử (10,11-18).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Người mục tử đích thật (10,11-13);
2) Người mục tử ưu việt (10,14-18).
3.- Vài điểm chú giải
- nhân lành (11): Hy-ngữ có hai từ để nói là “tốt”: (1) agathos mô tả đức tính luân lý của một cá nhân được coi là tốt; (2) kalos, cũng có thể dịch là “đẹp”, thêm vào yếu tố “tốt” một nét nói lên sự thu hút và đồng cảm. “Từ “nhân lành” hay “tốt” ở đây là tính từ kalos.
- hy sinh mạng sống (11): Dịch sát là “đặt/hạ mạng sống xuống” (cc. 11.15.17). Đây là công thức của Ga (13,37; 15,13; 1 Ga 3,16). Theo ngữ cảnh, công thức này tương đương với các công thức của Tin Mừng Nhất Lãm, “hiến mạng sống” (x. Mt 20,28; Mc 10,45).
- chien của tôi (14): Đức Giêsu có thể nói các con chiên là của Người vì Chúa Cha đã ban họ cho Người (x. 6,37.44.65; 17,6-7).
- một đoàn chiên và một mục tử (16): Chúng ta ghi nhận một chọn lựa thú vị của cha R.E. Brown trong bản dịch Anh ngữ: có thể dịch “một đoàn chiên” là “a flock of sheep”, nhưng cha Brown dịch là “one sheep herd” đi với “one shepherd” để giữ cho tương ứng với poimnê (sheep herd, flock) và poimên (shepherd).
- Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy (18): Chúng ta ghi nhận cách viết của tác giả nhằm nhấn mạnh: từ “quyền” được dùng hai lần và đặt ở đầu câu, tạm dịch là “quyền tôi có / để hy sinh mạng sống, và quyền tôi có / để lấy lại mang sống”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong Cựu Ước, hình ảnh người mục tử thường được áp dụng cho các vua. Nhưng hình ảnh mục tử và con chiên là một hình ảnh quá quen thuộc để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Ngài tuyển chọn, tức Israel: Ngài hướng dẫn, bảo vệ và nuôi dưỡng Dân Ngài. Tuy nhiên, kinh nghiệm của Israel về các nhà lãnh đạo là một kinh nghiệm đáng buồn. Các ngôn sứ đã chỉ trích các vua bằng lời lẽ nặng nề, vì thay vì nuôi dưỡng con chiên, họ đã bóc lột và thậm chí giết chiên.
Thiên Chúa luôn ở về phía những người bị áp bức, Ngài hứa rằng chính Ngài sẽ chăm sóc con chiên, và Ngài sẽ gửi đến cho họ một mục tử chân chính, để điều khiển họ trong sự công chính và đưa lại bình an (x. Ed 34; Gr 23,1-6). Khi Đức Giêsu tự giới thiệu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14), thì lời Thiên Chúa hứa đã nên hiện thực, nhưng vượt quá mọi chờ đợi. Đức Giêsu làm điều mà không mục tử nào làm, cho dù là mục tử tốt: “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (5 lần: cc. 11.15.17.18 [2 lần]). Giữa Người và đoàn chiên, có một sự hiểu biết hỗ tương chứng tỏ một dây liên kết rất thân tình giữa Đức Giêsu và đoàn chiên (c. 14) cũng như giữa Đức Giêsu cùng đoàn chiên với Chúa Cha (cc. 15.18).
Các lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa các độc giả đến chỗ có một cái nhìn rộng lớn về công trình của Đức Giêsu: mầu nhiệm Vượt Qua và sự hy sinh chính bản thân Người.
* Người mục tử đích thật (11-13)
Đức Giêsu là “Mục tử nhân lành”, cũng có nghĩa là “Mục tử xinh đẹp”. “Nhân lành” không có nghĩa tình cảm, là “dịu dàng, êm ái”, nhưng là “chân chính, đích thực”. Từ ngữ này gợi ý rằng Đức Giêsu không chỉ là người làm việc có hiệu năng (điều hành), nhưng còn có một nhân cách xinh đẹp toàn diện và duyên dáng hấp dẫn. Cộng với tài lãnh đạo đầy uy lực và hiệu năng của Người, điều làm nên tư cách Mục Tử nhân lành của Người không phải là tài vuốt ve các con chiên, nhưng chính là tình yêu và khả năng đồng cảm của Người.
Người có một cảm thức về trách nhiệm: “các chiên thuộc về Người” (x. c. 12). Chính vì thế, Người đáng tin cậy, và sẽ chu toàn nhiệm vụ hết sức mình. Vào thời Đức Giêsu, người ta có thể nói “nghề chăn chiên” là một “ơn gọi” chứ không chỉ là một kế sinh nhai. Một người mục tử như thế thì không có mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên; buổi sáng, khi thức dậy, người ấy vui sướng tìm đường đến với đoàn chiên. Còn những ai làm mục tử chỉ vì chẳng đặng đừng, họ không coi trọng trách nhiệm đối với đoàn chiên, họ chỉ là “người làm thuê”, “khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (c. 12). Ngược lại với người làm thuê, người mục tử nhân lành coi các con chiên như chính mình nên cũng không chờ đợi được trả công. Người nào làm việc chỉ để được trả lương dựa trên công việc của mình thì chỉ nghĩ đến tiền bạc, và khi không có tiền bạc hay thứ tương tự bù lại, thì họ bỏ việc. Còn ơ đâu có cảm thức về sự “thuộc-về”, ở đó cũng có tình yêu, và ở đâu có tình yêu, ở đó người ta vui sướng làm việc dù không được trả công.
Động lực căn bản hướng dẫn người mục tử nhân lành là tình yêu, và người nào yêu thì trước tiên muốn ban tặng, chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là sẵn sàng thậm chí hy sinh cả mạng sống mình (x. Ga 15,13).
Sự dấn thân không biên giới của người mục tử nhân lành nhằm đưa lại sư sống: “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (c. 10). Sự dấn thân này không có giới hạn: cách thức Người làm việc để có sự sống là Người ban tặng chính sự sống của Người: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng song mình cho đoàn chiên” (c. 11). Người mục tử đích thực không ngần ngại chấp nhận những phiêu lưu, rủi ro, chấp nhận hy sinh cả mạng sống, để cứu con chiên khỏi bất cứ mối nguy hiểm nào đang đe dọa chúng. Điều này có nghĩa là người mục tử nhân lành không tháo lui, cho dù khi mạng sống của mình bị đe dọa. Người mục tử nhân lành yêu thương con chiên hơn chính mình, và tình yêu này thúc bách Người làm mọi sự cho chúng ta. Điều này hoàn toàn ngược lại với người làm thuê, anh ta “không thiết gì đến chiên” (c. 13).
* Người mục tử ưu việt (14-18)
Đến đây, đề tài được đào sâu hơn nữa: phân đoạn này mô tả vẻ đẹp nơi nhân cách, hoặc đúng hơn, của linh đạo của người mục tử nhân lành, bí mật thâm sâu của Người, để trả lời cho các câu hỏi: Hy sinh mạng sống nghĩa là gì? Sự sống này hệ tại điều gì? Nó đưa tới đâu? Sự hiến mình của người mục tử dựa trên nền tảng nào? Nói cách khác, phân đoạn này triển khai nội dung của mối tương quan của người mục tử nhân lành với đoàn chiên.
Một tương quan đầy say mê (cc. 14-15). Tương quan của người mục tử nhân lành với con chiên là một tương quan không lạnh lùng, thể lý, vô ngã. Trái lại nó mang dáng vẻ một tương quan thân ái nhất, riêng tư nhất: tình hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 1,1-3 và 1,18): “Như Chúa Cha biết tôi…” (c. 15). Thái độ của Đức Giêsu mang dấu ấn là tương quan của Người với Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Con biết nhau sâu xa, sống một cuộc sống trong tin tưởng lẫn nhau, trân trọng nhau, yêu thương nhau thắm thiết. “Tôi biết chiên của tôi…” (c. 14): Nếu tương quan của Đức Giêsu vơi chúng ta là kiểu này, chúng ta có thể hiểu rằng tương quan của người mục tử là nồng nàn, say mê, bừng cháy. Và nếu đó là cách Người ở với chúng ta, thì chúng ta cũng phải quan hệ với Người như thế: “chiên của tôi biết tôi” (c. 14b). Tác giả nói đến “biết” thay vì tình yêu, bởi vì “tình yêu” hệ tại việc “biết” riêng. Đối với Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, chúng ta không phải là những con số; Người biết lịch sử đời ta, các vấn đề, các khiếm khuyết của chúng ta – tất cả các đặc điểm và phẩm chất của chúng ta. Bởi vì Người biết chúng ta, Người yêu thương chúng ta. Điều này có nghĩa là Người chấp nhận chúng ta trong hiện trạng, và đưa chúng ta vào hiep thông trọn vẹn với Người. Nhưng cần phải thấy mặt bên kia: đối với chúng ta, “Giêsu” không được chỉ đơn giản là một cái tên; chúng ta phải càng ngày càng biết Người hơn, như “những con chiên tốt, đẹp”, và phát triển mot tương quan với Người, một tương quan mang dấu ấn là một tình yêu sâu sắc và trung thực.
Tương quan với Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, là tương quan hiệp thông thâm sâu. Người mục tử nhân lành không giữ thế cách biệt với chúng ta; Người không muốn chúng ta cứ mãi bé nhỏ và thiếu chín chắn. Như thế, chúng ta cứ phải ngày càng nên chín chắn cho đến khi có thể đi vào hiệp thông riêng tư với Người.
Một tương quan dành chỗ cho mọi người (c. 16). Sự hiệp thông được thiết lập với Đức Giêsu bắt đầu dần dà nắm lấy mọi tương quan của chúng ta và có mục tiêu là một cuộc sống được kết hợp (với tất cả các dạng cũng như những nét phức tạp của nó) trong tình yêu cua Đức Giêsu. Tình yêu giả thiết có “hiểu biết”, nhưng sau này, sẽ xuất hiện một sự hợp nhất vượt trên các khác biệt, bởi vì tình yêu thì “kết hợp”.
Sự nhiệt thành và quan tâm của Đức Giêsu-mục tử không giới hạn vào dân Israel. Công việc Người đã nhận từ Chúa Cha là lo lắng chăm sóc toàn thể nhân loại, làm cho thành một đoàn chiên duy nhất, một cộng đoàn gồm những người tin vào Người. Nói cho cùng, đó chính là sứ mạng của Người. Không một ai bị loại khỏi sự quan tâm của Người, và như thế, sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa nơi Người là để cho mọi dân tộc. “Đoàn chiên duy nhất” này mang hai chiều kích lịch sử chính yếu: (1) chiều đứng liên kết qua khứ, hiện tại và tương lai (cộng đồng Israel, cộng đoàn Nhóm Mười Hai, cộng đoàn tất cả các tín hữu tương lai); và (2) chiều ngang, nối kết các nhóm tín hữu khác nhau trong Đức Kitô, nhưng cũng đi đến với tất cả những ngươi không tin.
Qua Đức Giêsu, là mục Tử duy nhất, và qua sự hiệp thông với Người, mọi dân tộc (và mọi cộng đoàn) được kêu gọi trở thành một cộng đoàn lớn duy nhất. Sự hiệp thông này là công trình của Người, chứ chúng ta, dù có tạo ra thứ liên minh nào, vẫn không đạt tới bằng sức của mình được. Chúng ta sẽ có khả năng sống thành cộng đoàn bao lâu chúng ta còn đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, vị mục tử duy nhất. Tính chất cao quý của mỗi muc tử nhân loại sẽ được đo lường theo khả năng người ấy tạo được sự hợp nhất tại nơi người ấy hiện diện - một sự hợp nhất không tập trung quanh người ấy nhưng quanh Đức Giêsu.
Sự trung thành là gốc rễ của tình yêu mê say và hợp nhất của người mục tử nhân lành (cc. 17-18). Những lời dạy về người mục tử nhân lành kết thúc với một cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc về “mầu nhiệm Vượt Qua”. Buổi chiều cuộc đời người mục tử nhân lành, vinh quang cũng như sự viên mãn của thời khắc này là lễ dâng cuộc đời Người trên thập giá, vào giờ của lòng trung thành. Tiêu chuẩn cuối cùng này của sự ưu việt của người mục tử được liên kết với tiêu chuẩn trước (sự hơp nhất). Chúng ta ghi nhận là đến cuối c. 15, có lời “tôi hy sinh mạng sống” để đưa sang c. 16 nói về mục tiêu của người mục tử nhân lành là kiến tạo một đoàn chiên duy nhất; rồi mở đầu c. 18, lại có lời “tôi tự ý hy sinh mạng sống”. Đây là cấu trúc “đóng khung” để nói rằng chính là khi hy sinh mạng sống trên thập giá, mà Đức Giêsu kiến tạo được “sự hợp nhất vĩ đại” này. Bởi vì Người chết chắc chắn “không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Nhưng nếu chúng ta nhìn vào cc. 17-18, chúng ta lại ghi nhận rằng ghi chú về Thiên Chúa Cha “đóng khung” các câu 17 và 18: “Chúa Cha yêu mến toi …” và “đó là mệnh lệnh của Cha mà tôi đã nhận được”, trong đó nói ba lần đến việc “hy sinh mạng sống”. Tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha giải thích sự trung thành của Người và sự trung thành chính là nét làm cho Người là Vị mục tử ưu việt. Sự trung thành này được nâng đỡ bởi nền tảng là tình yêu của Chúa Cha, được sống cách tự do và được diễn tả ra trong sự vâng phục. Sự trung thành này nên hình nên dạng trong hành vi “hiến tặng [hy sinh]” và “đón nhận [lấy lại]”, trong sự “tự chủ” (tôi có “quyền”) và “trách nhiệm” (Người hành động cho, hành động nhân danh), và trong việc lắng nghe (= tuân giữ) mệnh lệnh và đáp trả (vâng phục: “tôi đã nhận được”).
Câu 18 có thể được coi như đỉnh cao của bản văn. Đức Giêsu nói: “Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”, rồi Người nói tiếp: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Nói cho cùng, “quyền” của Đức Giêsu (được dùng 2 lần để nhấn mạnh) được Người thực thi trong hành vi trách nhiệm là “hiến mình”. Như tất cả mọi điều khác, hành vi này được nâng đỡ bởi tình yêu làm nền của Chúa Cha, nơi Người Đức Giêsu nhận được mọi sự (sự sống luôn luôn là một điều nhận được) và là Đấng Người được liên kết với bằng một tình yêu duy nhất (gốc rễ của đời sống Người là một tình yêu chín muồi: tình yêu này là một với tình yêu của Đấng mà Người yêu men). Đây là ý thức sắc bén của Đức Giêsu trên thập giá, ý thức Người có vào thời điểm cao vời khi mà Người hiến tặng “sự sống dồi dào” cho mọi con chiên. Mọi sự đều dựa trên chỗ này.
+ Kết luận
Bản văn này, với giong văn đơn giản nhưng chắc nịch, đã cho chúng ta khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng mạc khải tình yêu tại nguồn, là Đấng đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn, Đấng cung cấp ánh sáng và sự sống. Nơi bản thân Đức Giêsu, chủ đề cổ xưa về Thiên Chúa Mục Tử của Cựu Ước nay đã được trẻ-hóa cách tuyệt vời và được hoàn tất vượt quá mọi ước mong.
Các môn đệ của Chúa Kitô phải chứng tỏ một lòng quảng đại như Thầy mình, và phải để cho mình được dẫn dắt bởi tình yêu mà thôi. Nếu chỉ quan tâm đến việc tuân giữ một luật lệ, hoặc làm tối thiểu những gì được quy định, họ không hiểu thế nào là tình yêu chân chính. Có tình yêu trung thực là phải sẵn sàng (tư do) hy sinh mạng sống cách vô vị lợi, như Chúa Kitô.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nói tới “mục tử” là nói tới tương quan. Trong xã hội Israel cổ thời, tương quan giữa mục tử và đoàn chiên không chỉ là một vấn đề lợi ích kinh tế, dựa trên các sản phẩm các con chiên cung cấp để mục tử sử dụng mà nuôi sống mình và gia đình: len, sữa, thịt, tiền bạc, v.v. Nói cách khác, đây không chỉ là một tương quan sở hữu. Trong thế giới Kinh Thánh, giữa mục tử và đoàn chiên có một tương quan hầu như riêng tư. Ngày qua ngày, các mục tử và đoàn chiên sống với nhau tại các nơi hoang vắng, chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh. Do đó, chẳng mấy chốc, người mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên nhận biết tiếng nói của mục tử, và dễ dàng phân biệt với tiếng của người khác.
2. Chính vì tương quan giữa mục tử và đoàn chiên là một trong những tương quan gần gũi nhất mà một người Israel có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày, ta hiểu vì sao Thiên Chúa đã sử dụng biểu tượng này để mô tả tương quan của Ngài với Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Chúng ta nghĩ đến Tv 23. Kiểu tương quan này trở thành mẫu mực cho các nhà lãnh đạo (vua chúa, tư tế, ngôn sứ): như Thiên Chúa, họ phải chu cấp sự an toàn và che chở cho Dân. Chúng ta cũng có thể nhớ tới những lời Thiên Chúa trách các nhà lãnh đạo qua miệng ngôn sứ Êdêkien (Ed, ch. 34).
3. Trách nhiệm lớn của một mục tử là đời sống của con chiên. Tiêu chuẩn giúp phân biệt một mục tử tốt với một mục tử xấu là ý thức về trách nhiệm. Người mục tử bên Paléttina hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên của mình: nếu có chuyện gì xảy ra với dù chỉ một con chiên mà thôi, người ấy phải chứng minh là không do lỗi mình. Ý thức về trách nhiệm này được minh họa bởi hai đoạn Kinh Thánh: Am 3,12; Xh 22,9-13. Nói tóm, người mục tử sống hoàn toàn cho con chiên, chiến đấu dũng cảm để bảo vệ chúng khỏi thú dữ và còn sẵn sàng hy sinh mạng sống (x. Đavít: 1 Sm 17,34-35).
4. Lòng nhiệt thành của người mục tử chính là tình yêu làm tuôn trào sự sống. Như Tv 23 cho thấy, người tín hữu thời Kinh Thánh thấy nơi hình ảnh người mục tử dung mạo đích thật của Thiên Chúa: Tình yêu của Ngài, sự quan tâm, tình yêu hy sinh cho nhân loại. Nếu họ vững vàng đối phó với các thử thách của cuộc đời, là vì họ bám vững vào Thiên Chúa. Trong tâm trí và trong tim họ, họ xác tín rằng như mục tử tốt lành, Thiên Chúa dám làm mọi sự vì họ; Thiên Chúa luôn trông chừng trên họ, luôn luôn chiến đấu bên cạnh họ (x. Is 31,4; Ed 34,16).
5. “Tôi biết chiên của tôi …, như Chúa Cha biết tôi”. Con người phải đau khổ vì không được ai hiểu biết sâu xa. Thế mà Đức Giêsu lại nói rằng Người biết con người bằng một sự hiểu biết tương đương với sự hiểu biết nhờ đó Chúa Cha biết Con. Đây lại là một sự hiểu biết trong tình yêu. Như thế, con người sẽ không còn cảm thấy cô đơn và sợ hãi vì Đấng biết họ trọn vẹn lại không kết án họ, nhưng yêu thương họ bằng một tình yêu trọn vẹn và cứu chuộc. Đã được yêu thương như thế, chúng ta có trách nhiệm đối với anh chị em chúng ta: chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em mình đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, theo gương Đức Giêsu.
6. Người Mục Tử Nhân Lành là hình ảnh tử nói về sự chăm sóc yêu thương và có trách nhiệm; hướng dẫn, che chở, an ủi, nuôi dưỡng và bảo vệ. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho Hội Thánh nhiều mục tử mới tốt lành. Nguyện xin Thiên Chúa ban cho các mục tử (có chức thánh) ơn khôn ngoan và sự nhẫn nại khi các ngài phục vụ và hướng dẫn dân Chúa. Kế đến, chúng ta cầu nguyện cho những người dẫn dắt chúng ta nhờ những thừa tác vụ của các ngài trong giáo hội: các tu sĩ, các ủy ban bác ái và những giáo dân thiện nguyện. Chúng ta cũng cầu xin cho tất cả những mục tử đang ngồi trong hàng ghế nhà thờ: các ông bà, cha mẹ, cô dì chú bác, vợ chồng, bạn bè và thầy cô giáo. Họ cũng mang trách nhiệm và gánh nặng trong cương vị lãnh đạo những người mà họ coi sóc. Hôm nay, cầu chúc họ được đầy tràn ơn hướng dẫn của Thiên Chúa. Nguyện xin tất cả chúng ta được vị Mục tử Nhân lành nuôi dưỡng trong Bí tích Thánh Thể này, luôn biết lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên những mục tử tốt lành và, như Đức Kitô, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đoàn chiên chúng ta đang chăm sóc.
70. Chú giải của Alain Marchabour.
CHÚA GIÊSU – VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH (cc. 11-21)
Dụ ngôn về vị mục tử và đoàn chiên gợi nhớ đến Lc 15,3-7 và Mt 18,12-14. Tuy nhiên nơi Gioan điều lý thú tập trung trước tiên vào Chúa Kitô: Vị Mục Tử nhân lành đối nghịch với kẻ trộm cướp (c.1) và người lạ (c.5). Ở đây được miêu tả các mối tương quan liên kết mục tử với đoàn chiên của mình. Khác với những kẻ làm thuê, Chúa Giêsu là mục tử đích thực (nhân lành) vì hai lý do: trước tiên Người liều mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên; và nhất là Người duy trì với các chiên mối tương quan hiểu biết duy nhất bởi vì được ăn rễ sâu trong sự hiểu biết Chúa Cha của Người (như Chúa Cha biết Tôi).
Dụ ngôn, lúc đầu bóng bẩy, ám chỉ rõ ràng cái chết của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên của Tôi” (10,15); cũng một giới từ như trong Mc 14,24 (máu đổ ra cho muôn người) và trong Lc 22,19 (mình Thay hy sinh cho anh em).
Khi đối chiếu Chúa Giêsu với kẻ làm thuê, có một điều chắc chắn được xác định về Chúa Giêsu: người làm thuê bỏ chiên mà chạy (“Thầy sẽ không để anh em mồ côi” 14,18); lúc bấy giờ sói có thể vồ lấy chiên (“không ai cướp được các chiên của Tôi khỏi tay Tôi” 10,28) và làm cho chúng tán loạn (Chúa Giêsu chịu chết “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” 11,52).
Kể từ câu 16, diễn từ vượt quá tình huống lịch sử của Chúa Giêsu để thâu gom tất cả mọi tín hữu đến từ thế giới ngoại giáo và nhờ qua trung gian các môn đệ, sẽ tin vào Người (17,20). Việc quy tụ các tín hữu, mong đợi vào thời cuối cùng, sẽ được thực hiện chung quanh Chúa Giêsu và lời của Người. Sự hiệp nhất hằng mong đợi này được trao ban trong cái chết của Chúa Giêsu (11,52); nó ăn rễ sâu trong sự hiệp nhất hằng hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đây là một cuộc chinh phục thiết yếu đầy khó khăn mà Chúa Giêsu phải cầu xin trước khi Người trở về cùng Chúa Cha (17,21).
Kể từ câu 17, Chúa Giêsu bày tỏ tình thân mật của Người với Chúa Cha, ở đó sự sống và sự chết của Người đều có ý nghĩa. Nhịp điệu của bài diễn từ với nhiều lần lặp lại, đối chiếu và tương hợp, mở rộng ý nghĩa như bản trình bày dưới đây cho thấy:
Chúa Cha
yêu mến Tôi
là vì Tôi hy sinh mạng sống mình
để rồi lấy lại
không ai lấy đi được mạng sống của Tôi
chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình
Tôi có quyền hy sinh
và có quyền lấy lại mạng sống ấy
đó là mệnh lệnh mà Tôi nhận đã nhận được
từ Cha Tôi.
Được đặt ở đầu và ở cuối, Chúa Cha tỏ hiện như khởi nguyên và cùng đích mọi hành động của Chúa Giêsu. Mọi sự đều xuất phát từ Người: mệnh lệnh không gì khác hơn là cách diễn tả tình yêu. Theo động lực riêng biệt của Gioan, sự chết được trình bày như một hành động hoàn toàn tự do trong đó hoàn thành mệnh lệnh yêu thương của Chúa Cha. Ngay trong lúc chết, thời điểm theo thường tình con người không còn làm chủ sự sống của mình nữa, Chúa Giêsu vẫn là Chúa Tể bởi vì Người hoàn thành điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu của Người, đã muốn mang sự sống đến cho mọi người. Việc suy niệm thần học về cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu ở đây, khá cách biệt với cách trình bày bi thảm trong Tin Mừng Maccô, giúp chung ta hiểu được cuộc Thương Khó như sự tự nguyện hoàn thành chương trình của Chúa Cha.
Lời nói của Chúa Giêsu gây nên chia rẽ. Sự chia rẽ này liên quan đến những kẻ từng chứng kiến việc chữa lành người mù, cũng như những người nghe dụ ngôn và các người sẽ đọc lời giảng dạy này. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu “bị quỷ ám” và đạo lý của Người chỉ có thể là dấu chỉ của ma quỷ và của sự điên khùng (cả hai thứ thường liên kết với nhau trong thế giới cổ xưa). Kẻ khác nhận biết nơi lời Người và trong hành động của Người dấu chỉ của Thiên Chúa.
24/04 Biết chọn lựa
- Viết bởi Ga 6, 60-69
Biết chọn lựa.
Thứ Bảy tuần 3 Phục Sinh.
"Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống".
Lời Chúa: Ga 6, 60-69
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: "Điều đó làm các ngươi khó chịu ư? Vậy nếu các ngươi thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các ngươi là thần trí và là sự sống.
Nhưng trong các ngươi có một số không tin". Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các ngươi rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho". Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa.
Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" Simon Phêrô thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Anh em cũng muốn bỏ đi sao?
Suy niệm:
Chương 6 của Tin Mừng Gioan có một kết thúc không vui lắm.
Bài Tin Mừng hôm nay (cc. 60-69) đi theo ngay sau các câu 35-50,
vì các câu 51-59 có lẽ được viết muộn hơn và thêm vào sau này.
Đức Giêsu coi mình là bánh thật từ trời xuống (cc. 33. 50).
Ai tin vào Ngài sẽ được sống muôn đời (cc 40. 47).
Những lời giảng của Đức Giêsu đã gây vấp phạm, khó nghe, gai chướng,
khiến nhiều môn đệ xầm xì, không tin, rút lui và không đi theo Ngài nữa.
Chỉ có nhóm Mười Hai ở lại, nhưng cũng không trọn vẹn.
Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn gây sốc cho con người mọi thời.
Lời Chúa vẫn luôn là điều khó hiểu, khó chịu và khó sống.
Những Kitô hữu đã tin theo Đức Giêsu trong nhiều năm
vẫn bị đặt mình trước lời Chúa và được mời gọi chọn lại.
Tin vào Đức Giêsu là một chọn lựa lớn và căn bản.
Chọn lựa này cần được làm mới lại mỗi ngày xuyên qua những chọn lựa nhỏ.
Có những Kitô hữu mất đức tin vì đã không dám sống niềm tin của mình.
Có những người rút lui và bỏ đi, dù tên vẫn còn trong sổ Rửa tội.
Có những người xầm xì vì những đòi hỏi gai góc của Lời Chúa.
“Chẳng lẽ anh em cũng muốn bỏ đi sao?”
Đức Giêsu buồn rầu hỏi nhóm Mười Hai như thế.
Simon đại diện anh em đã xin được tiếp tục ở với Thầy, đi với Thầy.
“Bỏ Thầy chúng con biết đi với ai?”
Lời của Thầy tuy khó nghe, nhưng con tin đó là lời ban sự sống đời đời (c. 68).
Lời của Thầy tuy chướng tai, nhưng lại là thần khí và là sự sống (c. 63).
Simon tin Thầy Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa (c. 69).
Đấng Thánh là Đấng từ trời xuống
và cũng là Đấng sẽ lên trời nơi đã ở trước kia (c. 62).
Có thể điều làm con người hôm nay bỏ đạo, bỏ Chúa Giêsu,
lại không phải là những lời khó nghe của Ngài,
mà là đời sống của các Kitô hữu, những người không dám sống các lời ấy.
Nhiều người thấy chướng khi nhìn vào cuộc sống của họ.
Xin Chúa Cha ban cho chúng ta ơn đến với Giêsu, và kiên trì ở lại với Ngài.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen. (dịch theo Learning Christ)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: THẦN KHÍ VÀ SỰ SỐNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Khi Chúa nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Người ta lẩm bẩm kêu trách Chúa. Vì họ hiểu theo xác thịt. Theo xác thịt, làm sao có thể ăn được thịt Chúa. Chúa cho biết: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Lời Chúa là thần khí. Nên phải “ăn” bằng tin tưởng. Nhập tâm. Tiêu hoá. Và biến thành sức sống.
Phê-rô được Thần Khí linh hứng nên đã tin và tuyên xưng: “Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Sau ngày Phục sinh, thánh Phê-rô đã hiểu rõ chân lý ấy. Và đã cảm nghiệm sâu xa. Phê-rô để Chúa chiếm đoạt. Ông hoàn toàn tin nhận. Ông hoàn toàn từ bỏ mình. Ông sống nhờ Chúa. Sự sống của Chúa mãnh liệt trong ông. Ông không có gì. Nhưng Chúa có tất cả. Vì thế, khi gặp người què từ thuở mới sinh ông nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi”. Lập tức, “anh đứng phắt dậy, đi lại được” (Cv 3,6.8).
Sự sống của Chúa mãnh liệt trong ông. Nên ông làm cho người khác được sống lại. Đến thăm “Ê-nê liệt giường đã tám năm, vì anh bị tê liệt. Ông Phê-rô nói với anh ta: “Anh Ê-nê, Đức Giê-su Ki-tô chữa anh khỏi. Anh hãy đứng dậy và tự dọn giường lấy”. Lập tức anh đứng dậy”.
Đến thăm bà Ta-li-tha Linh Dương đã chết, Phê-rô “quỳ xuống cầu nguyện.. và ra lệnh: “Bà Ta-li-tha, hãy đứng dậy”. Bà ấy mở mắt ra… và ngồi dậy”.
Thật lạ lùng sức mạnh của Lời Chúa. Quả thật Lời Chúa là thần khí và sự sống. Chúa có lời ban sự sống đời đời. Phê-rô đã tin. Đã lắng nghe. Đã nhập tâm. Đã tiêu hoá. Chúa trở thành sự sống trong ông. Ông lại dùng mà làm cho người khác được sống.
Ta hãy biết noi gương Phê-rô thưa với Chúa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
SUY NIỆM 3: Biết chọn lựa
Trong những ngày vừa qua, nhiều người Mỹ đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc thảm sát tại trường trung học Litaton, bang Colorado vào năm 1999. Cuộc thảm sát không những làm cho người Mỹ mà cả thế giới đều bàng hoàng, sửng sốt. Bàng hoàng, sửng sốt bởi vì đây không phải là cuộc thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà nằm trong một dây chuyền bạo động diễn ra hầu như theo một chu kỳ khó hiểu. Trong những năm gần đây, cứ vài ba năm lại xảy ra một vụ bắn giết như thế. Nạn bắn giết như thế cũng đã lan tràn sang Úc và một số nước khác.
Trong thư mục vụ công bố vào tháng 11/1994, các Ðức Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng báo động điều mà các ngài gọi là một nền văn hóa bạo động, được nuôi dưỡng bằng truyền thông, âm nhạc và không biết bao nhiêu trào lưu chối bỏ sự sống khác. Nhưng bạo động từ đâu mà đến, bởi đâu mà con người có thể trở thành bạo động để hãm hại và loại trừ người khác. Hai cậu học sinh tại trường trung học Litaton đã có thể tính toán chi li cuộc sát hại và đã có thể cười cợt trên chết chóc, có lẽ cũng chẳng khác bao nhiêu so với một Milosevich và vô số người Serbi đứng đằng sau ông với chủ trương tàn sát và diệt chủng đối với người gốc Albani tại Kosovo.
Quả thật, chúng ta đang đứng trước mầu nhiệm của sự dữ. Bạo động, sự dữ, tội ác vốn là một bí ẩn của loài người. Mùa Phục Sinh, chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi và sự chết. Ðồng thời suy nghĩ về cuộc song đấu giữa thiện và ác, giữa sự sống và sự chết, giữa hòa bình và bạo động, giữa ân sủng và tội lỗi. Một cuộc song đấu như thế đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Mỗi một giây phút của cuộc sống là một chọn lựa giữa thiện và ác, giữa ân sủng và tội lỗi, giữa sự sống và sự chết, giữa hòa bình và bạo động, giữa Chúa Kitô và ác thần. Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ chúng ta về chọn lựa ấy. Sự chọn lựa ấy lại được xây dựng trên chính sự chọn lựa của Chúa Giêsu.
Với quyền năng của một Thiên Chúa, Ngài đã nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi sống một đám đông trên năm ngàn người. Cơn cám dỗ đầu tiên trong sa mạc hẳn đã trở lại với Ngài, chỉ cần vung cây đũa thần, Ngài đã có thể giải quyết nhiều vấn đề cơ bản của xã hội. Nhưng Chúa Giêsu đã không đến để mang lại cơm bánh bằng một giải pháp dễ dãi ấy. Ngài đến trước tiên là để cho con người được sống và sống dồi dào. Ngài đến để mang lại sự sống trường sinh cho con người. Ngài đến để chỉ cho con người biết rằng mục đích của cuộc sống này không phải là cơm bánh hay của cải chóng qua, mà là cuộc sống vĩnh cửu. Ngài đến để nhắc nhở cho con người rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh mà còn bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Khước từ giải pháp dễ dãi của loài người, Chúa Giêsu đã chọn lựa thập giá và đã đi cho đến cùng sự lựa chọn của Ngài. Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha: cái chết của Ngài trên thập giá đã bày tỏ được ý nghĩa và cứu cánh của cuộc sống con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người khi nó thuộc trọn về Thiên Chúa và sống theo những giá trị vĩnh cửu. Ðám đông đã bỏ đi và nhiều môn đệ khác cũng rút lui, chỉ còn lại nhóm Mười Hai, mà người đại diện là thánh Phêrô, bày tỏ sự lựa chọn dứt khoát: "Bỏ Thầy, chúng con biết đến với ai. Chỉ có Thầy mới có những lời mang lại sự sống đời đời". Sự lựa chọn ấy cũng bao hàm cái chết mà tất cả các tông đồ đều trải qua. Chọn lựa theo Chúa là chọn lựa thập giá của Ngài, mỗi một giây phút là một chọn lựa.
Nguyện xin Chúa gia tăng niềm tin và ban sức mạnh để chúng ta mãi mãi được thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai, vì Thầy mới có những lời mang lại sự sống đời đời".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Đức tin vượt lên trên mọi lý luận
Khởi đầu cho hành trinh đức tin là sự hiểu biết, nhưng đức tin phải vượt xa sự hiểu biết. Chỉ thuần túy là hiểu biết thì không thể gọi là tin và nhiều khi đức tin còn nghịch lại với hiểu biết. Đức tin đòi con người vượt trên mọi lý luận để xả thân chấp nhận như một liều lĩnh.
Có một người vô thần, bị rơi từ đỉnh núi cao xuống vực thẳm. May thay là giữa chừng có một lùm cây cản anh lại. Hai tay giữ chặt lùm cây, nhìn lên chẳng có ai, nhìn xuống là vực thẳm, anh mới cất tiếng kêu cứu: “Nếu quả thật có Thiên Chúa quyền năng vô biên, xin Ngài hãy ra tay cứu tôi, tôi xin tin”. Một giọng nói đáp lại: “Nếu anh thật lòng tin, anh hãy buông tay ra”. Người vô thần thầm nghĩ: Làm sao mà buông được, trèo lên chẳng được, buông tay thì rơi xuống vực thẳm, làm sao giữ được mạng sống, và anh hỏi lại: “Thật sự có Ngài ở đó không?” Nhưng không một lời đáp trả, chỉ còn có tiếng của anh vang vọng giữa núi rừng, cơ hội cho anh có đức tin đã qua.
“Lời gì mà sống sượng thế”, hoặc “Có Ngài ở đó không”, đấy là những phản ứng trước lời mời gọi tin. Nếu chỉ thuần túy lỳ luận và đòi hỏi bằng chứng, thì chẳng bao giờ gặp được niềm tin. Quá đòi hỏi một hiểu biết cụ thể, con người khó chấp nhận Thịt Máu Chúa Giêsu làm lương thực nuôi dưỡng thì họ sẽ thế nào khi thấy Con Người lên nơi Ngài đã ở trước. Chưa cảm nhận được những điều cụ thể như thức ăn của uống, thì làm sao có thể cảm nhận được vinh quang của Ngài. Chưa chấp nhận được điều thuộc tinh thần mang hình thức vật chất, thì làm sao nói đến những điều thuần túy tinh thần.
Chính vì không tin, nhiều người đã bỏ không theo Chúa Giêsu nữa, chỉ còn nhóm 12 vẫn tin và theo Chúa, mặc dù cho đến lúc đó họ vẫn không hiểu lời giảng dạy của Ngài. Nói thế không phải là các ông tin và theo một cách mù quáng, nhưng là phó thác vì xác tín rằng chỉ có Chúa mới có lời ban sự sống.
Trước những biến cố cuộc sống xem ra đòi hỏi một sự đáp trả bằng niềm tin, ước gì chúng ta cũng biết đáp trả không phải bằng sự bỏ đi, nhưng bằng lòng quảng đại trung thành vì biết rằng không gì ở ngoài thánh ý Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Những kẻ còn lại
Vậy Đức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao?” Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga. 6, 67-69)
Trong Tin mừng theo thánh Gio-an, sau một phép lạ hay một dấu chỉ là tiếp đến một bài giảng giải thích, thính giả hay khán giả tiếp thu với thái độ lựa chọn trước đức tin, chấp nhận hay từ chối lời chứng của Đức Kitô. Lúc đầu thường bày tỏ thái độ hăng hái theo Đức Giêsu, sau đó lại tỏ ra bất mãn về sự đòi hỏi phải tin vào Đức Giêsu.
Phúc cho ai biết đi theo Người vì họ không thể chống cự lại mạc khải của Đức Kitô: Phúc cho họ vì họ không biết thoái thác! Phúc cho họ biết chọn lựa rõ ràng và không bị cuốn theo lười biếng!
Phúc hơn nữa cho ai sau khi nghe một loạt những lời của Đức Giêsu mà không còn bỏ Người ra đi, vì họ biết chỉ có một lý do độc nhất là sống theo Đức Giêsu và đặt hết tin tưởng và hy vọng của mình vào Người.
Bài giảng về bánh hằng sống được đọc lại cho chúng ta nghe trong tuần đã dẫn đưa các môn đệ phải biết chọn lựa theo Đức Giêsu. Có phải sự chọn lựa này đặt trên nền tảng lý luận tỉ mỉ kỹ lưỡng không? Không cần thiết đâu, chỉ cần ưng thuận theo Đức Kitô với lòng cảm mến hơn là lý trí. Chúng ta nhận biết một người nào đó, chúng ta liên đới với họ, và không muốn rời họ. Những người lính được sai đi bắt Người đã nói: “Không có ai ăn nói như người này bao giờ”.
Trái lại, nhiều người đã bị cám dỗ bỏ trốn theo lý trí, quyền lợi, luật lệ khi phải quyết định.
Bài giảng của Đức Giêsu cùng một mạch văn phản ảnh toàn thể tinh thần Tin mừng: Một tinh thần thuần túy điên dại trước mắt thế gian, nhưng lại là sự khôn ngoan trước mắt Thiên Chúa.
Những người còn lại theo Đức Giêsu đã đặt tin tưởng hoàn toàn vào Người.
SUY NIỆM 6: Xác Tín Niềm Tin
Vụ thảm sát ở tiểu bang Colorado Hoa Kỳ không những làm cho người Mỹ mà còn cho cả thế giới bàng hoàng sửng sốt. Bàng hoàng sửng sốt vì đây không phải là vụ thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà hay diễn ra theo một chu kỳ bạo động. Ðó là một điều thật khó hiểu, vì trong những năm gần đây thỉnh thoảng lại xảy ra những vụ thảm sát như thế.
Trong lá thư mục vụ công bố vào năm 1994, các Ðức Giám Mục đã lên tiếng báo động được nuôi dưỡng bằng truyền thông âm nhạc, và không biết bao nhiêu trào lưu chối bỏ sự sống khác được thực hiện. Nhưng bạo động từ đâu mà đến? Bởi đâu con người có thể trở thành bạo động thảm hại và loại trừ người khác?
Hai cậu học sinh trung học tại Colorado có thể tính toán chi li về việc sát hại và đã có thể cười cợt trên chết chóc; có lẽ cũng chẳng khác bao nhiêu so với vô số những người Serbia đang đứng đàng sau để chủ trương tàn sát những người gốc Albani tại Kosovo. Quả thật chúng ta đang đứng trước mầu nhiệm của sự dữ, vì bạo động là sự dữ.
Trong mùa Phục Sinh, chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của Ðức Kitô trên tội lỗi và sự chết, đồng thời chúng ta cũng suy nghĩ về cuộc song đấu giữa hòa bình và bạo động, giữa ân sủng và tội lỗi. Một cuộc song đấu như thế đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng ta, mỗi phút giây trong cuộc sống là một cuộc chọn lựa giữa lành và dữ, giữa điều thiện và ác, giữa sự sống và sự chết, giữa hòa bình và bạo động.
Tin Mừng hôm nay nhắc cho chúng ta sự chọn lựa, và sự chọn lựa ấy được xây dựng trong chính đời sống của Chúa Giêsu. Với quyền năng của Thiên Chúa, Ngài đã dâng bánh và cá để nuôi sống một đám đông hơn 5,000 người. Cơn cám dỗ đầu tiên rong sa mạc đã trở lại với Ngài, Ngài chỉ cần vung cây đũa thần là có thể giải quyết được mọi khó khăn của xã hội, nhưng Chúa Giêsu không mang lại cơm bánh bằng một giải pháp dễ dàng ấy.
Do đó, điều trước tiên là Ngài đến để cho con người được sống và sống dồi dào. Ngài đến để mang lại sự sống trường sinh cho con người. Ngài đến để chỉ cho con người biết rằng mục đích của cuộc sống không phải là cơm bánh hay của cải chóng qua mà là cuộc sống vĩnh cửu. Ngài đến để nhắc nhở cho con người biết rằng: "Con người không chỉ sống bằng cơm bánh nhưng bằng những lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4).
Khước từ giải pháp dễ dãi của loài người, Chúa Giêsu đã chọn lựa Thập Giá và đi đến cùng sự chọn lựa của Ngài, Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, vì chính cái chết của Ngài trên Thập Giá bày tỏ được ý nghĩa và cứu cánh của cuộc sống con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người cốt là để thuộc trọn về Thiên Chúa là sống theo sự sống vĩnh cửu ấy.
Khi Chúa Giêsu đã nói đến sự trọn lành của Ngài, đám đông đã bỏ đi và nhiều môn đệ khác cũng rút lui (Ga 6,66), chỉ còn lại nhóm mười hai mà người đại diện là thánh Phêrô; thánh nhân đã bày tỏ sự chọn lựa một cách dứt khoát: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời" (Ga 6,67-68). Sự chọn lựa ấy cũng mang lại cái chết mà các Tông Ðồ đều đã trải qua. Theo Chúa là chọn lựa Thập Giá của Ngài, các thánh Tử Ðạo Việt Nam đã hiểu rõ giá trị ấy, nên các ngài đã chọn lựa cái chết chứ không bỏ Thập Giá Chúa Kitô.
Mỗi một giây phút là một chọn lựa, nguyện xin Chúa ban thêm niềm tin và gia tăng sức mạnh để chúng ta mãi mãi được thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Bỏ Ngài chúng con biết theo ai?" Amen.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 7: “CHÚNG CON CÓ MUỐN BỎ THẦY MÀ ĐI KHÔNG?” (Ga 6,61-70)
Lịch sử Giáo Hội vào những thế kỷ đầu, người Công Giáo gặp muôn vàn khó khăn do hoàng đế Rôma gây nên. Lịch sử Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cũng không nằm ngoài nỗi khó khăn đó!
Tuy nhiên, sự cương trực, thẳng thắn và dứt khoát đã làm cho các bậc anh hùng, tổ tiên của chúng ta trung thành với Chúa cách trọn vẹn.
Nói về sự can trường của các vị tử đạo, người ta có kể đến câu chuyện của Giáo phụ Policarpo: khi đám lính đã bắt được ngài, họ điệu ngài ra tòa xét xử và buộc ngài phải từ bỏ Đức Giêsu, chối bỏ niềm tin của ngài vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, cụ già gần 90 tuổi đã tuyên bố cách dứt khoát: “86 năm tôi theo Đức Giêsu, Ngài không bao giờ phụ bạc tôi, làm sao các ông lại bảo tôi phản bội Ngài...?”.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy thái độ dứt khoát là điều kiện cần để sống đời sống chứng nhân. Đây cũng là điều mà Đức Giêsu đòi hỏi các Tông đồ và tất cả những ai muốn bước theo Ngài. Vì thế, khi có một số môn đệ đã bỏ Đức Giêsu vì những lời tuyên bố của Ngài về Bánh Hằng Sống, và cụ thể chính là sự trao ban Thịt và Máu của Ngài để cho những ai tin và ăn thì được sống đời đời.
Thấy có người bỏ cuộc, Đức Giêsu đã lên tiếng hỏi trực tiếp các Tông đồ là những người mà Ngài sẽ trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người, Ngài hỏi: “Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy không?” Phêrô đại diện cho anh em thưa với Thầy: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai?".
Khi hỏi như thế, Đức Giêsu muốn cho các ông hiểu rằng: muốn theo và làm chứng cho Ngài thì phải có thái độ dứt khoát. Không được lập lờ...!
Như vậy qua câu trả lời của thánh Phêrô, chúng ta thấy một cuộc tuyên xưng đức tin mạnh mẽ vào Thầy của mình. Tin Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Vì thế, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành và xác tín thật mạnh mẽ niềm tin của mình nơi Chúa. Chỉ có Chúa mới là niềm vui, bình an và hạnh phúc đích thực, và cũng chỉ có mình Ngài mới ban cho chúng ta sự sống đời đời. Ngoài Ngài ra, chúng ta không có chúa nào khác có thể ban cho chúng ta những thứ đó.
Mong sao, mỗi người chúng ta hãy có tâm tình như thánh Phêrô: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ngày càng gắn bó mật thiết với Chúa như các Tông đồ khi xưa, để dù có gặp phải những khó khăn, chúng con vẫn dứt khoát nói không với những gì trái ngược với đức tin và sẵn sàng sống chết cho niềm xác tín của mình vào Chúa để xứng đáng được Chúa ân thưởng trong cuộc sống mai hậu. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 8: Bỏ Thầy con biết theo ai?
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
M. Toliver, một nhà truyền giáo ở miền Tây Trung Hoa, có lần gặp hai viên chức cao cấp đồng thời cũng là những Kitô hữu nhiệt thành.
Một trong hai người kể rằng: trong một cuộc oanh kích, ông ta, bà vợ và đứa con gái nhỏ 6 tuổi không tìm được nơi trú ẩn, nên phải nấp dưới gầm bàn ăn. Bom nổ ngay bên, nên họ chỉ còn biết cúi đầu cầu nguyện.
Khi qua cơn nguy biến, đức bé nhìn lên thấy ảnh Chúa Giêsu, em nói: “Ba ơi, Chúa Giêsu là nơi trú ẩn an toàn nhất, phải không ba?”.
Suy niệm
Sau diễn từ mạc khải về Thánh Thể ở Capharnaum, một số lớn các môn đệ thiếu đức tin và theo cảm xúc hoặc hời hợt, lý trí của con người trước mầu nhiệm Thánh Thể, nên không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu. Trong lúc Ngài luôn nhắc các môn đệ là Ngài không đến, không nói như một người thường, nhưng Ngài đến từ Thiên Chúa và sẽ trở về với Thiên Chúa. Trong bài diễn từ về bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật Con Người - Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, trên sự hiểu và nhìn nhận bản thân Ngài. Nhưng đám đông dân chúng, trong số đó có các môn đệ đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ vực đối với Ngài và đối với lời Ngài. Vì thế nhiều môn đệ “rút lui, không còn ở với Người nữa” (Ga 6,66).
Tuy nhiên, nhóm Mười hai chọn lựa ở lại (x. Ga 6,67-69). Các môn đệ này cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi mầu nhiệm của mạc khải Thánh Thể và những lời đòi hỏi của Ngài. Trước những thử thách cao độ, Chúa Giêsu đặt câu hỏi với họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm khi tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Bởi vì các ông không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, cho nên khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu. Cũng bởi vì Người mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó. Và vì Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa...
Theo bước chân của Phêrô và các môn đệ chúng ta xác tín: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Chọn và sống theo Chúa Kitô là cùng Ngài đi trong ban ngày của bình yên cuộc sống hay giữa đêm tối của phong ba thử thách như Phêrô và các môn đệ. Sống với niềm tin vào Ngài là khước từ cách hiểu biết, giác quan và lý luận thông thường, hời hợt bên ngoài, nhưng là tin mà không thấy (Ga 20,29) là vững bước với sự chọn lựa và xác tín theo Thầy.
Ý lực sống: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,
là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91,2).
SUY NIỆM 9: Chấp nhận hay bỏ Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Kết quả của bài giáo lý về Thánh Thể: chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau trước những lời giảng của Đức Giêsu. Một bên, nhiều môn đệ rút lui, không theo Ngài nữa vì thấy chướng tai quá, không thể chấp nhận nổi. Một bên, Phêrô đại diện cho Nhóm Mười Hai tuyên xưng và tin nhận rằng chỉ có Chúa mới là lý tưởng, chỉ có Chúa mới có lời ban sự sống, và họ đi theo Ngài.
2. Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử tọa Do thái. Khi Ngài tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh Hằng Sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ liền xin Ngài cho họ thứ bánh đó. Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được? Nhưng khi Đức Giêsu cho họ biết Bánh Hằng Sống đó chính là thịt máu Ngài, phải ăn thì mới có sự sống trong mình, thì họ có phản ứng kịch liệt vì họ cho đây là một việc tởm gớm không thể chấp nhận được. Thậm chí, cả một số môn đệ cũng có phản ứng tương tự: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Kết quả là một số môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.
3. Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay chuyển tải cho chúng ta, là giữa sự thất vọng bỏ đi của nhiều người, thì vẫn còn đó Nhóm Mười Hai với lời tuyên xưng của tông đồ trưởng Phêrô: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Có lẽ ở đây chúng ta chưa dám chắc Phêrô và các Tông đồ đã hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể là lấy thịt Chúa cho nhân loại ăn, nhưng ít nhất Phêrô tin vào uy tín của Thầy không thể nói điều sai lạc.
Lời tuyên xưng còn khẳng định rõ hơn vế đức tin là một ân ban mà không phải ai cũng dễ dàng có được. Lời tuyên xưng của Phêrô và sự trung thành của các Tông đồ là điểm sáng về niềm tin và lòng trung tín cho chúng ta, nhất là ngày hôm nay không thiếu những người đã lìa bỏ Giáo hội. Nếu không có ơn đức tin thì sẽ không thấy sự khác biệt giữa bánh chưa truyền phépvà bánh đã được truyền phép, không thể cảm nhận được sự hiện diện thực sự của Đức Giêsu trong phép Thánh Thể.
4. Phần chúng ta, chúng ta có thái độ nào trước mạc khải của Đức Giêsu về Bí tích Thánh Thể? Lời Đức Giêsu hỏi các môn đệ ngày xưa cũng được lặp lại với mỗi người chúng ta hôm nay: “Chúng con có muốn bỏ đi không”? Tin nhận và sống giáo huấn yêu thương phục vụ của Chúa đã là một điều khó: tin nhận và sống Bí tích Thánh Thể lại càng khó hơn. Tuy nhiên, chúng ta không làm việc đó một mình, bởi vì tin và sống Bí tích Thánh Thể đúng như ý Chúa muốn là một hồng ân của Chúa Cha: “Không ai có thể đến được với Ta, nếu không được Chúa Cha ban cho”.
5. Về vấn đề lựa chọn có theo Chúa hay không thì chính chúng ta phải đích thân lựa chọn và phải sống trung thành với sự lựa chọn đó: Đứng lại với Chúa, không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo.
Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta đi theo Đức Kitô, chúng ta tin Ngài là Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này mà còn ban sự sống đời đời nữa. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: Sự sống đời đời không phải chỉ là sự sống đời sau, nhưng đến cùng Chúa, tin vào Chúa và ăn thịt máu Chúa là chúng ta đã được sự sống đời đời ngay từ bây giờ, bởi vi mỗi lần rước Chúa là chúng ta rước lấy mầm sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu. Cho nên, chúng ta hãy siêng năng rước Chúa và rước Chúa thật sốt sắng.
6. Truyện: Quyết theo chân Chúa.
Odette, một cô gái đẹp sinh ra trong một gia đình quí tộc nước Bỉ, năm 17 tuổi cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ đến bắt cô trở về. Từ lâu, ông bà đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon thuộc lâu đài gần đó.
Vốn biết cô con gái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã âm thầm chuẩn bị hôn lễ, các thiệp mời được kín đáo gửi đi và sự chuẩn bị đều giữ bí mật cho đến giờ chót.
Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vén màn nhìn qua cửa sổ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đài. Hỏi ra, cô mới biết ngưới ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Xong, họ đưa cô xuống nhà nguyện tư của lâu đài. Giám mục của vùng và linh mục tuyên úy lâu đài đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến phần giao ước. Vị chủ tế hỏi Odette có ưng nhận Simon làm chồng theo luật Giáo hội không? Cô dõng dạc tuyên bố:
- Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng bởi vì tình yêu của con đã hiến dâng cho Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào có thể tách rời con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con.
Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng. Và kìa, Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đau đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “Như thế sẽ không còn ai cấm con đi tu nữa”.
Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó được bầu làm tu viện trưởng mới 23 tuổi.
23/04 Con đường hiến thân
- Viết bởi Ga 6, 53-60
Con đường hiến thân.
Thứ Sáu tuần 3 Phục Sinh.
"Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống".
Lời Chúa: Ga 6, 53-60
Khi ấy, những người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn được?"
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời".
Người giảng dạy những điều này tại Hội đường Capharnaum.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Nhờ tôi mà được sống
Suy niệm:
Tin Mừng theo thánh Gioan không viết về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể,
nhưng lại giải thích cách sâu xa cho chúng ta về ý nghĩa của bí tích ấy
đặc biệt trong bài Tin Mừng hôm nay.
Câu 51 là một bước chuyển quan trọng
trong bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống ở chương 6:
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
Lần đầu tiên thịt được nhắc đến trong bài giảng này.
Thịt của Đức Giêsu chính là bánh từ trời được ban cho thế gian.
Ngôi Lời đã vào đời làm người, đã thành thịt (Ga 1, 14).
Bây giờ chính thịt ấy lại được trao ban cho con người như bánh hằng sống.
Đức Giêsu không bằng lòng với chuyện nuôi một số người bằng bánh và cá.
Điều đó chỉ làm giảm cơn đói thân xác trong một thời gian.
Ngài muốn nuôi cả thế giới bằng chính sự sống thần linh ở nơi Ngài,
nuôi bằng trọn cả con người Ngài, nuôi bằng chính thịt và máu Ngài.
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì có sự sống vĩnh cửu.
Và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54).
Ăn thịt và uống máu một người là điều làm người Do thái ghê sợ.
Chúng ta chỉ hiểu được những lời trên đây trong bối cảnh của Bữa Tiệc Ly,
khi Đức Giêsu mời các môn đệ ăn bánh và uống rượu Ngài trao
mà Ngài lại nói: Đây là mình Thầy, đây là máu Thầy.
Đức Giêsu muốn trao cho nhân loại sự sống của Ngài
qua thức ăn, thức uống bình thường của con người là bánh và rượu.
Sự sống vĩnh cửu đã hé nở ngay từ đời này và sẽ viên mãn ở đời sau.
Hãy đến ăn và uống lương thực thần linh Ngài dọn cho ta.
Hãy đến với lòng tin và sự trân trọng trước món quà quý giá.
Nhưng dự tiệc Thánh Thể không phải chỉ là đến với thịt và máu Chúa,
mà còn là gặp gỡ tiếp xúc với một ngôi vị là chính Đức Giêsu.
“Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi
thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56).
Một sự ở lại hai chiều, một sự hiệp thông sâu thẳm giữa hai ngôi vị.
“Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn tôi cũng sẽ sống nhờ tôi như vậy” (c. 57).
Rốt cuộc, qua việc ăn uống mình máu Chúa,
chúng ta được tham dự vào mối tương quan thân tình giữa Cha và Con.
Chúng ta được sống bằng cùng một dòng sự sống xuất phát từ Cha.
Chúng ta được diễm phúc chia sẻ sự sống của chính Thiên Chúa.
Bí tích Thánh Thể không phải là một thứ bùa chú hay đũa thần.
Ai càng mở lòng mình ra để trao đi, càng thoát ra khỏi thái độ chiếm đoạt,
thì càng thấy mình được biến đổi và được giàu có muôn ơn.
Trong mỗi thánh lễ, chúng ta được mời gọi đón lấy Bánh hằng sống,
Tấm Bánh Lời Chúa và Tấm Bánh Mình Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
Chúa là thức ăn, thức uống của con.
Càng ăn, con càng đói;
càng uống, con càng khát;
càng sở hữu, con lại càng ước ao.
Chúa ngọt ngào trong cổ họng con
hơn cả tầng mật ong,
vượt quá mọi thứ ngọt ngào khác trên đời.
Lúc nào con cũng thấy đói khát và ước ao,
vì con không sao múc cạn được Chúa.
Ngài nghiền nát con hay con nghiền nát Ngài?
Con chẳng rõ; vì ở thẳm sâu lòng con,
con cảm thấy cả hai.
Chúa đòi con nên một với Ngài,
đòi hỏi đó làm cho con đau đớn,
vì con không muốn từ bỏ
những thói quen của con
để ngủ yên trong tay Chúa.
Con chỉ biết tạ ơn Chúa,
ca ngợi và tôn vinh Chúa,
bởi đó là sự sống đời đời cho con. Amen. (Ruy Broeck)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: ĂN THỊT UỐNG MÁU
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa ban cho ta Thịt và Máu Chúa. Đó là bí tích Thánh Thể. Là Sự Sống Muôn Đời. “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời”. Nhưng sự sống này không phải là bùa chú tự nhiên thành. Cần phải ăn uống theo qui định. Hôm nay Chúa dạy ta qui định đó.
Qui định thứ nhất: “Ai ăn Thịt và uống Máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy”. Cuộc trao đổi phải có hai chiều. Cho đi và nhận lãnh. Hai động từ “ở lại” thuộc hai chiều trao đổi. Ta ở lại trong Chúa. Chúa ở lại trong ta. Ở lại là biến đổi. Chúa ở lại trong ta nên đã biến đổi nên giống ta. Chúa đã từ trời xuống thế. Thiên Chúa đã trở nên con người. Sống như con người. Đói khát như con người. Đau khổ như con người. Chết như con người. Ta muốn ở lại trong Chúa cũng phải biến đổi nên giống Chúa. Thánh thiện như Chúa. Yêu thương như Chúa. Quảng đại như Chúa. Điều này được khẳng định bằng qui định thứ hai.
Qui định thứ hai: “Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi, cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy”. Chúa Giê-su sống nhờ Chúa Cha. Từ suy nghĩ, lời nói đến hành động, Chúa Giê-su không nói gì làm gì tự mình, theo ý riêng. Nhưng tất cả đều phát xuất từ Chúa Cha, theo ý Chúa Cha. “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta”(Ga 4,34). Thậm chí đến cả cái chết. Chúa Giêsu “đã vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thánh giá”(Pl 2,8). Ta cũng phải sống nhờ Chúa Giê-su như vậy. Không nghĩ tưởng, nói năng, hành động gì theo ý riêng. Nhưng lời nói, tư tưởng và hành động của ta phải là của Chúa Giê-su.
Để Chúa Giê-su ở lại trong ta ta phải từ bỏ mình. Ta phải từ bỏ máu thịt hay chết, tội lỗi, trần tục của mình để Máu Thịt hằng sống, thánh thiện, thần linh của Chúa Giê-su Thánh Thể ở lại trong ta.
Thánh Phao-lô được Chúa chuẩn bị cho cuộc kết hợp sâu xa với Chúa. Nên hôm nay Chúa bắt ngài phải từ bỏ con người cũ. Phải ngã xuống con người cao ngạo. Phải đui mù con người tự hào thông minh khôn ngoan. Phải đánh gục con người cứng cỏi. Thánh Phao-lô đã ngoan ngoãn từ bỏ hết. Để Thiên Chúa chiếm đoạt. Để từ nay không còn sống cho mình nữa. Mà sống cho Chúa. Ngài đã thay máu thay thịt mình bằng Máu Thịt Chúa Giêsu. Ngài đã bắt đầu cuộc sống thần linh. Ngài đã bắt đầu cuộc sống vĩnh cửu.
SUY NIỆM 3: Con đường hiến thân
Bất chấp sự phản đối của Hoa Kỳ, Nga đã đưa du khách đầu tiên vào không gian. Vị du khách này là một triệu phú người Mỹ, tên là Dennis Titô. Ông Titô đã rời căn cứ phi thuyền không gian vào tối thứ Bảy tháng 4 năm 2001 và được đưa lên trạm không gian quốc tế.
Sở dĩ cơ quan không gian Hoa Kỳ là NASA phản đối chuyến đi này là vì cho rằng ông Titô có thể gây ra nguy hiểm cho các phi hành gia trên trạm không gian quốc tế. Tuy nhiên, cơ quan không gian của Nga cam đoan rằng sứ mạng của ông Titô sẽ được bảo đảm trong suốt chuyến du hành vào không gian. Ðược biết, vé du lịch không gian của ông Titô là hai mươi triệu mỹ kim.
Phải bỏ ra một số tiền kếch xù như thế để ra khỏi trái đất tìm một chút cảm giác thoát tục để trở thành một con người nổi tiếng quả là điều không cân xứng. Trong khi con người muốn bay lên trời cao bằng những phương thế và xác thịt riêng của mình, thì Ðấng từ trời cao đã xuống trần gian, để chỉ cho con người cách thế đúng đắn nhất để lên trời cao.
Thật ra khoảng không gian mà con người có thể bay lên được chỉ là vô nghĩa so với cõi trời cao từ đó Ngài đưa con người xuống; và con đường Ngài mở ra để cho con người ra khỏi trời cao ấy hoàn toàn trái ngược lại với con đường mà con người tự vạch ra. Con đường mà Ngài đã khai thông là con đường của tự hạ, hy sinh, quên mình và hiến thân trọn vẹn cho tha nhân. Với Ngài, chỉ khi nào thoát khỏi mọi thứ vướng bận của trần tục, con người mới có thể nhẹ nhõm để bay lên khỏi trời cao. Trở thành tấm bánh và được bẻ ra để trao ban cho con người, Ngài đã đi cho đến tận cùng con đường đã hiến thân, Ngài đã chỉ ra cho con người con đường đích thực của sự siêu thăng. Tiếp rước Ngài, ăn lấy tấm bánh là chính Ngài, con người đón nhận sự sống của Ngài để rồi chia sẻ và trao ban cho người khác. Chỉ bằng con đường hiến thân vô vị lợi, con người mới tìm lại được bản thân mà thôi.
Với những tiến bộ khoa học và kỹ thuật, thế giới sâu xa này càng thu hẹp với con người, khoảng cách giữa các quốc gia ngày càng ngắn lại, đường lên không gian cũng được mở ra. Tuy nhiên, khoảng cách giữa người với người càng ngày càng lớn hơn. Cách biệt giữa giàu nghèo ngày càng vời vợi, con người đi vào không gian và cũng ngày càng xa cách nhau. Người nghèo Lazarô quằn quại bên cửa nhà hay ngay cả dưới gầm bàn ăn mà người giàu có cũng nhìn thấy. Chúa Giêsu đến để xóa bỏ mọi ngăn cách giữa người với người, Ngài ngồi đồng bàn với những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài kết thân với những người tội lỗi, Ngài chịu đồng hóa với những người nghèo hèn và khẳng định rằng trong ngày sau hết, chính dựa trên cách cư xử với người nghèo hèn mà con người sẽ được xét xử.
Nguyện xin lương thực thần linh mà chúng ta đón nhận trong bí tích Thánh Thể bồi bổ chúng ta trong cuộc cử hành trần thế, để chúng ta luôn tiến bước trong hân, tin tưởng và quảng đại.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Ngôn ngữ Lễ Hy Sinh
Người Do-thái liền tranh luận với nhau. Họ nói:
“Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được”.
Đức Giêsu nói với họ:
“Thật, tôi bảo thật các ông
nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người,
các ông không có sự sống nơi mình
Ai ăn thịt và uống máu tôi,
Thì được sống muôn đời
Và tôi sẽ cho người ấy sống lại
Vào ngày sau hết. (Ga. 6, 52-54)
Những vấn nạn về tiệc Thánh Thể, về Mình và Máu Thánh Đức Kitô vẫn khó giải đáp. Chúng ta hiểu theo ngôn ngữ thực tế ư? “Ăn thịt Ta và uống máu Ta” là vây quanh một xác chết, là tiêu hóa những miếng thịt của một cơ thể loài người từ hai ngàn năm nay sao? Dứt khoát là không.
Ngược lại với lối giải thích trên, người ta hiểu theo nghĩa biểu tượng: “Ăn thịt Ta và uống máu Ta” chỉ là nhớ đến thịt và máu Đức Giêsu, tức là nhớ đến đời sống của Người, đến sinh hoạt của Người để gợi cảm hứng.
Đối với tôi, lời Đức Kitô rất rõ nét và súc tích. Tôi yêu lối giải thích cho bạn về lời Đức Kitô theo ngôn ngữ tế lễ hy sinh. Chúng ta được linh ứng theo lối giải thích của Kinh thánh để hiểu sự phân phát Mình thánh Đức Kitô.
Sự thông phần trong các lễ hy sinh, có sự phân phát của ăn cho các người tham dự. Của ăn đó là thịt con chiên hay con bê. Người ta lấy máu nó rảy trên dân chúng và dành một phần thiêu nó trên bàn thờ, một phần phân phát cho người dự lễ.
Phần dâng lên thì thuộc về Thiên Chúa với lời chúc tụng của dân chúng, điều đó có nghĩa là dân chúng nhận biết hồng ân Thiên Chúa và những việc lạ lùng Ngài làm cho dân.
Nhưng việc tế lễ đó không chỉ là do động lực của con người. Thiên Chúa tự mình nêu lên ý nghĩa cho những cử chỉ hy tế này. Hy tế trình bày quyền phép của Thiên Chúa trong hành động và khêu gợi cho con người đến tham dự.
Nguyên lý quan trọng nhất của tế lễ Thánh Thể không phải chúng ta làm cho Thiên Chúa xuống trong những dấu chỉ, nhưng chính Thiên Chúa đến với chúng ta, cho chúng ta được ở trong Ngài, cho chúng ta được liên kết với Ngài, được giao ước với Ngài.
Chúng ta vẫn còn được mời gọi tham dự vào tế lễ Thánh Thể này.
SUY NIỆM 5: Sống bằng sự sống của Thiên Chúa
Triết gia Nietzsche của Đức đã cho rằng: Kitô giáo là vong thân. Con người càng tin tưởng nơi thần linh, con người càng đánh mất chính mình. Như vậy để cho con người đừng thẳng lên như một con người, cần phải loại trừ Thiên Chúa ra khỏi con người”.
Thật ra, con người không thể loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, vì làm như thế con người sẽ chuốc lấy chết chóc và không biết bao nhiêu hệ lụy của cái chết, loại bỏ Thiên Chúa là tự hủy diệt. Con người không thể sống mà không cần Thiên Chúa, đó là bản chất Thiên Chúa đã phú bẩm cho con người, đi ngược với bản chất ấy là đi vào cõi chết.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy, Chúa Giêsu là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, chỉ trong Ngài con người mới thấy được Thiên Chúa. Ngài đã nói với các môn đệ: “Ai thấy Ta là thấy Cha Ta”, “Ta và Cha Ta là một”. Bởi vì con người chỉ có thể sống nhờ Thiên Chúa, bởi vì Chúa Giêsu và Chúa Cha là một, cho nên để sống thật sự, con người phải sống bằng chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống”. Tuyên bố điều đó, Chúa Giêsu cũng loan báo chính cái chết của Ngài. Thật thế, vừa xác quyết mình từ trời xuống nghĩa là bởi Thiên Chúa mà ra và là chính Thiên Chúa, vừa tự xưng là lương thực cần thiết cho con người, Chúa Giêsu đã đọc lên chính bản án của Ngài. Người Do Thái đã giết Ngài vì Ngài tự xưng là Thiên Chúa nghĩa là Ngài đã lộng ngôn. Như vậy cái chết của Ngài trên thập giá là một mạc khải Thiên tính của Ngài.
Bí tích Thánh Thể, vì là tưởng niệm cái chết ấy, nên cũng là một bày tỏ và tuyên xưng Thiên tính của Chúa Giêsu. Chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban cho con người như lương thực để con người được sống. Khi tiếp nhận Chúa Giêsu trong Thánh Thể, người tín hữu tuyên xưng rằng con người không thể sống mà không có Thiên Chúa. Chỉ có sức sống thần linh mới làm cho con người được sống và sống dồi dào. Thế nhưng lương thực trường sinh mà người tín hữu đón nhận trong Thánh Thể cũng là một cam kết. Tuyên xưng rằng con người chỉ có thể sống bằng sự sống của Thiên Chúa, người tín hữu cũng phải sống thế nào để cuộc sống của họ là một bằng chứng của sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong con người. Sức sống của Thiên Chúa mà con người cần đến sẽ được tỏ hiện qua niềm vui, tình huynh đệ, lòng quảng đại, sự tha thứ trong cuộc sống người tín hữu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: TIN THÌ ĐƯỢC SỐNG (Ga 6,53-60)
Tin Mừng hôm nay trình thuật lời tuyên bố của Đức Giêsu về một vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp tới Ngài và tới tất cả những ai tin Ngài, đó là “Bánh Hằng Sống”. Ngài không nói quanh co bóng gió, nhưng rõ ràng minh bạch: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Khi tuyên bố như thế, ngay sau đó, Ngài liền khẳng định: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51).
Như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu không chỉ ao ước, cũng như không chỉ có ý định trở thành lương thực cho con người, nhưng Ngài còn thực sự muốn và thực hiện điều đó. Vì thế, Ngài nói: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống"; “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (x. Ga 6, 54-56).
Khi tuyên bố như thế, Đức Giêsu cho thấy, lương thực Ngài ban tặng chính là lương thực Thần Linh, hoàn toàn khác biệt với những thứ lương thực trong đời thường, bởi vì Bánh mà Đức Giêsu trao ban chính là Ngài.
Khi trao ban cho con người chính bản thân mình, Đức Giêsu mong muốn được trở thành nguồn nuôi sống và nhất là thông truyền sự sống Thần Linh của Ngài cho nhân loại. Sự liên kết này được thể hiện qua việc ăn Thịt và uống Máu Chúa trong niềm tin. Chính vì thế, thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu Côrintô: “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình”.
Nói như thế, thánh Phaolô muốn nhấn mạnh đến việc chuẩn bị và ý thức cách xứng đáng để tương xứng với hồng ân cao trọng mà vì yêu, nên Đức Giêsu sẵn sàng trao hiến cho con người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin cho chúng con hiểu được sự cao trọng của Bí tích Thánh Thể và ý thức được giá trị của việc đón nhận Mình Máu Thánh Chúa để được sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Hiệu quả của Thánh Thể
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Daniel Connell, người đã giải phóng dân tộc Ái Nhĩ Lan, là một tín hữu can đảm và nhiệt thành. Khi có một số bạn bè theo đạo Tin Lành chế nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin Đức Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể.
Bấy giờ Daniel đã trả lời như sau: “Sao các ông lại hỏi tôi? Lẽ ra các ông phải hỏi Đức Giêsu mới đúng. Phần tôi, tôi chỉ tin vào Lời Chúa nói. Nếu Lời Chúa khẳng định rằng: “Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống” mà thực sự không đúng, thì người nói là Đức Giêsu mới đáng trách chứ không phải là tôi! Nhưng tôi luôn tin rằng: Lời Chúa là sự thật, là Lời hằng sống và sẽ tồn tại đến muôn đời”.
Câu trả lời của Daniel Connell cho ta thấy: Niềm tin vào bí tích Thánh Thể cũng như toàn bộ niềm tin của chúng ta đã được xây dựng trên nền tảng vững chắc là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường, là sức sống của ta, là căn bản đức tin của ta, là lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Do đó, ta cần phải có thái độ tôn trọng Lời Chúa, yêu mến và thực hành Lời Chúa, là điều kiện để ta được ơn cứu độ (Vietcatholic).
Suy niệm
Tin Mừng Ga 6,53-60, là phần kết của diễn từ Thánh Thể ở Capharnaum (x. Ga 6,22-58), sau khi Chúa Giêsu khẳng định chính Ngài là bánh ban sự sống được Giáo hội gọi là bí tích Thánh Thể. Chúa Kitô cho chúng ta biết ba hiệu quả của Thánh Thể: Thánh thể cho ta được sống muôn đời, Thánh Thể làm cho ta được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, Thánh Thể làm chúng ta sống nhờ sự sống của Chúa Giêsu, theo khuôn mẫu sự kết hiệp giữa Đức Giêsu với Chúa Cha.
Thánh Thể ban cho ta được sống muôn đời và được sống lại như Người phán: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,54). Nếu như ngày xưa manna là của ăn được ban để nuôi thân xác, ngày nay hơn bất cứ của ăn nào, Mình Máu Chúa Kitô ban cho ta ơn thần hóa vĩnh cửu: “Đây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời” (Ga 6,48-50.58). Bằng những lời xác quyết như thế, Chúa Giêsu giới thiệu cách long trọng bánh hằng sống, bánh muôn đời tồn tại và đầy quyền năng trao ban ơn sống đời vĩnh cửu cho tất cả những ai rước lấy trong đức tin với lòng trong sạch, đơn sơ, ngay lành.
Hiệu quả thứ hai của bí tích Thánh Thể - bí tích Tình yêu, làm cho ta được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như Người khẳng định: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì ở trong Ta và Ta ở trong người ấy” (Ga 6,56). Cách nói “ở lại trong” và “ở trong người ấy” (x. Ga 14,10-20; 15,4-5; 1Ga 3,24; 4,15-16) chỉ một sự trao đổi, kết hiệp vừa thân mật vừa hỗ tương. Chính dụ ngôn cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x. Ga 15,1-17): Người rước Thánh Thể ở lại trong sự sung mãn của Chúa Kitô, đón nhận sự sống Người tuôn chảy vào trong họ như dòng nhựa sống nuôi thân nho đơm trái.
Hiệu quả thứ ba của Thánh Thể là hệ quả của hiệu quả thứ hai khi kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô thì được sống nhờ sự sống của Ngài, theo khuôn mẫu sự kết hiệp giữa Đức Giêsu với Chúa Cha: “Như Chúa Cha là Đấng Hằng Sống đã sai Ta, và Ta sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Ta, cũng sẽ nhờ Ta mà được sự sống như vậy” (Ga 6,57).
Với ba hiệu quả trên, trong Thánh Thể, Chúa Kitô trở nên lương thực nuôi dưỡng chúng ta, Ngài trở nên như cơm bánh là sức sống của chúng ta. Cho nên, rước Thánh Thể là cách thức duy nhất giúp ta tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái chết linh hồn. Rước Thánh Thể là rước Chúa Kitô, sức sống của ta được tiếp sức sống của Chúa Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn vào sự sống này của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu. Như người cô đơn tìm được nguồn an ủi; người yếu đuối tìm được sức mạnh; người tội lỗi tìm được ơn tha thứ; người đau đớn tìm được sự chữa lành; người bất hạnh tìm được nghị lực tinh thần; người mất niềm tin vào cuộc đời tìm được chỗ nương thân… nguồn tình yêu chất chứa đầy sự thông cảm và âu yếm.
Ý lực sống: “Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời” (Ga 6,58b).
SUY NIỆM 8: Bí tích Thánh Thể
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục bài giáo lý về Bí tích Thánh Thể: Đức Giêsu càng nói rõ hơn về bánh ban sự sống, đó là thịt và máu Ngài: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời”.
Tới đoạn Tin Mừng này, ở câu 55 Ngài tuyên bố thẳng thừng và dứt khoát: “Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống”.
Như vậy Đức Giêsu nói tới bí tích Thánh Thể, trong đó Ngài ban chính thịt và máu Ngài làm của ăn của uống cho loài người. Và hiệu quả của việc rước lễ: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời... thì kẻ ấy ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy”.
2. Hôm nay Đức Giêsu nhắc lại chủ đề mấy ngày hôm trước và đưa ra thêm yếu tố mới. Ngài nói: “Bánh Ta sẽ ban là thịt máu Ta... Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống”, nghĩa là trong phần trước, Chúa chỉ nói Ngài là bánh bởi trời đích thật, trong phần này, Chúa nói rõ hơn bánh đó chính là thịt máu Ngài: “Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống”.
Nghe Chúa nói như vậy, phản ứng của người Do thái có vẻ mạnh hơn trước, họ xô xát nhau: “Làm sao ông này có thể lấy thịt ông ta mà cho chúng ta ăn được”? Họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói. Cho nên, dù dân chúng có phản đối, các môn đệ có bỏ đi, Chúa chẳng những không rút lời, nhưng lại giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn: “Quả thật, thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống, ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì được sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”.
3. Nếu chúng ta nói: thân xác phải ăn thì mới sống được, chúng ta phải nói thế nào về phần hồn? Dĩ nhiên, linh hồn cũng phải ăn thì mới sống được, nhưng của ăn nuôi sống linh hồn không phải là của ăn vật chất như cơm bánh hằng ngày ta ăn, mà là của ăn thiêng liêng. Nói khác đi, của ăn đó chính là Mình Máu Chúa Kitô.
Để bảo tồn sự sống, mọi sinh vật phải có thức ăn thích hợp với bản tính riêng. Linh hồn chúng ta đã được thần hóa, nên cũng cần có thức ăn thích hợp với nếp sống mới đó. Thức ăn này phải là do việc thông hiệp vào thịt máu Đức Giêsu ban cho: “Ta là bánh hằng sống. Các ngươi hãy cầm lấy mà ăn vì này là mình Ta. Các ngươi hãy lãnh nhận mà uống, vì này là máu Ta. Ai ăn mình và uống máu Ta sẽ được sống. Vì mình Ta thực là của ăn, máu Ta thật là của uống”.
Ai lãnh nhận mình máu Chúa Kitô, người ấy được kết hợp với Chúa, được tan biến trong Chúa để cả hai nên một, để người ấy có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.
4. Trong khi rước lễ, chúng ta coi mình như đón nhận Đức Giêsu, Đức Giêsu ngự vào trong tôi. Chúng ta nói về sự hiệp lễ như là ôm ẵm Chúa. Nhưng hiệp lễ cũng có nghĩa là Chúa ôm ẵm chúng ta. Đức Giêsu đón nhận chúng ta vào lòng Ngài cách đặc biệt. Không chỉ là Đức Giêsu ngự trong chúng ta, mà chúng ta cũng ở trong Đức Giêsu. Đó là ý nghĩa của điều Chúa nói với chúng ta trong Tin mừng hôm nay: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và ta ở trong kẻ ấy. Chúng ta có thể nói như thánh Inhaxiô: “Đây là nơi Đức Giêsu bồng ẵm tôi”.
Thánh Cyrillô thành Alexandria so sánh sự hiệp nhất này với hai miếng sáp ong hòa lẫn với nhau. Thánh Têrêsa thành Lisieux đã diễn ta sự hiệp lễ lần đầu của ngài như là sự tan hòa với Chúa Kitô.
5. Thánh lễ trong đó có Thánh Thể là bữa tiệc mà Đức Giêsu đáp ứng cho các môn đệ Ngài. Tất cả chúng ta đều đến dự bữa tiệc ấy với cái đói, chúng ta đều cần bánh ăn mà chỉ có Đức Giêsu có thể ban cho – bánh của sự sống đời đời. Và tất cả chúng ta đều được nuôi sống và được vinh dự, bởi vì ở đây mỗi người cho là một vinh dự. Ở đây mọi người trở nên bình đẳng, vì tất cả chúng ta là những người nghèo về mặt thiêng liêng nên tất cả đều được ăn uống no nê.
Ngoài ra, tất cả những người cùng tham dự bàn tiệc Chúa sẽ liên kết với nhau bằng sợi dây tình nghĩa, vì cùng chia sẻ một thức ăn và một tình yêu của Đức Giêsu Kitô. Chúa đã tự hiến mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta và mời gọi chúng ta đến ăn, tại sao chúng ta không đến dự?
6. Truyện: Mình Thánh Chúa tôi đang cất giấu.
Thời cách mạng Pháp 1789, Giáo hội tại đây bị bách hại dữ dội. Cha xứ Breta cải trang đến dâng lễ tại một gia đình đạo đức trong xứ, là gia đình của cậu bé Benjamin. Cậu bé rất sung sướng, vì đây là lần đầu tiên cậu được giúp lễ. Đến đó, cậu theo cha xứ đi đưa Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt. Bỗng có tiếng xì xào, một toán lính đang tiến lại. Cha xứ vội trao Mình Thánh Chúa cho cậu bé rước, dầu cậu bé chưa được rước lễ vỡ lòng. Cha cũng trao cho cậu giữ luôn cả mặt nhật, rồi cả hai chia tay nhau, mỗi người chạy một ngã. Vì còn nhỏ, chạy chậm, Benjamin bị toán lính bắt kịp. Một lát sau, cha xứ cũng bị bắt. Chúng tra hỏi cha: “Mày cất giấu Mình Thánh Chúa ở đâu”? Cha một mực im tiếng. Tức giận, chúng bắn cha chết tại chỗ. Lục soát một hồi cũng không thấy Mình Thánh Chúa ở đâu, chúng liền quay sang Benjamin: “Chắc chắn mày đang giữ Mình Thánh Chúa, đưa ngay kẻo thiệt mạng”. Benjamin vừa can đảm vừa ngây thơ trả lời: “Trong bụng tôi, các ông mổ ra mà lấy”. Điên tiết, bọn lính cũng giết Benjamin tại chỗ, bên một cây sồi già.
Mấy năm sau, Giáo hội Pháp được bình yên trở lại. Một cơn bão làm đổ cây sồi già, dưới gốc cây bị trốc rễ lên, người ta thấy hai xác, trên xác cậu bé, mặt nhật còn đó, sáng ngời.
22/04 Tin vào Lời Chúa – cử hành Thánh Thể
- Viết bởi Ga 6, 44-51
Tin vào Lời Chúa – cử hành Thánh Thể.
Thứ Năm tuần 3 Phục Sinh.
"Ta là bánh từ trời xuống".
Lời Chúa: Ga 6, 44-51
Khi ấy, Chúa Giêsu phán với dân chúng rằng: "Không ai đến được với Ta, nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: "Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo". Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha.
Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chúa Cha lôi kéo
Suy niệm:
Sống ở đời là phải chịu nhiều sự lôi kéo.
Thời nay sự lôi kéo lại càng mạnh mẽ và thô bạo.
Có sự lôi kéo của khuyến mãi, giảm giá,
khiến ta vui vẻ mua cả điều không cần.
Có sự lôi kéo của những sản phẩm thuộc đời mới hơn, nhiều chức năng hơn,
khiến chúng ta mê mải chạy theo và rượt đuổi không ngừng.
Có sự lôi kéo của hình ảnh quảng cáo, của thời trang, của sách báo,
khiến chúng ta chẳng làm chủ được cái nhìn, và dễ đi đến chỗ phạm tội.
Để chống lại được sự lôi kéo bên ngoài cần có nội lực bên trong.
Nhiều người sa ngã vì bị kéo bên ngoài, mà bên trong không vững.
“Không ai đến được với tôi, nếu Chúa Cha,
Đấng sai tôi, không lôi kéo người ấy” (c. 44).
Đức Giêsu khẳng định về sự lôi kéo của Chúa Cha trong đời từng người.
Cha lôi kéo chúng ta về phía Con của Ngài là Đức Giêsu,
bất chấp những lôi kéo ngược lại đến từ phía thế gian, ma quỷ, xác thịt.
Nếu chúng ta để cho Cha kéo đi mà không cưỡng lại,
thế nào ta cũng đến được với Giêsu.
Và Giêsu lại là Con Đường tuyệt vời dẫn ta đến với Cha.
“Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 13, 6).
Như thế Cha đưa ta đến với Con:
“Này là Con ta yêu dấu… hãy nghe lời Người” (Mt 17, 5).
Và Con đưa ta lại cho Cha
để hưởng sự sống đời đời trong ngày sau hết.
Cuộc sống người Kitô hữu là cuộc sống giữa những lôi kéo, giằng co,
giữa chính và tà, giữa thiện và ác, giữa Thiên Chúa và Xatan.
Tâm hồn con người là hiện trường của những cuộc giao đấu không ngơi nghỉ.
Hãy để cho Cha lôi kéo bằng cách nghe và đón nhận giáo huấn của Cha.
Lời dạy dỗ của Cha có khi chỉ nghe được trong thầm lặng.
Lời ấy đưa ta đến với Giêsu, Đấng duy nhất thấy Cha, biết Cha (c. 46).
Hãy tin vào Giêsu để được Sự Sống vĩnh cửu (cc. 44. 47).
Hãy ăn Tấm Bánh Giêsu để được Sự Sống ngay từ đời này (c. 51).
“Khi nào tôi được giương cao lên khỏi đất,
tôi sẽ lôi kéo mọi người đến với tôi” (Ga 12, 32).
Hãy để Giêsu lôi kéo chúng ta khỏi sự tầm thường của cái tôi ích kỷ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: ÂN SỦNG VÀ TỰ DO
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Cha không ngừng lôi kéo con người hướng thiện. Hướng về Chúa Ki-tô là Đấng Chúa Cha sai đến để đưa nhân loại về với Người. Nhưng tại sao con người không đáp lại tiếng Chúa mời gọi? Thưa vì giữa ân sủng và con người Thiên Chúa còn để một khoảng trống: đó là tự do. Để ân sủng Thiên Chúa phát sinh hiệu quả con người phải sử dụng tự do của mình mà “lắng nghe” và “đón nhận”.
Để lắng nghe cần khiêm tốn. Lắng nghe là nhìn nhận mình không biết. Lắng nghe phải dẹp bỏ những ý kiến riêng của mình. Lắng nghe là trân trọng lời người nói. Ông quan lớn trong triều đình của nữ hoàng nước Ê-thi-óp là người có chức quyền cao trọng, có nhiều tiền nhiều của. Nhưng ông đã khiêm tốn lắng nghe. Lắng nghe tiếng Chúa nên chăm chỉ đọc Sách Thánh trên đường đi. Lắng nghe lời dẫn giải của Phi-lip-phê. Nhờ lắng nghe mà ông có đức tin. Và ông đón nhận được ơn cứu độ.
Để đón nhận cần từ bỏ mình. Để đón nhận Chúa cần từ bỏ cái tôi. Để đón nhận ân sủng cần từ bỏ tội lỗi. Để đón nhận Nước Trời cần từ bỏ thế gian. Viên quan lớn tổng quản kho bạc của nữ hoàng Ê-thi-óp đã từ bỏ mình nên chịu gìm mình xuống dòng nước để được rửa tội. Từ bỏ chỗ ngồi trên xe êm ấm. Từ bỏ quần áo khô ráo. Để chịu xuống xe. Để chịu xuống nước.
Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người về Chúa Ki-tô. Và Thiên Chúa không ngừng dạy bảo con người. Nhưng ma quỉ, xác thịt, thế gian cũng không ngừng lên tiếng và lôi kéo con người xa lìa Thiên Chúa.
Thiên Chúa lôi kéo ta về Chúa Giê-su. Ma quỉ xác thịt thế gian lôi kéo ta về vương quốc của nó. Thiên Chúa lôi kéo ta về sự sống đời đời. Ma quỉ xác thịt thế gian lôi kéo ta về sự chết. Thiên Chúa lôi kéo để nâng ta lên. Ma quỉ xác thịt thế gian lôi kéo ta xuống để gìm ta xuống bùn đen. Thiên Chúa không thể ép buộc ta. Người chỉ lôi cuốn. Ta có tự do. Nếu biết dùng tự do để lắng nghe và đón nhận Chúa Giê-su ta sẽ đạt tới sự sống đời đời.
SUY NIỆM 3: Tin vào Lời Chúa
Rất nhiều khi chúng ta cũng có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa. Nói khác đi, chúng ta thường quan niệm theo mẫu mực và lối suy tưởng riêng của chúng ta, do đó Thiên Chúa mà chúng ta muốn chối bỏ không phải là Thiên Chúa thật: chúng ta chối bỏ vị Thiên Chúa theo quan niệm của chúng ta chứ không phải vị Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta, và nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã quả quyết: "Ai thấy Ta là thấy Cha Ta". Chúa Giêsu là mạc khải hữu hình của Thiên Chúa vô hình, và Thiên Chúa được Chúa Giêsu mạc khải hoàn toàn khác với Thiên Chúa mà chúng ta thường quan niệm hoặc tự vẽ ra cho chính mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy lời mạc khải của Chúa Giêsu: "Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời". Những lời giảng dạy của Chúa Giêsu nói lên sự thật quan trọng và là trung tâm của đức tin Kitô giáo: con người không những phải tin nhận, mà còn phải ăn thịt và uống máu của Chúa để có sự sống đời đời. Giáo Hội đã trải qua bao thử thách, chống đối, vẫn kiên trì trong niềm tin này: tin vào Lời Chúa và hàng ngày cử hành Thánh Thể để con người được thông phần vào sự sống của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức hơn nữa về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể và được có tâm hồn xứng đáng mỗi khi cử hành bí tích Thánh Thể là bảo chứng cho sự sống đời đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Tôi là Bánh Hằng Sống
Tôi là bánh trường sinh.
Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc,
nhưng đã chết.
Còn bánh này là bánh từ trời xuống.
Ai ăn bánh này thì sẽ được sống muôn đời.
Và bánh tôi sẽ ban tặng,
Chính là thịt tôi đây,
Để cho thế gian được sống. (Ga. 6, 48-51)
Tiếp theo bài giảng của Đức Giêsu về bánh ban sự sống dẫn đưa chúng ta chiêm ngắm một tiến độ khác trong hoạt động của Đức Giêsu, chúng ta nhớ đến những tiến triển của bài giảng này dần dần đào sâu đến đoạn này.
Lúc đầu là bánh hóa nhiều. Phép lạ nuôi một đoàn dân chúng dẫn họ đi tìm Đấng đã làm phép lạ. Rồi Đức Giêsu rời xa họ, để vào nơi thanh vắng đêm khuya và hôm sau trở lại với các môn đệ bên kia bờ hồ. Tới đây, Người tiếp tục bài giảng sâu hơn, ý nghĩa hơn. Sự thay đổi nơi chốn thể hiện ý nghĩa thay đổi của bài giảng.
Đức Giêsu đồng hóa mình với thứ bánh mới. Ai liên kết với Người sẽ được sống. Đức Giêsu mặc khải mục đích của sự liên kết này là: Cho con người được sống lại. Hôm nay Người nói cho ta biết: Người sẽ trở nên nguồn sống lại cho chúng ta bằng cách nào? Bằng cách hiến thịt mình cho chúng ta ăn. Ở cảnh này, Đức Giêsu còn nói rõ hơn: “Bánh Tôi ban tặng, chính là thịt Tôi đây để cho thế gian được sống”.
Cho tới nhà Tiệc ly, Đức Giêsu nói: “Đây là mình Tôi bị nộp vì anh em”. Tất cả hoạt động của Người, tất cả mọi sự in ấn trong thịt máu Người với những lao khổ, chống đối, những thao thức, những bước đi cho tới lúc chết: Tất cả là hồng ân ban tặng cho chúng ta.
Đức Kitô đã là Người hiến thân cho tha nhân, không phải chỉ trong ý tưởng hay tinh thần mà còn trong hành động cụ thể sống động để lấy thân xác mình là quà tặng cho muôn dân. Như vậy, ai kết hợp với Người là kết hợp với sự sống mạnh mẽ của Người và biểu lộ ra bằng thân xác, biến thân xác mình thành quà tặng ban sự sống như Đức Giêsu.
Phần chúng ta, được thông phần thịt máu Người và được tham dự sự sống lại của Người, đó là thực hiện thánh ý và việc làm của Đức Kitô để sẵn sàng hiến thân mình làm quà tặng cho tha nhân theo gương Người, với tất cả lao khổ, thống khổ của ta để làm tôi tớ mọi người.
Tế lễ của chúng ta là thực hiện những điều đó.
C.G
SUY NIỆM 5: Thịt Máu Chúa Giêsu
Ở cổng nhà Dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một Thày dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marxellino đã leo lên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá. Nghĩ rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marxellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh Giá. Từ đò, ngày ngày cậu bé cứ âm thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày người khổng lồ ấy xuống khỏi Thánh Giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi: “Con thích điều gì nhất”. Cậu bé đáp: “Con muốn được thấy mẹ con”. Người khổng lồ liền nói: “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say”. Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marxellino nữa, họ đi tìm và này cậu bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Đối với Marxellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”, “Con muốn được chăm sóc Chúa”.
Còn đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
Mở rộng tâm hồn đón nhận Ngài trong Thánh Thể, con người mới có thể mở rộng trái tim và đôi bàn tay để đón nhận Ngài nơi tha nhân. Chúa Giêsu là Bánh từ trời xuống để lôi kéo con người lên với Chúa Cha, người tín hữu tiếp nhận Ngài trong Thánh Thể cũng được sai đến với tha nhân và lôi kéo họ về với Thiên Chúa. Chia sẽ sự sống thần linh nơi bàn tiệc Thánh Thể, người tín hữu được mời gọi chia sẻ cơm bánh hàng ngày với tha nhân. Và kỳ diệu thay, chính khi chia sẻ với tha nhân, người tín hữu cảm nhận được sự sống trường sinh và hạnh phúc đích thực tràn ngập tâm hồn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: BÁNH TRƯỜNG SINH LÀ ĐỨC GIÊSU (Ga 6,44-52)
Có một câu chuyện kể rằng: hai người yêu nhau tha thiết, nhưng chàng trai có lệnh lên đường đi nhập ngũ trong thời chiến. Bạn gái rất đau khổ, vì không biết đi như vậy, liệu có sống xót trở về không? Vì thế, nàng khóc lóc thảm thiết! Tuy nhiên, lệnh đã được ban, chàng không có cách nào khác, đành lòng rời xa nàng để đi thi hành nhiệm vụ. Trước khi chia tay, chàng tặng nàng một chiếc khăn mùi xoa với hoa văn thêu rất đẹp. Nàng trân trọng đón nhận và lưu giữ kỷ vật ấy như là vật thiêng thánh, và thi thoảng bỏ ra xem. Mỗi lần nhìn thấy khăn đó, nàng có linh cảm như chàng đang ở trước mặt mình. Vì thế, nàng có thể cười hay khóc rất tự nhiên, khiến nhiều người không khỏi thắc mắc!
Như vậy, qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cô gái có một niềm tin mãnh liệt rằng: chiếc khăn ấy chính là hiện thân của người yêu mà mình hết mực thương mến.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi dân chúng tin vào mình. Chỉ khi tin vào Ngài thì những lời Ngài dạy, mọi việc Ngài làm mới thực sự có giá trị đối với họ. Vì “ai tin thì được sự sống đời đời”.
Thật vậy, tin là điều kiện cần phải có để được lãnh nhận hiệu quả siêu nhiên. Nếu không tin, mọi chuyện trở nên vô bổ vì không có sự tương tác.
Khi mời gọi dân chúng tin vào mình để được sống đời đời, Đức Giêsu đã dần dần khai mở và dẫn họ đến xác tín vào Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này.
Lời xác định “Tôi là bánh trường sinh” là lời mạc khải rất đặc biệt trong Tin Mừng Gioan. Bởi vì đây là lời quả quyết cụ thể, chính xác, chắc chắn.
Vì thế, ngày nay, nơi Bí tích Thánh Thể, chúng ta cần xác tín mạnh mẽ niềm tin vào sự hiện diện toàn vẹn của Đức Giêsu nơi hình bánh và hình rượu. Từ đó, chúng ta yêu mến, cung kính và đón nhận để chúng ta được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Thịt Chúa thật là của ăn, Máu Chúa thật là của uống. Xin cho chúng con và mọi người biết siêng năng tôn thờ sự hiện diện của Chúa nơi Bí tích cao trọng này, để như một bảo chứng cho sự sống mai ngày trên Thiên Quốc. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Mầu nhiệm đức tin
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Phương Tây vào thế kỷ XVI sau khi Christophe Colomb khám phá châu Mỹ ít lâu, người ta đồn rằng ở Tân Thế Giới này có một ngọn suối trường sinh.
Nhà thám hiểm người Tây Ban Nha tên là Ponce de Léon… liền sắm thuyền vượt biển sang Nam Mỹ đi tìm con suối huyền thoại thần tiên đó, nhưng đó cũng chỉ là giấc mộng hão huyền…
Suy niệm
Chúa Giêsu trong diễn từ Thánh Thể ở Capharnaum nói về cuộc sống vĩnh cửu trường sinh khi Ngài đã tuyên bố: “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời” (Ga 6,47), lời hứa của giao ước mới đem lại sự trường sinh bất tử. Ai tin thì được Thiên Chúa cưu mang trong đời sống mới và được cứu.
Đức tin mà Đức Giêsu rao giảng là một hồng ân của Chúa Cha, như Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta, không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44). Nhờ đức tin để nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêssia, là Đấng Cứu Thế, được Thiên Chúa Cha sai đến, vượt trên mọi lý luận của con người. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết, hành trình đi đến với Đấng Cứu Thế, là một ân huệ của “Chúa Cha là Đấng sai Ta”. Chúa Cha “lôi kéo” và “giáo hóa” con tim con người: “Ai nghe lời giáo hóa của Cha, thì đến với Ta” (Ga 6,45). Đức tin là hồng ân nhưng không của Chúa Cha ban cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn, biết mở rộng tâm hồn để lắng nghe và để cho Chúa Cha “lôi kéo” và “giáo hóa”.
Người Pharisiêu thông thái, tự hào, không chịu mở lòng ra đón nhận ơn “lôi kéo” và “giáo hóa” của Chúa Cha, nên họ không nhận ra và tin vào Chúa Kitô, chính Ngài đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21).
Tin vào Chúa Kitô, chứng nghiệm những gì mà Ngài đang rao giảng về mình và máu Ngài dâng hiến. Chính trong niềm tin đó, người có niềm tin hằng ngày được nuôi dưỡng bằng thịt uống máu của Ngài mang lại sự sống đời đời: “Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát” (Ga 6,35). “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51-52).
Cho nên, bí tích Thánh Thể là bí tích của đức tin, vì chỉ có lòng tin là con đường duy nhất đưa ta đến bên bí tích mầu nhiệm thánh này. Cho nên, mỗi thánh lễ sau truyền phép, khi thừa tác viên của Giáo hội lập lại lời Chúa Giêsu: “Này là Mình Ta…, Này là Máu Ta…” bánh và rượu ngay lúc đó trở thành Mình Máu Chúa. Giáo hội hoàn toàn xác tín: “Đây là mầu nhiệm đức tin”.
Trong đức tin, nếu chúng ta sống kết hiệp với Thiên Chúa qua bí tích Thánh Thể, cuộc đời chúng ta sẽ trở nên tràn ngập hồng ân. Chính lúc đó, chúng ta mới cảm nghiệm được sâu sắc lời của thánh Augustinô: “Có đức tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy những gì chúng ta tin”.
Lạy Chúa con tin….
Ý lực sống: “Đức tin cần thiết cho con người. Thật thống khổ cho ai không tin” (Victor Hugo).
SUY NIỆM 8: Bánh hằng sống từ trời xuống
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay vẫn tiếp tục triển khai diễn từ của Đức Giêsu về bánh hằng sống. Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần đầu, Đức Giêsu tiếp tục nói rõ hơn về nguồn gốc của Ngài; phần sau, Chúa khẳng định lại điều Ngài đã nói trước đó: “Ta là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ sống đời đời”.
2. Đức Giêsu tiếp tục nói rõ hơn về nguồn gốc của Ngài. Ngài bảo cho mọi người biết: Ngài bởi Chúa Cha mà đến, nên ai đến với Ngài và tin vào Ngài là nhận được ân huệ lớn nhất, ân huệ bao gồm mọi ân huệ mà Thiên Chúa ban cho loài người, đó là sự sống đời đời.
Chúa Cha không ngừng lôi kéo con người hướng thiện. Hướng về Chúa Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến để đưa nhân loại về với Người. Nhưng tại sao con người không đáp lại tiếng Chúa mời gọi? Thưa vì giữa ân sủng và con người, Thiên Chúa để một khoảng trống: đó là tự do. Để ân sủng Thiên Chúa phát sinh hiệu quả, con người phải dùng tự do của mình mà “lắng nghe” và “đón nhận” Lời Chúa.
3. Sau khi nói cho mọi người biết rõ nguồn gốc của mình, Đức Giêsu mạc khải và khẳng định điều Ngài đã quả quyết trước đó: “Tôi là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời”. Người Do thái phản đối, nhưng Chúa vẫn giữ nguyên lời quả quyết, rồi Chúa trở lại câu chuyện manna để làm nổi bật hiệu lực của manna mới: “Tổ tiên các ngươi trong sa mạc đã ăn manna, và đã chết. Còn bánh bởi trời là bánh hằng sống, ai ăn bánh này sẽ không chết”.
Những lời dạy của Đức Giêsu nói lên sự thật quan trọng và là trung tâm của đức tin Kitô giáo: con người không những phải tin nhận, mà còn phải ăn thịt và uống máu của Chúa để có sự sống đời đời. Giáo hội đã trải qua bao nhiêu thử thách, chống đối, vẫn kiên trì trong niềm tin này: tin Lời Chúa và hằng ngày cử hành Thánh Thể để con người được thông phần vào sự sống thần linh của Thiên Chúa.
4. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi dân chúng tin vào mình. Chỉ khi tin vào Ngài thì những lời Ngài dạy, mọi việc Ngài làm mới thực sự có giá trị đối với họ. Vì “ai tin thì sẽ được sống đời đời". Thật vậy, tin là điều kiện cần phải có để được lãnh nhận hiệu quả siêu nhiên. Nếu không tin, mọi chuyện trở nên vô bổ vì không có tương tác.
Khi mời gọi dân chúng tin vào mình để được sống đời đời, Đức Giêsu dần dần khai mở và dẫn họ đến xác tín vào Bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ thiết lập sau này. Lời xác định “Tôi là bánh trường sinh” là lời mạc khải rất đặc biệt trong Tin mừng Gioan. Bởi vì đây là lời quả quyết cụ thể, chính xác, và chắc chắn.
Vì thế, ngày nay, nơi Bí tích Thánh Thể, chúng ta cần xác tín mạnh mẽ niềm tin vào sự hiện diện toàn vẹn của Đức Giêsu nơi hình bánh và hình rượu. Từ đó, chúng ta yêu mến, cung kính và đón nhận để chúng ta được sự sống đời đời.
5. Tóm lại, Đức Giêsu đã mạc khải cho người Do thái biết Ngài là Thiên Chúa, đến để ban ơn cứu chuộc cho họ cũng như mọi người, và Ngài ban chính thịt máu Ngài làm lương thực ban sự sống đời đời; nhưng họ nhất định không tin Ngài.
Đó là chuyện ngày xưa của người Do thái, còn chúng ta ngày nay, chúng ta có thái độ thế nào, chúng ta có tin mạnh mẽ, tin tuyệt đối vào Đức Giêsu hiện diện trong phép Thánh Thể không? Và chúng ta siêng năng tham dự Thánh lễ, dọn lòng sốt sắng để rước Chúa Giêsu Thánh Thể không? Xin Chúa ban cho chúng ta có lòng sùng kính và mến yêu phép Thánh Thể và tin thật đây là thần lương nuôi dưỡng để giúp chúng ta đến cuộc sống đời đời.
6. Truyện: Bí quyết trường sinh bất tử?
Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài 2000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian.
Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên ông tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng.
Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Đông, dân cư ở đây đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Tần Thủy Hoàng liền phái nhiều tầu thuyền chất đầy châu báu ngọc ngà quí hiếm để đi tìm, với hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.
Thế rồi ông lo xây mồ như cung điện nguy nga, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông ngân hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên 50 tuổi thì chết.
21/04 Ý nghĩa của cuộc sống
- Viết bởi Ga 6, 35-40
Ý nghĩa của cuộc sống.
Thứ Tư tuần 3 Phục Sinh.
"Ý muốn của Cha Ta là: hễ ai thấy Con thì có sự sống đời đời".
Lời Chúa: Ga 6, 35-40
Khi ấy, Chúa Giêsu phán với đám đông rằng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ. Nhưng Ta đã bảo các ngươi rằng: Các ngươi đã thấy Ta, nhưng các ngươi không chịu tin. Những ai Cha đã ban cho Ta sẽ đến với Ta. Và ai đến với Ta, Ta sẽ không xua đuổi ra ngoài.
Bởi vì Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta. Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại. Quả vậy, ý của Cha Ta là hễ ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Đến với tôi, tin vào tôi
Suy niệm:
Cuộc sống làm người ở đời chẳng mấy dễ dàng.
Con người lúc nào cũng phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống.
Môi trường sống bị ô nhiễm do bụi, khí thải, tiếng ồn.
Thiên tai, bão lũ, hạn hán ngày thêm trầm trọng bởi sự biến đổi khí hậu.
Dịch bệnh đủ loại thỉnh thoảng lại bất ngờ bùng phát ở một nơi nào đó
và có nguy cơ lan rộng toàn thế giới.
Khủng hoảng kinh tế lại càng xô đẩy nhiều người đến chỗ đói nghèo.
Chiến tranh vẫn kéo dài giữa một số quốc gia, bộ tộc.
Căng thẳng trong mối quan hệ giữa người với người, ngay trong gia đình.
Có những vấn đề riêng tư mà tự mỗi người không sao giải quyết nổi.
Con người lúc nào cũng phải vất vả trăn trở trước cuộc sống.
Kinh Lạy Nữ Vương gọi trần gian là thung lũng đầy nước mắt.
Chúng ta thuộc Giáo Hội chiến đấu trước khi thuộc Giáo Hội khải hoàn.
Để sống ở cuộc đời chóng qua này một cách tận tụy, nghiêm túc,
để sống như một người con xứng đáng của Trời và Đất,
người Kitô hữu cần nhận được sự đỡ nâng của ơn trên.
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chia sẻ phận làm người ở đời như ta.
với đủ mọi cay đắng ngọt bùi của phận người và cái chết trên thập giá.
Ngài mong trở nên bạn được đồng hành của chúng ta
trên đường đời nhiều thách đố, gai chông và cạm bẫy.
Ngài thỏa mãn những khát vọng thâm sâu và thầm kín nhất của ta.
“Ai đến với tôi, sẽ không hề đói.
Ai tin vào tôi sẽ chẳng hề khát bao giờ” (c. 35).
Thiên Chúa Cha muốn gửi gắm chúng ta cho Chúa Giêsu lo liệu.
“Tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai,
nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (c. 39).
Hãy đến với Chúa Giêsu để nhận được sự bảo vệ của Thiên Chúa.
Hãy tin vào Ngài và cùng với Ngài đi trên con đường gập ghềnh,
bạn sẽ đến được quê hương vĩnh cửu đang chờ đợi bạn.
Sự sống vĩnh cửu thực ra đã bắt đầu ngay từ đời này rồi,
khi chúng ta đến với Giêsu với niềm tin tưởng:
“Ai tin vào Người Con, thì được sống muôn đời” (c. 40).
Hãy trở thành món quà của Chúa Cha cho Con của Ngài là Đức Giêsu.
Hãy trở thành món quà của Đức Giêsu cho thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: ĂN BẰNG ĐỨC TIN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hôm nay Chúa Giê-su một lần nữa khẳng định Người là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Nhưng Người không mời gọi chúng ta ăn bánh mà lại mời gọi chúng ta hãy đến với Người và tin vào Người để khỏi đói khỏi khát.
Mỗi loại thực phẩm có một cách tiếp thu khác nhau. Một cách “ăn” khác nhau. Hấp thụ khí trời bằng hít thở. Hấp thụ nước bằng uống. Hấp thụ nhiều loại thuốc men bằng xông hơi nước, xông hương. Hấp thụ tư tưởng bằng trí tuệ. Hấp thụ tình yêu bằng tâm hồn. Hôm nay Chúa dạy ta hấp thụ Bánh Hằng Sống bằng đức tin.
Giáo Lý Công Giáo khẳng định: Tin là gắn bó bản thân, phó thác đời mình cho Thiên Chúa (GLCG 150). Như thế tin là nên một với Chúa. Khi ta dùng thực phẩm, thực phẩm trở nên máu thịt ta. Khi ta tin vào Chúa, ta nên một với Chúa.
Nên một với Chúa, ta sẽ suy nghĩ bằng suy nghĩ của Chúa. Nói tiếng nói của Chúa. Cư xử bằng hành động của Chúa. Đi trên những nẻo đường của Chúa. Sống bằng sự sống của Chúa. Đây chính là cao điểm cho ta hoàn toàn kết hợp với Chúa.
Chính Chúa Giê-su làm gương cho ta khi Người hoàn toàn tin tưởng Chúa Cha. Nên Người không sống cho bản thân. Nhưng luôn sống và làm theo thánh ý Chúa Cha.
Các Ki-tô hữu đầu tiên làm gương cho ta khi các ngài hoàn toàn tin tưởng Chúa. Tin tưởng nên từ bỏ của cải trần gian để chia sẻ cho những người túng thiếu. Tin tưởng nên dù bị bắt bớ phải trốn chạy mà vẫn vui tươi. Tin tưởng nên đang khi trốn chạy vẫn hăng say rao giảng Lời Chúa.
Sau khi Phó tế Stê-pha-nô chịu tử đạo, phó tế Phi-lip-phê nổi bật như một người hoàn toàn kết hợp với Chúa Giê-su Phục Sinh. Vì thế ngài xuất hiện ở đâu thì Chúa Giê-su xuất hiện ở đó. Ngài rao giảng đầy thuyết phục. Ngài làm được nhiều điều kỳ diệu. Xua đuổi thần ô uế. Chữa lành nhiều bệnh tật. Và làm cho mọi người được hân hoan.
Hôm nay tôi hiểu rằng Chúa Giê-su là Bánh Hằng Sống. Cách ăn bánh này là phải tin vào Chúa. Tin vào Chúa tôi phải từ bỏ mình để Chúa sống trong tôi. Khi hoàn toàn nên một với Chúa, tôi sẽ đạt đến sự sống đời đời.
SUY NIỆM 3: Ý nghĩa của cuộc sống
Một nhà thơ nào đó đã nói lên thái độ bất cần của một số người như sau:
"Cần gì truy nguyên ta từ đâu đến
Lỡ sinh ra rồi, ta chơi đến nơi
Chết rồi đi đâu thì cũng mặc kệ
Trước khi sinh ra có ai hỏi đâu
Lỡ sinh ra đây ta không câu nệ
Từ đâu tới đây, chết rồi về đâu
Ôi thôi mặc kệ".
Vào thời Chúa Giêsu cũng không thiếu những người sống theo chủ trương mặc kệ ấy. Cái đám đông đi theo Ngài để chỉ được ăn uống nô nê là một điển hình. Họ chỉ biết có của ăn cho thân xác. Nói như thánh Phaolô: "Ðạo của họ là cái bụng". Là Ðấng Toàn Năng, Chúa Giêsu có thể vung chiếc đũa thần lên để thỏa mãn tất cả mọi nhu cầu thể lý của con người. Bằng chứng là với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài có thể nuôi sống một đám đông trên năm ngàn người. Nhưng Chúa Giêsu đã không đến trong trần gian để cung cấp một thức ăn chóng hư nát như thế. Ngài đến để làm cho con người được sống và sống sung mãn, và sự sống sung mãn ấy chính là sự sống vĩnh cửu. Của ăn dư dật mà Ngài đã dâng lên từ năm chiếc bánh và hai con cá là dấu chỉ của bánh trường sinh mà Ngài sẽ ban cho con người trong phép Thánh Thể, chỉ có bánh này mới làm cho con người được thỏa mãn trong nỗi khát vọng mà không một lương thực nào trên trần gian này có thể đắp đầy, chỉ có bánh này mới làm cho cuộc sống con người được sung mãn, chỉ có bánh này mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống con người, chỉ có bánh này mới không ngừng khơi dậy nỗi khát khao cõi trường sinh trong lòng người.
Cuộc sống tự nó là một nỗi khao khát khôn nguôi. Mỗi một ngày mới là một chuỗi những khắc khoải mới. Mỗi một ngày mới là một chuỗi những câu hỏi không ngừng được đặt ra cho chúng ta. Những người túng thiếu, những kẻ khốn khổ chung quanh chúng ta không ngừng hỏi chúng ta đã biết yêu thương đến mức độ nào. Cái chết của một người thân không ngừng hỏi chúng ta về cứu cánh của cuộc sống. Cô đơn và khổ đau không ngừng hỏi chúng ta về ý nghĩa của từng biến cố trong cuộc sống. Mỗi ngày sống là một chuỗi những câu hỏi mà chúng ta không thể tránh né được và đi cho đến ngọn nguồn những câu hỏi ấy là những câu hỏi ngàn đời của kiếp người: "Tôi từ đâu đến? Tôi sống để làm gì? Tôi sẽ đi về đâu? Tôi không thể dửng dưng trước sự chất vấn của cuộc sống" Tôi không thể mặc lấy thái độ mặc kệ trước những tra vấn ấy của cuộc sống?"
Chúa Giêsu không những đến để khơi dậy những câu hỏi ngàn đời của cuộc sống: "Phần các con, các con bảo Ta là ai?" Câu hỏi Ngài đã từng đặt ra cho các môn đệ của Ngài cách đây hai ngàn năm. Ngày nay, Ngài cũng không ngừng đặt ra cho mỗi người. Ngài không những tra vấn con người của mọi thời đại, Ngài là giải đáp cho mọi thắc mắc của con người. Ngài là Ðấng đang hiện diện trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta. Ngài đang đồng hành với chúng ta.
Nguyện xin Ðấng Hôm Qua, Hôm Nay, và Mãi Mãi Vẫn Là Một cho chúng ta luôn được tác động bởi sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Sức mạnh Phục Sinh
Vì tôi từ trời mà xuống
Không phải là để làm theo ý tôi,
Nhưng là để làm theo ý Đấng đã sai tôi.
Mà ý của Đấng đã sai tôi
Là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi,
Tôi sẽ không để mất một ai,
Nhưng sẽ cho họ sống lại
Trong ngày sau hết.
Thất vậy ý của Cha tôi
Thì tất cả những ai thấy người Con
Và tin vào người Con
Thì được sống muôn đời,
Và tôi sẽ cho họ sống lại
Trong ngày sau hết. (Ga. 6, 38-40)
Chúng ta đã nhấn mạnh đến giá trị tương quan giữa hai ngôi vị như của nuôi con người: Người ta chỉ có thể sống khi có sự tương quan với nhau, có sự cần tới nhau. Nói cách khác, ai có thể nuôi người khác được thì mới giải thoát được chính mình, mới gắn bó với người khác được.
Đức Giêsu, qua dấu chỉ tấm bánh, quả quyết với chúng ta rằng Người là một thứ của nuôi. Chính Người cam kết với chúng ta rằng: Người ban chính mình cho chúng ta, rằng: Chính mình Người là bằng chứng tình yêu gắn bó của Chúa Cha đối với chúng ta.
Hôm nay, Người cắt nghĩa rõ ràng Người được Đức Chúa Cha nuôi sống, Người sống nhờ Chúa Cha, cho chúng ta có sự sống của Người trong chúng ta. Thiên Chúa đã cam kết với chúng ta và cho chúng ta thấy dấu chỉ của sự cam kết này là chính Đức Giêsu Kitô đến dẫn đưa chúng ta đến sự sống lại: “Tất cả những ai thấy Chúa Con và tin ở Người thì được sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết”.
Tóm lại, bất kỳ ai chấp nhận liên đới với chính mình Đức Kitô đều được chúc phúc, được hưởng sức mạnh cứu độ của Người. Đời sống nhân loại của mình sẽ đi tới vô cùng để được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa.
Sự mặc khải này đã làm cho chúng ta hôm nay thấy rằng tiếp xúc với Đức Giêsu Kitô là sức mạnh sự sống lại giúp ta bày tỏ lòng cảm tạ Thiên Chúa. Chúng ta phải biết rằng Đức Giêsu là quà tặng của Chúa Cha ban cho ta để Người đến tái tạo sự hợp nhất con người với Thiên Chúa, để tiêu diệt sự chết và tỏ bày sự sống lại.
Hành động tạ ơn của chúng ta có thể tô điểm cho ta thấy những sự lạ lùng để ý thức sự trung tín, vâng lời và sẵn sàng hiến dâng của Đức Giêsu Kitô đối với Đức Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến thực hiện kế hoạch trao ban sự sống đời đời cho loài người.
C.G
SUY NIỆM 5: Sống là chính Đức Kitô
Một mục sư nọ kể câu chuyện sau:
Hai người bộ đội vào một giáo đường để trốn các cuộc truy lùng. Khi bước vào giáo đường, họ đe dọa: Ai không bỏ đạo sẽ bị bắn ngay tại chỗ, ai bỏ đạo đứng sang bên phải. Có một số người đứng sang bên phải và được thả về nhà ngay, những người còn lại vẫn hiên ngang chờ đợi cái chết. Khi những kẻ nhát đảm ra khỏi nhà thờ, hai người lính mới hạ súng xuống và ôn tồn nói: “Chúng tôi cũng là Kitô hữu, sở dĩ chúng tôi làm thế, vì chúng tôi muốn biết ai là người thực sự sẵn sàng chết cho đức tin của mình, chỉ những người đó mới đáng tin cậy”.
Sống đức tin có nghĩa là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Đó là đức tin mà Giáo Hội mời gọi chúng ta củng cố khi cho chúng ta lắng nghe đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Chính Ta là Bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ”. Duy chỉ mình Ngài mới cho chúng ta sự sống đích thực.
Những người Do Thái đã thấy Chúa Giêsu nhưng họ không tin, thật ra họ đã không thấy gì. Cái nhìn của họ dừng lại nơi những cái chóng qua, họ tìm kiếm Thiên Chúa không phải vì đã tin nhận Ngài, mà chỉ vì chờ đợi được Ngài cho ăn no nê bằng của ăn hư nát. Muốn được thấy Chúa Giêsu, muốn tin nhận Ngài, trước tiên con người cần ra khỏi cái vỏ ích kỷ tham lam của mình. Có sẵn sàng ra khỏi thế giới hẹp hòi của mình, con người mới có thể thấy được Đức Kitô và đi vào thế giới của Ngài. Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”. Quả thật, chỉ những tâm hồn trong sạch, nghĩa là biết quên đi cái thế giới ích kỷ, phàm trần mới nhìn thấy Thiên Chúa.
Ước gì chúng ta luôn sống kết hiệp với Ngài và nhận ra Ngài trong mọi biến cố cuộc sống, và khi cuộc lữ hành trần gian chấm dứt “Ngài thế nào, chúng ta sẽ được thấy như vậy”.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: SỐNG ĐỨC TIN CÁCH TRƯỞNG THÀNH (Ga 6, 35-40)
Tin vào Đức Giêsu có nghĩa là đến với Ngài. Không chỉ dừng lại ở đó, mà chúng ta còn được mời gọi đi xa hơn nữa để đón nhận, tức là thông dự vào sự sống thần linh của Ngài bằng việc đón nhận chính Ngài.
Đây cũng chính là lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 40).
Tại sao Đức Giêsu phải tuyên bố như vậy? Thưa, bởi vì Ngài thấy lòng trai dạ đá nơi những người Do thái và họ đi tìm Ngài vì của ăn hư nát chứ không phải là của ăn tinh thần, tức là sự sống đời đời.
Lối sống và lựa chọn của người Do thái khi xưa cũng chính là lối sống và lựa chọn của nhiều người trong chúng ta! Nhiều khi chúng ta sẵn sàng bỏ lễ, bỏ nhà thờ chỉ vì mớ rau, củ hành, củ tỏi, con cá, con tôm, hay cũng có khi chỉ vì một nhu cầu nào đó rất tầm thường mà chúng ta sẵn sàng đánh đổi...!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống đức tin cách trưởng thành. Tức là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Quả thật: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
Muốn được như thế, chúng ta phải bỏ qua lối sống thực dụng, phải sống vượt lên trên những gì là vật chất, hẹp hòi, ích kỷ của mình. Có thế, con mắt đức tin của chúng ta mới nhận ra những dấu chỉ thiêng liêng và lý trí của chúng ta mới trong sáng để nhận biết điều gì quan trọng, điều gì thứ yếu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho ban chúng con ơn khôn ngoan để chúng con biết lựa chọn điều cần thiết cho sự sống đời đời hơn là những thứ chỉ nuôi được thân xác. Xin cho chúng con biết quý trọng Bánh Hằng Sống chính là Thánh Thể Chúa và siêng năng rước Chúa vào trong linh hồn với trọn lòng mến. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Chu toàn ý Cha
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào những ngày cuối tháng 6 năm 1848. Cuộc nội chiến xảy ra ác liệt trên những đường phố của kinh thành Paris. Tiếng la hét om sòm vang lên khắp nơi. Nằm trên giường bệnh, nhà văn Chateaubriand nghe rõ mồm một. Ông cầm lấy cây thánh giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa mới cứu vãn được xã hội hiện tại này”.
Rồi dán chặt đôi mắt một cách trìu mến vào tượng Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá, nhà văn thốt ra những lời cuối cùng đầy xúc động: “Đây chính là Chúa của con. Đây chính là Vua của con!”.
Suy niệm
Ðức Giêsu đến không làm theo ý mình, nhưng là để chu toàn ý Cha: “Ý của Cha Ta là hễ ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời”. Ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ không còn phải chết trong tội nữa, nhưng được Người ban sự sống đời đời, như thánh Phaolô với kinh nghiệm người được đức tin chiếm hữu, đã quả quyết: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã (là Adam), mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất (là Đức Giêsu), đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống” (Rm 5,18).
Tin vào Chúa Kitô thì được sống. Rải rác khắp trang Tin Mừng, nói về sức mạnh của đức tin vào Con Người - Đức Kitô: Người phụ nữ bị băng huyết cả chục năm với đức tin được chữa khỏi, như ông trưởng hội đường Do Thái với đức tin của ông đã khiến Chúa làm cho con gái ông đã chết được sống lại (x. Mt 9,18-26; Mc 5,1-43; Lc 8,40.55). Người phụ nữ dân ngoại Canaan có người con bệnh gần chết, dù Chúa thử thách bà, nhưng tâm hồn bà vẫn tin mạnh mẽ vào Ngài, và con bà được chữa lành. (x. Mt 15,21-28; Mc 7,24-30), người bị bệnh phong cùi với lòng tin cũng được khỏi (Mt 8,1-4; Mc 1,40-45; Lc 5,12-13; 17,11-19)... Người mù thành Giêricô với tất cả niềm tin kêu cầu Chúa và anh được sáng (Mt 20,29 -34; Mc 10,46-52; Lc 18,35-44)…
Người tin Chúa Kitô, là người để Chúa Cha lôi kéo và giáo hóa, nhưng trong thực tế, chúng ta sống tin thật sự, hay chúng ta để các thực tại quyền lực trần gian chiếm hữu. Tuy môi miệng tôi tuyên xưng “tin” Đức Kitô, nhưng con tim và khối óc lại hướng theo tiền bạc, danh lợi, vì nó mà tôi có thể bất chấp tất cả, ghen ghét, hãm hại, chà đạp anh em bạn hữu để được những cái bánh to, lợi lộc trần thế. Tâm tư của tôi của bạn như thánh Phaolô đã từng ví von: Chúa của họ thờ là cái bụng tức là mọi sự quyến rũ thấp kém của thế gian (x. Pl 3,19). Vì thế người sống niềm tin theo lời khuyên dạy của thánh Phaolô: “Anh em hãy loại ra khỏi anh em tính gay gắt, tức giận, nóng nảy, khoác lác, chửi rủa, cùng mọi thứ độc ác... Anh em hãy ăn ở hiền hậu, thương xót và tha thứ cho nhau” (Ep 4,31-32).
Sống đức tin sâu sắc, như thánh tông đồ Giacôbê xác tín: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Thật thế, người tin nhận Chúa Giêsu là Cứu Chúa của mình, chắc chắn cuộc đời của họ, mọi lời nói việc làm, được xây dựng và đặt nền tảng trên đức tin.
Ý lực sống: “Ai có đức tin thì làm được mọi việc… “Dù đức tin chỉ bằng hạt cải…” (x. Lc 17,5-6).
SUY NIỆM 8: Hãy tin vào Đức Kitô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng này cho chúng ta thấy: từ đầu bài giảng về Bánh Hằng Sống, Đức Giêsu có ý để thính giả đi từ phép lạ manna đến phép lạ hóa bánh ra nhiều; và từ phép lạ hóa bánh ra nhiều đến mầu nhiệm về Chúa và sứ mạng của Ngài. Khi thấy dân chúng chưa tin Ngài, Ngài lại hướng họ về Chúa Cha. Hôm nay, Đức Giêsu giải thích về ý nghĩa của lời Ngài nói: “Chính Ta là bánh trường sinh”.
2. Như chúng ta biết, đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu là chỉ để được ăn uống no nê. Họ chỉ biết có của ăn cho thân xác. Như thánh Phaolô nói: “Đạo của họ là cái bụng”. Là Đấng Toàn Năng, Đức Giêsu có thể vung chiếc đũa thần lên để thỏa mãn tất cả tất cả mọi nhu cầu thể lý của con người. Bằng chứng là với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Ngài có thể nuôi sống một đám đông trên 5000 người.
Nhưng Đức Giêsu đã không đến trong trần gian để cung cấp một thức ăn chóng hư nát như thế. Ngài đến làm cho con người được sống và sống sung mãn, và sự sống sung mãn ấy chính là sự sống vĩnh cửu. Của ăn dư dật mà Ngài đã dâng lên từ 5 chiếc bánh và 2 con cá là dấu chỉ của bánh trường sinh mà Ngài sẽ ban cho con người trong phép Thánh Thể, chỉ có bánh này mới làm cho con người được thỏa mãn trong nỗi khát vọng mà không một lương thực nào trên trần gian này có thể lấp đầy.
3. Tin vào Đức Giêsu có nghĩa là đến với Ngài. Không chỉ dừng lại ở đó, mà chúng ta còn được mời gọi đi xa hơn nữa để đón nhận, tức là thông dự vào sự sống thần linh của Ngài bằng việc đón nhận chính Ngài. Đây cũng chính là lời mời gọi của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai thấy người Con và tin vào người Con ấy, thì được sống muôn đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
Tại sao Đức Giêsu phải tuyên bố như vậy? Thưa, bởi vì Ngài thấy lòng chai dạ đá nơi những người Do thái và họ đi tìm Ngài vì của ăn hư nát chứ không phải là của ăn tinh thần, tức là sự sống đời đời.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống đức tin cách trưởng thành. Tức là sống cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Quả thật: “Người ta không chỉ sống nhờ cơm bánh mà còn nhờ Lời miệng Thiên Chúa phán ra”.
4. Người tin Chúa Kitô, là người để Chúa Cha lôi kéo và giao hòa, nhưng trong thực tế, chúng ta sống tin thật sự hay chúng ta để các thực tại quyền lực trần gian chiếm hữu. Tuy môi miệng tuyên xưng “Tin” Đức Kitô, nhưng con tim và khối óc hướng theo tiền bạc, danh lợi, vì nó mà ta có thể bất chấp tất cả, chà đạp anh em bạn hữu để được cái bánh to, lợi lộc trần thế.
Tâm tư của ta như thánh Phaolô đã từng ví von: Chúa của họ thờ là cái bụng, tức là mọi sự quyến rũ thấp hèn của thế gian (x.Pl 3,19).
Sống đức tin sâu sắc, như thánh tông đồ Giacôbê xác quyết: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Thật thế, phải được xây dựng và đặt nền tảng trên đức tin.
5. “Tất cả những người Chúa Cha đã ban cho Ta đều sẽ đến với Ta’.
Câu nói trên đây của Đức Giêsu có thể gây ra một vấn nạn: Phải chăng có những người Chúa Cha không ban cho Đức Giêsu?
Chúng ta nhớ lại chân lý bắt nguồn từ Thánh Kinh: Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi. Về phía Thiên Chúa, đó là tuyệt đối không luật trừ. Nhưng về phía con người, chúng ta cần phân biệt:
Chúa Cha đã ban cho Đức Giêsu toàn thể nhân loại, là những con người có tự do. Và tất cả, cách này hay cách khác, đều được mời gọi để chọn lựa: chấp nhận hoặc từ chối Đức Giêsu. Chính trên bình diện tự do trách nhiệm này, sẽ có tách biệt giữa những người “đến” hay “không đến” với Đức Giêsu. Nói cách khác, giữa cộng đoàn nhân loại, có người tự do đáp trả “vâng” với ân huệ đức tin, đức tin này đưa họ đến với Đức Giêsu, và đã có những người trả lời “không”, những người này đã từ chối Đức Giêsu.
6. Truyện: Lạy Chúa của con.
Vào những ngày cuối tháng 6 năm 1848. Cuộc nội chiến xẩy ra ác liệt trên những đường phố của kinh thành Paris. Tiếng la hét om sòm vang lên khắp nơi. Nằm trên giường bệnh, nhà văn Chateaubriand nghe rõ mồn một. Ông cầm lấy cây Thánh giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa mới cứu vãn được xã hội hiện tại này”.
Rồi dán chặt đôi mắt một cách trìu mến vào tượng Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá, nhà văn thốt ra những lời cuối cùng đầy xúc động: “Đây chính là Chúa của con. Đây chính là vua của con”.
20/04 Bánh trường sinh
- Viết bởi Ga 6, 30-35
Bánh trường sinh.
Thứ Ba tuần 3 Phục Sinh.
"Không phải Môsê, mà chính Cha Ta mới ban bánh bởi trời đích thực".
Lời Chúa: Ga 6, 30-35
Khi ấy, đám đông thưa Chúa Giêsu: "Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời".
Chúa Giêsu đáp: "Thật Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian".
Họ liền thưa với Ngài rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi".
Chúa Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Bánh ban sự sống cho thế giới
Suy niệm:
Man-hu? Cái gì vậy? Đó là câu con cái Israel hỏi nhau
khi thấy manna lần đầu tiên rơi trên mặt đất.
Môsê trả lời: “Đó là bánh Đức Chúa đã ban cho các ngươi làm của ăn.”
Bốn mươi năm Đức Chúa đã nuôi dân của Ngài bằng thức ăn ấy,
trong suốt cuộc hành trình trong sa mạc cho tới khi họ đến đất Canaan.
Đức Chúa vẫn là Đấng quan tâm đến sinh mệnh của dân.
Qua Môsê, Ngài cho họ manna là bánh từ trời xuống.
Có vẻ những người ở Caphácnaum muốn thách đố Đức Giêsu
làm một dấu lạ lớn lao tương tự như dấu lạ Môsê đã làm (cc. 30-31),
nếu Ngài thật là một vị ngôn sứ như Môsê đã loan báo (Đnl 18, 15).
Hãy ban cho chúng tôi thứ bánh bởi trời như manna ngày xưa.
Đức Giêsu khẳng định không phải Môsê đã cho họ ăn bánh bởi trời.
Chính Chúa Cha đã ban cho dân Israel bánh bởi trời, trong sa mạc.
Và nay Chúa Cha còn muốn ban một thứ bánh mới.
Đức Giêsu long trọng giới thiệu bánh mới này:
“Chính Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực” (c. 32).
Bánh này là bánh từ trời xuống và ban sự sống cho thế giới (c. 33).
Như thế bánh mới này cũng là bánh từ trời,
nhưng không chỉ dành cho dân Israel như manna cũ.
Đây là thứ bánh đích thật dành cho cả thế giới loài người.
“Lạy Ngài, xin cho chúng tôi thứ bánh ấy luôn” (c. 34).
Đây là một sự hiểu lầm của dân chúng đang nghe Đức Giêsu.
Nó tương tự như sự hiểu lầm của người phụ nữ Samari
khi chị xin Đức Giêsu: “Xin cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát” (Ga 4, 15).
Thứ bánh mới Đức Giêsu giới thiệu
không phải là tấm bánh vật chất, ăn được để tránh cái đói tạm thời,
nhưng là tấm bánh thỏa mãn sự đói khát sâu thẳm nơi trái tim.
“Chính tôi là bánh trường sinh,
Ai đến với tôi sẽ không đói, ai tin vào tôi sẽ không khát bao giờ” (c.35).
Đến với và tin vào Đức Giêsu ta sẽ tìm được thức ăn tinh thần.
Lời dạy dỗ của Ngài là bánh từ trời đích thực, vượt hẳn manna xưa.
“Người ta sống không nguyên bởi bánh,
nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8, 3).
Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa,
nên lời của Ngài sẽ là bánh đem lại sự sống cho bất cứ ai tin.
Tạ ơn Cha đã nuôi chúng ta bằng Tấm Bánh Giêsu, Bánh từ trời xuống.
Chúng ta không phải đi lượm manna mỗi ngày như dân Israel xưa.
Nhưng mỗi ngày chúng ta phải lắng nghe Lời Giêsu để được no đủ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: GIÊ-SU BÁNH ĐÍCH THỰC
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Giê-su là bánh đích thực. Vì là bánh Cha ban. Món quà Cha ban rất quí giá. Vì đó là Người Con yêu dấu. Là hình ảnh tuyệt hảo của Cha. Là chính Cha. Là chính sự sống. Nhờ Người mà muôn vật có sự sống. Vì nhờ Người “vạn vật được tạo thành” (Ga 1, 3).
Giê-su là bánh đích thực. Vì bánh từ trời xuống. Trời là cung lòng Chúa Cha. Là tình yêu thương của Chúa Cha. Tình yêu thương của Cha quá lớn lao. Nên đã ban cả Con Một của Người. Đó là tất cả những gì có thể ban. Bánh từ trời vì Giê-su chính là thiên đàng. Ở với Chúa Giê-su là ở trên thiên đàng. Như lời Chúa hứa với người trộm lành: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23, 43).
Giê-su là bánh đích thực. Vì bánh này không bao giờ hư nát. Ai ăn bánh này sẽ không bao giờ chết. Bánh đem lại sự sống đời đời.
Ăn bánh này thế nào? Người Do thái hỏi và Chúa Giêsu chỉ dẫn cho họ: “Ai đến với Tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ”. Đến với Chúa là sống với Chúa. Sống với Chúa là biến đổi nên giống như Chúa. Là suy nghĩ, ăn nói, cư xử như Chúa. Tin vào Chúa là hiến toàn thân cho Chúa. Là kết hợp nên một với Chúa. Là để Chúa sử dụng đời sống.
Thánh Stê-pha-nô đã đến với Chúa và đã tin vào Chúa. Đến với Chúa và sống với Chúa nên Stê-pha-nô để Chúa biến đổi nên giống Chúa. Hãy chiêm ngắm giờ chết của Stê-pha-nô. Lời nói và hành động của ngài sao y lời nói và hành động của Chúa Giê-su. Cũng xin tha cho kẻ làm hại mình. Cũng phó linh hồn trong tay Chúa. Tin vào Chúa nên Stê-pha-nô hiến toàn thân cho Chúa. Cái chết là thể hiện ước nguyện dâng hiến. Stê-pha-nô hân hoan đón nhận cái chết như cơ hội tuyệt vời hoàn tất hành vi dâng hiến.
Ăn bánh bởi trời rồi, Stê-pha-nô dứt bỏ trần gian. Sống một đời sống khác, tâm hồn Stê-pha-nô hoàn toàn trong sạch. Nên ông đã nhìn thấy trời mở ra. Và nhìn thấy Chúa Giê-su đến đón ông. Để đi vào cuộc kết hợp trọn vẹn. Hoàn toàn nên một với Chúa Giê-su là tấm bánh đích thực. Để từ đây không bao giờ đói khát nữa. Để no thỏa trong hạnh phúc trọn vẹn.
SUY NIỆM 3: Bánh trường sinh
Trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, mức tiêu thụ đã gia tăng nhanh chóng và xâm nhập vào hầu hết mọi chiều kích của cuộc sống con người, đến độ chúng ta gọi nền văn minh hiện nay là văn minh tiêu thụ. Từ năm 1975 đến năm 2000, mức tiêu thụ của thế giới đã gia tăng gấp đôi. Tổng cộng mức tiêu thụ của thế giới trong hai mươi lăm năm qua đã lên đến hai mươi bốn ngàn tỉ Mỹ kim. Ðây là một hiện tượng tích cực hay tiêu cực.
Sự gia tăng của mức tiêu thụ có gia tăng với sự phát triển đích thực của con người không? Ðây là những câu hỏi cơ bản mà bản báo cáo cuối cùng của chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc đã nêu lên, để rồi cuối cùng đưa ra khẳng định như sau: "Sự tiêu thụ của cải và các dịch vụ là một sinh hoạt thường hằng trong đời sống mỗi ngày. Tuy nhiên, đó không phải là cứu cánh tối hậu của mỗi cá nhân. Hơn nữa, cho dẫu của cải và và các dịch vụ có thừa mứa và mức tiêu thụ có gia tăng theo một mức độ làm chóng mặt, trật tự xã hội vẫn không tốt đẹp hơn."
Theo bản báo cáo của chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc, hiện nay một gia đình trung lưu tại Phi Châu tiêu thụ hai mươi phần trăm ít hơn cách đây hai mươi lăm năm. Hai mươi phần trăm dân số thế giới vẫn còn đứng bên lề sự gia tăng mức tiêu thụ của thế giới. Trong bốn tỉ bốn những người đang sống trong các quốc gia đang phát triển, gần ba phần năm vẫn chưa có được những hạ tầng cơ sở về vệ sinh. Một phần ba thiếu nước uống. Một phần tư không có được cái bếp ăn chốn ở cho đàng hoàng. Một phần năm không biết thế nào là các phương tiện chăm sóc sức khỏe hiện đại. Một phần năm trẻ em không được cắp sách đến trường cho hết bậc tiểu học và một phần năm khác không có đủ chất đạm và một chế độ ăn uống đầy đủ. Trong số hai tỉ người thiếu máu trên khắp thế giới chỉ có năm mươi lăm triệu sống tại các nước tiên tiến. Chênh lệch giữa các nước giàu và các nước nghèo, chênh lệch ngay trong cùng một nước. Ðây là hiện tượng không thể chối cãi được trong nền văn minh tiêu thụ ngày nay. Khoảng cách giữa các nước giàu và những nước nghèo càng xa; khoảng cách giữa người giàu và người nghèo trong cùng một nước lại càng xa hơn. Nguyên nhân của sự chênh lệch ấy chắc chắn chỉ có thể là sự ích kỷ của con người mà thôi, càng có con người càng muốn có thêm và chỉ muốn chiếm giữ cho riêng mình. Sự giàu có về của cải vật chất do đó cũng đương nhiên làm cho con người được phong phú hơn. Ðây là chân lý mà Giáo Hội không ngừng nhắc nhở cho con cái mình.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hướng về cùng đích của cuộc sống chúng ta là chính Chúa. Chỉ có Chúa mới có thể thỏa mãn được khát vọng thâm sâu của con người. Ðám đông những người Do Thái được Chúa Giêsu cho ăn no nê ngày hôm trước, ngày hôm sau đã tìm đến Ngài. Chúa Giêsu biết rõ họ đi tìm Ngài không phải vì đã thấy được ý nghĩa của phép lạ hoặc lắng nghe lời giáo huấn của Ngài, mà chỉ vì của ăn nuôi thân xác. Ngài kêu gọi họ hãy tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu mà Ngài đã muốn thể hiện qua phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều. Quả thật, qua phép lạ ấy, Chúa Giêsu báo trước bánh trường sinh là Ngài. Ngài chính là tấm bánh được bẻ ra để trao ban cho mọi người, ai tin nhận Ngài, đón nhận sự sống của Ngài, người đó sẽ được trường sinh, người đó sẽ tham dự vào chính sự sống của Ngài, nghĩa là cũng sẽ trở thành tấm bánh được bẻ ra để san sẻ và trao ban cho người khác. Chỉ có một cuộc sống như thế mới thực sự đáng sống, vì nó mang lại ý nghĩa đích thực cho cuộc sống con người. Với năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã có thể nuôi nấng một đám đông trên năm ngàn người. Quả thật, Ngài chỉ cần nói một lời, múa cây đũa thần cũng đủ để nuôi sống cả nhân loại, nhưng Chúa Giêsu đã không đến như một phù thủy, Ngài cũng chẳng đến để mang lại bất cứ một giải pháp kinh tế nào, Ngài đến là để trở thành tấm bánh được bẻ ra và trao ban. Ai thực sự ăn tấm bánh ấy cũng có thể trở thành một tấm bánh được bẻ ra để trao ban cho người khác. Nhân loại thiếu ăn không phải vì thiếu cơm bánh mà chỉ vì thiếu lòng quảng đại khi những bàn tay được mở ra để trao ban và san sẻ với người khác mà thôi. Cái đói khủng khiếp của nhân loại hẳn không là đói cơm bánh mà chính là đói tình thương và lòng quảng đại của con người.
Ước gì được nuôi sống bằng tấm bánh bẻ ra là Chúa Giêsu, các tín hữu cũng trở thành tấm bánh được bẻ ra cho người khác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Cái nhìn thiển cận
Một gia đình ếch sống dưới một đáy giếng tăm tối, không thấy ánh sáng mặt trời cũng không biết những gì đang xẩy ra bên ngoài. Ngày nọ, có một con chim sơ ca bay xuống nói với dòng họ ếch về thế giới của mặt trời, của hoa cỏ, của tình yêu. Nghe thế, tộc trưởng ếch liền nới với đồng bào mình: “Các ngươi nghe chưa, thế giới của bạn sơn ca mô tả là một thứ thiên đàng không tưởng, nơi chỉ có những con ếch tốt, tức những con ếch chịu đau khổ dưới đáy giếng mới được lên tới mà thôi”. Tuy nghe những lời mỉa mai đó, một số ếch vẫn tin vào lời chim sơn ca. Một chú ếch sau khi nghiên cứu tình hình đã giải thích: “Thế giới mà bạn sơn ca loan báo không phải là thế giới khác đâu, đó chính là thế giới của chúng ta; thêm một chút ánh sáng, một chút gió mát, một chút thực phẩm, chúng ta có ngay thiên đàng dưới đáy giếng này”. Thế nhưng đa số đồng bào ếch đã thấy được sự phỉnh gạt của lời giải thích ấy, chúng vùng lên ra khỏi đáy giếng và thấy được thế giới có mặt trời, trăng sao, hoa cỏ, tình yêu.
Những người Do thái trong Tin mừng hôm nay là đại biểu của vô số những người không muốn nhìn lên khỏi đáy giếng tăm tối của họ. Dù chứng kiến nhiều phép lạ của Chúa, nhất là đã được Ngài cho ăn no thoả, nhưng cái nhìn của họ không vượt lên khỏi bao tử của họ. Khi Chúa Giêsu cho họ ăn bánh no nê và mời gọi họ đến thứ bánh không hư nát, họ đã chối từ Ngài; đôi mắt họ chỉ dán chặt vào thứ cơm bánh chóng qua; họ chỉ hướng đến cái trước mắt.
Đức tin là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa cho con người. Đức tin ấy chính là ánh sáng chiếu dọi vào đáy giếng tăm tối mà con người đã rơi xuống. Đức tin ấy là sức mạnh lôi kéo con người khỏi cái tăm tối ấy. Đức tin ấy cũng chính là cái nhìn về chân trời đầy ánh sáng Thiên Chúa ban cho con người.
Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta đức tin ấy. Cảm tạ Chúa đã cứu độ vào lôi kéo chúng ta ra khỏi vùng tăm tối của tội lỗi. Xin cho chúng ta được mãi là con người mới với Đức Kitô Phục sinh, được cùng tiến bước với Ngài để luôn sống như Ngài, nhìn đời bằng chính đôi mắt của Ngài và yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Hãy tin
Đức Giêsu bảo họ:
“Chính tôi là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề phải đói;
Ai tin vào tôi chẳng hề khát bao giờ!” (Ga. 6, 35)
“Hãy cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó”.
“Hãy cho chúng tôi uống mãi thứ nước đó”.
Lúc đó không còn phải vất vả lao khổ nữa! Người Ga-li-lê cũng như người Sa-ma-ri chỉ biết có xin cho, xin cho để Chúa làm những phép lạ cho mình.
Thứ tôn giáo dễ dãi, mê tín dị đoan, ỷ nại, vị kỷ. Thứ tôn giáo làm suy thoái con người cầu đảo, ném tất cả mọi tham vọng của mình vào Thiên Chúa. Họ lợi dụng Thiên Chúa. Họ quên rằng Thiên Chúa đặt đường lối cho họ đến gặp Ngài, đường lối của Thiên Chúa không thể theo đường lối của chúng ta. Ngài luôn luôn đòi ta phải ăn năn sám hối trở về với Ngài để “ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Cũng không phải trên trời phải như dưới đất.
Người Do thái cũng không lầm khi tin Đức Giêsu: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa?”. Và Đức Giêsu cũng chẳng lầm khi trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn là hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến”. Làm là gì? làm ở đây là thực hiện đức tin, là việc nội tâm, là tự tạo mình để tỏ lòng tin, tự đón nhận tận đáy lòng thuận theo chương trình của Thiên Chúa. Thuận theo, vâng phục là một ơn phải cầu xin cho mình chỉ thực hiện trong chân lý, chúng ta phải chứng tỏ chúng ta chân thật trước tôn nhan Chúa, phải vượt qua những ước muốn hời hợt phàm trần bên ngoài như lối cầu xin “xin cho chúng tôi được bánh đó mãi mãi”. Để tiến tới lối cầu xin những điều cần thiết sâu thẳm: xin ánh sáng chân lý chiếu soi, xin được can đảm hy sinh, xin được tận tâm hiến thân. Tận đáy nền của việc cầu nguyện là gắn bó, cam kết, hiệp nhất.
Như thế toàn diện đời sống chúng ta mới có thể đến với Đức Kitô, sống với Người làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa.
Cầu nguyện không phải là trốn trách nhiệm, nhưng xin Chúa giúp mình làm tròn trách nhiệm. Cầu xin hòa bình không phải xin phép lạ, chính là xin để mọi người sáng suốt, can đảm và khả năng xây dựng hòa bình.
Man-na là bằng chứng Thiên Chúa ở với Mô-sê. Bánh hóa nhiều có nghĩa là chính Đức Giêsu là bánh từ Chúa Cha ban cho thế gian được sống vô cùng hơn của ăn vật chất, vì nhờ đức tin vào Người, chúng ta được tham dự vào chương trình Thiên Chúa. Thay vì rước Thánh Thể như một bánh ảo thuật, tín hữu phải nhìn thấy Đức Giêsu đến ban tặng tình yêu cho ta được làm bạn với Người để giải khát cơn đói chân lý, đói sự sống của ta, cho ta được hiệp thông với Thiên Chúa.
SUY NIỆM 6: CẦN LỰA CHỌN CÁCH KHÔN NGOAN (Ga 6,30-35)
Trong nền văn chương Việt Nam, nếu đã từng đi học, hẳn không một ai mà không biết truyện “thằng Bờm”.
Truyện kể rằng: thằng Bờm có cái quạt mo. Khi được một người phú hộ đề nghị đổi trâu, bò, bè gỗ lim, ao thả cá mè, đôi chim đồi mồi, để ông lấy cái quạt mo của thằng Bờm, nhưng Bờm ta vẫn không chịu. Thế nhưng khi người phú hộ đề nghị đổi bằng một nắm xôi, thì Bờm ta lại đồng ý!
Khi thằng Bờm đã đồng ý đổi nắm xôi, phải chăng cho thấy một lối nhận thức hạn hẹp trong sự thực dụng của Bờm. Bờm ta chỉ đủ khả năng để biết no hay đói mà thôi, chứ không hề có những suy tính xa và sâu hơn!
Dân chúng thời Đức Giêsu cũng vậy, họ có cái nhìn và lối sống cũng như lựa chọn không khác gì thằng Bờm trong câu chuyện trên! Vì thế, mới nghe Đức Giêsu nói về một thứ bánh mà khi ăn vào không hề phải đói, thế là họ nhao nhao lên xin Đức Giêsu cách khẩn thiết: “Xin Thầy cho chúng tôi thứ bánh đó luôn mãi”.
Qua lời van xin của họ, chúng ta thấy rõ cái bụng của họ đã lớn hơn cả lý trí, nên nó cũng chi phối luôn cả lựa chọn. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trách họ: “Các người tìm Ta không phải vì các người đã thấy dấu lạ, nhưng vì các người đã được ăn bánh no nê”.
Tiếp theo dòng chảy đó, Đức Giêsu đã mạc khải để giúp họ trực tiếp đi vào thẳng nội dung, trọng tâm của vấn đề, đó là: "Chính tôi là Bánh Hằng Sống. Ai đến với Tôi, không hề phải đói; Ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ".
Trong đời sống đạo của chúng ta hôm nay, nhiều khi tin Chúa vì có lợi chứ không phải lòng mến. Chúng ta vẫn cầu nguyện, vẫn đi lễ, đọc kinh thường xuyên, nhưng tin và đón nhận thánh ý Chúa, nhất là khi thử thách, đau khổ và thất bại trong cuộc đời thì lại là chuyện rất khó chấp nhận! Những lúc như thế, phải chăng chúng ta cũng thực dụng không kém những người Dothái và đôi khi chẳng khác gì thằng Bờm trong câu chuyện trên!
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng tin vững mạnh, để trong cuộc sống, chúng con biết tìm Nước Trời trước hết, còn mọi chuyện khác, Chúa sẽ ban cho sau. Xin cho chúng con biết đặt ra cho mình những bậc thang giá trị dưới con mắt đức tin, để chúng con không như những người Dothái khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Lương thực trường sinh
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Năm 1923, tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ đã gặp gỡ nhau trong một khách sạn tại miền Viễn Tây. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh và làm giàu, hình như muốn khẳng định câu châm ngôn thường tình của con người ở khắp mọi nơi là: “Có tiền mua tiên cũng được”.
Thế nhưng, 25 năm sau những gì đã xảy đến cho tám nhà kinh doanh giàu có này?.
Charles Schwab, Giám đốc của một trong những công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong năm cuối cùng, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay mượn của người khác. Samuel Insull, Giám đốc của một công ty chuyên sản xuất các vật dụng cần thiết trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương không một đồng xu dính túi. Howard Hopson, Giám đốc của một hãng gas lớn trở nên điên loạn. Arthur Cutten, Chuyên xuất nhập cảng lúa mì, cũng chết ở nước ngoài không một đồng xu dính túi. Richard Whitney, Giám đốc một phòng hối đoái lớn tại New York, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên. Albert Pall, một nhân vật cấp cao trong chính phủ, vừa ra tù vì dính líu vào một vụ tham nhũng. Người cuối cùng trong danh sách tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ khoảng thập niên 20 cũng tự kết liễu cuộc sống của mình… (Theo đài Veritas)
Thật thế, con người chỉ lo tìm kiếm tiền bạc vật chất, chính nó lôi kéo dẫn người tìm kiếm nó vào con đường “đầy sương mù”, và dẫn tới mất phương hướng khi vào đường cụt của cuộc đời.
Suy niệm
Người Do Thái tìm Đức Kitô chỉ lo bảo đảm cho họ được của ăn vật chất luôn mãi…
Nhưng Chúa mời gọi họ: thay vì tìm kiếm của ăn vật chất mà họ đang mong đợi như của ăn manna mà tổ tiên họ đã ăn trong sa mạc xưa, nhưng họ vẫn phải chết, của ăn vật chất là thứ “lương thực mau hư nát” là những cái chỉ đem lại những hạnh phúc thoáng qua, hãy tìm “lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”, lương thực trường sinh ấy chính là Ngài. Cho nên, chúng ta tìm đến, tin vào Ngài và được ăn thịt và uống máu của Ngài để có sự sống đời đời: “Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta sẽ không hề đói; ai tin vào Ta sẽ không hề khát” (Ga 6,35).
Có những người vẫn xác tín rằng mình tin vào Chúa, theo Chúa nhưng chỉ dựa trên những phép lạ, như dân Do Thái xưa đòi Chúa Giêsu những phép lạ để tin. Họ sống “duy phép lạ” trong đức tin, đó chính là tư tưởng tin sai lạc mà chính Đức Kitô đã chỉ rõ ràng (x. Mt 12,38-39; 16,1-4).
Bằng diễn từ Thánh Thể, Chúa Giêsu chuẩn bị cho việc hiến tế mình và máu chính mình, Ngài đã giảng dạy: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Tôi là nước trường sinh, ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa, nước Tôi sẽ cho và nơi người ấy sẽ trở thành một nguồn nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,51; 4,10-13).
Sau khi đã chuẩn bị bằng phép lạ bánh hóa nhiều, bằng diễn từ mạc khải về Thánh Thể tại Capharnaum. Trong bữa tiệc ly, trước khi ra đi cứu độ trên thập giá, phục sinh và về cùng Cha, Chúa Giêsu đã lập bí tích Thánh Thể để ở lại chính thức với nhân lọai: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy… Ðây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người” (Mc 14, 22-24). Dân Chúa sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa qua tình yêu mà Ngài dâng hiến cho con người chính mình và máu Ngài, vì thế bí tích Thánh Thể còn gọi là bí tích Tình Yêu. Thánh Thể là sự dâng hiến, quà tặng như Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em” (1Cr 11,24).
Mỗi ngày chúng ta tiếp lời mời gọi của Chúa Kitô tìm đến Thánh Thể, bánh trường sinh và nước hằng sống, chúng ta nghe lời của ngôn sứ Isaia bằng hình ảnh: “Ðến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây! Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng; đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào” (Is 55,1).
Ý lực sống: “Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi,
cho biết Chúa thiện hảo nhường bao” (Tv 34,9).
SUY NIỆM 8: Phải tin vào Đức Kitô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan ghi lại lời dạy của Đức Giêsu về Bánh Hằng Sống tức là thứ “của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”. Thứ ăn này vượt trội hơn Manna ngày xưa. Nghe thế, dân chúng tưởng đó là một thứ thức ăn – cũng vẫn là vật chất – nhưng ăn vào thì sẽ không đói nữa, nên họ xin: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi”.
2. Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng rất hồ hởi và hy vọng. Hôm sau, họ đến với Đức Giêsu rất đông, hy vọng kiếm được của ăn ít ra cũng dồi dào như manna, xưa đã nuôi sống cha ông họ trong sa mạc suốt thời gian đi về đất hứa. Nhưng Đức Giêsu muốn nâng cao họ lên một bước, Ngài mời họ trước hết hãy tìm kiếm những lương thực không hư nát, là thứ tồn tại cho đến cuộc sống vĩnh hằng: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,26). Họ tưởng lương thực mà Đức Giêsu nói đây là manna ngày xưa cha ông họ đã ăn trong sa mạc. Nhưng Đức Giêsu bác bỏ quan niệm của họ và nói rõ ràng hơn: “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ” (Ga 6,35).
3. Toàn chương 6 của Tin Mừng Gioan cho chúng ta thấy Đức Giêsu cống hiến Mình Máu Thánh Ngài làm của nuôi sống con người khỏi đói khát tinh thần, và để chuẩn bị con người lãnh nhận điều này, Đức Giêsu đã thực hiện một dấu chỉ lạ lùng khi hóa bánh ra nhiều cho 5000 người ăn no nê. Nhưng dấu chỉ này lại bị dân chúng hiểu lầm: họ muốn đến với Chúa vì lợi lộc vật chất, chứ không vì tin nhận Ngài là Đấng Cứu Thế. Trước lời mời gọi của Chúa: hãy nâng tâm hồn lên, hãy tin vào Đấng được Chúa Cha sai đến, hãy ăn thịt và uống máu Ngài để được sống đời đời, thay vì khiêm tốn vâng phục, dân chúng lại tỏ ra ngoan cố thách thức hơn nữa, như Tin Mừng hôm nay thuật lại. Họ so sánh dấu lạ Chúa vừa thực hiện tức là phép lạ hóa bánh ra nhiều, với dấu lạ của Maisen mà hằng năm họ vẫn sốt sắng tưởng niệm; họ muốn Chúa thực hiện một dấu lạ cao cả hơn dấu lạ thời Maisen.
4. Manna là một loại bánh Thiên Chúa đã ban từ trời xuống làm lương thực cho dân Do thái lúc họ lưu lạc suốt 40 năm trường trong sa mạc, cuộc sống đầy nguy hiểm, bấp bênh, thiếu thốn nước uống, cơm bánh. Cho nên, nhiều lần dân chúng đã nghi ngờ, kêu ca, than trách ông Maisen và cả Thiên Chúa nữa. Chúa thử thách họ và phạt họ bằng nhiêu tai ương, nhưng đồng thời Ngài vẫn luôn lo liệu lương thực cho họ được đầy đủ được một thứ bánh là manna, để biểu lộ sự hiện diện và sự quan phòng của Ngài, là mỗi buổi sáng, Thiên Chúa làm cho lớp sương mù bay phủ trên nơi người Do thái đóng trại, và lúc sương tan đi, rơi xuống những hạt nho nhỏ mầu trắng, có mùi vị mật ong, họ chỉ việc ra lượm mà ăn, họ không hiểu cái gì đó nên hỏi nhau “man-hu”: cái gì vậy? Rồi không hiểu sao họ gọi trệch ra là man-na, và trở thành tên của lương thực này.
5. Tóm lại, sự sống thể lý không phải là sự sống tự thân mà là sự sống lệ thuộc, nghĩa là nó cần đến lương thực vật chất nạp vào để duy trì, nhưng vì nó hữu hạn, nên sẽ đến lúc sự sống đó không thể thâu nạp được lương thực nữa, nó sẽ èo uột yếu ớt và chết.
Còn sự sống thần linh là sự sống siêu nhiên Chúa ban, tuy không chết, nhưng rất cần được nuôi dưỡng bằng bánh Sự Sống là Thánh Thể, mà Thánh Thể chính là sự sống tự thân nơi Đức Kitô thông truyền cho linh hồn chúng ta. Nhờ rước lấy Chúa Kitô mà Kitô hữu được mạnh mẽ và tăng trưởng, không sợ tội lỗi hay ma quỉ có thể xâm nhập và làm tổn hại linh hồn mình (Hiền Lâm).
6. Truyện: Hạnh phúc mong manh.
Năm 1923, tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ đã gặp gỡ nhau trong một khách sạn tại miền Viễn Tây. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh và làm giầu, hình như muốn khẳng định câu châm ngôn thường tình của con người ở khắp mọi nơi là: “Có tiên mua tiên cũng được”.
Thế nhưng 25 năm sau, những gì đã xẩy đến cho tám nhà kinh doanh giầu có này?
Charles Schwah, giám đốc của một trong những công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong năm cuối cùng, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay mượn của người khác.
Samuel Insull, giám đốc của một công ty chuyên sản xuất các vật dụng cần thiết trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương không một đồng xu dính túi.
Howard Hopson, giám đốc của một hãng ga lớn trở nên điên loạn.
Arthur Cutten, chuyên xuất nhập cảng lúa mì, cũng chết ở nước ngoài không một đồng xu dính túi.
Richard Whitney, giám đốc một phòng hối đoái lớn tại New York, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên.
Albert Pall, một nhân vật cấp cao trong chính phủ, vừa ra tù vì dính líu vào một vụ tham nhũng.
Người cuối cùng trong danh sách tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ khoảng thập niên 20 cũng tự kết liễu cuộc sống của mình... (Theo đài Veritas).
Thật thế, con người chỉ lo tìm kiếm tiền bạc vật chất, chính nó lôi kéo dẫn người tìm kiếm nó vào con đường “đầy sương mù”, và dẫn tới mất phương hướng khi vào đường cụt của cuộc đời.
19/04 Tin vào Đấng Thiên Sai
- Viết bởi Ga 6, 22-29
Tin vào Đấng Thiên Sai.
Thứ Hai tuần 3 Phục Sinh.
"Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời".
Lời Chúa: Ga 6, 22-29
Hôm sau, đám người còn ở lại bên kia biển thấy rằng không có thuyền nào khác, duy chỉ có một chiếc, mà Chúa Giêsu không lên thuyền đó với các môn đệ, chỉ có các môn đệ ra đi mà thôi. Nhưng có nhiều thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh. Khi đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền kia và đến Capharnaum tìm Chúa Giêsu.
Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu". Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Lương thực thường tồn
Suy niệm:
Xóa đói giảm nghèo, giảm số trẻ em suy dinh dưỡng,
nâng chiều cao của giới trẻ Việt Nam lên bằng các nước trong vùng,
đó là mối quan tâm của những người mang trách nhiệm,
vì sức khỏe thân xác cần thiết cho sự phát triển toàn diện con người.
Làm sao để con người lớn lên cân đối về mọi mặt,
đó là mục tiêu tối hậu của mọi công tác giáo dục.
Đức Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi đám đông.
Ngài quan tâm đến nhu cầu của thân xác họ.
Nhưng Ngài cũng biết rằng không thể làm phép lạ như thế mãi.
Hơn nữa, phép lạ này chỉ giúp họ khỏi đói trong vài giờ,
và đây là cái đói của thân xác.
Phép lạ này dù lớn, nhưng chỉ nuôi được một đám đông vài ngàn người,
vẫn còn bao người trên thế giới cần được nuôi ăn.
Đức Giêsu mong nuôi được nhiều người hơn, nuôi được mọi người.
Không phải chỉ nuôi về thân xác, mà nhất là về tinh thần.
Không phải chỉ nuôi bằng thức ăn trần thế là bánh và cá,
mà nuôi bằng giáo huấn của mình, bằng chính con người mình.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, khi đám đông định tôn Đức Giêsu lên làm vua,
chắc họ đã nghĩ đến sự bảo đảm về mặt vật chất mà Ngài mang lại.
Lúc nào cũng có bánh ăn no nê,
đó là ước mơ của nhiều người nghèo thời ấy.
Nhưng Đức Giêsu đã từ chối đứng lên khởi nghĩa giành độc lập.
Ngài không phải là một Mêsia làm chính trị.
Bánh và cá mà Ngài giúp họ tạm thời vượt qua cơn đói
chỉ là thứ lương thực mau hư nát dành cho xác thân (c. 27).
Lương thực đó là dấu chỉ cho một thứ lương thực khác Ngài sắp ban.
Đó là lương thực thường tồn đem lại sự sống vĩnh cửu (c. 27).
Hẳn nhiên, lương thực sau này quan trọng hơn nhiều.
Theo Mẹ Têrêsa Calcutta, người nghèo hôm nay cần cơm bánh,
nhưng còn cần những thức ăn tinh thần khác nữa.
Cái đói của thân xác không cồn cào bằng cái đói tinh thần.
Con người đói công bằng và hạnh phúc, đói yêu thương và kính trọng.
Con người khát niềm vui và bình an, cảm thông và sự thật.
Trong nơi sâu thẳm, con người đói khát Ai đó để mình yêu mến tôn thờ.
Đức Giêsu mời ta hãy tin vào Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến (c.29).
Hãy đến với Giêsu để bắt đầu được nếm thử tấm bánh của Ngài,
vì chính Ngài là Tình yêu, Sự thật và Bình an.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có một ngọn đèn dầu gần Nhà Tạm,
ngọn đèn đỏ mời con dừng bước chân,
và nhắc con về sự hiện diện của Chúa.
Con mong sự hiện diện ấy lan tỏa khắp nơi,
để đâu đâu cũng thấy những ngọn đèn đỏ.
Nơi xóm nghèo mùa mưa nhớp nháp,
nơi lớp học tình thương lúc chiều tà,
nơi những trung tâm phục hồi nhân phẩm,
nơi bảo sanh viện nâng niu sự sống của trẻ thơ,
nơi khách sạn năm sao, noi quán bia đầu ngõ,
nơi các tiệm cho mướn băng video,
noi tình yêu trong ngần của đôi bạn trẻ...
Nhưng lạy Chúa, trước hết,
xin cho đời con là một ngọn đèn,
xin cho chúng con là những ngọn đèn màu đỏ,
mời người ta dừng lại, trầm tư,
và gặp được Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: GIÊ-SU LÀ BÁNH
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cơm áo gạo tiền luôn là mối lo hàng đầu của con người. Người ta bỏ phiếu cho những lãnh đạo đem lại cơm no áo ấm. Sau phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều dân chúng nô nức đi tìm để tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Hi vọng thời cường thịnh của Ít-ra-en bắt đầu.
Nhưng Chúa hướng tâm trí họ lên cao hơn. Đừng tìm của ăn chóng hư nát và chỉ đem lại đời sống mau tàn. Hãy tìm của ăn vĩnh cửu đem lại sự sống đời đời. Chúa mặc khải cho biết tấm bánh đem lại sự sống đời đời chính là Người, là Giê-su. “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51). Và cách làm việc để tìm được tấm bánh ấy là tin vào Người, tin vào Giê-su.
Đức tin nâng ta lên sự sống mới. Ở sự sống mới người ta không còn sống bằng cơm bánh, nhưng bằng Lời Chúa và bằng Thánh Thể: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4, 4).
Đó là sự sống trong Thánh Thần: “Ai tin vào Tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận” (Ga 7, 38-39).
Sống theo Thần Khí không còn sống theo xác thịt. Không còn theo thói đời. Không còn dính bén những giá trị trần gian. Như Stê-pha-nô người tràn đầy Thánh Thần. Nên ông khôn ngoan không ai có thể bài bác được. Nên “mặt ông giống như mặt thiên sứ”. Nên ông sẵn sàng hiến mạng sống cho Chúa. Và khi chết ông còn xin Chúa tha thứ cho những kẻ giết mình.
Chúa đã phục sinh. Tôi cũng phải sống lại với Chúa. Chúa đã lên một cấp độ sự sống mới, tràn đầy vinh hiển. Tôi cũng phải theo Chúa sống một đời sống mới. Tin vào Chúa Giê-su. Nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa và Thánh Thể. Sống theo Thần Khí. Đó là khởi đầu sự sống đời đời.
SUY NIỆM 3: Hoán cải nội tâm
Ở thời đại nào, đám đông cũng có thể là một sức mạnh mù quáng, hành động thiếu suy nghĩ và bị lôi cuốn bởi những dòng chảy của sự dữ. Trước khi bị các thượng tế và tổng trấn Philatô kết án, Chúa Giêsu đã bị chính đám đông kết án. Cái đám đông đã từng tung hô Ngài trong ngày Ngài khải hoàn tiến vào Giêrusalem, cũng cái đám đông ấy gào thét, đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Bi kịch ấy dường như được thánh Gioan báo trước qua đoạn Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe và suy niệm hôm nay. Ðám đông được Chúa Giêsu cho ăn no nê ngày hôm trước, ngày hôm sau vẫn còn đứng bên kia bờ Biển hồ. Chúa Giêsu đã đọc được động lực thúc đẩy họ tìm kiếm Ngài, họ đã đi tìm kiếm Ngài không phải vì Ngài là đối tượng của khát vọng tìm kiếm của họ, mà chỉ vì đã được Ngài cho ăn no nê; họ đi tìm kiếm không phải vì đã nhận ra ý nghĩa của phép lạ nhân bánh và cá ra nhiều; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì chính Ngài đã mang lại ý nghĩa và giá trị cho cuộc sống của họ; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì giáo huấn của Ngài; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì những giá trị cao quí của cuộc sống mà Ngài đến để bày tỏ. Cái đám đông ấy bị lôi kéo bởi những cái hời hợt, nhất thời và chóng qua là cơm bánh. Ðây chính là bi kịch đã xảy ra cho Chúa Giêsu. Ðám đông đã khước từ Ngài và treo Ngài lên thập giá chỉ vì họ đã không hành động theo những xác tín thâm sâu thể hiện trên đạo lý, trên tiếng gọi của lương tâm, mà chỉ sống theo cảm tính và những xu thế mù quáng. Ðây cũng chính là nguy cơ mà người tín hữu Kitô có thể rơi vào.
Dĩ nhiên, nói đến đạo là nói đến đám đông. Chúng ta lãnh nhận đức tin trong một cộng đồng. Chúng ta sống và thể hiện đức tin trong một cộng đồng. Chúng ta cần có một đám đông nào đó để nâng đỡ niềm tin của chúng ta. Tuy nhiên, cái đám đông ấy cũng dễ lôi kéo và biến việc thể hiện đức tin của chúng ta thành một lối giữ đạo hình thức và máy móc. Ðạo dễ trở thành một chuỗi biểu dương bên ngoài hơn là một cuộc gặp gỡ thâm sâu giữa tha nhân và Chúa. Ðạo sẽ chỉ còn là những bó buộc và nghĩa vụ mà đám đông thôi thúc để tuân giữ hơn là được thực thi vì xác tín và lòng mến.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh mà chúng ta đón nhận mỗi ngày trong Thánh Thể và gặp gỡ thường xuyên qua tha nhân trở thành đối tượng của sự khao khát và tìm kiếm không ngơi nghỉ của chúng ta, để trong tất cả mọi sự, chúng ta có thể thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Tại sao theo Đức Giêsu
Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm kiếm Người. Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” Đức Giêsu đáp:
“Thật, tôi bảo thật các ông,
các ông đi tìm tôi
không phải vì các ông đã thấy dấu lạ,
nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.
Các ông hãy ra công làm việc
Không phải vì của ăn hay hư nát,
Nhưng để có lương thực trường tồn
Đem lại phúc trường sinh,
Là thứ lương thực
Con Người sẽ ban cho các ông
Bởi vì chính Con Người là Đấng
Chính Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận.” (Ga. 6, 24-27)
Bài giảng về bánh hằng sống trong hội đường Ca-phác-na-um sau ngày phép lạ bánh hóa nhiều có lẽ là một tổng hợp các bài giảng ở nhiều nơi. Dân chúng ngạc nhiên khi thấy các môn đệ và Đức Giêsu ở Ca-phác-na-um vì họ không thấy Người xuống thuyền đi sang Ca-phác-na-um với các môn đệ, mà bây giờ lại thấy Người ở đây. Còn “Đức Giêsu khi thấy họ sắp bắt mình đem đi tôn làm vua, thì Người lánh mặt, đi lên núi một mình”, mãi tới đêm, biển động vì gió thổi mạnh, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển hồ đến gần thuyền … Ngay lúc đó thuyền đã tới bờ của miền Ca-phác-na-um.
Như thói quen, thánh Gio-an sắp nối kết sự kiện phép lạ cụ thể này với ý nghĩa thần học: Họ tìm … họ ngạc nhiên vì không biết Người đến đây bằng cách nào? Người đã đến đây bằng cách lạ lùng là đi trên mặt biển giữa đêm khuya gió to sóng lớn. Cũng thế, Đức Giêsu đã đến với họ không phải từ làng Na-gia-rét, như người ta biết, nhưng là từ trời mà người ta không biết, cũng như Người từ bờ hồ phía đông nơi bánh hóa nhiều, đi qua biển tới bờ hồ phía tây nơi miền Ca-phác-na-um.
Họ cố gắng tìm Đức Giêsu là điều đáng ca ngợi, còn đáng ca ngợi hơn nữa khi họ tìm Người trong đức tin, và liên kết với Người không vì của nuôi xác nhưng vì của ăn đời đời. Tuy nhiên, dân chúng vẫn tiếp tục đòi của vật chất, họ chú trọng đến man-na nuôi sống cha ông họ hằng ngày trong sa-mạc và so sánh với phép lạ hóa bánh ra nhiều để cầu mong Đức Giêsu cho họ được ăn như vậy. Còn Đức Giêsu, Người nhấn mạnh đến sự đói khát tinh thần, đến của ăn hằng sống cho linh hồn. Đó mới chính là sứ mệnh quan trọng của Người. Người đã hết sức nhẫn nại như đã nhẫn nại giải thích cho ông Ni-cô-đê-mô về sự tái sinh, cho bà ở Sa-ma-ri về nước trường sinh. Lúc này, Người cũng kiên nhẫn giải thích về bánh man-na dựa vào thánh vịnh 78, 24 để dẫn họ tới bánh ban sự sống đời đời. Bài diễn thuyết này có thể hiểu như một giảng đạo có ba phần: Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa (câu 32-40), bánh bởi trời: Đức Giêsu đến từ trời (câu 41-50), để làm của ăn: như bánh ăn (câu 52-58).
L.P
SUY NIỆM 5: Sự lao công đích thực
Người Ấn Độ có kể câu chuyện ngụ ngôn sau đây: Một gia đình khỉ nọ sống giữa một khu rừng rậm. Mùa đông đến, cả gia đình khỉ rét run vì lạnh. Một đêm nọ nhìn từ xa thấy một con đom đóm đang bay lượn, chúng tưởng là một cục than hồng. Thế là nhà khỉ bắt lấy con đom đóm mang về, cẩn thận để củi và rơm vào rồi ngồi quanh mà sưởi. Có con còn kề miệng sát vào con đom đóm để thổi với hy vọng lửa bốc cháy. Một con chim bay qua tình cờ thấy cảnh tượng bèn dừng lại nói với bầy khỉ: “Các bạn ơi, đây không phải là lửa mà chỉ là một con đom đóm”. Nhưng bầy khỉ không đếm xỉa gì đến nhận xét của con chim, chúng lại chúi đầu vào con đom đóm mà thổi. Một lần nữa con chim trở lại bình tĩnh nói đó chỉ là một con đom đóm. Tức giận vì lời dạy khôn của con chim, bầy khỉ túm lấy nó và giết đi. Rồi chúng tiếp tục thổi hơi vào con đom đóm. Sáng hôm sau, người ta thấy cả gia đình khỉ chết cóng vì lạnh bên cạnh con đom đóm.
Khao khát hạnh phúc đích thực, nhưng lại chạy theo ảo ảnh; muốn sống sung mãn, nhưng lại chạy theo những phù phiếm chóng qua, có thể đó là bài học mà câu chuyện ngụ ngôn trên đây muốn ngỏ với chúng ta.
Tin mừng hôm nay dường như cũng muốn nhắc nhở chúng ta về sự lạc hướng ấy. Đám đông tụ tập bên Chúa Giêsu để được ăn uống thoả thích là hình ảnh của một nhân loại đang lạc hướng. Đám đông những người Do thái trong Tin mừng hôm nay là những người đã từng chứng kiến phép lạ của Chúa Giêsu, thế nhưng họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì đã tin nhận Ngài hoặc để lắng nghe giáo huấn của Ngài, mà chỉ mong được Ngài cho ăn uống no thoả.
Chúa Giêsu không đến thế gian để mang lại một cây đũa thần cho những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của con người. Ngài đến để cho con người được sống và hạnh phúc thực sự. Sự sống và hạnh phúc ấy chính là nhận biết và yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Chỉ có Thiên Chúa mới thoả mãn mọi khát vọng trong tâm hồn con người, chỉ có Ngài mới đem lại cho con người hạnh phúc trọn hảo.
Mùa Phục Sinh, Giáo Hội luôn mời gọi chúng ta ý thức về sự sống thần linh đang châu lưu trong tâm hồn người tín hữu. Sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian đó là chỗ đứng của người tín hữu trong trần thế này. Mưu cầu cuộc sống tạm bợ nhưng người tín hữu luôn hướng về trời cao; bôn ba về của cải vật chất, nhưng không quên gắn bó với những giá trị Nước Trời như công lý, hoà bình, tình huynh đệ, lòng bác ái. Trong mọi sự, họ phải luôn nhớ lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến những sự trên trời”. Một cách cụ thể, người tín hữu tìm kiếm và xây dựng Nước Trời ngay giữa những thực tại trần thế, bằng cách không bán rẻ lương tâm vì một chút lợi lộc chóng qua, không chối bỏ hình anh cao quí của Thiên Chúa nơi bản thân, không cha đạp nhân phẩm của người anh em. Trong mọi sự họ tìm kiếm Chúa như gia nghiệp duy nhất của cuộc đời.
Nguyện xin Đức Kitô Phục Sinh hướng dẫn và cũng cố chúng ta trong niềm tin ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: TIN CHÚA VÌ MỤC ĐÍCH GÌ? (Ga 6, 22-29)
Danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, nhất là sau cuộc hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng. Tuy nhiên, vì tình thương, nên Ngài đã làm phép lạ này chứ không phải vì muốn nổi danh! Nhưng đối với người Dothái, họ có lối suy nghĩ khác! Thay vì họ tạ ơn Chúa vì lòng thương xót của Ngài, thì ngược lại, họ chỉ nghĩ đến cái bụng và khao khát được thỏa cơm đói. Vì thế, dân chúng nghĩ rằng: có Đức Giêsu hiện diện ở giữa họ thì có lẽ sẽ không phải đói khát và có khi chẳng cần làm lụng vất vả cũng có ăn! Thế nên, họ tìm cách để tôn vinh Ngài lên làm vua. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lánh đi để sang bờ bên kia trước họ.
Vì biết được lộ trình của Đức Giêsu, nên họ đã tìm mọi cách để gặp Đức Giêsu. Khi gặp Ngài, họ cất tiếng hỏi: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?", Đức Giêsu thừa biết mục đích của họ, vì thế Ngài nói ngay: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26 ). Khi nói như thế, Đức Giêsu mời gọi họ hướng tới một cuộc "vượt qua" khác, sâu xa hơn, đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh (x. Ga 6, 27 ).
Ngày nay, trong đời sống đạo, nhiều người vẫn còn thói quen tin Chúa như những người Dothái. Tức là tin Chúa khi vui, lúc thành công, nhất là tin khi được lợi. Vì thế, chúng ta vẫn thấy có chuyện như: thích thì đi lễ, đi chầu, đọc kinh... không thích thì thôi!
Trong tâm tình cầu nguyện, mấy ai nghĩ đến chuyện chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa vì những điều kỳ diệu cũng như ơn lành Ngài đã làm cho! Hoặc liệu có ai xin Chúa cho được đạo đức, thánh thiện, sám hối, khiêm nhường, nhất là yêu mến Lời Chúa... Nhưng mỗi khi đến nhà thờ là lâm râm xin cho được cái này, được cái kia, nhất là xin cho được ăn ra làm nên... Mỗi khi như thế, chúng ta cũng không hơn gì người Dothái muốn tôn Chúa làm vua và đi tìm Ngài chỉ vì cái bụng chứ không phải vì lòng mến!
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết hướng về Chúa như là nguồn cội của hạnh phúc, và xin ban cho chúng con làm mọi cách vì hạnh phúc mai hậu trong Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Tìm kiếm – tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vua Louis XIV, vị vua được gọi là Vua Mặt Trời (Le Roi Soleil) và cũng được biết với danh hiệu Louis Đại đế (Louis le Grand hay Le Grand Monarque). Triều đại của ông kéo dài 72 năm, dài nhất trong lịch sử nước Pháp. Vua Louis thường có thói quen dâng thánh lễ tại nhà thờ Versailles. Dân chúng cũng đến đó tham dự thánh lễ rất đông.
Một Chúa Nhật kia, vua cũng đi dâng thánh lễ, nhưng hôm nay rất lạ vì có rất ít người tham dự. Nhà vua ngạc nhiên và hỏi Đức Giám mục chủ tế thánh lễ, lý do tại sao mà giáo dân hôm nay tham dự thánh lễ ít thế. Đức Giám mục trả lời là vì chính ngài đã tung tin ra: Hôm nay nhà vua không đi dự thánh lễ được. Bây giờ nhà vua mới hiểu ra được là người ta đi tham dự thánh lễ vì ai: Nhà vua hay Thiên Chúa…
Tìm đến với Chúa ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa, thế nhưng lại chỉ mong được gặp vua, ngắm vua…
Suy niệm
Dân chúng Do Thái, sau khi được Chúa dưỡng nuôi bằng phép lạ bánh hóa nhiều, họ đi tìm để gặp Chúa, tôn vinh Ngài lên làm vua. Tôn vinh Ngài không phải vì tin nhưng vì được nuôi dưỡng, được no bụng: “Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vị của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con Người sẽ ban cho” (X.Léon Dufour “Lecture de l'evangile de Gioan”). Cho nên mục đích của việc dân chúng tìm Đức Kitô chỉ lo bảo đảm cho họ được của ăn vật chất luôn mãi…
Chúa Giêsu đã nhìn thấy mục đích việc tìm đến với Ngài của họ, Ngài đã đưa ra ánh sáng tâm tư mờ ảo đầy bụi trần của họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê” (Ga 6,26).
Qua lời mời gọi dân Do Thái, Đức Kitô mời gọi cả nhân loại tìm đến và tin vào Ngài, tức là tin vào Đấng Thiên Chúa Cha sai đến. Chính việc tìm kiếm này sẽ đem lại cho con người sự sống đời đời.
Tìm đến bên Ngài, tin vào Ngài, Chúa không bảo người tin là biếng nhác làm việc, là ngồi chờ sung rụng, là chi trông chờ phép lạ... Ngài mời gọi người tin, làm việc không ngừng, làm việc hết mình để có thể tìm kiếm sự bền vững trong đời: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27).
Thật thế, khi tìm Chúa và tin theo Lời Ngài là dẫn bước đi tìm nước Trời, không chỉ được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau mà còn được lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa cưu mang ngay ở đời này như Ngài đã nói: “Các ngươi hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời, rồi mọi sự đó sẽ được cho thêm” (Lc 12,31).
Tìm Chúa, theo Chúa và tin vào Ngài, theo lời dạy của thánh Phaolô: “Chúng ta hãy sống theo đức tin chân chính chứ không theo những tư tưởng sai lạc” (x. Cl 2,6-8), những tư tưởng mang những tâm tư bụi trần với những lo toan của ăn, vật chất hay niềm tin bị điều kiện hoá bởi phép lạ. Thật thế, Chúa chúng ta không phải là “cái bụng” hay “máy phép lạ” như dân chúng Do Thái đã tìm kiếm Chúa, Chúa chúng ta “là đường là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).
Ý lực sống: “Người nhận biết Thánh Danh, sẽ một niềm tin cậy,
vì lạy Chúa, Chúa chẳng bỏ rơi những ai kiếm tìm Ngài” (Tv 9,11).
SUY NIỆM 8: Tìm của ăn không hư nát
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong suốt tuần thứ ba mùa Phục sinh, các bài đọc đều qui về Bánh Hằng Sống. Bài Tin Mừng hôm nay mở đầu nói về Bí tích Thánh Thể: Vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng tiếp tục đi tìm Đức Giêsu. Sáng hôm sau, họ tìm gặp Ngài ở phía bên kia biển hồ. Ngài nói với họ: “Các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”. Rồi Ngài dạy họ hãy tìm một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy ra công làm việc, không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
2. Dân chúng Do thái, sau khi được Chúa nuôi dưỡng bằng phép lạ bánh hóa nhiều, họ đi tìm gặp Chúa, tôn vinh Ngài lên làm vua. Tôn vinh Ngài không phải vì tin nhưng vì được nuôi dưỡng, được no bụng: “Động cơ thúc đẩy họ vẫn là mùi vị của bánh trần gian: họ đã không nhìn thấy trong ân huệ bánh dư thừa, dấu chỉ của một lương thực khác phải tìm kiếm, thứ lương thực trường tồn ban phúc trường sinh mà Con Người sẽ ban cho” (x. Léon Dufour, “Lecture de l’évangile de Jean). Cho nên mục đích của việc dân chúng tìm Đức Kitô chỉ lo bảo đảm cho họ được của ăn vật chất luôn mãi...
3. Đoạn Tin Mừng hôm nay cho biết: Dân chúng gặp được Chúa, họ hỏi Chúa ngay: “Thưa Thầy, Thầy đến đây hồi nào”? Câu trả lời của Chúa làm cho họ chưng hửng, thay vì trả lời thẳng vào câu hỏi, Chúa lại phanh phui tâm địa không mấy tốt đẹp của họ: “Đâu phải vì các người thấy dấu lạ mà đi tìm Ta, chẳng qua là vì các người đã được ăn bánh no nê mà thôi”. Rồi Chúa bảo họ: “Đừng vất vả tìm thứ của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm thứ của ăn tồn tại mãi và đưa tới cuộc sống muôn đời”. Họ hỏi lại Chúa: “Vậy chúng tôi phải làm gì”? Chúa bảo: “Hãy tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến”. Họ hiểu ngay Chúa muốn nói họ phải tin vào Ngài.
4. Nhà đấu quyền anh J. Demsey chỉ có thể thiếp ngủ được vào lúc 2 giờ sáng, sau khi đoạt giải vô địch chiều trước đó. Nhưng ngủ được một tiếng đồng hồ, anh bỗng giật mình thức giấc vì nằm mơ thấy mình bị mất chức vô địch. Bởi vì không sao ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại bài tường thuật trận đấu hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey đã ghi lại cảm tưởng thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ ước trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng”.
Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được như anh Demsey không? Chúng ta dồn tất cả tài năng, sức lực cho một danh vọng, một địa vị nào đó. Nhưng cuối cùng chỉ thấy trống rỗng, vô nghĩa, bởi vì nó không giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc thật.
Đó là kinh nghiệm của J. Demsey: cứ tưởng chức vô địch sẽ đem cho anh sự nghỉ ngơi, thư thái, nào ngờ anh vẫn cảm thấy trống rỗng, lo sợ bị mất chức vô địch trong những lần đấu kế tiếp (Mỗi ngày một tin vui).
5. Vì con người mang thân xác nên con người còn bám víu quá nhiều vào những thứ thỏa mãn các nhu cầu của thân xác. Thế nhưng là tín hữu, chúng ta đã biết ngoài sự sống thân xác này còn sự sống linh hồn nữa. Lời Đức Giêsu nhắc nhở dân chúng ngày xưa cũng là nhắc nhở chúng ta ngày nay: hằng ngày chúng con thường tìm gì: tìm những thứ thỏa mãn nhu cầu thân xác hay thỏa mãn nhu cầu tâm linh?
Trong mọi sự, ta phải luôn nhớ lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến những sự trên trời”. Một cách cụ thể, ta tìm kiếm và xây dựng Nước Trời ngay giữa thực tại trần thế, bằng cách không bán rẻ lương tâm vì một chút lợi lộc chóng qua, không chối bỏ hình ảnh cao quí của Chúa nơi bản thân, không chà đạp nhân phẩm người anh em. Trong mọi sự ta luôn tìm kiếm Chúa như gia nghiệp duy nhất đời ta.
6. Truyện: Bé cái lầm
Người Ấn Độ có kể câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
Một gia đình khỉ nọ sống giữa một khu rừng rậm. Mùa đông đến, cả gia đình khỉ rét run vì lạnh. Ban đêm khỉ nhìn thấy con đom đóm bay lượn, chúng tưởng là cục than hồng. Thế là cả nhà khỉ bắt lấy con đom đóm mang về, cẩn thận cho thêm củi và rơm vào rồi ngồi quanh mà sưởi. Có con còn kề miệng sát vào con đom đóm để thổi với hy vọng lửa bốc cháy.
Một con chim bay qua thấy cảnh tượng ấy bèn dừng lại nói với bầy khỉ: “Các bạn ơi, đây không phải là lửa mà chỉ là con đom đóm”. Nhưng bầy khỉ không đếm xỉa gì đến nhận xét của con chim, chúng lại chúi đầu vào con đom đóm mà thổi.
Một lẫn nữa con chim trở lại bình tĩnh nói đó chỉ là một con đom đóm. Tức giận vì lời dạy khôn của con chim, bầy khỉ túm lấy nó và giết đi. Rồi chúng tiếp tục thổi hơi mạnh hơn vào con đom đóm. Sáng hôm sau, người ta thấy cả gia đình khỉ chết cóng vì lạnh bên cạnh đống củi và con đom đóm.
18/04 Chứng nhân về Chúa Giêsu Phục sinh
- Viết bởi Lc 24, 35-48
Chứng nhân về Chúa Giêsu Phục sinh.
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH năm B.
"Họ nhận ra được Người khi họ nhận bánh do Người bẻ trao cho".
Lời Chúa: Lc 24, 35-48
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ".
Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây".
Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ.
Đoạn Người phán: "Đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH – Năm B
Lời Chúa: Cv 3,13-15.17-19; 1Ga 2,1-5a; Lc 24,35-48
1. Anh em là chứng nhân.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sợ ma không phải chỉ là chuyện của trẻ con.
Cả người lớn như các tông đồ cũng sợ ma.
Có lần Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ,
nhưng họ kinh hoàng tưởng Thầy là ma.
Khi Đức Giêsu phục sinh hien ra với các môn đệ,
họ cũng hoảng hốt tưởng là thấy ma.
Đấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách
để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh khủng.
Ngài mời họ xem và đụng đến tay chân Ngài
để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt.
Ngài còn ăn một miếng cá nướng
để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.
Khi các môn đệ yếu đức tin,
họ coi Đức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma.
Nhưng khi đức tin của họ được củng cố,
họ mới thấy Ngài có thực.
Lắm khi chúng ta vẫn tưởng Chúa là bóng ma đe dọa,
vì Chúa đến gặp ta một cách quá bất ngờ,
giữa lúc con thuyền đời ta chòng chành vì gió ngược,
hay lúc căn nhà lòng ta khép kín vì nỗi buồn đau.
Chúa vẫn đến lúc ta tưởng Ngài không thể đến.
Ngài mời gọi ta làm chứng nhân cho Ngài.
Kitô hữu là chứng nhân của niềm hy vọng.
Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ.
Bạo lực, bất công, dối trá, hận thù bị thảm bại.
Quyền lực của bóng tối chỉ là tạm thời.
Chiến thắng cuối cùng thuộc về Tình Yêu và Ánh Sáng.
Bởi thế người Kitô hữu vẫn hy vọng không ngơi
ngay giữa lúc sự dữ có vẻ thắng thế.
Kitô hữu là chứng nhân của sự sống.
Thế giới hôm nay bị mê hoặc bởi sự chết.
Những cuộc chiến tranh, xung đột, ám sát, bạo động.
Những loại ma tuý khiến người ta chết không ra người.
Những vụ phá thai quá dễ dàng nơi các cô gái trẻ.
Những vụ tự tử chỉ vì nhưng lý do không đâu.
Kitô hữu phải làm cho sự sống có mặt,
và hấp dẫn gấp ngàn lần sự chết.
Họ phải là nguồn sống dồi dào,
sống đơn sơ, thanh bạch, nhưng hạnh phúc.
Kitô hữu là chứng nhân của niềm vui.
Bao trẻ thơ buồn vì thiếu thầy cô, thiếu trường học.
Bao bệnh nhân ở xa thành phố, cần đến thầy thuốc.
Bao người nghèo khổ sống trong nỗi muộn phiền.
Nếu chúng ta thực sự có niềm vui của Chúa,
nếu chúng ta đã ra khỏi nỗi âu lo về mình,
chắc chúng ta sẽ ra đi công bố Tin Mừng Phục Sinh,
bằng việc đem lại nụ cười cho những người bất hạnh.
Chuyện Đức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin.
Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ
thì người ta có thể gặp đươc Đấng đang sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, người Kitô hữu phải làm gì để người khác tin rằng Chúa đã sống lại (phục vụ người nghèo, lạc quan giữa khó khăn, vui nhận những thiệt thòi...)?
Làm chứng cho Chúa bằng lời nói và bằng cuộc sống, bạn thấy điều nào cần hơn, hay cả hai đều cần?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,
xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,
xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,
xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,
xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
Xin cho con nghe được lời mời của Chúa:
"Các con hãy cho họ ăn đi."
Ước gì chúng con dám trao
tất cả những gì chúng con có cho Chúa,
để Chúa trao tất cả những gì Chúa có
cho chúng con và cho cả nhân loại.
2. Làm chứng về Thầy
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Lc 24: 35-48: Niềm tin của chúng ta tin vào Chúa Kitô phục sinh sống lại đó, nó phải diễn tả trong đời thường của chúng ta, chứ không phải ở trên môi trên miệng trên lời nói của mỗi người chúng ta.
Có thể nói vấn nạn lớn nhất của người Kitô Hữu đó là niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh. Là con người, ai ai cũng phải giới hạn bởi sự chết. Và đối diện với cái chết, khi con người nhắm mắt xuôi tay rồi, không ai có thể sống lại được. Rõ ràng rằng, trong cuộc đời mỗi người chúng ta, những người đã chết chúng ta thấy chẳng ai sống lại cả. Và ngay cả Lazarô chết, được Đức Kitô cho phục sinh nhưng rồi sau đó Lazarô cũng phải chết.
Thế nhưng rồi, nơi Đức Kitô Ngài đã phục sinh. Ngài đã dùng nhiều cách để bày tỏ cho các môn để biết rằng: Ngài đã sống lại.
Sự kiện mà cái Ngôi Mộ trống đó chưa phải là bằng chứng của Đức Kitô đã phục sinh. Nhưng rồi, sự kiện mà ngôi mộ trống đó đã mời gọi mỗi người chúng ta suy nghĩ về niềm tin của mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu phục sinh đã hiện ra cho Maria Madalena, với 11 môn đệ, và cho đám đông 500 người còn sống.Và như thế, chúng ta không thể nào gọi là ảo giác, bởi vì tất cả những người đó đã thấy được Đức Kitô phục sinh.
Và thánh Luca thuật lại, thì các ông tưởng thầy mình là ma. Chúng ta thấy ma làm gì có xương có thịt. Và đặc biệt, Chúa Giêsu củng cố niềm tin cho các môn đệ, Ngài đã cho các môn đệ xem thương tích nơi tay chân để chứng tỏ Ngài có xương có thịt, chứ không phải là một Oan Hồn hay là một Vong Hồn.
Và rồi hình như các môn đệ vẫn nghi ngờ và Người lại đề nghị cho họ sờ chân tay để kiểm chứng và thấy họ hoài Chúa Giêsu lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để chứng tỏ cho họ thấy rằng Ngài đã phục sinh. Thật sự nếu mà làm là ma nếu mà là vong hồn thì không thể nào mà nhai, nuốt như vậy! Cách diễn tả như thế để cho chúng ta thấy rằng: một Đức Kitô Phục Sinh đã đến với các môn đệ. Đức Kitô Phục Sinh đã khắc niềm tin nơi các ông: Cho xem cạnh sườn luôn! bởi vì cạnh sườn bị dấu đinh đóng là cái kết quả của sự gian ác của con người và rồi chúng ta thấy:
Với Máccô khi nói về các lầm lỗi của các môn đệ thì Ông chẳng che giấu và nói toạc móng heo. Thánh Luca thì luôn luôn bênh vực các môn đệ. Những lỗi lầm của các môn đệ thì Luca luôn tìm cách để che đậy! Ở đây cũng vậy, Luca luôn luôn bao che cho các môn đệ, lý do rằng các ông chưa tin Chúa Giêsu phục sinh là vì các ông mừng quá đấy thôi! chứ không phải các ông yếu tim.
Thế nhưng mà, chúng ta thấy tâm tình quý trọng các môn đệ nơi thánh Luca rất là đặc biệt. Và ngày hôm nay chúng ta thấy Chúa Giêsu đã phục sinh thực sự.
Và lời mời gọi của Chúa Giêsu phục sinh ngày hôm nay rất tuyệt vời cụ thể nơi bài đọc thứ nhất. Thánh Phêrô kể ra một cách cụ thể để mà làm chứng Đức Giêsu phục sinh đó là cái cách chúng ta Sám Hối:
“Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng ngôn sứ mà báo trước, Đức Kitô của Người đã chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu anh em được xóa bỏ tội lỗi”
Sự thật rõ ràng là: tôi đã làm chứng. chúng ta đánh mất một đức tin nơi Thiên Chúa, nơi Đức Kitô phục sinh. Vì thế, chính vì tội đã làm cho con người ta không còn tin vào Chúa nữa. Và vì thế cần phải ăn năn sám hối, để chừa bỏ tội lỗi chứ thường thì, những người quen phạm tội thì dần dần mất đức tin, và nếu còn đức tin thì rất yếu ớt khi gặp sóng gió giữa cuộc đời. Do đó Câu hỏi đặt ra lúc đầu về sự nghi ngờ về Đức Kitô phục sinh và sự Phục Sinh Của Đức Kitô không phải là không có lý do vậy Muốn nhìn thấy niềm tin của mình còn vững chắc hay không thì theo Thánh Phêrô xét xem mình có phạm tội hay không và biết ăn năn sám hối hay không?
Sám hối là gì? Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh là Đấng công chính mà tha cho kẻ sát nhân.
Sám hối là chúng ta thay đổi cách nhìn về Chúa Giêsu. Từ đóng đinh, giết chết, treo trên thập giá mà nay chúng ta phải tin Ngài là Đấng Công Chính chúng ta phải thay đổi cách nhìn về Chúa Giêsu, thay đổi cái đời sống chúng ta.
Và rồi chúng ta được mời gọi rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh, là trước hết chúng ta phải Sám Hối. Bản thân của chúng ta Sám Hối, bản thân của chúng ta thay đổi về cái nhìn của Chúa Giêsu phục sinh.
Cùng với Chúa Giêsu phục sinh chúng ta thay đổi về cái nhìn của giá trị, tận tâm can của chúng ta. Nó thực tế, vì trong kinh Tin Kính chúng ta đọc: " Tôi tin xác loại người ngày sau sống lại." Tuyên xưng như vậy có rất nhiều câu hỏi nơi mỗi người chúng ta.
Và cái niềm tin của chúng ta tin vào Chúa Kitô phục sinh sống đó, nó phải diễn tả trong đời thường của chúng ta, chứ không phải ở trên môi trên miệng trên lời nói của mỗi người chúng ta. Và rất, rất khó khăn, bởi vì ngày hôm nay, giữa một cái trào lưu của một thế giới hưởng thụ, văn minh lên cao; con người thích lợi nhuận, thích tìm những việc thực tế, con người ưa thực dụng hơn là suy nghĩ động não, thì Tin Mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta, chúng ta hãy làm chứng cho Người.
Chúng ta làm chứng cho Đức Kitô là: chúng ta giới thiệu một Đức Kitô đã sống lại và đang hiện diện với con người, với nhân loại. Và làm chứng rằng cho thế giới biết rằng: Chúa Giêsu phục sinh không đòi hỏi lợi nhuận tiền bạc, nhưng chúng ta sống bằng chính cái đời sống đức tin của chúng ta. Và đặc biệt, đó là sống cái niềm tin của chúng ta bằng đời thường, bằng lòng mến, bằng lòng bác ái của chúng ta.
Thì chúng ta nhìn vào các môn đệ, chính các môn đệ đã chấp nhận đòn roi khổ cực, tù ngục và sẵn sàng chết vì Đức Kitô. Ngày hôm nay, chúng ta không phải đối diện bằng những cái chết tử đạo, bách hại đạo như các thánh tử đạo ngày xưa, nhưng chúng ta được mời gọi loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh bằng đời sống yêu thương, bằng đời sống tha thứ, bằng những việc làm cụ thể. Đức Cố giáo hoàng Phaolô 6 nói: ngày hôm nay, người ta cần những chứng nhân chứ không cần những thầy dạy nữa!
Mà quả thật những thầy dạy nghiên cứu về thánh kinh về thần học, về triết học về khoa bảng quá nhiều! Ngày hôm nay những người làm chứng về Chúa Kitô phục sinh bằng đời sống của mình rất hiếm. Nhưng mà «hiếm», nhưng mà có! chứ không phải không!
Chúng ta hãy nhìn nơi gương của Mẹ Têrêsa Calcutta, một người phụ nữ tiều tụy ốm yếu, đau khổ, nhưng mẹ đã có một trái tim của Giêsu, mẹ mang trong mình trái tim của Giêsu: một trái tim yêu thương.
Chúng ta nhìn vào gương của một Phanxicô khó khăn, đã chấp nhận, đã từ bỏ tất cả sự giàu có vinh hoa phú quý của gia đình, để sống nghèo, để yêu thương và lo lắng cho người nghèo. Hay đơn giản, chúng ta có thể nở một nụ cười, nở một nụ cười như Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhất. Và đặc biệt gương của lòng tha thứ gương của sự vị tha còn đó nơi Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, cái sự tha thứ đã làm nên khuôn mặt của ngài, ngài đã yêu thương đã diễn tả lòng thương xót.
Tất cả những chứng nhân đó tất cả những vị thánh đó làm chứng cho một Đức Kitô Phục Sinh. Thật sự ra, nơi con người của chúng ta vẫn là những con người yếu đuối, chúng ta vẫn mang trong mình cái phận người. Nói yêu thương, nói tha thứ, không phải là chuyện đơn giản. Đó là những cái thách đố của cuộc đời chúng ta.
Thế nhưng, không phải là không làm được! và không bao giờ làm được! Làm được, Nếu có ơn Chúa! Đặc biệt chúng ta biết kết hợp vào với Đức Kitô Phục Sinh, nơi mỗi thánh lễ chúng ta tham dự. Khi chúng ta tham dự thánh lễ, là chúng ta rước Đức Kitô Phục Sinh vào trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Để rồi khi CHÚA ở trong ta, ta ở trong CHÚA. Chúng ta kết hợp với Đức Kitô, thì chính khi ấy Chúa sống trong ta và ta sống trong Chúa.
Nhờ vào ơn Chúa chúng ta sẽ diễn tả cái đời sống Yêu Thương, bác ái đó cho anh chị em chúng ta, nơi những người chúng ta gần gũi.
Có thể chúng ta còn nghèo, có thể chúng ta không có tiền bạc, có thể chúng ta không có tài sản; nhưng mỗi người chúng ta vẫn có một nụ cười. Mỗi người chúng ta vẫn có một lòng vị tha. Mỗi người chúng ta vẫn có ánh mắt nhân từ, để tha thứ cho anh chị em những người làm tổn hại chúng ta, những người sát hại chúng ta và những người gây đau khổ cho chúng ta.
Thế đấy, một Đức Kitô Phục Sinh đã, đang, và đã sống lại, và mời gọi chúng ta hãy lên đường làm chứng về Thầy, làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh. Là người Môn Đệ của Đức Kitô, chúng ta luôn luôn được mời gọi để sống Tin Mừng Phục Sinh đó, trong cuộc đời của chúng ta.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để đặc biệt, trước hết, chúng ta sám hối về tội lỗi của chúng ta. Vì chúng ta đã đóng đinh Đức Kitô vào thập giá, và chúng ta lại lên đường loan báo một Đức Kitô Phục Sinh đã yêu thương chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân. Chúng ta lên đường loan báo một Đức Kitô Phục Sinh yêu thương, và tha thứ cho những người xúc phạm, cho những người giết hại mình, bằng chính đời sống Yêu Thương, phục vụ và tha thứ, là chính lúc chúng ta tuyên bố Đức Kitô Phục Sinh rõ nét nhất trong cuộc đời chúng ta.
Xin Đức Kitô Phục Sinh đến, ở lại với mỗi người chúng ta. Và xin cho chúng ta luôn luôn biết kết hợp với Đức Kitô Phục Sinh để chúng ta diễn tả đời sống của một Đức Kitô Phục Sinh trong lời ăn, tiếng nói, trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Amen.
3. Mục sở thị
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Mục Sở Thị nghĩa là “nhìn tận mắt”, đó là cách nói rút gọn của câu “thực mục sở thị”. Từ điển Hán Nôm giải thích: MỤC là con mắt; SỞ là rõ ràng, minh bạch; THỊ là thân cận, gần gũi. Người ta cũng dùng chữ “mục kích” (mục: mắt, kích: đập vào). Cách nói phổ biến là “nhãn tiền”. Chữ “nhãn tiền” (nhãn: mắt, tiền: trước – ý nói “thấy trước”) do câu “quả báo nhãn tiền”, ý nói về điều không tốt, nhưng ngày nay chữ này cũng được dùng khi nói về điều tốt.
Tình yêu thương là hiện thân của Thiên Chúa (1 Ga 4:8 và 16). Tình yêu đó cũng chính là Lòng Thương Xót của Ngài. Lòng Chúa Thương Xót luôn được nhắc đến suốt Năm Phụng Vụ, đặc biệt vào Mùa Phục Sinh – cách riêng là Chúa Nhật II Phục Sinh. Chẳng phải mới đây mà từ thuở khai thiên lập địa, Kinh Thánh đã nói đến tình yêu thương. Đây là vài câu cụ thể trong sách Sáng Thế:
St 19:19 – “Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ LÒNG THƯƠNG lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất!”
St 24:14 – “Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa", thì đó là người Chúa đã xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ TÌNH THƯƠNG đối với chủ con”.
St 24:27 – “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ TÌNH THƯƠNG và lòng thành tín của Người đối với chủ tôi; còn tôi, Đức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh em họ hàng của chủ tôi”.
St 33:10 – “Tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ LÒNG THƯƠNG với tôi”.
Bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8 & 16) – cách định nghĩa của Thánh Gioan, thế nên Đạo (của) Chúa là Đạo Yêu Thương. Yêu thương, tình thương, tình yêu, hoặc lòng thương đều là một – có thể rút gọn còn một từ YÊU. Phàm ngôn có nhiều cách gọi, nhưng thực chất vẫn là Lòng Chúa Thương Xót. Ngay trong Việt ngữ cũng không thống nhất, khi thì Lòng Thương Xót Chúa, khi thì Lòng Chúa Thương Xót, đó là cách rút gọn của cách nói “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”. Đôi khi Việt ngữ dễ gây hiểu lầm do cách “rút gọn” văn phạm! Cuộc sống đời thường có nhiều loại thực tế, cuộc sống tâm linh cũng vậy.
THỰC TẾ TỘI LỖI
Có lẽ không thực tế nào buồn và đáng sợ bằng thực tế tội lỗi. Nó không chỉ khiến người ta sa sút về tinh thần, nguy hiểm về phần rỗi, mà còn gây yếu đuối cả về thể lý.
Tội lỗi liên quan ma quỷ, nghĩa là đối lập với Thiên Chúa. Thánh Phêrô nói: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Ngài là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh chị em đã NỘP và CHỐI BỎ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh chị em đã CHỐI BỎ ĐẤNG THÁNH và ĐẤNG CÔNG CHÍNH, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh chị em đã giết ĐẤNG KHƠI NGUỒN SỰ SỐNG, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 3:13-15). Chúng ta thật khốn nạn, dám “giao nộp” Chúa Giêsu, dám “chối bỏ” Ngài, dù biết rõ Ngài là “Đấng Thánh”, là “Đấng Công Chính”, là “Đấng khơi nguồn sống”. Tội to lắm!
Và rồi với “kinh nghiệm đau thương” về việc này (tội chối Thầy) nên vị giáo hoàng tiên khởi đã chân thành kêu gọi: “Thưa anh chị em, giờ đây tôi biết anh chị em đã hành động vì KHÔNG HIỂU BIẾT, cũng như các thủ lãnh của anh chị em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh chị em hãy SÁM HỐI và TRỞ LẠI cùng Thiên Chúa, để Ngài xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19). Ông Phêrô đã sám hối và được Thầy Giêsu xót thương. Tấm gương sám hối đáng để chúng ta noi theo mỗi khi sảy bước sa chân.
Từ ngàn xưa, có thể dân Do Thái hành động vì thiếu hiểu biết, bởi vì họ quá bất ngờ và quá bị “sốc” khi nghe chàng-thanh-niên-con-bác-thợ-mộc nói chính mình là Con Thiên Chúa. Nếu lúc đó chúng ta nghe được điều đó, chắc chắn chúng ta cũng thấy “chói tai” lắm đấy! Nhưng ngày nay, chúng ta không thể biện minh là chúng ta không hiểu biết – bởi vì chúng ta được dạy quá nhiều rồi.
Thế thì làm sao? Nếu thực sự không thể tự biện hộ, thực sự biết mình đã và đang phạm nhiều tội lỗi thì chúng ta phải biết thành tâm sám hối, chân thành trở lại, tin tưởng và khẩn cầu LCTX: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Nên biết rằng Chúa biệt đãi người hiếu trung với Ngài; khi kêu cầu thì Ngài luôn nghe lời. Có thể chính chúng ta cũng đã bao lần thắc mắc: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4:7a). Chính trong câu hỏi đó đã mặc nhiên có câu trả lời – nghĩa là không ai khác, không một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta càng phải kêu cầu: “Lạy Chúa, xin toả ánh Tôn Nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7b).
Cầu nguyện là khiêm hạ và hạnh phúc, chính lúc cầu nguyện là lúc chúng ta trở nên vĩ đại, bởi vì được thưa chuyện với Thiên Chúa và được Ngài lắng nghe chúng ta trút mọi nỗi niềm. Có ai như Thiên Chúa của chúng ta? Chắc chắn là không! Đó chính là thực tế về ân sủng.
THỰC TẾ HỒNG PHÚC
Thiên Chúa vô cùng đại lượng và hào phóng, hằng ngày Ngài luôn ban muôn vàn hồng ân cho chúng ta – từng phút, từng giây. Đơn giản nhất mà lại cần thiết nhất chính là KHÔNG KHÍ – vì thiếu không khí vài phút là chúng ta chết ngay! Mọi người, không trừ ai, đều đã và đang nhận lãnh hồng ân của Thiên Chúa – dù chúng ta chưa hề mở lời xin Ngài.
Chưa nói được lời tạ ơn thì cũng đừng đối kháng. Thánh Gioan khuyên chúng ta “đừng phạm tội”, và “láy” một câu: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2:1). Thật quá tuyệt vời!
Chắc chắn chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn, nhưng chúng ta lại vô cùng may mắn có Chúa Giêsu là luật sư biện hộ cho chúng ta trước Tòa Án Công Lý của Chúa Cha. Hơn nữa, “chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Nhận xét của Thánh Gioan rất “ăn khớp” với lời khẩn cầu trong Chuỗi LCTX: “Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, linh hồn và thần tính của Con rất yêu dấu Cha, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới”. Tha thiết lắm, Thiên Chúa không nỡ làm ngơ đâu!
Một thực tế khác: Nếu chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài, chúng ta nhận ra mình là những người biết Thiên Chúa. Nhưng “ai nói mình biết Ngài mà không tuân giữ các điều răn của Ngài, đó là kẻ nói dối, và Sự Thật không ở nơi người ấy” (1 Ga 2:4). Ngược lại, “ai giữ lời Ngài dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:5). Tình yêu và bổn phận luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Thực tế thế thôi!
Chiều Chúa Nhật Phục Sinh, sau khi hai môn đệ nhận ra Sư phụ Giêsu trên đường Emmau khi Ngài bẻ bánh, họ vội vã trở lại Giêrusalem và thuật lại chuyện đã xảy cho các môn đệ khác biết. Các ông còn đang bàn tán thì chính Đức Giêsu hiện ra đứng giữa họ và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36). Thế nhưng các ông kinh hồn bạt vía, hồn xiêu phách lạc tưởng là thấy ma. Nhưng Ngài nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39). Lời-chúc-bình-an đó là Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ lúc đó – và ban cho cả chúng ta ngày nay.
Vừa dứt lời, và để các môn đệ thấy thực tế minh nhiên, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ấy thế mà họ còn chưa tin, có lẽ một phần vì quá vui mừng, một phần vì quá ngỡ ngàng. Mừng vì Thầy đã sống lại thật chứ không bị bọn ma mãnh lấy mất xác Thầy, mừng vì hai môn đệ kia (gặp Chúa trên đường Emmau) cũng nói thật chứ không hề “nổ” hoặc “xạo” chút nào. Và cũng là để cho “chắc cú”, Ngài hỏi rất thực tế: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24:43). Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng thơm phức, thế là Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt họ. Ôi, Sư phụ Giêsu thật chứ không phải tay nào khác giả dạng. Thế thì trên cả tuyệt vời luôn rồi!
Sau khi ăn khúc cá nướng, Ngài giải thích: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Vâng, Thánh Ý Chúa quá mầu nhiệm, vượt xa tầm hiểu biết của nhân loại – dù là những bậc thông thái. Bấy giờ, chính Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Ngài nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47). Một thực tế minh nhiên và các môn đệ cũng đã “thực mục sở thị”. Rõ ràng và rạch ròi rồi.
Tất nhiên Chúa-Giêsu-phục-sinh biết rõ chúng ta luôn yếu đuối, luôn sai phạm, nên Ngài cũng luôn nhấn mạnh động thái “sám hối” và “tín thác”. Có được hai điều đó thì LCTX luôn chan hòa trên chúng ta. Và chính Ngài xác định bổn phận được trao cho chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Bổn phận và trách nhiệm không của riêng bất kỳ ai!
Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa hứa hẹn vừa dặn dò: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được Ngài thực hiện cho nhân loại chúng ta mãi cho tới khi niên tận thế cùng.
Lạy Thiên Chúa chí tôn chí thánh, xin thánh hóa và gia tăng ba đức đối thần cho chúng con, và cũng ban các đức đối nhân để chúng con làm người xứng đáng. Xin Ngài luôn ban Thần Khí để chúng con can đảm làm chứng về Lòng Thương Xót của Ngài và Đức Kitô phục sinh, hôm nay và mãi đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
4. Nhãn tiền
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chúng ta vừa mừng Đại lễ Lòng Chúa Thương Xót (LCTX) vào Chúa Nhật tuần trước – Chúa Nhật II Phục Sinh. LCTX luôn được nhắc đến suốt năm Phụng vụ, đặc biệt vào Mùa Phục Sinh. Ngay từ thuở hồng hoang, thuở khai thiên lập địa, Kinh thánh đã nói đến lòng yêu thương:
– Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất! (St 19:19);
– Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa", thì đó là người Chúa đã xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ tình thương đối với chủ con (St 24:14);
– Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ tình thương và lòng thành tín của Người đối với chủ tôi; còn tôi, Đức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh em họ hàng của chủ tôi (St 24:27);
– Tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ lòng thương với tôi (St 33:10).
Đạo (của) Chúa là Đạo Yêu thương, vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4::8 & 16). Yêu thương, tình thương, tình yêu, hoặc lòng thương đều là một. Cách gọi khác theo ngôn ngữ, nhưng thực chất vẫn là Lòng Chúa Thương Xót. Ngay trong Việt ngữ cũng không thống nhất, khi thì Lòng Thương Xót Chúa, khi thì Lòng Chúa Thương Xót. Khi chúng ta nói “Lòng Thương Xót Chúa” tức là “Lòng Thương Xót của Chúa”. Thực ra vẫn giống nhau, chỉ vì Việt ngữ không rõ ràng do “rút gọn” văn phạm, và dễ gây hiểu lầm!
TỘI LỖI NHÃN TIỀN
Thánh Phêrô nói: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Ngài là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh chị em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh chị em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh chị em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 3:13-15). Chúng ta thật khốn nạn, dám “giao nộp” Chúa Giêsu, dám “chối bỏ” Ngài, dù biết rõ Ngài là “Đấng Thánh”, là “Đấng Công Chính”, là “Đấng khơi nguồn sống”.
Giáo hoàng tiên khởi đã có “kinh nghiệm đau thương” về việc này nên kêu gọi: “Thưa anh chị em, giờ đây tôi biết anh chị em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh chị em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh chị em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Ngài xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19).
Ngày xưa, có thể dân Do Thái hành động vì thiếu hiểu biết, vì họ quá bất ngờ và quá bị “sốc” khi nghe chàng-thanh-niên-con-bác-thợ-mộc nói là Con Thiên Chúa, “khó nghe” thật! Nhưng ngày nay, chúng ta không thể biện minh là chúng ta không hiểu biết.
Nếu thực sự không thể tự biện hộ, thực sự biết mình đã và đang phạm nhiều tội lỗi nhãn tiền thì chúng ta phải biết sám hối, trở lại, và khẩn cầu LCTX: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Chúng ta phải biết rằng Chúa biệt đãi người hiếu trung với Ngài; khi kêu cầu thì Ngãi Chúa luôn nghe lời. Biết bao kẻ từng thắc mắc: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4:7a). Trong câu hỏi đó đạ mặc nhiên có câu trả lời, nghĩa là không ai khác, không một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta càng phải kêu cầu: “Lạy Chúa, xin toả ánh Tôn Nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7b).
HỒNG ÂN NHÃN TIỀN
Chúa luôn ban vô vàn hồng ân hằng ngày. Đơn giản nhất mà lại cần nhất là không khí – thiếu không khí vài phút là chúng ta chết ngay! Mọi người, không trừ ai, đều đã và đang nhận lãnh hồng ân của Thiên Chúa – dù chúng ta chưa hề mở lời xin Ngài.
Thánh Gioan khuyên chúng ta “đừng phạm tội”, và “láy” một câu: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2:1). Quá tuyệt vời! Chắc chắn chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn, nhưng chúng ta lại vô cùng may mắn có Chúa Giêsu là luật sư biện hộ cho chúng ta trước Tòa Án Công Lý của Chúa Cha. Hơn nữa, “chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Nhận xét của Thánh Gioan rất “ăn khớp” với lời khẩn cầu trong Chuỗi LCTX: “Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, linh hồn và thần tính của Con rất yêu dấu Cha, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới”.
Nếu chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài, chúng ta nhận ra mình là những người biết Thiên Chúa. Nhưng “ai nói mình biết Ngài mà không tuân giữ các điều răn của Ngài, đó là kẻ nói dối, và Sự Thật không ở nơi người ấy” (1 Ga 2:4). Ngược lại, “ai giữ lời Ngài dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:5). Tình yêu và bổn phận luôn có mối quan hệ chặt chẽ.
Sau khi hai môn đệ nhận ra Sư phụ Giêsu trên đường Emmau khi Ngài bẻ bánh, họ thuật lại chuyện đã xảy cho các môn đệ khác biết. Các ông còn đang bàn tán thì chính Đức Giêsu hiện ra đứng giữa họ và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36). Thế nhưng các ông kinh hồn bạt vía, hồn xiêu phách lạc tưởng là thấy ma. Nhưng Ngài nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39). Lời-chúc-bình-an đó là Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ lúc đó và chúng ta ngày nay.
Nói xong, để các môn đệ thấy nhãn tiền, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ấy thế mà họ còn chưa tin, phần vì mừng quá đỗi, phần vì quá ngỡ ngàng. Mừng vì Thầy đã sống lại thật chứ không bị bọn ma mãnh lấy mất xác Thầy, mừng vì hai môn đệ kia (gặp Chúa trên đường Emmau) nói thật chứ không… “xạo”. Và để cho “chắc cú”, Ngài hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24:43). Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng thơm phức, thế là Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt họ. Ôi, Sư phụ Giêsu thật chứ không phải tay nào khác giả dạng. Trên cả tuyệt vời luôn!
Ăn cá xong, Ngài giải thích: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Vâng, Thánh Ý Chúa quá mầu nhiệm, vượt xa tầm hiểu biết của nhân loại – dù là những bậc thông thái. Bấy giờ, chính Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Ngài nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47).
Ngài biết chúng ta luôn yếu đuối, luôn sai phạm, nên Ngài luôn nhấn mạnh động thái “sám hối” và “tín thác”. Có hai điều đó thì LCTX luôn đổ tràn trên chúng ta. Và Ngài xác định bổn phận được trao cho chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48).
Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa hứa vừa dặn dò: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được Ngài thực hiện cho nhân loại chúng ta.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, xin luôn ban Thần Khí Chúa cho chúng con để chúng con can đảm làm chứng về LCTX và Đức Kitô phục sinh, hôm nay và mãi đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
5. Tỉnh ngộ
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Cuộc đời là bến mê lầm. Sai một ly, đi một dặm. Phải luôn cố gắng tỉnh thức để thoát khỏi mọi cạm bẫy. Thoát ly như vậy là tỉnh ngộ – thoát khỏi ngu muội. Điều này vô cùng cần thiết, vì chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41; Mc 14:38).
Phật giáo dùng từ “giác ngộ” (zh. 覺悟, sa., pi. bodhi). Danh từ này được dịch nghĩa từ chữ “bodhi” (bồ-đề) trong Phạn ngữ. Từ ngữ này chỉ trạng thái tỉnh thức, lúc con người bỗng nhiên trực nhận tính KHÔNG, bản thân nó là “không” như toàn thể vũ trụ cũng là “không” vậy.
Và chỉ với trực nhận đó, con người mới thấu hiểu được “thể tính mọi hiện tượng”. Tính “không” ở đây KHÔNG phải sự trống rỗng thông thường mà nói về một thể tính vô biên, không thể dùng suy nghĩ hoặc cảm nhận để đo lường, vì điều đó nằm ngoài cặp đối “có – không”. Tính “không” này không phải là một đối tượng để một chủ thể tiếp cận, vì bản thân chủ thể cũng thuộc về nó. Do đó, giác ngộ là một kinh nghiệm không thể giãi bày.
Kinh Thánh nhắc lại Người Tôi Tớ Đau Khổ và cũng “chạm” vào ký-ức-buồn của chúng ta, tức là sự ngu muội của chúng ta: “Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng” (Cv 3:13-15).
Thánh Phêrô dõng dạc làm chứng về Đức Giêsu Kitô và thông cảm với sự ngu muội của chúng ta: “Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19). Thiên Chúa nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài chỉ cần chúng ta hối hận thật lòng thì Ngài sẽ tha thứ ngay. Điều này đã được Thiên Chúa hứa từ ngàn xưa rồi: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Và chính tướng cướp Diasmas đã được hưởng lời hứa đó ngay trên Núi Sọ: Theo Chúa Giêsu vào thẳng Thiên Đàng (Lc 23:43), dù “đại ca” này chưa hề biết gì về Chúa Giêsu và chưa lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
Thiên Chúa quá đỗi nhân lành, nhất là với những người thành tâm sám hối: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Ngoài Thiên Chúa, chắc chắn chẳng có thần linh nào hoặc phàm nhân nào khả dĩ cho chúng ta cuộc sống hạnh phúc. Hãy cầu nguyện liên lỉ, hãy không ngừng nài xin: “Lạy Chúa, xin toả ánh tôn nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7).
Khi có Ngài rồi thì cứ “vô tư” mà sống. Chả lo lắng chi cho già người đi. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã chia sẻ kinh nghiệm thoải mái này: “Thư thái bình an vừa nằm con đã ngủ, vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa, ban cho con được sống yên hàn” (Tv 4:9). Mèn ơi! Thế thì thật là hạnh phúc, sướng ơi là sướng!
Thánh Gioan muốn chúng ta tỉnh ngộ nên đã nhắn nhủ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính“” (1 Ga 2:1). Không nên phạm tội, đó là điều chính đáng, nhưng tay lỡ “nhúng chàm” thì lại được Luật Sư uy tín biện hộ cho chúng ta, đó là chính Chúa Giêsu. Thế thì còn gì sướng hơn nữa chứ?
Thánh Gioan cho biết: “Chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1 Ga 2:2). Trên cả tuyệt vời, vì chính Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng thương xót của Ta lớn hơn tội lỗi của con và toàn thế giới” (Nhật Ký, số 1485). Mọi diễn biến từ Cựu Ước tới Tân Ước đều lô-gích, chính xác, không chút sai lệch. Thật là mầu nhiệm biết bao!
Điều kiện thứ nhất là “đừng phạm tội”, điều kiện thứ hai là “tuân giữ các điều răn” – nhất là điều răn bác ái. Đức ái là một trong ba đức đối thần, nhưng là nhân đức quan trọng nhất. Tại sao? Vì đức mến còn mãi mãi, trên Thiên Đàng chỉ còn đức mến, không còn đức tin và đức cậy (hy vọng).
Thánh Gioan phân tích: “Căn cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người. Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy. Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1 Ga 2:3-5). Thánh Phaolô cũng nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:8-10). Người biết yêu mến là người chu toàn lề luật của Thiên Chúa, đó là người mặc lấy con người mới, sống niềm vui phục sinh, tức là đã tỉnh ngộ.
Sau khi phục sinh, một hôm ở trên đường Emmaus (*), Chúa Giêsu gặp hai môn đệ và giải thích cho họ những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh, bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ. Họ không hề biết đó là Chúa-Giêsu-phục-sinh. Khi đồng bàn với họ, Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ đã mở ra, tỉnh ngộ, và nhận ra Ngài, thế nhưng Ngài lại biến mất (Lc 24:27-30).
Lần khác, khi các môn đệ còn đang nói, chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và chúc bình an cho họ. Các ông kinh hồn bạt vía, cứ tưởng là thấy ma. Tá hỏa tam tinh. Run sợ thật đấy! Nhưng Ngài cười và bảo: “Này các cậu, sao lại hoảng hốt thế nhỉ? Sao lòng anh em còn ngờ vực chứ? Này, nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-48). Rồi Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ừ nhỉ! Ma đâu có thế này, đúng là thần hồn nhát thần tính. Chán thật!
Các ông còn bán tín bán nghi, chưa dám tin thật, phần vì mừng quá, phần vì ngỡ ngàng. Chúa Giêsu thấy mắc cười lắm, Ngài hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không nào? Đem ra đây cho Thầy ăn!”. Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng. Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt các ông. Mấy ông nhéo nhau, ai cũng la oái, thế thì không phải mơ, tỉnh thật đấy.
Rồi Ngài ôn tồn: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Bấy giờ Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Ngài nhấn mạnh: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:46-48).
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở lòng trí chúng con để chúng con đủ sức hiểu rõ lời Kinh Thánh, xin giúp chúng con biết tỉnh ngộ để chúng con chân tín Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ chúng con, đồng thời cũng luôn biết sống yêu thương và can đảm làm chứng về Đấng Phục Sinh. Ngài là Đấng hằng sinh và hằng hữu, hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
-----------------------------
(*) Emmaus là viết theo tiếng Latin, tiếng Hy Lạp là Ἐμμαούς, tiếng Ả Rập là عِمواس (Imwas), tiếng Do Thái là חמת (Hammat), có nghĩa là “mùa xuân ấm áp”. Emmaus cách Giêrusalem 7 dặm, khoảng 11 km.
6. Có Chúa cùng đi
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi chỉ muốn đưa ra một hình ảnh đẹp, đó là hình anh Chúa Giêsu cùng sánh bước với hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Vậy hình ảnh đẹp này đem lại những hậu quả nào cho cuộc sống của chúng ta?
Cựu Ước đã đưa ra một kinh nghiệm, một xác tín, đó là nếu có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ không còn lo lắng sợ hãi, đồng thời sẽ có đủ nghị lực, nếu không thành công rực rỡ, vượt qua những gian nguy thử thách, thì ít nữa cũng biết chịu đựng cho nên. Thánh Vịnh đã viết: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cò xanh rì, Ngài thả tôi nằm nghỉ. Hay như một Thánh Vịnh khác cũng đã xác quyết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nể vất vả chỉ là uồng công. Thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Niềm xác tín này cũng đã được Chúa Giêsu thực hiện trong Tân Ước. Hẳn chung ta còn nhớ trong tiệc cưới Cana, sự có mặt của Chúa Giêsu đã đem lại phép lạ đầu tiên, khiến nước lã biến thành rượu ngon, để đôi tân hôn không bị bẻ mặt với khách dự tiệc.
Cùng hoạt động với Chúa, chắc chắn sẽ thâu lượm được những thành quả tốt đẹp. Chính các tông đồ đã học được cái kinh nghiệm quý giá ấy. Đêm hôm đó, các ông ra khơi và thả lưới, vật lộn với sóng nước suốt cả một đêm, mà chẳng bắt được một con cá nào. Thế nhưng, ban sáng Chúa Giêsu hiện ra với các ông trên bờ biển và truyền cho các ông thả lưới, lập tức các ông đã có được một mẻ lưới lạ lùng. Lần khác, thuyền các ông gặp phong ba bão táp, các ông đã phải đánh thưc Chúa Giêsu dậy, và với Chúa Giêsu lập tức sóng liền yên và biển liền lặng.
Và ngày hôm nay, hai môn đệ đang trên đường về làng Emmaus. Các ông bước đi mà cõi lòng thì ngập tràn một nỗi thất vọng đắng cay. Nhưng rồi Chúa Giêsu đã hiện ra, đàm đạo với các ông và lòng các ông đã bừng lên ngọn lửa yêu mến và sau cùng, các ông đã nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh nơi quán trọ. Sau đó, các ông hối hả trở lại Giêrusalem, mừng vui kể lai sự việc cho các tông đồ được biết.
Chúng ta còn có thể kể ra những trường hợp khác nữa, để chứng tỏ rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu sẽ đem lại niềm an ủi và khích lệ, cũng như sẽ đem lại nguồn sức mạnh và can đảm để vượt qua những gian nan thử thách. Sở dĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, bởi vì Ngài có dư quyền năng để nâng đỡ chúng ta, đồng thời Ngài cũng có dư tình thương, để sẵn sàng ra tay trợ giúp cho chúng ta.
Tóm lại, cùng đi với Chúa, con người chúng ta sẽ không còn đơn côi, bản thân chúng ta sẽ vượt thắng được mọi hiểm nguy và cuộc đời chúng ta sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
7. Bình an của Chúa Phục Sinh
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ đến độ làm cho con người luôn bất an và lo sợ. Chẳng hạn, thất bại, rủi ro, mất an ninh, nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp hay thất tình... Những nỗi lo sợ này làm ta "ăn không ngon, ngủ không yên" và cũng có thể làm ta tuyệt vọng, thậm chí đánh mất niềm tin nơi bản thân hay tha nhân, thậm chí Thiên Chúa nữa.
Tâm trạng của các tông đồ hôm nay cũng buồn sầu và lo sợ sau cái chết của Thầy Giêsu. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi "nhìn cò ra quạ", nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma. Cho nên, điều đầu tiên Chúa phục sinh hiện đến với các ông là chúc bình an cho các ông và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với các ông. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Người nói: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Từ đó, các ông trở thành những chứng nhân về niềm tin bình an của Chúa Phục sinh cho thế giới một cách kiên cường và bất khuất.
Ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, sự bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn ở lại trong chúng ta mỗi khi chúng ta tham dự Thánh lễ và Rước Mình Thánh Ngài. Như vậy, sự bình an của Chúa luôn ngự trị nơi tâm hồn chúng ta, có nghĩa rằng chúng ta luôn có Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Cho nên, khi ngỏ lời với các tín hữu trong Sứ điệp Phục sinh năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở rằng sức mạnh của người Kitô hữu đến từ cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô, và kêu gọi họ trở thành chứng nhân của hoà bình và công lý, nhất là cho những người ngày nay đang phải đau khổ tại những khu vực xảy ra bạo lực và khủng bố khốc liệt. Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha kêu gọi hướng đến những người đang đau khổ: “những người thiệt thòi, người bị giam cầm, người nghèo và những người di dân thường bị từ chối, ngược đãi và loại trừ, người bệnh tật và người đau khổ, các trẻ em, đặc biệt những người là nạn nhân của bạo lực”. Ngài kêu gọi họ hãy lắng nghe những lời đầy an ủi của Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì Thầy đã sống lại và sẽ luôn ở với anh em”. Và trong sứ điệp, Đức Thánh Cha quả quyết rằng: “Người Kitô hữu, nhờ ân sủng của Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, là những hạt giống của một nhân loại khác, trong đó chúng ta tìm cách sống phục vụ lẫn nhau, không ngạo mạn, nhưng tôn trọng và sẵn sàng giúp đỡ nhau. Ân sủng ấy là sức mạnh, chứ không phải sự yếu đuối. Nhưng, “những ai mang trong mình quyền năng của Thiên Chúa, tình yêu và công lý của Người thì không cần dùng đến bạo lực; họ nói và làm bằng sức mạnh của chân lý, của vẻ đẹp và tình yêu”.
Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có sự dữ nhưng hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.
8. Có Chúa cùng đi.
Cứ mỗi lần rảo bước dưới nắng chiều, tôi lại nhớ tới cái hình ảnh tuyệt vời khi Chúa Giêsu cũng đi bên cạnh hai môn đệ trên đường Emmaus.
Hôm đó là ngày thứ ba kể từ bữa Chúa Giêsu bị đóng đinh. Các môn đệ cũng có ý chờ xem động tĩnh ra sao, vì trước đó Ngài có nói ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Sáng sớm có mấy người phụ nữ ra mồ, rồi trở về báo tin ngôi mộ trống rỗng. Sau đó, một vài anh em đã vội vã chạy đi kiểm chứng. Nhưng rồi cũng có hai người chán nản bỏ về làng cũ, tên là Emmaus. Không ngờ dọc đường có một người cùng bước đi với họ. Nghe họ giãi bày tâm sự và lấy Kinh Thánh giải thích cho họ hiểu Đức Kitô phải chịu đau khổ trước khi vào vinh quang. Vì trời đã xế chiều, nên họ mời Ngài dừng chân với họ trong lữ quán. Đến lúc ngồi vào bàn ăn, họ mới nhận ra đó là Chúa Giêsu. Nhưng Ngài đã biến đi. Lập tức họ hối hả chạy về Giêrusalem để báo tin cho các bạn. Thế nhưng, khi họ vưa đến nơi, chưa kịp nói gì thì người ta đã cho biết: Chúa đã sống lại và hiện ra với Simon. Họ còn đang trao đổi, thì này Chúa Giêsu đã đứng giữa họ và nói: Bình an cho các con.
Đúng thế, Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài có mặt ở khắp nơi, Ngài cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời, từ thành phố đến đồng quê, từ quán trọ đến gia đình. Đâu đâu cũng có Ngài hiện diện. Trước khi chúng ta ra đi, Ngài đã ở đó. Đang khi chúng ta rảo bước, Ngài đã có ngay bên. Rồi trước khi chúng ta đến nơi, Ngài đã đứng đợi và đang khi chúng ta nghỉ mệt, Ngài đã thăm hỏi. Lúc nào cũng có Ngài.
Xưa kia ở Palestine, là một công nhân, Chúa Giêsu đã lao động như chúng ta với nghề thợ mộc. Ngài đã trải qua những ngày tháng long đong không nhà không cửa, những ngày tháng đói nghèo như chúng ta. Ngài ở ngay bên chúng ta, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của chúng ta. Không những chỉ chia sẻ, mà hơn thế nữa, là Thiên Chúa, Ngài còn có mặt ở đó để cứu giúp chúng ta.
Tại Cana, Ngài đã đến dự đám cưới với mọi người. Ngày nay Ngài cũng có mặt trong đám cưới của bất cứ đôi tân hôn nào, để họ được nối kết trong yeu thương. Rồi trong ngày tang tóc của gia đình Martha, Ngài đã đến thăm và làm cho Ladarô được sống lại. Hôm nay Ngài cũng đến trong gia đình chúng ta để an ủi khích lệ khi chúng ta gặp phải cánh đau buồn. Ngài đã làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để nuôi sống đám đông đi theo Ngài. Hôm nay Ngài cũng sẽ ban kết quả cho những lao công khó nhọc của chúng ta, để chúng ta có được những chém cơm, những manh áo.
Mục sư Richard Wurmbrand bị tù lâu năm chỉ vì là Kitô hữu. Có lúc ông đã chán nản tuyệt vọng, nhưng rồi ông lấy lại niềm cậy trông, khi nhớ tới lời hứa của Chúa: Đừng sợ, vì Ta ở với con. Rồi ông nói: Trong Đức Kitô có tất cả 365 chữ đừng sợ theo kiểu đo, nên tôi tự nhủ mỗi ngày chỉ sống một chữ cũng đủ rồi.
Hôm nay giữa mọi gian truân thử thách, Chúa cũng đang ở bên cạnh chúng ta để chia sẻ và nâng đỡ. Chúng ta có ý thức được điều đó hay không?
9. Emmaus.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy được sự chuyển biến tình cảm của hai môn đệ trên đường đi Emmau, chuyển biến đó khởi đi từ chỗ buồn nản đến chỗ phấn khởi và hăng hái.
Thực vậy, cũng như phần đông các môn đệ khác, các ong bước theo Chúa với tham vọng vật chất và trần tục: Chúa sẽ là vua, vương quốc của Ngài là một quốc gia vừa rộng lớn, vừa hùng mạnh, lại vừa giàu sang, còn bản thân các ông sẽ được giữ chức vụ này nọ hay chức vụ kia trong triều đình của Chúa. Mặc dầu luôn yêu mến Chúa, nhưng cái nhìn của các ông vẫn còn nặng mùi xôi thịt. Vì thế, khi Chúa bị treo trên thập giá, thì ước mơ của các ông tan theo mây khói. Các ông chán nản và thất vọng trở về với quê cũ, nghề xưa.
Như hai môn đệ trên đường Emmau chúng ta cũng hay tin vào mình và võ đoán, cho nên rất dễ sai lầm trong việc nhận định. Như hai môn đệ trên đường Emmau, chúng ta cũng hay chán nản và buồn phiền, chỉ vì thiếu tin tưởng vào Chúa hay vì để lòng mình quá vấn vương với những lợi lộc vật chất.
Trong việc tông đồ thường có hai kết quả. Kết quả bên ngoài tức là những lợi ích trần gian và kết quả bên trong tức là cái ảnh hưởng siêu nhiên. Nếu để ý quá đến những kết quả bên ngoài, chúng ta sẽ tự chuốc lấy cho mình những đắng cay và thất vọng. Trái lại nếu biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và làm hết sức mình, thì bao giờ chúng ta cũng có đủ lý do để lạc quan, chắc chắn rằng ảnh hưởng thiêng liêng thế nào cũng có, dù không có ngay hoặc không rõ rệt qua bên ngoài.
Giữa lúc các ông đang thất vọng và chán nản như thế, thì Chúa vẫn yêu thương các ông, muốn sửa lại cái quan niệm sai lầm và đem lại cho các ông niềm phấn khởi và hy vọng, nên Chúa đã hiện ra, cùng đi với các ông và cắt nghĩa Kinh Thánh để các ông hiểu rằng: Nước Chúa không phải là ở trần gian và thập giá chính là con đường tiến tới vinh quang.
Trái tim các ông bỗng ngập tràn niềm phấn khởi. Rồi sau đó tại quán trọ, các ông đã nhận biết Ngài khi Ngài bẻ bánh. Lúc ấy các ông thật sung sướng và phấn khởi. Lúc ấy các ông hăng hái đứng dậy, hối hả trở về tìm gặp các tông đồ, không quản ngại đường xa và đêm tối. Các ông không còn nghĩ đến công việc làm ăn ở làng Emmau nữa, mà trái lại các ông chỉ trông mong để được loan đi tin mừng phục sinh: Thầy đã sống lại và chúng tôi đã thấy Thầy.
Ước gì ánh sáng đức tin cũng bùng lên trong chúng ta, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ là những chứng nhân cho Tin mừng Phục sinh bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta.
10. Niềm tin thắng vượt sợ hãi
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin Mừng Lc 24: 35-48: Người kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thực xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh.
Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống như một người thiếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.
Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn, càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngựa. Cậu con thưa với vẻ do dự:
- Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình.
Nghe con nói thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:
- Với đèn sáng này, con thấy rõ đến đâu ?
Cậu trả lời: Con thấy rõ tới nữa đường ra cổng.
Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: Từ đó con nhìn tới đâu nữa ?
- Con nhìn rõ tới cổng, cậu đáp.
Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:
- Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.
Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.
Thưa anh chị em,
Chính các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu phục sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng là bóng ma. Tin mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối phục sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước đó, đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một "bóng ma" đi trên mặt nước. Các ông kêu rú lên "ma kìa!", nhưng đã được trấn an ngay: "Thầy đây, đừng sợ!" (Mc 6,47-50).
Chúng ta có thể đặt hai câu chuyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự phục sinh và thiên tính của Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác phục sinh, Ngài muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.
Chúa đã quở trách các tông đồ: "Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ ?" Lời quở trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạng thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy, vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: "Tại sao lại hoảng hốt và nghi ngờ" (Có Thầy đây mà còn sợ gì)?. Rồi Ngài đã ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã "thức dậy" rồi: Ngài đã sống lại rồi. Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã phục sinh và đang sống với anh em.
Tuy nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới an táng trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn vào thân xác mang thương tích của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: "Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy Thầy đây ?". Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.
Anh chị em thân mến,
Chúa Phục sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập giá, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác phục sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: "Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu phục sinh luôn ở bên cạnh, và niềm xác tín ấy đã làm cho các ông luôn được bình an và phấn khởi vui mừng.
Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, cho dù chúng ta sống ở đây, trong lúc này, thì Chúa Giêsu cũng ở gần chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày xưa, có khi còn gần gủi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta Thánh Thần là chính sự sống của Ngài, nhờ đó chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Có hai điều Chúa Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. "Đừng sợ, hãy tin!" "Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin ?" "Thầy đây, đừng sợ!" "Maria, tại sao bà khóc, bà tìm ai ?" "Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế ? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin ?"…Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: Chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!
Người kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thực xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt sợ hãi trước bóng tối cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết "Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian".
11. Gặp Chúa giữa lòng đời – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Sau cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, có hai môn đệ Người thất vọng cất bước trở về Em-mau, lòng đầy sầu muộn. Đức Giêsu, Đấng mà họ tin tưởng là vị lãnh tụ vĩ đại sẽ giải thoát Ít-ra-en, đã gục chết trong đau thương và mang niềm hy vọng của họ xuống mồ.
Đang lúc đó, Chúa phục sinh xuất hiện như một lữ khách cùng đi đường với họ, lấy lời Kinh thánh hâm nóng cõi lòng băng giá của họ, minh chứng cho họ biết Đấng Cứu Thế phải trải qua đau khổ như thế rồi mới tiến vào vinh quang. Thế mà suốt cả hành trình đó, hai môn đệ vẫn không nhận ra người bạn đồng hanh với mình là Chúa Giêsu.
Sau đó, Chúa phục sinh lại bất thần có mặt giữa các môn đệ trong một căn phòng tại Giê-ru-sa-lem. Mọi người kinh hồn bạt vía, vì tưởng là oan hồn của Chúa Giêsu hiện về!
Chúa Giêsu phải dùng nhiều cách tỏ cho họ biết Người đã thật sự sống lại, chứ không phải là ma. Người cho họ xem thương tích nơi tay chân, để chứng tỏ Người có xương có thịt chứ chẳng phải là vong hồn. Vì họ vẫn còn nghi ngờ nên Người lại đe nghị họ sờ tay chân Người để kiểm chứng. Thấy họ vẫn còn hoài nghi, Người lại ăn miếng cá nướng trước mặt họ để tỏ cho mọi người thấy ma đâu có nhai có nuốt như vậy.
Rồi tiếp đó, Chúa Giêsu dùng Kinh thánh để tỏ cho các môn đệ biết Người là Đấng Kitô đã phải trải qua đau khổ rồi mới phục sinh.
Bấy giờ mắt các môn đệ mới sáng ra và tin Người đã sống lại.
* * *
Các tông đồ xưa thật đáng trách vì được phúc đối diện với Chúa Giêsu mà không nhận ra Người. Nhưng xét lại, chúng ta cũng chẳng khá hơn vì hằng ngày Chúa Giêsu vẫn hiện diện giữa chúng ta mà chúng ta chẳng nhận ra Người.
Chúa Giêsu đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng: Người đang hiện diện nơi tha nhân và những anh chị em chung quanh là chi thể của Người (ICr 12, 27; I Cr 6, 15; ICr 10, 17), Người tự đồng hóa mình với tha nhân nên những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngươi (Mt 25, 40)... ["Vậy anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận" (ICr 12, 27);
"Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I Cr 6, 15);
"Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (I Cr 10, 17).
"Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40).]. Vậy mà chúng ta vẫn chưa xác tín lời Người dạy, chưa nhận ra Người đang sống bên cạnh, đang đồng hành với chúng ta.
Để diễn tả thực trạng đó, Cha Anthony de Mello, có ngụ ngôn sau đây:
Một con cá sống ở đại dương hỏi một con cá khác:
- Xin lỗi bác, bác già hơn và kinh nghiệm hơn cháu. Hẳn là bác có thể giúp cháu được. Xin bác hãy nói cho cháu biết: cháu có thể tìm thấy ở đâu điều mà người đời thường gọi là đại dương? Cháu đã tìm kiếm khắp nơi mà chẳng thấy.
Cá già nói:
- Đại dương ư? Cháu đang lội trong đó mà!
- Đây ư? Nhưng chỉ là nước thôi mà. Cái mà cháu tìm kiếm là đại dương kìa.
Rồi con cá non dại đó đã rất thất vọng ngoe nguẩy cái vây và lội đi tìm kiếm ở nơi khác.
[Anthony de Mello trong tác phẩm: "Như tiếng chim hót"]
Con cá bơi lội trong đại dương mà chẳng thấy đại dương đâu, chỉ thấy chung quanh toàn là nước. Thế rồi, con cá tội nghiệp đó vẫn thơ thẩn bơi lội đi tìm đại dương.
Chúng ta cũng như con cá bé bỏng đáng thương kia. Chúng ta đang kiếm tìm Thiên Chúa, chúng ta khao khát được gặp Chúa phục sinh, trong khi Người đang hiện diện chung quanh ta, đang đồng hành với ta, cùng ta làm việc, cùng ta sinh hoạt trong cùng một mái nhà, một xưởng máy... Vậy mà chúng ta đâu có nhận ra Người. Chúng ta tưởng Người ở nơi đâu xa lắm, mãi tít trên trời xanh; chúng ta tưởng chưng Người đang lởn vởn đâu đó như một bóng ma. Thế rồi, như con cá non dại kia, chúng ta thơ thẩn đi tìm Chúa ở những phương trời khác.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Con cá bé bỏng kia không ngờ rằng nước biển và đại dương chỉ la một nên nó đã hoài công bơi lội tìm kiếm điều mà nó vẫn được tiếp cận thường xuyên; chúng con cũng không ngờ rằng Chúa và tha nhân là một nên chúng con đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội được phục vụ và vui sống bên Ngài.
Xin giúp chúng con sớm giác ngộ để chấm dứt hành trình tìm kiếm Chúa cách viển vông nhưng biết dừng lại để yêu thương và phục vụ Chúa đang hiện diện nơi những anh chị em đang sống quanh mình. Amen.
12. Làm chứng cho biến cố Phục Sinh
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Đức Giêsu đã sống lại như lời Ngài đã báo trước, nhưng nhiều nguời còn hoài nghi. Sự kiện ngôi mồ trống chưa thể xác quyết được việc Chúa sống lại từ cõi chết. Ngày thứ nhất trong tuần, chính Đức Giêsu đã hiện ra với bà Maria Madalena từ sáng sớm, với hai môn đệ đi làng Emmau vào buổi chiều và với mười Tông đồ tại nhà Tiệc ly vào buổi tối, để chứng minh là Ngài đã sống lại thật.
Sau khi đã được thấy cả con người Phục sinh của Chúa với những lỗ đinh ở chân tay cùng với cạnh sườn, cũng như thấy Ngài cùng ăn với các ông, lúc đó các ông mới xác tín rằng Chúa đã sống lại. Các ông đã trở nên những chứng nhân trung thành của Chúa phục sinh, và từ đó, các ông đi loan truyền cho mọi người biến cố Phục sinh của Chúa.
Chúng ta không được diễm phúc trông thấy Chúa sống lại như các Tông đồ, nhưng nhờ Thánh kinh, chúng ta tin vững chắc Chúa đã sống lại. Việc Phục sinh của Chúa sẽ là nền tảng cho đời sống Kitô hữu chúng ta. Và từ nền tảng này, chúng ta sẽ loan báo Chúa Phục sinh cho những người chung quanh bằng cuộc sống thường ngày của chúng ta.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 3,13-15.17-19
Thánh Phêrô đã làm phép lạ chữa lành người què ở cửa Đền thờ, điều này làm cho nhiều người ngạc nhiên và bàn tán. Nhân dịp này, thánh Phêrô đã giảng cho người Do thái một bài rất hùng hồn. Ngài cho biết rằng phép lạ ngài làm cho người què đi được, không phải do quyền năng hay đạo đức riêng của mình, mà chính do nhân danh Đức Giêsu Kitô mà ông đã chữa lành. Đức Giêsu chính là người mà dân Do thái đã giết đi, nhưng nay Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết.
Sở dĩ người Do thái giết Đức Giêsu là Đấng Messia vì họ không biết. Vì vậy, họ hãy sám hối, từ bỏ tội lỗi và tin nhận Ngài để được ơn cứu độ.
+ Bài đọc 2: 1Ga 2,1-5
Khi hiến mình làm lễ vật hy sinh, Đức Kitô đã trở nên Đấng can thiệp rất thần thế cho chúng ta bên cạnh Chúa Cha. Nhiều người cho rằng mình đã “biết” Đức Giêsu, nhưng họ đã biết như thế nào? Thánh Gioan Tông đồ giải thích cho chúng ta thế nào là “biết” thật: ”Chính nơi điều này mà chúng ta biết rằng mình “biết” Đức Giêsu, đó là chúng ta giữ các giới răn của Ngài. Ai nói rằng mình “biết” Ngài mà không giữ giới răn Ngài thì ấy là kẻ nói dối”.
+ Bài Tin mừng: Lc 24,35-48
Khi sống lại từ cõi chết, Đức Giêsu đã hiện ra trước hết với Maria Madalena, rồi với hai môn đệ đi làng Emmau và với các tông đồ tại nhà Tiệc ly. Những lần hiện ra này là bằng chứng rõ ràng về sự kiện Ngài đã từ cõi chết sống lại. Chính nhóm Mười Một không tin Ngài sống lại, họ còn tưởng Đấng Phục sinh là một hồn ma. Đức Kitô đã phải để cho họ sờ tay chân Ngài và ăn một khúc cá nướng trước mặt họ để họ nhận ra Ngài.
Mối quan tâm đầu tiên của thánh Luca là chứng tỏ rằng Đức Giêsu Phục sinh chính là người mà các Tông đồ đã biết trước, khi Ngài chịu đóng đinh. Thánh nhân nhấn mạnh rằng sự sống lại về mặt thể xác của Đức Giêsu là có thật, nhưng lại giải thích rõ ràng rằng sự sống lại của Ngài không phải là cuộc trở lại với đời sống trần thế. Đức Giêsu đã sống lại với sự sống mới ở bên ngoài cái chết.
Vì thế, tất cả niềm tin của người Kitô hữu dựa trên biến cố Phục sinh này. Các Tông đồ đã chứng kiến tận mắt, nên lời chứng của các ngài rất đáng tin. Đồng thời Chúa cũng trao cho các ông sứ mệnh rao giảng Tin mừng Phục sinh cho muôn dân, để họ sám hối và được ơn tha tội, bởi vì “Chính anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24.48).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Làm chứng cho Chúa Phục sinh
I. ĐỨC GIÊSU LÀM CHỨNG VỀ MÌNH
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly. Biến cố này, Gioan cũng thuật lại trong Ga 20,19-23.
Với một cái nhìn chung, người ta nhận ra nơi Luca việc tường thuật các lần Chúa sống lại hiện ra được kể với ba hạng người: Trước tiên với các phụ nữ (Lc 24,1-12), rồi cho các môn đệ (Lc 24,13-25), và cuối cùng cho các Tông đồ, tức nhóm Mười Hai (Lc 24, 35-48). Đó là ba nhóm người mà khi Chúa đi rao giảng, đã liên kết với Chúa một cách chặt chẽ, tuy nhiên với mức độ khác nhau.
Qua các lần hiện ra, Đức Giêsu làm chứng rằng mình đã sống lại bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các Tông đồ tin, Ngài đã làm hết mọi cách từ tâm lý đến vật lý, từ lịch sử đến thực hiện đúng lời đã hứa.
Bởi vậy, khi Luca kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một Tông đồ lúc đêm xuống, thì ông nhấn mạnh việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Ngài. Khi các môn đệ thấy Ngài thì họ tưởng mình thấy ma, hoặc là hồn Ngài hiện về. Đánh tan cảm tưởng sai lầm đó, Đức Giêsu đã vận dụng mọi giác quan để chứng tỏ Ngài có một thân thể không phải phi vật chất hay linh thiêng, nhưng là một thân thể có xương có thịt, mà hôm thứ sáu đã bị đóng đinh vào thập giá và được táng trong mồ. Chính là thân thể vật chất ấy với những dấu đinh, với cạnh nương long mà các ông trông thấy và có thể sờ vào được.
Để chứng minh tính chất vật chất của thân thể mình, Ngài cầm lấy miếng cá nướng và ăn trước mặt các ông và đưa cho các ông cùng ăn.
Khi các Tông đồ đã trở về tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi, Chúa mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch sử:”Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Maisen, các sách tiên tri và các Thánh vịnh đã chép về Thầy, đều phải được ứng nghiệm”.
Đức Giêsu nói cho các Tông đồ biết toàn bộ Kinh thánh đã ứng nghiệm về Ngài. Nếu Thánh kinh không ứng nghiệm về Ngài, thì toàn bộ Thánh kinh là giả dối vì Thánh kinh loan báo về Đấng cứu độ và ngoài Đức Giêsu ra không ai đem lại ơn cứu độ (Cv 4,12). Để thấy rõ như thế, Ngài đã “dẫn giải cho các ông những điều viết về Ngài trong toàn bộ Thánh kinh”(Lc 24,27). Để có thời gian giải thích, chắc Ngài còn phải ở với các ông lâu dài, như thánh Luca đã xác định là 40 ngày được ghi rõ trong sách Công vụ tông đồ:”Ngài lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Ngài vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”(Cv 1,3). Thời gian 40 ngày đã quá đủ để các Tông đồ thấy chắc chắn: Thầy đã sống lại thật.
II. CÁC TÔNG ĐỒ LÀM CHỨNG VỀ CHÚA
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca nhắc lại cho chúng ta lời Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ khi Ngài sống lại:”Phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này”(Lc 24,47-48).
Trong bài đọc một, thánh Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Đức Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Ngài và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử không thấy tội gì. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi đã phạm, họ đã ăn năn sám hối:”Hôm ấy đã có thêm khoảng 3000 người theo đạo”(Cv 2,41).
Trong bài đọc hai, thánh Gioan đã làm chứng về “ Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cho cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời Đức Kitô là kẻ nói láo.
Nhìn vào lịch sử truyền giáo, chúng ta thấy các Tông đồ, những chứng nhân trung thực, đã đi rao giảng Đức Giêsu chịu chết và phục sinh cho muôn dân, nghĩa là sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu thế... các Tông đồ đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.
Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực nào hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố:”Chúng tôi xin làm chứng”. Dù đứng trước toà án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khảng khái thưa:”Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe”.
Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chịu chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 Tông đồ, lại có biết bao lớp Tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
III. CHÚNG TA LÀM CHỨNG VỀ ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH
Đức Kitô đã làm chứng về Ngài đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các Tông đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức làm chứng về Ngài.
1. Giáo huấn của Hội thánh
Trong sắc lệnh Tông đồ giáo dân của công đồng Vatican II, Hội thánh nhắc nhở cho các tín hữu nhiệm vụ làm tông đồ và làm chứng nhân bởi vì nhiệm vụ này phát xuất từ bí tích Thánh tẩy:
“Hình thức đặc biệt của hoạt động tông đồ cá nhân là giúp giáo dân làm chứng bằng cả đời sống phát xuất từ đức tin, đức cậy, đức mến. Đó là dấu chỉ rất thích hợp trong thời đại chúng ta để biểu lộ Chúa Kitô sống động trong các tín hữu của Người. Cùng với việc tông đồ bằng lời nói mà trong một số hoàn cảnh lại rất cần thiết người giáo dân rao giảng Chúa Kitô cắt nghĩa và phổ biến giáo lý của Người tùy theo hoàn cảnh và tài năng của mỗi người, đồng thời họ cũng trung thành tuyên xưng giáo lý của Người nữa”.
(Sác lệnh tông đồ giáo dân, số 16)
2. Làm chứng là gì?
Làm chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh qua hay đã kinh nghiệm. Hay nói cách khác, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã nghe, đã trải qua. Ở toà án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều mắt thấy tai nghe, và phải nói đúng sự thực như mình đã thấy. Chứng nhân càng có uy tín thì lời chứng của mình càng có giá trị, khiến người khác dễ bị thuyết phục. Ngược lại, những người không có uy tín thì khiến những lời nói của mình không có tính thuyết phục, đôi khi lại trở nên phản chứng.
3. Làm chứng như thế nào?
Làm chứng cho Đức Giêsu đâu có phải là chỉ kể lại cho kẻ khác về đời sống của một vĩ nhân đã sống cách đây 2000 năm. Ai cũng có thể làm được điều này. Làm chứng cho Đức Giêsu đâu phải chỉ là xác nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại. Đám lính cánh gác mồ cũng đã làm như thế. Làm chứng cho Đức Giêsu chính là dùng chính cuộc sống của mình để chứng tỏ rằng quyền năng của Đức Giêsu sống lại đã tác động và biến đổi chúng ta một cách lạ lùng nhất, có thể tưởng tượng được. Làm chứng nhân cho Đức Giêsu là để cho Ngài ngỏ lời với tha nhân ngang qua chúng ta, nghĩa là dùng chúng ta để nói với kẻ khác.
Truyện: Làm chứng bằng đời sống.
Cách đây ít lâu, trong một cuộc hội thảo của giới trẻ về đề tài” Truyền giáo năm 2000”, nhiều bạn trẻ đề nghị phải xử dụng tối đa các phương tiện truyền thông tân tiến trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20, gồm sách vở báo chí, phim ảnh có phẩm chất và hấp dẫn, để rao giảng Tin Mừng cho mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Một số bạn trẻ khác nhấn mạnh đến công tác xã hội và bác ái. Một số bạn trẻ khác đi xa hơn bằng cách đề nghị Giáo hội chống lại những bất công xã hội, những chà đạp quyền con người, để xây dựng công lý và hoà hợp.
Trong lúc mọi người đang hăng hái đưa ra những chương trình to lớn và đề nghị những hoạt động vĩ đại, thì một thiếu nữ da mầu giơ tay xin phát biểu:”Tại Phi châu nghèo nàn và chậm tiến của chúng tôi, chúng tôi không gửi, hay đúng hơn không có khả năng gửi đến những làng chúng tôi muốn truyền giáo những sách vở, báo chí, phim ảnh, chúng tôi chỉ gửi đến đó một gia đình công giáo tốt, để dân làng thấy thế nào là đời sống Kitô giáo.
(R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọng, tr 208)
Thánh Phaolô nhận thấy mình có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng, nếu không là một điều có lỗi lớn:”Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Nếu muốn rao giảng Lời Chúa thì mỗi người có trách nhiệm phải lắng nghe và thực hành lời Chúa vì không nghe thì làm sao mà biết, không biết thì làm sao có thể rao giảng Lời Chúa bằng cách này hay cách khác cho những người chung quanh. Mỗi Chúa nhật có một bài giảng, mỗi năm có 54 tuần lễ, tức là có 54 bài chia sẻ lời Chúa. Nhưng chúng ta đã lãnh nhận như thế nào? Đành rằng có nhiều thứ bài giảng cũng như bánh chia có nhiều loại, bánh mặn, bánh lạt, bánh khô, bánh ướt, thì Lời Chúa qua thừa tác viên, đến với ta cũng vậy, có bài dài bài ngắn, bài hấp dẫn bài buồn ngủ...
Vào giây phút cuối cuộc đời, văn sĩ John Bayern đã nói những lời từ giã người vợ thân yêu như sau:”Mình yêu dấu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.
“Trong gương mặt của mình tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa”. Mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống như thế nào, để anh em chung quanh có thể nói tương tự: ”Trong gương mặt của anh, tôi có thể nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn bạn vô cùng”. Đó là ơn gọi cao cả của mỗi người Kitô hữu được gọi trở nên giống Chúa, và làm cho những người khác nhìn thấy Chúa như trong Tin mừng theo thánh Matthêu. Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ:”Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của người Kitô hữu đến độ Chúa so sánh cuộc sống của họ như đèn sáng: ”Các con là anh sáng thế gian”. Ánh sáng đó cần phải chiếu sáng trước mặt người đời, ngõ hầu họ thấy việc lành mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. (Hạt giống âm thầm, tr 178)
Ta hãy suy nghĩ về đoạn văn trích từ lá thư mục vụ của Giám mục Duval của Pháp:
“Dù có phát biểu khéo léo đến đâu, những tư tưởng trừu tượng cũng khó mà cảm động được lòng người. Nhưng những con người sống động, có khả năng làm cảm động lòng người, những người đó hãy xung phong bước ra. Hãy để cho chân lý trào ra từ cuộc sống của mình, và hãy làm cho quyền năng của mình tương xứng với món quà mà mình trao tặng bằng tình yêu. Lúc đó mọi người sẽ lắng tai nghe, và bình minh của những ngày tươi sáng sẽ bừng lên trên bầu trời của chúng ta”.
Truyện: Gương lành lôi kéo.
Một nhà truyền giáo Ấn độ, ông Gordon M. Suer đã xin một tín đồ Ấn độ giáo sống bên cạnh, để nuôi dạy ông học tiếng bản xứ, nhưng tín đồ Ấn độ giáo này từ chối như sau:
- Thưa ngài, tôi không đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì tôi không muốn trở nên người Kitô hữu.
Nhà truyền giáo trả lời:
- Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao thiệp với những người chung quanh, để hiểu biết họ hơn chứ không nhằm bắt họ phải trở lại đạo Chúa.
Nhưng người tín đồ Ấn giáo đáp lại:
- Thưa ngài, tôi biết vậy nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không ai có thể sống bên cạnh ngài lâu, mà không bị ngài cảm hóa tin theo Chúa. Tôi không thể dạy ngài, vì tôi không thể sống bên cạnh ngài mà không trở thành người Kitô hữu.
Mỗi người chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô, đều có trách nhiệm sống ơn gọi của mình như thế nào để có thể làm chứng cho Chúa trong mọi nơi, mọi hoàn cảnh. “Không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng người Kitô hữu có bổn phận thể hiện dung mạo Thiên Chúa cho anh em chung quanh. Qua tình thương nhân từ của chúng ta, qua những việc tốt lành chúng ta làm, anh chị em chung quanh có thể hiểu được Thiên Chúa là Đấng tràn đầy tình thương nhân từ. Qua sự sẵn sàng tha thứ của chúng ta cho kẻ khác, anh em chung quanh cảm thấy được Thiên Chúa là Đấng hay tha thứ (Sđd, tr 179).
13. Chúa đã sống lại thật. Alleluia.
Nhưng các ông vẫn còn “nghi” hoài
Việc sống lại từ cõi chết là siêu nghiệm không chứng minh được từ những sự kiện cụ thể (lịch sử). Lúc ban đầu thì quá mới mẻ, xa lạ. Sự kiện mồ trống và vài lần hiện ra chơp nhoáng không chứng minh nổi, nên các tông đồ vẫn hoài nghi. Cho tới khi Chúa lên trới vẫn còn có người hoài nghi.
Ngày nay, sau hơn 20 thế kỷ, sự kiện xem ra còn xa vời hơn. Những cố gắng giải thích cũng vẫn còn để lại “hoài nghi”, vẫn lẩn quẩn trong não trạng tín điều với tiên kiến “Kinh Thánh phải được ứng nghiệm” hay phải được thực hiện, không có cách chứng minh nào thật sự thuyết phục. Phải hiểu đoạn Phúc Âm nầy của Luca thế nào? Trước hết chúng ta xem qua vài điểm chú giải.
- Chúa Giêsu đứng giữa các ông....các ông hoảng hồn tưởng là thấy ma: Cũng như chuyện nghe kể thấy “người chết hay ma hiện về” nên hoảng hốt là tự nhiên.
- Sao hoảng hốt, sao ngờ vực, nhìn chân tay Thầy đây, chính Thầy mà, rờ xem, ma đâu có xương thịt như Thầy đây, rồi người đưa tay chân cho các ông xem: Có lẽ không ai dám rờ. Sợ ma.
- Các ông chưa tin vì vui mừng quá và còn đang ngỡ ngàng: Vui mừng thì tin chứ. Ngỡ ngàng cũng tin chứ. Sao lại chưa tin? Vì tưởng thấy ma mà.
- Người hỏi “anh em có gì ăn không”? Các ông đưa cho người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Ăn cho thấy để chứng minh Chúa sống lại có thân xác như người thật. Nhưng chợt đến chợt đi khi cửa vẫn đóng kín lại giống như ma. Và thật sự sống lại đâu cần ăn.
- Khi còn ở với anh em Thầy đã nói với anh em “Sách Luật Môsê, sách các tiên tri và các Thánhvị nh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”: Đức Giêsu đã thực hiện những gì được tiên báo.
- Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh: Là hoạt động của Đấng Phục Sinh. Đức Giêsu đã nói trước: Nguời sẽ ban Thánh Thần để đưa các môn đệ đến sự thật trọn vẹn, giúp các ông hiểu và nhớ những gì Ngưòi đã dạy. Và Người thực hiện bằng cách nầy.
- Phải nhân danh Người mà rao giảng sự sám hối để được ơn tha tội: Là mục đích chính của sự hiện ra. Nhưng để các ông chịu đi rao giảng và biết rao giảng những gì thì trước hết các ông phải TIN VÀ NHỜ TIN MÀ NHẬN ĐUỢC QUYỀN NĂNG TỪ ĐẤNG PHỤC SINH thì phải làm cho các ông tin Người đã thực sự sống lại.
Điều chủ yếu là tin Chúa đã sống lại thật và vinh quang thì mới đủ thẩm quyền sai đi và quyền năng của Đấng Phục Sinh mới làm cho công việc các ông được sai làm có kết quả mỹ mãn. Các tông đồ có được điều nầy nen ngay lúc bắt đầu đã đạt kết quả lạ lùng. Sự việc đã xảy ra thế nào? Có lẽ cho đến gần đây sự việc mới được nhận biết rõ ràng. Các bằng chứng bên ngoài không bao giờ đủ chứng minh một sự kiện siêu nghiệm quá lơn lao, vượt xa mọi suy luận của lý trí con người. Phúc Âm không thể che dấu sự kiện “các ông vẫn hoài nghi, còn có người hoài nghi, các ông vẫn chưa tin”. Tôma nói khẳng khái “không tin”. Các ông khác thì ấm ớ, không dám nói ra.
Chỉ sự cảm nghiệm bản thân của mỗi người mới làm cho tin và cũng tuỳ sự cảm nghiệm ấy mà tin thế nào. Nó ở trong chính bản thân mình, là chính con người mình. Nó biến đổi con người mình cách lạ lùng thành mới hoàn toàn. Chẳng những chính bản thân nhận biết mà những người nghe rao giảng, được tiếp xúc với cũng nhận ra điều biến đổi ấy một cách thuyết phục “ngày đầu tiên rao giảng có ba ngàn người tin”. Quá ấn tượng. Là công trình của Đấng Phục Sinh. Chỉ những người cảm nghiệm được mới tin và tin theo như đã cảm nghiệm.
Bắt đầu là “lòng chúng ta đã chẳng nóng lên trong ta khi Người giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao”. Hai môn đệ đi về miền quê đã được Luca ghi lại như vậy. Tiếp theo Luca thêm “ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”. Đó là bắt đầu hoạt dộng của Đấng Phục Sinh nhờ Thánh Thần. Luca cũng cho biết thêm” Người ở lại bốn mươi ngày dạy dỗ các ong đủ mọi điều rồi mới lên trời. Mười ngày sau các ông hợp nhau cầu nguyện và Thánh Thần ngự xuống. Các ông mở cửa, xông ra gặp dân chúng và rao giảng Đức Giêsu mà các ông đã giết treo thập giá đã sống lại vinh quang. Chúng tôi làm chứng. Lời giảng thông minh, mạnh mẽ, can đảm. Mọi người ngạc nhiên và tin các ông vì các ông là bằng chứng
sống động trước mắt mọi người. Hôm đó có ba ngàn người tin và chịu phép rửa. Lòng tin vào Chúa sống lại chỉ được cảm nhận từ bên trong tâm hồn chứ không thể chứng minh từ bên ngoài. Các tông đồ trước hết vì các ông là những người được tuyển chọn, đã ở với Đức Giêsu từ ban đầu, được huấn luyện riêng cách đặc biệt, là chứng nhân nhản tiển mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu, được Đức Giêsu Phục Sinh ban Thánh Thần của Người cho và Thánh Thần đã tác động biến đổi các ông, không đột biến nhưng tiệm tiến trong “40 ngày + 10 ngày”.
Các tông đồ đã làm ra công thức để rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh như sau:"Người vẫn sống, đang hiện diện và đang hoat động bằng THÁNH THẦN". Không thấy Đấng Phục Sinh (dù có thấy cũng chỉ một thoáng) nhưng thấy hoạt động vô cùng ấn tượng của Thần Khí của Người. Là bằng chứng không thể chối bỏ vì rõ ràng trước mắt và tồn tại kiểm chứng được.
Với con người được biến đổi và cùng với tác động của Thần Khí các ông giải thích những gì Đức Giêsu đã làm và đã dạy và Kinh Thánh với công thức "Đức Giêsu là Tin Mừng, Người làm cho Cựu Ước trở thành Tin Mừng và các sách Tân Ước khác cũng là Tin Mừng". Đức Giêsu là chìa khoá giải thích toàn bộ Kinh Thánh. Người đã thực hiện toàn bộ Kinh Thánh. Công thức thường dùng “để Kinh Thánh được nên trọn hoặc để Kinh Thánh được thực hiện” làm cho nghĩ rằng các thánh sữ lấy những đoạn Kinh Thánh Cựu Ước có liên quan đến Đức Giêsu ráp lại thánh những chuyện về Phục Sinh và cả về Giáng Sinh (không cần có xảy ra hay không). Phải giải thích Kinh Thánh theo những gì Đức Giêsu đã thực hiện. Đức Giêsu là sự giải thích Kinh Thánh.
Các tông đồ rao giảng Đức Giêsu đã chịu đóng đinh chết thập giá, đã sống lại với niềm tin không gì lay chuyển dù hình khổ hay sự chết và những điều kỳ lạ các ngài làm được nhân danh niềm tin ấy đã tạo ra một cộng đoàn tín hữu ngày càng lớn mạnh rất nhanh dù ngay khi còn trong trứng nước đã bị thế lực hùng hạnh gấp ngàn lần lả Quyền lực của đế quốc Rôma cũng không quật ngả nỗi mà còn ngược lại làm cho lan rộng và tăng số nhanh hơn. Đây còn là dấu lạ lớn làm bằng chứng hùng hồn là CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT. ALLELUIA. Vậy mà ngày nay chúng ta còn chưa tin sao?
14. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật lại việc Đức Kitô Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ. Lần hiện ra đặc biệt này, Ngài ban cho các ông ơn bình an, soi sáng cho các ông am hiểu Kinh Thánh và ra lệnh cho các ông phải làm chứng nhân về sự chết và sự phục sinh của Ngài.
1. Đức Kitô Phục Sinh ban bình an cho các Tông đồ
Sau khi Đức Giêsu bị bắt, các Tông đồ hoang mang lo sợ. Vì thế, hầu hết các ông đều bỏ trốn. Phêrô chối Thầy ba lần. Trên đồi Canvê chỉ còn lại Thánh Gioan, Đức Mẹ và một số phụ nữ. Nỗi hoang mang lo sợ càng gia tăng khi Thầy đã chết và được táng trong mộ. Cụ thể, các ông vào phòng đóng kín cửa lại. Một vài môn đệ thì bỏ về quê. Cũng vì hoang mang lo sợ nên khi thấy Thầy hiện ra thì họ lại tưởng là ma. Đức Kitô Phục Sinh thấu hiểu tình trạng sợ hãi lo lắng của các ông, nên lần hiện ra này Ngài đã ban bình an cho các ông. Ngài nói: “Bình an cho các con.” Được ban ơn bình an của Đức Kitô Phục Sinh, các ông không còn sợ hãi gì nữa. Từ nay các ông mạnh dạn rao giảng và làm chứng cho Ngài dù phải bắt bớ tù tội và chết chóc.
Ngày hôm nay, Đức Kitô Phục Sinh vẫn tiếp tục ban ơn bình an cho chúng ta. Nhưng để lãnh nhận ơn bình an của Ngài, chúng ta phải giữ mình sạch tội, nhất là tội trọng. Và khi đón nhận bình an của Chúa Phục Sinh, chúng ta phải có trách nhiệm trao ban bình an cho những người xung quanh.
2. Đức Kitô Phục Sinh soi sáng cho các Tông đồ am hiểu Kinh Thánh
Trong suốt ba năm đi theo Thầy, các Tông đồ đã được Đức Giêsu giảng dạy rất nhiều điều, nhưng hầu như các ông chưa hiểu được bao nhiêu. Có những lần, nghe giảng xong, các ông lại xin Thầy giải thích thêm. Chẳng hạn, khi Đức Giêsu giảng xong dụ ngôn người đi gieo giống, “các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì.” (Lc 8,9). Đức Giêsu đã giải thích cho họ một cách rõ ràng. Khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc thương khó và sự phục sinh của Ngài, các ông không hiểu nên Thánh Phêrô đã can ngăn Ngài. Vì thế, hôm nay Ngài nhắc lại và mở trí cho các ông hiểu: “Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh.” Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh. Người lại nói: “Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại.”(Lc 24, 44-45)
Cũng vậy, khi Đức Giêsu bảo rằng: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Các ông không hiểu lời Ngài nói, nên Người Do Thái mới nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?”Nhưng sau này các ông mới hiểu, chính Thánh Gioan cho chúng ta biết rằng: “Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói.” (x. Ga 2,19-21)
Ngoài những vấn đề được đề cập trên, còn rất nhiều vấn đề khác, các Tông đồ chỉ hiểu sau khi Đức Kitô Phục Sinh soi lòng mở trí cho họ. Nhờ đó, bốn thánh ký đã ghi lại những lời Đức Giêsu đã nói và những việc Ngài đã làm, đồng thời các ông mạnh dạn giải thích Kinh Thánh cho mọi người.
3. Đức Kitô Phục Sinh mời gọi các Tông đồ làm chứng về sự chết và phục sinh của Ngài.
Sau khi ban bình an và soi sáng cho các Tông đồ hiểu Kinh Thánh, nhất là tin nhận về sự chết và phục sinh của Ngài, Đức Giêsu mời gọi các ông làm chứng về những sự việc đó. Các ông đã vâng nghe lời Đức Giêsu và ra đi rao giảng Tin mừng khắp mọi nơi. Bài đọc I hôm nay cho chúng ta biết, khi thấy dân chúng ngạc nhiên và bàn tán với nhau về phép lạ chữa lành cho người què, Thánh Phêrô giải thích cho họ biết: Phép lạ Ngài làm không phải do quyền năng của mình nhưng là do quyền năng của Đấng Phục Sinh ban cho. Rồi Ngài làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh rằng: “Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng.”(Cv 3,13-15). Sau những lời giảng dạy hùng hồn như thế, Ngài mời gọi dân Do thái: “Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Ðức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ.”(Cv 3,17-19). Bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu hút được khoảng 3000 người trở lại.
Trong bài đọc thứ II, Thánh Gioan cũng làm chứng cho Đức Kitô là Đấng công chính, làm trạng sư cho chúng ta nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta làm chứng cho Ngài bằng cách giữ các giới răn của Người vì “Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý.”(1 Ga 2,4)
Mặc dầu các Tông đồ gặp nhiều cấm cách, bắt bớ, tù tội khi đi rao giảng và làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh nhưng các ông luôn luôn can đảm không hề cảm thấy sợ hãi. Chính thánh Phêrô và các Tông đồ khác khẳng định rằng: “phải vâng lời Thiên Chúa còn hơn là vâng lời người đời.” (Cv 5,29). Thực sự như thế, hầu hết các môn đệ đã lấy cái chết của mình để làm chứng cho niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Sự can đảm làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh của các Tông đồ cũng là động lực giúp chúng ta chu toàn sứ mạng rao giảng Tin mừng cho mọi người trong thời đại hôm nay.
4. Đức Kitô Phục Sinh muốn gì nơi chúng ta?
Chúng ta không được vinh dự gặp Đức Kitô Phục Sinh hiện ra, nhưng qua Kinh Thánh chúng ta tin thật Đức Kitô đã phục sinh. Mặt khác, qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta cũng được Đức Kitô Phục Sinh ban Thánh Thần. Nhờ thế, Chúa Thánh Thần luôn soi sáng cho chúng ta am hiểu Kinh Thánh. Ngoài ra, Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta và sẵn sàng ban ơn Bình an của Ngài cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta cũng có trách nhiệm làm chứng về sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô bằng lời nói và bằng chính cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Lạy Chúa Kitô Phục sinh, xin ban bình an cho chúng con, xin soi sáng cho chúng con để chúng con am hiểu Kinh Thánh để từ đó chúng con can đảm làm chứng cho Chúa khắp mọi nơi. Amen.
15. Tình yêu - Tính vững bền và sự đòi hỏi
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
Tình yêu như một đòi hỏi và phải mang tính bền lâu
“Ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy, tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo (1 Ga 2,5).
Lá thư thứ nhất của Thánh Gioan tông đồ vừa giúp khai sáng, nhưng lại vừa mang chở những tư tưởng xem ra có vẻ khá rời rạc. Nội dung gồm chứa những huấn dụ mạnh mẽ, nhưng dường như những tư tưởng đó không được liên kết với nhau chặt chẽ cho lắm. Bài đọc ngắn trong phụng vụ hôm nay cho ta thấy điều này. Nó chất chứa nhiều tư tưởng nhưng đan nối với nhau có vẻ như không được khúc chiết và cũng chẳng mạch lạc. Tư tưởng thứ nhất, thánh tông đồ trình bày: Nếu chúng ta phạm tội, chúng ta có một Đấng Bào Chữa trước mặt Chua Cha. Đó là Đức Giêsu Kitô - Đấng Công Chính. Sau đó, Thánh Gioan viết tiếp “Những ai không tuân giữ giới răn của Ngài, đó là kẻ nói dối”. Cuối cùng Ngài khẳng quyết “Ai giữ lời Ngài, tình yêu của Thiên Chúa sẽ thực sự nên trọn hảo nơi họ”. Đây là ba tư tưởng xem ra chẳng liên thông gì với nhau cả.
Khi tôi đọc luận văn của các sinh viên và thấy họ viết như thế, tôi sẽ nói các em phải viết lại, diễn nghĩa rõ hơn và nhất là phải nối kết những tư tưởng lại một cách rõ nét hơn.
Nhưng dường như Thánh Gioan tông đồ muốn chúng ta tự làm công việc này cho chính mình. Chúng ta sẽ dễ dàng đan nối các tư tưởng lại thành một hệ thống khi chúng ta nhận ra rằng, chủ đề chính yếu mà thánh Gioan muốn nói tới, chính là Tình yêu. Trong Tin mừng thứ tư, chúng ta thấy rất rõ điều này. Nền tảng thần học căn bản mà Thánh Gioan muốn diễn đạt, nằm trong lời tâm huyết của Đức Giêsu: “ Như thầy đã yêu mến anh em, anh em cũng phải mến thương nhau” (Ga 13,24). Hãy yêu thương, nhưng phải sao chép lại chính tình yêu của Chúa Giêsu, và đó không phải là một việc giản đơn dễ thực hiện. Tác giả Dostoyevsky trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov cũng đã viết một tư tưởng giống như thế:“Tình yêu được thực hiện bằng hành động là một điều gì rất khó khăn và gian nan, không như tình yêu chỉ có ở trong mơ tưởng”. Tình yêu thực sự phải vươn tới một cấp độ cao hơn, và nó chạm tới chân lý tận sâu thẳm nơi hữu thể con người chúng ta: Bởi vì chúng ta được dựng nên, chính là để yêu thương. Vì lý do này, tình yêu là một huyền nhiệm rất cao đẹp và trong sáng. Chỉ trong tình yêu, chúng ta mới có thể tìm về căn tính và khám phá ra thiện ích đích thực ẩn sâu nơi mỗi người.
Vì vậy, tuân giữ Lời Chúa chính là chúng ta diễn bày tình yêu đối với Chúa, và cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa được hiện thực tròn đầy nơi ta. Không tuân giữ giới răn của Chúa, chính là phủ nhận chân lý sâu xa ẩn tàng nơi mình, cũng như phủ nhận sự thật về mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện hữu trong thâm sâu cõi lòng của chính chúng ta.
Trên một bình diện, giới răn của Thiên Chúa được dàn trải qua nhiều dạng thức, từ việc sống ngay thật không gian dối như một nền tảng, đến việc thực hành những điều ngay chính trong cuộc sống đời thường. Nhưng trên một bình diện khác, tình yêu chỉ tóm kết vào một định thức giản đơn duy nhất: “Yêu mến là chu toàn lề luật”(Rm 13,8). Điều này dễ hiểu, bởi lẽ Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4,8). Nơi nào vắng bóng tình yêu, nơi đó không có Thiên Chúa. Cuộc sống chúng ta cho dù bề ngoài xem ra có vẻ tốt lành, nhưng nếu tâm hồn cằn cỗi tình yêu, sự thật sẽ không có nơi chúng ta.
Vì vậy, thực hành tình yêu không phải là một công việc đơn giản. Đó là một mệnh lệnh, và mệnh lệnh đó chạm tới sâu thẳm hữu thể nơi con người mình. Tình yêu đích thực và tinh ròng không bao giờ là tình yêu nửa vời. Nhìn vào bản thân, chúng ta có thể nghiệm ra rằng trong khi tình yêu của Thiên Chúa rất mực hoàn hảo trong ta, thì nơi con người chúng ta, vẫn còn quá nhiều bất toàn và thiếu xót.
Tuy nhiên, khi chúng ta sa ngã, chúng ta không được tuyệt vọng và buông xuôi, để mặc cho sự dữ tung hoành. Bài đọc hôm nay trấn an và cho chúng ta biết rằng “Chúng ta có một trạng sư bào chữa trước mặt Chúa Cha”. Nhưng chúng ta đừng nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ ra tay can thiệp, và Ngài sẽ là một luật sư “cãi hộ” cho chúng ta trong ngày phán xét chung thẩm. Không phải thế đâu. Thánh Gioan muốn nói rằng Đức Giêsu đã tự nguyện hiến tế trên thập giá, và hiến tế đó diễn bày vai trò trạng sư của Ngài. Sự tự hủy ra không nơi Ngài là một quà tặng dâng lên Chúa Cha, thay cho chúng ta. Qùa tặng đó là cách thức diễn bày tình yêu của Chúa, một tình yêu vĩnh cửu và vững bền để cột trói chúng ta với Chúa Cha. Ơn cứu độ ở đây nói lên tính cách trạng sư biện hộ nơi Ngài, để phục vụ cho thiện ích của con người. Hiểu như vậy, chúng ta mới có thể khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa được thực hiện tròn hảo qua hy lễ thập giá. Tình yêu đó được ban trao, và chính Thiên Chúa gọi mời chúng ta đi vào trong quỹ đạo tình yêu của Ngài để sống chân lý sâu xa từ sâu tận trong tâm hồn chúng ta.
Cuộc sống anh hùng không phải là một cuộc sống với những hành động hiển hách được mọi người biết đến và vỗ tay ca ngợi. Song, sự anh hùng thực sự chính là khi chúng ta cho dù sống thầm lặng, nhưng luôn kiên trung trong một tình yêu bền vững.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của Thánh nữ Têrêsa thành Lisieux. Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã tôn phong Ngài tước hiệu tiến sĩ hội thánh. Cuộc sống của Ngài khá dung dị và thầm lặng, nhưng lại rất sâu sa. Ngài đã thuật lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn như sau: “Đây là cách thái mà cuộc sống tôi đã trải qua. Tôi chẳng biết làm những công việc phi thường, những chỉ thực hiện những điều rất bình thường tựa như kết dệt cuộc đời tôi bằng những bông hoa đơn sơ và nhỏ bé. Tôi không bỏ qua bất cứ sự hy sinh bé nhỏ nào mà tôi có thể làm được, tư ánh mắt, từ lời nói, hay cử chỉ. Và tôi luôn thực hiện những hy sinh nhỏ bé ấy bằng một tình yêu lớn lao dành trao cho Chúa.
16. Cho họ xem tay và cạnh sườn
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Biến cố Đức Giêsu Phục Sinh quả là một biến cố vô cùng quan trọng, vì nhờ biến cố này các tông đồ, và qua các tông đồ đến các Kitô hữu, hiểu biết hơn về Đức Giêsu và về Thiên Chúa. Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời qua Đức Giêsu Kitô.
I. Đức Giêsu cố chứng minh cho các tông đồ Ngài thực sự đang sống
Theo tin mừng Luca hôm nay, trong khi hai môn đệ trên đường Emmau trở về đang loan báo tin mừng Phục Sinh cho các tông đồ và các môn đệ khác, thì Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các ông. Họ rúng động và sợ hãi vì tưởng mình thấy ma. Đức Giêsu đã cố gắng trấn an và thuyết phục họ: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc.24, 39). Và không chỉ vậy, chính Đức Giêsu đã đưa tay chân cho các tông đồ kiểm chứng (Lc.24, 40).
Tuy vậy, dường như các tông đồ vẫn còn chưa tin, nên Đức Giêsu nói với các ông: “Ở đây anh em có gì ăn không? Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông” (Lc.24, 41-43). Người ta có cảm tưởng Đức Giêsu cũng vất vả thuyết phục và chứng minh cho các tông đồ rằng Ngài đã sống lại, Ngài hiện đang sống. Phục sinh là một biến cố rất đặc biệt, vượt dự đoán của con người. Các tông đồ cũng không phải là những người dễ tin. Tuy dù được báo trước ba lần Đức Giêsu sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), nhưng các tông đồ cũng chẳng dễ dàng chấp nhận việc Ngài sống lại (Mc.16, 9-13); và Đức Giêsu, tuy dù biết trước mình sẽ sống lại, cũng rúng động trước cái chết (Mc.14, 35-36).
Thân phận con người, lúc này biet, lúc khác phân vân nghi ngờ. Ngôi Lời Thiên Chúa đã tự hủy để nhập thể làm người, nên Ngài chấp nhận thân phận con người cách hoàn toàn, nghĩa là, cũng bị cám dỗ, và ngay cả không biết, hoặc lúc này biết lúc khác phân vân nghi ngờ. Vì vậy, Đức Giêsu sống lại, là điều rất mới đối với các tông đồ và con người. Tuy nhiên, một khi được ơn trở thành chứng nhân phục sinh, các tông đồ luôn loan báo tin mừng đặc biệt này, và đã đem chính mạng sống làm chứng cho tin mừng các ngài rao giảng.
II. Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh
Trong cuộc tranh luận với những người Do Thái, Đức Giêsu nói: “Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi… Vì nếu các ông tin Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi” (Ga.5, 39.47). Kinh Thánh được một số người coi như lá thư Thiên Chúa viết cho tất cả mọi người qua trung gian dân tộc Do Thái. Đức Giêsu cũng có thể được coi là lá thư, là biểu hiện, biểu chứng, biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con người.
Đức Giêsu là tột đỉnh mặc khải của Thiên Chúa cho con người. Qua Đức Giêsu, con người biết hơn về Thiên Chúa và cũng biết hơn về chính con người. Các tạo vật đều mặc khải Thiên Chúa ở một mức độ nào đó. Những nhân vật đáng kính trong lịch sử dân tộc Do Thái cũng như trong lịch sử những dân tộc khác, và nhất là trong những tôn giáo khác, cũng là chứng nhân của Thiên Chúa ở một mức độ nào đó, nhưng Đức Giêsu là một con người đặc biệt, phản ánh Thiên Chúa và tình yêu cua Thiên Chúa một cách tuyệt vời, bởi vì Ngài là chính Lời Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Kinh Thánh là tác phẩm của Thiên Chúa, nhưng cũng là tác phẩm của con người. Người ta có thể đọc Kinh Thánh đơn thuần như một tác phẩm thuần túy nhân loại, và người ta có thể hiểu được phần nào con người và xã hội thời đó. Hôm nay, theo tin mừng Luca, các tông đồ đã được Đức Giêsu mở trí để hiểu Kinh Thánh. Kinh Thánh không được viết để dạy chân lý khoa học, nhưng để giúp con người biết hơn về Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người, giúp con người biết hơn về Đức Giêsu là tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa cho con người.
III. Thật sư biết Thiên Chúa hàm chứa tuân giữ lệnh truyền của Ngài
Niềm tin và cuộc sống phải đi liền với nhau. Niềm tin không chỉ là những điều một người chấp nhận và không liên hệ hay chi phối đời sống họ. Đức tin không có viec làm là đức tin chết (Gc.2, 17). “Nếu nói mình biết Thiên Chúa mà không giữ các lịnh truyền của Thiên Chúa, thì đó là kẻ nói dối” (1Ga.2, 4).
Biết Thiên Chúa, không phải là chấp nhận một số mệnh đề phát biểu về Thiên Chúa, nhưng còn bao hàm chính thái độ sống và cuộc sống của mỗi người. Cái “biết sống động” này được diễn tả qua đời sống cầu nguyện, qua việc chọn lựa trong đời sống thường ngày, qua cách cư xử với người khác… Tuy vậy trong thực tế, có nhiều người “tin” nhưng không “sống”, những người này họ chưa thực sự biết Thiên Chúa, cái biết của họ mới chỉ trên bình diện chấp nhận một điều là đúng. Những ai giữ lệnh truyền của Thiên Chúa, là những người biết Thiên Chúa thực sự.
Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đã chi phối trọn vẹn đời sống các tông đồ. Các ngài đã ra đi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh. Các ngài đã dám chết vì chính đạo. Niềm tin vào Đưc Giêsu Phục Sinh đã biến đổi đời bao con người, đã biến đổi đời các tông đồ, đã làm bao người “bỏ thế gian” để sống dành riêng cho Thiên Chúa. Các ngài là những người biết Thiên Chúa thật sự.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, khi Đức Giêsu cố gắng làm cho các tông đồ thấy Ngài đang sống thực sự bằng cách cho các tông đồ xem tay và cạnh sườn Người, hàm chứa điều gì?
2. Theo bạn, đức tin Kitô hữu hàm chứa gì? Tại sao lại gọi là ơn? Có gì quý hoặc được lợi gì khi tin Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể?
17. Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh
Tin Mừng Lc 24:35-48: Việc loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh không đòi hỏi bất cứ một kỹ thuật cao siêu nào, mà việc đó nằm ngay chính nơi đời sống Kitô hữu, một con người cụ thể, trong môi trường sinh sống cụ thể.
Theo số liệu thống kê của Giáo Hội Công Giáo tính đến cuối năm 2012 số người Công giáo trên toàn thế giới là 1,228 tỷ, Người Công giáo chiếm khoảng 17,5% dân số thế giới, như vậy còn 82,5% chưa nhận biết Chúa Kitô, mặc dầu Giáo Hội đã nỗ lực chu tất sứ vụ loan truyền của mình. Tại sao? Có thể những người Kitô hữu chúng ta chưa loan truyền đúng vè Đức Kitô Phục sinh
Có nhiều người Kitô hữu hiểu rằng, nhiệm vụ loan báo Tin Mừng là một nhiệm vụ được thêm vào, vì thế có người thơ ơ với nhiệm vụ nầy, có người thì coi nhiệm vụ loan báo đơn giản như một việc chỉ đường, hoặc quá khích hơn, người ta coi Tin Mừng như một món hàng đắt giá, để rồi ra sưc quảng cáo với một mục đích là chiêu dụ tín đồ, có người còn giới thiệu Tin Mừng bằng những lời hứa hẹn về một phần thưởng, hay đưa lời ngăm đe bằng những hình phạt… Và vì thế nhiều người khi nghe đến Tin mừng vội vàng quay lưng.
Quả thật, việc loan báo Tin Mừng không là nhiệm vụ được thêm vào nhưng thuộc về bản chất của đời sống Kitô hữu, có nghĩa là, khi được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Kitô qua bí tích Rửa tội, người tín hữu liền được dự phần vào sứ vụ mà Chúa Giêsu giao phó cho Giáo Hội mà không cần bất cứ một sự giao phó nào nữa. Vì thuộc bản chất nên mọi sinh hoạt đời sống của người Kitô hữu đều là lời loan báo Tin Mừng. Nhưng phải loan báo Tin Mừng Phục sinh như thế nào, để mang lại tính khả tín hầu người nghe có thể tin theo?
Tin Mừng Phục sinh đã tường thuật lời của Chúa Giêsu: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Việc loan báo Tin Mừng Phục sinh không là giới thiệu một Đức Kitô viễn vông, mơ hồ, mà ngày nay người ta gọi là “một con người ảo”, nhưng phải là một Đức Kitô phục sinh “có xương, có thịt”. Vâng, trong một thế giới mà sự phát triển khoa học kỹ thuật đang làm mưa làm gió, thì việc sống với thế giới ảo đang là một nhức nhối cho xã hội hôm nay. Có người đã chia sẻ: Tôi có một cô bạn. Cuộc sống trên Facebook của cô ấy cực kỳ hoàn hảo. Cô xinh đẹp, đi du lịch nhiều nơi. Cô share rất nhiều bài viết mang đậm hơi thở chính luận của các nhà báo nổi tiếng. Cô post lên Facebook hàng chục bài phát biểu của các chính trị gia, với caption đều bằng tiếng Anh. Hôm 2/9/2017 , cô được mời đến nhà chồng sắp cưới dùng cơm, nhân tiện bàn luôn chuyện cưới hỏi. Buổi gặp mặt rất được kỳ vọng ấy biến thành cơn ác mộng khi cô phát hiện ra bố mẹ chồng tương lai hóa ra đều là giảng viên của 2 trường đại học rất lớn. Họ trẻ trung, họ đều dùng Facebook và họ đều đọc tất cả những gì cô đưa lên Facebook. Trong lúc trà dư tửu hậu, họ nghĩ rằng cô quan tâm tới lũ lụt, tới nước mắm thạch tín, tới startup, tới những bài phát biểu truyền cảm hứng của ông tổng thống Hoa Kỳ và họ hào hứng kéo cô vào cuộc trao đổi. Nhưng cô không biết gì cả. Đúng nghĩa đen của từ "không biết gì". Cô chỉ share lên Facebook làm màu. Cô chưa từng nghe ông Tổng thống Hoa kỳ phát biểu. Buổi gặp gỡ ấy kết thúc bằng cái lắc đầu ngán ngẩm của bà mẹ người yêu và cô đủ thông minh để hiểu rằng, sẽ không có thêm buổi gặp gỡ nào nữa. Vâng, sống ảo biến cư dân của nó thành những xác chết biết đi, vô hồn. Vào nhà hàng gọi một món ăn và thay vì mời bố mẹ - những người đang ngồi ngay trước mặt – chúng ta phải chụp ảnh, post Facebook để "mời 500 anh em ăn cùng cho vui". Thật là nực cười.
Tin mừng Phục sinh cần được loan báo, nhưng sự loan báo không là những thông tin chỉ dẫn trên các phương tiện truyền thông, không dừng lại nơi việc cử hành các nghi thức hoành tráng, trái lại việc loan báo phải được cụ thể hoá qua chứng nhân hiện thực cụ thể. Vâng, Tin mừng Phục sinh không là những lời nói trống rỗng, nhưng phải được trình bày sống động nơi những con người có xương có thịt, qua hoàn cảnh sống “nơi những cha mẹ nuôi nấng con cái họ với tình yêu thương bao la, nơi những người nam nữ làm việc chăm chỉ để nuôi sống gia đình, nơi người bệnh tật, nơi các tu sĩ già cả mà không bao giờ mất nụ cười của họ” nói như Đức Phanxicô trong tông huấn Gaudete et Exultate.
Vào ngày 23-3-2018 tại cửa tạp hoá Trebes một thị trấn nhỏ ở miền Nam nước Pháp, một tay súng 25 tuổi người Hồi giáo Redouane Lakdim đã giết nhân viên một siêu thị, một dân thường đang mua đồ trong siêu thị và bắt giữ nhiều con tin. Sau khi nhiều con tin được giải cứu duy chỉ còn người phụ nữ bị tay súng giữ lại, và chính Trung tá Arnault Beltrame, một người công giáo, đã đề nghị đổi chỗ làm con tin thay cho người phụ nữ trên, cuối cùng viên sĩ quan đã bi tên khủng bố bắn trọng thương cuối cùng ông qua đời tại bệnh viện. Viên sĩ quan đã ngã xuống, và sự hy sinh của viên sĩ quan là bằng chứng hùng hồn cho niềm tin vào sự Phục sinh của Đức Kitô. Không có lời loan báo hùng hồn nào về Tin Mừng Phục sinh cho bằng sự hy sinh của viên sĩ quan.
Quả thậy, Việc loan báo Tin Mừng Chúa Kitô Phục sinh không đòi hỏi bất cứ một kỹ thuật cao siêu nào, mà việc đó nằm ngay chính nơi đời sống Kitô hữu, một con người cụ thể, trong môi trường sinh sống cụ thể. Lời loan báo Tin Mừng không chỉ là lời thốt ra từ môi miệng, nhưng được bày tỏ cách trọn vẹn trong mọi sinh hoạt của cuộc sống, để có thể nói được rằng, niềm hy vọng Phục sinh đã được minh chứng cách cụ thể qua đời sống của nguòi tín hữu. một đời sống được tôi luyện bằng những chiến đấu liên tục, cuộc chiến không chỉ đơn thuần chống lại “thế giới và não trạng thế gian" hay "chống lại các yếu đuối và xu hướng của con người chúng ta... Mà còn là một cuộc chiến đấu liên tục chống lại ma quỷ, hoàng tử của sự ác" (Đức Phanxicô). Chúng ta phải chiến đấu, để công việc loan báo Tin Mừng về sự sống không bao giờ bị dập tắt, trái lại nó được đâm rễ sâu vào trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, một cuộc sống thấm đẫm tình yêu thương được đúc nén từ việc kết hợp mật thiết với Đức Kitô, Đấng gần gũi với mọi hoàn cảnh của cuộc sống nhân gian, với những kẻ bị bỏ rơi, nghèo đói, và như thế người ta sẽ không còn cảm thấy xa lạ khi nghe về Tin Mừng, nhưng hơn hết người ta gặp gỡ được một Đức Giêsu thật gần gũi, thật dễ mến qua những con người cụ thể là chính chúng ta người Kitô hữu. Amen.
18. Sống chứng nhân cho Chúa Kitô Phục Sinh
Lễ Phục sinh đã qua hai tuần lễ, nhưng chúng ta vẫn còn tiếp tục suy gẫm về sự sống lại của Chúa Giêsu. Chúa nhật 3 Phục Sinh hôm nay, Giáo Hội tiếp tục trình bày cho chúng ta biến cố Chúa Giêsu Kitô sống lại. Trong Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, Người nói với họ: "Mọi điều viết về Ta trong luật Môisen, tiên tri và thánh vịnh phải được ứng nghiệm". Người còn nói tiếp: "Có lời chép rằng: Đức Kitô phải đau khổ và đến ngày thứ ba Người sống lại từ cõi chết". Đức Giêsu muốn các môn đệ tuyệt đối chắc chắn là ch1inh Người đã sống lại thật!
Ai trong chúng ta đã không ít một lần sợ ma. Vì thế, có thể nói: Sợ ma không phải là chuyện của trẻ con mà đôi khi ngay cả người lớn cũng sợ ma. Thậm chí ngay cả các Tông đồ ngày xưa cũng sợ ma. Đoạn Phúc âm vừa kể lại, ngay trong buổi tối Phục sinh đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín. Bất chợt Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trước kia, đang ở trên thuyền gặp sóng gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một bóng ma đi trên mặt nước. Các ông kêu lên "ma kìa", nhưng đã được trấn an ngay: "Thầy đây, đừng sợ!" (Mc,47-50). Vậy mà Chúa Giêsu Kitô, Đấng sống lại đã kiên nhẫn làm hết cách này đến cách khác để đưa các môn đệ ra khỏi nỗi ám ảnh kinh hoàng, để giúp cho các ông tin Thầy mình đã sống lại đúng như lời Ngài loan báo. Hiện ra cho các tông đồ lần này, Chúa Giêsu Kitô mời họ nhìn xem và chạm đến tay chân Ngài, để thấy Ngài là người bằng xương bằng thịt. Ngài còn ăn một miếng cá nướng để cho họ thấy Ngài không phải là một bóng ma.
Khi các Tông đồ nhìn thấy Chúa, và các ông tưởng là ma. Có thể chúng ta không thể không thắc mắc vì sao các Tông đồ là những người môn đệ rất thân cận với Chúa, được Chúa Giêsu yêu mến, từng sống ba năm với Chúa Giêsu và hằng ngày đã trò chuyện với Chúa... vậy mà khi thấy Ngài, các ông tưởng là ma. Đáng lẽ ra khi gặp Ngài, các ông phải nhận ra ngay là Thầy mình chứ! Bởi vì các ông đang sống trong tâm trạng thất vọng thật ê chề, thất vọng bởi vì các ông theo Chúa đã hơn ba năm rồi, mà đến nay vẫn còn hai bàn tay trắng, một chút danh dự cũng không có, một chút danh vọng cũng chẳng thấy ở đâu...và rõ ràng trong mấy ngày qua, họ đã tận mắt thấy Chúa bị bắt, rồi bị người ta giết. Thầy mình đã chết và đã được đem chôn rồi. Thế nên giờ đây họ khó mà tin được khi thấy ông Giêsu đó không có chết, mà ông ấy còn sống một cách thật khỏe mạnh nữa, và đang đứng trước mặt các ông đây. Có phải Thầy Giêsu đã sống lại thật? hay ông ấy là ma về nhát mình? Do đó, theo phản ứng tự nhiên, các ông phải buộc miệng kêu lên: Ma kìa! Thế nên, khi hiện ra cho các Tông đo, Chúa Giêsu bảo các ông hãy chạm vào thân xác mang thương tích của Ngài để biết rằng đây không phải ma hay hồn thiên hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt đã sống lại: "Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy thầy đây?". Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt để các ông thấy đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có the nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây các tông đồ sẽ là những chứng nhân mắt thấy tai nghe. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.
Như vậy, Chúa Giêsu Phục sinh hiểu rõ tâm trạng của các Tông đồ, và Ngài đến để gặp gỡ các ông, an ủi các ông, và củng cố đức tin cho các ông nữa. Còn chúng ta, trong cuộc sống hằng ngày, có khi nào chúng ta bị thử thách về đức tin, hoặc có khi nào chúng ta nghi ngờ về Chúa hay không? Có khi nào chúng ta phải tin một cách miễn cưỡng về những điều chúng ta chưa từng thấy, và rất khó tin như có thiên đàng, có hoả ngục, có đời sau, như có thưởng có phạt. Hay như có Chúa hiện diện trong nhà thờ, hay trong một tấm bánh trắng quá tầm thường quá nhỏ bé như vậy mà chúng ta phải tin là Mình Thánh Chúa? Có lẽ phải có thôi, bởi vì trong cuộc sống của chúng ta, nhiều khi chúng ta đã từng gặp những giai đoạn bảo táp của cuộc đời, khiến đức tin của chúng ta dường như bị khủng hoảng, đôi khi chúng ta cau nguyện tha thiết mà chẳng thấy Chúa nhậm lời, hoặc là khi chúng ta thấy bất mãn về một điều gì đó trong Giáo Hội, trong gia đình chúng ta? Và những bất mãn đó, những thử thách về đức tin đó nhiều khi nó lớn đến nỗi làm cho người đó phải bỏ đạo, phải chống đạo, chống Giáo Hội, phải xa Chúa và họ không còn tin Chúa nữa. Do đó, bài Phúc âm hôm nay giúp chúng ta thấy ý Chúa muốn nhắc nhở chúng ta. Nếu chúng ta muốn tìm lại được Chúa, nếu tôi muốn củng cố lại đức tin của mình, thì chúng ta cũng phải làm theo cách của các môn đệ Chúa Giêsu, đó là phải tìm Chúa trong Lời Chúa, phải siêng năng cùng cộng đoàn cử hành phụng vụ, các bí tích và nhất là Thánh Lễ. Thánh lễ hồi phục, củng cố và giúp chúng ta mạnh mẽ tin yêu Chúa Kitô phục sinh.
Chúa Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập giá, nay tìm được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: "Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế". Cho dù sau khi lên trời, các môn đệ không còn thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một nga, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thử thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu phục sinh luôn ở bên cạnh, và niềm xác tín ấy đã làm cho các tông đồ luôn được bình an và phấn khởi vui mừng. Phải, Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, không gian, không còn là cách trở. Nói khác đi cho dù chúng ta sống ở đây, trong lúc này thì Chúa Giêsu cũng ở gần chúng ta, hiện diện với chúng ta như là với các môn đệ ngày xưa, có khi gần gũi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta Thánh Thần là chính sự sống của Ngài, nhờ đó chúng ta được làm con Chúa Cha, đe chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cành của cuộc đời, đẻ với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những người chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Vì thế, mang thân phận là người Kitô hữu, chúng ta hãy sống đạo đích thực, hãy là người mang đầy niềm vui, niềm vui chân thật xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Chúa Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta sẽ lớn lên và thắng vượt sợ hãi trước bóng tối cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết "Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian".
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tin Chúa đã Phục Sinh, Ngài đang ở bên chúng con. Chúng con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa. Xin Chúa giúp chúng con biết can đảm sống và làm chứng cho Chúa giữa lòng đời. Amen.
19. Lời mời gọi sám hối
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Phục sinh kêu gọi mọi người sám hối?
Cả ba Phúc âm nhất lãm đều đề cập tới lần Chúa hiện ra với nhóm mười một tông đồ. Về lần hiện ra quan trọng này, chi tiết bên ngoài của biến cố hình như không được các thánh sử quan tâm diễn tả cho lắm; chỉ có tường thuật của Lu-ca là đi vào một số chi tiết để chứng minh nhân vật hiện ra đích thực là Đức Giê-su mà các ông đã từng quen biết. Điều mà các tác giả quan tâm tới nhiều hơn là sứ điệp Chúa Phục Sinh muốn thông đạt cho cả nhóm. Chính Đấng Sống Lại đòi nhóm mười một và toàn thể những ai coi mình là môn đệ của Người phải trở thành ‘chứng nhân về những điều (sư điệp) này’. Không may ngày nay, người ta lại thích nói tới sự kiện phục sinh khải hoàn hơn là đề cập tới sứ điệp của nó, tới độ rất ít khi tín hữu được nhắc nhở hoặc quan tâm tìm hiểu sứ điệp phục sinh thực sự là gì!
Sứ điệp Phục Sinh gồm hai phần chính:
- ‘Kêu gọi sám hối để được ơn tha tội’
- ‘Nhân danh Người rao giảng (điều này) cho muôn dân’
Sám hối để được ơn tha tội: Mát-thêu và Mác-cô đã nói tới nội dung này khi đề cập tới lenh truyền: ‘làm phép rửa cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Mt 28:19), hay lời giải thích: ‘ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ’ (Mc 16:16). Sứ điệp ‘hãy sám hối’ đã được Gio-an Tẩy Giả từng hô hao từ những ngày đầu, trước cà khi Đức Giê-su xuất hiện công khai, qua nghi thức dìm mình xuống giòng sông Gio-đan. Như vậy, sau ngày sống lại, khi Đức Giê-su Ki-tô long trọng công bố trở lại sứ điệp này thì chắc hẳn nó phai chứa đựng một điều gì hoàn toàn mới lạ và cấp bách. Để có thể hiểu được tầm quan trọng của sứ điệp mà Đức Giê-su đã dày công giảng giải cho các môn đệ hiểu, rằng đó chính là trọng tâm của các sách Ngôn Sứ và Thánh Vịnh… nói tóm lại, của toàn bộ Kinh Thánh, ta cần đi sâu vào nội dung của nó. Đương nhiên sám hối đây không thể được hiểu theo nghĩa ‘cải tà qui chính’ - thuần tính luân lý. Sau biến cố Phục sinh, sám hối càng lộ rõ sứ điệp Tin Mừng của một niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa từ nhân và cứu độ, một khám phá và tín thác không ngừng vào Thiên Chúa đầy lòng xót thương “yêu thế gian tới nỗi đã ban Con Một…” Qua biến cố tử nạn và phục sinh của Đức Ki-tô Giê-su mà mười một tông đồ chắc hẳn đã chứng kiến, các ông phải được giải thích cho hiểu ý nghĩa và nội dung của nó. Quả vậy các ông phải tin và trở thành ‘chứng nhân về những điều này’! Phục sinh chính là để hiểu và nắm bắt sâu sắc sứ điệp đã được công bố ngay từ đầu “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Nói cách khác, sứ điệp chính yếu và long trọng nhất của Tin Mừng Phục Sinh lại chính là hãy “Sám hối để đươc ơn tha tội”.
Rao giảng cho muôn dân: Bằng các kiểu nói khác nhau (Mát-thêu: ‘Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ; Mác-cô: ‘Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng; Lu-ca: ‘Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đều từ Giê-ru-sa-lem…’), các tác giả Phúc Âm Nhất Lãm đều cho thấy phần hai của sứ điệp Phục Sinh là một ‘lệnh lên đường’. Phúc âm Gio-an còn nêu rõ sứ điệp này là chính yếu và quyết liệt hơn hết: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em…” Và để chu toàn ‘lệnh lên đường’, đồng thời để có thể ‘Sám hối và tin vào Tin Mừng’, Thánh Thần đã được trao ban cho các môn đệ; ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”’ (Ga 20:22), hay ‘Nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống’ (Lc 24:49) theo cách nói của Lu-ca. Nếu Đấng sống lại không còn bị chi phối bởi không gian và thời gian, thì sứ điệp cứu rỗi của Chua Phục Sinh lại càng không thể bị giới hạn, không những bởi không gian và thời gian, mà còn bởi văn hóa, sắc tộc, truyền thống, thậm chí luân lý, cho dầu có ‘bán khai’ hay ‘man rợ’ tới mấy. Phục Sinh chính là tình yêu cưu độ của Thiên Chúa từ nhân được minh chứng là vô giới hạn, không gì ngăn cản nổi. Lệnh lên đường hay truyền giáo phải dựa trên nhận thức ơn cứu độ phổ quát và tình yêu xót thương của Thiên Chúa vượt xa sự hạn hẹp cua loài người.
Tôi không chỉ ‘mừng’ Chúa Phục Sinh, mà còn phải ‘sống’ Chúa Phục Sinh. Và sống Chúa Phục Sinh trước hết phải là lắng nghe và loan truyền cho mọi người sứ điệp Phục Sinh thật cấp bách của Đức Ki-tô khải hoàn.
Lạy Chúa Kitô, Đấng Phục Sinh, xin dạy con biết tiếp nhận và sống sứ điệp phục sinh cách ý thức và mạnh mẽ. Trong tư cách là Ki-tô hữu hay linh mục, chính con phải là người đầu tiên sống ‘sám hối’ theo nội dung phục sinh, để có thể trở thành chứng nhân trung thực của sứ điệp cứu rỗi. Cũng xin cho con hiểu được tình yêu cứu độ của Chúa là không biên giới, để con hăng say lên đường gieo rắc tình yêu và lòng thương xót Chúa cho mọi dan nước. Amen.
20. Đời sống chứng nhân – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Albert Schweitzer là một cậu bé rất thông minh, lại say mê âm nhạc. Khi trưởng thành cậu chơi đàn Organ, và cuối cùng đã trở thành Tiến sĩ âm nhạc. Sau đó, Albert nghiên cứu các chủ đề về tôn giáo, và đã đậu Tiến Sĩ Triết Học. Ông làm Hiệu Trưởng trường Đại Học.
Như thể học chưa đủ, ông từ chức Hiệu trưởng để theo ngành y khoa, 7 năm sau, trở thành bác sĩ với bằng Tiến sĩ Y Khoa. Với 3 bằng cấp Tiến sĩ, Albert Schweitzer dễ dàng trở thành một người giàu có, và nổi tiếng.
Thế nhưng, tiến sĩ Albert Schweitzer lại cùng với người vợ bán tất cả gia tài, sang tận Châu Phi thiết lập một bệnh viện ở Lambarene. Ông cứu giúp hàng ngàn người phong cùi và những người mắc bệnh buồn ngủ.
Ông huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết tiền mua thuốc, ông trở về Âu Châu, trình diễn âm nhạc trong thành phố lớn, lấy tiền vé vào cửa để trả tiền mua thuốc cho bệnh viện của ông ở Lambarene. Ông tin rằng những người nghèo ở Châu Phi đều là những thành viên trong gia đình Thiên Chúa. Ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1953.
Sau khi dâng hiến cả cuộc đời cho người Châu Phi nghèo khổ, nhà truyền giáo đã đi về nhà Cha năm 1965 lúc 90 tuổi.
***
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người.
Chúng ta hãy là chứng nhân của sự sống mới. Thế giới ngày nay quay cuồng trong nỗi chết. Cái chết của chiến tranh, khủng bố khiến người ta chết không toàn thây. Cái chết của sida, ma tuý làm người ta chết không ra con người. Cái chết của phá thai, tự vẫn như cướp quyền Đấng Tạo Hóa. Người tín hữu Kitô phải làm chứng cho sự sống mới.
Sự sống của Đấng Phục sinh: Lôi cuốn, hấp dẫn gấp ngàn lần nỗi chết quay quắt điên loạn của con người. Sự sống của Đấng Phục sinh tràn đầy niềm hy vọng. Nếu Đức Kitô bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ, thì chúng ta có quyền tin tưởng vào chiến thắng của Người trên bạo lực, hận thù và nỗi chết.
Chúng ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin Thầy sống lại. Nếu các môn đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả trò, thì các ông lại trọn niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu chúng ta thực sự ra khỏi nỗi âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu chúng ta mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin vui Phuc sinh.
Đức Hồng Y Danielou có nói: "Chúng ta hãy tự khai mở niềm hy vọng của người bất hạnh, cho dù điều đó đe dọa đến của cải chúng ta".
Cha Charles de Foucauld quả quyết: "Chỉ có một số người có khả năng làm chứng bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời sống lương thiện, gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động".
Trong nghi thức rửa tội của Giáo hội Ấn Độ, người chịu phép Rửa tội đặt tay lên đầu và nói: "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr. 9, 16).
Vậy lời rao giảng Tin mừng sinh động nhất, hữu hiệu nhất và cao đẹp nhất chính là một cuộc đời quên mình phục vụ như nhà truyền giáo Albert Shweitzer đã làm cho những người phong cùi Châu Phi.
***
Lạy Chúa,
Khi chúng con u sầu, xin đem đến một ai đó để chúng con an ủi. Khi gánh nặng đè bẹp, xin chất thêm cho chúng con gánh nặng của người khác nữa.
Khi chúng con cần sự âu yếm vỗ về, xin cho người khác kêu gọi chúng con đến để vỗ về âu yếm họ.
Xin dạy chúng con trở nên chứng nhân của một Thiên Chúa phục vụ và yêu thương. Amen.
21. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Anh chị em thân mến.
Nhiều năm trước đây, chắc anh chị em có xem vở kịch của cố soạn giả Lưu Quang Vũ. Vở kịch nói lên tình trậng éo le của một người đã chết, bổng nhiên được sống lại, nhưng không phải với hình hài cũ của mình mà lại với một hình hài được vay mượn cua người khác. Việc phục hồi sự sống của anh đã khiến cho những người thân có những phen vỡ khóc, vỡ cười. Vì thân xác của người nầy, mà tâm trí và phong cách thì của người khác. Chính bản thân anh ta cũng khổ sở vì sự phục sinh của mình. Đó là nội dung của vở kịch:"Hồn Trương Ba, Da hàng thịt."
Một sự sống mà có lẽ không ai trong chúng ta mong muốn. Sự sống vay mượn của kẻ khác, sống không ra sống, sống mà không thể hiện được hết con người thật của mình. Sự sống chỉ đem lại toàn những đau khổ cho mình và cho người thân.
Các môn đệ Chúa Giêsu cũng ngạc nhiên bở ngỡ vì sự phục sinh của Thầy mình. Các ông chưa ổn định tinh thần được trước bao nhiêu biến cố dồn dập đến với các ông trong những ngày qua. Niềm vui mừng quá sức, vì sự sống mới của Thầy đã mang đến cho các ông một sức sống mới hoàn toàn. Trước kia, các ông theo Thầy, mặc dù các ông vẫn mang một hình hài thể xác như thế, nhưng tâm hồn các ông hoàn toàn khác. Các ông theo Thầy, nhưng tâm tư mỗi người theo đuổi mục đích riêng tư của mình.
Các ông theo Thầy, nhưng tâm hồn các ông vẫn còn giữ lại cho bản thân mình. Các ông theo Thầy, mặc dù thân xác thì ở kề cận bên Thầy, nhưng tâm hồn thì ở tận mãi nơi đâu, nên những Lời Thầy dạy, chỉ bảo, thông báo trước, các ông nghe mà chẵng hiểu, thấy những việc làm của Thầy, các ông cũng không để tâm suy nghĩ. Chính vì thế. Các ông đã phải trải qua sự thất vọng, vì thần tượng mà các ông tự dựng lên cho mình đã hoàn toàn sụp đổ. Tâm hồn các ông còn bị bao vây bởi những thứ nặng nề khác, nên thân xác mặc dù đã kề cận bên Thầy, nhưng tâm hồn không thể thực hiện được những gì Thầy chỉ bảo. Đó là vì thân xác và tâm hồn không hòa hợp với nhau. Giờ đây các ông mới nhận được sự sống thật, sự sống không còn làm cho các ông phải đau khổ, thất vọng hay sợ sệt nữa.
Đó chính là sự sống mới của Chúa Kitô phục sinh đã mang lại, nên các ông không thể ngồi yên bất động như con người cũ của bấy lâu nay. Nhưng giờ đây, các ông sống đúng với sự sống mới mà Chúa Kitô đã mang đến, sống đúng với niềm vui mừng mà các ông đang tận hưởng. Tâm hồn và thân xác các ông đã được hòa nhập cùng Một Sức Sống Mới. Chúng ta cũng được sự sống mới từ Chúa Kitô, do các Ngài chuyen đến. Chúng ta cũng có cùng sự sống với Các Ngài, chúng ta cũng có cùng niềm vui mà Các Ngài đã có. Nhưng sự sống của chúng ta có được hoàn toàn đỗi mới như Các Ngài hay không, chúng ta có nhìn thấy được niềm vui mà mình đang hưởng hay không, đó là do mỗi người.
Chúa Kitô đã phục sinh, các Tông đồ đã làm chứng và đã truyền lại. Chúng ta đã nhận được sự sống mới, chúng ta đang sống với sức sống mà các Tông Đồ đã vâng lời, làm chưng và truyền lại. Chúng ta đang tận hưởng niềm vui Phục Sinh. Nhưng sao dường như trong con người chúng ta có hai cách sống hoàn toàn khác biệt nhau: Có những lúc, chúng ta muốn mình là một người tốt, nên cũng cố gắng đỗi mới cuộc sống cho tốt hơn, giúp đỡ những người chung quanh, yêu thương mọi người, thi hành những việc đạo đức...
Nhưng cũng có những lúc, chúng ta sống hoàn toàn trái ngược với những gì mình đã tâm quyết, trái ngược với nhưng điều lương tâm nhắc nhở. Lúc đó, đôi lần chúng ta cũng cảm thấy khó chịu khi có ai dám khuyên bảo.
Như thế, đời sống mới, đời sống của Chúa phục sinh lại phải ỏ nơi một thân xác chưa được đỗi mới. Như thế sự phục sinh, sự sống mới lại phải cư ngụ trong một thân xác như thân xác của các Tông Đồ trước khi Chúa chịu đóng đinh trên Thập Giá sao? Như vậy, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ đã nói tiên tri thật chính xác về bản thân chúng ta rồi đó, và chúng ta thật sự là một con người, nhưng: Hồn thì của anh chàng Trương Ba tài hoa tế nhị, mà thân xác thì lại là một anh Hàng Thịt thô thiển. Như vậy việc Chúa chịu chết và sống lại, ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào, và chúng ta đã làm chứng về sự Phục sinh trong đời sống của mình ra sao.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết đỗi mới đời sống, để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
22. Lời chứng của các Tông Đồ – Anmai, CSsR
Thánh Luca vừa trình bày cho chúng ta trình thuật sau cùng của Ngài. Qua trình thuật này chúng ta thấy Chúa Giêsu đưa các môn đệ đi vào trong sự viên mãn của mầu nhiệm Phục Sinh. Trình thuật Chúa Giêsu dẫn đưa các môn đệ như thế nào, chúng ta hãy nhìn đến ý hướng biên soạn của Thánh Luca. Thánh ký kết cấu trình thuật như sau:
- Hiện ra cho các môn đệ (c. 36-43) sau khi đã hiện ra cho Simon (c. 34) cũng như cho hai môn đệ Emmau - (c. 13-35), lần này Chúa Giêsu tỏ hiện cho số môn đệ đông hơn (dĩ nhiên trong đó có nhóm Mười một). Nhấn mạnh cho tất cả thực tại tỏ tường của sự sống lại của Người.
- Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh thánh, trao sứ mệnh làm chứng nhân cho sự Phục sinh của Người, cùng với lời hứa ban "mãnh lực Trên ban" (c. 44-49).
- Thánh Luca kết thúc Tin mừng với bối cảnh Thăng thiên: Đức Chúa Giêsu tỏ lộ vương quyền của Người và các môn đệ nhận biết sự khải hoàn uy nghi đó (C. 50-53).
- Ngoài ra, chúng ta còn ghi nhận rằng: trình thuật sau cùng này rất gần gũi với biên soạn của Thánh Gioan ở chương 20,19-29. Cả hai thánh ký đều có cách trình bày giống nhau về thân xác Phục sinh của Chúa Giêsu, hoặc cả hai sử dụng một nguồn truyền thống chung hoặc Thánh Luca lấy nguồn từ truyền thống Gioan.
Thân xác phục sinh của Chúa Giêsu được miêu tả như là không còn lệ thuộc vào quy luật vật lý bình thường: Người hiện đến khi cửa đóng (x. c. 36) "bỏ họ mà biến mất" (c. 31). Tuy nhiên, đó cũng là một thân xác thực sự của con người: Người tiến lại gần bên họ (c. 15) chuyện trò hỏi thưa (c. 17; 25) cầm bánh bẻ ra (câu 30) hoặc cùng ăn cùng uống với họ (c. 43) v.v... Cách diễn tả như thế chắc chắn chịu ảnh hưởng sâu xa bởi truyền thống Giáo hội sơ khai, trình bày một Chúa Giêsu cùng ăn cùng uống với các môn đệ sau khi Người sống lại (x. Cv 10. 36-43). Nhất là trong bối cảnh gắn liền với văn hóa Do Thái. Đối với người Do Thái, với não trạng thực tế, thì chuyện không có xác thể đó là thứ ma quái: chứ không phải là con người sống động.
Cách trình bày đó dĩ nhiên bao hàm ý hướng biện giáo cho mầu nhiệm phục sinh: Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại thực sự. Chính Người là Con Thiên Chúa làm người, đã từ cõi chết sống lại. Và Người đang sống.
Ý hướng biện giáo này càng là một dữ kiện dễ hiểu đối với Tin Mừng Luca nhằm gởi cho độc giả Hy Lạp. Người Hy Lạp chấp nhận sự bất tử của linh hồn song không tin có sự sống lại của thể xác. Chính vì thế Thánh Luca là thánh ký nhấn mạnh nhiều nhất tới thực tại thể xác của Chúa Giêsu.
Họ còn đang nói, thì Người đã đứng giữa họ (c. 36-43). Các môn đệ kinh hoàng và khiếp sợ trước sự hiện ra bất ngờ của Chúa Giêsu. Phản ứng này có phù hợp với dữ kiện ở câu 34 không? Ở đó tất cả đều được loan báo rằng: "Thực thế, Chúa đã sống lại và hiện ra cho Simon". Tại sao bây giờ họ kinh hoàng khiếp đảm?
Họ nghe nói, nhưng điều đó chưa đủ. Cũng như nơi trình thuật Emmau, cần phải có một cử chỉ, hay một lời từ phía Đấng Phục Sinh, trước khi các môn đệ có thể nhận ra Đấng Phục Sinh. Hay nói một cách khác, để chấp nhận mầu nhiệm phục sinh, cần phải có đức tin (cần được ban cho từ Thiên Chúa). Các thứ bằng chứng hay lời thuyết phục, loan báo v.v... chưa đủ. Và "ân huệ" từ Chúa Giêsu được ban cho các môn đệ là: "Hãy coi tay Ta, chân Ta. Chính là Ta đó. Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có xương có thịt như các ngươi thấy Ta có" (c. 39; x. Ga 20,20: tay và cạnh sườn).
Còn họ "vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được" (câu 41). Hạn từ apo tês kharas (= praegaudio, mừng vui quá) diễn tả một hạnh phúc, một niềm vui không ngờ được. "Họ không thể tin mắt họ". Co thể đây là một cách diễn tả nhằm biện hộ cho sự cứng tin của các môn đệ (x. Lc 22,45).
Với một cử chỉ thân tình quen thuộc của Thầy và trò trong hành trình loan báo Tin mừng cũng như đầy lòng chiếu cố, Chúa Giêsu đã ăn cá nướng trước mặt các môn đệ để minh chứng cho các môn đệ rằng Ngài đã sống lại thật. Thánh Luca cũng có trong ý nghĩ cái ý nghĩa "thánh thể" của "bữa ăn" này (x. Cv 1,4; Lc 24,30). Sự hiệp thông ở đây với Đức Kitô trong khung cảnh một bữa ăn thân tình, sự hiệp thông tronh tình huynh đệ và diễn tả sự gặp gỡ của đức tin nơi Thánh thể.
Một thân xác phục sinh không còn cần thức ăn; nhưng điều đó không muốn nói rằng thân xác vinh quang không thể "thẩm thấu" đồ ăn của uống. Phần trình thuật này của Thánh Luca (cũng như của Thánh Gioan 20,19t) được miêu tả như để minh chứng rằng: sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện vật lý; Đức Kitô phục sinh khong phải là thứ ma quái hay hồn thiêng song là một ngôi vị thực sự.
Không phải thời Chúa Giêsu và các môn đệ, mãi mãi muôn đời có quá nhiều lý luận bài xích cho rằng: các môn đệ lúc đó đã bị lừa gạt bởi những cảm xuc quá mạnh hoặc bởi những tưởng tượng đầy ám ảnh. Trình thuật này của Thánh Luca là câu trả lời cho sự đối kháng đó. Chúng ta vừa nghe Thánh Luca trình bày cho thấy: các môn đệ hoàn toàn không phải là bị ám ảnh, hay la mộng mị như những người không tin thường hay nhạo báng, ngược lại là đúng hơn; và dù có nghi ngờ, họ đã đi đến chỗ xác tín rằng Chúa Giêsu đã sống lại.
Thật ra mà nói thì các môn đệ ngày xưa cũng là con người xác thịt như chúng ta, đâu có dễ dàng gì mà tin một con người đã chết thật mà nay lại sống lại thật với đầy đủ cái thân xác cũng ăn cũng uống như con người. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã sống lại thật và các môn đệ đã tin thật. Vì tin cũng như nhận được ân sủng từ Chúa Thánh Thần do Chúa Giêsu thương ban nên lòng tin của các ông tưởng chừng như tan tành theo mây khói nhưng đã được củng cố một cách mạnh mẽ hơn trước.
Chúng ta nhớ lại hình ảnh của một Phêrô nhát đảm nhưng sau khi chân nhận mầu nhiệm Phục Sinh, Phêrô đã mạnh mẽ lên đường đi rao giảng Tin mừng Phục Sinh ấy. Không chỉ rao giảng, Phêrô còn minh chứng quyền năng Chúa Phục Sinh trong chính hành động chữa người què. Anh què vừa đi vừa nhảy nhót vừa ca tụng Thiên Chúa. Như sách Công vụ tông đồ thuật lại: "Toàn dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. Và khi nhận ra anh chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thơ, họ kinh ngạc sững sờ về sự việc mới xảy đến cho anh. Anh cứ níu lấy ông Phê-rô và ông Gio-an, nên toàn dân rất kinh ngạc, chạy ùa tới các ông tại hành lang gọi là hành lang Sa-lô-môn" (Cv 3, 9-11).
Hôm nay, Thánh Phêrô, đại diện cho các tông đồ đã minh chứng cho những người Ngài rao giảng về cái chết của Chúa Giêsu và sự phục sinh của Ngài. Ngài minh chứng cho những người ấy cũng chính là Ngài minh chứng cho chúng ta. Ngoài ra, Ngài còn cảnh báo cho chúng ta về những hành vi của chúng ta vì không hiểu biết và Ngài cũng mời gọi chúng ta sám hối và trở lại với Thiên Chúa để chúng ta được Thiên Chúa xoá bỏ tội lỗi.
"Thiên Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà chính anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng. "Thưa anh em, giờ đay tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em". (Cv 3, 13-19).
Không chỉ tông đồ Phêrô mà cả môn đệ Chúa yêu trong thư thứ nhất của Ngài mà chúng ta vừa nghe đay, Ngài cũng đã nhắc nhở và cảnh báo chúng ta.
"Chính Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa". (1 Ga, 2, 5)
Như vậy, chúng ta thấy lòng tin của các Ngài. Nhiều người phản bác lòng tin vào Chúa Phục sinh. Như chúng ta thấy đó, lính canh đã nhận tiền của các quan để loan báo rằng "môn đệ của ông ấy đến lấy xác ông ấy". Dẫu phải đối kháng với những người không tin mà còn chà đạp lòng tin nữa nhưng lòng tin của các môn đệ vẫn kiên vững.
Các ngài đã tin, đã minh chứng lòng tin ấy cũng như cảnh báo cho chúng ta về thái độ sống của chúng ta. Chúng ta như thế nào khi đứng trước lời minh chứng ấy. Chúng ta có tiếp tục con đường cũ của những người Do Thái kém tin vào Chúa hay là chúng ta tin Chúa như các môn đệ đã tin.
Chắc chắn lòng tin của chúng ta ngày hôm nay cũng bị thử thách như các môn đệ ngày xưa vậy. Chúng ta vẫn bị giằng co chứ không đơn giản chút nào. Chúng ta thấy các tông đồ ngày xưa loan báo và minh chứng về một Đức Giêsu Phục Sinh không đơn giản vì lẽ các ngài bị chống đối, bị chà đạp. Lòng tin của chúng ta ngày hôm nay cũng bị giằng co, chống đối chà đạp
Nếu trả lời là tin, chúng ta hãy diễn tả lòng tin ấy bằng lối sống thường nhật của mỗi người chúng ta vào Chúa, Chúa thì lại hiện diện nơi chính anh chị em đồng loại.
Xin Chúa thương ban thêm lòng tin cho những con người yếu đuối của chúng ta.
Xin các thánh tông đồ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta để chúng ta ngày mỗi ngày tin vào lời chứng của các môn đệ về Chúa hơn cũng như xin thêm lòng mến để chúng ta diễn tả niềm tin một cách thực tế trong cuộc đời của chúng ta.
23. Danh Chúa Giêsu – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã thường sai các sứ thần, sứ giả, các tiên tri và cac tổ phụ cha ông để truyền dạy về mầu nhiệm ơn cứu độ. Khi thời đã mãn, Thiên Chúa sai chính Con Một Ngài là Đức Giêsu xuống thế để mạc khải về Nước Trời. Đức Giêsu là Chúa, qua Ngài muôn loài được tạo thành. Danh thánh Chúa Giêsu là danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu: "Như vậy, khi vừa nghe Danh Thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ" (Pl 2,10). Danh Chúa Giêsu có quyền lực biến đổi và chữa lành mọi vết đau thương cả hồn lẫn xác. Trong tất cả các lời cầu nguyện chính thức của Giáo Hội đều kết thúc bằng lời cầu: Chúng con cầu xin nhờ danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con.
Sau khi Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết, các Tông đồ đã chứng kiến, gặp gỡ và cùng ăn uống với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã minh chứng rằng Ngài không phải là ma hay bóng hình, mà là người sống thật. Chúa Giêsu đã chỉ cho các ông thấy dấu đinh nơi tay chân và cạnh sườn bị đâm thủng. Chúa đã cùng đồng hành trên đường, đối thoại với hai môn đệ và bẻ bánh phân chia. Niềm xác tín vững vàng, các tông đồ đã mạnh dạn ra đi làm nhân chứng, cho dù đối diện với muôn vàn trở ngại khó khăn. Các Tông đồ đã nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân. Ông Phêrô nói với dân chúng: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” (Cv 2,38).
Qua thánh giá, Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù là tội lỗi và ma quỷ. Thánh giá là chìa khoá mở cửa để vào Nước Trời. Triều thiên vinh quang phải đi qua thánh giá. Chúa Giêsu đã giải thích cho các Tông đồ con đường thánh giá phải đi qua để vào Nước Chúa. Ngài trao ban cho các ông quyền lực để thắng vượt tội lỗi và sợ hãi. Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ hãy làm nhân chứng về sự sống lại của Ngài cho mọi người. Chúng ta nghe và đọc nhiều bài tường thuật rất đơn sơ, chân thành về sự kiện Chúa Phục Sinh đã hiện ra với các bà, các tông đồ, môn đệ và nhiều người khác. Chúa hiện ra với mỗi người qua mỗi hình thức trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Mỗi lần Chúa hiện ra đều có ý minh chứng và củng cố thêm lòng tin của các môn đệ vào sự sống lại.
Các môn đồ sống với tâm hồn rat đơn sơ chất phác. Những thắc mắc, ngờ vực và lo âu của các môn đồ là rất thật. Sau khi Thầy của mình đã bị giết chết và chôn trong mộ đá, các môn đồ sống trong tinh thần hoang mang lo sợ và bỏ đi tản mác. Có những mon đồ chán nản bỏ về quê nhà. Trên đường về làng Emmaus, Chúa Giêsu phục sinh đã xuất hiện như người khách lạ cùng đồng hành với các ông để giải thích Kinh Thánh và mở con đường mới dẫn vào Nước Trời. Thật là nhiệm mầu, Chúa đã sống lại rồi, đâu ai có thể gây hại gì cho Chúa nữa. Đôi khi tôi tự hỏi: Sao Chúa không ra mặt công khai công bố tin vui và quy tụ mọi người về một mối? Chúng ta cũng nhớ rằng sứ mệnh rao truyền Tin Mừng cua Đấng Messia thì âm thầm và ẩn giấu. Tư tưởng và đường lối của Chúa thì không phải của loài người.
Thiên Chúa rất kiên nhẫn đợi chờ. Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Chúa muốn gặp gỡ với từng tâm hồn. Chúa mở lòng cho mỗi người có cơ hội để cảm nhận được tình Chúa. Nước Trời như hạt cải bé nhỏ được gieo trồng, đâm chồi nẩy lộc và phát triển. Lời giống Lời Chúa cứ tiếp tục tung gieo trên khắp cánh đồng. Những tâm hồn vui vẻ đón nhận và chăm nom vun tưới, hạt giống sẽ sinh hoa kết quả. Khởi đầu Giáo Hội, với con số rất khiêm nhường, chỉ có 12 tông đồ, trong đó một vị đã bỏ cuộc và cùng với 72 môn đệ, các bà đạo đức, một số người than thiện cảm tình theo Chúa. Họ là nhóm nòng cốt. Chúa Phục Sinh đã trao quyền cho các vị ra đi làm nhân chứng và rao giảng Tin Mừng thống hối. Hầu hết các môn đồ đã lấy mạng sống mình để minh chứng niềm tin vào Chúa Kito sống lại.
Thánh Phêrô và Gioan đã can đảm rao giảng sự thật: Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Đấng ban sự sống thì anh em lại giết đi. Và các tông đồ đã làm chứng rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Giờ đây các ông chỉ lấy danh Người mà làm các phép lạ chữa lành. Phêrô cũng thành thật chia sẻ rằng chúng tôi không dùng quyền năng riêng hay lòng đạo đức của chính mình mà làm các sự lạ. Khi chữa lành cho anh què tàn tật, ông Phêrô nói: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi!” (Cv 3,6). Tất cả năng quyền được trao ban cho các ông đều nhờ qua Danh Chúa Giêsu Kitô. Mọi sự đều phải quy về Chúa Kitô Phục Sinh. Ngài là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Ngài là đầu của Nhiệm Thể.
Chúa Giêsu đã sai các Tông đồ ra đi làm nhân chứng và truyền rao ơn cứu độ. Các Tông đồ đã xả thân mình vì đức tin. Với một sức mạnh thúc đẩy nội tâm, các ông không còn rụt rè, sợ hãi nhưng kiên vững xác tín rao giảng về cuộc đời của Chúa. Chính Chúa là lẽ sống, là đá tảng và sức mạnh. Tất cả mọi quyền lực thế gian, áp đặt của kẻ thù, bắt bớ, tù tội, gươm giáo và chết chóc không làm lung lạc niềm tin. Các tông đồ vững mạnh tuyên bố rằng: “Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nazareth, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4,10).
Thánh Phaolô, vị Tông đồ sinh sau đẻ muộn trong Đức Kitô, cũng mạnh dạn tuyên xưng danh Chúa: “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này! Ngay lúc ấy, quỷ thần liền xuất” (Cv 16,18). Nhân danh Chúa Kitô Phục Sinh, mọi quyền lực thế gian phải quỳ phục. Hãy tự vấn xem có khi nào chúng ta thực tình dùng Danh Thánh Chúa để chế ngự các nết xấu, xua trừ ma quỷ hay làm một việc gì tốt không? Nhiều lần chúng ta đã chối từ, lẩn tránh và ngại ngùng tuyên xưng danh Chúa. Rất thường chúng ta không dám tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kitô nơi công cộng. Đôi khi chúng ta không dám làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng mot Chúa Ba Ngôi nơi bàn ăn. Chúng ta giả vờ sống như những người không tin. Hoạ theo những thói tục hư đốn, truỵ lạc, đàm tiếu, gian dối và tỏ ra mình sành chơi, sành điệu không thua kém gì người không biết Chúa.
Nhìn vào cuộc sống của người Kitô hữu, chúng ta phải chân nhận rằng đã có quá nhiều lần chúng ta phân rẽ chi thể mầu nhiệm của Chúa. Chúng ta dựa vào niềm tin để đả phá, ghen ghét và xa tránh nhau. Lời của Thánh Phaolô nhắc nhơ: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau” (1 Cr 1,10). Sống tinh thần của Chúa Kitô Phục Sinh là sống tinh thần yêu thương trong an bình. Nhân danh Chúa Kitô, chúng ta là sứ giả của hoà bình, là nhân chứng của tình yêu và là môn đệ của sự khiêm nhường phục vụ.
Lạy Chúa, xin đoái nhìn đến đoàn con của Chúa. Nhờ Mầu nhiệm Vượt qua, Chúa đã biến đổi tâm hồn và thân xác chúng con. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô sống lại, để mai sau cùng chung hưởng vinh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ danh Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
24. Sống chứng nhân phục sinh
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một thấy cảnh tượng các Tông Đồ tụ họp nhau trong căn phòng với tất cả các cánh cửa đều đóng kín, vì lo sợ, tâm hồn họ đã bị tổn thương kể từ khi Chúa Giêsu bị bắt và chịu chết. Nhưng Chúa Giêsu hiện ra, Ngài ban bình an và thổi một nguồn sống mới cho họ. Chúa Giêsu cũng làm như thế cho cúng ta, chúng ta hãy biết mở lòng ra để đón nhận quà tặng mà Chúa Phục Sinh gởi đến.
Trong bài đọc I, Phêrô đã thể hiện một sự can đảm lạ thường khi ông đối mặt với những người có liên quan đến cái chết của Chúa. Ông tuyên bố một cách xác tín rằng: họ đã được tha vì họ không biết việc họ làm. Ở đây, ông đã khơi gợi để họ nhớ lại lời cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá: "Lạy Cha, xin tha cho cúng vì chúng không biết việc chúng làm." Thánh nhân cũng thôi thúc, mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để được tha tội.
Trong Tin Mừng, thánh Luca nhấn mạnh rằng: Chúa Giêsu Phục Sinh mà các Tông đồ xem thấy cũng chính là Chúa Giêsu ngày xưa đã từng chung sống với họ. Thân xác Ngài đã được Phục Sinh thật sự nhưng không phải trở về với cuộc sống trần thế, Chúa Giêsu Phục Sinh với một cuộc sống mới không còn lệ thuộc vào không gian, thời gian, đặc biệt là cái chết.
Nhờ liên kết từ những đoạn khác nhau của sách các tiên tri mà người Kitô hữu hiểu và chấp nhận: Đấng Messia chịu đau khổ là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Vì thế thánh Luca đã viết, Chúa Phục Sinh đã giải thích Kinh thánh, mở lòng mở trí đe các Tông Đồ hiểu lời Kinh thánh đã tiên báo về Người: Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới bước vào vinh quang. Và Ngài cũng trao sứ điệp này cho các tông Đồ hãy đi kêu gọi mọi người sám hối để được tha tội. Và chính các ông làm chứng về Chúa Phục Sinh cho muôn dân.
Qua ba bài đọc trên, chúng ta có thể rút ra một bài học trong tuần 3 PHỤC SINH: Chúa Giêsu phục sinh vẫn luôn mời gọi chúnng ta hãy làm chứng cho Ngài trước mặt thiên hạ trong cuộc sống hôm nay.
Giống như các Tông Đồ, chúng ta cũng lo lắng, sợ hãi nhiều điều. Có lẽ, điều làm cho mỗi người chúng ta sợ nhất trong cuộc sống hôm nay là: sợ hy sinh, sợ thiệt thòi... vì làm chứng cho Chúa thì tôi phải hy sinh, phải quảng đại và phải nhường nhịn người khác. Tại sao tôi phải sống vì người khác trong khi người ta chỉ biết sống cho riêng mình? Cái chết và sự Phục Sinh Chúa Giêsu là câu trả lời xác thực nhất.
Nhưng Chúa ở đâu mà tôi không cảm nhận được? Chúa không ở xa ta, nhưng ngài vẫn luôn bên cạnh dù giác quan ta không cảm thấy Ngài. Vì mắt chúng ta bị che khuất như hai môn đệ trên đường Emau. Nhưng Lời Chúa và Thánh Lễ sẽ mở mắt để chúng ta nhận ra Chúa trong cuộc sông và trong tha nhân.
Nếu chúng ta tin vào Chúa Phục Sinh thì cuộc đời chúng ta sẽ khác, sẽ thay đổi như các Tông Đồ và các môn đệ. Vì Chúa Phục sinh sẽ ban bình an cho ta và ngài se giải thoát chúng ta khỏi mọi sợ hãi để chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Nhưng Tin Chúa thì phải giữ Lời Chúa. Như thánh Gioan đã nhắc chúng ta trong bài đọc II: Yêu mến Thiên Chúa đúng nghĩa là tuân giư giới răn của Ngài.
Lạy Chúa! Chúa vẫn luôn hiện diện bên con mọi nơi, mọi lúc. Nhưng vì lòng tin con chưa đủ mạnh để nhận ra Chúa luôn đồng hành với con trong cuộc sống. Xin cho chúng con mỗi lần tham dự Thánh thể hay đọc Lời Chúa là chúng con gặp được Chúa giống như hai môn đệ trên đường Emau ngày xưa.
25. Chia Sẻ Lời Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Chúng ta có thể gồm tóm các bài Phụng vụ hôm nay vào trong hai chữ: BẺ BÁNH. Bẻ bánh là gì? La cầm bánh bẻ ra và chia cho người khác. Bẻ bánh là chia sẻ.
Trong một cuộc du ngoạn dưới nắng hè, chúng ta tìm một chỗ bóng mát, ngồi lại với nhau, cùng chia sẻ lương thực, thức ăn nước uống, để bồi bổ thể xác. Trong Giáo hội tiên khởi cũng như trong Giáo hội ngày nay, ngày Chúa nhật, ngày của Chúa, chúng ta họp lại với nhau để làm lại việc quan trọng là chia sẻ hay bẻ bánh Lời Chúa. Vì chia sẻ hay bẻ bánh Mình và Máu Thánh Chúa trong phép Thánh Thể để nuôi dưỡng linh hồn.
Các bài đọc Phụng vụ hôm nay minh chứng cho chúng ta hai điều đó. Trong bài đọc thứ nhất chúng ta nghe Thánh Phêrô bẻ bánh Lời Chúa cho dân chúng. Bài giảng thật súc tích, ngắn gọn dựa trên các điểm sau đây: Chúa Giêsu Nagiarét chính là Con Thiên Chúa, nhưng anh em đã chối bỏ Đấng Công Chính, Đấng ban sự sống và giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài từ cõi chết sống lại. Điều đó chúng tôi xin làm chứng. Vậy anh em hãy trở lại để được ơn tha thứ. Đó là bài giảng đầu tiên và là khuôn mẫu cho các bài giảng thuyết.
Trọng tâm các bài giảng là mầu nhiệm Chúa đã chết, “Chính Ngài là của lễ đền tội không những cho chúng ta mà thôi, nhưng còn cho cả thế giới” (Gio 2-5…) và Ngài đã Phục sinh sống lại. Giáo hội, theo Luca cho biết, đã ý thức ngay từ đầu việc Chúa Phục sinh, bằng ba lối dẫn nhập này: một là lời cung chứng của các Tông đồ. Các ông không bao giờ nghĩ tới sự việc sẽ xảy ra như vậy. Họ tỏ ra ngờ vực là khác. Luca nhấn mạnh đến thái độ của họ khi nhìn thấy Chúa hiển linh: “họ ngạc nhiên, bối rối lo sợ, nghi ngờ tưởng là bóng ma”. Nhưng roi họ mới nhận thức đó là sự thật; hai là nhờ sự suy niệm Kinh Thánh, mà Chúa đã dạy cho họ trên đường Emmaus (24, 25-27) cũng như cho tất cả (24, 44-47); ba là nhờ thực hành nghi thức Thánh Thể. Hai môn đệ đã nhận ra Ngai khi bẻ bánh (24,35) và cộng đoàn tiên khởi ân cần tham dự vào mầu nhiệm Thánh Thể (Cv. 2,42 và Icor. 10,46). Ba lối dẫn nhập nhưng cùng đi về một hướng.
Giáo hội có bổn phận “bẻ bánh Lời Chúa” thì chúng ta người tín hữu có bổn phận nhận lãnh Lời Chúa, lắng nghe và thực hành. Mỗi Chúa nhật có một bài giảng, mỗi năm có 54 tuần lễ, tức là có 54 bài chia sẻ Lời Chúa. Nhưng chúng ta đã lãnh nhận như thế nào? Đành rằng có nhiều thứ bài giảng cũng như bánh chia có nhiều loại, bánh mặn, bánh lạt, bánh khô, bánh ướt, thì Lời Chúa, qua thừa tác viên, đến với ta cũng vậy, có bài dài, hoặc giảng buồn ngủ. Thánh Vinh Sơn Ferrier giảng 20.000 ngàn bài và mỗi bài không dưới 3 tiếng đồng hồ. Thánh Phaolô xưa cũng giảng dài, vì Ngài tự cho là lỗi bổn phận: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Lời Chúa”. Tại Troy, Ngài giảng từ chiều tối đến nửa đêm. Có anh chàng ngồi trên cưa thành lầu cao, ngủ gật té chết, Ngài làm cho sống lại và tiếp tục giảng cho đến sáng. Anh em cũng hãy thông cảm với người rao giảng Lời Chúa. Thánh Phanxicô Balesiô sau bài giảng đầu tiên đã phải nằm liệt giường vì lo sợ. Nhưng rồi Ngài trông cậy Chúa và Ngài giảng với tất cả tâm hồn; Ngài định nghĩa “nhà giảng thuyết là người lấy tâm hồn mình và ném vào tâm hồn thính giả”. Giáo luật dạy Linh mục phải dọn kỹ càng, trình bày thích hợp với điều kiện thính giả và nhu cầu thời đại (GL 769) và buộc phải giảng lễ trong ngày Chúa nhật (GL. 767-2) thì Giáo dân có trách nhiệm phải lắng nghe và tuân giữ các điều mà chủ chiên tuyên giảng với tư cách là thay dạy đức tin (GL. 212-1).
Việc quan trọng thứ hai mà Phụng vụ gợi ý hôm nay là việc bẻ bánh Thánh và chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa trong Thánh lễ. Ngày Chúa nhật là ngày mà Giáo hội dạy chúng ta đi tham dự Thánh lễ và kêu gọi chúng ta chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa, của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Hai phần ba thế giới đang đói vì thiếu của ăn thì có bao nhiêu người cũng đang đói Chúa. Thánh Lucianô, Giám Mục Nocomedia, bị bắt giam trong tù. Giáo dân lo lót lính canh và mang lễ vật vào thăm. Ngài khuyên họ can đảm giữ vững Đức Tin. giáo dân quây quần xung quanh Ngài và nói: Chúng con đói Chúa. Không có nơi thuận tiện làm lễ, Ngài liền nằm ngửa dưới đất, đặt của lễ trên ngực và làm lễ để cho giáo dân được rước Chúa.
“Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con lời Thánh Kinh, xin làm cho tâm hồn con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con” (Đáp ca).
26. Chứng từ phục sinh
(Suy niệm của Lm Phêrô Hồng Phúc)
Trong suốt những lần hiện ra cùng các tông đồ, luôn luôn, những lời chào chúc đầu tiên của Chúa Giêsu là: "Bình an cho các con". Đây là những gì mà khi trao sứ vụ cho các tông đồ, Chúa Giêsu đã từng dạy các ông: "Đừng mang bao bị, tiền túi dọc đường nhưng vào làng nào, thành nào, các con hãy chúc bình an cho người ta".
Dường như, Chúa muốn dạy cho các tông đồ rằng: "Kho tàng của các con duy nhất là sự bình an, trao ban cho những nơi các con đến" và mùa Phục Sinh này, chúng ta được chứng kiến Chúa Giêsu đã trao ban kho tàng ấy cho các ông: "Bình an cho các con". Bình an vượt trên những sợ hãi, đóng kín cửa trong nhà; bình an để các ông có thể yên tâm ra khơi, cho dẫu cả đêm không bắt được con cá nào; rồi bình an của Chúa đến, sự hiện diện của Chúa sẽ làm cho các ông được đầy thuyền cá lớn. Hơn nữa, sự bình an của Chúa hôm nay còn trao ban cho các ông một sứ mệnh rất lớn lao: "Các con sẽ là chứng nhân những sự kiện đó". Từ đây, bài học không còn là lý thuyết nhưng là chứng từ của cuộc sống về Chúa Kitô Phục Sinh. Với chứng từ này, các tông đồ tiếp tục trao ban bình an cho thế giới. Sự bình an vượt trên mọi sợ hãi, âu lo, trao ban niềm hy vọng và kiến tạo hạnh phúc cho thế giới. Chứng từ về Chúa Kitô Phục sinh là một chứng từ mạnh mẽ nhất về sự chiến thắng thế gian, chiến thắng tử thần. Chứng từ Phục Sinh mở ra cho chúng ta viễn ảnh về sự sống đời đời mà chúng ta được mời gọi sống trong sự sống ấy. Hay nói một cách cụ thể hơn là sống trong sự sống của chính Thiên Chúa Ba Ngôi: Yêu thương, hiệp nhất và vĩnh cửu.
Các tông đồ là những người còn phân vân không phải nghi ngờ Chúa, nhưng nghi ngờ về giác quan của mình, về mắt mình có thể nhìn sai, về trí tưởng tưởng của mình có thể vẽ ra những gì là "tự kỷ ám thị". Chúa Giêsu đã ăn trước mặt các ông để làm chứng cho các ông rằng: "ma đâu có xương thịt như các con thấy thầy có đây". Chúa Giêsu ăn trước mặt các ông không phải vì nhu cầu đói, không phải vì nhu cầu phải ăn mới sống nhưng ăn để làm chứng sự hiện hữu của Chúa trong con người của Giêsu đã từng bị đóng đinh, đã từng bị giết chết.
Chúa Giêsu cũng dạy cho các tông đồ rằng: Chúng ta ăn để sống và sống để làm chứng nhân Phục sinh của Chúa Kitô. Đừng coi ăn là mục đích để rồi chỉ sống mà ăn. Chúa Giêsu đã cho các ông thấy một nhãn giới cao hơn trong mục đích của đời sống con người. Như vậy, các ông đã hiểu ra rằng: Cuộc sống ở đời nay là phương tiện để đưa các ông đến với Thầy và làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, là làm chứng về một cuộc sống đời đời và trao ban bình an cho thế giới. Đó là sứ mệnh của các ông.
Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng hieu ra rằng: tất cả mọi sinh hoạt, tất cả cuộc sống trần thế, chúng ta đang có đây là những phương tiện giúp chúng ta đến với một niềm hy vọng. Niềm hy vọng để biến chúng ta thành chứng nhân của Tin Mừng và chứng nhân ay được Giáo hội nhắc lại trên môi miệng mỗi người chúng ta trong thánh lễ mỗi ngày: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xứng Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến". Xin giúp chúng con ý thức sứ mệnh này để đến lượt chúng con lại tiếp tục ra đi làm chứng nhân Tin Mừng cho Chúa trong thời đại chúng con đang sống. Amen.
27. Đau khổ.
Đang khi các tông đồ nghe hai môn đệ từ Emmaus trở về, say sưa kể lại sụ kiện gặp gỡ Đức Kitô phục sinh, thì Ngài bỗng hiện ra và ở giữa họ. Chắc hẳn lúc bấy giờ các ông đã vô cùng sững sờ và ngạc nhiên đến nỗi tưởng như mình đã gặp phải một hồn ma nào đó. Khi ấy Chúa Giêsu mới ân cần làm cho họ nhan biết mình. Ngài nói chuyện với họ, khuyến khích họ sờ vào tay chân Ngài để họ không còn nghi ngờ chi nữa.
Dù vậy các ông vẫn còn e dè sợ sệt. Chúa Giêsu lại phải đưa thêm một bằng chứng khác nữa, đó là Ngài cùng an uống với họ. Hồn ma chỉ có thể tạo ra những ảo giác chứ không thể ăn uống như người thật. Các tông đồ đến lúc đó mới hết ngờ vực. Vả lại nhìn chung quanh các ông thấy ai cũng tin như thế, các ông mới yên lòng, vì nếu ảo tưởng thì chỉ có nơi một vài người lẻ tẻ, chứ không thể nào tất cả bằng ấy người lại cùng có một ảo tưởng.
Họ nhận ra Ngài như Ngài đã nói: Chính Thầy đây. Và họ tin chắc đó là Chúa Giêsu, người mà họ đã bươc theo suốt ba năm dài, đã trở nên tông đồ, đã sống thân mật và gần gũi với Ngài. Ngài đã chịu nạn chịu chết và bây giờ đã sống lại.
Giờ đây, Chúa Giêsu cũng làm lại điều Ngài đã làm cho hai môn đệ tại Emmaus, đó là mở trí cho họ hiểu Kinh thánh. Bấy lâu nay Ngài đã nhiều lần và bằng nhiều cách dạy cho họ hiểu những lời tiên tri, thánh vịnh. Cố ý cho họ biết Ngài là Đấng Messia, sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết. Nhưng nào họ co chịu hiểu cho đâu, lại còn bực bội tức tối về điều đó nữa.
Chúng ta cũng thế. Biết bao nhiêu lần chúng ta vẫn quan niệm Giáo Hội như là một cơ chế quyền lực do Chúa thiết lập. Giáo Hội phải thành công rực rỡ trong mọi lãnh vực. Biết bao nhiêu lần chúng ta đã đòi hỏi cuộc sống thiêng liêng và những hoạt động tông đồ của mình phải gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chúng ta không thể nào chấp nhận được chương trình và cách thức hành động của Thiên Chúa.
Giờ đây Chúa Giêsu mở lòng trí các tông đồ khiến họ phải hiểu qua con đường nào mới tiến đến được vinh quang Nước Trời. Thực tế, con đường của Chúa không đi đôi với vẻ hào nhoáng của những thành công sáng chói ở đời, nhưng đó là con đường nghịch lý mà Chúa Giêsu đã dạy trong tám mối phúc thật. Có thể thỉnh thoảng Chúa cũng ban cho chúng ta một vài thành quả nào đó, tuy nhiên những thành quả ấy phải được sư dụng để làm vinh danh Chúa và mưu cầu lợi ích cho anh em, chứ không phải là để kiếm chác những lợi lộc tư riêng theo kiểu vinh thân phì gia.
Cái định luật bất di bất dịch mà những người tin Chúa phải tuân theo, đó là hãy chấp nhận gian khổ, hãy vác lấy thập giá trên vai nếu như chúng ta muốn trở thành môn đệ Chúa, nếu như chúng ta muốn được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài.
28. Chứng nhân cho Đức Kitô
1. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay kể lại việc Đức Kitô phục sinh hiện ra với các môn đệ, chúng ta dễ nhận ra hai phần: Phần thứ nhất, Đức Kitô dùng những lời nói và những hành động cụ thể để chứng minh Ngài đã thực sự phục sinh; phần thứ hai, Ngài trao cho các ông sứ mệnh mới, đó là hãy rao giảng Tin Mừng cho muôn dân và làm chứng việc Ngài đã phục sinh cho mọi người: "Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy" (Lc 24,48). Không riêng một ai, mà Chua mời gọi mọi Kitô hữu qua mọi thời hãy làm chứng nhân cho Chúa, chúng ta đã làm gì để đáp lại lời mời gọi ấy?
2. Làm chứng là đứng ra xác nhận những gì mình đã chứng kiến, thí dụ làm chứng về một tai nạn giao thông...Người đứng ra làm chứng được gọi là chứng nhân. Chính vì để rao truyền Tin Mừng cho toàn thế giới mà Đức Kitô đã chọn các tông đồ và các môn đệ. Các ngài sẽ chứng thực trước mặt mọi người về những sự kiện đã xảy ra nơi Đức Giêsu, từ phép rửa thánh Gioan đến lúc Đức Giêsu về trời. Đặc biệt về sự phục sinh của Đức Giêsu, biến cố này chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa (Cv 1,22; 2,32).
Trong bài đọc I(Cv 3,11-26), Phêrô thay mặt cho các tông đồ lớn tiếng làm chứng cho dân chúng tại Giêrusalem về việc Đức Giêsu đã chịu đóng đinh, chịu chết và nhất là việc Chúa sống lại.
Không những bằng lời rao giảng lúc thuận tiện, mà chính Phêrô cũng như các tông đồ và nhiều môn đệ khác còn làm chứng cho Đức Kitô bằng chính đời sống của mình dù phải vất vả rao giảng, dù phải đòn vọt, tù ngục và ngay cả hy sinh mạng sống, các ông chấp nhận tất cả để làm chứng cho Đức Kitô.
3. "Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy", lời mời gọi làm chứng cho Đức Kitô vang dội nơi mỗi người chúng ta. Đức GH Phaolô VI đã nói: "Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân". Sách Giáo Lý Hoi Thánh Công Giáo cũng chỉ rõ: qua bí tích Thêm Sức, nhờ ơn Chúa Thánh Thần người Kitô hữu được tháp nhập thâm sâu vào Chúa Kitô, liên kết chặt chẽ với Hội Thánh và
được mời gọi làm chứng đức tin Kitô giáo bằng cả cuộc sống (x.GLGHCG số 1316). Vậy mọi Kitô hữu được mời gọi làm chứng về sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ qua đời sống tốt đẹp của mình mọi nơi mọi lúc. Làm chứng cho tình yêu thương, tha thứ của Thiên Chúa qua đơi sống yêu thương tha thứ của mình. Làm chứng cho Đức Kitô phục sinh bằng cách hoán cải, canh tân đời sống như lời Chúa dạy trong đoạn Tin Mừng này, để rồi mai sau được hy vọng cùng phục sinh với Ngài.
Trong bài đọc II, thanh Gioan chỉ rõ cho chúng ta phương cách làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Kitô bằng những việc làm cụ thể: đừng phạm tội, hãy giữ các giới răn của Thiên Chúa, qua đó thể hiện lòng yêu mến Chúa.
4. Mang thân phận con người, nhất là trong thời đại này, người Kitô hữu cũng rất dễbị cám dỗ, ngụp lặn trong những giá trị vật chất như tiền bạc, danh vọng, quyền lực, lạc thú... Có thể không mất hẳn niềm tin vào Thiên Chúa, nhưng lắm khi mang danh Kitô hữu mà lại sống rất xa, rất khác biệt giới răn Thiên Chúa, lời Chúa dạy.
Nhưng đáng mừng thay, bên cạnh đó, qua mọi thời, mọi nơi không thiếu những Kitô hữu sống không hổ thẹn với các bậc tông đồ, họ đã trung thành làm chứng cho Chúa. Đó là những cá nhân, những gia đình, đoàn thể cố gắng sống xứng danh là người Công Giáo, cố gắng góp phần xây dựng Họ Đạo, xây dựng Hội Thánh. Họ thấy được giá trị của Tin Mừng, cho nên đa kiên vững trong thử thách cho dù phải thiệt thòi về quyền lợi, về vật chất... hay hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Đức Kitô.
5. Tại sao hai môn đệ trên đường Emmau này có được sức mạnh để quay ngay lại Giêrusalem, để làm chứng về sự gặp gỡ của họ với Đức Kitô phục sinh cho các tông đồ? Thưa đó là nhờ được Chúa giải nghĩa Kinh Thánh, nhờ nhận ra Ngài qua nghi thức bẻ bánh. Đức Kitô tiếp tục nâng đỡ đời chứng nhân của các tông đồ, các môn đệ khi họ chuyên cần cầu nguyện, tham dự nghi thức bẻ bánh (Cv 1,14; Cv 2,42). Giờ đây, Ngài vẫn nâng đỡ đời chứng nhân của mọi người chúng ta qua việc cầu nguyện, lãnh các bí tích... nhất là việc tham dự thanh lễ và hiệp lễ.
6. Đức Kitô đã hứa nếu ta làm chứng cho Ngài trước mặt người đời, chính Ngài sẽ làm chứng cho ta trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, ước mong rằng mỗi người chúng ta luôn cố gắng bằng mọi phương cách trong đơi sống của mình để đáp lại lời mời gọi vừa thân tình vừa là lệnh truyền của Chúa là đem Tin Mừng đến cho muôn dân "Còn các con, các con sẽ là chứng nhân về những điều ấy (cho Thầy)".
29. Niềm tin vào sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Lc 24:35-48: Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy các môn đệ khó chấp nhận việc Chúa sống lại, cũng như trước đây khi nói về việc lên Giêrusalem, các môn đệ cũng khó chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu. Chúng ta còn nhớ rõ lắm khi Chúa Giêsu nói Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô đã phản ứng quyết liệt: "Lạy Thầy, xin Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
Chúa muốn Phêrô hãy trở lại vị trí của mình là môn đệ của Chúa. Là môn đệ thì phải theo sau sư phụ. Sư phụ đi trước, đệ tử theo sau. Nhưng ở đây Phêrô lại cả gan dẫn dắt Chúa, chứ không để Chúa dẫn dắt mình, nên Chúa đã phải nói: "Phêrô hãy lui về đàng sau Ta...
Phản ứng quyết liệt của Phêrô cho chúng ta thấy Phêrô không muốn chấp nhận cái chết của Chúa. Rồi chúng ta còn thấy gì nữa nơi hai môn đệ trên đường Emmau. Hai ông buồn lắm, bởi vì ba năm theo Chúa, bây giờ công toi. Chán nản thất vọng, trở về quê nhà. Tất cả đều muốn nói với chúng ta là các môn đệ không muốn chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu, một cái chết thê thảm, một cái chết ô nhục. Một cái cái chết làm tiêu tán tất cả mọi hy vọng trong ba năm theo Chúa.
Rồi trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy gì?
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa hiện ra lần thứ ba với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly. Với một cái nhìn chung, người ta nhận ra nơi Luca việc tường thuật các lần Chúa sống lại hiện ra được kể với ba hạng người:
Trước tiên với các phụ nữ (Lc 24,1-12), rồi cho các môn đệ (Lc 24,13-25), và cuối cùng cho các Tông Đồ, tức nhóm Mười Hai (Lc 24, 35-48). Đó là ba nhóm người mà khi Chúa đi rao giảng, đã liên kết với Chúa một cách chặt chẽ, tuy nhiên với những mức độ khác nhau.
Qua các lần hiện ra, Đức Giêsu làm chứng rằng Chúa đã sống lại bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các Tông Đồ tin, Ngài đã làm hết mọi cách từ tâm lý đến thể lý, từ lịch sử đến việc chứng minh được thực hiện đúng lời đã hứa.
Bởi vậy, khi Luca kể lại việc Chúa xuất hiện cho mười một Tông Đồ lúc đêm xuống, thì ông nhấn mạnh việc Chúa xuất hiện bằng thể xác của Ngài. Khi các môn đệ thấy Ngài thì họ tưởng mình thấy ma, hoặc là hồn ma hiện về. Đánh tan cảm tưởng sai lầm đó, Đức Giêsu đã vận dụng mọi giác quan để chứng tỏ Ngài có một thân thể không phải phi vật chất, nhưng là một thân thể có xương có thịt, mà hôm thứ sáu đã bị đóng đinh vào thập giá và được táng trong mồ. Chính là thân thể vật chất ấy với những dấu đinh, với cạnh nương long mà các ông trông thấy và có thể sờ mó được. Để chứng minh tính chất vật chất của thân thể mình, Ngài cầm lấy miếng cá nướng và ăn trước mặt các ông và đưa cho các ông cùng ăn.
Rồi chúng ta còn thấy gì nữa? Tôma nhất định không tin việc Chúa sống lại và Tôma nói rằng "nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi chẳng có tin. (Ga 20,25)
Tất cả những điều trên muốn nói với chúng ta rằng: thật khó mà chấp nhận sự kiện Chúa Giesu sống lại. Nhưng cuối cùng, các tông đồ đã chấp nhận cái chết và Phục Sinh của Chúa.
Nhìn lại đức tin của các tông đồ và đức tin của chúng ta có một sự khác biệt rất lớn.
Có thể nói chúng ta dễ chấp nhận cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng cái mà chúng ta gọi là đức tin đó chẳng ăn nhằm gì tới cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đã nghe, đã đọc rất nhiều lần về cái chết và phục sinh của Chúa, nhưng chúng ta cũng chỉ đọc như đọc một tiểu sử danh nhân nào đó. Chúng ta chỉ có một chút thán phục và sau đó chẳng còn một chút nào dính dáng đến cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta tin, nhưng chúng ta không cảm nhận thấy một cái gì liên hệ đến chúng ta. Ở đây chúng ta thấy rất rõ, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu ảnh hưởng mạnh mẽ tới cuộc sống của các ngài, nên không dễ gì cácngài chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu. Nếu đã không chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu thì làm sao tin được sự sống lại của Chúa.
Ấy thế mà cuối cùng các tông đồ đã chấp nhận cái chết của Chúa Giêsu, chính vì vậy các tông đồ đã được đi vào vinh quang phục sinh của Ngài.
Còn chúng ta như thế nào?
Nhà thần học Paul Tillich nói: "sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh". Còn Thomas Merton bảo: "người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin đích thực".
Ở đây, có thể nói chúng ta chẳng nghi ngờ gì cả. Chính ở điểm này làm chúng ta phải suy nghĩ: một đức tin quá dễ dàng cũng đồng nhĩa với một đức tin hời hợt, một đức tin hời hợt chắc chắn sẽ chẳng có ảnh hưởng gì trên cuộc sống của chúng ta và như vậy chẳng bao giờ chúng ta được chung hưởng vinh quang phục sinh với Chúa Giêsu. Một cảnh báo vô cùng quan trọng cho mỗi người chúng ta để nhìn lại đức tin của chúng ta.
30. Chứng nhân hiện đại – AM. Trần Bình An
Linh mục Gioan Lee Tae-seok sinh năm 1962, là con thứ 9 trong 10 người con. Cha mẹ ngài là người Công giáo khiêm nhường, sống ở TP Busan, Nam Hàn. Gioan mồ côi cha lúc 9 tuổi, mẹ ngài phải nuôi cả gia đình bằng nghề thơ may. Gioan học rất giỏi, rất ấn tượng với tiểu sử của Albert Schweitzer và ước muốn làm bác sĩ.
Nhưng khi ngài thấy người anh đi tu dòng Phanxicô, ngài cảm thấy có ơn thiên triệu. Tuy nhiên, mẹ ngài muốn ngài học nghề thuốc trước. Một phần vâng lời mẹ, ngài đã làm bác sĩ. Ngài là bác sĩ phẫu thuật trong quân đội Hàn quốc. Nhưng ngài vẫn cảm thấy ơn gọi làm linh mục. Thấy con trai muốn vậy, người mẹ chiều theo ý con. Ngài tu Dòng Salêdieng, sang Sudan phục vụ.
Tại Tonj, ngài xây dựng một bệnh viện điều dưỡng. Mỗi ngày ngài điều trị khoảng 300 bệnh nhân. Ngài có chiếc xe Jeep để có thể tự lái đi đến các bệnh nhân chưa bao giờ đến gặp ngài. Ngài đích thân tìm kiếm các bệnh nhân. LM Gioan lớn lên trong cảnh nghèo khổ và không bao giờ xa cách người nghèo ở Tonj.
ĐGM Choi Duk-ki quyết định đến Tonj để tận mắt chứng kiến LM Gioan bằng xương bằng thịt. Thấy tỏ tường, ĐGM nói LM Gioan “như một vị thánh”. ĐGM nói rằng kinh nghiệm giống như “đồng hành với LM Damian ở Molokai, đồng hành với Chúa Giêsu”. LM Gioan làm cho tình yêu Chúa Kitô là ánh sáng dẫn đường trong mọi nỗ lực của ngài dành cho người phong cùi và cho thấy rõ ràng là “chúng ta phải đối xử với nhau như Chúa Giêsu”.
Tính cách và nụ cười của ngài đã thu hút giới trẻ. Giáo dân đến xưng tội thường gọi ngài bằng biệt danh “Cha Jolly” (Cha Vui vẻ). Ngài xây trường học với sự trợ giúp của các học sinh mà ngài dạy toán và nhạc. Ngài còn lập ban kèn đồng Don Bosco và thấy giới trẻ phấn khởi vì họ sống trong cảnh khốc liệt.
Nhưng có lần ngài đi nghỉ ở Seoul. Ngài có thói quen kiểm tra sức khỏe tổng quát, ngài được chẩn đoán bị ung thư đại tràng và ung thư gan. Đầu tiên ngài được hóa trị, nhưng trong vài tháng cuối đời, bệnh ngài sa sút mau chóng và qua đời ngày 14/1/2010, khi mới 47 tuổi.
Tài liệu của đài truyền hình Hàn quốc về cuộc đời LM Gioan ở Tonj đã được chuyển thành phim “Đừng Thương Tiếc Ngài Sudan” (Don’t Cry For Me Sudan). Chỉ xem phim 10 phút là ai cũng sụt sùi cảm động. (Theo Trầm Thiên Thu, Thánh Nhân của Thế kỷ 21, Catholic Herald.co.uk)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật 3 Phục Sinh hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ, các Kitô hữu trở nên chứng nhân của Người. LM Gioan Lee Tae-seok đã thực sự vâng theo, trở nên nhân chứng hiện đại va đích thực, đem tình yêu đến sưởi ấm những thân phận đau khổ bất hạnh. Làm chứng là đứng ra chứng thực, xác nhận, việc đã xảy ra theo sự thấy biết. (Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Việt Nam Tự Điển)
Thấy biết có thể không thấy trực tiếp qua ngũ quan, nhưng có thể gián tiếp qua tâm hồn bén nhạy, qua con tim tràn đầy tình yêu. Thánh Gioan Tông Đồ nhận biết Chúa Giêsu sống lại qua tình yêu Chúa nồng nàn, khi chỉ nhìn thấy các băng vải cuộn lai và khăn che đầu không để lẫn, mà xếp riêng ra. Ông đã thấy và đã tin.
Chứng nhân tình yêu
Mầu nhiệm cứu độ là mầu nhiệm tình yêu vĩ đại, vô song mà Đức Chúa Giêsu, Ngôi Hai Nhập Thể, dành cho nhân loại. Vì quá yêu thương loài người, Thiên Chúa Cha đã hiến tế Con Một, chịu tội thay cho mọi người, để được cứu khỏi cái chết muôn đời.
Cũng vì yêu thương, Đức Giêsu đã tình nguyện hy sinh Máu và Thịt trở nên Thánh Thể, Lương Thực hằng ngày, dưỡng nuôi con người trường sinh. Hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa Giêsu, khi Ngài bẻ bánh, đều là những chứng nhân tình yêu cho các môn đệ khác, cũng như cho toàn thể Kitô hữu. “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc trụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra người, nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24, 30-31)
Tình yêu Thiên Chúa không chỉ nhắm vào số đông, không chỉ dành cho 99 con chiên ngoan, mà còn dành ưu ái đặc biệt cho một con đi hoang, ngộ nạn, lạc bầy. “Tìm được rồi, ngưới ấy mừng rỡ vác lên vai...Vậy tôi cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì 99 người công chính không cần phải sám hối, ăn năn.” (Lc 15, 4-7)
Cũng như Người luôn quan tâm, thương xót đến những thân phận khó khăn, đơn côi, bệnh hoạn, bị xã hội gạt ra bên lề, như người phung, người quỷ ám,.. Chứng nhân tình yêu là sống đức bác ái, là thực hành đức Mến thật sự trong mọi nơi, mọi hoàn cảnh và mọi lúc.
Chứng nhân phục vụ
Hơn nữa, chính Đức Giêsu còn hóa thân, mặc lấy những thân phận bần hàn. Nên phục vụ những kẻ hẩm hiu, xấu số chính là tận tụy phục vụ Chúa qua tha nhân, vì Người công khai xác nhận: “xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” (Mt 25, 35-36)
Trong bữa Tiệc Ly, bất ngờ Đức Giêsu đã đứng dậy, rời bàn ăn, cới áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng, quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, một hành động khiêm nhường, hầu hạ của kẻ tôi tớ phục vụ, như Người đã phán: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn người." (Mc 10, 45) Người còn khẳng định: “Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.” (Lc 22, 27)
Muốn thật sự phục vụ tha nhân thì tiên quyết bỏ mình, thoát khỏi cái tôi hẹp hòi, vị kỷ, mới có thể khiêm tốn, hạ mình, hoàn toàn xả kỷ, vị tha, nhìn đến người khác với những nhu cầu cấp bách, khó khăn, hoạn nạn, bệnh tật, cô đơn, thấp cổ bé họng. Phục vụ tha nhân vì tin chắc chắn rằng, họ chính là Đức Kitô đã bị bỏ rơi trong vườn Giêtsimani đêm khuya và trên núi Canve chiều hoang. Đức tin biến thành hành động cụ thể và hữu hiệu, đức tin mới khỏi xơ cứng chết đi, như Thánh Giacôbê Tông Đồ khuyên bảo.
Chứng nhân hy vọng
Lời nói gần cuối ở Tin Mừng Thánh Luca, Chúa Giêsu căn dặn: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu goi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24, 46-48)
Người mong muốn các Tông Đồ trở nên chứng nhân hy vọng. Đồng cảm, Thánh Phaolô gửi tín hữu Thêxalônica thư thứ nhất giải thích khá cặn kẽ: “Chúng ta thuộc về ban ngày (sự sáng), nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ.”
Hy vọng là hoàn toàn trông cậy vào Thiên Chúa mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Phó thác tất cả niềm vui lẫn nỗi khổ đau cho Chúa, để được chia sẻ và an ủi, thêm nghị lực đi về Nước Chúa. Đức Cậy không thế thiếu với bất cứ ai nhận mình là Kitô hữu.
“Con hãy làm cho người Công giáo tin tưởng ở ơn thiên triệu Kitô hữu, ơn thiên triệu gia đình, ơn thiên triệu vợ chồng, ơn thiên triệu nghề nghiệp. Họ sẽ hết chán nản, họ sẽ tràn đầy hy vọng, vì họ ý thức rằng, Đấng đã gọi sẽ đưa họ đi đến cùng đích.” (Đường Hy Vọng, số 969)
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, kính xin phục hồi ba nhân đức Tin, Cậy, Mến trong tâm hồn chúng con, để chúng con luôn biết sám hối, ăn năn trở về, luôn canh tân đổi mới, yệu thương, phục vụ và hy vọng, để thực sự trở nên chứng nhân hiện đại.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ đồng hành với chúng con trên con đường chứng nhân, như xưa Mẹ đã luôn đồng hành cùng Con Mẹ suốt ba năm rao giảng, tới tận chân thập giá trên đồi Canve. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn trung thành sứ vụ chứng nhân của Con Mẹ đến suốt đời. Amen.
31. Bình an cho các con
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Theo dõi chu kỳ Phụng Vụ, từ Lễ Chúa Phục Sinh cho tới Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sách Tông Đồ Công Vụ được trích đọc, trình bày cho chúng ta thấy Hội Thánh Chúa Kitô đã thiết lập từ những buổi sơ khai cho tới lúc trở thành một Tôn Giáo Quốc Tế, được lan tràn khắp các dân tộc, không phân biệt mầu da tiếng nói... Đó là công trình của Chúa Thánh Thần, "Đấng được sai đến để làm chứng về Chúa Kitô" (Jn 16:26).
I. HÃY HỐI CẢI ĐỂ ĐƯỢC THỨ THA
Qua bài đọc I chúng ta vừa nghe, tường thuật lại phép lạ người què, vốn ngồi ăn xin của bố thí tại Cửa Đẹp Đền Thờ mà ai cũng biết, nay được chữa lành, khiến mọi người bỡ ngỡ, cảm phục và đổ xô đến với Phêrô và Gioan. Thánh Phêrô đã thẳng thắn tuyên bố với họ: "Tại sao anh chị em ngạc nhiên về việc đó, và tưởng như chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người què này đi được? Thiên Chúa của Abraham, Isaac, Giacob đã làm vinh danh Đức Giêsu Kitô Con của Ngài, Đấng anh chị em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh chị em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính, và xin tha cho tên sát nhân, còn Đấng ban sự sống thì anh chị em lại giết chết. Nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Điều đó chúng tôi xin làm chứng. Chính lòng tin vào Người đã chữa anh què này hoàn toàn được lành mạnh". Sau khi Thánh Phêrô đã thẳng thắn nói cho người Do Thái biết tội lỗi của họ, ngài đã chữa lỗi cho họ và chân thành khuyên nhủ họ hối cải để lãnh nhận ơn tha thứ: "Hỡi anh chị em, tôi biết anh chị em đã hành động vì không biết. Nhưng Thiên Chúa đã hoàn tất việc Ngài dùng miệng các Tiên Tri báo trước: Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy hãy hối cải, để tội lỗi anh chị em được xóa bỏ" (Act 3:11-26). Hãy làm hòa với Chúa để anh chị em được lãnh ơn thứ tha.
II. GIÁO LÝ VÀ MẪU GƯƠNG YÊU THƯƠNG
Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ luôn luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi loài người xúc phạm, phản bội Ngài; nếu loài người biết hối lỗi trở về làm hòa với Ngài. Chúa Kitô là Con Một Thiên Chúa, là Thiên Chúa chân thật, đã nhập thể làm Người sống nơi trần gian, cũng là để mặc khải lòng nhân từ, tình yêu thương của Thiên Chúa cho nhân loại. Chính Người đã trở nên Đấng Cứu Chuộc rất nhân từ; suốt cuộc đời Người chỉ biết rộng tay ban phát mọi ơn lành cho nhân loại. Người luôn tha thứ cho những kẻ phản bội, kẻ vô ơn bội nghĩa, kẻ bách hại, bắt bớ, xỉ nhục và treo Người chết trên Thập Giá. Ngay cả lúc Người sắp tắt thở trên Thập Giá, Người còn xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ làm khốn Người: "Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết việc mình làm" (Lc 23:34).
Trong ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Kitô đã không ngừng truyền bá giáo lý Tình Thương của Chúa; dạy cho chúng ta biết lấy tình thương làm lẽ sống, làm kim chỉ nam hướng dẫn, điều khiển cuộc sống chúng ta trên trần gian này, để tiêu diệt hận thù, chém giết, chèn ép, bất công; ngõ hầu an bình, hạnh phúc được thống trị trên trần gian, quản trị các dân tộc, điều khiển các quốc gia, xây dựng các gia đình, nhất là làm cho các tâm hồn được hưởng niềm an bình hạnh phúc, thứ an bình hạnh phúc chân thật Chúa chỉ ban cho các con cái ngoan thảo của Chúa. Chính Chúa Kitô đã sống giáo lý tình yêu thương đó và đặt Mình làm gương mẫu cho chúng ta noi theo bắt chước, để chúng ta trở nên khí cụ xứng tiện Chúa dùng, hầu biến đổi trần gian này nên nơi hạnh phúc, nơi được Chúa Tình Thương thống trị.
III. BÌNH AN LÀ ĐIỀU KIỆN HẠNH PHÚC
Bình an là điều kiện để được hạnh phúc. Đó là báu tàng mà mọi người sống trên trần gian đều khao khát ước mơ; thiếu bình an người ta sẽ luôn lo âu, sợ hãi, khắc khoải, dù người ta có nhiều tiền của, lắm chức quyền, sống sang trọng mấy đi nữa... Người ta không thể có cuộc sống hạnh phúc thoải mái nếu không có sự bình an chân thật trong tâm hồn. Chính vì bình an là điều quan trọng và cần thiết như thế, nên sau khi sống lại từ cõi chết, mỗi lần Chúa Kitô hiện ra với các môn đệ, Người đều chào chúc các ông bằng lời: "Bình an cho các con!"
Vậy làm thế nào để được hưởng sự bình an chân thật? Muốn được hưởng sự bình an chân thật, cần phải có tâm hồn trong sạch, tâm hồn không bị quyền lực tội lỗi thống trị, tâm hồn có ơn nghĩa với Thiên Chúa, tâm hồn luôn biết tin tưởng phú thác nơi tình yêu thương của Người.
Ngày 8.10.1951, một vụ án xảy ra tại Bavière, một thiếu nữ 18 tuổi tên là Emma bị thảm sát cách tất tưởi. Chuyến xe lửa vừa tới nhà ga, các chị em đồng hành nhạc nhiên vì không thấy Emma đâu, nên báo cáo cho "Ông Xếp" nhà ga hay tin. Thế là lập tức các nhân viên hỏa xa, chia nhau đi tìm kiếm dọc theo đường xe lửa, suốt 2 tiếng đồng hồ, mới phát giác ra xác Emma đang nằm xõng xượt trong vũng máu, chân tay bị chặt cụt. Xếp ga mở cuộc điều tra. Tất cả mọi hành khách bị thẩm vấn đều trả lời là không biết gì cả. Trong số đó có một chàng thanh niên 24 tuổi, khi được hỏi thì anh ta trả lời ấp úng là không biết gì cả, nhưng vì có vẻ ngây ngô thành thật, nên người ta cũng bỏ qua.
Hai tuần sau, chàng trai này đến gõ cửa Tu Viện các Cha Dòng Benedictô xin nhập Dòng. Anh được nhận, sau 2 năm thử luyện, thấy không có gì ngăn trở, Bề Trên nhận anh vào Tập Viện. Khoảng tháng 10, trước ngày vào Tập Viện, anh được phép về thăm gia đình 2 tuần lễ. Ngay ngày đầu tiên, anh đến chỗ đường sắt nơi đã tìm thấy xác Emma nằm trong vũng máu, anh quì chắp tay cầu nguyện. Ngày hôm sau, lúc sáng sớm tinh sương, anh tới mồ Emma, người mà chính anh đã giết chết, anh đã la lên trong tiếng khóc nức nở: "Tôi không thể chịu được nữa!" Rồi anh đi tự nộp mình cho cảnh sát và thú tất cả tội lỗi của anh. Cái tội mà người ta đã quên đi vì không điều tra ra manh mối gì. Anh thú nhận là anh đã xô Emma xuống và đâm chết vì nghe cô ta nói, là cô ta không biết gì đến anh nữa. Vì thế, anh ta đã nổi cơn điên, nên đã hành động độc ác như thế.
Kết Luận
Cậu truyện trên cho chúng ta thấy, dù bốn bức tường kín nơi Tu Viện, cũng không trấn an được tiếng lương tâm ray rứt, không làm cho người thanh niên phạm tội ác được bình an tâm hồn, cho dầu không một ai hay biết tội lỗi của anh ta.
Vậy muốn được bình an hạnh phúc thật, con người cần phải có tâm hồn trong sạch, sống trong ơn nghĩa Chúa. Tâm hồn biết hối cải, biết sống nhân từ, biết yêu thương và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy chúng ta noi theo bắt chước.
32. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
Khi nói về Khổng Tử, người ta có kể lại một giai thoại như thế này: Trong thời gian ở nước Tề, thầy trò của Khổng Tử đã gặp phải cảnh đói kém nhọc nhằn. Mỗi ngày một người chỉ ăn được một phần cơm nhất định mà thôi. Một ngày nọ, ông đang nằm đọc sách, chợt nghe có tiếng ai đó đang mở nắp nồi cơm.
Liếc mắt nhìn thì ong nhận ra đó là Nhan Hồi, người học trò thân tín của mình đang vốc từng nắm cơm cho vào miệng. Một lúc sau, khi cơm đã dọn xong, các môn sinh chắp tay mời thầy của mình dùng cơm. Nhưng rồi trước khi ăn, Khổng Tử ngõ ý muon dùng một ít cơm trắng để gọi là dâng cúng cho cha mẹ. Ý kiến này được mọi người tán thành. Riêng cậu học trò Nhan Hồi thì im lặng, dáng vẽ lắng lo nghĩ ngợi. Khổng Tử điềm nhiên hỏi tiếp: "Ta không biết cơm này có sach không?" Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ Nhan Hồi mới lễ phép thưa: "Dạ bẩm Thầy! Nồi cơm này không được sạch. Bởi vì trong lúc thổi cơm, con đã vô tình để bụi rớt vào, và con định xới lớp cơm bẩn đó bỏ đi. Nhưng con nghĩ rằng: cơm nấu thì có giới hạn, nếu bỏ đi số cơm bẩn đó thì sẽ mất một phần ăn. Nên mạn phép Thầy, con đã ăn phần cơm bẩn đó, còn cơm sạch để Thầy và các anh em ăn. Mà nồi cơm đã được ăn trước rồi thì chúng ta không nên cúng nữa Thầy ạ!" Nghe xong điều đó, Khổng Tử ngước mặt lên trời đấm ngực mà than rằng: trên đời này, có những việc chúng ta trông thấy rành rành trước mắt, mà còn hiểu không đúng sự thật, một tí nữa thì Khong Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ rồi.
Thưa anh chị em! Không chỉ riêng gì khổng Tử mà tất cả mọi người chúng ta thường có xu hướng dùng cái biết của mình để phê phán một vấn đề, hay là để đánh giá một sự việc nào đó. Kinh nghiệm cho thấy rằng chúng ta thường mắc phải sai lầm khi làm như thế. Bởi vì cái biết của mình chưa thấu đáo, cái hiểu của mình chưa tường tận, cái suy nghĩ của mình thường mang tính chủ quan.Và nó càng trở nên tối tam lạc lõng khi chúng ta dùng cái biết nhân loại ấy, để suy diễn về các mầu nhiệm của Thiên Chúa, nhất là mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh. Chính vì thế mà phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ Chúa nhật thứ ba phục sinh này, hướng chúng ta tới một sự nhận biết cách đúng đắn về Đức Kitô phục sinh.
Bài đọc thứ nhất thuật lại rằng: sau khi Phêrô chữa lành cho một người què tại cửa Đền thờ, thì có rất nhiều người lấy làm ngạc nhiên, bàn tan xì xầm. Nhân cơ hội đó, Phêrô dã nhắc lại vụ án Đức Giêsu. Ngài quả quyết rằng: Sở dĩ người Do thái bắt giết Đức Giêsu là bởi vì họ không biết. Hay nói đúng hơn là họ đã dùng chính cái biết hạn hẹp của mình, để suy diễn về mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người. Họ đã dùng chính cái biết nông cạn của một tạo vật để dò xét và lượng định tình thương của Đấng Tạo Hóa và cũng là Chúa của mình. Và rồi cuối cùng, họ đã dùng chính cái biết hời hợt đó để đóng đinh Chúa của mình vào thập giá.
Còn nơi bài phúc âm, qua hình ảnh của các môn đệ đang hoang mang lo lắng, nữa tin nữa ngờ về việc Chúa Giêsu sống lại, Thánh Luca cũng cho chúng ta thấy được sự hiểu biết của các môn đệ về Chúa Giêsu, thầy của họ. Với các môn đệ thì Đức Giêsu chính là một vị tiên tri có quyền năng trong lời nói và việc làm. Người có thể làm nhiều phép lạ lớn lao: chuyển núi dời non, cho kẻ chết sống lại, Tóm lại, với các tông đồ thì Đức Giêsu chính là một vị ngôn sứ vĩ đại, là một Đấng mà các ông hoàn toàn có đủ lý do để hy vọng rằng: Người sẽ đứng lên khôi phục lại vương quốc Israel. Và có lẽ chính vì thế mà mới có có chuyện là hai người con của ông Dêbêđê, được mẹ của mình dẫn tới Chúa Giêsu để xin cho một đứa được ngồi bên hữu, một đứa được ngồi bên tả, khi Người được lên làm vua.
Nhưng mãi cho đến giây phút cuối cùng, giây phút Đức Giêsu tắt thở trên thánh giá, họ mới cảm thấy ê chề thất vọng khi nhận ra rằng: đó chỉ là cái tưởng, là cái biết giả, chứ không phải là cái biết thật, mà hai môn đệ trên đường về Emmaus là một bằng chứng cụ thể. Trong lúc hoang mang tủi buồn đó, Đức Giêsu phục sinh có mặt bên họ, và giúp đỡ họ có một sự hiểu biết đúng đắn về Chúa của mình bằng việc bẻ bánh và cắt nghĩa Thánh Kinh. Đành rằng sự kiện nay Thánh Luca chỉ nhắc lại cách ngắn gọn ở ngay câu đầu tiên của bài Phúc âm mà chúng ta vừ nghe, nhưng cũng đủ để chúng ta hiểu được rằng: Lời Chúa và Bí tích Thánh thể đã giúp cho các môn đệ nhìn ra khuôn mặt đích that của Đấng phục sinh.
Tại sao chúng ta dám quả quyết cách mạnh dạn như thế? Thưa bởi vì chúng ta căn cứ trên sự biến đổi đời sống của các ngài. Rõ ràng là chính hai môn đệ này đã quay ngược trở lại: quay ngược lại trong hướng đi của cuộc hành trình, quay ngược lại trong tâm tình vui mừng của người chiến thắng. Những môn đệ kia thì vui mừng rạng rỡ sau khi được Chúa Giêsu chứng minh rằng Người sống lại là để ứng nghiệm những lời báo trước trong Thánh Kinh.
Ngày hôm nay, mặc dù Chúa phục sinh không hiện ra cho chúng ta giống như cho các môn đệ năm xưa nữa. Thế nhưng Người vẫn làm cho chúng ta những việc làm tương tự như Người đã từng làm cho các tông đồ ngày xưa. Nghĩa là người cũng giải thích Thánh Kinh, Người cũng thực hiện việc bẻ bánh, chỉ có điều là Người thực hiện những công việc đó qua Giáo hội của Người.
Nói khác đi là mỗi lần chúng ta tham dự Thánh lễ, là mỗi lần chúng ta được Đấng phục sinh hiện diện qua Giáo hội của Người mà hướng dẫn dạy dỗ, để chúng ta có được một sự hiểu biết về Đấng phục sinh.
Hai môn đệ trên đường về Emmaus đã cảm thấy lòng mình bừng cháy lên sau khi nghe Chúa giải thích Thánh Kinh, đôi mắt tâm hồn họ mở ra khi nhìn thấy Chúa bẻ bánh. Các môn đệ kia đã vui mừng chăm chú như thế nào khi được Chúa soi sáng cho cuộc đời của họ bằng Thánh Kinh.
Còn chúng ta thì sao? Nếu bây giờ ngồi nhớ lai, có lẽ chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhớ được rằng mình đã bao nhiêu lần nghe đọc Lời Chúa, bao nhiêu lần tham dự Thánh lễ, nhưmg rồi tâm hồn chúng ta có mở ra được không, tấm lòng chúng ta có bừng cháy len không? Phải chăng là khi nghe Lời Chúa, chúng ta chỉ nghe như nghe một câu chuyện lịch sữ về Đức Giêsu chứ không nghe với Đức Giêsu như hai môn đệ trên đường Emmaus? Phải chăng là chúng ta đến đây hiệp dâng Thánh lễ như thể là dâng cho Đức Giêsu, chứ không phải là cùng dâng với Đức Giêsu theo như lời tuyên xưng của Giáo hội: "Chính nhờ Người với Người và trong Người ".
Thưa anh chị em! Chúng ta chỉ sống đạo một cách đầy đủ ý nghĩa khi chúng ta có một sự hiểu biết đúng đắn về Đấng phục sinh.Sự hiểu biết đó, chúng ta sẽ có được bằng sự chăm chú lắng nghe Lời Chúa và tích cực tham dự Thánh lễ.
Biết rằng có những lúc Lời Chúa đi ngược lại với những ước mơ và dự định của mình, có nhựng khi việc tham dự Thánh lễ đòi hỏi chúng ta một sự hy sinh rất nhiều. Thế nhưng đó chính là những bài học không bao giờ cũ cho những ai muốn tìm ý nghĩa cho cuộc đời mình; đó là những cơ hoi cần thiết để Chúa ban ơn thánh, vốn là điều rất cần cho đời sống chúng ta. Ngoài ra Thánh Gioan còn có thêm một gợi ý rất quan trọng nhằm giúp chúng ta thể hiện sự hiểu biết của mình về Chúa, đó là chu toàn các giới răn của Người: "Ai nói mình biết Đức Giêsu mà không giữ các giới răn của Người, thì người đó không sống trong sự thật."
Nguyện xin Đức Kitô phục sinh đồng hành với chúng con luôn mãi. Đồng hành trong mỗi Thánh lễ chúng con cử hành, để chúng con mỗi ngày được hiểu biết về Chúa cách đúng đắn hơn. Đồng hành với chúng con trong suốt cuộc đời này, để chúng con sống niềm tin và làm chứng về niềm tin mà chúng con đang sống cho những người chung quanh chúng con. Amen.
33. Suy niệm của Lm. Alfonso
Tin Mừng Lc 24: 35-48: Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca cũng cho biết nhóm Mười Một đang rất hoang mang, họ tụ họp trong cửa nhà đóng kín vì sợ người Do Thái bắt bớ.
Trong cuộc sống của chúng ta, chắc hẳn có rất nhiều nỗi sợ làm chúng ta lo lắng. Từ khi sinh ra đã bị nhát không chịu ăn ngủ thì “ông kẹ” bắt. Lớn lên một chút, tới trường lớp thì sợ thi rớt. Trưởng thành thì sợ không có người yêu. Bước ra đời thì sợ thất nghiệp. Và khi già thì sợ cái chết đến với mình. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca cũng cho biết nhóm Mười Một đang rất hoang mang, họ tụ họp trong cửa nhà đóng kín vì sợ người Do Thái bắt bớ.
Và trong nỗi bối rối của các môn đệ Chúa, thánh sử Luca đã tinh tế gom các sự kiện về những dấu chỉ Chúa Phục sinh trình bày vào chung một ngày, “ngày thứ nhất trong tuần” như là một sự củng cố đức tin nơi cộng đoàn. Có thể nói, tác giả Tin mừng thứ ba này đã nêu cao tầm quan trọng của chiều kích Giáo hội. Cụ thể, Luca cho biết rằng sau khi hai môn đệ trên đường Emmaus được Chúa mặc khải về việc Người đã phục sinh, thì liền lúc ấy, họ quay về Giêrusalem, tìm tới nơi các tông đồ đang tụ họp. Hai ông phải có mối liên hệ thân thiết với nhóm Mười Một lắm nên mới biết tìm họ đang lẩn trốn ở đâu. Và dấu chỉ mà hai môn đệ kể lại đã củng cố kinh nghiệm của cộng đoàn về sự kiện Chúa Phục Sinh.
Trong khi các môn đệ vẫn còn hoang mang, Chúa Giêsu cảm thương và bất ngờ hiện ra giữa các ông. Người minh chứng cho họ biết hiện diện trước mặt họ không phải là một ảo ảnh hay vong hồn, nhưng Người đã phục sinh. Chúa phục sinh với một thân thể bằng xương bằng thịt hẳn hoi, như trước kia khi Người sống giữa các môn đệ, cùng ăn uống với họ hàng ngày, và thậm chí còn có cả những dấu đinh nơi tay chân là dấu chứng của việc Người đã chịu khổ nạn. Nhưng thân thể ấy cũng hoàn toàn khác vì đã được biến đổi, nên mới có thể bước vào trong lúc cửa phòng đóng kín. Chúa Giêsu phục sinh vẫn trong mầu nhiệm Ngôi hiệp nhưng giờ đây chỉ được nhận ra nơi những ai được mở lòng trí, được khai sáng, được củng cố đức tin.
Chúa Giêsu từng bước soi lòng mở trí cho các môn đệ quy tụ ở Giêrusalem về những lời trong Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người, “cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Người trong luật Môisen, trong sách Tiên tri và Thánh vịnh”. Chúa Giêsu đã dùng mọi hình thức có thể minh chứng về sự phục sinh của Người để giúp các môn đệ tin. Và từ niềm tin ấy, Người biến họ thành những chứng nhân cho Người.
Vâng, người môn đệ chỉ có thể trở thành những chứng nhân, mạnh dạn bước ra khỏi cửa nhà đóng kín, khỏi sự sợ sệt của việc bị bắt bớ khi và chỉ khi họ có được bình an thật sự. Đó là sự bình an đến từ Thiên Chúa, bình an của nỗi vui mừng và niềm tin vào sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Và vào ngày 23/3/2018 vừa qua, một sự kiện làm cả thế giới hướng về nước Pháp không phải là cuộc khủng bố cho bằng một hành động anh hùng của viên trung úy cảnh sát Cal Arnaud Beltrame là một người Công Giáo rất ngoan đạo. Hợp cùng các nhà lãnh đạo thế giới chia buồn với nước Pháp, Đức Thánh cha Phanxicô viết trong điện văn gởi đến Đức Giám Mục Jean Planet của Carcassonne và Narbonne: “Tôi ghi nhận đặc biệt hành động quảng đại và anh hùng của Trung úy Beltrame Arnaud, người hiến mạng sống mình vì mong muốn bảo vệ người dân”. Một người tên Redouane Lakdim, tự nhận thuộc phần tử cực đoan, trong phút chốc đã hạ sát nhân viên bán thịt và một khách hàng đang mua sắm trong siêu thị tại Trebes. Tên khủng bố tiếp tục bắt giữ một phụ nữ để làm bia đỡ đạn cho mình. Trong tình huống nguy cấp ấy, trung úy Beltrame 44 tuổi, đề nghị thế chỗ cho người phụ nữ này. Anh mở điện thoại di động của mình và cố ý để lại trên bàn. Nhờ vậy, bên ngoài, cảnh sát có thể nghe thấy những gì đang diễn tiến bên trong. Khi nghe nhiều tiếng súng nổ, cảnh sát lập tức xông vào siêu thị, và phát hiện Beltrame đã bị trọng thương. Anh đã trút hơi thở vài giờ sau đó tại bệnh viện. Khi tổ chức thánh lễ cầu nguyện cho viên sĩ quan, Đức cha Planet đã ví Beltrame với Thánh Maximilian Kolbe, người đã qua đời tại trại tử thần Auschwitz của Đức Quốc xã sau khi tình nguyện chết thế cho một tù nhân khác.
Ngày nay, không thiếu những cách khác nhau để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh. Bằng chính đời sống Kitô hữu, chúng ta hãy chứng tỏ về đời sống của người “có Chúa Giêsu sống trong tôi”. Và cách hữu hiệu nhất vẫn là bằng cuộc sống tốt lành và đầy nhân ái với anh chị em xung quanh. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta can đảm dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của mình. Amen.
34. Lữ khách vẫn đồng hành
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Trên đường Emmau, hai môn đệ buồn bã kéo lê bước chân. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Chúa Giêsu đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (Lc 24, 15)
Tại sao mắt họ lại bị ngăn cản? Cũng như chúng ta vẫn thường không nhận ra Chúa, cũng đồng hành với chúng ta từng giây phút.
Ngăn cản vì theo xác thịt.
Làm sao thấy Chúa được, khi còn sợ hãi, khiếp vía, thấy chính Thầy mình phải chịu khổ nạn? Làm sao thấy, khi còn hối hả chạy trốn các quyền lực đen tối? Làm sao thấy, khi còn quý mạng sống của mình trước đe dọa bạo lực? Tính xac thịt chẳng chừa một ai, nếu không áp chế, không dám bỏ mình theo Chúa. Với con mắt xác thịt thì chẳng bao giờ nhìn thấy Chúa hiện diện, mặc dù Người vẫn đang ở ngay bên. “Ai muốn theoTa (hoặc muốn thấy Ta), hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24).
Ngăn cản vì theo thế gian.
Làm sao thấy Chúa được khi cứ hùa theo thế gian, hùa theo đám đông kết án và đòi xử tử Người. Không dám chống lại xu thế vô thần, chống lại chủ nghĩa duy vật, chống lại khuynh hướng loại trừ Chúa ra khỏi cuộc sống, thì làm sao nhận ra Chúa? Bởi vì Nước Chúa đâu thuộc về thế gian này. Nước tôi không thuộc về thế gian này. (Ga 18, 36)
Ngăn cản vì theo cám dỗ ma quỷ.
Làm sao nhận ra Chúa khi còn nặng nợ với cám dỗ giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng, đắm mê theo cám dỗ hưởng lạc, gian tham, dối trá, lừa thầy, phản bạn, hay đố kỵ, ganh ghét, hận thù?
Sau những giờ phút đau buồn, sợ hãi, lẩn trốn vì cái chết thảm thương của Chúa Giêsu, các ông đánh mất hy vọng. Niềm tin lúc này mới có dịp cam go thử thách. Các ông ngộ nhận Chúa Giêsu cũng chỉ là một ngôn sứ bình thường nào đó. “Người là một ngôn sư đầy úy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mắt Thiên Chúa và toàn dân.” (Lc 24, 19). Nhưng may mắn thay, Chúa Giêsu đã kịp mở mắt các ông bằng hai thần dược. Đó là Lời Chúa và Thánh Thể.
Thần dược thứ nhất, Chúa Giêsu dùng ngay Kinh Thánh để mở mắt họ ra. “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.” (Lc 24, 25-27)
Thần dược thứ nhì, chính là mầu nhiệm Thánh Thể. “Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra, và họ nhận ra Người. Nhưng Người lại biến mất.” (Lc 24, 30-31)
Như thế nhờ hai thần dược huyền diệu, hai môn đệ mới nhận ra Chúa Giêsu. Bây giờ chúng ta cũng vậy, cần nhờ cậy đến hai thần dược ấy để nhìn thấy Chúa, đang cùng đồng hành trên đường Hy Vọng.
Lạy Chúa Giêsu xin giúp con hằng ngày tìm thấy Người qua Lời Hằng Sống và Bí Tích Thánh Thể, để con hy vọng được cứu rỗi.
Lạy Mẹ Sầu Bi, xin nhắc nhủ con hằng tìm đến với Chúa qua Kinh Thánh và Thánh Thể nhiệm mầu, để con có thể xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa. Amen.
35. Những chứng nhân sự phục sinh của Chúa
(Suy niem của Phanxicô Xaviê)
Hai môn đệ, trong số bảy mươi hai vị đã được Chúa sai đi từng đôi một vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến (Lc 10, 1). Nhưng sau khi Chúa Giêsu bị treo trên thập giá, họ đã vỡ mộng và tính về vườn. Do vậy, trên đường về làng Emmau cách Giêrusalem chừng một cây số, thì gặp Chúa, họ liền quay trở lại báo tin cho các tông đồ. Theo Thánh Luca, đây là lần đầu tiên Chúa hiện ra với tất cả các môn đệ, nên các ông kinh hồn bạt vía (Lc 24, 37). Thánh Luca ghi nhận sự kiện này trong hướng thu thập các bằng chứng Chúa sống lại thực sự chứ không là sản phẩm tưởng tượng do các môn đệ đặt ra, vì chính các Ngài cũng còn phải sửng sốt.
Chúa cho các ông xem các dấu đinh để kiểm chứng vì ma thì không có xương thịt. Nhưng có lẽ quá vui mừng, các ông vẫn chưa tin ngay và còn đang ngỡ ngàng. Chúa muốn cho các ông thấy thực tại thể lý sự sống lại của Người, nên Chúa đã cầm một khúc cá nướng và ăn trước mặt các ông. Nhờ vậy các môn đệ thêm tin thực là Chúa như hai môn đệ trên đường Emmau đã nhận ra Chúa Giêsu lúc Ngài bẻ bánh.
Sau khi đã mở trí cho các môn đệ am hieu Kinh Thánh, Chúa Giêsu trao phó sứ mạng cho các ông lên đường rao giảng về cuộc Thương khó và Phục sinh của Người để kêu gọi mọi người ăn năn sám hối đón nhận ơn cứu độ. Trong môi trường văn hóa Do thái bấy giờ, viec tha tội và Phục sinh phải đi đôi với nhau, vì nếu cái chết được quan niệm như là hình phạt của tội lỗi, thì Phục sinh phải là dấu chỉ tội lỗi đã được xóa bỏ.. Chính vì vậy, những lời Kinh Thánh, các việc loan báo, các sự kiện....về sự Phục sinh của Chúa đã phải làm các tông đồ vững tin, nhưng để kiện toàn hơn về lòng tin này, vì các Ngài sẽ là những chứng nhân, cũng như vì đức tin của các thế hệ mai sau sẽ dựa trên chứng từ của các tông đồ, đặc biệt của Thánh Phêrô, mà Chúa phải hiện ra nhiều lần với các ông, ban cho các ông nhiều bằng chứng về sự sống lại của Ngài. Đó chính là điều mà Thánh Luca muốn diễn tả. Đức tin của Thánh Phêrô là nguon mạch đức tin của người khác, kể cả của các môn đệ mà Chúa Giêsu đòi các Ngài phải là chứng nhân.
Có lần người ta hỏi đại thi hào Danic của Italia rằng: đâu là điều mà ông mong muốn và tìm kiếm trong cuộc sống. Bậc vĩ nhân đã trả lời như sau: "Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm đó là sự bình an". Là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố: trên bia mộ nào cũng luôn ghi lời cầu xin cho họ được an nghỉ nghìn thu. Phải chăng trong cuộc sống tại thế này, chúng ta sẽ khò tìm được hòa bình và an nghỉ. Thế giới dường như chưa bao giờ được hưởng những giây phút hòa bình thực sự, có chăng chỉ là những khoảnh khắc tạm bợ đầy những rình rập của chiến tranh và lo sợ.
Trong những phút cuối đời, Chúa Giêsu đã hứa hẹn với chúng ta "Ta ban bình an cho các con. Ta ban thứ bình an mà thế giới không thể ban tặng cho các con". Đó là sự bình an đích thực trong tâm hồn, Chúa đã mang đến cho các môn đệ qua những lần hiện ra với các ông.. Chính nhờ sự bình an này đã giúp biến đổi các ông từ con người nhát đảm, cứng lòng tin trở thành những con người mạnh mẽ, nhiệt thành loan báo tin mừng Phục sinh của Chúa Giêsu.
Lời Chúa nói với chúng ta hôm nay chính là lời chứng của các tông đồ về việc Chúa Phục sinh. Các Ngài đã nói với chúng ta không chỉ bằng lời truyền lại trong Kinh Thánh, mà còn bằng chính đời sống mạnh mẽ loan tin ấy và rồi dám chết cho điều mình tin. Suốt hơn 2000 năm lịch sử, các tông đồ, các nhà truyền giáo, những nhà hoạt động xã hội nhân danh Chúa Giêsu đã làm tốt điều ấy. Tin Chúa Phục sinh đã là điều cần, nhưng cần hơn còn phải biết biến niềm tin ấy thành hiện thực trong cuộc sống. Nghĩa là lên đường loan báo những gì mình đã tin. Chúng ta được mời gọi, tùy theo cách thế, hoàn cảnh mà làm chứng việc Chúa sống lại bằng chính cuộc sống của kẻ tin có sự sống lại. Khởi đi từ suy nghĩ, lời ăn tiếng nói tới thái độ cư xử, cách sử dụng tài sản và phục vụ tha nhân của mình.
Lạy Chúa, xin cho con nên nhân chứng sự Phục sinh của Chúa bằng việc góp phần làm sống lại những con người đã chết vì chán nản, thiếu niềm tin để sống. Những nét đẹp phong hóa của tình nghĩa đã chết vì bị quên lãng hay vì tiền bạc, vì lợi nhuận.....Xin cho con biết đón nhận những khó khăn trong cuộc sống với ý thức chúng sẽ đưa tới cuộc hồi sinh của anh em con.
36. Hiện ra cho các tông đồ
Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em!" (Lc24,36).
Thánh Luca tiếp tục tường thuật cuộc hiện ra thứ hai của Chúa Giêsu phục Sinh, lần này Ngài hiện ra cho các Tông đồ ở Giêrusalem. Mục đích của cuộc hiện ra này là Ngài muốn chứng minh rằng: Ngài vẫn là một con người như trước khi còn sống với các Tông đồ.
Dường như các môn đệ của Chúa thật mâu thuẫn và khó hiểu. khi hai môn đệ trên đường Emau trở lại Giêrusalem và gặp các ông. Các ông hay tin Chúa sống lại và hiện ra, các ông rất vui mừng và kể cho nhau: "Chúa đã chỗi dậy thật rồi và đã hiện ra với ông Simon". Và hai môn đệ trên đường Emau xác nhận vì các ông cũng được Chúa đồng hành. vậy mà khi chính Đức Giêsu hiện ra thật sự, đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em" (Lc 24, 36), thì các ông hầu như chẳng thấy bình an chút nào, lại còn hoảng hốt và tưởng là ma.
Quả thật chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể hiểu được tâm trạng xem ra khá phước tạp và có nhiều mâu thuẫn nơi các Tông đồ. Và chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có đủ kiên nhẫn để hoá giải tận căn những mâu thuẫn trong thâm sâu nơi cõi lòng của các ông.
Do vậy, người Tông đồ đích thực không chỉ cố gắn trao dồi cho mình một so kiến thức và ảo tưởng là đủ. Nhưng người Tông đồ đích thực còn phải hiểu về Chúa cảm nghiệm về Chúa nữa. vì không ai có thể cho cái mà mình không thể có. Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống và hiện diện bên cạnh tôi. Đay không phải là một kiểu nói, không phải chỉ là một niềm tin, mà là một sự thật. chúa đang phục sinh hôm qua cũng như hôm nay, Ngài vẫn là một. tôi cần phải sống triệt để với niềm tin và xác tín ấy.
Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều hiểu lầm, nhiều trở ngại và ngay cả nhiều đau khổ tinh thần nữa. thế nhưng xét bên ngoài, nhiều kitô hữu, vì hèn nhát, tỏ ra ích kỷ hơn, hà tiện hơn, kiêu căn hơn, dâm ô hơn một số người không có niềm tin vào Chúa. Nhưng mọi kitô hữu điều biết rằng: Chúa Kitô phục sinh luôn muốn chúng ta sám hối và trở về với Ngài, Người muốn tha thứ tất cả và muốn cho ta được làm môn đệ đích thật của Người.
Lạy Chúa Giêsu Phuc Sinh, xưa Ngài hiện ra cho các Tông đồ nhằm để cũng cố đức tin của các ông và ban sức mạnh cho các ông. Thì nay xin Ngài cũng ban thêm niềm tin cho con, để con vững bước và thoát khỏi sự sợ hãi. biết cam đãm vượt qua moi thử thách trong cuộc đời để được lớn lên và trưởng thành trong vònh tay của Ngài. Amen.
37. Bình an đích thực
(Suy niệm của Lm John Nguyễn Tươi)
"Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy" (Ga 14,23)
Cuộc sống con người ngày nay có quá nhiều nỗi sợ hãi và bất an. Sợ vì bị thất nghiệp, sợ vì chiến tranh, sợ bệnh tật, sợ nợ chồng chất, sợ mất nhà cửa, sợ mất người yêu, sợ bị kẻ thù hãm hại...Từ những sợ hãi đó, con người phải tự vệ, bạo động và đấu tranh để tìm kiếm sự yên ổn và hòa bình.Thế nhưng, đó có phải là cách thế để mang lại cho chúng ta sự bình an và hòa bình đích thực, hay chỉ là một thứ bình an giả tạo chóng qua.?
Câu truyện "Em bé napalm"- Phan Thị Kim Phúc đã làm rung động hàng triệu trái tim, do nhiếp ảnh gia Nick Út ghi lại khoảng khắc đau thương của một bé gái Việt Nam, 9 tuổi, trần truồng đang chạy hoảng loạn sau trận bom đổ xuống tại Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Theo lời chị thuật lại: "Lúc đó là khoảng 2 giờ chiều một ngày tháng 6.1972, làng Trảng Bàng bùng cháy với những đợt bom napalm giội xuống. Tôi cùng những đứa trẻ khác cố chạy thoát, nhưng hai người anh sinh đôi của tôi đã chết tại chỗ… Rất đau lòng. Tôi nghe thấy tiếng bom nổ, rồi đột nhiên lửa bùng lên quanh tôi. Quần áo tôi bị lửa thiêu trụi. Tôi bỏ chạy trên đường và lọt vào ống kính của chú Út. Tôi được chú Út đưa đến một bệnh viện nhi đồng của Mỹ cứu chữa....” Năm 1992, chị và chồng rời Cuba đến định cư ở Canada. Tại đây, tổ ấm của họ đã được vun đắp và chào đón hai cậu con trai.
Khi hỏi chị về ký ức “Em bé năm xưa” và những ngày đau đớn do bị bỏng bom napalm, chị Kim Phúc trải lòng: "Đừng nghĩ rằng cô bé khóc vì đau và sợ hãi mà hãy nghĩ rằng, cô ấy đang khóc vì khát vọng hòa bình. Kim Phúc cho biết thêm, khó khăn nhất đối với chị không phải là vượt qua những đau thương, mà chính là tha thứ cho những người đã bỏ bom ngôi làng và gây ra cho chị nhiều nỗi khổ đau. Chị nói: "Mọi người cũng muốn biết tôi sẽ trách cứ những ai và với những gì đã gây ra cho tôi, nhưng tôi không thể giữ mãi hận thù trong lòng. Cuộc sống đã dạy tôi hiểu rằng, tha thứ còn mạnh hơn bất kỳ vũ khí chiến tranh nào”.
Năm 2008, chị đã có bài phát biểu ấn tượng trên Đài phát thanh quốc gia Canada có tên là " Đường dài tới sự tha thứ", chị nói: "Tôi vẫn còn nhiều vết sẹo trên cơ thể và mỗi ngày vẫn đau đớn vô cùng, song trái tim tôi đã được chữa lành. Bom napalm công phá mạnh mẽ, nhưng lòng tin, sự tha thứ và tình yêu còn lớn hơn thế. Chúng ta sẽ chẳng có chiến tranh nếu mọi người đều có thể học cách sống với tình yêu chân thành, hy vọng và sự tha thứ. Tôi luôn biết ơn những người đã cho tôi sự sống, giờ tôi có thể chấp nhận bức ảnh đó, như là một món quà đầy sức mạnh. Tôi có thể làm việc với nó vì hòa bình".
Từ trải nghiệm đau thương và mất mác của Kim Phúc, chúng ta có thể xác nhận với nhau rằng, bình an đích thức chính là sự tha thứ. Như lời Chúa dạy chúng ta" Các con hãy tha thứ cho những kẻ làm hại mình, hãy cầu nguyện cho kẻ bắt bớ anh em" (Mt 5, 44). Bởi lẽ, chúng ta khó có thể tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình, vì chúng ta chỉ nhìn vào những sai lầm, khuyết điểm của người khác, để rồi kết án người khác. Hơn nữa, chúng ta thường mắc phải bởi tính tự mãn, tự kiêu, tự tôn và tự cho mình là người công chính và hoàn thiện.
Nếu chúng ta khiêm tốn đặt mình dưới ánh sáng Lời Chúa, thì chúng ta sẽ nhận ra con người thật của mình, nhờ đó ta có thể dễ dàng tha thứ cho người khác. Và trên hết mọi sự, tha thứ đòi hỏi phải có lòng yêu thương, bác ái và muốn người khác trở nên hoàn thiện. Tha thứ là cánh cửa mở ra sự bình an và cho Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn. Chúa Giê-su nói: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy." Chính Ngài sẽ ban cho chúng ta bình an đích thực khi Ngài ban bình an của cho các tông đồ, để có đủ can đảm ra đi trước những sợ hãi lo âu. Đó là lời chúc duy nhất khi Ngài về cùng Thiên Chúa Cha. Ngược lại, ở đâu không có Thiên Chúa là ở đó không có bình an đích thực. Bình an của Chúa không theo kiểu thế gian ban tặng, nhưng bình an đó chính là Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ biến đổi tâm hồn chúng ta, đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tránh chấp...Vì ai cầm gươm sẽ chết vì gươm.
Như lời cố Đức Giáo hoàng Phao-lô II, vào ngày 22-10-1978, lần đầu tiên khi ngài ra mắt công chúng trước tiền đường Thánh Phê-rô, ngài lập lại lời Chúa Giê-su nói: " Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ ". (Mt 14:27). Chúng ta chưa có bình an trong tâm hồn vì chúng ta còn bám víu nhiều thứ của cải thế gian. Tâm hồn ta vãn nặng trĩu nỗi lo âu, buồn rầu, vì chúng ta muốn có được nhiều hơn là mất đi, nên đời ta cứ mãi đắm chìm trong đam mê, tìm kiếm bởi của cải, quyền lực và lạc thú giả của thế gian, cho nên bình an của Chúa không có chỗ nơi tâm hồn trống rỗng và đầy thương tích tội lỗi.
Giờ đây, xin Chúa cho mọi người chúng ta biết tìm kiếm nơi Chúa là nguồn bình an đích thực: "Thầy sẽ ban bình an cho anh em". Nước Trời là sự bình an, vui tươi và hạnh phúc, thì chính giây phút hiện tại khi chúng ta tha thứ và hòa giải cho nhau, đó là Nước Trời, và nơi đó có Thiên Chúa hiện diện và ban bình an cho chúng ta. Amen.
38. Không phải mọi sự chỉ toàn là ánh sáng.
(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)
Những nỗi nghi ngờ của chúng ta.
Nhiều người đã nhìn thấy Chúa Giêsu tận mắt, đã nghe Ngài nói, đã biết những việc lạ lùng Ngài làm. Có lẽ chính họ đã chứng kiến nữa. Nhưng cũng chính những người đó vẫn không tin nơi Ngài. Họ đã không nhận ra được rằng Ngài là Đấng Cứu Độ. Trái lại, nhiều người đã “chối bỏ, trao nộp và giết” Ngài (Cv 3,13;14;15).
Nhiều lần sau khi Phục Sinh, Chúa Kitô đã hiện ra với các môn đệ. Và khi những biến cố như thế xảy ra, thì không phải tự nhiên các ông vui mừng phấn khởi ngay đâu, nhưng đúng hơn các ông ngạc nhiên, nghi ngờ. Thánh Luca nói với chúng ta rằng: “Họ tưởng trông thấy ma” (24,37). Phải có những cử chỉ đầy thuyết phục để cho các Tông đồ tin vào Chúa Giêsu: “Hãy xem tay chân Thầy đây. Hãy sờ xem…”. Mà vẫn chưa đủ, Ngài còn phải ăn một miếng cá nướng trước mặt các ông.
Khi biết được những điều này ta sẽ không ngạc nhiên khi nhiều Kitô hữu thuộc những thời đại và trong những hoàn cảnh khác nhau, đã muốn chối bỏ Chúa Kitô hoặc ít ra là nghi ngờ. “Đức tin của tôi dựa trên cái gì? Tôi có lý mà tin chăng? Tôi có lầm đường chăng?”. Ai mà chẳng có lần tự đặt cho mình những câu hỏi như thế. Có lẽ hiện giờ một số người vẫn còn những thắc mắc kiểu ấy nữa.
Giả như ít ra, vào những giờ phút ấy, chúng ta có được những dấu chỉ cũng rõ rệt như những dấu chỉ mà các môn đệ xưa kia đã có được. Trông thấy Chúa Kitô, sờ vào Ngài, nghe Ngài! Và lúc đó mọi sự sẽ đơn giản hơn nhiều. Nhưng những dấu chỉ ấy không được ban cho chúng ta. Chúng ta đừng chờ đợi vô ích. Nhìn thấy Chúa Giêsu bằng mắt xác thịt, sờ vào Ngài với đôi bàn tay của chúng ta, chính tai chúng ta nghe Ngài, ngồi ăn cùng với Ngài như các chứng nhân đầu tiên về sự Phục Sinh, đó không phải là cơ may của chúng ta.
Những điểm qui chiếu.
Như thế không có nghĩa là chúng ta hoàn toàn bị chìm ngập trong tối tăm và không thể bám víu vào cái gì cả để khơi dậy đức tin nơi mình.
Chúa Giêsu đã nói với Phêrô và những tông đồ khác: “Hãy xem tay chân Thầy”. Nhưng Ngài nói với chúng ta: “Các con hãy nhìn các môn đệ. Hãy lấy kính lúp mà xem họ đã sống những gì. Các con hãy đón nhận chứng tá của họ. Các con hãy tin vào lời họ. Thầy đã làm cho họ trở nên những sứ giả của Thầy”.
Ngài cũng nói với chúng ta: “Hãy nhìn xem các tín đồ xung quanh các con. Hãy nhìn xem Giáo Hội. Hãy nhìn xem những kẻ lớn bé tin vào Thầy. Hãy nhìn xem tất cả những người nam, người nữ gắn bó với Thầy tận đáy lòng. Hãy nhìn xem hành vi của họ. Hãy nói chuyện với họ. Hãy kiểm chứng niềm tin của họ. Hãy yêu cầu họ trả lẽ về niềm hy vọng của họ. Điều đó sẽ giúp ích cho các con. Khi gặp gỡ những tín hữu chân chính, các con sẽ được lôi cuốn trong đức tin, đức tin của họ sẽ củng cố đức tin của các con”.
Lời khuyên khác để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta.
Thánh Gioan cho chúng ta lời khuyên này khi người khẳng định: “Đây là cách chúng ta có thể biết được chúng ta có biết Ngài không? (chúng ta có tin nơi Ngài không?). Đó là tuân giữ các giới răn của Ngài”.
Chính nhờ sống như Chúa Kitô mà người ta trở thành Kitô hữu và thành người sống đạo. Chính nhờ thực sự cố gắng làm cho cuộc sống của mình am hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng mà ta làm chứng cho sự vững chắc và sự thật của những gì Chúa Giêsu dạy. Chính nhờ cụ thể bước theo con đường Phúc Âm đã vạch ra mà ta gặp được Chúa Kitô. Sống bằng Tin Mừng để tin vào Tin Mừng! Sống như Chúa Kitô để tin nơi Ngai!
Những nghi nan của chúng ta vẫn còn.
Khi bước theo con đường này, chúng ta có tránh được mọi nghi nan không, chúng ta có sống trong ánh sáng chói lòa và trong sự yên tĩnh hoàn toàn không? Chắc chắn là không. Sự nghi ngờ, những vấn nạn không có câu trả lời rõ ràng và thỏa mãn chúng ta hoàn toàn, cả đến sự cám dỗ chối bỏ Chúa Kitô nữa. Mọi sự đều có thể xảy ra cho chúng ta trên trần thế này. Ánh sáng chan hòa sẽ chỉ có ở thế giơi bên kia. Diện đối diện với Chúa không phải là điều xảy ra nơi trần thế này. Ở đây ta phải luôn luôn chờ đợi những lúc khó khăn và những bước đường cực nhọc.
Tin! Chắc chắn đó là một hồng ân. Nhưng cũng là một cuộc chiến đấu, một sự tìm kiếm mỗi ngày. Người nào tìm kiếm không ngừng, sống một đức tin trong niềm thao thức, một đức tin có thể rất mỏng dòn, người đó sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Và hễ ai tìm kiếm, thì Ngài ban cho ơn được thấy. Và ai gõ cửa, Ngài sẽ mở cho. Ngài là Cha và Ngài chờ đợi chúng ta hết thảy.
39. Câu chuyện Chúa Phục Sinh
(Suy niệm của Lm Giacôbê Tạ Chúc)
Cứ mỗi đêm, một câu chuyện được kể, và một mạng người được thoát chết. Nhà vua cứ mãi lắng nghe, từng nhịp, từng nhịp, dòng chảy của thời gian. Cho đến khi không còn ai phải chết. Hai môn đệ trên đường Emmau, quay trở về Giêrusalem và thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và họ đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Như giữa hư và thực, các môn đệ bàng hoàng và ngây ngất, họ như tỉnh như say. Tâm trạng các môn đệ chất chứa đầy những hoang mang. Họ chụm vào nhau và kể cho nhau nghe những lần Chúa Giêsu hiện ra với họ. Đang lúc "tranh tối, tranh sáng" thì chúa Giêsu hiện đến, thế nhưng thay vì nhận ra Chúa thì các ông:" kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma"(Lc24, 37). Thật là tội nghiệp cho các ngài, như vừa trải qua cơn ác mộng, sự thất vọng và những nỗi chán chường đã gặm nhấm tâm hồn các Ngài. Làm sao mà có thể "bình chân như vại được", khi câu chuyện Chúa Giêsu sống lại cứ ngày một lan xa. Thấy các học trò còn e dè, và tham chí còn ngờ vực, Chúa Giêsu phải trấn an các Ngài:" Sao anh em lại hỏang hốt? sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay thầy coi, chính Thầy đây mà! cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?"
(Lc 24, 38-39). Chúa Giêsu lại tiếp tục kể cho các Tông đồ nghe, bắt đầu bằng Kinh Thánh: sách luật Mô-sê, các sách ngôn sứ và Thánh vịnh. Tâm hồn các Ngài chợt bừng tỉnh, Chúa Giêsu kéo họ ra khỏi những giấc mộng vàng của kiep phù vân, Ngài sai các tông đồ ra đi và làm chứng cho Tin mừng Phục sinh. Đấng phục sinh còn ăn uống trước mặt họ. Ôi quả thật hạnh phúc, các tông đồ không còn nhát đảm và sợ sệt nữa, Đức Giêsu Phục sinh đã làm cho niềm vui của các ngài òa vỡ, không thể im lặng được, họ cùng nhau đi đến với muôn dân loan tin mừng Chúa đã sống lại. Và phép lạ phục sinh đã xảy ra, người ta sám hối, con người tìm về với Chúa, lương tâm mọi người thưc tỉnh, họ bắt đầu phản tỉnh: "Thưa các ông, vậy chúng tôi phải làm gì?" (Cvtđ 2,37).
Câu chuyện phục sinh chẳng bao giờ khép lại, người ta cứ mải mê kể cho nhau nghe," khi ấy... Đức Giêsu...", và mọi người thay nhau kể về câu chuyện hai môn đệ trên đường đi Emmau. Ngày hôm nay, cộng động Emmau do cha Henri Groúes sáng lập, nhằm giúp những người không nhà, không cửa tự tay xây dựng đời sống cho chính mình đã có mặt tại năm mươi quốc gia với 250 cộng đòan.
Trong thánh lễ mỗi ngày, linh mục cùng với cộng đòan dân Chúa, tiếp nối sứ mạng đã được Đức Giêsu ủy thác để vẫn mãi kể về câu chuyện Đấng đã Phục sinh Alleluia!
40. Chúa Nhật 3 Phục Sinh
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.)
Lc 24:35-48
Mùa Chay thực sự đã qua rồi. Chúng ta đang đắm chìm ngụp lặn trong Mùa Phục Sinh, mừng Đức Kitô chiến thắng cái chết. Thế mà những bài đọc hôm nay vẫn cứ tập trung vào chủ đề kêu gọi thống hối, hoán cải và xa tránh tội lỗi. Là Kitô hữu, chúng ta phải luôn nhớ rằng để cùng chia sẻ cuộc sống mới của Đức Kitô Phục Sinh, trước tiên chúng ta phải chung phần cuộc sống của Đức Kitô chịu đóng đinh. Không co con đường tắt dẫn đến sự sống đời đời: nếu không có mão gai sẽ không có vương miện; nếu không có khổ hình thập giá sẽ không có vương quyền vinh hiển. Chết và sống lại phải diễn ra trong con người của chúng ta. Chúng ta phải chết cho chính mình để sống cho Thiên Chúa. Chúng ta phải tránh xa tội lỗi bất cứ giá nào, vì tội lỗi chia cách chúng ta với Thiên Chúa, và ngăn cản chúng ta đến với vinh quang mà Ngài đã dành sẵn cho chúng ta.
Phục Sinh không chỉ giới hạn vào một sự kiện lịch sử, vào một biến cố xảy ra cho Đức Chúa Giêsu cách đây 2000 năm. Mà việc sống lại ấy vẫn còn là một thực tại hiện thời, vẫn còn nóng hổi tính thời sự mà chúng ta có le vẫn còn cảm nghiệm được. Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết ý nghĩa sự sống đích thực ấy là gì cho đến khi sống cuộc sống ấy, dấn bước theo từng dấu chân Chúa. Phục Sinh không phải là một việc chúng ta có thể đắc thu được trong một sớm một chiều, mà chính là một tiến trình biến đổi tiệm tiến diễn ra âm thầm trong lòng chúng ta. Đó là những khi chúng ta quay lưng lại với bóng tối mà sống vì Thiên Chúa, cho Thiên Chúa. Dần dà chúng ta sẽ tới chỗ nhìn cuộc đời này không phải bằng đôi mắt trần của chúng ta nữa mà là bằng cái nhìn của Đức Kitô.
Tin Mừng cho chúng ta biết Đức Kitô đã khai lòng mở trí các tông đồ như thế nào để các ông hiểu rõ ý nghĩa của Kinh thánh. Người đã giải thích cặn kẽ tại sao Người phải chịu khổ đau và sống lại từ cõi chết sau ba ngày. Hơn nữa các ông sẽ ra đi làm chứng cho Đức Kitô trước mọi dân nước, đồng thời rao giảng lòng thống hối để được thứ tha mọi lỗi lầm. Sáng nay chúng ta nguyện cầu Đức Chúa Giêsu đến với cuộc sống chúng ta ngõ hầu tâm trí chúng ta được khai mở thông thoán đón nhận Lời Thiên Chúa. Rồi đến phiên chúng ta ra đi làm chứng cho Tin Mừng và bộc lộ sức sống phục sinh mạnh mẽ của Chúa trong cuộc đời chúng ta. Những môn đệ đầu tiên đã không ôm giữ khư khư Tin Mừng cho bản thân, nhưng đã hối hả chạy đi chia sẻ niềm vui đầy ắp trong lòng cho bất cứ ai lang nghe. Cũng thế, mối tương quan thân thiết giữa chúng ta với Đức Kitô đòi hỏi chúng ta phải thông truyền tin vui Phục sinh đến với mọi người bằng thái độ, giá trị, và lối sống mình.
Sứ điệp Kitô hữu không bao giờ trở thành của chúng ta nếu chúng ta không chia sẻ nó với chính gia đình chúng ta, với bằng hữu, và những người khác chúng ta gặp gỡ trong đời. Mà nếu chúng ta muốn làm chứng cho tin mừng của Đức Kitô, chúng ta phải ngừng ngay lối sống nửa nạc nửa mỡ và phải mạnh dạn biểu lộ sức sống phục sinh ra cuộc sống chúng ta. Kết hợp với Đức Kitô nghĩa là đồng tâm nhất trí với Đức Kitô và cư xử như Đức Kitô. Đức Kitô phục sinh chỉ có thể tác động anh hưởng vào thế giới này một khi chúng ta biết kết hợp lời nói và hành động chúng ta để bộc lộ quyền năng của Người. Chúng ta được kêu mời dốc sức xả thân phục vụ Đức Kitô mà không giữ lại cho mình điều gì.
41. Làm chứng về Thầy - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Muốn làm chứng đầy đủ về ai, người ta thường kể tiểu sử nhân vật đó từ khi sinh đến khi chết. Về các anh hùng, danh nhân, sử sách thường ghi những chiến công, những thành tích siêu quần bạt chúng: Hưng Đạo với chiến thắng oai hùng Bạch Đằng, Quang Trung với chiến thắng thần tốc Đống Đa.
Đức Giêsu làm chứng mình đã sống lại thật, bằng một phép lạ chưa từng có trên đời này. Để các tông đồ tin, Người đã làm hết mọi cách, từ tâm lý đến vật lý, từ lịch sử đến thực hiện đúng lời đã hứa.
Về tâm lý: Người chúc lành cho các ông: “Chúc anh em được bình an”. Bình an là trạng thái hòa hợp lành mạnh trong tâm trí, trong cơ thể và trong tương giao với người khác. Các tông đồ đang trong hoàn cảnh xao xuyến, lo âu, bối rối, hoảng sợ. Cần thiết Chúa phải ổn định tinh thần các ông, làm cho tâm trí các ông bình tĩnh, lành mạnh, yên hàn, các ông mới sáng suốt nhận định rõ ràng. Khi các ông được bình an, Chúa mới chỉ cho các ông thấy về thể lý bên ngoài.
Về thể lý: Người bảo các ông phải phân biệt rõ ràng Thầy khác với bóng ma hiện về: Người chết hiện về, chỉ là bóng ma không rờ xem xương thịt được. Còn Thầy: Thầy đưa chân tay, xương thịt cho các ông rờ xem. Các ông đã nhìn tận mắt, xỏ tận lỗ đinh chân tay Thầy. Ma không ăn uống như người sống, còn Thầy, Thầy cầm lấy khúc cá nướng do chính các ông đưa và Thầy ăn trước mặt các ông.
Về lịch sử: Khi các ông đã trở về tình trạng lành mạnh về tâm lý và thể lý rồi Thầy mới hướng dẫn các ông về bằng chứng lịch sử: “Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách luật Môisê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy, đều phải được ứng nghiệm”.
Đó là những sách người Do thái đọc mỗi ngày Sabbat trong các hội đường. Họ thấy rõ toàn bộ Kinh thánh diễn tả toàn bộ lịch sử dân tộc hướng về Đấng Cứu Thế. Mỗi một vĩ nhân trong lịch sử dân tộc đều là một điển hình chỉ về Đấng Cứu Thế, như: Noe, Abraham, Giacóp, Giuse, Môisê, Giosuê, David, Salômon … Nhưng không một vĩ nhân nào hội đủ mọi tư cách của Đấng Cứu Thế. Đời sống mỗi vị đó chỉ diễn tả được vài tư cách đặc sắc của Đấng Cứu Thế. Chỉ có Đức Giêsu, Đấng độc nhất, hội đủ moi nhân cách và hoàn thành mọi ưu điểm của Đấng Cứu Thế, vì chính Người là Đấng Cứu Thế. Mỗi một tiên tri cũng chỉ loan báo một vài mầu nhiệm về Đấng Cứu Thế, dù vĩ đại như Êlia, Êlisê, Isaia, Giêrêmia hay Êzêkiel cũng không thực hiện được đầy đủ lời Thiên Chúa mặc khải cho họ. Các vị ấy đều thấy mình bất xứng như tiên tri Isaia đã thốt lên: “Khốn cho tôi, tôi là người môi miệng nhơ bẩn, ô uế” (Is. 6, 5).
Chỉ mình Đức Giêsu là Đấng thực hiện mọi mầu nhiệm làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” (Mc. 1, 11).
Đức Giêsu nói cho các tông đồ biết toàn bộ Kinh thánh đã ứng nghiệm về Người. Nếu Kinh thánh không ứng nghiệm về Người, thì toàn bộ Thánh kinh là giả dối vì Kinh thánh loan báo về Đấng Cứu Độ và ngoài Đức Giêsu ra không ai đem lại ơn cứu độ (Cv. 4, 12). Để thấy rõ như thế Người đã “dẫn giải cho các ông những điều viết ve Ngài trong toàn bộ Kinh thánh” (Lc. 24, 27 theo Nguyễn thế Thuấn dịch). Để có thời gian giải thích, chắc Người phải ở với các ông lâu dài, như thánh Luca đã xác định là bốn mươi ngày được ghi rõ trong sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về nước Thiên Chúa” (Cv. 1, 3).
Thời gian bốn mươi ngày đã quá đủ để các tông đồ thấy chắc chắn: Thầy đã sống lại thật.
Đến lượt các tông đồ được Người trao cho sứ mạng: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em làm chứng về những điều này”.
Trong bài đọc một, Phêrô đã làm chứng cho toàn dân Giêrusalem về Chúa Giêsu bị đóng đinh, đã chết và đã sống lại. Chính họ đã nộp Người, và chối bỏ trước mặt quan Philatô, dù quan xét xử phải tha. Họ đã xin tha cho kẻ sát nhân, và lên án Đấng công chính. Nghe thế, họ quá rõ tội lỗi họ phạm, họ đã ăn năn sám hối: “Hôm ấy đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv. 2, 41).
Bài đọc hai, Gioan đã làm chứng về “Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính, chính Người là của lễ hy sinh đền bù tội lỗi ta, và còn đền bù tội lỗi cả thế giới”. Rồi Gioan kêu gọi chúng ta làm chứng về Đức Kitô bằng đời sống đừng phạm tội, hãy vâng giữ lệnh Đức Kitô để chứng tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa tới mức hoàn hảo và biết được mình đang ở trong Đức Kitô. Ai không vâng lời Đức Kitô là kẻ nói láo.
Đức Kitô đã làm chứng về Người đã sống lại thật. Phêrô, Gioan, các tông đồ và bao nhiêu người đã tin và đã làm chứng về Đức Kitô phục sinh. Còn chúng ta, nếu chúng ta vâng lệnh Đức Kitô truyền, chúng ta phải ra sức làm chứng về Người.
Chúng ta không làm chứng về Đức Kitô, chúng ta là người không có lòng mến Thiên Chúa và biết được mình không ở trong Đức Kitô, thì chúng ta không thể được sống lại vinh quang với Người.
Lạy Chúa Cha toàn năng, xin cho chúng con biết làm chứng về Đức Giêsu Kitô bằng đưa bình an đến cho mọi người, bằng hy sinh chịu thương khó phục vụ mọi người, bằng học hỏi và loan truyền lời Chúa và nhất là thực hiện sống đúng với lời mình nói. Như Chúa Giêsu đã thực hiện đúng với lời Thánh Kinh và lời Người loan báo: “Con Người phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, sẽ từ cõi chết sống lại”.
42. Sự thử thách cho trọng tâm đức tin.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Để tránh sự mập mờ khó hiểu của một từ, mà theo ngôn ngữ thông thường ý nghĩa của nó đi từ sự khảo sát dĩ vãng theo con mắt khoa học, đến khái niệm về một truyện tích thần kỳ –ở đây chúng ta không muốn nói đến những “câu chuyện” thuật những lần Chúa hiện ra, mà chỉ bàn đến những đoạn tường thuật trong Phúc Âm. Ký sự của thánh Luca về lần Chúa hiện ra trong phòng Tiệc ly, nhấn mạnh sự việc các môn đệ nhận ra một người đang sống mà các ông tưởng là mãi mãi khuất bóng. Các ông tưởng nghĩ Chúa nằm yên trong mộ. Vậy mà Chúa cho các ông thấy Người đang sống. Chúa khẳng định: Chính là Ta đây. Sự kiện này quá vĩ đại, nên các ông chưa thể trong phút chốc chấp nhận thực tai trước mắt. Vì thế, Chúa đưa ra những bằng chứng về nhân dạng Người: Chúa muốn cho các ông chạm tay vào người Chúa, cho các ông nhìn những vết sẹo ở tay chân Người. Chúa lại dùng bữa trước mặt các ông.
Đoạn Phúc Âm có sức kích thích mạnh, cho thấy các Tông đồ đã sống sự kiện Phục Sinh, coi đó là một biến cố thật sự xảy đến cho Chúa, chứ không như một kinh nghiệm tôn giáo đơn giản. Nếu sự sống lại vì có tính cách phi thường cho nên phần nào ở ngoài vòng kiểm soát của khoa sử học với khả năng hạn hẹp của loài người- thì ở đây ta thấy sự Phục Sinh như là một sự kiện gây nền một niềm xác tín vững mạnh trong tập thể một nhóm người. Các ông xem sư Chúa sống lại như một biến cố cũng có tính cách cụ thể như những biến cố cũng có tính cách cụ thể như những biến cố Thương Khó. Mặc dù vượt quá những khuôn khổ nhân loại của những sự kiện dĩ vãng được khoa sử học, khoa học khảo sát, sự Phục Sinh hiện diện như là một sự kiện được kiểm soát, dựa trên lời chứng của các Tông đồ. Người ta có thể trích dẫn ra đây một câu trong sách Công Vụ. Sau cuộc Thương Khó, Người cho họ thấy mình van sống, với nhiều bằng chứng rành rành (1,3).
Để suy niệm, chúng ta giữ lại 2 điểm
1) Vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được, và chỉ kinh ngạc. Chúng ta thích thú mà nhận thấy rằng ngay cả đối với các môn đệ, tin vào sự sống lại không phải là việc dễ. Tâm trí con người hiện đại rất khó chấp nhận sự sống lại của một kẻ chết. Chỉ cần thêm một chút tưởng tượng thôi, thì sự Phục Sinh chỉ là một huyền thoại đối với những người biết suy xét. Điều khó khăn ấy gây trở ngại cho niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta đứng trước sự thử thách về đức tin, vì chính đời sống Kitô hữu xây móng trên niềm tin vào sự Phục Sinh của Chúa. ta hay gạt hết những gì là tưởng tượng khỏi tâm trí ta. Một cách rất đơn sơ, cùng với các Tông đồ, chúng ta đặt niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu từng bị đóng đinh, giờ đây đang sống. Nếp sống của Chúa đã thay đổi, nhưng đích thật Người –một Đấng vừa có thể xác, vừa có thiên tính- đã bằng sự Phục Sinh của Người, đóng dấu ấn lên công cuộc cứu rỗi của Người.
2) Nhân danh Người, phải được rao giảng việc hối cải để được tha thứ tội lỗi. Trong bối cảnh tổng quát của nền tư tưởng Kitô giáo, câu đó rất phong phú.
Sau đây là một quan điểm có một giá trị của nó. Tội lỗi làm cho con người mất quân bình, sinh ra lầm đường lạc lối, cho nên tội lỗi xô đấy con người đến chỗ hoặc làm Thiên thần hoặc làm giống thú. Tại sao? Vì lẽ con người là cơ thể và tâm trí hợp nhất, lẽ thứ hai là tội lỗi đem hỗn loạn vào cơ thể và tâm trí. Thế quân bình hoàn chỉnh giữa cơ thể và tâm trí đươc thực hiện trong Đức Kitô Phục Sinh. Chúa vừa có tính chất siêu nhân loại thần kỳ, vừa mặc một xác phàm cụ thể. Trong Chúa không có tội lỗi mà chỉ có nhân vị thành toàn và bản thể chính trực. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh trở nên một thứ men phi thường cho sự thành toàn con người cả hồn lẫn xác. Đó là một sức mạnh thiêng liêng, nó loại bỏ tội lỗi và dẫn đưa con người tới sự thành toàn một số mệnh chung cho xác hồn.
43. Làm chứng
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng,OP.)
Chúa Giêsu chết vào chiều thứ sáu, rồi cả ngày thứ bảy cuối tuần qua đi yên tĩnh, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đến sáng sớm ngày đầu tuần kế tiếp, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong mộ. Ai cũng tưởng thi hài Ngài bị đáng cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế. Nhưng liền sau đó và cả ngày hôm ấy, Ngài hiện ra với người này người kia và cả với các môn đệ. Tất cả đều được kinh nghiệm tay sờ, mắt thấy, tai nghe. Tất cả đều xác nhận: Chúa Giêsu đang sống.
Cụ thể như câu chuyện kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Diễn tiến cảnh Chúa hiện ra này gồm có hai phần: Phần thứ nhất, Chúa dùng những hành động cụ thể để minh chứng Ngài đã sống lại thật sự. Phần thứ hai, Chúa trao cho các môn đệ một sứ mệnh mới: hãy làm chứng về việc Chúa Phục Sinh cho mọi người. Về việc Chúa sống lại, chúng ta đã tìm hiểu nhiều lần rồi, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu phần thứ hai: các tông đồ đã thi hành sứ mệnh làm chứng cho Chúa Phục Sinh thế nào?
Làm chứng là gì? Làm chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xảy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.
Hiểu như vậy, các tông đồ là những chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về cuộc đời của Chúa Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa. Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Chúa Giêsu đều bắt đầu và kết thúc ơ mầu nhiệm Phục Sinh. Phục Sinh của Chúa Ki-tô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những đieu đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.
Sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu Thế...các tông đồ đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và đã sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.
Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngài thường hiên ngang tuyên bố: "Chúng tôi xin làm chứng". Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa: "Xin quý vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe".
Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 tông đồ, lại có biết bao lớp tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.
Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phao-lô VI đã nói: "Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân". Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, nhất là phép thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Ki-tô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa. Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Anh chị em nghĩ sao về câu nói: "Tôi đã đọc Tin Mừng, cuốn sách hay quá. Đức Giêsu là một vị đáng khâm phục. Nhưng tôi sẽ không bao giờ trở nên người tín hữu của ông ta, vì nhiều người Công giáo gặp tôi, họ không thực hiện bác ái Đức Ki-tô, họ không tuân giữ những điều Ngài dạy, và họ chỉ mang danh là Công giáo chứ không phải là người Công giáo thực sự". Chúng ta có vào số những người Công giáo đó không? Chúng ta có phải là một tông đồ, một chứng nhân Chúa không?
44. Niềm tin thắng vượt sợ hãi
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Khi thiếu niềm tin, người ta dễ hoài nghi và luôn lo sợ. Người thiếu niềm tin giống như một người yếu bóng vía đi ban đêm. Lúc nào cũng sợ hãi và cái gì cũng có thể làm cho họ tưởng chừng như bóng ma xuất hiện. Sợ hãi bóng tối là đặc tính của trẻ con. Lòng gan dạ biết thắng vượt sợ hãi bóng tối là dấu hiệu khôn lớn.
Một buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngưạ. Cậu con thường với ve do dự:
- Bố ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình. Nghe con nói như thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn đặt vào tay con và hỏi:
- Với đèn sáng này, thấy rõ đến đâu?
Cậu trả lời: con thấy rõ tới nửa đường ra cổng.
Người cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: từ đó con nhìn tới đâu nữa?
- Con nhìn tới cổng, cậu đáp.
Ông giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:
- Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.
Thế là từ đấy cậu không còn sợ nữa.
Thưa anh chị em,
Chính các tông đồ ngày xưa cũng đã trải qua những giờ phút đen tối và sợ hãi. Ngay cả khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện đến với các ông, các ông cũng đã hoảng hốt tưởng là bóng ma. Tin Mừng hôm nay vừa kể lại: ngay trong buổi tối Phục Sinh, đang lúc các tông đồ họp nhau trong nhà, các cửa đều đóng kín mít. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa các ông. Các ông hoảng hốt, tưởng mình thấy ma. Vì các ông chưa tin Chúa đã sống lại. Các ông đã phản ứng như một đêm nào trươc đó, đang ở trên thuyền gặp gió ngược ngoài khơi, các ông thấy một “bóng ma” đi trên mặt nước. Các ông kêu rú lên “ma kìa!”, nhưng đã được trấn an ngay: “Thầy đây, đừng sợ!” (Mc 6,47-50)
Chúng ta có thể đặt hai câu truyện này lại với nhau để nhìn thấy khi Chúa Giêsu hiện ra trên biển sóng gió, Ngài đã muốn mạc khải sự Phục Sinh và thiên tính của Ngài. Đang khi hôm nay, hiện ra với các tông đồ trong thân xác Phục Sinh, Ngài muốn đem lại cho họ niềm vui phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời đầy sóng gió.
Chúa đã quở trách các tông đồ: “Tại sao các con lại hoảng hốt và nghi ngờ?” lời quở trách này nhắc chúng ta nhớ lại lời quở trách tương tự, khi các tông đồ đi chung thuyền với Chúa mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy, các tông đồ vất vả chèo chống, còn Chúa Giêsu thì nằm ngủ ở mạn thuyền. Các ông đến đánh thức Ngài dậy, vì sợ chìm thuyền. Chúa Giêsu đã quở trách các ông giống như hôm nay: “Tại sao lại hoảng hốt và nghi ngờ” (Có Thầy đây mà còn sợ gì?). rồi Ngài ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Hôm nay, lặp lại những lời quở trách tương tự, để gợi lại chuyện cũ. Chúa ngầm ý nói rằng: Ngài đã “thức dậy”rồi: Ngài đã sống lại rồi. Anh em không còn gì phải sợ hãi nữa. Thầy đã Phục Sinh và đang sống với anh em.
Tuy nhiên, các tông đồ không thể tưởng tượng được: một người mới bị giết chết và mới an tang trong mồ mấy ngày trước đây mà bây giờ lại đang đứng sờ sờ trước mặt các ông. Các ông cứ tưởng là mơ, đây là bóng ma hiện về chứ không phải là Chúa Giêsu. Vì vậy, Chúa bảo các ông hãy sờ nắn và thân xác mang thương tích của Ngài để biết rõ đây không phải là ma hay hồn thiêng hiện về, nhưng là thân xác bằng xương bằng thịt của Ngài đã sống lại: “Ma làm gì có xương có thịt như anh em sờ thấy Thầy đây?”. Và để giúp các ông tin hoàn toàn và dứt khoát, Ngài còn ăn một miếng cá nướng trước mặt để các ông thấy: đây là thân xác đã sống lại thật chứ không phải hồn thiêng hiện về hay ma quỷ gì đâu! Có thể nói, sự thật trước mắt đã xua tan hết mọi nghi ngờ. Rồi đây, các tông đồ sẽ là những chứng nhân tai mắt. Các ông còn là những người phải đi công bố Tin Mừng Phục Sinh cho những người không được chứng kiến, để mọi người tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật như Kinh Thánh đã báo trước.
Chúa Phục Sinh đã đem lại cho các tông đồ niềm tin và niềm vui. Các ông đã bị lung lạc vì thấy Chúa Giêsu chết đau đớn nhục nhã trên thập gía, nay tìm lại được niềm tin vì thấy Ngài sống lại vinh quang. Các ông đang buồn sầu vì mất Thầy mình, nay được vui mừng vì gặp lại Thầy trong thân xác Phục Sinh. Niềm tin và niềm vui đó từ nay không bao giờ mất được nữa, vì Chúa Giêsu sẽ không bao giờ rời bỏ các môn đệ, như Ngài đã hứa: “Thầy sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Cho dù sau khi Chúa lên trời, các môn đệ không còn được trông thấy Ngài nữa, cho dù phải phân tán mỗi người một ngã, cho dù gặp trăm ngàn khó khăn thư thách, các ông vẫn vững tin rằng Chúa Giêsu Phục Sinh luôn được bình an và phấn khởi vui mừng.
Đối với chúng ta cũng vậy, Chúa Kitô Phục Sinh không còn chết nữa. Ngài đang sống và hằng sống. Đối với Ngài, thời gian, khong gian, không còn là cách trở. Nói khác đi, cho dù chúng ta, hiện diện với chúng ta y như là với các môn đệ ngày xưa, có khi còn gần gũi thân thiết hơn nữa. Ngài còn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế, để ban cho chúng ta được làm con Chúa Cha, để chúng ta được vững tin và an vui trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để với niềm tin và niềm vui đó, chúng ta trở thành những chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người.
Kitô giáo là tôn giáo của niềm vui. Chúa Giêsu là một Tin Mừng lớn nhất của nhân loại. Còn chúng ta, dù đôi lúc mang bộ mặt buồn sầu thiểu não, chúng ta phải là sứ giả của niềm vui, những chứng nhân của Tin Mừng Phục Sinh. Co hai điều Chúa Giêsu thường quở trách các tông đồ: sợ hãi và buồn chán. “Đừng sợ, hãy tin!” “Vì sao sợ, hỡi những kẻ yếu tin?” “Thầy đây, đừng sợ!” “Maria, tại sao bà khóc, bà tìm ai?” “Dọc đường hai ông nói gì mà buồn bã thế? Hỡi những kẻ ngu dốt và chậm tin?”… Họ buồn vì chưa tin Chúa đã sống lại. Còn chúng ta ngày nay buồn, dù tin rằng Chúa đã sống lại, đang sống và sống mãi: chúng ta tin Chúa Phục Sinh mà chẳng khác gì tin Ngài đã chết luôn rồi!
Người Kitô hữu sống đạo đích thực phải là người mang đầy niềm vui và chiếu giãi niềm vui, một niềm vui chân thật xuất phát từ tâm hồn đã được gặp Đức Kitô Phục Sinh. Đức tin của chúng ta cũng chỉ lớn lên và thắng vượt được sợ hãi trước bóng tối của cuộc đời, khi chúng ta xác tín vào sự hiện diện của Chúa Phục Sinh trong từng biến cố, từng thử thách, từng khổ đau, khi chúng ta hiểu được lời Ngài quả quyết: “Chúng con đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian”.
45. Chúa Giêsu là trung tâm lịch sử – Noel Quesson.
“Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh”
Trong các bức hoạ cổ, người ta thường nói bức vẽ của Misen Angelo (Michel Angelo) ở nguyện đường Sixtin Rôma. Hoạ sĩ Michel Angelo đã mất bảy năm để thực hiện bức vẽ trên trần nhà nguyện. Bức vẽ diễn tả những chương đầu của sách Khởi nguyên: Thiên Chúa tạo dựng vạn vật. Thay vì ký tên vào bức vẽ, hoạ sĩ đề hai chữ Alpha và Omêga, đó là chữ đầu tiên và cuối cùng của mẫu tự Hilạp. Hoạ sĩ có ý nói: Thiên Chúa là đầu hết và cuối hết của vạn vật.
Toàn bộ lịch sử nhân loại được diễn ta trong Kinh Thánh đều quy tụ về một điểm là con người trong Đức Kitô, Thiên Chúa làm người. Từ nhiều nghìn năm, Kinh Thánh đã tiên báo về Ngài, chuẩn bị tâm hồn người đọc để có đủ tư cách tiếp nhận Chúa Cứu Thế. Cựu ước nói về Chúa và cái chết với những lời lẽ rõ ràng. Trong đó cũng nói về những đau khổ Người phải chịu. Người Do Thái đã đọc những lời tiên báo đó trong sách Luật, sách các Ngôn sứ và Thánh vịnh, nhưng họ và ngay cả các Tông đồ cũng không hiểu rõ. Vì thế mọi người đã coi cái chết của Chúa Giêsu như một thất bại, và đến lúc nghe Chúa sống lại, ai nấy đều hoang mang nghi ngờ.
Cho tới lúc Chúa sống lại, Chúa vẫn còn bận tâm làm sao cho các môn đệ hiểu rõ Chúa chính là Đấng được tiên báo trong Cựu ước. Trong lần hiện ra với hai môn đệ trên đường đi Emaus, cũng như với mười một tông đồ mà Tin Mừng hôm nay tường thuật, Chúa đã dành nhiều giờ cắt nghĩa cho họ những điều Cựu ước noi về Người. Những lời cắt nghĩa của Chúa, kèm với ân huệ Người.
Những cải tổ về phụng vụ của Công đồng Vaticăng II đã quan tâm lo liệu cho ta nghe, đọc nhiều đoạn Cựu ước trong Thánh lễ, có ý cho ta thấy Chúa Giêsu chính là cốt trục xuyên suốt của lịch sử. Muôn dân, muôn thế hệ đã được ơn tha tội, được cứu rỗi nhờ kêu cầu danh Chúa Giêsu, nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Cuộc cải thiện thế giới bắt đầu từ Giêrusalem và moi người chúng ta là những chứng nhân.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đọc và hiểu lời Ngài trong Thánh kinh. Vì lời Chúa là đèn soi bước cho chúng con đi. Xin ban ánh sáng đức tin cho những người chúng con gặp gỡ hôm nay. Chúng con cầu xin Chúa.
46. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
NHỮNG BÓNG MA TƯỞNG TƯỢNG
Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc ben. Nhờ tài ba, ngài đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bai cay đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.
Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, thánh An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau kho để huấn luyện ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống trong danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh quang Nước Trời.
Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Đức Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền cac ông tới bến bình an... Có lần Đức Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giêsu phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.
Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe dọa đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gap thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những noi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.
Khi đức tin các tông đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi đức tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Đức Giêsu là có thực. Đức tin của các tông đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thanh Kinh. Đức tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các tông đồ củng cố đức tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.
Hãy củng cố đức tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạy trong đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy Đức Giêsu Phục Sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.
47. Suy niệm của ĐGM. Vũ Duy Thống.
CÁCH HIỆN DIỆN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
Một trong những địa danh được nhắc đến nhiều nhất vào Mùa Phục Sinh, đó là ngôi làng Emmaus. Mặc kệ các nhà khảo cổ với những công trình tìm kiếm xem ngôi làng đó nằm ở đâu trên thực tế địa lý. Mặc kệ các nhà chú giải với những phân tích chi li xem địa danh Emmaus hợp bởi chữ gì và có nghĩa gì. Mặc kệ các nhà hội họa với những cảm hứng khơi nguồn đã khéo tô điểm Emmaus nên một kiệt tác như bức họa nổi tiếng của Rembrandt. Mặc kệ tất cả. Người tín hữu chỉ có một cảm tình tốt đẹp là xem Emmaus như một địa chỉ tinh thần không thể quên được. Bởi lẽ khởi đi từ đó, Đấng Phục sinh đã ưu ái cho thấy Ngài luôn có mặt bên cạnh con người và vẫn muốn hiện diện thường xuyên cho cuộc sống con người. Khởi đi từ địa chỉ tinh thần ấy, người ta thấy ít ra có ba cách hiện diện của Đấng Phục sinh:
1) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT TRONG NHỮNG BƯỚC ĐỒNG HÀNH CHIA SẺ
Bối cảnh của bài Phúc Am là những ngày tiếp theo biến cố Phục sinh. Hoàn cảnh của các môn đệ thật là bi đát. Họ là người theo Chúa từ những ngày đầu cuộc sống công khai, những mong được tả hữu vinh quang khi Đấng Messia chinh phạt thế giới. Nào ngờ Thầy mình lại chọn lấy con đường khác để cứu độ. Ngài đã bị giết, bị chôn vùi trong huyệt đá. Và lưu ảnh cuối cùng họ có về Thầy mình, đó chính là ngôi mộ hoàn toàn trống rỗng. Vỡ mộng, that vọng, cô đơn, họ như những môn sinh “chữ thầy lại trả cho thầy, trở về làng cũ học cầy cho xong”.
Mà đâu có xong. Chính lúc tưởng chừng trống vắng không gì có thể lấp đầy được, Đấng Phục sinh đã âm thầm hiện diện bên họ, trong dáng dấp của một người khách lạ, trong thân quen của những bước đồng hành và trong ân cần của những lời thăm hỏi rất đỗi bình thường. Ngay trong Phúc Am hôm nay, liền sau biến cố Emmaus, khi hai môn đệ đang kể lại Chúa Giêsu ở ngôi thứ ba, thì Ngài đã tự bao giờ “đứng giữa” câu chuyện ở ngôi thứ hai để chào hỏi đối thoại ủi an.
Vâng, Đấng Phục sinh là như thế. Tưởng vào trong vinh quang là bắt đầu nẻo đời xa cách, nào ngờ lại là lúc Ngài la cà thân thiện với con người hơn cả bao giờ. Thiên Chúa đã gần gũi với đời người, cho con người trở nên phần đời của Thiên Chúa. Chính khi đời người xem ra trống vắng nhất, Đức Kitô vẫn hiện diện đồng hanh chia sẻ, để rồi khi con người biết chia sẻ cuộc sống cho nhau thì Ngài vẫn có đó trong sức mạnh đồng hành.
2) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT BẰNG NHỮNG LỜI CỦNG CỐ TIN YÊU
Tâm trạng của các môn đệ hôm nay trong Phúc Am cũng vẫn là thất vọng ê chề. Sau lưng họ là Giêrusalem đen tối, trước mặt họ là những nơi xa cũng chẳng sáng sủa gì. Quá khứ vừa mới khép lại, tương lai chưa kịp mở ra. Chới với, chao nghiêng. Nhưng chính lúc ấy, Đấng Phục sinh có mặt, bằng lời Thánh Kinh sống động và hóa giải, Ngài thanh luyện các môn đệ khỏi những tình cảnh thất vọng sợ sệt và đặt họ vào một đà sống mới.
Lời Chúa chính là lời hiện diện của Đấng Phục sinh. Nhưng tất cả còn tùy thuộc vào cách đón nhận của ta. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ coi lời Chúa như vật phẩm điểm trang, dẫu có kính cẩn ghi chép, trân trọng giữ gìn, đeo chặt trên trán như thói quen của mấy ông biệt phai. Sẽ không có mặt của Đấng Phục sinh nếu ta chỉ xem lời Chúa như thứ lá chắn bung xung cho một mưu đồ, nghĩa là coi lời Chúa như phương tiện để tô vẽ lên mưu lợi riêng tư. Nhưng sẽ là một hiện diện thường xuyên ở bất cư đâu cho bất cứ ai, nếu lời Chúa được thực thi chân thành trong đời sống.
Hai môn đệ đi làng Emmaus đã thấy ấm lòng khi nghe lời Chúa. Các môn đệ ở lại Giêrusalem trong Phúc Am hôm nay cũng thấy phấn khởi khi được Chúa soi sáng củng cố và đặt vào tin yêu hy vọng của đời chứng nhân. Nếu mỗi tín hữu hiểu và sống lời Kinh Thánh, họ cũng sẽ cảm nhận được sự hiện diện của Đấng Phục sinh như những ý lực trong ngày sống, như một sức mạnh để vươn lên, cho dẫu sống chứng nhân cũng là sống với Đức Kitô trên đường thương khó.
3) ĐẤNG PHỤC SINH CÓ MẶT GIỮA NHỮNG TẤM BÁNH BẺ RA CHO ĐỜI
Nếu có phút giây nào để lại ấn tượng mạnh nhất trong bài Phúc Âm, đó phai là lúc Chúa Giêsu hỏi các môn đệ xem có gì ăn không, rồi Ngài lại tự nhiên ăn cá và mật ong trước bao cặp mắt sững sờ của họ. Ngài hỏi thức ăn không phải vì Ngài đói và Ngài ăn không phải vì cơ thể Ngài cần. Đang Phục sinh mà không một định luật vật lý nào có thể ngăn cản được như trong việc Ngài thoắt hiện thoắt đi đâu cần phải có thực phẩm nhân gian để mà tồn tại. Đấng Phục sinh có mặt giữa con người không giống như kẻ hoi sinh sau tai nạn để cần phải bổ dưỡng bù trừ theo kiểu “ăn giả bữa”. Nhưng, nếu qua việc Chúa Giêsu bẻ bánh, hai môn đệ đi làng Emmaus đã nhận ra Thầy mình, thì qua việc ăn uống này Đấng Phục sinh đã củng cố lòng tin von đang chao đảo hoang mang của họ.
Đấng Phục sinh ăn trước mặt các môn đệ. Đó là một khoảnh khắc đầy ấn tượng, nhưng đã làm nên lý chứng phục sinh và ý nghĩa cuộc đời, bởi có Ngài hiện diện, nên thôi hết buồn sầu để mở ra một lối sống mới trong niềm vui. Thảo nào các môn đệ hôm đó đã nhận lệnh lên đường làm chứng về những gì các ông đã thấy đã hiểu đã tin.
Nếu có lần nào ta chiêm ngắm Chúa Kitô như tấm bánh bẻ ra để xây dựng một thế giới mới, thì có lẽ một cách vô thức ta đã quy chiếu vào khoảnh khắc bất ngờ này. Và nếu đúng như thế thì qua việc rước Mình và Máu Đức Kitô hôm nay, ta cũng được mời gọi để trở nên những tấm bánh, những mau cá, những tảng mật ong sống động biết chia sẻ nâng đỡ, vun đắp chung xây cuộc sống tốt lành tại địa bàn dân cư nơi mình sinh sống.
Ba cách hiện diện nghe như quen mà vẫn cứ lạ, nghe như gần gũi mà vẫn cứ rời xa. Cảm tưởng quen quen lạ lạ gần gần xa xa ấy có là vì Đức Kitô Phục sinh có mặt, nhưng không hữu hình như xưa để dễ dàng mắt thấy tai nghe nữa, mà đã hiện diện vô hình chỉ gặp được bằng tin yêu hy vọng. Và thường thì vì ta quá vô tình không nhận ra Ngài trong những khuôn mặt cuộc đời, tình huống của ta và của những người quanh ta. Nhưng hiện diện của Đấng Phục sinh không phải là một hiện diện thụ động chỉ để ta tìm gặp, mà còn là một hiện diện chu động khi ta biết tích cực đồng hành chia sẻ, cũng như gieo lời Chúa vào môi trường sống, rồi từng ngày nỗ lực âm thầm trở nên những tấm bánh “ăn được” cho người lân cận.
Qua thánh lễ này, ta được đồng hành bên nhau, được chia sẻ lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Xin cho đời ta được đổi mới nơi địa chỉ Emmaus tinh thần này, để tới phiên ta cũng sẽ trở thành địa chỉ tinh thần mới cho cuộc sống hôm nay.
48. Đấng Phục Sinh ở giữa ta
(Suy niệm của Huệ Minh)
Những lời mà Chúa hứa nay đã thành sự thật!
Ta bắt gặp tâm trạng buồn rầu của hai môn đệ trên con đường Emmau như thế nào?
Buồn rầu, chán nản vì chỗ dựa vững chắc nhất đời mình là cái ông mang tên Giêsu mà bấy lâu nay mình tin tưởng, mình tín thác, mình đi theo nay đã chết! Chết coi như là hết, coi như là chấm dứt niềm hy vọng và rồi hai ông bỏ về quê sống với cái nghề cũ trước khi đi theo ông Giêsu.
Thế nhưng, ta thấy đang trên đường về làng quê, vào cái lúc trời xế chiều thì lòng buồn thêm. Không thể đi tiếp được nữa vì không có trăng mà cũng chẳng có đèn. Thế là hai ông bèn mời người khách cùng đi với hai ông trên một đoạn đường vào quán trọ!
Ngạc nhiên chưa! Khi vào quán hai ông lại nhìn ra chính người khách bộ hành trên đoạn đường dài đó chính là Chúa Giêsu.
Trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta bắt gặp hình ảnh của hai môn đệ quay lại Giêrusalem và đã tường thuật lại cho các bạn của các ông biết về Đấng Phục Sinh mà hai ông đã gặp trên đường.
Đang tám chuyện với nhau thì rồi Đức Giêsu hiện đến giữa họ. Lần này, Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các ông: "Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ". Ta thấy phản ứng tự nhiên của các ông đó là hoảng sợ vì lẽ Thầy đã chết nay đã quá 3 ngày rồi. Thế nhưng, Thầy lại nói với các ông: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây".
Không chỉ nói, để chứng minh là Thầy thật sự đứng giữa các ông nên Thầy đã đưa chân tay của Thầy cho họ xem.
Thật ra mà nói, các môn đệ đã rơi vào tâm trạng chẳng đặng đừng: không tin cũng không được mà tin cũng không xong. Tâm trạng này cũng dễ hiểu bởi lẽ các ông đang sống trong tâm trạng hoang mang bối rối.
Một lần nữa, để chứng minh Thầy đang hiện diện giữa các ông bằng xương bằng thịt thật sự thì Thầy xin các ông cho ăn. Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ.
Và sau đó, ta thấy Chúa Giêsu Phục Sinh đã không ngần ngại nói thêm để các ôn tin. Không những thế, Chúa Giêsu còn mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Chuyện đã quá rõ không còn phải ngờ vực nữa.
Thật ra những gì Chúa Giêsu cũng như các ngôn sứ loan báo về sự phục sinh của Chúa Giêsu nay trở thành ứng nghiệm. Thế nhưng, do cứng lòng tin hay do không cảm nhận được sự gần gũi, giản đơn của Chúa trong đời thường nên cũng chẳng thể nào trách được lòng cứng tin của các môn đệ.
Ngay như lúc đặt chân vào trần gian này, Chúa Giêsu đã hiện thân nơi một hài nhi bé bỏng. Và rồi Hài Nhi đó lớn lên ở cái làng quê nghèo và có cha mẹ là hai vợ chồng nghèo. Chẳng ai có thể tin được Đấng Cứu Độ trần gian đến trong trần gian này lại như thế!
Và, trong hành trình rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, cũng có đôi lần làm điều này làm điều kia làm cho người ta sửng sốt. Thế nhưng lòng chai dạ đá cứng tin ăn sâu vào trong lòng người ta để rồi người ta cứ mãi ngời vực.
Đỉnh điểm của niềm tin vào Đấng Cứu Thế mà được loan báo từ trước đã vụt tắt khi cái anh chàng 33 tuổi mà người ta bỏ mọi sự đi theo đó chịu chết treo nhục nhã trên cây thập giá. Cũng đâu yên với cái anh chàng trộm cướp. Cùng mang bản án tử hình nhưng anh ta đã thách thức con người vô tội cùng chịu chết treo với anh. Nhục nhã vô cùng cho đến giờ phút cuối cùng trên thập tự giá.
Tất cả những người xưa nay từng hưởng ân lộc không ít thì nhiều từ cái con người chịu treo trên thập giá đó cũng đã bỏ đi hết. Họ theo Con Người ấy không phải vì niềm tin vào Con Người ấy, vào quyền năng của Con Người ấy nhưng họ theo vì những lợi lộc mau qua.
Chúa Giêsu đấng chịu chết treo trên thập giá do bàn tay của những con người ác đó ngày ngày vẫn sống giữa họ, vẫn đồng hành với họ nhưng chẳng ai can đảm nhận ra Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian. Chính vì lẽ đó, khi phục sinh, Đấng Cứu Độ trần gian có hiển hiện giữa họ họ cũng chẳng nhận ra bởi lòng chai dạ đá. May thay có những môn đệ được chính Chúa Giêsu phục sinh cùng đồng hành, cùng hiện diện, cùng ăn, cùng uống với họ và họ đã tin.
Đức Giêsu là như vậy! Đức Giêsu hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi cũng là một và Ngài là như thế! Ngài đến thế gian, Ngài sống giữa kiếp người khi loan báo Tin Mừng và ngài vẫn sống giữa kiếp người sau khi sống lại từ cõi chết.
Chúa Giêsu Phục Sinh không còn hiện diện bằng xương bằng thịt như xưa nữa nhưng Ngài rất gần và vẫn ở bên đời ta. Chuyện quan trọng là ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời ta hay không mà thôi.
Có khi Giêsu hiện diện nơi trẻ thơ nhỏ bé chưa kịp cất tiếng khóc chào đời.
Có khi Giêsu hiện diện nơi người công nhân quét rác ngay đầu ngõ nhà ta.
Có khi Giêsu hiện diện nơi bác công nhân ngâm mình dưới dòng nước cống đen xì trong ngõ nhà ta để khơi dòng nước thải.
Có khi Giêsu hiện diện nơi người phu xe chở ta đi đây đi đó khi ta cần.
Và, đặc biệt, có khi Giêsu hiện diện ngay trong chính gia đình nhỏ bé của ta nơi người vợ, người chồng, người con. Có khi đó chính là cha mẹ già của ta. Có khi cũng là những người kém may mắn sống bên cạnh ta.
Chúa Giêsu là như vậy đó! Ngài luôn luôn và thích hiện diện nơi những con người nghèo, những người cô thế cô thân ngay bên cạnh ta. Liệu rằng ta có nhận ra sự hiện diện của Ngài hay không mà thôi.
Ta đã mừng bao nhiêu mùa Phục Sinh nhưng ta có cảm nghiệm gì về một Đức Giêsu Phục Sinh ngay bên đời ta hay không đó mới là điều quan trọng.
Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta như mời gọi các môn đệ khi trò chuyện, ăn uống với các ông: "Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy"..
Chứng nhân về Thầy, chứng nhân về Đấng Phục Sinh không chỉ là nơi miệng ta khi ta tuyên xưng đức tin trong Kinh Tin Kính mỗi Thánh Lễ Chúa nhật hay lễ trọng. Chứng nhân về những điều ấy cần lắm được diễn tả ngay trong đời sống thường nhật của ta. Ta có biết yêu thương, ta có biết chia sẻ, ta có biết quan tâm một Giêsu nhỏ bé nghèo hèn ngay bên cạnh ta không vẫn là lời mời gọi và thách thức niềm tin của ta vào Đấng Phục Sinh.
Xin Chúa Giêsu Phục Sinh thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn luôn nhận ra Ngài hiện diện với ta trong mọi hoàn cảnh, thời gian và không gian của cuộc đời. Và, hơn thế nữa là chúng ta luôn biết diễn tả tình yêu thật sự nơi những người nhỏ bé quanh ta đó. Chính khi ta sống như thế ta mới trở nên những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu về mầu nhiệm Phục Sinh mà chúng ta hằng tuyên tín.
[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[[
49. Phiền muộn, bối rối, & bình an.
(Suy niệm của Lm Nguyễn Trung Tây)
Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loai bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Ngoài thất vọng, tuần Thánh và tuần Phục Sinh đầu tiên của dòng lịch sử ơn cứu rỗi cũng là hai tuần lễ đong đầy những phiền muộn, bối rối, và lo lắng không lối thoát cho những người môn đệ của Đức Giêsu.
Bắt đầu từ những giây phút bỏ chạy trong Vườn Cây Dầu cho tới giây phút chứng kiến cảnh tảng đá đang lăn tròn che kín ngôi mộ, những người Kitô hữu đầu tiên đã trải qua hết thất vọng này sang thất vọng khác. Thoạt tiên là chuyện Giuđa bán đứng đại sư phụ với một cái hôn, nối tiếp là bản án tử của Đức Giêsu được đóng dấu bởi nhà nước bảo hộ La Mã, theo sau là nhọc nhằn con đường thập giá với đá va sỏi dẫn lên Núi Sọ, tiếp nối là kinh hoàng tiếng đinh xé rách thân xác và sắc nhọn tiếng búa lạc thần đôi mắt của Đức Giêsu. Trong thất vọng, cuối cùng mọi người dẫn nhau ra về sau khi tảng đá đóng lại che kín xác Đưc Giêsu.
Nhưng rất tiếc, đúng như cụ Tiên Điền đã từng nói, “đùng đùng gió giục mây vần,” câu chuyện thất vọng không chịu dừng lại ở chỗ tảng đá được lăn tới chôn lấp một xác chết, nhưng được tiếp nối với một bản tin động trời do những người đàn bà hốt hoảng chạy về thông báo vào sáng sớm thứ Hai của ngày đầu tiên trong tuần lễ. Theo như những người nữ môn đệ, xác Đức Giêsu đã không còn nằm trong ngôi mộ đá nữa. Mà nếu xác Đưc Giêsu đã biến mất, không còn trong ngôi mộ, không ai trên cõi đời vào đầu thiên niên kỷ lại dùng niềm tin Phục Sinh để giải thích cho hiện tượng ngôi mộ trống; nhưng, người người từ những em bé cho tới những cụ già, từ những nhà lãnh đạo tôn giáo cho tới chính quyền bảo hộ La Mã đều tin rằng có người đã lẻn vào ngôi mộ đánh cắp mang xác Đức Giêsu đi dấu cho một âm mưu đen tối (Ga 20,2). Bởi thế, khi bản tin xác Đức Giêsu đã biến mất, nhà nước bảo hộ La Mã không chịu nhắm mắt bỏ qua, nhưng sẽ bắt đầu một cuộc tảo thanh, lùng kiếm xác của Ngài trên từng góc phố và trong từng căn nhà của kinh thành Giêrusalem. Khi cuộc săn lùng thi thể của Đức Giesu bắt đầu, những người nam môn đệ sẽ là những nhân vật đầu tiên nằm trong danh sách bị truy nã, bị săn lùng, và bị tra khảo. Cho nên, không ai lạ chi nếu những cánh cửa của căn nhà nơi những người môn đệ đang ẩn sâu trốn kỹ bắt đầu từ đêm khuya của ngày thứ Năm tuần trước lại càng thêm cửa đóng then cài vào ngày thứ Hai đầu tuần của người Do Thái. Bởi thế, khi nhận được bản tin là xác Đức Giêsu đã biến mất, những người môn đệ cua Đức Giêsu đã không đứng dậy hân hoan nhảy múa hét to, “Tạ ơn Chúa! Allelujah! Ngài đã sống lại!”, nhưng mà là ngược lại. Cho nên, vào ngày Phục Sinh đầu tiên, ngoài thất vọng, những người môn đệ lại có dịp nếm thêm mùi vị đắng cay của muộn phiền, bối rối, và hồi hộp chờ đợi giây phút cánh cửa căn nhà bật tung bởi xích xiềng, giáo mác và áo trận La Mã.
Cánh cửa rồi cũng mở ra, nhưng không phải bởi chính quyền La Mã, mà là hai ngươi môn đệ nguyên gốc Emmau. Trong khi những người nam môn đệ của Đức Giêsu đang run sợ, tiếp tục giấu mình sâu hơn nữa vào trong bóng tối của căn phòng kín, hai người môn đệ vừa từ thị trấn Emmau quay về cung cấp một bản tin khác về thi hài của Đức Giêsu, lần này bản tin thật sự đã biến thành trái bom nổ tung và giựt đứt những sợi giây thần kinh căng cứng của những người môn đệ. Theo như hai người môn đệ của thị trấn Emmau, ngôi mộ đá đa trở thành ngôi mộ trống không phải bởi vì người ta cướp mất xác của Đức Giêsu cho những toan tính mờ ám, nhưng bởi vì Ngài đã phục sinh. Và chính Ngài đã hiện ra chuyện trò với họ trên suốt một quãng đường dài mười mot cây số.
Trong căn phòng kín của gần hai ngàn năm về trước, bản tin về Đức Giêsu Phục Sinh đồng hành trên con đường Emmau không mang lại tiếng cười hân hoan tiếng hát tạ ơn Thiên Chúa, nhưng bản tin đã khiến cho những người môn đệ của Đức Giêsu lại thêm nặng trĩu đôi vai, hằn sâu vầng trán, thâm đen đôi mắt, bởi vì lo lắng và sợ hãi trước những tin đồn thiệt hư không biết đâu mà kiểm chứng. Vào giây phút hội ngộ giữa Emmau và Giêrusalem, ngoại trừ ông Cleopas và người môn đệ đồng hành, tâm hồn của người người trong căn phòng đóng kín cửa đều tiếp tục ngân vang khúc nhạc cung thứ nốt giáng (b) của những dòng nhạc chán nản, nghi ngờ, và hoang mang.
Khong trách chi, khi Đức Giêsu với thể xác thần khí hiện ra, đứng giữa căn phòng đóng kín cửa, các người môn đệ của Đức Giêsu tin rằng họ đã thấy ma. Không biết có người nào té ra bất tỉnh hay không, nhưng nếu Đức Giêsu không chúc “Bình An cho các con” và trấn an họ bằng cách ngồi ăn cá nướng với những người môn đệ thân thương, có lẽ nhiều người đã bị máu cơ tim nhồi lên mà chết bởi biến cố Phục Sinh mà họ đang chứng kiến tận mắt trong căn phòng kín.
Suy Niệm
Trong ngày hôm nay, hơn bao giờ hết, lời chúc bình an của Đức Kitô Phục Sinh vẫn là một điều mà bạn và tôi đang cần đến. Thế giới đã tiến vào thiên niên kỷ thứ ba với bao nhiêu tiện nghi vật chất phục vụ cho những nhu cầu cần thiết của con người. Nhưng những tiện nghi vật chất này cũng có khả năng biến thành một con dao hai lưỡi cắt đứt tay nhân loại khiến cho thế giới tiếp tục đói khát bình an.
Nhân loại ngày hom nay đã chế được hỏa tiễn và phi thuyền bay cao lên không gian. Đồng hành với những bay cao và bay xa vào trong vũ trụ là những hỏa tiễn mang đầu đạn hạt nhân có khả năng sát hại không biết bao nhiêu mạng người chỉ trong chớp mắt.
Ngày hôm nay người ta đã xây dựng được bao nhiêu đường xa lộ siêu tốc dẫn nối từ thành phố này sang phố thị khác, từ quốc gia này sang vương quốc kia, nhưng con đường ngăn ngắn nho nhỏ dẫn sang nhà hàng xóm cỏ hoang mọc dày che kín lối đi.
Ngày hôm nay người ta xây được những căn nhà cao hơn, phòng ốc rộng hơn, sân vườn xanh cỏ hơn, nhưng tâm hồn của nhân loại bắt đầu co cụm nhỏ dần héo úa tàn khô.
Nhân loại ngày hôm nay bay vào trời xanh thường xuyên hơn, nhiều hơn, nhưng yêu thương ít hơn, bù lại cỏ dại của toan tính, hiềm khích, và chỉ trích tiếp tục lún phún mọc cao trong từng mảnh tâm hồn.
Ngày hôm nay nhân loại có nhiều tiền bạc mua sắm nhieu hơn, nhưng hạnh phúc và bình an, hai món hàng cần thiết như hơi thở trong không gian như lương thực cho cơ thể không mấy người mua sắm được. Thiếu vắng bình an, cây hạnh phúc trong tâm hồn rũ tàn chết khô, cây bối rối và cây phiền muộn xum xuê vươn cánh đơm bông nở nhụy. Khi hai tòa nhà cao ngất trời của Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế của thành phố New York hóa ra tro bụi vào một buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, mọi người trên thế giới đa biết rằng, không còn nơi nào trên quả địa cầu còn được gọi là vùng đất của bình an. Thật vậy, thế giới càng văn minh, nhân loại càng mất bình an chính vì đời sống tâm linh ngày càng trở nên khan hiếm hoặc héo úa trong từng mảnh tâm hồn của nhân loại. Tương tự như những người môn đệ của thuở xưa, bởi không có tâm thương yêu, tâm tha thứ, bởi không có niềm tin và Đức Giêsu hiện diện trong căn phòng kín của tâm hồn, bạn và tôi sẽ tiếp tục thất vọng, lo lắng, phiền muộn, và bối rối với cuộc sống và với chính mình. Vào những lúc bạn cảm thấy phiền muộn, bối rối, thất vọng với chính mình và với cuộc sống, mời bạn, chúng ta cùng hướng về căn phòng đong kín cửa với Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện ở giữa căn phòng, và nói với Ngài:
Lời Nguyện
Lạy Chúa, trong Mùa Phục Sinh, xin chúc lành trên con lời chúc bình an năm xưa để con thôi không còn lo lắng, phiền muộn, và bối rối như những người môn đệ trong căn phòng đóng kín cửa. Lạy Chúa, những khi con thất vọng với chính con, với những sa ngã, với những lỗi lầm của con và của anh chị em con, xin ban cho con lời chúc bình an của Chúa năm xưa, để tâm hồn của con thôi lo lắng, buồn phiền, nhưng ngập tràn hạnh phúc, và bình an.
50. Suy niệm của Lm. Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Bài giáo lý II về cuộc sống kitô hữu: nhận biết Đức Giêsu
I. Dẫn vào Thánh lễ
Trên cuộc lữ hành dương thế, chúng ta không phải là người độc hành cô đơn phải tự mình giải quyết mọi vấn đề. Nhưng có Chúa cùng đi với chúng ta. Tuy vô hình nhưng Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Lời Ngài soi sáng tâm trí và sưởi ấm cõi lòng chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe câu nói mà phụng vụ thường nhắc đi nhắc lại: "Chúa ở cùng anh chị em".
II. Gợi ý sám hối
Đức Giêsu đã nói "Bình an cho chúng con". Nhưng bình an có đang thực sự ngự trị trong tâm hồn chúng ta và trong môi trường chúng ta sống không?
Đức Giêsu đã nói "Hãy ở trong Thầy". Nhưng chúng ta có thực sự ở trong Chúa khi cầu nguyện, khi lãnh nhận các bí tích và khi sống trong cộng đoàn Giáo Hội không?
Đức Giêsu đã nói "Chúng con là nhân chứng của Thầy". Nhưng chúng ta có thực sự làm chứng cho Chúa qua lời nói, việc làm và cách sống không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Cv 3, 13-15. 17-19
Sau khi Phêrô chữa lành một người què tại cửa Đền thờ, nhiều người ngạc nhiên và bàn tán. Nhân cơ hội này, Phêrô giảng một bài:
- Trong phần đầu bài giảng, Phêrô xác nhận người què này được chữa lành không phải nhờ quyền năng hay đạo đức riêng của ông, mà chính là nhờ Danh Giêsu.
- Qua phần hai, Phêrô nhắc lại vụ án Đức Giêsu. Ông nói người Do Thái đã giết Đức Giêsu vì họ không "biết". Nay Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại. Việc này chứng tỏ Đức Giêsu chính là Đang Messia. Vậy họ hãy sám hối và tin vào Ngài để được ơn cứu độ.
2. Đáp ca: Tv 4
Đây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng trông cậy phó thác: mặc dù đang ở trong cơn khốn khó, tín hữu vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát mình cho nên người tín hữu cảm thấy "thư thái bình an, vừa nằm tôi đã ngủ".
Đức Giêsu chính là người sống tâm tình này tuyệt hảo nhất: Ngài đã "nằm ngủ" bình an trong tay Thiên Chúa rồi được Thiên Chúa cho "thức dậy" qua cuộc phục sinh.
3. Tin Mừng: Lc 24, 35-38
Hai môn đệ Emmau đã theo Đức Giêsu bấy lâu nay, họ nghĩ rằng họ "biết" Ngài. Theo cái "biết" ấy thì Ngài chỉ là "một tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ" và họ "hy vọng Ngài sẽ cứu Israel".
Nhưng khi Đức Giêsu bị giết, họ mới ý thức rằng cái "biết" đó chỉ là cái họ "tưởng" chứ không phải là "biết" thật.
Đức Giêsu giúp họ "biết" thực sự, nhờ việc Ngài giảng giải Lời Sách Thánh và nhờ việc Bẻ bánh.
Khi đã "biết" Đức Giêsu, hai ông vội vã trở lại Giêrusalem để loan báo cho các môn đệ khác "biết" nữa.
4. Bài đọc II: 1 Ga 2, 1-6a
Chịu ảnh hưởng của thuyết Ngộ đạo, các tín hữu cũng coi trọng sự "biết" và họ tự hào rằng mình đã biết Đức Giêsu.
Thánh Gioan tông đồ giải thích thế nào là "biết" thật: "Chính nơi điều này mà chúng ta biết rằng mình "biết" Đức Giêsu, đó là chúng ta giữ các giới răn của Ngài. Ai nói rằng mình "biết" Ngài mà không giữ giới răn Ngài thì ấy là kẻ nói dối".
IV. Gợi ý giảng
* 1. "Biết" và được cứu độ
Vào khoảng cuối thế kỷ I, có một lạc thuyết nổi lên trong Giáo Hội, đó là thuyết Ngộ đạo. Thuyết này đề cao sư hiểu biết ("ngộ"): ai đã đạt đến trình độ hiểu biết cao sâu về Chúa thì sẽ bảo đảm được cứu độ. Ngày nay, có nhiều người cũng lầm tưởng rằng nếu "biết" giáo lý, "biết" lề luật, "biết" Thánh Kinh thì cũng bảo đảm đươc phần rỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay xóa tan ngộ nhận ấy, cái "biết" có thể mang đến ơn cứu độ là cái "biết" do suy gẫm sách Thánh và kết hợp với Đức Giêsu Thánh thể. Bài trích thư thứ nhất Thánh Gioan cho thấy thêm một đieu kiện nữa: không chỉ biết Chúa mà còn phải tuân giữ các giới răn của Ngài nữa thì mới được cứu độ.
* 2. Những cảm nghiệm Emmau
Vào chính ngày Đức Giêsu sống lại, có hai môn đệ chán nản rời Giêrusalem để về làng Emmau. Thánh Luca cho biết tên một người, đó là Clêôpát. Còn người kia thì Luca không nói tên. Chắc chắn không phải vì ông không biết, nhưng có lẽ vì người thứ hai ấy chính là Luca, hoặc cũng có thể vì một lý do gì khác. Ch. Perrot đã đoán lý do khác ấy là: "Người bạn của Clêôpát không được nêu rõ tên nhưng lại mang tên của mọi tín hữu". Nghĩa là, theo suy đoán của Ch. Perrot, Thánh Luca cố ý không nêu tên người môn đệ kia vì muốn coi người ấy là đại biểu của mọi tín hữu. Nói cách khác, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể trải qua những cảm nghiệm của người môn đệ ấy.
Vậy chúng ta hãy đi vào tâm trạng của người môn đệ ấy, và chia xẻ những cảm nghiệm của ông.
1. "Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản nên không nhận ra Ngài": Đây là cảm nghiệm thứ nhất, cảm nghiệm về tình trạng của Đức Giêsu phục sinh. Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta. Chỉ có điều là cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy được Ngài, giống như có một bức màn ngăn cách giữa chúng ta với Ngài. Đến mot lúc nào đó, nếu Ngài muốn, thì Ngài bỏ bức màn ấy xuống, khi đó không còn gì ngăn cản nữa thì chúng ta sẽ thấy được Ngài. Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc ở trong lữ quán, "mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài".
2. Vậy nhờ cái gì mà tấm màn ngăn cách chúng ta với Đức Giêsu phục sinh được cất đi để chúng ta nhận ra Ngài? Cảm nghiệm của hai môn đệ Emmau cho thấy nhờ hai điều:
a/ Điều thứ nhất là nhờ suy gẫm Sách Thánh: "Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh". Sau này hai ông nhớ lại cảm giác lúc đó: "Dọc đường khi Ngài nói chuyện và giải thích Sách Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy len đó sao?".
b/ Điều thứ hai là Bí tích Thánh Thể: "Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài".
Sách Thánh đã làm cho những cõi lòng lạnh giá chán chường bừng cháy lên, Bí tích Thánh Thể khiến cho bức màn ngăn cản cặp mắt xác thịt hạ xuống.
***
Thực ra chúng ta đã nhiều lần đọc Sách Thánh và tham dự Bí tích Thánh Thể. Nhưng tại sao khi đọc Sách Thánh lòng chúng ta không "cháy bừng len", và khi tham dự Thánh Lễ mắt chúng ta không "mở ra"? Thưa vì chúng ta đọc Sách Thánh như đọc về Đức Giêsu chứ không phải đọc với Đức Giêsu như hai môn đệ Emmau; và chúng ta dâng Thánh Lễ như dâng lên cho Ngài chứ không phải cùng dâng với Ngài.
Chúng ta có thể làm mọi việc với Ngài, bởi vì Đức Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Ngày xưa đối với hai môn đệ Emmau cũng thế và ngày nay cũng vẫn thế.
* 3. Cuộc sống mới của các môn đệ
Có thể nói sau khi Đức Giêsu chết thì các môn đệ cũng chết luôn, chết về mặt tinh thần và về luân lý: nhóm 12 đã rã rời, vì Giuđa đã tự vẫn, Tôma đã bỏ đi do khủng hoảng đức tin, những người còn lại thì co cụm với nhau trong căn phòng đóng kín cửa, lòng họ đầy sợ hãi, nghi ngờ, mặc cảm tội lỗi, buồn phiền và thất vọng.
Nhưng ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu phục sinh cũng làm cho họ sống lại: Ngài chủ động đến với họ chứ không chờ họ đi tìm Ngài, Ngài không nói một lời trách móc nhưng lại chúc bình an, Ngài ăn uống với họ để họ tin chắc Ngài vẫn sống, Ngài mở trí cho các ông hiểu ý nghĩa Thánh Kinh, Ngài lại còn sai họ ra đi rao giảng cho muôn dân. Tất cả những việc làm tế nhị và yêu thương ấy đã giúp cho các môn đệ
- không còn sợ hãi
- không còn nghi ngờ
- không còn mặc cảm tội lỗi
- không còn buồn phiền
- không còn thất vọng
Con người cũ của các ông không còn, các ông như được sống lại trong con người mới, sẵn sàng ra đi khắp nơi loan báo Tin Mừng phục sinh cho mọi người.
4. "Hãy nhìn chân tay Thầy"
Một người con kia rất yêu thương cha mình. Người cha là một nông dân, suốt đời cần cù lao động để nuôi sống gia đình. Khi người cha chết đi, lòng người con rất buồn rầu. Anh cứ đứng gần thi thể của cha mà nhìn, nhất là nhìn đôi bàn tay của cha. Anh nói: "Nhìn đôi bàn tay sần sùi chai sạm ấy, tôi nhớ lại tất cả những cực nhọc khổ sở mà cha tôi đã chịu vì yêu thương tôi"
Khi hiện đến với các môn đệ, Đức Giêsu cũng bảo họ hãy nhìn chân tay Ngài, những chân tay không phải chai sạm mà đầy những thương tích. Nhìn không phải chỉ để xác nhận Đức Giêsu hôm nay cũng chính là Đức Giêsu hôm qua bị đóng đinh, mà còn để nhận ra tình thương bao la vô bờ bến của Ngài: "Không có tình thương nào lớn hơn tình của người thí mạng sống cho người mình thương".
Khi hiện ra với Tôma, Đức Giêsu cũng bảo ông hãy chạm đến các vết thương của Ngài, rồi Ngài nói: "Đừng hồ nghi nữa, nhưng hãy tin" (Ga 20, 28). Tin gì? Khong chỉ tin là Ngài đã sống lại, mà còn tin vào tình thương của Ngài.
Tình Chúa thương ta là một điều chắc chắn, đã được đóng dấu bằng những vết thương trên thân xác Ngài. Chúng ta hãy tin chắc như thế, không có gì lay chuyển được.
5. Biến cố làm đảo lộn lịch sử thế giới
Trong những ngày ấy, có hai người bước trên đường về Emau, một làng cách Giêrusalem vài cây số. Về Emau, có nghĩa là trở về hư vô, về cõi của những niềm hy vọng đã tan vỡ. Họ kiệt lực rồi, họ hết còn mơ mộng, họ cũng đã hết nhiệt tình. Trước đây, họ đã đi theo phong trào Giêsu với tất cả nhiệt huyết, họ cứ chắc mẩm rằng họ sẽ giải phóng thế giới khỏi cái ác, giải phóng dân tộc họ khỏi giới quí tộc Đền thờ và khỏi ách đô hộ La Mã.. Nhưng nay thì hết rồi Thầy đã chết, chết quá dễ dàng không một biểu hiện tự vệ. Các thủ lãnh phong trào Giêsu, những bạn đồng hành thân cận nhất của Thầy, những người mà Thầy tín cẩn, cũng đã lánh mặt vì khiếp nhược, vì thất vọng. Có người thậm chí còn bảo, anh Phêrô nhiệt tình là thế, bao giờ cũng tranh ăn trên nói trước, thế mà người ta bảo anh đã thề độc, đã chứng minh anh không hề quen biết Giêsu.
Thế là hết. Hai anh tưởng đã được tham dự vào một cuộc phiêu lưu độc đáo, khiến cho đời các anh có một ý nghĩa rực sáng, mở ra cho hai anh, mở ra cho mọi người một tương lai chan chứa niềm vui và niềm hy vọng. Vậy mà giờ đây họ chỉ còn những nuối tiếc, hận đời và dằn vật.
Một người khách lạ nhập bọn với hai anh, bảo hai anh kể cho ông ta nghe về những nỗi buồn và niềm bất hạnh của họ. Cái ông khách này là một người hiếm hoi, biết nghe người khác nói. Rồi ông ta giải thích cho hai anh nghe về lịch sử thế giới, bắt đầu bằng kể về ông Môisê và các ngôn sứ. Hai anh thấy lòng ấm dần lên, cởi mở dần ra. Đầu óc của hai anh, chậm hiểu hơn trái tim, chỉ nhận ra Ngài sau khi cùng Ngài chia sẻ bữa tối và sau khi Ngài khuất dạng.
Thế là hai anh quay lại, bước ra khỏi tăm tối và hư vô, trở về Giêrusalem. Những người các anh gặp lại ở Giêrusalem cũng đã từng trải qua những thất vọng não nề... Vậy mà những con người thảm hại ấy bỗng đứng lên, mạnh dạn tuyên bố rằng Đức Kitô đang sống, và bằng chúng thuyết phục nhất là chính họ đã thấy Ngài, thậm chí đã cùng ăn uống với Ngài.
Những điều họ nói, thật ra không phải một bằng chứng bằng chứng thuyết phục nhất là chính họ, những người thấp hèn, nhát gan, ít chữ nghĩa, nay dám đương đầu với mọi hiểm nguy và làm phục sinh lại phong trào Giesu. Đến đâu họ cũng nhắc lại những lời yêu thương và giải phóng, những lời không hẳn được tất cả mọi người nghe theo, nhưng là những lời đã thay đổi lịch sử thế giới.
Vậy thì, trong những ngày ấy, đã có một biến cố xay ra, như một vụ bùng nổ, làm xuất hiện niềm tin và thay đổi cuộc đời những người này. Đối với họ, biến cố đã xảy ra đó là, Đức Giêsu đang sống. Đức Giêsu đã phục sinh, và họ đã loan truyền cái tin ấy đến nỗi dám hy sinh cả mạng sống. Chẳng ai có thể đưa ra những bằng chứng để chứng tỏ điều đó. Ai cũng có quyền nghi ngờ. Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã rao giảng thì tôn trọng tự do của con người đến độ đẻ họ nghi ngờ và phủ nhận Ngài... Tuy nhiên, trong những ngày ấy, một biến bố đã xảy ra làm đảo lộn những người đàn ông, những người phụ nữ ấy, và đã làm đảo lộn thế giới.
Jacques Duquesne (Nhà văn Pháp)
6. Đời sống chứng nhân
Albert Schweitzer là mot cậu bé rất thông minh, lại say mê âm nhạc. Khi trưởng thành cậu chơi đàn Organ, và cuối cùng đã trở thành Tiến sĩ âm nhạc. Sau đó, Albert nghiên cứu các chủ đề về tôn giáo, và đã đậu Tiến Sĩ Triết Học. Ông làm Hiệu Trưởng trường Đại Học.
Như thể học chưa đủ, ông từ chức Hiệu trưởng để theo ngành y khoa, 7 năm sau, trở thành bác sĩ với bằng Tiến sĩ Y Khoa. Với 3 bằng cấp Tiến sĩ, Albert Schweitzer dễ dàng trở thành một người giàu có, và nổi tiếng.
Thế nhưng, tiến sĩ Albert Schweitzer lại cùng với người vợ bán tất cả gia tài, sang tận Châu Phi thiết lập một bệnh viện ở Lambarene. Ông cứu giúp hàng ngàn người phong cùi và những người mắc bệnh buồn ngủ.
Ông huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết tiền mua thuốc, ông trở về Âu Châu, trình diễn âm nhạc trong thành phố lớn, lấy tiền vé vào cửa để trả tiền mua thuốc cho bệnh viện của ông ở Lambarene. Ông tin rằng những người nghèo ở Châu Phi đều là những thành viên trong gia đình Thiên Chúa. Ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1953.
Sau khi dâng hiến cả cuộc đời cho người Châu Phi nghèo khổ, nhà truyền giáo đã đi về nhà Cha năm 1965 lúc 90 tuổi.
***
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu Phục sinh kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng nhân cho Người.
Chúng ta hãy là chứng nhân của sự sống mới. Thế giới ngày nay quay cuồng trong nỗi chết. Cái chết của chiến tranh, khủng bố khiến người ta chết không toàn thây. Cái chết của sida, ma tuý làm người ta chết không ra con người. Cái chết của phá thai, tự vẫn như cướp quyền Đấng Tạo Hóa. Người tín hữu Kitô phải làm chứng cho sự sống mới.
Sự sống của Đấng Phục sinh: Lôi cuốn, hấp dẫn gấp ngàn lần nỗi chết quay quắt điên loạn của con người. Sự sống của Đấng Phục sinh tràn đầy niềm hy vọng. Nếu Đức Kitô bị đóng đinh đã sống lại ra khỏi mồ, thì chúng ta có quyền tin tưởng vào chiến thắng của Người trên bạo lực, hận thù và nỗi chết.
Chúng ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin Thầy sống lại. Nếu các môn đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả trò, thì các ông lại trọn niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu chúng ta thực sự ra khỏi nỗi âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu chúng ta mang lại nụ cười cho những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin vui Phục sinh.
Đức Hồng Y Danielou có nói: "Chúng ta hãy tự khai mở niềm hy vọng của người bất hạnh, cho dù điều đó đe dọa đến của cải chúng ta".
Cha Charles de Foucauld quả quyết: "Chỉ có một số người có khả năng làm chứng bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời sống lương thiện, gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động".
Trong nghi thức rửa tội của Giáo hội Ấn Độ, người chịu phép Rửa tội đặt tay lên đầu và nói: "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr. 9, 16).
Vậy lời rao giảng Tin mừng sinh động nhất, hữu hiệu nhất và cao đẹp nhất chính là một cuộc đời quên mình phục vụ như nhà truyền giáo Albert Shweitzer đã làm cho những người phong cùi Châu Phi.
*
Lạy Chúa,
Khi chúng con u sầu, xin đem đến một ai đó để chúng con an ủi. Khi gánh nặng đè bẹp, xin chất thêm cho chúng con gánh nặng của người khác nữa.
Khi chúng con cần sự âu yếm vỗ về, xin cho người khác kêu gọi chúng con đến để vỗ về âu yếm họ.
Xin dạy chúng con trở nên chứng nhân của một Thiên Chúa phục vụ và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ phải kêu gọi mọi người ăn năn sám hối và phải làm chứng về Chúa Phục sinh cho muôn dân. Ý thức trách nhiệm đó, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện:
1. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / luôn nêu gương khiêm tốn ăn năn sám hối về các thiếu sót lỗi lầm / và luôn kêu gọi mọi người ăn năn sám hối / để loại trừ bớt tội lỗi trong thế giới.
2. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / biết cộng tác với nhau để ngăn chặn chiến tranh / diệt trừ tội ác, khủng bố, giết người / và xây dựng một thế giới hòa bình hạnh phúc hơn.
3. Chúng ta cùng cầu xin cho những nạn nhân của bất công khủng bố / những người vô tội bị bách hại / những người nghèo đói bị khinh chê / những người yếu đuối bị áp bức / được Đức Giêsu Phục sinh nâng đỡ và ủi an.
4. Chúng ta cùng cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / luôn nhớ đến trách nhiệm làm chứng về Đức Giêsu Phục sinh cho mọi người chung quanh chúng ta.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn nhớ lệnh truyền của Đức Giêsu Kitô là ăn năn sám hối và dùng tất cả đời sống làm chứng về Người, để chúng con thực sự là môn đệ của Người. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là Đấng công chính nhưng đã hiến thân làm lễ vật đền tội cho loài người chúng ta. Chính vì công nghiệp của Ngài mà chúng ta dám thưa với Thiên Chúa là Cha chúng ta rằng: "Lạy Cha chúng con ở trên trời..."
- Chúc bình an: Ngày xưa Đức Giêsu phục sinh đã "ở giữa các môn đệ và nói 'Bình an cho anh em". Hôm nay nguyện chúc bình an của Chúa cũng hằng ở cùng anh chị em.
- Trước rước lễ: Đức Giêsu phục sinh đã mời các môn đệ đụng chạm vào thân thể Ngài và hãy tin. Bây giờ Ngài cũng mời chúng ta kết hợp với Mình Máu Thánh Ngài. "Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng..."
VII. Giải tán
Anh chị em đa biết rằng Đức Giêsu đã chịu nạn, chịu chết và sống lại để sinh on cứu rỗi cho loài người. Anh chị em phải làm chứng điều đó trước mặt mọi người. Chúc anh chị em về bình an.
51. Chúa hiện ra với các tông đồ - R. Gutzwiller
Trình thuật này gợi lên cho ta 3 ý tưởng:
1) Sự kiện Phục sinh
Chúa bỗng hiện ra đứng giữa các tông đồ. Họ lại khiếp đảm kinh sợ và không thể nào chấp nhận nổi sự kiện, mặc dù họ đã được sứ điệp của các bà, của Simon báo trước, và rồi của hai môn đệ đi thành Emmau nữa. Họ không thể hiểu nổi sự kiện xảy ra đến nỗi Chúa Giêsu phải chính thức nhấn mạnh: ‘Hãy coi tay Ta, chân Ta, chính là Ta đó: Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có thịt xương như anh em thấy Ta đây’. Và hình như họ còn không tin và không dám nhìn thẳng vào thực tế trước mắt, nên Ngài hỏi ‘Ở đây các anh em có gì ăn không?’ Và Ngài đã ăn trước mắt họ. Khi ấy họ không nghi ngờ nữa. Ngài đó, Ngài đứng đó với xác thịt rành rành. Sự Ngài Phục sinh không chỉ là sự sống lại thiêng liêng mà thôi, nhưng còn là sự sống lại thể xác nữa.
Hơn thế nữa, những lời ‘Ngài cho họ nhìn xem tay chân Ngài’ cũng như Ngài nói: ‘Hãy coi tay Ta, chân Ta, chính là Ta đó’ chứng tỏ rõ ràng rằng sau khi sống lại, những dấu của cuộc khổ nạn vẫn còn y nguyên. Vậy Đấng chịu khổ nạn đã sống lại với xác thân của Ngài. Khải huyền thơ nói Chúa biến hình dưới dạng một ‘con chiên bị đem đi sát tế’. Những dấu tích cho thấy rằng thân thể Ngài là thân thể của một tế vật và sự Phục sinh là hoàn tất hy tế đó. Đấy không phải là một biến cố lịch sử đơn giản, xảy ra trong một vài khoảnh khắc, nhưng là một biến cố lâu dài, bền bỉ, để lại kết quả lâu dài qua dòng thời gian.
2) Ý nghĩa Phục sinh
‘Đức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, rồi phải nhân danh Ngài rao giang cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi –khởi từ Giêrusalem’. Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh sẽ là Đấng mà lề luật, các tiên tri và thánh vịnh đã hứa. Biến cố daỳ vò các tông đồ không phải là cái gì khác hơn là sự thực hiện chương trình vĩ đại về việc cứu độ của Thiên Chúa. Được phác hoạ trong Cựu ước và hoàn thành trong Tân ước. Đường dây nối mọi sách thánh lại là Đấng Messia đến, hành động, hy sinh. Và kết qua riêng tức ý nghĩa sâu xa nhất là sự thứ tha tội lỗi cho mọi dân moị nước. Phổ quát tính của ơn cứu độ, ý nghĩa bao quát của hy sinh thập giá được diễn tả qua những lời đó. Hy sinh thập giá là hy tế đem lại ơn cứu chuộc. Và Đấng Thiên Sai khi hoàn tất hy tế ấy đã trở nên ơn cứu độ cho Israel cũng như cho cả nhân loại.
3) Loan báo Phục sinh
‘Các anh em là những chứng nhân về điều đó’. Sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tao một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố, rồi từ biến cố ấy thành lịch sử. Và lịch sử đó không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh, của một vị Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân toc. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về sự kiện ấy. Đó là làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi phải bằng máu nữa. Đã làm chứng được như vậy, con người phải đón nhận sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa ‘Ta sắp sai đến trên anh em, điều Cha Ta đã hứa’. Chính Chúa Thánh Linh là chứng tá đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoai bằng việc rao giảng. Bởi thế, sự Phục sinh của Chúa Kitô là nội dung chính cốt của sứ điệp Kitô giáo qua các lời giảng dạy của các tông đồ cũng như qua sách công vụ và các thơ, đứng trước biến cố trọng đại ấy, tất cả đều phai nhòa đi hết. Việc rao giảng Kitô giáo không phải là trình bày các qui luật luân lý, giảng giải các chân lý giáo điều hoặc trình bày cuộc đời Chúa Giêsu, nhưng sự rao giảng ấy trước hết là một khẳng định rõ về cái chết và sự Phục sinh của Chúa, vì đó là những yếu tố trung tâm của lịch sử ơn cứu độ.
52. Có Chúa có bình an
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Điều mà con người mong mỏi khao khát nhất, không hẳn là cơm áo gạo tiền mà là sự bình an. Bình an trong tâm hồn. Bình an khỏi mọi sự dữ. Bình an trong công việc được êm xuôi. Sự khao khát bình an biểu lộ nơi mọi người. Nơi kẻ lữ hành mong thương lộ bình an. Nơi kẻ ở nhà cũng mong đừng bị quấy phá. Thế nhưng, cuộc đời đau mấy khi bình yên. Trắc trở khó khăn cứ dồn dập khiến con người luôn bất an lo sợ. Cuộc đời đâu mấy khi được hưởng sự bình an trọn vẹn nơi tâm hồn và cuộc sống.
Tâm trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giê-su. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trươc sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin, còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi “nhìn cò ra quạ”, nhìn thấy Chúa lại tưởng là “Ma”.
Chuyện kể rằng có một người đi uống rượu về ban đêm. Bước tới sân nhà anh thấy một con rắn nằm vắt ngang giữa sân. Sợ hãi anh đã chạy vào bếp lấy một con dao băm con rắn ra thành nhiều mảnh rồi yên tâm vào nhà ngủ. Sáng ra, tỉnh dậy tính thu dọn con rắn ai dè không phải đêm qua chém rắn mà chém nát ống nước tưới cà-phê mà vợ chưa kịp dọn.
Các tông đồ sau khi tin vào Chúa Phục sinh thì các ông không còn cái nhìn sợ hãi. Các ông đã hết sợ nghi nan. Các ông không sợ người Do Thái đến bắt. Các ông không sợ đối diện với công quyền. Các ông chỉ còn lo một việc là nói về sự phục sinh của Chúa cho muôn dân.
Như thế, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Thế nên, gia đình nào có Thiên Chúa thì chắc chắn có bình an. Người ta nói trời có lúc mưa lúc nắng. Đời có lúc buồn lúc vui. Tình có lúc nồng lúc nhạt. Những thay đổi này càng đúng trong đời sống hôn nhân. Tình yêu thì đòi bền vững nhưng con người lại hay thay đổi. Tình yêu thì đòi hâm nóng mỗi ngày nhưng con người lại hay “che cơm thèm phở”. Có lẽ vì vậy mà gia đình nào cũng có vấn đề, gia đình nào cũng có khó khăn.
Tại tiệc cưới Cana, đám cưới chỉ mới bắt đầu mà đã có vấn đề! Tiệc chưa tàn nhưng rượu lại hết. Nguy quá! Thế thì mất mặt qúa! Không chừng cô dâu chú rể sẽ lục đục với nhau vì nhà anh đã không khéo chuẩn bị, còn nhà em thì cứ mời cho đông vào... Không chừng vết thương trong ngày thành hôn sẽ để lại cơn đau khó tàn cho đôi uyên ương. Vấn đề cua họ là rượu đã hết thì niềm vui chưa trọn vẹn, hay có thể nói là tiệc mất vui.
Rất may cho họ hôm đó đã mời Chúa Giê-su. Có Chúa thì họa biến thành may. Có Chúa thì không có gì mà Ngài không làm được. Có Chúa thì mọi sự sẽ êm xuôi. Thế nên, mỗi gia đình hãy mời Chúa đến trong tiệc cưới và trong từng gia đình mình. Thiếu rượu, tiệc cưới mất vui. Thiếu tình yêu, gia đình không hạnh phúc. Ai cũng muốn được Chúa biến đổi nước lã là cuộc sống vô vị, chán ngắt, nặng nề trong gia đình thành rượu tình yêu nồng nàn hạnh phúc. Ai cũng muốn được Chúa đong đầy ân sủng bình an vào trong gia đình. Do đó, điều nhất thiết là chúng ta phải mời Chúa đến trong gia đình. Co Chúa gia đình không còn sợ đói, sợ khổ, sợ chia ly. Có Chúa với cánh tay quyền năng Ngài sẽ che chở gia đình được bình an.
Ước gì các đôi hôn phối biết mời Chúa Giê-su đến chúc lành cho ngày vui của mình. Ước gì các gia đình hãy mời Chúa Giê-su vào nhà mình để Chúa đong đầy ân sủng và bình an cho gia đình. Xin Chúa Giêsu phục sinh đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau, xin cũng đồng hành với các gia đình chúng ta hôm nay. Amen.
53. Có Thiên Chúa sẽ không còn sợ hãi
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Ma không ai thấy nhưng người ta lại tưởng tượng nó với nhiều hình thù thật đáng sợ nhất. Thế nên mới có tích chuyện xưa kể rằng:
Có người thợ được vua mời vào vẽ tranh cho vua. Vua hỏi: “Vẽ cái gì khó?”
Thưa: “Vẽ chó, vẽ ngựa khó”.
- Vẽ cái gì dễ?
- Vẽ ma, vẽ quỉ dễ.
- Sao lại thế?
- “Chó ngựa ai cũng trông thấy, vẽ mà không giống thì người ta chê cười, cho nên khó vẽ. Ma quỉ là giống vô hình, không ai trông thấy, tuỳ ý muốn vẽ thế nào cũng được, không sợ ai bẻ, cho nên dễ vẽ”.
Điểm chung của con ma thường là không đầu. Chân không chạm đất. Nó không xương không thịt nên có thể xuyên tường, xuyên nhà và tự do đi lại ở khắp nơi. Đôi khi thần hồn nhát thần tính khiến người ta nhìn người ra ma, “nhìn cò ra quạ” đến khiếp nhược rụng rời tay chân.
Các tông đồ cũng chưa bao giờ chứng kiến người chết sống lại. Niềm tin các ông chưa đủ để hiểu những gì đang diễn ra. Thế nên, khi thấy Chúa Giê-su phục sinh các ông vẫn ngỡ là ma, các ông hoài nghi xen lẫn sợ hãi. Chắc là phải sợ hãi lắm nên Chúa mới phải trấn an: Đồ nhát ”Ma làm gì có thịt có xương như Thầy”.
Dù sao đi nữa thì niềm tin người chết sống lại vẫn vượt quá trí tưởng tượng của con người. Các ông chưa đủ niềm tin vào sự phục sinh của Chúa nên các ông vẫn mơ hồ tưởng Thầy là ma. Chưa đủ niềm tin vào sự phục sinh nên các ông vẫn sợ những bóng tối che phủ chung quanh. Lòng các ông nặng trĩu lo âu. Tâm trạng hoang mang sợ hãi trước cái chết của Thầy Giê-su.
Hôm nay Chúa Phục sinh đã mang lại bình an cho các tông đồ. Sự sợ hãi đã bị đẩu lùi. Bóng ma không còn nữa chỉ còn Thầy với thân xác phục sinh cùng ăn, cùng uống, cùng đồng hành với các môn sinh. Niềm vui của sự sum vầy dâng cao. Tình thầy trò lại sống lại. Chúa phục sinh đã nối họ lại trong một gia đình để cùng ra đi loan báo tin mừng Chúa đã phục sinh.
Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ. Có người sợ cho tương lại ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan, khốn khó của dòng đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niềm tin nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua quan để sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống. Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.
Thế nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xử theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi dòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Vâng, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của dòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù dòng đời có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hãy lấy lòng mển để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin Chúa Giê-su phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.
54. Bình an cho các con – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.
Cuộc đời luôn bao trùm biết bao sự dữ. Sự dữ nhiều đến độ làm cho con người luôn bất an lo sợ. Người ta sợ thất bại. Sợ rủi ro. Sợ mất an ninh. Sợ nghèo đói. Sợ bị trả thù. Sợ phải đối diện với sự thật. Có cái sợ làm người ta "ăn không ngon, ngủ không yên". Có cái sợ làm người ta đánh mất niềm tin nơi bản thân và tha nhân. Có cái sợ dẫn đến tuyệt vọng và buông xuôi.
Tâm trạng của các tông đồ sau biến cố tuần thương khó là tâm trạng buồn sầu và lo sợ. Họ sợ liên luỵ vì từng là đồ đệ của tử tội Giêsu. Họ sợ phải về quê làm lại cuộc đời từ đầu. Họ sợ đường trở về còn nhiều bóng tối nghi nan. Từ sợ hãi dẫn đến đánh mất niềm tin. Dù đã được báo trước sau ba ngày Thầy sẽ sống lại. Thế mà, vì quá sợ mà quên hết mọi sự. Các ông không còn dám tin vào ai. Dù rằng các người phụ nữ đã kể rõ ràng họ đã gặp Chúa. Dù rằng hai môn đệ đi làng Emmau đã từng kể về cuộc hàn huyên với Chúa. Dù rằng Gioan và Phê-rô cùng chạy ra mồ, nhưng chỉ có Gioan thấy và tin còn Phê-rô thì không. Sợ hãi đã làm cho các ông hoa con mắt đến nỗi "nhìn cò ra quạ", nhìn thấy Chúa lại tưởng là ma.
Chúa đã quở trách các ông "sao lại hoảng hốt thế! Ma đâu có xương có thịt như vầy!". Chúa chỉ cho các ông biết nguyên do của sợ hãi là thiếu lòng tin. "Sao lòng anh em còn ngờ vưc?". Đã bao năm sống với Thầy. Đã nhiều lần chứng kiến những phép lạ Thầy làm. Đã từng được nghe lời Thầy tiên báo "Sau ba ngày Thầy sẽ sống lại". Thế mà các ông vẫn không tin. Từ không tin dẫn đến sợ hãi. Sợ bóng đêm của cuộc đời. Sợ những điều mới lạ. Sợ hãi dẫn đến chia đàn xẻ nghé. Mỗi người một nơi. Đường ai ai nấy đi. Sợ hãi nên đâu dám nhìn đời, nhìn người. Sợ hãi nên chỉ biết co ro nơi phòng tiệc ly. Cửa đóng then cài trong tâm trạng nặng nề đầy u ám và sợ hãi.
Nỗi sợ hãi của kẻ thiếu lòng tin vẫn còn đó nơi con người hôm nay. Có người sợ cho tương lai ngày mai, vì ngày mai đâu biết sẽ ra sao? Có người sợ những nguy nan, khốn khó của giong đời sẽ xảy đến với mình. Có người sợ thế giới đời sau, biết có hay không nên buông mình theo đam mê xác thịt! Có người vẫn còn mang nặng mặc cảm lo âu sợ hãi về một lầm lỗi của quá khứ. Vì sợ hãi nên đánh mất niem tin nơi Thiên Chúa. Họ tìm kiếm thế lực trần gian. Họ bám vào quyền thế vua quan để sống. Họ cố vun quén tiền tài để hưởng lộc. Họ quên rằng điều quan yếu của cuộc đời là chính sự bình an tâm hồn. Không có bình an thì cho dù có tiền, có quyền vẫn là đánh mất cuộc đời. Cuộc đời cần bình an như cá cần nước để sống. Cuộc đời không có bình an là sự bất hạnh, là cuộc đời đáng thương hơn cả người nghèo khó mà có bình an tâm hồn.
Thế nhưng, sự bình an chỉ ngự trị nơi tâm hồn có Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì chẳng sợ gian nguy, vì hết lòng tin tưởng cậy trông Thiên Chúa. Có Thiên Chúa thì không toa rập với sự dữ để làm hại đồng loại, để bán rẻ lương tri để rồi luôn lo sợ bị trả thù, trả đũa. Có Thiên Chúa sẽ mang lại hoa trái là niềm hoan lạc, tươi vui, bình an và hy vọng. Đánh mất Thiên Chúa mới là điều đáng sợ. Thế giới không có Thiên Chúa sẽ khiến con người hành xư theo ý mình, theo bản năng, theo tự do cá nhân. Đó là thế giới loạn lạc, đầy bất an và lo sợ. Con người sống với nhau nhưng luôn phải cảnh giác, phải đối phó, phải e dè, sợ thanh toán lẫn nhau. Đánh mất Thiên Chúa con người sẽ chẳng biết bám víu vào đâu khi giòng đời xô đẩy biết bao sóng gió tư bề, biết bao gian nan thử thách.
Người ta kể rằng: có một cậu bé 5 tuổi vừa thức giấc trong một đêm giông tố bão bùng. Cậu mở mắt, thấy cảnh vật tối tăm. Ngoài trời giông tố, sấm chớp rợn rùng. Từng đợt gió rít lên tạo thành những âm thanh gầm thét như đang giận dữ đạp đổ nhà cửa và cây cối. Bốn bề xao động. Cậu sợ hãi, hốt hoảng và cầu cứu cha:
- Cha ơi, cha ơi! Con sợ quá!
- Cha đây, cha đây! Cậu nghe tiếng cha vọng lại
- Cha đâu sao con không thấy? Con sợ quá! Cậu giơ tay ra phía trước quờ quạng.
- Cha đây, Cha đây! Người cha bước lại ngồi xuống bên cậu. Cậu ôm lấy cha, ap đầu vào ngực cha. Người cha đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu. Cậu bé yên lặng nắm lấy bàn tay Cha dìu dịu đi vào giấc ngủ an lành. Bên ngoài mưa bão vẫn còn, nhưng sự sợ hại nơi cậu bé đã tan biến trong lòng của Cha.
Vang, Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù giòng đời có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy trông mà phó thác vào Chúa. Hay lấy lòng mến để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin Chúa Giêsu phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Xin Chúa luôn là khiên che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.
55. Tha thứ để bình an
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền - Dành cho các đôi hôn phối Chúa nhật 3 Phục Sinh)
Khi kết hôn với nhau, ai cũng muốn gia đình mình hạnh phúc. Ai cũng mơ tìm được hạnh phúc trong đời sống lứa đôi. Lúc này hai người luôn sẵn sàng hy sinh cho nhau. Họ tìm mọi cách làm vui lòng nhau. Thế nhưng, khi đã thành gia thất, nhiều bạn trẻ đã vỡ mộng, nhiều gia đình đã tan nát không tìm được hạnh phúc gia đình. Cãi nhau, bất hoà, bất tín bất trung. Gia đình trở thành hoả ngục vì thiếu vắng tình yêu. Thay cho những lời nói ngọt ngào là quát tháo, đay nghiến. Thay cho những cử chỉ thân thương là thượng cẳng chân, hạ cẳng tay.
Có một câu chuyện kể rằng: Lúc chiều, hai vợ chồng cãi nhau bất phân thắng bại. Tối đi ngủ, anh chồng làm lành:
- "Xin lỗi em nhé, anh đã nghĩ lại rồi".
- Ồ không, em cũng đang định xin lỗi anh.
- Em không có lỗi, có lẽ do anh hơi nóng tính.
- Do em! Mọi chuyện đều do em cả.
- Anh đã bảo là tại anh cơ mà!
- Tại sao anh cố chấp thế nhỉ?
- Cô có câm đi không?
Thế là cuộc cãi vã lại tái phát. Lần này nó còn dữ dội hơn lần trước. Hai vợ chồng chống đối nhau kịch liệt. Không bên nào chịu thua bên nào. Rồi cuối cùng, vì không thể làm lành, không thể chịu nổi nhau nữa, họ đã đi đến quyết định là xin ly dị.
Tất cả chỉ vì gia đình thiếu một chữ nhịn mà phá vỡ hạnh phúc gia đình!
Vâng, trong đời sống vợ chồng, những cãi cọ bất hòa, giận hờn nhỏ nhặt hàng ngày, nếu vợ chồng không khéo chế ngự bản tính tự ái, hẹp hòi của mình và rộng lượng tha thứ cho nhau, sẽ là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”.
Như chúng ta đã biết, hôn nhân là sự kết hợp hai người: một nam một nữ để thành vợ chồng của nhau. Từ đó, hai người cùng chia sẻ với nhau một định mệnh, một cuộc sống, một con đường. Noi theo ngôn ngữ của Chúa Giêsu, họ không còn phải là hai nhưng đã thành một. Sự thật này đòi hỏi hai vợ chồng phải luôn biết hòa hợp với nhau để mỗi ngày được trở nên một trong tình yêu và trong cuộc sống. Nhưng, để thực hiện được điều đó, thực tế không luôn dễ, vì khi lấy nhau rồi, mỗi người vẫn còn mang những cá tính khác biệt của mình. Cá tính ấy được hình thành bởi nhiều yếu tố như: bẩm sinh, thiên phú, nền giáo dục, hoàn cảnh sống.... mà mỗi người đã được hấp thụ. Cho nên, sự va chạm bất hòa là lẽ đương nhiên phải xảy ra trong đời sống vợ chồng. Điều quan trọng đặt ra cho hai người là biết đối phó để biến những va chạm bất hòa này như thế nào? Nếu sống với nhau mà cứ xét nét nhau từng lời ăn tiếng nói, từng cử chỉ và thái độ, để rồi nhỏ xé ra to. Ít xít ra nhiều. Gia đình sẽ biến thành một hoả ngục thay cho một thiên đường hạnh phúc mà khi quen nhau họ thường mơ ước kiến tạo cho nhau. Nếu sống chung với nhau mà thiếu sự tha thứ thì không có gì để đảm bảo tình yêu của họ sẽ tồn tại mãi mãi cho đến đầu bạc, răng long, mà không chừng chỉ dăm ba tháng là đường ấy ấy đi, đương tớ tớ đi, hay như Tố hữu bảo rằng: đường ta ta cứ đi... thì thật là bất hạnh.
Lời Chúa trong hai tuần vừa qua, cho chúng ta thấy tâm trạng hoang mang lo sợ của các môn đệ sau ngày Chúa Tử nạn và Phục sinh. Các ông sợ vì liên lụy với tử tội Giêsu. Dẫn đến kẻ chối Chúa. Kẻ bán Chúa và nhẹ nhất là chạy trốn để tránh phiền phức “rước họa vào thân”. Rồi nay, họ lại nghe Chúa sống lại. Người đã hiện ra với người này, người nọ. Toàn dân bàn tán xôn xao. Chúa lại còn hẹn sẽ gặp họ tại Galilê. Không biết là lành hay dữ. Vì từ xưa đến giờ các ông chưa bao giờ thấy chuyện người chết sống lại. Phải chăng đây là tin đồn để chụp mũ, để bắt gọn các ong. Và nếu Chúa sống lại thật. Ngài có tha thứ cho tội chối Chúa và bỏ mặc Chúa để người ta hành hạ và đóng đinh trên cây thập tự hay không?
Thế mà, khi Chúa hiện đến giữa các ông. Ngài không hề nhắc tới chuyện đáng tiếc đã xảy ra nơi các ông. Nơi Phêrô, kẻ chối Chúa ba lần. Nơi các môn đệ hèn nhát bỏ chạy thục mạng nơi vườn Giệtsêmani. Nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chức minh nhiên, cụ thể. Dường như Chúa đã quen hết chuyện quá khứ. Sự hiện diện của Chúa không để hỏi tội mà là trấn an cho các ông. Bình an cho các con. Ơn bình an là hoa quả của tha thứ. Có tha thứ thì tâm hồn các ông mới có bình an khi đối diện với Chúa.
Với long bao dung, Chúa đã nhìn ra nhu cầu của các tông đồ trong lúc này là sự bình an của ơn tha thứ. Nếu Chúa sống lại nhưng không tha thứ cho các ông thì đời các ông sẽ ra sao? Liệu rằng các ông có dám ngước mắt nhìn thẳng vào Thầy hay lấm lét thẹn thùng đầy lo sợ, bất an như Adam – Eva trong vườn địa đàng năm nao?
Hãy học với Chúa để làm quen với những tiếng nói của im lặng nếu chúng ta muốn có được một đời sống gia đình an vui và hạnh phúc. Thiên Chúa đã không lên án Phê-rô kẻ đã chối Chúa. Thiên Chúa không kết án các môn đệ. Ngài chỉ mong các ông được sống mãi trong tình yêu của Ngài. Ngài đã yêu họ và yêu cho đến cùng.
Thật vậy, không phải là tố cáo và lên án mà chính là sự cảm thông và tha thứ mới có sức mạnh vô biên để mang lại cho con người niềm an vui và hạnh phúc trong tâm hồn. Chính vì lẽ đó mà cha ông ta đã nói:
“Chồng giận thì vợ bớt lời
Chồng giận, vợ giận, thì dùi nó quăng”.
Thế nên, đôi khi muốn giữ hạnh phúc gia đình thì cần phải:
“Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở rằng “anh giận gì?”
Nguyện xin Chúa Phục sinh hiện diện nâng đỡ các gia đình bằng sự bình an của Chúa. Xin cho các bậc vợ chồng biết sống nhịn nhục và tha thứ cho nhau như Chúa đã làm gương cho chúng ta. Amen.
56. Loan báo.
Kinh nghiệm đời thường cho chúng ta thấy: mỗi khi nhận được một tin vui, chúng ta thường chạy đi nói cho người khác được biết, để cùng chia sẻ niềm vui ấy với chúng ta. Chẳng hạn như khi nhận được tin mình vừa mới thi đỗ, thế là lập tức, chúng ta vội chạy về nhà để loan báo cho những người thân yêu cùng biết. Cũng vậy, trong phạm vi đức tin, việc Chúa sống lại là một tin mừng. Một khi đã đón nhận tin mừng Phục sinh thì chúng ta cũng có bổn phận phải loan báo tin mừng ấy cho những người chung quanh.
Trước hết, đây chính là ý muốn của Chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại. Ý muốn này được Ngài nói lên qua những lần hiện ra.
Thực vậy, thiên thần đã nói với những người phụ nữ đi viếng mồ vào buổi sáng ngày thứ nhất trong tuần rằng: Các bà đừng sợ chi cả, ta đã hiểu. Các bà tìm Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Nhưng Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại như lời Ngài đã phán. Hãy đến mà xem chỗ Ngài nằm. Vậy hãy về mau báo cho các môn đệ Ngài biết. Ngài đã sống lại, Ngài sẽ đến xứ Galilêa trước các ông. Nơi đây các ông sẽ xem thấy Ngài.
Rồi hôm nay, khi hiện ra với các môn đệ, Ngài cũng bảo: Có lời Kinh Thánh chép rằng Đấng Messia sẽ phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại. Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con sẽ làm chứng về những điều này.
Và sau cùng, trước khi về trời, Ngài cũng đã long trọng truyền cho các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều Thày đã truyền cho các con. Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Cũng trong Phúc âm, chúng ta thấy: những người đã được diễm phúc đón nhận Tin Mừng Phục sinh, đã mau mắn thực hiện lệnh truyền của Chúa, đó là loan báo Tin Mừng ấy cho người khác.
Thực vậy, những người phụ nữ đã trở về loan báo cho các môn đệ hay: Chúa đã sống lại. Hai môn đệ trên đường Emmaus cũng vậy, sau khi nhận ra Chúa lúc Ngài bẻ bánh, lập tức các ông đã chổi dậy, trở về Giêrusalem, và loan báo cho các môn đệ khác được hay: Chúa đã sống lại.
Và sau cùng, khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đệ đã lên đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho mọi dân mọi nước. Và các ông sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Tin Mừng ấy. Còn chúng ta thì sao? Chung ta đã làm được những gì để loan báo Tin Mừng Phục sinh cho những người chung quanh. Chúng ta đã làm được những gì để bản thân chúng ta trở thành chứng nhân cho tin mừng tuyệt vời ấy.
Hãy cầu nguyện cho mỗi người chúng ta, biết dùng lời nói và việc làm, nhất là đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương để loan báo tin mừng Phục sinh và trở nên những chứng nhân sống động cho Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
57. Didymo.
Thánh Tôma, còn được gọi là Didymo, đã không hiện diện với các tông đồ khác khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến. Vì thế, khi các tông đồ khác nói với các ông rằng họ đã thấy Chúa hiện ra với họ, thì ông không tin. Ong Tôma nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Thánh Tôma giống như những người đời nay vẫn thường nói: “Khi nào thấy, tôi mới tin”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lại hiện đến với các tông đồ một lần nữa ở Giêrusalem. Khi thấy Người, họ kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây”? Như vậy, Chúa Giêsu đang sống. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Người. Đức tin là lòng tin tưởng và phó thác. Chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu Chuộc chúng ta, Người đã bị kết án tử hình và chịu đóng đinh nhưng ngày thứ ba Người đã sống lại từ cõi chết.
Lòng tin của tôi vào Chúa Giêsu đa bị thử thách nhiều lần trong suốt mười năm tôi làm linh mục, nhưng cơn thử thách nặng nhất xảy ra khi tôi đã là linh mục được bảy năm.
Tôi thụ phong linh mục năm 1993, tại Maasim, tỉnh Sarangani. Trong bài giảng của lễ truyền chức linh mục cho tôi, Đức giám mục Gutierrez nói với dân chúng rằng trong các lễ truyền chức do ngài chủ phong thì chỉ lễ này là có đông phụ nữ tham dự như vậy. Mọi người nghe thế thì cười ồ lên. Đức Giám mục nói tiếp: “Vậy, những ai không muốn nghi thức truyền chức này được tiếp tục, xin hãy tiến lên đây và cho tôi biết lý do”. Một lần nữa mọi người lại cười ồ lên.
Sau nghi thức truyền chức linh mục, nhiều người vỗ tay chúc mừng tôi, tặng quà cho tôi, hôn bàn tay của tôi. Nhưng tháng 6/ 2000, nghĩa là bảy năm sau ngày chịu chức linh mục, những tiếng vỗ tay đã mờ nhạt đi. Người ta cư xử với tôi rất lạnh nhạt như thể tôi là thứ muối đã mất vị man, mặc dù tôi vẫn sống tốt, làm nhiều điều tốt. Rồi tôi đã đánh mất lòng nhiệt thành ban đầu. Thậm chí, đôi khi tôi đã nghĩ đến chuyện rời bỏ chức vụ linh mục.
Tuy nhiên, sau một cuộc hồi tâm phản tỉnh sâu xa, tôi nhận ra rằng sứ vụ linh mục của tôi không nên dựa vào những tiếng vỗ tay của dân chúng, những lời ca tụng và khen ngợi của họ. Điều cần nhất là phải dựa trên đức tin, lòng phó thác, sự vâng phục và tình yêu của tôi vao Thiên Chúa. Tôi cũng nói điều này với bạn. Nếu bạn muốn phục vụ Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người thì bạn đừng làm vì những tiếng vỗ tay và những lời khen ngợi của dân chúng, nhưng hãy làm vì niềm tin và tình yêu của bạn đối với Chúa và chỉ vì bạn khao khát thực hiện thánh ý của Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết tập trung vào một mình Chúa mà thôi.
58. Làm chứng
Việc Chúa sống lại không phải là một chuyện bịa đặt, một chuyện hoang đường, nhưng đây là một sự kiện lịch sử, vì có những chứng nhân bằng tai bằng mắt: lịch sử đã ghi lại việc Chúa chết thật và được tẩm liệm đàng hoàng, lịch sử đã ghi lại ngày Chúa Phục sinh, các thân hữu và cả những kẻ thù đã thấy mộ Chúa trống rỗng, lịch sử đã ghi lại sau khi Phục sinh, Chúa đã hiện ra nhiều lần.
Nếu muốn biết chắc chắn, rõ ràng những điều đó, chúng ta hãy mở sách Tin Mừng, đọc kỹ đoạn 28 của thánh Matthêu, đoạn 16 của thánh Marcô, đoạn 14 của thánh Luca và đoạn 20 của thánh Gioan. Tất cả bốn thánh sử này cùng quả quyết: Chúa đã chết trên thập giá, đã được tháo xác xuống tẩm liệm, đã được táng trong mộ và trước cửa mộ được che bằng một tảng đá lớn, rồi tất cả đều quả quyết: ngày thứ nhất trong tuần, tức là ngày Chúa nhật, Chúa đã sống lại.
Quả thực, Chúa Giêsu chết vào chiều Thứ Sáu, và ngày thứ bảy cuối tuần qua đi, rồi đen sáng sớm ngày đầu tuần lễ tiếp theo, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện ngôi mộ của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong đó, ai cũng tưởng thi hài Chúa đã bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế, nhưng chính hôm ấy, Chúa đã đến gặp các ông khiến các ông sửng sốt và sợ hãi, không tin nổi là Chúa đã sống lại. Nhưng sự thực là như vậy, các ông đã nhìn thấy tận mắt và sờ tận tay than xác Phục sinh của Chúa, chẳng hạn như câu chuyện kể lại trong bài Tin Mừng.
Trong khi các môn đệ còn đang hoang mang, lo lắng, tụ họp nhau trong phòng đóng kín, bàn tán về những chuyện đã xảy ra và đang xảy ra xoay quanh van đề Chúa chết và hiện ra với các phụ nữ và bà Maria Mađalêna vào sáng sớm hôm nay, tức là sáng sớm Chúa nhật Phục sinh, thì Chúa Giêsu hiện ra, đứng giữa các ông và chúc bình an cho các ông. Các ông hoảng hốt, sợ hai, tưởng là ma. Cảnh Chúa hiện ra này không khác gì cảnh một thủ lãnh trước các đảng viên phản bội và đào ngũ, thế mà không một lời than phiền, không một lời trách móc, ngay cả một lời bóng gió ám chỉ sự hèn nhát của các ông cũng không nốt, Chúa vẫn chúc lành cho các ông. Hơn nữa, Chúa còn làm mọi cách để giúp các ông tin chắc là Ngài đã sống lại, Ngài đang ở giữa các ông, đó là ba bằng chứng sau:
Trước hết, Chúa thuyết phục các ông bằng cách cho các ông nhìn xem tay và chân Ngài còn mang vết đinh để các ông thấy đúng là Ngài đang đứng trước các ông chứ không phải ai khác, rồi Chúa còn bảo các ông sờ vào thân thể Ngài và nhìn cho kỹ để thấy rằng Ngài không phải là ma quái hiện hình hay là do ảo tưởng của các ông. Tiếp đến, Chúa đã đưa thêm bằng chứng để thuyết phục các ông. Ngài hỏi các ông có gì ăn không? Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng, Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mắt các ông. Với cử chỉ này, Ngài muốn họ tin chắc rằng: Ngài không phải là ma hiện hình. Sau cùng, Chúa thuyết phục các ông bằng một bằng chứng khác nữa, đó là lời Sách Thánh, Chúa nhắc lại cho các ông nhớ Sách Thánh đã báo trước: “Đức Kitô phải chịu đau khổ và chết nhục nhã, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại”. Thế nghĩa là những lời Sách Thánh đã nói đều ứng nghiệm nơi Ngài. Sau khi đã đưa ra tat cả những bằng chứng cần thiết chứng minh Ngài đã sống lại thật sự, Chúa bảo các ông hãy đi làm chứng về tất cả những điều ấy cho mọi người.
Như vậy, các tông đồ, các môn đệ đã có kinh nghiệm bản thân về cuộc đời cũng như về mầu nhiệm Phục sinh của Chúa, nên các ông là những chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về Chúa, nên Chúa bảo các ông hãy làm chứng về những điều ấy, tức là việc làm của Ngài đã hoàn tất, bây giờ đến lượt các ông phải nối gót Ngài hoàn thành công tác cứu chuộc nhân loại. Nhân loại cần được nghe biết và tin vào Chúa để đạt ơn cứu độ, các môn đệ phải làm chuyện đó và lịch sử đã cho thấy các ông đã thực thi vượt mức vai trò chứng nhân ấy.
Từ đó đến nay, luôn có những lớp chứng nhân mới, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng Chúa đã chết và sống lại. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta không tin Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta thì chúng ta không phải là Kitô hữu, và một khi chúng ta đã tin thì đồng thời chúng ta phải loan báo cho người khác niềm tin đó nữa, đó là mục đích và lý tưởng cuộc đời Kitô hữu của chúng ta.
Nói rõ hơn, chúng ta phải rao giảng và làm chứng cho Chúa, bằng cách đem tinh thần đức tin vào trong ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta và đem tinh thần Tin Mừng vào mọi dịch vụ, mọi công tác của chúng ta, tức là phải đem tinh than đức tin, tinh thần Tin Mừng vào trong cuộc sống qua những việc làm hàng ngày, qua nghề nghiệp, qua các giao tiếp với người khác, và qua cả những lúc vui chơi, giải trí. Nói tóm lại, chúng ta phải làm chứng cho Chúa, cho đao bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người, một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, chúng ta cần thuyết phục những người chưa có đạo, những người không hiểu về chính nghĩa của đạo bằng chính đời sống tốt đẹp, dù chúng ta không nói hay chưa làm gì cả. Xin mỗi người hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa và cho đạo không?
59. Đau khổ.
Chớ thì Đức Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồ mới được vinh quang. Đức Kitô đã đi con đường đau khổ để tiến tới vinh quang, đã đi con đường thập giá để tiến tới Phục sinh. Là môn đệ của Ngài, chúng ta cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường đau khổ và thập giá, nếu như chúng ta muốn được cứu độ.
Đúng thế, đã là người thì ai cũng phải đau khổ và thập giá không bao giờ thiếu vắng trong cuộc đời chúng ta. Người xưa đã nói:
- Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,
Đời có vui sao chẳng cười khì.
Giáo lý nhà Phật thì diễn tả thân phận con người như một cánh bèo trôi dạt trên bể khổ.
Vậy thì đâu là những nguyên nhân gây nên đau khổ?
Trước hết, đau khổ có thể là bởi thiên nhiên.
Chẳng hạn như lụt lội, bão táp, hạn hán, mất mùa… Bất kỳ ở đâu và bất kỳ thời buổi nào cũng có. Khoa học và kỹ thuật chỉ làm giảm đi phần nào, chứ không thể chặn đứng được tất cả.
Tiếp đến đau khổ có thể do lòng gian tham độc ác của con người.
Đau khổ có thể do bởi người khác, chẳng hạn như bỏ vạ cáo gian, ăn trộm ăn cắp mà gây nên. Đau khổ còn có thể do bởi chính bản thân mình, chẳng hạn vì đam mê cờ bạc, rượu chè chơi bời mà sinh ra nghèo túng bệnh tật, vì bất cẩn trong lời nói và trong việc làm mà sinh ra tai nạn.
Và sau cùng đau khổ cũng có thể do chính Thiên Chúa.
Sở dĩ như vậy vì Ngài muốn thử thách để con người chúng ta được trưởng thành và đem lại những lợi ích siêu nhiên, như tục ngữ cũng đã bảo:
- Lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Khi yêu thương ai chúng ta thường trao tặng họ những bông hồng, còn Thiên Chúa khi yêu thương ai, Ngài thường gửi đến cho họ những đau khổ và thử thách.
Đúng theo kiểu:
- Yêu cho roi cho vọt,
Ghét cho ngọt cho bùi.
Hẳn rằng trong chúng ta chẳng ai muốn cho mình bị đau khổ, chính Chúa Giêsu trong vườn cây dầu cũng đã cầu nguyện:
- Lạy Cha xin cất chén đắng này cho con, nhưng không theo ý con, một theo ý Cha mà thôi.
Tuy nhiên nhiều khi chúng ta đã đề phòng cẩn thận mà vẫn không tránh khỏi tai ương. Trong những trường hợp như thế, chúng ta chỉ còn một cách, đó là cúi đầu chấp nhận. Nhưng làm thế nào để dễ dàng chấp nhận, để tìm được niềm an ủi trong những giờ phút đen tối ấy?
Trước hết hãy nhớ rằng không phải chỉ có một mình chúng ta bị đau khổ. Đang lúc chúng ta bị thử thách thì cũng có biết bao nhiêu người bị đau khổ.
Hãy vào một bệnh viện, giữa những tiếng rên la, chúng ta cảm thấy mình còn được hạnh phúc và may mắn hơn rất nhiều.
Nhất là hãy nhìn lên thập giá, chúng ta sẽ thấy chính Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Khi phải đối mặt với những đau khổ, nếu chúng ta hậm hực tức tối, thì đau khổ vẫn phải chịu mà chẳng đem lại lợi ích chi cả, nó còn là nguyên nhân gây nên những tội lỗi khác nữa.
Trái lại, nếu chúng ta can đảm chấp nhận và nhất là chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, thì những đau khổ ấy sẽ đem lại lợi ích cho chúng ta. Biết đâu, nhờ những đau khổ mà chúng ta sẽ ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Thiên Chúa.
Đau khổ là một lưỡi kéo của người thợ, cắt tỉa những cành cây để nhờ đó chúng sẽ được sai trái hơn. Đau khổ là như một nhát búa của người nghệ sĩ đập xuống cuộc đời chúng ta để biến nó trở nên một tác phẩm nghệ thuật.
Đau khổ là như một lưỡi cày, xới tung tâm hồn chúng ta đe nó trở nên màu mỡ và dễ dàng hấp thụ ơn sủng của Thiên Chúa.
Đức Kitô đã đi con đường thập giá để tiến tới Phục sinh, thì chúng ta cũng vậy, muốn tiến tới vinh quang, chúng ta cũng phải tôi luyện trong đau khổ.
60. Làm chứng.
Chúa Giêsu chết vào chiều thứ sáu, rồi cả ngày thứ bảy cuối tuần qua đi yên tĩnh, không có chuyện gì xảy ra. Nhưng đến sớm ngày đầu tuần kế tiếp, tức là ngày thứ ba kể từ hôm Chúa chết, người ta phát hiện mo của Ngài trống rỗng, xác Ngài không còn trong mộ. Ai cũng tưởng thi hài Ngài bị đánh cắp, kể cả các môn đệ của Ngài cũng nghĩ như thế. Nhưng liền sau đó và cả ngày hôm ấy, Ngài hiện ra với người này người kia và cả với các môn đệ. Tất cả đều được kinh nghiệm tay sờ, mắt thấy, tai nghe. Tất cả đều xác nhận: Chúa Giêsu đang sống.Cụ thể như câu truyện kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay: Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ. Dien tiến cảnh Chúa hiện ra này gồm có hai phần: Phần thứ nhất, Chúa dùng những hành động cụ thể để minh chứng Ngài đã sống lại thật sự. Phần thứ hai, Chúa trao cho các môn đệ một sứ mệnh mới: hãy làm chứng về việc Chúa Phục sinh cho mọi người. Về việc Chúa sống lại, chúng ta đã tìm hiểu nhiều lần rồi, hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu phần thứ hai: các tông đồ đã thi hành sứ mệnh làm chứng cho Chúa Phục sinh thế nào? Làm chứng là gì?
Lam chứng là nhận thực một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xảy ra, một sự kiện có thật mà chính mình đã thấy, đã trải qua. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.Hiểu như vậy, các tông đồ là nhưng chứng nhân đầu tiên và chắc chắn về cuộc đời của Chúa Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa. Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Chúa Giêsu đều bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh. Phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chua có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.Sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu Thế… các tông đo đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và đã sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.Bằng lời nói, các ngài rao giảng mà không sợ bất cứ một áp lực hay một sự đe dọa nào. Mỗi khi rao giảng, các ngai thường hiên ngang tuyên bố: “Chúng tôi xin làm chứng”. Dù đứng trước tòa án cấm đoán, dọa nạt, các ngài vẫn khẳng khái thưa: “Xin quí vị xét cho, phần chúng tôi, chúng tôi không thể không nói về những điều đã thấy, đã nghe”.Không những làm chứng bằng lời nói, các ngài còn làm chứng bằng việc làm, bằng chính đời sống của mình: sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực, đòn vọt, tù ngục, và sẵn sàng chết vì Chúa Giêsu. Sau 12 tông đồ, lại có biết bao lớp tông đồ khác, trải qua các thời đại, tiếp nối sự nghiệp loan báo Tin Mừng và làm chứng nhân cho Chúa Giêsu.Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Mỗi người giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, nhất là phép thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Chúa. Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta. Anh chị em nghĩ sao về câu nói: “Tôi đã đọc Tin Mừng, cuốn sách hay quá. Đức Giêsu là một vị đáng khâm phục. Nhưng tôi sẽ không bao giờ trở nên người tín hữu của ông ta, vì nhiều người Công giáo tôi gặp, họ không thực hiện bác ái Đức Kitô, họ không tuân giữ những điều Ngài dạy, và họ chỉ mang danh là Công giáo chứ không phải là người Công giáo thực sự”. Chúng ta có vào số những người Công giáo đó không? Chúng ta có phải là một tông đồ, một chứng nhân cho Chúa không?
61. Vâng lời.
Các bài đọc hôm nay đáng để chúng ta suy niệm từng câu từng chữ, nhất là khi chúng ta đặt mình vào cương vị của Phêrô và của các tông đồ. Đó là sự can đảm rao giảng Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, loan truyền giáo lý của Người bất chấp mọi đàn áp.Bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông đồ Công vụ kể rằng, khi các tong đồ rao giảng Chúa Giêsu Phục sinh, những người cầm quyền Do thái không cho, bắt các ngài bỏ tù, lấy cớ rằng các ngài loan truyền điều mê tín và khuấy rối trị an. Sau đó, có người đã lén cứu các ngài ra khỏi tù, nhưng ra khỏi tù các ngài không chạy trốn, không đầu hàng theo họ mà lại còn mạnh mẽ rao giảng giáo lý của Chúa Giêsu. Nhà cầm quyền thẳng tay làm việc với các ngài, chỉ vào mặt các ngài và bảo: “Ta đã ra lệnh cấm các ngươi không được nhân danh ông Giêsu mà giảng dạy, thế mà các ngươi đã giảng dạy giáo lý đó khắp cả Giêrusalem”. Bấy giờ Phêrô và các tông đồ thưa: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Bực tức, họ ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Chúa Giêsu mà giảng dạy nữa. Dầu bị nhục nhã như thế, nhưng các ngài nói rõ là lòng các ngài cảm được sự hân hoan, vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu.
Ôi! Bài học quí giá đó của các tông đồ đáng nêu gương cho chúng ta trước mọi thế lực cố ý tiêu diệt, hạn chế gây khó khăn cho đời sống đức tin của chúng ta. Các tông đồ đã trả lời và đã dạy dứt khoát: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Và khi bị thế lực của bóng tối, của sự dữ, của ma quỉ bách hại, lòng các ngài cảm thấy hân hoan, vì thấy mình được danh dự chịu sỉ nhục vì danh Chúa Kitô, đường lối của các tông đồ thật rõ ràng.
Bóng tối là bóng tối, ánh sáng là ánh sáng. Khi phải vâng lời Thiên Chúa để rao giảng Tin Mừng, các ngài cương quyết không nhượng bộ mọi thế lực thâm độc cản trở những bước chân rao giảng của các ngài. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Khi phải vâng lời Thiên Chúa đến phục vụ anh chị em mình, các ngài sẵn sàng quên mình, hy sinh để bênh vực cho anh chị em được tự do tôn thờ Chúa, đươc sống trọn vẹn quyền làm người và làm con Chúa. “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Nhất là khi người đó lại là cáo già đội lốt cừu non đến cùng đoàn chiên, như Chúa Giêsu đã chỉ dạy trước. Trong cong việc phụng thờ Chúa, phục vụ anh chị em của mình và giả như có bị đàn áp, bị bách hại, người vâng lời Thiên Chúa phục vụ luôn cảm thấy hân hoan tận cõi lòng. Vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa Giêsu, và không bao giờ cảm thấy mặc cảm, hèn nhát của người hùa theo sự dữ, để được yên thân, để hưởng những đặc quyền đặc lợi.
Sang bài đọc thứ hai, sách Khải Huyền cho thấy con người đặt niềm tin vào Chúa là con người xây nha mình trên đá. Mọi vua chúa trần gian đều chết ra tro. Mọi đế quốc của trần gian đều sụp đổ tan tành, không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Mọi bạo quyền đều bị lịch sử lên án và kinh tởm như một vết nhơ bẩn thỉu của nhân loại. Chỉ có Thiên Chúa được chúc tụng đến muôn đời và những ai trung thành với Ngài được vinh quang trường cửu. Và để mở cho mọi người một nhãn giới lạc quan, sách Khải Huyền quả quyết Thiên Chúa sẽ hiển trị, mọi quyền lực thế trần không thể chống lại chương trình của Chúa. “Ai giơ chân đạp mũi nhọn thì khốn cho người ấy”. Phần Thiên Chúa, Ngài luôn được chúc tụng, được danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn đời.
Bài Phúc Am đem lại cho chúng ta một hy vọng thật to lớn, đó là hy vọng vào quyền năng Phục sinh của Chúa biến đổi tất cả mọi sự, kể cả những việc mà chúng ta cho là tầm thường, để đem lại những kết quả giá trị. Thân xác hay chet của Chúa Giêsu từ lúc nhập thể làm người đã được biến đổi thành thân xác vinh quang Phục sinh và với quyền phép, Người đã cho các tông đồ một mẻ lưới đầy cá to. Từ một việc tầm thường của người chài lưới, nhưng vì làm theo lời chỉ dạy của Chúa, các tông đồ đã bắt được rất nhiều cá. Hơn nữa, hành động đó còn có một ý nghĩa tiên tri cao quí hơn, đó là các tông đồ sẽ là những kẻ lưới người và công việc của các ngài sẽ được kết quả mỹ mãn, khi các ngài luôn tuân theo thánh ý của Chúa.
Sau cùng, chính thánh Gioan trong bài Phúc Am cho chúng ta một bài học quan trọng là nhìn vào kết quả của việc mình làm, không bao giờ tự hào do sức do tài của mình mà làm nên, nhưng nhận ra ngay sự hiện diện của Chúa. Khi thấy mẻ cá lạ lùng, thánh Gioan hiểu ngay sự hiện diện của Thầy và bảo cho các người khác biết rằng: “Chính Chúa đó!”. Biết được Chúa hiện diện trong đời sống mình và luôn truyền ban sự hiện diện đó cho mỗi người là bổn phận của chúng ta, những người có đức tin, những người môn đệ của Chúa.
Vậy, để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ để ý đến đời sống đức tin của tôi. Tôi sợ Chúa hay tôi sợ người đời? Tôi vâng lời Chúa hay tôi vâng lời người đời? Và tôi hãy nhìn vào đời sống của các tông đồ, của các thánh tử đạo để sống đức tin của tôi mọi ngày trong đời sống, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
62. Ngăn cản.
Trong buổi tối ngày Chúa nhật Phục Sinh, các tông đồ tụ họp trong một căn phòng ở tầng trên, các cánh cửa đều đóng kín. Trong căn phòng này, tâm hồn cac ông đầy nỗi ám ảnh vì sự vắng mặt của Đức Giêsu, và đầy những ký ức đắng cay – ngọt ngào về Người. Chính tại nơi đây, Vị Thầy đã rửa chân cho họ, và cử hành bữa Tiệc Ly với họ. Nhưng cũng chính tại nơi đây, họ đã thề hứa trung thành với Người, một sự trung thành mà thậm chí ngay trong đêm hôm đó họ đã vi phạm.
Các tông đồ đều bị thương tích theo tính cách cá nhân – do nỗi sợ hãi, hoài nghi, tội lỗi, đau khổ và thất vọng. Nhưng họ cũng bị thương tích theo tính cách tập thể nữa, bởi vì sự hiệp nhất giữa họ đã bị phá vỡ: có hai người trong số họ vắng mặt, một người bị chết (Giuđa), người kia thì đang bị khủng hoảng đức tin (Tôma). Giống như tất cả những người đang đau khổ, họ đã tạo ra một hàng rào chung quanh họ.
Đức Giêsu không chờ đợi họ đến với Người. Người đã đến với họ, trong khi họ vẫn còn đang sợ hãi và đầy tội lỗi (do sự hèn nhát và phản bội của họ). Bằng một động tác mạnh mẽ, Người đã bẻ gãy hàng rào đó, và đến đứng giữa họ. Người không la rầy, hoặc thậm chí quở trách họ, vì đã không làm tròn phận sự đối với Người. Ở đây không hề có cảnh la rầy, buộc tội. Người biết cảm giác của họ ra sao, do đó, Người không hề đụng chạm vào những vết thương của họ. Thay vào đó, Người đã mang lại cho họ điều mà họ cần một cách tuyệt vọng. Người nói với họ “Bình an cho anh em”. Người nói câu nay không chỉ một lần, mà đến hai lần, để đảm bảo rằng câu nói đó thấm sâu vào tâm hồn họ. Trong khi đón nhận sự bình an của Người, thì họ cũng được đón nhận cả ơn tha thứ nữa.
Đột nhiên, một điều vĩ đại nhất và tuyệt vời của ơn bình an đánh động tâm hồn họ: cái chết, sự dữ và sự phản bội đã bị chế ngự. Lòng tốt, tình yêu, sự sống đã chiến thắng. Đức Giêsu khiêm tốn đã chiến thắng, vượt lên trên tất cả những sức mạnh của sự dữ đã từng dàn hàng chống lại Người. Một cuộc khởi sự tươi mới có thể diễn ra. Kết quả là tâm hồn họ được tràn đầy niềm vui.
Phương pháp của Đức Giêsu thật êm dịu. Nơi Người, không hề có nét khắc nghiệt. Đức Giêsu khiem tốn, Đấng chiến thắng vượt lên trên cái chết, đã ban lòng can đảm cho các tông đồ hiện đang bị nghiền nát của Người, chữa lành những vết thương, đổi mới niềm hy vọng của họ, ban sự sống và sức mạnh cho họ. Từ tình trạng hoàn toàn sụp đổ và thất bại, xuất hiện một nét gì đó mới mẻ một cách và dứt khoát. Kết quả là họ không chỉ tin tưởng nơi Đức Giêsu, mà còn có lòng tự tin nữa. Thật là một niềm vui khi đồng thời vừa được nhận biết, vừa được yêu mến một cách trọn vẹn.
Biến cố Phục sinh không lấy đi nỗi đau khổ, hoặc loại trừ nỗi sợ hãi của chúng ta. Nhưng sự Phục sinh giới thiệu một yếu tố mới cho cuộc sống, đem lại ý nghĩa và soi sáng cho nỗi đau khổ của chúng ta bằng niềm hy vọng. Tất cả đều trở nên khác biệt, bởi vì Đức Giêsu đang sống động và nói những lời nói ban bình an cho chúng ta, giống như Người đã từng nói với các tông đồ. Khi bị sa ngã vì những thử thách và cám dỗ, chúng ta có thể rút ra được lời động viên từ câu chuyện các môn đệ của Đức Giêsu, tất cả họ đều đã từng bị sa ngã trong suốt cuộc khổ nạn của Người.
Do đó, giữa chúng ta có một niềm vui âm thầm và một cảm giác an bình, bởi vì chúng ta biết rằng sự sống mạnh mẽ hơn cái chết.
63. Tôi tin – Lm Anphong Trần Đức Phương
Có một thời gian tôi được hân hạnh chung sống với một số vị linh mục, trong đó có một Cha đã từng đi du học ở Rôma và có dịp đi nhiều nơi trên thế giới. Về Việt Nam, Cha đã dạy Thần Học nhiều năm ở các Đại Chủng viện. Lúc đó Cha đã lớn tuổi và về hưu. Qua các câu chuyện hằng ngày, Cha đã chia sẻ nhiều kinh nghiệm qúy giá về cuộc sống Đức Tin của Cha. Mỗi lần kết thúc câu chuyện, Cha đều chắp tay nói: Tất cả là chữ "Credo!" (Tôi Tin!).
"Tin" là bước khởi đầu khó khăn nhất để nhận ra Thiên Chúa hiện hữu, vừa là Đấng Tạo Hóa, vừa là Cha chúng ta, và để tin Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật, đã chịu chết trên Thánh Giá, đã chịu táng trong mồ, nhưng thực sự đã sống lại và đã về Trời để mở đường về Trời cho chúng ta.
Đức Tin thật sự là một ân huệ Chúa thương ban cho những ai biết sống khiêm tốn và biết lắng nghe tiếng Chúa nói qua lòng mình.
Các Tông Đồ dù đã sống với Chúa, dù đã được Chúa nói trước về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, nhưng vẫn thật khó tin việc một người chết treo trên Thập Giá, đã an táng trong mồ, mà đã sống lại thật.
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta thấy "Tôma chỉ tin thật Chúa đã sống lại khi nhìn thấy tận mắt 'chân tay và cạnh sườn Chúa' (Gioan 20,24...). Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này (Luca 24, 35-48), chúng ta thấy hai môn đệ chán nản, bỏ cuộc trở về qê hương Emmau; Chúa Phục Sinh đã hiện ra, đi đường và đàm đạo với các ông 'như một người đồng hành' mà các ông vẫn không nhận ra, cho đến khi cùng ngồi bàn ăn và thấy cử chỉ 'người khách đồng hành' cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng và trao cho các ông!... Bấy giờ mắt các ông mới mở ra và nhận ra là Chúa!... Hai ông quá vui mừng vì đã thấy Chúa sống lại thật, ngay đêm khuya, vội vã trở về Giêrusalem thuật lại câu chuyện cho các Tông đồ khác. Lúc đó, Chúa Phục sinh lại hiện ra với các ông, thế mà các ông "vẫn hoảng sợ, tưởng là ma!"(Luca 24,37).
Vì thế, trong Bài Đọc I (Cv. 3, 13-15, 17-19), Thánh Phêrô đã trưng dẫn tất cả những lời tiên tri căn bản trong Cựu Ước để chứng minh cho dân chúng có thể tin nhận "Chính Đấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại." Và trong Bài Đọc II (1 Gioan 2, 1-5), Thánh Gioan đã cũng nhắc nhở chúng ta việc Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại: "Chính Ngài là của lễ đền tội cho chúng ta; mà không phải chỉ nguyên cho chúng ta mà thôi, mà còn đền tội cho cả thế giới!"
Trong Đêm Thánh Vọng Phục Sinh, chúng ta đã chứng kiến nhiều anh chị em (Riêng tại Hoa Kỳ năm nay đã có khỏang 150 ngàn người, kể cả vị Cưu Chủ Tịch Hạ Viện Newt Gingrich - năm ngoái có Cựu thủ TướngAnh Quốc Tony Blair) sau bao ngày tháng tìm hiểu giáo lý đã quyết tâm xin chịu phép Thánh Tẩy và chính thức gia nhập Giáo Hội Chúa. Trong nghi lễ rất cảm động, trước khi được chịu phép Thánh Tẩy, tất cả đã tuyên bố từ bỏ tội lỗi và nếp sống trần tục; sau đó đã long trọng tuyên xưng "TÔI TIN!" sau ba câu hỏi căn bản về Đức Tin: "Anh chị em có tin kính Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất không?", "Anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, Chúa chúng ta, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria, đã chịu khổ hình và mai táng, đã sống lại từ cõi chết và đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha không?", "Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh Công Giáo, tin các Thánh Thông Công, tin Phép Tha Tội, tin xác loài người sẽ sống lại, và sự sống đời đời không?"
Tất cả tín hữu chúng ta đã được chịu Phép Thánh Tẩy trong Đức Tin căn bản đó, và mỗi Thánh Lễ cuối tuần, khi chúng ta cùng họp mặt để thờ phượng Chúa, và học hỏi Lời Chúa, chúng ta đều cùng nhau tuyên xưng Đức Tin qua Kinh Tin Kính: "Tôi tin kính một Thiên Chua..."
Vậy, mỗi khi chúng ta dự Lễ Thánh Tẩy trẻ em hoặc người lớn, cũng như trong Thánh Lễ cuối tuần, khi tuyên xưng Đức Tin, chúng ta hãy luôn ý thức lời tuyên xưng của chúng ta, và xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống Đức Tin của chúng ta qua việc thực hành Đức Bác Ái trong niềm Trông Cậy vững chắc vào cuộc sống đời đời Chúa đã hứa ban.
64. Tình yêu.
Có một người đàn ông rất gắn bó với cha mình, vốn là một người lao công trong suốt ca cuộc đời. Khi người cha qua đời, người con rất đau khổ. Trong lúc anh đứng yên nhìn vào cỗ quan tài mà người cha được đặt nằm tại đó, đôi bàn tay của cha anh làm cho đặc biệt xúc động. Ngay cả những điều thật nhỏ bé cũng có thể bộc lộ được nét chính yếu nơi cuộc đời của một con người. Sau này, anh nói:
“Tôi sẽ không bao giờ quên được đôi bàn tay già nua giãi dầu mưa nắng tuyệt vời đó. Chúng nói lên câu chuyện cuộc đời của một người nông dân, bằng loại ngôn ngữ hùng biện của những nếp nhăn, những mạch máu, những vết sẹo cũ và mới. Đôi bàn tay của cha tôi luôn luôn mang một số vết trầy xước hoặc vết cắt mới, giống như một loại đồ trang trí, do ong vừa mới vác một đống dây thép phế liệu, một ống sắt han rỉ, một bộ rễ cây cồng kềnh. Đến khi chết, đôi bàn tay của cha tôi vẫn không làm ai thất vọng, thậm chí ngay cả đối với những chi tiết nhỏ bé và có ích như vay.
“Không phải chỉ những người con trai mới nhận biết tất cả mọi sự từ cha của họ. Nhưng trong trí nhớ của tôi, tôi đã từng nhìn thấy đôi bàn tay đó cung cấp chứng cứ về những nghĩa vụ mà cha tôi gánh vác, những giọt mo hôi mà ông đổ ra, những việc làm đầy vinh dự mà ông đã thực hiện. Khi nhìn vào đôi bàn tay đó, bạn có thể đọc được một phần nào về tấm lòng của cụ già này”.
Đức Giêsu đã nói với các tông đồ “Hãy nhìn vào tay chan của Thầy… Cứ sờ tay vào Thầy và nhìn đi”. Rồi Người nói với Tôma “Hãy nhìn xem những vết thương ở hai bàn tay và cạnh sườn của Thầy. Đừng cứng lòng nữa, và hãy tin đi”.
Người ta có thể mong ước được nhìn thấy thân thể của Đức Giêsu sống lại trong sự toàn vẹn và không có một vết nhơ nào. Tuy nhiên, không những thân xác của Người vẫn còn dấu vết, mà chính nhờ những dấu vết đó, đã giúp cho các môn đệ nhận ra Người. Những dấu vết đo chính là những vết thương của Người cho các tông đồ. Tại sao lại là những vết thương của Người? Trước hết, những vết thương đó chứng tỏ rằng Đức Giêsu sống lại cũng chính là Đấng đã chịu đóng đinh. Thứ hai, những vết thương đó là bằng chứng về tình yêu của Người. Trong suốt cuộc sống của mình, những ai chăm sóc người khác, thì hay bị nhiều vết thương. Có lẽ đó không phải là những vết thương lớn, mà chỉ là một loạt những vết thương nhỏ – những vết trầy xước, vết nhăn, và vết sưng. Tuy nhiên, đó chỉ là những vết thương nhìn thấy được. Thế còn vô số những vết thương vô hình: những nếp nhăn để lại trong tâm trí và tâm hồn, do nỗi đau khổ, lo lắng và băn khoăn khắc khoải thì sao? Rồi còn những vết thương xuyên thấu, ảnh hưởng đến phần nhạy cảm nhất nơi con người chúng ta – trái tim – những vết thương lòng chẳng hạn như những nỗi thất vọng, vô ơn, phản bội. Nỗi đau tình cảm đanh vào tận tâm can bạn, và có thể còn khó giải quyết hơn, so với những vết thương về mặt thể lý. Nhưng những vết thương này không có gì khiến cho chúng ta phải xấu hổ cả. Chúng là bằng chứng về tình yêu của chúng ta. Liệu sẽ có người nào nhìn thấy những vết thương này, và tin tưởng vào tình yêu của chúng ta đối với họ không? Thậm chí nếu không ai nhìn thấy, thì Thiên Chúa nhìn thấy, và Người tự hào về chúng ta, bởi vì Người nhận thấy rằng chúng ta nên giống như Con của Người. Chúng ta không được chỉ nhìn vào thành tích của một người, mà còn phải nhìn vào những vết thương và vết sẹo trong tâm hồn của họ nữa.
Đức Giêsu không hề che giấu những vết thương của Người, bởi vì đó là bằng chứng về tình yêu của Người. Đó là những vết thương mà Chúa Chiên Lành đã chịu đựng, trong khi bảo vệ đàn chiên khỏi chó sói. Người mời gọi các tông đồ sờ tay vào những vết thương đó. Chính khi đụng chạm vào và được đụng chạm vào, mà họ được chữa lành khỏi bệnh cứng lòng tin của họ. Những vết thương của Người ban cho chúng ta niềm hy vọng trong những vết thương của chúng ta.
Đức Giêsu đã không trở nên cay đắng do những vết thương của Người. Chúng ta cũng nên giống như vậy. Sau khi đã mang lại bình an và chữa lành cho các tông đồ, Đức Giêsu giao phó cho họ sứ vụ ra đi và đem tin vui đến cho những người khác. Đức Giêsu mong muốn chúng ta trở nên những chứng nhân cho sự sống lại của Người. Một con người buồn bã, cay đắng là một chứng nhân nghèo nàn.
65. Tái sinh.
Có một tài xế xe lửa, mỗi ngày đều lái xe lửa đi tới đi lui trên cùng một đường ray. Ở cách đường tàu một quãng ngắn, có một ngôi nhà tranh nhỏ bé xinh xắn. Những bức tường màu trắng của ngôi nhà tranh sáng bừng lên dưới ánh sáng mặt trời. Phía trước ngôi nhà tranh, có trồng những cây hoa hồng đẹp tuyệt vời, mà anh chưa bao giờ nhìn thấy. Ngôi nhà tranh này mang một nét gì đó, khiến cho người ta cứ tưởng tượng là chỉ tồn tại trong bức tranh của những tấm bưu thiếp mà thôi. Chẳng bao lâu, người tài xế đó cảm thay yêu mến ngôi nhà tranh này.
Vào một buổi chiều, khi chạy ngang qua đó, anh nhìn thấy một cô bé gái đang chơi phía trước sân cỏ. Khi xe lửa chạy qua, cô bé vẫy tay với anh. Người tài xế đó bóp còi đáp lại. Chiều hôm sau, cũng xảy ra giống như vậy. Từ đó, bắt đầu có một tình bạn trong sáng và đẹp đẽ giữa anh và cô bé. Cứ mỗi buổi chiều, cô bé đều vẫy tay với anh, rồi anh lại bóp còi đáp trả. Đôi khi, còn có mẹ của cô bé cùng đi, va cả hai người cùng vẫy tay chào anh. Điều này khiến cho anh rất vui, và cũng làm cho cuộc hành trình buồn tẻ của anh dường như được rút ngắn lại.
Nhiều năm trôi qua, cô bé lớn lên. Hiện nay chỉ thỉnh thoảng, cô mới có mặt ở đó để vẫy tay với anh. Tuy nhiên, mối quan hệ của họ càng ngày càng thâm sâu thêm theo năm tháng vẫn còn nguyên vẹn, không hề bị sứt mẻ. Thế rồi người đàn ông đó về hưu, và đến sống tại một nơi thật xa. Nhưng ông không hề xua đuổi ra khỏi tâm trí mình hình ảnh của ngôi nhà tranh và hai người bạn của ông. Vì thế, một ngày kia, ông quyết định đến thăm viếng họ.
Khi đến đó, mọi sự đều rất khác biệt, so với những gì mà ông tưởng tương. Nhưng bức tường của ngôi nhà tranh hầu như không có màu trắng như ông nghĩ. Những cây hoa hồng trông không đẹp rực rỡ như ông tưởng. Nhưng khi ông gặp người phụ nữ và cô con gái của bà, thì một nỗi thất vọng thấm thía nhất đến với ông.
Khi ông tự giới thiệu mình, thì họ cư xử rất lịch sự với ông. Họ mời ông đi vào một phòng khách tối tăm, để nói chuyện và uống trà. Nhưng ông cảm thấy không muốn ở đó. Vì thế, ông muốn ra về ngay khi ông có thể làm được điều đó một cách lịch sự. Ông cảm thấy tâm hồn mình trống rỗng. Thế giới giấc mơ của ông đã bị tan rã. Tình bạn vốn đem lại rất nhiều ý nghĩa cho cuộc đời của ông đã bị phá hủy.
Chúng ta cảm thấy tiếc cho người tài xế xe lửa đó. Tuy nhiên, đó cũng là do lỗi của ông. Ông đã sống trong thế giới của giấc mơ. Ông theo đuổi một ảo tưởng.
Nhiều người theo đuổi ảo tưởng về một Đấng mêsia vinh quang, không thể đau khổ được. Khi Đức Giêsu chịu đóng đinh, thì ảo tưởng đó bị phơi ra, và thế giới của họ bị sụp đổ. Họ phản ứng bằng cách tự cách ly mình phía sau những cánh cửa đóng kín.
Chỉ đến khi Đức Giêsu hiện ra với họ, và tâm trí của họ đến với một chân lý mới, thì giấc mơ của họ mới được tái sinh. Chân lý mới này là gì vậy? Chính thông qua nỗi đau và cái chết của Người, mà Người mới đi vào vinh quang. Phải mất một thời gian, họ mới thấm nhuần đươc điều này, nhưng sau khi đã thấm nhuần rồi, thì họ biết rằng ngay cả cái chết cũng không thể bẻ gãy được mối dây ràng buộc đã gắn bó giữa Đức Giêsu và họ trong suốt ba năm.
Biến cố Phục sinh mang ý nghĩa rằng Đức Giesu vẫn đang sống, và chúng ta cũng có thể được gặp gỡ Người trong lòng tin. Chúng ta gặp gỡ Người một cách đặc biệt trong “việc bẻ bánh”, nghĩa là trong phép Thánh Thể. Người sẽ không cách ly chúng ta ra khỏi thực tế cuoc sống. Nhưng Người sẽ ở với chúng ta tại chỗ nào chúng ta sống, giúp đỡ chúng ta biết mang ý nghĩa và nét đẹp đến cho cuộc sống của chúng ta, đặc biệt trong những lúc đau khổ và tối tăm. Và giống như các tông đồ, chung ta cũng được Người giao phó sứ vụ mang Tin Mừng đến cho những người khác.
66. Cảm nghiệm.
Vào chính ngày Đức Giêsu sống lại, có hai môn đệ chán nản rời Giêrusalem để về làng Emmau. Thánh Luca cho biết tên một người, đo là Clêôpát. Còn người kia thì Luca không nói tên. Chắc chắn không phải vì ông không biết, nhưng có lẽ vì người thứ hai ấy chính là Luca, hoặc cũng có thể vì một lý do gì khác. Nhưng đồng thời người kia còn có thể là bat cứ ai trong chúng ta. Vậy chúng ta hãy đi vào tâm trạng của người môn đệ ấy, và chia xẻ những cảm nghiệm của ông.
“Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán thì chính Đức Giêsu tiến đến gần và cùng đi với họ. Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản nên không nhận ra Ngài”: Đây là cảm nghiệm thứ nhất, cảm nghiệm về tình trạng của Đức Giêsu Phục sinh. Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta. Chỉ có điều là cặp mắt xác thịt của chúng ta không thấy được Ngài, giống như có một bức màn ngăn cách giữa chúng ta với Ngài. Đến một lúc nào đó, nếu Ngài muốn, thì Ngài bỏ bức màn ấy xuống, khi đó không còn gì ngăn cản nữa thì chúng ta sẽ thấy được Ngài. Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc ở trong lữ quán, “mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài”.
Vậy nhờ cái gì mà tấm màn ngăn cách chúng ta với Đức Giêsu Phục sinh được cất đi để chúng ta nhận ra Ngài? Cảm nghiệm của hai môn đệ Emmau cho thấy nhờ hai điều: Điều thứ nhất là nhờ suy gẫm Sách Thánh: “Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh”. Sau này hai ông nhớ lại cảm giác lúc đó: “Dọc đương khi Ngài nói chuyện và giải thích Sách Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên đó sao?”. Điều thứ hai là Bí tích Thánh Thể: “Ngài cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Ngài”.
Sách Thánh đã làm cho những cõi lòng lạnh giá chán chường bừng cháy lên, Bí tích Thánh Thể khiến cho bức màn ngăn cản cặp mắt xác thịt hạ xuống.Thực ra chúng ta đã nhiều lần đọc Sách Thánh và tham dự Bí tích Thánh thể. Nhưng tại sao khi đọc Sách Thánh lòng chúng ta không cháy bừng lên, và khi tham dự thánh lễ mắt chúng ta không mở ra? Thưa vì chúng ta đọc Sách Thánh như đọc về Đức Giêsu chứ không phải đọc với Đức Giêsu như hai môn đệ Emmau; và chúng ta dâng thánh lễ như dâng lên cho Ngài chứ không phải cùng dâng với Ngài. Chúng ta có thể làm mọi việc với Ngài, bởi vì Đức Giêsu Phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta và luôn cùng đi với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Ngày xưa đối với hai môn đệ Emmau cũng thế và ngày nay cũng vẫn thế.
67. Emmau – Đamas
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Lc 24:35-48: Chính trong những lúc thất vọng hay bị bách hại thì Đức Kitô lại tỏ bày dấu chỉ để người tín hữu nhận ra Ngài đang hiện diện, đang đồng hành khơi lên niềm hy vọng tràn đầy.
Có thể nói đường đi Emmau có khác chi đường đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về quê, Saolô hăng hái lên đường bắt bớ.Tiếc thương Đức Giêsu trên đường đi Emmau hay thù ghét Ngài trên đường đi Đamas, cả hai đều chỉ thấy Ngài trong cõi chết. Họ đều cần ơn “trở lại” để đổi mới cuộc đời.
Chính Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp họ trở lại bằng sự hiện diện đồng hành, bằng đòn quật ngã khỏi yên ngựa.
Dưới tác động của ân sủng, họ được biến đổi và trở nên chứng nhân loan báo Tin mừng Phục sinh.
1. Hành trình Emmau:
Ai đã từng có một lần thất bại trong tình yêu hay trên đường sự nghiệp sẽ hiểu được tâm trạng buồn phiền chán nản, nặng trĩu ưu sầu của hai môn đệ trên đường Emmau. Mộng vàng tan bay, bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu hy vọng bỗng dưng đổ vỡ tan tành. Những năm tháng theo Thầy đi rao giảng, họ luôn ôm ấp hoãi bảo lớn lao. Thầy sẽ lập quốc, đánh đuổi đế quốc La mã.Thầy sẽ là vua. Họ sẽ là các quan đại thần quyền thế. Khát vọng vinh quang trần thế này không đúng ý Chúa, nhưng là động lực thúc đẩy các môn đệ.
Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối họ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục.
Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Họ đã không nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh đang cùng đi với họ. Ưu tư duy nhất là ưu tư về chính mình. Thái độ ấy đã bịt mắt, đã che đi nguồn sáng nên họ đã không nhận ra sự hiện diện đầy thân tình của Đấng Phục Sinh.
Đức Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Ngài chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Ngài đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Ngài và chỉ có ý nghĩa vì Ngài. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của Đức Kitô “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi.
Trong quán trọ, họ nhận ra Ngài qua cử chỉ bẻ bánh. Mắt họ mở ra khi “Đức Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và trao cho họ”. Đó là cử chỉ của Chúa trong bữa tiệc ly, một dấu ấn đã in sâu vào tâm hồn các môn đệ. Cảm nhận bừng cháy trong tâm hồn khi Đức Giêsu ngõ lời, nhưng Ngài đã biến đi. Hai ông đã phục hồi niềm tin, đã tìm lại được Chúa, Đấng Hằng sống trên đường đời của họ.Từ nay, Chúa ở với họ,tỏ ra cho họ qua những dấu chỉ niềm tin, lôi kéo họ vào mầu nhiệm Phục sinh.
Con đường dẫn đưa những người lữ khách từ Giêrusalem đến quán trọ Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về Giêrusalem lại hoá nên gần gũi thân quen, bởi vì Tin mừng đang cháy bỏng trong tim và trên môi của họ. Họ gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục sinh.
Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen.
Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các Ngài nữa vì Đấng Phục sinh đang cùng họ đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
2. Hành trình Đamas:
Trước khi trở lại, đối với Phaolô,Tin mừng về Đức Kitô quả là một chuyện vô lý nhất chưa từng nghe nói bao giờ. Giêsu đã sống lại. Môn đệ của ông ta loan báo rằng ông ta đã chết và đã sống lại.
Nghe bài diễn văn của Simon-Phêrô, người dân chài rao truyền rằng:Giêsu Nazareth, người mà Thiên Chúa đã uỷ thác bằng các phép lạ tuyệt diệu, người mà các ông đã bắt và đã kết tội tử hình,đóng đinh vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài. Phải,Thiên Chúa đã cho cho sống lại…chúng tôi đã chứng kiến, tất cả chúng tôi đã là nhân chứng tại chỗ..
Saolô với tư cách là người có học, một biệt phái mộ đạo. Ông có thông biết thánh kinh bằng hay hơn kẻ chài lưới có bàn tay chai cứng? Phêrô, Gioan đã nhân danh Đức Giêsu đặt tay lên người bệnh và người bệnh được khoẻ mạnh. Phêrô và Gioan đã bị nhốt trong ngục tối, cửa sắt khoá chặt, quân đội súng ống canh gác ngày đêm trước dãy tường kiên cố. Thế nhưng, Phêrô, Gioan đã được thả tự do bởi một bàn tay kỳ diệu. Người lạ gặp thấy hai ông đang lên tiếng to trong hành lang của đồn là Đức Giêsu đã sống lại, hai ông đã chứng thực về những phép lạ các ông cử hành nhân danh Thầy Chí Thánh.
Saolô không thể chấp nhận như thế mãi được, phải ra tay tiêu diệt bọn tà đạo này. Nhận lệnh từ Giêrusalem, Saolô lên đường đi Đamas. Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, bụi tung mịt mù, trời nóng như thiêu đốt. Không quan trọng! Saolô ra đi, điều cần thiết nhất là nhanh chóng bắt hết bọn tà đạo về Giêrusalem.
Và bỗng chốc, một luồng ánh sáng chói lọi bao phủ lấy Saolô làm ông ngã ngựa. Ông không còn thấy gì nữa. Ông nghe có tiếng gọi ông: “Saun, Saun, sao ngươi lại bắt bớ Ta?”
Ông hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?”. Tiếng nói lại âm vang: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại” (Cv 9,5). Saolô hoàn toàn bối rối. Ông nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Ngài thôi! Thê rồi ông chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ ngài là một, và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa,Chúa muốn con làm gì?”.Chúa truyền cho Saolô vào thành gặp Khanania. (Cv 9,5-8). Saolô đứng dậy, ông chớp mắt mà không thấy gì. Ông được đưa về Đamas. Sau ba ngày,có một người Dothái thuộc cộng đoàn mới đã đến gõ cửa và bảo: “Saolô,người anh em,hãy nhìn thấy lại”.Phép lạ đã xảy ra, Saolô lại thấy được. Saolô đã chịu phép rửa bởi tay Khanania. Ông cần thời gian để tĩnh tâm, học hỏi và cầu nguyện.Thế là ông rời bỏ Đamas để sang vùng Ảrập sống trong thanh vắng. Thầy của ông đã chuẩn bị 30 năm thì ông cũng phải chuẩn bị ba năm (Gal 1,17). Ba năm trời ông nghiền ngẫm thánh kinh, đối chiếu trực tiếp với Thần Khí Chúa để hiểu rõ Tin mừng. Ba năm trời đã cho ông tâm tình của Chúa Kitô, đã đồng hoá ông với Đức Kitô đến nổi ông phải tuyên bố: “Không phải tôi sống,nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Col 2,20).
Kể từ lúc sáng mắt, Saolô đã hoàn toàn đổi mới. Ông nhiệt thành loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa với tất cả thao thức “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14). Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã ra đi khắp chân trời góc biển rao giảng Tin mừng và trở nên vị tông đồ dân ngoại lừng danh. Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gal 2,20).
Hành trình Đamas đã làm thay đổi cuộc đời Phaolô. Sống và chết cho Đức Kitô trong tiến trình của cuộc sống muôn màu của Phaolô mãi mãi vẫn thốt lên lời tuyên tín như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân,bắt bớ, đói khát,trần truồng, nguy hiểm,gươm giáo? … Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống,dù thiên thần hay thiên phủ,dù hiện tại hay tương lai,hay bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác,không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô,Chúa chúng ta“ (Rm 8,35-39).
Đọc lại hành trình Emmau, hành trình Đamas để nhận thấy người Kitô hữu chỉ bắt đầu là Kitô hữu thực sự khi khởi đi từ niềm tin Chúa Kitô sống lại.
Trong hành trình theo Chúa, người tín hữu có lúc phải đối diện với vô vàn khó khăn phức tạp của đời sống muôn mặt. Có những thất bại, có những chống đối làm choáng váng, ngỡ ngàng hoang mang vì Đức Giêsu như không còn hiện diện và can thiệp. Ngài dường như bỏ mặc cho thế gian hoành hành.
Chính trong những lúc thất vọng hay bị bách hại thì Đức Kitô lại tỏ bày dấu chỉ để người tín hữu nhận ra Ngài đang hiện diện, đang đồng hành khơi lên niềm hy vọng tràn đầy.
Hãy biết nhận ra Ngài qua các dấu chỉ như hai môn đệ Emmau. Hãy biết nhận ra Ngài qua từng biến cố đau đớn như Phaolô té ngựa trên đường Đamas.
Với tất cả niềm tin và lòng yêu mến, nhất định người Kitô hữu sẽ trở nên chứng nhân của niềm hy vọng, chứng nhân của sự sống, chứng nhân của niềm vui.
68. Dấu chân – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc: "Dấu Chân", giai điệu slow nhẹ nhàng thiết tha, ca từ thấm đẫm chất thơ, bài ca lấp lánh niềm tín thác.
1. Hôm nao dưới nắng reo vui, mình tôi rong chơi trên bãi biển. Chiều về nhìn sau lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đôi. Này là dấu chân to, va kìa là dấu chân nhỏ. Cả hai cùng chiều đi tới, tựa hình với bóng bước song đôi.
ĐK. Bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ. Đôi khi có những bước phôi pha, mà hình bên bóng chẳng rời xa. Hôm nao thấy dấu chân đôi: Đó là Chúa đi bên tôi. Hôm nào còn một dấu chân thôi: Là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi.
2. Hôm nao giữa bước chân đi, chợt nghe dâng mênh mang nỗi buồn. Chiều về nhìn sau lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đơn. Lạ lùng dấu chân to, và nặng nề vết in đậm. Mà sao chỉ còn một dấu, lại chẳng thấy có dấu chân tôi?
Ca khúc được dệt nhạc từ truyện "Footprints".
Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.
- Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng... anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.
- Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu...anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.
Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: "Khi con thành công, hạnh phúc...Chúa lại đồng hành với con, đi với con...Nhưng khi con thất bại, đau khổ...những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?".
Chúa Giêsu trả lời: "Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con".
Câu chuyện gợi lên ý tưởng: Thiên Chúa luôn đồng hành với con người trên mọi nẻo đường trần thế. Ngài không bao giờ bỏ rơi con người. Khi con người gặp đau khổ và thất vọng, Ngài an ủi, đỡ nâng, ban thêm sức mạnh và tình yêu.
Câu chuyện "Trên đường Emmau" là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca. Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc. Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đa loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm vui mừng trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.
Đường Emmau thật kỳ lạ. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, đi mãi không đến. Lúc về sao ngắn ngũi, chưa đi đã đến. Khi đi thì chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.
Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T: Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh. Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.
1. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh
Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh "Bắt đầu từ Môisen va duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh". Người đã giải thích cho các ông: "Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm" (Lc 24, 44). Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ la lịch sử cứu độ, lịch sử của "Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một". Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nươc. Bài đọc 1, sách CVTĐ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.
Thánh Giêrônimô đã nói: Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.
Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy: "Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh" (MK21).
Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chua mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để "khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng" (MK 26).
2. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Luca tường thuật, suốt trên con đường đi về Emmau có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao ban thì hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa Giêsu bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới.
Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh "duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền" biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh The. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thanh Thể là một bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ai, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Thư "Mane Nobiscum Domine", số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).
Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.
Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.
3. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh
Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hanh với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
Chính Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình. Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hoi Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chua Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng".
Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh). Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mưng Phục Sinh.
Chúa Giêsu Cứu Thế đã in dấu chân trên những nẻo đường truyền giáo "bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ". Chúng ta bước theo Chúa trên hành trình sứ vụ, mỗi ngày đã qua như một dấu chân trên cát, nối lại những dấu chân, cuộc đời sẽ thành đường dài của niềm vui và hy vọng.
69. Tìm gặp Chúa Giêsu hôm nay – Lm. Mark Link
Chủ đề: "Ngày hôm nay phải tìm gặp Chúa Giêsu trong Hội Thánh Ngài qua nghi thức bẻ bánh."
Regina Riley có kể một câu chuyện mà nhiều bậc cha mẹ cần lưu tâm tới. Trong nhiều năm trời bà đã từng cầu nguyện cho hai cậu con trai trở về với đức tin... Thế rồi một buổi sáng Chủ Nhật nọ, ngay trong nhà thờ, bà không the nào tin vào mắt mình nổi khi thấy hai đứa con bà bước vào nhà thờ ngồi vào hàng ghế đối diện bà. Sau đó bà liền hỏi hai cậu con rằng điều gì đã thôi thúc chúng trở lại với đức tin. Cậu nhỏ liền kể lại câu chuyện sau đây:
Vào một buổi sáng Chủ Nhật, vào thời gian nghỉ hè tại Colorado, hai cậu lái xe đổ xuống một con đường ở dốc núi, lúc đó trời đang mưa tầm tã. Bỗng nhiên họ gặp một cụ già không dù che, người ướt sũng đang bước đi dáng điệu khập khễnh. Dù mưa to, cụ vẫn hăng hái tiến bước trên đường. Hai anh em liền dừng xe mời cụ lên. Thì ra ông cụ đang trên đường đi lễ tại một nhà thờ ở cuối con đường cách đó ba dặm (quãng 5km). Hai anh em liền lái xe đưa cụ đến đó. vì trời mưa vẫn còn nặng hạt và chẳng bíêt làm gì hay hơn, nên hai anh em quyết định chờ đợi cụ già để mang cụ về lại nhà sau khi lễ tan. Nhưng ngay sau đó hai cậu liền nghĩ nếu thế thì nên vào luôn trong nhà thờ hơn là ngồi đợi ngoài xe, thế là trong khi hai anh em lắng nghe các bài đọc Thánh Kinh và tham dự việc bẻ bánh thì có một điều đã làm họ xúc động sâu xa. Về sau họ chỉ có thể cắt nghĩa với bà mẹ như thế này: "Mẹ ơi! Mẹ biết không, lúc bấy giờ giống như là chúng con trở về nhà sau một chuyến đi dài đằng đẵng đầy mệt mỏi".
Câu chuyện về hai anh em và việc họ gặp gỡ cụ già xa lạ trên con đường vùng Colorado nêu bật được nét tương đồng sâu sắc chứa đựng trong bài Phúc Âm hôm nay.
Hai người môn đệ trên đường Emmau, đã từng một thời theo Chúa Giêsu với bao niềm hy vọng và nỗi vui mừng. Họ thực sự tin rằng Ngài được Thiên Chúa sai đến để thiết lập Vương quốc Thiên Chúa. thế rồi những giờ phút bão tố của thứ sáu tuần thánh đã xảy đến. Mọi niềm hy vọng và mộng mơ của họ tan thành ngàn mảnh vụn. Hoàn toàn thất vọng bỏ mặc Chúa Giêsu nơi nấm mồ cô quạnh va trở về nếp sống trước kia. Chính trong bối cảnh này, họ đã gặp người khách lạ trên đường đi Emmau vào buổi sáng Phục Sinh. Các môn đệ lắng nghe vị khách ấy, chăm chú nhìn vị này bẻ bánh và một điều gì đó xảy ra đã khiến họ xúc động sâu xa. Vị khách lạ này có xa lạ tí nào đâu mà chính là Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống động trước mắt họ.
Hầu như một chuyện giống y như vậy đã xảy ra cho hai anh em nọ trên đường ở Colorado. Có một thời gian họ đã từng theo Chúa Giêsu mật thiết, từng tin thực Ngài là Con Thiên Chúa, được Chúa phái đến cứu chuộc thế gian. Thế rồi những ngày giông bão của tuổi thanh niên đã đến. Mọi hy vọng và mộng mơ của họ cũng tan thanh ngàn mảnh vụn. Hoàn toàn thất vọng, họ bỏ mặc Chúa Giêsu nơi nấm mồ hiu quạnh để bước đi theo lối riêng của mình. và chính trong bối cảnh này họ đã gặp cụ già xa lạ trên con đường ở Colorado vào buổi sáng Chủ nhật trời mưa nọ. Cụ già đã nói với hai anh em về Chúa Giêsu không phải bằng lời mà bằng một hành vi gương mẫu đầy anh hùng. Ngay khi hai anh em lắng nghe, tâm hồn họ bắt đầu bừng cháy lên từ bên trong. Thế rồi trong lúc bẻ bánh nơi giáo đường, họ đã khám phá ra Chúa Giêsu mà họ đã đánh mất.
Câu chuyện các môn đệ trên đường Emmau và câu chuyện của hai anh em nọ trên đường Colorado cũng chẳng khác gì câu chuyện riêng của chúng ta. Chúng ta cũng từng gặp những giai đoạn bão táp trong đời khi mà đức tin chúng ta bị tan thành ngàn mảnh vụn. Trong những giai đoạn giông bão này, có lẽ chúng ta đã phạm tội chống lại Hội Thánh, có lẽ chúng ta đã hoàn toàn thất vong đối với Hội Thánh, thậm chí còn đã từ bỏ Hội Thánh. thế nhưng một ngày nọ chúng ta gặp được một kẻ nào đó... Có thể là một khách lạ -- và qua người khách lạ này chúng ta tìm lại được Chúa Giêsu giữa lòng Hội Thanh Ngài trong nghi thức bẻ bánh.
Và như thế bài Phúc âm hôm nay chứa đựng một sứ điệp quan trọng đối với chúng ta ngày nay -- đặc biệt đối với những người đang tìm kiếm hoặc những người đã đánh mất Chúa Giêsu.
Thỉnh thoang chúng ta nghe có người nói: "Tôi tin vào Thiên Chúa, tin vào Chúa Giêsu, nhưng tôi không tin vào Giáo hội". bất cứ lúc nào nghe lời nói này, chúng ta hãy nhớ lại vị khách bộ hành khác đang cùng đồng hành với chúng ta trên đường. Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp thánh Phaolô trên đường đi Damas. Sách Công vụ tông đồ ghi lại: "Bỗng nhiên một tia sáng từ trời loé lên quanh ông. Ông liền té xuống đất và nghe có tiếng nói: "Saolô, Saole, tại sao người bắt bớ Ta?". Phaolô liền hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Tiếng nói liền đáp lại: "Ta là Giêsu mà ngươi đang truy nã" (Cv 9: 3-5). Phaolô hoàn toàn bối rối. Ông nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Ngài thôi! Thế rồi Phaolô chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài là một. Cái này ở đâu thì cái kia ở đó giống như đầu và thân mình. chia cắt Chúa Giêsu khỏi Hội Thánh Ngài, tức cộng đồng các môn đệ Ngài, thì cũng giống như tách rời chiếc đầu ra khỏi thân mình vậy.
Nhiều năm sau, Phaolô đã diễn tả mầu nhiệm này trong thư gởi tín hữu Côlôsê như sau: "Chúa Giêsu là đầu thân thể Ngài, tức Hội Thánh, Ngài là nguồn sống cho thân thể" (Cl 1: 18). Ngày hôm nay, nếu chúng ta muốn tìm gặp Chúa Giêsu Phục Sinh thì chúng ta phải tìm Ngài theo lối các môn đệ đã tìm được gặp Ngài trên đường Damas, theo lối hai anh em nọ tìm được Ngài trên con đường Colorado tức là tìm gặp Ngài giữa lòng Hội Thánh, tìm gặp Ngài trong nghi thức bẻ bánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin nhân từ nhìn đến những kẻ đã bỏ Ngài chết mặc nơi nấm mồ hiu quạnh.
Xin đến với họ như Ngài đã đến với các môn đệ trên đường Emmau.
Xin cắt nghĩa Thánh Kinh cho họ lần nữa,
Xin khơi dậy ngọn lửa đức tin vẫn còn leo lét trong tim họ.
Xin ngồi xuống đồng bàn với họ,
Xin biểu lộ Ngài ra cho họ lần nữa, giữa lòng Hội Thánh Ngài, và trong nghi thức bẻ bánh.
70. Đức Giêsu hiện ra với các Tông Đồ – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Đặt mình vào địa vị các tông đồ khi gặp Đức Giêsu sống lại lần đầu tiên, bạn có dễ dàng tin rằng Ngài hiện diện thật sự trước mắt mình không? Hiện nay, bạn có tin rằng Ngài đang thật sự hiện diện bằng thần khí trong tâm hồn bạn không?
2. Đức Giêsu đang hiện diện ở trong tâm hồn ta có khả năng hoạt động, dạy dỗ, biến cải ta như Ngài đã từng hoạt động, dạy dỗ, biến cải các tông đồ ngày xưa không? Sự hoạt động của Ngài có lệ thuộc vào thái độ nội tâm của ta không?
3. Ta phải làm gì để được Ngài dạy dỗ, biến cải một cách hữu hiệu?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu mời gọi ta cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài
Sau khi sống lại, Đức Giêsu hiện ra trước mắt các môn đệ, điều đó khiến các ông kinh ngạc, sợ hãi và không dám tin vào mắt mình nữa. Nhưng Đức Giêsu trấn an các ông và chứng tỏ Ngài hiện diện thật sự, bằng thân xác cụ thể chứ không phải bằng hình bóng theo kiểu một bóng ma. Ngài chứng tỏ điều ấy bằng cách cầm lấy và ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông. - Hiện nay, Đức Giêsu đang thật sự hiện diện và hoạt động ngay trong bản thân chúng ta. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta - cũng giống như các tông đồ xưa - không dám tin vào điều ấy. Nếu có tin thì cũng chỉ tin rằng Ngài hiện diện một cách tượng trưng, bằng hình bóng của Ngài thôi. Nhưng hãy nghe Ngài nói: «Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?» - Ngài mời gọi chúng ta cảm nghiệm sư hiện diện đích thực của Ngài bên trong chúng ta. Ngài mời chúng ta hướng vào bên trong để thấy Ngài nói và hoạt động trong bản thân chúng ta.
2. Hiện nay, Đức Giêsu có ở với chúng ta không? Ngài ở đâu?
Trước khi chịu kho nạn và tử hình thập giá, Đức Giêsu đã sống giữa các tông đồ, để dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, thêm sức cho các ông, một cách rất cụ thể, hữu hình hữu tướng, bằng thể chất. Nhưng sau khi sống lại, Ngài không còn hiện hữu theo kiểu cũ, không thường xuyên ở bên cạnh các ông một cách hữu hình nữa. Thân xác của Ngài là một thân xác vinh quang, thoạt hiện thoạt biến, chỉ ở bên cạnh các ông một cách hữu hình trong giây lát. Phải chăng cách hiện hữu này khiến Đức Giêsu và các ông xa cách nhau hơn? Có phải sau khi về trời, Ngài không còn ở cùng các ông nữa không?
Không phải vậy. Trước khi về trời, nghĩa là trước khi thân xác Ngài vĩnh viễn rời khỏi các môn đệ, Ngài nói: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế» (Mt 28,20). Trong bối cảnh thầy trò sắp chia tay nhau như thế mà Ngài lại nói vậy thì thật là mâu thuẫn và nghịch lý! Đáng lẽ Ngài phải nói: «Thầy phai ra đi và không còn ở với anh em nữa cho đến tận thế. Hẹn gặp lại anh em vào ngày tận thế!» Có phải Ngài nói lộn, hay các thánh sử ghi sai lời Ngài?
Chắc chắn không phải như vậy! Tuy Ngài không hiện hữu bằng thân xác của Ngài, nhưng Ngài vẫn hiện hữu một cách thiêng liêng, bằng thần khí của Ngài, bên cạnh và bên trong chúng ta. Với cách hiện hữu này, Ngài có thể thân mật với chúng ta hơn, và chúng ta có thể gặp Ngài bất cứ lúc nao chúng ta muốn, một cách hết sức dễ dàng. Và Ngài vẫn có thể dạy dỗ, an ủi, khuyến khích, ban bình an và sức mạnh cho chúng ta, miễn là chúng ta tin vững chắc sự hiện diện của Ngài bên trong chúng ta, thường xuyên ý thức và cảm nghiệm sự hiện diện ấy, đồng thời lắng nghe Ngài nói trong đáy lòng mình. Đây là một ý thức và khả năng mà bất kỳ người Kitô hữu nào cũng cần tập luyện. Và đây cũng là một bí quyết để có được bình an, sưc mạnh và thăng tiến trong đời sống tâm linh.
3. Phục sinh Đức Giêsu trong ý thức và nội tâm ta
Đức Giêsu hứa với chúng ta: «Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế “(Mt 28,20). Ngài cũng nói với Chúa Cha: «Con ở trong họ và Cha ở trong con » (Ga 17,23). Thánh Phaolô nhắc lại sự hiện diện ấy: «Chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người » (Cl 3,11); «Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em » (Gl 4,6). Như vay, theo lời Ngài đã hứa thì Ngài vẫn ở với và ở trong chúng ta. Nhưng sao chúng ta chẳng thấy Ngài hoạt động hay ảnh hưởng gì trên chúng ta, giống như xưa các tông đồ đã thấy Ngài hoạt động và ảnh hưởng trên các ông? - Sự hiện diện của Ngài trong chúng ta có tính hoạt động và có khả năng biến đổi ta hay không, điều đó còn tùy thuộc vào ý thức và sự tự do cộng tác của ta nữa. Nếu chúng ta không tin hoặc không ý thức sự hiện diện cua Ngài trong chúng ta, thì sự hiện diện ấy chỉ giống như sự hiện diện của xác Ngài trong nấm mồ: một thân xác vô hồn, bất động, không có khả năng gì cả. Chính ý thức sống động của ta về sự hiện diện của Ngài trong ban thân ta làm cho Ngài «sống lại» trong ta và hoạt động hữu hiệu. Nếu ta không ý thức sự hiện diện ấy thì hãy coi chừng: ta chưa thật sự sống trong đức tin. Thánh Phaolô yêu cầu ta kiểm điểm lại đức tin của mình: «Anh em hay tự xét xem mình có còn sống trong đức tin hay không. Hãy tự kiểm điểm xem. Anh em chẳng nhận thấy có Đức Giêsu Kitô ở trong anh em sao?» (2Cr 13,5).
Vì thế, để lời hứa của Ngài - là ở với chúng ta - trở nên hiện thực, chúng ta phải tập luyện ý thức thường xuyên sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm mình. Ngài hiện diện trong chúng ta bằng thần khí của Ngài, chứ không phải bằng thể chất. Hiện diện dù bằng thần khí hay bằng thể chất, đều là hiện diện thật sự. Và sự hiện diện ấy là một hiện diện hoạt động chứ không bất động. Nếu ta để Ngài tự do hoạt động trong chúng ta, nghĩa là không để hoạt động của Ngài bị hạn chế bởi ý riêng của ta, lúc đó, ta sẽ nói được như thánh Phaolô: «Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi» (Gl 2,20). Nói cụ thể hơn là: bất kỳ điều gì tôi làm (suy nghĩ, ăn, nói, làm việc, đối xử, ngủ, nghỉ...) đeu không còn phải là bản thân tôi làm nữa, mà chính là Đức Giêsu làm trong tôi. Ý thức thường xuyên về sự hiện diện và hoạt động của Ngài trong nội tâm mình chính là tâm trạng cầu nguyện, là tình trạng kết hợp liên lỉ với Đức Giêsu. Thiết tưởng tất cả mọi Kitô hữu, nhất là những bậc hiến thân sống đời tu trì, đều được mời gọi tập luyện sự ý thức thường xuyên này.
4. «Những gì...đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm»
Khi chúng ta đã thường xuyên ý thức sự hiện diện hoạt động của Đức Giêsu trong bản thân ta, ta sẽ dần dần cảm nghiệm thấy «tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều được ứng nghiệm» ngay trong bản thân chúng ta. Câu này cần được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm của tâm linh. Nghĩa là tất cả những lời hứa trực tiếp của Thiên Chúa với các tổ phụ, với Môsê (đất hứa, sự sung túc, con cháu đầy đàn), những lời hứa của Ngài đối với Dân Ngài qua các ngôn sứ, qua các lời Thánh Vịnh (sự thái bình, thịnh vượng…) đều được thực hiện tại thế ngay trong tâm hồn ta. Lúc đó ta sẽ cảm nghiệm được thế nào là bình an và hạnh phúc siêu nhiên, một thứ bình an hạnh phúc không tùy thuộc vào những điều kiện bên ngoài, nên «không ai lấy mất được» (Ga 16,22). Lúc ấy Bát Phúc trong bài giảng trên núi của Đức Giêsu sẽ trở nên hiện thực và cụ thể trong tâm hồn ta. Đây là tình trạng hạnh phúc của tâm hồn mà những vị thánh thường xuyên kết hợp với Thiên Chúa luôn luôn cảm nghiệm được. Chính nhờ cảm nghiệm được thứ hạnh phúc này, mà các ngài luôn luôn vui tươi khi gặp gian lao thử thách. Hạnh phúc mà các ngài cảm nghiệm được này đã bù đắp cho các ngài tất cả những hy sinh mất mát mà các ngài tự nguyện chịu. Hạnh phúc ấy, bất kỳ Kitô hữu nào ý thức được sự hiện diện của Đức Giêsu trong tâm hồn mình, và hoàn toàn sống với ý thức ấy đều có thể cảm nghiệm được.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu vẫn sống ở trong con, nhưng tâm trí của con không hề nghĩ đến Ngài, vì bận mải mê tìm kiếm những thứ ở bên ngoài. Điều đó đã làm cho sự hiện diện của Đức Giêsu trong con trở thành bất động, Ngài chẳng có thể làm được gì ích lợi cho con. Xin giúp con ý thức lại sự hiện diện của Ngài trong con, và thường xuyên sống với ý thưc ấy, để làm cho Đức Giêsu trở thành sống động trong con, biến con trở nên một tâm hồn tốt đẹp và hạnh phúc. Amen.
71. Giải mã Thánh Kinh – Lm. Phạm Quốc Hưng
Nói rằng Thánh Kinh là Lời Chúa là đúng, vì Thánh Kinh là bộ sách được viết ra dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nhưng hiểu Lời Chúa chỉ được chứa đựng trong Thánh Kinh mà thôi là một quan niệm thiếu sót, hẹp hòi. Vì Lời Chúa chính là Ngôi Lời, Ngôi Hai Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, và một khi đã nhập thể làm người để thực hiện việc cứu chuộc nhân loại Lời Chúa đã mang một tên gọi là Giêsu Kitô. Do đó, nơi chính con người, cuộc sống và giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô mà cao điểm là Cuộc Kho Nạn và Phục Sinh của Người, Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu độ chúng ta và dạy chúng ta mọi sự. Đó là một trong những chủ đề được gặp thấy trong Phụng Vụ hôm nay.
Thánh Kinh Cựu Ước bao gồm mọi điều Thiên Chúa mạc khải cho Dân Do thái qua các tổ phụ và các tiên tri để giúp họ chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô. Qua cuộc sống được kết thúc bằng Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Người, Đức Giêsu Kitô đã hoàn tat những gì Thiên Chúa đã hứa với các tổ phụ và các tiên tri nơi Thánh Kinh Cựu Ước. Đó là nội dung lời chứng của Thánh Phêrô trong Tông Đồ Công Vụ nơi bài đọc một trong Phụng Vụ hôm nay, nhất là nơi câu: “Thiên Chúa đã hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước: Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình” (Cv 3:18).
Trong Tin Mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu sống lại hiện ra với các môn đệsau khi ăn cá nướng và mật ong trước mắt họ, Chúa Giêsu đã vừa cho thấy sự xác thực của mọi lời Người từng nói với các ông vừa xác định Người chính là Đấng Kitô –Đấng Mêsia-là trung tâm của lịch sử ơn cứu độ mà Thánh Kinh Cựu Ước đã báo trước, vừa là Đấng giúp các môn đệ am hiểu Thánh Kinh. Thánh Sử Luca viết: “Đoạn Người phán: Đúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách các tiên tri và thánh vịnh. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh” (Lc 24:44-45).
Ngày nay, Chúa Giêsu tiếp tục giải thích Thánh Kinh cho chúng ta qua Huấn Quyền của Hội Thánh luôn được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Việc ghi nhớ và hiểu biết đầy đủ giáo lý với các tín điều Hội Thánh dạy thật quan hệ trong việc giúp chúng ta hiểu đúng Thánh Kinh. Đức Thánh Cha Bênêđictô từng dạy rằng: “Các tín điều chính là lời giải thích Thánh Kinh chính thức của Hội Thánh”. Không có cùng trí ý với Hội Thánh, người ta không thể hiểu đúng Thánh Kinh.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua-Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh-của Người chiếm vị thế trung tâm trong chương trình cứu độ. Như thế, toàn bộ Thánh Kinh, cả Cựu Ước cũng như Tân Ước-phải được đọc và giải thích dưới ánh sáng của mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô. Đồng thời, Hội Thánh bao gồm các môn đệ đích thưc của Chúa Kitô sẽ tiếp tục sứ mạng của Người khi rao giảng nhân danh Người và làm chứng về Người, mời gọi mọi người sám hối để lãnh ơn tha tội. Người phán: “Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngay thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24:46-48). Điều này cũng đã được Chúa Giêsu nói với hai môn đệ truớc đây, khi Người hiện ra và đồng hành với họ trên đường Emmau (Lc. 24:13-35).
Vì vậy, muốn hiểu đúng Thánh Kinh, chúng ta phải đón nhận sự khôn ngoan của mầu nhiệm Thánh Giá, phải chấp nhận bước đi trên Đường Thánh Giá, con đường của hy sinh từ bỏ, con đường của tình yêu xả kỷ vị tha, con đường chính Chúa Giêsu đã đi qua. Tác giả sách Gương Chúa Giêsu ngay ở chương đầu đã nhận xét: “Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc Âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu tỏ và nếm thử thi vị của lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa” (Q. I, Ch. 1). Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng kể rằng: “Bài giảng đầu tiên con nghe và hiểu được là bài giảng về Thánh Giá. Và từ đó, con nghe và hiểu được mọi bài giảng”.
Trong bài đọc hai trích thư thứ nhất của Thánh Gioan, chúng ta lai học biết rằng mục đích của Thánh Kinh chính là giúp chúng ta khỏi phạm tội; mà nếu chúng ta đã phạm tội thì sẽ được đón nhận ơn tha tội nhờ sám hối và tin vào Chúa Kitô là của lễ đền tội cho toàn thể nhân loại. Tren hết, Thánh Kinh hay Lời Chúa hoặc Luật Chúa là phương thế tuyệt hảo giúp chúng ta buớc vào và sống trọn liên hệ yêu thương với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa. Hơn nữa, việc nghe và giữ Lời Chúa còn là yếu tố quyết định để xác định tính chân thực của người môn đệ Chúa Kitô.
Thánh Gioan viết: “Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính, làm trạng sư nơi Đức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian. Chính nơi điều này mà chúng ta biết rõ được là chúng ta biết Chúa Giêsu, nếu chúng ta giữ các giới răn của Người. Ai nói mình biết Người, mà không giữ các giới răn của Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả thật tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy” (1Ga 2:1-5a).
Câu nói thời danh của Thánh Giáo Phụ Tiến Sĩ Jerome dường như chỉ là một lời lập lại và tóm lược những lời trên của Thánh Gioan: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Các học giả Thánh Kinh còn đưa ra nhận xét độc đáo này: “Thánh Kinh được viết bởi những người tin, được viết cho những người tin, được viết để xây dựng và rao truyền đức tin”. Vì vậy, tin vào Chúa Kitô và Hội Thánh là cach chắc chắn nhất để học biết Thánh Kinh một cách đúng đắn.
Thật là thích đáng khi Hội Thánh dùng lời tung hô Alleluia trong Phụng Vụ hôm nay để dâng lên Chúa Giêsu lời nguyện chí thiết này: “Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh, xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con”.
Nếu Chúa Nhật tuần trước được dành để suy tôn Lòng Chúa Thương Xót, thì Chúa Nhật hôm nay có thể được dành để suy tôn Lời Chúa, suy tôn Thánh Kinh.
Lạy Mẹ Maria là Mẹ của Ngôi Lời nhập thể. Xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ để say mê việc đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và thực hành Lời Chúa, dưới ánh sáng của mầu nhiệm Thập Giá Chúa Kitô, với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong niềm hiệp thông vâng phục trọn vẹn với Hội Thánh. Amen.
72. Từ người bỏ cuộc trở nên Sứ giả Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Tin Mừng Chúa nhật III Phục sinh tập trung vào hai môn đệ rời Giêrusalem mang theo sự buồn sầu thất vọng về làng Emmaus. Quả thật, chính tại Giêrusalem hai ông đã chứng kiến các biến cố dẫn đến cái chết của Chúa Kitô như lời hai ông kể cho vị khách (Không Hay Biết): "Có một người tên là Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi" (Lc 24, 19 - 21). Đúng là mấy phụ nữ rằng thuật lại rằng Chúa Giêsu đã sống lại, nhưng đó là một tin lạ lùng không thể tin được, các bà chẳng những không củng cố được lòng tin cho các ông mà còn làm các ông "khiếp sợ" (x. Lc 24, 22), sợ đến nỗi bỏ cuộc, rời Giêrusalem, nơi mà "giấc mơ" của họ bị vỡ tan vì Thập Giá.
Và dĩ nhiên, dưới dáng dấp của người đồng hành, Chúa Giêsu đã hiện ra cùng đi với họ. Trên đường, với hai ông, Chúa chỉ là Vị Khách lạ, "người không hay biết". Nhưng chính "người không hay biết" ấy đã làm cho các ông vơi đi nỗi buồn. Sự thất vọng mà họ có không cho phép họ tin rằng Thập Giá của Chúa Kitô là chìa khóa để mở cửa bước vào nhà Cha.
Với sự thẳng thắn và yêu thương, "người không hay biết" than: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người" (Lc 24, 25-27).
Vị Khách đã mở lòng mở trí cho hai ông, hai ông lắng nghe và cảm thấy có một sức thu hút ngoại thường khiến các ông cất lơi: "Mời ông ở lại với chúng tôi", lý do "vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn" (Lc 24, 29). Với lời mời thịnh tình ấy, Chúa Giêsu đáp lại bằng một cử chỉ chia sẻ khi đồng bàn với họ: "Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông" (Lc 24, 30). Cử chỉ Thánh Thể này giúp cho "hai kẻ bỏ cuộc" nhận ra Chúa.
"Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào" (Lc 24, 13-35). Câu này kết thúc trình thuật kinh nghiệm phục sinh của hai môn đên trên đường Emmaus, tổng hợp cách kỳ diệu ý nghĩa về sự hiện hữu Kitô của người môn đệ Chúa Kitô. Đâu là tính mới lạ của Kitô giáo nếu không phải là sống cái chuẩn mực của đời sống, với niềm vui và nỗi buồn, hy vọng và thất vọng? Cuộc hành trình của hai môn đệ trên đường Emmaus với Chúa Giêsu thay đổi cuộc sống của họ cũng như chúng ta: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" (Lc 24, 32)
Trên con đường đến Emmaus, chúng ta có thể nhận ra con đường đức tin của chính mình, thay vì quán trọ, thì có Giáo Hội. Thánh Lễ cung cấp cho chúng ta Lời Chúa và Thánh Thể, những yếu tố không thể thiếu cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Nếu chúng ta ra khỏi nhà với những khó khăn, lo toan, với tinh thần của hai môn đệ làng Emmaus, chúng ta hay đến nhà thờ, ít là Chúa nhật, nơi Thiên Chúa ở với chúng ta, nơi mà Lời Chúa được giải thích ban cho chúng ta sự an ủi, Bánh Hằng Sống được trao ban để phục hồi, chữa lành, chăm sóc chúng ta và ban cho chúng ta niềm vui.
Con đường của hai môn đệ của Emmaus là con đường của tất cả chúng ta. Nếu trên đường đi, lòng chúng ta không còn bị khép kín vì buồn bã, chúng ta có thể gặp Đấng Phục Sinh trong Ngôi Lời làm cho lòng chúng ta nóng lên, và trong Bánh Thánh làm cho mắt chúng ta sáng lên. Trong Lời Chúa và Thánh Thể, chính chúng ta đang đi từ cõi chết đến cõi sống và chúng ta nhận ra sự thật về điều mà các nhân chứng đầu tiên đã truyền cho chúng ta: chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã sống lại vì chúng ta cũng đã gặp Người. Chúng ta được sống lại với cuộc sống mới trong tình yêu.
Chúa Kitô loan báo Tin Mừng về sự sống lại của Người cho chúng ta trên đường đi, như các môn đệ. Người nói với chúng ta về câu chuyện tình của Thiên Chúa với dân Ngài, Người nhắc nhở chúng ta về sự trung tín không ngừng của Thiên Chúa, Đấng đã ký kết giao ước đời đời với chúng ta. Chúa Kitô nói với chúng ta và mở lòng chúng ta hiểu Kinh Thánh. Như thế, Người mạc khải cho chúng ta sự sâu thẳm của Trái Tim đầy yêu thương, Người "phải" chịu đau phiền và phải chết. Người không thể làm gì khác ngoài yêu chúng ta cách tuyệt đối và vô hạn vượt qua mọi rào cản của cái chết và thân xác.
Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35). Như thế, con đường về làng Emmaus trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Ðức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường mà họ đã sống, khiến họ đang là kẻ bỏ cuộc trở nên người loan báo Tin Mừng về Đức Kitô tử nạn và phục sinh.
Trong đời sống thường ngày của người tín hữu, có những lúc gặp khó khăn, thất vọng, dẫn đến buồn sầu trở về "làng Emmaus", rời xa Thiên Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui như hai môn đệ làng Emmaus. Niềm vui gặp gỡ Đấng Phục Sinh, niềm vui phải lây sang người khác làm cho Giáo hội tăng trưởng và lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Ðó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta nhìn lên Mẹ Maria và khẩn cầu Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, ngõ hầu trở nên sứ giả loan báo Tin Mừng Chúa sống lại cho mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
73. Chúa giải thích Kinh Thánh và bẻ bánh
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sự kiện Chúa Giêsu phục sinh được các Thiên Thần loan báo cho các bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê (x. Lc 24, 1-12), các bà về thuật lại cho các Tông Đồ ở Galilêa, hai môn đệ làng Emmaus trong nhóm các bà chẳng những chưa tin mà còn lo sợ (x. Lc 24). Chúa Giêsu Phục Sinh tiếp tục hiện ra dưới dáng dấp của một người lữ hành, tỏ ra không biết, rồi đồng cảm với hai ông, đã dùng Kinh Thánh để giải thích, bẻ bánh trước mặt hai ông, giúp long họ sốt sáng lên và làm cho mắt họ sáng ra để nhận ra Người (x. Lc 24, 13 - 35).
Trở lại Giêrusalem, hai ông thuật lại cho các Tông Đồ trong khung cảnh cửa đóng then cài. Đang lúc đứng bàn chuyện, Chúa Giêsu hiện đến với họ khiến họ kinh hoàng khiếp sợ "bối rối tưởng mình thấy ma" (Lc 24, 37).
"Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ" (Lc 24, 36). Đó là lời cầu chúc đầu tiên của Đức Kitô Phục Sinh, kèm theo là những chứng tích ở tay chân với những vết thương, họ "vẫn còn chưa tin" (Lc 24, 41). Chúa phải nghĩ đến cách ăn cá nướng và mật ong, trích dẫn luật Môisen, lời các tiên tri và Thánh Vịnh là những bằng chứng không thể sai lầm về sự phục sinh và cuộc sống mới của Chúa. Chính Chúa thực hiện những lời Sách Thánh đã chép, và tiếp theo bằng miệng: "Chính Thầy đây" (Lc 24, 39), đúng Thầy là sự thật và là sự sống. Đó là lý do tại sao các tông đồ, những người ban đầu nghi ngờ, thậm chí khi nhìn thấy cơ thể sống của Chúa cũng chưa tin đã trở nên những chứng nhân rao giảng về sự sống lại của Chúa cách hùng hồn (x. Cv 4).
Lời Chúa sưởi ấm con tim
Giả bộ khách đồng hành, tham gia vào cuộc hành trình buồn bã của hai môn đệ, giữa bóng đêm của ngày đang qua và bóng tối đang phủ kín tâm trí họ, Chúa Giêsu Phục Sinh bắt đầu gợi chuyện, nghe họ bộcbạch về đau khổ và thất vọng cũng như đắng cay của chính mình sau khi Thầy chết, các môn đệ tản mác mỗi người một ngả, đức tin của họ bị tan vỡ, mọi sự xem ra đã hết, các xác tín sụp đổ, niềm hy vọng tắt ngóm. Thấy họ buồn sầu như thế, Chúa nói chuyện với hai ông và "giải thích"Kinh Thánh, "bắt đầu từ Môsê và các tiên tri", giúp họ hiểu rằng cuộc khổ nạn và cái chết của Đấng Cứu Thế đã được thấy trước trong chương trình của Thiên chúa và được loan báo trước trong Thánh Kinh (x. Lc 24, 27). Như thế, Chúa đốt cháy lên trong con tim họ một ngọn lửa hy vọng. Khi đó hai mộn đệ cảm thấy một sức thu hút ngoại thường nơi con người bí mật ấy và mời Người ở lại với họ chiều hôm đó: "Mời ông ở lại với chúng tôi", lý do"vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn " (Lc 24, 29).
Thánh Thể mở mắt đức tin
"Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày sắp tàn"(Lc 24, 29). Đây là lời mời xin tha thiết của hai ông vào ngày thứ nhất trong tuần, lúc mà tâm hồn đang trĩu nặng vì buồn nản, đang trên đường trở về quê. Chúa Giêsu chấp nhận và cùng họ vào nhà và khi ngồi vào bàn Người làm phép và bẻ bánh, thì họ nhận ra Người, nhưng Người đã biến khỏi cái nhìn của họ, để họ lại đầy kinh ngạc. Họ không bao giờ nghĩ rằng người khách lạ ấy lại chính là Thầy mình mới sống lại. Hai ông đã nhận ra Người tại bàn ăn chỉ với một hành vi " bẻ bánh " đơn giản (Lc 24, 35). Khi trí khôn được chiếu sáng, con tim được đốt nóng, những dấu chỉ bắt đầu gợi lên lòng sốt mến và thôi thúc họ " chỗi dậy trở về Giêrusalem "(Lc 24, 33) để thuật lại tất cả những gì họ đã thấy và đã nghe cho " mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp " (Lc 24, 33).
Lời Chúa và Thánh Thể trong đời sống người tín hữu
Lời Chúa giúp tâm hồn các ông nóng lại, mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh. Cử chỉ bẻ bánh giúp các môn đệ nhận ra Chúa Giê-su (x. Lc 24,35). Như thế, con đường về làng Emmaus trở thành con đường lòng tin của chúng ta: Thánh Kinh và Thánh Thể là hai yếu tố không thể thiếu được cho cuộc gặp gỡ với Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể luôn dọn sẵn cho chúng ta, chúng ta nghe Chúa nói, gặp gỡ và đón rước Chúa trong khi cử hành Thánh lễ và rước lễ. Hai môn đệ nhận ra Đức Giêsu khi người bẻ bánh, liền về Giêrusalem kể lại kinh nghiệm ngoại thường ma họ đã sống: đó là cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh.
Trong đời sống thường ngày của người tín hữu, có những lúc gặp khó khăn, thất vọng, dẫn đến buồn sầu trở về "làng Emmaus", quay lưng lại với chương trình của Thiên Chua, rời xa Thiên Chúa. Lời Chúa và Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui như hai môn đệ làng Emmaus, sau khi đã "nhận ra" Chúa trong việc bẻ bánh, thì mau mắn trở lại Giêrusalem lòng tràn đầy niềm vui, kể cho anh em mình tất cả những gì đã xảy ra. Niềm vui gặp gỡ Đấng Phục Sinh,niềm vui phải lây sang người khác làm cho Giáo hội tăng trưởng và lớn mạnh nhờ những chứng tá nảy sinh từ niềm vui được đón nhận và được biến thành lời loan báo. Đó là một niềm vui tông đồ, lan tỏa.
Thánh Phaolô cũng bảo chúng ta: " Mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền sự chết của Chúa cho tới khi Người đến" (1 Cr 11, 26). Như thế, chúng ta phai nỗ lực phấn đấu trở thành những chứng nhân, sẵn sàng loan báo cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô với lòng hăng say và niềm vui vì được gặp gỡ Chúa. Hãy để cho Lời Chúa sưởi ấm con tim và Thánh Thể Người mở đôi mắt đức tin của chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta bằng niềm hy vọng và tình bác ái, để chúng ta có thể đồng hành với các anh chị em buồn sầu và tuyệt vọng, sưởi ấm con tim họ với Tin Mừng, và bẻ bánh tình huynh đệ với ho.
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta nhìn lên Mẹ Maria như gương mẫu để bắt chước. Xin Mẹ giúp chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể và nghe Lời Chúa, nhất là hăng say loan báo Tin Mừng Chúa sống lại để mọi người tin mà được cứu độ. Amen.
74. Suy Niệm của Lm. Trần Bình Trọng.
Có Chúa trong cuộc đời là có Bình An
Lời chào đầu tiên mà Chúa thốt ra với các tông đồ sau khi Người sống lại từ cõi chết là lời chào bình an: Bình an cho các con (Lc 24:36). Tuy nhiên các tông đồ kinh hồn bạt vía, tưởng mình thấy ma (Lc 24:37). Chúa liền trấn an các ông bằng cách chứng minh cái căn tính của Chúa là có xương có thịt, chứ không phải ma. Tuy nhiên các ông vẫn chưa tin vì vui mưng mà bỡ ngỡ (Lc 24:41).
Mặc dầu Chúa đã tiên báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Người, các môn đệ vẫn chưa hiểu đường lối của Chúa. Mặc dầu sau khi sống lại Chúa đã hiện ra với Mađale-na và truyền cho bà đi loan báo tin mừng phục sinh cho các tông đồ, các ông vẫn cho rằng đó là chuyện tưởng tượng của đàn bà. Mặc dầu hai môn đệ thành Emmau vưà loan tin cho các ông là Chúa đã sống lại và hiện ra với các ông, các ông vẫn còn hồ nghi. Lý do là vì cái biến cố của ngày Thứ Sáu Chịu nạn đã làm tiêu tan những mối hy vọng của các ông, như hi vọng Chúa sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, hi vọng được một địa vị trong vương quốc của nước Chúa. Cái chet của Thày mình trên thập giá vẫn còn làm các ông hoang mang và sợ hãi. Vì thế hôm nay Chúa hiện ra lần nữa để củng cố đức tin của các ông.
Phải chăng chúng ta cũng có những lần mang những tâm trạng hoang mang, bối rối, và sợ hãi khác nhau. Chúng ta sợ mất công ăn, việc làm, sợ phải mang bệnh tật, sợ mất sức khoẻ. Chúng ta sợ phải sống cảnh chia ly xa cách vì chiến tranh. Hôm nay Chúa bảo ta: Thày đây, đừng sợ. Chúa muốn ta trút tất cả những nỗi lo âu, sợ hãi vào lòng từ ái của Chúa. Chúa muốn ta đặt trọn niềm tin cậy, phó thác vào chương trình quan phòng của Chúa. Việc tín thác vào Chúa là cái gì ta có thể học được bằng kinh nghiệm. Sau khi ta đã thử đặt tin tưởng vào tiền của, thế lực, địa vị, và rồi cuối cùng ta thấy không đi đến đâu, có khi còn khổ nữa. Từ đó mới tìm đến Chúa.
Qua các môn đệ, Chúa cũng gửi đến ta lời chào bình an. Cái lời chào bình an của Chúa mang một ý nghĩa đặc biệt cho những người đặt tin tưởng vào Chúa. Ngày nay ta nghe nhiều về những khao khát, ước vọng hoà bình. Nếu đi du lịch bên Do Thái và gọi điện thoại, người ta sẽ nghe thấy người ở đường giây nói bên kia trả lời shalom, có nghĩa là bình an. Sự kiện đó nói lên người Do Thái khát vọng hoà bình như thế nào. Trên bình diện quốc gia và quốc tế, hoà bình theo nghĩa tự điển Webster có nghĩa là cái tình trạng, hay cái thời kỳ hoà hoãn, cái thời kỳ đình chiến giữa các quốc gia, hoặc phe nhóm. Tuy nhiên hoà bình có nghĩa là gì đối với cá nhân mỗi người? Cũng theo tự điển Webster, hoà bình có nghĩa là cái trạng thái tĩnh, nghĩa là không động, không bị tư tưởng xung khắc đè nén, một sự hoà hợp trong những mối tương quan và liên hệ của mỗi ngưòi.
Hoà bình theo nghĩa Thánh kinh là một ân huệ Chúa ban. Do đó hoà bình phải phát xuất từ tâm hồn mỗi người, phải được an rễ và phát triển trong tâm hồn. Hoà bình sẽ ngự trị trong tâm hồn ta, và xung quanh ta, nếu ta có bình an trong tâm hồn. Vì thế không thể nào có hoà bình thực sự trong thế giới loài người, nếu loài người không có bình an nội tâm.
Để có được sự bình an nội tâm, người ta cần làm hoà với Chúa qua Bí tích Cáo giải. Để có được sự bình an trong tâm hồn người ta cần sống theo đường lối của Chúa và tuân giữ giới răn Chúa.
75. Làm chứng nhân – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24,48). Những điều này là những điều gì đây? Chúa Giêsu đã minh nhiên khẳng định: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,47).
Phải nhìn nhận rằng cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô la một chủ đề chính của lời rao giảng của các tông đồ. Đã có lúc, có nhiều đấng vì muốn nhấn mạnh đến mầu nhiệm Phục sinh nên thích chưng ảnh tượng Chúa Phục sinh trong cung thánh Nhà thờ, thế mà Hội Thánh vẫn không chuan nhận. Theo luật hiện hành thì phải chưng ảnh tượng Chúa chịu nạn (Crucifix), dù rằng mầu nhiệm Chúa Phục sinh chính là mầu nhiệm nền tảng của Kitô giáo, vì như lời thánh Phaolô Tông đồ rằng: Nếu Chúa Kitô không sống lai thì Kitô hữu là những người khốn khổ nhất.
Cả hai mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh luôn song hành với nhau, không thể tách rời. Mầu nhiệm Phục sinh khẳng định rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật, vì chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm chủ sự sống và sự chết. Mầu nhiệm Tử nạn lại mạc khải cho chúng ta biết: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4,8). Không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người hiến dâng mạng sống vì người mình yeu (x.Ga 15,13). Cũng như các Tông đồ xưa, Kitô hũu chúng ta mọi thời cần phải làm chứng rằng Đấng tử nạn đã phục sinh đồng thời phải làm chứng rằng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn.
Đấng tử nạn đã phục sinh: Khi tuyên bố chân lý này, chúng ta tuyên tín rằng Chúa Kitô chính là Thiên Chúa thật. Người đã phục sinh như lời Người đã tiên báo. Nhìn nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa có nghĩa là kính dâng lên Người sự thần phục của chúng ta. Khong chỉ chúng ta mà mọi vật mọi loài cần phải suy phục Đấng đã phục sinh như là nguyên lý và là cứu cánh của mọi hiện hữu. Cùng với thánh Phaolô chúng ta tuyên xưng: “Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng, nhờ Người và cho Người…” (Col 1,16).
Sự suy tôn, thần phục không chỉ thể hiện bằng việc nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có, đều do bởi Đấng đã phục sinh mà còn thể hiện bằng việc gắn bó với Người và hết tâm hết lòng tuân giữ lời Người phán dạy. Thánh Gioan khẳng định qua bài đọc thứ hai:“Can cứ vào điều này, chúng ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa: đó là chúng ta tuân giữ các điều răn của Người…”(1 Ga 2, 4). Các Tông đồ xưa đã thực thi điều này khi khẳng khái trước mặt quan quyền rằng: Phải vâng lơi Chúa hơn là vâng lời phàm nhân (x.Cvtđ 4,19).
Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn: Chân lý này gợi mở cho chúng ta niềm hy vọng, khi cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa trong Đức Kitô. Vì yêu thương thế gian, Thiên Chúa đã ban chính Con Một (x.Ga 3,16). “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đa đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Col 1,19-20).
Tuyên xưng Đấng phục sinh là Đấng đã tử nạn thì cũng là nhìn nhận tội ác của con người, của chính mỗi người chúng ta. Vì chúng ta, Đức Kitô đã chịu nộp, chịu khổ hình thập giá. Như thế lời tuyên xưng này luôn bao hàm lời mời gọi hoán cải ăn năn để được ơn tha tội. Thiên Chúa đã rộng ban ơn tha thứ, sự giải hòa, qua cái chết của Đức Kitô. Thánh Tông đồ dân ngoại khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Ơn cứu độ đã được trao ban, nhưng chúng ta có nhận được sự thứ tha hay không, vẫn còn tuỳ ở mỗi người chúng ta. Nói như thánh Âugustinô: “Thiên Chúa dựng nên tôi, không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà không cần có tôi”. Và sự sám hối, ăn năn chính là một cách thế căn bản để đón nhận hồng ân tha thứ, hồng ân cứu độ.
Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Lời truyền của Đấng Phục sinh năm xưa vẫn còn vọng vang đến những người tin là các Kitô hữu. Ước gì bà con lương dân, anh chị em khác đạo không chỉ nghe các bài ca “Hallêluia, Chúa đã sống lại”, mà còn nhìn thấy các Kitô hữu, cách riêng các mục tử trong Hội Thánh biết sám hối ăn năn, thay đổi đời sống. Các Tông đồ xưa, đã làm chứng nhân trước hết bằng việc dứt bỏ sự ích kỷ, háo danh, hám lợi để sống quang đại, xả thân vì Danh Chúa và vì hạnh phúc của tha nhân. Các Ngài đã dần bỏ sự hèn nhát mà hiên ngang làm chứng cho sự thật cho dù phải trả bằng chính giá máu… Xin lỗi Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI, không chỉ hôm nay ma cả trước đây lẫn sau này người ta vẫn thích nghe theo các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Cha ông dân Việt đã từng cảm nghiệm rằng: “lời nói gió bay, gương bày lôi kéo”.
76. Các con là chứng nhân của Thầy
(Suy niệm của Lm. Khiêm Cung, CRM)
Câu chuyện "Cái tách đựng trà" của Lã Phụng Tiên sau đây nói lên ý nghĩa Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay:
Một hôm có hai ông bà sang trọng bước vào một cửa tiệm bán đồ sành đồ sứ. Bà đến bên quầy hàng bày đầy những ly tách, bà cầm một cái tách uống trà lên và thỏ thẻ với ông: "Ông này, coi cái tách uống nước dễ thương quá!" Ông cầm lấy ngắm nghía một hồi rồi nói: "Đúng, bà nói đúng. Đây là cái tách đựng trà dễ thương nhất mà tôi đã thấy". Tách trà liền nói: "Cám ơn ông bà khen tặng, nhưng cháu không phải luôn đẹp như vậy đâu". Bà hỏi lại: "Sao cháu lại khiêm nhường thế? Lúc nào cháu cũng đẹp!" Tách đựng trà trả lời: "Trước kia cháu chỉ là cục đất sét xấu xa, thế nhưng, một ngày kia có người bàn tay ướt át ôm cháu bỏ lên bánh xe lăn. Sau đó ông quay cháu như chong chóng đến choáng váng. Cháu phát khóc mà ông cũng không tha. Bị xoay vần quá lâu, cháu đau mình mẩy đến muốn chết được. Sau cùng ông cho cháu ngừng, nhưng lại tệ hơn, ông bỏ cháu vào một cái lò nung nóng đến 500 độ. Cháu toát cả mồ hôi ra, da dẻ cháy khét, đen thui... Ông mới chịu cho cháu ra khỏi lò. Nhưng cô thư ký của ông quét lên mình cháu một lớp sơn khét lẹt, vẽ rồng rắn vào mình cháu rồi cô đặt cháu vào một chiếc lò nung còn tệ hơn lần trước, khiến da dẻ cháu xém lại, cứng nhắc như mot cái vẩy bằng sành. Sau cùng, cô để cháu ở ngoài cho nguội, rồi để lên kệ này bên cạnh chiếc gương to lớn. Cháu không thể tin được mình đẹp như thế. Cháu đã nhận thức ra rằng: Những đau đớn cháu chịu thật đáng giá va mang lại cho cháu một vẻ mỹ miều vẫn còn tồn tại."
Câu chuyện "Cái tách đựng trà" cũng mang một sứ điệp giống như bài Tin Mừng hôm nay. Trước khi Chúa Giêsu sống lại vinh quang, Ngài đã chịu khổ hình và đã chết đi trong đau khổ mà Thánh Phêrô đã tường trình rằng: Thiên Chúa đã cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại để "hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri mà báo trước. Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình".
Thánh Luca cũng thuật lơi Chúa Kitô nhắc lại lời tiên tri: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại... Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy" (Lc 24:).
Muốn làm chứng cho Chúa Kitô thì chúng ta cũng phải khóc, phải khổ như chiếc tách đựng trà và giống như Chúa Kitô đã chịu khổ đau trước khi phục sinh vinh hiển. Nếu muốn nên người hữu dụng và đẹp lòng Chúa, chúng ta cũng phải sẵn sang đón nhận những đau khổ như Ngài.
77. Bình an cho sứ vụ mới – Lm Joseph Long
Việc đầu tiên khi Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ là Ngài trao ban bình an cho họ. Cũng dễ hiểu thôi bởi lẽ các môn đệ đang cần lắm sự bình an sau những chấn động do cuộc khổ nạn của Thầy mình. Dư chấn cuộc thương khó đang làm cho lòng các ông tan nát. Loạt tin tức về việc Chúa mất xác, Chúa sống lại, Chúa hiện ra... làm cho tâm hồn các ông rối bời như canh he.
Ngay cả sau khi đã được Chúa Giêsu hiện ra cũng cố đức tin và kiện cường niềm hy vọng, các ông cũng đang cần lắm bình an của Chúa để khởi đầu cho một sứ vụ mới, sứ vụ làm chứng cho Tin mừng Phục sinh. Sứ vụ mới nay bắt đầu chính thức. Nhưng trước hết các ông cần có cái tâm an bình đã, vốn là hoa trái của đức tin. Có cái tâm an bình thì mới có thể đem tin bình an đến cho người khác được.
Tuy nhiên sự bình an mà Chúa Kitô muốn trao là sự bình an nào? Chắc chắn không phải là bình an theo kiểu của thế gian, như lời Chúa Giêsu khẳng định: "Thầy ban cho anh em sự bình an không như thế gian ban tặng". Bình an của thế gian theo nghĩa là không có chiến tranh, không co tai ương hay xáo trộn. Đặc tính dễ thấy nơi bình an thế gian là giả tạo, chóng qua. Vì bình an thế gian thường đến từ các "ngôn sứ giả" như thời Cựu Ước; bình an đến từ tiền bạc, danh vọng, quyền lực và những tiện nghi vật chất.
Thế bình an mà Chúa để lại cho các môn đệ là gì? Thưa đó là bình an có Chúa luôn ở cùng, bình an có Chúa luôn hiện diện trong tâm hồn: "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". Nói cách khác đây là chính là bình an ơn cứu độ. Bình an đó còn là gì nữa? Đó còn là chính Chúa Thánh Thần và các ân huệ của Người được Đức Kitô ban xuống trong tâm hồn các môn đệ vào ngày lễ Ngũ Tuần.
Đây là thứ di sản bền vững mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ; không như di sản trần thế: tiền bạc của cải, cổ phần cổ phiếu... là những thứ rất bấp bênh, nay còn mai mất, nay được giá mai mất giá....
Các môn đệ có được bình an vì đức tin của các ngài đã có đường vững chắc để đi, đức cậy của các ngài đã có lối rõ ràng để về. Bởi vậy sau này các ngài không còn lo âu xao xuyến sợ hãi nữa, dẫu cho bên ngoài có còn nhiều sóng gió thử thách.
Cuộc sống con người ngày hom nay đang cần lắm sự bình an của Chúa. Bản thân cần sự bình an. Gia đình cần sự bình an. Cộng đoàn cần sự bình an. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết mở lòng ra đón nhận sự bình an của Chúa Kitô. Đồng thời biết trở nên như khí cụ bình an của Chúa, nghĩa là biết đem sự bình an của Chúa cho những anh chị em mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Amen.
78. “Bình an cho các con!”
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Ngày Con Thiên Chúa giáng sinh, các thiên thần hân hoan reo ca: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14).
Và hôm nay, Con Thiên Chúa phục sinh, niềm bình an đến trên nhân loại, không còn do thiên thần báo tin nữa, nhưng đã trở nen lớn lao và quan trọng: Chính Đấng Phục sinh trực tiếp trao ban. Trong các lần hiện ra cùng các môn đệ, lời đầu tiên của Chúa Giêsu Phục Sinh luôn luôn là lời chúc bình an.
Bài Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng: Trong khi các môn đệ còn bán tín, bán nghi về những lần những người trong nhóm họ nói là đã thấy Chúa Phục sinh, thì chính Người, Đấng Phục Sinh ấy, bỗng dưng xuất hiện giữa họ. Lại một lần nữa, Chúa lên tiếng trớc hết: “Bình anh cho các con”.
Bình an, điều mà trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giêsu đã từng rao giảng – Bằng chứng là trong Tám mối Phúc thật, thì Phúc thứ Bảy nói đến hòa bình: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Hay ở một chỗ khác: “Thầy ban BÌNH AN CỦA THẦY cho các con. Thầy ban KHÔNG NHƯ THẾ GIAN ban tặng” (Ga 14, 27). Và còn nhiều những lần như thế.
Bình an có tầm mức quan trọng là thế. Không phải chỉ chờ đến lúc Chúa Giêsu nói, ta mới biết. Nhưng trong kinh nghiệm cuộc sống của từng người, ai mà không cảm nhận sự cần thiết vô cùng của sự bình an.
Vậy mà có lần Chúa lại nói những điều xem ra rất khó nghe, rất chướng tai: “Đừng tưởng Ta đến đem bình an cho trái đất. Ta đến không phải để đem bình an nhưng để đem gươm giáo” (Mt 10, 34).
Hóa ra, Chúa Giêsu tự mình mâu thuẫn với chính mình? Hay ở một khía cạnh khác, mang tầm mức xã hội hơn, bởi “đem gươm giáo”, rõ ràng Chúa Giêsu là một người hiếu chiến? Và nếu thế thì Chúa Giêsu là tay thực dân, là tên xâm lược, giống như thời nay vẫn xảy ra? Đúng như thế hay ta còn phải hiểu thế nào về Lời của Chúa?
Từ cuộc sống của chính Chúa Giêsu, ta dám khẳng định một điều: Người không hề có bất cứ một mảy may mâu thuẫn nào dù là lời nói hay hành động! Trong đời giảng dạy - ba năm trường - Chúa Giêsu không dùng gươm giáo, không kêu gọi lật đổ chính quyền thực dân lúc đó. Người cũng không xâm chiếm lãnh thổ của ai, không cướp đất dành ranh giới của người nào.
Nói cho cùng: Chúa Giêsu là người mang lại phúc cho đời, trước sau gì bản thân Ngươi cũng vẫn là Phúc thật lớn nhất của nhân loại.
Chẳng những không mâu thuẫn, dù lời của Chúa Giêsu có lẽ gay gắt, nhưng rất đúng: Vì chính Tin Mừng “bình an” này, chính mối Phúc thật thứ Bảy này gây nhiều xáo trộn, nhiều chia rẽ.
1. Trước hết cho chính bản thân: có ai muốn sống Lời Chúa, muốn chu toàn lề luật mà không bị giằn co, không phải chiến đấu với bản thân. Nhất là những lần đối diện với cám dỗ, với chính con người đầy yếu đuối, bất toàn của mình.
Có ai sống Lời Chúa mà không thoát khỏi những lúc phải từ bỏ chính bản thân, hay phải chết đi cho những đam mê, cho khoái lạc, dục vọng thấp hèn… Và khi vượt qua để chiến thắng những gì là chưa tốt như thế, cũng có nghĩa là ta đã sống Lời Chúa. Chính lúc ấy, hơn ai hết, hơn bao giờ hết, ta cảm nhận bình an, cảm nhận niềm vui chan chứa trong tâm hồn và trong từng ngày sống của ta.
2. Trong tương quan với anh chị em, Lời Chúa có thể làm ta rơi vào sự thù oán, hay ít là ghen ghét, khi ta không cùng a dua, không “cùng hội cùng thuyền” với những người sống thiếu lương thiện, sống mà không kể gì đến Thiên Chúa.
Từ ngàn xưa, Sách tiên tri Giêremia đã cho ta những bài học quí giá về một cuộc sống thiếu bình an khi phải sống Lời Chúa, khi phải giữ trọn lề luật của Người. Ta hãy nghe Giêrêmia tâm sự:
“Kẻ gian ác nói: ‘Hãy đến đây, ta cùng nhau bàn mưu tính kế hại Giêrêmia. Vì thiếu tư tế, lề luật không chết, thiếu hiền nhân, không thiếu ý kiến, thiếu ngôn sứ, không thiếu lời dạy bảo. Đến đây, ta hãy dùng lời nó mà hại nó’” (Gr 18, 18).
Vì phải sống và loan báo Lời Chúa, nhà tiên tri bị người đời ghét bỏ, chống đối, và thù hận đến mức có những lúc ông đau khổ một cách tuyện vọng, chỉ còn biết than thân trách phận:
“Thật đáng nguyền rủa ngày tôi được sinh ra. Ngày mẹ tôi sinh ra tôi không đáng được chúc lành. Tại sao tôi lại không chết ngay trong lòng mẹ, để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi, và lòng bà cưu mang tôi mãi mãi? Tôi đã lọt lòng mẹ để làm chi? Phải chăng chỉ để thấy toàn gian khổ buồn sầu, và thay cuộc đời qua đi trong tủi hổ” (Gr 21, 14. 17 - 18).
Đó là số phận của những người ngay lành, những người chỉ biết lấy Lời Chúa làm lẽ sống cho mình. Đúng như Chúa đã nói: “Ta đến không phải đem bình an, nhưng đem gươm giáo”.
Bởi thế bình an mà Đấng Phục Sinh trao ban chỉ có thể là bình an của những người biết phó thác cuộc đời mình cho Chúa. Chỉ có phó thác, chỉ có đặt tất cả cuộc đời, tất cả lòng tin và sự sống trong tay Chúa, ta mới có bình an thật trong tâm hồn của mình, dẫu trên thân xác ta đầy vết tích, cuộc đời ta đầy thử thách, đường đời ta đi đầy chông gai.
Chúa Kitô đã chẳng phải như thế sao, khi chính Người đã bị cuộc đời vùi giập? Dẫu là đau đớn đen cùng cực, dẫu là cái chết bầm da, xé thịt, hay mọi đắng cay nhục nhã và ê chề đến đâu đi nữa, Chúa Giêsu vẫn một lòng phó thác chính bản thân Người cho thánh ý Chúa Cha, cho tình yêu của Chúa Cha.
Lúc mà trên thân thể hằn lên nỗi đau bao nhiêu là chính lúc nhờ sự phó thác, Chúa Giêsu lại càng có được bình an tận tâm hồn bấy nhiêu.
Ta hãy xin Chúa ban bình an cho ta, không phải thứ bình an trên thân xác, càng không phải bình an do của cải, quyền thế, danh giá… mang lại, nhưng là bình an của tâm hồn để trong mọi lúc, mọi hoàn cảnh của đời người, ơn bình an ấy sẽ giúp ta càng thánh thiện, càng trung thành với Chúa hơn, dẫu là lúc ta vui hay buồn, sướng hay khổ, dẫu là hoàng cảnh nào đi nữa.
79. Tin và làm chứng cho Chúa - Lm Đan Vinh
1. Bác tài xế tắc xi làm chứng cho Chúa:
Một vị linh mục sau chuyến du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách truyền giáo của một bác tài xế xe tắc-xi tại đây như sau:
"Ngày nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi sang trung tâm thành phố Đài Bắc mua quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy dòng chữ như sau: "Bạn có thể thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách". Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một chục cuốn sách mỏng bằng tranh, nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện tranh các thánh và các danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những mẩu chuyện sống đức tin giữa đời thường... Ngoài ra, phía trên kính chiếu hậu trước mặt tài xế cũng có treo một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi bác tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho biết: Hành khách đi xe của bác có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còm cầm theo mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách đạo do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất vui anh à! Anh biết không: tôi là người tín hữu công giáo nhưng không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng vì đã có thể làm được hai việc một lúc: Vừa lái xe nuôi gia đình lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thời giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một việc thật tuyệt vời!
2. Anh em sẽ là chứng nhân của những điều này: Tin mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy Chúa Giê-su Phục Sinh đã hiện đến với các Tông Đồ đang bị giao động. Sau khi trấn an các ông, Người đã chứng minh cho các ông thấy Người không phải chỉ là bóng ma, nhưng là con người bằng xương bằng thịt thực sự, qua việc ăn uống trước mặt các ông. Cuối cùng sau khi các ông đã tin Người đã từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su chỉ thị cho các ông và cho mọi tín hữu sau này: "Chính anh em sẽ là chứng nhân của những điều này"(Lc 24,48).
3. Phải làm chứng như thế nào?
Ngày nay các tín hữu chúng ta dù không thấy Chúa, nhưng vẫn có thể thi hành sứ mệnh làm chứng cho Người bằng các phương thế như sau:
+ Làm chứng bằng việc thuật lại cho người khác về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su như bà Maria Mác-đa-la đã làm (Ga 20,18). Việc truyền đạt này mọi tín hữu đều có thể làm, nhưng khó thuyết phục được người nghe tin theo (x. Lc 24,11).
+ Làm chứng bằng cách để Chúa ngỏ lời với người khác qua miệng chúng ta: Đức Giê-su đang sống và hiện diện nơi ta, và ta có bổn phận chia sẻ sự xác tín, niềm vui và bình an hạnh phúc mình đang cảm nghiệm được cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được Nhóm Mười Một Tông đồ áp dụng. Sau khi đón nhận ơn Thánh Thần, Tông đồ Phê-rô đã rao giảng và làm chứng về Đức Giê-su như sau: "Chính Đức Giê-su đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại.. Về điều này tất cả chúng tôi xin làm chứng. Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống. Đó là điều anh em đang thấy đang nghe..." (Cv 2,32-33). Cách làm chứng hùng hồn đầy xác tín này của Tông Đồ Phê-rô đã thuyết phục được tới ba ngàn người xin tòng giáo (x. Cv 2,41).
+ Làm chứng bằng lối sống hy sinh quên mình, vị tha bác ái noi gương cộng đòan tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công vụ thuật lại: "Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày thêm những người được cứu độ" (Cv 2,42-47).
+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu bách hại vì đức tin, quyết không hèn nhát bước qua thập giá để khỏi chết, noi gương các anh hùng tử đạo. Nhờ đó, các thánh Tử đạo đã được gọi là các "Chứng nhân đức tin". Đây là phương cách truyền giáo rất hữu hiệu như lời Téc-tuy-li-a-nô khẳng định: "Máu các vị Tử đạo là hạt giống phát sinh các Ki-tô hữu".
4. Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh. Mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa đều dùng Kinh Thánh để giúp các ông tìm ra thánh ý Thiên Chúa và giải thích cho các ông về con đường "Qua đau khổ vào vinh quang", đồng thời chứng minh Chúa đã thực sự sống lại từ cõi chết, đúng như lời Thánh kinh. Xin giúp chúng con ý thức giá trị của Lời Chúa trong việc sống đạo và truyền đạo, hầu khi gặp bất cứ biến cố vui buồn sướng khổ nào trong cuộc sống, chúng con cũng biết tìm kiếm thánh ý Chúa. Xin cho chúng con biết năng hội hiệp nhau học sống Lời Chúa hằng tuần, biết lắng nghe Lời Chúa khi dự lễ, để nhờ lời Chúa hướng dẫn, đức tin của chúng con sẽ ngày càng lớn lên và nhờ ơn Thánh Thần tác động, chúng con sẽ chu tòan được sứ mệnh Chúa trao cho Hội Thánh: "Chính anh em là chứng nhân của những điều này" (Lc 24,48). Amen.
80. Suy niệm của Lm Đan Vinh.
HÃY TIN VÀ LÀM CHỨNG VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH
TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Hãy Tin và làm chứng về mầu nhiệm Phục Sinh.
Bài Tin Mừng của Thánh Luca thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra có lẽ là lần thứ ba với các tông đồ tại nhà Tiệc Ly. Trước hết, Người củng cố đức tin của các ông đang nhát sợ vì tưởng gặp phải ma, bằng cách cho họ xem tay chân của Người bằng xương thịt, và còn ăn uống trước mặt các ông. Sau đó, Người giúp các ông hiểu những lời Kinh Thánh tiên báo về cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Đấng Kitô đã được ứng nghiệm nơi Người. Cuối cùng Người trao sứ mạng cho các ông là phải đi rao giảng sự ăn năn để được tha tội, và làm chứng nhân về các điều ấy.
2) CHÚ THÍCH:
- Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24,35-36):
+ Còn hai ông: Đây là hai số bảy mươi hai môn đệ của Đức Giêsu (x.Lc 10,1). Một trong hai ông tên là Cơ-lê-ô-pát (x. Lc 24,18). Sau khi Đức Giêsu bị người Do Thái giết hại trên thập giá, hai ông đã vỡ mộng và quyết định trở về quê cũ là làng Emmau. Trên đường về làng, hai ông đã gặp được Đức Giêsu Phục Sinh như một khách bộ hành. Trong cuộc trao đổi nói chuyện dọc đường, Người đã giải thích những lời Kinh Thánh về cuộc tử nạn và phục sinh của Đấng Kitô đã được ứng nghiệm nơi Người. Kết quả là các ông đang từ tâm trạng buồn chán thất vọng (x. Lc 24,17.20), đã lấy lại được niềm tin và đã nhận biết Người (x. Lc 24,25-27.31).
+ Nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh: bẻ bánh là cử chỉ của Đức Giêsu đã làm khi nhân bánh ra nhiều 2 lần 9x. Mt 14,19; 15,36), và trong bữa Tiệc Ly khi lập Bí Tích Thánh Thể 9x. Lc 22,19). Nhờ cử chỉ bẻ bánh này mà hai môn đệ kia nhận ra người khách bộ hành chính là Đức Giêsu đã chết và giờ đây sống lại.
+ “Bình an cho anh em”: Đây là lời chào thông thường của người Do Thái (Sha-lom). Nhưng lời này còn bao hàm sự chúc lành của Thiên Chúa. Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã thực hiện lời Người hứa là ban sự bình an cho các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em” (Ga 14,27).
- Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao anh em lại hoảng hốt? Sao còn ngờ vực trong lòng? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24,37-39):
+ Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng la thấy ma: Đây là thái độ thường tình của con người khi gặp một cuộc thần hiện. Trước đây, có lần vào lúc canh tư đêm tối, Đức Giêsu đã đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các môn đệ. Bấy giờ các ông cũng sợ hãi kêu la lớn tiếng: “Ma kìa!”. Và Đức Giêsu đã phải trấn an các ông: “Cứ yên tân, chính Thầy đây, đừng sợ!” (x. Mt 14,25-27).
+ Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!: Chân tay Đức Giêsu có những vết thương do đã bị quân lính đóng đinh tên cây thập tự (x. Lc 23,33).
+ Ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?: Chết là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Khi một người xắp chết, họ sẽ thơ hắt ra và sẽ chết hẳn khi thân xác ngừng thở (x. St 35,18). Khi thân xác thở lại là dấu họ sống lại (1 V 17,21). Linh hồn người chết hiện về được gọi là hồn ma. Ở đây, Đức Giêsu Phục Sinh chứng tỏ Người không phải la hồn ma, khi chứng minh cho các môn đệ thấy Người có xương thịt như một người bình thường.
- Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông (Lc 24,40-43):
+ Người đưa tay chân ra cho các ông xem: Cũng như trong Tin mừng Gioan (x Ga 20,22), Đức Giêsu Phục Sinh đã đưa ra những dấu hiệu chứng tỏ người là Đấng bị đóng đinh, đã chết trên cây thập giá, mà nay sống lại và hiện đang ở trước mặt các ông.
+ Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin, và còn đang ngỡ ngàng: Luca hay thêm vào các câu bào chữa khuyết điểm của các môn đệ. Chẳng hạn: Khi Đức Giêsu bị bắt, Luca viết: “ Người thấy các ông đang ngủ vì buồn phiền” (Lc 22,45). Ở đây, Luca viết “ Vì mừng quá” và “còn đang ngỡ ngàng” để bào chữa cho sự cứng lòng chưa tin của các ông.
+ Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông: Xem ra các vết thương ở tay chân vẫn chưa thuyết phục được các tông đồ tin Đức Giêsu đã sống lại, nên Người đã cho họ thêm một bằng chứng là Người thật chứ không phải hồn ma, bằng cách Người đã cầm lấy khúc cá nướng và ăn trước mặt các ông.
- Rồi Người bảo: “ Khi còn ở với các anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh (Lc 24,44-45):
+ Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em: Đưc Giêsu cho các môn đệ thêm bằng chứng về việc Người đã từ cõi chết sống lại, bằng cách nhắc lại lời tiên báo mà giờ đây đã ứng nghiệm.
+ Sách Luật Môsê, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh: Trước đó, khi thuật lai việc Đức Giêsu Phục Sinh giảng cho hai môn đệ làng Emmau, Luca viết: “Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các Ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả các Sách Thánh” (Lc 24,27). Ở đây, Luca lại kể ra Sách Thánh gồm các sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh.
* Sách Luật Môsê: Năm cuốn đầu của Cựu Ước, được xếp thành bộ Ngũ Thư gồm 5 cuốn là: sách Sáng thế, sách Xuất hành, sách Lêvi, sách Dân số và sách Đệ nhị luật. Người Do Thái gọi Ngũ Thư là Luật Môsê (Tôra), vì đây là nền tảng đời sống đức tin của Dân Chúa. Truyền thống Do Thái vẫn coi tác giả của Ngũ Thư là ông Môsê. Nhưng thực ra, viec biên soạn bốn cuốn đầu chủ yếu do các tư tế thuộc triều đại vua Đavít và Salomon. Riêng sách Đệ nhị luật: Gọi là “Luật thứ hai” vì Luật của Giao Ước Môsê đã được ghi trong ba cuốn Xuất hành, Lêvi, Dân số trước đó. Còn Đệ nhị luật là do các môn đệ của các Ngôn sứ và các Tư Tế biên soạn vào thời dân Do Thái đi lưu đầy ở Babylon và còn tiếp tục hoàn chỉnh sau thời lưu đầy. Nội dung sách này nhằm nhắn nhủ dân Chúa hồi tâm sám hối toi lỗi, trở về tôn thờ Một Thiên Chúa độc nhất và trung thành tuân giữ Giao Ước Xinai.
* Sách Ngôn Sứ: Ngôn sứ là người được Thiên Chúa sai đến để thay Chúa mà nói với dân Người. Sứ mạng của các ngôn sứ là giúp dân Do Thái nhận ra lỗi lầm của họ, kêu gọi họ trở về với Giao Ước, khuyên bảo, loan báo hình phạt. Nhưng sứ mạng quan trọng nhất là tuyên sấm về Đấng Mêsia (hay Thiên Sai) sẽ đến để ban ơn cứu độ. Bộ Sách Ngôn Sứ gồm 16 cuốn, trong đó có 4 Ngôn Sứ lớn như Isaia, Giêrêmia, Êdêkien và Đanien, và 12 Ngôn Sứ nhỏ như Hôsê, Giôen, Amốt, Ovađia, Giôna, Mikha, Nakhum, Khabacúc, Xôphônia, Khácgai, Dacaria, Malakhi. Phân biệt Ngôn sứ lớn hay nhỏ là do độ dày của cuốn sách của các ngài.
* Thánh Vịnh: Là bộ sưu tập các bài ca vịnh được sáng tác ở nhiều thời đại khác nhau, từ thời Đavít đến thế kỷ thứ III trước Công Nguyên. Đây là kho tàng kinh nguyện của dân Chúa trong Cựu Ước cũng như trong Tân Ước. Có 150 Thánh vịnh. Hội Thánh Công Giáo sử dụng các Thánh vịnh trong các Giờ Kinh Phụng Vụ và trong Phụng Vụ Lời Chúa.
- Và Người bảo: “Có Lời Kinh Thánh chép rằng:Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này (Lc 24,46-48):
+ Các câu 46-48: Trình bày tất cả các chủ đề về Đức Giêsu đã được tông đồ Phêrô và các tông đồ rao giảng trong Công Vụ Tông Đồ: Trưng dẫn Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, rao giảng sự sám hối và ơn tha tội, Nhóm Mười Hai được trao sứ mạng làm chứng nhân cho Đức Giêsu (x. Cv 2,14-41; 3,12-26; 13,16-43).
+ Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại”: Khi Đức Giêsu giảng cho hai môn đệ trên đường Emmau, Luca cũng viết: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các Ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24,25-27).
+ Rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem: Hoạt động truyền giáo của các tông đồ vừa theo một tiến trình ưu tiên nhất định là bắt đầu từ dân Do Thái, vưa có tính phổ quát. Từ đây, Giêrusalem trở thành điểm xuất phát để loan truyền Tin Mừng đi khắp nơi cho mọi dân tộc.
+ Kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội: Sám hối (tiếng Hy lạp là Me-ta-noe-ô), nói chung nghĩa là đổi ý, thay đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Theo ngôn sứ Giêrêmia, sám hối là thay đổi hướng đi, quay về với Thiên Chúa của Giao Ước, dấn thân bước vào đời sống mới. Sám hối là điều kiện để được ơn tha tội hay được hương ơn cứu độ.
+ Chính anh em là chứng nhân của những điều này: Là chứng nhân, nghĩa là rao giảng Tin Mừng, là chứng thực về tất cả những điều đã xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, từ khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả, đến cuộc tử nạn, sống lại và lên trời của Người. Đặc biệt các ông phải sẳn sàng chịu chết để làm chứng những điều mình rao giảng là trung thực.
HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) Chính anh em là chứng nhân của những điều này:
- Câu chuyện: Một chứng nhân sống động:
Trong quyển sách “Tôi tin” của tác giả Găng Típ (Grant Teaff), có thuật lại một câu chuyện về một cựu lực sĩ nhảy sào vô địch thế giới tên là Biăng Tonbéc (Brian Sternberg) đã trở nên chứng nhân sống động của Đức Giêsu như thế nào.
Vào năm 1963, Biăng (Brian) lúc đó đang là sinh viên năm thứ hai trường đại học Washington. Anh vừa là lực sĩ nhảy sào vô địch thế giới, lại vừa đoạt chức quán quân về nhào lộn của Mỹ châu. Tác giả đã kể chuyện về nhà vô địch Biăng như sau: “Khắp trường đua, ai cũng biết Biăng là một lực sĩ trẻ đầy tài năng, nhưng phong cách của anh ta vừa có tính tự mãn lại vừa ích kỷ. Trong ngày đạt thành tích phá kỷ lục thế giới, khi tiến ra lãnh huy chương vàng, anh ta tỏ thái độ ngạo mạn khi cố ra vẻ nghiêm nghị và không thèm mỉm cười đáp lễ nhiều người đang hoan hô anh. Nhưng ngày hôm sau, báo chí đã đăng hàng tít lớn: “Nhà vô địch nhảy sào Biăng đã bị chấn thương!”. Số là hôm ấy, đang lúc một mình tập nhào lộn ba nhịp trên sàn tập, Biăng đã bị mất phương hướng để cho mình rơi ngay vào khung căng. Cổ anh bị va vào bờ khung căng làm cây gỗ khung căng bị gãy và Biăng té văng ra ngoài đệm mút, bị tê liệt hoàn toàn do chấn thương sọ não. Thân thể anh bây giờ chỉ có đôi mắt và cái miệng là còn cử động được thôi. Từ ngày đó, Biăng trở nên một phế nhân. Anh không thể tự mình làm điều gì, ngay cả những việc riêng cá nhân như ăn uống vệ sinh cũng phải nhờ người giúp đỡ. Anh cảm thấy chán nản và đau khổ. Từ đó, người ta không còn nhắc đến Biăng nữa. Năm năm sau, tác giả có cơ hội gặp Biăng trong một hội nghị gồm các huấn luyện viên và lực sĩ đã đạt huy chương vàng, tại hội trường lớn của nhà thi đấu trong tiểu bang Côlôrađô.Hôm ấy, trước khi khai mạc hội nghị, đột nhiên hội trường bị tắt điện tối thui, rồi máy đèn chiếu lên màn ảnh một đoạn phim trong đó người ta thấy lực sĩ Biăng đang chạy trên đường băng và thực hiện cú nhảy sào phá kỷ lục thế giới. Rồi trên sân khấu ánh đèn tròn lại chiếu sáng tap trung vào một người cao lớn đang từ hậu trường bước ra sân khấu. Đó là cầu thủ bóng đá nổi tiếng Uet Uynmơ (Wes Wilmer). Anh ta đang cõng theo một hình nhân gầy đét với đôi tay rũ rượi và đôi chân dài, đu đưa hai bên sườn của Uynmơ. Hình nhân này không ai khác hơn là anh chàng cựu vô địch nhảy sào Biăng, cao 1,9 mét, nhưng chỉ nặng không tới 38 kilô. Sau đó, Uynmơ đặt anh chàng hình nhân ngồi trên ghế. Rồi hình nhân Biăng bắt đầu phát biểu vơi cử tọa như sau:
“Thưa các bạn, hôm nay tôi vui mừng được mời đến đây tham dự hội nghị các huấn luyện viên và các nhà vô địch. Ôi! Tôi cầu xin Chúa để những gì xảy đến cho tôi sẽ không bao giờ xảy đến cho bất cứ người nào trong các bạn. Tôi cầu xin để các bạn không bao giờ phải nếm mùi nhục nhã hổ thẹn vì không thể tự làm lấy các việc của một người bình thường như ăn uống, vệ sinh, đi lại…Ôi! Tôi cầu xin Chúa để các bạn sẽ không bao giờ phải nếm mùi thương đau mà tôi đang phải chịu đựng từng ngày. Trừ phi, đó là điều cần thiết để giúp các bạn chấp nhận Thiên Chúa là trọng tâm cuộc đời của các bạn giống như hoàn cảnh của tôi hôm nay”.
Những lời của Biăng đã gây chấn động mạnh nơi cử tọa đang hiện diện trong hội trường. Ai nấy đều xúc động và cảm thông với một tài năng đã sớm lụi tàn. Nhưng đồng thời cũng khâm phục về một con người tuy tàn nhưng không phe. Anh đã dành những hơi sức còn lại để làm chứng cho tình yêu của mình vào Đức Kitô.
- Suy nghĩ: Phải làm gì để làm chứng cho Đức Giêsu?
+ Làm chứng cho Đức Kitô trước hết là thuật lại cho người khác biết về cuộc đời va lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này ai cũng có thể làm được!
+ Làm chứng cho Đức Giêsu là khẳng định rằng Đức Giêsu đã sống lại từ trong cõi chết như Maria Mácđala và một số phụ nữ viếng mồ Người đã làm. Nhưng thực tế cho thấy lời chứng ấy đã không đem lại kết quả bao nhiêu (x. Lc 24,8-11).
+ Làm chứng cho Đức Giêsu là dùng chính cuộc sống đã được đổi mới của mình để chứng tỏ quyền năng của Đức Giêsu Phục Sinh đã tác động và bien đổi chúng ta nên mới cách lạ lùng. Đó là điều mà Biăng đã làm trong câu chuyện trên.
+ Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người ngỏ lời với tha nhân qua con người đã được đổi mới của chúng ta. Là làm chứng rằng Đức Giêsu vẫn đang sống và hiện diện cụ thể nơi bản thân mình, và ta phải chia sẻ sự xác tín, niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Cách làm chứng này đã được tông đồ Phêrô và nhóm mười một tông đồ áp dụng. Nhờ được Thánh Thần biến đổi nên Phêrô đã rao giảng Tin Mừng. Bài giảng của Phêrô đã có kết quả là 3 ngàn người xin theo đạo (x. Cv 2,1-41).
+ Cuối cùng, làm chứng cho Đức Giêsu là sẵn sàng chịu chết vì đức tin, chứ không chịu bỏ đạo bước qua thập giá để được thả. Do đó, các vị tử đạo được gọi là các chứng nhân Đức Giêsu. Téc-tuy-li-a-nô nói: “Máu của các thánh tử đạo là hạt giống phát sinh ra các Kitô hữu”.
Vậy mỗi tín hữu chúng ta sẽ phải làm gì để làm chứng cho Đức Giêsu?
2) Hãy đi rao giảng Tin Mừng:
- Câu chuyện: Bác tài xế Tắc xi làm tông đồ:
Một vị linh mục sau chuyến đi du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một cách thức truyền giáo của một tài xế tắc xi như sau:
“Ngày nọ, tôi đón tắc xi từ khách sạn đi trung tâm thành phố Đài Bắc mua sắm quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ giấy ghi mấy hàng chữ như sau: “Bạn có thể tìm thấy một vài quyển sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà không phải trả tiền mua sách”. Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy độ một chục cuốn sách mỏng bằng tranh nội dung về cuộc đời Đức Giêsu in trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện về các thánh và các danh nhân công giáo, một ít cuốn là những câu chuyện về việc sống đức tin giữa đời thường như the nào…
Ngoài ra, phía trên tấm kính chiếu hậu trước mặt tài xế, cũng có một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi anh tài xế:
- Này bác tài, xin vui lòng cho tôi biết: Hành khách đi xe có ai quan tâm đến hộc sách đạo của bác không?
- Ồ có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còn cầm mang về nhà nữa.
Tôi hỏi tiếp:
- Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc các sách do bác giới thiệu?
- Tôi cảm thấy rất sung sướng anh à! Anh biết không: tôi không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất mừng có thể làm hai việc một lúc: Vừa lái xe lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không mất thêm thì giờ. Tôi nghĩ rằng tôi đang làm một công việc thật tuyệt vời!
Một số hội đoàn Công Giáo Tiến Hành cũng đã phân phát cho các tài xế xe tắc xi ở Đài Bắc một tấm thẻ bọc nhựa treo trước mặt tài xế. Trên tấm thẻ ở mặt trước có in hình cây Thánh Giá màu đỏ với dòng chữ: “Chúa đang cùng lái xe với bạn”. Mặt sau là lời cầu của các tài xế như sau: “Lạy Chúa, khi con lái xe, xin giúp con yêu mến tha nhân như chính bản thân con, để con không làm gì gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin cho con giữ đức công bình để không thu tiền cước xe quá giá, sẵn sàng trao trả đồ đạc khách bỏ quên trên xe. Xin cho đôi mắt con được tinh tường, cho tay chân con được khéo léo để lái xe an toàn và tránh gây tai nạn. Xin cho tâm trí con luôn bình an và thần kinh con luôn thoải mái. Xin đừng để con lái xe khi uống rượu say không đủ tỉnh táo. Xin đừng để con nhiễm thói cạnh tranh bất chính với các bạn đồng nghiệp. Và cuối cùng xin Chúa giúp con luôn Thượng Lộ Bình An”.
- Suy nghĩ và quyết tâm: Bạn nhận xét thế nào về phương cách tặng sách truyện tranh ảnh Kinh Thánh, truyện của các thánh và những truyện sống đức tin trong đời thường của bác tài xế tắc xi trong câu chuyện trên? Bạn sẽ chọn cách truyền giảng Tin Mừng nào đối với bạn học cùng trường hay cùng làm trong một cơ quan xí nghiệp hay nhà máy?
HIEP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Hầu như trong mọi lần hiện ra, Chúa cũng đều dùng Kinh Thánh để giúp các môn đệ hiểu biết Thánh Ý Chúa Cha, giải thích cho các ông về mầu nhiệm “vào vinh quang ngang qua đau khổ”. Đồng thời cũng chứng minh Chúa đã thực sự sống lại đúng như các ngôn sứ đã tiên báo. Xin Chúa giúp chúng con hiểu biết giá trị của Kinh Thánh, hầu trong mọi biến cố xảy ra trong cuộc sống hằng ngày, chúng con biết tìm ra Thánh Ý Chúa. Xin cho chúng con siêng năng hiệp sống Lời Chúa, cho chúng con biết lắng nghe Lời Chúa mỗi khi dự lễ, để nhờ Lời Chúa hướng dẫn, chúng con sẽ ngày một sống tử tế tốt lành hơn và làm đẹp lòng Chúa hơn.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Phục Sinh đã củng cố đức tin của các tông đồ bằng việc cho xem tay chân đã từng bị đóng đinh, ăn uống trước mặt các ông. Rồi khi các ông đã tin, Chúa lại đòi họ phải làm chứng nhân cho Người. Xin Mẹ giúp chúng con chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa, bằng việc sám hối và xa lánh dịp tội, làm nhiều việc lành như chia sẻ cơm áo tiền bạc cho nhưng người nghèo, thăm viếng những người đau liệt…để chúng con nên nhân chứng tình thương của Chúa Giêsu.
X) Hiệp cùng mẹ Maria. -Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
81. Đức Giêsu hiện ra với các Tông đồ
(Chú giải của Lm. FX. Vu Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chương 24 của Tin Mừng Luca được xây dựng thành 3 đoạn:
- Mồ trống (cc. 1-2): đây là đoạn duy nhất song song với Mc và Mt;
- Các môn đệ Emmau (cc. 13-35);
- Đức Giêsu hiện ra với Nhóm Mười Một (các ông nhận ra Chúa: cc. 36-43; Người ban sứ điệp Phục Sinh: cc. 44-49);
* Một kết luận ngắn với câu truyện Lên Trời và việc các môn đệ tạ ơn trong Đền Thờ, từ đó Tin Mừng đã khởi sự.
Toàn khối này là một đơn vị văn chương chắc chắn, do hành động, nơi chốn và thời gian.
Trong TM Lc, Đức Giêsu chỉ hiện ra tại Giêrusalem, và Nhóm Mười Một không ra khỏi Thành (c. 48). Điều này trái ngược với ba Tin Mừng kia (Mt 26,32; 28,7.16-20; Mc 16,7; Ga 21). Tác giả Lc có biết truyền thống nói về việc Đức Giêsu hiện ra tại Galilê (24,6; x. Mt 28,7; Mc 16,7), nhưng dường như ngài đã chọn cách lờ đi để duy trì cấu trúc đơn giản của hai quyển sách của ngài: quyển Tin Mừng là một chuyến đi lên Giêrusalem, còn quyển Công vụ là sự lan tỏa của sứ điệp khởi đi từ Giêrusalem (Cv 1,8).
Nhờ lược đồ này, tác phẩm Lc (TM+Cv) có một sự đối xứng rất khéo và nêu bật được tính duy nhất của biến cố Phục Sinh.
Cũng do mục tiêu ấy, tác giả đã làm cho chương 24 có tính duy nhất hoàn toàn giả tạo về thời gian: Mọi biến cố nối đuôi nhau xảy ra trong vòng một ngày (mồ trống; Emmau; Hiện ra; Lên trời). Viễn tượng của Lc mang tính thần học hơn là thời gian. Tác giả muốn trình bày trong một cảnh (“xen”) duy nhất toàn bộ mạc khải về Phục Sinh: thực tại không thể phủ nhận là thân xác của Đấng Phục Sinh; mạc khải về tư cách Đức Chúa của Người (vì thế có truyện Lên trời); sứ mạng truyền giáo. Ngày này là ngày Phục Sinh, đỉnh điểm của Tin Mừng, đích điểm của thời gian Đức Giêsu sống ở trần gian.
Ngày này cũng mở ra một giai đoạn mới, và Lc đặc biệt nhấn mạnh điểm này. Có lẽ tat cả các tác giả Tin Mừng đều biết rằng cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu là khởi điểm cho hoạt động truyền giáo (Mt 28,19-20; Mc 16,15-20; Ga 20,21.23), nhưng chỉ có Lc mới dành cả một quyển sách để viết về hoạt động này. Và khi tách quyển này với quyển Tin Mừng, tác giả cho thấy sự tách biệt giữa thời gian của Đức Giêsu và thời gian của Giáo Hội. Ngài cũng làm điều ấy bằng hai lần nhắc tới Lên trời: ở cuối quyển TM III, biến cố Lên trời biểu lộ cuộc tôn vinh Đức Giêsu bên hữu Chúa Cha và kết thúc mạc khải Đức Giêsu là Đức Chúa; ở đầu sách Công vụ, biến cố Lên trời mời gọi các tông đồ bắt tay vào sứ mạng truyền giáo.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Các môn đệ nhận ra Đức Giêsu (24,35-43);
2) Đức Giêsu ban sứ điệp Phục sinh (24,44-48).
3.- Vài điểm chú giải
- Bình an (36): Khi kéo theo việc mất niềm tin, sự chia ly chỉ tạo ra buồn sầu và hoang mang (cc. 17.38). Nếu cách biệt mà vẫn sống trong đức tin, thì sẽ có niềm vui (c. 52) và bình an (c. 36). Đây không chỉ đơn giản là lời chào shalôm, mà là việc ban tặng “sự bình an thiên sai” đã được các ngôn sứ loan báo và Đức Giêsu hứa ban trước khi chịu chết (x. Ga 14,27). Đây là sự bình an đạt được với giá là cái chết của Người trên thập giá; đây là việc giao hòa nhân loại với Thiên Chúa trong máu Đức Kitô (x. Rm 5,1.10; 2 Cr 5,18-19;…).
- Các ông kinh hồn bạt vía (37): Khi đọc Mc (16,9-20), ta thấy Nhóm Mười Một không tin (x. Mc 16,10.13). Còn ở trong Lc, hai môn đệ Emmau trở về chưa kịp làm chứng thì Nhóm Mười Một cùng với các bạn đã tuyên xưng đức tin rồi (24,33)! Thế nhưng khi Đức Giêsu hiện ra sau đó, các ông lại kinh hồn bạt vía và ngờ vực (cc. 36-38). Tác giả Lc đã chấp nhận tình trạng thiếu mạch lạc đó vì một ý hướng thần học: trong số các tông đồ, Phêrô rõ ràng có một vị trí riêng biệt. Ông có một vai trò phải đóng sau tấn bi kịch Thương Khó (Lc 22,31-32). Nay để cho thấy lời của Đức Kitô đã đến lúc ứng nghiệm, Lc nhắc đến việc Đức Giêsu hiện ra với Phêrô trước khi hiện ra tại nhà Tiệc Ly, và ghi một câu cho thấy lòng tin của Phêrô là nguồn mạch cho đức tin của những người khác (c. 34). Bài học là đức tin của mọi thế hệ tương lai sẽ dựa trên chứng từ của các tông đồ và, đặc biệt, của Phêrô.
- sao còn ngờ vực (38): Trong thời gian hoạt động, Đức Giêsu đã trách các môn đệ thiếu lòng tin, chẳng hạn khi gặp bão trên hồ (x. Mt 8,23tt). Mối nguy hiểm đã gặp cũng như quyền năng đã chứng kiến của Đức Giêsu lẽ ra phải giúp họ học được bài học: cũng như xưa kia Người đã ngủ trong thuyền, thì nay cũng thế, ở trên thập giá, Người đã chỉ “ngủ” đi vài giờ; trong mồ, Người chỉ “nghỉ” thôi (x. Lc 23,46; 8,52; Ga 11,11), nhưng Người đã “trỗi dậy” (Lc 24,6: động từ egeirô có nghĩa là “thức dậy”, “sống lại”). Không phải là Thiên Chúa đã che mắt họ, nhưng chính lòng kém tin đã khiến họ không nhận ra Đức Giêsu. Chính cái chết mà nhờ đó Đức Giêsu cứu chuộc thế gian, lại bị các mon đệ coi như một thất bại không thể cứu chữa. Và kể từ khi Đức Giêsu được an táng, các môn đệ không tin nữa! Họ từ chối tin khi các phụ nữ đến mang tin nói rằng ngôi mộ trống và các thiên thần đã hiện ra nói rằng Người đang sống (c. 23). Chỉ có Phêrô (và người môn đệ Đức Giêsu thương mến, theo Ga 20,2tt) có vẻ hơi bị lung lay, nên đã chạy đến mộ để xem hư thực thế nào. Ông nhận thấy rằng thi hài Đức Giêsu không còn ở đó nữa; chỉ còn các dây băng. Nhưng không phải vì đó mà Phêrô đã được thuyết phục (c. 12). Do đó, mộ trống không phải là một bằng chứng rõ ràng về sự phục sinh, mà chỉ là một dấu chỉ thôi.
- nhìn chân tay (39): Các dấu chỉ không phải là vô ích; chúng có có một vai trò quyết định trong việc phát sinh đức tin. Các dấu chỉ dường như còn cần thiết nữa để người ta nhận ra được Đức Giêsu sau khi Người sống lại. Nhưng tùy tình trạng nội tâm của mỗi người mà các dấu chỉ nên rõ nhiều hay ít. Đối với người phụ nữ tội lỗi đang yêu, chỉ cần Đức Giêsu gọi đúng tên bà: “Maria” (Ga 20,16). Đối với người môn đệ Đức Giêsu thương mến, chỉ cần ngôi mộ trống (Ga 20,8) hoặc mẻ cá lạ lùng (Ga 21,4-7). Đối với hai môn đệ Emmau, đó là lúc bẻ bánh (Lc 24,30-35). Đối với các tông đồ, cần phải có những dấu chỉ rõ ràng hơn: thấy các vết thương, chạm đến thân thể Người, và cả con cá mà Người ăn trước mặt họ (24,39-43). Với “khúc cá nướng”, tác giả Lc muốn cho thấy thực tại thể lý của Đấng Phục sinh, bởi vì đây là khó khăn lớn đối với các độc giả hy-lạp (x. Cv 17,32).
- Vì mừng quá, các ông vẫn chưa tin (41): Tác giả Lc tìm ra một lời bào chữa cho sự cứng tin của Nhóm Mười Một.
- Luật Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh (44): Có khi Đức Giêsu đã trách các môn đệ là đã không tin vào những lần Người hiện ra, nhưng những dịp này không loại bo tính cần thiết của các dấu chỉ, nên theo một nghĩa nào đó, các dấu chỉ có vẻ cốt yếu hơn là các cuộc hiện ra (x. chuyện Tôma: Ga 20,29).
Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không ngừng trách các môn đệ cũng như người Do Thái khi ho yêu cầu các dấu lạ. TM Lc đã nhắc đi nhắc lại: lẽ ra chứng tá của Kinh Thánh đã đủ rồi! Kể từ lâu rồi, “Luật Môsê, các Ngôn sứ và các Thánh vịnh” (= Kinh Thánh) đã loan báo tất cả những gì vừa được thực hiện (x. Lc 24,27.32).
Ý tưởng Môsê đã làm chứng cho Đức Kitô thuộc về truyền thống Nhất Lãm như ta thấy trong hoạt cảnh Hiển Dung. Tuy nhiên, trong khi Mt và Mc chỉ ghi nhận rằng Môsê và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Đức Giêsu, Lc lại xác định: “Hai vị nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem”, tức gợi ý rõ ràng đến mầu nhiệm Vượt Qua (Lc 9,31; so sánh với 24,14.20). Tác giả Lc cũng là người duy nhất đã ghi giữ một lời Đức Giêsu nói nhằm khẳng định rằng chứng tá của Môsê và các Ngôn sứ đã đủ thuyết phục như chứng tá của một người chết sống lại (x. Lc 16,27-31). TM IV cũng nhấn mạnh không kém đến tầm quan trọng của chứng tá của Môsê về Đức Giêsu (Ga 5,46-47). Tuy nhiên, chỉ có Lc mới trở lại với đề tài này trong bài tường thuật về Phục Sinh.
Tự hỏi Đức Giêsu đã trích những bản văn Kinh Thánh nào khi Người hiện ra, thì mất công vô ích. Tác giả Lc đã chỉ ghi lại những quy chiếu tổng quát về toàn bộ Cựu Ước theo các phần lớn được phân biệt trong các bài đọc ở hội đường (24,44): Luật Môsê (bản séder), các ngôn sứ (bản haftara) và các Thánh vịnh (bản mizmor). Dĩ nhiên, tác giả đã có thể nghĩ đến những bản văn rõ rệt. Khi ghi lại các bài giảng của các tông đồ, sách Cv đã ghi một loạt những đoạn văn quy chiếu: Tv 16,8-11 (Cv 2,24-28; 13,34-37); Tv 2,7 và Is 55,3 (Cv 13,32-34); Tv 118,22 (Cv 4,11)…
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Các môn đệ nhận ra Đức Giêsu (35-43)
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra giữa các ông và chào chúc: “Bình an cho anh em!”. Sự bình an của Người là ân huệ phục sinh của Người. Người không ban cho các môn đệ bất cứ đảm bảo nào là các ông sẽ sống yên ổn suốt đời, các ông sẽ có một cuộc sống luôn luôn huy hoàng, không phải thiếu thốn, đau khổ hay lo lắng gì. Chính Người là Đấng Kitô chịu đóng đinh, đã không được gìn giữ khỏi đau khổ và thiếu thốn, khỏi bị từ khước và thù nghịch, khỏi những đau đớn và cái chết. Nhưng Đấng Chịu đóng đinh đây cũng chính là Đấng Phục Sinh. Đã có lúc Người bị điệu đi đến cái chết, run rẩy khiếp sợ, nay Người đang đứng trước mặt các ông như là Đấng Vẫn Sống, Đấng đã vượt thắng cái chết và nay không thể chết nữa. Như thế, Đức Giêsu cho các môn đệ thấy rằng họ không sợ rơi vào nguy cơ là bị hủy diệt hoàn toàn. Ngay cái chết cũng khong thể làm hại chúng ta vĩnh viễn, phương chi các thiếu thốn khác làm gì có thể gây hại bao nhiêu cho đời sống chúng ta! Ân huệ phục sinh của Đức Giêsu không phải là sự bình an của một cuọc sống không bị xáo trộn, nhưng là sự bình an được sống trong tình trạng yên hàn, bảo đảm và che chở phát xuất từ quyền lực và tình yêu của Thiên Chúa. Nền tảng và bảo đảm cho lời chào và ân huệ ấy là chính Đấng Phục Sinh trong sự sống mới của Ngươi, một sự sống đã thắng được cái chết.
* Đức Giêsu ban sứ điệp Phục sinh (44-48)
Trong tư cách Đấng Phục sinh, Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng toàn thể định mệnh của Người đã được Thiên Chúa muốn như thế, va Người giúp các ông hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh, như Người đã làm cho hai môn đệ Emmau. Cái chết của Người trên thập giá và cuộc phục sinh của Người cũng đã làm trọn nội dung sau này phải được loan báo cho mọi dân tộc. Nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là trong chứng từ về Người, khởi đi từ tất cả những gì đã được biểu lộ xuyên qua công trình và toàn thể cuộc tiến bước của Người cho đến thập giá và sự sống lại, muôn dân sẽ được loan báo sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi. Mọi người phải quay trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã nhờ cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà chứng tỏ tình yêu và quyền lực của Người. Rồi Đấng Phục Sinh biến các môn đệ trở thành chứng nhân của Người. Họ sẽ phải làm chứng về các biến cố trong cuộc đời của Người cũng như cuộc gặp gỡ với Người đây và việc Người trở về trời (x. Cv 1,21t).
+ Kết luận
Đức Giêsu đã thuyết phục các môn đệ tin vào thực tại của đời sống mới của Người. Người đưa các ông đến chỗ hiểu Kinh Thánh và hành trình Người theo lâu nay. Người chỉ cho các ông thấy nội dung của việc loan báo và nhiệm vụ truyền giáo. Người củng cố các ông trong tư cách chứng nhân, bằng cách hứa là các ông sẽ nhận được quyền năng từ trên cao (Lc 24,49). Tất cả những điểm này đang đưa chúng ta đến chỗ kết của TM III, và chuyển chúng ta sang phần thứ hai của tác phẩm Luca, đó là sách Cv. Thánh Thần sẽ được Chúa Cha ban xuống trên Họi Thánh phôi thai (Cv 2,1) để làm cho các thành viên trở thành những chứng nhân minh mẫn và can đảm, quảng đại và kiên trì dấn thân làm chứng về Đức Giêsu Phục Sinh.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Kitô chết trên thập giá đã thật sự sống lại, bằng xương bằng thịt. Sự kinh hồn bạt vía và ngờ vực của các tông đồ lại hữu ích cho chúng ta: chính thái độ khó tin đó của các ông lại là một đảm bảo cho tính vững chắc của đức tin chúng ta. Đức tin của chúng ta không dựa trên chứng tá của những con người dễ tin, dễ bị ảnh hưởng từ bên ngoài. Đức tin của chúng ta dựa trên những con người thực te, đòi hỏi những dấu chỉ và bằng chứng. Chứng tá của các ông càng mạnh mẽ do chỗ là chứng tá không phải của một thái độ dễ tin theo chuyện mê tín nhưng là một sự cứng tin đã thắng vượt nhờ óc phê bình.
2. Nhiều người đương thời chúng ta vẫn coi Đức Giêsu Phục Sinh chỉ là một bóng ma, một thứ gì đó thay vì là một Đấng, là một huyền thoại thay vì là một Con Người đang sống. Theo họ, Đức Kitô cùng lắm chỉ là một điển hình cho nhân loại, cong hiến cho mọi người một giáo lý và những gương sống đáng phục…, nhưng bây giờ Người không còn sống nữa, Người chẳng “ngự bên hữu Chúa Cha” trên trời, cũng chẳng hiện diện trong hình bánh hình rượu đã truyền phép… Trách nhiệm của các Kitô hữu là làm chứng bằng đời sống và lời nói rằng Người thật sự vẫn là Người Sống.
3. Vấn đề không phải là chuyện nhạy cảm hoặc kinh nghiệm cá nhân chủ quan. Vấn đề là tin, tin tất cả những gì Thien Chúa mạc khải cho chúng ta bằng Kinh Thánh và bằng Thánh Truyền. Vấn đề là tin những gì Hội Thánh đã và đang dạy khắp nơi. Tin vào Đấng Phục sinh, là chấp nhận chứng từ của một nhóm đông đảo gồm các tông đồ và các môn đệ của Đức Giêsu đang khẳng định trước mặt thế giới và sẵn sàng chấp nhận tử đạo rằng họ đã thấy Thầy họ chết trên thập giá nhưng đã trở lại với cuộc sống trong một thân xác hiển vinh không còn lệ thuộc các hoan cảnh thông thường của thời gian và không gian nữa.
4. Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều trở ngại, do chẳng hạn có những Kitô hữu, vì hèn nhát, đang sống ích kỷ hơn, sống hà tiện hơn, kiêu ngạo hơn, trơ trẽn hơn mot số người ngoại giáo. Nhưng tất cả chúng ta biết rằng Đức Kitô Phục Sinh muốn họ hoán cải: Người muốn tha thứ tất cả và biến họ trở thành tông đồ của Người, và điều này không bao giờ là quá trễ, nhằm nối tiếp các Tông Đồ đầu tiên.
82. Chú giải của Noel Quesson.
Hôm nay chúng ta đọc một phần bản văn Luca về “Trình thuật Phục sinh”.
Theo Tin Mừng của ông, năm biến cố đã xảy ra trong ngày Phục sinh:
- Các phụ nữ đến viếng mộ vào buoi sáng và việc báo tin Chúa Phục sinh (24, 1-10).
- Phêrô cũng đến thăm mộ và thái độ bối rối của ông (24, 11-12).
- Chúa hiện ra với hai môn đệ làng Emmau (24, 13-35).
- Chúa hiện ra với mười một môn đệ, cùng buổi chiều hôm đó (24, 36-49).
- Đức Giêsu thăng thiên và việc Người được tôn dương trên trời (24, 50-53).
Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và chuyện mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói thì Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông.
Từ ba ngày qua, biết bao là biến cố bi thảm đã xảy ra cho con người đáng thương này? Bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu vào tối thứ năm, cuộc vây bắt tại vườn Ghétsemani, mọi người đều bỏ trốn, Phêrô chối Chúa, việc xét xử bêu nhục Chúa như kẻ phản đạo và phạm thượng, cái chết của Chúa trên thập giá ngoài cửa thành, việc treo cổ tự sát của Giuđa, một bạn hữu của họ. Nhóm Mươi Hai trở thành nhóm Mười Một, do một người trong họ bỏ cuộc và đã chết!
Chính trong bối cảnh này mà cuộc "Phục sinh" xảy đến một cách bất ngờ và làm cho mọi người bàng hoàng sửng sốt.
Người nói với các ông: "Chúc anh em được bình an"
Đó là lời chào hỏi thông thường của Người Do Thái: “Shalom!" có nghĩa là "Bình an”.
Nhưng ta có thể nghĩ rằng, chiều hôm đó, lời chào chúc cổ truyền đó hẳn phải mang một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt: chính vào lúc vô cùng tuyệt vọng thì Chúa hiện đến trấn an các ông: "Anh em đừng sợ", "Hãy an tâm". Theo Thánh Gioan, trước khi bước vào cõi chết, hôm thứ năm vừa qua, Đức Giêsu đã hứa các tông đồ sẽ được bình an sau một 'thời gian khủng hoảng đớn đau’: "Thầy để lại sự bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy" (Ga 14,27). "Anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô đơn”. “Thầy nói với anh em những điều ấy để nhơ kết hợp với Thầy, anh em được bình an” “Anh em can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian rồi" (Ga 16,32-33). Hôm nay vào chiều tối Phục sinh, lời hứa đã được thực hiện.
Các ông sợ hết hồn hết vía, tưởng là thấy ma.
Rõ ràng, như các trình thuật khác đều đã nói cho ta. Nhóm "Mười Một" bắt đầu run sợ và nghi ngờ. Một lát nữa, Luca sẽ nhấn mạnh giúp ta lưu ý tới sự kiện Đức Giêsu phải "mở trí lòng" họ: họ còn không hiểu gì cả. Chỉ ngắm nhìn thì chưa đủ còn phải "mở trí lòng" tới mầu nhiệm.
Nhưng Người nói: "Việc gì mà hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như Thầy đây?"
Trong trình thuật tương song của Gioan, Đức Giêsu đã cho các tông đồ xem "tay và cạnh sườn" Người (Ga 20,20). Còn ở đây Luca lại ghi, Người cho họ xem "chân tay" Người? Ta biết rằng, đối với Thánh Gioan "cạnh sườn" rộng mở tượng trưng cho nguon nước vọt ra từ đền thờ mới, theo lời tiên báo của ngôn sứ Êdêkien.
Những điểm cốt yếu của trình thuật vẫn là chung, đó nhằm minh chứng rằng chính Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh, nay đã sống lại. Đối với những người Sêmít, này, là những người không có ý niệm phân biệt linh hồn và thể xác theo triết thuyết của Platon và Descartes, thì nếu Đức Giêsu đang sống động, chỉ có thể hiểu Người sống động với toàn diện con người mình. Đức Giêsu muốn quả quyết, Người không phải là một bóng ma như thế, Người phải có một thân xác, sự sống lại không thể giản lược vào nguyên một tình trạng "linh hồn bất tử". Do đó, mọi chi tiết trên đây đều diễn tả cách cụ thể: "Cứ rờ vào Thầy. Hãy xem chân tay Thầy. Hãy cho Thầy ăn".
Tuy nhiên, chúng ta không nên ảo tưởng. Cần phải vượt qua vẻ vật chất của ngôn từ diễn tả, để hiểu ý nghĩa sâu xa của công cuộc Phục sinh. Nhằm đề cao chân lý đó, chính Thánh Phaolô sau này sẽ xác quyết: "Chúa là thần khí”(2Cr 3,17-18). Ngài cũng nói về thân xác Phục sinh như một "thân-thể-thuộc-linh” (1Cr 15,44).
Các ông vẫn chưa dám tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Ngươi hỏi: “Ở đây anh em có ăn gì không" Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng, Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
Việc ám chỉ tới một bữa ăn như trên, gợi lại cử chỉ của Chúa tại làng Emmau, sau này Phêrô cũng tuyên bố: chính chúng tôi đã được cùng ăn, "cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại" (Cv 10,41). Trong trình thuật của Luca trên đây, không có gì ám chỉ cách công khai tới Thánh Thể nhưng bầu không khí vẫn la khung cảnh của những "bữa tiệc thánh”, mà ở đó các môn đệ sẽ nhận ra một sự hiện diện mới của Đấng Phục sinh.
Rồi Người bảo: "Anh em hãy nhớ lại những lời Thầy đã nói, khi Thầy còn ở với anh em"
Công cuộc Phục sinh không thể dược hiểu như một thứ hiện tượng cách biệt, một thứ hành động ma thuật. Đức Giêsu cố gắng giúp cho người ta “hiểu” và dồn "tâm trí" vào sự kiện đó. Và bước đường đầu tiên mà Người gợi lên cho các tông đồ đi tới hiểu biết, đó là vận dụng "ký ức” Người đã báo trước cái chết và sự phục sinh của Người. Người mong muốn chúng ta khám phá ra sự liên tục giữa Đức Giêsu trước Phục sinh ‘và’ Đức Giêsu sau Phục sinh, Đức Giêsu lịch sử và Đức Giêsu vượt qua lịch sử, Đức Giêsu cụ thể và Đức Giêsu của lòng tin.
Về vấn đề này, chúng ta nên ghi nhận kiểu nói kỳ lạ của Đức Giêsu: khi Thầy còn ở với anh em ‘thuộc về quá khứ’ Nhưng, lạy Chúa Giêsu, lúc này Chúa đang hiện diện với chúng con mà! Các môn đệ đã có thể đáp lại với Chúa như thế. Đúng vậy, nhưng Người đâu có hiện diện cũng một cách thức như trước nữa: Vẫn chính là Người, nhưng không phải y như trước. Đay luôn là mầu nhiệm đức tin.
Tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh.
Các Sách Thánh loại nào? Đó là toàn bộ Cựu ước: Luật, Ngôn sứ và Thánh Vịnh. Đúng ra, Đức Giêsu là một người rất quen thuộc với Kinh thánh. Người đã đọc đi đọc lại cho riêng mình một số đoạn để ứng dụng vào số phận đời Người. "Kinh thánh đã nói về đời tôi!". Các bạn hãy đọc lại và sẽ thấy. Và chúng ta hình dung ra như Đức Giêsu, đang dạy một lớp giáo lý Kinh thánh, chú giải Kinh thánh. Công cuộc Canh tân Phụng vụ theo ý Công đồng Vatican II lại tạo điều kien cho chúng ta đọc nhiều đoạn Kinh thánh hơn: mỗi Chúa nhật sẽ đọc ba bài đọc thay hai như cũ và được phân bổ trong ba năm để cung cấp cho ta một toàn bộ các văn bản đầy đủ hơn. Ta cũng có thể nhận thấy, công việc đó đa đi đúng hướng biết bao, như ý Đức Giêsu mong muốn. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con, các Kitô hữu, biết đói khát Kinh thánh. Xin giúp chúng con đừng tới dâng lễ "trễ muộn", bỏ qua phần phụng vụ Lời Chúa, luôn vắng mặt trong phần đầu thánh lễ, thời gian mà "Chúa mở trí cho chúng con hiểu Kinh Thánh".
Người bảo có lời Kinh Thánh chép rằng: "Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ bỏ cõi chết chỗi dậy”.
Ôi! nếu như chúng ta có mặt ở đó thì thích biết bao, lúc mà Đức Giêsu bình luận lời ngôn sứ Isaia, sách Khôn ngoan và các Thánh Vịnh! Nhờ sách Công vụ Tông đồ, ta biết được những bản văn đặc biệt mà trong đó, Đức Giêsu "tự nhận ra mình" và nhơ đó Người mới quả quyết người ta đã nói về mình là những bản văn nào. Đó là những bản văn được trích dẫn Đệ Nhị Luật 18, 16-19 và 21,23; Hôsê 6,1, Isaia 52,13, Thánh Vịnh 2,22. Cựu ước hướng về Đức Giêsu. Mọi chương trình của Thiên Chúa, mọi công cuộc chuẩn bị đều nhằm đến "việc hoàn tất" này: đó là sự hy sinh vinh quang của Đức Giêsu vì tình yêu cứu độ. Những bài thơ về Người Tôi Tớ và nhiều Thánh vịnh đặc biệt đã minh chứng rằng, "đau khổ của người công chính, không phải là uổng công vô ích, nhưng luôn đạt tới một sự phong phú phi thường". Thực vậy người ta phải vượt qua giai đoạn đau khổ mới tới giây phút tạ ơn và thời gian loan truyền những kỳ công của Thiên Chúa cho mọi dân tộc, "sứ vụ” truyền giáo cho khắp hoàn vũ như đã hiện diện trong các bản văn đó (Is 49,50).
Đấng Mêsia phải chịu khổ hình, sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.
Vâng, mối quan tâm truyền giáo đã tràn ngập tâm hồn Đức Giêsu. Người nhìn thấy trước hàng tỉ người nam nữ sẽ theo Người, sẽ yêu mến Người. Người nhìn thấy hàng tỉ tội nhân sẽ được tắm trong "nước tha thứ tội lỗi", sẽ được ghìm ngập trong tình yêu xót thương của Thiên Chúa, sẽ được thanh tẩy trong Thánh Thần, Đấng tha thứ và "ban sự sống". Thiên Chúa là tình yêu! ở đây chúng ta gặp lại điều mà Thánh Gioan đã nói trong Chúa nhật vừa qua: "Đức Giêsu thổi hơi để tha thứ tội lỗi!".
Và chúng ta đón nhận sứ điệp "Phục sinh" đó. Chúng ta có thể nói, Phục sinh làm gì? Để loan báo sự thay đổi, cuộc hoán cải, một "métanoia": Hãy đổi đời. Hãy phục sinh. Hãy sống động và cứ tiếp tục như thế. Phục sinh là một động lực sống! Nó luôn vận hành.
Phải rao giảng cho muôn dân, bắt đâu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối. Chính anh em làm chứng ve những điều này.
"Sứ vụ của Giáo Hội" khởi sự từ công cuộc Phục sinh. Trong sức sống sinh động Phục sinh, cùng với “Đức Giêsu hằng sống" giữa các nhân chứng của Người, từ một điểm trung tâm của hành tinh chúng ta: đó là Giêrusalem! Thực vậy, đó là nơi có một không hai, mà người ta đã đào lỗ dưới đất để dựng cây thập giá lên, và từ đó đã trở nên trục của thế giới. Thành phố duy nhất này, nơi mà nhờ đó hành tinh đáng thương của chúng ta, thay vì là nghĩa địa mênh mông chứa chôn kẻ chết, đã trở thành nơi có "ngôi mộ trống", nơi của sự sống hiển thắng.
Lạy Chúa, xin ban cho con "sức mạnh" từ trời ban xuống đó (Lc 24,49) để con trở nên nhân chứng cho Chúa: Veni Creator Spiritus. Lạy Thần khí Tác sinh, xin hãy ngự đến.
83. Chú giải của Fiches Dominicales.
CHÚA GIÊSU HOÀN TẤT LỜI KINH THÁNH
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ kinh ngạc, sợ hãi đến niềm vui.
Cũng như Chúa nhật I và II Phục sinh, theo thông lệ hằng năm, Tin Mừng Chúa nhật thứ III này tường thuật Đấng Phục sinh hiện ra.
Câu chuyện bắt đầu từ sau chuyến hai môn đệ Emmau trở về Họ vừa kể cho 11 tông đồ và cho các môn đệ những gì đã xảy ra trên đường và họ đã nhặn ra Người thế nào khi Người bẻ bánh thì Đức Giêsu lại một lần nữa hiện đến với các môn đệ.
Ở đây ta gặp lại 3 phần tiêu biểu của các cuộc hiện ra sau Phục sinh: 1- Đức Giêsu có sáng kiến; 2- Người tự tỏ mình ra; 3- Người uỷ thác cho họ một sứ mệnh.
Tin Mừng kể: "Khi ông còn đang nói thì Người đã đến giữa họ”. Người ban cho họ ơn bình an, một ơn của triều đại Cứu Thế. “Bình an cho các con”.
Cuộc hiện ra bất ngờ và lời chào của Người khiến họ "kinh ngạc và sợ hãi, vì họ tưởng là thây ma hiện hình”. Họ đã phải sống giây phút khó khăn của cuộc quá độ từ bất tín đến chân nhận.
2. Từ khổ đau đến cuộc sống mới của Đức Messia.
Thoạt tiên Đức Giêsu mở lời. Kèm theo lại là một cử chỉ. Rồi Người ăn trước mặt họ. Sau đó Người khai lòng mở trí để họ am hiểu Thánh Kinh.
Trước hết, Người cho họ xem “tay", "chân” và nói: "Tại sao các con sợ hãi? Hãy chạm vào Thầy: ma đâu có xương thịt như Thầy".
Họ hoàn toàn không phải là nạn nhân của một ảo tưởng tập thể. Cũng vẫn là người ấy, Đấng chịu đóng đinh, nhưng đến gặp họ trong một điều kiện khác, điều kiện của Đấng Phục sinh “chính là Thầy đây!".
Roland Meynet chú giải: "Đấng hiện ra với các môn đệ không phải là một cái chết hiện hình, cũng không phải là hồn ma bóng quế. Đó chính là Đức Giêsu, Người đã từng ăn uống với họ, tay Ngài đa từng đụng chạm đến họ trước khi chịu khổ hình. Hoàn toàn không phải là một ảo ảnh. Họ có thể thấy Người, đụng chạm đến Người cơ mà, đúng là Người.
Nhưng cơ thể Đức Giêsu không còn là cơ thể trước ngày vào cuộc khổ nạn. Người có cho họ xem tay, chân cũng chỉ vì tay chân còn hằn dấu đinh. Dấu hiệu ấy cốt để họ xác minh mà vững lòng tin tưởng; Phục sinh không xoá hết dấu vết khổ nạn. Đức Kitô mãi mãi vẫn là Đấng Mêsia chịu đóng đinh (‘Tin Mừng thánh Luca’, Phân tích từ ngữ, chú giải, Cerf, trang 238).
- Vì các môn đệ "trong niềm vui tột đỉnh, vẫn chưa dám tin, vẫn còn sững người kinh ngạc", Đức Giêsu bèn hỏi xin họ "cho ăn”. Người ăn "một miếng cá nướng”. Người không ăn với họ, nhưng trước mặt họ. Theo phong tục Đông phương, người khách được trọng vọng sẽ ăn một mình trước mặt những kẻ cung nghinh hầu cận.
Khi đưa ra chi tiết Đức Giêsu ăn trước mặt môn đệ, tác giả Tin Mừng muốn minh họa thực tại của biến cố phục sinh. Tuy nhiên, sáng kiến này của Đức Giêsu dường như không “ép phê” bằng lần trước: các môn đệ chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Sau cùng, Đức Gtêsu giúp các môn đệ đang hội hop ở đó đọc lại cuộc Khổ Nạn-Phục Sinh của Người dưới ánh sáng Thánh Kinh, như Người đã làm với hai môn đệ trên đường đi Emmau: "Cần phải ứng nghiệm tất cả những gì đã chép về Thầy trong sách Lề Luật của Môsê; các sach Ngôn Sứ và Thánh vịnh. Và Người soi lòng mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh".
R.Meynet bình giải: “Kinh Thánh, trọn bộ Kinh Thánh, đều nói về Đức Giêsu. Kinh Thánh loan báo những việc Người sẽ làm và những việc các môn đệ sẽ làm nhân danh Người. Đức Giêsu chẳng nói gì ngoài những điều Kinh Thánh đã nói, nhưng Người không chỉ lặp lại và chú giải Kinh Thánh như các luật sĩ thường làm. Người hành xử Kinh Thánh, người thực hiện Kinh Thánh, Ngươi hoàn tất Kinh Thánh. Chính vì Người hoàn tất Kinh Thánh mà Người có thể giải thích Kinh Thánh cho người ta hiểu. Rồi đến phiên các môn đệ, họ sẽ phải công bố rằng Đức Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh Thánh. Các môn đệ công bố điều này khi chính bản thân các ông hoàn tất lời Kinh Thánh và khi các ông làm cho Kinh Thánh được hoàn tất nơi những người mà các ông được sai đến, cho đến tận cùng trái đất" (Sđd, trang 238).
3. Từ chân nhận đến sứ mệnh phổ quát
Một lần nữa, cuộc gỡ không kết thúc ở thái độ chân nhận, nhưng vươn tới một sứ mệnh.
Sứ mệnh mà Đức Giêsu ký thác cho các môn đệ, trước khi chuẩn bị họ (câu 51), sứ mệnh mà nhờ đó họ được ban một "sức mạnh từ trên cao" (câu 49), tóm kết trong câu nói sẽ trở thành cốt lõi cho lời rao giảng của Giáo Hội sơ khai (xem bài giảng của Phêrô trong Công Vụ các tông đồ: đặc biệt bài đọc I ngày lễ Phục sinh và Chúa nhat III (Phục sinh):
Đúng như lời Kinh Thánh đã loan báo về:
+ Những đau khổ của Đức Mêsia, việc Người phục sinh từ trong cõi chết vào ngày thứ 3.
+ Công bố sự hoán cải nhân danh Người để được tha thứ tội lỗi cho mọi dân toc, khởi đi từ Giêrusalem.
+ Chính các con là chứng nhân cho những điều đó".
Như thế việc Đức Giêsu phục sinh đã kết thúc bằng mặc khải mầu nhiệm của Người: Người là Đức Kitô được các ngôn sứ loan báo, được tôn vinh trên cái chết, từ nay hiện diện trong Giáo Hội, nơi Người hứa ban ơn tha tội cho mọi người. Lời rao giảng ơn hoán cải và sự tha thứ tội khiên đã được Gioan Tẩy Giả bắt đầu cho nhà Israel, từ nay lan toả đến “mọi dân tộc". Sư mệnh phổ quát ấy, sự hoàn thành ý định cứu độ của Thiên Chúa ấy, nay được ký thác cho cộng đoàn các môn đệ.
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Những kinh nghiệm đầu tiên giúp các Kitô hữu hiểu những kinh nghiệm họ phải sống hôm nay”.
(L.Monloubou, trong "Tin Mừng theo thánh Luca, Salvator, trang 286-287).
Câu đầu tiên (35) nhắc ra nhớ chính vào lúc "bẻ bánh" mà các lữ khách làng Emmau ‘nhận ra Đức Giêsu’, chắc hẳn trong tâm tưởng thánh Luca muốn qui chiếu viec bẻ bánh về bí tích Thánh Thể, nơi các Kitô hữu "nhận ra" Đức Giêsu phục sinh và hằng sống. Xa hơn nữa, bản văn nói về việc "khai mở lòng trí” mà Đức Giêsu thông truyền cho các môn đệ. Người cũng trình bày cho họ một lối "hiểu Kinh Thánh" mới.
Ta thấy rất rõ cuộc khám phá mà cộng đoàn thực hiện tỷ lệ thuận với việc đào sâu niềm tin phục sinh: cộng đoàn đạt tới một mức độ thấu hiểu sự vật, khiến sự vật hiện ra trong một chuỗi những liên kết rất mạch lạc, hiển nhiên; thoạt tiên Kinh Thánh hiện ra dưới một nhãn quan khác: Lề Luật của Môsê, các Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh xem ra chứa đựng một ý nghĩa mà từ trước đến giờ chưa được hiểu cho thấu đáo. Ý nghĩa ấy nối kết Kinh Thánh thành một chuỗi mạch lạc khiến đức tin tìm được điểm tựa. Sau cùng bản văn kết thúc bằng cách đề ra một kinh nghiệm truyền giáo: nhân danh Đức Giêsu phục sinh, hằng sống, phải rao giảng cho ‘mọi dân tộc’, ‘bắt đầu từ Giêrusalem’, sự ăn năn thống hối để được thứ tha tội lỗi”. Ba điểm: kinh nghiệm Thánh Thể, giải thích Kinh Thánh mang mầu sắc Kitô học và sự rao giảng phổ quát, được trình bày ở đây như những nối tiếp khẩn thiết của cảm nghiệm phục sinh. Đối với các bạn đồng hành của Luca, đó là những thực tại đã được ghi nhận cách sâu sắc, đã được sống và đã cảm nghiệm.
Sự kiện này quan trọng; nó cho biết nơi chốn các Kitô hữu nói về cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Không phải trong một khoá học về lịch sử Đức Giêsu, dù lịch sử là nền tảng của suy tư; nhưng là trong lúc suy niệm về đời sống hiện tại của Giáo Hội. Giáo Hội ấy quây quần đọc Kinh Thánh: Môsê, các Ngôn sứ và các Thánh vịnh, để tưởng nhớ những lời nói của Đức Giêsu: đó là những lời mà Thầy đã nói với anh em để cử hành việc bẻ bánh; và để đảm nhận những nhiệm vụ truyền giáo, Giáo Hội ấy đã ý thức về việc sống một kinh nghiệm: Đức Giêsu đích thân đứng giữa họ, Người đang sống. Cộng đoàn ấy vẫn còn có nghi ngờ, nhưng đức tin của cộng đoàn là sâu sắc.
Cảm nghiệm đó là gì mà đem đến cho mọi người niềm vui khôn tả như thế? Đó là cảm nghiệm về Đấng Phục sinh mà các môn đệ là những người đầu tiên đã cảm. Bản thân các ngài đã tham dự vào lời bữa ăn của Đức Giêsu, đã thiết lập được mối liên hệ giữa Kinh Thánh với những gì đã xảy ra tại Giêrusalem, những gì đã xảy đến với Đức Giêsu, người Nagiarét, và các ngài đã khám phá ra tầm mức phổ quát của sự Phục Sinh mà các ngài phải loan báo cho thế giới. Chính các ngài, đoàn Mười Một đã trải qua những kinh nghiệm đầu tiên, nhờ đó các Kitô hữu thấu hiểu kinh nghiệm mà họ phải sống hôm nay".
2) Người khai mở lòng trí cho họ am hiểu Kinh Thánh
(H.Vulliez, trong "Thiên Chúa đã gần đến". Năm B, DDB trang 57-58).
Bạn có chú ý không? Trong cả 3 trình thuật của thánh Luca về việc Đức Kitô Phục sinh hiện ra, thì hai bài, bài các môn đệ Emmau và bài hôm nay đều kết thúc bằng việc đọc Kinh Thánh mà Đức Giêsu chú giải. Dường như, trong cả hai trường hợp, cuộc hiện hình không đủ đưa đến đức tin. Dường như tác giả muốn tránh nguy cơ chỉ dừng lại và chỉ gắn bó vào những gì lạ thường.
Dường như chỉ có thể tin vào Đức Giêsu vẫn đang sống sau khi chết nhờ đặt Người ra ngoài vòng lịch sử nhân loại. Ta có tin rằng sự hiểu biết Kinh Thánh cách nghiêm túc là rất cần thiết để tin, không phải vào một Đức Giêsu ta tưởng tượng ra, nhưng vào Đấng mà Tin Mừng mặc khải cho ta, Đấng mà Chúa Cha đã sai đến với con người để trở thành Người-Chúa với họ vĩnh viễn không?".
84. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
CHÚA GIÊSU HIỆN RA CHO CÁC SỨ ĐỒ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Họ còn đang nói: phần cuối nay của Tin Mừng cho biết Chúa Giêsu làm thế nào để giúp nhóm Mười Một hiểu được hoàn toàn sứ điệp Phục sinh: Nơi cc. 36-43, Chúa Giêsu chiến thắng sự cứng lòng tin của nhóm Mười Một bằng cách ban cho họ nhiều dấu chỉ ve thực tại của việc Người Phục Sinh (x. Cv 1,3); nơi cc. 44-49, người mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh (x. cc. 25-27) và xác định bổn phận của họ là làm chứng nhân về việc sống lại của Người; nơi cc. 50-53, Luca kết thúc cuốn sách của ông bằng cách trình bày việc Chúa Giêsu tỏ uy quyền Chúa và được các môn đồ nhìn nhận.
Bình an cho các ngươi: Những chữ này được rất nhiều thủ bản sao xác nhận là có, tuy nhiên lại thiếu nơi một vài chính bản giá trị. Nhiều nhà phê bình cho rằng chúng được mượn từ Ga 20, 19.
Vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được: Luca tìm được một lời bào chữa cho sự cứng lòng tin của Nhóm mười một. "Họ dâng cho Người một miếng cá nướng": ở đay cũng như trong Cv 10,40, Đấng Phục sinh ăn uống. Viết như vậy, Luca muốn cho thấy thực tại thể lý của sự Phục sinh, nhưng điều này lại gây khó khăn cho độc giả Hy lạp của ông (x Cv 17,32; 1Cr 15,12).
Môisen, các Ngôn sứ cung Thánh vịnh: Việc gọi tên Thánh Kinh như thế này thật là độc đáo vì dành một chỗ cho các Thánh Vịnh (so sánh 24,27). Truyền thống Tin mừng đã nhiều lần sử dụng các Thánh Vịnh như những lời loan báo về cuộc Khổ nạn, và trong Công Vụ, Luca sẽ thường xuyên trích dẫn Thánh Vịnh như những lời tiên tri về Mầu nhiệm Chúa Kitô.
Rồi Người nói với họ (c.46): Các câu 46-48 trình bày hết mọi chủ đề của lời rao giảng sứ đồ như thấy xuất hiện trong sách Cv: việc sử dụng Thánh Kinh (Cv 2,23-32; 4,10-11; 13,28.29.33.37; 26,22-23), rao giảng sự hối cải và ơn tha thứ (2, 38; 3,19; 5,31; 10,43; 15,38-39; 26,18); vai trò chứng nhân được trao cho nhóm Mười hai (1,8; 2,32; 3,15; 5,32; 10,41; 13,31).
KẾT LUẬN
Niềm tin vào Chúa Giêsu chính là công trình của Đấng Sống lại; việc hiểu Thánh Kinh cũng thế. Thánh Kinh Cựu ước chỉ dẫn đến chỗ nhận ra Chúa Giêsu, nhận ra Cứu Chúa của Israel và của thế giới, nếu được hiểu trong ánh sáng Phục sinh. Sau cuộc Phục sinh, không biết Thánh Kinh là có lỗi (Cv 3,17-26). Đối với người Do thái cứng tin, Kinh Thánh sẽ là một lời buộc tội; đối với Giáo hội, kẻ giải thích Thánh Kinh trong đức tin vao sự Phục sinh, thì Thánh Kinh là ơn cứu thoát.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Kitô chết trên thập giá đã sống lại thật, trong xương thịt đàng hoàng. Các sứ đồ đã tưởng là ma (điều này, một cách nào đó có lợi cho chúng ta): thành thử họ phải biết rõ thực hư về việc hiện ra này. Việc họ lúc đầu không tin là một bảo đảm cho sự vững chắc của đức tin chúng ta. Đức tin này không dựa trên chứng từ của những kẻ dễ tin, dễ bị ảnh hưởng bởi ngoại tại, nhưng dựa trên đức tin của những con người thực tế, tầm thường biết đòi hỏi các dấu chỉ và bằng chứng. Do đó, chứng từ của họ càng trở nên mạnh mẽ hơn, vì đây không phải là chứng từ của mê tín, mà của lòng cứng tin biết phê bình nhưng đã được thắng vượt.
2) Nhiều người thời nay phải chăng không giản lược Chúa Kitô phục sinh vào một loại ma quái, một vật nào đó hơn là một cứu người, một huyền thoại hơn là một Ngôi vị đang sống? Theo họ, cùng lắm thì Chúa Kitô là một kiểu mẫu cho cả cho nhân loại, cống hiến cho mọi người một học thuyết nữa những tấm gương đáng khen, nhưng Người không còn sống nữa, không "ngồi bên hữu Chúa Cha" trên trời, cung chẳng hiện diện trong bánh rượu thánh hiến.
3) Chung chung, ở đây không phải là vấn đề cảm giác hay kinh nghiệm chủ quan cá nhân, nhưng là vấn đề đức tin, tin hết mọi điều Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta, trên điểm nay cũng như trên các điểm khác, qua Thánh Kinh và truyền thống sứ đồ, tin điều Giáo hội đã, đang và sẽ dạy khắp nơi, trong niềm tin vào Đấng sống lại. Cũng không có vấn đề những gì các nhà thông thái suy tưởng và phát minh ra, vì đây không phải là những suy luận thuần túy tự nhiên, nhưng là một nhận thức, là một sự chắc chắn thuộc một trật tự cao siêu, quý giá hơn mọi cái trên đời hiện hữu. Tin vào Đấng Phục sinh, chinh là đón nhận chứng từ của một nhóm sứ đồ và môn đồ của Chúa Giêsu, những kẻ đã lấy máu mình quả quyết trước thế gian và cho rằng họ đã thấy Thầy họ chết trên thập giá rồi Phục Sinh trong một thân xác vinh hiển, vượt thắng những điều kiện thông thường của thời gian và không gian.
4) Đức tin có thể gặp nhiều vấn nạn, nhiều hiểu lầm, nhiều trở ngại và ngay cả nhiều khổ đau tinh thần nữa: như xét bên ngoài, nhiều Kitô hữu, vì hèn nhát, tỏ ra ích kỷ hơn, hà tiện hơn, kiêu căng hơn, dâm ô hơn hơn một số người ngoại giáo. Nhưng mọi Kitô hữu đều biết rằng Chúa Kitô phục sinh muốn họ hối cải: Người muốn tha thứ tất cả và làm cho họ trở nên những sứ đồ của người theo chân các sứ đồ tiên khởi: “Chính các con là những chứng nhân về những điều đó”. Đức tin bắt buộc chúng ta dấn thân cho Chúa Giêsu Kitô như chứng nhân của Người trước mặt thế gian.
85. Chú giải của William Barclay.
TRÊN PHÒNG CAO (Lc 24,36-49)
Trong khi các môn đệ hội họp ở phòng cao thì Chúa Giêsu hiện ra. Trong đoạn này, một số chân lý đức tin Kitô giáo được tỏ rõ.
1) Sự Phục Sinh. Chúa Giêsu xuất hiện không phải như một bóng ma hay mot ảo tưởng của tâm trí. Đây là một sự thật. Đấng đã chết nay đã sống lại. Kitô giáo không xây dựng trên căn bản các giấc mơ của những người loạn trí hay những ảo ảnh của những người loạn thị. Kitô giáo được xây dựng trên những sự kiện thực tế của lịch sử, đối đầu và chiến thắng tử thần và cuối cùng Phục Sinh.
2) Sự cần thiết của thập giá, toàn bộ Kinh Thánh đều hướng về thập giá. Thập giá không phải là một biện pháp áp đặt lên Chúa, cũng không phải là giải pháp cuối cùng khi mọi kế hoạch khác đều thất bại. Thập giá là chương trình định sẵn của Thiên Chúa. Thập giá là nơi duy nhất trên trần gian này cho ta thấy được tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa.
3) Sứ mạng khẩn cấp. Phải ra đi, kêu gọi mọi người hoán cải và tiếp nhận sự tha thứ của Chúa. Hội Thánh không thể ngồi yên tại phòng cao mãi, mà phải ra đi. Phải rời phòng cao mà thực hiện sứ mệnh của mình. Những ngày than vãn đã lui vào quá khứ. Giờ đây, ta phải đem niềm vui Phục Sinh chia sẻ cho mọi người.
4) Bí quyết của quyền năng. Họ phải chờ đợi tại Giêrusalem cho đến khi nhận được quyền năng từ trên cao. Có những lúc Kitô hữu dường như phí thời giờ chờ đợi trong sự thụ động mà không có chuẩn bị thì thất bại. Có khi ta phải bắt tay vào việc phục vụ Chúa, nhưng cũng có khi ta phải chờ đợi Chúa.
Khoảng thời gian yên lặng mà chúng ta chờ đợi Chúa không bao giờ uổng phí. Đó là khoảng thời gian mà chúng ta nghỉ các việc của đời này để chuẩn bị sức lực cho các công việc của Chúa.
86. Chính Thầy đây, đừng sợ
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
Sợ hãi, đó là điều hầu như không ai tránh khỏi. Bản tính tự nhiên con người “tham sống sợ chết” nên lo sợ đủ điều. Có người sợ sâu bọ, sợ gián sợ chuột. Có người sợ rắn rết, hổ sói. Có người sợ bóng đêm, sợ yêu ma quỷ quái. Nói chung, sợ hãi xuất hiện khi ta cảm thấy nguy hiểm. Sợ hãi có thể xem là một bản năng sinh tồn, nó khiến ta cảnh giác hơn. Nếu xét trong đời sống tự nhiên, có thể nói, sợ hãi là một người bạn tốt cần được đối xử tử tế.
Theo Thánh Kinh, do sự bất phục tùng của Adam tội đã đột nhập vào nhân loại (x. Rm 5, 12-19). Tội đã truyền lan tới tất cả mọi người, không trừ một ai, đã gieo rắc kinh hoàng và lôi kéo tất cả vào sự chết vĩnh viễn tách lìa với Thiên Chúa. Con người từ đó bị tước đoạt khỏi sự sống, bị đặt dưới ách thống trị của tội lỗi và sự chết (x Rm 7, 24-26). Bị tội lỗi và cái chết chiếm đoạt, khủng bố, con người mất đi bình an nội tại, chỉ còn là hoang mang, sợ hãi.
Thế nhưng, Chúa Giêsu Kitô đã sống lại, Ngài đã đánh bại thần chết, giải thoát con người khỏi ách thống trị tội lỗi và cái chết. Qua sự Phục Sinh của Chúa, kinh hoàng sợ hãi và sự chết từ nay đã bị khử trừ, bình an và sự sống mới được trao ban lại cho con người. Tin mừng hôm nay, Thứ Năm trong tuần Bát Nhật Phục Sinh (Lc 24,35-48), thánh Luca thuật lại rất rõ ràng, Chúa Giêsu Phục Sinh khi hiện ra với các tông đồ, Ngài đã trao ban bình an cho các ông. Chúa Giêsu nói: “Bình an cho anh em”(Lc 24, 36). Và để trấn an Chúa Giêsu nói tiếp: “Chính thầy đây mà, hãy sờ xem” (Lc 24, 39). Rồi để chứng minh Chúa Giêsu cho các ông xem tay chân Người.
Hôm nay mỗi người chúng ta hãy vui mừng hân hoan! Vui mừng vì Chúa đã sống lại. Vui mừng vì Chúa Phục Sinh đang đến với ta. Ngài đến đem lại bình an và sự sống mới cho ta. Dường như nhiều người trong chúng ta chưa nhận thấy vì còn chậm tin. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ các ông sợ hãi vì tưởng thấy ma! Chúa nói: “Sao anh em lại hoảng hốt?” (Lc 24, 38). Cũng như các tông đồ, chúng ta còn sợ hãi là tại vì chúng ta còn ngờ vực, tối da, chưa tin Chúa. Chúng ta còn bất an là vì cuộc đời chúng ta thiếu vắng Chúa.
* * *
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin tăng cường và củng cố niềm tin cho chúng con. Thánh Gioan tông đồ, ngay từ giây phút đầu tiên khi nhận thấy ngôi mộ trống đã tuyên xưng rằng mình đã thấy và đã tin. Thánh nhân muốn truyền lại cho chúng con nguyên tắc nền tảng trong quan hệ với Chúa Phục Sinh, đó là tin để thấy. Xin cho chúng con tin tưởng vững vàng Chúa đã sống lại để chúng con cảm nghiệm và thấy Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin loại bỏ trong chúng con nỗi sợ hãi hoang mang. Xin ban bình an của Ngài cho chúng con. Chúng con còn tham lam ích kỷ, thích hưởng thụ an nhàn, nên chúng con đã cấu xé lẫn nhau, tranh giành nhau, làm khổ cho nhau. Xin cho chúng con đừng sợ bị thua thiệt, nhưng giúp chúng con đủ cao thượng để hy sinh nhường nhịn kẻ khác. Xin cho chúng con đừng sợ lỗ lã mất mát nhưng giúp chúng con dũng cảm giữ đức công bằng. Xin cho chúng con đừng sợ khổ, nhưng biết đón nhận thập giá mình mỗi ngày mà theo chân Chúa, vì có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại” (Lc 24, 46).
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin cho chúng con cũng biết trở thành chứng nhân sự Phục Sinh của Chúa như chính Chúa mời gọi: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24, 48). Xin Ánh Sáng Phục Sinh phá tan mọi u mê tối tăm, sai lầm. Xin cho chúng con tin tưởng vào Chúa, trông cậy vào Chúa, và luôn cảm nhận được sự hiện diện tình yêu của Chúa trong cuộc đời, để chúng con không còn lo sợ nhưng can đảm loan truyền việc Chúa sống lại cho những người chúng con gặp gỡ hằng ngày. Amen.
17/04 Bến bờ bình an
- Viết bởi Ga 6, 16-21
Bến bờ bình an.
Thứ Bảy tuần 2 Phục Sinh.
"Họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển".
Lời Chúa: Ga 6, 16-21
Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ.
Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh.
Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: "Chính Thầy đây, đừng sợ". Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chính Thầy đây
Suy niệm:
Vào thời Đức Giêsu, người ta chờ Thiên Chúa sai đến một vị vua.
Vị Vua này chính là một Đấng Mêsia hùng mạnh, toàn thắng,
Đấng sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ của người Rôma.
Sau khi Đức Giêsu cho dân chúng được ăn no nê một cách kỳ diệu,
họ nghĩ ngay Ngài chính là người họ mong đợi từ lâu.
Họ toan bắt Ngài để tôn làm vua,
làm người đứng lên lãnh đạo phong trào cách mạng (Ga 6, 15).
Nhưng Đức Giêsu đã chối từ sự mong mỏi của dân chúng.
Ngài trốn lên núi một mình.
Đức Giêsu biết mình không phải là một Mêsia đầy quyền lực,
để giải phóng dân Ítraen khỏi ách của người Rôma.
Nhưng Ngài sẽ là một Mêsia như người Tôi Trung đau khổ,
chịu chết ô nhục và sống lại để giải phóng nhân loại khỏi ách tội lỗi.
Dân chúng hẳn đã bị hụt hẫng khi thấy Đức Giêsu trốn đi.
Các môn đệ chắc đã tiếc ngẩn tiếc ngơ,
vì Thầy bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở để tỏ mình cho dân Ítraen,
và chính họ cũng mất đi một cơ hội để tiến thân.
Tin Mừng của thánh Gioan không nói cho ta biết tại sao sau đó
các môn đệ lại chèo thuyền qua Caphácnaum, ở bờ bên kia (c. 16).
Nhưng theo Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu đã bắt buộc họ (Mc 6, 45).
Ngài rõ ràng không muốn họ dính dáng vào chuyện chính trị này.
Bị Thầy bắt qua lại bờ bên kia khi chiều đã sụp tối,
trong khi dân chúng và Thầy còn ở bờ bên này,
điều ấy chẳng dễ chịu chút nào cho các môn đệ.
Họ muốn ở lại hưởng chút dư vị của thành công vang dội vừa rồi.
Dù sao các môn đệ đã biết vâng phục.
Chuyến đi qua biển hồ cũng không suôn sẻ gì.
Họ phải chiến đấu với trận cuồng phong bất ngờ gây biển động.
Con thuyền bé nhỏ lênh đênh giữa sóng gió gào thét.
Cả nhóm gặp nguy hiểm mà không có Thầy trong thuyền.
Họ đã cố chèo được chừng năm, sáu cây số.
Có thể họ tự hỏi: tại sao Thầy lại vội sai mình ra khơi giữa đêm đen?
Cuối cùng Thầy Giêsu cũng đến với họ như họ mong ước.
Nhưng Thầy không đến trên một chiếc thuyền như họ nghĩ.
Thầy đi trên mặt biển mà đến gần thuyền các ông (c. 19).
Cách đến của Thầy thật khác thường khiến họ hoảng sợ.
Có thể họ chưa nhận ra khuôn mặt của Thầy vì trời tối.
“Thầy đây mà, đừng sợ!”, Đức Giêsu vội vã trấn an.
Giáo Hội hôm nay cũng có kinh nghiệm như nhóm môn đệ ngày xưa,
vất vả một mình chống chọi với sóng gió, khi không có Thầy ở bên.
Nhưng khi Chúa đến, chúng ta lại hoảng sợ, không nhận ra Ngài.
Thật ra Chúa chẳng bỏ chúng ta, dù có lúc Ngài để chúng ta một mình.
Phải tập quen dần với những cách xuất hiện mới mẻ của Chúa
để nhận ra Ngài vẫn có mặt trong thế giới hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”. Amen. (Thánh Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Các tông đồ một phen hoảng sợ. “Trời đã tối mà Chúa Giê-su chưa đến với các ông. Biển động, vì gió thổi mạnh”. Không có Chúa đời sống thật dễ sợ. Vượt biển là nguy hiểm. Đi lúc trời tối còn nguy hiểm hơn. Lại còn thêm sóng gió. Thập phần nguy hiểm. Đó là tình hình tâm hồn thiếu vắng Chúa. Vắng Chúa tâm hồn chìm trong bóng đêm. Bóng đêm chỉ nói những lời đe doạ. Khiến tâm hồn lo âu xao xuyến. Vắng Chúa tâm hồn bất an. Biết bao sóng gió nổi lên. Thế lực sự dữ thét gào muốn nhấn chìm và nuốt trửng con người. Con người phải vất vả chèo chống mà không đi đến đâu. Chèo mãi mới đi “được chừng năm hoặc sáu cây số”.
Nhưng khi có Chúa, mọi sự đi vào ổn định.”Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ”. Sức con người thật yếu ớt. Chèo mãi mới đi được chừng năm hoặc sáu cây số. Nhưng Chúa vừa xuất hiện thì thuyền đã đến bờ. Có Chúa bóng đêm bị xua tan. Sóng yên biển lặng. Và chẳng cần vất vả chèo chống thuyền đã đến nơi. Đến một cách nhanh chóng. Vượt sức loài người. Vượt trí tưởng tượng của loài người.
Sau khi Chúa phục sinh, sự hiện diện của Chúa càng mãnh liệt hơn. Các tông đồ tràn đầy xác tín. Vì tin Chúa đang ở với các ngài. Các tín hữu cử hành phụng vụ với niềm tin sâu xa. Vì sự hiện diện của Chúa quá mãnh liệt.
Vì thế quyền năng Chúa càng cụ thể hơn. Các tông đồ làm được những điềm thiêng dấu lạ. Thánh Phê-rô đã chữa người què từ thuở mới sinh. Và cho kẻ chết sống lại.
Phép lạ hằng ngày. Đó là chỉ với một nhóm người ít ỏi, bé nhỏ, thất học. Nhưng “Lời Chúa vẫn lan tràn và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin”. Càng với những người yếu đuối, bé nhỏ, thấp hèn, quyền năng Chúa càng hiển hiện.
Xin cho con luôn có Chúa. Để đời sống con được an vui. Xin cho con biết mình bé nhỏ yếu đuối. Để quyền năng Chúa hiển hiện. Đem lại nhiều hoa trái cho Giáo hội.
SUY NIỆM 3: Bến bờ bình an
Biến cố Chúa Giêsu đi trên mặt nước cũng được Phúc Âm theo thánh Matthêu và thánh Marcô mô tả nhưng với vài chi tiết khác nhau. Sự khác nhau này làm cho chúng ta thấy được chủ ý khác nhau của mỗi tác giả Phúc Âm. Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan không nói đến chi tiết Chúa Giêsu đến để trợ giúp cho các tông đồ đang gặp khó khăn, cũng không nói gì đến việc làm cho sóng gió im lặng, nhưng lại nhắc đến chi tiết khác là thuyền của các tông đồ tới bến tức thì. Ðọc lại bài tường thuật về biến cố, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điểm này, là tác giả chú ý và muốn cho người đọc như chú ý đến Chúa Giêsu nhiều hơn.
Tác giả bài tường thuật cho chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu Kitô đầy quyền năng thần linh và không tùy thuộc vào những định luật giới hạn của thiên nhiên. Thường tình, con người tự nhiên không thể nào đi trên mặt nước mà không bị té ngã. Trong cuộc sống, rất nhiều khi người Kitô chúng ta cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ mặc cho bão táp phong ba xô đẩy. Thật ra Ngài vẫn có đó. Ngài ban cho chúng ta lý trí tự do, ý chí và ân sủng để có thể lướt qua sóng gió cuộc đời. Có thể đến khi thuyền cập bến, chúng ta mới được đối diện với Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà cho rằng Ngài vắng mặt, bởi vì Ngài thấy trước những gì sẽ xảy ra và những gì Ngài sẽ làm.
Lạy Chúa, giữa những phong ba thử thách cuộc đời, xin cho chúng con luôn tin tưởng vào sự hiện diện quyền năng và yêu thương của Chúa, nhờ đó, chúng con an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Tin tưởng vào Chúa
Một vị tướng nọ quyết định đánh địch quân, dù rằng lúc ấy quân số của ông chỉ bằng 1/10 quân số của địch. Ông xác quyết với toàn thể binh sĩ rằng họ sẽ chiến thắng, thế nhưng ai nấy đều lắc đầu thất vọng. vào ngày xuất quân, khi đi ngang qua một nhà nguyện, ông cho đoàn quân dừng lại và nói: “Tôi và một số sĩ quan vào đây cầu nguyện vào gieo thử một quẻ: nếu đồng tiền ngửa, chúng ta sẽ thắng, bằng không, chúng ta sẽ thua”. một lúc sau từ trong nhà nguyện bước ra, ông và các sĩ quan vui mừng loan báo: “Số mệnh đã chỉ cho chúng ta biết chúng ta sẽ thắng trận này”. Nghe thế, mọi người hân hoan lên đường và quả nhiên họ đã chiến thắng một cách dễ dàng. Ngày hôm sau, một sĩ quan thân cận đã tâm sự với vị tướng: “Quả thật trận chiến hôm qua đã chứng tỏ không ai có thể thay đổi được bàn tay của số mệnh”. Vị tướng mỉm cười đáp: “Có lẽ gần đúng như vậy”. Rồi ông lấy từ trong túi đồng tiền đã gieo quẻ hôm trước, cả hai mặt đồng tiền đều giống nhau.
Một trong những yếu tố dẫn đến thất bại, đó là sợ hãi, thiếu tin tưởng. chỉ một thoáng bối rối hiện trên nét mặt cũng đủ để đối thủ chiếm được ưu thế.
Tin mừng hôm nay cũng nói đến sự sợ hãi bối rối nơi các tông đồ. Có lẽ chẳng phải do tình cờ mà các thánh sử đặt phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt biển liền sau phép lạ bánh hoá nhiều. cả hai phép lạ đều có chung một chủ đề là quyền năng củaChuá Giêsu trên thiên nhiên và trên những vật vô tri giác, và trước mỗi phép lạ các môn đệ đều bị đẩy vào tình trạng lo sợ. thương xót đoàn dân theo Ngài, Chúa Giêsu bảo các môn đệ kiếm bánh cho họ ăn, nhưng giữa nơi oang địa làm sao có đủ bánh cho chừng ấy người. sau đó ngài lại giục các ông sang bờ bên kia trước, trong khi ngài ở lại giải tán dân, và rồi thueỳ6n các ông gặp cơn bão táp. Làm như thế, không phải Chúa có ý bỏ rơi các ông, nhưng chỉ muốn các ông có cơ hội củng cố niềm tin. “Chính Thầy đây, đừng sợ”. Ngài vẫn ở gần và quan tâm đến các ông.
Trong cuộc sống, rất nhiều khi người kitô hữu chúng ta cảm thấy như bị Thiên Chuá bỏ mặc cho bão táp xô đẩy. thật ra Ngài vẫn có đó. Ngài ban cho chúng ta lý trí tự do, ý chí và ân sủng để có thể lướt qua sống gió cuộc đời. có thể đến khi thuyền cập bến chúng ta mới được đối diện với Thiên Chúa, nhưng không vì thế mà cho rằng Ngài vắng mặt, bởi vì Ngài thấy trước những gì sẽ xẩy ra và những gì Ngài sẽ làm.
Giữa phong ba thử thách cuộc đời, xin cho chúng ta luôn tìn tưởng vào sự hiện diện quyền năng và yêu thương của Chúa, nhờ đó chúng ta an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Đừng sợ, Thầy đây.
Chiều đến các môn đệ xuống Biển Hồ, rồi xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giêsu còn chưa đến với các ông. Biển động vì gió thổi mạnh. Khi đã chèo được chừng hai mươi lăm hoặc ba mươi chặng đường, các ông thấy Đức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ. (Ga. 6, 16-19)
Sau ngày làm phép lạ bánh hóa nhiều đáng ghi nhớ, các môn đệ lại xuống thuyền vượt biển trở về Ca-phác-na-um. Còn Đức Giêsu ở lại cầu nguyện tới khuya như thói quen mọi ngày. Các tông đồ vất vả chèo thuyền vượt bão biển.
Đó cũng là những kinh nghiệm thường xảy ra trong cuộc đời chúng ta. Sau khi chúng ta được nuôi dưỡng bằng bánh hằng sống, sau những cảm nghiệm sống đức tin mạnh mẽ, chúng ta lại cảm thấy cô đơn bắt tay vào công việc chẳng thấy tiến bộ gì.
Bao nhiêu thắc mắc vùng dậy: tại sao Đức Giêsu không đến với chúng ta, đồng hành với ta, nâng đỡ ta?
Cần phải nhận biết rằng Đức Giêsu muốn để chúng ta đi một mình, vì chúng ta là tạo vật có trách nhiệm. Đức tin vào Người không san bằng những khó khăn, không dẹp tan giông tố. Đức tin không nhổ sạch các chông gai, trở ngại. Kitô hữu đừng lầm tưởng đạo Chúa Kitô là một đạo dễ dãi, một đạo xây nhà trú ẩn khỏi mọi nỗi lo sợ chiến đấu.
Hơn nữa, nếu Đức Giêsu để các môn đệ đi một mình, chính là chỉ cho ta biết phải lo hành động, phải tập bước, phải cố gắng tự làm một mình, không lười biếng, ỷ nại vào Thiên Chúa. Đó là những thái độ quyết định và giải đáp của con người có nhân bản.
Có thể chúng ta sợ thiếu vắng Đức Giêsu vì chúng ta đã quá quen với những sự bao che của gia đình, của trường học và xã hội. Nay đã đến thời tất cả các thể chế đó không còn nói gì đến Đức Giêsu nữa, nên chúng ta bơ vơ lạc lõng không dám tự đi, không dám tiến lên, không dám tự động hành đạo. Chúng ta sợ không thấy Đức Giêsu đứng chờ bên kia chướng ngại vật, sau cơn bão tố nữa.
Tin mừng cho chúng ta thấy lý do cần phải chúc tụng Thiên Chúa vì biết rằng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có tự do và trách nhiệm để chúng ta biết quyết định và thăng tiến.
Nhưng chúng ta phải biết luôn luôn cầu nguyện xin Chúa nối kết, đồng hành và tiếp sức cho chúng ta tới bến bờ bên kia, cầu nguyện để tăng thêm lòng trông cậy tin tưởng Ngài ở đó để ban sức mạnh cho chúng ta đạt tới đích muôn đời.
C.G
SUY NIỆM 6: “THẦY ĐÂY ĐỪNG SỢ” (Ga 6, 16-21)
Ai đã từng chứng kiến cảnh biển động hay nhất là khi nó dậy sóng mà vẫn ở ngoài khơi, thì mới thấy sự sợ hãi là dường nào!
Thật vậy, nếu chẳng may đi biển mà gặp phải bão tố, cảnh biển gầm sóng thét, con người mới thấy giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau bằng gang tấc!
Những lúc như thế, ta thấy mình quá nhỏ bé và mong manh trước sự hùng vĩ của thiên nhiên... mạng sống của con người lúc này được ví như: “Ngàn cân treo sợi tóc”; hay “chỉ mành treo chuông”.
Tin Mừng hôm nay cũng trình thuật việc các Tông đồ gặp phải hiểm nguy khi đang lênh đênh trên biển.
Cuộc đi biển của các ông lần này không có Đức Giêsu hiện diện, bởi lẽ Ngài đã đi trước một mình vì dân chúng đang muốn tôn Ngài lên làm vua theo ý của họ.
Đang đi theo lộ trình và khi trời đã tối, họ bị trận cuồng phong bất ngờ ập tới. Tuy các ông là những người có nhiều kinh nghiệm về biển cả, họ là những tay nghề lão luyện trong giới thủy trình. Ấy vậy, khi sóng gió nổi lên, họ cũng trở thành bé nhỏ và yếu ớt trước sức mạnh của cuồng phong. Sự sợ hãi đó được cộng thêm với hình bóng của Đức Giêsu đi trước mặt thuyền mà họ không biết... Vì thế, trong đầu các ông đang hốt hoảng, hoang mang, và ai nấy đều run sợ, thì Đức Giêsu lên tiếng trấn an các ông: “Thầy đây đừng sợ”.
Đọc lại bài Tin Mừng này trong thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng: cuộc đời lữ thứ trần gian của mỗi người như một hành trình của các thuyền nhân đi biển. Sống lênh đênh trên biển, mới thấy mình nhỏ nhoi. Đối diện với bão táp phong ba mới thấy mình bất lực, và được Chúa yêu thương, hiện diện thì ngay lập tức được bình an.
Xét về góc độ luân lý, cho phép chúng ta liên đới với đời sống đức tin của mình để nhận ra rằng: có những lúc trong cuộc đời, chúng ta gặp không ít khó khăn, thử thách đến từ nhiều phía, nhất là do tội lỗi, ích kỷ, kiêu ngạo gây nên. Những khó khăn đó được khởi đi từ lòng mến lạnh nhạt của chúng ta với Chúa, làm cho đức tin bị hao mòn, lòng trông cậy bị lung lay. Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa ban cho mình được bình an nhờ nhận ra có Chúa hiện diện trong cuộc đời mình.
“Thầy đây, đừng sợ” chính là điều mà chúng ta phải xác tín trong cuộc sống hiện tại của mình.
Lạy Chúa Giêsu, con thuyền của Giáo Hội luôn gặp phải những sóng gió do ma quỷ gây nên. Con thuyền cuộc đời của chúng con cũng vậy. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con biết khiêm tốn, tín thác vào Chúa để lời Chúa nói với các Tông đồ khi xưa: “Thầy đây đừng sợ” cũng là niềm an ủi cho chúng con hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Chính Thầy đây, đừng sợ
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Nhà truyền giáo Moody kể: “Ở làng tôi, bên New England, có một truyền thuyết rằng hễ ai giật được bao nhiêu tiếng chuông thì sống bấy nhiêu tuổi. Khi tôi giật được 70 hay 80 tiếng chuông, tôi sung sướng nghĩ rằng mình sẽ sống đến tuổi đó. Nhưng mấy năm sau tôi vẫn mơ hồ sợ chết. Sự chết và phán xét ám ảnh tôi rất lâu, mãi cho tới khi tôi biết phó thác đời mình trong tay Đức Giêsu Kitô, như một người con của Chúa”.
Suy niệm
Ban đêm, như Tin Mừng xác định: “Trời đã tối”. “Đêm tối” (Mt 14,25), là giờ của thử thách, của “quyền lực bóng tối” (x. Lc 22,53). Ban đêm giữa đêm tối, biển nổi sóng. Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, “biển” là nơi có các sức mạnh tà thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7,12; Is 27,1; 51,9t; Đn 7…). “Biển” ở đây mang hình ảnh là một trở ngại ngăn cách các môn đệ với Đức Giêsu. Còn cuồng phong là biểu tượng cho tất cả những gì ngăn cản con người tiến bước trong hành trình đức tin. Các môn đệ phải nỗ lực băng qua biển, mệt mỏi chống chọi lại cuồng phong là biểu tượng của người theo Chúa đang vất vả chiến đấu với mọi thế lực bóng tối muốn tiêu diệt chúng ta…
Đức Giêsu tỏ quyền năng mình là Thiên Chúa đi trên biển chế ngự biển và phong ba? Ngài cứu các môn đệ bằng cách làm cho họ cũng có thể đi qua biển và mọi người bình an về tới bến. Như thế, Đức Giêsu chứng tỏ Người sở hữu quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học), và quyền lực ấy là để cứu vớt các môn đệ (phương diện Cứu độ học).
Con thuyền là biểu tượng của Giáo hội (x. Mt 8,24). Các môn đệ đang ở trên đó. Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn thiếu tự tin. Con thuyền bị “tra tấn” vì cơn dông trên biển giữa đêm tối. Con thuyền lênh đênh chèo chống vất vả trước phong ba cũng là biểu tượng của mọi người chúng ta lênh đênh trên biển đời giữa phong ba bão tố của thử thách, mịt mù. Đức Giêsu không có ở trên thuyền, nhưng Ngài không vắng mặt, Ngài đến với các môn đệ hầu như đang tuyệt vọng...
Trước sự sợ hãi cực độ, Đức Giêsu đã trấn an các môn đệ “Chính Thầy đây, đừng sợ!”. Chúa Giêsu muốn khẳng định với các môn đệ và cùng nhắn nhủ chúng ta tin tưởng vào sự hiện diện yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa. Nhất là Ngài luôn can thiệp đúng thời đúng lúc để không còn sợ hãi trước những mối hiểm nguy của phong ba, của đêm tối trong cuộc sống và dẫn đưa chúng ta vào bến bờ bình an.
Ý lực sống: “Giữa mênh mông biển đời..., trước phong ba, con sợ hãi...
Với niềm cậy trông, con kêu cầu: “Lạy Chúa, xin cứu vớt con”. (Mt 14,31)
SUY NIỆM 8: Đức Giêsu đi trên mặt biển
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan ghi lại việc Đức Giêsu đi trên mặt biển đầy sóng gió và dẹp yên sóng gió để tỏ bày uy quyền của Ngài trên thiên nhiên và sự dữ.
Câu chuyện Đức Giêsu đi trên mặt biển có gió to sóng lớn và biển lặng như tờ khi có sự hiện diện của Ngài gây ấn tượng không nhỏ đối với nhiều người và ghi dấu đậm nơi tâm hồn của những người có lòng tin. Thiên Chúa là Đấng tạo nên vũ trụ, trái đất và dựng nên con người. Ngài có toàn quyền trên vũ trụ, và ngay cả trên sinh mạng con người. Bài Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay là một trong những bằng chứng để quả quyết điều đó.
2. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân ăn no, dân chúng tin Ngài là một tiên tri đầy quyền năng và muốn tôn Ngài lên làm vua. Nhưng Đức Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia tức Capharnaum, còn Ngài thì lên núi cầu nguyện, lúc đó trời đã về đêm.
Khi đã ra giữa biển, sóng to gió lớn nổi lên làm cho các môn đệ phải nỗ lực chống đỡ. Nhìn thấy cảnh các môn đệ chèo chống khó khăn, từ trên núi Đức Giêsu đi xuống và Ngài đi trên mặt biển mà đến với các ông. Trong ánh trăng mờ, các ông tưởng đấy là ma, nên hoảng sợ. Nhưng Đức Giêsu đã trấn an các ông: “Chính Thầy đây, đừng sợ”. Và ngay lúc đó gió im và biển lặng như tờ.
3. “Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”!
Đức Giêsu trấn an các môn đệ bằng lời nói quen thuộc của Ngài: “Hãy yên tâm”. Hội thánh và cuộc đời của mỗi người chúng ta nhiều khi cũng có những sóng gió mà chúng ta không chống cự nổi, nhưng Chúa luôn bảo vệ Hội thánh và bảo vệ mỗi ngưởi chúng ta tin vào Ngài.
Đôi khi Chúa để chúng ta gặp phải các tai ương, bệnh tật, đau khổ là Ngài muốn thử thách đức tin của chúng ta. Cũng như dù đang cầu nguyện trên núi, nhưng Đức Giêsu vẫn dõi mắt theo con thuyền của các môn đệ đang lênh đênh trên biển cả, và Ngài đã đi trên mặt nước để đến cứu giúp các ông, thì ngày nay, Ngài vẫn quan tâm đến con thuyền Hội Thánh trong cơn phong bà bão táp hầu kịp thời ứng cứu khi cần. Nếu thực sự tin vào quyền năng của Đức Giêsu, thì chúng ta cũng sẽ không hoảng sợ khi phải đương đầu với những nghịch cảnh, vì tin rằng Chúa vẫn luôn dõi theo chúng ta và sẽ kịp thời cứu giúp chúng ta khi cần. Hãy luôn ý thức: “Có Chúa cùng đi với chúng ta, chúng ta sẽ không còn sợ chi, và chắc chắn sẽ đạt bến bình an”.
4. Đối với tác giả Matthêu, con thuyền là biểu tượng của Hội thánh. Các môn đệ đang ở trên đó, và có thể Phêrô là người cầm lái. Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn không cao mấy; đã thế, hoàn cảnh lại thêm gay go vì gió ngược. Con thuyền bị “tra tấn” vì cơn giông trên biển. Lúc này là “đêm tối”, là giờ của thử thách, của quyền lực bóng tối. Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không vắng mặt, dù là Ngài còn ở cách xa họ. Nếu có đức tin, hẳn là họ phải cảm thấy Ngài vẫn có mặt, vẫn ở gần. Quả thật, các khoảng cách không thể ngăn cản Đức Giêsu hiệp thông với các môn đệ Ngài. Ngài đến với họ cách bất ngờ, từ trên cao, vào những lúc không ngờ.
5. Biển cả ở đây không chỉ là biển đời như đã nói ở trên mà còn là biểu trưng cho nơi ẩn náu của ma quỉ. Đức Giêsu muốn chứng tỏ cho các môn đệ thấy rằng trong cơn gian nan hoạn nạn, Ngài luôn hiện diện: “Thầy đây, đừng sợ”. Một lời trấn an bảo đảm mạnh mẽ rằng Ngài luôn đồng hành với họ trên bước đường loan báo Tin Mừng, mặc dầu sóng biển ầm ầm, thủy triều sóng nước dâng cao... con thuyền có bị sóng đánh dập vùi, nhưng hãy yên tâm vì có Ngài ở bên.
Con thuyền của các môn đệ ngày xưa cũng chính là con thuyên cuộc đời của mỗi người chúng ta hôm nay. Giữa bao sóng gió cuộc đời của kiếp người trong cuộc lữ hành đức tin. Khi Chúa chưa đến thì bóng tối, sóng dữ hoành hành, nhưng khi Chúa đến thì là bến bờ là đích đến của môn đệ. Nếu trên cuộc đời của mỗi người chúng ta có Đức Giêsu, thì sự dữ, ma quỉ sẽ bị đẩy xa. Bởi khi sáng tới, thì tất yếu bóng tối sẽ bị đẩy lui.
6. Truyện: Tin tưởng vào Chúa.
Một vị tướng nọ quyết định đánh địch quân, dù rằng lúc ấy quân số của ông chỉ bằng 1/10 quân số của quân địch. Nhưng ông vẫn xác quyết với toàn thể binh sĩ của ông rằng họ sẽ chiến thắng, thế nhưng ai nấy đều lắc đầu thất vọng.
Vào ngày xuất quân, khi đi ngang qua một nhà nguyện, ông cho đoàn quân dừng lại và nói: “Tôi và một số sĩ quan vào đây cầu nguyện và gieo thử một quẻ: Nếu đồng tiền ngửa, chúng ta sẽ thắng, bằng không, chúng ta sẽ thua”.
Một lúc sau từ nhà nguyện bước ra, ông và các sĩ quan vui mừng loan báo: “Số mệnh đã chỉ cho chúng ta biết chúng ta sẽ thắng trận này”. Nghe thế, mọi người hân hoan lên đường và quả nhiên họ đã chiến thắng một cách dễ dàng.
Ngày hôm sau, một sĩ quan thân cận đã tâm sự với vị tướng: “Quả thật, trận chiến hôm qua đã chứng tỏ không ai có thể thay đổi được số mệnh”. Vị tướng mỉm cười đáp: “Có lẽ gần đúng như vậy”. Rồi ông lấy từ trong túi đồng tiền đã gieo quẻ hôm trước, cả hai mặt đồng tiền đều giống nhau.