Đền thờ đồi Golgotha và mộ Chúa Giêsu sống lại
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ xưa nay, đều có những đoàn người hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến kính viếng đền thờ đồi Golgotha, nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập gía, cùng ngôi mộ, nơi Chúa Giêsu được an táng và đã sống lại. Hai nơi thánh này cùng nằm trong một đền thờ ở Gierusalem vùng cổ thành.
Khách hành hương đến kính viếng hai nơi thánh này, những mong tưởng có dịp thuận tiện tốt lành, nhất là bầu khí thánh thiêng yên tĩnh để cầu nguyện, mong đụng chạm xờ vào di tích thánh tảng đá núi đồi , nơi cây thập gía Chúa Giêsu ngày xưa dựng cắm, mong qùy xuống hôn kính viên đá nấm mồ nơi Chúa Giêsu đã nằm yên nghỉ trước khi sống lại từ cõi chết…
Nhưng nhiều người đã thất vọng. Vì bầu không khí nơi đó khác hẳn với nghĩ tưởng, hầu như „ hương vị thánh“ gần như tan loãng. Lý do là các khách hành hương thuộc đủ mọi tôn giáo, mọi nước ra vào nhộn nhịp, rồi những nghi lễ khác nhau của các tôn giáo cử hành ở các bàn thờ khắp trong đền thánh, và cộng thêm những hướng dẫn cắt nghĩa của những nhóm du khách hành hương nữa.
Đền thờ mộ Chúa Giêsu nơi đây không thuộc riêng về một tôn giáo nào. Nhưng là của chung những tôn giáo Chính Thống giáo Hy Lạp. Chính thống giáo Armenien, Công Giáo do Dòng Phanxico đại diện, Chính Thống giáo Cốp, Chính thống giáo Syria, Chính thống giáo Ethiopia. Thành ra 6 Tôn giáo đó cùng chung thờ phượng Chúa trong một ngôi đền thờ.
Ngày xưa Chúa Giêsu chết trên thập gía giữa cảnh ồn ào nhộn nhịp lộn xộn thế nào, thì ngày nay có lẽ cũng diễn ra gần như vậy.
Dẫu vậy, người hành hương, người tín hữu Chúa Kito tin rằng nơi đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh trên thập gía cho tới chết, và sau đó Ngài được mai táng trong khu mộ ngay sát cạnh đó trước khi Ngài sống lại, là di tích nơi thánh cho lịch sử thần học đức tin Công Giáo cùng những tôn giáo khác cùng tin vào Chúa Giêsu.
Từ khía cạnh đó, người ta đi tìm hiểu lịch sử của ngôi đền thánh này, không chỉ về phương diện năm tháng xây dựng, nhưng còn về ý nghĩa đạo đức thần học nữa.
Đền thờ thời Vua Constantino
Trong dòng thời gian ba thế kỷ đầu tiên sau Chúa về trời, các tín hữu Chúa Kitô thời Giáo Hội sơ khai chú trọng tới việc đạo đức thần học là việc chính. Giáo Hội sơ khai chú ý đến ý nghĩa sự chết của Chúa Giêsu trên thập gía và sự phục sinh của Chúa nhiều hơn. Còn nơi chốn Chúa chịu đóng đinh đồi Golgotha, mộ thánh của Chúa ở Gierusalem với họ là việc phụ thôi, họ không chú trọng đến.
Mãi đến thời hoàng đế Constantin thứ nhất di tích hai nơi thánh mới dần lộ diện ra ánh sáng được biết đến. Constantino sau khi thắng Licinius năm 324 , ông trở thành hoàng đế của đế quốc Roma thống trị toàn vùng miền phía đông của đế quốc, và là vị vua đầu tiên Ông trở lại Công Giáo trong đế quốc Roma. Từ đó đạo Công Giáo được công nhận và bắt đầu phát triển lan rộng.
Mùa Hè 325 Hoàng đế Constantino triệu tập Công đồng Công Giáo ở Nicea. Hoàng đế muốn không chỉ về phương diện chính trị, mà còn muốn hợp nhất một Giáo Hội theo khía cạnh thần học tương đương phù hợp một vương quốc và một Giáo Hội.
Ở Công đồng Nicea bản kinh tin kính được các Giám mục viết về Chúa Giêsu: „ Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô….vì loài người chúng tôi, và để cứu độ chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế, và đã làm người. Người chịu đóng đinh vào thập gía, và ngày thứ ba người sống lại, Người lên trời và người sẽ trở lại, để phán xét người sống và người chết…“.
Từ căn bản thần học đó của Công Đồng Nicea, nhà Vua cùng với Thánh nữ Helena là mẹ của Vua đã cho xây dựng đền thờ đôi đầu tiên ở Gierusalem để kính nhớ sự chết đau khổ và sự sống lại khải hoàn của Chúa Giêsu, đồng thời cũng cho xây dựng một đền thờ nữa trên núi Cây dầu ở Gierusalem để kính nhớ Chúa Giêsu lên trời.
Phương án cho xây dựng đền thờ ở ba nơi đó phù hợp với ba giai đoạn đời Chúa Giêsu như diễn tả trong kinh Tin Kính của Công đồng Nicea. Có thể nói được, „chương trình bản hòa tấu thần học“ kinh tin kính đó nhà Vua đã cho viết khắc trên đá nơi công trình xây cất đền thờ đầu tiên năm 325. Và sau 10 năm xây dựng, đền thờ được khánh thành năm 335.
Đền thờ bị phá hủy
Năm 614 đền thờ bị quân Batư chiếm gây ra cảnh tàn phá cùng với những nhà thờ khác nữa ở Gierusalem. Nhưng cây thánh giá Chúa Giêsu trong đền thờ được kịp thời do tướng Shahrbaraz đưa đi cất dấu. Và năm 629 đền thờ được chiếm lại, cây Thánh gía Chúa Giêsu được đưa trở lại đền thờ, và đền thờ được sửa chữa lại cho xứng đáng. Đền thờ và những nhà thờ khác ở Gierusalem trong thời kỳ này, dù do những vị cai trị người Hồi Giáo trị vì, được bảo vệ không bị tàn phá. Những người tín hữu Chúa Kitô đã có một thời gian dài trở thành số đông dân số sống trong Gierusalem. Họ được hưởng đời sống an toàn.
Nhưng đến thời hoàng đế Carolo thứ nhất sự chuyển hướng tấn công những cơ sở của người tín hữu Chúa Kitô bắt đầu. Từ thời kỳ này có nhiều nhà thờ bị tàn phá không còn trên bản đồ thành phố nữa. Không rõ chính xác, nhưng vào mùa Thu 1009 Kalif Al-Hakim, cai trị Ai Cập ở Kairo từ 1000 đến 1021, đã xâm chiếm tàn phá đền thờ Golgotha và mộ Chúa Giêsu..
Sau những đề nghị hội thảo về những hiệp ước hòa bình với Giáo Hội Bysantin bên Đông phương, những lễ nghi phụng tự được phép cử hành trên đống đổ nát hoang tàn của đền thờ. Và sau cùng từ năm 1033 đến năm 1048 được phép xây dựng lại đền thờ. Đền thờ mới xây dựng lại không còn bộ mặt như cũ nữa. Nhưng chỉ rotundus -Vòng cung hình tròn- sự phục sinh sống lại của Chúa Giesu Kito được xây dựng lại, ngôi mộ thánh của Chúa Giêsu chỉ còn lại một khung hình vòng cung thôi.
Năm 1099 Đạo binh thánh gía theo lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Roma đã tiến về Giêrusalem chiếm lại đền thờ mộ Chúa Giêsu và những đền thờ khác ở Gierusalem từ tay Hồi giáo. Và từ năm 1160-1170 Mộ thánh Chúa Giêsu được xây dựng lại cho hoàn chỉnh.
Năm 1555 đền thờ được xây dựng lại như mô hình thuở ban đầu. Đến năm 1808 đền thờ lại bị hỏa hoạn cháy tàn phá và lại được xây dựng mới trở lại. Dù được xây lại mới, nhưng công trình cũng giữ lại theo chiều hướng vết tích của đền thờ cũ.
Sao các Bạn tìm người sống nơi người chết?
Ai đến kính viếng mộ thánh Chúa Giêsu trong đền thờ đều gặp trước hết một gian phòng ngay trước mộ có hàng rào xây vây chung quanh và có tượng Thiên Thần.
Thiên Thần này đã hỏi các người phụ nữ sáng sớm ra thăm viếng mộ Chúa Giêsu khi xưa: Sao các người tìm người sống, nơi người chết vậy? (Lc 24,5. )
Bước qua căn tiền phòng này người hành hương phải cúi mình xuống thấp chui qua một cửa nhỏ mới vào được căn phòng mộ nhỏ, căn phòng nầy đã được xây dựng từ thời Vua Constantino năm 325. Nơi địa điểm này „ Chúa Giêsu đã được đặt nằm an táng“ (Mt 28,6)
Người hành hương chui vào căn phòng mộ nhỏ chỉ có một tấm đá dài trống trơn, qùy xuống kính viếng nơi ngày xưa Chúa Giêsu đã nằm an táng. Và có lẽ trong trong tâm trí vang lên lời Thiên Thần đã nói ngày xưa“ Sao các bạn tìm người sống nơi người chết sao? Người không còn ở nơi đây“ Người đã chỗi đậy sống lại rồi.“ (Lc 24,5.)
Vào thăm viếng mộ đá Chúa Giêsu trống trơn, nhưng gợi vang lên hai khía cạnh: sự hấp dẫn và chỉ hướng. Hấp dẫn vì đến tận nơi huyệt đá gốc ngọn nguồn của đức tin, và có được sự tĩnh tâm chú ý. Sự chỉ hướng là tìm thấy sự vắng mặt người chết, và hướng về người sống, một căn bản của đức tin.
Năm 1545 đền thờ bị phá hủy nặng do trận động đất gây ra, và sau đó được Dòng Phanxico tu sửa lại, nhất là phần ngôi mộ thánh. Tu sỹ Dòng Phanxico Guardian Bonifatius von Ragusa đã ghi lại trong một bức thư cảm động nói về mộ rất thánh aperto ss. Sepulcro, như nhân chứng đã quan sát nhìn thấy ngôi mộ thánh cũ trước khi bị tàn phá và được xây mới lạl“
„ Ngôi mộ rất thánh của Chúa được đục trong hang núi đá. Trong hang có hai bức hình vẽ Thiên Thần chồng lên nhau. Một Thiên Thần với tấm băng rôn có hàng chữ Người đã sống lại rồi Người không còn ở đây, đang khi vị Thiên Thần khác bằng ngón tay chỉ vào chỗ huyệt chôn „ Đây là chỗ Người đã được đặt nằm an táng Mc 16,6…..
Còn đang ngạc nhiên thì chúng tôi nhìn thấy một chỗ trống, nơi Chúa Giesu đã nằm ba ngày. Địa điểm này chiếu tỏa ánh sáng lóng lánh như ánh sáng mặt trời của máu cực thánh Chúa Giêsu trộn lẫn với dầu thơm., mà người ta đã ướp khi tẩm liệm mai táng…
Ở giữa nơi cực thánh này chúng tôi tìm thấy một khúc gỗ bọc trong một tấm khăn lau mồ hôi. Khi chúng tôi cung kính cầm lên tay và hôn kính, lúc đó không khí thoát ra, tấm khăn lau mồ hôi tan rữa ra tay chúng tôi không còn gì nữa., chỉ một vài sợi chỉ vàng còn sót lại.
Trên khúc gỗ có dòng chữ, nhưng dòng chữ này cũng đã bị tiêu hủy vì lâu đời rồi, đến nỗi người ta không thể ghép đọc những chữ đó thành câu được. Duy nhất trên hàng đầu của tấm bản người ta có thể đọc được những chữ viết lớn bằng tiếng latinh: HELENA MAGNI CONSTINI MATER FECIT, Helena, mẹ của đại đế Constantino đã làm.“
Về diện tích chu vi của căn phòng ngôi mộ Chúa Giêsu, Tu sỹ Maximos Symaios, người chỉ huy giám sát việc xây dựng lại ngôi mộ năm 1808 sau trận hỏa hoạn đã ghi chú lại kích thước ngôi mộ “ Hang đá ngôi mộ thánh làm bằng đá qúy của một vị vua có chiều dài ba xải, chiều rộng một xải rưỡi và chiều cao bốn xải, khoảng 140 x70 x185 cm. Phía nam và phía bắc chỉ là bức tường ngăn, trong khi phía đông và phía tây và mái bên trên được xây dựng. Nền nhà bằng đá.“
Đồi Golgotha bây giờ là một bàn thờ có thánh gía Chúa Giêsu bị đóng đinh trên đó, dưới chân bàn thờ có một lỗ hổng ăn thông xuống bên dưới có tảng đá được bảo quản trong tủ lồng kính cẩn thận. Lỗ hổng đó là nơi ngày xưa cây thập giá Chúa Giêsu được dựng cắm, và tảng đá đó là tảng đá chỗ thập gía Chúa được dựng cắm lên. Bàn thờ này thuộc Giáo Hội Chính Thống. Ngay bên cạnh phía bên phải có một bàn thờ Công Giáo với hình Chúa Giêsu nằm trên thập gía có Đức mẹ đứng bên cạnh và thánh nữ Mai đệ liên quỳ ôm chân Chúa đang khóc.
Ngoài ra trong ngôi đền thờ này còn có những bàn thờ, nhà nguyện nhỏ khác nữa, như nhà nguyện Thánh Thể hay còn có tên là nhà nguyện Chúa Giêsu hiện ra với Đức mẹ Maria sau khi sống lại, trong nhà nguyện này có một cột đá mầu đen là cột trụ Chúa Giêsu bị trói, bàn thờ kính Thánh nữ Maria Maiđệ liên, nhà nguyện kính Thánh nữ Helena, nhà nguyện kính Adong Eva, bàn thờ kính người trộm lành được Chúa Giêsu chúc phúc cho lên thiên đàng.
Ngôi mộ chôn Chúa Giêsu được xây dựng bằng đá. Táng đá lịch sử đó quan trọng theo phương diện chính trị tôn giáo, hay khoa khảo cổ học.
Ngôi mộ chôn Chúa Giêsu bằng đá với người tín hữu Giáo Hội thời tiên khởi sau khi Chúa Giêsu về trời là nơi đã diễn ra ơn cứu độ chữa lành. Và vì thế họ rất mực tôn kính.
Ngôi mộ trống của Chúa Giêsu là chốn khởi điểm của đức tin Kitô giáo, đức tin Chúa Giêsu sống lại. Đây là sự cứu chuộc chữa lành tận căn rễ cho nhân loại khỏi hình phạt tội lỗi phải chết. Điều này nói lên không có sự chữa lành nào có thể mang đến như sự cứu độ của Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
Tuần Thánh 2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lấy cảm hứng từ:
- Welt und Umwelt der Bibel, 3000 Jahre Jerusalem, Nr. 1-1996
- Welt und Umwelt der Bibel, Faszination Jerusalem, Nr 16, 1999
- Grabekirche Wikipedia
Nếu Chúa Giêsu tư vấn hôn nhân
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU (Viết theo Beliefnet.com)
VRNs (23.03.2015) – Sài Gòn – Nếu Chúa Giêsu là nhà tư vấn hôn nhân, Ngài sẽ khuyên bạn làm gì?
- PHỤC VỤ
Chắc hẳn Chúa Giêsu sẽ khuyên vợ chồng phải phục vụ lẫn nhau, như Thánh Phaolô nói: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5:21-28).
- TRAO TẶNG và BIẾT ƠN
Hãy trao tặng cả con người của mình, vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35). Mối quan hệ phu thê luôn cần nhiều sự quan tâm, chăm sóc, cả tinh thần và thể lý. Một bữa ăn, một ly cà phê, một lời cảm ơn,… đó là thể hiện tình yêu dành cho nhau: “Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ. Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19:4-6). Thánh Phaolô nói: “Ở đâu và lúc nào chúng tôi cũng đón nhận những ân huệ ấy với tất cả lòng biết ơn” (Cv 24:3).
- YÊU THƯƠNG và THA THỨ
Yêu thương và tha thứ luôn liên quan với nhau. Có yêu thương thì mới khả dĩ tha thứ. Thánh Phaolô nói: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:8-10). Thánh Phaolô phân tích: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1 Cr 13:4-7).
- ĐỪNG ÍCH KỶ
Ích kỷ là tính xấu, là hoa trái không tốt lành. Chúa Giêsu muốn mọi người biết tôn trọng nhau và yêu thương nhau, huống chi là vợ chồng với nhau. Ngài biết chúng ta bất toàn, thế nên Ngài ở giữa để lấp đầy khoảng cách đó. Tuy nhiên, chúng ta có thể gieo hạt để có thể thu hoạch trong mối quan hệ phu thê. Thánh Giacôbê nói: “Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” (Rm 8:13).
- ĐỪNG NÓNG GIẬN
Cơn giận khiến người ta mất khôn và khiến xa cách nhau. Do đó, hãy cố gắng làm hòa trước khi đi ngủ. Nóng giận là một trong những điều do tính xác thịt gây ra (Gl 5:19-20), không nóng giận là thể hiện đức mến (1 Cr 13:5). : “Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận, vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa” (Gc 1:19-20). Không nóng giận sẽ làm cho gia đình ngập tràn niềm vui.
TRẦM THIÊN THU (Viết theo Beliefnet.com)
Nguồn: DCCT
Em ngươi đâu?
- Viết bởi Lm. VĨNH SANG, DCCT
VRNs (22.03.2015) – Trong những ngày qua, tình hình xã hội chúng ta càng thêm u ám bởi nhiều vụ đánh nhau giữa các học sinh các lớp trung học, các vụ đánh nhau này nhanh chóng được đưa lên mạng xã hội gây ra nhiều băn khoăn chua xót trong dân chúng.
Có một clip nữ sinh dùng ghế đánh bạn được đăng tải trên mạng xã hội vào tháng 4 năm 2013. Vụ việc xảy ra vào đầu giờ học ở một trường Trung Học Phổ Thông thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Họ đánh nhau trước sự chứng kiến của bạn bè, chỉ có tiếng reo hò cổ vũ chứ tuyệt nhiên không có một ai can ngăn.
Ngày 1.4.2014, clip ghi lại cảnh hai nhóm học sinh đánh nhau giữa đường, thậm chí nữ sinh còn quá quyắt đến mức lột nội y của nhau.
Một nhóm nữ sinh đánh nhau trong lớp tại một trường Trung Học Cơ Sở huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, tất cả được đăng tải trên mạng xã hội vào tối 21.4.2014. Cảnh đánh nhau diễn ra trong tiếng hò reo, vỗ tay lẫn chửi thề của các bạn. Có tiếng la lớn đòi hai bạn nữ phải xé áo cô gái nạn nhân.
Clip đăng trên mạng xã hội ngày 6.10.2014 ghi lại cảnh một nữ sinh trường Trung Học Cơ Sở Bình Tấn, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, đánh bạn dã man chỉ vì “thích thì đánh, nhìn mặt thấy ghét”.
Hai nữ sinh trường Trung Học Phổ Thông Bãi Cháy và Trung Học Phổ Thông Nguyễn Bỉnh Khiêm tỉnh Quảng Ninh, gặp nhau để giải quyết mâu thuẫn. Sau cãi vã trước cổng trường Bãi Cháy, nhóm này kéo đến một khu vực khác để đánh nhau, lột nội y của nhau.
Clip “Học sinh lớp 7 đánh nhau” đăng tải mới đây nhất ngày 10.3.2015. Nữ sinh nạn nhân tên P., trường Trung Học Cơ Sở Lý Tự Trọng, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Đánh em là nhóm bạn cùng lớp, cầm đầu là lớp trưởng. Trong clip, nạn nhân khóc nức nở khi bị nhóm bạn đánh tới tấp, cầm ghế nhựa đập vào đầu. Đoạn cuối ghi lại cảnh một nam sinh cầm chồng ghế nhựa ném luôn vào người nạn nhân. Không một ai ngăn cản. Xung quanh chỉ có tiếng la hét, cổ vũ. Cô bé này bị đánh đơn giản chỉ vì không nghe lời lớp trưởng ra lệnh phải đánh một bạn khác…
Trên đây là một số ghi nhận qua báo chí hoặc mạng xã hội, hẳn rằng còn nhiều vụ việc khác đã không được ghi lại hoặc không tung lên mạng.
Bài Tin Mừng ngày thứ ba tuần thứ 4 Mùa Chay theo Thánh Gioan (Ga 5, 1 tt) kể lại việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Ngài đến Cửa Chiên, vào khu vực có cái hồ chung quanh là 5 hành lang rộng, Tin Mừng diễn tả người què quặt, đui mù, ốm đau, nằm la liệt ở các hành lang bên bờ hồ. Chúa Giêsu tiến vào giữa một nhân loại khổ đau quằn quại, Ngài không trốn chạy, không bưng tai bịt mắt, không phớt lờ vô cảm, không dửng dưng lãnh đạm, không tìm đường khác mà lánh đi. Ngài cúi xuống trên kẻ liệt lào, nói lời an ủi, tuyên bố chữa lành, phục hồi sự sống.
Chắc chắn rằng chúng ta đã được sai đến một thứ Cửa Chiên như vậy. Sứ mạng của chúng ta là phải tiếp nối điều Chúa đã thực hiện bằng chính Lời của Chúa. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 10, 10). Chúa cần chúng ta công bố Lời của Người để chữa lành chính xã hội của chúng ta hôm nay. Chúng ta không được phép tránh né, phớt lờ, dửng dưng hoặc vô cảm.
Mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta, mỗi cộng đoàn của chúng ta có nhận ra ơn gọi của mình hay không ? Chỉ kêu ca hay chỉ phản kháng thì không giải quyết được vấn đề, tò mò và loan truyền thông tin chỉ làm tăng thêm kích động xã hội. Hãy dội nước Lời Chúa ngay trên căn nhà của mình khi đám cháy đã bùng lên ở nhà bên cạnh để ngăn cơn “cháy nhà” lan đến gia đình chúng ta, rồi từ nhà mình, chúng ta giúp sức cứu các nhà khác tránh khỏi đám cháy hung bạo.
Qua các thông tin hang ngày, xã hội của chúng ta đang rất nguy cấp, hơn lúc nào hết, sứ mạng người Kitô hữu thúc giục chúng ta thi hành sứ mạng chữa lành mà Chúa đã ủy thác. Đừng để câu hỏi “Em ngươi đâu ?” trở nên án phạt cho chúng ta. (“Em người đâu ?” là một câu Kinh Thánh trong sách Sáng Thế được triển khai trong Sứ Điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha Phanxicô).
Lm. VĨNH SANG, DCCT
Nguồn: Ephata 643
Cánh cửa năm thánh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày 13.03.2015 Đức thánh Cha Phanxico đã công bố năm 2016 là năm thánh về Lòng thương xót từ bi của Chúa trong Hội Thánh Công giáo. Năm thánh sẽ bắt đầu từ ngày 8.12. 2015 đến 20.11.2016.
Theo tập tục trong Hội thánh Công giáo sẽ có nghi thức mở cửa năm thánh vào ngày khai mạc năm thánh.
Cánh cửa năm thánh ở bốn đại vương cung thánh đường bên Roma: Đền thờ Thánh Phero, đền thờ Laterano, đền thờ Maria Đức Bà cả và đền thờ Thánh Phaolo ngoại thành, lần lượt được mở ra trong những ngày khởi đầu của năm thánh.
Biểu tượng mở cánh cửa năm thánh có từ năm 1400 sau Chúa giáng sinh. Trong bức thư về năm thánh năm 1400 viết về cánh cửa năm thánh với ý nghĩa thần học: „ Người tín hữu Chúa Kitô nào ba lần bước đi qua cửa này, họ sẽ được hưởng ơn toàn xá tha các tội. Đây là điều kỳ diệu lạ lùng cho con người.“
Cửa là hình ảnh sát gần với đời sống hằng ngày của con người vào mọi lúc, ở khắp mọi nơi. Nơi nào có người cư ngụ làm lều hay nhà ở, nơi đó có một hay nhiều cửa.
Cửa là hình ảnh biểu tượng cho ranh giới ngăn cách giữa trong và ngoài cửa. Bên trong cửa, khi cánh cửa đóng lại bắt đầu điều gì mới. Nó cũng có thể là hình ảnh mang ý nghĩa mở ra một không gian, thời gian mới, một quãng đời sống mới.
Cửa đóng vai trò là lối vào, lối ra, là lối thông thương nối liền hai khoảng không gian lại với nhau giữa bức tường ngăn cách hai bên, là sự bảo vệ cho người, cho vật ở bên trong cửa.
Khi cửa mở ra là lời mời gọi „xin vào". Khi cửa đóng lại là dấu hiệu „xin dừng lại không đi tới tiếp được nữa“.
Trong đời sống hằng ngày cũng như trong các truyện ngụ ngôn thần thoại, trong phim ảnh, sách báo… hình ảnh cửa luôn luôn đóng vai trò rõ nét cùng cần thiết.
Cửa mang nhiều hình ảnh biểu tượng ý nghĩa thiết thực trong đời sống. Nên trong Kinh Thánh cửa cũng là hình ảnh biểu tượng nói về đời sống tinh thần đức tin nhiều cùng sống động.
Cửa được nói đến như hình ảnh Thiên Chúa tha thứ giải thoát và mở ra một tương lai cho dân của Người.
Khi cứu thoát dân Israel ra khỏi đất nước Ai Cập cho trở về quê hương đất hứa Do Thái, Thiên Chúa đã truyền cho dân giết con chiên và lấy mấu nó bôi quyét trên khung cửa nhà (Xh 12). Đây là dấu hiệu mang ý nghĩa quan trọng về sự giải thoát và cứu độ cho dân Israel.
Cửa dẫn lối vào cung thánh đền thờ chỉ được mở ra mỗi năm một lần vào ngày lể đền tội xin ơn tha thứ, để Thẩy cả thượng phẩm bước vào dâng lễ hy sinh đền tội.
Khi Chúa Giêsu chết trên thập gía tấm màn cửa trong đền thờ Gierusalem xé rách ra làm hai (Mt 27,51) nói lên sự chết của Chúa Giêsu đã mở cửa phá bỏ chấm dứt sự ngăn cách phân chia cũ mới.
Chúa Giêsu tự nhận mình là cửa chuồng chiên (Ga 10,7)o bảo vệ đàn chiên, che chở con người. Ngài bước qua những bức tường lề luật, những ranh giới phân biệti và mở cửa cho nhiều người. Vì Thiên Chúa muốn cứu độ con người, như khi Ngài chữa lành các người bị bệnh tật vào ngày lễ nghỉ Sabat, người nói chuyện với những người bị cho là tội lỗi, bị nguyền rủa bỏ rơi, với trẻ con, với phụ nữa.
Từ khi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa sinh ra làm người trên trần gian, cửa thông thương đã mở ra giữa trời và đất, Thiên Chúa và con người.
Khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, cửa ơn cứu độ trong nước Thiên Chúa mở ra cho mọi người trên trần gian sau khi qua đời.
Thánh Phaolo trên đường truyền giáo khi đến Antiochia đã kể thuật lại cho mọi người về những việc của Thiên Chúa đã thực hiện, và việc Thiên Chúa đã mở cửa cho người ta đón nhận đức tin vào Thiên Chúa như thế nào. (Cv 14,27).
Nên khi cửa năm thánh được mở ra, và chúng ta người tín hữu Chúa Kitô cùng với Hội Thánh đi bước qua cửa này là chúng ta tin nhận , Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Chúng ta muốn theo người, dõi theo tin mừng cửa lòng thương xót Chúa, như được viết thuật lại trong phúc âm.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tấm khăn mùa chay 2015-2016
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mỗi năm vào mùa Chay, hội bác ái Misereor của Giáo hội Công giáo nước Đức phát động chiến dịch bác ái mùa chay trong toàn nước Đức từ năm 1976.
Và cứ mỗi hai năm Misereor in ra Tấm khăn mùa chay cho chiến dịch bác ái này.
Tấm khăn mùa chay 2015-2016 mang tựa đề: „ Gott und Gold - Wie viel ist genug- Thiên Chúa và qúy kim vàng - Bao nhiêu thì mới đủ?“
Tấm khăn này do nhà danh họa, Giáo sư ngành hội họa Dao Zi, một tín hữu đạo Tin lành người Trung Hoa vẽ ra, lấy từ cảm hứng từ câu Phúc âm „ Kho tàng của bay ở đâu, lòng trí ngươi ở nơi đó“ (Mt 6,9-24).
Bức tranh với chủ đề thần học đạo đức được vẽ trên vải và được treo trong các thánh đường vào mùa chay hoặc ở dưới chân bàn thờ, hoặc trên cao nơi cung thánh để mọi người có thề nhìn thấy, khi vào thánh đường. Tập tục có tính cách dạy giáo lý bằng hình ảnh vẽ trên vải hay giấy rồi căng treo trong nhà thờ đã có từ thời thế kỷ 12. trong Hội Thánh Công giáo.
Tấm khăn mùa chay 2015-2016 lần này được vẽ bằng ba mầu chính: mầu xám tro làm nền, mầu đen và mầu vàng. Hình vẽ và mầu sắc mang nét trừu tượng sâu đậm.
Hình đường ngang chân trời mầu đen là hình cây ngang thập gía, và cũng có thể là con đừng đời sống con người xuyên suốt thời gian nơi trên thế giới.
Ở trung tấm khăn là hình một tảng đá lớn mầu vàng nằm ở giữa hình ngang màu đen, thu kéo sự chú ý nhìn của mọi con mắt.
Tảng đá này một mặt là hình ảnh Chúa Giêsu Kitô, như trong Kinh Thánh đã diễn tả là“ Tảng đá người thợ xây loại bỏ, đã trở nên tảng đá góc tường. Đó là công trình kỳ diệu của Chúa thực hiện trước mắt chúng ta.“ (Mt 21,42). Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã làm người cùng nâng cao con người lên được ngang hàng đồng dạng với Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Giêsu cũng đã trở nên người phục vụ tất cả mọi con người trọn cả đời ngài cho đến chết trên cây thập tự.
Tảng đá trong hình vẽ này mặt khác cũng nhắc nhớ ta đến những tảng đá từ các hành tinh khác vỡ ra bay trong không gian rơi vào vùng trái đất gây ra những thảm họa tàn phá làm đổ vỡ, cùng có thể gây ra chết người nữa.
Tảng đá mầu vàng cũng còn nhắc nhớ đến sự khát vọng cùng nhu cầu và có cả tham lam của con người xưa nay hằng đi đào bới khai thác nơi núi đá tìm qúy kim vàng , những chất quặng mỏ trong mọi thời đại, mọi nền văn hóa của nhân loại. Và do đó gây ra cảnh tàn phá thiên nhiên, tình trạng chiến tranh cướp giật, tình trạng dân chúng di dời chỗ ở, và cảnh nghèo đói về mọi lãnh vực.
con người
Mầu xám làm nền cho bầu trời, cho đất và nước nói lên: công trình sáng tạo thiên nhiên như Thiên Chúa muốn không còn nữa.
Mầu đen của cây ngang thập gía diễn tả sự đau khổ khốn cùng và giới hạn của đời sống con người.
Bảy viên đá mầu vàng nhỏ cạnh tảng đá lớn mầu vàng là hình ảnh những sự cần thiết Thiên Chúa ban cho đời sống con người.
Số bảy là con số trong Kinh Thánh chỉ vể sự tròn đầy viên mãn, như bảy ngày trong công trình tạo dựng trời đật thiên Chúa đã thực hiện, bảy ơn Đức Chúa Thánh Thần và hình ảnh bảy Bí Tích trong Hội Thánh Công giáo.
Tình trạng nghèo đói, chiến tranh bóc lột, phá hủy thiên nhiên luôn hằng xảy ra trên mặt đất ở khắp mọi nơi do con người cùng cho con người xưa nay luôn là những ưu tư lo âu suy nghĩ cùng báo động cảnh giác cho mọi thế hệ con người.
Bao nhiêu tài sản của cải vật chất mới đủ cho tham vọng con người?
Có thể có sự phân chia đồng đều về của cải vật chất cho mọi người cùng được tham dự hưởng dùng cho đời sống, để cảnh nghèo đói thiếu thốn trong đời sống được giảm bớt bài trừ?
Qua Chúa Giêsu, chúng ta biết rằng, một đời sống tràn đầy no đủ cho mọi người là điều có thể, và là điều Thiên Chúa muốn như thế cho con người.
Mùa Chay 2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chuyện về con Dơi
- Viết bởi Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
VRNs (20.03.2015) – Đồng Nai – Có một cô gái nói rằng: cô đang rất đau khổ, trước mặt cô là cả một bầu trời đen tối và cô đang phải sống với những giọt nước mắt tuyệt vọng cuối cùng.
Nghe thật bi thảm, cô vừa bị mất việc vừa bị người yêu phản bội. Đây là mối tình đầu của cô và nó đã kéo dài 5 năm với tất cả sự chân thành nồng nhiệt, thủy chung của trái tim tuổi trẻ. Với mất mát này, cuộc sống trước mặt cô chỉ là những ngõ cụt, đường cùng.
Đó là tâm trạng của rất nhiều người khi đối diện với thất bại, đau khổ, nghịch cảnh. Họ cảm thấy mình như đi vào đường cùng. Họ cảm thấy bầu trời đối với họ không còn lung linh rạng ngời mà chỉ còn bóng tối bao trùm. Họ thất vọng. Họ buông xuôi.
Thực ra , ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới đau khổ hay hạnh phúc. Điều quan yếu là phải có sức mạnh để bước qua những ranh giới ấy. Chúng ta có thể thấy điều ấy qua hình ảnh con dơi. Một con dơi bình thường luôn bay ra ngoài vào buổi tối. Nó là một sinh vật nhanh nhẹn, lanh lợi đến mức ấn tượng. Tuy nhiên, nó không thể cất cánh từ một địa điểm bằng phẳng. Nếu nó được đặt trên sàn hoặc một mặt phẳng, thì tất cả những gì nó có thể làm là lê bước loanh quanh một cách vô vọng và đau khổ. Cho đến khi nó tìm được một độ cao nào đó, chỉ cần là một góc nâng nhỏ thôi, để từ đó, nó có thể tung mình vào không trung. Và, ngay lập tức, nó bay lên như một tia chớp.
Đôi khi chúng ta cũng giống như những con dơi cứ quanh quẩn trong bế tắc cùng khổ. Chúng ta vật lộn với tất cả các vấn đề rắc rối và tuyệt vọng của mình, mà không bao giờ nhận ra rằng rất có thể một giải pháp ở rất gần, chỉ cần chúng ta nhìn lên cao hơn – hay nhìn về phía trước sẽ có một con đường mới cho chúng ta.
Khi nhìn vào đau khổ, Chúa Giê-su đã ví tựa cuộc đời như hạt lúa chịu mục nát mới trồi sinh sự sống. Ngài còn nói rằng khi Ngài bị treo lên thập giá thì không phải là đau khổ, hay là thất bại mà là cứu sinh cho nhân loại. Ngài không nhìn đau khổ như đường cùng mà là một khởi sự cho sự sống mới trồi sinh. Từ chính đau khổ ấy Ngài ngước nhìn lên cao để có thể thấy ý Thiên Chúa Cha đang đòi Ngài hiến tế cứu đời. Đối với Chúa Giê-su đi vào đau khổ còn như là định luật tất yếu của đời người, vì “hạt lúa phải mục nát mới trồi sinh bông lúa vàng”. Đối với Chúa Giê-su thập giá không là nỗi nhục mà là một hành vi cứu rỗi nhân gian qua sự hiến tế của Ngài.
Cuộc đời con người chắc chắn sẽ có những khúc quanh của đau khổ nhưng vẫn còn con đường phía trước. Dù hẹp. Dù quanh co. Nhưng vẫn có lối thoát cho cuộc đời chúng ta. Đừng thất vọng trước khó khăn. Đừng tháo chạy trước gian nguy. Hãy nhìn vào khó khăn của bổn phận, của thử thách như lời mời gọi chấp nhận mục nát đời mình để sống có ích cho tha nhân. Hãy đón nhận thập giá cuộc đời trong thiên ý Thiên Chúa như là hồng ân Ngài ban tặng cho chúng ta để hiệp thông cứu độ trần gian.
Xin cho chúng ta luôn biết tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có bình an, hạnh phúc cho dù vẫn còn đó những khó khăn thử thách. Xin cho chúng ta biết bám vào Chúa để nhờ ơn Chúa chúng ta vượt qua những khó khăn. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Lễ kính thánh Giuse : Thánh Giuse gồm no mọi nhân đức
- Viết bởi Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Kinh Thánh chỉ mô tả thánh Giuse bằng một từ ngữ ngắn gọn: “Người Công Chính”. Dĩ nhiên, khái niệm “công chính” ở đây được hiểu theo nghĩa Tân Ước, tức là con người trọn lành, bao dung, nhân từ, theo mẫu gương của Chúa Giêsu. Giáo Hội thường suy tôn thánh Giuse với nhiều tước hiệu cao trọng:
Ông thánh Giuse là đấng sáng láng trên hết các thánh Tổ Tông.
Ông thánh Giuse trọn tốt trọn lành.
Ông thánh Giuse cực thanh cực tịnh.
Ông thánh Giuse cực khôn cực ngoan.
Ông thánh Giuse hay vâng lời chịu lụy.
Ông thánh Giuse là đấng ngay chính tận trung.
Ông thánh Giuse là gương nhân đức nhịn nhục.
Ông thánh Giuse yêu chuộng nhân đức khó khăn.
Ông thánh Giuse là mẫu sáng láng về cách ở trong nhà, v.v…
Các tước hiệu đó có thể gồm tóm trong câu “thánh Giuse gồm no mọi nhân đức”: khiết tịnh, vâng phục, nghèo khó, nhẫn nhục, khiêm nhường, v.v… Nhân đức mà “no” luôn là phải biết! Tuy nhiên, đối với dân làng Nazareth cách đây hơn 2000 năm, thì thánh Giuse cũng chỉ là một bác thợ mộc âm thầm vô danh tiểu tốt, thế thôi! Bên ngoài chẳng có gì đặc biệt, chẳng có gì khiến người khác phải chú ý. Suốt gần ba mươi năm sống bên cạnh Chúa Giêsu và Đức Mẹ, thánh Giuse không để lại một tác phẩm, một công trình, hay một câu nói để đời nào. Ngài chỉ âm thầm lặng lẽ chu toàn bổn phận làm chồng, làm cha của mình một cách tốt nhất có thể.
Lúc đã về trời, xem ra thánh Giuse vẫn tiếp tục “sống âm thầm lặng lẽ”. Lặng lẽ âm thầm cả trong việc can thiệp cho những nhu cầu của nhân thế. Đức Mẹ còn hiện ra nơi này nơi nọ, còn thánh Giuse rất hiếm khi. Có chăng chỉ là mộng báo trong giấc ngủ, hay là âm thầm giả trang để thực hiện việc này việc nọ cho các con cái của mình. Tuy nhiên, sự can thiệp của ngài thường rất kỳ diệu.
Xin được dẫn chứng: sau khi khánh thành nguyện đường Loretta, tiểu bang New Mexico, năm 1878, thì thực tế nảy sinh một vấn đề hết sức nan giải: ca đoàn gồm toàn các nữ tu và nữ sinh với tu phục và váy đầm dài tới gót chân, không thể leo lên gác ca đoàn bằng chiếc thang gỗ. Bởi lễ vào thế kỷ thứ 19, chỉ có phái nam được hát trong ca đoàn nên họ dùng thang gỗ để leo lên gác ca đoàn mà không cần cầu thang.
Các nữ tu đã mời nhiều tay thợ chuyên nghiệp đến làm cầu thang nhưng sau khi quan sát, đo đạc, tính toán, tất cả đều lắc đầu nói không thể thực hiện được vì gác ca đoàn thì cao, lòng nhà nguyện lại hẹp, cầu thang sẽ chiếm qúa nhiều chỗ kê ghế. Sau cùng, Mẹ Bề Trên Magdalenđưa ra quyết định: khi khởi công xây dựng nguyện đường, công trình được đặt dưới sự bảo trợ của Thánh Giuse, quan thầy nghề thợ mộc, thì nay khi gặp khó khăn, công việc cũng phải được giao cho Thánh Giuse lo liệu. Ngay hôm đó, các nữ tu bắt đầu làm tuần 9 ngày xin Thánh Giuse. Sau 8 ngày liên tục cầu nguyện với lòng tin tưởng và phó thác nơi Thánh Giuse thì đột nhiên vào ngày thứ 9, xuất hiện một ông già râu tóc bạc dắt theo một con lừa tới xin làm cầu thang lên gác ca đoàn. Ông thợ mộc chỉ mang theo một ít đồ nghề đơn giản: 1 cái cưa, 1 thước đo hình chữ T và 1 cái búa. Ông cũng không đòi tiền công trước hoặc tiền ứng mua vật liệu. Với tinh thần đơn sơ, các nữ tu nghĩ rằng sẽ thanh toán tiền công và tiền vật liệu sau khi công việc hoàn tất nên không cần hỏi tên tuổi ông thợ.
Sau thời gian 7-8 tháng, các nữ tu được thông báo cầu thang đã hoàn tất nhưng không tìm thấy ông thợ đâu hết: ông thợ đã đột nhiên bỏ đi mà không đòi tiền công và tiền vật liệu, cũng không để lại tên tuổi hoặc điạ chỉ. Các nữ tu đã nhờ tìm kiếm khắp nơi, tuy nhiên, không ai nghe biết về ‘ông thợ kỳ lạ’ này. (Làm mà không cần tiền công. Thánh Giuse nghèo là phải rồi!!!).
Và rồi Mẹ Bề Trên đã phải đến xưởng gỗ để thanh toán tiền vật liệu, nhưng mọi người làm việc tại đây cho biết không có ai đến mua gỗ làm cầu thang cho nguyện đường. Do không tìm ra tông tích ông thợ ‘huyền bí’ này nên người đương thời đều kết luận đó chính là Thánh Giuse đã đáp lời cầu xin của các nữ tu.
Điều đáng nói nữa là sự kỳ diệu của chiếc cầu thang. Chíêc cầu thang có hình xoắn ốc ngoằn ngoèo, mà không có cột chịu lực nào ở giữa. Toàn bộ sức nặng tựa trên chân cầu thang và phần nối với gác ca đoàn. Điều này trái hẳn với nguyên lý về trọng lực khiến các khoa học gia không sao giải thích được. Kiến trúc sư Urban C. Weidner cũng là chuyên gia nghiên cứu gỗ cho biết ông chưa bao giờ thấy cầu thang hình xoắn ốc bằng gỗ mà không có cột chịu lực ở giữa. Theo ông, nó sẽ sụp đổ ngay khi có người đặt chân bước lên. Thế mà các nữ tu phải lên xuống cầu thang mỗi ngày để hát phụng vụ. Năm 1959, cả ca đoàn học viện Loretto đứng hát trên các bậc thang mà nó vẫn vững chắc như làm bằng ximăng cốt sắt.
Về gỗ làm cầu thang, nhiều chuyên gia đã phân tích, tìm hiểu loại gỗ và xem loại đó xuất xứ từ đâu. Tuy nhiên, không một ai có thể khẳng định là loại gỗ nào để tìm ra xuất xứ của nó. Việc ông thợ lấy gỗ từ đâu mang về làm cầu thang vẫn còn là một bí ẩn.
Cầu thang có 33 bậc cùng một kích thước, tượng trưng cho 33 năm Chúa sống ở trần gian. Điều đặc biệt nữa là cầu thang không có dù 1 chiếc đinh, hoặc keo dán để liên kết các vật liệu với nhau. Ông thợ ‘bí mật’ đó chỉ dùng các chốt gỗ hình vuông để liên kết một cách tài tình, chính xác và hết sức mỹ thuật.
Kiến trúc sư kiêm chuyên gia nghiên cứu gỗ Urban Weidner đã có nhận xét: một trong những điều làm sửng sốt các kỹ sư và các nhà kiến trúc là những tấm gỗ được ghép nối thành sườn cầu thang với độ cong tuyệt hảo, mỗi tấm gỗ có độ cong thật chính xác, đường ghép nối lại hết sức tinh vi, không tìm thấy một khuyết điểm nào. Ông vẫn không lý giải nỗi tại sao một kỹ thuật tinh vi như thế mà vào thập niên 1870, một mình ông thợ mộc với những dụng cụ rất thô sơ, lại có thể thực hiện được.
Và cho đến nay, mỗi năm được biết có khoảng 250 ngàn khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới đến nguyện đường Loretta để chiêm ngưỡng chiếc cầu thang lạ lùng này, trong số đó, có cả kỹ sư, kiến trúc sư, khoa học gia đến tìm hiểu và nghiên cứu (Xem thêm bài viết “Cầu Thang của Thánh Giuse ở Loretto – New Mexico” của tác giả Hoà Tâm).
Phép lạ đó nói lên điều gì, nếu không phải nói lên rằng sự can thiệp của thánh Giuse thường rất âm thầm lặng lẽ (lặng lẽ 7-8 tháng trời), nhưng rất diệu kỳ.
Có lẽ vì các nhân đức trỗi vượt của thánh Giuse và đặc biệt là vì sự đáp ứng mau mắn cho những ai kêu cầu, mà thánh Giuse là vị thánh được nhiều người yêu mến nhất, ngoài trừ Đức Mẹ. Người ta ước chừng một phần tư nam giới Kitô giáo, tức là khoảng một phần tám dân số Kitô giáo nhận thánh Giuse làm Bổn Mạng. Rất nhiêu dòng tu còn nhận ngài làm Quan Thầy của dòng, và nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam được đặt dưới sự bảo trợ của thánh Giuse. Thánh Giuse cũng là Bổn mạng của toàn thể giới Gia Trưởng. Vì thế anh em Gia trưởng được mời gọi theo gương sống của thánh Quan Thầy, sống xứng đáng là người chồng người cha mẫu mực thánh thiện. Sống thánh thiện mẫu mực một cách cụ thể đó là gì?
Trong tập Kỷ Yếu của Gia Trưởng Giáo phận, tôi đọc thấy một bài thơ rất ý nghĩa của một gia trưởng ở giáo xứ Thuận Nghĩa. Bài thơ có tựa đề “Mười Không, Mười Có”. Xin được trích lại:
Mười Không
Một không say xỉn la cà
Hai không bài bạc cửa nhà tan hoang.
Ba không lừa dối điếm đàng,
Bốn không trộm cướp, xóm làng bất an.
Năm không lươn lẹo tham giàu,
Sáu không ma tuý đời tàn ai ơi.
Bảy không biếng nhác ươi lười.
Tám không mèo mỡ bạn đời lung tung.
Chín không bất nghĩa bất trung,
Mười không kiêu ngạo và không bất bình.
Mười có
Một có đạo đức chân thành
Dựng xây đoàn hội, gia đình chăm lo.
Hai có trách nhiệm lớn to.
Dựng xây nước Chúa sao cho vẹn toàn.
Ba có bổn phận lo toan,
Bảo vệ giáo xứ cộng đoàn vui tươi.
Bốn có bác ái thương người,
Chung xây xã hội đẹp tươi an bình.
Năm có thiện chí hy sinh,
Giúp người hoạn nạn, bất hoà khổ đau.
Sáu có nhân nghĩa trước sau,
Giúp đời vơi bớt nỗi sầu bất công.
Bảy có thiện ý thực lòng,
Giúp đời tốt đẹp cả trong lẫn ngoài.
Tám có trí sạch lòng ngay,
Để đời ta có tháng ngày thảnh thơi.
Chín có mến Chúa yêu người,
Lòng thanh, trí sạch, sáng ngời quanh năm.
Mười có quyết chí quyết tâm,
Thành Gia trưởng tốt - đến gần Giuse.
Chắc chắn thánh Giuse là người giữ “Mười Không và Mười Có” đó triệt để hơn ai hết. Cầu chúc các anh em Gia Trưởng trong các gia đình Công Giáo cũng luôn giữ được như thế!
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Thánh Giuse khó khăn
- Viết bởi Lm. Giuse Phạm Bá Lãm
Vị thánh quê ở Assisi được mệnh danh là thánh Phanxicô khó khăn, tại sao ông thánh ở Nagiarét lại không được danh hiệu ấy? Kinh cầu đã xác định “Ông thánh Giuse yêu chuộng sự khó khăn”. Hoá ra khi nhận làm bạn với Đức Maria và làm cha nuôi Chúa Giêsu, ngài đã tiên thiên cam nhận cái số phận lận đận hẩm hiu ấy. Chàng trai Giuse thuộc dạng “Nơi đâu cần thanh niên có, nơi đâu khó có thanh niên”. Tất cả vì sự an toàn của gia đình Nagiarét.
Thánh Giuse là người cha pháp lý, thực chất chỉ là cha nuôi của Chúa Giêsu: có phải vì đó mà mất giá chăng? Để hiểu được dưỡng phụ hay cha nuôi cao quý như thế nào, chúng ta hãy nghe câu chuyện liên quan đến nước Đức và Việt Nam. Ông Uwe Rosler người Đức vào cuối năm 1973 đã đến Cô nhi viện của các sơ Dòng Chúa Quan Phòng Portieux tại Sóc Trăng, nhận nuôi một trẻ em mồ côi Việt Nam, đã được sơ Marie Marthe Đỗ Thị Suốn chăm sóc trong 9 tháng (sinh ngày 24.02.1973 tại Khánh Hưng, Sóc Trăng). Ông đã đưa cháu về Đức dưỡng nuôi như con ruột và đặt tên là Philipp Rosler. Điều kỳ diệu đã đến: 36 năm sau cậu trở thành Bộ trưởng Y tế (tháng 10/2009), rồi Phó Thủ tướng nước Đức (13.05.2011). Ông Uwe Rosler nghiễm nhiên được làm bố của Bộ trưởng và làm cha của Phó Thủ tướng. Khoảnh khắc cảm động được ghi lại: ông Uwe và cậu Philipp lúc đó 5 tuổi cùng soi gương chung với nhau: “Hãy nhìn con, rồi nhìn ba – con với ba khác nhau. Nhưng dù cho điều gì xảy ra hay người ta nói cái gì thì ba vẫn là ba của con”!
Thánh Giuse còn vinh dự hơn nhiều, vì được làm cha Đấng Cứu Thế, dù ai nghĩ sao nhưng vẫn được bé Giêsu gọi: Abba! Cha ơi! Người ta nói “cha sinh mẹ đẻ”, nên cha ruột hay cha nuôi, chẳng có cha nào biết đẻ, mà mỗi người nhận phần việc của mình thật hoàn hảo. Người ta có thể chứng minh điều đó qua một giai thoại: hai vợ chồng không có con, nhận nuôi một trẻ sơ sinh nặng 3 ký, chăm sóc như con ruột. Hơn một năm sau cháu lớn lên và cân nặng 10 ký. Lúc đó người cha ẵm lấy đứa con và nói với vợ: trước đây là 3 ký của huyết nhục, còn đây là 7 ký của tình thương. Chẳng biết bên nào hơn bên nào? Câu chuyện nhỏ ấy muốn nói: công dưỡng dục có giá trị lớn lao, chẳng kém gì công sinh thành.
Theo như dấu vết của Khăn liệm thành Torino, Chúa Giêsu cao 1m78 và có lẽ nặng 73 ký. Vâng, 70 ký tình thương của thánh Giuse không phải là nhỏ: vì nó đủ cho Chúa Giêsu sức khoẻ để đi giảng đạo suốt 3 năm, đủ lực để vác thập giá lên đồi Golgotha và dù tàn lực vẫn kêu lên một tiếng lớn rồi mới tắt thở (Mt 27,50; Mc 16,27).
Cha nào con nấy: Chúa Giêsu chịu khổ nạn, thì cũng giống cha Giuse khổ thân suốt đời, vì “đã mang cái nghiệp vào thân”. Một cuộc đời vô thường như lời thánh Phaolô trong thư Corintô (1Cr 7,29): “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay, những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng - vì bộ mặt thế gian này đang biến đi”. Thánh Giuse đã cam chịu thiệt thòi như thế đó: không hưởng gì, có chăng là hưởng dương! Dung mạo của ngài cũng bị bóp méo: các hoạ sĩ thường vẽ các thánh trẻ trung đẹp đẽ, còn thánh Giuse tuổi đôi mươi mà mang hình dạng một lão gia bên người vợ trẻ đẹp, như bố với con! Và bao thiệt thòi khác: tình duyên không giống ai, không tự quyết đời mình, lận đận như người bôn tẩu, bóng mờ và im tiếng trong gia đình. Đúng như nhận định của nhân gian:
“Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”.
Với thánh Giuse, gánh và ách đã biến thành êm ái nhẹ nhàng nhờ tình yêu nhiệm mầu. Có ai được lặng nghe tiếng nói dịu êm của Mẹ Maria và trẻ Giêsu mỗi ngày? Có ai được thưởng món ăn mẹ hiền Maria dọn cho? Có ai được bồng ẵm hài nhi Giêsu, được làm ngựa cho bé Giêsu cưỡi? Có ai được phó linh hồn và chết lành trong vòng tay của Chúa Giêsu và Mẹ Maria?
Thiên Chúa vẫn áp dụng luật bù trừ “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Mt 23,12; Lc 14,11 và 18,14): Bác phó mộc thành Nagiarét lên trời được chức Thánh Cả, ở dưới đất được làm Bổn Mạng của Giáo Hội. Thánh Giuse thật xứng đáng: ngài đã “gắn bó và chịu bao gian nan thử thách vì Chúa, nên sẽ được trao Vương Quốc, để được đồng bàn ăn uống với Chúa và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Israel” (Lc 22,28-30).
Ngày xưa bên Ai Cập, người ta kêu gọi “Ite ad Joseph”: Hãy đến với Joseph! Với Giáo Hội Việt Nam thì ngược lại: Thánh Giuse hãy đến với Việt Nam! Dẫn chứng sau đây:
Chính ngày lễ thánh Giuse 19.03.1627, giáo sĩ Đắc Lộ bị bão đã dạt tàu vào Cửa Bạng Thanh Hoá, khởi đầu cho công cuộc truyền giáo ở Đàng Ngoài. Nhận ra sự bảo trợ lạ lùng, Công đồng Đàng Ngoài ngày 14.02.1670 đã tôn vinh thánh Giuse làm Bổn Mạng địa phận Đàng Ngoài và đã được ĐGH Clêmentê X châu phê 3 năm sau vào ngày 23.12.1673. Giáo Hội Việt Nam đã được đi trước thời đại, mở đường cho các cuộc tôn vinh khác:
- Sắc chỉ của ĐGH Innocentê XI ngày 17.08.1678 tuyên nhận Thánh Giuse làm Bổn Mạng các nước truyền giáo Đông Phương.
- Sắc chỉ ĐGH Piô IX ngày 08.12.1870 tôn Thánh Giuse làm Bổn Mạng của Giáo Hội toàn cầu.
- Năm 1889 ĐGH Lêô XIII ra thông điệp Pluries Quamquam chọn tháng 3 kính Thánh Giuse.
- Năm 1955 ĐGH Piô XII đã thánh hoá ngày Quốc tế Lao động 1/5 thành ngày lễ thánh Giuse Thợ.
- Hội nghị thường niên của HĐGMVN tại Hà Nội ngày 06.10.1997 đã tái xác nhận tôn vinh Thánh Giuse làm Bổn Mạng của Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Trở lại việc Thánh Giuse làm Bổn Mạng của Giáo Hội toàn cầu có giai thoại như sau. Một hoạ sĩ trình bày một bức tranh mô tả cảnh sống trên thiên đàng. ĐGH Piô IX ngắm nhìn thấy nhân vật nào cũng tuyệt vời: Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ, các thiên thần, các thánh… Bất chợt ngài chau mày hỏi: Thế còn Thánh Giuse ở đâu? – Dạ thưa, được đặt vào góc nhỏ này. ĐGH ra lệnh: Phải đặt Thánh Giuse ngay bên cạnh Đức Mẹ! Sau đó ngài đã ban sắc chỉ 08.12.1870 đặt Thánh Giuse làm Bổn Mạng Giáo Hội hoàn vũ.
Ngày nay cũng vậy: Kinh nguyện Thánh Thể 2-3-4 xướng danh Đức Mẹ, nhưng thánh Giuse ở đâu? Thế là Bộ Phụng tự và Kỷ luật các bí tích đã ra Sắc chỉ ngày 11.05.2013 quyết định phải đọc tên Thánh Giuse ngay sau tên Đức Mẹ trong tất cả các Kinh Nguyện Thánh Thể. Thật xứng đáng là một “cặp đôi hoàn hảo”, sẽ hợp đồng công tác phù giúp con cái Chúa.
Thánh Giuse không những yêu chuộng sự khó khăn, mà còn là quan thầy của kẻ khó khăn. Hơn ai hết con dân đất Việt đang gặp khó khăn gian nan về lãnh địa và lãnh hải. Cần phải có những “Cửa Bạng” để thánh quan thầy vững lái con thuyền đến bến bình an.
Lm. Giuse Phạm Bá Lãm, Chính xứ Hoà Hưng
Nguồn: TGP SàiGòn
Những khuôn mặt Giuse
- Viết bởi Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
Nghiên cứu khảo xét trong Kinh Thánh về gia phả nguồn gốc gia đình Chúa Giêsu trong ý nghĩa thần học, cùng trong liên hệ bản tính loài người, người ta thấy hai Vị Giuse giữ vai trò quan trọng then chốt.
Vị Giuse con Ông Giacop bị anh em bán sang Ai Cập. Ở nơi đó Ông đã làm Thủ Tướng và có công cứu dân không chỉ ở Ai Cập, mà còn toàn vùng Trung Đông, trong có có nước Do Thái gia đình Ông thoát khỏi nạn mất mùa đói kém hoành hành.
Giuse con Tổ phụ Giacop và Bà Rahel thời cựu ước hay Giuse Ai Cập
Và Vị Giuse, người bạn đường trăm năm của Đức mẹ Maria, là cha nuôi Chúa Giêsu trên phương diện xã hội ở trần gian.
Giuse người Nazareth thời tân ước.
1. Tên của hai người Giuse là biểu tượng cho sự may mắn hạnh phúc.
Khi sinh thành Giuse Ai Cập, là con Ông Giacop, bà Rahel mẹ của Giuse đã nói : Thiên Chúa ban cho bà thêm người con nữa (St 30, 24.)
Giuse thành Nazareth cũng là người mang hạnh phúc niềm vui đến. Vì Ông giữ vai trò xã hội là cha nuôi dưỡng Chúa Giêsu
2. Hai vị Giuse đều là những vị có những giấc mơ.
Những giấc mơ của Giuse Ai Cập phản ảnh thực tại và là người của điều may mắn: Thiên Chúa ở cùng Giuse và ban cho ông được may mắn hạnh phúc (St 39,2.)
Giuse Ai Cập đi tìm anh em của mình và cứu sống 12 chi tộc Israel, dù vì giấc mơ của Ông mà bị anh em bán sang Ai Cập. ( St 37,16.)
Giuse thành Nazareth cha nuôi Chúa Giêsu theo lời Thiên Thần trong giấc mơ đặt tên cho con trẻ là Giêsu : Con trẻ Giêsu sẽ cứu thoát dân khỏi tội lỗi. (Mt 1,21) và ngài là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. ( Mt 1,23)
3. Có những giấc mơ. Nhưng cả hai Giuse đều phải theo đuổi trải qua con đường gian nan chông gai đi sang đất nước Ai Cập. Giuse Ai Cập bị anh em bán cho lái buôn người Ismael sang Ai Cập ( St 37,28-36). Còn Giuse thành Nazareth cha nuôi Chúa Giêsu (Mt 2,13-15) phải đi tỵ nạn sang Ai Cập vì vua Herode tìm lùng bắt các trẻ con mới sinh, trong đó có hài nhi Giêsu.
4. Ý định đen tối trong đời hai Giuse đều được Thiên Chúa biến đổi cứu sang chúc lành.
Anh em Giuse thời Cựu ước bán Giuse sang Ai Cập, khiến Ông phải sống đời lưu vong bơ vơ. Nhưng đó là „ để bảo vệ giữ gìn sự sống, mà Thiên Chúa đã gửi tôi sang đây trước các anh em.(St 45,5.) „ Các anh em đã có ý định đen tối hại tôi, nhưng Thiên Chúa đã biến thành sự tốt lành. (St 50,20.)
Tương tự như vậy, Thiên Thần Chúa trong giấc mơ đã thúc dục Giuse thành Nazareth phải đem hài nhi Giêsu sang Ai Cập, vì vua Herode đang tìm lùng bắt con trẻ. (Mt 2,13.)
Cả hai Giuse phải ra đi trong sự đe dọa bị ám hại. Nhưng Thiên Chúa đã biến đổi sự đe doạ thành cứu rỗi.
5. Giuse thời cựu ước và Giuse thời tân ước đều có tấm lòng tha thứ rộng lượng.
Giuse Ai Cập thời cựu ước khi gặp lại anh em bên Ai Cập đã tha thứ cho họ. Ông không trả thù vì ngày xưa họ đã tìm cách ám hại sau cùng bán ông sang xứ xa lạ. Vì đó ông lâm cảnh bơ vơ mồ côi xa cha mẹ. (St 45,1-5).
Còn Giuse thành Nazareth thời tân ước đau khổ, khi hay tin Maria người bạn đường đã đính hôn đang có thai. Nhưng Ông không muốn để Maria một mình bị nguyền rủa khinh khi (Mt 1,19). Ông đã chấp nhận Maria như Thiên Thần Chúa truyền dạy.
Cả hai Giuse tỏ ra là người có đời sống công chính theo đúng luật lệ của Chúa. Và là người có lòng nhân ái quảng đại.
6. Cả hai Giuse đóng vai trò chiến lược là nhịp cầu nối kết.
Giuse Ai Cập thời cựu ước như nhân vật bản lề của cánh cửa lịch sử thời các Tổ phụ, tổ tiên một bên, và cảnh tượng bi thảm của cuộc giải thoát xuất hành khỏi Ai Cập trở về đất Chúa hứa một bên khác. Vị Giuse này đã mang đến làn gío đổi mới cắt nghĩa tại sao dân Israel có mặt ở Ai Cập.
Còn Giuse thành Nazareth cũng đứng nơi vị trí bản lề giữa lịch sử Israel và sự nối tiếp lạ lùng ngạc nhiên của lịch sử trong cộng đoàn mới thành hình cho dân Do Thái và dân ngoại chung hợp với nhau. Vị Giuse này là bảo chứng về dòng dõi vua David được nối tiếp trong lịch sử dân Do Thái. Vì Ông có nguồn gốc gia phả từ dòng dõi vua David (Mt 1,1.20 2,6). Và như thế Chúa Giêsu cũng là miêu duệ thuộc dòng dõi vua David, người đã thành lập nước Israel.
7. Cả hai Giuse cùng có thời gian sinh sống bên Ai Cập, tuy Giuse thành Nazareth ở ngắn thời gian hơn. Con đường sang sinh sống bên Ai Cập của cả hai không chỉ là sự sống còn của riêng bản thân họ, nhưng còn cho cả gia đình , phải cho sự cứu độ dân Israel và toàn nhân loại.
Giuse Ai Cập cứu đói cho dòng tộc gia đình con Tổ phụ Giacop
Giuse thành Nazareth cứu trẻ Giêsu bị tìm lùng bắt.
8. Cả hai lịch sử đời sống của Giuse đều có vua đóng vai trò chủ chốt. Một bên vua Pharo Ai Cập là hình nảnh tích cực tốt đẹp với Giuse Ai cập. Vua đã tin tưởng phong cho Giuse làm quan Tể Tướng về phương diện chính trị cai trị nước Ai Cập.
Đối diện là Vua Herode là một hình ảnh tiêu cực đen tối. Vua vì ghen tức, lo sợ cho uy quyền ngai vàng của mình, mà truy lùng bắt giết trẻ Giêsu cùng các trẻ con cùng thời tuổi với trẻ Giêsu. Và vị vua trẻ Pharo của Ai Cập thời hậu Giuse Ai cập cũng là một hình ảnh tiêu cực đen tối. Chính vị vua trẻ Pharao này đã kỳ thị hành hạ người Israel sinh sống bên Ai Cập. Và do đó dẫn đến lịch sử xuất hành của dân Do Thái từ Ai Cập trở về quê hương Do Thái.
9. Giuse thành Nazareth thời tân ước theo lời Thiên Thần truyền đã đặt tên cho con trẻ sinh bởi mẹ Maria là Giesu. Tên Giêsu có sự phù hợp với tên Josua. Theo văn hóa Do Thái tiếng Hylạp không phải là sự tương tự giống nhau, nhưng là cùng một tên.
Theo bản dịch Kinh Thánh Septuaginta - bản Bảy mươi - tên Josua quan trọng. Tên Iesous và sách Josua cũng gọi phù hợp như vậy. Josua trong lịch sử của Giuse Ai Cập đóng vai trò lớn. Josua là người đã chôn cất Giuse Ai Cập ở Sichem (Sách Josua 24,32), sau khi dân Israel đã đưa hài cốt Giuse từ Ai Cập trở về quê hương Israel.
Ngôi mộ Giuse Ai Cập hiện ở vùng Samaria bên dưới ngọn núi Garizim, gần giếng nước Giacop, nơi Chúa Giêsu gặp gỡ nói chuyện với một chị phụ nữ người Samaria. Giếng nước Giacop hiện nằm trong đền thờ Chính Thống giáo, được gìn giữ bảo quản cẩn thận. Khách hành hương có thể lấy nước từ dưới lòng giếng lên theo cách trục kéo cuốn giây kiểu cổ nhà quê, nhưng lại đượm nét bình dân thi vị thân mật.
Giacop con của Tổ phụ Isaak được Thiên Chúa đổi tên thành Israel (St 33,29). 12 con Ông Israel , trong đó có Giuse Ai Cập, là 12 chi tộc của dân tộc Israel
Và như vậy Giuse và Giosua có mối liên hệ tương quan với nhau chặt chẽ.
10. Sau khi các anh em bán Giuse cho người lái buôn Ismael sang Ai Cập, họ lấy chiếc áo chùng dài tay của Giuse nhúng thấm máu con dê rồi đem về cho Tổ phụ Giacop và nói là Giuse đã bi thú dữ ăn thịt. Họ chỉ còn tìm thấy chiếc áo dính máu của Giuse mang về đây. (St 37, 28-33).
Sau khi Chúa Giêsu bị đóng định trên thập gía, những người lính có nhiệm vụ canh gác nơi đó cũng lấy chiếc áo dài chùng của Chúa Giêsu bắt thăm chia nhau. (Ga 19, 23-24).
Áo của Giuse Ai Cập dính máu chiên dê đã đưa Ông sang sinh sống bên Ai Cập và sau đó cứu dân Ai Cập và gia tộc Giacop khỏi cảnh chết đói.
Áo của Chúa Giêsu con Giuse thành Nazareth thấm dính máu của Người trên con đường vác thập gía bị hành hạ và đã chết trên thập gía. Nhưng Ngài không dừng ở lại mãi trong sự chết. Sau ba ngày Ngài đã sống lại từ cõi chết mang lại sự sống mới cho toàn thể con người khỏi hình phạt tội lỗi.
Như thế có thể suy ra rằng đó là những chiếc áo cứu độ.
12. Ngoài hai vị Giuse trên, còn một nhân vật Giuse nữa không chỉ trong Kinh Thánh, mà còn liên hệ mật thiết với Chúa Giêsu vào giờ phút cuối đời của Chúa Giêsu: Giuse thành Arimathia.
Theo Kinh thánh thuật lại, nhân vật Giuse này là một môn đệ của Chúa Giêsu, nhưng không lộ diện ra mặt công khai, vì sợ người Do Thái. Ông là người Do Thái, một người gầu có, là một trong những Thành Viên của thượng Hội Đồng Do Thái. Nhưng cũng là người có đời sống tốt lành công chính cùng rộng lượng.
Vị Giuse thành Aromathia là người tin Chúa Giêsu là con Thiên Chúa. Và từ xa xa theo dõi vụ án xử Chúa Giêsu, Ông không bằng lòng với phán quyết của Thượng Hội đồng đòi giết Chúa Giêsu.
Không làm sao hơn được, Ông âm thầm chuẩn bị cho cuộc mai táng Chúa Giêsu. Ông đã cho đào sẵn một huyệt mộ gần nơi Chúa Giêsu bị đóng đinh. Khi hay biết Chúa Giesu đã chết, Ông can đảm mạnh dạn đến xin quan Philato cho được tháo xác Chúa Giesu xuống, và tẩm liệm trong tấm khăn vải mới, rồi cùng với Ông Nicodemo xức dầu thơm mai táng thân xác Chúa Giêsu trong huyệt mộ còn mới sẵn có của chính ông (Mt 27,57-60).
////////////////////////////////////////////
Giuse Ai Cập thời cựu ước là người có đời sống công công chính đã có công cứu dân Ai Cập và gia đình dòng tộc Israel khỏi cảnh chết đói.
Giuse Ai cập làm quan chức vị lớn, nhưng đã mang niềm hy vọng cho đời sống ấm no của dân chúng toàn vùng, toàn nước.
Phải chăng đây là hình ảnh báo trước ơn cứu độ sau này vào thời Tân ước Chúa Giêsu mang đến cho con người?
Giuse thành Nazareth là cha nuôi Chúa Giêsu là người có đời sống công chính âm thầm lặng lẽ. Vị Giuse này không để lại một mảy may lời nào. Nhưng Ông lắng nghe những gì Thiên Chúa nói qua ThiênThần, và cứ thế âm thầm làm cho Chúa Giêsu, Đấng cứu thế cứu toàn nhân loại khỏi hình phạt tội lỗi.
Giuse thành Nazareth góp phần tích cực cho niềm hy vọng, cho chương trình ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi mẹ Maria, nơi nhân loại được thể hiện qua việc Ông đảm nhận vai trò là cha nuôi Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, trên trần gian. Ông đến cùng làm việc âm thầm. Và Ông ra đi cũng lặng lẽ. Nhưng trên trời và dưới trần gian thời nào cũng nhắc nhớ đến Ông với lòng cung kính cảm phục biết ơn.
Giuse thành Nazareth đã đóng góp thiết yếu vào việc Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người trên trần gian mang ơn cứu độ cho nhân loại
Giuse thành Arimathia là người vị vọng chức quyền trong xã hội, cũng là người có đời sống công chính, âm thầm lặng lẽ, và có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông đã ra tay tháo gỡ xác Chúa Giêsu từ trên thập gía xuống và an táng với hết lòng thành kính, như lễ an táng một vị Vua, trong huyệt mộ mới của chính Ông đã có sẵn.
Phải chăng Ông Giuse Arimathia đã tẩm liệm Chúa Giesu trong tấm khăn vải mới, rồi mai táng Chúa Giêsu trong ngôi mộ mới là dấu hiệu nói lên, sự sống mới của Chúa Giêu sống lại bừng lên mang lại niềm hy vọng mới cho con người cũng được cứu rỗi?
Lễ kính Thánh Giuse, 19.03.2015
Lm.Daminh Nguyễn ngọc Long
++++++++++++++++
Cảm hứng từ:
-Joseph Ratzinger, Benedikt XVI., JESUS VON NAZARETH II., Herder 2011, 8. Kapitel Kreuzigung Jesu, das Begraebnis Jesu .
- Bibel heute Nr. 173 -2008, Josef - Vater Jesu
- Bibel und Kirche, Josef trifft Josef, 1. Quartal 20015
- Nguyễn tầm Thường, Kẻ đi tìm, Hành hương đất thánh, 34 bài suy niệm viết trên đường đi, C hương 18.Người lo huyệt mộ, 2009
Giọt nước mắt
- Viết bởi TRẦM THIÊN THU
VRNs (15.03.2015) – Sài Gòn -Nước mắt là biểu hiện của nỗi buồn, hiếm khi là biểu hiện của niềm vui như cụ Nguyễn Công Trứ mô tả: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười” (thi phẩm Cây Thông).
Nước mắt nào cũng mặn, nhưng có nhiều loại nước mắt. Loại nước mắt bị người ta ghét nhất là “nước mắt cá sấu”. Loại nước mắt bị ghét nhất mà lại thường thấy nhiều nhất! Vậy người ta thích loại nước mắt nào? Chắc hẳn loại nước mắt người ta thích là “nước mắt thật lòng” – dù buồn lắm.
Trong nhạc phẩm “Giọt Nước Mắt Ngà”, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đã mô tả: “Em đứng bên sông buồn, nhìn cuộc tình trôi qua và lòng người phôi pha. Trên hai đóa môi hồng, nụ cười đã đi xa, ôi giọt nước mắt nào cho cuộc tình đầu…”. Ở đây là loại tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu cho các loại tình yêu khác. Nước mắt thật lòng luôn buồn, y như người ta vẫn nói: “Sự thật hay mất lòng”. “Giọt Nước Mắt Ngà” của ông Ngô Thụy Miên cũng buồn lắm, dù quý lắm, nhưng giọt nước mắt đó đã hướng thượng: “Anh đi về dấu giáo đường, cho cuộc tình bay cao, cho lòng mình xôn xao…”. Màu buồn mà vẫn đẹp, sắc tím mà vẫn lung linh.
Chúa Giêsu cũng đã từng khóc. Ngài xúc động tới ba lần trước cái chết của anh bạn Ladarô. Khi thấy cô Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến (Ga 11:33), đó là lần thứ nhất. Ngài khóc lần thứ hai khi đi đến mộ Ladarô (Ga 11:35). Người Do Thái thấy vậy liền nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”. Khi nghe người ta đặt vấn đề rằng Ngài chữa khỏi chứng mù mà sao lại không thể làm cho Ladarô khỏi chết. Thế là Ngài lại thổn thức trong lòng (Ga 11:38), tức là Ngài khóc lần thứ ba.
Sinh ra ai cũng khóc. Khóc vì “tiên tri” rằng đời là bể khổ, hay là khóc cần thiết cho cuộc sống? Phần cứng được cài đặt sẵn trong máy vi tính là có dụng ý của nhà chế tạo. Nước mắt cũng vậy, chắc hẳn có dụng ý mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xin Chúa cất khỏi chén đắng mà không được, rồi vẫn phải bị te tua tơi tả cho đến chết thê thảm. Và chính Chúa Giêsu cũng đã phải khóc nhiều lần, buồn não lòng, “buồn đến chết được” (Mt 26:38; Mc 14:34) kia mà!
Samuel Beckett (1906-1989, tiểu thuyết gia, kịch tác gia và thi sĩ Ai-len) có triết lý độc đáo lắm: “Nước mắt của thế gian này luôn bất biến. Nơi này có người bắt đầu khóc thì ở nơi nào đó có một người ngừng rơi lệ. Với tiếng cười cũng vậy”. Tính liên đới rất lạ!
Thật dễ để dùng vạt áo lau khô những giọt lệ, nhưng rất khó để có thể xóa sạch dấu vết nước mắt khỏi trái tim mình. Tuy nhiên, nước mắt lại chính là ngôn ngữ bí ẩn của trái tim, không thể diễn tả được. Vì thế, chúng ta phải cố gắng để có thể biết cách nhìn lại những giọt nước mắt để chúng ta có thể mỉm cười, nhưng đừng bao giờ nhìn lại những nụ cười vì chắc chắn chúng ta sẽ bật khóc.
Nước mắt tốt cho thị lực, và cũng có lợi cho tinh thần. Nước mắt có thể làm trôi đi nhiều thứ, kể cả tội lỗi. Chúng ta phải khóc nhiều vì tội nhiều, phải khóc cả đời, thế mà vẫn không sạch hết tội.
Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (2 Sb 36:14-16). Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ!
Kinh Thánh cho biết thêm: “Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn” (2 Sb 36:19-21). Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử.
Đó là lịch sử đời thường, cũng như lịch sử ngày nay, mọi sự vẫn diễn biến, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện hữu và luôn theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, “Chúa có mặt trong lịch sử loài người, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi” (*). Một sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) đã xác định: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là niềm tin. Và chính nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này đều có thể tồn tại và chuyển động”.
Cuộc sống có ba thời (thì) chính: Quá khứ, hiện tại, và tương lai. Mỗi người cũng có ba thời như vậy, nhưng mà quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, chúng ta chỉ còn hiện tại. Như vậy, chúng ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên hôm qua đi, nó có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta cũng chẳng làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể “rút ra” được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm nay, và để hướng tới tương lai.
Kinh Thánh hướng về tương lai: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23). Thiên Chúa cũng đang mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh này. Càng dứt khoát càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi càng có lợi.
Trong thời gian lưu đày, tác giả Thánh Vịnh đã than thở: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3). Đang khóc làm sao cười được, đang buồn làm sao vui nổi! Thế mà ngày nay người ta lại có dạng “khóc thuê”, cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ “khấn thuê”, “dâng lễ vật thuê”,… Thần linh cũng đành “bó tay” thôi!
Tác giả Thánh Vịnh than thở: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn” (Tv 137:4-6). Khi buồn, người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc thôi. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Nhìn họ rất tĩnh mà lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đến nỗi đã “cô đọng” thành sự tĩnh lặng, bất động!
Cuộc đời là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Nếu không có niềm tin, người ta sẽ chết. Quả thật, đã có nhiều người tuyệt vọng trong đau khổ nên đã tự kết liễu đời mình – ở đây không đề cập những người gây tội ác rồi tìm đến cái chết để “chạy trốn”.
Vâng, rất đau khổ nhưng cũng rất hạnh phúc, vì chúng ta còn may mắn lắm. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:4-6). Tất cả là hồng ân, chứ chúng ta có làm được gì, dù có kỳ diệu đến mức nào, cũng chỉ là con số không thật to mà thôi. Đừng bao giờ ảo tưởng về “cái tôi” tồi tệ của mình!
Thánh Phaolô giải thích tỉ mỉ và nhấn mạnh: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:7-10). Mỗi người được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để làm sáng danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu phàm nhân, thế nên chúng ta khen người này, chê người kia, không ưa người nọ,… Đừng áp đặt Thiên Chúa theo ý mình!
Ai cũng có nỗi khổ riêng, với loại nước mắt riêng. Nhưng đau khổ và nước mắt đều có giá trị. Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3:14-15). Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội nhân chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:16-18).
Muốn hết khổ, chỉ có cách duy nhất là “đi xuyên qua đau khổ”; muốn nhẹ lòng, chỉ còn biết khóc. Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Thật vậy, trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã nói với các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho phận mình và con cháu (Lc 23:28).
Thánh sử Gioan cho biết: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:19-21). Những lời này quá rõ ràng!
Để được Thiên Chúa xót thương, chúng ta phải chân thành ăn năn; việc ăn năn được thể hiện qua động thái KHÓC, khóc thật lòng. Chúng ta hãy cùng tác giả Thánh Vịnh thân thưa: “Lạy Chúa, xin nghe lời con nguyện cầu, tiếng con kêu cứu, xin Ngài lắng tai nghe. Con khóc lóc, xin đừng làm ngơ giả điếc, vì con là thân khách trọ nhà Ngài, phận lữ hành như hết thảy cha ông” (Tv 39:13). Biết khóc thì chúng ta chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ. Chính Ngài sẽ cứu chúng ta thoát khỏi nỗi buồn bằng cách “lau sạch nước mắt” (Kh 7:17; Kh 21:4).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết thật lòng khóc cho tội mình, thương cho phận mình và yêu tha nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn cùng Máu Thánh của Chúa Giêsu, vì Nước Mắt của Đức Mẹ, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế giới và cứu chúng con, các tội nhân của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử của cố NS Hùng Lân: https://www.youtube.com/watch?v=VpUzr0Tli78
Nguồn: DCCT