Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Công bố Tuyên ngôn chung kết và kết thúc Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo
Lúc quá 4 giờ chiều, ngày 15 tháng Chín năm 2022, Hội nghị kỳ VII các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới đã kết thúc, với phần công bố Tuyên ngôn chung kết tại Tòa nhà Độc Lập, với sự hiện diện của Tổng thống, Đức Thánh cha Phanxicô và gần 100 phái đoàn đến từ 50 quốc gia.
Tuyên ngôn chung kết dài đã được đại đa số các đoàn đại biểu tôn giáo thông qua trước đó và được nữ Giám mục Anh giáo Jo Balley Wells (1965), thuộc giáo phận Dorking, thuộc phái đoàn Đức Tổng giám mục Giáo chủ Liên hiệp Anh giáo tham dự hội nghị này, tuyên đọc bằng tiếng Anh.
Nội dung Tuyên ngôn chung
Trong văn kiện này, gồm 35 điểm, các vị lãnh đạo nhấn mạnh ý chí của các tôn giáo đề ra những sáng kiến chung để xây dựng hòa bình và đối thoại, loại bỏ những thái độ cực đoan, duy căn và khủng bố. Tuyên ngôn lên án mọi loại xung đột võ trang: các xung đột này dẫn tới đổ máu vô ích, những phản ứng dây chuyền không thể lường trước được và hủy hoại những quan hệ quốc tế. Văn bản không nêu ví dụ cụ thể và không nói tới chiến tranh tại Ucraina hiện nay.
Trong ý hướng đó, Hội nghị tại Kazakhstan sẽ được mở rộng để trở thành diễn đàn đối thoại liên tôn. Để được vậy, các vị lãnh đạo tôn giáo muốn cộng tác với các tổ chức quốc gia và quốc tế trên toàn thế giới. Căn bản cho công việc tương lai sẽ là Văn kiện về Tình huynh đệ nhân loại, đã được Đức Giáo hoàng Phanxicô và Đại Rabbi Ahmed al-Tayyeb ở Cairo ký kết hồi tháng Hai năm 2019.
Sau Tuyên ngôn, đến lượt Đức Thánh cha, Tổng thống và đại diện các phái đoàn tôn giáo lên tiếng nhận xét.
Diễn văn của Đức Thánh cha
Trong diễn văn nhân dịp này, Đức Thánh cha nhìn nhận rằng Hội nghị này là những ngày chia sẻ khẩn trương, làm việc và dấn thân trong dấu chỉ đối thoại. Đây là điều càng quý giá trong một thời kỳ rất khó khăn, sau đại dịch, nhân loại còn phải chịu sự điên rồ của chiến tranh. Có quá nhiều oán ghét và chia rẽ, quá nhiều tình trạng thiếu đối thoại và cảm thông tha nhân. Trong một thế giới hoàn cầu hóa, điều này càng nguy hiểm và là một gương mù gương xấu... Chúng ta không thể tiến bước, vừa liên kết vừa chia rẽ, vừa nối kết và vừa xâu xé vì vì nhiều chênh lệch.
Trong bối cảnh trên đây, Đức Thánh cha nhận xét rằng Tuyên ngôn chung kết của hội nghị này xác quyết chủ nghĩa thái quá, cực đoan, nạn khủng bố và những thứ xách động khác xúi giục oán ghét, đố kỵ, bạo lực và chiến tranh, bất kỳ vì động lực hoặc mục tiêu nào, chẳng có gì liên hệ với tinh thần tôn giáo chân chính và cần loại bỏ chúng một cách quyết liệt bao nhiêu có thể (n.5). Ngoài ra, vì Đấng Toàn Năng đã sáng tạo mọi người bình đẳng, bất luận họ thuộc tôn giáo, chủng tộc và xã hội nào, chúng ta đã đồng ý với nhau khẳng định rằng sự tôn trọng và cảm thông nhau phải được coi là điều thiết yếu và không thể tách rời khỏi giáo huấn tôn giáo (n.13).
Tự do tôn giáo
Đức Thánh cha ca ngợi Kazakhstan, qua quốc kỳ của mình, nhắc nhở sự cần thiết phải bảo tồn một tương quan lành mạnh giữa chính trị và tôn giáo. Con phượng hoàng màu vàng trên lá cờ, nhắc nhở quyền bính trần thế, gợi lại những đế quốc xưa kia, nền xanh dương gợi lại trời cao, sự siêu việt. Vì thế có một liên hệ lành mạnh giữa chính trị và siêu việt, sự sống chung lành mạnh, phân biệt lãnh vực khác nhau. Phân biệt chứ không lẫn lộn, và cũng chẳng phải là tách biệt xa cách.
Trong chiều hướng đó, Đức Thánh cha bênh vực tự do tôn giáo và chống lại chủ trương “đẩy lùi và đóng khung tôn giáo trong lãnh vực riêng tư: cần luôn luôn bảo vệ tại mọi nơi những người muốn biểu lộ một cách hợp pháp tín ngưỡng của họ. Trong thực tế, ngày nay bao nhiêu người vẫn còn bị bách hại và kỳ thị vì tín ngưỡng của họ! Chúng ta đã mạnh mẽ kêu gọi các chính phủ và các tổ chức quốc tế có thẩm quyền trợ giúp các nhóm tôn giáo và các cộng đoàn sắc tộc bị vi phạm các nhân quyền và những tự do căn bản của họ. Họ phải chịu những bạo lực do những thành phần cực đoan và khủng bố, cũng như những hậu quả chiến tranh và xung đột võ trang (n.6). Nhất là cần dấn thân để tự do tôn giáo không phải là một ý niệm trừu tượng, trái lại đó là một quyền cụ thể. Chúng ta bảo vệ quyền tự do tôn giáo cho mọi người, quyền hy vọng và vẻ đẹp...
Ba điều Đức Thánh cha lưu ý đặc biệt
Tiếp tục nhận định về bản Tuyên ngôn chung của Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo, Đức Thánh cha đặc biệt lưu ý về ba điều:
Trước tiên là hòa bình
Ngài nói:
“Tổng hợp thứ nhất là một tiếng kêu thống thiết, một giấc mơ và là mục đích hành trình của chúng ta, đó là hòa bình. Hòa bình là điều cấp thiết vì bất kỳ xung đột quân sự hoặc lò căng thẳng và đụng độ nào trên thế giới ngày nay chỉ có thể tạo nên một thứ hậu quả dây chuyền (domino), lôi kéo nhau và làm thương tổn trầm trọng hệ thống các liên hệ quốc tế (n.4). Hòa bình không phải là vắng bóng chiến tranh, và cũng không thể thu hẹp vào sự quân bình giữa các lực lượng đối nghịch, nhưng là một công trình của công lý (GS 78). Nó nảy sinh từ huynh đệ, tăng trưởng qua cuộc chiến đấu chống bất công và chênh lệch, tình huynh đệ này được xây dựng khi giơ tay cho người khác. Tất cả chúng ta xác tín rằng cần phải đi hàng đầu trong việc phổ biến sự sống chung hòa bình. Chúng ta phải làm chứng, rao giảng và khẩn cầu sự sống chung như thế. Chúng ta, nhân danh Thiên Chúa và vì thiện ích của nhân loại, chúng ta kêu gọi các vị lãnh đạo thế giới hãy ngưng các cuộc xung đột và đổ máu ở mọi nơi, từ bỏ những luận điệu hung hăng, và phá hoại” (n.7).
Thứ hai là phụ nữ
Đức Thánh cha nêu nhận xét: Sở dĩ thiếu hòa bình là vì thiếu quan tâm, dịu dàng, khả năng sinh ra sự sống. Vì thế, hòa bình cần phải tìm kiếm với sự can dự nhiều hơn của nữ giới. Vì phụ nữ chăm sóc và mang lại sự sống cho thế giới: đó là con đường dẫn đến hòa bình. Vì thế, chúng ta đã xác quyết cần phải bảo vệ phẩm giá, cải tiến vị thế xã hội của phụ nữ trong tư cách là thành phần đồng quyền của gia đình và xã hội (n.24). Cần dành cho phụ nữ những vai trò và trách nhiệm lớn hơn. Bao nhiều chọn lựa chết chóc có thể tránh được nếu phụ nữ ở trung tâm những quyết định...
Sau cùng là người trẻ
Họ là những sứ giả hòa bình và hiệp nhất ngày nay cũng như ngày mai. Chính những người trẻ, nhiều hơn những người khác, đã kêu cầu hòa bình và tôn trọng căn nhà chung của thiên nhiên. Trái lại, những chủ trương thống trị và bóc lột, vơ vét tài nguyên, quốc gia chủ nghĩa, chiến tranh và những vùng ảnh hưởng gợi lại một thế giới cũ mà người trẻ phủ nhận, một thế giới khép kín đối với những giấc mơ và hy vọng của người trẻ. Vì thế, cả lòng đạo đức cứng nhắc và làm ngộp thở không thuộc về tương lai, nhưng thuộc về quá khứ.
Trong lãnh vực này, Đức Thánh cha khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục củng cố sự đón nhận nhau và sống chung trong sự tôn trọng giữa các tôn giáo và văn hóa (Xc n.11).
Sau diễn văn của Đức Thánh cha, Tổng thống Kazakhstan và các vị lãnh đạo tôn giáo khác: Hồi giáo, Chính thống, Do thái và các vị khác lần lượt lên tiếng trình bày những nhận định. Sau cùng, Tổng thống tuyên bố kết thúc hội nghị.
Bấy giờ là quá 5 giờ chiều, giờ địa phương. Các lễ nghi từ biệt được thu ngắn tối đa và Đức Thánh cha ra phi trường Nur-Sultan, cách đó gần 18 cây số để đáp máy bay về Roma.
Vẫn máy bay Ita Airways của Ý chở Đức Thánh cha, đoàn tùy tùng và 80 ký giả quốc tế trở về Roma. Chuyến bay dài 7 tiếng 30 phút và Đức Thánh cha về đến Roma vào khoảng 8 giờ 30 tối giờ địa phương, kết thúc tốt đẹp chuyến tông du thứ 38 của ngài ở nước ngoài.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Phanxicô “sẵn sàng đi Trung quốc”
cath.ch, I.Media, 2022-09-13
Đức Phanxicô chào các nhà báo tháp tùng ngài trong chuyến đi Kazakhstan | © Camille Dalmas I.MEDIA
Sau chuyến bay kéo dài 6h30 giờ, máy bay đã hạ cánh xuống phi trường quốc tế Nur-Sultan, Kazakhstan. Khi được hỏi liệu có khả năng ngài sẽ gặp chủ tịch Tập Cận Bình, cũng sẽ ở thủ đô ngày 14 tháng 9, Đức Phanxicô tuyên bố ngài không có thông tin gì về cuộc gặp trong lúc này, nhưng ngài nói ngài “sẵn sàng đi Trung Quốc”.
“Tôi không biết gì cả. Tôi không có thông tin. Nhưng tôi luôn sẵn sàng đi Trung Quốc,” ngài trả lời các nhà báo khi đến chào họ trên máy bay. Với tất cả các nhà báo, ngài cho biết ngài rất vui khi đi Kazakhstan.
Sứ thần Tòa Thánh Srancis Assisi Chullikatt và tổng thống Cộng hòa Kazakhstan Kassym-Jomart Tokaïev ra đón ngài tại sân bay. Trái ngược với truyền thống, lễ đón không diễn ra trên đường băng mà bên trong sân bay trong phòng chờ VIP. Vì thế ngài không phải xuống máy bay bằng thang máy như ngài đã xuống trong hai chuyến tông du trước đó, mà đi xe cầu.
Sau đó, Đức Phanxicô đến dinh tổng thống Ak Orda và sẽ gặp riêng nguyên thủ quốc gia lúc 6:45 giờ chiều, giờ địa phương. Kế đó ngài dự cuộc họp cuối cùng trong ngày ở Phòng hòa nhạc Qazaq lúc 7:30 tối để gặp các nhà chức trách chính trị, ngoại giao và tôn giáo của đất nước. Nhân dịp này, ngài sẽ có bài phát biểu đầu tiên.
Lúc 8 giờ Lúc 8 giờ tối ngài sẽ về tòa sứ thần tòa thánh, nơi ngài sẽ ngủ trong hai đêm ở Nur-Sultan. Ngày thứ tư, ngài sẽ dự Đại hội VII các nhà lãnh đạo của các tôn giáo truyền thống và thế giới
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
ĐTC tại Kazakhstan: Đừng quen thuộc với chiến tranh
Sau khi cảm ơn Giáo hội địa phương đã chuẩn bị cho Thánh lễ và chuyến viếng thăm của ngài, cũng như bày tỏ lòng biết ơn chính quyền Kazakhstan và chào các lãnh đạo tôn giáo và mọi người hiện diện trong Thánh lễ, Đức Thánh Cha mời gọi kết hợp thiêng liêng với đền thánh địa cuốc gia Nữ vương Hòa bình ở Oziornoje trong Ngày lễ Suy tôn Thánh Giá được cử hành trọng thể vào ngày 14 tháng 9.
Lòng biết ơn trở thành lời cầu xin hoà bình
Ngài nhắc lại rằng các từ "Biết ơn người dân Kazakhstan" và "Hòa bình cho nhân loại" được khắc trên cây thánh giá lớn tại Thánh địa Quốc gia.
Được truyền cảm hứng từ những lời đó, Đức Thánh Cha nói rằng “lòng biết ơn Chúa về dân thánh của Chúa sống trong đất nước vĩ đại này, kết nối với lòng biết ơn vì cam sự dấn thân thúc đẩy đối thoại, trở thành lời cầu xin cho hòa bình, hòa bình mà thế giới của chúng ta vô cùng khao khát."
Cầu nguyện cho các vùng bị xâu xé bởi chiến tranh
Đức Thánh Cha không quên nghĩ đến nhiều nơi đang bị chiến tranh tàn phá, đặc biệt là đất nước Ucraina thân yêu. Từ đó ngài nhắn nhủ: “Chúng ta đừng quen với chiến tranh, đừng cam chịu sự tất yếu của nó. Chúng ta hãy giúp đỡ những người đau khổ và cố gắng không mệt mỏi để mọi người thực sự cố gắng đạt được hòa bình.”
Khẳng định rằng “Lối thoát duy nhất là hòa bình và cách duy nhất để đạt được điều đó là đối thoại”, Đức Thánh Cha mời gọi tiếp tục cầu nguyện để thế giới sẽ học cách xây dựng hòa bình, cũng bằng cách hạn chế chạy đua vũ trang và bằng cách chuyển những chi phí chiến tranh khổng lồ thành hỗ trợ cụ thể cho người dân. Ngài kết thúc với lời “Cảm ơn tất cả những người tin tưởng vào điều này, cảm ơn anh chị em và tất cả những người là sứ giả của hòa bình và thống nhất!”
Hồng Thủy - Vatican News
Hoạt động của Đức Thánh cha tại Kazakhstan ngày 15 tháng Chín
Thứ Năm, ngày 15 tháng Chín, là ngày thứ ba và cũng là ngày chót trong chuyến tông du của Đức Thánh cha tại Kazakhstan. Ban sáng tại nhà nguyện Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Nur Sultan, ngài sẽ cử hành thánh lễ riêng lúc 7 giờ, rồi gặp riêng các tu sĩ Dòng Tên hiện diện tại Kazakhstan vào lúc 9 giờ. Tiếp đến, lúc 10 giờ, ngài sẽ đến nhà thờ chính tòa Đức Mẹ hằng cứu giúp cách đó hơn 4 cây số để gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ.
Ban chiều, lúc 3 giờ, Đức Thánh cha trở lại Tòa nhà Độc Lập để tham dự buổi công bố Tuyên ngôn chung kết của Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới. Một giờ sau đó, Đức Thánh cha ra phi trường để đáp máy bay trở về Roma.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha tại Kazakhstan: Các tôn giáo là thành phần của giải pháp cho sự sống chung hòa hợp hơn
Thứ Tư, 14 tháng Chín, ngày thứ hai trong chuyến tông du của Đức Thánh cha Phanxicô tại Cộng hòa Kazakhstan. Đức Thánh cha có hai hoạt động chính: tham dự buổi khai mạc Hội nghị kỳ VII các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới vào ban sáng; và ban chiều, cử hành thánh lễ cho các tín hữu Công giáo, cũng là thánh lễ duy nhất cho công chúng trong chuyến tông du này.
Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo
Từ 19 năm qua, tức là từ năm 2003, chính phủ Kazakhstan đã tổ chức sáu Hội nghị các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới, cứ ba năm một lần, về sự đóng góp của các tôn giáo cho hòa bình và sự hòa hợp trên thế giới. Nhưng phải nhận rằng dư luận quần chúng ít chú ý đến các hội nghị này, tuy rằng con số các phái đoàn từ các nước đến tham dự gia tăng với thời gian. Hội nghị đầu tiên năm 2003 có số tham dự ít. Ba năm sau, 2006, có 29 đoàn từ 20 nước. Hội nghị năm 2009 được 77 đoàn từ 35 nước. Sang đến Hội nghị thứ lần thứ tư năm 2012 được có 85 đoàn từ 40 nước đến dự. Năm 2015, con số này hầu như đứng yên. Hội nghị lần thứ sáu hồi năm 2018 có 82 phái đoàn từ 42 nước và bàn về đề tài: “Các tôn giáo thế giới cho một thế giới an ninh”.
Trong sáu Hội nghị trước đây, lần nào Tòa Thánh cũng gửi một phái đoàn cấp cao do một hồng làm trưởng đoàn, đến tham dự. Lần này, Tổng thống đã mời được Đức Thánh cha đích thân đến dự, cùng với hơn 100 đoàn từ 50 quốc gia.
Hội nghị kỳ VII bàn về vai trò các vị lãnh đạo thế giới và các truyền thống tôn giáo trong sự phát triển tinh thần và xã hội của nhân loại thời hậu đại dịch. Đề tài này bao gồm bốn phần:
Trước tiên là vai trò các tôn giáo trong việc thăng tiến các giá trị tinh thần và văn hóa trong thế giới tân tiến hiện đại. Tiếp đến là vai trò của giáo dục và sự soi sáng tôn giáo trong việc tăng cường sự sống chung hòa bình, trong tinh thần tôn trọng giữa các tôn giáo và văn hóa, công lý và hòa bình. Thứ ba là sự đóng góp của các vị lãnh đạo tôn giáo và các nhà chính trị vào việc thăng tiến đối thoại liên tôn và hòa bình thế giới, chống lại trào lưu cực đoan, khủng bố, đặc biệt là nạn khủng bố dựa trên tôn giáo. Sau cùng là sự đóng góp của nữ giới vào an sinh và sự phát triển lâu bền của xã hội và vai trò của các cộng đoàn tôn giáo trong việc hỗ trợ vị thế xã hội của phụ nữ.
Đức Thánh cha tham dự Hội nghị
Rời Tòa Sứ thần lúc 9 giờ 40 phút sáng 14 tháng Chín, Đức Thánh cha đến Tòa nhà Độc Lập nơi diễn ra Hội nghị. Tòa nhà vĩ đại này có hình thang, tọa lạc ở quảng trường trung tâm thủ đô Nur-Sultan, bọc kiếng màu xanh dương, có ba lầu, với diện tích trên 40.000 mét vuông. Lầu một dành làm trung tâm báo chí, phòng tiệc và các lễ nghi, một đại thính đường cho các hội nghị, rộng gần 4.800 mét vuông, với những tường lưu động, để nếu cần có thể phân chia thành bốn phòng lớn đều nhau, dành cho các cuộc gặp gỡ, diễn đàn, các Hội nghị quốc tế.
Lầu hai của Tòa nhà Độc Lập hoàn toàn dành cho nghệ thuật, các cuộc triển lãm. Sau cùng lầu ba dành để kể lại lịch sử của Nur-Sultan. Tòa nhà cũng có một phòng chiếu phim và thư viện.
Tại Hội trường, có một bàn tròn lớn với Đức Thánh cha và cạnh ngài là Tổng thống Tokayev, các vị trưởng phái đoàn tôn giáo ngồi quanh, trong khi các bộ trưởng, các thành viên phái đoàn tôn giáo khác, cũng như các tham dự viên ngồi ở khu vực quanh bàn tròn.
Lúc 10 giờ, Đức Thánh cha đã cùng với các vị lãnh đạo tôn giáo hiện diện cầu nguyện trong thinh lặng, trước khi Tổng thống Tokayev chính thức đọc diễn văn khai mạc Hội nghị. Ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các tôn giáo trong việc xây dựng hòa bình thế giới.
Diễn văn của Đức Thánh cha
Đức Thánh cha lên tiếng lúc 10 giờ 30, giờ địa phương, và ngài nói bằng tiếng Ý. Ngay trong lời mở đầu bài diễn văn, Đức Thánh cha chào mọi người, các vị lãnh đạo tôn giáo và chính quyền, bằng lời xưng hô quen thuộc: “Thưa anh chị em!” để nói lên xác tín về tình huynh đệ liên kết tất cả mọi người với nhau, trong tư cách là con của cùng một Trời.
Đức Thánh cha nói: “Đặc tính cùng là thụ tạo của chúng ta tạo nên một đặc tính chung, một tình huynh đệ thực sự. Nó nhắc nhở chúng ta rằng ý nghĩa cuộc sống không thể thu hẹp vào những lợi lộc cá nhân của chúng ta, nhưng được ghi trong tình huynh đệ, là điều làm cho chúng ta nổi bật. Chúng ta chỉ tăng trưởng với người khác và nhờ người khác”.
Trong bài diễn văn, Đức Thánh cha nhiều lần trưng dẫn người cha của nền văn chương mới, nhà giáo và là nhà sáng tác âm nhạc nổi tiếng của Kazakhstan, đó là ông Abai (1845-1904) sống vào hậu bán thế kỷ XIX. Các tác phẩm của vị này biểu lộ tâm hồn tốt đẹp nhất của dân tộc Kazakhstan: một sự khôn ngoan hài hòa, mong ước hòa bình, và khiêm tốn tự vấn, tìm kiếm, khao khát một sự khôn ngoan xứng đáng với con người, không bao giờ khép kín trong những quan niệm hẹp hòi. Ông Abai cũng từng nói rằng chúng ta cần giữ cho “tâm hồn tỉnh thức và tâm trí trong sáng” (Parola 6), và Đức Thánh cha nói:
Nêu gương tỉnh thức và trong sáng
“Anh chị em, thế giới đang chờ đợi nơi chúng ta tấm gương về những tâm hồn tỉnh thức và tâm trí trong sáng, thế giới đang chờ đợi lòng đạo đức chân chính. Đã đến giờ thức tỉnh khỏi thái độ cực đoan, duy căn (fondamentalismo) làm ô nhiễm và hao mòn mọi tín ngưỡng. Đã đến lúc làm cho con tim trong sáng, và cảm thương... Tại những nơi này, vốn khét tiếng vì gia sản của chế độ nhà nước vô thần, áp đặt trong nhiều thập niên, với não trạng đàn áp và bóp nghẹt, nguyên việc dùng từ “tôn giáo” cũng đủ gây khó chịu. Trong thực tế, các tôn giáo không phải là vấn đề, nhưng là thành phần của giải pháp cho sự sống chung hòa hợp hơn...”
Thăng tiến tự do tôn giáo
“Để được vậy, điều kiện thiết yếu cho sự phát triển chân thực nhân bản và toàn diện chính là tự do tôn giáo. Anh chị em, chúng ta được dựng nên như những thụ tạo tự do. Đấng Tạo Hóa đã trở nên thành phần của chúng ta. Có thể nói, Ngài đã giới hạn tự do tuyệt đối của Ngài để làm cho chúng ta trở thành những hữu thể tự do. Làm sao chúng ta có thể cưỡng cách các anh chị em chúng ta nhân danh Ngài?... Tự do tôn giáo là một quyền căn bản, chính yếu và bất khả xâm phạm, cần phải thăng tiến khắp nơi và không thể bị thu hẹp vào tự do phụng tự mà thôi. Thực vậy, đó là quyền của mỗi người được làm chứng tá công khai về tín ngưỡng của mình: đề nghị tín ngưỡng ấy nhưng không bao giờ áp đặt... đẩy lùi tín ngưỡng quan trọng nhất trong cuộc sống vào lãnh vực riêng tư thì sẽ làm cho xã hội bị mất một sự phong phú vô biên.
Trong bối cảnh này, Đức Thánh cha ca ngợi sự tôn trọng tự do tôn giáo ở Kazakhstan và hơn nữa quốc gia này còn tổ chức Hội nghị quốc tế quan trọng các vị lãnh đạo tôn giáo từ 20 năm nay. Hội nghị năm nay đề nghị chúng ta suy tư về vai trò của tôn giáo trong việc phát triển tinh thần và xã hội cho nhân loại trong thời hậu đại dịch.
Bốn thách đố
Từ tiền đề trên đây, Đức Thánh cha nói đến bốn thách đố lớn mà tất cả mọi người, đặc biệt là các tôn giáo, được kêu gọi đáp ứng trong sự liên kết các ý hướng.
Chăm sóc trong liên đới
Trước tiên, đại dịch Covid-19 làm chúng ta hiểu rằng mình không phải là thần minh, nhưng là người mong manh, tất cả đều cần trợ giúp, không ai hoàn toàn tự đầy đủ cho mình. Vì thế, chúng ta không thể phá tán nhu cầu liên đới chúng ta đã cảm thấy, để rồi tiếp tục tiến bước như thể không có gì xảy ra, không để cho mình được kêu gọi cùng nhau đáp ứng những nhu cầu cấp thiết liên hệ tới tất cả mọi người. Và các tôn giáo không thể dửng dưng trước nhu cầu này. Chúng ta được kêu gọi đi hàng đầu, thăng tiến một sự đoàn kết trước những thử thách có nguy cơ chia rẽ gia đình nhân loại hơn nữa.
Thách đố này bao hàm điều này là: các tín hữu thời hậu đại dịch được kêu gọi chăm sóc: chăm sóc nhân loại chung, trở thành những người kiến tạo hiệp thông, làm chứng về một sự cộng tác vượt lên trên những rào cản về mặt cộng đồng, chủng tộc, quốc gia hoặc tôn giáo. Để được vậy, cần lắng nghe những người yếu thế hơn, dành tiếng nói cho những người mong manh, nói lên tình liên đới đại đồng, liên hệ trước tiên tới họ, những người nghèo túng đã chịu đau khổ nhiều nhất vi đại dịch...
Xây dựng hòa bình, chống bạo lực
Thách đố thứ hai được đặt ra đặc biệt cho các tín hữu, đó là thách đố hòa bình. Trong những thập niên qua, cuộc đối thoại giữa các vị lãnh đạo tôn giáo đặc biệt xoay quanh đề tài đó, vậy mà chúng ta thấy vấn đề hòa bình vẫn còn đè nặng trên chúng ta. Nếu Đấng Tạo Hóa đã mang lại nguồn gốc cho sự sống con người, làm sao chúng ta có thể, trong tư cách là tín hữu, đồng ý để cho sự sống con người bị hủy diệt?
Nhớ lại những kinh hoàng và những lỗi lầm quá khứ, chúng ta hãy liên kết nỗ lực để không bao giờ Đấng Toàn Năng trở thành con tin của ý muốn quyền lực phàm nhân. Học giả Abai đã nhắc nhớ rằng “người nào để cho sự ác xảy ra mà không chống lại sự ác, thì không thể được coi là tín hữu chân chính, nhưng cùng lắm thì họ chỉ là một tín hữu nguội lạnh mà thôi” (Parola 38)... Chúng ta đừng bao giờ biện minh cho bạo lực. Đừng bao giờ để cho điều thánh thiêng bị những gì là phạm tục lợi dụng. Điều thánh thiêng không được là điểm tựa cho quyền lưc và quyền lực không được dựa vào thánh thiêng!
Thiên Chúa là hòa bình và luôn dẫn đến hòa bình, không bao giờ dẫn tới chiến tranh. Vì thế, chúng ta càng cần dấn thân hơn nữa để thăng tiến và củng cố sự cần thiết làm sao để các cuộc xung đột được giải quyết, không phải bằng những lý lẽ võ lực, với võ khí và những đe dọa nhưng bằng những phương thế duy nhất từ Trời Cao và xứng đáng với con người: đó là gặp gỡ, đối thoại, thương thảo kiên nhẫn, tiến hành đặc biệt nghĩ đến các trẻ em và người trẻ thuộc các thế hệ tương lai.
Tình huynh đệ
Thách đố thứ ba Đức Thánh cha nói đến là sự đón tiếp huynh đệ. Ngài nhận xét rằng: Ngày nay có một sự mệt mỏi lớn trong việc chấp nhận hữu thể người. Mỗi ngày có các thai nhi và trẻ em, người di dân và người già bị gạt bỏ. Bao nhiêu anh chị em bị hy sinh trên bàn thờ lợi lộc, được bọc trong hương trầm phạm thánh của sự dửng dưng. Nhưng mỗi hữu thể người là thánh thiêng: nhiệm vụ nhất là của chúng ta của các tôn giáo, là nhắc nhở điều đó cho thế giới! Chưa bao giờ như ngày nay, chúng ta chứng kiến những di chuyển lớn của dân chúng vì chiến tranh, nghèo đói, thay đổi khí hậu, tìm kiếm an sinh mà thế giới hoàn cầu hóa cho biết, nhưng thường khó đạt tới.
Bảo vệ căn nhà chung
Đức Thánh cha cũng nói đến thách đố hoàn vũ cuối cùng là bảo vệ căn nhà chung. Đứng trước những đảo lộn khí hậu cần phải bảo vệ căn nhà này, để nó không phải theo những tiêu chuẩn lợi lộc, nhưng được bảo tồn cho các thế hệ mai sau, chúc tụng Đấng Tạo Hóa. Chúng ta hãy chung nỗ lực trong thách đố này. “Virus như Covid-19, tuy nhỏ bé, nhưng chúng có thể làm hao mòn những tham vọng lớn về sự tiến bộ và thường xảy đến từ thế giới động vật, từ một sự quân bình bị thoái hóa, phần lớn do chúng ta. Ví dụ, chúng ta hãy nghĩ đến nạn phá rừng, buôn bán động vật bất hợp pháp, chăn nuôi cấp tốc. Đó là não trạng khai thác bóc lột tàn phá căn nhà chúng ta đang ở. Hơn nữa nó làm lu mờ viễn tượng tôn giáo và tôn giáo về thế giới mà Đấng Tạo Hóa mong muốn. Vì thế, điều cấp thiết là tạo điều kiện và thăng tiến sự bảo vệ sự sống trong mỗi hình thức của nó”.
Kết thúc bài diễn văn dài của Đức Thánh cha, còn có nhiều bài tham luận khác của các vị lãnh đạo tôn giáo và chính trị, trong đó có Đức Tổng giám mục Antony, Chủ tịch Hội đồng Ngoại vụ tòa Thượng phụ Chính thống Nga, Rabbi trưởng của Do thái giáo, Đại Imam Al Tayyeb của Đền thờ Hồi giáo Al Azhar ở Cairo Ai Cập, ông Guterres Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, v.v.
Lúc 11 giờ 30, Đức Thánh cha cùng với các vị lãnh đạo khác tiến ra gian bên ngoài để chụp hình lưu niệm và giải lao.
Tiếp đến từ lúc 12 giờ, Đức Thánh cha dành một tiếng để gặp gỡ riêng một số vị lãnh đạo tôn giáo, trong khi các vị khác cũng có cơ hội gặp gỡ và trao đổi riêng với nhau.
Sau cùng, Đức Thánh cha trở về Tòa Sứ thần, lúc quá 13 giờ để dùng bữa trưa và nghỉ ngơi.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha cử hành thánh lễ duy nhất tại Kazakhstan
Xem Video : https://youtu.be/_Zcdll4zz_c
Lúc 4 giờ chiều ngày 14 tháng Chín, Đức Thánh cha Phanxicô đã mở lại hoạt động tại Nur-Sultan, với thánh lễ ngài cử hành cho các tín hữu toàn quốc.
Từ Tòa Sứ thần Tòa Thánh, Đức Thánh cha di chuyển tới Khu Triển lãm quốc tế cách đó 7 cây số, nơi đây đã từng đón tiếp cuộc triển lãm Quốc tế Expo 2017, về đề tài “Năng lượng tương lai”, từ ngày 10 tháng Sáu đến ngày 10 tháng Chín năm 2017. Tại đây có các gian hàng nói lên sự hiệu năng về năng lượng, sự lâu bền, có thể đổi mới và những thay đổi khí hậu. 115 quốc gia và 22 tổ chức quốc tế đã tham gia cuộc triển lãm này, thu hút bốn triệu khách viếng thăm, trong đó có 650.000 người đến từ nước ngoài. Tòa Thánh cũng có một gian hàng với chủ đề: “Năng lượng cho công ích: chăm sóc căn nhà chung của chúng ta”.
Quảng trường lớn ở khu Triển lãm có thể đón nhận 10.000 tín hữu. Họ từ các giáo phận ở Kazakhstan và các nước vùng Trung Á, kể cả từ Nga, đã đến đây để dự lễ với Đức Thánh cha. Đặc biệt có phái đoàn Ba Lan, do Đức Tổng giám mục Stanisław Gądecki, Chủ tịch Hội đồng Giám mục, hướng dẫn.
Đến khu vực triển lãm, Đức Thánh cha đã dùng xe mui trần tiến qua các lối đi để chào thăm các tín hữu, trước khi tới nhà mặc áo để chuẩn bị thánh lễ, bắt đầu lúc 4 giờ 45 phút chiều.
Đồng tế với Đức Thánh cha, có hơn 20 hồng y và giám mục, từ Kazakhstan và các quốc gia khác, cùng với khoảng 100 linh mục, nhiều linh mục đến từ các nước lân cận, vì cả nước Kazakhstan chỉ có 104 linh mục triều và dòng.
Thánh lễ Suy tôn thánh giá được cử hành bằng tiếng Latinh và tiếng Nga.
Bài giảng thánh lễ
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha diễn giải ý nghĩa hình ảnh hai con rắn được các bài đọc của ngày lễ nói đến: con rắn cắn và con rắn cứu, để mời gọi các tín hữu gia tăng niềm tín thác nơi tình yêu cứu độ của Chúa. Ngài nói:
Con rắn cắn, tấn công dân đã rơi vào tội lẩm bẩm kêu trách. “Lẩm bẩm chống lại Thiên Chúa không những có nghĩa là nói xấu và than phiền về Chúa, nhưng sâu xa hơn, nó còn có nghĩa là trong tâm hồn người Israel thiếu lòng tín thác nơi Chúa, nơi lời hứa của Người... Quỷ, dưới hình con rắn, cũng đã mê hoặc ông Adong và bà Eva, tạo nên nơi họ sự bất tín nhiệm đối với Thiên Chúa, làm cho họ tin rằng Thiên Chúa không tốt, Chúa ghen tương với tự do và hạnh phúc của họ”.
Đức Thánh cha mời gọi các tín hữu hãy xét mình xem, trong lịch sử bản thân và cộng đoàn, đã xảy ra sự thiếu tín nhiệm đối với Chúa thế nào. Ngài nói: “Bao nhiêu lần, vì thiếu tín nhiệm và đau khổ, chúng ta đã trở nên khô cằn trong các sa mạc của chúng ta, đánh mất mục tiêu của hành trình. Tại quốc gia rộng lớn này với phong cảnh tuyệt với cũng có sa mạc nhiều khi chúng ta mang trong lòng. Có những lúc mệt mỏi và thử thách, trong đó chúng ta không còn sức mạnh để nhìn lên cao, hướng về Thiên Chúa. Có những tình trạng bản thân và xã hội, trong đó chúng ta bị con rắn thiếu tín nhiệm tiêm nọc độc thiếu tín thác, thất vọng, bi quan, cam chịu, khép kín chúng ta trong cái tôi và dập tắt mọi sự hăng say”.
Đức Thánh cha cũng nhắc đến những con rắn lửa khác trong lịch sử đất nước Kazakhstan: nạn bạo lực, những cuộc bách hại do chế độ vô thần, đàn áp tôn giáo, tự do và nhân phẩm của dân tộc bị đe dọa...
Sang đến con rắn cứu thoát tượng trưng bằng con rắn đồng ông Môsê cho đúc theo lệnh của Chúa và treo trên cột để những ai nhìn lên con rắn ấy thì giữ được mạng sống của mình (Ds 21,8), Đức Thánh cha ghi nhận cách hành động của Thiên Chúa và giải thích rằng: “Thời đó cũng như bây giờ, trong trận chiến thiêng liêng to lớn, trong lịch sử cho đến tận thế, Thiên Chúa không tiêu diệt những hèn hạ mà con người tự do theo đuổi: những con rắn độc không biến mất, chúng vẫn còn đó, rình rập, luôn có thể cắn. Nhưng điều gì đã thay đổi, Thiên Chúa làm gì?
“Chính Chúa Giêsu giải thích điều đó trong Tin mừng: “Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng cần được giương cao để tất cả những ai tin nơi Người thì sẽ được sống đời đời” (Ga 3,14-15). Sự thay đổi là con rắn cứu thoát đã đến nơi chúng ta: Chúa Giêsu được nâng cao trên thập giá không để cho những con rắn độc tấn công và dẫn chúng ta đến cái chết. Đứng trước những hèn hạ của chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta một sự cao cả mới: nếu chúng ta hướng nhìn lên Chúa Giêsu, thì những vết cắn của sự ác không thể thống trị chúng ta nữa, vì Chúa trên thập giá đã mang lấy nọc độc của tội lỗi và sự chết, và đã chiến thắng quyền lực tàn hại của nó. Đó là điều Chúa Cha đã làm đứng trước sự ác lan tràn trên thế giới... Sự cao cả vô biên của lòng Chúa Thương Xót là: Chúa Giêsu đã “trở nên tội lỗi” để cứu chúng ta; chúng ta có thể nói Chúa Giêsu, trên thánh giá, đã trở nên “con rắn” để khi nhìn lên Người, chúng ta có thể chống lại những vết cắn độc hại của những con rắn ác độc tấn công chúng ta”.
Và Đức Thánh cha kết luận rằng: con đường cứu độ duy nhất của chúng ta, sự tái sinh và sống lại của chúng ta là nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đanh... Từ thập giá của Chúa Kitô, chúng ta học yêu thương thay vì oán ghét, học cảm thương thay vì dửng dưng, học tha thứ chứ không báo thù. Đôi cánh tay giang rộng của Chúa Giêsu là vòng tay ôm dịu dàng qua đó Thiên Chúa muốn đón nhận cuộc sống chúng ta.
“Trên thập giá, Chúa Kitô đã tước bỏ nọc độc của con rắn ác độc, và là Kitô hữu có nghĩa là sống không có nọc độc: không cắn nhau, không lẩm bẩm, không cáo buộc, nói xấu, gieo rắc những việc gian ác, không làm ô nhiễm thế giới với tội lỗi và sự thiếu tín nhiệm đến từ Ma Quỷ. Anh chị em, chúng ta đã được tái sinh từ cạnh sườn mở toang của Chúa Giêsu trên thập giá: ước gì nơi chúng ta không có nọc độc chết chóc nào (Xc Kn 1,14). Trái lại, chúng ta hãy cầu nguyện để nhờ ơn Chúa, chúng ta ngày càng có thể trở thành Kitô hữu hơn: những chứng nhân vui tươi về đời sống mới, yêu thương, an bình”.
Lời kêu gọi cuối lễ
Cuối thánh lễ, Đức Tổng giám mục Tomash Peta của Giáo phận Astana Nur-Sultan sở tại, đã ngỏ lời chào mừng và cám ơn Đức Thánh cha. Và ngài đáp từ, cám ơn Đức Tổng giám mục vì tất cả công trình chuẩn bị thánh lễ này. Đức Thánh cha không quên cám ơn chính quyền đạo đời của Kazakhstan hiện diện trong buổi lễ, đặc biệt những vị đến từ những nước Trung Á khác.
Ngài bày tỏ tình liên kết với Đền thánh quốc gia Đức Mẹ Hòa Bình ở Ozyornoye, như Đức ông Tomash đã nhắc, tại đền thánh ấy có cây thánh giá lớn, trên đó có ghi hàng chữ “cám ơn nhân dân Kazakhstan và những người hòa bình. Cám ơn Chúa vì dân thánh của Chúa sống tại đại quốc này, cùng với sự dấn thân thăng tiến đối thoại, biến thành lời khẩn cầu hòa bình mà thế giới chúng ta khao khát”.
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Tôi nghĩ đến bao nhiêu nơi đang bị tàn phá vì chiến tranh, nhất là tại Ucraina yêu quý. Chúng ta đừng trở nên quen thuộc với chiến tranh, đừng cam chịu với sự không tránh được chiến tranh. Hãy cứu giúp những người đau khổ và quyết liệt yêu cầu cố gắng đạt tới hòa bình. Điều gì còn phải xảy ra nữa, bao nhiêu người chết nữa, trước khi những đối nghịch nhường chỗ cho đối thoại để mưu ích cho dân chúng, cho các dân tộc và nhân loại? Con đường duy nhất để ra khỏi tình trạng như thế là hòa bình và là con đường duy nhất để đạt tới chính là đối thoại”.
Sau cùng, Đức Thánh cha mời gọi mọi người tiếp tục cầu nguyện để thế giới học xây dựng hòa bình, giới hạn sự chạy đua võ trang, và biến những chi phí khổng lồ cho chiến tranh thành những hỗ trợ cụ thể cho dân chúng. Xin cám ơn tất cả những người tin nơi điều đó, cám ơn anh chị em và tất cả những người là sứ giả hòa bình và hiệp nhất!”
Thánh lễ kết thúc lúc quá 6 giờ chiều và Đức Thánh cha trở về Tòa Sứ thần Tòa Thánh để dùng bữa và qua đêm.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Phanxicô và thượng phụ Kyrill: xem lại cuộc gặp hụt ở Kazakhstan
cath.ch, I.Media, 2022-09-12
Đức Phanxicô và thượng phụ chính thống giáo Nga Kyrill ký một tuyên bố chung trong cuộc họp tại Sân bay Quốc tế Jose Marti, ngày 12 tháng 2 năm 2016, ở Havana. (CNS / Paul Haring)
Đức Phanxicô và thượng phụ Mátxcơva đều đồng ý: “Giáo hội không được dùng ngôn ngữ chính trị, mà phải dùng ngôn ngữ của Chúa Giêsu”. Đức Phanxicô và thượng phụ Mátxcơva Kyrill lẽ ra phải gặp nhau tại Nur-Sultan, thủ đô Kazakhstan, nhân dịp đại hội liên tôn diễn ra ngày 14 và 15 tháng 9 năm 2022. Dù Tòa Thượng phụ Matxcova thông báo thượng phụ Kyrill sẽ không đi Kazakhstan nhưng Vatican đảm bảo các con đường vẫn được mở cho cuộc gặp thứ hai giữa Đức Phanxicô và thượng phụ Kyrill trong trung hạn.
Nur-Sultan có thể đã thành nổi tiếng vì chủ trì cuộc họp thứ hai giữa Thượng phụ Mátxcơva và Giám mục Rôma. Thủ đô Kazakhstan có nhiều lợi điểm để có thể có cuộc gặp này qua việc tổ chức Đại hội VII các nhà lãnh đạo các tôn giáo truyền thống trên thế giới, một lý do chính đáng cho cuộc gặp giữa hai nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng cuộc chiến ở Ukraine và quan hệ xấu đi giữa Rôma và Matxcova làm cho cuộc gặp này không thành, sáu năm sau cuộc gặp lịch sử ở Cuba.
Ngoại giao che giấu?
Nếu chuyến đi Kazakhstan của thượng phụ Kyrill chưa bao giờ được chính thức loan báo, nhưng một trong những người tổ chức hội nghị thượng đỉnh đã nói với hãng tin Astana Times, thượng phụ Kyrill có mặt trong số những người tham dự, nên khi ngày 24 tháng 8, người đứng đầu Sở Ngoại vụ tòa thượng phụ Matxcơva, giáo chủ Anthony của Volokolamsk thông báo thượng phụ Kyrill sẽ không đến Nur-Sultan, tin này đã làm cho Vatican xem như có một che giấu.
Người ta thì thầm ở Vatican, “Thật là thất vọng” dù Vatican biết tình hình hiện tại “quá căng thẳng ở cấp độ quốc tế nên quyết định này có thể hiểu được”. Ở Vatican, người ta cũng nhắc lại, Đức Phanxicô đến Kazakhstan là đáp lại lời mời của tổng thống Kazakhstan và cũng để gặp các tín hữu công giáo ở vùng ngoại vi của Giáo hội. Một nguồn tin ngoại giao cho biết, “không có sự hiện diện của thượng phụ Kyrill, chuyến đi này của giáo hoàng sẽ mất đi sự quan tâm của nó”.
Vatican không chính thức nói gì về việc này. Ông Matteo Bruni, giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa Thánh chỉ đơn giản nhắc lại Đức Phanxicô “bày tỏ mong muốn” được gặp thượng phụ Kyrill, nhưng không nói gì thêm.
Cuộc chiến ở Ukraine đã làm tổn hại các mối quan hệ như thế nào
Một người rành chủ đề này tóm tắt: “Kazakhstan có vẻ là một cơ hội tốt, nhưng cuộc chiến ở Ukraine đã làm mọi chuyện thành phức tạp.” Ngay sau cuộc xâm lược Ukraine, Đức Phanxicô và thượng phụ Kyrill đã nói chuyện với nhau qua video trong khoảng bốn mươi phút. Nhưng giọng điệu của cuộc họp đã làm Đức Phanxicô bối rối.
Trong cuộc họp báo với nhật báo Ý Il Corriere della Sera, Đức Phanxicô nói: “Thượng phụ Kyrill dành hai mươi phút đầu tiên để đọc tất cả lý do biện minh cho cuộc chiến. Tôi lắng nghe và nói: tôi không hiểu chuyện gì trong những điều thượng phụ nói. Chúng ta không phải là giáo sĩ của nhà nước. Thượng phụ không thể là người giúp lễ của Putin.”
Sau đó hồng y Kurt Koch, người rất kín đáo đứng đầu Hội đồng Tòa Thánh về Hiệp nhất các Kitô hữu cũng gây bất ngờ khi ngài dùng những lời lẽ gay gắt chống lại thượng phụ. Trong cuộc phỏng vấn với phương tiện truyền thông Đức Die Tagespost, ngài nhấn mạnh: “Lời biện minh mang tính ngụy-tôn giáo của thượng phụ Kyrill làm xáo động tinh thần đại kết.” Sau đó, ngài nói, “đây là dị giáo khi thượng phụ dám hợp pháp hóa cuộc chiến tàn bạo và phi lý ở Ukraine”.
Lạnh nhạt nghiêm trọng
Trong một tuyên bố, tòa thượng phụ Mátxcơva cho biết họ lấy làm tiếc về “giọng điệu không chính xác” mà Đức Phanxicô đã dùng trong cuộc phỏng vấn với nhật báo Il Corriere della Sera. Họ cho rằng các tuyên bố của giáo hoàng “đóng góp vào việc thiết lập một cuộc đối thoại mang tính xây dựng giữa Giáo hội công giáo la-mã và Giáo hội chính thống Nga là đặc biệt cần thiết trong thời điểm này”.
Sự lạnh nhạt giữa Rôma và Matxcova ngày càng gia tăng với việc hủy bỏ một cuộc gặp được cho là sẽ ở Giêrusalem tháng 6 vừa qua. Đức Phanxicô trả lời trong một cuộc phỏng vấn với báo La Nación của Argentina: “Tôi lấy làm tiếc Vatican đã phải đình chỉ dự án cuộc gặp thứ hai với thượng phụ Kyrill mà chúng tôi đã lên lịch vào tháng 6 tại Giêrusalem.” Và để giải thích một cách ngắn gọn lý do của quyết định này: “Bộ ngoại giao của chúng tôi hiểu rằng, một cuộc gặp giữa hai bên vào thời điểm này có thể dẫn đến nhiều hoang mang”.
Theo người Nga, công thức Kazakhstan không phù hợp
Trong bối cảnh chiến tranh Ukraine và việc không đúng lúc cho cuộc gặp của hai người, Đức Phanxicô mong có thể thấy người đứng đầu Giáo hội chính thống Nga giữa các nhà lãnh đạo tôn giáo khác. Nhưng lần này chính Matxcova khép lại khả năng này. Thông qua hãng thông tấn Nga RIA Novosti, ngày 24 tháng 8, người đứng đầu Sở Ngoại vụ Tòa Thượng phụ Matxcơva, giáo chủ Anthony của Volokolamsk thông báo thượng phụ Kyrill sẽ không đến Nur-Sultan. Nhân cơ hội này, ông nhắc việc Vatican đang tạm dừng công việc chuẩn bị cho cuộc họp ở Giêrusalem. Ông nói, “một bất ngờ lớn”. Và để đảm bảo không có đề nghị nào khác từ Vatican đến văn phòng tòa thượng phụ. Cuối cùng “bộ trưởng” của Ủy ban ngoại giao của tòa thượng phụ Matxcova đã đưa ra các điều kiện để một cuộc họp mới có thể diễn ra, “phải được chuẩn bị với sự cẩn thận cao nhất, chương trình nghị sự của phải được thống nhất, tài liệu kết quả phải được suy nghĩ trước.”
Hướng tới một cuộc gặp tiếp theo?
Do đó hội nghị thượng đỉnh Nur-Sultan sẽ không đi vào lịch sử vì đã làm cho hai nhà lãnh đạo tôn giáo gặp lại nhau lần thứ hai. Nhưng cũng sẽ rất đáng kể để xem các phái đoàn Nga và Rôma sẽ tương tác với nhau như thế nào.
Tại Rôma, mọi người nhấn mạnh các mối quan hệ chưa bao giờ bị gián đoạn và đã có một chặng đường rất dài để đưa tới cao điểm là cuộc gặp năm 2016 ở Havana – một cuộc gặp lịch sử từng được hy vọng vào năm 2014 và sau đó là vào năm 2015. Người ta cũng nhắc lại Giáo hội chính thống Nga vẫn bị phong trào chống-đại kết và chống-công giáo lấn át; phải tính đến những áp lực nhiều như thế nào để hiểu thái độ của thượng phụ Kyrill, người bị chính nội bộ chỉ trích sau cuộc gặp ở Cuba. Một nguồn tin của Vatican khẳng định: “Một động lực được đưa ra, được thúc đẩy bởi mong muốn chung”, thậm chí còn hình dung một cuộc họp có thể xảy ra vào năm tới.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Hồng Y Marx: “Chúng tôi không muốn viết lại giáo điều, chúng tôi muốn thúc đẩy thảo luận”
la-croix.com, Delphine Nerbollier, Frankfurt, 2022-09-12
Ngày áp chót của con đường thượng hội đồng Đức đánh dấu với những căng thẳng xung quanh bản văn biện hộ cho sự tiến hóa của đạo đức tình dục trong Giáo hội. Theo hồng y Reinhard Marx, tổng giám mục Munich và Freising, chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức (từ 2014 đến 2020) và là người khởi xướng con đường thượng hội đồng, đây là một phần của sự thay đổi mô hình cần thiết mà Giáo hội Đức mong muốn.
Văn bản về luân lý tình dục được trình bày ngày 8 tháng 9 trước thượng hội đồng đã không đạt được hai phần ba số phiếu của các giám mục có mặt. Trong số những điều khác, bản văn công nhận sự bình đẳng và hợp pháp của các khuynh hướng không phải dị tính và “có thể được Chúa chúc lành như Giáo hội đã hứa cách rõ ràng” cho các cặp đồng tính cũng như cho người ly dị tái hôn.
Phỏng vấn hồng y Reinhard Marx
Cha giải thích như thế nào về việc không đạt được đa số hai phần ba như yêu cầu?
Hồng y Reinhard Marx: Bản văn này đang gây tranh cãi và cần thảo luận thêm trong Giáo hội hoàn vũ, nhưng nó quan trọng và chúng ta không thể bỏ chủ đề này qua một bên. Đó là sự thay đổi mô hình và quan điểm trong đạo đức tình dục và đạo đức xã hội. Đây là một quá trình. Chúng tôi sẽ nói về vấn đề này một lần nữa trong hội đồng giám mục. Tôi cũng muốn nhắc lại văn bản này đã được hơn 80% thành viên của thượng hội đồng chấp nhận và chỉ có 62% giám mục chấp nhận.
Cha nghĩ tuyên bố do Văn phòng Báo chí Tòa Thánh gởi tháng bảy có đóng vai trò nào trong việc bác bỏ văn bản này?
Việc trả lời câu hỏi này là tùy thuộc vào mỗi giám mục. Tôi nghĩ mỗi giám mục đã có quan điểm của họ trước khi văn bản này được công bố. Một số giám mục nói lên, một số khác ít hơn. Trong cuộc họp thượng hội đồng này, một số cảm thấy bị áp lực hơn một chút để nói lên. Thực tế là chúng tôi cần cởi mở với nhau hơn và biện minh cho lập trường của mình. Chúng ta không chỉ đại diện cho một ý kiến mà còn phải tranh luận nó.
Tôi không nghĩ thông cáo báo chí đó đóng một vai trò nào đó, bởi vì nó không mang lại bất kỳ một yếu tố mới nào. Không ai trong chúng tôi muốn thay thế giáo hoàng, thay thế giáo luật, hoặc viết lại giáo điều của Giáo hội. Những gì chúng tôi muốn là đặt câu hỏi, tranh luận, đưa cuộc thảo luận tiến về phía trước. Chúng ta là một phần của Giáo hội hoàn vũ. Chúng tôi có sứ mệnh mang đến cho Giáo hội tất cả những yếu tố mà theo chúng tôi là quan trọng.
Có khó khăn cho các giám mục khi đối đầu với quá nhiều thần học gia, giáo dân, trong hành trình đồng nghị này không?
Tại Đức, chúng tôi có một truyền thống lâu đời về sự hiện diện của giáo dân, nam nữ, các giáo sư thần học, đặc biệt là trong các ủy ban thượng nghị của các giáo phận. Vì thế, hầu hết các giám mục đã quen với việc giáo dân mâu thuẫn với họ. Nhưng tất nhiên, điều đó không phải cho tất cả mọi người. Một số giám mục vẫn chưa hội nhập với sự thay đổi quan điểm mà tính đồng nghị cần có. Đó cũng là một quá trình.
Con đường thượng hội đồng Đức có thể đóng góp như thế nào cho Thượng hội đồng Thế giới?
Tôi có ấn tượng một số, ở Rôma và ở những nơi khác quan sát con đường của thượng hội đồng Đức với một e ngại nào đó. Chẳng hạn chúng tôi đã nhận được thư của các giám mục từ Ba Lan, Hoa Kỳ và Hội đồng Giám mục Bắc Âu. Do đó, điều quan trọng là chúng tôi phải trình bày những bản văn đã được lập luận và làm việc rất tốt về mặt thần học.
Trong phiên họp thứ tư này của hành trình thượng hội đồng, chúng tôi đã thông qua các văn bản về khả năng thành lập một hội đồng đồng thẩm quyền ở Đức và về vị trí của phụ nữ trong Giáo hội, với sự ủng hộ của hai phần ba giám mục. Đây là những chủ đề tuyệt đối ưu tiên cho Giáo hội hoàn vũ. Những văn bản này chắc chắn sẽ sớm được dịch sang các ngôn ngữ khác và có thể có ảnh hưởng đến cuộc thảo luận ở những nơi khác trên thế giới.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
“Con đường thượng hội đồng Đức”: bị mắc kẹt…
pillarcatholic.com, Luke Coppen, 2022-09-09
Khóa họp thứ tư của thượng hội đồng Đức từ ngày 8 đến 10 tháng 9-2023
“Con đường thượng hội đồng” Đức (Chemin synodal) tiếp tục chương trình bỏ phiếu sau một ngày bi thảm ở Frankfurt. Sáng kiến bị rơi vào khủng hoảng sau khi một văn bản về đạo đức tình dục không có được hai phần ba số phiếu của các giám mục. Sau khi công bố biểu quyết, đã có phản đối và một số người tham dự rời phòng họp.
Bà Irme Stetter-Karp, chủ tịch Ủy ban Trung ương Giáo dân Đức (Zdk) cho biết các giám mục phản đối văn bản lẽ ra họ phải bày tỏ sự phản đối rõ ràng hơn trong các cuộc tranh luận trước đây. Nhưng những người ủng hộ của nhóm thiểu số cho rằng có một bầu khí đe dọa tại đại hội.
Con đường thượng hội đồng là sáng kiến kéo dài nhiều năm, quy tụ các giám mục và giáo dân để thảo luận về bốn chủ đề chính: quyền lực, chức tư tế, phụ nữ trong Giáo hội và tình dục. Vatican đã nhiều lần can thiệp vào quá trình này, vì sợ con đường này làm đảo lộn giáo huấn và cấu trúc đã được thiết lập của Giáo hội.
Theo truyền thông công giáo Đức, chủ tịch hội đồng giám mục Đức, giám mục Georg Bätzing, đã thông báo vào sáng thứ sáu ngày 9 tháng 9, ngài sẽ trình bày văn bản bị bác bỏ tại cuộc họp ad limina của các giám mục Đức ở Rôma tháng 11 và tại thượng hội đồng về hiệp hành tại Rôma năm tới. Chuyến đi “ad limina Apostolorum” là cuộc gặp của mỗi giám mục địa phương trên thế giới với giáo hoàng để ngài nắm rõ tình hình của giáo phận giám mục đó.
Tổng giám mục nói thêm, ngài cũng sẽ tìm cách thực hiện văn bản tại giáo phận Limburg của ngài và “tôi biết một số giám mục cũng sẽ làm như vậy.”
Ngày thứ năm 8 tháng 9, ngày đầu tiên của cuộc họp kéo dài ba ngày, các đại biểu đã được lên kế hoạch để thảo luận về một tài liệu dài 31 trang có tiêu đề “Phụ nữ trong các Bộ và Văn phòng của Giáo hội.” Nhưng cuộc tranh luận đã bị hoãn lại.
Tài liệu ghi, “trong nhiều thế hệ, nhiều phụ nữ hiểu họ được Chúa gọi để làm phó tế hoặc linh mục” và “trong tương lai, giới tính không còn là yếu tố quyết định cho các chức vụ, mà là ơn gọi, khả năng và kỹ năng phục vụ cho việc loan báo Tin Mừng trong thời đại chúng ta.”
Cuối buổi sáng thứ sáu, các thành viên của con đường thượng hội đồng đã xem văn bản sau khi trình bày báo cáo về cuộc chiến chống lạm dụng tình dục. Những người ủng hộ văn kiện về phụ nữ trong các bộ đã nhiều lần đề cập đến thiểu số của con đường thượng hội đồng, xin họ lên tiếng phản đối, đồng thời cố gắng lường trước và xoa dịu những lo ngại của họ.
Sau đó cuộc họp được hoãn lại để dự thánh lễ và ăn trưa. Cuộc họp thảo luận sẽ tiếp tục vào buổi chiều.
Sau khi bỏ phiếu, hội đồng nghiên cứu một bản văn dài 20 trang có tựa đề “Sự hiện hữu của linh mục ngày nay”.
Bản văn kêu gọi “chức vụ linh mục phải hòa nhập thực sự vào văn hóa của xã hội đương đại” vì cuộc khủng hoảng lạm dụng đã tác động tàn khốc lên Giáo hội Đức.
Những người tham gia cũng sẽ bỏ phiếu cho một tài liệu có tiêu đề “Đánh giá lại đồng tính trong Huấn quyền” đề xuất những thay đổi giáo lý của Giáo hội công giáo, cũng như một đề xuất gây tranh cãi về việc thành lập “hội đồng thẩm quyền thường trực” gồm các giám mục, giáo dân để giám sát Giáo hội Đức.
Tổng cộng có 14 tài liệu sẽ được thảo luận, trong đó 5 tài liệu cho lần bỏ phiếu đầu tiên và 9 tài liệu cho lần đọc thứ hai, nhưng không chắc có khả thi hay không trước khi cuộc họp kết thúc vào ngày thứ bảy. Một khi các tài liệu được đọc lần thứ nhì, các tài liệu này sẽ được chính thức hóa thông qua như những quyết tâm của con đường thượng hội đồng.
Hội nghị Frankfurt sẽ được tiếp tục với những cuộc họp nhỏ hơn của các thành viên bốn “diễn đàn đồng nghị”, mỗi diễn đàn dành cho một trong bốn chủ đề chính của sáng kiến. Theo kế hoạch, tất cả những người tham gia sẽ gặp lại nhau tại Frankfurt từ ngày 9 đến 11 tháng 3 năm 2023, để bỏ phiếu cuối cùng về các tài liệu còn lại của đường lối thượng hội đồng.
Theo hãng tin Catholic News Agency, CAN, sau khi tài liệu về chủ đề tình dục bị chận ở thượng hội đồng Đức, các nhà tổ chức đã bất bình và hứa sẽ “mang nó đến Rôma”.
Một trong hai chủ tịch của con đường thượng hội đồng là giám mục Georg Bätzing bày tỏ “thất vọng cá nhân” rằng một thiểu số giám mục đã ngăn cản việc chính thức hóa tài liệu kêu gọi thay đổi giáo huấn Giáo hội về đồng tính, lưỡng tính, bản sắc giới tính và thủ dâm.
Hãng tin CNA Đức đưa tin, trong khi 83% thượng hội đồng ở Frankfurt bỏ phiếu ủng hộ việc thông qua văn bản có tiêu đề “Sống trong các mối quan hệ thành công”, thì chỉ có khoảng 61% giám mục bỏ phiếu cho chủ đề về tình dục. Vì thế tài liệu này không đạt được đa số 2/3, vì có 21 giám mục bác bỏ văn bản và 3 giám mục bỏ phiếu trắng, có 33 giám mục đã bỏ phiếu cho việc thông qua tài liệu. Theo quy chế của tiến trình Đức, không chỉ hai phần ba số thành viên có mặt phải bỏ phiếu ủng hộ một văn bản để được chính thức thông qua, mà hai phần ba số giám mục có mặt cũng phải bỏ phiếu thuận.
Tổng giám mục Georg Bätzing cho biết bài bị từ chối lại là bài viết của con đường thượng hội đồng “vì thế chúng tôi sẽ đưa lên cấp độ Giáo hội hoàn vũ khi chúng tôi đến Rôma trong trong chuyến đi ad limina tháng 11 và khi chúng tôi chuẩn bị cho Thượng Hội đồng Thế giới với các Hội đồng Giám mục lục địa vào tháng 1-2023.
Kết quả cuộc bỏ phiếu ngày 8 tháng 9 đã tạo nhiều xúc động trong phòng họp ở Frankfurt, một số người tham dự chỉ trích các giám mục không bày tỏ trước khi bỏ phiếu chống tài liệu.
Sau cuộc bỏ phiếu kín ngày thứ năm 8 tháng 9, nhiều giám mục cho biết họ không lên tiếng trước vì sợ tạo áp lực cho thượng hội đồng.
Ngày thứ sáu, bà Irme Stetter-Karp, chủ tịch Ủy ban Trung ương người Công giáo Đức (ZdK) và đồng chủ tịch Synodal Way đã chỉ trích lời giải thích là “than van” và “hơi bất lực”.
Bà nói: “Mong muốn của tôi là thấy Hội đồng Giám mục có phản ứng sau những gì đã xảy ra ngày hôm qua, tôi mong giao tiếp thay đổi, mọi người nói chuyện trong tinh thần cởi mở.”
Tổng giám mục Georg Bätzing và bà Irme Stetter-Karp, chủ tịch Ủy ban Trung ương người Công giáo Đức
Tài liệu về vấn đề tình dục chỉ là một trong nhiều tài liệu gây tranh cãi. Các tài liệu kêu gọi truyền chức cho phụ nữ và chấm dứt bậc sống độc thân cho các linh mục cũng nằm trong chương trình nghị sự, cũng như việc thành lập một Hội đồng Thượng Hội đồng thường trực.
Sáng kiến này, sẽ tạo ra một cơ quan thường trực chịu trách nhiệm giám sát Giáo hội ở Đức, nằm trong chương trình nghị sự cho cuộc họp ngày thứ sáu 9 tháng 9.
Ngay từ đầu, quy trình của Đức – còn được gọi là “con đường thượng hội đồng”, dù đây không phải là thượng hội đồng – đã phải chịu sự giám sát chặt chẽ.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Đức Thánh cha lên đường viếng thăm Kazakhstan
Sáng sớm hôm 13 tháng Chín năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô đã lên đường thực hiện chuyến tông du lần thứ 38 trong triều đại Giáo hoàng của ngài, tại Nur-Sultan, thủ đô Cộng hòa Kazakhstan, cho đến chiều ngày 15 tháng Chín tới đây, với mục đích tham dự Hội nghị Lần thứ VII các vị lãnh đạo Thế giới và các truyền thống tôn giáo, và viếng thăm cộng đoàn Giáo hội Công giáo địa phương.
Chiều hôm trước đó, để chuẩn bị tinh thần và cầu xin ơn phù trợ của Mẹ Thiên Chúa, như thói quen, Đức Thánh cha đã đến cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ là Phần Rỗi của dân Roma, trong Đền thờ Đức Bà Cả ở Roma. Tập quán tốt lành này được thực hiện từ khi bắt đầu triều đại Giáo hoàng của ngài, tháng Ba năm 2013.
Lúc gần 6 giờ 30 sáng, Đức Thánh cha rời nhà trọ thánh Marta ở nội thành Vatican để ra phi trường quốc tế Fiumicino của thành Roma. Tiễn biệt ngài, có các vị hữu trách sân bay và của hãng hàng không Ita Airways.
Cùng đi với Đức Thánh cha trên máy bay Airbus A330, có đoàn tùy tùng, khoảng 30 người, đứng đầu là Đức Hồng y Quốc vụ khanh Pietro Parolin, Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng Paul Gallagher, Đức Hồng y Ayuso, Bộ trưởng Bộ Đối thoại liên tôn, còn có 80 ký giả Ý và quốc tế.
Máy bay cất cánh lúc 7 giờ 36 phút và trực chỉ phi trường thành phố Nur-Sultan của Cộng hòa Kazakhstan, cách Roma hơn 5.600 cây số về hướng đông. Máy bay tránh không phận của Ucraina và Nga, nên chọn con đường ở mạn nam. Từ cuối tháng Hai năm nay, Nga đóng không phận của mình không cho các máy bay từ Liên hiệp Âu châu được bay vào.
Như thói quen, Đức Thánh cha đã chào thăm các ký giả cùng đi và cám ơn họ vì sự kiên nhẫn và trợ giúp trong chuyến đi này. Đức Thánh cha nói: “Tôi cầu chúc anh chị em một chuyến đi tốt đẹp và làm việc cũng tốt đẹp! Chúng ta sẽ nói chuyện với nhau trên đường về! Xin cám ơn và chúc anh chị em một ngày tốt lành”.
Tiếp đó, Đức Thánh cha chống gậy, lần lượt đến chào thăm từng ký giả trên máy bay.
Cuộc viếng thăm của Đức Thánh cha tại Kazakhstan diễn ra đồng thời với chuyến viếng thăm của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại nước này. Các ký giả đã hỏi Đức Thánh cha xem ngài có gặp Chủ tịch Trung Quốc hay không, ngài cho biết là “không có tin tức gì về vấn đề này”, nhưng cho biết ngài sẵn sàng đến thăm Cộng hòa nhân dân Trung Quốc.
Vài nét về đất nước và Giáo hội tại Kazakhstan
Kazakhstan là một lãnh thổ rộng lớn, với hai triệu 970.000 cây số vuông, đứng thứ chín trên thế giới về diện tích, gấp tám lần Việt Nam. Nước này bị sáp nhập vào Nga hồi thế kỷ XVIII, dưới thời Nga Hoàng Catarina Đại Đế. Bà gửi các linh mục Công giáo đến làm việc mục vụ cho các tín hữu công nhân người Đức và Hòa Lan đến khai phá vùng này. Được độc lập ngày 16 tháng Mười Hai năm 1991, sau khi đế quốc Liên Xô tan rã, lãnh thổ Kazakhstan ngày nay chỉ có gần 19 triệu dân cư thuộc 150 sắc dân khác nhau, trong đó 63% là người Kazaki bản xứ, 24% là người Nga và 2% là người Ucraina.
Tuy chính phủ hiện nay muốn dành ưu tiên cho người Kazaki và ngôn ngữ này, nhưng cho đến nay, chỉ có 2% dân số tại Kazakhstan nói tiếng kazaki, và tất cả đều sử dụng tiếng Nga.
Kazakhstan được độc lập năm 1991 sau khi Liên Xô tan rã. Trong thập niên 1990 và sau đó, quyền bính tại nước này dần dần tập trung trong tay Tổng thống Nursultan Nazarbayev, một cựu công chức của chế độ Xô Viết. Ông cai quản Kazakhstan cho đến năm 2019, thì nhường quyền cho Tổng thống Kassym-Jomart Tokayev hiện nay.
Về mặt tôn giáo, Kazakhstan có khoảng 70% dân số là tín hữu Hồi giáo, và Kitô giáo chiếm 26%, trong đó đa số thuộc Chính thống Nga. Cũng có 3% không thuộc tôn giáo nào.
Số tín hữu Công giáo tại Kazakhstan chỉ có khoảng 125.000 người, với một Tổng giáo phận Astana-Nur-Sultan, hai giáo phận thuộc hạt là Almaty và Karaganda, và miền Giám quản Tông tòa Atyrau, tổng cộng có 81 giáo xứ, 146 trung tâm mục vụ. Nhân sự của Giáo hội gồm sáu giám mục, 78 linh mục giáo phận và 26 linh mục dòng, 5 tu huynh và 133 nữ tu. Cũng có 18 thừa sai giáo dân và 50 giáo lý viên.
Số tín hữu Công giáo tại đây quá một nửa là người gốc Ba Lan, phần còn lại là người gốc Ý, Đức, Tây Ban Nha, v.v.
Tuy là thiểu số, nhưng các tín hữu Công giáo đã hiện diện từ thế kỷ XIII tại nước này, và máu các vị tử đạo đã tưới gội tại đây, nhất là trong thế kỷ XX. Trong số các vị tử đạo được Tòa Thánh tôn phong chân phước, hồi cuối tháng Sáu năm 2001, đặc biệt có một giám mục và một linh mục bị giam và chết rũ tù trong các nhà giam gần thành phố Karaganda, mạn trung Kazakhstan, đó là Đức Tổng giám mục Budka và cha Zaricki.
Cuộc viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II
Đức Thánh cha Phanxicô là vị Giáo hoàng thứ hai đến thăm Kazakhstan. Vị đầu tiên là thánh Gioan Phaolô II. Ngài đến thăm nước này trong hơn ba ngày, từ ngày 22 đến ngày 25 tháng Chín năm 2001, trước khi sang thăm nước Armeni. Cuộc viếng thăm của ngài được 500 ký giả, trong đó có 300 người đến từ nước ngoài, đến Kazakhstan để theo dõi và tường thuật các hoạt động của Đức Giáo hoàng.
Cuộc viếng thăm của Đức Gioan Phaolô II bấy giờ có chủ đề là: “Các con hãy yêu mến nhau”. Giới răn này của Chúa có tầm quan trọng đặc biệt đối với xã hội Kazakhstan, với hàng trăm nhóm chủng tộc và quốc tịch, thuộc các tôn giáo khác nhau, Vì thế, lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu mến nhau” có thể là một yếu tố căn bản đối với tương lai của quốc gia này.
Trong ý hướng đó, ngay từ diễn văn đầu tiên, Đức Gioan Phaolô II đã đặc biệt khuyến khích sự sống chung hòa bình giữa các chủng tộc tại Kazakhstan và nói rằng:
“Ngày nay, tại đất nước anh chị em là một trong những nước rộng lớn nhất thế giới, các công dân thuộc hàng trăm chủng tộc và sắc dân sống cạnh nhau, mỗi chủng tộc đều được Hiến pháp bảo đảm cùng những quyền lợi và tự do. Tinh thần cởi mở và cộng tác này thuộc về truyền thống của anh chị em, vì Kazakhstan luôn là một phần đất có nhiều chủng tộc và văn hóa cùng sống chung với nhau...
“Hỡi các dân tộc quý mến tại Kazakhstan! Sau khi đã học được những kinh nghiệm từ quá khứ xa gần của anh chị em, đặc biệt là từ những biến cố đau thương của thế kỷ XX, anh chị em cần làm sao để sự dấn thân phục vụ đất nước của anh chị em, luôn dựa trên sự bảo tồn tự do, vốn là một quyền bất khả nhượng và là khát vọng sâu xa của mỗi người. Đặc biệt là nhìn nhận quyền tự do tôn giáo, làm cho con người được biểu lộ những tín ngưỡng sâu thẳm nhất của mình. Trong mỗi xã hội, nếu các công dân chấp nhận nhau về phương diện tín ngưỡng, thì sẽ dễ cổ võ nơi họ sự nhìn nhận thực sự các nhân quyền khác và hiểu các giá trị làm nền tảng cho sự sống chung hòa bình và sinh nhiều lợi ích. Thực vậy, họ cảm thấy một mối dây liên hệ chung với ý thức mình là anh chị em với nhau, vì cùng là con của một Thiên Chúa đấng tạo dựng vũ trụ.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II kết luận rằng: “Dân tộc Kazakhstan yêu quý, một sứ mạng đầy thách đố đang chờ đợi anh chị em: đó là xây dựng một quốc gia dưới lá cờ tiến bộ đích thực, trong liên đới và hòa bình. Hỡi Kazakhstan, lãnh thổ của các vị tử đạo và của các tín hữu, đất của những người bị lưu đày và của các anh hùng, đất của các nhà trí thức và nghệ sĩ, đừng sợ gì! Nếu những vết thương gây ra cho anh chị em vẫn còn sâu đậm, nếu những khó khăn và chướng ngại còn cản trở công cuộc tái thiết về tinh thần và vật chất của anh chị em, anh chị em sẽ tìm được sự khích lệ trong câu nói của đại văn hào Abai Kunanbai: “Yêu thương và công lý là những nguyên tắc của nhân loại, các nguyên tắc đó là kết quả công trình của Đấng Tối Cao”. (Sayings, chapter 45).
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu