Nhà cầm quyền cộng sản gia tăng đàn áp, bắt bớ người dân vô tội
Viết bởi Huyền Trang, GNsP
GNsP (20.06.2017) – Chỉ vì bày tỏ quan điểm khác với nhà cầm quyền trên facebook, một phụ nữ sống ở Bình Dương có hai con nhỏ, bị giới chức tỉnh Bình Dương bắt giam trái pháp luật khi bà đang trên đường đi chợ.
Vào ngày 28.04.2017, bà Nguyễn Thị Chung, SN 1982, ngụ tại Thị trấn Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương bị công an bắt tạm giam không đúng trình tự thủ tục Bộ Luật Tố tụng Hình sự quy định.
Ông Lưu Quang Minh, chồng bà Chung tường thuật lại: “Vợ tôi xem ở trên facebook thấy nhiều người đi biểu tình bị đánh đập, bà xã tôi thương xót họ nên cũng muốn giúp đỡ những người này, chia sẻ tình cảm với họ. Trong thời gian đó, bà xã tôi quen một em tên Thiện, em này lên nhà tôi chơi ba lần.Thời gian sau, gia đình tôi nghe tin em bị bắt.”
“Vào ngày 28.04.2017, bà xã tôi đi chợ, ghé nhà bà nội tôi, rồi bị bắt ở đó.Tôi không có mặt ở đó, cháu tôi chạy qua nhà tôi báo vợ tôi bị bắt, họ lôi kéo vợ tôi, em tôi có quay lại cảnh bị bắt nhưng [công an] uýnh nó và lấy luôn điện thoại của nó ở trong nhà [bà nội tôi].Tôi cảm thấy bối rối, đau lòng, không suy nghĩ được chuyện gì cả.”
Sau đó ba ngày, công an đến gia đình bà Chung và ông Minh yêu cầu khám xét nhà. Ông Minh kể tiếp: “Công an đến nhà tôi làm việc với tôi nhưng họ không mặc sắc phục, họ đòi làm việc với tôi nhưng tôi từ chối. Em vợ tôi năn nỉ tôi cho công an vào khám xét nhà cho lẹ làng, tôi mệt mỏi quá nên cho họ khám xét nhà.”
Bà Nguyễn Thị Chung, có hai đứa con nhỏ – một cháu 4 tuổi, cháu còn lại chưa đầy 3 tuổi, bị công an tỉnh Bình Dương bắt giam trái pháp luật vào ngày 28.04.2017.
Trường hợp bà Chung, không rõ công an thực hiện bắt bà theo biện pháp nào? Bộ Luật Tố tụng Hình sự quy định, trong mọi trường hợp bắt người, người thi hành lệnh bắt đều phải lập biên bản.
“Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt.
Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.
Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.
Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản.
Ngoài những điểm đã quy định tại khoản 1 Điều này, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận”. Và “Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay” (Đ 84 và Đ 85).
Cũng vậy, để bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân. Điều 8 BLTTHS qui định: “Không ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân.
Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín, khi tiến hành tố tụng phải theo đúng quy định của Bộ luật này”.
Việc khám xét phải có đủ căn cứ qui định tại Điều 141 BLTTHS và phải có lệnh của người có thẩm quyền (Điều 142 BLTTHS).
“Khi khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng chứng kiến. Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Khi khám chỗ làm việc của một người thì phải có mặt người đó, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
Việc khám chỗ làm việc phải có đại diện của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến…. ”.(Điều 143 BLTTHS).
Được biết, trước khi bà Chung bị bắt, công an đã từng vào tư gia của bà để trấn áp, lấy điện thoại, máy tính của gia đình mà không theo bất cứ thủ tục tố tụng nào.
Ông Minh nói trong nước mắt: “Trả lại tự do cho vợ tôi, vợ tôi rất tốt không hại ai.”
Hiện nay, bà Chung có hai đứa con nhỏ dại, cháu lớn mới 4 tuổi, cháu nhỏ chưa đầy 3 tuổi.
Theo qui định tại Điều 88 BLTTHS, do bà Chung đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, công an không được quyền bắt giam bà, việc công an Bình Dương bắt giam bà Chung cho thấy công an đã đề cao bà mẹ đang nuôi 2 con nhỏ dại này là “có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”.
Một người đàn bà tay không vũ khí, đang nuôi hai con nhỏ, có nơi ở, nghề nghiệp rõ ràng, chỉ vì có tiếng nói khác với nhà cầm quyền mà bị bắt giam, bị đánh giá là “gây nguy hiểm an ninh quốc gia” thì rõ là nhà cầm quyền cs đang gia tăng đàn áp, bắt bớ nhằm đe dọa những người hoạt động đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, chống lại áp bức bất công, bảo vệ môi trường. Nhưng như bài học mà do chính cs đúc kết “ở đâu có áp bức, ở đấy có đấu tranh”, mà đã là đấu tranh thì tù tội, người tham gia đấu tranh đã lường trước.
Huyền Trang, GNsP
Nói về Tù Nhân Lương Tâm Trần Thị Nga không nhận tội
Viết bởi Paulus Lê Sơn
#GNsP (17.06.2017) – Trong cáo trạng của viện kiểm soát Hà Nam do Phó viện trưởng Vũ Hoài Nam ký ngày 25/5/2017, tại bút lục số 494 đến 638 có đoạn: “Tại cơ quan điều tra, bị can Trần Thị Nga không thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình mà có thái độ chống đối, bất cần, không cứ vào bất cứ biên bản nào trong quá trình điều tra, không chấp hành chụp ảnh, lập danh chỉ bản…”.
Bà Nga bị nhà cầm quyền Hà Nam bắt tạm giam hôm 21.01.2017 với cáo buộc “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, theo Điều 88 Bộ luật hình sự. Qua 6 tháng điều tra nhưng an ninh vẫn không khuất phục được ý chí, tinh thần thép của người phụ nữ can trường đấu tranh cho dân chủ nhân quyền.
Điều gì đã làm nên một phụ nữ gan góc lạ thường đến như vậy ? Như bao người phụ nữ khác, bà Nga cũng là người vợ, người mẹ của hai đứa con thơ. Tôi biết bà Nga từ năm 2010, qua những lần tiếp xúc tôi thấy được sự mạnh mẽ và lòng yêu nước nồng nàn của bà. Mặc dù theo như bà nói chỉ là một phụ nữ bé nhỏ, nhưng lý tưởng và hành động trên đường dài mới thấy hết sự bền bỉ và vững chí của bà sung mãn.
Không nhận tội trong quá trình điều tra của an ninh cộng sản chẳng phải là một điều dễ dàng gì trước những thủ đoạn vô cùng tinh vi, thậm chí có lúc đê hèn của họ. Tầm vóc một phụ nữ bé nhỏ trong môi trường tù đày đau khổ cả về tinh thần và vật chất, cộng với sự o bế không chỉ một hai an ninh điều tra mà là sự đối mặt với cả hệ thống, nên giữ được bản lãnh và sự bền vững đến sắt đá là điều khó hình dung nổi cho những người chưa từng bị cầm tù chính trị.
Một tù nhân chính trị không nhận tội trước an ninh điều tra, trước viện kiểm soát như là thách đố lớn đối với họ, đồng thời với tư duy quyền lực của cộng sản thì đó quả là đụng chạm đến sĩ diện của hệ thống cầm quyền. Vị tất, họ sẽ tìm mọi cách để trả thù, từ việc o bế cuộc sống trong tù khiến tinh thần bấn loạn, bệnh tật phát sinh, không cho thăm gặp thân nhân đến xét xử với mức án cao nhất.
Năm 2011, tôi bị bắt trong vụ 14 thanh niên Công giáo và Tin lành. Trong quá trình điều tra đến khi ra tòa, bản thân tôi không hề khai báo bất cứ điều gì, ký kết vào bất cứ văn bản nào. Vì thế, họ tìm mọi cách để trả thù tôi. Họ bao che cho tù ở cùng đánh đập , chuyển tôi đến trại Hỏa Lò giam nơi thâm sơn cùng cốc với những cùng cực đau đớn về thể xác và tinh thần không kể siết, mà sau đó, ông Phú – Viện kiểm soát tối cao gặp tôi và hỏi rằng cách mỉa mai: “ mày lên đây ở sướng không?”.
Họ đê hèn và phi nhân tính đến mức Mẹ tôi qua đời cũng không cho về chịu tang, không được báo tin, mãi hơn một năm sau, trước khi phiên tòa Phúc thẩm mới được biết tin Mẹ tôi đã qua đời. Lòng tôi đau đớn, thân xác rã rời tiều tụy, tôi không ăn uống được gì trong suốt hơn 10 ngày, khi ra tòa Phúc thẩm tôi như người không hồn, vô định.
Bà Nga không nhận tội vì đâu có tội chi mà phải nhận, đó cũng là lẽ thường tình. Nhưng bà Nga lại phải nhận những đòn đánh đầy mưu mô xảo quyệt của hệ thống nhà tù cộng sản. Thể tất, việc bà Nga sẽ bị nhận một mức án cao đầy bất công trong khung hình phạt là điều dễ hiểu khi đối mặt với viện kiểm soát và tòa án nơi công đường.
Chúng tôi có tội gì? Một câu hỏi thường trực mà khiến an ninh cũng bối rối. Khi nào các vị chứng minh chúng tôi buôn gian bán lận, bán nước cầu vinh, buôn hàng quốc cấm, giết người cướp của, làm trái luân thường đạo lý đó mới là sự tội. Chúng tôi là những công dân yêu nước, dấn thân, ghé vai để gánh vác giang sơn này, chúng tôi chống đỡ các trụ cột mục ruỗng trong ngôi nhà Việt Nam, cớ sao cộng sản lại quy chụp, bắt bớ và cầm tù?.
Bà Nga đang làm điều đó, và bà Nga đáng được tổ quốc, dân tộc này vinh danh và ghi ơn.
17.6.2017
Paulus Lê Sơn
Nguồn: tinmungchonguoingheo.com
Hội đồng Liên tôn Việt Nam ủng hộ Bản Nhận định của Hội đồng Giám mục Việt Nam về Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016 (18-06-2017)
Viết bởi Dân Chúa
Kính thưa Hội đồng Giám mục Công giáo Việt Nam.
Tín đồ Công giáo nói riêng lẫn Đồng bào Việt Nam nói chung vừa đọc được Nhận định của Quý Hội đồng Giám mục về Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một luật mà chỉ có chế độ cộng sản độc tài toàn trị, vô thần chiến đấu mới nghĩ ra, ban hành và áp đặt lên mọi tôn giáo và mọi tín hữu.
Với ý thức hiệp thông trong công lý và sự thật, chúng tôi, Hội đồng Liên tôn Việt Nam, một tổ chức xã hội dân sự quy tụ nhiều chức sắc của 5 tôn giáo nhằm mục đích đấu tranh cho tự do tôn giáo và dân chủ nhân quyền, xin kính gởi đến Quý Hội đồng Giám mục những tâm tình và ý tưởng của chúng tôi về văn kiện lịch sử mà Quý Hội đồng vừa gởi tới nhà cầm quyền, đồng thời cũng đưa ra cho cộng đồng Công giáo và cộng đồng Dân tộc.
Như đã từng lên tiếng trước đây về Luật Tín ngưỡng Tôn giáo ấy (20-10-2016), nay chúng tôi hân hoan vì Nhận định của Quý Hội đồng Giám mục chẳng những đã nhắm vào thực chất và ý đồ của Luật Tín ngưỡng Tôn giáo mà còn nhắm vào nguyên tắc và não trạng của chế độ vô thần toàn trị hiện nay tại Việt Nam, nguồn phát xuất của Luật đó.
1- Quý Hội đồng đã cho thấy Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo thực chất là nỗ lực hợp pháp hóa và củng cố hóa cơ chế xin-cho hết sức bất công, phi lý và ngang ngược của một nhà cầm quyền luôn tuyên bố là “của dân, do dân, vì dân”. Việc tráo đổi ngôn từ (từ “xin phép” và “cho phép” sang “đăng ký, thông báo, đề nghị”) rốt cục vẫn không che giấu được ý đồ làm cho cơ chế xin-cho càng thêm vững mạnh, thậm chí hơn cả Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo 2004. Đúng là “cơ chế này cho thấy tự do tín ngưỡng tôn giáo không thật sự được coi là quyền của con người nhưng chỉ là ân huệ cần phải xin và được ban phát. Chính cơ chế đó hợp pháp hóa sự can thiệp của chính quyền vào sinh hoạt nội bộ và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động tôn giáo” (Nhận định, số 3). Mục đích là làm cho mọi Giáo hội không ngừng lệ thuộc nhà cầm quyền, ngoan ngoãn để được ban ơn và cuối cùng trở nên công cụ của chế độ hay chí ít cũng quên đi bản chất và sứ mạng của mình.
2- Quý Hội đồng đã nhân những bất cập của Luật Tín ngưỡng Tôn giáo để nói thẳng với nhà cầm quyền cũng như tỏ rõ với toàn dân là mãi cho tới nay, trước sau như một, họ luôn xem mọi tổ chức tôn giáo chúng ta như những lực lượng đối kháng, chẳng những từ quan điểm chính trị độc tài toàn trị mà còn từ quan điểm triết lý duy vật vô thần.
Chính vì thế, nhà cầm quyền “đã tiêu tốn biết bao nhiêu tiền của và nhân lực để theo dõi, dò xét, kiểm soát mọi hoạt động tôn giáo, đồng thời sử dụng các tổ chức tôn giáo như công cụ của chế độ”; trình bày các Tôn giáo tại nhiều cơ sở đào tạo cán bộ và sinh viên “với những thành kiến thù nghịch, tạo nên nhận định sai lầm và hình ảnh biến dạng về Giáo Hội Công giáo [lẫn các Giáo hội khác] nơi thế hệ trẻ”; đã không đánh giá đúng mức, thậm chí ngăn cản “những hoạt động của các tôn giáo trong lĩnh vực từ thiện, y tế và giáo dục”; và nay, với những điệp khúc đậm màu chính trị và những từ ngữ mơ hồ cố ý của Luật Tín ngưỡng tôn giáo, nhà cầm quyền sẵn sàng quy kết trách nhiệm và lên án bất công các tổ chức lẫn nhân sự tôn giáo như họ đã và đang làm. “Cách nhìn và cách hành xử như vậy có nguy cơ làm mất bản sắc đích thực của các tôn giáo, gây chia rẽ trong nội bộ các tôn giáo cũng như giữa các tín đồ và người ngoài tôn giáo” (Nhận định, số 4).
3- Quý Hội đồng đã xác định ý nghĩa đích thực của việc đồng hành với dân tộc mà nhà cầm quyền luôn kêu gọi. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý rằng “đồng hành với dân tộc là đồng hành với những con người cụ thể đã và đang làm nên dân tộc này, nhất là những người cùng khổ và bị quên lãng”, mà trong thực tế là những đồng bào đang bị trấn áp vì niềm tin, bị giam cầm vì công lý, bị tước đoạt đất nhà, bị bóc lột sức lao động, bị điêu đứng vì môi trường ô nhiễm… Chúng tôi cũng nhất trí: “Đồng hành với dân tộc là đồng hành với những giá trị làm nên di sản tinh thần và văn hóa của dân tộc Việt Nam: chống ngoại xâm, gìn giữ bờ cõi, chống cường quyền, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách…”. (Nhận định, số 5). Việc bảo vệ những di sản tinh thần và văn hóa này đang trở nên hết sức cấp thiết trong bối cảnh Trung Quốc đe dọa đất nước mọi mặt, bộ máy cai trị ức hiếp lộng hành và cuộc sống nhân dân ngày càng điêu đứng vì bao khủng hoảng kinh tế và xã hội.
4- Quý Hội đồng đã mạnh mẽ khẳng định -trước một nhà cầm quyền tiếp tục tuyên truyền tôn giáo là thuốc phiện và thậm chí là lực lượng phản động- “rằng các tôn giáo nói chung… luôn đồng hành với dân tộc, vì các tôn giáo khơi dậy những giá trị tinh thần cao quý trong lòng người, dạy các tín đồ của mình tôn trọng công bằng và lẽ phải, sống từ bi bác ái, tôn trọng mọi người vì chính phẩm giá của họ, và như thế, góp phần phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, cộng tác tích cực vào việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Đúng là như thế trong quá khứ lẫn trong hiện tại, nhất là nếu người ta so sánh với tất cả những gì mà cái chế độ phi nhân này đã và đang gây ra cho đất nước và dân tộc từ hơn 70 năm qua.
Kính thưa Quý Hội đồng Giám mục,
Nhận định của Quý Hội đồng là một ánh sáng chiếu soi tâm trí mọi người, từ nhà cầm quyền đến các tín đồ và cả toàn dân về quyền tự do tôn giáo, một quyền tự do có thể nói là cơ bản hơn hết, vì khi tâm hồn con người đã ra xấu -do không được các tôn giáo dạy dỗ- thì chẳng có gì nên tốt cả. Ngoài ra, Nhận định của Quý Hội đồng -xuất phát từ bản chất của mọi tôn giáo, từ nội dung của mọi giáo lý- là một sức mạnh xây dựng dân chủ, cổ vũ tự do, thăng tiến nhân quyền, như đã được chứng minh qua các Giáo hội Đông Âu thời chế độ Cộng sản và qua nhiều Giáo hội tại Á châu trong những thập niên gần đây.
Làm tại Việt Nam ngày 18 tháng 06 năm 2017.
Các Thành viên trong Hội đồng Liên tôn Việt Nam đồng ký tên.
Cao đài:
- Chánh trị sự Hứa Phi (điện thoại: 0163.3273.240)
- Chánh trị sự Nguyễn Kim Lân (điện thoại: 0988.971.117)
- Chánh trị sự Nguyễn Bạch Phụng (điện thoại: 0988.477.719).
- Thông sự Đoàn Công Danh (điện thoại: 0977.961.750)
Công giáo:
- Linh mục Ta-đê-ô Nguyễn Văn Lý (điện thoại: 0932211438)
- Linh mục Phê-rô Phan Văn Lợi (điện thoại: 0984.236.371)
GNsP(15.06.2017) – Ông bà ta có câu: “Nói phải củ cải cũng phải nghe”, nhưng nếu cứ nói dai và nói dài thì hóa ra nói sảng.
Đó là hậu qủa của Hội nghị Trung ương 5/Khóa đảng XII từ ngày 5 đến 10/05/2017 với 3 Nghị quyết được thành hình:
– (1) Nghị quyết về “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”
– (2) Nghị quyết về “tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước.”
– (3) Nghị quyết về “phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”
ĐẢNG PHẢI LÃNH ĐẠO
Các Nghị quyết này, tuy dài dòng văn tự nhưng không có gì mới hơn hình ảnh già nua, cằn cỗi và tư tưởng lạc hậu của 44 Tác gỉa trong Hội đồng Lý luận Trung ương do Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương đảng cầm đầu.
Các thành viên của Hội đồng này tuy có học hàm Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ và Phó Tiến sỹ nhưng suy tư của họ lại chưa ra khỏi lũy tre làng nên cứ khăng khăng Việt Nam đổi mới nhưng không đổi màu hay hội nhập mà không hòa tan. Vì vậy họ đã ngăn chặn mọi đề nghị đảng cần đổi mới chính trị song song với đổi mới kinh tế, mở rộng dân chủ và trả lại trự do cho dân để đưa đất nước tiến lên.
Trong Nghị quyết về “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, họ viết: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.”
Họ còn khẳng định: “Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, môi trường; phát triển các lĩnh vực văn hoá, xã hội.”
Có ai hiểu họ nói gì không hay những cái đầu đất bùn nhiều hơn óc thịt đã cố ý lý luận vòng vo như thế chỉ để thắt vào một nút là đặt nền kinh tế vào “quản lý của Nhà nước … do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”?
CÁI MỒM NÓI VẸT
Chỉ có thế thôi mà viết tràng giang đại hải làm gì cho mờ người ra vì đảng đã ghi trong Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên Xã hội Chủ nghĩa” năm 2011: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa…”
Để cuối cùng vẫn chỉ là: “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất…”
Sau Cương lĩnh, Quốc hội của “đảng cử dân bầu” cũng viết trong Điều 51, Hiến Pháp năm 2013:
“Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
“Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.
“Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa.
Cuối cùng, bàn tay nhà nước cũng dành làm tất cả như ghi trong Điều 52: “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.”
Đã lập đi lập lại như thế mà trong Nghị quyết của Trung ương 5 về “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Hội đồng Lý luận Trung ương vẫn chưa biết chán.
Họ nghĩ cứ nói dối miết những điều không có sẽ có người tin là thật nên lại tô vẽ tiếp rằng: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật. Khuyến khích làm giàu hợp pháp. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.”
Đến đây, hẳn có người sẽ phải thốt lên “biết rồi khổ lắm nói mãi”, nhưng ít ai biết họ càng nói nhiều thì càng giúp cho sổ lương của họ tăng cao.
MÂU THUẪN HAY LẨM CẨM?
Tưởng nói dai như thế chưa đủ nên họ còn khoe mà không biết ngượng rằng: “Tính hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thể hiện ở chỗ kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại, kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn hơn 30 năm đổi mới; có hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế giới; vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường được xác định và thực hiện phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế phổ biến. Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế được nhất quán xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước…”
Nói huyên thuyên như thế rồi đảng lại thú nhận sau 30 năm đổi mới vẫn còn nhiều bất cập như: “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thực hiện còn chậm… Cải cách hành chính còn chậm… tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều bất cập. Bất bình đẳng xã hội, phân hoá giàu – nghèo có xu hướng gia tăng. Xoá đói, giảm nghèo còn chưa bền vững… Cơ chế kiểm soát quyền lực, phân công, phân cấp còn nhiều bất cập. Quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; hiệu lực, hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm…”
Ngoài ra đảng còn đổ tội thất bại cho đảng viên vì họ: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ rõ. Tư duy bao cấp còn ảnh hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ở các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp và chưa nghiêm. Vai trò, chức năng, phương thức hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị chậm đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập quốc tế. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ nạn quan liêu, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.”
THUA LỖ MÀ LÃNH ĐẠO AI ?
Lý luận lung tung beng như thế, nhưng Hội đồng Lý luận Trung ương lại cứ muốn bảo vệ cái thua lỗ cho bằng được khi khẳng định: “Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước.”
Có ai biết tại sao cái Hội đồng này lại muốn để cho DNNN phải đóng vai “then chốt” mãi khi vẫn làm ăn thua lỗ? Bởi vì Cương lĩnh đảng 2011 đã ngồi lên cả Hiến Pháp để khẳng định “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.”
Do phải đội đảng lên đầu nên Hội đồng Lý luận Trung ương cứ nhắm mắt làm theo mà không biết thực tế đã đâm sau lưng nhà nước.
Hãy nghe Phó Giáo sư, Tiến sỹ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) nhận xét: “Nhìn chung, hiệu quả kinh doanh và đóng góp của phần lớn doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư, thậm chí còn làm ăn thua lỗ, thất thoát, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.”
Ông Thiên đã nói như thế tại Hội thảo “Đổi mới doanh nghiệp nhà nước và phát triển kinh tế tư nhân”, dưới sự chỉ đạo của Ban Kinh tế Trung ương, do Trung tâm Thông tin Kinh tế phối hợp với Viện Nghiên cứu chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh tổ chức. (theo báo VTC News ngày 31/05/2017)
Ngoài ra theo báo Liên kết Doanh nhân Việt (VCCI, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ) thì nhiều diễn giả tại Hội nghị kết luận: “Đến nay, doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa thực hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, chưa thực hiện được nhiệm vụ dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế.”
Tiến sỹ Phạm Minh Điển nói: “Đối với kinh tế tư nhân, mấy thập niên qua đã tăng nhanh về số lượng và từng bước nâng cao chất lượng, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Đến nay, có khoảng 60 vạn doanh nghiệp tư nhân và mấy triệu hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp đã có đóng góp quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế, đang còn ẩn dấu nhiều tiềm năng lớn.”
Thống kê của nhà nước cho thấy: “Giai đoạn 2006 – 2015, kinh tế tư nhân đóng góp hơn 40% GDP; 30% tổng giá trị công nghiệp; khoảng 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ; 35% tổng vốn đầu tư pháp triển; thu hút 51% lực lượng lao động của cả nước và tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động mỗi năm.”
Trong khi đó, tại Hội nghị Trung ương 5 ngày 5/5/2017, Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng cũng phải nhìn nhận: “Không ít DNNN làm ăn thua lỗ, thất thoát, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với những dự án đầu tư hàng nghìn tỉ đồng “đắp chiếu”, làm trầm trọng thêm nợ xấu ngân hàng và nợ công quốc gia, gây bức xúc trong nhân dân…”.
Nói thì hùng hổ như thế nhưng tại sao khi ra Nghị quyết thì lại vẫn muốn: “Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước”?.
Qủa thật không ai hiểu nổi cái đầu của ông Trọng. Bởi vì, theo ông Đặng Quyết Tiến, Phó cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp, Bộ Tài chính thì: “Những con số về tình hình sản xuất, kinh doanh của các DNNN gần đây đã cho thấy kết quả kinh doanh của khu vực DNNN không khả quan, thậm chí lỗ đến mức báo động.”
Ông cho biết: “Tính đến cuối năm 2015, tổng tài sản của các DNNN là hơn 3 triệu tỷ đồng, trong đó vốn chủ sở hữu là hơn 1,3 triệu tỷ đồng, nhưng tổng doanh thu của các DNNN chỉ đạt gần 1,6 triệu tỷ đồng.”
(theo Liên kết Doanh nhân Việt (VCCI), Thứ ba, 09-05-2017).
Tính đến cuối năm 2016, tổng số DNNN là 718 doanh nghiệp.
Vẫn theo VCCI: “Theo báo cáo của Chính phủ về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2015, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có tổng số nợ phải trả lên đến 1,5 triệu tỷ đồng. Hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu bình quân năm 2015 là 1,23 lần, trong đó có 25 DNNN có tỷ lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần, đứng đầu là Tổng công ty Phát thanh truyền hình thông tin, Tổng công ty Xăng dầu quân đội, Tổng công ty Cơ khí xây dựng….”
VCCI viết tiếp: “Đáng chú ý, ngành Công Thương có 12 dự án và doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả, làm ăn thua lỗ, điển hình là nhà máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ, dự án nhà máy gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2, nhà máy nhiên liệu sinh học Bio-Ethanol Dung Quất, nhà máy đạm Ninh Bình… Tổng tài sản của 12 nhà máy là hơn 57.600 tỷ đồng, thì tổng nợ phải trả là hơn 55.000 tỷ đồng.”
Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn cho rằng: “Với khu vực DNNN, ngành thuế lo ngại những khoản lỗ nghìn tỷ đồng ở các dự án lớn có thể làm nguồn thu từ khu vực này vẫn suy giảm. Trong năm 2017, mức hụt thu ngân sách do DNNN làm ăn thua lỗ có thể lên tới khoảng 12.000- 14.000 tỷ đồng.”
Không chỉ làm ăn kém hiệu quả, “ngập” trong thua lỗ, khối DNNN còn “tai tiếng” bởi những vụ án tham nhũng kinh tế lớn, phức tạp trong vòng 10 năm qua. Tiêu biểu là vụ án cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng tại Công ty in, thương mại, dịch vụ Agribank; vụ án đưa hối lộ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ xảy ra tại Tổng Công ty xây dựng đường thủy Việt Nam; vụ án tham ô tài sản, rửa tiền xảy ra tại Công ty TNHH MTV vận tải Viễn Dương Vinashin…”
ĐẢNG HÓA TƯ NHÂN LÀM GÌ ?
Kết qủa đen tối như thế mà đảng và nhà nước vẫn tìm mọi cách để bảo vệ miếng cơm cho nhau trong DNNN thì có phải đảng đã dặt quyền lợi phe nhóm lên trên quyền lợi của nhân dân? Hay đảng đã hòan toàn đầu hàng các nhóm lợi ích đang rút tỉa máu thịt của đất nước?
Do đó không ai ngạc nhiên khi thấy đảng muốn quay ra kiểm soát cả Doanh nghiệp tư nhân như đã ghi trong Nghị quyết “Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Bằng chứng đảng sẽ: “Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng trong khu vực kinh tế tư nhân phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các cấp ủy đảng tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về chủ trương nhất quán trong phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo thực hiện có hiệu quả, công khai, minh bạch các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Có giải pháp thực hiện chủ trương phát triển Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết thực hiện các chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.”
Nói thì có vẻ tích cực đấy, nhưng chưa ai quên vai trò của Tổng Liên đòan Lao động Việt Nam (LĐLĐVN) của đảng chưa làm nên trò trống gì trong nhiệm vụ bảo vệ người công nhân. Trong nhiều năm qua, nhiều vụ đình công tự phát của công nhân chống chủ nhân, đa phần người nước ngoài, bóc lột tiền lương, bắt làm nhiều giờ mà không chịu trả tiền phụ trội hay ẩm thực kém v.v… mà cán bộ Liên đòan có giúp được gì nhiều? Thậm chí có nhiều trường hợp, cán bộ lại ăn thông với chủ để được hưởng lợi nhuận chống lại công nhân.
Vì vậy nhà nước đã tìm mọi cách để trì hõan việc đưa ra Quốc Hội dự thảo Luật lập hội vì sợ công nhân sẽ đòi quyền được thành lập Nghiệp đòan độc lập.
Bây giờ, đảng lại công khai muốn thao túng cả Doanh nghiệp tư nhân để nắm công nhân thì cái gọi là “nhà nước pháp quyền” của đảng có vi phạm Hiến pháp không ?
Bằng chứng muốn ăn trùm đã thấy ghi trong Nghị quyết phát triển kinh tế tư nhân: “Bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với khu vực kinh tế tư nhân trên cơ sở phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.”
Không những thế, đảng còn chỉ thị Mặt trận Tổ quốc, tổ chức ngọai vi tay sai được “phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp trong phát triển kinh tế tư nhân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp, làm tốt vai trò tổ chức đại diện, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để cung cấp thông tin, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh doanh, đào tạo kỹ thuật và tư vấn cho các hội viên.”
Như vậy thì bầy ra trò ve vãn kinh tế tư nhân để làm gì nếu không phải là vừa ăn cháo vừa đá bát trên sức lao động và mồ hôi nước mắt của công nhân trong các Doanh nghiệp tư nhân?
Hành động như thế thì không phải là mê sảng hay sao ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ? -/-
Phạm Trần
Nên khởi tố ông Nguyễn Đức Chung trong vụ Đồng Tâm vì lạm quyền
Viết bởi Huyền Trang, GNsP
GNsP (17.06.2017) – Mấy ngày qua, dư luận xôn xao vụ việc nhà cầm quyền Hà Nội quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dân Đồng Tâm, Tp. Hà Nội để điều tra xét hỏi với hai tội danh: “Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật” tại Điều 123 BLHS và “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” tại điều 143 BLHS.
Chủ tịch Tp.Hà Nội “lạm quyền”
Dư luận cho rằng, điều này làm trái lại với “bản cam kết” của Chủ tịch Tp.Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung với người dân Đồng Tâm vào ngày 22.04.2017 trên giấy trắng mực đen bằng bút tích của ông hứa sẽ “không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với toàn thể nhân dân xã Đồng Tâm”. Thậm chí nhiều người chán nản, phẫn nộ và thốt lên ông Chung hứa rồi lại thất hứa, không thực hiện đúng những gì đã cam kết. Tuy nhiên, ông Chung đã ngồi xổm lên luật pháp, cam kết hão huyền với bà con Đồng Tâm là sẽ “không truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự được quy định tại Điều 13 BLTTHS (2003): “Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và trình tự do Bộ luật này quy định.”
Tại Khoản 1, Điều 33 BLTTHS quy định “Cơ quan tiến hành tố tụng gồm có: a) Cơ quan điều tra; b) Viện kiểm sát; c) Toà án.”
Do đó để “truy cứu trách nhiệm hình sự” hoặc khởi tố vụ án chính là “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án”. Trong khi đó, ông Nguyễn Đức Chung là người đứng đầu UBND Tp.Hà Nội trực thuộc cơ quan hành pháp, nhưng lại ngang nhiên phát ngôn như người đang thực thi tư pháp là các cơ quan tiến hành tố tụng. Nên “bản cam kết” của ông Chung với người dân Đồng Tâm là “trái pháp luật”, có dấu hiệu “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” (Điều 281 BLHS), “lạm quyền” (Điều 282 BLHS). Vì thế “bản cam kết” của ông Chung là “vô hiệu”, không có giá trị thi hành.
Vì vậy, trước khi công an ra quyết định “khởi tố” bà con nông dân Đồng Tâm thì cơ quan cảnh sát điều tra nên “truy cứu trách nhiệm hình sự” đối với Chủ Tịch Tp.Hà Nội Nguyễn Đức Chung mới đúng.
“Bản cam kết” của Chủ tịch Tp.Hà Nội, ông Nguyễn Đức Chung với người dân Đồng Tâm là “trái pháp luật”, có dấu hiệu “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” (Điều 281 BLHS), “lạm quyền” (Điều 282 BLHS). Vì thế “bản cam kết” của ông Chung là “vô hiệu”, không có giá trị thi hành.
Một chính quyền phản động!
Cũng trong vụ Đồng Tâm, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, ông Mai Tiễn Dũng nói với báo chí trong nước vào ngày 04.05.2017 rằng: “Nếu chính quyền sai thì nhận lỗi trước dân, nếu dân sai thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”.
“Nếu chính quyền sai thì nhận lỗi trước dân…”. Vậy thì điểm, điều khoản nào trong pháp luật đã quy định chính quyền hoặc cá nhân người thi hành công vụ “có hành vi trái pháp luật” cụ thể như: “có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác” của người dân mà không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật? (Điều 584, 598 BLDS).
Điển hình trong vụ Đồng Tâm, chính nhà cầm quyền Hà Nội là những quan chức địa phương thôn Hoành, xã Đồng Tâm, Tp.Hà Nội đã cấu kết, bao che cho nhau, dùng mọi thủ đoạn để cướp đất của bà con nông dân không tấc sắt trong tay bằng các hình thức mượn/bán/giao/chuyển nhượng đất. Thậm chí, những người thi hành công vụ còn dùng cơ bắp đánh đập cụ Lê Đình Kình, thủ lãnh của người dân Đồng Tâm, ngoài 80 tuổi. Chính các cán bộ là những người thi hành công vụ gây ra sự phẫn nộ cho bà con nông dân. Tuy nhiên, “nếu chính quyền sai thì nhận lỗi trước dân”, ngược lại “nếu dân sai thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Đây là cách nói ngang ngược, ngồi xổm trên pháp luật của Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, ông Mai Tiễn Dũng.
Giả thiết rằng, chính quyền Tp.Hà Nội và những người thi hành công vụ có “hành vi trái pháp luật”, thì họ sẽ xin lỗi và hứa sẽ khắc phục. Và, nếu như chính quyền đã cướp đất của dân, đánh đập người dân, kết án oan người vô tội, giết chết người dân trong đồn công an… thì bây giờ chính quyền chỉ chịu lỗi, chứ không khắc phục các hậu quả đã xảy ra, tức là người dân đen đành ngậm đắng nuốt cay chấp nhận bị mất đất, bị thương tổn trên cơ thể, bị tù oan, bị chết oan mà không cần giải oan!
Cơ cảnh sát điều tra nên “truy cứu trách nhiệm hình sự” đối với Chủ Tịch Tp.Hà Nội Nguyễn Đức Chung khi có dấu hiệu “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” (Điều 281 BLHS), “lạm quyền” (Điều 282 BLHS) trong vụ Đồng Tâm.
Diễn biến vụ Đồng Tâm
Thông qua các bài báo trước đây phản ánh về tình trạng “chiếm đoạt đất” của bà con xã Đồng Tâm cũng như qua thông tin của Cụ Lê Đình Kình được loan tải trên youtube cho thấy, nhà cầm quyền địa phương đã “biến” đất “tư” của người dân Đồng Tâm thành đất “công” bằng các hình thức mượn/bán/giao/chuyển nhượng, cụ thể: khu đất đối diện cổng Trường bắn Miếu Môn, giáp tỉnh lộ 429; Khu vực đất của hộ dân có tên là Trần Văn Viễn; Doanh nghiệp lấn chiếm đất xây lò gạch; Không có quyết định giải tỏa, thu hồi đất; lấy 46 hécta đất giao cho công ty viễn thông quân đội Viettel…
Sự việc khiếu nại kéo dài suốt 5 năm nay, bà con Đồng Tâm gửi các đơn thư đến các cơ quan có thẩm quyền nhưng vẫn không được giải quyết một cách thỏa đáng. Đỉnh điểm của sự việc xảy ra vào ngày 14.04.2017, khi nhà chức trách huy động “lực lượng có chức năng” như công an, CSCĐ… đến uy hiếp, cưỡng chế đất của bà con. Người dân Đồng Tâm “không tấc sắt trong tay” tìm mọi cách phòng vệ, bảo vệ tính mạng và quyền lợi chính đáng của họ. Tuy nhiên, nhà cầm quyền đã bắt giữ trái pháp luật nhiều nông dân Đồng Tâm, nhiều người dân bị thương nặng trong đó có Cụ Kình – đã ngoài 80 tuổi là cán bộ hưu trí có 60 năm tuổi đảng – bị rạn nứt xương… Đáp trả lại điều đó, bà con đã giữ lại hơn 30 các cán bộ, tại nhà văn hóa thôn, với mục đích mong muốn nhà cầm quyền thực tâm lắng nghe nguyện vọng sống còn của bà con dân oan. Người dân Đồng Tâm đã đối xử, chăm sóc những người bị giữ một cách tử tế. Vào ngày 15.04, Cơ quan Cảnh sát Điều tra ra quyết định khởi tố một số người dân Đồng Tâm với tội danh “gây rối trật tự công cộng” theo Điều 245 BLHS. Sau đó, các viên CSCĐ đã ra khỏi Hội trường.
Lực lượng Cảnh sát cơ động được huy động đến xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Tp.Hà Nội vào ngày 16.04.2017 để trấn áp bà con nông dân không tấc sắt trong tay.
Người dân Đồng Tâm có “công”, không có “tội”
Chưa bàn đến nguyên tắc Bộ Luật Tố tụng Hình sự quy định các cơ quan có thẩm quyền phải tìm hiểu rõ nguyên nhân/động cơ/mục đích hành vi phạm tội của người tội phạm. Còn Bộ Luật Hình sự quy định: “Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm” (Điều 15). Về mặt Dân sự quy định: “Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại… do lỗi của bên bị thiệt hại…” (Khoản 2, Điều 584 BLDS), và “người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại” (Điều 594 BLDS).
Do đó nhà hữu trách cần phải tìm hiểu, xác định rõ những “hành vi trái pháp luật” của chính quyền Tp.Hà Nội cũng như của các cá nhân thi hành công vụ, đã dẫn đến hành vi phòng vệ hoặc hành vi sai pháp luật của người dân Đồng Tâm.
Thế nhưng, hành vi sai pháp luật của người dân Đồng Tâm xuất phát từ các hậu quả “hành vi trái pháp luật” của chính quyền T.p Hà Nội cũng như của các cá nhân thi hành công vụ như: chiếm đất sai pháp luật, không bồi thường thỏa đáng, đánh đập cụ Lê Đình Kình, bắt, giam giữ người dân Đồng Tâm…
Chính vì vậy, người dân Đồng Tâm tìm mọi cách đứng lên bảo vệ “tính mạng” của cụ Kình, bảo vệ “quyền, lợi ích hợp pháp” của bà con, nghĩa là bà con đã “phòng vệ chính đáng”, ngăn chặn tội phạm thực hiện hành vi phạm tội khi có một lực lượng xông vào thôn với các vũ khí chuyên dụng, với mục đích không gây ra những tổn thất và các hậu quả nặng nề. Vì thế, bà con Đồng Tâm là những người có “công” ngăn chặn tội phạm thực hiện các hành vi phạm tội, phải được xem là những người có “công” chứ không phải có “tội”.
Công lý nào dành cho bà con Đồng Tâm?
Thất hứa, tráo trở, lật lọng là “đặc sản gia truyền” của cộng sản. Qua vụ này, giới chức cầm quyền rất “tàn nhẫn” với nhân dân Đồng Tâm, nhưng thực sự như vậy mới rõ bản chất cộng sản.
Huyền Trang, GNsP
Merken
Thư ngỏ gửi những người cộng sản v/v khởi tố Đồng Tâm
Viết bởi Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi
Việt Nam, ngày 14/6/2017,
Hỡi những người cộng sản đã đi theo đảng một cách chân thành, vì coi đó là lý tưởng cao đẹp, xin quý vị nên nghĩ lại, xem tổ chức mà quý vị đang đứng trong hàng ngũ liệu có và còn xứng đáng là một chính đảng phục vụ đất nước dân tộc hay không? Ngay sau khi ông Nguyễn Đức Chung ký bản cam kết, nhiều luật sư đã phân tích sự lừa đảo đó, bởi lẽ đơn giản là ông ta không có thẩm quyền đại diện và thay mặt cơ quan tố tụng cam kết không khởi tố vụ án Đồng Tâm.
Nhiều người, và rất nhiều người, đã cả tin đến mức phê phán các luật sư, rằng kết quả đạt được là tốt rồi, không nên quá nghi ngờ “thiện chí” của giới lãnh đạo Hà Nội, và rằng người dân Đồng Tâm đã làm hết sức của mình, không nên đòi hỏi hơn nữa. Tất nhiên, chúng tôi hiểu cảm xúc trung thực đó.
Bây giờ mọi người đã thấy rõ, hệ thống tuyên truyền của nhà cầm quyền đang lập luận rằng ông Chung không có thẩm quyền cam kết như thế, và cùng lắm ông chỉ hứa không khởi tố “toàn thể người dân Đồng Tâm”, chứ có cam kết không khởi tố một cá nhân nào đâu (!?).
Ông Chung thậm chí còn vu cáo người dân Đồng Tâm ép buộc ông ký cam kết, và vì tránh cảnh người dân phải đổ máu lúc đó, nên ông đành làm như thế. Cam kết trong khi bị ép buộc nên không có giá trị pháp lý (!).
Nói cách khác, họ chẻ chữ ra để lấp liếm. Tất nhiên, lấp liếm thì dễ thôi, nhưng hành động lật lọng và lừa đảo không thể che giấu ai. Lật lọng và lừa đảo là hai mặt của một đồng xu mang hình hài cộng sản.
Nếu ông Chung có thẩm quyền cam kết, thì rõ ràng bây giờ nhà cầm quyền đang lật lọng. Nếu ông Chung không có thẩm quyền mà vẫn cam kết, thậm chí khôn lỏi đến mức chơi chữ để lấp liếm, thì đó là gì nếu không phải lừa đảo?
Lật lọng và lừa đảo là bản chất của mọi chế độ cộng sản từ khi chúng đoạt được quyền bính trên toàn thế giới vào năm 1917 ở nước Nga và sau đó lan rộng trên phạm vi quốc tế. Dù cộng sản đã sụp đổ trên toàn cầu nhiều thập kỷ trước, cặn bã của nó vẫn còn đọng lại ở Trung Quốc và Việt Nam.
Do đó, hỡi những người cộng sản Việt Nam thành tâm, quý vị nghĩ gì về tổ chức mà mình đang gửi gắm niềm tin và hy vọng? Người dân Đồng Tâm là những dân quê chân chất, lam lũ bên mảnh đất tổ tiên để lại, liệu đủ sức chống chọi sự lật lọng và lừa đảo tinh vi một cách có hệ thống như thế không?
Người dân Đồng Tâm mới chính là đồng bào yếu thế của quý vị trong cộng đồng dân tộc suốt hàng ngàn năm lịch sử, chứ không chỉ có những kẻ trong một tổ chức mới hình thành từ vài chục năm qua bởi sự vay mượn một tư tưởng ngoại lai xa lạ.
Chế độ mà quý vị tưởng còn chia sẻ chung lý tưởng ấy thật ra đã lộ nguyên hình thành một băng đảng chủ trương lấy cướp bóc làm mục đích sinh tồn, lấy dối trá và bạo lực làm phương tiện.. Chế độ đó đang hoảng loạn đến mức phải bảo toàn quyền thống trị độc tôn của mình mà không ngần ngại bộc lộ rõ bản chất lật lọng và lừa đảo của nó.
Vậy, xin hãy bình tâm suy nghĩ và từ bỏ băng đảng cướp bóc đó. Thời gian vẫn còn kịp cho những ai thành tâm yêu nước, và dân tộc ta luôn bao dung đối với những ai thực tâm xem lợi ích tổ quốc vượt trên tất cả.
Việt Nam, ngày 14/6/2017,
Đồng Chủ tịch Hội CTNLT: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi
Do ai khiến dân bất an ?
Viết bởi Paulus Lê Sơn
#GNsP (09.06.2017) – Sáng 09.6.2017, trong thảo luận về tình hình kinh tế – xã hội, Phó chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội Đặng Thuần Phong đã nêu ra 6 nội dung cần quan tâm trong đó có những việc mà ông gọi là “nỗi bất an của người Việt Nam”. Một tiếng nói lẻ loi tại nghị trường nói đúng thực trạng xã hội Việt Nam ngày nay. Điều đó rất đáng hoan nghênh trong tư duy của những người suy nghĩ về đất nước.
Tuy nhiên, vấn đề lớn ở đây là giải pháp làm sao thì chưa làm được và nguyên nhân do ai gây ra thì thật sự vẫn chưa thẳng thắng chỉ tên. Theo dòng lịch sử của Quốc hội đã không ít nghị viên trước đây cũng có nhiều người nói. Nhưng nói xong, chẳng thấy thay đổi bất cứ điều gì. Từ suy nghĩ trăn trở cho hiện tình đất nước biến thành tinh thần hành động dứt khoát thì còn là một hố sâu ngăn cách.
Trong bài phát biểu ông Phong đã đưa ra 6 điểm hết sức tổng quát và vĩ mô, nhưng cũng rất cụ thể, chi tiết. 6 điểm là 6 nỗi đau của dân tộc đang phải gánh chịu từ cơ chế của cả hệ thống chính trị đến những tệ nạn tham nhũng, văn hóa, chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng, môi trường sống đều bị bủa vây của cơ chế công quyền trong nhiều trường hợp cùng tính chính danh của nó.
“Đừng vì những lợi ích tức thời mà buông bỏ tương lai dân tộc. Tiền có thể nhiều đến đâu cũng không mua lại được môi trường tươi đẹp đã mất. Mỗi thứ đều do người Việt hại người Việt và từng bước biến sự vô cảm thành vấn đề đạo đức mang tính phổ biến”. Đó là thông điệp rất đáng trân trọng của ông Phong gởi đến Quốc hội sau khi kết thúc bài phát biểu.
Vì sao tiếng nói tâm huyết của nhiều đại biểu Quốc hội khó trở thành hành động thực tiễn để đưa đất nước tươi đẹp ? Nền tảng chính trị của Việt Nam đều bị đóng khung bởi sự lãnh đạo duy nhất của đảng cộng sản. Đảng nói đúng hay sai thì cả hệ thống chính trị buộc lòng phải thực hiện như vậy. Chính phủ bị dây thòng lọng của đảng o bế, chính phủ có làm khác được chỉ thị đường lối của đảng hay không ? Khi nào mà chưa có tính độc lập giữa Quốc hội và đảng cộng sản thì tới khi đó Quốc hội vẫn chỉ là đám đông nghị trường vâng theo ý đảng.
Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đưa ra, tuy nhiên trong quá trình thực hiện, Đảng và Trung ương có những chỉ đạo về xử lý tiêu cực, tham nhũng, gồm cả xử lý trách nhiệm của người đứng đầu thì lại chưa được như mong muốn ?!
Ai có thể tham nhũng ngoài đảng viên của đảng cộng sản. Ai điều hành chính sách vĩ mô về kinh tế, ai tận thu tài nguyên khoáng sản, ai phá nát hệ thống môi trường sinh thái, ai kêu gọi đầu tư nhưng thiếu trách nhiệm trong thẩm định, đánh giá dự án khiến từng bước biến Việt Nam thành điểm đến của công nghiệp rác, công nghệ lạc hậu? Để trả lời người ta thấy rõ đảng cộng sản chính là cội nguồn của sự hủy diệt.
Dân bất an trong môi trường sống bị sự độc tôn cộng sản lãnh đạo cũng chẳng lấy gì làm lạ. Đứa trẻ muốn được sinh ra an toàn cũng phải mua mạng sống bằng tiền nơi nhà thương, vừa cất tiếng khóc chào đời đã bị nợ công hàng ngàn đô la phủ lên mặt trẻ thơ. Già trẻ, nam nữ lắng lo sợ hãi trong vòng xoáy của thuế khóa, luật pháp mơ hồ.
Dân sống trong một bãi rác hôi thối, đầy dịch bệnh thì hỏi sức khỏe dân tộc có bền vững, sự an nguy của xã tắc có đáng lo ngại ? Muốn dân sống khỏe, bình an thì trước hết cần phải dọn rác thối.
Ông Đặng Thuần Phong đã thấy được cái thối rữa, sâu mọt, héo úa của thân, cành, lá. Gốc rễ mục ruỗng là nguyên nhân sinh ra bệnh, cần phải bấng rễ nó đi mà thay vào một loại cây khác. Liệu ông Phong và các dân biểu tại Nghị trường Quốc hội có can đảm hành động làm để trả lại môi trường tươi đẹp cho dân tộc Việt Nam ?
Muôn đời Dân luôn là mảnh đất phì nhiêu, màu mỡ, trù mật, là người nông phu hãy biết gieo vào trong lòng dân những hạt giống tốt, cây sẽ đâm trồi nảy lộc và sinh và kết trái.
09.06.2017
Paulus Lê Sơn
Đảng vô thần - Quốc hội vô tâm -Viết luật vô nghiã
Viết bởi Phạm Trần
Đảng Cộng sản Việt Nam vô thần chống người hữu thần không là chuyện lạ ở Việt Nam, nhưng Quốc hội là “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” (Điều 69 Hiến pháp 2013) mà làm Luật vô nghĩa để khống chế tôn giáo theo lệnh đảng thì có bù nhìn nào hơn ?
Cũng cái Quốc hội “đảng cử dân bầu” này đã viết rõ trong Điều 24, Hiến Pháp năm 2013:
1. “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.”
Thế mà trong Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (TNTG --02/2016/QH14), ban hành ngày 18/11/2016, các Đại biểu của dân đã dành cho nhà nước nhiều quyền kiểm soát để bóp ngẹt hoạt động của các Tôn giáo. Những Đại biểu này cũng đã tiếp tay cho nhà nước cướp đi nhiều quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo cơ bản của người dân.
Càng xấu hổ hơn, trong tổng số 491 Đại biểu tại chức, sau khi có 5 người bị cách chức, tự ý rút lui hay qua đời, vẫn còn tới tới 472 người của đảng Cộng sản vô thần và 19 người khác ngoài đảng nhưng là cảm tình viên được chọn cho nhiệm kỳ 2016-2021.
Những Đại biểu gọi là “Chức sắc Tôn giáo” được đảng cho bầu vào Quốc hội để trang trí cho tính đại diện các tầng lớp nhân dân đã không dám chống lại chủ trương kiểm soát các Tôn giáo của nhà nước.
Họ gồm:
1. Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm (Đặng Minh Châu, sinh ngày 27 tháng 12 năm 1956), Đơn vị bầu cử Số 10: Gồm các huyện: Sóc Sơn và Mê Linh, Hà Nội
2. Linh mục Nguyễn Văn Riễn (Nguyễn Văn Riễn, sinh ngày 20 tháng 12 năm 1955), Đơn vị bầu cử Số 3: Gồm thị xã Bến Cát và các huyện: Dầu Tiếng, Bàu Bàng, Phú Giáo, Bắc Tân Uyên
3. Ni sư Thích Nữ Tín Liên (Nguyễn Thị Yến), sinh 10/02/1951, Đơn vị bầu cử Số 8: Gồm quận 12 và quận Gò Vấp, TPHCM
4. Hòa thượng Thích Chơn Thiện (Nguyễn Hội), sinh 01/12/1942, mất 8 tháng 11 năm 2016, Đơn vị bầu cử Số 2: Gồm thành phố Huế và thị xã Hương Thuỷ, Huế
5. Thượng tọa Thích Thanh Quyết (Lương Công Quyết), sinh 15/6/1962, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, Đơn vị bầu cử Số 2: Gồm thành phố Uông Bí và các thị xã: Đông Triều, Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh
6. Trần Văn Huynh (Huệ Tín, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ), sinh 10/01/1952, Trưởng ban Thường trực Hội thánh Cao Đài Bạch Y, Đơn vị bầu cử Số 2: Gồm các huyện: An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng và Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Bốn đại biểu Phật giáo đều thuộc Giáo Hội Phật giáo Việt Nam quốc doanh được Nhà nước bảo trợ. Tu sỹ Trần Văn Huynh thuộc một hệ phái Cao Đài thân đảng. Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Văn Riễn, theo Bách khoa tòan thư mở, sinh năm 1955 là người Công Giáo duy nhất trúng cử vào Quốc hội khóa XIV và cũng là Ủy viên Ủy ban Đoàn kết Công Giáo Việt Nam, tổ chức những người Công Giáo theo đảng. Ông hiện là linh mục chánh xứ kiêm hạt trưởng Hạt Phước Thành, Giáo phận Phú Cường.
Như vậy, sự có mặt của 6 “chức sắc tôn giáo này” không có nghĩa gì trong Quốc hội khoá XIV.
PHỦ NHẬN
Vì vậy, trong Kháng thư đề ngày 20/10/2016 Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam, quy tụ nhiều chức sắc của 5 Tôn giáo lớn (Cao Đài, Công Giáo, Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo) và Tin Lành) có mục đích tranh đấu cho Tự do Tôn giáo và Dân chủ Nhân quyền tại Việt Nam đã “hoàn toàn bác bỏ Luật Tín ngưỡng Tôn giáo”.
Kháng thư viết:”Chế độ cai trị hiện thời tại Việt Nam là chế độ cộng sản với hai tính chất nổi bật: vô thần và toàn trị. Vô thần cộng sản là vô thần tranh đấu, quyết tâm xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của Tôn giáo trên xã hội khi hoàn toàn bất lực xóa bỏ sự hiện hữu của Tôn giáo trong quốc gia. Toàn trị là kiểm soát, lũng đoạn để công cụ hóa mọi cá nhân và tập thể, mọi tổ chức và định chế, mọi thế lực và ảnh hưởng, mà đặc biệt là thế lực tôn giáo và ảnh hưởng tâm linh, để đảng cộng sản muôn năm lãnh đạo và nhà nước cộng sản muôn năm cai trị.”
Do đó, Hội đồng kết luận:”Mọi luật lệ xuất phát từ chế độ độc tài toàn trị cộng sản đều không ngoài mục đích kiểm soát, lũng đoạn và công cụ hóa nói trên. Nên cho dù có đưa ra cho toàn thể nhân dân, mọi giai tầng xã hội đóng góp ý kiến cho có vẻ dân chủ, rốt cuộc đảng và nhà cầm quyền cộng sản vẫn biên soạn các luật lệ (từ cao xuống thấp) hoàn toàn theo ý muốn độc đoán của họ và hoàn toàn nhằm mục đích tối hậu của họ: củng cố chế độ độc tài đảng trị. Hiến pháp 2013 là ví dụ rõ nhất. Luật Tín ngưỡng Tôn giáo cũng không nằm ngoài ý đồ thâm độc này.”
Bằng chứng này được Hội đồng vạch ra:” Mọi văn kiện pháp lý của nhà cầm quyền CSVN từ xưa tới nay về Tôn giáo, kể từ Sắc lệnh Tôn giáo năm 1955, Nghị quyết 297 năm 1997, Pháp lệnh về Tín ngưỡng Tôn giáo năm 2004 tới Luật Tín ngưỡng Tôn giáo sắp ban hành, tất cả đều không ngoài mục đích dùng bạo lực hành chánh -kết hợp với bạo lực vũ khí- để cướp đoạt mọi tài sản tinh thần (các quyền tự do) và tài sản vật chất (đất đai, cơ sở) của các Giáo Hội, để sách nhiễu, bắt bớ, cầm tù, thậm chí thủ tiêu nhiều chức sắc và tín đồ can đảm (mãi cho tới hôm nay), nhằm làm cho các Thực thể Tinh thần vô cùng cần thiết và cực kỳ hữu ích cho xã hội này bị tê liệt hoạt động, bị cản trở sứ mạng, thậm chí bị biến đổi bản chất. Hậu quả là xã hội Việt Nam ngày càng tràn ngập bạo hành và gian dối, ngày càng suy đồi về văn hóa và đạo đức, kéo theo suy đồi các lãnh vực khác nữa.”
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
Đến ngày 01/06/2017, Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN), đại diện cho trên 7 triệu người Công Giáo đã lên tiếng chỉ trích Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo mới, sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Theo Hội đồng GMVN thì Luật mới đã “có những bước lùi” so với hai bản Dự thảo Luật số 4 và số 5 mà nhà nước đã gửi ra để tham khảo ý kiến.
Hội đồng GMVN viết:”Theo Dự thảo 5 ngày 17-08-2016, các tổ chức tôn giáo “được thành lập cơ sở giáo dục theo hệ thống giáo dục quốc dân” (Điều 53), và “được thành lập cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở bảo trợ xã hội, nhà xã hội (Điều 54). Nhưng trong Luật Tín ngường, Tôn giáo, vấn đề này được gói gọn trong điều 55 với những từ ngữ tổng quát và mơ hồ:”Được tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã ội và từ thiện, nhân đạo, theo quy định của pháp luật có liên quan.” Tham gia thế nào ? Tham gia mức nào ? Tham gia có đồng nghĩa với việc thành lập cơ sở không ? Như vậy, nếu so sánh với các bàn Dự thảo 4 và Dự thảo 5, thì Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo có những bước lùi.”
KIỀM CHẾ ĐỂ KIỂM SOÁT
Hội đồng GMVN còn vạch ra rằng:”Ngoài ra, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo tiếp tục củng cố cơ chế xin-cho. Bộ Luật này không dùng từ “xin phép” và “cho phép”, thay vào đó là các từ “đăng ký, thông báo, đề nghị”. Việc thay đổi từ ngữ như trên tạo cảm giác có sự cởi mở hơn, nhưng vì các tổ chức tôn giáo vẫn phải thông báo với chính quyền và chính quyền có thể chấp thuận hoặc không chấp thuận, nên rốt cuộc vẫn là cơ chế xin-cho. Cơ chế này cho thấy tự do ín ngưỡng tôn giáo không thật sự được coi là quyền của con người nhưng chỉ là ân huệ cần phải xin và được ban phát. Chính cơ chế đó hợp pháp hóa sự can thiệp của chính quyền vào sinh hoạt nội bộ và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động tôn giáo.”
Thật vậy, nếu ai có thời giờ đọc hết 68 Điều trong 9 Chương của Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (TNTG) của nhà nước CSVN sẽ tìm ra vô số những hàng rào cản ẩn hiện trong ngôn ngữ của Bộ Công an và Ban Tuyên giáo với mục đích duy nhất là kiểm soát nghiêm ngặt người theo đạo, các chức sắc lãnh đạo, tài sản của các tôn giáo và những hoạt động thuộc lĩnh vực linh thiêng.
Ngoài những quy định trong Luật TNTG như việc gì cũng phải đăng ký, thông báo để được các cấp chính quyền cứu xét, các tổ chức tôn giáo và người theo đạo còn phải tuân theo những quy định của nhiều Luật khác của nhà nước.
Những nhóm chữ ràng buộc mơ hồ như : “theo quy định của pháp luật; theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự; theo quy định của pháp luật có liên quan v.v...” đang nhảy múa loạn lên trong tòan bộ Luật.
Nhà nước còn thọc tay vào tất cả mọi việc của Tôn giáo chỉ để kiểm soát chặt chẽ. Tỷ dụ như Khoản 5, Điều 66 quy định các cấp lãnh đạo trách nhiệm của tôn giáo phải :”Thông báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.”
Rồi Điều 12 còn viết về “đăng ký” như sau :
1. Hoạt động tín ngưỡng của cơ sở tín ngưỡng phải được đăng ký, trừ cơ sở tín ngưỡng là nhà thờ dòng họ.
2. Người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm gửi văn bản đăng ký đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng chậm nhất là 30 ngày trước ngày cơ sở tín ngưỡng bắt đầu hoạt động tín ngưỡng…”
CẤM ĐỂ DIỆT
Bấy nhiêu chưa đủ, Luật TNTG còn có những ngăn cấm rất mơ hồ cho phép nhà nước tòan quyền “tự biên tự diễn” để đàn áp các Tôn giáo. Quốc hội đã ghi trong Điều 5 những cấm đóan này như sau:
1. Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo.
3. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo.
4. Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo:
a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường;
b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;
c) Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân;
d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
5. Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.
Luật không giải thích rành mạch các khỏan (a,b, c và d) nên nhà nước sẽ tha hồ và tùy tiện để vẽ rắn thêm chân , vẽ rồng thêm cánh và tung ra mưu chước gài bẫy người phải thi hành Luật. Bởi vì trong chế độ nhà nước độc tài và tòan trị Cộng sản Việt Nam, chả có việc gì hay hành động nào mà tránh khỏi bị mấy anh công an chụp cho chiếc mũ “Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường”, hay “an ninh trật tự”, “chống phá nhà nước”, “phản động” v.v…. Bằng chứng đã có mấy chục nhà đấu tranh cho dân chủ, tự do và nhân quyền đang bị ngồi tù như Trần Huỳnh Duy Thức, Luật sư Nguyễn Văn Đài, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga v.v…
Đó là lý do tại sao Hội đồng GMVN đã chỉ trích:” Cùng với những nhận định trên, chúng tôi muốn nêu lên một vài suy nghĩ. Ẩn sâu bên trong những bất cập đã trình bày là cách nhìn của chính quyền về tôn giáo và các tổ chức tôn giáo. Chính quyền nhìn các tổ chức tôn giáo thuần túy trên bình diện chính trị, xem các tổ chức tôn giáo như những lực lượng đối kháng.”
Các Nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo viết tiếp:”Do cách nhìn như thế, trong Luật Tín ngưỡng, Tốn giáo có những điệp khúc được lập đi lập lại nhiều lần, như “theo quy định của Pháp luật”, “chia rẽ dân tộc, chia rẽ tôn giáo”, hoặc những khái niệm mơ hồ trừu tượng như “xâm phạm quốc phòng, an ninh”, “xâm phạm chủ quyền quốc gia”; “xâm phạm trật ự an toàn xã hội, môi trường”. Những điệp khúc và những từ ngữ mơ hồ trên rất dễ bị lạm dụng để quy kết trách nhiệm và lên án các tổ chức tôn giáo khi chính quyền không hài lòng.”
PHONG PHẨM PHẢI TRÌNH
Liên quan đến công việc nội bộ phong phẩm, bổ nhiệm (không có yếu tố nước ngoài) của các Tôn giáo, nhà nước cũng muốn chĩa mũi vào dậy khôn để xoi mói như đã quy định trong Điều 32 :”
1. Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thực hiện việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử theo hiến chương của tổ chức tôn giáo.
2. Người được phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Những đề phòng trong khỏan 2 có dư thừa không, hay nhà nước nghĩ các Tôn giáo sẽ nhắm mắt thăng chức bừa cho cả những người không đủ phẩm hạnh, hay phạm pháp ?
Nếu bấy lâu nay nhà nước biết đề phòng như thế trong công tác bổ nhiệm cán bộ thì làm gì còn có những kẻ tham nhũng tầy trời mà chạy được ra nước ngoài sống thảnh thơi như trường hợp Trịnh Xuân Thanh ?
Tỷ dụ này cho thấy đảng và nhà nước CSVN chỉ biết bắt nạt những người dân hiền lành mà không dám đụng đến lỗ chân lông bọn người phá hoại và làm tay sai cho ngọai bang.
Bằng chứng Luật TNTG đã buộc các Tôn giáo phải “thông báo người được phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc”, như quy định trong Khỏan 1, Điều 33 :
“Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương về người được phong phẩm hoặc suy cử làm hòa thượng, thượng tọa, ni trưởng, ni sư của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam; mục sư của các tổ chức Tin lành; phối sư trở lên của các Hội thánh Cao đài; giảng sư trở lên của Tịnh độ Cư sỹ Phật hội Việt Nam và các phẩm vị tương đương của tổ chức tôn giáo khác chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày phong phẩm hoặc suy cử.”
Riêng Giáo Hội Công Giáo thì việc phong phẩm và thuyên chuyển các chức danh Giám mục trở lên có liên quan đến Tòa thánh Vatican. Do đó, Luật TNTG cũng đặt ra Điều 51 riêng, bao gồm cả việc phong chức cho người nước ngoài ở Việt Nam được viết nguyên văn như sau:
1. “Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài bao gồm các trường hợp sau đây:
a) Tổ chức tôn giáo Việt Nam phong phẩm hoặc suy cử phẩm vị cho người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam;
b) Tổ chức tôn giáo nước ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử cho công dân Việt Nam ở Việt Nam.
2. Người được đề nghị phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật này. Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được đề nghị phong phẩm hoặc suy cử phẩm vị còn phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Được đào tạo tôn giáo tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam;
b) Tuân thủ pháp luật Việt Nam.
3. Việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài quy định tại khoản 1 Điều này phải được sự chấp thuận trước của cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
4. Công dân Việt Nam được tổ chức tôn giáo nước ngoài phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử ở nước ngoài khi về Việt Nam làm chức sắc, chức việc thì tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc quản lý trực tiếp có trách nhiệm đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.
5. Chính phủ quy định chi tiết trình tự, thủ tục chấp thuận, đăng ký việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài quy định tại Điều này.”
SAO THÙ DAI THẾ ?
Nêu ra một số điều luật TNTG ngặt nghèo để thấy rõ hơn sự sợ hãi chân lý và sự thật của những người Cộng sản Việt Nam vô thần. Đã có thời họ gọi Tôn giáo, nhất là đạo Công Giáo, là thuốc phiện. Nhưng chính Tôn giáo đã đóng góp rất nhiều cho sự tồn tại và trưởng thành của đất nước và con người Việt Nam.
Trong dân số trên 90 triệu con người mà chỉ có 4.5 triệu đảng viên Cộng sản vô đạo thì số người không biết Trời, Phật là ai sẽ làm được trò trống gì so với sức mạnh tinh thần và lòng tin vào tín ngưỡng, tôn giáo của 85.5 triệu người còn lại ? Vì vậy, thật dễ hiểu tại sao đảng CSVN đã sợ hãi Tôn giáo vì lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh chế độ chỉ nhất thời nhưng dân và đức tin Tôn giáo của họ tồn tại muôn đời.
Vì vậy, ta hãy nghe Hội đồng GMVN nói tiếp trong Nhận định gửi Bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và các Đại biểu Quốc hội:”Cũng vậy, chính quyền đã tiêu tốn biết bao nhiêu tiền của và nhân lực để theo dõi, dò xét, kiểm soát mọi hoạt động tôn giáo, đồng thời sử dụng các tổ chức tôn giáo như công cụ của chế độ. Trong khi đó, những hoạt động của các tôn giáo trong lĩnh vực từ thiện, y tế và giáo dục không được đánh giá đúng mức, thậm chí bị ngăn cản.
Ngoài ra, tại một số cơ sở đào tạo cán bộ và sinh viên, Đạo Công Giáo được trình bày với những thành kiến thù nghịch, tạo nên nhận định sai lầm và hình ảnh biến dạng về Giáo Hội Công Giáo nơi thế hệ trẻ.
Cách nhìn và cách hành xử như vậy có nguy cơ làm mất bản sắc đích thực của các tôn giáo, gây chia rẽ trong nội bộ các tôn giáo cũng như giữa các tín đồ và người ngoài tôn giáo, vốn là những hành vi bị Luật này nghiêm cấm (Điều 5). Thiết nghĩ Quốc hội cần có một tầm nhìn tích cực hơn về các tôn giáo và các tổ chức tôn giáo.”
Còn nhớ ngày 09/05/2014, Hội đồng Gíam mục Việt Nam đã ra Tuyên bố về tình hình Biển Đông, sau khi Trung Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan Hải Dương (HD)-981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở miền Trung, và liên tục tấn công các tầu đánh cá Việt Nam ở Biển Đông.
Các Giám mục đã kêu gọi người Công Giáo Việt Nam hãy “xám hối”, tiết giảm chi tiêu và ăn uống để cầu nguyện cho Quê hương và dành tiền giúp các gia đình nạn nhân của tầu Trung Quốc và các chiến sỹ cảnh sát bị tầu Trung Quốc tấn công trong khi bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Hành động của Hội đồng GMVN khi ấy không được nhà nước CSVN quan tâm lắm, nhưng không có bất cứ tổ chức tôn giáo nào của nhà nước, kể cả Giáo Hội Phật giáo Việt Nam dám làm việc tốt như Giáo Hội Công Giáo.
Vậy mà, người theo đạo Công Giáo và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam luôn luôn bị nhà nước canh chừng và tìm cách hãm hại thì liệu Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo có giúp nhà nước vô thần dành lại được lòng tin của những người hữu thần ? -/-
Phạm Trần
(06/017)
Vài suy nghĩ về Nhận định của Hội đồng Giám mục Việt Nam về “Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016”
Viết bởi Điền Phương Thảo
GNsP (05.06.2017) – Có lẽ cũng như tôi, nhiều người Công Giáo Việt Nam đều đồng tình, tự hào và đầy tâm tình tạ ơn Chúa sau khi đọc Nhận định của Hội đồng Giám mục Việt Nam về “Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016”.
Với lời lẽ ôn hòa, nhẹ nhàng nhưng khẳng khái, khôn ngoan trong việc trình bày chính kiến, bài Nhận Định đã thẳng thắn nêu lên sự “tổng quát và mơ hồ” của nhà cầm quyền trong việc nhìn nhận về vai trò của tôn giáo khi tham gia các hoạt động “giáo dục, y tế, đào tạo, tự thiện…” của xã hội.
Đồng thời , bài Nhận Định cũng không ngần ngại cho rằng nhà cầm quyền chỉ “tạo cảm giác cởi mở hơn” khi thay đổi từ “xin phép” và “ cho phép” thành “ đăng ký, thông báo, đề nghị”. Nghĩa là bản chất của cơ chế xin-cho, tự do tôn giáo không hề là quyền của con người mà phải là ơn huệ ban phát từ nhà cầm quyền vẫn không thay đổi.
Và điều tôi tâm đắc nhất trong bản Nhận Định chính là nội dung của điều 5 : Thế nào là đồng hành cùng với dân tộc ?
Đã một thời gian “rất dài và rất lâu” người dân Việt ai cũng phải biết câu “Yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội”. Ngay cả khi hệ thống Chủ Nghĩa Xã Hội sụp đổ một cách thê thảm tại Đông Âu và nhất là tại pháo đài sinh ra nó là Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết, thì tại Việt Nam, việc chung tay xây dựng thiên đường Chủ Nghĩa Xã Hội vẫn là nhiệm vụ, là biểu hiện lòng yêu nước của người dân.
Và cũng từ nhiều năm qua, người dân Việt khi còn là một đứa bé mới biết chữ đã đọc thấy khẩu hiệu “Yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội” được treo đầy những nơi công cộng. Trong trường học, tư tưởng này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội dung các bài học chính trị, đạo đức. “Yêu nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội” nghiễm nhiên trở thành một chân lý nhờ vào sự tuyên truyền, nhồi sọ của ban tuyên giáo của Đảng.
Từ sự mặc định này, những ai và những gì có thể hiện sự chống đối đường hướng, chính sách khiến đất nước không thể “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội” là thành phần “phản động”, là “thế lực thù địch” cần phải loại trừ.
Nhưng sự thật thì “yêu nước” không nhất thiết là phải “yêu Chủ Nghĩa Xã Hội”. Bởi lẽ từ ngàn năm trước, dân tộc Việt đã có truyền thống yêu nước, các bậc tiền nhân anh hùng đã hy sinh xương máu để xây dựng và bảo vệ đất nước mà không cần biết mặt mũi “Chủ Nghĩa Xã Hội” là tròn hay méo ? Điều đó có nghĩa lòng yêu nước đã là vốn quý của người dân Việt và nó hiện hữu trong tinh thần người dân Việt, bất chấp họ sống dưới chế độ, chính quyền nào.
Chính vì thế mà trong Nhận định của Hội đồng Giám mục Việt Nam về “Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016” có đoạn viết:
“Chính quyền kêu gọi các tôn giáo đồng hành với dân tộc, chúng tôi hoàn toàn đồng ý, nhưng thiết tưởng nên phân biệt rõ dân tộc và chế độ. Lịch sử dân tộc Việt Nam nói riêng và lịch sử thế giới nói chung cho thấy rằng các chế độ chính trị thay đổi theo thời gian còn dân tộc thì trường tồn. Do đó phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Chúng tôi nghĩ rằng đồng hành với dân tộc là đồng hành với những con người cụ thể đã và đang làm nên dân tộc này, nhất là những người cùng khổ và bị quên lãng. Đồng hành với dân tộc là đồng hành với những giá trị làm nên di sản tinh thần và văn hóa của dân tộc Việt Nam: chống ngoại xâm, giữ gìn bờ cõi, chống cường quyền, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, …”
Đây là một nhận định vô cùng quý giá giúp người dân, đặc biệt là người Công giáo Việt Nam củng cố lại những giá trị thật, có những nhận thức đúng đắn về vai trò và trách nhiệm mình trong hoàn cảnh đất nước hiện nay.
Đồng thời điều này cũng thể hiện lập trường của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về các tội danh “xâm phạm trật tự an toàn xã hội, môi trường”, “kích động giáo dân gây chia rẽ” , “chống phá nhà nước”, “ tuyên truyền nói xấu chế độ” … mà Đức Cha Phaolo Nguyễn Thái Hợp, linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam và các linh mục thuộc giáo phận Vinh đang bị vu khống… Bởi lẽ các vị mục tử này đã đồng hành với dân tộc để “chống ngoại xâm, giữ gìn bờ cõi, chống cường quyền, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách…”. Tất cả những việc làm của họ chỉ nhằm một mục đích là đòi lại môi trường sống trong lành, tốt đẹp cho người dân biển miền Trung nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung.
Martin Lutherking-nhà hoạt động nhân quyền Mỹ gốc Phi, từng đoạt giải Nobel Hòa Bình năm 1964, đã nói: “ Trong thế giới này, chúng ta không chỉ xót xa trước lời nói và hành động của kẻ xấu mà còn cả vì sự im lặng đến đáng sợ của người tốt.” Đặc biệt khi những người tốt đó lại là những người có tầm ảnh hưởng với nhiều người. Vì lẽ, những người được mọi người đánh giá cao trong mọi hành vi, lời nói, có những mối quan hệ xã hội tốt, có uy tín thì chắc chắn mỗi lời nói và hành động của họ đều được ủng hộ và có sức thuyết phục rất lớn.
Do vậy, Nhận định của Hội đồng Giám mục Việt Nam về “Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016” trong hoàn cảnh đất nước còn quá nhiều bất cập như hiện nay là điều rất quý giá. Đây là nguồn sức mạnh rất lớn, là động lực đặc biệt cần thiết đối với những người còn chưa phân định được “ dân tộc và chế độ”, yêu nước và yêu Đảng là những vấn đề không buộc phải có liên quan mật thiết với nhau, không hề là hai trong một. Và từ nhận thức đúng con người sẽ có hành động đúng.
Tạ Ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội Việt Nam có những vị chủ chăn khôn ngoan và thánh thiện đã thực hiện tốt vai trò ngôn sứ trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam hôm nay. Ước mong các giáo xứ, các công đoàn hãy cùng nhau chia sẻ bản Nhận Định này vì theo tôi, đây cũng là hình thức “khai dân trí”. Người Công Giáo Việt Nam chỉ chiếm 7,18% tổng dân số, một con số khá khiêm tốn. Tuy nhiên, chỉ cần “5 chiếc bánh và 2 con cá” thì Chúa Giêsu đã biến hóa thành vô số thức ăn cung cấp cho hàng ngàn người. (Mt 14:13-21)
Hãy trở thành người Công Giáo Việt Nam không chỉ “hiền lành như chim Bồ Câu” nhưng còn phải biết “khôn ngoan như con Rắn” (M.10,16b) !
Điền Phương Thảo
Nhà cầm quyền Lâm Hà cướp đất của bà con dân tộc K’Ho
Viết bởi Pv.GNsP
GNsP(06.06.2017) – Huyện Lâm Hà huy động hàng trăm công an, cảnh sát và cảnh sát cơ động để cưỡng chiếm đất của người đồng bào thiểu số và đàn áp những tiếng nói phản kháng lệnh cưỡng chế bất công. Nhà cầm quyền dùng công an và các phương tiện trấn áp, muốn chiếm đoạt khu đất hàng trăm tỉ đồng để mưu lợi cá nhân.
Thông tin từ người dân cho biết công an huyện Lâm Hà đã đánh đập tàn nhẫn một gia đình thuộc dân tộc K’ho trong đợt trấn áp để cưỡng chế đất tại thị trấn Đinh Văn. Nhà của dòng họ K’Mạ thuộc dân tộc K’ho có quyền sử dụng đất từ trước và sau năm 1975, nhưng nhà cầm quyền muốn lấy đất của họ và đền bù rẻ mạt không xứng với giá trị của mảnh đất.
Khu đất thổ cư nằm ngay trung tâm thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà của ông bà K’Mạ có giá trị cao hơn nhiều so với giá đền bù rẻ mạt của nhà cầm quyền. Hơn 52 mét đất mặt đường với tổng diện tích hơn 2000 mét vuông gần cầu Quảng Đức, sát ngã ba Quảng Đức thuộc thị trấn Đinh Văn, giá trị mỗi mét vuông là hơn 400 triệu đồng.
Ông Bùi Văn Trinh, một gia đình có người là cán bộ làm công an vì muốn cướp khu đất vàng này nên bằng mọi giá lấn chiếm đất nhưng bị dòng họ K’Mạ kháng cự nên bất thành. Lòng tham không đáy đã khiến ông đút lót, “thuê” lực lượng có chức năng “bảo kê” cho gia đình ông để chiếm trọn khu đất của dòng họ K’Mạ.
Sự việc đang diễn ra và căng thẳng đang gia tăng khi nhà cầm quyền rêu rao rằng đã đền bù thỏa đáng cho dòng họ K’Mạ.
Ông K’Loan, thuộc dòng họ K’Mạ cho biết: “Ban đầu nhà nước đền bù cho nhà mình 1,5 tỉ để lấy hết đất, gia đình không chịu. Họ tăng lên 3 tỉ đồng và nói không tăng thêm nữa. Nhà mình không chịu đâu vì đất nhà mình rộng và đắt mà. Lấy 3 tỉ đồng thì không đủ để mua đất mới cho cả gia đình nhà mình.”
Nhà cầm quyền huyện Lâm Hà huy động công an, CSCĐ trấn áp và cướp đất của bà con dân tộc K’Ho
Giới chức cầm quyền cho xe ủi, san bằng khu đất của dòng họ K’Mạ mà không được sự cho phép của cả dòng họ.
Gia đình dòng họ K’Mạ quyết giữ đất cho đến cùng!
Hệ thống tuyên truyền nhà nước quay phim, chụp hình với ý đồ loan tin xấu cho dòng họ K’Mạ để đạt mục đích cướp đất của bà con dân tộc K’Ho
Lần lại lịch sử khu đất thì thấy đây là khu đất hợp pháp từ sau và trước năm 1975 cho đến nay. Trước năm 1975, Ty Điền Địa đã chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp cho gia đình ông K’Mạ. Sau năm 1975, nhà cầm quyền địa phương thừa nhận quyền sở hữu và quản lý đất cho gia đình ông K’Mạ trên mảnh đất nhà cầm quyền đang dã tâm cướp. Gia đình K’ Mạ cũng còn giấy xác nhận với chữ ký của chủ tịch và phó chủ tịch huyện Lâm Hà thời đó.
Trước đây ngày 21.04.2017, hàng trăm công an và cảnh sát cơ động đã được điều tới để giải tỏa và cưỡng chế đất. Công an đã sử dụng mìn khói để tấn công những người dân tộc thiểu số này. Trong ngày hôm đó, một số người đã bị công an dùng dùi cui và khiên chống đạn đánh đập sưng mặt, mũi, chân, tay, gia đình dòng họ K’Mạ đã phản ứng lại cách ôn hòa và quyết bảo vệ đất của dòng họ.
Dòng Họ K’ Mạ gồm nhiều gia đình sống tại đây từ lâu đời, tất cả đều cương quyết giữ đất cho đến cùng. Họ là dòng họ thuộc dân tộc K’ Ho sinh sống và làm ăn tại địa phương. Họ mong muốn cộng đồng cùng lên tiếng đồng hành và đòi công lý cho họ.