Biến cố trong tháng
Tại sao quân khủng bố đặt bom phá trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Algeria?
Tại sao quân khủng bố đặt bom phá trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Algeria?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Ngày nay, có thể nói nhiều quốc gia, đặc biệt Tây phương và Hoa Kỳ đang phải đối phó với một trận chiến khó khăn nhất là "khủng bố". Nếu trước đây một số quốc gia đã không thắng nổi quân du kích thì nay khủng bố, một chiến thuật mới đang được áp dụng tại bất cứ ở đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào và vào bất cứ thời điểm nào là cuộc chiến xem ra có vẻ mới lạ và không dễ tiêu diệt.
Cái khó trong chiến tranh chống khủng bố là vấn đề tôn giáo. Trong quá khứ đã có những cuộc "thánh chiến" không đúng với mục đích của tôn giáo và vượt ra ngoài biên giới của nó đã để lại tiếng xấu cho hậu thế, và đưa tới hậu quả nguy hại về tinh thần, dẫn tới sự khủng hoảng ít nhiều trong tôn giáo. Nay lại có những người nhân danh tôn giáo để phát động thánh chiến bằng khủng bố và thánh chiến với tham vọng nắm quyền lực, cai trị đất nước bằng luật của tôn giáo!
Biến cố tàn phá vĩ đại và có ảnh hưởng sâu đậm nhất đối với dân Mỹ và thế giới tự do là ngày 11.9.2003, khi quân khủng bố dùng phi cơ tự sát lao vào, phá sập hai tòa nhà chọc trời của Trung tâm Thương mại Thế giới "WTC" (World Trade Center) ở Nữu Ước và một phi cơ lao xuống Ngũ Giác Đài (Pentagon), cơ quan đầu não của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ. Từ biến cố này, phong trào khủng bố lan rộng. Một tổ chức nhỏ, Al-Qaeda, không cần quân đội hùng hậu và chuyên nghiệp, không cần vũ khí hiện đại hay phi cơ tối tân hoặc bom nguyên tử v.v... mà vẫn có thể tấn công thẳng vào đầu não của đế quốc Mỹ, làm cho các cơ sở Mỹ ở ngoại quốc rơi vào tình trạng bất an là một khích lệ lớn đối với các nhóm Islam quá khích.
Biến cố bom nổ trước cơ sở của Liên Hiệp Quốc tại Algeria ngày 11.12.2007 lại một lần nữa làm cho thế giới sửng sốt. Hết mục tiêu Hoa Kỳ, nay quân khủng bố đánh thẳng vào Liên Hiệp Quốc, cơ quan tối cao của nhân loại, khiến cho nhiều người thắc mắc tại sao?
Để tìm hiểu, chúng ta hãy hướng về Algeria.
1-CƠ SỞ CỦA LIÊN HIỆP QUỐC BỊ TẤN CÔNG
Ngày thứ ba 11.12.2007, hai tiếng bom nổ vang trời làm chấn động thủ đô Algiers của Algeria. Hai tiếng nổ phát xuất từ hai xe chứa chất nổ do quân khủng bố thực hiện.
Xe bom thứ nhất nổ từ một xe bus chở học sinh đậu trước văn phòng Chính phủ & Tối Cao Pháp Viện.
Xe bom thứ hai nổ trước tòa nhà của Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc "UNDP" (United Nation Development Program). Bom nổ làm cho nhà đổ, gây tử thương cho 11 nhân viên và hàng chục người bị thương. Trong tòa nhà này và khu đối diện là nơi làm việc của ban tham mưu của Chương trình Thực phẩm Thế giới "WFP" (World Food Programme), Tổ chức Lao động Quốc tế "ILO" (International Labor Organization), Quỹ Dân Số LHQ "UNFPA" (United Nations Population Fund), Tổ chức Phát triển Kỹ nghệ LHQ "UNIDO" (UN Industrial Development Organization), Cao Ủy Tị nạn LHQ "UNHCR" (UN High Commissioner For Refugees).
Theo tuyên bố của chính phủ, hai vụ nổ đã làm cho 26 người chết và 177 người bị thương. Nhưng nguồn tin từ bệnh viện cho biết có tới 76 người chết. Số người chết và bị thương hiện chưa đưa kiểm chứng một cách chính xác, vì khi bài viết được đúc kết đoàn cứu cấp còn đang đào bới các đống gạch đổ nát để tìm người sống sót.
Tại sao vụ khủng bố lại diễn ra tại Algeria mà không phải là cơ sở của Liên Hiệp Quốc ở Genève, Thụy Sĩ hay Nữu Ước, Hoa Kỳ?
Muốn hiểu rõ hơn chúng ta lại phải tìm hiểu các hoạt động chính trị tại Algeria trong thời gian qua.
2-ĐÔI HÀNG VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ TẠI ALGERIA
Algeria bị Pháp xâm chiếm từ năm 1830. Không giống Marocco và Tunesia, cuộc xăm lăng của Pháp tại Algeria khá tàn bạo. Chính Olivier Le Cour Grandmaison, giáo sư môn khoa học chính trị của viện đại học Evry-Val d’Essonne và viện triết học quốc tế của Pháp, đã phê bình chủ nghĩa thuộc địa, chủ trương hủy diệt dân bản xứ và qui trách nhiệm cho Pháp quốc về cái chết của khoảng 1/3 dân số Algeria (1,5 triệu người).
Năm 1954, Mặt trận Giải phóng Quốc gia "NLF" (National Liberation Front) phát động chiến tranh du kích dành tự chủ và đã thành công. Sự thành công có được là do các phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh sau Thế chiến II và tổng thống Charles de Gaulle đã nhận thức được xu hướng của thời đại mới và chế độc thuộc địa không thể tồn tại.
Năm 1962, hơn một triệu người, trong đó có 81.000 người Algeria phục vụ trong quân đội Pháp và phần còn lại là dân Tây phương và lai Pháp, khoảng 10% dân số, đã bỏ chạy sang Pháp. Những người còn ở lại và từng cộng tác với thực dân Pháp, khoảng 50.000 tới 150.000, bị quân giải phóng giết chết. Tổng thống đầu tiên của Algeria là thủ lãnh Mặt trận Giải phóng Quốc gia, Ahmed Ben Bella. Nhưng sau ông bị Bộ trưởng Quốc phòng, Houarri Boumdienne lật đổ vào năm 1956. Boumdienne chết năm 1978, Chadli Bendjedid lên cầm quyền tuy có cởi mở đôi chút, nhưng thực chất chế độ vẫn là chế độ độc tài. Đất nước phát triển, nhưng với nhịp độ chậm.
Trong thập niên 1980, hai phong trào xuất hiện trong thế hệ trẻ là cánh Tả Bebers (left wingers) và Mặt trận Islam (Islamic Front). Hai phong trào này chống chế độ độc đảng. Vì bất đồng quan điểm, cuộc tranh chấp giữa hai phong trào đã xẩy ra cả trong các viện đại học và ngoài đường phố. Tuy vậy, hàng loạt các cuộc biểu tình chống đối chính phủ đã được tổ chức vào mùa Thu 1988. Kết quả là tổng thống Bendjedid phải hủy bỏ chế độ độc đảng và tổ chức bầu cử vào năm 1991.
Tháng 12.1991, Mặt trận Cứu nạn Islam (Islamic Salvation Front) thắng cử vòng đầu trong cuộc bầu cử đa đảng lần đầu tiên. Nhưng quân đội liền can thiệp, hủy bỏ bầu cử vòng hai và đòi TT. Bendjedid phải từ chức. Quân đội cũng bãi bỏ các đảng phái chính trị dựa trên tôn giáo, kể cả Mặt trận Cứu nạn Islam. Biến cố này đã tạo nên cuộc nội chiến tại Algeria kể từ thời điểm đó. Có trên 160.000 người bị chết vào thời gian từ 17.1.1992 tới tháng 6-2002, do xung đột giữa Nhóm Vũ trang Islam (Armed Islamic Group) và binh lính của chính phủ.
Theo các nhà nhận định thời cuộc thì các cuộc giết chóc không chỉ do nhóm quá khích Islam gây ra, mà cả quân đội. Đây là mấu chốt tạo nên các cuộc khủng bố của nhóm Islam quá khích.
Năm 1995, cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức lại. Năm 1998 chiến tranh tạm ngưng. Ngày 27.4.1999, sau nhiều thời kỳ lãnh đạo ngắn ngủi thay phiên nhau, Abdelaziz Bouteflika thắng cử và là tổng thống hiện nay. Đến năm 2002, các nhóm du kích chính hầu như bị đánh tan hay tự đầu hàng do chương trình ân xá của chính phủù. Tuy vậy, vẫn còn các nhóm nhỏ chiến đấu lẻ tẻ tại nhiều khu vực, phần lớn là dân Muslim.
Về dân số Algeria có khoảng 33.333.216 người sống trên một diện tích khá rộng 2.381.740 km2. Tổng sản lượng quốc nội: 102,26 tỷ Mỹ-kim chia cho mỗi đầu người được: 3.086 Mỹ-kim, đứng hàng thứ 84 trên thế giới. Phần lớn dân sống ở Algeria là người nói tiếng Berber và Ả Rập, nhưng chia thành nhiều nhóm thiểu số như: Kabyle ở miền núi trung Bắc, Chaoui ở miền Đông, Mozabites ở vùng thung lũng M’zab và Tuareg ở phía Nam.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên giầu có nhất là dầu hỏa, đạt tới 60% lợi tức ngân sách và chiếm 30% tổng sản lược quốc nội (GDP), 95% lợi tức xuất cảng. Algeria được xếp hàng thứ 14 về trữ lượng dầu hỏa, có 11,6 tỉ thùng và hơi đốt có khoảng 160 ngàn tỉ mét khối, đứng hàng thứ 8 trên thế giới.
Phải chăng vì nguồn lợi dầu hỏa và hơi đốt lớn lao đã làm cho Algeria nổi tiếng và là điểm tranh chấp giữa các quốc gia, giữa khủng bố và Hoa Kỳ?
3-CÁC CUỘC KHỦNG BỐ TRONG NĂM 2007
Bị mất dịp tham gia vào chính quyền và nắm quyền lực, các nhóm Islam phát động phong trào khủng bố tại Algeria. Các cuộc khủng bố đã xẩy ra trong năm 2007 được ghi nhận như sau:
-Tháng giêng: có 6 bom nổ, giết chết 6 người ở phía đông thủ đô Algiers.
-Tháng ba: 3 người Algeria và 1 nguời Nga bị giết khi làm việc tại ống dẫn dầu.
-Tháng tư: 33 người bị giết do nhóm Islam Maghreb thuộc Al-Qaeda tấn công.
-Tháng năm: hàng chục người bị giết trong cuộc bầu cử, khi binh lính và quân kháng chiến giao tranh.
-Tháng sáu: bom tự sát nổ tại trại lính gần Bouira, giết 9 người.
-Ngày 6 tháng 9: 22 người bị chết vì bom nổ.
-Ngày 8 tháng 9: 32 người chết vì bom nổ tại Dellys.
-Ngày 11.12: hai xe chứa chất nổ giết chế 26 người, trong đó có 11 nhân viên LHQ và 177 người bị thương.
4-KHỦNG BỐ CÔNG KHAI NHẬN TRÁCH NHIỆM
Nhóm khủng bố Salafist (GSPC), thuộc cơ cấu khủng bố Bắc Phi al-Qaeda Islamic Maghreb, một chi nhánh của tổ chức khủng bố thế giới Al-Qaeda, đã phát động chiến dịch "Giảng đạo và chiến đấu" (Preaching and Combat), tuyên bố công khai trên Internet (Web site) chính họ chủ trương trong hai vụ bom nổ. Nhóm này cũng đã khủng bố tại thủ đô Algiers trong tháng 4.2007 khiến cho 33 người bị chết.
Nhóm khủng bố có tên Al-Qaeda Maghreb công khai nhận trách nhiệm trong hai vụ đặt hai xe bom nổ mà họ cho là nhằm mục đích giết tổng thống Algeria, Abdelaziz Bouteflika, khi ông ta đếm thăm phố Batna gần phía Đông thủ đô Algiers vào ngày thứ năm. Lời xác nhận vào Chủ nhật được Abu al-Muqdad al-Wahrani đeo dây chất nổ ngang hông nói trên mạng lưới của tổ chức này cho rằng họ không thể vượt qua hàng rào an ninh bảo vệ tổng thống. Tổ chức này cũng xác nhận hôm thứ bẩy 9.12.2007 đã tấn công đồn gác ở cảng Dellys, cách thủ đô Algiers khoảng 80 cây số bằng xe chở 800 kg chất nổ. Nhóm này nói trái bom mang tên trùm khủng bố của Iraq là Abu Musab al-Zarqawi đã bị quân đội Mỹ giết tại Iraq.
Tổ chức Al-Qaeda Islamic Maghreb được hình thành nhằm lật đổ chính quyền Algeria thân Tây phương và Hoa Kỳ. Theo Hội đồng về Đối ngoại của Mỹ thì tổ chức này tự kết hợp với Al-Qaeda vào đầu năm 2003. Tháng tư vừa qua, nhóm đã đặt bom nổ trước văn phòng thủ tướng, giết chết 12 người, làm bị thương 118 người; nhưng thủ tướng Abdelaziz Belkhadem thoát nạn.
5-TẠI SAO QUÂN KHỦNG BỐ LẠI PHÁ HOẠI CẢ CƠ SỞ CỦA LIÊN HIỆP QUỐC?
Nếu theo dõi cac biến chuyển của thế giới trong những năm vừa qua, người ta thấy tổ chức Al-Qaeda đã nhúng tay vào nhiều vụ khủng bố đối với Liên Hiệp Quốc. Lý do được giải thích là LHQ đã đồng tình với Hoa Kỳ công khai chống lại khủng bố qua các quyết định và hành động như:
-Chiến lược chống khủng bố toàn cầu của LHQ đã được thông qua tại khóa họp Đại Hội Đồng LHQ vào tháng 9.2006.
-Chương trình phong tỏa tài chính của nhóm Taliban và Al-Qaeda, đã được 34 quốc gia thi hành trong tháng giêng 2006. 93,4 triệu Mỹ-kim của cá nhân và các nhóm có tên trong Quyết định 1267 (1999) của Hội Đồng Bảo An LHQ đã bị giữ lại.
-Hội Đồng Bảo An LHQ cấm du lịch và phong tỏa tài chính các nhân viên và cộng sự viên của tổ chức khủng bố Al-Qaeda.
-Quỹ Tiền Tệ Thế Giới "IMF" (International Monetary Fund) đã hướng dẫn 40 quốc gia chống mọi hoạt động rửa tiền và kinh tài của các tổ chức khủng bố.
Với cái nhìn khách quan về phương diện chính trị, người ta nghĩ dưới con mắt của tổ chức khủng bố bao trùm thế giới Al-Qaeda thì cuộc khủng bố Hoa Kỳ là cuộc chiến giữa hai đối thủ. Một bên là đế quốc Mỹ, bên kia là đạo Islam. Liên Hiệp Quốc là cơ cấu chung của thế giới tại sao lại đồng tình với Hoa Kỳ và trực tiếp ban hành các quyết định lên án và chống lại các tổ chức khủng bố?
Việc đơn phương xâm lăng Iraq của Hoa Kỳ không được Liên Hiệp Quốc chấp thuận, vậy tại sao Hoa Kỳ không bị trừng phạt hay phong tỏa về chính trị cũng như kinh tế?
Khi không có quyết định trừng phạt Hoa Kỳ thì dưới con mắt của trùm khủng bố Osama bin-Laden và tổ chức Al-Qaeda, LHQ thiếu công bằng và trở nên bất lực.
Chính vì vậy, một số hoạt động khủng bố nhằm cảnh cáo, Al-Qaeda đã trực tiếp tấn công vào cơ sở LHQ trong thời gian qua như:
-Năm 2003, quân khủng bốõ đặt bom nổ trước cơ sở LHQ tại thủ đô Baghdad làm cho 22 người chết, trong đó có đặc sứ Sergio Vieira de Mello đại diện của LHQ tại Iraq.
-Năm 1993, có 3 vụ khủng bố xẩy ra ở Angola. Tháng hai nhóm Renovada thuộc Mặt trận Giải phóng Lãnh thổ Cabinda "FLEC" (Front for the Liberation of the Enclave of Cabinda) đã bắt cóc một viên chức của LHQ và trong tháng năm đã tấn công công ty dầu hỏa Chevron International của Mỹ, bắt một số nhân công người Bồ Đào Nha làm con tin. Cùng tháng hai, bom nổ gần văn phòng LHQ ở Luanda khiến cho một người bị thương.
-Ngày 23.1.1993, du kích A Phú Hãn phục kích một xe của LHQ gần Jalalabad và giết chết 4 nhân viên...
Ngoài ra, khi nghiên cứu về chiến lược đánh phá tư bản Mỹ và Tây phương của tổ chức khủng bố thế giới Al-Qaeda, chúng tôi nhận thấy chiến thuật tấn công và đánh đuổi đế quốc Mỹ cùng Đồng Minh ra khỏi các quốc gia Islam giầu có tài nguyên thiên nhiên dầu hỏa là chiến thuật hữu hiệu nhất mà Al-Qaeda hy vọng sẽ làm cho các quốc gia kỹ nghệ tư bản Tây phương và Hoa Kỳ phải "quì lậy".
Kế hoạch này có thể nhận thấy qua sự lệ thuộc và nhân nhượng trong chính sách đối ngoại của các quốc gia trong Liên Hiệp Âu Châu đối với "đế quốc dầu hỏa và hơi đốt" Nga Sô.
Chính vì vậy mà cuộc tranh chấp và khủng bố trên toàn thế giới không thể giải quyết khi mà bên nào cũng muốn dành phần thắng về mình.
6-CUỘC KHỦNG BỐ Ở ALGERIA LÀ LỜI CẢNH CÁO ĐỐI VỚI ÂU CHÂU
Biến cố Algeria vừa qua cho phép người ta nhận định là quân khủng bố có khả năng đánh vào bất cứ nơi nào và địch thủ nào họ muốn. Sau Hoa Kỳ là Âu châu, một mục tiêu mà trùm khủng bố thế giới Osama bin-Laden đã cảnh cáo nếu các quốc gia trong Liên Hiệp Âu Châu không rút hết binh lính ra khỏi A Phú Hãn và Iraq. Anh, Tây Ban Nha đã nếm mùi khủng bố. Pháp quốc từng xâm lược Algeria và ủng hộ chính quyền nước này làm cho các nhóm Islam bất bình. Tổng thống Pháp Sarkozy có ông nội gốc Do Thái, lại thân thiện với Hoa Kỳ và ủng hộ Do Thái, có thể vì thế mà Pháp sẽ là một mục tiêu trong tương lai của nhóm Maghreb, khi họ gây được ảnh hưởng hay bắt tay được các nhóm khủng bố tại Pháp. Đức và Pháp chống Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh xâm lược Iraq nên không bị khủng bố trong thời gian qua. Nay chính phủ Pháp thân thiện với Hoa Kỳ và Do Thái thì người ta lo ngại một cuộc khủng bố trên đất Pháp có thể sẽ xẩy ra. Biết đâu tháp Eiffel, một biểu tượng của Pháp, sẽ bị bom nổ?
KẾT LUẬN
Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-Moon đã lên án vụ khủng bố vào LHQ. Ông cũng cho rằng đây là cuộc khủng bố vào LHQ lớn nhất kể từ vụ khủng bố xẩy ra tại thủ đô Baghdad của Iraq vào năm 2003.
Đa số thủ lãnh của các quốc gia Tây phương và Hoa Kỳ đã lên án hành động của quân khủng bố. Trong khi đó phần lớn thủ lãnh của các nước Islam giữ thái độ im lặng. Sự kiện này chứng tỏ các quốc gia hội viên của LHQ chưa thống nhất về quyết tâm và việc thi hành chính sách chống khủng bố. n
-----------
Đính chính
Bài Biến Cố Trong Tháng, DCÂC số 302 tháng 12-2007, cột thứ 3, dòng thứ 6 tòa soạn ghi lộn: trên tỉ 200.000 lính, xin đính chính là trên tới 200.000 lính.
Pakistan số phận Tổng Thống Pervez Musharraf sẽ ra sao?
PAKISTAN số phận Tổng Thống Pervez Musharraf sẽ ra sao?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Trong những ngày vừa qua, tình hình Hồi quốc (Pakistan) trở nên căng thẳng. Nhiều cuộc biểu tình chống Tổng thống Pervez Musharraf, trong đó có cả luật sư đoàn, đã diễn ra tại thủ đô Islamabad cũng như tại một số tỉnh lớn. Trước các biến động có thể tạo nên cuộc khủng hoảng chính trị toàn diện, TT. Musharraf đã quyết định đặt đất nước trong tình trạng khẩn trương (State of Emergency), hủy bỏ hiến pháp, giải tán cơ cấu lập pháp cũng như tư pháp và quyền hành nằm trong tay quân đội.
-Phải chăng đây là cuộc đảo chính lần thứ hai của Tướng Pervez Musharraf khi tòa án không chấp thuận ông tiếp tục chức vụ Tổng thống nhiệm kỳ hai?
Để quí độc giả có thể hiểu rõ vấn đề, chúng tôi lần lượt trình bày các điểm dưới đây:
1-TẠI SAO DÂN CHÚNG XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH CHỐNG TT. PERVEZ MUSHARRAF?
Trước khi tìm hiểu lý do tại sao, chúng ta cần ngược dòng thời gian để biết TT. Pervez Musharraf lên nắm chính quyền trong trường hợp nào?
1.1-Nắm quyền qua một cuộc đảo chính
Cuộc chiến giữa Ấn Độ và Hồi quốc xẩy ra tại Kargil thuộc khu vực tranh chấp Kashmir từ tháng 5 tới tháng 7 năm 1999 đã gây nên sự xung đột giữa chính quyền và quân đội. Theo lịch sử thì vùng Kashmir là đất của Ấn Độ. Nhưng đa số dân sống tại thành phố này lại là người theo đạo Hồi, nên nhóm quá khích Islam đã phát động phong trào đòi Kashmir được tự trị và trở thành phần đất của Hồi quốc.
Dựa vào lịch sử các cuộc tranh chấp lãnh thổ trên Thế giới, chúng ta thấy Kashmir có thể so sánh với Kosovo là đất đai của Nam Tư (Serbia), nhưng hơn 90% dân sinh sống tại Kosovo lại là người Albania theo đạo Hồi. Dân Thiên Chúa giáo hệ phái Chính Thống trở thành thiểu số trên quê hương mình. Dựa vào đa số, dân Muslim tranh đấu đòi tự trị và chịu ảnh hưởng bởi Albania.
Kashmir cũng rơi vào tình trạng đất đai thuộc về Ấn Độ và dân Ấn bỗng nhiên trở thành thiểu số, nhưng nhất quyết giữ vững chủ quyền. Nhiều cuộc xung đột vũ trang và khủng bố do phía người Hồi giáo chủ trương đãxẩy ra. Để giải quyết chính quyền Ấn và Hồi quốc đã thỏa thuận về một đường ranh phân chia Kashmir thành hai vùng riêng biệt. Nhưng người Muslim vẫn muốn dành vùng đất này thuộc về Hồi quốc.
Sau khi thử thành công vũ khí nguyên tử đầu tiên vào năm 1998, Hồi quốc tự cho mình trở thành cường quốc nguyên tử và không còn sợ Ấn Độ như trước đây. Để hỗ trợ cho các nhóm Muslim tại Kashmir, quân đội Pakistan đã xâm nhập qua đường ranh giới, tấn công vào các vị trí quân sự và hành chính của Ấn Độ. Ở cao điểm của cuộc chiến có lúc hai bên đã huy động một lực lượng hùng hậu lên trên tỉ 200.000 lính. Quân Hồi bất ngờ tấn công trước, nhưng bị quân Ấn phản công và đánh bại. Sự tổn thất khá cao về phía quân Hồi là nguyên nhân đưa đến tình trạng tranh chấp nội bộ.
Liên Hiệp Quốc cũng như các quốc gia trong vùng lo sợ cuộc chiến cục bộ có nguy cơ lan thành chiến tranh nguyên tử, nên đã cố gắng giảng hòa bằng ngoại giao. Sau các cuộc đàm phán và nhờ áp lực từ mọi phía, Pakistan chịu rút quân.
Sau cuộc chiến Thủ tướng Nawaz Sharif tuyên bố Hồi quốc bị thất bại nặng nề và hơn 4.000 lính bị tử thương. Lời tuyên bố của Thủ tướng Sharif làm cho Tư Lệnh Quân đội là Tướng Pervez Musharraf bất bình. Ông lên án chính quyền đã làm mất danh dự quân đội, trong khi dân chúng đang mong một chiến thắng về cho đất nước.
Thủ tướng Nawaz Sharif đưa Tư Lệnh Quân đội ra trước tòa án quân sư mặt trận và Tối Cao Pháp Viện. Tướng Musharraf bị trục xuất ra khỏi nước. Giám đốc cơ quan tình báo Khwaja Ziauddin được bổ nhiệm thay thế.
Sau khi bị trục xuất, Tướng Musharraf lên một chiếc phi cơ thương mại quay trở về. Thực ra, Hội đồng Tướng lãnh không chấp nhận phán quyết hủy bỏ chức vụ Tư lệnh Quân đội của Tướng Pervez Musharraf của Tối Cao Pháp Viện. Mặc dù vậy, Thủ tướng Sharif không nhượng bộ và ra lệnh đóng cửa phi trường Karachi, không cho phép bất kỳ phi cơ dân sự nào đáp xuống. Nhóm Tướng lãnh ủng hộ cựu Tư lệnh Quân đội làm cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Sharif và chiếm phi trường Karachi. Lúc đó phi cơ của Tướng Musharraf đáp xuống chỉ còn vài phút nữa là hết xăng. Nếu máy bay không đáp xuống kịp thời, có thể ông ta bị chết vì tai nạn.
Tướng Musharraf dành lại quyền lực và ra lệnh quản thúc Thủ tướng Sharif tại gia, sau đó trục xuất ra khỏi nước. Tổng thống đương nhiệm Rafip Tarar, vẫn còn tại chức cho tới năm 2001. Khi Tổng thống Tarar qua đời, Tướng Musharraf tự phong mình lên làm Tổng thống từ ngày 20.6.2001, chỉ vài ngày trước khi ông ta đến dự cuộc hòa đàm với Ấn Độ tại Agra để giải quyết cuộc tranh chấp về lãnh thổ Kashmir.
1.2-Những cuộc chống đối TT- Musharraf..
Tự phong mình lên chức Tổng thống là hành động thiếu dân chủ và bị chống đối là chuyện tất nhiên. Muốn hợp thức hóa chức vụ của mình, Tướng Musharraf đã tổ chức cuộc trưng cầu ý dân vào ngày 30.4.2002. Cuộc trưng cầu ý dân bị tẩy chay bởi phần lớn các tổ chức chính trị đối lập. Họ khiếu nại có gian lận trong bầu cử và số lượng người đi bầu chỉ có 30% hoặc thấp hơn. Như vậy việc trưng cầu ý dân không đạt được tiêu chuẩn đa số tối thiểu cần thiết để TT. Musharraf được tiếp tục giữ chức vụ Tổng thống thêm 5 năm nữa.
Vài tuần lễ sau, TT. Musharraf xuất hiện trên đài truyền hình xin lỗi quốc dân về những "sái luật" trong cuộc trưng cầu ý dân. Để cơ cấu hành pháp và luật pháp hoạt động trở lại bình thường, TT. Musharraf ban hành sắc lệnh bầu cử Quốc hội vào tháng 10.2002. Đảng Bảo thủ Trung tâm PML-Q (Pakistan Muslim League- Quaid-e-Azam), đảng ủng hộ TT. Musharraf kết hợp với Mặt trận Muttahida Qaumi "MQM" (Muttahida Qaumi Movement), đã thắng đa số trong Quốc hội và hợp thức hóa chức vụ của TT. Musharraf. Nếu xét về phương diện luật pháp thì sự tín nhiệm của Quốc hội có thể được coi là hợp lý.
Tháng 11.2002, TT. Musharraf trao quyền thành lập chính phủ cho Tân Thủ tướng Mir Zafanullah Khan Jamali.
Mặc dù đã trở thành Tổng thống dân sự; nhưng Tướng Musharraf không chịu dời bỏ chức vụ Tư lệnh Quân đội. Lý do dễ hiểu ở chỗ, nếu dời quân đội, ông ta sẽ gặp nhiều bất lợi trên chính trường, kể cả sự nguy hiểm tới tính mạng do quân khủng bố gây ra, sau khi nhiệm kỳ Tổng thống chấm dứt. Ông ta cũng lo ngại sẽ bị đảo chính.
Chính vì nắm toàn quyền, dân sự lẫn quân đội; nên TT. Musharraf bị các đảng phái chống đối và đa số dân chúng không nhiệt tình ủng hộ. Áp lực đòi TT. Musharraf phải từ chức không chỉ lan rộng ở trong nước mà cả ở ngoại quốc.
Để giải tỏa mọi áp lực và cố tìm sự hậu thuẫn trở lại, tháng 12.2003, TT. Musharraf thỏa thuận với Liên hiệp ba đảng Islam "MMA" "Muttahida Majlis-e-Amal", và hứa sẽ rời chức vụ quân đội vào ngày 31.12.2004. Hứa là một chuyện, sau đó TT. Musharraf lại thỏa hiệp với đảng MMA và các dân biểu, nghị sĩ ủng hộ ông trong Quốc hội thông qua đạo luật cho phép ông giữ cả hai chức vụ: Tổng thống và Tư lệnh Quân đội. Hành động này càng làm cho dân chúng và các đảng phái đối lập chống đối
2-TẠI SAO QUÂN KHỦNG BỐ MUỐN GIẾT TT. MUSHARRAF?
Nguyên nhân 1: Vì chống Hồi giáo quá khích
-Ngày 12.2.2002, TT. Musharraf tuyên bố trên đài truyền hình chính quyền sẽ dùng mọi biện pháp chống khủng bố, chống các nhóm Hồi giáo quá khích và bất tuân luật pháp quốc gia. Ông ra lệnh cấm các trường (Madrasas) và các đền Hồi giáo (Mosques) nhồi sọ giáo lý Islam và khích động thánh chiến, kể cả các hoạt động khủng bố bên ngoài lãnh thổ, ám chỉ các bộ lạc nằm giữa biên giới A Phú Hãn và Hồi quốc ủng hộ tổ chức khủng bố Al-Qaeda. Ông cũng tuyên bố cấm các Quỹ ngoại quốc tài trợ cho các trường dậy đạo Islam, kể cả các sinh viên ngoại quốc tới học đạo tại Hồi quốc. Sở dĩ TT. Musharraf đưa ra các biện pháp cứng rắn đối với các tổ chức Islam quá khích và khủng bố vì các tài liệu thu thập được chứng minh các trường này huấn luyện chí nguyện quân tự sát, khích động thánh chiến và khủng bố.
-Trong năm 2001, quân đội đã mở cuộc hành quân tảo thanh quân khủng bố đang ẩn náu tại các bộ lạc phía Bắc Pakistan. Cuộc hành quân đã gây thiệt hại cả về vật chất lẫn sinh mạng. Cuộc hành quân, nhìn về phía quốc gia Pakistan chỉ là một cuộc hành quân có mục đích vãn hồi trật tự và an ninh. Nhưng dưới con mắt của các tổ chức Islam quá khích thì cuộc hành quân này nhằm chống lại dân Muslim và đạo Islam. Hành động này khó có thể được tha thứ. Chính vì vậy mà các vụ bom nổ đã xẩy ra.
Sự chống đối TT. Musharaf lên cao độ và biến thành bạo động vào ngày 13.9.2007, khi 300 binh lính của Hồi quốc bị quân khủng bố Islam bắt giữ trong một cuộc hành quân tảo thanh một số bộ lạc tại phía Bắc. Các phi vụ oanh kích gây cho hàng chục người bị chết là nguyên nhân khiến cho các đảng đối lập làm áp lực đòi phải tổ chức bầu quốc hội và Tổng thống.
-Ngày 14.12.2003: Khi đoàn xe của TT. Musharraf vừa băng qua chiếc cầu ở Rawalpindi thì bom nổ làm sụp cầu. Ông thoát chết nhờ miếng thép chắn trong xe. Đây là lần thứ ba ông thoát nạn trong vòng 4 năm cầm quyền.
-11 ngày sau, ngày 25.12.2003, hai người mang bom tự sát lái xe lao vào xe Tổng thống; nhưng ông thoát nạn. Xe chỉ bị bể kính. Bom nổ làm cho 16 người bị chết. Amjad Farooqi bị tình nghi chủ mưu trong vụ này đã bị quân đội giết vào năm 2004.
-Ngày 6.6.2007, một nhóm vô danh dùng súng phòng không bắn vào máy bay trực thăng của TT. Musharraf khi đáp xuống sân bay Rawalpindi. Vụ tấn công bất ngờ này cũng không mang lại kết quả. 39 người tình nghi bị bắt giữ. Các vụ ám sát trên xẩy ra ngay tại thành phố Rawalpindi, nơi tọa lạc của Bộ Tư lệnh Quân đội Pakistan.
Nguyên nhân 2: Vì bắt tay với Do Thái.
Lịch sử đã chứng minh: thủ lãnh quốc gia Hồi giáo nào bắt tay với Do Thái và thân thiện với Hoa Kỳ dễ bị ám sát.
Bằng chứng 1: Tổng thống Ai Cập Anwar Al-Sadat đã bị giết chết ngay trong cuộc duyệt binh ngày 6.10.1981, vì ông là nhà lãnh đạo Ả Rập đầu tiên đơn phương công nhận quốc gia Do Thái và ký thỏa hiệp sống chung hoà bình với Do Thái tại Camp David, Hoa Kỳ, vào năm 1978. Thỏa hiệp này bị các nước Ả Rập chống đối và Ai Cập bị trục xuất khỏi Liên đoàn Ả Rập.
Bằng chứng 2: Ngày 25.6.1995 Tổng thống Ai Cập, Hosni Mubarak trên đường đi Addis Ababa, Ethiopia để dự Hội nghị do Tổ chức Thống nhất Phi châu tổ chức đã bị ám sát hụt. Theo giới tình báo và quan sát thì thủ phạm của cuộc ám sát không ai khác, chính là Mặt trận Quốc gia Hồi giáo (the National Islamic Front) của Sudan. Theo các tài liệu của Liên Hiệp Quốc thì chính quyền Sudan trực tiếp hay gián tiếp hỗ trợ cho các hành động khủng bố.
TT. Mubarak bị ám sát cũng chỉ vì nhân nhượng với Do Thái và thân thiện với Hoa Kỳ. Trong thâp niên 1990 tổ chức khủng bố Gama’a al-Islamiyya và Egyptian Islamic Jihad đã công khai chống chính sách thân Tây phương của TT. Mubarak. Thủ lãnh cao cấp đứng hàng thứ hai của tổ chức khủng bố bao trùm thế giới Al-Qaeda là Al Zawahiri cũng xuất phát từ Ai Cập, thành viên của tổ chức Gama’a al-Ilamyya. Một số cuộc khủng bố nhắm vào dân du lịch Âu châu đã xẩy ra trong thời gian vừa qua là một chứng minh cụ thể.
Ngày Chúa nhật 17.9.2005, TT. Musharraf tham dự cuộc thuyết trình có tín cách lịch sử trước số đông thính giả là các nhà lãnh đạo cao cấp của Do Thái ở Hoa Kỳ. Cuộc thuyết trình này được đỡ đầu bởi Hội Đồng Do Thái Thế Giới tại thành phố Nữu Ước. Tại đây TT. Musharraf đã lên án khủng bố và mở cửa cho tình hữu nghị giữa Pakistan và Do Thái, giữa Thế giớ Hồi giáo (Islam) và Thế giới Do Thái. Lời phát biểu của TT. Musharraf được nhiều Thủ lãnh Do Thái ca ngợi; nhưng bị các Thủ lãnh của các nước Ả Rập Trung Đông và Đạo sĩ Hồi giáo chống đối.
Sau cuộc khủng bố ngày 11.9.2001, TT. Musharraf đã hợp tác với Hoa Kỳ trong chương trình chống khủng bố. Một số quyết định sau đây đã chứng minh lập trường của chính phủ Hồi quốc:
-Cắt đứt quan hệ tài chính, văn hóa và quân sự đối với nhóm Taleban của A Phú Hãn.
-Phối hợp hoạt động và cung cấp tin tình báo cho chính phủ Mỹ về các tổ chức khủng bố.
-Cấm các hoạt động giáo dục nhồi sọ và khích động thánh chiến và khủng bố v.v...
Chính vì vậy mà TT. Musharraf bị coi là tay chân của Hoa Kỳ về lãnh vực ngoại giao.
Qua lịch sử và một số sự kiện đã xẩy ra, người ta thấy lãnh tụ Hồi giáo nào chơi thân với Do Thái và Tây phương, đặc biệt cộng tác với Hoa Kỳ trong chương trình tiêu diệt khủng bố đều được coi là kẻ thù của Islam. TT. Musharaf đã rơi vào tình trạng như hai tổng thống Ai Cập.
3- TẠI SAO CỰU NỮ THỦ TƯỚNG BENAZIR BHUTTO KÊU GỌI DÂN CHÚNG VÙNG LÊN CHỐNG TT. MUSHARRAF?
Benazir Bhutto sinh ngày 21.6.1953 tại Karachi, con gái đầu của cựu Thủ tướng Zulfikar Ali Bhutto. Ông bố sau này bị mất chức Thủ tướng vào năm 1975 và bị kết án tử hình ngày 4.4.1979 vì tội ám sát cha của nhà chính trị đối lập Ahmed Raza Kasuri. Năm 1980, người anh tên Shahnawaz bị giết ở Pháp và năm 1996, Mir Murtaza, người anh thứ hai cũng bị giết.
Ngược dòng thời gian, nữ thủ tướng Bhutto lãnh tụ Pakistan Quốc Dân Đảng đã thắng cử và đạt đa số trong quốc hội năm 2001. Nhưng vì bị tố cáo tham nhũng, bà mất quyền và phải sống lưu vong tại Dubai vào năm 1998.
Bà Bhutto là nữ Thủ tướng đầu tiên tại Hồi quốc và hai lần giữ chức vụ Thủ tướng. Lần đầu vào năm 1990, nhưng 20 tháng sau bị giải nhiệm bởi TT. Ghulam Ishaq Khan vì tội tham nhũng. Năm 1993 bà được tái bầu Thủ tướng, nhưng lại bị mất chức vào năm 1996 thời TT. Farooq Leghari, cũng vì tội tham nhũng.
Ngày 2.10.2007, trước áp lực từ trong nước và ngoại quốc, TT. Musharraf đưa ra Sắc lệnh Hòa giải Quốc gia (the National Reconciliation Ordinance). Thỏa hiệp đoàn kết giữa Liên đoàn Muslim Pakistan của TT. Musharraf và Pakistan Quốc Dân Đảng của Benzamir Bhutto để chia quyền lực đã được nói tới. Bhutto trở lại Hồi quốc ngày 18.10.2007 theo lời kêu gọi hòa hợp hòa giải của TT. Musharraf, vì ông ta đã hủy bỏ tất cả các tội tham nhũng của bà trong thời gian trước đây để hợp tác và chia quyền lực.
Nhưng ngày 3.11.2007, Benazir Bhutto phản phé và lợi dụng thời cơ đã lên án TT. Musharraf hành động bất hợp pháp khi ban bố tình trạng khẩn trương của đất nước.
Ngày 7.11.2007, Benazir Bhutto lại đe dọa sẽ dẫn đầu đoàn biểu tình dài 300 cây số đi từ thành phố bà đang cư
ngụ Lahore tới thủ đô Islamabad, nếu TT. Musharraf không dời chức vụ Tư lệnhQuân đội và tổ chức bầu cử quốc hội để tái lập chính quyền dân sự.
Được tha tội tham nhũng và cho về nước mà Bhutto không biết ơn, lại xuống đường chống đối; nên ngày 9.11.2007, chính quyền thành phố Lahore ra lệnh quản thúc bà tại gia. Hành động có thể hiểu vì hai lý do:
-Sợ quân khủng bố lợi dụng cơ hội giết cựu Thủ tướng Bhutto, người đang được dân chúng ủng hộ. Nếu cuộc khủng bố thành công, dân chúng sẽ nghi ngờ TT. Musharraf chủ mưu giết đối lập. Như vậy, TT. Musharraf có thể bị rơi vào tình trạng như bố của bà Bhutto đã bị xử tử hình năm 1975, vì tội giết đối lập.
Sự suy luận của chúng tôi dựa trên biến cố ngày 18.10.2007, khi bà Bhutto được trở về đã có 200.000 người đón tiếp. Quân khủng bố lợi dụng cơ hội đất nước đang rơi vào tình trạng khủng hoảng chính trị, đã đặt xe chứa bom nổ ngay tại đám đông, khi bà Bhutto cùng đoàn diễn hành tiến tới đài tưởng niệm nhà sáng lập quốc gia là Mohammad Jinnah. Bom nổ khiến cho hơn 130 người chết
-Sợ bà Bhutto thừa cơ hội này lật đổ chính quyền và biết đâu TT. Musharraf lại bị truy tố ra tòa án về tội đảo chính lật đổ chính phủ Sharif bất hợp pháp?
Trước áp lực trong và ngoài nước, TT. Musharraf đã phải thâu hồi lệnh quản thúc tại gia của Benazir Bhutto lần thứ nhất. Tuy vậy bà Bhutto vẫn xuống đường và chống đối, nên ngày 12.11.2007, chính quyền thành phố Lahore lại ra lệnh quản thúc bà tại gia lần thứ hai.
Bất bình trước hành động này, ngày 14-11-2007, bà Bhutto tuyên bố đảng "PPP" của bà sẽ tẩy chay cuộc bầu cử vào tháng giêng 2008 và sẽ cộng tác với các đảng đối lập đòi TT. Musharraf phải từ chức.
4- CỰU THÙ GẶP NHAU
Không chỉ Benazir Bhutto trở về Pakistan mà trong tháng 9.2007 cựu Thủ tướng Nawaz Sharif cũng nhân cơ hội TT. Musharraf đưa ra chính sách hòa hợp hòa giải, đã trở về để củng cố đảng và chuẩn bị tranh cử. Nhưng ông vừa tới phi trường thì bị bắt giữ và điều tra. Sau đó ông bị trục xuất, phải trở lại tị nạn chính trị tại Ả Rập Saudi.
Trước tình trạng Hồi quốc có thể bị rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng, một số tổ chức và quốc gia đã lên tiếng:
*-Về phía Thế giới:
-Liên Hiệp Âu châu yêu cầu TT. Musharraf nên tôn trọng quyền hành của tòa án.
-Ngày 10.11.2007, bà Condoleezza Rice, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, đã bày tỏ sự lạc quan khi TT. Musharraf hứa cuộc bầu cử sẽ được tổ chức trước ngày 9.1.2008. Bà Rice cũng khuyến cáo TT. Musharraf nên hủy bỏ Lệnh Giới nghiêm để mọi sinh hoạt trở lại bình thường. Chính phủ Mỹ cho rằng việc trục xuất cựu Thủ tướng Sharif là vấn đề nội bộ của Hồi quốc, nhưng yêu cầu cuộc bầu cử dự trù vào tháng 1.2008 phải được thể hiện theo tinh thần tự do và công bằng.
-Tổ chức Quan sát Nhân quyền của Mỹ tố cáo TT. Musharraf vi phạm công pháp quốc tế.
-Cộng đồng Thịnh vượng chung Vương quốc Anh "The Commonwealth of Nations hay The British Commenwealth" bao gồm 53 quốc gia có chủ quyền phần lớn thuộc địa của Anh trước đây, cũng khuyến cáo sẽ trục xuất Hồi quốc ra khỏi tổ chức, nếu TT. Musharraf không tái lập cơ cấu hành chính, rời chức vụ Tư lệnh Quân đội và thâu hồi Lệnh Giới nghiêm. Hồi quốc đã bị trục xuất một lần vào năm 1999 khi Tướng Pervez Musharraf đảo chính cướp chính quyền. Mãi tới năm 2004, Hồi quốc mới được tái thâu nhận vào Cộng đồng Chung.
*-Về phía Hồi quốc:
-Đảng của cựu Thủ tướng Nawaz Sharif cũng lên án việc trục xuất đảng trưởng của họ là bất hợp pháp.
-9 thẩm phán của Tối Cao Pháp Viện đã nghiên cứu kỹ 6 thỉnh cầu (kể cả Jamaat-e-Islamic’s, tổ chức Islam lớn nhất của Pakistan) hủy bỏ tư cách ứng cử viên Tổng thống của Tướng Musharraf.
-Ngày 2.10.2007, 85 nhà lập pháp từ chức để phản đối việc tái cử của TT. Musharraf. Nhưng phát ngôn viên quốc hội cho rằng việc này không ảnh hưởng tới cuộc bầu cử Tổng thống, nên ngày 6.10.2007, TT. Musharraf đã dành được đa số phiếu trong Quốc hội và được bầu vào chức vụ Tổng thống nhiệm kỳ hai.
Dù vậy, Tối Cao Pháp Viện phán quyết rằng không người nào thắng cử được tuyên bố cho tới khi luật pháp quyết định. Ngoài ra, quyết định cách chức Bộ trưởng Tư pháp Iftikhar Mohammed Chaudhry ngày 3.11.2007 đã khiến cho luật sư đoàn xuống đường biểu tình phản đối. Theo các cuộc thăm dò thì có khoảng 64% dân chúng không muốn TT. Musharraf cầm quyền thêm một nhiệm kỳ 5 năm nữa.
5- SỐ PHẬN TT. MUSHARRAF SẼ RA SAO?
Theo các nhà bình luận khách quan thì TT. Musharraf là nhà lãnh đạo ôn hòa, có tư tưởng tự do và tiến bộ. Nhiều người cho rằng ông có thể được so sánh với nhà sáng lập Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ, Kemal Ataturk. Chính sách của TT. Musharraf là chống các nhóm Islam cực đoan, cải tổ kinh tế và xã hội. Chính quyền cũng được ca tụng về chính sách tự do báo chí và truyền thông.
Nhưng đối với một số người Hồi, đặc biệt tổ chức khủng bố bao trùm thế giới Al-Qaeda thì TT. Musharraf đã hành động có hại cho đạo Islam khi cộng tác với Hoa Kỳ và Đồng minh.
Như vậy tương lai của TT. Musharraf sẽ ra sao, khi ông ta không còn nắm quyền lực trong tay?
Miến Điện Ngọn lửa dân chủ bùng cháy
Miến Điện Ngọn lửa dân chủ bùng cháy. Máu nhà sư đã đổ và máu dân đã chảy
Trong thời gian vừa qua, tình hình tại Thủ đô Miến Điện (Burma hay Myanmar) đã trở nên căng thẳng. Hàng ngàn Nhà Sư, Chú Tiểu, Ni Cô và cả trăm ngàn dân chúng xuống đường biểu tình chống chế độ độc tài quân phiệt. Nhiều người không khỏi thắc mắc:
-Tại sao các Sư Sãi lại xuống đường và đi tiên phong trong các cuộc biểu tình?
Để trả lời cho câu hỏi này, mời quí độc giả theo dõi các dữ kiện dưới đây.
1-VÀI NÉT VỀ QUỐC GIA MIẾN ĐIỆN
Đất nước Miến Điện hay Diến Điện có tên là Liên bang Myanmar (theo ngôn ngữ bản xứ là Pyidaungzu Myanma Naingngandaw), một quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á. Miến Điện có đường biên giới giáp với Trung quốc 2.185 km, Thái Lan 1.800 km, Ấn Độ 1.463 km, Lào 235 km và Bangladesh 193 km. Đường bờ biển dài 1.930 km.
Dân số Miến Điện có 48.798.000 người, sống trên một diện tích 676.577 km², thủ đô là Rangoon (Yangon). Myanmar dành được độc lập từ Anh quốc vào năm 1948 và trở thành Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Myanmar vào 1974, sau đó đổi thành Liên Bang Myanmar vào năm 1988.
Tổng sản lượng quốc gia (GDP) khoảng: 93,77 tỉ Mỹ-kim (đứng hạng 59 trên thế giới).
Tổng sản lượng quốc gia chia cho mỗi đầu người khoảng: 1.691 Mỹ-kim.
Cũng như các quốc gia khác, dân Miến Điện là tập hợp của nhiều sắc tộc khác nhau. Sự khác biệt chủng tộc đôi khi là nguyên nhân tranh chấp quyền lực ở cấp địa phương hay trung ương. Nền văn hoá nước này chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Toàn quốc có khoảng 300.000 Sư Sãi, chiếm 2% dân số. Theo tập quán thì nam giới tới tuổi trưởng thành thường vào chùa để làm quen với nếp sống đạo đức của các nhà tu. Ngôi chùa nổi tiếng nhất Shwedagon nằm về phía Tây của hồ Kandawgyi, trên núi Shinguttara là biểu tượng tôn giáo quan trọng của dân Miến Điện. Theo truyền thuyết chùa đã có hơn 2500 năm. Theo các nhà khảo cổ chùa có vào khoảng giữa thế kỷ 6 và 10. Chùa cao 98 mét, được dát vàng cẩn ngọc, là một trong các di tích tôn giáo hấp dẫn du khách nhất.
Trong Thế chiến II, Miến Điện là một trong các chiến trường chính của Nhật Bản tại Đông Nam Á. Sau các chiến thắng của Nhật, Anh Quốc bị loại khỏi vùng này. Trong cuộc chiến chống Phát-xít Nhật tại Á châu, Hoa Kỳ thành lập Đội Biệt Kích Kachim chiến đấu cho Đồng Minh. Nhiều người Miến Điện khác lại gia nhập lực lượng SOE của quân đội Anh. Cùng với hai lực lượng của Anh quốc và Hoa Kỳ, quân đội quốc gia Miến Điện có tên là Arakan, dưới quyền chỉ huy của Tướng Aung San, nổi lên chống Phát-xít Nhật. Năm 1947, Tướng Aung San lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Nhật và đấu tranh đòi quyền tự chủ cho dân Miến Điện thành công. Ông trở thành anh hùng giải phóng dân tộc khỏi thuộc địa Anh và nắm quyền lực trong Hội Đồng Hành Pháp Miến Điện, một chính phủ chuyển tiếp, nhưng bị các đối thủ chính trị giết chết vào tháng 4.1947. Tới ngày 1.8.1948 Miến Điện trở thành nước Cộng Hòa độc lập, Sao Shwe Thaik trở thành Tổng thống và U Nu làm Thủ tướng. Quốc hội gồm hai viện: Viện Đại Biểu và Viện Quốc gia. Không giống các nước thuộc địa khác của Anh quốc, Miến Điện không tham gia vào Khối Thịnh Vượng Chung trong Liên Hiệp Anh.
Năm 1961, U Thant lúc đó là đại sứ Miến Điện tại Liên Hiệp Quốc (LHQ) và là cựu thư ký của Thủ tướng U Nu đã được bầu vào chức vụ Tổng Thư Ký LHQ, người đầu tiên không xuất thân từ các quốc gia Tây phương nắm chức vụ cao nhất của thế giới. Trong số những người làm việc tại văn phòng Tổng Thư Ký/LHQ có cô Aung San Suu Kyi, con gái của Tướng Aung San đã bị ám sát năm 1947.
Năm 1962, nền dân chủ của Miến Điện rơi vào khúc quanh lịch sử sau cuộc đảo chính của quân đội do Tướng Ne Win cầm đầu. Suốt 26 năm cầm quyền, ông Tướng này cai trị đất nước theo Xã Hội Chủ Nghĩa, thân Cộng sản. Chính vì thế mà năm 1974, nhân đám tang của U Thant, một cuộc biểu tình lớn chống chính phủ đã xẩy ra và máu nhiều người đã đổ trong các cuộc đàn áp. Sau đó một cuộc nổi dậy khác được tiến hành, nhưng Tướng Saw Maung làm một cuộc đảo chánh, thành lập Hội Đồng Luật pháp và Vãn Hồi Trật Tự Quốc Gia (the State Law and Order Restoration Council: SLORC), tiếp tục đàn áp mọi hoạt động chống đối. Mãi tới cuối thập niên 1980 chương trình bầu cử Quốc hội mới được cải tổ vào ngày 31.9.1989.
Năm 1990 lần đầu tiên dân chúng Miến Điện được tham gia bầu cử. Lực lượng đối lập với chính phủ quân sự là Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ (the National League for Democracy: NLD) được thành lập ngày 24.9.1988 bởi Aung San Suu Kyi và các nhà đấu tranh cho dân chủ tự do. Liên đoàn này đã thắng cử vẻ vang, đạt 392 ghế trên tổng số 485 ghế trong Quốc hội. Tuy vậy, Hội đồng Quân đội đã hủy bỏ kết quả bầu cử và bầu Tướng Than Shwe vào chức vụ chủ tịch quốc gia; đổi tên Miến Điện Burma thành Myanmar. Năm 1997, Hội Đồng Luật Pháp và Vãn hồi Trật tự Quốc gia lại đổi thành Hội Đồng Hòa Bình và Phát Triển Quốc Gia (the State Peace and Development Council: SPDC). Ngày 27.3.2006, Hội Đồng Quân Sự ngang nhiên dời Thủ đô Yangon tới một địa điểm khác về phía Bắc là Pyinmana, cách thủ đô cũ hơn 400 km và đặt tên tân thủ đô là Naypyidaw, có nghĩa là thành phố của Hoàng gia (Royal City). Người ngoại quốc, đặc biệt là các ký giả và phóng viên, không được vào khu vực này khi chưa có phép. Có tài liệu khác nói là chính phủ quân phiệt sợ Hoa Kỳ tấn công bằng máy bay, như trường hợp Nam Tư trong biến cố Kosovo, nên dời thủ đô xa tầm hoạt động của các phi cơ Mỹ.
2-PHỤ NỮ QUẦN HỒNG AUNG SAN SUU KYI LÀ AI MÀ LÀM CHO CÁC TƯỚNG LÃNH PHẢI LO SỢ?
Như trên chúng tôi đã trình bày: Aung San Suu Kyi là con gái của Tướng Aung San, người có công đấu tranh dành độc lập cho Miến Điện, đã bị các đối thủ chính trị giết chết ngày 19.7.1947, lúc đó Aung San suu Kyi mới 2 tuổi. Mẹ là Daw Khin Kyi tiếp tục nối nghiệp chồng, tham gia chính trị và năm 1960 được cử làm đại sứ Miến Điện tại Ấn Độ. Suu Kyi theo mẹ qua Ấn Độ học tại trường Nữ trung học Shri Ram ở Thủ đô Tân Đề Li (New Delhi) từ 1960-1964. Năm 1964-1967, Suu Kyri được mẹ cho sang Anh quốc học cử nhân triết, chính trị và kinh tế tại đại học Oxford. Khi ở Anh quốc Suu Kyri sống với cha nuôi là Gore-Booth, cựu Đại sứ và Cao ủy Anh tại Miến Điện. Sau đó Suu Kyri làm quen Michael Aris, sinh viên khảo cứu văn minh Tây Tạng.
Năm 1969-1971, Suu Kyi sang Nữu Ước học thêm và sống chung với bạn gái là Ma Than E, nhân viên của LHQ. Nhờ đó bà có dịp làm thư ký trong Ban điều hành của LHQ. Ngày 1.1.1972 Suu Kyi kết hôn với Michael Aris và theo chồng tới nước Bhutan, nơi Aris dậy tiếng Anh cho Hoàng gia và là trưởng phòng thông dịch. Sau đó Suu Kyi làm nhân viên khảo cứu cho Bộ Ngoại giao Bhutan. Năm 1972, hai vợ chồng về sống tại Luân Đôn và có con đầu lòng tên Alexander, con thứ nhì là Kim sinh năm 1977 tại Oxford. Trong thời gian ở nhà nuôi con, Suu Kyi viết sách về cha mình và giúp chồng nghiên cứu văn hóa Hy Mã Lạp Sơn. Ngày 31.3.1988 khi mẹ bị bệnh nặng, Suu Kyi về Miến Điện chăm sóc mẹ. Ngày 23.7.1988, Tướng Ne Win từ chức đưa tới các cuộc biểu tình đòi dân chủ nhưng bị đàn áp. Hàng ngàn người bị chết và bị thương.
Nhận thấy thời cơ đã chín mùi, ngày 15.8.1988, Suu Kyi gửi thư cho chính phủ đòi thành lập Hội Đồng Cố vấn và đưa ra bản tuyên bố kêu gọi thành lập chính phủ tự do dân chủ vào ngày 26.8.1988. Chính phủ quân sự thiết quân luật để khống chế biểu tình và đối lập. Suu Kyi bắt đầu dấn thân tranh đấu cho dân chủ sau đám tang của mẹ và bị quản chế tại gia từ năm 1989. Năm 1990, Liên đoàn Quốc gia vì Dân Chủ (NLD) thắng cử với 82% tổng số phiếu, nhưng chính phủ quân phiệt không chấp nhận kết quả bầu cử.
Nhờ các hoạt động tranh đấu cho dân chủ bằng phương pháp biểu tình bất bạo động, ngày 12.10.1990, Suu Kyi được trao giải Nhân Quyền Rafto của Na Uy và ngày 10.7.1990, Liên hiệp Âu Châu trao tặng giải Nhân Quyền mang tên nhà bác học vật lý nguyên tử người Nga, Shakarov. Vinh dự lớn nhất dành cho Suu Kyi là giải thưởng Nobel Hòa bình được trao tặng ngày 14.10.1990. Bà không đi nhận giải Nobel mà để hai con thay mẹ. Lý do dễ hiểu là nếu bà rời Miến Điện thì chính quyền quân sự sẽ không cho bà trở về. Tháng 12.1990, Suu Kyi xuất bản quyển Freedom From Fear (Tự do thoát vòng sợ hãi) và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Aung San Suu Kyi dùng 1,3 triệu Mỹ-kim của giải Nobel vào việc tái thiết cơ sở giáo dục và y tế cho đồng bào nghèo Miến Điện. Năm 2003, Bà cùng hàng ngàn người biểu tình đòi dân chủ; nhưng bị những người ủng hộ chính quyền quân phiệt tấn công. Nhiều cận vệ và người ủng hộ của bà bị giết, còn bà chạy thoát được về nhà và một lần nữa bị quản chế tại gia.
Ngày 27.3.1999 Michael Aris, chồng của bà qua đời tại Anh quốc vì bệnh ung thư. Trước đây chính quyền Miến Điện không cho phép ông sang thăm vợ bị quản chế tại gia. Chính quyền này chỉ muốn cho bà xuất ngoại thăm chồng con rồi nhân cơ hội này cấm bà về nước. Sự khôn ngoan và can đảm của Aung San Suu Kyi là quyết chí ở lại đất nước để lãnh đạo cuộc đấu tranh vì dân chủ cho toàn dân. Chính thái độ "tạm quên tình nhà vì nợ nước" của bà mà dân chúng Miến Điện cũng như nhiều người trên thế giới đã ngưỡng mộ và coi bà như một "Nữ Anh Hùng" của Miến Điện.
3-TẠI SAO CÁC NHÀ SƯ LẠI XUỐNG ĐƯỜNG BIỂU TÌNH?
Qua các sự kiện nêu trên, sau gần 20 năm bà Aung San Suu Kyi cùng các tổ chức chính trị và quần chúng tranh đấu bất bạo động đã không thành công. Các cuộc biểu tình đòi dân chủ tự do đều bị chính quyền quân phiệt đàn áp đẫm máu. Hơn 90% dân chúng hiền hoà, sống theo giáo lý từ bi của Phật đã không còn phương thức đấu tranh bất bạo động nào có hiệu quả hơn là trông chờ vào sự dấn thân của các vị lãnh đạo tinh thần. Cái hy vọng cuối cùng của toàn dân là ý chí và hành động của các Nhà Sư có thể làm cho chế độc độc tài chịu xét lại và trao quyền cai trị đất nước cho toàn dân qua cuộc bầu cử tự do dân chủ.
Chính vì thương dân và muốn đất nước được cai trị không chỉ theo đạo lý dân tộc mà còn thích hợp với xu hướng dân chủ ngày nay, hàng trăm Tăng Ni đã phải xuống đường biểu lộ sự đồng tình với dân chúng. Cả trăm ngàn người đã nối vòng tay bảo vệ Sư Sãi trên đường phố. Hàng ngàn cánh tay giơ cao và hàng ngàn tiếng hô đòi dân chủ tự do đã vang vọng khắp thủ đô và các tỉnh lớn của Miến Điện.
Nhưng những chiếc Áo Cà Sa đã không chắn được lằn đạn; những nụ cười từ bi đã không khuất phục được bạo quyền; những tiếng gào thét đòi dân chủ đã không dập tắt được tiếng súng ác ôn. Nhiều Áo Cà Sa đã bị nhuốm máu. Có tu sĩ đã ngã gục trước họng súng của kẻ sát nhân. Chùa chiền bị bao vây. Các Nhà Sư lãnh đạo bị bắt giam. Thế là cuộc biểu dương ý chí đòi tự do dân chủ lại một lần nữa bị đàn áp dã man.
4-SỰ CAN THIỆP CỦA LIÊN HIỆP QUỐC
Trước tình hình Sư Sãi xuống đường biểu tình chống chế độ quân nhân cầm quyền bị đàn áp đẫm máu, 13 người bị bắn chết, trong đó có cả Tăng Ni và hơn 2.000 người bị bắt giữ; tại nhiều quốc gia như: Ái Nhĩ Lan, Anh quốc, Áo, Ấn Độ, Bỉ, Đức, Gia Nã Đại, Hoa Kỳ, Na Uy, Nam Hàn, Pháp, Tân Tây Lan, Tân Gia Ba, Thái Lan, Tây Ban Nha và Úc Đại Lợi… đã có các cuộc biểu tình chống chính quyền quân phiệt Miến Điện. Số tổn thất chưa được kiểm chứng chính một cách xác. Chính quyền công bố chỉ 10 người chết; nhưng theo tin của các tổ chức dân chủ thì có tới 200 người bị giết trong đó có các vị tu hành và 6.000 người bị bắt.
Trước tình hình căng thẳng như vậy, Liên Hiệp Quốc đã trực tiếp can thiệp bằng ngoại giao.
-Đặc sứ Ibrahim Gambari được Hội Đồng Bảo An LHQ cử tới Miến Điện và các quốc gia Đông Nam Á nhằm làm áp lực đòi chính phủ quân sự phải đối thoại với thủ lãnh đối lập, bà Aung San Suu Kyi, để tìm ra giải pháp chính trị đưa tới dân chủ và hòa bình. Kết quả là ngày 05.10.2007, Tướng Than Shwe đã hứa sẽ có cuộc đối thoại với bà Aung San Suu Kyi, thả các Sư Sãi và những người biểu tình đã bị bắt giữ. Tuy nhiên, ông này lại ra điều kiện là LHQ phải ngưng phong tỏa kinh tế và bà Suu Kyi phải từ bỏ các hành động đối lập.
Ngày 10.10.2007, 15 hội viên của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (HĐBA/LHQ) đã đồng thuận về những điểm chính trong dự thảo không lên án chế độ quân sự Miến Điện đàn áp người biểu tình. Văn bản này đã sửa đổi lại lời lẽ nhẹ nhàng hơn, vì trước đó Trung Cộng và Nga Sô đe dọa sẽ bỏ phiếu phủ quyết, nếu LHQ lên án nặng nề hay đưa ra các biện pháp trừng phạt. 9 tháng trước đây, ngày 13.1.2007, Nga Sô và Trung Cộng đã bỏ phiếu "Phủ Quyết" đề nghị của Anh quốc và Hoa Kỳ về việc phong tỏa kinh tế Miến Điện.
Sau đó những bất đồng, văn bản đầu tiên đề nghị lên án chế độ quân phiệt Miến Điện được HĐBA/LHQ sửa lại nhẹ nhàng hơn: "rất tiếc" về hành động đàn áp người biểu tình ôn hòa và đòi trả tự do ngay cho thủ lãnh đối lập, bà Aung San Suu Kyi.
KẾT LUẬN
Cuộc nổi dậy chống chế độ quân phiệt mới chỉ gây được sự chú ý của thế giới. Vấn đề thành công hay không còn tùy thuộc vào ý chí của toàn dân và sức mạnh quân sự nếu có.
Người ta hy vọng một giải pháp hòa bình bằng thương lượng trên chính trường quốc nội cũng như quốc tế có thể cải tiến chế độ cai trị hiện nay tại Miến Điện.
Ngày 10.10, cựu Thủ tướng Tân Gia Ba Lý Quang Diệu đã chê nhóm quân sự Miến Điện là dốt nát về kinh tế, vì họ đã đưa một đất nước giầu có tài nguyên đến lụn bại làm cho người dân đói khổ. Ông Lý Quang Diệu cũng khẳng định là theo xu hướng dân chủ hiện nay, chế độ quân phiệt sẽ không có chỗ đứng…
Hy vọng chế độ độc tài Miến Điện hãy nghe lời phát biểu của cựu Thủ tướng Tân Gia Ba, một nhân tài lãnh đạo quốc gia tại Á châu, đã làm cho Singapore, một hòn đảo khô cằn tài nguyên thiên nhiên trở thành một quốc gia Tân Gia Ba giầu có và luôn hãnh diện với danh hiệu một trong 5 Con Rồng Kinh tế Á châu.
Trùm khủng bố Osama Bin-Laden lại xuất hiện trên Tivi nhân dịp dân Mỹ kỷ niệm 11.09.2007
Trùm khủng bố Osama Bin-Laden lại xuất hiện trên Tivi nhân dịp dân Mỹ kỷ niệm 11.09.2007
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Sau nhiều năm trốn chui, trốn lủi vì sự tầm nã gắt gao của Cảnh sát Liên bang FBI và quân đội Mỹ, trùm khủng bố Osama bin-Laden bất ngờ xuất hiện trên băng video và được truyền hình As-Sahab chiếu ngày 7.9.2007. Vẫn tật nào chứng ấy, bin-Laden tiếp tục cảnh cáo sẽ khủng bố Hoa Kỳ cũng như Đồng Minh. Cuộn băng kết thúc bằng câu: "Để kết luận, tôi mời gọi quí vị đón nhận đạo Islam" (To conclude, I invite you to embrace Islam).
Sự "tái xuất giang hồ" của Osama bin-Laden làm cho nhiều người phân vân tự hỏi:
-Tại sao Hoa Kỳ, siêu cường quốc số một hiện nay, có dư tiền bạc, sức mạnh quân sự vô địch mà không bắt sống hoặc giết được trùm khủng bố nổi tiếng nhất thế giới?
-Hoa Kỳ và quốc gia Đồng Minh nào sẽ bị khủng bố trong những ngày tới?
Nhân kỷ niệm ngày đau thương, ngày mà quân khủng bố đã gây kinh hoàng và tổn thất lớn nhất cho dân chúng Mỹ, chúng tôi mời quí độc giả cùng giở lại những trang sử của biến cố 11.9.2001.
1-CUỘC ĐỜI VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA OSAMA BIN-LADEN
Năm 1957: Osama bin-Laden được sinh ra tại Saudi Arabia, là con thứ 17 trong số 52 người con của Muhammad Awad bin-Laden, giám đốc công ty xây dựng có tên "the Saudi bin Laden Group". Gia đình di dân từ Yemen. Mẹ của Osama là một trong bốn vợ của cha ông. Cha chết trong một vụ tai nạn trực thăng khi Osama bin-Laden mới 10 tuổi. Mới 17 tuổi, khi còn đang học tại đại học King Abdul Aziz ở Jidda, Bin Laden đã cưới vợ, một người thân thuộc gốc Syria.
Năm 1979: Osama bin-Laden sang A Phú Hãn (Afghanistan) giúp dân kháng chiến chống lại quân xâm lược Sô-viết trong phong trào mang tên "the mujahedeen". Thày giáo của bin-Laden là Abdullah Azzam thành lập một tổ chức yểm trợ cho phong trào kháng chiến. Osama bin-Laden tham gia vào phong trào và giữ chức vụ trưởng ban tài chính.
Theo tài liệu thì trong thập niên 1980 Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ CIA đã giúp kháng chiến quân A Phú Hãn 3 tỉ Đô-la; cung cấp vũ khí và các phương tiện chiến tranh khác cho bin-Laden và hàng ngàn du kích quân trung thành với ông ta để chống quân xâm lăng Sô-viết. Tổ chức của quân kháng chiến có tên là Maktab al-Khadamat (MAK). Sau chiến thắng quân Sô-viết, mặt trậân MAK trở thành tổ chức Al-Qaeda, vẫn do Osama bin-Laden cầm đầu. Sự thất bại và sự kiện rút quân Sô-viết ra khỏi A Phú Hãn tạo cho bin-Laden một niềm hãnh diện qua lời ông ta từng tuyên bố:
"Trong cuộc thánh chiến này cái lợi ích lớn lao nhất là huyền thoại của siêu quyền lực đã bị tiêu diệt, không chỉ trong tâm trí tôi mà trong tâm trí của tất cả người Muslim".
(In this jihad, the biggest benefit was the myth of the superpower was destroyed, not only in my mind, but in the minds of all Muslims)
-Phải chăng vì cái tự hào trên mà ngày nay Osama bin-Laden cũng muốn chiến thắng siêu cường quốc Hoa Kỳ tại A Phú Hãn và Iraq để trở thành thần tượng của thế giới Islam?
Năm 1989: Sau khi quân Sô-viết bị đánh đuổi khỏi A Phú Hãn, Osama bin-Laden trở lại Saudi Arabia làm việc xây cất cho công ty gia đình và dùng lợi tức thu được để thành lập quỹ trợ giúp các cựu chiến binh A Phú Hãn.
Năm 1990: Sợ bị xâm chiếm sau khi tổng thống Iraq, Saddam Hussein, tấn công Kuwait, Vương quyền Saudi Arabia cho phép quân đội Mỹ đóng trên lãnh thổ mình. Đây là nguyên nhân khiến bin-Laden tức giận, coi đó là sự chà đạp lên đất thánh và đạo Islam. Từ đó ông ta bắt đầu chống Hoa Kỳ và chính phủ Saudi Arabia.
Năm 1991: Thay vì phải chống Iraq đã xâm chiếm Kuwait và đe dọa tấn công nước mình, bin-Laden lại chống Vương quyền Saudi Arabia và Hoa Kỳ, nên bị trục xuất khỏi đất nước. Ông ta phải xin tị nạn tại Sudan và bắt đầu thực hiện các chương trình fatwa nhằm tấn công các căn cứ và cơ sở của Hoa Kỳ và Đồng Minh.
Năm 1993:
-Vào tháng hai một trái bom nổ ở Trung tâm Thương mại Thế giới (World Trade Center) làm cho 6 người chết và 100 bị thương. Sáu người Muslim cấp tiến bị bắt vì nghi ngờ có liên quan tới bin-Laden.
Ngày 18.10.1993: 18 lính Mỹ trong nhiệm vụ cứu trợ nhân đạo bị du kích quân phục kích bắn chết tại Mogadishu, Somalia. Osama bin-Laden sau đó xác nhận có một số du kích quân A Phú Hãn gốc Ả Rập tham chiến. Để khiêu khích, quân du kích kéo lê xác một binh lính Mỹ trên đường phố cho công chúng coi. Hình ảnh này gây nên sự kinh hoàng không chỉ trong dân chúng Mỹ mà toàn thế giới. Vì thế, dân Mỹ làm áp lực đòi chính phủ rút quân khỏi Somalia. Hành động rút quân khỏi Somalia của chính phủ Hoa Kỳ khiến cho Osama bin-Laden chê nhạo người Mỹ chỉ là những con cọp giấy (paper tigers)
Năm 1995: Tiếp tục gia tăng cường độ tấn công vào các cơ sở của Hoa Kỳ, một xe chứa chất nổ đã lao vào trại lính ở Riyadh gây tử thương cho 5 lính Mỹ và 2 Ấn Độ.
Năm 1996: Dưới áp lực của chính phủ Mỹ và Saudi Arabia, chính phủ Sudan đã trục xuất Osama bin-Laden ra khỏi nước. Ông ta phải đem 10 con và 3 vợ sang tị nạn tại A Phú Hãn và công khai tuyên bố cuộc thánh chiến chống lại lực lượng Mỹ. Thực hiện lời kêu gọi của bin-Laden, cuộc tấn công bằng bom tự sát đã mở màn tại căn cứ quân sự của Mỹ ở Khobar, Saudi Arabia giết được 19 lính Mỹ.
Năm 1998: Căm thù Hoa Kỳ tới cao độ, Bin-Laden đã không ngần ngại tuyên bố người Muslim được phép giết người Mỹ, kể cả dân sự tại bất cứ ở nơi đâu họ tìm thấy.
Ngày 7.8.1998, cuộc tấn công khác bằng xe chở đầy chất nổ đậu bên ngoài tòa đại sứ Mỹ ở Nairobi, Kenya và Dares Salaam, Tanzania gây tử thương cho 224 người. Hành động khủng bố này là nguyên nhân khiến tổng thống Mỹ, Bill Clinton, ra lệnh tấn công bằng hỏa tiễn các trại huấn luyện quân sự của quân khủng bố tại A Phú Hãn và Sudan vào ngày 20.8.1998. Tháng 11 sau đó, chính phủ Mỹ qui trách nhiệm cho bin-Laden trong hai vụ khủng bố tòa đại sứ Hoa Kỳ.
Năm 2000: Trong đêm Giao Thừa mừng kỷ nguyên mới, Ahmed Ressam người Algeria bị bắt về tội toan phá hoại phi trường Los Angeles. Tên này khai được huấn luyện về chiến đấu và phá hoại bằng chất nổ ở một trung tâm huấn luyện của bin-Laden tại A Phú Hãn.
Ngày 12.10.2000, quân khủng bố lái một thuyền tự sát chở hai trái bom lao vào chiến hạm USS Cole của Hải quân Mỹ tại hải cảng Aden, Yemen gây tử thương cho 17 thuỷ thủ.
Năm 2001: Tháng hai, bin-Laden xuất hiện công khai tại đám cưới của con trai ở Kandahar, A Phú Hãn, nơi cư ngụ của thủ lãnh nhóm quân phiến loạn Taleban.
Năm 2002: Quân đội Mỹ và Đồng Minh hành quân tiêu diệt Osama bin-laden, quân phiến loạn Taleban và cơ sở của tổ chức Al Qaeda ở vùng núi phía Đông A Phú Hãn. Nhưng không có tin nào xác nhận bin-Laden bị giết. Tới mùa Hè 2002, đài truyền hình Ả Rập Al-Jazeera phổ biến hai băng video có lời kêu gọi tiếp tục cuộc thánh chiến chống Hoa Kỳ của bin-Laden.
Năm 2003: Bin-Laden kêu gọi người Muslim trên thế giới hãy bỏ qua những bất đồng để tham gia vào cuộc thánh chiến (Jihad). Tháng hai, đài Al-Jazeera lại phổ biến băng video của bin-Laden kêu gọi người Muslim và các quốc gia Islam chống Hoa Kỳ và Đồng Minh xâm lăng Iraq ngày 19.3.2003.
Năm 2004: Ngày 4.1.2004, đài Al-Jazeera phổ biến lời bin-Laden lên án sự xâm lăng của Hoa Kỳ tại Iraq là mở đầu cho cuộc xâm chiếm vùng Vịnh Ba Tư, để kiểm soát nguồn dầu hỏa dự trữ Trung Đông. Tháng ba, nhằm tiêu diệt Al Qaeda và bin-Laden, lực lượng Mỹ quyết định mở cuộc tấn công gần biên giới Pakistan. Ngày 18.3.2004, Quốc hội Hoa Kỳ gia tăng tiền thưởng lên 50 triệu Đô-la cho ai bắt hoặc giết được Osama bin-Laden. Kể từ thời gian này người ta không còn nghe tin tức gì về trùm khủng bố nữa. Có tin nói ông ta bị giết, có người lại nói bị thương nặng trong cuộc tấn công của quân đội Mỹ. Nhưng không ai chưng được bằng chứng cả.
2-CUỘC KHỦNG BỐ NGÀY 11.9.2001
Sáng ngày 11.9.2001, hai chiếc máy bay phản lực dân sự, United Airline Flight 175 và Amerian Airline Flight 11, bị không tặc cướp lái lao vào và làm sập hai tháp cao 110 tầng và các tòa nhà của Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC: World Trade Center) ở Nữu Ước.
Lúc 9 giờ 43 chiếc thứ ba, American Airline Flight 77 bị không tặc cướp lái lao xuống khu phía Tây của Ngũ Giác Đài (Pentagon) ở Arlington County, Virginia gần thủ đô Hoa Thịnh Đốn (Washington D.C). Quân khủng bố tính lái chiếc máy bay thứ tư, United Airline Flight 93, lao xuống Tòa Bạch Ốc. Nhưng phi hành đoàn và hành khách tranh dành máy bay với toán khủng bố; nên máy bay này rớt xuống cánh đồng gần thành phố Shanksville ngoại ô Hạt Somerset thuộc Pennsylvania.
Tổn thất về nhân mạng tại ba nơi được kiểm nhận là 2.974 người chết, không kể 19 tên khủng và số bị thương không rõ. 24 người vẫn còn ghi vào danh sách mất tích. Tổn thất về vật chất lên hàng chục tỷ Đô-la.
Cuộc khủng bố 11.9.2001 xẩy ra theo một số người cho rằng chính tổng thống Bush đã coi thường tin tình báo cho biết Hoa Kỳ có thể bị khủng bố lớn.
Không chỉ tổng thống Bush mà cả chính quyền tiểu bang Nordrhein-Westfalen của Đức quốc cũng coi thường lời nói của em bé 5 tuổi gốc Ả Rập ở vùng Ruhr. Em bé đã kể cho người giữ vườn trẻ là nó nghe được mấy người nói với nhau tại trường Koran về một máy bay lớn sẽ đâm vào một cái nhà. Nhưng bộ Nội vụ và giám đốc Công tố viện của Karlsruhe coi thường báo cáo này. Tin này mới được đài phát thanh và truyền hình WDR đề cập vào ngày 10.9.2007.
3-CÁC CUỘC KHỦNG BỐ SAU NGÀY 11.9.2001
3.1- Tại Tây Ban Nha: Cuộc khủng bố hệ thống xe lửa tại thủ đô Madrid, Tây Ban Nha ngày 11.3.2004 giết chết 191 người và 1.824 bị thương.
3.2- Tại Anh quốc: Khủng bố dưới đường xe lửa ngầm tại thủ đô Luân Đôn vào ngày 7.7.2005 khiến cho 52 chết và 700 bị thương.
3.3-Tại Nam Dương: Khủng bố ở khu bãi biển du lịch Bali, (Indonesia) giết chết 202 người, làm bị thương 300, đa số là du khách Úc Đại Lợi.
4-CÁC DỰ TÍNH MỚI NHẤT CỦA QUÂN KHỦNG BỐ BỊ PHÁT GIÁC TRƯỚC KHI THỰC HIỆN
4.1-Tại Đan Mạch:
Ngày 4.9.2007, 8 người trong đó có 6 mang quốc tịch Đan Mạch và 2 ngoại quốc từ Afghanistan, Somalia, Pakistan và Thổ Nhĩ Kỳ, bị cơ quan tình báo "P.E.T" (Politiet Efterret-ningstjeneste) bắt vì dự trù sẽ khủng bố thủ đô Copenhagen bằng chất nổ. Trong số này có một tài xế Taxi 20 tuổi cư ngụ khu Tây Bắc Copenhagen, một thợ điện ở Ishoj, một thanh niên 17-18 tuổi ở Avedore. Bọn khủng bố học được cách chế bom bằng dung dịch acetone pha nước thải từ các ống cống để thành hợp chất TATP (acetone Peroxid: C6H12O4 và C9H18C9) mà trong giới khủng bố thường gọi là "Mẹ của quỉ Satan" (Mother of Satan). Loại bom này đã được bọn khủng bố đặt dưới đường hầm tại Luân Đôn trong tháng 7.2005.
Trước đây, P.E.T cũng đã phá vỡ các chương trình dự trù khủng bố và bắt được các thủ phạm vào các thời điểm:
-Ngày 27.10.2005, cảnh sát Sarajevo, Bosnia, bắt giữ 4 thanh niên cất giữ 19 ký chất nổ và các thủ phạp này khai có liên lạc vói một thanh niên gốc Thổ Nhĩ Kỳ đang sống tại Đan Mạch và một thanh niên Thụy Điển gốc Bosnia. Bốn thanh niên bị án tù 7 năm. Từ vụ Bosnia, cảnh sát Đan Mạch đã lục soát tại Kobenhavn, Frederiksberg, Brondby và bắt giữ một số tình nghi.
Ngày 5.9.2006, cảnh sát bao vây khu vực Vollsmose ở Odense và bắt 9 thanh niên, 7 bị nhốt tù. Sau đó 4 tên bị đưa ra tòa vì tội mua chất hóa học và dụng cụ phòng thí nghiệm để chế biến chất nổ TATP dùng làm bom. Theo cơ quan tình báo P.E.T thì các can phạm trên có liên quan tới tổ chức khủng bố thế giới Al-Qaeda.
Ngoài các thanh niên tham gia trực tiếp vào các chương trình khủng bố, ngày 13.4.2007, Tòa án Copenhagen cũng đã tuyên án 3 năm và 6 tháng tù Said Mansour vì tội tàng trữ phim ảnh và đĩa CD-Rom có nội dung tuyên truyền khích động thanh thiếu niên Muslim tham gia thánh chiến Jihad.
Sở dĩ Đan Mạch có tên trong danh sách của tổ chức khủng bố Al-Qaeda vì là Đồng Minh của Hoa Kỳ trong chiến tranh Iraq và xúc phạm tới Tiên tri Muhammed và đạo Islam qua các biếm họa. Chính Osama bin-Laden đã công khai khuyến khích người Muslim giết chết các họa sĩ vẽ tranh biếm họa.
4.2-Tại Đức quốc:
Ngày 6.9.2007, cảnh sát chống khủng bố "GSG" của Đức tiếp tục truy lùng 10 tên khủng bố có liên quan tới vụ bắt giữ 3 thanh niên, 2 người Đức theo Hồi giáo và một người Hồi mang thông hành (Passport) xThổ Nhĩ Kỳ, vào ngày 5.9.2007. Nhóm khủng bố dự trù sẽ đánh phá phi trường tấp nập nhất Âu châu là Frankfurt và căn cứ quân sự Mỹ ở Ramstein. Các tên khủng bố liên lạc với nhau qua Internet, sau đó gặp nhau tại nhà nghỉ hè ở Nordrhein-Westfalen. Vào lúc 24 giờ 45, ba tay khủng bố đang chuẩn bị chế chất nổ bằng dùng hóa chất hydroperoxid thì bị cảnh sát tóm cổ. Cảnh sát đã theo dõi bọn này từ ngày 17.8.2007. Theo cảnh sát Đức thì nếu bọn khủng bố chế bom hydroperoxid thành công, khoảng 550 ký chất nổ (550 kg dynamit) thì sức công phá sẽ nguy hiểm hơn cả hai vụ nổ ở Madrid và Luân Đôn.
Vì sự nguy hại như trên, Bộ trưởng Tư pháp, Brigitte Zypries, đưa ra đề nghị người nào mua chất hóa học nguy hiểm phải xuất trình giấy tờ hợp pháp. Theo công tố viên Liên bang, Monika Harms, cả ba tên khủng bố đều đã được huấn luyện ở trung tâm huấn luyện quân sự tại Pakistan và tham gia mạng lưới Liên hiệp Thánh chiến Quốc tế (International Jihad Union)
4.3-Tại Áo quốc:
Ngày 12.9.2007 có 3 di dân gốc Ả Rập bị bắt vì tội liên lạc với tổ chức khủng bố Al-Qaeda. Ba người này liên quan tới cuốn video trong đó một người đeo mặt lạ đọc lời hăm dọa khủng bố cả Áo và Đức quốc, nếu hai quốc gia này không rút quân khỏi A Phú Hãn. Cuốn video này xuất hiện trên trang Web của al-Qaeda từ tháng ba 2007. Chính quyền Áo đã theo dõi bằng cách kiểm soát hệ thống điện thoại và biết ba tên này cư trú tại thủ đô Vienna.
5-CÁC HỌA ĐỒ MỚI VỀ TRUNG TÂM THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Sau 6 năm rồi mà chương trình xây lại khu Trung tâm Thương mại Thế giới vẫn chưa khởi công. Để quí độc giả có thể theo dõi công trình xây cất, nhân dịp này chúng tôi ghi lại một số họa đồ đã được vẽ và dự tranh giải như trong khung hình (từ trái qua phải):
-Họa đồ 1: Memorial Plaza: 79 tầng, công viên rộng 18 mẫu Tây
-Họa đồ 2: Memorial Square: 80 tầng, sân cỏ rộng 24 mẫu Tây
-Họa đồ 3: Memorial Triangle: 85 tầng, công viên rộng 13 mẫu Tây
-Họa đồ 4: Memorial Garden: 86 tầng, 4 tòa nhà nhỏ, công viên 6,8 mẫu Tây.
-Họa đồ 5: Memorial Park: 5 tháp cao.
-Họa đồ 6: Memorial
Promenade: 2 tòa nhà, mỗi cái cao 63 tầng, 4 tòa nhà nhỏ hơn có 32 tầng, sân cỏ rộng 27 mẫu Tây.
Bắc Cực có thể trở thành bãi chiến trường vì dầu hỏa?
Bắc Cực có thể trở thành bãi chiến trường vì dầu hỏa?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
1-Biến chuyển bất ngờ gây căng thẳng trên chính trường thế giới
Nói tới Bắc Cực người ta chỉ biết là nơi có diện tích khoảng 1,2 triệu cây số vuông, nhưng toàn đá băng và lạnh giá không ai chịu được, khi nhiệt độ xuống dưới -35 độ C vào tháng hai. Người ta chỉ thấy gấu trắng, hải mã, Penguin và hải âu có thể sống trên băng đá. Nhưng, có ai ngờ dưới lòng biển Bắc Cực lại giầu tài nguyên thiên nhiên mà bất cứ quốc gia đã và đang phát triển nào cũng muốn khai thác về cho dân tộc mình. Trong những năm gần đâây, thời tiết thay đổi vì các quốc gia kỹ nghệ thải quá nhiều chất độc CO2 vào bầu khí quyển. Đây là nguyên nhân đưa tới tình trạng trái đất ngày càng nóng. Các thiên tai hạn hán, mưa, lũ lụt ngày càng nhiều và sự tàn phá ngày càng khốc liệt hơn. Tuy vậy, đá băng tan dần tại Bắc Cực lại là cơ hội thuận tiện cho cuộc tìm kiếm và khai thác dầu hỏa cũng như khí đốt tại vùng này. Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) ước tính có khoảng 25% trữ lượng dầu thế giới hiện đang nằm dưới lòng biển Bắc Cực. Viện Hải dương học của Nga cũng cho biết khu vực hình cái yên ngựa dưới lòng Bắc Băng Dương chứa đến 10 tỉ tấn dầu hỏa, chưa kể nhiều loại tài nguyên khác. Về hải trình nếu đi theo hướng Tây Bắc thì khoảng cách từ Luân Đôn tới Đông Kinh giảm xuống còn 16.000 cây số so với 21.000 cây số khi phải đi ngang kênh đào Suez của Ai Cập hoặc 23.000 cây số khi đi qua kênh đào Panama ở Trung Mỹ.
Chính vì vậy mà các quốc gia trong vùng gồm Đan Mạch, Gia Nã Đại, Hoa Kỳ, Na Uy và Nga Sô đều cố gắng chứng minh nước mình có chủ quyền trên vùng Bắc Cực. Mới đây, ngày 02.08.2007, Nga Sô mở đầu chương trình thám hiểm lòng biển Bắc Cực bằng tàu ngầm nhỏ mang tên nhà thám hiểm "Fedorov", có sự yểm trợ của tàu ngầm hải quân Nga, 2 máy bay trực thăng và đoàn tùy tùng 100 người. Tàu lặn "Mir-1" và "Mir-2" cùng các thiết bị nghiên cứu đã vượt chặng đường dài 2000 dặm (3.600km), trong đó có 800 dặm là những lớp băng dày, để đến Bắc cực. Chiếc tầu ngầm loại nhỏ Mir-1 của Nga Sô đã thành công lặn sâu 4.261 mét, xuống đáy biển Bắc Cực. Tin tức do đài Truyền hình Vesti-24 của trung tâm nghiên cứu Akademik Fyodorov thông báo. Nhà thám hiểm Artur Chilingarov của Nga Sô có mặt trong tầu ngầm đã tuyên bố là cuộc thám hiểm này nhằm xác định biên giới phía Bắc của nước Nga. Các chuyên viên cũng có nhiệm vụ thí nghiệm khoa học và cắm một lá cờ Nga Sô làm bằng Titanium dưới lòng biển để đánh dấu chủ quyền của Nga tại khu vực này. Chiếc tầu ngầm thứ hai Mir-2 cũng đã hoàn thành nhiệm vụ sau 8-9 giờ. Toàn bộ tin tức do Học Viện Bắc Băng Dương và Bắc Cực tại thành phố Saint Petersburg công bố.
2-Phản ứng của các quốc gia trong vùng Bắc Băng Dương.
2.1-Về phía Nga Sô:
Tháng 12-2001, Nga Sô tuyên bố đỉnh núi Lomonosov kết hợp giữa Bắc Cực (Arctic) và Tây Bá Lợi Á (Siberia) là sự trải dài của lục địa Âu-Á, là một phần của thềm lục địa của Nga theo Luật Quốc tế. Nhưng Liên Hiệp Quốc bác bỏ tuyên bố chủ quyền của Nga Sô với lý do thiếu bằng chứng.
Nếu được Quốc tế công nhận, Nga Sô sẽ kiểm soát một vùng rộng hơn 463.222 dăm vuông, gần một nửa lòng biển Bắc Cực. Người ta còn nhớ trong bài nói chuyện trên một chiếc tầu nguyên tử phá băng tại Bắc Cực trong đầu năm 2007, Tổng thống Vladimir Putin đã nhấn mạnh nỗ lực bảo vệ Nga Sô về chiến thuật, kinh tế, khoa học và các lợi ích quốc phòng trong vùng này. Trong giới kinh doanh dầu lửa, Bắc Băng Dương đang trở thành một chủ đề nóng bỏng. Nếu kết luận về chủ quyền của các nhà địa chất Nga là đúng thì nước này sẽ có thêm tới 10 tỷ tấn dầu và khí đốt ở Bắc Băng Dương. Tham vọng của Nga Sô trong việc sử dụng nguồn năng lượng này được xem như một vũ khí chính trị để hóa giải tất cả những chống đối của Tây phương. Thực tế cho thấy, không chỉ các quốc gia Đông Âu mà cả Liên Hiệp Âu Châu vẫn ngày càng bị lệ thuộc vào nguồn cung cấp năng lượng của Nga, Chính vì vậy mà Liên Hiệp này thường nhượng bộ Nga Sô trong những trường hợp có tranh chấp hay phong tỏa kinh tế một quốc gia nào trên thế giới. Phong tỏa kinh tế Iran không thành công là một bằng chứng cụ thể.
Nếu thành công thì nước Nga sẽ làm chủ một khu vực biển rộng, chạy dài từ Bắc Cực đến vùng biển phía trên miền đông Tây Bá Lợi Á (Siberia) và bán đảo Chukotka của Nga. Vùng biển này nằm ngoài khu vực thuộc quyền khai thác kinh tế của Nga được qui định trong "Hiệp ước về luật biển" là 200 dặm tính từ bờ biển mỗi quốc gia. Một uỷ ban quốc tế cứu xét lại việc vận dụng điều khoản này đã bác bỏ đòi hỏi ban đầu của Nga Sô. Trong số 5 nước có bờ biển tiếp giáp với Bắc Băng Dương: Nga Sô, Na Uy, Đan Mạch, Gia Nã Đại và Hoa Kỳ, chỉ có Mỹ chưa phê chuẩn "Hiệp ước về luật biển".
2.2-Về phía Gia Nã Đại:
Gia Nã Đại đã chứng minh dãy núi ngầm Lomonosov được bắt nguồn từ châu Mỹ, nên cuộc thám hiểm của Nga không có gì đáng quan tâm. Nó chỉ là một màn trình diễn. Ông Peter MacKay, Bộ trưởng ngoại giao Gia Nã Đại đã tuyên bố với đài truyền hình CTV:
"Đây không phải là thế kỷ 15. Bạn không thể đi vòng quanh thế giới và chỉ cắm lá cờ rồi tuyên bố chúng tôi có chủ quyền trên lãnh thổ này!"
Trả lời phỏng vấn của hãng thông tấn Nga Sô Itar - Tass, đại diện Bộ ngoại giao Gia Nã Đại cũng khẳng định: "Chủ quyền lãnh thổ của Gia Nã Đại ở Bắc cực đã có từ lâu và được xây dựng bởi cội nguồn lịch sử".
Ngày 10.8.2007, cuộc tranh dành chủ quyền tại Bắc cực trở nên nóng bỏng hơn, khi chính phủ Gia Nã Đại khẳng định quyền sở hữu vùng biển này và công bố kế hoạch xây dựng một hải cảng, một căn cứ huấn luyện và hiện đại hóa lực lượng bán quân sự hiện đang tuần tra tại khu vực.
Tuyên bố trên được đưa ra nhân chuyến thăm 3 ngày tại Bắc Băng Dương của Thủ tướng Stephen Harper. Chính phủ Gia Nã Đại khẳng định chuyến thăm này đã có trong chương trình từ nhiều tháng trước, nhưng nay nó bỗng nhiên có ý nghĩa rất quan trọng, sau khi Nga Sô cắm cờ dưới lòng biển Bắc Cực.
Thủ tướng Harper tuyên bố, Gia Nã Đại sẽ xây dựng một hải cảng nước sâu trị giá 95 triệu Mỹ-kim tại Nanisivik gần lối vào phía đông của Tuyến đường biển Tây Bắc. Đây sẽ là nơi tiếp nhiên liệu cho các tàu tuần tra quân sự của nước này. Gia Nã Đại cũng dự định chi khoảng 3 tỷ Mỹ-kim để mua ít nhất 6 tầu tuần tra cho vùng Bắc Băng Dương.
Ngày 10.7.2007, chính phủ Gia Nã Đại cho biết sẽ chi gần 4 triệu Mỹ-kim nhằm hiện đại hoá một căn cứ ở vịnh Resolute để huấn luyện các lực lượng quân sự tại Bắc Cực.
2.3-Về phía Hoa Kỳ:
Mỹ cũng có lý do để sở hữu Bắc cực vì họ là người đầu tiên đặt chân đến chốn băng giá khủng khiếp này.
Các chính trị gia Mỹ, kể cả Thượng nghị sĩ Richard Lugar, dựa vào Hiệp ước về Luật biển (the Law of the Sea Treaty), yêu cầu chính quyền phải bảo vệ lợi ích quốc gia vùng Bắc Cực để giới hạn sự bành trướng chủ quyền của Nga Sô dưới lòng biển. Theo truyền thông Nga thì tầu thám hiểm của Hoa Kỳ (the Gakkel Ridge) tại Na-uy đã bắt đầu nghiên cứu phần đáy biển khác của Bắc Cực kể từ ngày 1.7.2007, nhằm chạy đua với Nga Sô về sự giầu có tài nguyên tại Bắc Cực. Theo Viện Woods Hole Oceanographic thì cuộc thăm dò nhằm thiết lập hệ thống ống dẫn hydrothermal, các loại nguyên liệu của vỏ trái đất và đời sống sinh vật.
Cái rắc rối và yếu điểm của Hoa Kỳ ngày nay là Quốc hội Mỹ chưa thông qua Hiệp ước về Luật biển của Liên Hiệp Quốc, nên sẽ gặp khó khăn trong vụ tranh chấp này.
Vì thế, nghị sĩ Phillips yêu cầu chính phủ Bush cần làm áp lực mạnh để thông qua đạo luật này. Tuy vậy, ngày 3.8.2007, Phát ngôn viên Tom Casey của Bộ ngoại giao Mỹ tuyên bố rằng việc cắm cờ của Nga ở đáy biển Bắc Cực không có ý nghĩa pháp lý. "Tôi không tin rằng chính họ (Nga) đã cắm cờ sắt, cờ cao su hay cờ làm bằng chất dẻo... nhưng bất luận trong mọi trường hợp đều không có ý nghĩa...". John Bellinjer, Cố vấn tư pháp Bộ ngoại giao Mỹ tuyên bố "Người Mỹ không thể dửng dưng ngồi nhìn các nước khác chia chác Bắc cực."
Về cuộc tranh dành quyền lãnh thổ ở Bắc Cực thì năm 1920, các nước Liên Sô, Na-Uy, Đan Mạch, Hoa Kỳ và Gia Nã Đại đã thỏa thuận toàn bộ đất đai, hải đảo và vùng Bắc Băng Dương đều thuộc chủ quyền lãnh thổ của năm nước trên. Nga Sô là nước được phần lớn nhất (bằng 1/3 diện tích thềm lục địa Bắc Băng Dương.) Tuy nhiên, chính khu vực Bắc Cực không thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào. Những nước gần đó được quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng như bảo vệ môi trường.
John Norton Moore, Đại sứ Mỹ tham gia các cuộc thương lượng về luật biển trong thời kỳ chính quyền Richard Nixon và Gerold Ford đã cảnh cáo rằng, Mỹ có thể sẽ bị gạt ra ngoài rìa, nếu không phê chuẩn Hiệp ước về Luật biển.
Các nhà chính trị cho rằng Hoa Kỳ không có khả năng can thiệp khi vẫn đứng ngoài cuộc tranh cãi kéo dài 13 năm nay liên quan đến việc phê chuẩn một Hiệp ước của Liên hiệp quốc về các quyền quốc tế liên quan tới biển cả. Văn kiện có tên gọi chính thức là "Hiệp ước về luật biển" này được nhiều nước coi là phương tiện căn bản của thế giới nhằm giải quyết các cuộc tranh chấp về quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên và về các tuyến đường giao thông trên vùng biển quốc tế.
Nga Sô và 152 nước khác đã phê chuẩn hiệp ước này. Tuy nhiên, các nghị sỹ Mỹ phản đối "Hiệp ước về luật biển" và đã ngăn cản việc phê chuẩn nó tại Quốc hội Mỹ từ năm 1994, với lý do là các quốc gia đã dành quá nhiều quyền lực cho Liên Hiệp Quốc.
2.4-Về phía Đan Mạch:
Mấy năm trước Đan Mạch tuyên bố rằng tất cả vùng Bắc Cực đều thuộc quyền sở hữu của nước này, vì xét cho cùng chỉ có Greenland là gần Bắc cực hơn cả. Ngày 18.10.2004, Đan Mạch chính thức tuyên bố có chủ quyền vùng Bắc Cực một trong những nguồn dự trữ dầu hỏa và khí đốt lớn lao lộ thiên của thế giới. Các nhà khoa học dự tính độ tan băng đá của Bắc Băng Dương vào khoảng 3% một năm. Hiện nay, Đan Mạch tuyên bố chủ quyền không phải không có bằng chứng chứng minh. Theo tài liệu địa chất thì Bắc Cực và Greenland thuộc chủ quyền của Đan Mạch từ năm 1814, vì sự liên kết bởi 1240 cây số dưới rặng núi đáy biển là đỉnh Lomonosov Ridge. Đan Mạch đã tổ chức một cuộc thám hiểm kéo dài một tháng để nghiên cứu dãy núi Lomonosov mà nhiều nhà khoa học của nước này tin rằng nó là phần kéo dài của Greenland. Cuộc hành trình mang tên LOMROG 2007 (Lomonosov Ridge Off Greenland), có sự tham gia của các nhà nghiên cứu hàng đầu như Martin Jakobsson từ Đại học Stockholm và Christian Marcussen từ Trung tâm địa chất học của Đan Mạch và Greenland. Chiếc tầu phá băng đá mang tên Thần Oden của Thụy Điển được dùng vào chương trình thám hiểm và phải phá những khu đá băng dầy từ 2 mét tới 20 mét. Tầu phá băng được trang bị các dụng cụ tối tân như tia sáng Laser để chụp hình và đo độ sâu của biển. Các dụng cụ này được Thụy Điển tài trợ với sự cộng tác của Đại học Aahus, phân khoa Khoa học địa cầu, Viện Alfred-Wegener tại Bremerhaven của Na Uy và Viện Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (U.S. Geological Survey).
Ngày 9.8.2007, chính phủ Đan Mạch cho biết, các nhà nghiên cứu của nước này tiếp tục khảo sát Bắc Băng Dương để thu thập các dữ liệu địa chất học trong một chuyến đi tương tự như cuộc thăm dò của Nga.
Bộ khoa học và Công nghiệp của Đan Mạch đã bỏ ra 38 triệu Mỹ-kim để hoàn chỉnh bản đồ thềm lục địa nhằm thuyết phục tất cả các quốc gia rằng, Bắc cực chính là phần tiếp theo của đảo Greenland. Đan Mạch dựa vào chủ quyền Greenland, một đảo có 57.000 cư dân và được một tòa án quốc tế phán quyết chủ quyền của Đan Mạch năm 1933, sau khi từ chối việc Na Uy tuyên bố có chủ quyền đảo này. Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ Đan Mạch, Helge Sander, nói: "Các cuộc khảo sát sơ bộ đã được thực hiện cho thấy có nhiều hứa hẹn. Có những bằng chứng chứng tỏ rằng Đan Mạch có thể khẳng định chủ quyền ở Bắc Cực".
Ngày 12.8.2007, từ đảo Svalbard (Na Uy), nhóm 40 nhà khoa học bắt đầu thực hiện chuyến hành trình tới Bắc Cực để thu thập bằng chứng chứng minh khu vực này là phần mở rộng của đảo Greenland thuộc Đan Mạch. Nhóm các nhà khoa học, trong đó có 10 người Đan Mạch, đi trên tàu phá băng Oden của Thụy Điển sẽ thực hiện việc khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ chi tiết khu vực Bắc Cực, bao gồm cả đáy biển bằng các thiết bị tối tân như hệ thống định vị dưới nước bằng siêu âm và quang tuyến…
3-Liên Hiệp Quốc và vấn đề tranh chấp về Bắc cực:
Năm 1959, 12 nước trong đó có Liên Sô, Hoa Kỳ, Argentina, Nhật Bản, Bỉ, Anh quốc và Na-Uy... ký một hiệp ước quốc tế quy định: Bắc Cực là khu phi quân sự được mở cửa cho việc nghiên cứu khoa học của tất cả các nước trên thế giới và không nước nào được phép sở hữu bất cứ vùng nào tại đây. Luật biển năm 1982 quy định phạm vi lãnh hải của mỗi quốc gia được tính 12 dặm (hơn 19,3 km) kể từ bờ biển, cộng thêm 200 hải lý thuộc khu vực được phép khai thác kinh tế. Sự lỏng lẻo của luật ở chỗ phạm vi được phép khai thác kinh tế lại có thể được mở rộng thêm, nếu nó được chứng minh rằng vùng đáy biển là phần mở rộng địa chất của quốc gia đó.
Chính vì vậy mà ngày 20.12.2001, Nga đã trình bày trước Liên Hiệp Quốc tài liệu địa chất ủng hộ lập luận của mình rằng vùng đáy Bắc Cực và Siberia được liên kết bằng một thềm lục địa duy nhất. Nói cách khác, rặng Lomonosov trong lòng Bắc cực là phần mở rộng thềm lục địa của Nga, tính từ Siberia. Tuy nhiên, Liên Hiệp Quốc đã bác bỏ các lý luận của Nga Sô vì thiếu bằng chứng thuyết phục.
4-Phải chăng Không quân Nga tập trận tại Bắc Cực là để cảnh cáo các quốc gia khác?
Trong khi sự tranh cãi về tuyên bố chủ quyền của Nga tại Bắc Cực vẫn chưa lắng dịu thì ngày 8.8.2007, lực lượng không quân chiến lược Nga bắt đầu tập trận tại vùng này. Phát ngôn viên lực lượng Không quân Nga Alexander Drobyshevsky cho biết, họ sẽ tập thả bom và phóng hỏa tiễn trong các tình huống giả định khác nhau. Cuộc tập trận có sự tham gia của các oanh tạc cơ chiến lược như Tu-160 Black-jack, Tu-95 Bear-H và Tu-22 Black-fire-C. Các máy bay Nga đã bay qua Bắc Cực, Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.
5-Liên Hợp Quốc nói gì?
Quyết định chính thức về vụ tranh dành lãnh thổ ở Bắc cực chưa được LHQ đưa ra. Năm 2002, một uỷ ban đặc biệt của LHQ được thành lập, nhưng chưa đưa ra một quyết định cụ thể nào. Các chuyên gia trong lĩnh vực luật biển cho rằng, để thảo luận yêu sách của Nga cần có thêm những luận chứng khoa học khác nữa. Chính vì vậy mà mục đích đợt thám hiểm của Nga lần này là đưa ra những bằng chứng cần thiết chứng minh cho lập luận của mình về Bắc Cực. Chuyện tranh chấp Bắc cực xem ra chỉ mới mở đầu cho những cuộc tranh luận gay gắt trong tương lai. Ai có khả năng đối đầu với Nga Sô?
Chỉ Hoa Kỳ. Nhưng Quốc hội Mỹ lại chưa thông qua Hiệp ước về Luật biển thì dựa vào luật lệ nào của Quốc tế để chống Nga Sô?
Nếu Quốc Hội Mỹ không thừa nhận quyền bao quát của Liên Hiệp Quốc thì tòa án nào sẽ xử vụ tranh chấp này
Hội Nghị Thượng đỉnh của G8 tại Đức quốc có gì lạ?
Hội Nghị Thượng đỉnh của G8 tại Đức quốc có gì lạ?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Ngày 6-8.6.2007, các nhà lãnh đạo của tám quốc gia kỹ nghệ tiên tiến và giầu có nhất thế giới "G-8" đã tới tham dự cuộc họp thượng đỉnh tại Heiligendamm, thuộc thành phố Rostock, Đức Quốc.
Cũng như tại các hội nghị trước đây, hàng chục ngàn người đã biểu tình chống đối, có lúc ôn hòa, có khi bạo động.
Nhiều người thắc mắc tại sao cứ mỗi lần các vị nguyên thủ quốc gia gặp nhau họp bàn lại có biểu tình chống đối?
Để giúp quí độc giả hiểu thêm vấn đề, chúng tôi sẽ trình bày các điểm dưới đây:
1-G-8 LÀ GÌ?
G-8 là ký hiệu viết tắt của "Nhóm 8" (Group of Eight) qui tụ 8 quốc gia kỹ nghệ tiên tiến và giầu có nhất thế giới gồm: Hoa Kỳ, Anh, Đức, Pháp, Gia Nã Đại, Nhật Bản, Nga Sô và Ý Đại Lợi.
Về lịch sử thì ý nghĩ về một hội nghị dành cho các quốc gia kỹ nghệ dân chủ lớn của thế giới bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu hỏa vào năm 1973. Cuộc khủng hoảng này đã đưa đến tình trạng kinh tế trì trệ của thế giới. Vào năm 1974, Hoa Kỳ thành lập Nhóm Thư Viện (the Library Group), một tổ chức không chính thức qui tụ các nhà tài chính lão luyện từ Hoa Kỳ, Anh quốc, Tây Đức và Nhật Bản. Sau đó, tổng thống Pháp, Giscard d’Estaing, mời các chính phủ Tây Đức, Ý, Nhật, Anh và Hoa Kỳ tới họp thượng đỉnh tại Rambouillet, Pháp quốc. Sau hội nghị, sáu nhà lãnh đạo đã đi tới thỏa thuận luân phiên tổ chức cuộc họp thường niên. Khi tổ chức ở quốc gia nào thì chính phủ nước đó sẽ giữ vai trò chủ tịch.
Nhóm G-6 ra đời từ thời điểm này. Năm sau, theo lời yêu cầu của tổng thống Mỹ Gerald Ford, Gia Nã Đại được mời tham gia và Nhóm có tên mới là G-7. Trước đây Liên Hiệp Âu châu chưa hoàn thành các cơ cấu tổ chức hành chánh, nên không có đại diện tham dự các hội nghị của G-8. Tới năm 1997, chủ tịch Ủy ban Đặc nhiệm của Liên Hiệp Âu Châu được Anh quốc mời tham dự cuộc họp thượng đỉnh lần đầu tiên và từ đó có sự hiện diện của chủ tịch Ủy ban Đặc nhiệm LHÂC trong mỗi kỳ họp.
Khi chiến tranh lạnh giữa hai khối Tự Do và Cộng Sản kết thúc, đồng thời đưa tới sự tan ra của các chế độ Cộng sản Sô-viết và Đông Âu từ thập niên 1990, Nga Sô được mời họp riêng với các nhà lãnh đạo G-7, sau các buổi họp của hội nghị. Từ đó, danh hiệu P-8 (Political 8) ra đời, còn được gọi là "G7 plus 1".
Sau khi nước Nga có những cải tổ cả về chính trị lẫn kinh tế thị trường dưới thời TT. Boris Yeltsin và chính phủ Nga đã giữ vị thế trung lập trong chương trình bành trướng của khối NATO về phía Đông, tổng thống Mỹ Bill Clinton đã đề nghị mời Nga Sô tham gia vào tổ chức từ năm 1997. G-8 là danh hiệu mới của tổ chức được nhắc tới từ đây.
Khi nhận định về sự giầu có của một quốc gia, người ta phải dựa trên nền kinh tế của nước đó. Dân số của G-8 chỉ bằng 14% dân số thế giới; nhưng tổng sản lượng nội địa của 8 quốc gia lại chiếm tới 2/3 thế giới, 192 nước. Chính vì vậy mà nền kinh tế thế giới phát triển mạnh hay rơi vào tình trạng trì trệ hoặc khủng hoảng, một phần bị ảnh hưởng bởi G-8, đặc biệt là Hoa Kỳ. Chính vì vậy mà các chính sách liên quan tới tài chính và kinh tế của G-8 có ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế chung của nhân loại.
Mỗi năm cuộc họp thượng đỉnh của các nguyên thủ và lãnh đạo chính quyền quốc gia của G-8 họp tại một nước hội viên, để tổng kết tình hình, rút ưu khuyết điểm và hoạch định các chính sách về chính trị và kinh tế.
2-CẤU TRÚC VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA G-8:
Là một tổ chức không chính thức, nên G-8 không có một cơ cấu hành chính như Liên Hiệp Quốc (UN), Ngân Hàng Thế Giới (WB) hay Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF) v.v… G-8 không có văn phòng thư ký thường trực hoặc văn phòng cho các hội viên. Chức vụ chủ tịch luân phiên trong các hội viên và nhiệm kỳ bắt đầu vào tháng giêng mỗi năm. Quốc gia giữ chức vụ chủ tịch có nhiệm vụ thiết lập chương trình và tổ chức hàng loạt các cuộc họp cấp Bộ trưởng, để chuẩn bị cho cuộc họp thượng đỉnh giữa các nhà lãnh đạo quốc gia hội viên vào giữa năm. Các cuộc họp cấp Bộ trưởng sẽ bàn về các vấn đề song phương hay quốc tế, liên quan tới sức khoẻ, luật lệ, lao động, sự phát triển kinh tế và xã hội, năng lượng, môi trường, ngoại giao, tư pháp, nội vụ, khủng bố và giao thương v.v… Trước đây, cuộc họp của các Bộ trưởng tài chính G-7, không có sự hiện diện của Nga Sô. Một số quốc gia có nền kinh tế đang phát triển khác chưa trở thành hội viên G-8 cũng có thể tham dự các cuộc họp riêng được gọi là "G-8 + 5". Ngoài sự tham dự của các bộ trưởng Tài chính và Môi trường của 8 quốc gia hội viên, còn có đại diện của Trung Cộng, Mễ Tây Cơ, Ấn Độ, Ba Tây và Nam Phi. Các quốc gia này được đặc biệt mời tham dự để bàn về một số vấn đề, trong đó có môi trường phải đạt được chỉ tiêu vào năm 2012.
Một số hoạt động tiêu biểu của hội nghị được ghi nhận như sau:
-Tại hội nghị năm 1994, G-7 đã thảo luận về thành quả của Xã Hội Thông Tin Quốc tế (The Global Information Society). Hội nghị tiếp tục bàn thảo chương trình này tại các cuộc họp vào ngày 25-26.2.1995 tại Brussels, Bỉ quốc và ngày 13-15.5.1996 tại Nam Phi.
-Tháng 6-2005, các Bộ trưởng Tư pháp và Nội vụ của G-8 đã thỏa thuận phát động chương trình lưu trữ hồ sơ về lạm dụng tình dục trẻ em (Paedophiles) và khủng bố. Trong thời gian này, các Viện Hàn Lâm khoa học G-8 đã ký vào bản công bố về tình trạng thay đổi khí hậu, trong đó có sự tham gia của Trung Quốc, Ba Tây và Ấn Độ. Hoa Kỳ là quốc gia thải khí độc nhiều nhất thế giới, chiếm tới 25% nhưng chưa chịu đưa ra những cam kết chính thức nào cả.
Ngoài G-8, còn một vài tổ chức khác cũng lấy danh hiệu G như sau:
-G-11: Tổ chức bao gồm 11 nước chưa phát triển, lợi tức trung bình còn thấp kém, được vua Abdullah II của Jordan thành lập vào ngày 20.9.2006. Các nước hội viên là: Jordan, Croatia, Ecuador, Georgia, El Salvador, Honduras, Morocco, Indonesia, Pakistan, Paraguay, Sri Lanca và Tunisia.
-G-20 (G-21, G-22,) và G-33: Tổ chức của các quốc gia chậm tiến hay đang trên đà phát triển tại Trung Đông, Nam Mỹ, Á châu và Phi châu. Tổ chức này được thành hình nhằm mục đích hợp tác về lãnh vực kinh tế và thị trường.
3-HỘI NGHỊ THƯỢNG ĐỈNH 2007 CÓ GÌ LẠ?
Đến tham dự hội nghị thượng đỉnh từ ngày 6-8/6/2007 tại Đức quốc, có 5 thủ tướng: Stephen harper (Gia Nã Đại), Angela Merkel (Đức), Romano Prodi (Ý), Shinzo Abe (Nhật), Tony Blair (Anh) và 3 tổng thống: Nicolas Sarkozy (Pháp), Vladimir Putin (Nga), George W. Bush (Hoa Kỳ). Chủ tịch Đặc nhiệm Liên Hiệp Âu châu, ông Joseph Manuel Barroso, cũng có mặt tại hội nghị này.
Ngoài ra còn có đại diện của 6 nước Phi châu tới tham dự hội nghị với hy vọng nhận được một khoản trợ giúp khoảng 60 tỷ Đô-la dành cho chương trình chống bệnh AIDS và các bệnh khác.
Trong chức vụ chủ tịch hội nghị thượng đỉnh lần thứ 33 của G-8, nữ thủ tướng Angela Merkel chủ động trong chương trình nghị sự và đưa ra các đề nghị để đi tới quyết định về các lãnh vực đã đệ trình.
Hội nghị không phải lúc nào cũng đem lại các kết quả khả quan. Ngược dòng thời gian người ta thấy Bản công bố tháng 2-2007 của G8+5 tại Hoa Thịnh Đốn đã không qui định rõ ràng một giới hạn giảm thiểu sức nóng của trái đất. Hội nghị vẫn nhận định khí hậu thay đổi do sự nghi ngờ của con người. Sự kiện có thể do hệ thống nông nghiệp của thế giới và việc sử dụng than đá gây nên. Hoa Kỳ thì cứ cù cưa không chịu quyết định dứt khoát. Biện hộ cho mình, Hoa Kỳ cho rằng thay vì giảm số lượng khí độc thì nên cải tiến kỹ thuật, vì sẽ sự phát triển kinh tế không bị ảnh hưởng.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy hiệu quả của sáng chế hệ thống lọc khói thải ra từ xe hơi có thể giảm thiểu khí độc CO2. Do đó, các ống khói thoát khí độc của các nhà máy nếu được lọc cũng có thể làm giảm số lượng CO2.
Dù sao đi nữa G-8 tin tưởng vấn đề môi trường, sự thay đổi khí hậu của trái đất sẽ được bàn kỹ hơn vào năm 2009 cho phù hợp với các qui định ở hội nghị Kyoto.
Chương trình nghị sự của Hội nghị Thượng đỉnh 2007 tại Đức quốc kỳ này gồm các vấn đề sau đây:
-Sự thay đổi khí hậu: Trước các thiên tai bão lụt, thời tiết thay đổi bất thường, tuyết tan nhiều tại Bắc và Nam cực và trái đất này một nóng hơn v.v… các hội viên phải tìm giải pháp làm thế nào để giảm số lượng khí độc CO2 thải ra ngày càng nhiều tại các quốc gia kỹ nghệ.
Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Nga Sô và ngày nay cả Trung Cộng chưa chịu thi hành các quyết định của hội nghị Kyoto.
Vì thế, vấn đề này sẽ được giao cho Liên Hiệp Quốc giải quyết và dứt khoát phải đạt được mục tiêu giảm 50% vào năm 2050. Trung quốc nại lý do đất nước đang trên đà phát triển kinh tế và chính phủ đang cố gắng thi hành chính sách giảm nghèo thì không thể giảm số lượng CO2 hoặc than đá sử dụng trong các hoạt động kỹ nghệ theo yêu cầu. Đối với Nhật Bản thì thủ tướng Shinzo Abe tuyên bố có hy vọng giảm 50% vào năm 2050.
Theo yêu cầu của hội nghị Kyoto vào năm 1997 thì 35 quốc gia kỹ nghệ cần giảm số lượng thải khí độc 5% trong thập niên năm 1990 tới 2012. Nhật Bản là quốc gia đứng thứ hai về kinh tế thế giới hứa sẽ giảm 6%.
-Vấn đề viện trợ cho Phi châu: Xét lại lời hứa tại hội nghị Gleneagles ở Scotland năm 2005 là gia tăng gấp đôi viện trợ cho Phi châu. Nhưng thực tế chỉ có ba quốc gia tôn trọng: Anh quốc (+13%), Pháp (+1,4%), Đức (+0,9%). Các nước hứa cuội là: Hoa Kỳ (-20%), Ý Đại Lợi (-30%), Nhật Bản (-9,6%) và Gia Nã Đại (-8,7%).
Tại hội nghị Gleneagles ở Scotland năm 2005, G-8 cũng thỏa thuận sẽ giảm nợ và đi tới xóa bỏ nợ nần cho các nước nghèo.
-Vấn đề thương mại: Xét lại chương trình viện trợ đã được bàn trong hội nghị Doha về sự phát triển của các quốc gia nghèo và đang trên đà phát triển.
-Sự căng thẳng giữa Nga Sô và Đồng Minh Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu châu: Hội nghị cố tìm giải pháp ôn hòa trong chương trình bành trướng khối NATO về hướng Đông và thiết lập phòng tuyến chống hỏa tiễn tại châu Âu do Hoa Kỳ đề nghị. Vấn đề này bị Nga Sô chống đối mạnh mẽ. Tổng thống Vladimir Putin cảnh cáo nếu Hoa Kỳ thực hiện chương trình này, Nga Sô sẽ hướng các dàn hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử về phía châu Âu. Nga Sô cũng đã khiêu khích bằng cuộc thí nghiệm hỏa tiễn liên lục địa mang nhiều đầu nổ (RS-24) có khả năng bắn tới mục tiêu xa 5.500 km; và có thể xuyên phá bất cứ phòng tuyến nào của Hoa Kỳ và Tây phương. Lời tuyên bố của TT. Putin nhằm trả đũa chương trình thiết lập hệ thống hỏa tiễn phòng thủ của Hoa Kỳ tại Ba Lan và Tiệp Khắc.
-Các quốc gia đang phát triển mạnh về kinh tế: G-8 sẽ thảo luận với các nước đang phát triển mạnh về kinh tế như Trung Quốc, Ba Tây, Mễ Tây Cơ, Nam Phi và Ấn Độ trong chiều hướng gia tăng số hội viên của G-8, cũng như đưa các nước này vào hội nghị để hợp tác về kinh tế và giải quyết sự ô nhiễm về môi trường của thế giới.
-Vấn đề ngoại giao: Hội nghị sẽ tìm một giải pháp thiết thực để chấm dứt cuộc xung đột giữa Do Thái và Palestine.
-Vấn đề Iran: Hội nghị cũng bàn thảo về giải pháp chế tài có hiệu quả đối với quyết định thực hiện chương trình chế tạo vũ khí nguyên tử của nước này.
-Vấn đề độc lập và tự trị cho Kosovo: G-8 cố gắng đưa ra giải pháp ôn hòa để tránh sự xung đột. Kosovo là lãnh thổ thuộc chủ quyền của Serbia; nhưng thành phố này lại có trên 90% dân Albania theo Hồi giáo. Vì thế, Nga Sô và Serbia không chịu giải pháp độc lập hay tự trị của Kosovo, mặc dù Liên Hiệp Quốc và Tây phương muốn ủng hộ giải pháp này.
-Vấn đề Sudan: cuộc diệt chủng do phiến quân Ả Rập gây nên tại thành phố sa mạc Darfur đã làm cho hàng trăm người chết và bị thương, chục ngàn người phải bỏ chạy và sống trong các túp lều giữa sa mạc của Liên Hiệp Quốc. Chính quyền Sudan lại ủng hộ nhóm phiến loạn và không chấp thuận cho quân đội của Liên hiệp Phi châu và Liên Hiệp Quốc tới đây để bảo vệ dân tị nạn cũng như giữa an ninh cho việc vận chuyển lương thự cứu trợ.
4-TỪ G-8 TỚI TOÀN CẦU HÓA CÓ LỢI HAY HẠI?
Sinh hoạt của nhân loại trên trái đất này rất đa dạng do khác biệt văn hóa và sự phát triển không đồng đều. Các quốc gia kỹ nghệ tiên tiến G-8 ngày càng giầu, nhiều nước ở Á, Phi châu và Nam Mỹ vẫn còn nghèo. Như vậy, muốn có hòa bình và tránh tình trạng di dân do chiến tranh hay nghèo đói gây nên, người ta phải tiến tới một trật tự chung cho nhân loại. Trật tự này sẽ hóa giải được các cuộc xung đột có thể bộc phát thành chiến tranh và giải quyết được các cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Trật tự hóa thế giới cũng nhằm phân nhiệm trên chính trường cũng như thị trường thế giới. Muốn vậy phải thực hiến chính sách Toàn Cầu Hóa.
Nếu không tìm hiểu kỹ, người ta dễ hiểu lầm và thắc mắc Toàn Cầu Hóa có ưu điểm gì?
Về ưu điểm, chúng tôi chỉ đưa ra hai ví dụ cụ thể sau đây:
Ví dụ 1: So sánh giữa Đài Loan và Kenya:
Trong chương trình TV "Toàn Cầu Hóa thì tốt" (Globalization is good) của đài TV 4 của Anh quốc chiếu ngày 21.9.2003, người ta so sánh 50 năm trước đây Đài Loan và Kenya cùng nghèo như nhau. Ngày nay, Đài Loan giầu hơn Kenya 20 lần. Sự giầu có này là kết quả của chính sách kinh tế thị trường và hội nhập vào nền giao thương quốâc tế. Ngược lại, Kenya vẫn bế quan tỏa cảng trước chính sách Toàn Cầu Hóa, nên còn nghèo đói. Kenya thiếu cải tổ luật pháp, không bảo đảm quyền tư hữu và tệ nạn tham nhũng trong toàn cơ cấu chính quyền là nguyên nhân khiến cho nền kinh tế khôngï phát triển mạnh.
Người ta cũng nhận định rằng sự phân phối không cân đối trên thế giới là kết quả của sự phân phối không đồng đều về tư bản, vấn đề căn bản của sự phát triển kinh tế. Có thể nói, tẩy chay tư bản là tẩy chay sự phát triển kinh tế.
Ví dụ 2: Công ty đa quốc gia NIKE chuyên sản xuất quần áo, giầy dép và dụng cụ thể thao đã đầu tư vào Việt Nam hàng triệu Đô-la. Sự đầu tư này tạo cho môi trường lao động tốt hơn và người Việt có cơ hội làm nhiều giờ hưởng lương cao hơn. Nếu chống Mỹ và tẩy chay tư bản theo quan niệm cộng sản trước đây thì kinh tế Việt Nam ngày nay ra sao?
Thay vì gây bất lợi cho VN, công ty này (cũng như các công ty siêu quốc gia khác) đã làm cho nền kinh tế phát triển, giảm thiểu sự nghèo đói và giảm số lượng trẻ em phải lao động.
Các sở hữu chủ xí nghiệp địa phương cũng như chuyên viên VN có cơ hội tìm kiếm NIKE để học hỏi về kỹ thuật sản xuất và cải thiện tình trạng lao động.
Về quan điểm kinh tế, nếu chủ quan so sánh lương bổng còn thấp của một công nhân VN với lương bổng cao gấp đôi, gấp ba của công nhân Mỹ hay Tây phương thì người ta nói có sự "bóc lột sức lao động".
Nhưng xét về lãnh vực kinh tế và đầu tư thì đây là một giao kèo giữa chủ và thợ. Nếu VN không chấp nhận mức lương thấp thì các nhà đầu tư ngoại quốc sẽ bỏ thị trường VN.
Nếu nói VN là nước nghèo, tư bản ngoại quốc đầu tư vào đây để bóc lột thì cũng nên hiểu rằng:
"Nếu đó là sự mạo hiểm trên thế giới thì đầu tư vào sự nghèo đói chưa hẳn khai thác được gì; và tại sao các quốc gia tư bản không đầu tư vào Phi châu?"
5-TẠI SAO CÓ SỰ CHỐNG ĐỐI G-8?
Các cuộc biểu tình vừa ôn hòa, vừa bạo động đã xẩy ra mỗi khi G-8 họp thượng đỉnh. Theo cảnh sát Đức, có hơn 2.000 người tranh đấu bạo động (militants) quen gọi là "đám áo đen chùm đầu" (Black Blok). Các cuộc xung đột trước ngày hội nghị khai mạc đã làm cho 430 cảnh sát và 520 người biểu tình bị thương, 120 bị bắt giữ. 16.000 cảnh sát, một lực lượng lớn nhất đã được điều động để giữ trật tự cho hội nghị.
Nguyên nhân đưa tới biểu tình chống đối là: "sự nghèo khổ ở Phi châu, sự nợ nần của các nước đang phát triển, chính sách thương mại không công bằng, vấn đề ô uế môi trường, địa cầu ngày càng nóng hơn vì các nước kỹ nghệ lớn thải khí độc carbon dioxide ngày càng nhiều, thảm trạng bệnh AIDS do sự giới hạn trong chính sách đối với bệnh nhân, và Toàn Cầu hóa chỉ có lợi cho các quốc gia kỹ nghệ tư bản v.v…"
Sự chống đối G-8 bao gồm các thành phần:
-Các nhóm gây ảnh hưởng về chính trị (lobbyists).
-Các người theo cánh Tả, trong đó có các đảng viên Cộng sản và thiên Cộng, hoạt động tích cực xuống đường biểu tình nhằm hỗ trợ cho chủ chương và gây tiếng vang cho đảng và tổ chức của mình.
-Các nhóm khủng bố lợi dụng thời cơ để tạo nên cớ cho các hoạt động bạo lực của mình.
-Những người cổ võ cho các tổ chức từ thiện nhằm yêu cầu các quốc gia kỹ nghệ tư bản viện trợ nhiều hơn cho các nước nghèo đói và chậm tiến.
Một bằng chứng: trong kỳ hội nghị thượng đỉnh lần thứ 31 của G-8 vào năm 2005 tại Scotland đã có hàng loạt đại hội âm nhạc mang tên "Live 8 hay Live Aid" nhằm cổ võ cho sự giảm nghèo tại Phi Châu qua khẩu hiệu "Make Poverty History". Tham gia và cổ võ cho chương trình này có cả ngàn ca nhạc sĩ và hàng trăm đài truyền hình và phát thanh. Nhờ vậy, các quốc gia G-8 đã hứa tăng gấp đôi viện trợ cho các nước nghèo, từ 25 tỷ Mỹ-kim trong năm 2004 lên 50 tỷ trong năm 2005, trong đó một nửa dành cho Phi châu.
Các tổ chức Live-8 cũng hô hào các quốc gia giầu trích 0,7% ngân sách dùng cho chương trình viện trợ ngoại quốc, như đã đề nghị tại hội nghị thượng đỉnh về trái đất (Earth Summit) ở thủ đô Rio de Janeiro của Ba Tây, vào năm 1992.
Một số nhận định khác đặt vấn đề là G-8 không thể độc quyền và còn là trung tâm quyền lực kinh tế của thế giới nữa. Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tây, Mễ Tây Cơ và Nam Phi, 5 nước cũng có nền kinh tế đang phát triển và quyền lực tất nhiên phải được san sẻ. Như vậy, trong tương lai, G-8 có thể phát triển thành G-13.
Ngoài ra, theo báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới thì Tây Ban Nha đã thay thế Gia Nã Đại trong vị trí quốc gia thứ 8 có nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Kết quả của các cuộc biểu tình
Biểu tình bạo động và chống đối Hội nghị Thượng đỉnh 2007 tại Đức quốc không lớn bằng hội nghị lần thứ 27 ở Genova của Ý vào năm 2001. Sự chống đối G-8 đã khiến cho các hội nghị sau này thường được tổ chức bên ngoài các thành phố lớn.
Đặc biệt, Hội nghị thượng đỉnh G-8 năm 2005 tại Scotland đã gặp các cuộc khủng bố bằng bom nổ tại hệ thống xe điện ngầm ở thủ đô Luân Đôn.
-Phải chăng chính sách Toàn Cầu Hóa đã, đang và sẽ gặp những rào cản?
- Và các cuộc chống đối có lợi hay có hại đối với chính sách Toàn Cầu Hóa?
KẾT LUẬN
Nói chung, các cuộc biểu tình chống đối ôn hòa và xây dựng đã gây được ảnh hưởng, không 100% thì cũng làm cho các nhà lãnh đạo G-8 để ý. Kết quả của Hội nghị 2005 tại Scotland là một bằng chứng.
Nếu các cuộc biểu tình biến thành bạo động, đốt phá và hủy hoại vật chất v.v… thì khó gây được tiếng vang và ít được các nhà lãnh đạo G-8 lắng nghe. Các cuộc biểu tình bày tỏ thiện chí lại biến thành bạo động thì không ai khâm phục.
Cuộc tranh cử tổng thống Pháp
BẦU CỬ PHÁP QUỐC
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Có phải Ségolène Royal, nữ ứng cử viên tổng thống đầu tiên trong lịch sử đã bị thất bại vì
"sống chung không hôn thú và bố chết không nhìn mặt?"
Trước khi tìm hiểu người thắng kẻ thua trong cuộc tranh cử tổng thống Pháp, chúng tôi giới thiệu sơ qua về hai nhân vật trong số 12 ứng cử viên tranh cử vòng một ngày 22.4.2007 có số phiếu cao nhất được vào vòng hai ngày 06.05.2007:
I-SÉGOLÈNE ROYAL
1-Tiểu sử
Ségolène Royal sinh ngày 22.09.1953 trong căn cứ quân sự của Pháp tại Quakam, Dakar, Senegal khi bố, Jacques Royal, còn là Đại tá quân đội Pháp đóng tại đây. Mẹ Royal là Hélène Dehaye. Gia đình có 8 anh chị em: Marie-Odette, Marie-Nicole, Géhard, (Ségolène Royal), Antoine, Paul, Henry và Sigisbert. Sau khi kết thúc Trung học, Royal tiếp tục chương trình tại Chính trị Học Viện Paris (Institut d’ Étude Politiques de Paris – IEP), một Viện Đại học nổi tiếng thường được gọi tắt là "Sciences Po". Năm 1972, ở tuổi 19, Royal đã kiện cha ra tòa vì ông bố không chịu ly dị vợ, trợ cấp cho vợ và tài trợ cho các con về học vấn theo luật định. Sau nhiều năm tranh tụng, Royal thắng kiện trước khi bố chết vì bệnh ung thư vào năm 1981. Trong số 8 người con thì 6 đứa không muốn nhìn mặt bố theo yêu cầu của Royal! Từ thập niên 1970 Royal sống chung với Francois Hollande hiện là chủ tịch của đảng Xã Hội. Bà gặp ông tại trường Quốc Gia Hành Chánh và hai người có bốn con (Thomas, Clémence, Julien và Flora).
2-Sự nghiệp:
-Royal từng làm cố vấn pháp luật tại Tòa án Hành chính và được Jacques Attali, cố vấn đặc biệt của cố tổng thống Francois Mitterant mời vào ban Tham mưu chuyên trách về đảng viên trẻ tuổi từ 1982-1988. Sau đó trở thành một phó ủy ban trong Quốc Hội (1988-1992, 1993-1997, 2002…) và Bộ trưởng Môi trường dưới thời thủ tướng Pierre Bérégovoy năm 1992-1993. Khi các đảng cánh Tả thắng cử vào năm 1997, Royal ra ứng cử chủ tịch quốc hội, nhưng đa số lại đề cử Laurent Fabrius. Thay vào đó, bà được đề cử vào chức vụ phó bộ trưởng Giáo dục, rồi phó bộ trưởng Gia đình và Thanh thiếu niên từ năm 2000 tới 2002 trong chính phủ Lionel Jospin.
3-Trốn thuế:
Royal bị tố cáo trốn thuế về sự giầu có. Theo ký giả Peter Allen của báo Anh (The Independent) thì Royal cùng với chồng không hôn thú Hollande sở hữu 3 tòa nhà. Nhưng hai người muốn biến 3 tòa nhà này thành một công ty tư nhân để tránh phải trả thuế chung về gia sản, có thể lên tới 500.000 bảng Anh. Royal bị phanh phui vì trước đây chính bà từng đả kích kịch liệt danh ca nhạc Rock là Johnny Hallyday đã di chuyển sang Thụy Sĩ để tránh phải trả thuế cao tại Pháp. Hollande trong những tuần trước đây cũng đối nghịch giới trung lưu qua việc đề nghị tăng thuế những ai hưởng lương trên 4.000 Euro một tháng. Năm 2006, Hollande tuyên bố một câu nổi tiếng: "tôi không thích người giầu!" mặc dù hai người sở hữu chủ cả dẫy nhà ở ngoại ô Paris, vùng Boulogne-Billancourt và những biệt thự tại Riviera. Royal thì nổi tiếng ở khu bầu cử Melle, Deux-Sèvres.
4-Chương trình tranh cử:
Ngày 22.9.2005, trả lời cho báo Paris Match trong một cuộc phỏng vấn, Royal cho biết sẽ ứng cử tổng thống năm 2007. Năm 2006, khi luật lao động (CPE) của chính phủ bị chống đối mạnh mẽ, Royal lợi dụng các cuộc biểu tình tung ra chiến dịch tranh cử với khẩu hiệu "Sarko-Sego". Ngày 7.4.2006, Royal chính thức công bố chiến dịch tranh cử mang tên "Ước Vọng Tương Lai" (Désirs d’avenir) và tuyên ngôn chính trị (political manifesto) dài 10 chương. Theo Royal thì thành kiến về giới tính (sexism) trong đảng Xã hội là chướng ngại vật lớn đối với nữ giới về vấn đề được đảng chỉ định ra tranh cử.
Ngày 16.11.2006, Royal đánh bại các đối thủ Laurent Fabius và Dominique Strauss-Kahl ứng cử viên tổng thống của đảng Xã Hội. Bà thắng tại 101 trên 104 đơn vị đề cử. Một trong các cố vấn là Eric Besson đã từ chức ngay sau khi Royal công bố chương trình tranh cử mà ông này nghĩ là sẽ tốn hàng triệu Euro. Những người khác trong toán vận động tranh cử muốn trì hoãn thực hiện kế hoạch này. Eric Besson đã viết một quyển sách, xuất bản ngày 20.3.2007, có tựa đề là Ai hiểu được bà Royal? (Qui connait Madame Royal). Ông này tố cáo Royal là người tự cho mình là đại diện quần chúng (populist), độc quyền (authoritarian) và có khuynh hướng chống lại tiến bộ kỹ thuật (luddite). Eric Besson cũng nói mình sẽ không bỏ phiếu cho Royal và hy vọng bà sẽ thất cử. Ngày 18.2.2007, Royal cách chức Arnaud Montebourg, phát ngôn viên của bà, vì ông này tuyên bố một cách hóm hỉnh trên truyền hình rằng: bà Royal chỉ có một khuyết điểm là bạn đường (ám chỉ Hollande, chồng không hôn thú)
5-Về kinh tế
-Nếu thắng cử Royal sẽ tăng 5% tiền hưu trí cho người già, tăng lương tháng tối thiểu lên 1.500 Euro; tăng trợ cấp cho người tàn tật, giúp trả tiền đặt cọc thuê mướn nhà cửa cho giới nghèo; bảo đảm công việc và huấn nghệ cho các sinh viên trong vòng 6 tháng sau khi tốt nghiệp; hủy bỏ các giao kèo làm việc thích hợp cho các công ty nhỏ; bảo đảm sự tự do ngừa thai cho tất cả phụ nữ; miễn tiền lời khi tuổi trẻ vay 10.000 Euro v.v…
6-Về gia đình và xã hội
Royal đưa ra "luật quyền lợi và bổn phận của cha mẹ" (loi sur l’autorité parentale), Cải tiến quyền lợi của phụ nữ và trẻ em sinh ra vô danh (l’accouchement sous X), chồng bỏ vợ phải chi trả cho con cái ăn học và bệnh hoạn (Parental leave), huấn luyện thêm y tá, cải tiến nhà ở, giúp sinh viên năm đầu (Allocation de rentrée scolaire), giảm thiểu số lượng gái giang hồ (Loi contre la prostitution des mineurs), luật chống sử dụng trẻ em làm phim khiêu dâm (la Charte de Prévention contre la pornographie Enfantine,CPPA), chống bạo hành trẻ em v.v…
7-Vấn đề nữ giới
Khi nhận ra tranh cử tổng thống, Royal tuyên bố: "Có sự tương quan mạnh mẽ giữa tình trạng của phụ nữ và tình trạng của sự công bằng hay không công bằng trong một nước". Theo tạp chí Ms, báo của dành cho nữ giới Mỹ, thì lương của nữ công nhân Pháp chỉ bằng 80% so với nam giới.
8-Về quan niệm tình dục
Năm 2000, khi còn giữ chức vụ Bộ trưởng Gia đình và Tuổi trẻ, Royal phát biểu chống lại phong trào đối kháng đồng tính luyến ái (Anti-Gay) tại trường học. Tháng sáu năm 2006 trong cuộc phỏng vần dành cho tổ chức tự do về dục tính LGBT, Royal phát biểu: "cởi mở hôn lễ cho các đôi đồng tính là cần thiết nhân danh sự bình đẳng, sự nhận thức và sự kính trọng và nếu tôi thắng cử, tôi sẽ ban hành đạo luật hợp thức hóa hôn lễ đồng tính và cho nhận con nuôi".
9-Về chính sách ngoại giao:
Royal chấp nhận Thổ Nhĩ Kỳ trở thành hội viên Liên Hiệp Âu Châu, chống lại tất cả chương trình nguyên tử của Iran. Bà bị chỉ trích vì không hiểu rõ Hiệp ước Hạn chế phổ biến Vũ khí Nguyên tử (the Nuclear Non-Proliferation Treaty) được ra đời vào năm 1968, có 188 quốc gia đã ký kết. Hiệp ước không ngăn cấm chương trình phát triển nguyên tử dân sự hay hòa bình, tức điện năng sử dụng trong kinh tế đã được Liên Hiệp Quốc thanh tra và chấp thuận.
Nhằm tạo uy tín trên chính trường thế giới Royal đã du hành tới Trung Đông vào tháng 12-2006, gặp Ali Ammar dân biểu của tổ chức khủng bố Hezbollah và thăm quốc hội Lebanon. Khi Ammar tuyên bố chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ tại Trung Đông là "sự điên rồ không có giới hạn của người Mỹ"(Unlimitted American Insanity!) và so sánh hành động của Do Thái tấn công Lebanon trong thời gian vừa qua giống như Đức Quốc Xã (Nazism) mà Royal không có phản ứng gì. Royal lại cám ơn Ammar là người thẳng thắn, mặc dù ngày hôm sau bà tới thăm Do Thái. Royal cũng đi thăm Trung Cộng vào tháng giêng 2007. Sau khi nói chuyện với một luật sư Tàu, bà tuyên bố hệ thống pháp luật của người Tàu "nhanh hơn" Pháp quốc! Nhưng báo chí chê bà có hiểu gì đâu. Mỗi năm Nhà cầm quyền Trung Cộng xử tử 10.000 phạm nhân và luật sư bào chữa phải được phép của Đảng Công sản. Tháng giêng năm 2007, khi gặp lãnh tụ đối lập của Québec và đảng trưởng đảng Québécios, Royal đã không ngần ngại tuyên bố ủng hộ phong trào đòi độc lập cho Québec, thành phố lịch sử do nhà thám hiểm Pháp tìm ra. Dân ở đây nói tiếng Pháp và nhiều lần tranh đấu đòi tách rời quốc gia Gia Nã Đại (Canada). Ngày 5.4.2007, bình luận về vụ hai nhà báo Pháp bị nhóm Taliban bắt cóc tai A Phú Hãn (Afghanistan), Royal kêu gọi Liên Hiệp Quốc phong tỏa các chế độ như Taliban. Lời tuyên bố này chứng tỏ Royal không hiểu biết gì về tình hình thế giới và nhóm Taliban đã một lần nắm quyền sinh sát, nhưng bị tan rã sau cuộc tấn công của Hoa Kỳ và Đồng Minh.
-Thất bại trong chính sách đối với Hoa Kỳ: Royal giống như các chính quyền cánh Tả ở Âu Châu luôn tỏ thái độ đối lập chính phủ Mỹ. Royal không ngần ngại tuyên bố với báo chí: "Vị thế ngoại giao của tôi không phải đi và quì xuống trước mặt George Bush!" Royal cũng hạ thấp giá trị của Sarkozy khi tuyên bố: "Sarkozy, một bản sao của Bush"(Sarkozy as a clone of Bush) và "một người Mỹ Tân-Bảo thủ mang thông hành của Pháp!" (an American neo-conservative carrying a French passport). Chống chiến tranh Iraq và đòi chính phủ Mỹ rút quân khỏi Iraq là giọng điệu tranh cử của Royal.
-Thất bại đối với Liên Hiệp Âu châu: Royal kêu gọi tái cấu trúc chính trị Âu Châu và như các tổng thống Pháp trước, chính sách của Royal là hội nhập, bảo vệ và can thiệp. Cần một hiến pháp, những đối nghịch với lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ, vấn đề ngoại giao, chính sách an ninh và độc lập quân sự v.v… Chiến dịch của Royal và đảng Xã hội là "Một Âu Châu mạnh để đối đầu và cạnh tranh với Hoa Kỳ". Khẩu hiệu này không khác với tư tưởng của phe De Gaulle. Trong cuộc phỏng vấn của báo Anh, tờ The Daily Telegraph, Royal cũng tấn công cả vào sự thân hữu và đồng minh giữa Hoa Kỳ và Anh quốc. Royal đòi Anh quốc phải chọn giữa "chư hầu" cho Hoa Kỳ hay Âu Châu.
Nói chung, chương trình của Ségolène Royal chỉ có ưu điểm cho giới nghèo về lãnh vực xã hội, lao động và giáo dục. Nhưng khi đưa ra những lời hứa hẹn như vậy Royal đã không chinh phục được sự tin tưởng của cử tri về vấn đề đào đâu ra tiền? Về phương diện kinh tế và ngoại giao thì Royal tỏ ra chưa hiểu biết đủ và có bản lãnh thuyết phục dân chúng và thế giới khâm phục.
II-NICOLAS SARKOZY
1-Tiểu sử
Nicolas Sarkozy sinh ngày 28.1.1955 tại Paris. Tên khai sinh là Nicolas Paul Stéphane Sarkozy de Nagy-Bocsa. Bố là Pal Sarkozy de Nagy-Bocsa, người Hung Gia Lợi di dân và mẹ Andrée Mallah, gốc Hy Lạp-Do Thái. Gia đình sở hữu đất đai và ngôi nhà nhỏ ở làng Alattýan, 92km về phía Đông thủ đô Budapest. Gia đình theo Tin Lành, nhưng bà nội lại là người Công giáo. Trong thế chiến II nước Hung Gia Lợi bị cai trị bởi chế độ Phát Xít, đồng minh của Hitler. Khi Hồng Quân Nga tiến vào Hung Gia Lợi năm 1944 gia đình Sarkozy chạy sang Đức quốc, rồi trở về nước năm 1945; nhưng toàn bộ gia sản bị cướp đoạt. Sau đó ông nội của Sarkozy bị chết và bà nội sợ con bị cưỡng bức vào quân đội sẽ bị đưa đi Tây Bá Lợi Á (Siberia); nên khuyên bố của Sarkozy phải trốn ra khỏi nước. Bà cũng hứa sẽ theo sau và hẹn gặp nhau tại Paris. Bố của Sarkozy chạy sang Áo quốc, rồi sang Đức. Bị hạch hỏi, bà nội khai với chính quyền là con trai mình bị chết đuối ở hồ Balaton. Cuối cùng bố của Sarkozy tới được vùng Baden gần biên giới Pháp, nơi đặt Bộ Chỉ Huy của Quân đoàn Pháp. Tại đây bố của Sarkozy tình nguyện gia nhập Binh đoàn Ngoại quốc của Pháp trong thời gian 5 năm. Ông được gửi đi huấn luyện quân sự tại Sidi Bel Abbes, thuộc Angéria, Phi châu. Theo chương trình thì ông sẽ được gửi sang chiến trường Đông Dương (Việt Nam, Lào và Căm Bốt) khi mãn khóa. Nhưng một bác sĩ khám sức khoẻ trước khi ông đi lại là người Hung Gia Lợi đã cảm thông hoàn cảnh, nói ông khai bệnh và cho thuốc. Nhờ thế ông không bị gửi tới chiến trường Việt Nam, nơi mà ông có thể bị Việt Minh bắn chết trên trong các cuộc giao ranh. Sau đó ông trở về đời sống dân sự vào năm 1948, cư ngụ tại thành phố Marseille. Mãi tới thập niên 1970 ông mới được cấp quốc tịch Pháp và chuyển về sinh sống tại Paris, làm việc trong một xưởng quảng cáo nghệ thuật. Ở Paris, Pal Sarkozy đã gặp và yêu nàng sinh viên luật Andrée Mallah vào năm 1949.
Theo Sarkozy kể thì không phải bố mà ông nội có ảnh hưởng trực tiếp tới quan điểm chính trị của mình. Quan điểm này dựa trên tinh thần chủ quyền độc lập của Pháp về phương diện chính trị, quân sự, kinh tế và xã hội do cố tổng thống Charles de Gaulle đề ra (Gaullisme). Bố của Sarkozy theo Do Thái giáo hệ phái Sephard Jew, nhưng trở lại Công Giáo. Vì thế niềm tin Công Giáo của Sarkozy được vững mạnh ngay từ trong gia đình. Ông từng tuyên bố thần tượng của mình là ĐGH Gioan- Phaolô II. Tuổi nhỏ Sarkozy học Tiểu học và Trung học tại trường Công giáo Cours Saint-Louis de Monceau. Sau đó vào đại học và tốt nghiệp Cử nhân Luật tại Université Paris X Nanterre và Học viện Chính trị quốc gia Paris (Institut d’ Etudes Politiques de Paris (thường gọi là Science Po). Sau khi tốt nghiệp Sarkozy trở thành luật sư chuyên về luật thương mại và gia đình. Với tài năng của một luật sư, ông đã ly dị được người vợ thứ nhất và giúp mẹ kiện bố để đòi trợ cấp ly dị cao hơn.
2-Về tình cảm gia đình: Ngày 23.9.1982, Sarkozy kết hôn với Marie-Dominique Culioli, con của một nha sĩ ở Vigo, một làng thuộc đảo Corsia. Hai người sinh được 2 trai, Piere (1985) và Jean (1987). Hai vợ chồng lâm vào cảnh cơm không ngon, canh không ngọt, sau nhiều năm ly thân, Sarkozy quyết định ly dị vợ vào năm 1996. Nàng Culioli vẫn ngoan đạo và xác nhận luôn cầu nguyện cho Sarkozy. Khi làm thị trưởng Neuilly, Sarkozy gặp Cécilia Ciganer-Albéniz, bố người Nga và ông nội là nhạc sĩ Isaac Albéniz. Lúc đó Cécilia đã thành hôn với Jacques Martin, Giám đốc đài truyền hình. Năm 1989, Cécilia bỏ Martin theo Sarkozy. Sau khi Cécilia ly dị chồng Sarkozy cưới bà vào tháng 10.1996 và năm 1997 hai người cho ra đời một trai tên Louis. Giữa năm 2002 và 2005, hai người thường cùng nhau xuất hiện trước công chúng trong các dịp lễ. Nhưng bất ngờ ngày 25.5.2005, nhật báo Thụy sĩ, tờ Le Martin, tung tin Cécilia bỏ Sarkozy để theo người tình Richard Attias, người Pháp gốc Marốc, giám đốc tập đoàn quảng cáo tại Nữu Ước. Năm 2005, báo chí lại tung tin Sarkozy có liên hệ tình cảm với Anne Fulda, một ký giả của báo Le Figaro. Nhưng cuối cùng Sarkozy và Cécilia lại nối lại tình xưa! Năm 2006, Sarkozy nói với báo chí rằng ông đã mời Cécilia trở về từ Hoa Kỳ, mặc dù không ai hiểu rõ hoàn cảnh của hai người như thế nào. Bất ngờ hơn, trong lúc Sarkozy xuất hiện trước quảng trường Concorde ở Paris mừng thắng cử, người ta lại thấy Cécilia đứng bên chồng, Tân tổng thống Pháp! Cécilia xuất thân từ một gia đình mang hai dòng máu: Tây Ban Nha - Do Thái.
3-Về chính trị: Sarkozy từng là phát ngôn viên trong các đại hội của đảng. Ông được cánh Tả cũng như cánh Hữu công nhận là có năng khiếu về chính trị và có tài diễn thuyết. Theo những người ủng hộ ông thì Sarkozy có sức hấp dẫn về cải tổ chính trị và "đột phá" những gì không hiệu quả trong chính sách. Người ta nghĩ là ông có khuynh hướng cải tổ xã hội và kinh tế theo chính sách của Hoa Kỳ và Anh quốc. Từ tháng 11.2004, ông là chủ tịch của Liện hiệp Phong trào Quần chúng UMP (Union pour un Mouvement Populaire), nơi qui tụ phần lớn đảng phái chính trị thiên Hữu. Sarkozy từng là Bộ trưởng Nội vụ của chính quyền Dominique de Villepin và nổi tiếng đến nỗi người ta gọi là Bộ trưởng Quốc gia (Minister of State), đứng sau tổng thống Jacques Chirac và Thủ tướng Villepin. Trước khi làm Bộ trưởng, Sarkozy là một Phó Chủ tịch Quốc Hội năm 1998 và phải từ chức để được bổ nhiệm vào chức vụï Bộ trưởng.
Sarkozy bắt đầu hoạt động chính trị năm 22 tuổi, khi trở thành cố vấn thành phố Neuilly-sur-Seine, một khu giầu có đặc biệt phía Tây ngoại ô Paris. Là một hội viên của đảng cánh Hữu Tân thời, Neo-Gaullit Party (RPR), Sarkozy đã được bầu làm Thị trưởng sau cái chết của Achille Peretti, một thân hữu mà mẹ của Sarkozy từng là thư ký của ông ta. Sarkozy là Thị trưởng trẻ nhất trong các thị trưởng vào thời đó và giữ chức vụ trong một thời gian khá dài, từ 1983 tới 2002. Năm 1993, Sarkozy đã tự mình đối thoại với tên khủng bố bắt giữ học sinh tại trường Kindergarten ở Neuilly trong vụ "Human Bomb". Hai ngày sau thì tên khủng bố bị cảnh sát đột nhập vào trường học và bắn chết. Từ năm 1993 tới 1995, Sarkozy giữ các chức vụ như: Bộ trưởng Ngân sách, Phát ngôn viên của Ủy ban Hành chính của Nội các chính phủ Édouard Balladur và từng bảo vệ tổng thống Chirac. Năm 1995, Sarkozy lại ủng hộ Balladur ra tranh cử tổng thống. Sau khi đắc cử, Jacques Chirac cất chức Sarkozy. Khi cánh Hữu bị thất bại trong cuộc bầu cử Quốc hội 1997, Sarkozy trở lại hoạt động và đứng thứ 2 trong đảng RPR. Sau đó lên nắm chức vụ chủ tịch đảng khi Philippe Séguin từ chức. Năm 2002, Chirac tái đắc cử tổng thống nhiệm kỳ 2 và bổ nhiệm Sarkozy vào chức vụ Bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ Jean-Pierre Raffarin, rồi chuyển qua BT Tài chính năm 2004.
4-Chính sách: Cuối nhiệm kỳ Bộ trưởng và vào năm 2004 Sarkozy trở thành nổi tiếng nhất trong quần chúng; nhưng lại không nổi tiếng trong giới chính trị Bảo thủ. Chính sách tăng cường cảnh sát xuất hiện trên đường phố, công bố tình trạng phạm pháp hàng tháng đã chinh phục được sự ủng hộ của đa số dân Pháp; nhưng người ngoại quốc thiểu số lại chống đối. Trước tình trạng bạo động của thanh thiếu niên, Sarkozy cố gắng làm giảm sự căng thẳng giữa người Pháp và các dân tộc thiểu số khác. Đối với người Công Giáo và Tin Lành vấn đề không khó khăn, vì có các nhà lãnh đạo tinh thần hướng dẫn. Nhưng đối với dân Muslim thì vấn để trở nên khó khăn hơn, không có nhóm nào có tư cách pháp lý và quyền đại diện đối thoại với chính phủ. Vì thế, tháng 5.2003, Sarkozy hỗ trợ cho việc hình thành một tổ chức bất vụ lợi mang tên "Hội Đồng Pháp của người Muslim" (Conseil francaise du culte musulman). Hội đồng này sẽ đại diện cho toàn thể người theo Hồi Giáo. Sarkozy cũng dựa vào đạo luật năm 1905, tách rời Giáo Hội ra khỏi Quốc Gia để có thể tài trợ việc xây đền thờ và trường học cho người Muslim, để ít bị lệ thuộc vào tiền bạc từ nước ngoài.
Về tài chính thời Thủ tướng Balladur: Sarkozy đã giới thiệu chính sách qua các Nghị định phản ảnh từ thuyết tự do (libéralisme) như: Không trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh tế, nhưng theo truyền thống Pháp cần can thiệp (dirigisme). Nhằm khuyến khích tư hữu hóa, Sarkozy quan tâm đến sự giảm cổ phần của chính phủ từ 50,4% xuống 41% trong công ty điện thoại Télécom; hỗ trợ quốc hữu hóa một phần công ty Alstom bị phá sản năm 2003; thỏa thuận với các nhà bán lẻ để giảm giá hàng xuống 2%; giảm thiểu thuế đánh vào sự giầu sang "ISF" chứ không hủy bỏ hoàn toàn theo khuynh hướng của nhiều người cánh Hữu cũng như cánh Tả, đặc biệt trong giới kinh doanh. Sarkozy cho rằng nó là món quà chỉ dành cho giới giầu trong khi nền kinh thế Pháp đang gặp khó khăn.
Nhiệm kỳ 2 BT Nội vụ thời Thủ tướng Villepin và chủ tịch UMP: Sarkozy không chủ trương cứng rắn như chính sách "Luật pháp và Trật tự" (law and order) đã ban hành. Vụ bạo động mùa Thu năm 2005 khiến ông đặt lại vấn đề phải áp dụng luật pháp. Sarkozy bị cánh Tả tố cáo là khiêu khích những người trẻ bạo động bằng cách gọi họ là kẻ phạm pháp, dân ngu cu (khu) đen (racaille-rifraff) ở khu Argenteuil gần Paris. Sau vụ hai thanh niên biểu tình bị chết khiến nhóm trẻ bạo động đốt xe phá tiệm, Sarkozy phê phán họ là "quân cướp và băng đảng" (hoodlums and gangsters). Sau các vụ bạo động, Sarkozy đưa ra chính sách thanh lọc, theo dõi di dân và tu chính sắc lệnh của chính phủ năm 1945 về vấn đề bạo động của tuổi trẻ. Trong thời kỳ làm chủ tịch UMP, Sarkozy đã đem thắng lợi về cho đảng, đạt 85% phiếu của cử tri và số đảng viên gia tăng. Ông đã ủng hộ trong cuộc trưng cầu dân ý về Hiến pháp Âu châu. Trong năm 2005, Sarkozy đã kêu gọi cải tổ chính sách kinh tế và xã hội. Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo Le Monde vào ngày 8.9.2005, Sarkozy đã nhận định rằng "Pháp quốc đã lầm đường 30 năm vì những hứa hẹn giả dối, và tố cáo cái mà ông cho là các chính sách không thực tế."(the French had been misled for 30 years by false promises, and denounced what he considers to be unrealistic policies).
Sarkozy muốn tổ chức hệ thống thuế giản dị hóa và cân đối hơn để tránh các lỗ hổng trốn thuế và mức độ thuế tối đa đánh vào lợi tức là 50% – Ban hành biện pháp giảm hay từ chối trợ cấp xã hội đối với những người thất nghiệp không chịu nhận công việc do chính quyền địa phương tìm kiếm cho họ. –Giảm sự thâm thủng trong ngân sách. –Cải tổ hệ thống di dân và ấn định một số lượng dành cho thợ khéo tay nghề cần thiết cho kinh tế Pháp quốc - Cải tổ hệ thống sinh viên ngoại quốc. Thay vì sinh viên ngoại quốc có thể theo các khóa học để được cư trú tại Paris, Sarkozy muốn chọn các sinh viên ưu tú cho các khóa học tốt nhất tại Pháp.
5-Về ngoại giao: như các chính trị gia Pháp khác, Sarkozy không tán thành cuộc xâm lăng Iraq của Hoa Kỳ. Nhưng ông không đồng ý về quan điểm chống chiến tranh của dân Pháp qua cách phát biểu của TT. Jacques Chirac và Bộ trưởng ngoại giao Dominique de Villepin. Sự bất đồng này được chứng minh qua lời Sarkozy phát biểu tại Hội Mỹ-Pháp ở Hoa Thịnh Đốn ngày 12.9.2006: "sự cao ngạo của Pháp và cách gây rối không tốt đẹp đối với đồng minh!" Sarkozy cũng nói thêm là chúng ta không bao giờ nên tỏ thái độ bất bình đưa tới xung đột".
III-KẾT QUẢ BẦU CỬ
1-Nicolas Sarkozy đạt được 53,5% tổng số phiếu của cử tri đi bầu và trở thành tổng thống Pháp nhiệm kỳ 2007-2012
2-Ségolène Royal được 46,5%.
Người phụ nữ Pháp đầu tiên ra tranh cử tổng thống đã bị thất bại có phải vì sống chung không hôn thú, bố chết không gặp mặt và ủng hộ đồng tính luyến ái?
Kỷ niệm 32 năm ngày Quốc hận 30.04.1975 - 30.04.2007
Kỷ niệm 32 năm ngày Quốc hận 30.04.1975 - 30.04.2007
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Thử ném một cái nhìn về Việt Nam xem đảng Cộng Sản đã làm được gì cho đất nươc?
32 qua rồi, nhưng người dân miền Nam và các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa chân chính vẫn không quên được ngày đau buồn nhất trong cuộc đời, ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm và chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) bị sụp đổ! Hàng chục ngàn người dân vô tội đã bị chết trên đường di tản trước ngày 30.4.1975. Hàng chục ngàn chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) đã hy sinh vì tổ quốc và để lại hàng trăm ngàn cô nhi, quả phụ! Hàng chục ngàn Sĩ quan bị bắt đi học tập cải tạo vô thời hạn và vợ con họ phải lao đao cực khổ! Hàng trăm ngàn người miền Nam đã bỏ mạng trong các cuộc vượt biên trên đất liền và trên biển cả chỉ vì hai chữ tự do.
30.4.1975, một biến cố đau thương và tàn khốc nhất trong lịch sử của dân tộc VN là nguyên nhân khiến cho hơn 2 triệu người Việt phải bỏ quê hương để thoát ách Cộng sản vô thần. Một biến cố tị nạn vĩ đại nhất trong lịch sử chiến tranh mà người ta không tìm thấy trong suốt thời kỳ 1.000 năm sống dưới ách thống trị tàn bạo của giặc Tàu và 100 năm bị sống cơ cực dưới thời thực dân Pháp.
Ôn lại những kỷ niệm trên không phải để chúng ta nuôi mối hận thù truyền kiếp, hay chuẩn bị cho một cuộc chiến "huynh đệ tương tàn", mà để nhắc nhở người VN hãy nhìn vào thực tế, nhìn vào chủ nghĩa nào có lợi cho dân tộc, hầu tìm ra giải pháp đoàn kết, xây dựng và phát triển đất nước theo đà tiến bộ chung của nhân loại.
I- CHIỀU CHIỀU RA ĐỨNG NGÕ SAU, TRÔNG VỀ QUÊ MẸ RUỘT ĐAU CHÍN CHIỀU!
Sau 32 năm, dù đồng ý hay không, người dân Việt tại quê hương phải chấp nhận sống dưới chế độ Cộng sản. Cái chủ nghĩa vô nhân đạo và ngoại lai vẫn tiếp tục được đề cao, được giáo dục cưỡng ép ở học đường, trong công sở và ngoài xã hội!
32 năm rồi mà chế độ CSVN vẫn ngoan cố bắt người dân "Yêu nước phải yêu Chủ nghĩa Xã hội!" Chủ nghĩa này chẳng qua chỉ là một hình thức che đậy Chủ Nghĩa Cộng Sản đã lỗi thời trên thế giới và bị ngàn đời nguyền rủa.
32 năm rồi mà dân vẫn nghèo đói khổ sở tứ bề, trong khi cán bộ CS ngày càng giầu có vì hối mại quyền thế và tham nhũng. Hãng thông tấn AFP dựa vào tài liệu của báo Hà Nội mới cho biết chỉ trong 9 tháng của năm 2006 đã có tới 1.700 vụ tham nhũng. Tham nhũng từ hạ tầng cơ sở tới thượng tầng kiến trúc; tham nhũng dưới mọi hình thức và về mọi lãnh vực.
Cán bộ ăn hối lộ tiền bạc chưa đủ, còn đua nhau "ăn đất" của dân, cướp đất của các Giáo Hội! Từ nông thôn tới thị thành, đâu đâu cũng có tiếng than phiền. Dân là chủ đất nước, thế mà dân biểu tình khiếu nại đòi ruộng đất của mình bị cán bộ cướp đoạt, thì bị "đầy tớ của dân" đàn áp dã man!
Cán bộ CS không chỉ nhận hối lộ tiền bạc, cướp đất đai mà còn ăn chặn gạo cứu đói của dân nữa mới hào hùng!
Báo Tuổi Trẻ, ngày 16.8.2006, có đăng tin cán bộ ở Quảng Nam đã chia chác 4 tấn gạo cứu đói của dân vào dịp Tết Bính Tuất 2006!
Đây cũng là bài học cho các tổ chức cứu đói, cứu nạn nhân thiên tai bão lụt phải làm cách nào đưa tiền bạc hay vật cứu trợ tới tận tay người dân mới có hiệu quả. Bằng không, tiền cứu trợ lại rơi vào túi cán bộ hoặc số tiền này sẽ được dùng để mua đồ vật hay hàng hóa ế ẩm do các cơ sở sản xuất của VC cung cấp.
32 năm rồi mà CSVN tiếp tục xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, xen vào nội bộ của các Giáo Hội, đòi quyền chỉ định ai được đi tu, ai được truyền chức và bổ nhiệm Giám Mục v.v… mặc dù thủ tướng Dũng đã yết kiến Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI và khoe khoang về chính sách tự do tín ngưỡng của Nhà Nước và Đảng CS.
II- CHIỀU CHIỀU RA ĐỨNG GÁC CAO, CHỜ TIN KHÁNG CHIẾN MÀ NGAO NGÁN LÒNG!
Sau 32 năm, dù đồng ý hay không, người dân Việt sống ở ngoại quốc cũng thấy rằng, ngày giải phóng quê hương khỏi ách CS sao vẫn còn xa vời quá! Người ta không tìm thấy một tổ chức chính trị có uy tín đủ để đoàn kết dân tị nạn. Người ta cũng không tìm thấy một tổ chức có sức mạnh cả về chính trị, quân sự và tài chính, để trực tiếp đối đầu với CSVN trên chính trường quốc tế và nội địa, hoặc có khả năng cung cấp tiền bạc cho các cá nhân, gia đình và tổ chức đấu tranh ở trong nước đang trực diện với chế độ độc tài đảng trị khi họ bị bắt bớ và cầm tù.
Thiết tưởng, muốn làm cách mạng giải phóng dân tộc, điều kiện tối thiểu đầu tiên cần phải có đối với bất kỳ tổ chức nào là nguồn tài chính.
Chúng tôi xin đưa ra một ví dụ.
Để có tiền cung cấp cho các hoạt động tuyên truyền cho chính nghĩa của mình về lãnh vực chính trị và trang bị vũ khí để tấn công thẳng vào các cơ sở và lực lượng dân sự và quân sự của Do Thái, Thủ lãnh Yasser Arafat và Phong trào Giải phóng Palestine (PLO), ngoài ngân quỹ riêng của mình, đã vận động các quốc gia Ả Rập, Tây phương, Phi Châu, Nam Mỹ và Thế giới thứ ba viện trợ tài chính. Chỉ riêng các nước Ả Rập không thôi, PLO đã nhận được mỗi năm trung bình từ 100-200 triệu Đô-la.
Vào thập niên 1970, PLO đã thành lập một công ty mang tên SAMED hoạt động về thương mại, sản xuất nhằm phát triển kinh tế và tài chính v.v… Kế hoạch này được gọi là lực lượng chiến đấu trên khắp các mặt trận. Đến thập niên 1980, PLO đã có lợi tức hàng năm khoảng 70 triệu Đô-la. Theo ước tính của Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (C.I.A) thì ngân quỹ của PLO có khoảng 8 tới 14 tỷ Đô-la. Sở Tình báo và Tội phạm Quốc gia của Anh quốc cũng ước tính PLO có nguồn tài chính khoảng 1,5 tỷ tới 2 tỷ Đô-la trên thế giới. Thủ lãnh Arafat và PLO đã thành công trên chính trường quốc tế. Dân Palestine đã được tự chủ, mặc dù một quốc gia Palestina chưa thực sự ra đời.
Nhìn vào các đảng phái, phong trào và mặt trận kháng chiến của người Việt tị nạn, chắc quí độc giả cũng không thể tin là họ đã có một số lượng tiền bạc khổng lồ như PLO, thì làm sao nói chuyện kháng chiến và hỗ trợ nội địa nổi dậy, ít nhất về phương diện bảo trợ tài chính cho các nạn nhân bị CSVN cầm tù và đày đọa?
Về uy tín đối với thế giới thì chưa có một tổ chức có thực lực đại diện cho toàn khối người Việt tị nạn trên chính trường Quốc tế như PLO, thì làm sao có uy tín để nhận được sự ủng hộ cả về chính trị, quân sự và tài chính, từ các quốc gia tự do Tây phương và Hoa Kỳ? Có thể nói cho tới nay, Hoa Kỳ vẫn chưa tìm thấy một tổ chức chính trị hay kháng chiến có thực lực của người Việt ở ngoại quốc để công nhận và hỗ trợ.
Trên chính trường hay trên chiến trường, nếu quân ta không mạnh thì địch sẽ lấn át. Vì thế, CSVN, không cần dùng súng đạn, xe tăng, đại bác v.v… thế mà họ hình như có vẻ đã thành công trên chính trường hải ngoại. Nghị Quyết 36, với chiêu bài "Khúc ruột ngàn dặm", một hình thức giống chính sách "Chiêu Hồi" dưới thời VNCH, đã làm cho các hoạt động chống cộng của người Quốc gia rơi vào tình trạng chia rẽ và khủng hoảng!
Kết quả của nghị quyết 36 là phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, người "đầu hàng VC" đầu tiên; và hàng chục người Việt ở ngoại quốc đã trở về hợp tác, làm nô tài dưới quyền VC trong các lãnh vực giáo dục, kinh tế, kỹ nghệ, thương mại và kỹ thuật v.v…
Có những người mang danh đảng viên hay thành viên của tổ chức chính trị hoặc con cưng của VNCH đã một thời anh dũng chống Cộng thế mà họ về VN thoải mái!
Có những nhà tu, kẻ thù của CS vô thần, thế mà họ được tự do xuất ngoại hoặc tự do về thăm quê hương một cách "hồ hởi, phấn khởi!"
-Tại sao?
Người CSVN năn nỉ người Quốc Gia tị nạn hãy quên đi quá khứ và trở về xây dựng đất nước. Nhưng xây dựng đất nước trên căn bản tự do, dân chủ hay vô thần và độc tài đảng trị?
-Người Quốc Gia chân chính có nên quên quá khứ không?
Thủ tướng Lý Quang Diệu, một trong những nhà lãnh đạo quốc gia nổi tiếng của Á Châu, người đã làm cho Tân Gia Ba (Singapore) từ một mảnh đất khô cằn trở thành Con Rồng Kinh tế Á châu từng tuyên bố một câu rất có ý nghĩa:
"Để hiểu hiện tại và dự đoán được tương lai, người ta phải biết đủ về quá khứ, đủ để có được cái hiểu về lịch sử của một dân tộc."
Lời phát biểu trên rất đáng cho CSVN lắng nghe và suy nghĩ về sự tôn thờ cái chủ nghĩa CS quái gở trong hơn nửa thế kỷ qua. Người Việt tị nạn chân chính khó có thể đoàn kết với CSVN cho đến khi nào Điều 4 của Hiến pháp năm 1992 được hủy bỏ, Mặt Trận Tổ Quốc của CS phải giải tán và Quốc Hội phải do dân trực tiếp bầu trong một cuộc Tổng tuyển cử tự do và dân chủ. Các ứng cử viên không phân biệt giai cấp, tôn giáo và quan niệm chính trị phải được tự do ra ứng cử mà không cần bất cứ cơ cấu CS nào giới thiệu hay chấp thuận, Mặt Trận Tổ Quốc là một ví dụ. Lý do: Tại các quốc gia văn minh và tiến bộ trên thế giới ngày nay không một luật pháp nào lại dành độc quyền cai trị đất nước cho một đảng. Không một người dân nào chấp nhận sự áp đặt vô lý như vậy.
32 năm qua đã có hàng ngàn quyển sách và bài viết lên án CSVN độc tài đảng trị, vi phạm nhân quyền và đàn áp tôn giáo; nhưng nhà cầm quyền CSVN vẫn như "nước đổ đầu vịt!"
32 năm qua đã có hàng trăm cuộc biểu tình chống các chính sách độc đoán của CSVN trên thế giới, và hàng trăm thư phản kháng của các tổ chức nhân quyền trong các quốc gia yêu chuộng tự do; nhưng nhà cầm quyền CSVN vẫn ngoan cố, vẫn đặt quyền lợi của Đảng lên trên quyền lợi của dân tộc.
Để tiếp tục đối kháng chế độ CS độc tài, người quốc gia chân chính hiện nay chỉ còn vũ khí sắc bén và có hiệu quả nhất là các cuộc biểu tình đòi hỏi tự do, dân chủ và nhân quyền cho dân chúng Việt Nam. Chúng ta đừng quên hậu quả tai hại trong quá khứ: Chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị sụp đổ và quân đội Mỹ phải rút khỏi VN cũng chỉ vì thiểu số người ở Hoa Kỳ và Tây phương đã dùng chiêu bài "phản chiến", chống chiến tranh bằng các cuộc biểu tình.
Vũ khí sắc bén và có hiệu quả nhất đối với người Quốc Gia chân chính hiện nay là tố cáo các tội ác của CSVN trước thế giới, qua báo chí, sách vở, hệ thống truyền thông và lưu trữ trong các thư viện, để con cháu hiểu rõ tại sao chúng ta có mặt tại ngoại quốc và để con cháu không hiểu lầm chúng ta vì đói rách phải "Tha phương cầu thực!"
Nói nhiều mỏi miệng, viết lắm mỏi tay mà CSVN vẫn chai đá, ù lì! Vậy chỉ còn cách mời quí độc giả coi lại một số hình ảnh để suy tư nhân ngày Quốc Hận 30.4.1975.
Tại sao Liên Hiệp Quốc lại ưu đãi cho nữ giới một ngày có tên là "Ngày Quốc Tế Phụ Nữ"
Tại sao Liên Hiệp Quốc lại ưu đãi cho nữ giới một ngày có tên là "NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ" (8.3.1910 - 8.3.2007)
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Có thể nói rằng suốt từ thời "Tạo Thiên Lập Địa" cho đến ngày nay, phụ nữ luôn bị nam giới đè nén về mọi lãnh vực. Nhưng với sự tiến bộ của loài người và nhờ được học hỏi ngày càng nhiều nơi trường học hay trong các tổ chức văn hóa, phụ nữ trong các xã hội tiên tiến đã biết tranh đấu cho quyền lợi của mình. Mục tiêu trước mắt là làm sao được bình đẳng với nam giới trên chính trường cũng như trong các sinh hoạt văn học, kinh tế và xã hội.
Nhân Ngày Quốc Tế Phụ Nữ 8.3.2007, chúng tôi mời quí độc giả thử tìm hiểu xem tại sao các bà lại được "o bế" như vậy?
1- CÁC CUỘC ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ TRƯỚC KHI NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ ĐƯỢC CÔNG NHẬN
-Cuộc đấu tranh đầu tiên
Người Mỹ đã đi tiên phong trong cuộc cách mạng dành độc lập (4.7.1779) và công nhân Mỹ cũng tiên phong trong cuộc đấu tranh cho quyền lợi của mình. Ngày 8.3.1857, các công nhân ngành dệt tại Nữu Ứơc đã vùng lên đòi giảm giờ làm việc và cải thiện môi trường lao động. Hai năm sau, các nữ công nhân ngành dệt đã thành lập công đoàn (syndicat) đầu tiên để bảo vệ quyền lợi của mình.
-Ngày 8.3.1908, 15.000 phụ nữ đã diễn hành trên các đường phố Nữu Ứơc để đòi được giảm giờ làm việc, tăng lương và hủy bỏ việc thuê mướn trẻ em. Để công chúng quan tâm đến cuộc đấu tranh, phụ nữ đã đưa ra khẩu hiệu "Bánh mì và Hoa hồng" (Bread and Roses). Bánh mì là biểu tượng cho sự ấm no và Hoa hồng tượng trưng cho đời sống tốt đẹp. Cuộc đấu tranh của phụ nữ đã phát triển mạnh trên đất Mỹ và Ngày Phụ nữ Quốc gia đầu tiên được tổ chức tại Hoa Kỳ ngày 28.2.1909. Đảng Xã hội Mỹ lợi dụng thành quả đấu tranh của phụ nữ, nên công nhận ngày này để tuyên dương cuộc đình công của thợ dệt tại Nữu Ước năm 1908.
2- NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ RA ĐỜI
Về lịch sử thì sáng kiến về Ngày Quốc tế đấu tranh của Phụ nữ (Women’s International Struggle Day) đã được bà Clara Zetkin, một nhà Xã hội Đức, đã đề ra tại Hội nghị Quốc tế Phụ nữ, vào hai ngày 26 và 27.8.1910 tại Thủ đô Copenhagen, Đan Mạch. Hội nghị này do các đảng Xã hội Quốc tế tổ chức với mục tiêu đấu tranh cho quyền lợi công nhân và quyền bầu cử của nữ giới. Hội nghị diễn ra trong Nhà Công Chúng (Folkets Hus) nay là Undomshuset tại Jagtvej 69, 2200 Copenhagen N, nơi mà trong tuần lễ đầu tháng 3.2007, các đài truyền hình đã chiếu cảnh xung đột giữa cảnh sát và tuổi trẻ.
Ngày 8 tháng 3 cũng được những người Cộng sản lợi dụng và chính thức công nhận trong đại hội Đệ III Cộng sản Quốc tế vào năm 1921. Trong thập niên 1920-1930 ngày này được đánh dấu là ngày Phụ nữ Xã hội trong các nước theo Chủ nghĩa Xã hội (hay cộng sản) và những nhóm khuynh Tả tại các quốc gia Tư bản. Phong trào Phụ nữ trung lưu tại các quốc gia Tây phương không tham dự. Sau Đệ II Thế chiến ngày này không được nhắc tới. Nhưng vào năm 1974 thì Phong trào Phụ nữ Giải phóng xuất hiện với danh nghĩa Phong trào Phụ nữ Xã hội Chủ nghĩa vào khoảng năm 1970. Biểu tượng của phong trào này là phụ nữ mang vớ (bít tất) dài mầu đỏ (Red stockings) trong các hội nghị và khi biểu tình.
Mục tiêu đấu tranh là thảo luận về vai trò phụ nữ, giới tính, quyền làm chủ thân xác mình, bình đẳng về lương bổng, tự do phá thai và chia sẻ kinh nghiệm với các phụ nữ khác qua khẩu hiệu: không có đấu tranh giai cấp nếu không có đấu tranh phụ nữ; và không có đấu tranh phụ nữ thì không có đấu tranh giai cấp. (No class struggle withouth women’s struggle; No women’s struggle withouth class struggle).
Ngày 25.3.1911, 145 nữ công nhân, phần lớn là di dân Ái Nhĩ Lan và Do Thái của hãng Triangle Shirtwaist Company tại Nữu Ước đã chết vì hỏa hoạn trong xưởng dệt. Họ không chạy thoát ra ngoài được vì cửa của cơ xưởng bị khóa chặt với mục đích không cho công nhân ra ngoài trước khi hết giờ làm việc. Cuộc biểu tình đã diễn ra và có hơn 80.000 người tham dự để tiễn đưa 145 nạn nhân bị chết cháy về bên kia thế giới.
Cũng trong năm 1911, sau kết quả của Hội nghị Copenhagen, cuộc biểu tình kỷ niệm Ngày Quốc tế Đấu tranh của Phụ nữ đã được tổ chức tại Áo quốc, Đan Mạch, Đức, Thụy Sĩ vào ngày 19.3. Có trên một triệu phụ nữ và đàn ông tham dự. Ngoài các đòi hỏi về quyền bỏ phiếu và có cơ sở để hoạt động, phụ nữ còn tranh đấu cho quyền làm việc, huấn luyện và chấm dứt sự kỳ thị trong công việc.
Năm 1913-1914: Ngày Quốc tế Đấu tranh của Phụ nữ trở thành cơ cấu chống Đệ I Thế chiến. Như một thành phần của phong trào hòa bình, phụ nữ Nga tổ chức Ngày Quốc tế Phụ nữ đầu tiên vào ngày Chủ nhật cuối tháng hai. Trong tinh thần chống chiến tranh, phụ nữ Nga đã biểu tình đòi "Bánh mì và hòa bình" (Bread and Peace) vào ngày 8.3.1917. Để bày tỏ sự đoàn kết, phụ nữ tại một số quốc gia Âu châu cũng biều tình chống chiến tranh.
Năm 1975, Liên Hiệp Quốc (LHQ) bắt đầu mừng Ngày Quốc tế Phụ nữ, mùng 8 tháng 3. Hai năm sau, tháng 12.1977, Đại Hội Đồng LHQ chấp thuận quyết định công bố Ngày LHQ cho Quyền lợi và Hòa bình Thế giới của Phụ nữ (United Nations Day for Women’s Rights and International Peace). Trong quyết định, Đại Hội Đồng công nhận vai trò của phụ nữ trong các nỗ lực hòa bình và phát triển; đòi hỏi chấm dứt sự kỳ thị và tăng cường sự hỗ trợ cho phụ nữ được hoàn toàn và bình đẳng dự phần vào nỗ lực này.
Sau đó các Hôïi nghị Liên Hiệp Quốc về Nữ giới đã được tổ chức tại: Mexico City năm 1975, Copenhagen (Denmark) 1980, Nairobi (Kenya) 1985, Beijing (Trung Quốc) 1995 v.v…
3- THÀNH QUẢ ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ
3.1- Quyền chính trị
Nhiều phụ nữ đã trở thành bộ trưởng, thủ tướng, phó tổng thống và tổng thống tại hàng chục quốc gia trên thế giới là bằng chứng chứng minh thành quả của nữ giới trong cuộc tranh đấu cho quyền lợi của phái mình trên chính trường.
Thành quả đấu tranh đem lại cho phụ nữ khắp trên thế giới thì nhiều, không thể kể ra hết trong một bài viết. Chúng tôi chỉ ghi lại một số thành quả tiêu biểu của phụ nữ ở Âu châu:
-Về quyền bầu cử: Ngày nay, phụ nữ trong các quốc gia hội viên của Liên Hiệp Âu châu (LHÂC) đã có quyền bầu cử.
-Về tham chính trong Quốc hội: Phụ nữ đã trở thành dân biểu tai các quốc gia với tỷ lệ so với nam giới ngày càng cao như: Na Uy và Thụy Điển: 47%, Croatia: 45%, Hòa Lan: 39%, Đan Mạch: 37%, Tây Ban Nha: 30%, Ý: 17%, Tiệp Khắc: 13%, Pháp: 12%, Hy Lạp: 13%, Hung Gia Lợi: 10%, Nga sô: 10%.
3.2- Quyền sinh đẻ
Ngày xưa người phụ nữ thường than vãn mình "bị đẻ", vì cái gì đàn ông muốn là Trời muốn! Nhưng ngày nay tại đa số các quốc gia trên Thế giới thì phụ nữ muốn có con hay không là quyền của họ.
-Về sinh đẻ: Theo thống kê, trung bình mỗi người phụ nữ Âu châu chỉ đẻ 1,5 con! Phụ nữ Ý và Tây Ban Nha được coi là "lười đẻ" nhất, dưới 1 con!
-Về phá thai: Đa số các quốc gia trên thế giới cũng như LHÂC ngày nay cho phép phụ nữ được tự do phá thai. Một số điều kiện ràng buộc khác nhau tại mỗi nước là vấn đề luân lý đạo đức, thời gian của bào thai, tình trạng bị hiếp dâm, bệnh hoạn và hoàn cảnh của người mẹ. Ngày nay phụ nữ muốn đẻ thì đẻ, nếu không họ có quyền ngừa thai hay phá thai.
-Về thời gian được nghỉ khi sinh đẻ: Phụ nữ được nghỉ từ 5 tuần ở Ý tới 156 tuần ở Hung Gia Lợi. Vấn đề được hưởng lương hoặc trợ cấp nhiều hay ít tùy thuộc chính sách xã hội của mỗi quốc gia.
3.3- Quyền lao động
Ngày nay phụ nữ Âu châu có quyền làm việc trong mọi lãnh vực và được hưởng đầy đủ mọi quyền lợi theo luật lao động qui định.
-Về lương bổng: Tuy Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc đã xác định quyền bình đẳng giữa nam và nữ, nhưng tình trạng lương bổng vẫn chưa công bằng. Cùng một công việc mà chủ trả lương cho phụ nữ thường thấp hơn nam giới, chỉ đạt 60/100 và cao nhất 92/100.
3.4- Quyền học vấn
Theo thống kê Đệ II Tam Cá Nguyệt 2006 của LHÂC: trong 27 quốc gia thuộc Liên Hiệp thì tỷ lệ tốt nghiệp cấp ba (đại học) tuổi từ 25 tới 59 cho thấy nữ giới đã "đè đầu" nam giới! Nữ: 24%, nam: 23%. Phụ nữ Phần Lan đứng hàng đầu: 42%, kế đến là Estonia và Đan Mạch: 39%; Tiệp Khắc và Malta: 13%; thấp nhất là Romania: 12%. Tuy nhiên, các bà các cô chỉ thích học các ngành "lười suy nghĩ" như: khoa học nhân văn và nghệ thuật: 66% (Humanities and arts), còn những khoa "nhức đầu" như khoa học, toán học và vi tính (Sciences, Mathematics, Computing) thì quí bà, quí côø lại "thở dài", chỉ có 38%.
Phụ nữ của ba quốc gia theo gần bén gót nam giới về giỏi computer là Đan Mạch: 25%, Lục Xâm Bảo và Hung Gia Lợi: 21%. Phụ nữ tại 4 quốc gia ấm ớ nhất về khả năng sử dụng computer là Bảo Gia Lợi: 69%, Ý: 64%, Bồ Đào Nha: 61% và Hy Lạp: 60%.
3.5-Quyền lao động
Tỷ lệ thất nghiệp của phụ nữ tháng giêng 2007 trong 27 quốc gia LHÂC là 8,5% so với nam giới 6,7%. Phụ nữ có việc làm đứng hàng đầu là Đan Mạch: 73,2% và thấp nhất là Malta: 34,6%. Tuy nhiên, hầu như 1/3 phụ nữ (31,1%) làm việc không đủ giờ lao động (37 giờ/tuần) so với nam giới (7,7%).
4- TẠI SAO NGÀY QUỐC TẾ ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ NGUYÊN THỦY (Women’s International Struggle Day) NAY CHỈ CÒN LẠI NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ (Women’s International Day)?
Về lịch sử thì sự ra đời của Ngày Quốc tế Đấu tranh của Phụ nữ xuất phát từ những người theo Chủ nghĩa Xã hội (CNXH) và do các tổ chức Xã hội đề cao. Tư tưởng này dĩ nhiên xuất phát từ lý thuyết Cộng sản của Karl Marx (1818-1883). Bản Tuyên Ngôn Cộng sản (the Communist Manifesto) ngày 25.2.1948 của Karl Marx và Friedrich Engel đã mở màn cho phong trào đấu tranh giai cấp và sự bành trướng Chủ nghĩa Cộng sản (CNCS) do Vladimir Lénin (1870-1924) phát động. Trước khi lãnh đạo cuộc Cách mạng tháng 10 thành công tại Nga Sô, Vlademir Lénin đã tới thăm thủ đô Copenhagen 3 tuần vào năm 1910, đúng vào thời điểm Hội nghị Quốc tế Phụ nữ được các đảng Xã hội tổ chức và Ngày Quốc tế Đấu tranh của Phụ nữ, ngày 8 tháng 3 được chọn trong Hội nghị này.
Vì thế, trong cuộc Cách mạng tháng 10, Lénin đã tung ra chiến dịch đấu tranh giai cấp nhằm lật đổ Chế độ Quân chủ của Nga Hoàng (Nicholas II) bằng sách động nữ giới biểu tình "Phản Chiến" qua khẩu hiệu "Bánh mì và Hòa bình" (Bread and Peace). Họ đòi bánh mì và rút binh lính Nga từ chiến trường Đệ I Thế chiến. Bài bản này sau lại được các nhóm "Phản Chiến" Tây phương, đặc biệt tại Mỹ, đứng đầu là nữ tài tử màn bạc, Jane Fonda, khuấy động trong toàn cuộc chiến Việt Nam. Kết quả là dân chúng Tây Âu lên án Hoa Kỳ xâm lăng VN, dân chúng Mỹ đòi rút quân đội về nước và Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử!
Vì có tính cách "đấu tranh giai cấp" trong chủ trương của những người theo Chủ Nghĩa Cộng Sản; nên dù mang danh nghĩa là Ngày Quốc tế Đấu tranh của Phụ nữ, nhưng không mấy quốc gia Tây phương, Hoa Kỳ và các nước dân chủ tự do kỷ niệm. Thực tế cho thấy chỉ có các nhóm thiên Tả và phản chiến tổ chức ngày này trước thập niên 1990. Sau khi các Chế độ Cộng sản Đông Âu và Liên Sô bị sụp đổ, Liên Hiệp Quốc mới công nhận ngày 8 tháng 3 là Ngày LHQ cho Quyền lợi và Hòa bình Thế giới của Phụ nữ, chứ không còn là Ngày Quốc tế Đấu tranh của Phụ nữ, một khẩu hiệu sặc mùi cộng sản.
Đa số các quốc gia tự do dân chủ theo chiều hướng của Liên Hiệp Quốc ủng hộ các chương trình giải phóng người phụ nữ thoát khỏi cảnh nghèo đói, bệnh hoạn, mù chữ, bị bán dâm, và được bình đẳng trong các hoạt động chính trị, xã hội, văn hóa và kinh tế v.v…
5- NHÂN PHẨM CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM THÌ SAO?
Mang danh là đấu tranh giai cấp, giải phóng người phụ nữ, nhưng trong chiến tranh VN, Việt Cộng đã làm gì đối với phụ nữ?
5.1-Chính sách "BA KHOAN!"
Trong thời kỳ chiến tranh, VC đã lợi dụng tối đa nhân lực, cả nam lẫn nữ, vào cuộc chiến mang danh là Giải Phóng Miền Nam. Người phụ nữ bị ép buộc phải lao động trong các cơ cấu sản xuất, kỹ nghệ cũng như nông nghiệp. Người phụ nữ cũng phải trực tiếp cầm súng chiến đấu trong các tổ du kích, biệt động thành, cứu thương, tiếp tế v.v… Chính vì vậy mà VC không cho phép họ yêu đương theo lẽ tự nhiên chồng vợ. Họ phải dành thời giờ để yêu Bác và Đảng! Ba khẩu hiệu nổi tiếng và đáng ghi vào lịch sử mà VC đặt cho cái tên nghe rất êm tai là "Ba Khoan":
Chưa yêu thì khoan yêu.
Yêu rồi thì khoan cưới.
Cưới rồi thì khoan có con!
5.2-Hành động cưỡng dâm tập thể phụ nữ
Để giải quyết tình dục cho cán binh, theo dư luận đồn đãi thì VC thành lập các toán "Nữ Hộ Lý". Nhiều phụ nữ, bề ngoài mang danh là tình nguyện hiến thân xác mình vì đại cuộc, nhưng thực ra bị ép buộc làm phận sự "mời các anh cán binh vào Thiên Thai!" trong những đêm dài thổn thức. Sự đồn đãi này có thể có lý do và bằng chứng dưới đây xác định sự đói khát tình dục, "có chày mà thiếu cối" của các cán binh và cán bộ VC.
Trong tác phẩm "Tù binh và Hòa bình" trang 326-327, nhà văn Phan Nhật Nam, người từng tham dự các cuộc họp Bốn Bên (Mỹ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Cộng, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) về trao đổi tù binh, đã ghi những lời tố cáo của Phái đoàn VNCH về hành động vô luân thường đạo lý của VC như sau:
"… Như quí vị đã ép buộc các thanh thiếu nữ và thiếu phụ vùng Tam Quan, Hoài Ân (Bình Định) hiến thân, gần gũi với cán binh, lúc Cộng sản Bắc Việt tạm kiểm soát những vùng trên trong cuộc tổng công kích 1972, hành vi cưỡng ép này được phía quí vị ngụy danh thành một động tác "ghi ơn bộ đội!"
Bằng chứng trên đây chỉ là một trong nhiều trường hợp, (như biến cố Tết Mậu Thân 1968 và tại các vùng mất an ninh do VC kiểm soát một phần hay toàn phần) chứng minh VC đã phạm trọng tội không thể tha thứ được đối với phụ nữ miền Bắc và miền Nam. Một hành động vô luân, vô đạo đức; một sự cưỡng dâm tập thể có một không hai trong lịch sử dân tộc. Hành động này cần phải lên án gắt gao và các nạn nhân của cả hai miền phải được xin lỗi và bồi thường danh dự.
6- TÒA NHÀ LỊCH SỬ CỦA NGÀY ĐẤU TRANH CỦA PHỤ NỮ TẠI THỦ ĐÔ COPENHAGEN ĐÃ BỊ GIẬT SẬP VÀ SAN BẰNG!
Trong những ngày đầu của tháng 3.2007, hình ảnh lửa bùng cháy và khói tỏa mịt mù tại Thủ đô Copenhagen và một số cuộc biểu tình hoặc chiếm tòa đại sứ và lãnh sự Đan Mạch do tuổi trẻ chủ động tại Đức, Na Uy, Ý, Thụy Điển, Nữu Ước v.v… đã được các đài truyền hình Âu châu và CNN của Mỹ chiếu trên màn ảnh. Biến cố này xẩy ra dĩ nhiên phải có nguyên nhân.
Từ Nhà Công Chúng (Folket Hus) của Phụ nữ Xã hội tới Nhà của Tuổi Trẻ (Ungdomshuset)
-Ngày 12.11.1897, công trình xây dựng Nhà Công chúng (Folkets Hus) hoàn tất và được dùng làm trụ sở hội họp của Mặt trận Công nhân. Tòa nhà này cũng được sử dụng để tổ chức các cuộc họp lớn trong năm 1910 như: Đại hội Phụ nữ Thế giới và Liên đoàn Công nhân Nữ giới. Cũng trong tòa nhà này, ngày 8 tháng 3 được chọn là ngày Quốc tế Đấu tranh của Phụ nữ (Den Kvindernes Internationale Kampdag). Đặc biệt hơn, trước khi trở thành trùm cộng sản Nga Sô và Thế giới, Lénin đã tới thăm Đan Mạch 3 tuần và có mặt tại trụ sở này, nhân dịp Hội nghị Quốc tế Xã hội.
Như vậy tòa nhà này được coi là một di tích lịch sử chính trị đối với với phe Cộng sản và thiên Tả ở Đan Mạch cũng như nhiều nơi trên Thế giới, những người yểm trợ Tuổi trẻ trong vụ tranh đấu vừa qua.
Năm 1956, Mặt trận Công nhân di chuyển tới khu vực mới, bây giờ là chỗ giải trí Vega, Enghavevej 40, Copenhagen V. Nơi này rộng hơn và đủ chỗ cho 900 người ngồi, nếu đứng được 1.500 người. Vì thế, Nhà Công chúng bị bỏ trống từ năm 1960. Tới cuối năm 1970 có nhóm nhạc Tinglutti dùng để chơi nhạc dân tộc. Nhưng sau đó tòa nhà này lại rơi vào tình trạng vô chủ. Năm 1981, một nhóm mang danh là BZ’ere (ký hiệu của những người trẻ chuyên đi chiếm (Besaetter) các ngôi nhà bỏ trống trong thành phố) chiếm cư với khẩu hiệu "Ungdomshus - Nu" (Giờ là Nhà Tuổi trẻ). Ngày 29.10.1982, Đô trưởng Thủ đô Copenhagen, Egon Weiderkamp, đã trao chìa khóa tòa nhà cho nhóm BZ’ere sử dụng với tên khai sinh mới là "Ungdomshuset". Sau đó, Tòa Đô chính chuyển giao Nhà Công chúng (Folkets Hus) cho nhóm Tuổi trẻ.
Ngày 27.1.1996, Ungdomshuset bị hỏa hoạn lần 2 (lần 1 năm 1986). Ngày 9.4.1997, Nhà Tuổi trẻ ký hợp đồng thuê mướn với Trung tâm Tuổi trẻ của Thủ đô Copenhagen và có thể hủy bỏ giao kèo trong vòng 3 tháng. Nhưng có lẽ vì tuổi trẻ thiếu người quản trị và có trách nhiệm, ăn ở không vệ sinh và gây ra hỏa hoạn; nên ngày 10.4.1997, Tòa án Copenhagen khuyến cáo Nhà Tuổi trẻ không được dùng vào các hoạt động công cộng và nên bán.
Ngày 28.10.1999, Tòa đô chính Copenhagen quyết định bán Nhà Tuổi trẻ và mãi tới ngày 16.11.2000 mới bán được cho công ty HUMAN A/S với giá 2,6 triệu kroner. Ngày 26.9.2001, công ty HUMAN nhượng lại cho nhóm Thiên Chúa Giáo có tên là "Nhà Cha" (Faderhuset). Hai ngày sau nhóm Nhà Cha hủy bỏ giao kèo thuê mướn của Tuổi Trẻ. Cuối năm 2001-2002, nhóm Nhà Cha tới để thay ổ khóa cơ sở của mình, nhưng bị Tuổi trẻ nổi sùng tấn công làm bị thương một số người. Trước sự chiếm cư bất hợp pháp, sở hữu chủ là nữ Mục sư Ruth Evensen không biết làm sao hơn bèn đưa nội vụ ra tòa án.
Năm 2003, Tòa án Thành phố cứu xét vấn đề và ngày 7.1.2004, Tòa án phán quyết chủ quyền thuộc về nhóm Nhà Cha. Tuổi trẻ kháng án lên Tòa án Quốc gia miền Đông (Ostre Landsret) nhưng bị thất bại. Tháng 9-2006, một số nghệ sĩ đứng ra lập một Quỹ (Fond) giúp tuổi trẻ. Quỹ được sự ủng hộ của Đô trưởng và chính trị gia đã hai lần đề nghị mua Ungdomshuset với giá 15 triệu kroner (khoảng 2 triệu Euro), nhưng nhóm Nhà Cha nhất định không bán.
Ngày 16.12.2006, tuổi trẻ biểu tình, đốt phá và nhiều cuộc đụng độ với cảnh sát đã xẩy ra. 273 thanh thiếu niên bị bắt giữ, trong số có những thanh thiếu niên đến từ Hòa Lan, Đức, Na Uy và Thụy Điển.
Ngày 9.2.2007, Tòa Đô chính đề nghị tuổi trẻ dời tới trường Stevnsgades Skole của thành phố và cho hạn chót là ngày 19.2.2007. Tuổi trẻ đồng ý, nhưng với điều kiện chỉ trả 1 kroner mà thôi, còn tất cả các chi phí do chính quyền thành phố phải chịu. Tòa Đô chính không chấp nhận và hủy bỏ mọi cam kết.
7 giờ sáng ngày 1.3.2007, cảnh sát mở cuộc hành quân bất ngờ để giải tỏa Ungdomshuset. Toán cảnh sát thứ nhất đổ bộ từ trực thăng xuống mái nhà và toán thứ hai xông vào nhà qua các cửa sổ bên hông, trong khi một máy phun bọt xà bông vào các cửa sổ ở phía trước để làm giảm tiếng động của phi cơ trực thăng và tuổi trẻ trong nhà không nhìn thấy gì bên ngoài. Khi cảnh sát đột nhập vào nhà thì nhóm trẻ canh gác bên trong còn đang ngủ, nên bị bắt gọn. Trong nhà tuổi trẻ dự trữ rất nhiều hòn đá, mỗi hòn nặng 2-3 kg được dùng để ném cảnh sát khi nhà bị giải tỏa.
Sau đó, tuổi trẻ xuống đường biểu tình, đốt phá xe dọc hai bên đường, đập cửa kính tiệm buôn, lập chướng ngại vật trên đường bằng đốt các thùng rác v.v... Hai nơi rối loạn nhất là khu vực Norrebrogade phía Bắc trung tâm và Christianhavn phía Nam trung tâm Copenhagen. Tại Christianhavn tuổi trẻ xông cả vào trường Trung học Đệ nhị cấp (Christianhavn Gymnasium) đập phá cửa kính và lật đổ các tủ sách gây thiệt hại lên tới 500.000 kroner.
Nhận thấy còn Ungdomhuset sẽ còn là nguyên nhân tạo ra nhiều cuộc bạo động trong tương lai; nên với sự đồng ý của sở hữu chủ Faderhuset, ngày 3 tới 5.3.2007 cảnh sát đã cho phép giật sập và san bằng Ungdomshuset.
Ngày 8.3.2007 tòa nhà di tích lịch sử của Hội nghị Quốc tế Đấu tranh của Phụ nữ xưa kia, nay là Nhà Tuổi trẻ tại Thủ đô Copenhagen bị giật sập và san bình địa.
Tuy nhiên, phụ nữ khắp nơi trên Thế giới đã tranh đấu và đạt được nhiều thắng lợi về mọi lãnh vực. Cuộc tranh dành quyền lực và quyền lợi giữa phe Adam và Eva sẽ còn nhiều gây cấn.
Người ta chưa biết đến thời điểm nào nhân loại sẽ lại được sống êm ái dưới chế độ "Mẫu hệ?"
Biến cố Thủ tướng VC yết kiến ĐGH Biển Đức XVI
DƯ LUẬN NGHĨ GÌ VỀ SỰ KIỆN ĐGH BIỂN ĐỨC XVI TIẾP THỦ TƯỚNG VIỆT CỘNG?
BY: ĐỖ ĐỨC THỐNG
Trong tháng vừa qua, biến cố được bàn tán nhiều nhất đối với người Việt Nam ở trong nước cũng như ở ngoại quốc là sự kiện ĐGH Biển Đức XVI tiếp Thủ tướng Việt Cộng (VC) Nguyễn Tấn Dũng.
Người ta tự hỏi:
-Tại sao ĐTC lại đi tiếp một Thủ tướng Cộng sản vô thần như vậy?
-Chính sách chống cộng của Tòa Thánh Vatican còn cứng rắn như thời ĐGH Piô XII (1878-1945) và Gio-an Phao-lô II (1920-2005) không?
Và còn nhiều thắc mắc của những người chống đối Giáo Hội Công Giáo mà người ta có thể đọc trên báo và hệ thống Internet.
Để tìm hiểu biến cố vừa qua có lợi hay có hại cho dân tộc VN, chúng tôi sẽ trình bày các điểm sau đây:
I- TẠI SAO THỦ TƯỚNG VIỆT CỘNG TÂY DU VÀ YẾT KIẾN ĐGH?
Có 3 nguyên nhân:
1- Giới thiệu nhãn hiệu "Việt Nam" trên thị trường Âu châu và Thế giới.
Sau khi Việt Nam được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Thủ tướng VC muốn đem chuông đi đánh xứ người không ngoài mục đính chứng minh cho thế giới biết VN đã có sự cải tiến về pháp luật, kinh tế, thị trường và môi trường, để kêu gọi các nhà đầu tư ngoại quốc đổ tiền vào kinh doanh tại VN.
2-Mượn danh nghĩa là hội viên WTO để xin viện trợ và đầu tư
Trong các nguồn tài trợ cho VN về tài chính thì Âu châu và Hoa Kỳ là chỗ tựa lớn và bảo đảm nhất tại Ngân Hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền Tệ Thế giới (IMF). Vì thế, Nguyễn Tấn Dũng cần sự giúp đỡ của các chính phủ Tây phương và Hoa Kỳ, mà không hành động nào gây nên sự chú ý và ủng hộ có hiệu quả lớn đối với giới doanh nhân và các công ty đầu tư bằng các cuộc thăm viếng cấp thủ lãnh quốc gia.
Sở dĩ Nguyễn Tấn Dũng phải đôn đáo đi xin viện trợ, yêu cầu ngoại quốc giúp đỡ và đầu tư vào VN, vì nền kinh tế của VN tuy có phát triển, nhưng mức độ còn khá khiêm nhường. Theo sự đánh giá và xếp hạng của Heritage Foundation và báo Wall Street Journal thì VN bị xếp hạng 138 trên tổng số 157 quốc gia và thứ 25 trên 30 nước Á châu về tự do kinh tế.
Sự đánh giá này dựa trên 10 tiêu chuẩn tự do: tự do kinh doanh, thương mại, tài chính của chính phủ, tiền tệ, mức độ can thiệp của chính phủ, đầu tư, quyền sở hữu, lao động và mức độ tham nhũng.
Dựa theo tiêu chuẩn trên, VN bị xếp hạng thấp về tự do thương mại, đầu tư, tài chính, quyền sở hữu và tình trạng tham nhũng.
3- Lợi dụng ĐGH làm "bình phong" về vấn đề tự do tôn giáo
Sau hơn 30 năm mà các phong trào và đảng phái chính trị của người quốc gia không làm cho VC phải sợ, thì chỉ còn các tôn giáo là mối lo ngại cuối cùng đối với họ. Từ trước đến nay VC vẫn bị thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu, liệt vào danh sách các quốc gia xâm phạm nhân quyền và tự do tôn giáo. Để hóa giải dư luận không tốt đẹp gì cho bộ mặt độc tài đảng trị, Nguyễn Tấn Dũng muốn ra mắt ĐGH, vị Giáo chủ Công giáo mà cả thế giới đều ngưỡng mộ; vị lãnh đạo tinh thần mà đảng CS hy vọng sự giao hảo với Vatican sẽ giúp họ xóa tan được những ám ảnh về hành động đàn áp tôn giáo do Chế độ Cộng sản gây ra.
Nguyễn Tấn Dũng cũng lợi dụng uy tín của ĐGH để dễ dàng thực hiện nhiều kế hoạch đã dự định.
Ví dụ: ĐGH không phải là một nhà đầu tư, Vatican không phải là công ty đầu tư về mọi lãnh vực. Nhưng uy tín và lời nói của Ngài có giá trị khó đo lường được. Người am hiểu thì quá rõ rằng, với uy tín bao trùm Thế giới, Ngài có thể "bảo đảm" bằng sự khuyến khích về một vấn đề kinh tế hay tài chính giá trị hàng triệu Mỹ-kim. Về chính trị thì một lời nói của Ngài có cả tỷ người ủng hộ. Một lời phát biểu chống CSVN của ĐGH cũng sẽ có ảnh hưởng tai hại vô cùng trên chính trường và thị trường thế giới, mà Nguyễn Tấn Dũng và Đảng CS không bao giờ muốn.
4-Tạo mâu thuẫn và ly gián giữa các tôn giáo để củng cố Đảng.
Sự lên án CSVN vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo có hiệu quả nhất phát xuất từ Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu châu, các quốc gia có quá trình lịch sử xây dựng đất nước trên nền tảng Thiên Chúa Giáo từ ngàn xưa.
Khi bang giao được với Vatican thì CSVN có thể hóa giải sự chống đối trong Thế giới Công Giáo, không chỉ tại VN mà cả Hoa Kỳ và trên thế giới.
Khi bang giao được với Vatican, CSVN muốn chứng minh họ không quá quan tâm tới sự chống đối của các tôn giáo khác, vì các tôn giáo này không có Giáo chủ Hoàn vũ, như ĐGH, để đại diện chính thức bênh vực quyền lợi cho tôn giáo mình trên diễn đàn Quốc tế.
Khi các tôn giáo khác không được hưởng các "đặc ân" mà CSVN có thể sẽ dành cho Giáo Hội Công Giáo trong kế hoạch "ly gián", thì họ sẽ chống cả CS và Công giáo. "Mầm mâu thuẫn nội tại", một nguyên lý đấu tranh cơ bản của Chủ nghĩa Cộng sản, sẽ bộc phát và làm suy giảm tiềm năng chống VC, một chiến thuật mà Cộng sản Quốc tế và VN đã và đang áp dụng triệt để.
Hậu quả cho thấy đã có những bài viết phê bình ĐGH và đả phá đạo Công Giáo xuất hiện trên báo chí và Internet, vừa với tư cách cá nhân, vừa lợi dụng danh nghĩa tôn giáo khác.
II- TÒA THÁNH VATICAN VÀ VẤN ĐỀ NGOẠI GIAO
-Về tổ chức lãnh thổ thì quốc gia Vatican được thành hình qua hiệp ước Lateran (Lateran Treaty) năm 1929 giữa chính phủ Ý và Tòa Thánh. Hiện nay Vatican có quan hệ ngoại giao với 175 quốc gia và hàng chục tổ chức Quốc tế. Ngoài vị trí Giáo đô của người Công giáo, La Mã (Roma) còn là thủ đô của quốc gia Vatican. Vì thế, bất cứ cuộc tiếp kiến nào của ĐGH hay Hồng Y Quốc Vụ Khanh với các nhà lãnh đạo quốc gia trên thế giới cũng chỉ mang tính cách ngoại giao.
Nếu Việt Nam đã trở thành hội viên Liên Hiệp Quốc và các tổ chức Quốc tế khác thì việc tiếp Thủ tướng VC cũng chỉ là hoạt động mang tính cách ngoại giao.
Nếu từ chối tiếp một thủ lãnh CS thì Tòa Thánh Vatican lại tự mình vi phạm các nguyên tắc về ngoại giao và công pháp quốc tế.
Thực ra, Nguyễn Tấn Dũng không phải là thủ lãnh CS đầu tiên yết kiến ĐGH. Trong quá khứ, ĐGH Gio-an Phao-lô II đã tiếp Trùm cộng sản Sô Viết, Tổng Bí Thư Mikhail Gorbachev, lần thứ nhất vào ngày 1.12.1989 và lần thứ hai vào tháng 12-1991. Cuộc gặp gỡ này đã đánh dấu bước ngoặc lịch sử của thế giới và cũng là một trong số các nguyên nhân đưa tới sự sụp đổ Đế quốc Cộng sản Sô Viết. Trong cuộc hội kiến với ĐGH, Gorbachev đã mời Ngài thăm viếng Nga Sô và hứa sẽ có tự do tôn giáo tại Liên Bang Sô Viết.
Thực tế đã chứng minh và người ta không thể tưởng tượng được kết quả mỹ mãn của cuộc hội kiến lịch sử trên. Sau đó hàng loạt các cuộc họp giữa TBT. Gorbachev và Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, George Bush để đi tới các hiệp ước tài giảm binh bị, đặc biệt giảm thiểu số lượng đầu đạn và bom nguyên tử. Đế quốc Sô Viết và các Chế độ Cộng sản Đông Âu lần lượt sụp đổ. Ngày 8.12.1991 Liên Bang Sô Viết tan rã và ngày 20.12.1991, Tổng thống Boris Yeltsin đã sang yết kiến ĐGH, để rồi kỷ nguyên tự do dân chủ, tự do tôn giáo bắt đầu nở hoa tại Nga Sô và các nước lân bang.
ĐGH Gio-an Phao-lô II sau khi nhậm chức Giáo Hoàng đã trở về thăm quê hương còn đang lầm than dưới Chế độ tàn ác Cộng sản Ba Lan vào năm 1979. Ngài đã gặp Lech Valesa, thủ lãnh Công đoàn Đoàn kết (Solidarnosc) như một hình thức trực tiếp ủng hộ Công đoàn này trong mục tiêu đòi độc lập và tự do. Vai trò quan trọng của ĐGH đối với sự sụp đổ Chủ nghĩa Cộng sản Nga và Đông Âu đã được các nhà lãnh đạo quốc gia công nhân. Các nhà bình luận thời cuộc thế giới và Timothy Garton Ash, sử gia được biết đến qua hàng chục tác phẩm và bài bình luận về chính trị; và là ký giả chuyên mục chính trị của nhật báo nổi tiếng ở Anh quốc, tờ "The Guardian", cũng nhận định rằng:
"Không có ĐGH thì không có Công đoàn Đoàn kết. Không có Công Đoàn Đoàn Kết thì không có Gorbachev và không có Gorbachev thì chủ nghĩa Cộng sản không sụp đổ".
(Timothy Garton Ash put it this way, "Without the Pope, no Solidarity. Without Solidarity, no Gorbachev. Without Gorbachev, no fall of Communism).
Ngày 3.3.1992, báo Ý, tờ La Stampa có đăng tin cựu TBT Mikhail Gorbachev, người nắm quyền lực lớn nhất trong Thế giới Cộng sản, đã xác nhận công khai vai trò của Đức Gio-an Phao-lô II về sự sụp đổ của Chủ nghĩa Cộng sản:
"Những gì xẩy ra ở Đông Âu trong những năm gần đây không thể xẩy ra, nếu không có sự hiện diện của Giáo Hoàng này và vai trò vĩ đại cả về chính trị mà Ngài đã đóng trên sân khấu Thế giới."
(Gorbachev himself who acknowledged publicly the role of John Paul II in the fall of Communism. "What has happened in Eastern Europe in recent years would not have been possible without the presence of this Pope, without the great role even political that he has played on the world scene" (La Stampa, March 3, 1992).
-Phải chăng sự tiếp xúc của ĐGH Gio-an Phao-lô II với Trùm CS Sô Viết đưa tới sự tiêu hủy Chủ nghĩa Cộng sản và sự tan rã của các Chế độ Sô Viết và Đông Âu chỉ có lợi cho Công Giáo?
Sau chiến thắng huy hoàng tại Ba Lan, Đông Âu và Liên Bang Sô Viết, người ta ca tụng nỗ lực của Vatican khắp nơi trên Thế giới và ĐGH Gio-an Phao-lô II được coi là biểu tượng sáng chói trong thế kỷ 20.
Nhưng sau khi không còn sợ cộng sản nữa thì hình ảnh Vatican bắt đầu lu mờ dần trong trí óc của những kẻ phá đạo.
-Họ muốn hạ uy tín của Giáo Hội Công Giáo bằng cách moi lại lịch sử thời Trung cổ để chứng minh những sai lầm trong quá khứ.
-Họ muốn hạ uy tín của Giáo Hội Công Giáo bằng cách moi ra các vụ lạm dụng tình dục trẻ em của một số tu sĩ, nhằm bôi bác phẩm trật của Giáo Hội.
-Họ muốn hạ uy tín của Giáo Hội Công Giáo bằng cách tung ra những sách và phim xuyên tạc lịch sử về Đức Giê-su. Dan Brown là một kẻ ham tiền bạc đã bán lương tâm mình qua sách Mật Mã Da Vinci mà Nguyệt san Dân Chúa Âu Châu đã lột trần những gian trá của ông ta trong các số báo 283, 284, 285+286 năm 2006.
III- GIÁO HỘI CÔNG GIÁO VIỆT NAM THÌ SAO?
Nhân vụ biến cố Thủ tướng VC yết kiến ĐGH Biển Đức XVI, trên báo chí và Diễn đàn Internet, có những bài viết phê bình đường lối ngoại giao của Vatican và thái độ im lặng của Giáo Hội Công Giáo VN.
Họ dựa vào một số sự kiện trong lịch sử chiến tranh cũng như chính sách đàn áp tôn giáo, sự không tôn trọng nhân quyền của CSVN hiện nay để phê phán Giáo Hội Công Giáo là yếu kém.
Họ cho rằng Vatican muốn bang giao với các Chế độ Cộng sản, nên Giáo Hội Công Giáo tại các nước CS, trong đó có VN, không có biện pháp cứng rắn đối với các tổ chức Công giáo Quốc doanh và không công khai lên án các hành động tàn ác của Chế độ.
Nhưng họ nên hiểu rằng, về tu sĩ, Tòa Thánh Vatican đã qui định rõ trong Giáo Luật qua các Điều dưới đây:
Điều 285:
(1): Các giáo sĩ nên xa tránh tất cả những gì không xứng hợp với bậc mình, theo như những qui định của luật địa phương.
(3): Cấm các giáo sĩ đảm nhận những chức vụ công quyền có kèm theo việc hành sử quyền bính dân sự.
Điều 287:
(2): Các giáo sĩ không được tham gia tích cực vào các đảng phái chính trị, hoặc dự phần lãnh đạo trong các nghiệp đoàn, trừ khi nào, theo phán đoán của nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội, việc bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội và cổ võ công ích đòi hỏi như vậy.
Như vậy, tu sĩ không được phép tham dự vào cái gọi là Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo do Đảng CSVN tạo ra. Lý do: cái Mặt Trận này là của Đảng CS, một đảng dựa trên nền tảng thuyết duy vật, vô thần, chống tất cả các tôn giáo, thì không lẽ tu sĩ của một tôn giáo lại đi hợp tác với địch thù của đạo.
Nếu có ai nói rằng Công Đồng Vatican II đã canh tân nhiều vấn đề, trong đó có việc Giáo Hội cho thắp nhang hương, quì bái trước bàn thờ Tổ Tiên hoặc có ai nói rằng tu sĩ cũng là công dân v.v… thì nên nhớ là Hiến Chương Mục Vụ của Công Đồng Vatican II có ghi:
"Người ta lên án bất cứ thể chế chính trị nào, như hiện có ở một vài nước, nếu nó ngăn cản quyền tự do công dân hoặc tín ngưỡng, nếu nó làm gia tăng con số nạn nhân của tham lam và của tội ác chính trị, nếu nó làm cho việc cai trị đi lệch đường, thay vì mưu cầu công ích lại phục vụ cho một tập đoàn hay chính những người cầm quyền" (Hiến Chế Mục Vụ, 73d)
Thực tế mà nói, cho tới nay không thấy tài liệu nào chứng minh Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN) tích cực hợp tác với chế độ CS, kể cả trong Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ).
Về phương diện tôn giáo, HĐGMVN vẫn tuân phục và thi hành các qui chế cũng như chỉ thị của Tòa Thánh Vatican trên căn bản Phúc Âm, công lý và hòa bình. Khách quan mà nói, đây chỉ là vấn đề thi hành các nguyên tắc quản trị và hoạt động theo cơ cấu tổ chức của một tổ chức Quốc tế, đạo cũng như đời.
Về phương diện quốc gia, HĐGMVN vẫn đòi hỏi tự do, dân chủ, chống bất công và tham nhũng, đòi lại tài sản đã bị VC cướp lấy. Về nhiệm vụ công dân của nước VN thì HĐGM cổ võ cho việc xây dựng đất nước được giầu mạnh, khuyến khích giáo hữu tham gia vào các hoạt động xã hội, giáo dục, y tế, giúp đỡ người nghèo v.v...
Nếu đọc kỹ các văn bản và Thư Chung của HĐGMVN, người ta hiểu được quan điểm của các Ngài. Các Ngài đã trải qua bao kinh nghiệm đau buồn dưới thời Việt Minh, hai chế độ Cộng Hòa miền Nam và Cộng sản hiện nay. Trong bối cảnh chính trị muôn mặt như hiện nay, HĐGM lại càng cần phải khôn ngoan và thận trọng hơn bao giờ hết.
Nếu có một số tu sĩ và giáo dân hoạt động trong MTTQVN hay một tổ chức nào đó do VC giật dây, hoặc tổ cò mồi cho Nhà Cầm quyền, thì đó chỉ với tính cách tự nhân hoặc khu vực. Họ không đại diện cho hàng Giáo sĩ, HĐGM và Cộng đồng Công giáo VN. Người Công Giáo vẫn hy vọng "các con chiên lạc đường" này sẽ hồi tâm và quay về đường ngay nẻo chính.
KẾT LUẬN
Qua một số vấn đề nêu trên, chắc hẳn quí độc giả cũng thấy rằng, Tòa Thánh Vatican và HĐGMVN có đường lối độc lập, cả về phương diện đạo và đời. Không ai, kể cả các đảng phái chính trị hay tôn giáo có thể làm áp lực hay đưa yêu sách đòi hỏi ĐGH phải ủng hộ khuynh hướng này hay phong trào nọ. Dĩ nhiên, về phương diện tự do báo chí, tự do tư tưởng, họ có quyền phát biểu ý kiến và gửi thư đề nghị.
30 năm qua dân Việt nói chung và Công giáo "thiểu số" nói riêng mong chờ các tổ chức, phong trào và đảng phái chính trị phất cờ hay vung gươm chống Cộng. Nếu không bằng dưới hai thời VNCH, thì ít nhất cũng chứng tỏ được sức mạnh và sự thuyết phục có hiệu quả tốt đẹp cả đối với người Việt tị nạn, cũng như đối với các chính quyền trên Thế giới, để CSVN phải khiếp sợ. Nhưng sau hơn 30 năm, dân ta vẫn tiếp tục bị đè đầu bóp cổ, kể cả các tôn giáo, chỉ vì ý chí lật đổ chế độ CS độc tài đảng trị của các tổ chức chính trị ở ngoại quốc dường như đang lu mờ dần.
Như vậy, người ta cũng không nên qui trách nhiệm cho Giáo Hội Công Giáo VN và Tòa Thánh Vatican, hai cơ cấu nặng về tôn giáo hơn là thiên về chính trị trần tục.
(ĐGH Gio-an Phao-lô II
tiếp TT.
Boris Yeltsin).
Nếu cuộc hội kiến của ĐGH Gio-an Phao-lô II với TBT. Gorbachev và TT. Boris Yeltsin đã đem lại tự do dân chủ cho Liên Bang Sô Viết và Đông Âu thì:
-Tại sao người ta không có quyền hy vọng sau cuộc gặp gỡ giữa ĐGH Biển Đức XVI và Thủ tướng VC, đất nước Việt Nam sẽ có những biến chuyển thuận lợi cả về phương diện chính trị và kinh tế; cả về lãnh vực tôn giáo và nhân quyền?
- Sadam Hussein cựu TT Iraq
- Cái chết của điệp viên Nga
- Đảng Cộng Hòa và Tổng Thống George W. Bush Bị Thất Bại Nặng Nề Trong Cuộc Bầu Cử Quốc Hội Mỹ
- Cộng Sản Bắc Hàn công khai khiêu khích thế giới bằng cuộc thí nghiệm trái bom nguyên tử đầu tiên
- BCTT:Chuyện bé xé ra to
- Chơi với Trung Cộng, Tòa Thánh Vatican lúc nào cũng mất ngủ
- Sau 5 năm sân khấu chính trị của Ý Đại Lợi tương đối yên tĩnh, nay lại nổi sóng
- Nhạo báng đạo
- Iran khiêu khích Thế giới bằng quyết định tiếp tục phát triển năng lượng nguyên tử
- Cuộc khủng hoảng chính trị giữa Nhật Bản, Trung Quốc và Đại Hàn