Gương Thánh Nhân
Ngày 11/4 Thánh Stanislaus (1030-1079)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Stanislaus (1030-1079)
Lược sử
Bất cứ ai đọc lịch sử Đông Âu đều phải biết đến tên Stanislaus, vị giám mục thánh thiện nhưng bi thương của giáo phận Krakow. Cùng với các Thánh Tôma More và Tôma Becket, ngài thường được nhớ đến vì sự chống đối quyết liệt của ngài đối với một chính phủ hung bạo và bất chính thời ấy.
Thánh Stanislaus sinh trong một gia đình quý tộc ở Szczepanow gần Krakow. Ngài theo học các trường Công Giáo ở Gniezno, sau đó ở thủ đô Ba Lan, và ở Balê. Ngài thụ phong linh mục ở Gnesen và được bổ nhiệm làm tổng phó tế và người thuyết giáo của Đức Giám Mục Krakow, là nơi tài hùng biện và gương mẫu của ngài đã giúp nhiều người thực sự hoán cải đời sống, trong đó có cả hàng giáo sĩ. Ngài trở thành giám mục của Krakow năm 1072.
Trong cuộc viễn chinh chống với Đại Đế Duchy của Kiev, Đức Stanislaus bị dính líu đến tình hình chính trị ở Ba Lan. Nổi tiếng là người thẳng thắn, ngài tấn công những hành động xấu xa của vua và người dân, nhất là các cuộc chiến bất chính cũng như các hành động vô luân của Vua Boleslaus II vì ông đã cướp vợ của một nhà quý tộc.
Lúc đầu nhà vua tự ý xin lỗi và bày tỏ sự ăn năn sám hối, nhưng sau đó lại trở về con đường cũ. Đức Stanislaus tiếp tục công khai chống đối bất kể những hăm dọa về tội phản quốc và tử hình. Sau cùng ngài đã ra vạ tuyệt thông nhà vua và từ chối cử hành Thánh Lễ mỗi khi có sự hiện diện của ông. Điên lên vì tức giận, nhà vua ra lệnh quân lính hạ sát vị giám mục. Khi binh lính từ chối không tuân phục, chính tay ông đã giết Đức Stanislaus trong khi ngài cử hành Thánh Lễ trong một nhà nguyện ở ngoại ô thành phố.
Đức Stanislaus là biểu hiệu của tinh thần dân tộc Ba Lan. Ngài được Đức Giáo Hoàng Innôcentê IV phong thánh năm 1253 và được đặt làm quan thầy chính thức của Krakow.
Suy niệm 1: Lịch sử
Bất cứ ai đọc lịch sử Đông Âu đều phải biết đến tên Stanislaus, vị giám mục thánh thiện.
Lich sử luôn mang tính chân thật và khách quan, cũng như mặt trời thì luôn mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây, mặt trời soi sáng ban ngày còn mặt trăng soi chiếu ban đêm, loài chim thì bay trên trời còn loài cá thì bơi lội dưới nước. Người viết nên lịch sử theo nguyên tắc phải tôn trọng đặc tính nổi bật ấy của lịch sử, tuy nhiên có ít trường hợp do một áp lực bên ngoài, tính chủ quan đã len vào làm méo mó đi sự trung thực.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà viết nên lịch sử luôn có được dũng lực để viết thật trung thực.
Suy niệm 2: Chống đối
Cùng với các Thánh Tôma More và Tôma Becket, ngài thường được nhớ đến vì sự chống đối quyết liệt của ngài đối với một chính phủ hung bạo và bất chính thời ấy.
Thánh Gioan Tẩy Giả, Tôma Becket, Tôma More và Stanislaus là một vài ngôn sứ dám tố giác sự thối nát của những người có địa vị. Các ngài đã theo chân Đức Giêsu Kitô, là người vạch ra sự sa đọa luân lý của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời ấy. Đó là một công việc đầy nguy hiểm đòi hỏi sự can đảm sống chứng nhân cho Tin Mừng.
Thánh Tôma More trong Một Đối Thoại Về Sự Tiện Nghi đã ghi: "Những người khao khát muốn có quyền bính để có thể áp đặt luật lệ, mệnh lệnh và kiểm soát người khác, thì chính họ là những người sống vô kỷ luật và không kiềm chế".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà cầm quyền ý thức về nguồn gốc quyền bính của mình là do Thiên Chúa ban cho (Ga 19,11;Rm 13,1) để sử dụng đúng cho xứng với việc kẻ thuộc quyền phục tùng (Tt 3,1).
Suy niệm 3: Thuyết giáo
Thánh Stanislaus là người thuyết giáo của Đức Giám Mục Krakow, là nơi tài hùng biện và gương mẫu của ngài đã giúp nhiều người thực sự hoán cải đời sống, trong đó có cả hàng giáo sĩ.
Thành quả thuyết giáo của Thánh Stanislaus dĩ nhiên nhờ vào tài hùng biện của ngài, nhưng nhất là nhờ vào đời sống gương mẫu của ngài, vì lời nói thì bay đi còn gương lành thì lôi kéo.
Với tài hùng biện, với trí tuệ sáng ngời, thánh Đaminh cũng đành thua cuộc trước sự tung hoành của bè rối Albigeois. Nhưng nhờ tràng chuỗi Mân Côi, ngài đã gặt hái thành công: bè rối Albigeois tan rã và có hơn 100.000 người trở lại đạo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng quá dựa vào tài hùng biện trong việc thuyết giáo, nhưng chủ yếu là làm gương sáng và sự trợ giúp thần linh.
Suy niệm 4: Giáo sĩ
Thánh Stanislaus là người thuyết giáo của Đức Giám Mục Krakow, là nơi tài hùng biện và gương mẫu của ngài đã giúp nhiều người thực sự hoán cải đời sống, trong đó có cả hàng giáo sĩ.
Hội Thánh lữ hành đã được trang điểm bằng sự thánh thiện đích thực, tuy chưa hoàn toàn (LG 48), vì Hôi Thánh bao gồm mọi tín hữu trong đó cũng còn nhiều phần tử chưa hoàn hảo, vì thế Hội Thánh luôn cần được Đức Kitô thánh hóa và thanh tẩy (Ep 5,26) để trở thành một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền (Ep 5,27).
Do đó không chỉ mọi tín hữu mà ngay cả hàng giáo sĩ cũng phải luôn hoán cải đời sống, cũng như các vị thượng tế mỗi ngày phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân (Dt 7,27). Tất cả các chi thể của Hội Thánh, dù ở bậc nào, cũng cần phải phấn đấu để đạt tới sự thánh thiện hoàn hảo như sự trọn hảo của Cha trên trời (Mt 5,48).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mọi kitô hữu quyết tâm sống thánh để không làm ô danh Hội Thánh.
Suy niệm 5: Thẳng thắn
Nổi tiếng là người thẳng thắn, Đức Stanislaus tấn công những hành động xấu xa của vua và người dân.
Thánh Gioan Tiền Hô cũng nêu gương thẳng thắn, khi lên tiếng phản đối việc vua Hêrôđê lỗi phạm luật hôn nhân, khi vua muốn cưới lấy bà Hêrôđiađê vốn là vợ của Philípphê anh mình.
Đức Giêsu cũng tỏ ra thẳng thắn khi nặng lời lên án lối sống giả hình của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó (Mt 23,23-32), cho dầu phải nhận lấy hậu quả là bị họ ghét bỏ, vu cáo và kết án tử hình thập giá.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm sống thẳng thắn dầu phải gặp bất cứ nghịch cảnh nào.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 10/4 Chân Phước Giacôbê Oldo (1364 - 1404)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Giacôbê Oldo (1364 - 1404)
Lược sử
Giacôbê, sinh năm 1364, là người gốc Lodi gần Milan. Nhờ buôn bán phát đạt, cả hai vợ chồng Giacôbê đắm mình trong mọi thú vui trần thế. Ngày kia, trong một đám tang của người bạn thân, khi nhìn vào huyệt sâu Giacôbê nhận thức rằng một ngày nào đó mình cũng sẽ chết. Ông tự hỏi linh hồn mình sẽ đi đâu, và sau đó ông quyết tâm thay đổi đời sống. Giacôbê ăn năn sám hối, đi xưng tội và sau đó gia nhập Dòng Ba Phanxicô.
Trong khi đó, bà mẹ ruột ông Giacôbê lại ngăn cản vợ ông thay đổi đời sống theo gương chồng. Nhưng một ngày kia, bà được thấy chính bà và con bà phải ra trước tòa Thiên Chúa. Thị kiến ấy đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi bà thay đổi lối sống cũng như khuyên cô con dâu noi gương chồng. Và cả hai đã gia nhập dòng Ba Phanxicô. Dinh thự của họ trở thành nơi cầu nguyện và nơi luyện tập nhân đức.
Sau khi vợ chết, ông Giacôbê trở thành linh mục và gia tăng việc hãm mình đền tội. Nhiều khi mỗi tuần ông chỉ ăn có một lần, cũng như không ăn thịt và không uống rượu. Sau cùng, vị giám mục phải ra lệnh cho ông phải ăn uống tối thiểu ba lần một tuần.
Dân chúng cảm kích trước lời rao giảng ăn năn sám hối của Cha Giacôbê. Nhiều người từ bỏ lối sống trần tục, và ngay cả gia nhập đời sống tu trì.
Cha Giacôbê có ơn tiên tri, nhiều lần đã tiên đoán đúng các cuộc chiến xảy ra. Ngay cả cái chết của mình, ngài cũng tiên đoán đúng. Và bảy năm sau khi từ trần, người ta tìm thấy xác ngài còn nguyên vẹn.
Suy niệm 1: Quá khứ
Nhờ buôn bán phát đạt, cả hai vợ chồng Giacôbê đắm mình trong mọi thú vui trần thế... sau đó ông quyết tâm thay đổi đời sống.
Quá khứ luôn có một ảnh hưởng rất sâu đậm trên đương sự và tha nhân. Vì sợ không chịu đựng nổi cảnh giày vò do tội phản Thầy, Giuđa Ítcariốt phải chạy tìm lối thoát vào việc thắt cổ tự tử. Còn Phaolô thì từ chối không muốn đem Máccô đi theo và nhận làm cộng tác viên, vì trong quá khứ, Máccô đã từng bỏ ngài và không cộng tác với ngài (Cv 15,38).
Giacôbê thì khác và Chúa cũng khác. Dầu có một quá khứ đắm mình trong mọi thú vui trần thế, nhưng ngài đã khiêm tốn nhận lỗi và sửa sai để rồi can đảm bắt đầu lại từ đầu trong nếp sống tu trì. Và Đức Giêsu bất chấp quá khứ tội lỗi của Mácđala để đón nhận cô và chọn cô làm sứ giả tin mừng Phục Sinh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng tự ti mặc cảm về quá khứ tội lỗi của mình cũng như đừng có định kiến về quá khứ tội lỗi của tha nhân, để cùng giúp nhau bắt đầu lại trên đường tiến đức.
Suy niệm 2 Chết
Trong một đám tang của người bạn thân, khi nhìn vào huyệt sâu Giacôbê nhận thức rằng một ngày nào đó mình cũng sẽ chết.
Chắc hẳn không ai trong chúng ta đã không từng tham dự một đám tang, hoặc ít ra đã không từng nghe nói về một đám tang, chúng ta có ý nghĩ gì? Sự kiện ấy có giúp chúng ta canh tân đời sống để mỗi ngày một sống tốt hơn lên hay không?
Nếu không, đó là sự khác biệt giữa chúng ta và Giacôbê. Một đám tang của người bạn thân đã giúp Giacôbê đặt vấn đề về cái chết của chính mình và tự hỏi linh hồn mình sẽ đi đâu, để rồi sau đó quyết tâm thay đổi đời sống: Giacôbê ăn năn sám hối, đi xưng tội và sau đó gia nhập Dòng Ba Phanxicô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tốt để chuẩn bị cho cái chết lành thánh của mình.
Suy niệm 3: Nơi cầu nguyện
Dinh thự của họ trở thành nơi cầu nguyện và nơi luyện tập nhân đức.
Vì cầu nguyện là gặp gỡ Chúa mà Chúa thì ở khắp mọi nơi, nên bất cứ chỗ nào cũng có thể tìm gặp được Chúa, miễn là có tinh thần cầu nguyện. Đức Giêsu đã nêu gương khi vào hội đường, khi đến đền thờ Giêrusalem, khi lên núi, khi vào rừng vắng, theo điều kiện thuận tiện của Ngài.
Theo gương ấy, Thánh Phêrô và Gioan đi lên đền thờ vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín (Cv 3,1). Thánh Phaolô và Xila hát thánh ca cầu nguyện cùng Thiên Chúa ngay trong chốn ngục tù vào quãng nửa đêm (Cv 16,25). Các tín hữu thời sơ khai siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng tại tư gia (Cv 2,42).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chủ tâm sống đời cầu nguyện mà không lệ thuộc vào bất cứ một nơi chốn nào.
Suy niệm 4: Hãm mình
Giacôbê trở thành linh mục và gia tăng việc hãm mình đền tội.
Hãm mình vốn mang lại nhiều lợi ích chẳng những về đời sống thiêng liêng mà còn cả về sức khoẻ thể xác nữa. Thật vậy không thiếu bệnh nhân phải kiêng ăn cử uống nhiều thứ theo lời chỉ dẫn của bác sĩ để việc điều trị bệnh chóng có kết quả khả quan.
Tuy nhiên việc gì cũng phải có mức độ. Vì thế khi thấy Giacôbê nhiều khi mỗi tuần chỉ ăn có một lần, cũng như không ăn thịt và không uống rượu, thì sau cùng, vị giám mục phải ra lệnh cho Giacôbê phải ăn uống tối thiểu ba lần một tuần. Cũng thế, thánh Phaolô đã từng khuyên Timôtê đừng chỉ uống nước lã mà phải dùng thêm chút rượu vì đang đau dạ dày và ốm yếu (1Tm 5,23).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết hãm mình phạt xác nhưng đừng vượt quá mức độ.
Suy niệm 5: Cảm kích
Dân chúng cảm kích trước lời rao giảng ăn năn sám hối của Cha Giacôbê. Nhiều người từ bỏ lối sống trần tục, và ngay cả gia nhập đời sống tu trì.
Thời Gioan Tiền Hô, dân chúng từ Giêrusalem và miền Giuđê cùng khắp vùng ven sông Giođan cũng đều cảm kích trước lời rao giảng ăn năn sám hối của Gioan, nên tuốn đến cùng ngài để thú tội, chịu phép rửa và xin được chỉ dẫn (Mt 3,5-6;Mc 1,5;Lc 3,7-10).
Hy tế của Đức Giêsu trên thập tự giá ở đồi Canvê cũng gây lòng cảm kích, nên viên đại đội trưởng cùng đám thuộc hạ đã cất tiếng tôn vinh: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54). Còn toàn thể dân chúng đến chứng kiến cảnh tượng thì đấm ngực ăn năn trở về (Lc 23,48).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ cảm kích trong lòng mà phải thực hiện trong hành động bằng việc canh tân đời sống.
Suy niệm 6: Tiên tri
Cha Giacôbê có ơn tiên tri, nhiều lần đã tiên đoán đúng các cuộc chiến xảy ra. Ngay cả cái chết của mình, ngài cũng tiên đoán đúng.
Tiên tri là một đặc ân Chúa thương ban cho một số người, cụ thể ở đây là trường hợp Cha Giacôbê. Với người khác, Chúa lại ban cho đặc ân khác, chẳng hạn người thì được ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được ơn hiểu biết để trình bày (1Cr 12,8).
Nhưng tất cả đều phải phục vụ lợi ích chung (1Cr 12,7). Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, với các chức năng khác nhau nhằm bổ túc lẫn nhau, mỗi người cũng phải liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể (Rm 12,4-5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết sử dụng ân huệ Chúa ban để phục vụ lợi ích chung.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 09/4 Chân Phước Innocent ở Berzo (c. 1890)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Innocent ở Berzo (c. 1890)
Lược sử
Sinh năm 1844 ở gần Brescia thuộc phía bắc nước Ý, Innocent xin gia nhập dòng Capuchin Phanxicô khi 30 tuổi và đã là một linh mục triều. Ngài giữ chức vụ phó giám đốc đệ tử viện và sau đó là cha giám tập.
Cha Innocent có biệt tài giúp đỡ các người trẻ theo đuổi ơn gọi tu trì trong đời sống dòng Phanxicô. Ngài yêu mến họ và ngược lại họ rất quý trọng ngài. Ngài kêu gọi sự hãm mình phạt xác, nhất là gìn giữ miệng lưỡi, nhưng ngài biết sự kỷ luật bề ngoài chỉ là giả dối nếu không có sự hãm mình bên trong.
Vị tu sĩ khắc khổ này từ trần ngày 3 tháng Ba 1890, khi mới 45 tuổi, vì bị bệnh cúm khi trên hành trình rao giảng. Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII phong chân phước năm 1961. Những phép lạ được ghi nhận trong tiến trình phong thánh đều là việc chữa lành các trẻ em bệnh tật.
Suy niệm 1: Tài năng
Cha Innocent có biệt tài giúp đỡ các người trẻ theo đuổi ơn gọi tu trì trong đời sống dòng Phanxicô.
Giúp một người nên tốt vốn rất khó, mà giúp một người trẻ nên tốt hơn bằng việc giúp họ theo đuổi ơn gọi tu trì thì quả phải có biệt tài như một cha Innocent.
Ngay cả Đức Giêsu vốn tài trí siêu đẳng hơn hẳn mọi người, thế nhưng Ngài cũng gặp khó khăn trong việc huấn luyện các tông đồ, nếu không muốn nói là thất bại vì đã có một môn đồ Giuđa phản bội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chỉ tận tình giúp người nên tốt mà không chờ mong kết quả.
Suy niệm 1: Yêu mến
Cha Innocent yêu mến họ và ngược lại họ rất quý trọng ngài.
Bằng con đường yêu mến, Cha Innocent đã lấp đầy hố sâu ngăn cách vốn có giữa thầy và trò, để dễ dàng tiếp cận với từng người, nhờ đó phát hiện được các ưu khuyết của mỗi người tạo thuận lợi cho công tác giáo dục của ngài.
Cũng bằng con đường yêu mến, các môn sinh của Cha Innocent cũng vượt qua được bức tường e dè ngại ngùng, để rồi thành thật và cởi mở tâm sự mọi uẩn khuất trong tâm hồn có ảnh hưởng đến cuộc sống, nhờ được chỉ dẫn tận tình và sáng suốt, họ đã vững tiến trên đường nhân đức.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nắm bắt phương cách yêu mến trong việc giáo dục.
Suy niệm 2: Miệng lưỡi
Cha Innocent kêu gọi sự hãm mình phạt xác, nhất là gìn giữ miệng lưỡi.
Nếu lưỡi nhiều đường không xương lắt léo thì nó có khả năng phát ngôn ra những lời tốt cũng như xấu (Gc 3,9-10). Vì thế cần thiết phải giữ gìn miệng lưỡi như lời Cha Innocent dạy, để chỉ có thể nói ra những điều tốt điều hay mà thôi.
Chẳng những giữ gìn miệng lưỡi mà nhất là cần phải giữ gìn cái tâm cho trong sạch lành thánh, vì như lời Chúa Giêsu khẳng định: lòng đầy thì miệng mới nói ra (Mt 12,34), với những hậu quả khôn lường mà Sách Huấn Ca ghi lại: thiện với ác, sinh với tử, nhưng cả bốn luôn bị cái lưỡi chi phối (Hc 37,18).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin mượn lời Thánh Vịnh để dâng lên Chúa lời cầu xin: Xin canh giữ miệng con, lạy Chúa, và trông chừng lưỡi con (Tv 141,3).
Suy niệm 4: Nội tâm
Cha Innocent biết sự kỷ luật bề ngoài chỉ là giả dối nếu không có sự hãm mình bên trong.
Cái bên trong mới là quan trọng. Thật vậy, sau khi liên lạc với các thượng tế và nhận số bạc từ tay họ, Giuđa Ítcariốt đã có tâm ý nộp Đức Giêsu cho họ, nên bên ngoài vẫn tiếp tục sống chung với nhóm các tông đồ và Đức Giêsu, nhưng thực tâm là để tìm dịp thuận tiện thi hành ý định nộp Thầy (Lc 22,6).
Do đó Đức Giêsu đã nêu lên tầm quan trọng của cái nội tâm, khi tranh luận với các kinh sư về truyền thống rửa tay (Mt 15,17-20), cũng như khi khiển trách thái độ sống giả hình của họ (Mt 22,25-26). Từ đó thánh Gioan khuyên dạy: đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi mà hãy thực hành cách thực tâm (Ga 3,18) .
* Lãy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con uốn nắn tâm hồn chúng con cho ngay thẳng để luôn sống chân thật và thẳng thắn.
Suy niệm 5: Chết khi hành sự
Cha Innocent từ trần ngày 3 tháng Ba 1890, vì bị bệnh cúm khi trên hành trình rao giảng.
Người đời luôn ca tụng và cảm kích trước cái chết của những ai đang thi hành sứ vụ, để rồi ai nấy đều ước mong được chấm dứt cuộc đời mình như thế. Vậy thật phúc cho Cha Innocent khi chí nguyện đó được thực hiện lúc từ trần trên hành trình rao giảng.
Thánh Phanxicô Xavie cũng thế. Ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Độ, Mã Lai và Nhật Bản. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này, cũng trên hành trình rao giảng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn chuyên tâm thi hành bổn phận, để được chết đang khi hành sự.
Suy niệm 6: Chữa lành
Những phép lạ được ghi nhận trong tiến trình phong thánh đều là việc chữa lành các trẻ em bệnh tật.
Trên bước đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu cũng từng chữa lành bao nhiêu bệnh nhân với đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền (Mt 4,23), thậm chí phục sinh cả kẻ chết, như con trai của bà góa thành Naim (Lc 7,14) hoặc Ladarô đã chôn cất và nặng mùi (Ga 11,43).
Nhưng trọng tâm của việc Đức Giêsu chữa lành không dừng lại ở phần xác mà chủ yếu là phần linh hồn, vì thế thỉnh thoảng Ngài cũng đề cập đến, như lúc chữa lành người bại liệt qua lời tha tội (Mc 2,5), dầu gây bất mãn nơi lòng các kinh sư (Mt 9,3).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tận tình chữa lành các bệnh tật nội tâm của tha nhân bằng gương sáng và các lời khuyên bảo, dầu không có khả năng chữa bệnh phần xác.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 08/4 Thánh Julie Billiart (1751 - 1816)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lược sử
Sinh ở Cuvilly, nước Pháp, trong một gia đình nông dân trung lưu, ngay từ nhỏ Marie Rose Julie Billiart đã có lòng đạo hạnh và muốn giúp đỡ người nghèo. Mặc dù những năm niên thiếu thật êm đềm và thanh thản, nhưng khi lớn lên Julie đã phải làm việc lao động để giúp đỡ tài chánh cho gia đình. Tuy nhiên, cô vẫn dành thời giờ để dạy giáo lý cho các trẻ em và các nông dân.
Khoảng 20 tuổi, sau khi tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù địch muốn giết hại cha mình, cô Julie đã bị chấn động đến độ bất toại và tàn phế.
Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, cô Julie dùng nhà mình làm nơi ẩn náu cho các linh mục đang bị lùng bắt. Do đó, chính cô trở thành nạn nhân bị săn đuổi. Với sự giúp đỡ của bạn bè, cô ẩn trong chiếc xe bò chở rơm trốn đến Cuvilly; trong một vài năm kế tiếp cô trốn ở Compeigne, di chuyển từ nhà này sang nhà khác bất kể sự đau đớn về thể xác. Có lần cô đau đớn đến độ mất cả tiếng nói.
Nhưng giai đoạn này là thời gian phát triển đời sống tâm linh của Julie. Chính trong thời gian này cô được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Đây là những người con tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá." Năm 1804, cô Julie được bình phục và có thể đi lại bình thường sau 22 năm tàn phế. Vào năm 1805, Julie và ba người bạn là các nữ tu đầu tiên của Hội Dòng Đức Bà Namur khấn trọn. Sơ Julie được bầu làm Mẹ Bề Trên của tu hội trẻ trung này.
Từ lúc thành lập tu hội Các Nữ Tu của Đức Bà cho đến khi từ trần, Sơ Julie luôn luôn di chuyển để mở các trường học khác nhau ở Pháp và Bỉ để phục vụ người nghèo cũng như giầu. Sau cùng, Sơ Julie và Sơ Francoise di chuyển nhà mẹ đến Namur, nước Bỉ.
Sơ Julie từ trần năm 1816, và được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh năm 1969.
Suy niệm 1: Đạo hạnh
Ngay từ nhỏ Marie Rose Julie Billiart đã có lòng đạo hạnh và muốn giúp đỡ người nghèo.
Lòng đạo hạnh của ngài được biểu lộ qua việc ngài quan tâm đến người nghèo. Ngài luôn chú ý đến nhu cầu của người nghèo và đó vẫn là điều tiên quyết.
Vào năm 1803, ngài bắt đầu thành lập một tổ chức lấy tên là Hội Dòng Đức Bà Namur, để giáo dục người nghèo. Ngài luôn di chuyển để mở các trường học khác nhau ở Pháp và Bỉ để phục vụ người nghèo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vượt qua chính mình để sát cánh với người nghèo hầu dễ dàng tiến đức.
Suy niệm 1: Thời giờ
Khi lớn lên Julie đã phải làm việc lao động để giúp đỡ tài chánh cho gia đình. Tuy nhiên, cô vẫn dành thời giờ để dạy giáo lý cho các trẻ em và các nông dân.
Cô là con người chẳng những biết quý trọng mà còn biết tận dụng thời giờ nữa. Vì thế trong thời gian bị bất toại, cô không chịu khuất phục số phận mà ngược lại khi chịu lễ hàng ngày, cô luyện tập đời sống tâm linh và dành 4 đến 5 giờ đồng hồ trong sự chiêm niệm.
Trong một vài năm kế tiếp khi trốn ở Compeigne, cô lại sử dụng giai đoạn này để phát triển đời sống tâm linh của cô. Chính trong thời gian này cô được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Đây là những người con tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng lãng phí thì giờ Chúa ban mà phải hết mình sử dụng dầu phải gặp nghịch cảnh, vì Đấng toàn năng có thể biến điều dữ thành điều lành.
Suy niệm 2: Giáo lý
Khi lớn lên Julie đã phải làm việc lao động để giúp đỡ tài chánh cho gia đình. Tuy nhiên, cô vẫn dành thời giờ để dạy giáo lý cho các trẻ em và các nông dân.
Mặc dù Sơ Julie luôn luôn chú ý đến nhu cầu của người nghèo và đó vẫn là điều tiên quyết, nhưng sơ nhận thấy những người thuộc giai cấp khác của xã hội cũng cần được học hỏi về giáo lý Công Giáo. Trong vòng hai thập niên bị bất toại, dù phải liệt giường nhưng cô vẫn tiếp tục dạy giáo lý, khuyên bảo và thu hút nhiều người đến với cô vì nghe tiếng thánh thiện của cô.
Thời gian trôi qua và Julie quen biết với một phụ nữ quý tộc, cô Francoise Blin de Bourdon, là người cùng chia sẻ việc dạy giáo lý với cô. Vào năm 1803, 2 người bắt đầu thành lập 1 tổ chức lấy tên là Hội Dòng Đức Bà Namur, để giáo dục người nghèo cũng như các thiếu nữ Công Giáo và huấn luyện giáo lý viên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm đến việc giáo lý vì có biết Chúa mới yêu mến Chúa nồng thắm hơn.
Suy niệm 4: Bất toại
Khoảng 20 tuổi, sau khi tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù địch muốn giết hại cha mình, cô Julie đã bị chấn động đến độ bất toại và tàn phế.
Tinh thần và thể xác thường có tương quan mật thiết và tác động lẫn trên nhau. Một chiếc răng đau cũng làm cho bệnh nhân khó cầm trí và suy nghĩ thông suốt. Ngược lại một chấn động tinh thần cũng gây nên bại liệt và tàn phế, như trường hợp của cô Julie.
Tuy nhiên ảnh hưởng hỗ tương này không hẳn luôn là như thế. Thật vậy thân xác thánh Lôrensô bị cột trên một vỉ sắt lớn với lửa riu riu để từ từ thiêu đốt da thịt của ngài, nhưng tinh thần thánh nhân vững mạnh đến độ có thể đùa bỡn. Ngài nói với quan tòa, "Lật tôi đi chứ. Phía bên này chín rồi!" Và trước khi trút hơi thở cuối cùng, ngài nói, "Bây giờ thì đã chín hết rồi."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức về mối tương liên giữa thể xác và tinh thần, nhất là thực trạng mà Chúa cho hay: “tinh thần thì hăng say nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41).
Suy niệm 5: Nạn nhân
Khi cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ năm 1789, cô Julie dùng nhà mình làm nơi ẩn náu cho các linh mục đang bị lùng bắt. Do đó, chính cô trở thành nạn nhân bị săn đuổi.
Hơn thế, thánh Antôn Nguyễn Đích là người đạo hạnh, hết lòng giúp đỡ hàng giáo sĩ và hay thương kẻ nghèo hèn. Thời vua Minh Mạng cấm đạo, Cha Giacôbê Mai Năm đã đến trú ngụ tại nhà ngài, và cả hai cùng với con rễ là Micae Mỹ đều bị bắt giải về Nam Định vì tội chứa chấp đạo trưởng. Và cả ba bị xử trảm tại pháp trường Bảy Mẫu ngày 12/08/1838.
Thánh Mátthêu Nguyễn văn Phượng bị bắt vì tội chứa chấp Cha Gioan Hoan và oa trữ đồ lễ cùng sách vỡ công giáo. Trong tù ngài vẫn luôn giữ vững lòng tin vào thiên Chúa và sẵn sàng đổ máu để nên chứng nhân nước trời. Và án lệnh xử tử được vua Tự Đức châu phê vào ngày 25/05/1861.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hết mình bênh vực chở che các linh mục, cho dầu phải trở thành nạn nhân cho người chống đối.
Suy niệm 6: Tiếng nói
Cô Julie được nhìn thấy Chúa Giêsu trên đồi Canvê mà bao quanh là các phụ nữ mặc áo dòng, và cô nghe có tiếng nói, "Đây là những người con tinh thần mà Ta trao cho con trong một tổ chức có dấu thập giá."
Quần chúng xưa kia bên bờ sông Giođan cũng đã được nghe thấy tiếng nói từ trời về Đức Giêsu: "Đây là Con yêu dấu cua Ta, Ta hài lòng về Người" (Mt 3,17). Nhưng không phải tất cả người nghe đều đi theo Đức Giêsu.
Cũng thế tại núi Tabo, ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan cũng được nghe thấy tiếng nói từ trời về Đức Giêsu: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!" (Mt 17,5). Và các ngài đã vâng nghe lời Đức Giêsu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn thực hành và sống theo lời giảng dạy của các vị đại diện Chúa ở trần gian.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 07-4 Thánh Gioan Lasan (1651 - 1719)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Thánh GIOAN LASAN
Linh Mục (1651 - 1719)
Thánh Gioan Lasan là bổn mạng của các nhà giáo dục, Ngài được thành công trong việc cung ứng một hệ thống giáo dục cho quảng đại quân chúng vào thời mà dân nghèo như bị bỏ rơi hoàn toàn. Nỗ lực của Ngài không phải chỉ trong việc mở trường mà là việc tạo lập nên một đoàn thể những nhà giáo dục được đào tạo chu đáo. Chính nỗ lực này đặt nền tảng bảo đảm cho sự thành công trong việc giáo dục.
Không phải khuynh hướng tự nhiên được đưa Ngài tới việc thực hiện công trình này. Thật vậy, hoàn cảnh gia đình với sự đào luyện từ thuở nhỏ khó có thể coi được là một chuẩn bị cho Ngài làm giáo dục. Sinh tại Reims ngày 30 tháng 4 năm 1651, Gioan Baotixita, là con trưởng trong một gia đình quý phái và được thừa hưởng địa vị lẫn gia tài của cha mẹ để lại. Những thứ này là vực ngăn cách Ngài với đám đông dân chúng nghèo khổ.
Vào tuổi 16, khi đang theo học ở Học viện dành cho trẻ em ưu tú (College des Bons enfants), thánh nhân được đặt làm kinh sĩ ở Reims. Sau đó Ngài tiếp tục theo học tại chủng viện Xuân Bích và đại học Sorbonne để làm linh mục. Ngài thụ phong linh mục năm 27 tuổi.
Cho đến lúc này, chưa có một yếu tố nào cho thấy rõ sứ mệnh tương lai của Ngài. Nhưng ít lâu sau, Ngài được chỉ định giúp vào việc lập trường ngay tại quê hương xứ sở mình. Việc này đặt Ngài và trách nhiệm săn sóc các giáo viên, dẫn Ngài tới chỗ đưa họ về nhà mình và đào luyện họ. Dần dần, Ngài hiểu rằng: Chúa quan phòng định cho Ngài làm dụng cụ kiến tạo một hệ thống giáo dục dành cho dân nghèo, lớp dân bị xỉ nhục trong "thế kỷ huy hoàng" vì sự hư dốn và ngu dốt của họ.
Chọn thánh ý Thiên Chúa làm nguyên tắc hứơng dẫn đời sống, Ngài quyết định hiến mình trọn vẹn cho công tác này. Ngài từ chức kinh sĩ, phân phát gia tài để mang lấy cũng một địa vị như các giáo viên Ngài chung sống. Làm như vậy Ngài làm cho những người đồng hương nặng đầu óc giai cấp tức giận. Nhưng điều ấy không thay đổi được quyết định của Ngài.
Năm 1684, Ngài biến đổi nhóm giáo viên của mình để thành một cộng đoàn an sĩ với danh hiệu Sư huynh. Các trường công giáo. Đây là nguồn gốc của hội dòng ngày nay, phổ biến rộng rãi khắp thế giới. Để giới hạn hội dòng riêng cho nỗ lực giáo dục, Ngài nhận định rằng: sư huynh nào làm linh mục, cũng như không nhận một linh mục nào vào dòng. Luật này ngày nay vẫn còn được áp dụng.
Những năm đầu, hội dòng rất nghèo khổ và cực nhọc. Tuy nhiên thánh nhân vẫn kiên quyết chịu đựng và vững tin ở Chúa quan phòng. Người nói với những người lo âu : - Tại sao mà không tin tưởng ? Chúa thà làm phép lạ còn hơn để cho chúng ta phải thiếu thốn.
Mối quan tâm chính của Ngài là đào luyện đạo đức và nghiệp vụ cho anh em. Nhưng, thấy không thể thỏa mãn được mọi đòi hỏi của giáo viên nếu không huấn luyện giáo viên, năm 1678 Ngài lập ở Reims một học viện cho khoảng 40 trẻ. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục có một cơ sở giáo dục như vậy.
Sau khi lập trường ở những thành phố lân cận, năm 1683, Ngài coi sóc một trường ở xứ Thánh Xuân Bích (Sulpice), là nơi Ngài đặt bản doanh của mình. Tại thủ đô công trình lan rộng mau lẹ. Ngài lập thêm một trường đào tạo nữa với một trường miễn phí cho các bạn trẻ đã đi làm việc. Khi vua Giacôbê III trao phó cho Ngài săn sóc các thiếu niên Ai Nhĩ Lan, Ngài đã dành cho họ các giảng khoá đặc biệt theo nhu cầu của họ.
Mục đích tốt đẹp của Ngài bị chống đối bởi những giáo viên trường nhỏ, vì mất học sinh và học phí. Họ kiện cáo Ngài. Trường của Ngài bị cướp phá. Ngài bị kết án và bị cấm không được mở trường đào luyện miễn phí ở phạm vi Paris. Dĩ nhiên Ngài cũng bị trục xuất khỏi thủ đô một thời. Nhưng công trình của Ngài đã lan rộng sang nhiều nơi khác và những cấm đoán kia không thể phá hủy nổi.
Ở Rouen, Ngài đã lập hai cơ sở quan trọng: một trường nội trú phải trả học phí, cho học sinh miền quê muốn hiến thân, và một trường phục hồi cho những trẻ em bụi đời. Cả hai đều rất thành công. Cha Gioan Baotixita trải qua những năm cuối đời ở Rouen để kiện toàn thành tổ chức, viết luật dòng chờ các sư huynh và hai tác phẩm Meditations (nguyện ngắm), Methode de la prière mentale (Phương pháp thực hành tâm nguyện)
Ngài từ trần ngày thứ sáu tuần thánh 09 tháng 04 năm 1719.
(daminhvn.net)
Ngày 05/4 Thánh Vinh Sơn Ferrer (1357 - 1419)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Vinh Sơn Ferrer (1357 - 1419)
Lược sử
Sự phân hóa trong Giáo Hội ngày nay chỉ là cơn gió nhẹ so với trận cuồng phong đã xé Giáo Hội ra từng mảnh trong thời Thánh Vinh Sơn Ferrer. Ngài là quan thầy của những người xây cất vì ngài nổi tiếng đã "xây dựng" và kiên cường Giáo Hội qua công việc rao giảng, dạy dỗ của ngài.
Sinh ở Valencia, Tây Ban Nha năm 1357, khi lên 17 tuổi, bất kể sự chống đối của cha mẹ, ngài gia nhập Dòng Đa Minh trong thành phố gần nơi sinh trưởng. Sau khi hoàn tất việc học một cách tốt đẹp, ngài được thụ phong linh mục bởi Đức Hồng Y Phêrô "de Luna" -- là người đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời ngài.
Với bản tính hăng say, ngài tận tụy thi hành nhân đức khắc khổ theo quy luật dòng. Sau khi được thụ phong linh mục không lâu, ngài được chọn làm bề trên tu viện Đa Minh ở Valencia.
Cuộc Đại Ly Giáo Tây Phương đã chia cắt Kitô Giáo, lúc đầu với hai giáo hoàng, sau đó là ba giáo hoàng. Đức Clêmentê ở Avignon nước Pháp, Đức Urbanô ở Rôma. Cha Vinh Sơn tin rằng việc bầu cử Đức Urbanô là vô giá trị (mặc dù Thánh Catarina ở Siena là người hỗ trợ đức giáo hoàng Rôma).
Cha Vinh Sơn được Đức Bênêđictô triệu về làm việc trong Tòa Ân Giải Tối Cao và là Trưởng Điện Tông Tòa. Nhưng vị giáo hoàng ở Avignon không chịu từ chức trong khi tất cả các ứng viên trong mật nghị hồng y đều thề như vậy. Và Đức Bênêđictô vẫn ngoan cố bất kể sự ruồng bỏ của vua nước Pháp và hầu hết các hồng y.
Cha Vinh Sơn vỡ mộng và lâm bệnh nặng, nhưng sau cùng ngài đã đảm nhận công việc "rao giảng Đức Kitô cho thế giới," dù rằng bất cứ sự canh tân nào trong Giáo Hội thời ấy đều tùy thuộc vào việc hàn gắn sự ly giáo. Ngài nhấn mạnh đến nhu cầu sám hối và khuyên nhủ mọi người hãy lo sợ ngày phán xét. (Ngài có tên là "Thiên Thần của Sự Phán Xét").
Cha Vinh Sơn sống cho đến ngày được chứng kiến sự chấm dứt ly giáo, với việc bầu cử tân giáo hoàng là Đức Martin V. Cha từ trần ngày 5 tháng Tư 1419 và được phong thánh năm 1455.
Suy niệm 1: Phân hóa
Sự phân hóa trong Giáo Hội ngày nay chỉ là cơn gió nhẹ so với trận cuồng phong đã xé Giáo Hội ra từng mảnh trong thời Thánh Vinh Sơn Ferrer.
Sự chia cắt trong Giáo Hội thời Thánh Vinh Sơn Ferrer quả thật là một tai họa -- 36 năm trường với hai "thủ lãnh." Chúng ta không thể tưởng tượng được điều gì sẽ xảy ra cho Giáo Hội ngày nay nếu, trong một thời gian dài như vậy, một nửa theo các giáo hoàng ở Rôma, và một nửa khác theo số giáo hoàng "chính thức", tỉ như ở Rio de Janeiro.
Quả thật đó là một phép lạ khi thời gian lụn bại ấy với những khối đá kiêu ngạo và ngu dốt, đầy tham vọng đã kéo dài không lâu. Chúng ta tin rằng "chân lý thì hùng mạnh, và sẽ thắng the" -- mặc dù đôi khi phải mất một thời gian.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sáng suốt nhận ra chân lý và sống chết vì chân lý.
Suy niệm 2: Xây dựng
Thánh Vinh Sơn là quan thầy của những người xây cất vì ngài nổi tiếng đã "xây dựng" và kiên cường Giáo Hội qua công việc rao giảng, dạy dỗ của ngài.
Ngài nổi tiếng về việc xây dựng, nhưng không phải xây dựng những công trình vật chất mà là công trình thiêng liêng vốn là tòa nhà của Giáo Hội qua công việc rao giảng, dạy dỗ của ngài.
Đó cũng là tâm huyết cả cuộc đời Đức Giêsu. Ngài không quan tâm xây dựng một ngôi nhà ở, mà chấp nhận không có nơi tựa đầu (Mt 8,20), để rồi dành thời gian ba năm rao giảng, để xây dựng tòa nhà Giáo Hội kiên cố đến mức ngay cả quyền lực tử thần cũng không phá nổi (Mt 16,16,18).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm tô điểm đền thờ tâm hồn mình thành một viên đá rắn chắc gia tăng sự kiên vững của tòa nhà Giáo Hội.
Suy niệm 3: Ảnh hưởng
Sau khi hoàn tất việc học một cách tốt đẹp, Vinh Sơn được thụ phong linh mục bởi Đức Hồng Y Phêrô vốn là người đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời ngài.
Trong thời gian phục vụ Đức Hồng Y "de Luna", Cha Vinh Sơn thuyết phục người Tây Ban Nha theo Đức Clêmentê. Và khi Đức Clêmentê từ trần, Đức Hồng Y "de Luna" được bầu làm giáo hoàng ở Avignon và lấy tên là Bênêđictô XIII.
Vào những năm 1408 và 1415, ngài cố gắng nhưng không thành công trong việc thuyết phục người bạn cũ của ngài từ chức. Sau cùng, Cha Vinh Sơn phải kết luận rằng Đức Bênêđictô không phải là giáo hoàng thật. Mặc dù đang bệnh nặng, Cha Vinh Sơn đã lên tòa giảng trước một giáo đoàn mà chính Đức Bênêđictô chủ sự, và mạnh mẽ tố giác người đã tấn phong chức linh mục cho ngài. Từ đó trở đi, Đức Bênêđictô bỏ trốn, để lại sau lưng những người trước đây đã hỗ trợ mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm bênh vực chân lý ngay cả đối nghịch với ân nhân mình.
Suy niệm 4: Hăng say
Với bản tính hăng say, Cha Vinh Sơn tận tụy thi hành nhân đức khắc khổ theo quy luật dòng.
Là một người có tài rao giảng và hăng say, Cha Vinh Sơn dành 20 năm sau cùng của cuộc đời để loan truyền Tin Mừng ở Tây Ban Nha, Pháp, Thụy Điển, Hòa Lan và vùng Lombardy.
Lòng nhiệt thành của Đức Giêsu bất chấp cả việc phải thiệt thân. Khi thấy nhà cầu nguyện bị biến thành nơi buôn bán, Ngài đã dùng roi xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ (Ga 2,14-17).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhiệt tâm lo việc Chúa hơn việc đời dầu phải thịêt thân.
Suy niệm 5: Từ chức
Vị giáo hoàng ở Avignon không chịu từ chức trong khi tất cả các ứng viên trong mật nghị hồng y đều thề như vậy. Đức Bênêđictô XIII vẫn ngoan cố bất kể sự ruồng bỏ của vua nước Pháp và hầu hết các hồng y.
Tham quyền cố vị vốn là một thứ bệnh ung thư dễ mắc phải và thật bất trị. Dầu là một vị giáo hoàng bất hợp pháp, nhưng Đức Bênêđictô cũng không muốn từ chức.
Ngược lại là một thánh nhân, Gioan Tiền Hô biết dừng lại đúng lúc thời điểm phải chấm dứt, vì càng bám víu càng gây thiệt hại cho bản thân và tha nhân. Là sứ giả dọn đường, ngài phải rút lui để nhường chỗ cho Đấng Thiên Sai (Ga 3,30), và chính Đức Giêsu cũng ra đi để Đấng Bảo Trợ đến (Ga 16,7.13).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ dính bén khi phải đến lúc ra đi.
Suy niệm 6: Phán xét
Cha Vinh Sơn nhấn mạnh đến nhu cầu sám hối và khuyên nhủ mọi người hãy lo sợ ngày phán xét. (Ngài có tên là "Thiên Thần của Sự Phán Xét").
Cái chết kết thúc đời sống con người, nghĩa là chấm dứt thời gian đón nhận hay chấm dứt ân sủng Thiên Chúa được biểu lộ trong Đức Kitô.
Khi đề cập đến phán xét, Tân Ước chủ yếu nói về cuộc gặp gỡ chung cuộc với Đức Kitô trong ngày quang lâm, nhưng cũng nhiều lần khẳng định có sự thưởng phạt tức khắc ngay sau khi chết, tùy theo công việc và đức tin của mỗi người (Sách Giáo Lý số 1021).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nghỉ đến cuộc phán xét như là kim chỉ nam để sống.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 04/4 Thánh Isidore ở Seville (560? - 636)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Isidore ở Seville (560? - 636)
Lược sử
Trong 76 năm cuộc đời của Thánh Isidore là thời kỳ tranh chấp cũng như phát triển của Giáo Hội Tây Ban Nha. Người Visigoth xâm lăng phần đất này trong một thế kỷ, và trước đó nửa thế kỷ trước khi Thánh Isidore chào đời thì họ đã thiết lập một thủ đô khác cho chính họ. Đó là những người theo Arian -- họ cho rằng Đức Kitô không phải là Thiên Chúa. Do đó, Tây Ban Nha bị chia làm đôi: Một dân tộc (người Công Giáo La Mã) phải chiến đấu với dân tộc khác (người Gô-tích Arian).
Thánh Isidore là người hợp nhất Tây Ban Nha, giúp quốc gia này trở nên một trung tâm văn hóa và học thuật cũng như một khuôn mẫu cho các quốc gia Âu Châu khác, mà các nền văn hóa ấy đang bị đe dọa bởi sự xâm lăng của những người man rợ.
Có thể nói Thánh Isidore sinh trong một gia đình thánh thiện của thế kỷ thứ sáu ở Tây Ban Nha. Ngài là một người tài giỏi về học thuật.
Kế vị anh mình là Đức Leander, Isidore làm giám mục Seville 37 năm, ngài đặt ra các mẫu mực cho một đại diện chính phủ ở Âu Châu, đồng thời ngài tẩy chay các quyết định độc đoán và thành lập các thượng hội đồng để thảo luận về đường hướng của Giáo Hội Tây Ban Nha. Ngài yêu cầu mỗi một giáo phận đều phải có chủng viện, ngài viết quy luật cho các dòng tu và thành lập các môn học thuộc đủ mọi ngành.
Ngay khi 80 tuổi, ngài vẫn sống khắc khổ. Trong sáu tháng sau cùng của cuộc đời, ngài gia tăng lòng bác ái đến độ, từ sáng đến tối, nhà của ngài lúc nào cũng đầy người nghèo. Ngài từ trần năm 636 và được Giáo Hội tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Suy niệm 1: Phát triển
Trong 76 năm cuộc đời của Thánh Isidore là thời kỳ tranh chấp cũng như phát triển của Giáo Hội Tây Ban Nha.
Thông thường nhờ lợi điểm thuận lợi mà công cuộc phát triển được thể hiện, như người ta hay đề cập đến yếu tố thiên thời địa lợi và nhân hòa. Nhưng một điểm đáng lưu ý trong đà phát triển, đó là phát triển nhờ vào tình thế khó khăn. Chẳng hạn như ở đây nhờ hiện trạng tranh chấp mà công cuộc phát triển được thực hiện.
Cũng thế, nhờ bị bách hại mà Giáo Hội lại được phát triển và bành trướng mạnh mẽ cũng như lan rộng khắp nơi. Chẳng hạn nhân vụ thảm sát Têphanô, các kitô hữu phải tản mác và đi đến tận miền Phênixi, đảo Sýp và thành Antiôkhia, đến cả với người Hy Lạp nữa (Cv 11,19-20).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biến đau khổ thành sức mạnh tiến lên trên đỉnh trọn lành.
Suy niệm 2: Chia rẽ
Tây Ban Nha bị chia làm đôi: Một dân tộc (người Công Giáo La Mã) phải chiến đấu với dân tộc khác (người Gô-tích Arian).
Một lý do căn bản gây nên sự chia rẽ này là vì đức tin: những người theo Arian, họ cho rằng Đức Kito không phải là Thiên Chúa, trong khi người Công Giáo La Mã tuyên xưng Đức Kitô có hai bản tính vừa là người vừa là Thiên Chúa.
Lời tiên báo của cụ già Simêôn vẫn luôn hiện thực: Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm cho nhiều người ngã xuống hay đứng lên (Lc 2,34), không phải chỉ với những người cùng chủng tộc, mà ngay cả trong phạm vi gia đình huyết tộc (Mt 10,34-35).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng vì Chúa mà xa lìa nhau, nhưng ngược lại nhờ Chúa mà chúng con được hiệp nhất với nhau.
Suy niệm 3: Hợp nhất
Thánh Isidore là người hợp nhất Tây Ban Nha, giúp quốc gia này trở nên một trung tâm văn hóa và học thuật.
Sự hợp nhất nguyên thủy giữa con người với Thiên Chúa, giữa con người với nhau, cũng như giữa con người với vũ trụ đã bị phá vỡ do tội nguyên tổ, để rồi mọi loài thọ tạo phải sống trong cảnh rên siết và quằn quại mãi cho đến lúc được yên nghĩ trong Chúa.
Thật vậy Thiên Chúa đã xua đuổi con người ra khỏi vườn địa đàng (St 3,22). Adong đỗ lỗi cho Evà và Evà đỗ lỗi cho con rắn (St 3,12-13). Vì con người, đất đai bị nguyền rủa và trổ sinh gai góc (St 3,17-18).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn liên kết mật thiết với Chúa vốn là nguyên lý hợp nhất để trở thành nhân tố hợp nhất theo gương thánh Isidore.
Suy niệm 4: Gia đình
Có thể nói Thánh Isidore sinh trong một gia đình thánh thiện của thế kỷ thứ sáu ở Tây Ban Nha.
Quả là một gia đình thánh thiện vì gồm toàn những thánh nhân. Cũng như ngài, hai người anh của ngài, Leander và Fulgentius, và người chị, Florentina, đều là các thánh được sùng kính ở Tây Ban Nha.
Đây cũng là một gia đình lãnh đạo và tài giỏi với các vị Leander và Fulgentius đều làm giám mục và Florentina làm mẹ bề trên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các gia đình học theo gia đình Thánh Isidore về học thức và sự thánh thiện.
Suy niệm 5: Tài giỏi
Thánh Isidore là một người tài giỏi về học thuật.
Đôi khi Thánh Isidore được gọi là "Sư Phụ của Thời Trung Cổ" vì cuốn bách khoa ngài viết, "Etymology" (Từ Nguyên Học) đã được dùng như sách giáo khoa trong chín thế kỷ. Ngài còn viết các sách về văn phạm, thiên văn, địa lý, sử ký, và tiểu sử cũng như thần học.
Thánh Isidore viết rất nhiều sách, kể cả một cuốn tự điển, một bộ bách khoa, một cuốn sử người Gô-tích và một cuốn sử thế giới bắt đầu từ khi Thiên Chúa tạo thành trời đất! Ngài hoàn thành bộ phụng tự Mozarabic mà ngày nay vẫn còn được sử dụng ở Toledo, Tây Ban Nha.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng sự tài giỏi để phục vụ Chúa và tha nhân.
Suy niệm 6: Bác ái
Trong sáu tháng sau cùng của cuộc đời, ngài gia tăng lòng bác ái.
Lòng bác ái, sự hiểu biết có thể chữa lành và hòa giải những người đau khổ. Đức Giêsu đã nêu bật tấm gương khi kề cận người nghèo và thực hiện lời tiên báo: loan báo tin mừng cho người cùng khổ, giải cứu người bị giam cầm trong các loại bệnh tật thể xác cũng như tinh thần, giải phóng người bị áp bức và công bố năm hồng ân (Lc 4,18-19).
Nhưng những người sa lầy trong sự giầu sang và choáng ngợp bởi các tiến bộ khoa học và kỹ thuật có thể mất đi lòng bác ái đối với tha nhân. Chẳng hạn nhà phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình chẳng màng gì anh Ladarô nghèo và đói đến chết ở ngay trước cổng nhà mình (Lc 16,19-21).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sử dụng tình bác ái như là phương thuốc cứu giúp người nghèo.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 02/4 Thánh Phanxicô ở Paola (1416-1507)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phanxicô ở Paola (1416-1507)
Lược sử
Phanxicô sinh ở Paola, là một ngôi làng nhỏ bé của nước Ý, vào năm 1416. Cha mẹ ngài nghèo nhưng thánh thiện và khiêm tốn. Vì hiếm muộn, hai ông bà cầu xin Thánh Phanxicô Assisi cho một con trai. Khi lời cầu xin được nhận, hai ông bà đặt tên con là Phanxicô, để tưởng nhớ vị thánh. Cậu bé theo học trường của các tu sĩ dòng Phanxicô. Khi mười lăm tuổi, với sự đồng ý của cha mẹ, Phanxicô đi vào hoang địa, sống trong một cái hang. Phanxicô muốn trở thành vị ẩn tu và dành trọn cuộc đời cho Thiên Chúa mà thôi.
Khi ngài được hai mươi tuổi, một số thanh niên khác muốn đến gia nhập với Phanxicô. Ngài phải bỏ hang và dân chúng ở Paola xây một nhà thờ và tu viện cho ngài và các môn đệ. Ngài gọi tu hội của ngài là "Minims", có nghĩa "người hèn mọn nhất."
Mọi người đều quý mến Phanxicô. Ngài cầu nguyện cho họ và làm nhiều phép lạ. Ngài dạy bảo các môn đệ phải sống tử tế và khiêm nhường, và hãm mình đền tội. Chính ngài là gương mẫu những gì ngài rao giảng. Có lần, một người đàn ông xỉ nhục Phanxicô ngay trước mặt. Đợi khi ông này dứt tiếng, Phanxicô im lặng cúi xuống nhặt cục than hồng và bóp chặt trong tay. Nhưng ngài không bị phỏng. Phanxicô nói với ông ấy: "Hãy đến đây để sưởi ấm. Ông đang lạnh run vì ông cần chút bác ái." Trước phép lạ đó, người đàn ông đã thay đổi thành kiến về Phanxicô.
Vua Louis XI của Pháp đã không sống một cuộc đời tốt lành. Khi bị bệnh gần chết, vua cho gọi Phanxicô. Vì sợ chết, nhà vua muốn Phanxicô làm phép lạ để chữa ông khỏi bệnh. Nhưng thay vào đó, thánh nhân đã dịu dàng giúp đỡ người đàn ông yếu đuối này chuẩn bị một cái chết thánh thiện. Nhà vua đã thay đổi tâm hồn. Ông đã chấp nhận cái chết và từ trần một cách êm thắm trong tay của thánh nhân.
Thánh Phanxicô đã sống một cuộc đời lâu dài để ca ngợi và mến yêu Thiên Chúa. Ngài từ trần khi 91 tuổi, vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1507.
Suy niệm 1: Làng
Phanxicô sinh ở Paola, là một ngôi làng nhỏ bé của nước Ý, vào năm 1416.
Một ngôi làng được mọi người xem là nhỏ bé, nhưng trước mặt Thiên Chúa thì không, vì từ đó xuất hiện một thánh nhân mang lại nhiều lợi ích thiêng liêng cho nhiều người, đó là thánh Phanxicô.
Bêlem xưa cũng được ngôn sứ nói đến: Ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tục chăn dắt Ítraen sẽ ra đời (Mt 2,6). Nathanaen cũng đã có cái nhìn trần tục đó: Từ Nadarét làm sao có cái gì hay được (Ga 1,46).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng nhìn người và sự vật bằng con mắt trần tục mà bằng con mắt của Thiên Chúa.
Suy niệm 2: Hiếm muộn
Vì hiếm muộn, hai ông bà cầu xin Thánh Phanxicô Assisi cho một con trai. Khi lời cầu xin được nhận, hai ông bà đặt tên con là Phanxicô, để tưởng nhớ vị thánh.
Một trong các mục đích của đời sống hôn nhân là có con cái, vì thế tình trạng hiếm muộn vừa là một khổ đau và đồng thời là một nỗi hổ nhục (St 30,23;Lc 1,23). Việc họ cầu xin cho có con là một tâm trạng chung và dễ hiểu.
Nhưng trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, Người lại chọn những quý tử từ lòng dạ những mẫu thân hiếm muộn ấy làm những dụng cụ lừng danh cho chương trình của Người như một Ixaác từ Sara (St 11,30), một Giacóp từ Rêbêca (St 25,21), một Samuen từ Anna (1Sm 1,5)... cũng như một Phanxicô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức rằng thà chết mà không con còn hơn có những người con bất nghĩa (Hc 16,3).
Suy niệm 3: Hoang địa
Cậu bé theo học trường của các tu sĩ dòng Phanxicô. Khi 15 tuổi, với sự đồng ý của cha mẹ, Phanxicô đi vào hoang địa, sống trong một cái hang.
Tính hiếu động thông thường của lứa tuổi mười lăm không cầm chân được chí hướng tu trì của Phanxicô. Ngược lại ngài quyết chọn lối sống thinh lặng không bị chi phối bởi cảnh náo nhiệt của chốn phồn hoa đô thị, nên tìm vào hoang địa sống trong một cái hang.
Sự yên tịnh ngoại diện là cần thiết nhưng không quan trọng bằng sự yên tịnh nội tâm. Bầu khí thinh lặng của hang động trong hoang địa vẫn khó cầm cố được bao nhiêu hình ảnh với những ý tưởng đột nhập vào tâm trí, nếu không để Chúa chiếm lĩnh toàn diện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn lưu giữ Chúa hiện diện mãi trong tâm trí, để dù không có sự yên tịnh ngoại diện thì vẫn kiến tạo được sự yên tịnh nội tâm.
Suy niệm 4: Từ bỏ
Khi Phanxicô được hai mươi tuổi, một số thanh niên khác muốn đến gia nhập với Phanxicô. Ngài phải bỏ hang và dân chúng ở Paola xây một nhà thờ và tu viện cho ngài và các môn đệ.
Một điều kiện tên quyết để theo làm môn đệ Chúa là phải từ bỏ hết những gì mình có (Lc 14,33). Phanxicô đã thực hiện chí nguyện theo Chúa bằng việc từ bỏ gia đình, từ bỏ bản tính hiếu động của tuổi 15, từ bỏ chốn đô thị để tìm vào nơi hoang vắng và ẩn dật trong hang động.
Một thử thách lớn lao lại đến, đó là việc quy tụ của một số thanh niên tràn đầy nhiệt huyết. Phanxicô phải quyết định từ bỏ một điều căn bản nữa, đó là từ bỏ chính mình (Mt 16,24). Phanxicô rời bỏ ý định sống đơn độc trong hang, để chấp nhận sống thành cộng đoàn với anh em khác trong một tu hội.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con ca ngợi mẫu gương từ bỏ của Chúa đến hy sinh cả mạng sống bằng cái chết trên thập tự giá (Pl 2,6-8).
Suy niệm 5: Gương mẫu
Phanxicô dạy bảo các môn đệ phải sống tử tế và khiêm nhường, và hãm mình đền tội. Chính ngài là gương mẫu những gì ngài rao giảng.
Mẫu gương sống khiêm nhường của Phanxicô đã được thuật lại như sau:
Có lần, một người đàn ông xỉ nhục Phanxicô ngay trước mặt. Đợi khi ông này dứt tiếng, Phanxicô im lặng cúi xuống nhặt cục than hồng và bóp chặt trong tay. Nhưng ngài không bị phỏng.
Phanxicô nói với ông ấy: "Hãy đến đây để sưởi ấm. Ông đang lạnh run vì ông cần chút bác ái." Trước phép lạ đó, người đàn ông đã thay đổi thành kiến về Phanxicô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về giá trị hữu hiệu của mẫu gương, để luôn sống nhiều hơn là nói.
Suy niệm 6: Phép la
Vua Louis XI của Pháp đã không sống một cuộc đời tốt lành. Khi bị bệnh gần chết, vua cho gọi Phanxicô. Vì sợ chết, nhà vua muốn Phanxicô làm phép lạ để chữa ông khỏi bệnh.
Phép lạ chữa lành bệnh phần xác chỉ nhằm dẫn đến việc chữa lành bệnh tâm hồn. Đó cũng là đường hướng Đức Giêsu đã từng thực hiện và dạy bảo trên bước đường rao giảng, như việc chữa người bại liệt (Mt 9,1-8).
Chính vì thế, thay vào đó, thánh nhân đã dịu dàng giúp đỡ người đàn ông yếu đuối này chuẩn bị một cái chết thánh thiện. Nhà vua đã thay đổi tâm hồn. Ông đã chấp nhận cái chết và từ trần một cách êm thắm trong tay của thánh nhân. Quả là một phép lạ lớn lao hơn nhiều.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chủ yếu tìm đạt được chủ đích của phép lạ là cải tà quy chánh, hơn là chạy tìm giá trị bên ngoài của phép lạ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 01/4 Thánh Hugh ở Grenoble (1052-1132)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Hugh ở Grenoble (1052-1132)
Lược sử
Thánh Hugh sinh năm 1052 ở Pháp. Ngài là một người cao lớn, đẹp trai và hòa nhã. Mặc dù ngài muốn tận hiến cho Thiên Chúa trong đan viện, nhưng ngài đã được ban cho một địa vị quan trọng. Ngài được thụ phong linh mục và sau đó được tấn phong giám mục.
Ngay khi làm giám mục, Đức Cha Hugh bắt đầu sửa đổi các tật xấu của nhiều người trong giáo phận. Ngài hoạch định nhiều chương trình khôn ngoan, nhưng đó chưa phải là tất cả những gì ngài thực hiện. Để xin Thiên Chúa thương xót đến người dân, ngài cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Ngài hy sinh hãm mình cực độ. Trong một thời gian ngắn, nhiều giáo dân trong địa phận đã trở lại với nếp sống đạo đức. Chỉ có giới trưởng giả là tiếp tục chống đối ngài.
Đức Cha Hugh từ trần ngày 1 tháng Tư 1132, chỉ hai tháng trước khi mừng sinh nhật thứ tám mươi của ngài, sau khi chu toàn bổn phận của một giám mục trong năm mươi hai năm.
Vào năm 1134, chỉ 2 năm sau khi ngài từ trần, Đức Giáo Hoàng Innôxentê II đã tuyên xưng ngài là thánh.
Suy niệm 1: Đẹp trai
Thánh Hugh sinh năm 1052 ở Pháp. Ngài là một người cao lớn, đẹp trai và hòa nhã.
Trong số những người được Chúa chọn làm dụng cụ cho Chúa không thiếu những người được xác nhận rõ là đẹp trai, chẳng hạn như Giuse (St 39,6), Saun (1Sm 9,2), Đavít (1Sm 16,18;17,42), Ápsalôm (2Sm 14,25) cũng như Thánh Hugh.
Cũng chính vì thế các ứng viên linh mục thường được xét duyệt ngoài những phẩm chất đạo đức và văn hóa, còn có tiêu chí dầu không hẳn là đẹp trai nhưng tuyệt đối không được dị dạng và dị tật trước khi được thụ phong.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các linh mục luôn chăm sóc nét đẹp thể xác và nhất là tinh thần.
Suy niệm 2: Sửa đổi
Ngay khi làm giám mục, Đức Hugh bắt đầu sửa đổi các tật xấu của nhiều người trong giáo phận.
Sửa đổi bao giờ cũng đòi hỏi phải có thời gian, nhất là khi phải sửa đổi một tãt xấu. Tuy nhiên đừng quên phải có quyết tâm thực hiện ngay tức khắc, không được chần chờ. Có bắt đầu sửa đổi và kiên trì sửa đổi thì mới mong đạt được thành công.
Đồng thời phải lưu ý câu nói dầy kinh nghiệm, đó là ngựa quen đường cũ. Vì thế một trong những phương cách hữu hiệu, đó là hãy thay đổi nết cũ xấu bằng một điều tốt lành mới, như đám cỏ được nhổ sạch cần phải được thay thế bằng những bông hoa mới, để tránh tình trạng cỏ tiếp tục mọc lên ở chỗ đất trống.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn cấp tốc cải tà quy chánh để không hối hận vì quá muộn.
Suy niệm 3: Cầu nguyện
Để xin Thiên Chúa thương xót đến người dân, Đức Hugh cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Ngài hy sinh hãm mình cực độ.
Để lời cầu nguyện mang tính chân thành, nhờ đó dễ được nhận lời. Một yếu tố quan trọng không thể thiếu, đó là phải cầu nguyện bằng cả tấm lòng.
Để có được mụn con Samuen, bà hiếm muộn Anna đã cầu nguyện với bao nước mắt khiến thầy cả Êli ngở bà say rượu (1Sm 1,9-18). Để cảm hóa được cả chồng và con, thánh nữ Mônica cũng kiên trì cầu nguyện với bao nước mắt.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn thực tâm cầu nguyện bằng cả tấm lòng.
Suy niệm 4: Hãm mình
Để xin Thiên Chúa thương xót đến người dân, Đức Hugh cầu nguyện với tất cả tâm hồn. Ngài hy sinh hãm mình cực độ.
Trong bốn mươi năm, hầu như lúc nào ngài cũng bị đau yếu. Ngài bị nhức đầu dữ dội cũng như bị đau bao tử. Tuy nhiên ngài vẫn hãm mình gắng sức làm việc vì yêu mến dân chúng. Ngài chịu đau khổ vì những thử thách và cám dỗ. Nhưng nhờ sự hãm mình, ngài không bao giờ chịu thua tội lỗi.
Ma quỷ là giềng mối gây nên tội lỗi (Ga 13,2), thế nhưng việc hãm mình lại có hiệu năng khuất phục được ma quỷ (Mt 17,21). Không lạ gì, trong một thời gian ngắn, nhiều giáo dân trong địa phận đã trở lại với nếp sống đạo đức.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết ăn chay hãm mình để chế ngự tội lỗi mình và tha nhân.
Suy niệm 5: Chống đối
Trong một thời gian ngắn, nhiều giáo dân trong địa phận đã trở lại với nếp sống đạo đức. Chỉ có giới trưởng giả là tiếp tục chống đối Đức Hugh.
Do có thế lực về tiền bạc cũng như quyền hành, giới trưởng giả vốn tự cao nên thường chống đối các vị mục tử chân chính như trường hợp của một Đức Hugh, vì bóng tối thì luôn ghét ánh sáng (Ga 3,19-20).
Ngược lại những người dân hèn mọn và đơn sơ chất phác vốn có tâm địa ngay lành nên dễ tiếp thu ánh sáng chân lý và đi theo đường ngay nẻo chính (Mt 11,25).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chớ kiêu căng nhưng khiêm tốn, để dễ đi theo sự hướng dẫn của các vị mục tử nhân lành.
Suy niệm 6: Ý Chúa
Tuy là giám mục, Đức Hugh vẫn mong muốn đời sống một đan sĩ. Đó là điều ngài thực sự mong ước. Ngài từ chức giám mục của giáo phận Grenoble và gia nhập đan viện.
Tưởng đã yên thân, nhưng đó không phải là ý Chúa. Chỉ sau một năm, đức giáo hoàng đã yêu cầu ngài trở về Grenoble. Và Đức Hugh đã vâng lời. Ngài biết rằng làm vui lòng Thiên Chúa thì quan trọng hơn là thỏa mãn ý riêng.
Còn hơn thế, Đức Giêsu xem việc thực thi Thiên Ý chính là lương thực nuôi sống mình (Ga 4,34), đến mức Ngài chấp nhận uống cạn chén đắng, tức là cuộc Tử Nạn mang lại ơn cứu độ cho trần thế (Mt 26,39).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con coi trọng việc thực thi Thiên Ý hơn cả mạng sống mình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 31/3 Thánh Benjamin (c. 424)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lược sử
Kitô Hữu ở Ba Tư vui hưởng thái bình trong 12 năm dưới sự cai trị của Isdegerd, con vua Sapor III, thì vào năm 420 quốc gia này bị khuấy động bởi sự hăng hái thiếu khôn ngoan của Abdas, vị giám mục Công Giáo đã đốt Đền Thần Lửa, một đền thờ của người Ba Tư. Vua Isdegerd đe dọa sẽ thiêu hủy tất cả các nhà thờ Công Giáo, nếu đức giám mục không xây lại đền thờ ấy.
Khi ĐGM Abdas từ chối tuân hành, lời đe dọa đã trở thành sự thật; các nhà thờ trên toàn quốc bị thiêu hủy, chính ĐGM Abdas thì bị tử hình, và một cuộc bách hại toàn diện kéo dài đến bốn mươi năm. Vua Isdegerd từ trần năm 421, nhưng thái tử kế vị là Varanes, tiếp tục bách hại Kitô Hữu một cách dữ dội hơn. Các Kitô Hữu bị tra tấn thật dã man.
Trong những người chịu đau khổ là Benjamin, một phó tế, bị kết án tù một năm trời vì Đức Tin. Vào cuối thời hạn tù, một đại sứ của Hoàng Đế Constantinople đã xin cho Benjamin được trả tự do, với điều kiện là ngài không được rao giảng đức tin cho các cận thần trong triều đình.
Tuy nhiên, Benjamin tuyên bố rằng, rao giảng về Đức Kitô là một nhiệm vụ mà ngài không thể im lặng. Mặc dù ngài đã đồng ý với vị đại sứ và nhà cầm quyền Ba Tư, nhưng ngài không thể tuân lệnh mà bỏ lỡ cơ hội rao giảng Tin Mừng. Một lần nữa ngài lại bị bắt và đưa ra trước nhà vua. Ngài đã chịu tử đạo vào năm 424.
Suy niệm 1: Thái bình
Kitô Hữu ở Ba Tư vui hưởng thái bình trong 12 năm dưới sự cai trị của Isdegerd, con vua Sapor III.
Hòa bình không thể chiếm được bằng chiến tranh, vốn gây bao tổn thương. Một đất nước sống dưới ách thống trị của kẻ chiếm đóng, làm sao có tinh thần thoải mái được. Những gia đình có vợ mất chồng và có con mất cha, làm sao chịu đựng được vết thương lòng không bao giờ được chữa lành.
Đôi khi ngay cả nhân đức cũng không chiếm được sự an bình thoải mái, nếu lương tâm luôn bị cắn rứt bởi tội lỗi. Nhưng sự bình an của Đức Kitô (Ga 14,27) đến từ một tâm hồn trong sạch có Chúa ngự trị (Ep 3,17) thì có thể thấm nhập vào cả các bức màn sắt.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng chạy tìm thứ bình an giả tạo và nhất thời của thế gian, mà phải luôn kiếm tìm một bình an đích thực trong tâm hồn đến từ Chúa nhờ có một lương tâm trong sạch.
Suy niệm 2: Hăng hái
Vào năm 420 quốc gia này bị khuấy động bởi sự hăng hái thiếu khôn ngoan của Abdas, vị giám mục Công Giáo đã đốt Đền Thần Lửa, một đền thờ của người Ba Tư.
Sư hăng hái là một yếu tố cần thiết cho mọi hoạt động trong các lãnh vực. Tuy nhiên cũng cần phải thận trọng và nhất là khôn ngoan, bằng không sẽ phải chuốc lấy thảm họa, như sự hăng hái thiếu khôn ngoan của vị giám mục Abdas đã dẫn đến cuộc bách hại của nhà vua Isdegerd.
Trước cảnh tượng có người Do thái công khai tiến ra tế thần trên bàn thờ ở Môđin theo như chỉ dụ của vua Antiôkhô, ông Máttítgia bừng lửa nhiệt thành, ruột gan ông sôi sục, lòng đạo đức khiến ông nổi giận đùng đùng: ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế thần. Rồi ông phá đổ bàn thờ. Sự hăng hái thiếu khôn ngoan này cũng dẫn đến cái chết của hàng ngàn người Do Thái công minh chính trực do sự tấn công trả đũa của nhà vua (1Mcb 2,15-38).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng lòng nhiệt thành hăng hái cách khôn ngoan để tránh được các thảm họa phải có.
Suy niệm 3: Bách hại
Một cuộc bách hại toàn diện kéo dài đến bốn mươi năm.
Các nhà thờ trên toàn quốc bị thiêu hủy, chính ĐGM Abdas thì bị tử hình, còn các Kitô Hữu thì bị tra tấn thật dã man.
Cuôc bách hại hướng đến một tiên báo của Đức Giêsu là đánh người chủ chăn thì đàn chiên sẽ tan tác (Mt 26,31), vì thế vua đã cho tử hình ĐGM Abdas. Ngoài ra vua còn muốn thiêu hủy các nhà thờ, để triệt tiêu các điểm tụ họp nhằm phá vở sự đoàn kết, vốn được xây dựng nhờ vào các buổi hội họp cầu nguyện đã có từ thời sơ khai của Hội Thánh (Cv 2,42).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn xác tín vào sự vững bền của Giáo Hội Chúa, đến mức quyền lực tử thần cũng không thắng được (Mt 16,18), phương chi là các cuộc bách hại dù tinh vi đến đâu.
Suy niệm 4: Tra tấn
Các Kitô Hữu bị tra tấn thật dã man.
Tính cách dã man của việc tra tấn được thấy rõ ở trường hợp của Benjamin. Bạo chúa ra lệnh lấy tre vót nhọn đóng vào các móng tay và thân thể Benjamin, sau đó lại rút tre ra để máu đổ. Sau khi cực hình này được thi hành vài lần, một cái cọc có nhiều đốt được đóng vào hậu môn để xé nát thân thể ngài. Vị tử đạo đã tắt thở trong sự đau đớn khủng khiêp này vào năm 424.
Đức Giêsu cũng đã trải qua cuộc tra tấn dã man này, khi suốt đêm không ngũ lại bị điệu đi xét xử từ dinh này qua dinh khác, với các trận đòn bằng roi vọt có móc sắt xé nát thân thể. Với một thân xác đầy thương tích, Ngài lại phải vác thập giá tiến lên đồi sọ. Tại đây Ngài bị lột đi tấm áo đang dính chặt vào các vết thương đẩm máu, bị đóng đinh và bị treo lên trong tư thế ngạt thở.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ cư xử cách dã man với tha nhân cả về thể xác cũng như tinh thần.
Suy niệm 5: Cầm tù vì đức tin
Trong những người chịu đau khổ là Benjamin, một phó tế, bị kết án tù một năm trời vì Đức Tin.
Bị cầm tù tức là bị hạn chế về tự do. Nhưng bị cầm tù vì đức tin thì khác, vì các chứng nhân lại lợi dụng thời gian này để tĩnh tâm, để gắn kết mật thiết với Đức Giêsu chịu thống khổ hơn.
Và chính đó là sức mạnh tinh thần giúp tù nhân vì đức tin chấp nhận bị giam cầm cách thanh thản. Nói cách khác các hình thức bách hại thậm chí bị tra tấn và bị tử hình cũng không thể nào làm lay chuyển được đức tin của các vị anh hùng tử đạo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con gia tăng đức tin để chấp nhận bị bách hại để rèn luyện đức tin.
Suy niệm 6: Rao giảng
Benjamin tuyên bố rằng, rao giảng về Đức Kitô là một nhiệm vụ mà ngài không thể im lặng.
Thật vậy, vào cuối thời hạn tù, một đại sứ của Hoàng Đế Constantinople đã xin cho Benjamin được trả tự do, với điều kiện là ngài không được rao giảng đức tin cho các cận thần trong triều đình.
Mặc dù ngài đã đồng ý với vị đại sứ và nhà cầm quyền Ba Tư, nhưng ngài không thể tuân lệnh mà bỏ lỡ cơ hội rao giảng Tin Mừng. Một lần nữa ngài lại bị bắt và đưa ra trước nhà vua.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn mang tâm tình như thánh Phaolô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 30/3 Thánh Phêrô Regaldo (1390-1456)
- Ngày 29/3 Thánh Jonas và Thánh Barachisius (c. 327)
- Ngày 27/3 Chân Phước Phanxicô "di Bruno"
- Ngày 26/3 Chân Phước Didacus ở Cadiz (c. 1801)
- Ngày 25/3 Lễ Truyền Tin
- Ngày 24/3 Thánh Catarina ở Genoa (1447-1510)
- Ngày 23/3 Thánh Turibius ở Mogrovejo (1538 - 1606)
- Ngày 22/3 Thánh Benvenutus ở Osimo (c 1282)
- Ngày 21/3 Chân Phước Gioan ở Parma (1209 - 1289)
- Ngày 20/3 Thánh Salvator ở Horta (1520 -1567)