Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha chủ sự Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh
VATICAN. Lúc 9 giờ rưỡi tối ngày 24-12-2014, ĐTC Phanxicô đã cử hành thánh lễ vọng Giáng Sinh. Ngài mời gọi các tín hữu đón nhận sự dịu dàng của Thiên Chúa và biểu lộ đức tính này trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Đồng tế với ĐTC có các HY, GM và đông đảo các linh mục, trước sự hiện diện của 9 ngàn tín hữu tại Đền thờ Thánh Phêrô.
Đầu thánh lễ, ĐTC đã đặt tượng ảnh Chúa Hài Đồng Giêsu vào trong máng cỏ, ở trên ngai nhỏ trước bàn thờ chính. Gần bàn thờ có đặt một tượng bằng gỗ nhiều mầu hình Đức Mẹ đang ẵm Chúa Hài Nhi. 10 em bé trong y phục cổ truyền đã đặt các bó hoa cạnh ảnh tượng Chúa Hài Đồng. Các em được chọn từ những nước vừa được hoặc sắp được ĐTC viếng thăm như Italia, Âu Châu, Hàn quốc và Philippines.
Cạnh máng cỏ ở trước Bàn thờ Tuyên Xưng đức tin, có một ngai nhỏ trên đó có đặt một giá sách Tin Mừng đã được dùng trong Công Đồng chung Vatican I và Vatican II.
Khi bài ca Vinh Danh được xướng lên, tất cả các chuông của Đại Vương cung Thánh đường được đánh lên cùng với đàn phong cầm.
Bài giảng của ĐTC
Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã quảng diễn mầu nhiệm Thiên Chúa giáng sinh như ánh sáng đến phá tan bóng đêm bao phủ trần thế, bóng tối được biểu lộ qua các tội ác, bạo lực chiến tranh, oán thù, đàn áp thống trị. Ngài nói:
”Qua dòng lịch sử, ánh sáng phá tan bóng đen tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha và lòng trung tín kiên nhẫn của Chúa mạnh mẽ hơn đen tối và hư hỏng. Sứ điệp của đêm giáng sinh này là Thiên Chúa không có những cơn thịnh nộ và thiếu kiên nhẫn, trái lại Chúa luôn ở đó như người cha trong dụ ngôn người con trai hoang đàng, chờ đợi được thấy bóng người con hư hỏng từ xa xa trở về”.
Trong bối cảnh trên đây ĐTC mời gọi các tín hữu, khi ngắm nhìn Chúa Hài Đồng sinh ra trong máng cỏ, hãy suy tư, tự xét xem mình đón nhận sự dịu hiền của Thiên Chúa như thế nào? Ta có để cho Chúa ôm lấy hay là ngăn cản Chúa đến gần? Chúng ta có thể vặn lại ”Nhưng tôi đang tìm Chúa đấy chứ”. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất không phải là tìm kiếm Chúa, đứng hơn, là để cho Chúa tìm ta và âu yếm vuốt ve chúng ta. Đây là câu hỏi mà Hài Nhi đặt ra cho chúng ta nguyên bằng sự hiện diện của Ngài: Tôi có thể cho Thiên Chúa yêu thương tôi hay không?”
Và ”chúng ta có can đảm dịu dàng đón nhận những hoàn cảnh khó khăn và những vấn đề của những người bên cạnh, hay chúng ta thích những giải pháp lạnh lùng, tuy hữu hiệu nhưng thiếu hơi ấm của Tin Mừng? Thế giới ngày nay đang cần sự dịu dàng dường nào!”
Và ĐTC kết luận rằng ”Câu trả lời của Kitô hữu không thể khác câu trả lời của Thiên Chúa dành cho sự bé mọn của chúng ta. Cần đương đầu với cuộc sống với lòng từ nhân và dịu dàng. Khi chúng ta ý thức rằng Thiên Chúa yêu mến sự bé nhỏ của ta, chính Chúa trở nên bé nhỏ để dễ gặp gỡ chúng ta hơn, thì chúng ta không thể không mở rộng tâm hồn chúng ta và cầu khẩn Người: ”Lạy Chúa, xin giúp con được nên giống Chúa, xin ban cho con ơn dịu dàng trong những hoàn cảnh cam go nhất của cuộc sống, xin ban cho con ơn gần gũi tha nhân trước mọi nhu cầu khó khăn, ơn dịu dàng trong bất kỳ cuộc xung đột nào”.
Trong phần lời nguyện giáo dân bằng các thứ tiếng Bồ đào nha, Arập, Pháp, Trung Hoa, và Đức, cộng đoàn đã lần lượt cầu cho Giáo Hội, cho việc truyền bá Tin Mừng, nâng đỡ các thừa sai, những người bị tội lỗi và lo âu đè nén, cho những người đau khổ và mọi dân tộc trên thế giới.
Trong phần dâng lễ vật, để nhắc nhớ đề tài Thượng HĐGM về gia đình và Đại hội các gia đình thế giới vào tháng 9 năm tới tại Philedelphia, Hoa Kỳ, hai gia đình với con cái đã được chọn để dâng bánh rượu lên ĐTC.
Sau khi ban phép lành cuối thánh lễ, ĐTC đã bồng tượng Chúa Hài Đồng Giêsu đi rước tới hang đá tại nhà nguyện có giếng rửa tội. (SD 24-12-2014)
G. Trần Đức Anh OP
Bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ Vọng Giáng Sinh 2014
“Dân tộc bước đi trong tối tăm, đã nhìn thấy luồng sáng lớn, những người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Is 9: 1). "Một thiên sứ của Chúa hiện đến cùng các mục đồng và vinh quang Thiên Chúa chiếu tỏa xung quanh họ" (Lc 2: 9). Phụng vụ đêm Giáng Sinh linh thánh này trình bày cho chúng ta sự ra đời của Chúa Cứu Thế như là ánh sáng xuyên thủng và xua tan bóng tối sâu thẳm. Sự hiện diện của Chúa ở giữa dân Ngài xua tan nỗi buồn của thất bại và những đau khổ trong kiếp nô lệ, đồng thời mở ra ngập tràn niềm vui và hạnh phúc.
Chúng ta cũng vậy, trong đêm hồng phúc này, chúng ta đã đến nhà của Thiên Chúa. Được hướng dẫn bởi ngọn lửa đức tin soi bước cho chúng ta, và được hun đốt bởi hy vọng tìm kiếm "luồng sáng lớn", chúng ta đã đi qua bóng tối đang bao phủ trái đất. Khi mở lòng chúng ta ra, chúng ta có thể chiêm ngưỡng sự kỳ diệu của hài nhi-mặt trời, đang mọc lên từ trên cao và chiếu sáng đường chân trời.
Nguồn gốc của bóng tối đang bao phủ thế giới này hun hút trong đêm đen của bao thế hệ. Chúng ta hãy truy nguyên lại thời khắc đen tối khi mà tội ác đầu tiên trong nhân loại đã xảy ra, đó là khi bàn tay của Cain, mù quáng vì ghen tị, đã giết em mình là Abel (x. Sáng thế Ký 4: 8). Kết quả là khai mở ra biết bao thế kỷ đánh dấu bởi bạo lực, chiến tranh, hận thù và áp bức.
Nhưng Thiên Chúa, Đấng đã đặt một cảm thức hy vọng bên trong con người được tạo ra theo hình ảnh Ngài, vẫn luôn chờ đợi. Ngài chờ đợi quá lâu đến mức có lẽ ở một thời điểm nào đó dường như Ngài đã thối chí. Nhưng Ngài không thể thối chí bởi vì Ngài không thể chối bỏ chính mình (x 2 Tim 2:13). Do đó, Ngài tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi trước tình trạng băng hoại của con người và các dân tộc.
Qua dòng lịch sử, một luồng ánh sáng đã xé toạc bóng tối để mạc khải cho chúng ta rằng Thiên Chúa là một người Cha nhân từ và lòng trung tín kiên nhẫn của Ngài mạnh hơn bóng tối và tội lỗi. Đây là thông điệp của đêm Giáng Sinh. Thiên Chúa không biết bùng nổ những cơn giận hay thiếu kiên nhẫn; Ngài luôn luôn ở đó, giống như người cha trong dụ ngôn người con hoang đàng, chờ đợi để được nhìn thấy từ xa đứa con trai lầm đường lạc lối khi nó trở về.
Lời tiên tri Isaia loan báo sự bùng lên của một luồng sáng lớn xuyên qua đêm đen. Ánh sáng này được sinh ra tại Bethlehem và được chào đón bởi vòng tay yêu thương của Mẹ Maria, bởi tình yêu của Thánh Giuse, bởi sự ngạc nhiên của những người chăn chiên.
Khi loan báo sự ra đời của Đấng Cứu Chuộc cho các mục đồng, các thiên thần đã nói như thế này: "Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ" (Lc 2:12). “Dấu này” là sự khiêm hạ của Thiên Chúa được thể hiện đến tột độ; đó là tình yêu mà qua đó, trong đêm nay Ngài mặc lấy sự yếu đuối của chúng ta, những đau khổ, lo lắng của chúng ta, những khát vọng và những hạn chế của chúng ta. Thông điệp mà tất cả mọi người đang mong đợi, đang tìm kiếm trong sâu thẳm tâm hồn của họ không gì khác hơn là sự dịu dàng của Thiên Chúa: một Thiên Chúa luôn nhìn đến chúng ta với đôi mắt đầy tình yêu, một Thiên Chúa chấp nhận sự nghèo hèn của chúng ta, một Thiên Chúa yêu thương những nhỏ bé của chúng ta.
Trong đêm linh thánh này, khi chúng ta chiêm ngắm Chúa Hài Đồng Giêsu mới sinh và được đặt trong máng cỏ, chúng ta được mời gọi để suy tư là chúng ta nên chào đón sự dịu dàng của Thiên Chúa như thế nào đây? Tôi có để cho mình được Thiên Chúa ẵm lên, được Ngài ôm vào lòng, hay tôi chặn lại không cho Chúa kéo tôi tới gần? "Nhưng tôi đang tìm kiếm Chúa mà" - chúng ta có thể trả lời như thế. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất không phải là tìm kiếm Ngài, nhưng là để cho Ngài tìm thấy ta và vuốt ve ta với sự dịu dàng của Ngài. Câu hỏi đặt ra cho chúng ta trước sự hiện diện của Chúa Hài Đồng là: Tôi có để cho Thiên Chúa yêu tôi không?
Hơn thế nữa, liệu chúng ta có can đảm để chào đón với sự dịu dàng những khó khăn, và những vấn nạn của những người gần gũi với chúng ta, hay là chúng ta chỉ thích các giải pháp khách quan, có lẽ hiệu quả đấy nhưng không có sự ấm áp của Tin Mừng? Ngày hôm nay thế giới này cần sự dịu dàng biết bao!
Phản ứng của Kitô hữu không thể khác với phản ứng của Thiên Chúa trước sự nhỏ bé của chúng ta. Cuộc sống phải được đáp lại với sự tốt lành, với sự hiền lành. Khi chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa yêu mến cả sự nhỏ bé của chúng ta, đến nỗi Ngài đã tự hạ mình nhỏ lại để gặp gỡ chúng ta tốt hơn, thì chúng ta không thể nào không mở trái tim của chúng ta ra với Ngài, và cầu xin Ngài rằng: "Lạy Chúa, xin giúp con được như Chúa, xin ban cho con ân sủng của sự dịu dàng trong các hoàn cảnh khó khăn nhất của cuộc sống, cho con ân sủng của sự gần gũi khi đối mặt với mọi nhu cầu, của sự hiền lành trong mọi xung đột. "
Anh chị em thân mến, trong đêm linh thánh này chúng ta chiêm ngắm máng cỏ Giáng Sinh nơi "dân tộc bước đi trong tối tăm, đã nhìn thấy luồng sáng lớn " (Is 9: 1). Những ai khiêm tốn, cởi mở để đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, là những người đã nhìn thấy ánh sáng này. Tuy nhiên, những kẻ kiêu ngạo, phường tự phụ, những kẻ đã đặt ra những luật lệ theo phán đoán riêng mình, những kẻ đóng kín với tha nhân thì không nhìn thấy ánh sáng này. Chúng ta hãy nhìn vào hang đá và cầu nguyện, và xin cùng Đức Mẹ: "Lạy Mẹ Maria, xin chỉ cho chúng con thấy Chúa Giêsu!"
Tổng thống Mỹ cám ơn Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã giúp Mỹ và Cuba bình thường hóa quan hệ
Trong bài diễn văn trên truyền hình hôm qua, thứ tư ngày 17/12/2014, tổng thống Mỹ Barack Obama đã lên tiếng ca ngợi và cám ơn những nỗ lực của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong việc tìm kiếm giải pháp tiến tới bình thường hóa quan hệ giữa Mỹ và Cuba.
Ông Obama cho biết Đức Giáo hoàng đã gửi thư riêng cho hai nhà lãnh đạo Mỹ và Cuba, qua đó hối thúc 2 nhà lãnh đạo tìm kiếm giải pháp trả tự do cho Alan Gross, một công dân Mỹ bị Cuba cầm tù.
“Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một lời kêu gọi cá nhân đến tôi và chủ tịch Cuba Raul Castro để hối thúc chúng tôi giải quyết trường hợp của Alan,” Ông Obama cho biết.
Cuối bài diễn văn, ông Obama đã gửi lời cám ơn Đức Phanxicô vì gương sống của ngài.
“Đặc biệt, tôi muốn cảm ơn Đức Thánh Cha Phanxicô vì đời sống đạo đức của ngài cho chúng ta thấy rằng chúng ta phải dấn thân cho một thế giới nên là chứ không phải đơn thuần bằng lòng với một thế giới như hiện tại.”
Trong một động thái tương tự, ông Raul Castro, chủ tịch Cuba phát biểu trên truyền hình đã ngỏ lời cám ơn Đức Giáo Hoàng Phanxicô về sự kiện mang tính lịch sử khi Cuba và Mỹ bình thường hóa quan hệ.
Nguồn Dòng Tên Việt Nam
Chỉnh Trần, S.J
Uỷ ban Truyền thông Toà Thánh trên đường cải tổ
WHĐ (23.12.2014) – Uỷ banTruyền thông của Toà Thánh đã kết thúc chuyến viếng thăm các cơ quan truyền thông của Toà Thánh lần thứ ba, và có thể sẽ thảo luận về kết quả của các lần viếng thăm này trong cuộc họp sắp tới của Uỷ ban, dự kiến diễn ra vào tháng Giêng 2015. Uỷ ban đã thực hiện các chuyến viếng thăm đến các cơ quan truyền thông của Toà Thánh, và cũng bắt đầu thu thập các ý kiến và đề nghị của các phóng viên và các cơ quan thông tin Công giáo thường đưa tin về Vatican.
Với mong muốn hoàn thiện hệ thống phát hành tin và hợp lý hóa các chi tiêu, các thành viên của Uỷ ban đã viếng thăm “tại chỗ” Phòng Báo chí Toà Thánh vào ngày 17 tháng 12.
Một thành viên của Uỷ ban Truyền thông cho biết: “Uỷ ban đã tỏ ra rất quan tâm tới các nhu cầu của Phòng Báo chí Toà Thánh, và cố gắng tìm xem có thể cải thiện công việc của Phòng Báo chí Toà Thánh như thế nào”.
Vẫn theo thành viên này, “không giống như Uỷ ban Tham vấn về Tổ chức kinh tế–quản trị của Toà Thánh (COSEA), Uỷ ban Truyền thông cho thấy cắt giảm chi phí không phải là mong muốn duy nhất của mình, nhưng điều mong muốn trước hết là tìm ra một phương thức hiệu quả để chia sẻ thông tin của Vatican”.
Trong cuộc họp sắp tới vào tháng Giêng 2015, các thành viên của Uỷ ban có thể sẽ thảo luận về các kết quả các chuyến thăm viếng thăm vừa qua, và phân tích kỹ lưỡng những phản ứng của các chuyên gia truyền thông và các nhà báo.
Sắp tới, có nhu cầu cải tổ ngành truyền thôngcủa Toà Thánh một cách toàn diện, có thể là hợp nhấtba cơ quan truyền thông lớn là Đài phát thanh Vatican, Truyền hình Vatican, và nhật báo L’Osservatore Romano– theo một nền tảng kỹ thuật số duy nhất.
Cho đến nay, các cơ quan truyền thông của Vaticanvẫn trực thuộc Phủ Quốc vụ khanh Toà Thánh, nhưng có một số đề nghị cải tổ giáo triều –vẫn còn đang được Hội đồng Hồng y tư vấn thảo luận– cho rằng cần tạo ra một Quốc vụ viện chuyên về Truyền thông trong Giáo triều Roma.
Tuy nhiên ý niệm về việc thành lập một Quốc vụ viện thứ ba dường như đã bị loại bỏ, trong khi ý tưởng đặt mọi cơ quan truyền thông thuộc quyền Hội đồngToà Thánh về Truyền thông Xã hội vẫn còn đang được bàn thảo.
(CNA / EWTN News)
Minh Đức
Thư Đức Thánh Cha gửi các tín hữu Kitô Trung Đông
VATICAN. ĐTC Phanxicô tái bày tỏ sự gần gũi, tình liên đới và khích lệ các tín hữu Kitô tại Trung Đông, trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay.
Trong thư công bố hôm 23-12-2014, gửi các tín hữu Kitô Trung Đông, nhân dịp lễ Giáng Sinh, ĐTC nhắc đến những đau khổ các tín hữu Kitô ở miền này phải chịu trong quá khứ gần đây, đặc biệt là những nạn nhân của tổ chức khủng bố ở mức độ không thể tưởng tượng được, với những lạm dụng đủ loại và những hành động không xứng đáng với con người. ĐTC không quên nhiều nhóm tôn giáo và chủng tộc thiểu số khác cũng chịu bách hại và những hậu quả tương tự của các cuộc xung đột. Ngài viết:
”Đau khổ này kêu thấu tới Thiên Chúa và kêu gọi mọi người hãy dấn thân, trong kinh nguyện và mọi sáng kiến khác.. Anh chị em thân mến, tôi khuyến khích anh chị em hãy tiếp tục gắn bó với Chúa Giêsu, như ngành gắn liền với thân cây nho, với xác tín mạnh mẽ rằng dù sầu muộn, lo âu hay bách hại cũng không thể tách rời anh chị em ra khỏi Chúa” (Xc Rm 8,35). Ước gì thử thách anh chị em đang trải qua củng cố niềm tin và lòng trung thành của tất cả anh chị em!”.
ĐTC cũng cầu xin Chúa cho các tín hữu Kitô Trung Đông có thể sống tình hiệp thông huynh đệ theo gương cộng động Kitô đầu tiên ở Jerusalem. ”Sự hiệp nhất như Chúa chúng ta mong muốn là điều cần thiết hơn bao giờ hết trong những lúc khó khăn này; đó là một hồng ân của Thiên Chúa, đang gọi hỏi tự do và chờ đợi câu trả lời của chúng ta. Ước gì Lời Chúa, các bí tích, kinh nguyện, tình huynh đệ, nuôi dưỡng và liên tục đổi mới các cộng đoàn của anh chị em”.
ĐTC cũng nhận định rằng ”Tình trạng anh chị em đang sống là một lời kêu gọi mạnh mẽ hãy sống thánh thiện, như các thánh và các vị tử đạo thuộc mọi hệ phái Giáo Hội làm chứng”. Trong bối cảnh này, ĐTC nhắc đến một số GM Chính Thống và LM thuộc các nghi lễ khác nhau đã bị bắt cóc và cầu mong các vị sớm được trở về nhà và cộng đoàn của mình bình an vô sự”.
Trong thư, ĐTC tiếp tục kêu gọi cộng đồng quốc tế cứu giúp và đáp ứng nhu cầu của các tín hữu Kitô và các cộng đồng thiểu số khác đang chịu đau khổ. Ngài viết: ”Trước tiên cần cổ võ hòa bình nhờ thương thuyết và hoạt động ngoại giao, tìm cách ngăn chặn bạo lực càng sớm càng tốt đang gây ra quá nhiều thiệt hại. Tôi tái lên án nạn buôn bán võ khí. Đúng hơn, chúng ta đang cần những dự án và sáng kiến hòa bình để thăng tiến một giải pháp toàn diện cho các vấn đề của vùng Trung Đông. Cho đến bao giờ Trung Đông còn phải chịu đau khổ vì thiếu hòa bình? Chúng ta không thể cam chịu những cuộc xung đột như thể đó là điều không thể thay đổi được!.. Ước gì việc cứu trợ nhân đạo được gia tăng, đặt thiện ích của con người và mỗi quốc gia ở vị thế trung tâm, trong niềm tôn trọng căn tính của họ, không đặt những lợi lộc khác lên trên. Ước gì toàn thể Giáo Hội và Cộng đồng quốc trể ngày càng ý thức về tầm quan trọng của anh chị em Kitô ở vùng Trung Đông!”
(SD 23-12-2014)
Lm. Trần Đức Anh (Radio Vatican)
Đức Thánh Cha nhắn nhủ các nhân viên Tòa Thánh và Vatican
VATICAN. ĐTC Phanxicô kêu gọi các nhân viên Tòa Thánh và Vatican chăm sóc đời sống thiêng liêng, gia đình, tương quan với tha nhân, công việc làm và các anh chị em yếu đuối.
Đây là những lời nhắn nhủ ngài đưa ra trong buổi tiếp kiến khoảng 2 ngàn nhân viên cấp thừa hành của Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican trưa ngày 22-12-2014, sau buổi tiếp kiến các vị lãnh đạo của các cơ quan trung ương Tòa Thánh.
Hiện diện tại Đại thính đường Phaolo 6 trong buổi cũng có con cái và gia đình của các nhân viên. ĐTC nói: ”Trước tiên anh chị em cần chăm sóc đời sống thiêng liêng, quan hệ với Thiên Chúa, vì ”đây là cột sống của tất cả những gì chúng ta làm, và toàn thể cuộc sống của chúng ta. Một Kitô hữu không nuôi dưỡng mình bằng kinh nguyện, các bí tích và Lời Chúa, thì chắc chắn sẽ suy nhược và khô cằn”.
Tiếp đến cần chăm sóc đời sống gia đình, không phải chỉ dành tiền bạc cho con cái và những người thân yêu, nhưng nhất là dành thời gian, sự quan tâm và tình yêu thương. ĐTC nhấn mạnh rằng ”gia đình là một kho tàng quí giá, con cái là kho tàng. Một câu hỏi mà các cha mẹ trẻ có thể đặt ra cho mình: ”Tôi có thời giờ để chơi với con cái tôi hay không, hay là tôi luôn bận rộn, không có giờ cho con cái của tôi?”.
Thứ ba là chăm sóc quan hệ với người khác, ”biến đức tin trong cuộc sống và lời nói thành những việc lành, nhất là đối với những người túng thiếu nhất”. Cần chăm sóc lời nói, ”thanh tẩy miệng lưỡi mình khỏi những lời xúc phạm, những lời phàm tục, sa đọa”. ”Chữa trị những vết thương tâm hồn bằng dầu tha thứ, tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta và chữa lành những vết thương chúng ta đã gây ra cho người khác”.
Cũng trong bài huấn dụ, ĐTC nhắn nhủ các nhân viên Tòa Thánh và Quốc gia thành Vatican hãy chăm sóc công việc làm, chu toàn với tất cả sự hăng say, lòng khiêm và khả năng chuyên môn, với tâm hồn biết ơn Thiên Chúa. Tiếp đến cần chữa trị tính ghen tương, tham lam, ghen ghét, những tâm tình tiêu cực hủy hoại an bình nội tâm khiến chúng ta thành những người bị hủy hoại và tạo nên sự hủy hoại cho người khác”.
ĐTC kêu gọi các nhân viên hãy chữa trị sự oán hận đưa chúng ta đến sự trả thù, sự lười biếng khiến chúng ta làm cho cuộc sống tàn lụi, thái độ chỉ tay chỉ trích đưa chúng ta đến sự kiêu hãnh, thái lộ luôn than phiền đưa chúng ta đến tuyệt vọng. ĐTC nói:
”Tôi biết nhiều khi để bảo vệ công ăn việc làm, người ta nói xấu người khác, để tự vệ. Tôi hiểu những tình trạng ấy, nhưng con đường này không đưa tới điều tốt lành, rốt cuộc tất cả chúng ta đều bị tổn hại”.
ĐTC nhắn nhủ mọi người hãy chăm sóc những anh chị em yếu đuối. Ngài nói: ”Tôi đã thấy bao nhiêu gương tốt lành nơi anh chị em. Tôi khen ngợi và cám ơn anh chị em. Nghĩa là chăm sóc ngừơi già, người bệnh, người đói, những người vô gia cư và những người ngoại kiều, vì vào cuối đời chúng ta sẽ bị xét xử về đức bác ái”.
Sau cùng, ĐTC nhắn nhủ các nhân viên Tòa Thánh chăm sóc lễ Giáng Sinh, để lễ này không bao giờ trở thành dịp để tiêu thụ thương mại, chỉ có vẻ bề ngoài, hoặc là dịp mua sắm những món quà vô ích, dịp để phung phí, nhưng là lễ an vui, đón nhận Chúa trong máng cỏ và trong tâm hồn” (RG 22-12-2014)
G. Trần Đức Anh OP
Vài câu chuyện về Lễ Giáng Sinh
Hôm nay, thế giới đang dộn dịp chuẩn bị đón mừng Lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu, chúng tôi sưu tra và ghi lại dưới đây một vài câu chuyện liên quan đến Lễ Giáng Sinh.
Sự hình thành Lễ Giáng Sinh
Thời kỳ Giáo Hội Kitô giáo còn sơ khai (2, 3 thế kỷ đầu công nguyên), Lễ Giáng Sinh được mừng chung với lễ Hiển linh. Tuy nhiên, ngay từ năm 200, thánh Clementê Alexandria (150-215) đã nói đến một lễ hết sức đặc biệt được cử hành vào ngày 20 tháng 5. Còn Giáo Hội mừng kính lễ này vào ngày 25 tháng 12.
Một nguồn tài liệu khác cho biết vào những thế kỷ đầu Công Nguyên, các tín hữu Kitô giáo sơ khai không ăn mừng lễ sinh nhật Đức Giêsu, vì họ cho rằng ăn mừng sinh nhật là một việc làm theo thói quen của dân ngoại đạo thờ thần tượng. Đến thế kỷ IV, những người Kitô giáo mới bắt đầu muốn ăn mừng Lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu mỗi năm một lần, nhưng lại sợ bị chính quyền La Mã phát hiện và bắt bớ, vì cho đến lúc đó, Kitô giáo vẫn chưa được công nhận là một tôn giáo hợp pháp.
Những người La Mã hàng năm ăn mừng "Thần Mặt Trời" đem ánh sáng đến cho trần gian vào ngày 25 tháng 12. Những người Kitô giáo đã lợi dụng cơ hội này để tổ chức ăn mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh đem ánh sáng và sự sống đến cho nhân loại cùng một ngày với ngày lễ "Thần Mặt Trời" của người La Mã. Nhờ vậy, không bị chính quyền La Mã phát hiện.
Đến năm 312, Hoàng đế La Mã Constantine đã bỏ đa thần giáo và theo Kitô giáo. Ông này đã hủy bỏ ngày lễ ăn mừng "Thần Mặt Trời" và thay vào đó là ngày mừng sinh nhật của Đức Giêsu. Đến năm 354, Đức Giáo Hoàng Liberius công bố ngày 25 tháng 12 là ngày chính thức để cử hành lễ Giáng Sinh của Đức Giêsu.
Chữ CHRISMAS gồm hai chữ ghép lại: Chữ Christ có nghĩa là “Đấng chịu xức dầu”, tước vị của Đức Giêsu. Chữ Mas là viết tắt của chữ Mass, có nghĩa là thánh lễ. Christmas là Lễ của Đứng Christ.
Chữ NOEL là tiếng Pháp, viết tắt từ chữ Emmanuel, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Cây thông NOEL
Cây thông Noel có nguồn gốc từ nước Ðức từ thế kỷ 16. Đây là loại cây sống trong khí hậu khắc nghiệt nhưng vẫn giữ được dáng vẻ mạnh mẽ, vững chãi và màu xanh vĩnh cửu. Dần dần hình ảnh của loài cây này xuất hiện thường xuyên hơn và nó được coi là trung tâm của lễ hội, nơi mọi người cùng nắm tay nhau nhảy múa xung quanh cây thông được trang trí công phu cả bên trong và bên ngoài bằng hoa hồng, táo và giấy màu. Đến thế kỉ 19, cây Noel bắt đầu được sử dụng rộng rãi ở Anh. Đến những năm 1820 cây Noel được những người Ðức ở Pennsylvania mang sang nước Mỹ. Ngày nay, gần đến dịp Noel, người ta thường sắm một cây thông và trang trí lên đó những ngôi sao, những quả châu, dải kim tuyến lấp lánh, hoa... Cây thông được xem là biểu tượng của niềm hy vọng và sức sống mới trong lễ hội đón chào năm mới.
Ông Già Noel
Nguồn gốc của từ “ông già Noel” (Santa Claus) hay thánh Nicholas bắt đầu ở Thổ Nhĩ Kỳ từ thế kỷ thứ IV. Thánh Nicholas đặc biệt được ca tụng về tình yêu đối với trẻ em và sự hào phóng của ngài. Thánh Nicholas được tôn là người bảo trợ cho các thuỷ thủ, cho đảo Cicilia, cho nước Hy Lạp và cho nước Nga. Tất nhiên thánh Nicholas cũng là người bảo trợ của các trẻ em. Vào thế kỷ thứ 16, ở Hà Lan trẻ em thường đặt những chiếc giầy gỗ của mình bên cạnh lò sưởi với hy vọng là chúng sẽ được thánh Nicholas thết đãi no nê.
Người Hà Lan phát âm từ St. Nicholas thành Sint Nicholaas và người theo Anh giáo đọc thành Santa Claus.
Năm 1882, Clement Clarke Moore (1779 – 1863) đã viết bản nhạc nổi tiếng là “A visit from St. Nick” (chuyến thăm của thánh Nick) và sau đó được xuất bản với cái tên “The night before Christmas” (Ðêm trước Giáng Sinh). Ông được coi là người hiện đại hóa hình tượng ông già Noel bằng hình ảnh một ông già to béo, vui tính trong bộ đồ màu đỏ.
Thiệp Giáng Sinh
Bắt nguồn từ năm 1843 khi ông Henry Cole, một thương gia giàu có nước Anh, đã nhờ Horsley, một họa sỹ ở London, thiết kế một tấm thiệp thật đẹp để tặng bạn bè. Vào Noel năm đó, Horsley trình làng tấm thiệp đầu tiên trên thế giới và sau đó nó đã in ra 1000 bản. Thiệp Giáng sinh nhanh chóng bùng phát và trở thành mốt thịnh hành ở Anh trong suốt 10 năm kể từ khi Chính phủ Anh thông qua đạo luật năm 1846 cho phép bất kỳ người dân nào gửi thư đến bất kỳ nơi nào với giá rẻ. Không lâu sau, trào lưu này du nhập sang Đức và tới 30 năm sau người Mỹ mới chấp nhận nó.
The spirit of Christmas should not be just for one day but for the whole year! Wishing you love, joy and peace the whole year round. Merry Christmas.
14 căn bệnh của giáo triều Roma cần chữa trị
VATICAN. Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 22-12-2014 dành cho các vị lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh, ĐTC Phanxicô liệt kê 14 thứ bệnh cần bài trừ khỏi những người phục vụ tại giáo triều Roma.
Khoảng 60 Hồng Y và 50 GM cùng với nhiều giám chức, linh mục và giáo dân lãnh đạo các cơ quan trung ương Tòa Thánh đến chúc mừng ngài nhân dịp lễ Giáng Sinh và năm mới.
Mở đầu, ĐHY Angelo Sodano, 87 tuổi, niên trưởng Hồng Y đoàn, đại diện mọi người chúc mừng ĐTC và cho biết toàn thể các cộng tác viên thuộc các cơ quan trung ương Tòa Thánh hứa hỗ trợ và cộng tác hoàn toàn với ĐTC trong việc phục vụ tình hiệp nhất của Giái Hội và hòa bình giữa các dân tộc. ĐHY cũng nói rằng tại Vatican mọi người, trong các nhiệm vụ khác nhau, hiệp nhất và dấn thân phục vụ ĐTC và Giáo Hội.
Diễn từ của ĐTC
Lên tiếng trong dịp này, sau khi gửi lời chúc mừng và cám ơn sự cộng tác của mọi người trong giáo triều Roma, ĐTC nhấn mạnh sự kiện các cơ quan trung ương Tòa Thánh họp thành một cơ thể duy nhất, và cũng như mọi cơ thể, có thể có những bệnh tật cần được chữa lành. Trong ý hướng chuẩn bị tâm hồn, xưng tội, để đón mừng Chúa Giáng Sinh, ĐTC đã liệt kê một loạt những căn bệnh mà những vị làm việc trong giáo triều Roma có thể mắc phải và cần phải thanh tẩy. Ngài nói:
”Giáo triều được kêu gọi cải tiến, luôn cải tiến và tăng trưởng trong tình hiệp thông, thánh thiện và khôn ngoan để chu toàn sứ mạng. Nhưng giáo triều, cũng như mỗi thân thể con người, cũng có thể bị bệnh, hoạt động không tốt, bị yếu liệt. Và ở đây tôi muốn liệt kê vài căn bệnh có thể, những bệnh của giáo triều. Đó là những bệnh thường xảy ra trong đời sống của giáo triều chúng ta. Đó là những bệnh tật và cám dỗ làm suy yếu việc phục vụ của chúng ta đối với Chúa. Tôi nghĩ rằng ”danh sách” các bệnh này sẽ giúp chúng ta, như các Đấng Tu Hành trong sa mạc vẫn thường làm danh sách mà chúng ta nói đến hôm nay: danh sách này giúp chúng ta chuẩn bị lãnh nhận bí tích Hòa giải, là một bước tiến tốt cho tất cả chúng ta để chuẩn bị lễ Giáng Sinh.
1. Trước tiên là bệnh tưởng mình là bất tử, miễn nhiễm, hoặc thậm chí là không thể thiếu được, và lơ là những kiểm điểm cần thiết và thông thường. Một giáo triều không tự phê bình, không canh tân, không tìm cách cải tiến, thì đó là một cơ thể đau yếu. Một cuộc viếng thăm bình thường tại các nghĩa trang có thể giúp chúng ta nhìn thấy tên của bao nhiêu người, của vài người mà chúng ta nghĩ họ là bất tử, miễn nhiễm, và không thể thay thế được! Đó là bệnh của người giàu có trong Phúc Âm nghĩ rằng mình sống vĩnh viễn (Xc Lc 12,13-21) và cả những người trở thành chủ nhân ông, cảm thấy mình cao trọng hơn mọi người, chứ không phải là người phục vụ tất cả mọi người. Bệnh này thường xuất phát từ bệnh quyền bính, từ mặc cảm là những người ưu tuyển, từ thái độ tự yêu mình, say mê nhìn hình ảnh của mình mà không nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa in nơi khuôn mặt của những người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và túng thiếu nhất. Thuốc chữa bệnh dịch này là ơn thánh, ơn cảm thấy mình là người tội lỗi và thành tâm nói rằng: ”Chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng. Chúng ta đã làm những gì chúng ta phải làm” (Lc 17,10).
2. Một bệnh khác là bệnh Marta, đến từ tên Marta, làm việc thái quá: tức là những người chìm đắm trong công việc, và lơ là với phần tốt hơn, là ngồi bên chân Chúa Giêsu (Xc Lc 10,38). Vì thế Chúa Giêsu đã kêu gọi các môn đệ của Ngài ”hãy nghỉ ngơi một chút” (Xc Mc 6,31), vì lơ là việc nghỉ ngơi cần thiết sẽ đi tới tình trạng căng thẳng và giao động. Thời gian nghỉ ngơi, đối với những người đã chấm dứt sứ mạng của mình, là điều cần thiết, cần phải làm, và cần phải sống thanh thản: khi trải qua một chút thời gian với những người thân trong gia đình và tôn trọng các kỳ nghỉ như những lúc bồi dưỡng tính thần và thể lý; cần học điều mà sách Qohelet đã dạy: ”Có thời gian cho mỗi điều” )3,1-15).
3. Cũng có thứ bệnh ”chai cứng” tâm trí và tinh thần: nghĩa là bệnh của những người có tâm hồn chai đá, ”cứng cổ” (Cv 7,51-6); bệnh của những người đang đi trên đường, đánh mất sự thanh thản nội tâm, mất sức sinh động và táo bạo, và ẩn nấp sau các giấy tờ, trở thành ”chiếc máy hồ sơ” chứ không còn là ”những người của Thiên Chúa” nữa (Xc Dt 3,12). Họ có nguy cơ đánh mất sự nhạy cảm nhân bản cần thiết để khóc với những người khóc và vui với những người vui! Đó là bệnh của những người mất ”tâm tình của Chúa Giêsu” (Xc Pl 2,5-11), vì con tim của họ, qua dòng thời gian, đã trở nên chai đá và không có khả năng yêu mến Chúa Cha và tha nhân vô điều kiện (Xc Mt 22,34-40). Thực vậy, là Kitô hữu có nghĩa là ”có cùng những tâm tình như Chúa Giêsu Kitô” (Pl 2,5), những tâm tình khiêm tốn, và hiến thân, không dính bén và quảng đại.
4. Bệnh kế hoạch hóa thái quá và duy hiệu năng. Khi tông đồ kế hoạch mọi sự một cách tỷ mỉ và tưởng rằng khi thực hiện việc kế hoạch hóa hoàn toàn thì mọi sự sẽ thực sự tiến triển, như thế họ trở thành một kế toán viên hay một nhà tư vấn kinh doanh. Chuẩn bị mọi sự là điều tốt và cần thiết, nhưng không bao giờ được rơi vào cám dỗ muốn đóng kín và lèo lái tự do của Chúa Thánh Linh, Đấng luôn luôn lớn hơn, quảng đại hơn mọi kế hoạch của con người (Xc Ga 3,8). Người ta lâm vào căn bệnh này vì ”ở lại thoải mái trong các lập trường tĩnh và bất biến của mình thì vẫn là điều dễ dàng và ung dung hơn. Trong thực tế, Giáo Hội tỏ ra trung thành với Chúa Thánh Linh theo mức độ Giáo Hội không chủ trương điều hành và thuần hóa Thánh Linh. Thánh Linh là sự tươi mát, sáng tạo và mới mẻ!”
5. Bệnh phối hợp kém. Khi các chi thể mất sự hiệp thông với nhau thì thân thể đánh mất hoạt động hài hòa và chừng mực của mình, trở thành một ban nhạc chỉ tạo ra những tiếng ồn ào, vì các thành phần của ban không cộng tác với nhau, không sống tinh thần hiệp thông và đồng đội. Khi chân nói với tay: ”Tôi không cần anh”, hoặc tay nói với đầu: ”Tôi điều khiển”, thì tạo nên sự khó chịu và gương mù.
6. Cũng có thứ bệnh ”suy thoái não bộ tinh thần”, hay là quên đi ”lịch sử cứu độ”, lịch sử quan hệ bản thân với Chúa, quên đi mối tình đầu (Kh 2,4). Đó là sự suy thoái dần dần các khả năng tinh thần trong một khoảng thời gian dài ngắn hơn kém, tạo nên tình trạng tật nguyền trầm trong cho con người, làm cho nó không còn khả năng thi hành một số hoạt động tự lập, sống trong tình trạng hoàn toàn tùy thuộc những quan niệm thường là tưởng tượng. Chúng ta thấy điều đó nơi những người không còn nhớ cuộc gặp gỡ của họ với Chúa, nơi những người hoàn toàn tùy thuộc hiện tại của họ, đam mê, tính thay đổi nhất thời, và những thứ kỳ quặc khác; ta thấy nơi những người kiến tạo quanh mình những bức tường và những tập quán, ngày càng trở thành nô lệ cho các thần tượng mà họ tay họ tạo nên.
7. Bệnh cạnh tranh và háo danh. Khi cái vẻ bề ngoài, những mầu áo và huy chương trở thành đối tượng ưu tiên của cuộc sống, quên đi lời thánh Phaolô: ”Anh em đừng làm gì vì cạnh tranh hoặc háo danh, nhưng mỗi người với tất cả sự khiêm tốn, hãy coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm tư lợi, nhưng hãy tìm lợi ích của người khác nữa” (Pl 2,1-4). Đó là căn bệnh đưa chúng ta trở thành những con người giả dối và sống một thứ thần bí giả hiệu, một chủ thuyết yên tĩnh giả tạo, Chính thánh Phaolô đã định nghĩa họ là ”những kẻ thù của Thập Giá Chúa Kitô” vì họ ”kiêu hãnh về những điều mà lẽ ra họ phải hổ thẹn và chỉ nghĩ đến những điều thuộc về trần thế này” (Pl 3,19)
8. Bệnh tâm thần phân liệt trong cuộc sống. Đó là bệnh của những người sống hai mặt, hậu quả của sự giả hình về sự tầm thường và dần dần trở nên trống rỗng về tinh thần mà các văn bằng tiến sĩ hoặc các bằng cấp khác không thể lấp đầy được. Một thứ bệnh thường xảy ra nơi những người bỏ việc mục vụ, và chỉ giới hạn vào những công việc bàn giấy, đánh mất sự tiếp xúc với thực tại, với những con người cụ thể. Như thế họ tạo cho mình một thế giới song song, trong đó họ gạt sang một bên tất cả những gì họ nghiêm khắc dạy người khác, và bắt đầu sống một cuộc sống kín đáo và thường là tháo thứ. Sự hoán cải là điều rất cần thiết và không thể thiếu được đối với thứ bệnh rất nặng này (Xc Lc 15,11-32).
9. Bệnh 'ngồi lê đôi mách', lẫm bẩm và nói hành. Tôi đã nói nhiều về bệnh này và không bao giờ cho đủ. Đó là một bệnh nặng, thường bắt đầu bằng những cuộc chuyện trò, và nó làm cho con người thành người gieo rắc cỏ lùng cỏ dại như Satan, và trong nhiều trường hợp họ trở thành người ”điềm nhiên giết người”, giết hại danh thơm tiếng tốt của đồng nghiệp và anh em cùng dòng. Đó là bệnh của những người hèn nhát không có can đảm nói thẳng, mà chỉ nói sau lưng. Thánh Phaolô đã cảnh giác: ”Anh em hãy làm mọi sự mà đừng lẩm bẩm, không do dự, để không có gì đáng trách và tinh tuyền” (Pl 2,14-18). Hỡi anh em, chứng ta hãy giữ mình khỏi những nạn khủng bố nói hành nói xấu!
10. Bệnh thần thánh hóa giới lãnh đạo. Đó là bệnh của những kẻ dua nịnh cấp trên, hy vọng được ân huệ của họ. Họ là nạn nhân của công danh sự nghiệp và của thái độ xu thời, tôn kính con người chứ không tôn kính Thiên Chúa (Xc Mt 23,8-12). Đó là những người khi phục vụ chỉ nghĩ đến điều mà họ phải đạt được chứ không tới điều mà họ phải làm. Những người bủn xỉn nhỏ nhặt, bất hạnh, và chỉ hành động vì ích kỷ (Xc Gl 5,16-25). Bệnh này có thể xảy ra cho cả các cấp trên khi họ chiêu dụ vài cộng tác viên để được sự tuân phục, trung thành và tùy thuộc về tâm lý, nhưng kết quả cuối cùng là một sự đồng lõa thực sự.
11. Bệnh dửng dưng đối với người khác. Khi mỗi người chỉ nghĩa đến mình và đánh mất sự thành thực và quan hệ nồng nhiệt với nhau. Khi người giỏi nhất không đặt kiến thức của mình để phục vụ đồng nghiệp yếu kém hơn. Khi người ta biết được điều gì và giữ riêng cho mình thay vì chia sẻ tích cực với những người khác, Khi vì ghen tương và tinh ranh, họ cảm thấy vui mừng khi thấy người khác ngã xuống, thay vì nâng người ấy dậy và khích lệ họ!
12. Bệnh có bộ mặt đưa đám. Tức là những người cộc cằn và hung tợn, cho rằng để tỏ ra là nghiêm minh, cần có bộ mặt âu sầu, nghiêm khắc và đối xử với những người khác, nhất là những người cấp dưới, một cách cứng nhắc, cứng cỏi và kiêu hãnh. Trong thực tế, sự nghiêm khắc đóng kịch và thái độ bi quan vô ích thường là triệu chứng của sự sợ hãi và bất an về mình. Tông đồ phải cố gắng là một người nhã nhặn, thanh thản, nhiệt thành và vui tươi, thông truyền niềm vui tại bất kỳ nơi nào. Một con tim đầy Thiên Chúa là một con tim hạnh phúc, chiếu tỏa và làm lan rộng niềm vui cho tất cả những người quanh mình, người ta nhận thấy ngay điều đó.. Chúng ta đừng đánh mất tinh thần vui tươi, tinh thần hài hước, thậm chí tự cười mình, làm cho chúng ta trở thành những người dễ mến, cả trong những hoàn cảnh khó khăn”. Một chút tinh thần hài hước thật là điều tốt cho chúng ta dường nào. Thật là điều tốt nếu chúng ta thường đọc kinh của Thánh Thomas More: tôi vẫn đọc kinh đó hằng ngày và điều này mang nhiều ích lợi cho tôi.
12. Bệnh tích trữ. Khi tông đồ tìm cách lấp đầy khoảng trống trong con tim của mình bằng cách tích trữ của cải vật chất, không phải vì cần thiết nhưng chỉ vì để cảm thấy an ninh. Trong thực tế không có gì vật chất có thể mang theo mình vì ”khăn liệm không có túi” và mọi kho tàng vật chất của chúng ta, dù có thực đi nữa, không bao giờ có thể lấp đầy khoảng trống, trái lại càng làm cho nó khẩn trương và sâu đậm hơn. Chúa lập lại với những người ấy: ”Ngươi bảo: nay tôi giầu có, đã đầy đủ của cải rồi, tôi chẳng cần gì nữa. Nhưng ngươi không biết mình là kẻ bất hạnh, khốn nạn, một kẻ nghèo, mù lòa và trần trụi.. Vậy ngươi hãy nhiệt thành và hoán cải” (Kh 3,17-19). Sự tích trữ của cải chỉ làm cho nặng nề và làm cho hành trình trở nên chậm hơn! Và tôi nghĩ đến một giai thoại: trước kia các tu sĩ dòng Tên Tây Ban Nha mô tả dòng như một đoàn ”kỵ binh nhẹ nhàng của Giáo Hội”. Tôi nhớ cuộc dọn nhà của một tu sĩ dòng Tên trẻ, trong khi chất lên xa vận tải bao nhiêu đồ đạc: hành lý, sách vở, vật dụng, quà tặng, thì một tu sĩ dòng Tên cao niên quan sát và mỏỉm cười nói: đây có phải là kỵ binh nhẹ của Giáo Hội không?”. Những cuộc dọn nhà của chúng ta là một dấu hiệu về bệnh ấy.
13. Bệnh những nhóm khép kín, trong đó sự thuộc về một nhóm nhỏ trở nên mạnh hơn thuộc về cả thân mình và trong một số trường hợp, mạnh hơn thuộc về chính Chúa Kitô. Cả căn bệnh này cũng luôn bắt đầu bằng những ý hướng tốt là tiêu khiển với các bạn bè, nhưng với thời gian nó trở nên xấu, thành bệnh ung thư đe dọa sự hài hòa của thân thể và tạo nên bao nhiêu điều ác, gương mù, nhất cho cho những anh em bé nhỏ hơn của chúng ta. Sự tự hủy diệt, hay là ”những viên đạn của bạn đồng ngũ” chính là nguy hiểm tinh tế nhất. Đó là sự ác đánh từ bên trong, và như Chúa Kitô đã nói, ”nước nào chia rẽ bên trong thì sẽ bị tàn lụi” (Lc 11,17).
14. Sau cùng là bệnh tìm kiếm lợi lộc trần tục và phô trương. Khi tông đồ biến việc phục vụ của mình thành quyền lực, và biến quyền lực của mình thành hàng hóa để kiếm được những lợi lộc phàm tục và được nhiều quyền thế hơn. Đó là bệnh của những người tìm cách gia tăng vô độ quyền lực và để đạt được mục tiêu đó, họ vu khống, mạ lỵ và làm mất thanh danh của người khác, thậm chí trên cả các nhật báo và tạp chí, dĩ nhiên để biểu dương và chứng tỏ mình có khả năng hơn người khác. Cả thứ bệnh này cũng gây hại rất nhiều cho thân mình, vì nó làm cho con người đi tới độ biện minh việc sử dụng bất kỳ phương thế nào để đạt tới mục tiêu ấy, thường là nhân danh công lý và sự minh bạch. Và ở đây tôi nhớ đến một linh mục đã gọi các ký giả đến để kể cho họ - một điều mà LM này bịa đặt - về những chuyện riêng tư của những linh mục khác và của giáo dân. LM ấy chỉ muốn được xuất hiện trên những trang nhất của báo chí, và như thế cảm thấy mình quyền năng và chiến thắng, nhưng tạo ra bao nhiêu đau khổ cho những người khác và cho Giáo Hội! Thật là kẻ đáng thương!
ĐTC nhận xét rằng những căn bệnh và cám dỗ ấy cũng là nguy cơ của mỗi Kitô hữu, mỗi giáo xứ, cộng đoàn, dòng tu, các phong trào Giáo Hội, trên bình diện cá nhân và cộng đoàn.
Ngài mời gọi tất cả mọi người hãy sống theo chân lý trong sự thật, nhất là trong mùa Giáng Sinh này, hãy chuẩn bị xưng tội và xin Mẹ Maria, Mẹ Giáo Hội, chữa lành mọi vết thương tội lỗi mà mỗi người chúng ta mang trong tâm hồn, và xin Mẹ nâng đỡ Giáo Hội và giáo triều để tất cả được lành mạnh, thánh thiện và thánh hóa, hầu tôn vinh Con của Mẹ và để cứu độ chúng ta và toàn thế giới.
Sau bài diễn văn, ĐTC đã đích thân đến bắt tay chúc mừng các Hồng Y đứng thành hình vòng cung ở sảnh đường Clemente trong dinh Tông Tòa, và tiếp đến, các GM cũng như các giám chức, các LM khác và các giáo dân ở vị trí lãnh đạo, đến trước ĐTC để chúc mừng và bắt tay ngài.
G. Trần Đức Anh OP
Thánh Lễ Giáng Sinh tại phi trường Denver
WHĐ (20.12.2014) – Lần đầu tiên từ nhiều năm nay, vào ngày lễ Chúa Giáng sinh năm nay một Thánh lễ cho khách du lịch Công giáo sẽ được cử hành tại Sân bay Quốc tế Denver, Hoa Kỳ, do linh mục dòng Tên Eustace Sequeira chủ tế.
Thánh lễ được cử hành lúc 14g00 ngày thứ Năm 25-12-2014, trong nhà nguyện chung của các tôn giáo ở tầng 6 của Nhà ga Jeppesen.
Karna Swanson, giám đốc điều hành Ban Truyền thông của Tổng giáo phận Denver, cho biết: “Chúng tôi biết rằng vào dịp lễ Giáng sinh rất nhiều người mê trượt tuyết sẽ đến du lịch tại tiểu bang của chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng nhờ việc tổ chức Thánh lễ này, một số du khách sẽ có thể tham dự Thánh Lễ vào ngày Giáng sinh trước khi đổ về các triền dốc để trượt tuyết”.
(Zenit)
“10 Điều Răn” về truyền thông của cha Lombardi
VRNs (21.12.20114) – Sài Gòn- theo CNA- “Truyền thông mang nghĩa là làm cho hiệp nhất” là điều răn thứ nhất trong “Mười điều răn Truyền Thông” mà Cha Federico Lombardi, giám đốc phòng báo chí Toà Thánh, đã miêu tả trong bài diễn văn của ngài vào hôm 24.11.2014 tại Học Viện Giáo Hoàng Salêdiêng tại Rôma.
Cha Federico Lombardi đã nhận bằng “tiến sĩ danh dự” về truyền thông xã hội do học viện Giáo hoàng này cấp, và trong bài diễn văn tại lễ trao bằng, cha đã phác hoạ lại bằng tất cả niềm say mê trong suốt 25 năm làm việc ở lãnh vực truyền thông Công giáo. Cha đúc kết tất cả những kinh nghiệm đó và gói gọn lại trong điều mà cha gọi là “Mười Điều Răn” dành cho công tác mục vụ truyền thông.
Cha Lombardi nói: “Có những người nghĩ rằng cần phải những xung đột thì truyền thông mới được năng động. Cho phép tôi nhấn mạnh rằng, tôi cực lực phản đối quan điểm này; tôi ghét và khước từ kiểu truyền thông này. Và điều này thực sự xuất phát từ thâm tâm tôi”.
Điều răn đầu tiên là “truyền thông phải đưa đến hiệp nhất”, và điều răn này được xây dựng nên nền tảng kinh nghiệm cá nhân của Cha Lombardi, người được bổ nhiệm làm giám đốc Đài Phát Thanh Vatican vào năm 1991, “vào ngày mà những quả bom đầu tiên của Khởi Đầu Cuộc Chiến Vùng Vịnh nổ ra”.
Cha Lombardi thú nhận rằng, ngài không ý thức về điều phải làm, nhưng ngài sẽ sớm học biết rằng công việc của ngài “không quá khó khăn”, bởi vì Đài Phát Thanh Vatican là “Đài Phát Thành của Đức Giáo Hoàng…và Đức Giáo Hoàng không im lặng trước điều đang xảy ra trên thế giới”.
Dấn thân cho hoà bình là điều thiết yếu mà việc truyền thông của Đài Phát Thanh Vatican theo đuổi.
“Hoà bình. Nói về hoà bình. Liên lỉ và kiên định. Biết bao lần trong những năm gần đây các vị Giáo Hoàng đã kiên nhẫn và liên lỉ hướng dẫn chúng ta nói về hoà bình!”
Điều răn thứ hai của Cha Lombardi là “hiểu và duy trì giá trị của sự đa dạng về văn hoá”. Ngài gợi nhắc lại sau biến cố Bức Tường Berlin sụp đổ, đã có một đề xuất là nên đóng cửa một số ban thuộc Ngôn Ngữ Miền Đông Âu ở Đài Phát Thanh Vatican, bởi vì các Giáo Hội Phía Đông không còn cần đến sự hỗ trợ lớn lao như thế nữa.
Ngài đã hoàn toàn phản đối ý tưởng đó, Ngài nói, bởi vì “việc làm truyền thông cho Giáo Hội và cho con người cần phải đồng hành với đời sống và hoàn cảnh lịch sử của họ, hiểu được những mong đợi và mong muốn của họ. Nếu bạn thực sự yêu con người, thì bạn tiếp tục đồng hành với họ”.
Điều răn này đi theo với điều răn thứ ba, “có liên hệ đến việc tập trung đến những người bé mọn và những vùng nghèo nàn đang thiếu thốn những tiện ích về kỹ thuật và kinh tế”.
Điều răn thứ tư liên quan đến sự trong sáng: “Nếu lương tâm của bạn trong sáng và bạn nhìn vào sự thật cách khách quan, thì bạn có thể chấp nhận bất cứ hoàn cảnh nào”.
Điều răn thứ năm của Cha Lombardi là “phục vụ Giáo Hội và Đức Giáo Hoàng đáng kính có thể mang lại động lực cần thiết để cùng nhau đạt đới một mục tiêu – tôi khẳng định, cùng nhau, như một cộng đồng – những nghiệp đoàn lớn, ngay cả trong lãnh vực truyền thông”.
Ngài suy gẫm về kinh nghiệm của mình liên quan đến việc truyền thông vào năm cuối đời của Thánh Gioan Phaolô II, và mật nghị hồng y năm 2005.
Những tác động tích cực của việc truyền thông giúp cha hiểu rằng “nếu chúng ta chuẩn bị kỹ càng và có động lực tốt, thì mọi người sẽ tạo ra những điều lớn lao”, để thấy rằng “chúng ta đang nói về con người, không nói về các con số, nhưng về các nguồn lực con người”.
Phòng truyền thông thực hiện và lưu giữ những cuộn phim về những ngày cuối đời của Thánh Gioan Phaolô II trong tình trạng bệnh tật, và nỗi thống khổ của Ngài.
Cha Lombardi nhấn mạnh: “Tôi hoàn toàn xác tín rằng truyền thông không đơn giản là dùng chiếc máy ảnh chụp vào lưu giữ những hình ảnh đau khổ vào giai đoạn cuối đời của Đức Giáo Hoàng để chuyển tải ra bên ngoài cho thế giới biết, nhưng làm công việc này bằng tất cả sự thận trọng và lòng kính cẩn, được dẫn dắt bởi một tình yêu sâu sắc dành cho người được lên máy”.
Và cha kết luận rằng “để hiểu và để truyền thông cách đầy đủ và sâu xa nhất về một con người, chúng ta phải yêu mến người ấy, yếu mến người ấy rất nhiều” – đây là điều răn Thứ Sáu.
Sau đó Cha Lombardi nói về kinh nghiệm của ngài trong vai trò là giám đốc phòng báo chí Toà Thánh, về biết bao công việc mà cha đã nỗ lực thực hiện, đặc biệt trong những trường hợp về những vụ bê bối lạm dụng tình dục ở hàng giáo sĩ và về các vấn đề tài chính của Vatican.
Về khía cạnh các vụ bê bối lạm dụng tình dục hàng giáo sĩ, Cha Lombardi nhắc lại rằng “Đức Benedict XVI đã nói vài lần về con đường thanh luyện của Giáo Hội khi xem xét đến các dấu hiệu kinh khiếp của sự hiện diện sự dữ trong chính Giáo Hội”.
Cha Lombardi thú nhận rằng: “Việc ở tuyến trước trong tư cách là một nhà truyền thông cho phép và đòi hỏi một người có liên quan một cách rất sâu sắc đến con đường này, và để dự phần vào đó nhằm nỗ lực đóng góp một phần nhỏ bé những đau khổ cá nhân cho cái giá quá lớn mà Giáo Hội phải trả”.
Và cha nhấn mạnh rằng Điều răn Thứ Bảy là “hãy sẵn sàng, trong sự liên đới với cộng đoàn Giáo Hội, để thường xuyên trả giá đau đớn cho việc lớn lên trong sự thật”.
Về vấn đề bê bối tài chính, Cha Lombardi đã nhắc lại là chiến lược truyền thông đã phát triền thế nào, cũng nhờ vào hãng truyền thông bên ngoài chuyên về kiểu truyền thông đó, vì “đó là quyền được quan sát mà văn phòng báo chí, với những nguồn lực hiện có, không thể tự mình quản lý việc truyền thông của các vấn đề phức tạp về mặt kĩ thuật để tiếp tục trung thành với công việc của mình”.
Từ vấn đề tái chính đưa đến Điều răn Thứ Tám là: “Chúng ta phải xem là bình thường để trở nên trung thực trước các vấn đề quản trị và pháp lý của các tổ chức của chúng ta. Đây là một phần của sự uy tín của Giáo Hội”.
Điều răn thứ chín, là “sống và bảo vệ bản chất đặc thù của một Giáo Hội lữ hành, và tường thuật về Giáo hội để có thể chia sẻ, chứ không phải hạ thấp”, vì “sứ mạng của Giáo Hội, và truyền thông là đặc biệt liên hệ với nhau bởi vì tự bản chất vốn có của chúng”.
“Đây là điều mà tôi đặc biệt sống trong Triều Đại Giáo Hoàng này, là có thể đặt vấn đề trước nhiều khía cạnh của đời sống và công việc của chúng ta. Đây là Điều răn Thứ Mười của tôi”.
Hoàng Minh
Nguồn: DCCT