Hình ảnh „Đức mẹ phù hộ các giáo hữu“
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ hơn một năm nay ( từ 2020) nhân loai trên khắp thế giới sống trong cơn khủng hoảng lo sợ, vì bị bệnh đại dịch do vị trùng Corona lây lan đe doạ sức khỏe đời sống, khiến mọi sinh hoạt đời sống bị tê liệt đình trệ .
Ngoài các chương trình biện pháp luật lệ vệ sinh y tế phải tuân giữ để ngăn ngừa phòng chống vi trùng xâm nhập truyền nhiễm gây bệnh nạn tử vong do chính phủ đề ra, các tôn giáo cũng kêu mời mọi tín hữu đọc kinh cầu nguyện xin Thiên Chúa, xin Thượng Đế, Đấng tối cao, chúc phúc lành ban bằng an hồn xác cho con người mau thoát khỏi cơn khủng hoảng đại dịch lúc này.
Người Công gíao cúi đầu chắp đôi tay hướng lên Thiên Chúa, nguồn đời sống cùng sự bình an, với niềm cậy trông xin nhờ lời bầu cử của Đức mẹ Maria, của các Thánh, dủ lòng thương cứu giúp ban ân đức chữa lành cho con người trong hoàn cảnh khủng hoảng lo âu bị đe dọa lúc này.
Giáo Hội Công giáo hằng năm có tập tục đạo đức dành tháng Năm, còn gọi là tháng hoa, kính Đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa. Xưa nay trong dòng thời gian lịch sử đời sống Giáo hội, nơi các xứ đạo đều có cung cách mừng kính Đức Mẹ tháng Năm tuỳ theo văn hoá tập tục mỗi nơi, mỗi thời đại.
Tập tục đạo đức tháng Năm kính Đức Mẹ trong Hội Thánh Công giáo có từ thời Trung cổ. Từ thế kỷ thứ 17. tập tục đạo đức này được phát triển quảng bá rộng rãi khắp Âu châu và sang các châu lục khác.
Dựa vào nhịp sống thiên nhiên vào tháng Năm cây cối phát triển hoa lá nở rộ xanh tươi mang lại không khí niềm vui. Nên Đức mẹ Maria được tôn kính là hình ảnh biểu tượng cho tháng Năm.
Những nụ hoa và bông hoa nở tươi thắm diễn tả hình ảnh Đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa, là người được Thiên Chúa chúc phúc ban cho tràn đầy ân sủng. Vì thế Mẹ Maria được ca tụng hát khen là „ nhánh hoa tươi xinh đẹp „ như lời bài thánh ca diễn tả „ Mùa hoa về rồi muôn hoa xinh con hái dâng Mẹ. Mùa hoa về rồi muôn hương thơm bay trước nhan Mẹ.“( Sơ Trầm Hương)
Cung cách lòng sùng kính thể hiện với việc rước kiệu, lần hạt mân côi ca hát làm giờ thánh và dâng thánh lễ mừng kính Đức Mẹ Maria. Đức Thánh giáo hoàng Phaolô VI. ngày 01.05.1965 đã viết thông điệp „ Mense Maio“ kêu mời mọi người tín hữu Chúa Kitô đọc kinh cầu nguyện xin ơn phù trợ giúp đỡ nhờ lời bầu cử của Đức Mẹ trong cơn khủng hoảng khốn khó bị đe doạ mà thế giới đang vướng phải.
Và năm nay 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi mọi người trong tháng Năm kính Đức mẹ Maria, đọc kinh lần hạt xin Đức mẹ phù hộ bầu cử cùng Thiên Chúa cho nhân loại mau thoát khỏi cơn khủng hoảng đại dịch do vi trùng Corona gây ra, đang đe dọa tàn phá kinh hoàng sức khoẻ đời sống con người trên thế giới
Xưa nay người tín hữu Chúa Kitô ngoài lần hạt đọc kinh mân côi, còn đọc kinh cầu Đức mẹ Maria. Trong kinh cầu có câu ca tụng kêu xin “ Auxilium Christianorum- Đức mẹ phù hộ các giáo hữu“.
Đức mẹ Maria là người phù trợ giúp đỡ, và là người mẹ của dân Thiên Chúa. Đức Mẹ Maria, người mẹ đã hạ sinh nuôi dưỡng Chúa Giêsu Kitô khi xưa ở trên trần gian. Và Chúa Giêsu từ trên thập gía trước khi qua đời đã nói với Thánh Gioan „ Đây là mẹ con“ đã xác quyết mầu nhiệm này, cùng nhấn mạnh điều này đã thành hiện thực, từ khi Chúa Giêsu nhập thể xuống thế làm người trong cung lòng đức mẹ Maria.
Đức mẹ Maria là người mẹ sinh thành nuôi dưỡng Chúa Giêsu Kitô, suốt dọc con đường đời sống Chúa Giêsu Kitô trên trần gian bên nước Do Thái, đức mẹ Maria đã luôn theo sát cùng đồng hành với Chúa Giêsu. Nên bây giờ trên trời cao, Đức mẹ cũng đồng hành trợ giúp theo cung cách tình mẫu tử thiêng liêng cho Giáo hội Chúa, cho người tín hữu Chúa Giêsu Kitô,.
Vì thế trong những giai đoạn đường đời gặp khủng hoảng khốn khó, Giáo Hội và dân Chúa luôn hằng ca tụng tôn vinh kêu xin với tâm tình lòng tin tưởng cậy trông “ Auxilium Christianorum- Đức mẹ phù hộ các giáo hữu- Cầu cho chúng con“.
Hằng năm ngày Chúa nhật thứ hai của tháng Năm, theo tập tục văn hóa xã hội của một số quốc gia đất nước trên thế giới, bên Âu châu, là ngày tưởng nhớ đến những người mẹ trần gian, có danh xưng ngày nhớ ơn mẹ hay ngày hiền mẫu.
Nhớ đến những người mẹ với tâm tình lòng yêu mến, biết ơn tình mẫu tử công đức sinh thành dưỡng dục, mà người mẹ đã ban tặng cho các người con gia đình.
Người mẹ không là người tạo dựng nên sự sống, hình hài thân xác, trí khôn, ý chí con mình. Nhưng người mẹ đã được Thiên Chúa trao ban cho khả năng sinh con, trách nhiệm lo lắng dưỡng dục nuôi người con phần thân xác cũng như đào tạo giáo dục uốn nắn tinh thần con mình.
Người mẹ không nặn đúc ra con mình. Nhưng người mẹ đón nhận hình hài thân xác sự sống con mình từ trời cao ban, như ân đức phúc lộc cho người mẹ.
Một phần đời sống thân thể cũng như tính tình tập quán của người con có gốc rễ máu mủ từ người mẹ .
Một người mẹ, sau quãng đường hành trình trên trần gian, đã ra đi từ gĩa cuộc sống trở về với Thiên Chúa, nguồn đời sống. Bà ra đi để lại khoảng trống nỗi đau buổn thương nhớ cho các con cháu gia đình. Trong dòng nước mắt đau buồn thương nhớ, các người con ngày từ gĩa tiễn đưa mẹ mình, đã có tâm tình bên cỗ áo quan mẹ mình:
„Thưa Mẹ yêu qúi đời chúng con,
Dù trái đất có thay đổi hình dạng.
Dù cuộc đời có hàng vạn đau thương.
Dù đi đâu trên khắp mọi nẻo đường.
Mẹ mãi là người chúng con và các cháu yêu mến mẹ nhiều lắm.
Chúng con và các cháu cám ơn mẹ.
Chúng con và các cháu xin lỗi mẹ…“
Cơn khủng hỏang đại dịch đe dọa sức khoẻ đời sống nhân loại từ hơn một năm qua, đã cướp đi mạng sống của hàng triệu người trên thế giới, mà trong đó có nhiều người mẹ đã sinh thành nuôi dưỡng những người con nên người khôn lớn ở đời.
Và trong số những người mẹ đã qua đời đó chắc chắn cũng có nhiều người mẹ xưa nay đã từng với các Cộng đoàn Công giáo Việt Nam ở Âu Châu từ 2007- 2019 hằng năm vào „Ngày nhớ ơn mẹ“ cùng chung hành hương đến dòng suối nước Đức mẹ Banneux bên Vương quốc Bỉ, rước kiệu, dâng thánh lễ cầu xin khấn nguyện cho các người con gia đình mình.
Giờ đây họ đã theo tiếng Thiên Chúa kêu gọi, sau quãng đường hành trình trên trần gian, trở về quê hương trên trời thành người thiên cổ, thành người nguyện cầu phù hộ trước ngai tòa Chúa cho gia đình con cháu mình còn trên trần gian.
Ngày „ Nhớ ơn mẹ“ năm 2020 và năm nay 2021, vì tình trạng đại dịch vi trùng Corona hoành hành đe dọa sức khoẻ đời sống con người, nên chúng ta không thể tiếp tục được tập tục sống đức tin hành hương sang dòng suối nước Đức Mẹ Banneux như những năm trước.
Thật rất đau buồn và nhớ nhung mãi. Và hằng cầu xin mong mỏi, khi điều kiện y tế an ninh trở lại bình thường, không còn bị vi trùng bệnh dịch đe dọa nữa, sẽ lại cùng nhau làm sống lại tập tục đạo đức hành
hương sang bên dòng suối nước Đức mẹ Banneux, như đã sống tập tục đạo đức này từ hơn một thập niên qua.
Xin dâng lời kinh Vực sâu cầu nguyện tưởng nhớ đến tất cả những người qua đời trong mùa đại dịch vi trùng Corona. Chúng ta không quên họ. Và vong linh hồn họ trên trời cao ở bên kia thế giới cũng không quên chúng ta.
Xin tưởng nhớ đến những người mẹ đã đi về thế giới bên kia, với lòng nghẹn ngào đau buồn nhớ thương, cùng lòng ăn năn xin tạ lỗi, vì những lỗi lầm thiếu xót ngày xưa đã làm mẹ đau khổ thất vọng buồn phiền!
Xin tưởng nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của những người mẹ đang chăm lo việc bổn phận tình mẫu tử cho con cháu trên trần gian, với lòng hiếu thảo biết ơn cùng trong vui mừng hạnh phúc.
Xin dâng lên Thiên Chúa nguồn tình yêu thương, nguồn ơn chữa lành, nhờ lời bầu cử của Đức mẹ Banneux lời nguyện cầu xin ơn phù hộ chúc phúc lành cho các người mẹ trần gian được bằng an khoẻ mạnh hồn xác, và niềm vui trong trách nhiệm nuôi dưỡng giáo dục các người con hôm qua, hôm nay và ngày mai.
„ Auxilium Christianorum- Đức mẹ phù hộ các giáo hữu“
Cầu cho chúng con và các người mẹ!
Ngày nhớ ơn mẹ, 09.05.2021
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh „ salus infimorum- Đức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn.“
- Viết bởi Dân Chúa
Trước tình hình nạn đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa tàn phá sức khoẻ cùng sinh hoạt đời sống nhân lọai từ hơn một nay, Đức thánh cha Phanxicô kêu gọi trong Tháng Năm năm nay 2021, tháng kính Đức mẹ, cùng “Marathon cầu nguyện” đọc kinh Mân Côi với chủ đề: “Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết” (Cv 12,5).
Xin Đức Mẹ Maria phù hộ bầu cử cùng Chúa cứu chữa cho cơn khủng hoảng đại dịch sớm chấn dứt, để đời sống xã hội được phục hổi trở lại, con người có công ăn việc làm xây dựng phát triển đời sống, trẻ em bạn trẻ đi học hành trở lại gây dựng đời sống tương lai, đời sống tinh thần văn hóa, nhất là đạo giáo, không chìm xuống bị đẩy vào lơ là quên lãng…
Xưa nay khi cầu nguyện, người tín hữu Chúa Kitô hướng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa, nguồn mọi chúc phúc lành ân đức. Họ than thở trình bày những tâm tư ước muốn, những khó khăn trong đời sống đang vướng mắc gặp phải. Họ đọc kinh Mân côi chung nhau thành tiếng, hoặc một mình âm thầm. Và còn đọc kinh cầu Đức Bà, đặc biệt trong tháng kính đức mẹ Maria.
Trong kinh cầu có câu ca tụng cầu xin: „ Salus infimorum- Đức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn“.
Tại sao lại xưng tụng đức mẹ Maria như thế?
Ở trung tâm đền thánh Đức mẹ Maria bên Lourdes và bên Banneux hằng ngày có giờ thánh chầu Thánh Thể, và nghi thức chúc lành cho các người bệnh tật.
Bên trung tâm đền thánh Đức Mẹ Fatima chúc lành cho các bệnh nhân vào chiều ngày 12. khai mạc hành hương, và vào sáng ngày 13. sau Thánh Lễ hành hương hàng tháng.
Chúc lành cho các bệnh nhân hiện diện đến tham dự hành hương ở những nơi đó, vị chủ tế cầm rước Mặt nhật hào quang có Tấm bánh Thánh Thể Mình Thánh Chúa đến ban phép lành cho từng người bệnh nằm trên giường, hay ngồi trên ghế.
Cung cách chúc lành này nhắc nhớ đến xưa kia Chúa Giêsu Kitô khi còn sống trên trần gian đã đi xuyên qua các làng mạc tỉnh thành vùng miền nước Do Thái, nhất là vùng miền Galileo rao giảng tình yêu nước Thiên Chúa, đồng thời chúc lành chữa cho lành mạnh trở lại những người bị bệnh đến với Ngài, như trong phúc âm viết thuật lại.
Theo gương sống đó, ở các trung tâm đền thánh hành hương Giáo Hội thi hành nghi thức phụng vụ chúc lành của Chúa cho các bệnh nhân. Và qua chúc lành cầu nguyện nhiều phép lạ chữa lành đã diễn xảy ra ở các nơi đó, nhất là bên Lourdes, mà khoa học ngành y khoa không cắt nghĩa được tại sao.
Những người được „ơn phép lạ“ chữa cho lành bệnh không chỉ nơi phần thân thể, mà quan trọng hơn nơi vết thương trong tâm hồn. Vì lâu nay sống trong lo âu chán nản hoài nghi trầm cảm. Đời sống họ được phục hồi trở lại nơi phần thân xác và trong tâm hồn.
Và thể theo ý muốn của Chúa, những phép lạ chữa cho lành bệnh tật nguyền con người lại thường diễn ra ở những nơi hành hương kính Đức Mẹ Maria, như Lourdes, Banneux…
Vì thế có thể nói được, Thiên Chúa luôn kêu mời con người đến hành hương kính viếng Đức mẹ Maria. Và qua nhờ lời bầu cử phù hộ của Đức mẹ, Chúa chữa lành những vết thương bệnh nạn cho con người.
Đặc biệt hơn nữa dòng suối nước Đức mẹ Lourdes, Đức mẹ Banneux là những dòng suối nước linh thiêng nhiệm mầu, nơi tuôn chảy nguồn ơn mang lại sự chữa lành cho thân xác cùng tâm hồn tinh thần.
Bên Lourdes, Đức mẹ Maria đã hiện ra với chị Bernadette trong hang động, nơi có dòng suối nước chẩy ra. Vì thế, từ ngày đó 1858 mọi người đến đây đều đi vào hang đá có suối nước chẩy ra, họ dùng bàn tay múc kín nước xin ơn chữa lành, sự trong sạch cho tâm hồn.
Và ờ bên Banneux, khi hiện ra với cô bé Beco, Đức mẹ dẫn cô tới dòng suối nước bên vệ đường và nói: „ Dòng nước này cho mọi dân tộc“ Mariette Beco nhắc lại“ Cho tất cả mọi dân tộc, mang lại sự yên ủi cho người đau bệnh, cho những người bị bệnh tật.“.
Vì thế từ ngày đó 1933, khi đến hành hương nơi đây, ai cũng đến dòng suối nước này nhúng tay vào dòng suối nước cầu nguyện xin ơn chữa lành, sự tươi mát trong lành cho tâm hồn.
Dân Thiên Chúa đang trên đường lữ hành trần gian qua cung cách sống đạo với tâm tình niềm tin tế nhị nhạy bén đó đã làm chứng nói lên, khi được Đức Mẹ phù hộ bầu cử cùng Chúa ban cho ơn chữa lành khỏi đau bệnh, hay lúc gặp thử thách khốn khó. Và từ đó nảy sinh lòng sùng kính Đức mẹ Maria, người phù hộ „ salus infimorum- Đức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn“.
Vẫn biết các bệnh tật đều mang đến hậu qủa làm cho đời sống bị yếu kém đi, và sau cùng đưa đến sự chết chấm dứt đời sống trên trần gian.
Sự chết là kết qủa của tội tổ tông do Ông Bà Adong Evà, những con người đầu tiên, đã vi phạm chống lại giới luật của Thiên Chúa, Đấng tạo dựng sinh thành ra vũ trụ, sự sống mọi loài cùng con người.
Và bệnh tật là hậu qủa kéo theo của tội tổ tông gây ra.ảnh hưởng tới mọi thế hệ con người. ( Sách Sáng Thế 3, 16-20)
Chúa Giêsu Kitô qua sự sống từ cõi chết lại đã xuay chiều chế ngự thống trị bẻ gãy sự chết. Ngài ban tặng sự sống đời đời cho nhân lọai.
Sự chữa lành mà Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện khi xưa trên trần gian, cũng như bây giờ ban sự chữa lành diễn xảy ra cho những người nào đó, là những hình ảnh tiên báo về thế giới tương lai, nơi không có sự đau khổ bệnh tật và sự chết nữa.
Ơn chữa lành bệnh nạn của Chúa ban cho nhờ lời cầu bầu của Đức mẹ Maria nói lên cách thế con đường của Thiên Chúa thực hiện. Vì qua „lời ưng thuận xin vâng“ của Đức mẹ Maria ngày xưa đã khai mở cho Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người, trở thành hiện thực mang lại chan chứa ân phúc chúc lành của Thiên Chúa cho trần gian.
Thiên Chúa không quên „lời ưng thuận xin vâng“ của Đức mẹ Maria ngày xưa. Nên con người được phép nói lên rằng lời bầu cử của Đức mẹ có gía trị cao qúi nơi Thiên Chúa, nhất là lời bầu cử đó xin mang đến sự bình an chữa lành cho con người trong hoàn cảnh đau khổ bệnh tật.
Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian để phá hủy hậu qủa của tội tổ tông mang lại sự bình an chữa lành cho con người. Đó là phần vụ sứ mạng của Chúa Giêsu Kitô, Đấng là con Thiên Chúa, và cũng là con của Đức Mẹ Maria khi xưa trên trần gian, cùng cho cả ngày hôm nay.
„ Salus infimorum- Đức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn.“ - Cầu cho chúng con.
Tháng Năm kính Đức mẹ Maria.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh các vị Giuse, những người có lòng nhân hậu
- Viết bởi Dân Chúa
Trong cuộc đời Chúa Giêsu ở trần gian ngày xưa có ba Ông Giuse là những người có liên quan mật thiết với đời sống của ngài.
Ông Giuse, con Tổ phụ Giacóp, vị Thủ tướng nước Aicập thời Vua Pharao. Ông có trước Chúa Giêsu hàng ngàn năm cũng thuộc dòng tộc Chúa Giêsu theo gia phả, như thánh sử Mattheo viết thuật lại ( Mt 1,1-17)
Ông Giuse, người Nazareth, được Thiên Chúa tuyển chọn kêu gọi là cha nuôi Chúa Giêsu.
Và Ông Giuse thành Arimathia, người tin theo Chúa Giêsu âm thầm kín đáo. Và sau cùng là „ người lo huyệt mộ“ Chúa Giêsu.( Nguyễn tầm Thường, Kẻ đi tìm, tr. 204).
Ba vị Giuse được Thiên Chúa sắp đặt cho cuộc đời Chúa Giêsu với những đức tính nhân đức anh hùng vào những giai đoạn khác nhau.
Ông Giuse, vị Thủ tướng
Theo Kinh Thánh Cựu ước nơi sách Sáng Thế thuật lại, vị Giuse này sinh ra vào lúc tuổi gìa xế chiều của cha ông là Tổ phụ Giacóp. Nên Ông được Giacóp yêu thương cưng chiều hơn các anh em khác.
Nhưng cuộc đời của vị Giuse này ngay lúc còn trẻ đã gặp phải sự cố nguy hiểm bị anh em bắt bán sang xứ Aicập cho những người lái buôn làm nô lệ. Thế là ông phải sống cảnh tha hương như mồ côi xa cách cha mẹ, anh em, và còn phải làm việc phục dịch như nô lệ hầu hạ người khác xa lạ, rồi còn phải chịu cảnh tù tội trong lao tù.
Nhưng từ ngõ bí đường cùng Thiên Chúa đã sắp đặt con đường đời sống cho Ông cách khác biệt và còn tuyệt hảo nữa. Thiên Chúa đã ban cho Giuse đời sống trí khôn thông minh khác thường.
Lúc còn ở nhà với cha mẹ, anh em, Ông đã có lần kể cho anh em - gia đình Giacóp có tất cả 12 người con - về một giấc mơ bó lúa của ông đứng ở giữa xung quanh là những bó lúa của các anh em nghiêng sụp lạy. Chỉ vì giấc mơ bó lúa đó mà ông bị anh em ghen tỵ thù ghét toan tính hãm hại giết khi Giuse đi đến thăm họ. Nhưng sau cùng qua sự can thiệp của người anh Giuda nên ông được cứu sống, Và bị bán sang Aicập làm đầy tớ phục dịch làm việc như người nô lệ trong đền vua Pharao.
Đời sống phục vụ và công chính của Giuse đã dẫn đưa ông gặp sự cố lần nữa bị hàm oan giam cầm trong lao tù. Nhưng cũng chính trong lao tù với cung cách sống chính trực cùng với trí thông minh trời ban cho, Giuse đã gây được thiện cảm và rất có uy tín với quan cai tù.
Nhà Vua Pharao có giấc mơ khiến Vua lo nghĩ, mà không ai trong triều đình giải thích cắt nghĩa rõ ràng cho Vua. Nghe biết thế, vị cai tù này đã đề bạt tiến đưa Giuse đến trình diện, để cắt nghĩa giải thích về giấc mơ của Vua.
Nghe Giuse giải thích cắt nghĩa, nhà Vua như tìm được con đường lối đi thoát ra khỏi cảnh lo âu. Nhà Vua tin tưởng Giuse cắt đặt làm Thủ tướng nước Aicập, thay Vua lo việc kinh bang tế thế cho dân.
Được tin tưởng trao trọng trách, Giuse người có đời sống công chính và lòng nhân đạo, đã làm việc theo phương châm: „Tích cốc phòng cơ. Tích y phòng hàn!“.
Thời kỳ 7 năm được mùa bội thu liên tiếp, Thủ tướng Giuse truyền cho tích luỹ lúa gạo vào kho dự trữ. Thời kỳ 7 năm sau đó bị mất mùa thất thu. Vị Thủ tướng Giuse đã cho phép lấy lúa gạo trong kho bán phát cho dân ăn giúp thoát khỏi cảnh đói thiếu thực phẩm lúa gạo.
Cảnh thất thu mất mùa dẫn đến đói kém không chỉ ở trong nước Ai Cập lúc đó. Nhưng còn xảy ra cả ở vùng quê nhà của Giuse bên nước Do Thái nữa. Anh em Giuse ngày xưa đã bán ông sang Aicập, trong cảnh mất mùa đói kém đã tìm đường sang Aicập xin mua thóc lúa. Khi gặp lại họ, vị thủ tướng Giuse đã nhận ra anh em ruột thịt của mình ngày xưa đã bán mình đi làm nô lệ.
Nhưng Giuse không nghĩ đến oán hận ngày xưa. Trái lại Ông tìm cách giúp đỡ cứu giúp gia đình anh em mình, mong gặp lại người cha gìa yêu kính Tổ phụ Giacop. Như thế, Giuse đã sống lòng nhân hậu hiếu thảo của một người con, của một người có quyền thế chức trọng không chỉ cứu gia đình khỏi nạn đói, và còn đoàn tụ gia đình gia tộc lại được với nhau.
Vị Thủ tướng Giuse đã sống, như Chúa Giêsu sau này đã trong bản hiến chương nước trời Tám mối phúc thật đề ra“ Cho kẻ đói ăn“.( Mt 5, 1-12 - Kinh thương người có 14 mối, thương xác bảy mối)
Có lẽ cung cách lối sống lòng nhân hậu thương người của Giuse ngày xưa bên Aicập cho toàn dân lúc bị đói kém đã có ảnh hưởng sâu đậm tới bài gỉang Tám mối thật của Chúa Giêsu, và trong dụ ngôn ngày phán xét chung Chúa Giêsu đã nhấn mạnh nói đến lòng nhân hậu: Mỗi khi anh em cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống là anh em làm cho chính Ta.( Mt 25, 31-46).
Vị Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu
Ông Thánh Giuse người Nazareth được Thiên Chúa tuyển chọn làm cha nuôi Chúa Giêsu trên trần gian là người thuộc dòng tộc gia phả của Tổ phụ Giacóp và Giuse , vị thủ tướng nước Aicập ngày xưa.
Giuse người Nazareth là người có nếp sống của một người chăm chỉ làm việc chân tay để mưu sinh., như Kinh thánh thuật lại.
Được Thiên Chúa qua Thiên Thần hiện đến báo mộng cho biết phải làm trưởng gia đình của đức mẹ Maria và Chúa Giêsu, Giuse không thắc mắc và đã âm thầm nghe theo.
Giuse nhận trách nhiệm do thánh ý Chúa muốn, nhưng Giuse cũng vẫn là một con người như bao người khác. Vậy trong gia đình Giuse đã sống xử sự thế nào?
Kinh thánh thuật lại Giuse là người công chính và có lòng nhân hậu, nên Giuse đã có cung cách sống đối xử thấm đậm tình người.
„ Thực vậy, thánh Giuse đã rất tế nhị với Đức Mẹ Maria, với những người khác và với Thiên Chúa của Ngài.
Đối với Đức Mẹ Maria, thánh Giuse đã rất tế nhị một cách khác thường.
Tế nhị của Ngài đối với Đức Maria là quyết tâm bảo vệ danh dự của người mình yêu. Phúc âm kể: “Ông Giuse chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).
Tế nhị của Ngài đối với Đức Maria là đón Đức Maria về nhà mình với lòng tin tưởng và kính trọng đầy yêu thương, sau khi được thiên thần Chúa báo mộng (x. Mt 1,19-24).
Tế nhị của Ngài đối với Đức Maria là đảm đương gánh chịu mọi nhọc nhằn khổ cực, để Đức Maria được an tâm lo cho hài nhi Giêsu trên đường trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13)
Tế nhị của Ngài đối với Đức Maria là tự nguyện lao động vất vả, để đời sống gia đình tại Nagiarét được đầy đủ, đỡ phần nào lo lắng cho Đức Mẹ (x. Mt 2,19-23).
Sự tế nhị của thánh Giuse đối với Đức Mẹ đã tạo nên cho Đức Mẹ một bầu khí tâm linh an bình hạnh phúc, nhất là trong hoàn cảnh phức tạp khó khăn tăm tối. Sự tế nhị đó của thánh Giuse dạy tôi điều này: Sự thánh thiện và sống đức tin hệ tại rất nhiều ở sự biết tế nhị trong tương quan đối với những người thân của mình. Tế nhị cả trong những sự rất nhỏ bé. Tế nhị ít là ở sự cố gắng đừng làm điều gì gây đau lòng cho họ, hơn nữa cố gắng làm điều gì gây được niềm vui cho họ. Tế nhị như thế trong mọi ngày không phải chuyện dễ. Nhưng thiết tưởng đó chính là sự thánh thiện.
Đối với Đức Mẹ Maria, thánh Giuse rất tế nhị như vừa thấy phần nào. Còn đối với những người khác thì sao? Tôi thấy Ngài vẫn là con người tế nhị.
Tế nhị của thánh Giuse đối với xóm làng là hòa mình và chia sẻ. Ngài hòa mình vào đời sống lao động của xóm nghèo. Ngài chia sẻ nếp sống của nền văn hóa địa phương.
Tế nhị của thánh Giuse đối với dòng tộc là trung thành nhận mình thuộc dòng tộc vua Đavít, nên dù nghèo cũng cứ trở về quê gốc là Belem, để khai tên mình và người bạn trăm năm của mình vào sổ sách Nhà nước (Lc 2,1-5).
Tế nhị của thánh Giuse đối với giáo quyền là tuân giữ cặn kẽ mọi luật lệ về cắt bì, về thanh tẩy cho con, về trẩy hội lên đền thờ Giêrusalem (Lc 2,21-45).
Thánh Giuse là một công dân tốt, và là một giáo dân tốt. Tốt ở chỗ không những giữ đúng luật, mà còn giữ luật với một tâm hồn tế nhị. Tế nhị ở chỗ tỏa ra tấm lòng khiêm tốn hiền hòa qua việc giữ luật. Giữ luật mà tạo nên được một bầu khí xây dựng yêu thương, bình an và liên đới, thì thiết tưởng đó là sự thánh thiện.“ ( Đức Giám mục GB. Bùi Tuần, Bước chân Thánh Giuse trong tế nhị tương quan, 01.07.2015).
Nếp sống tế nhị chú trọng quan tâm đến người khác là biểu hiệu tâm tình nếp sống của người có lòng nhân hậu.
Nếp sống lòng nhân hậu của Giuse đã ảnh hưởng sâu xa nơi Chúa Giêsu. Ảnh hưởng đó phản chiếu nơi dụ ngôn người Samarita nhân hậu, mà Chúa Giêsu đã nói đến khi đi rao giảng nước Thiên Chúa . ( Phúc âm Thánh Luca 10,29-37), cùng nơi dụ ngôn người cha nhân hậu đón người con đi hoang trở về. (Phúc âm Thánh luca 15, 11-32)
Giuse thành Arimathia, „người lo huyệt mộ!“
Hai vị Giuse có liên quan trực tiếp tới đời Chúa Giêsu khi xưa, nhưng lại có đời sống công chính âm thầm và tràn đầy lòng nhân hậu: Thánh Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu, được Kinh Thánh phúc âm chỉ nói đến trong quãng đời thơ ấu Chúa Giêsu ( Mt 1, 18-24, 2, 13-23.
Và Ông Giuse người thành Arimathia chỉ được nói đến vào ngày sau cùng đời Chúa Giêsu với nhiệm vụ lo an táng xác Chúa.( Mt 27,57-60).
Theo Kinh thánh thuật lại vị Giuse thành Arimathia: „là người giầu có, là người lương thiện công chính, là thành viên thế gía trong thượng Hội Đồng. Ông mong đợi Triều đại Thiên Chúa tới. Ông không tán thành quyết định của Thượng Hội Đồng là giết Chúa. Ông mạnh dạn xin Philatô cho tháo xác Chúa. Là người liệm xác Chúa. Là người cho Chúa mượn mộ của mình. Là môn đệ Chúa cách kín đáo vì sợ người Do Thái.“ ( Nguyễn Tầm Thường. Kẻ đi tìm, tr. 207).
Không có sử sách nào viết để lại về thân thế lịch sử của Giuse thành Arimathia. Nhưng Kinh thánh viết thuật lại Ông là môn đệ theo Chúa cách kín đáo.( Phúc âm Thánh Gioan 19,38).
Và như thế Ông có thể đã trực tiếp có lần nghe Chúa Giêsu giảng đạo, hay đã được nghe thuật lại những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm. Vì thế tinh thần giáo lý của Chúa đã âm thầm thấm nhập bén rễ sâu vào tâm hồn đời sống của Ông.
Nên khi chứng kiến giờ phút thảm kịch tang thương sau cùng của Chúa Giêsu bị đóng đinh chết trên thập gía, Ông đã can đảm cùng với Ông Nicodemo, với đức mẹ Maria xin tháo xác Chúa Giêsu xuống, và mang tẩm liệm an táng trong ngôi mộ còn mới chưa chôn cất ai do chính ông đã sắm dọn sẵn.
Ông đã sống thực hành lời Chúa giảng dậy: „Chôn xác kẻ chết“ ( Mt 5, 1-12 - Kinh thương người có 14 mối, thương xác bảy mối)
Ông Giuse người Arimathia đã sống thực hành lời Chúa dạy„ chôn xác kẻ chết“ cho Chúa Giesu. Và qua cung cách lối sống „ nghĩa tử nghĩa tận“ đó, ông đã mang đến an ủi cho Đức Mẹ Maria, cho thân nhân Chúa Giêsu trong cảnh bơ vơ hoang mang lo sợ: „an ủi kẻ âu lo“
Cung cách sống như thế là nếp sống đạo đức của một con người có lòng nhân hậu.
01.05 lễ Thánh Giuse thợ
Năm thánh Thánh Giuse 2020-2021- Trái tim người cha.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh người chăn chiên nhân lành ( Ga 19,11-18)
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Người chăn chiên, hay người mục đồng, là hình ảnh có một qúa khứ lịch sử dài từ thời cổ xưa trong các triều đại văn hóa vua chúa bên vùng Đông phương, vùng Babylon, vùng cận Đông. Nơi đây các vị vua chúa được tôn vinh là những người chăn chiên do Thiên Chúa sai gửi đến. Họ có bổn phận „chăn dắt“ trong công việc cai trị thần dân đất nước.
Sự quan tâm lo lắng cho dân chúng, cho những người yếu kém, nghèo đói thuộc về bổn phận trách nhiệm chăn dắt của vị vua.
Như thế theo ý nghĩa nguyên thủy đó giúp cắt nghĩa làm sáng tỏ ý nghĩa hình ảnh mà Chúa Giêsu Kitô nhận mình là „người chăn chiên nhân lành“ như trong phúc âm thuật lại.
Trước và trong thời Chúa Giêsu Kitô ngày xưa, dân chúng Do Thái đã có Thánh Vịnh cầu nguyện tôn vinh Thiên Chúa là người chăn chiên: “ CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.“ (Tv. 23,1).
Và ngày nay các người tín hữu Chúa Giêsu Kitô cũng vẵn hằng dùng lời Thánh vịnh 23. này cầu nguyện ca tụng Thiên Chúa là người chăn chiên nhân lành hằng lo lắng săn sóc cho đời sống có bình an no đủ.
Lời cầu nguyện chan chứa tâm tình của Thánh vịnh 23. không phải là cung cách sống tiêu cực phó mặc cho số phận. Nhưng là lòng tin tưởng cậy trông. Vì tin tưởng rằng, khả năng con người có giới hạn, cùng trong đời sống có nhiều biến chuyển thay đổi uốn khúclên xuống… Nhưng Thiên Chúa, Đấng là “ người chăn chiên nhân lành“ không bỏ rơi ta một mình. Trái lại Người hằng đồng hành, quan tâm săn sóc chú ý đến đời sống, nhất là khi đời sống gặp khó khăn vướng trở thử thách. Vì con người luôn cần sức lực niềm vui, niềm hy vọng cho đời sống. Sức lực này Thiên Chúa, đấng là “người chăn dắt „ ban cho, theo phương châm „ mình lo Chúa liệu.“
Vì thế lời cầu nguyện của Thánh vịnh bày tỏ: „Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.“ ( Tv 23,4)
Hình ảnh này bình dân, nhưng lại rất thân thương quen thuộc với đời sống con người. Các tín hữu Chúa Kitô xưa nay đã vẽ khắc rất nhiều hình ảnh trình bày Chúa Giêsu là người chăn chiên nhân lành lo cho sự sống đoàn chiên cừu, như hình Chúa Giêsu dẫn đòan chiên cừu đi ăn trên đồng cỏ đi qua những vùng thung lũng đồi núi, như hình Chúa Giêsu vác trên vai con chiên còn non yếu, con chiên bị đau bệnh, Chúa Giêsu đi tìm kiếm được con chiên lạc đàn…
Ngày nay nhất là nơi xã hội kỹ nghệ phát triển hình ảnh người chăn chiên không còn mấy thích hợp với đời sống thực tế nữa, và có khi lại gây ra suy đoán tiêu cực, hiểu sai trái ý nghĩa nữa.
Dẫu vậy hình ảnh đó chứa đựng những khía cạnh ý nghĩa đạo đức thần học. Một trong những khía cạnh ý nghĩa đó phản ảnh nơi mỗi người trong suốt cả đời sống. Đó là trách nhiệm.
Hình ảnh người chăn chiên nói lên trách nhiệm lo cho đoàn chiên được chăm lo cho có bình an mạnh khoẻ no ấm, được gìn giữ bảo vệ trước những nguy hiểm bị đe dọa.
Như thế có thể nói vai trò người chăn chiên cũng được nhìn nhận ra nơi mỗi con người. Vì sớm muộn ai cũng phải có những quyết định cho đời sống mình, như chọn nghề nghiệp, chọn bậc sống, nơi ở… Và như thế họ chịu trách nhiệm cho quyết định đời sống của riêng mình.
Rồi trong suốt dọc con đường đời sống, càng có thêm trách nhiệm cho đời sống, cho gia đình, cho xã hội đất nước, cho bạn bè người quen thân, cho công ăn việc làm trong chiều liên đới tương quan xã hội với con người cùng chung sống…
Con người không ai là sản phẩm của chế tạo nặn đúc từ một phòng thí nghiệm, hay từ một xưởng nhà máy chế biến thành. Nhưng là công trình tạo dựng tác phẩm của Đấng Tạo Hóa, là hình ảnh của Thiên Chúa.
Con người được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá trao cho sinh sống trong công trình vũ trụ thiên nhiên. Được Thiên Chúa chăn dắt lo cho đời sống. Nên con người có trách nhiệm gìn giữ hình ảnh Thiên Chúa nơi bản thân tâm hồn của mình, và cũng có trách nhiệm phải lo gìn giữ bảo vệ công trình ngôi nhà thiên nhiên.
„ ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai.“ * Sáng Thế, 2,15)
Càng ngày nhân loại càng nhận rõ ra hơn trách nhiệm bảo vệ gìn giữ công trình thiên nhiên, gìn giữ bảo vệ sự sống không chỉ của con người, mà cả của các thứ loại cây cối thảo mộc, và những sinh vật bé nhỏ như loài ong bướm, những thú động vật cùng sinh sống trong công trình thiên nhiên.
Con người được Đấng Tạo Hóa sinh thành chăn dắt nuôi dưỡng. Con người cũng có trách nhiệm là người chăn dắt lo cho đời sống của mình, của người khác, cùng những sinh vật trong công trình tạo dựng thiên nhiên.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh mong đợi bình an
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ hơn một nay nhân loại trên thế giới sống trong lo âu khủng hoảng. Vì bệnh đại dịch vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ làm tê liệt ngưng trệ mọi sinh hoạt đời sống. Khoẻ mạnh- bệnh nạn, sống- chết , bình an - khủng hỏang lo sợ… là những hình ảnh thời sự hằng ngày sát gần kề đời sống con người trong lúc này.
Những biện pháp y tế phòng ngừa vi trùng bệnh đại dịch lây lan, như phải đeo khẩu trang bịt kín mũi miệng, đứng ngồi giãn cách xa nhau, siêng năng rửa tay giữ vệ sinh và tiêm chủng chích ngừa, là những việc cấp bách phải chú ý tôn trọng thực hiện.
Sống trong không khí ngột ngạt đời sống bị vi trùng bệnh đại dịch đe dọa trở nên mệt mỏi. Nên con người hơn lúc nào hết hằng mong đợi có được bình an mạnh khoẻ, mau có ngày thoát khỏi cơn khủng hoảng lo sợ này.
Ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm, Đức mẹ Maria, mẹ Chúa Giêsu, các học trò Tông đồ của Chúa Giêsu, các người tin theo Chúa Giêsu cũng đã sống trải qua cảnh lo âu khủng hỏang tương tự như vậy, sau khi Chúa Giêsu bị kết án chết trên thập gía, rồi được mai táng trong mồ mả dưới lòng đất.
Họ sống trong bơ vơ hoang mang lo sợ, một đàng mất Chúa Giêsu, người con, người Thầy, người mình tin yêu, và một đàng khác còn sống trong bất an lo sợ, có thể bị đe dọa theo dõi lúc đó nữa.
Họ sống trong thất vọng buồn đau, bất an. Nên hằng mong sao có được bình an cho đời sống thể xác và tinh thần.
Kinh thánh thuật lại, Chúa Giêsu chỗi dậy sống lại từ cõi người chết. Tin vui mừng cho họ, nhưng quá ngạc nhiên làm sao họ có thể tin nổi! Bất thình lình, trước hết Chúa Kitô phục sinh hiện ra với chị Magdalena, mà chị tưởng là người làm vườn, rồi hiện sau đó ra nhiều lần với các Tông đồ đang khi họ sống tụ tập trong căn nhà khóa kín các cửa. Đây là sự thể qúa ngạc nhiên mà họ không thể nào nghĩ tới được.
Thánh sử Luca thuật lại, Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện ra với các Tông đồ học trò và chúc bình an cho các Ông trong căn nhà đã khóa kín chặt các cửa. Ngài trấn an họ, chỉ cho các ông xem thân xác xương thịt cùng những những vết thương của ngài, còn ăn cá nướng với họ, và chiết giải cho hiểu: "Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh“ ( Phúc âm Thánh Luca 24, 35-48).
Như thế Chúa Giêsu muốn nói: nếu Thiên Chúa muốn, mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp!
Phúc âm thuật lại, vì lo sợ bất an, nên các Tông đồ học trò, các người tin theo của Chúa Giêsu họp nhau cố thủ trong nhà. Buồn sầu lo sợ hoang mng. Nhưng có thể họ đã cùng nhau đọc kinh cầu nguyện chung kêu cầu: Lạy Thiên Chúa nguồn tình yêu thương và sự bình an, chúng con đang sống trong lo sợ khủng hoảng bất an. Nhưng nếu Chúa muốn mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp!
Đang khi những người tin theo Chúa cảm thấy bơ vơ sống trong hoang mang lo sợ, bị bỏ rơi vì mất Thầy Giêsu, bị đe doạ, bất thình lình Chúa Giêsu Kitô phục sinh đi xuyên qua những bức tường ngăn che nhà, mở cửa đã khóa hiện ra giữa họ đang trong cơn lo buồn mệt mỏi. Chắc lúc đó họ hốt hoảng lắm thêm nỗi lo sợ nữa, vì tưởng động đất, hay có ma quái hiện về!!!
Chúa Giêsu Kitô hiểu được tâm trạng đổ nát của họ, nên Người cầu chúc ngay: Bình an cho anh em!
Bình an là điều họ đang mong ước có. Lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu Kitô như đốm lửa niềm hy vọng bừng phát lên chiếu sáng hơi nồng ấm tâm hồn các Tông đồ học trò, các người tin theo ngài. Đốm lửa đó nhỏ thôi. Nhưng có sức sáng soi chiếu giúp tâm trí họ nhìn thấy Thầy mình sống lại với cả thân xác cùng tinh thần tiếng nói, chứ không phải là bóng ma quái.
Lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu Kitô phục sinh củng cố tinh thần họ, xóa tan bóng ma lo âu bất an khủng hoảng đang đè nặng đời sống trái tim tâm hồn họ.
Lời cầu chúc bình an của Chúa Giêsu Kitô phục sinh là trung tâm sứ điệp Chúa phục sinh đã khôi phục lòng xác tin vào Chúa nơi các Tông đồ học trò của Chúa. Và chính họ nhận nhiệm vụ là nhân chứng loan báo tin mừng bình an của Chúa Giêsu Kitô phục sinh cho con người trong Hội Thánh Chúa ở trần gian.
Những người tin theo Chúa Giêsu Kitô từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội cũng đã tiếp nhận ánh sáng đức tin bình an vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Cây nến rửa tội của mọi người chúng ta đã được đốt thắp từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu Kitô phục sinh.
Bình an cần thiết cho đời sống thể xác cũng như tinh thần. Bình an mang đến sự an toàn, sức khoẻ niềm vui cho hôm qua, hôm nay cùng củng cố phát triển hướng về cho ngày mai.
„ Bình an là hình ảnh dấu chỉ hành động của Thiên Chúa, thể hiện vừa nơi sự sáng tạo một vũ trụ có trật tự hài hòa, và vừa nơi sự cứu rỗi cho nhân loại cần đến, mà họ đã bị mất vì tội lỗi. Sự sáng tạo và sự cứu rỗi là chiếc chìa khóa mở cánh cửa sự thông hiểu về ý nghĩa bản thể đời sống con người chúng ta trong vũ trụ.“ ( Đức giáo hòang Benedictô 16.).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hoài nghi của Thánh Tông đồ Toma
- Viết bởi Dân Chúa
Thánh Tông đồ Phero khi được chị Madalena báo tin: Chúa Giêsu Kitô đã sống lại không còn nằm ở trong mộ nữa! Ông liền cùng đi theo ra mộ. Đến nơi ông đi vào ngôi mộ trống bên trong không còn thấy xác người chết nữa. Ông không nói gì chỉ quan sát ghi nhận từng chi tiết những dây băng và tấm khăn đã xác Chúa Giêsu để lại ở vị trí nào. ( Phúc âm Thánh Gioan 20, 1-6)
Đức Tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại với ông cần phải có kiểm chứng cụ thể. Và vì thế ông đã xử sự như ông suy nghĩ.
Không chỉ ông Tông đồ Phero đã có cung cách cùng suy nghĩ như thế về đức tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Nhưng còn có ông Tông đồ Toma nữa.
Khi được các anh em Tông đồ nói cho hay Chúa Giêsu đã sống lại, ông bày tỏ ngay sự hoài nghi : „ Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.“ ( Ga 20, 25).
Vì thế xưa nay trong Hội Thánh, Ông Tông đồ Toma được gọi là kẻ yếu lòng tin.
Có thật như thế không, và qua cung cách sống hoài nghi của Ông như thế có ảnh hưởng gì tới lòng tin vào Chúa của Hội Thánh, của người tín hữu Chúa Giêsu Kitô không?
Xưa nay trong đời sống, người có lối sống lối suy nghĩ hoài nghi thườmg cũng hay bị nhìn cách hoài nghi.
Nhưng hoài nghi do dự không phải là tội theo khía cạnh đạo đức luân lý. Hoài nghi do dự lẽ dĩ nhiên đôi khi gây ra cho người khác cảm giác khó chịu không mấy vui. Vì phải chờ đợi lâu thêm. Nhưng đó không phải là điều không tốt. Trái lại cũng cần thiết nữa. Vì có thời giờ suy nghĩ tìm hiểu cho chín chắn cho kỹ trước khi có quyết định.
Theo khía cạnh khoa học khảo cứu, cung cách hoài nghi do dự cần thiết để tìm hiểu sâu xa hơn có thể dẫn đến những khám phá mới khác nữa còn ẩn dấu.
Trong đời sống đức tin đạo giáo thông thường những điều về đức tin đòi hỏi tình yêu mến lòng chân nhận. Nhưng nếu có hòai nghi do dự cũng không là điều cấm. Vì thế càng ngày Hội Thánh mở rộng cho những nghiên cứu tìm hiểu về lịch sử khoa Kinh Thánh, khoa thần học, tập tục văn hóa cùng các truyền thống để giúp làm trong sáng căn bản điều tin. Và điều này phù hợp với đời sống nhân lọai ngày càng có thêm phát triển tìm hiểu theo cách thức khoa học trong hầu hết mọi lãnh vực đời sống.
Hoài nghi. Nhưng không dừng lại nơi cung cách hoài nghi do dự. Qua thắc mắc tìm hiểu suy nghĩ sẽ dẫn đưa đến nguồn sự thật. Chính nguồn gốc này làm sáng tỏ điều hoài nghi.
Thánh Tồng đồ Toma hoài nghi Chúa Giêsu đã sống lại. Nhưng ông không chối bỏ Chúa Giêsu Thầy mình. Ông chỉ muốn có ánh sáng soi chiếu cho trong sáng rõ ràng để tin.
Cơ hội đã đến cho Ông: Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện đến với Ông bằng thân xác người thật vẫn còn những vết thương trong cuộc khổ nạn nơi chân tay, nơi cạnh sườn Ngài.
Ông Tồng đồ Toma đã nhìn thấy Thấy mình như mình mong muốn nhìn. Ông không còn biết nói sao hơn qua lời tuyên tín thâm sâu: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!“ ( Ga 20,28) .
Thánh Giáo phụ Augustino đã có suy tư về lời tuyên tín này: Toma đã nhìn thấy và có lòng cảm động bùi ngùi. Nhưng niềm tin của Ông vào Chúa chính Ông không nhìn thấy cùng không cảm nhận ra. Điều Ông nhìn thấy và cảm động bùi ngùi đã đánh động thúc đẩy Ông tin vào điều ông hoài nghi.
Thánh Tông đồ Toma hoài nghi. Nhưng ông không đứng lại cứng nhắc trong hòai nghi. Chúa Giêsu Kitô phục sinh đã hiện ra nói chuyện thân mật cá nhân với ông, và tập trung ngay vào chính điểm ông hoài nghi: muốn nhìn thấy những vết thương của Thầy mình!
Ông đã được chính Chúa Giêsu Kitô phục sinh cảm hóa, và ông đã tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh.
Đức Giáo hòang Benedictô 16, đã có suy tư về hình ảnh hoài nghi của lòng tin Thánh tông đồ Toma:
„- Sự hoài nghi của Toma mang đến niềm an ủi cho chúng ta trong những khi chúng ta không biết chắc chắn còn trong nghi nan.
-Sự hoài nghi của Toma chỉ cho chúng ta hướng đi. Vì qua sự hoài nghi về những điều không biết chắc chắn có thể dẫn đưa tới ánh sáng.
- Những lời của Chúa Giêsu Kitô nói với Toma nhắc nhớ chúng ta tới ý nghĩa chân thực về lòng tin chín mùi trưởng thành, và khích lệ con người chúng ta, dù gặp những khó khăn hãy tiếp tục con đường sống trung thành với Chúa Giêsu Kitô.“ ( Đức giáo hòang Benedicktô 16., Vatican, Bài giáo lý ngày 27.09.2006)
Chúa Giêsu Kitô phục sinh đã cho vị Tông đồ còn đang do dự hoài nghi về lòng tin vào Ngài được nhìn cùng đụng chạm vào những vết thương tích nơi thân thể mình, đã chữa lành mang đến sự an toàn chắc chắn không chỉ cho Ông Toma và các môn đệ học trò của Ngài, mà còn cho cả chúng ta nữa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Chúa nhật lòng Chúa thương xót
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày 30.04.2000 Đức Thánh giáo hoàng Phaolô II. đã tuyên phong Nữ tu Faustyna Kowalska lên hàng hiển Thánh trong Hội Thánh Công giáo. Và ngài thiết lập lễ kính lòng Chúa thương xót hằng năm vào ngày Chúa nhật thứ hai sau lễ Chúa Phục sinh, ngày này xưa nay trong Hội Thánh là chúa nhật áo trắng.
Trong ngày chúa nhật này phụng vụ tập trung hướng về Chúa Giêsu Kiô phục sinh với biến cố Chúa Kitô hiện ra với các Tông đồ chúc lành bình an cho các Ông. Và dịp này Chúa Kitô phục sinh đã cho các tông đồ nhìn thấy những vết thương nơi thân thể mình đã chịu khổ hình lúc trước để chứng minh cho các Ông, nhất là cho ông Tông đồ Toma, người còn hoài nghi do dự về Chúa Kitô đã phục sinh sống lại từ cõi người chết.
Những vết thương nơi thân thể Chúa Kitô phục sinh đã chịu khổ hình bị đóng đinh vào thập gía là những dấu vết chỉ về tình yêu lòng thương xót của Ngài mang lại ơn cứu chuộc cho con người khỏi hình phạt của tội lỗi.
Đức Thánh giáo hoàng Phaolô đệ nhị, có tên là Karol Józef Wojtyła, khi còn trẻ đã tu học thần học ở chủng viện Tổn giáo phận Cracovie cách bí mật trong thời kỷ thế chiến thứ hai lúc đó đang bị quân đội Đức quốc xã xâm chiếm cai trị nước Balan.
Karol Wojtila sau đó còn bị cưỡng bách đi lao động. Trong thời gian này, ngài thường lui tới thăm viếng tu viện gần đó, nơi nữ tu Faustyna đã sống trải qau đời tu trì. Mỗi lần đến thăm tu viện, ngài thường đến qùi gối cầu nguyện nơi mộ nữ tu Faustyna ( 25.08.1905 - 05.10.1938) trong khuôn viên tu viện.
Nữ tu Faustyna sống đời tu trì 13 năm trong tu viện. Nhưng chị không đảm nhận một bổn phận trách nhiệm mang tính cách hướng dẫn giáo dục nào. Chị chỉ làm việc trong nhà bếp lo việc nấu ăn, làm vườn và canh cổng. Đời sống như thế thu gọn trong nội cung tu viện, có thể nói là đơn điệu một chiều! Nhưng chị lại có đời sống tinh thần nội tâm đạo đức sâu sắc khác thường liên kết thâm sâu với Chúa. Qua đời sống nội tâm chiêm niệm chị đã được trải qua những thị kiến thần thánh, được đón nhận được những lời của Chúa Giêsu nói với chị.
Ngày 22.02.1931 lần đầu tiên nữ tu Faustyna đã nhìn thấy Chúa Giêu Kitô đang dang rộng mở tay chúc lành, mặc áo mầu trắng và chị nghe thấy tiếng Chúa nói trao cho việc phải làm: „ Con hãy vẽ một tấm hình về Cha như con đang thấy Cha cùng với dòng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy vào Chúa!“
Trong nhật ký của Thánh nữ còn có thêm những lời Chúa Giêsu nói: „ …Cha hứa những tâm hồn nào tôn kính bức ảnh này, sẽ không bị bỏ quên lạc mất…Cha mong ước, bức ảnh này, mà con vẽ bằng bút mực, tốt nhất vào ngày chúa nhật thứ nhất sau lễ phục sinh được long trọng khánh thành tôn kính. Ngày chúa nhật này là lễ mừng kính lòng Chúa thương xót.“.
Sứ vụ này nữ tu Faustyna đã được nhìn thấy trong thị kiến nội tâm xuất thần, nhưng đối với con mắt con người khó hiểu. Lòng thương xót không có thể trình bày trắng đen ra được. Vì thế trong dòng thời gian cũng có nhiều bức hình khác nữa vẽ Chúa Giêsu Kitô, như Thánh nữ Faustyna đã vẽ thuật lại, với dòng chữ “ Lạy Chúa Giêsu, con tin cậy vào Chúa!“.
„ Qua sự sống lại Chúa Giêsu Kitô đã trao tặng những tín hữu của Ngài sự hiệp nhất mới vững mạnh hơn lúc trước và không bị đè bẹp. Vì sự hiệp nhất này không dựa trên sức lực con người, nhưng trên căn bản lòng thương xót của Thiên Chúa, mà họ cảm nhận được Chúa yêu thương cùng tha thứ làm hòa.
Đó là lòng thương xót của tình yêu Thiên Chúa, mà ngày nay cũng như ngày xưa Hội Thánh hằng vững mạnh hợp nhất lại, cho nhân loại làm thành một gia đình. Tình yêu thương của Thiên Chúa ban ơn tha thứ tội lỗi cho con người qua Chúa Guêsu Kitô đã chịu khổ hình, đã chết trên thập gía và đã sống lại. „( Đức giáo hoàng Benedictô 16.)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Sứ điệp Chúa phục sinh
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„ Đừng hoảng sợ! Các Bà tìm Đức Giêsu Nazareth, Đấng đã bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này.“ ( Mc 16, 6-7)
Với những lời này Thiên Thần ngồi canh mộ loan báo làm chứng Chúa Giêsu Kito đã sống lại rồi, ngôi mộ chôn cất Ngài trước đây ba ngày bây giờ trống trơn không còn xác của Người nữa.
Đó là tin vui mừng cho những người thân tín, cho các Tồng đồ học trò của Chúa Giêsu đang trong cơn khủng hoảng tang tóc lo buồn.
Và tin mừng Chúa đã sống lại là trung tâm cốt lõi của đức tin Hội Thánh Công giáo. Từ xưa nay Hội Thánh có nhiệm vụ loan báo gìn giữ tin mừng đức tin này như Chúa Giêsu đã ủy thác cho: Anh em hãy loan báo làm chứng cho Thầy khắp nơi cho tới tận cùng trái đất ! ( Cv 1,8)
Và để giúp cho dễ hiểu tin mừng sứ điệp đó, Hội Thánh Chúa trong dòng lịch sử thời gian, xưa nay luôn tìm cách diễn tả theo cách thức văn hóa qua bằng ngôn ngữ cùng hình ảnh mầu sắc.
- 1. Cây nến phục sinh
Vào dịp mừng lễ Chúa phục sinh, ở Thánh đường cũng như ở nhiều tư gia, người ta cắm dựng cây nến phục sinh có khắc vẽ những biểu tượng với những con số niên lịch như 2021 tùy theo mỗi năm, hai chữ A Và Omega, và hình thập gía cùng năm dấu đinh của Chúa Giêsu bị đóng trên thập gía.
Cây nến phục sinh diễn tả mầu nhiệm sứ điệp Chúa Phục sinh: Chúa Giêsu đã sống lại. Những vết thương đau khổ của Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập gía được biến đổi cho sáng tỏ thành ơn cứu độ trong ánh sáng của Chúa. Chúa Giêsu là ánh sáng soi chiếu vào nơi tối tăm sự chết.
Cây nến được làm bằng chất sáp của loài ong tỏa mùi hương thơm. Chất sáp làm nên cây nến là hình ảnh tượng trưng cho thân xác con người Chúa Giêsu Kitô, hay biểu hiệu cho thân xác trong sáng tinh tuyền Chúa Giêsu đã sống lại. Đang khi ngọn lửa là hình ảnh bản tính Thiên Chúa chiếu tỏa sáng làm cho chất sáp cây nến từ từ tan chảy ra thành nước.
Cây nến phục sinh không chỉ có tương quan nguồn gốc đốt thắp kính thờ thần thánh nơi lương dân thời xa xưa, nhưng còn có tương quan nguồn gốc trong Do Thái giáo nữa.
Ngày xưa khi dân Do Thái cách đây hằng ngàn năm được Thiên Chúa giải thoát ra khỏi cảnh sống nô lệ bên Ai Cập. Họ đi trở về quê hương Do Thái luôn có cột lửa đi đầu chiếu sáng dẫn đường cho toàn dân đi qua biển đỏ, đi trong vùng sa mạc.
Cũng vậy Chúa Giêsu Kitô biểu hiệu qua cây nến phục sinh thắp sáng là cột lửa chiếu sáng dẫn đầu đoàn chiên Hội Thánh Chúa băng qua vùng thung lũng tối tăm tội lỗi trần gian.
Trên cây nến Chúa phục sinh có những dấu hiệu được khắc ghi vẽ: hai chữ A :Alpha và Ω,: Omega, niên hiệu của năm, cây thập gía với năm dấu đinh mầu đỏ. Những dấu hiệu này được khắc ghi vẽ trên cây nến phục sinh từ thế kỷ thứ chín sau Chúa giáng sinh.
Chữ A là mẫu tự khởi đầu trong bảng mẫu tự của chữ Hy lạp, nói lên ý nghĩa: Chúa Giêsu là khởi đầu của công trình sáng tạo mới.
Chữ Ω là mẫu tự sau cùng trong bảng mẫu tự Hy lạp, nói lên ý nghĩa : Chúa Giêsu là tận cùng trong công trình sáng tạo.
Cây thánh giá với năm dấu đinh nói lên Chúa Giêsu Kitô đã bị đóng đinh nơi hai bàn tay hai bên trái và phải, trên đôi chân, nơi lồng ngực bị đâm thủng, và trên đỉnh đầu bị đóng đội mão gai nhọn.
Những con số của năm niên lịch nói lên thời gian là của Chúa.
Cây nến Chúa phục sinh được dựng cắm trên cung thánh trong thánh đường từ ngày lễ mừng Chúa phục sinh đến ngày lễ mừng Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống được tắt đi, và dựng bên cạnh giếng nước rửa tội.
Cây nến phục sinh trong năm được đốt thắp lên vào dịp có lễ Rửa tội cho em bé hay người lớn, dịp lễ an táng cho người qua đời.
Cây nến phục sinh truyền đi sứ điệp: Chúa Giêsu Kitô đã sống lại. Ngài đã chiến thắng sự chết. Sự sống lại của Ngài xóa tan bóng tối sự dữ tội lỗi. Ánh sáng mạnh hơn bóng tối.
Ngọn lửa Cây nến Chúa phục sinh nói lên: Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian, như lời Ngài đã từng khẳng định. Ánh sáng của Ngài không làm chói mắt, nhưng mang đến hơi nóng sự đầm ấm an ủi cho tâm hồn con người.
- 2. Con chiên
Hình con chiên là biểu tượng xưa nay rất phổ thông rộng rãi nếp sống trong đạo Công giáo nhất là vào dịp mừng lễ Chúa phục sinh.
Từ hằng bao thế kỷ nay, con chiên là hình ảnh biểu trưng cho sự sống. Vì thân thể nó không chỉ là thực phẩm và cho sữa làm nước uống làm phó mát, nhưng lông của nó còn là chất len sợi may dệt làm y phục nữa. Nhất là nền văn hóa ngày xưa con chiên, cừu được dùng làm con vật tế lễ dâng tiến Thần Thánh. Vì dân gian cho rằng chiên cừu có mối tương quan rất tốt với các Thần Thánh.
Trong Do Thái giáo con chiên cừu là lễ vật hy sinh đền tội dâng tiến lên Thiên Chúa Giavê để xin ơn tha thứ. ( Sách Xuất Hành 12,1-16)
Trong lịch sử dân Do Thái, con chiên nướng là hình ảnh ngày xưa khi Thiên Chúa đem dân Israel ra khỏi Ai Cập trở về đất Chúa hứa. Vào buổi chiều ngày xuất hành, họ phải giết con chiên non nướng ăn cho hết cùng lấy máu của nó bôi quét trên ngưỡng cửa nhà. Thiên Thần Chúa khi đi ngang qua nhà nào thấy có máu chiên trên cửa sẽ đi qua không gieo tai họa chết cho nhà đó.
Tiên tri Isaia con chiên cũng là hình ảnh biểu tượng cho „ người tôi tớ chịu đau khổ“. ( Isaia 53,7)
Biểu tượng con chiên phục sinh có nguồn gốc trong kinh thánh tân ước. Chúa Giêsu được Ông Thánh Gioan tẩy gỉa giới thiệu là „ chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian.“ ( Ga 1,29). Như thế, điều này đã nói lên sự chết và phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô. Và qua đó đã mang đến ơn cứu chuộc cho con người.
Trên căn bản đó hình con chiên mùa phục sinh là hình ảnh biểu tượng được dùng rất phổ thông. Vì sự cứu chuộc của Chúa Giêsu được mừng trong những ngày phục sinh.
Chúa Giêsu Kitô là con chiên vượt qua mới. Máu con chiên Giêsu đổ ra trên cây thập gía đã giải thoát linh hồn con người khỏi phải chết đời đời.
Vào dịp mừng lễ Chúa phục sinh hình con chiên được vẽ khắc vào tấm thiệp, hay cũng được nặn đúc thành hình tượng bằng bột nướng, bằng Sôcôla.
- 3. Trái trứng nhiều mầu sắc
Mùa mừng lễ Chúa phục sinh hầu như khắp nơi đều có những trái trứng gà tô vẽ nhiều mầu sắc. Theo luật thiên nhiên trong trái trứng chứa đựng mầm sự sống. Một chú gà con trong đó dần dần thành hình cứng cát với ngày tháng có đủ độ nóng ấm, phát triển mọc đủ lông cánh sẽ dùng mỏ nhọn mổ chọc vỡ vỏ trứng bao phủ chui ra ngoài ánh sáng.
Một sự sống mới xuất hiện phát xuất từ một vật thể khô cứng như chết. Đây là điều lạ lùng bỡ ngỡ cho con người. Viì thế nơi nhiều nền văn hóa của nhiều dân tộc trái trứng mang ý nghĩa vai trò đặc biệt.
Chúa Giêsu Kito chỗi dậy từ nấm mồ kẻ chết sâu kín dưới lòng đất sống lại đi ra ngoài cũng là điều gây ngạc nhiên bỡ ngỡ cho mọi người tín hữu. Đây là mầu nhiệm phép lạ Thiên Chúa thực hiện nơi Chúa Giêsu Kitô là cho Ngài từ trong nấm mồ tối tăm cõi sự chết chỗi dậy sống lại. Một công trình tạo dựng sự sống mới Thiên Chúa đã thực hiện.
Sự sống mới đã phát khởi bừng lên mang niềm vui sự hoan hỷ đến cho tâm hồn đời sống. Vì thế với người tín hữu Chúa Giêsu Kitô trái trứng là hình ảnh dấu hiệu diễn tả sự sống lại phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, và là niềm hy vọng được phục sinh của tất cả mọi người.
Vỏ bọc trứng mang ý nghĩa biểu trưng nấm mồ chôn Chúa Giêsu. Từ trong vỏ trứng bao bọc chú gà con mổ vỡ vỏ chui ra.
Từ trong nấm mồ, Chúa Giêsu Kitô chỗi dậy bỏ lại tất cả đi lên ra khỏi lòng đất tối tăm sâu kín. Một sự sống mới bật phát trồi lên ra bên ngoài ánh sáng thiên nhiên.
- 4. Chú Thỏ phục sinh.
Ngày mừng lễ Chúa Phục sinh có con thỏ làm biểu tượng. Đây không phải là niềm tin. Nhưng nhiều hơn mang tính chất hình ảnh biểu tượng nói về niềm vui sự sống theo tập tục văn hóa con người.
Thời Giáo Hội theo nghi lễ Byzantino bên vùng Đông phương ngày xưa con Thỏ là hình ảnh biểu tượng về Chúa Giêsu Kitô đã qua sự chết mang lại sự sống. Vì cho rằng loài Thỏ ngủ không nhắm mắt. Cũng vậy Chúa Giêsu Kitô luôn tỉnh thức chăm sóc gìn giữ đoàn chiên, những người tín hữu, của Ngài.
Ngoài ra loài Thỏ là loài vật mắn đẻ, sinh sôi nẩy nở nhiều - mỗi năm con thỏ mẹ có thể sinh tới 20 con. Và như thế loài Thỏ cũng là hình ảnh biểu trưng cho sự sống, cùng hướng chỉ về sự phục sinh sống lại. Thánh giáo phụ Ambrosio ( 339-3907) đã có suy tư cắt nghĩa thỏ trắng như tuyết là hình ảnh biểu tượng cho sự biến hình thay đổi và sự phục sinh sống lại. Vì lông của nó thay biến đổi mầu.
- 5. Tảng đá đã vỡ tan
Có những nơi ở cửa ra vào thánh đường cũng đặt một tảng đá vỡ tan vào ngày lễ mừng Chúa phục sinh. Hình ảnh này nhắc nhớ đến khi Chúa Giêsu Kitô sống lại, tảng đá lấp chắn nơi cửa mồ chôn Chúa đã bị lăn vần sang một bên, mở lối thông thương cho người trong mồ đi ra, cho người từ bên ngoài đi vào trong nấm mồ. Tảng đá sự chết đã bị đập vỡ cho sự sống nổi lên phát triển.
Nhiều chặng đường suy niệm con đường thập giá Chúa Giêsu Kitô có thêm chặng thứ 15. Ở chặng này hình ảnh tảng đá chắn bịt lối vào ngôi mộ, đã được vần lăn sang một bên, mở lối ra vào ngôi mộ không còn bị chắn ngăn che nữa nói lên Chúa Giêsu Kitô đã phục sinh sống lại không còn nằm ở trong đó nữa.
Vật thể hình ảnh biểu tượng không là niềm tin. Nhưng chúng giúp cắt nghĩa cách cụ thể cho niềm tin được trong sáng dễ hiểu, cùng phù hợp với tâm tính văn hóa con người.
Và như thế phần nào mang đến cho nội dung đức tin bộ y phục phản chiếu ánh sáng niềm vui mừng hy vọng.
Chúc mừng lễ Chúa Phục sinh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh ngày Thứ Sáu tuần thánh
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm Hội Thánh Công giáo mừng tuần thánh tưởng nhớ những ngày cuối đời Chúa Giêsu trên trần gian với những đau khổ thương khó chịu nạn của Ngài.
Ngày thứ Sáu tuần thánh là ngày tưởng nhớ Chúa Giêsu bị kết án tử hình bị đóng đinh vào thập gía trên đồi Golgotha, ngài đã chết trên đó và được mai táng trong một huyệt mộ gần sát nơi đó.
Biến cố đau thương đến chết của cuộc đời Chúa Giêsu để lại những dấu vết mang sứ điệp cứu chuộc cho nhân loại.
Chúa Giêsu Kitô bị kết án chịu khổ hình phải vác thập gía và chết trên đó. Ngài là nhân vật chính trung tâm của biến cố đau thương tàn nhẫn này cách đây hơn hai ngàn năm.
Nhưng có những hình ảnh khác nữa cùng xuất hiện trong biến cố cái chết đau thương của Chúa Giêsu.
Những hình ảnh đó được Kinh Thánh phúc âm Chúa Giêsu cùng tương truyền đạo đức viết thuật lại qua những cung cách hành xử với Chúa Giêsu của Quan tổng trấn Philatô, Ông Simon người Syrene, Bà Veronica, và Ông Giuse thành Arimathia.
Quan tổng trấn Philatô, người rửa tay
Philato là vị quan công chức cao cấp của đế quốc Roma. Ông được hòang đế Roma sai đến nước Do Thái cai trị điều khiển trông coi việc hành chính thay cho hòang đế.
Vì thế, các vị tư tế Do Thái đã nại vào lý do chính trị dẫn nộp Chúa Giêsu cho vị này xét xử là một thẩm phán có quyền quyết định số phận tù nhân.
Theo phúc âm thuật lại, Ông không thấy tù nhân Giêsu có tội gì. Ông muốn tha lắm, và chính vợ ông cũng nói với Ông: Xin đừng can dự vao vụ án, vào máu Người này. ( Mt 27, 19)!
Nhưng vì sợ đám đông hò hét đòi lên án Chúa Giêsu, sợ mất thể diện cùng quyền hành. Nên Ông đã khôn khéo chọn hình thức nước đôi theo phương thức chính trị: Lấy nước rửa tay và nói tôi vô can trong vấn đề này.( Mt 27, 24).
Lấy nước rửa tay không phải để cho sạch sẽ. Nhưng Ông đã chọn lối thoát để cho vị thế quyền hành cùng danh tiếng của riêng mình không bị tổn thất lung lay hay gặp rắc rối với hoàng đế cùng dân chúng!
Đây là một cách thế chạy trốn trách nhiệm bảo vệ người vô tội mà chính Ông cũng đã biết rõ.
Có lẽ ngay trong thời điểm sau đó lương tâm Ông đã nói với ông điều gì. Nên ông đã truyền cho viết một tấm bảng đóng gắn trên thập gía Chúa Giêsu dòng chữ: INRI - Giesu Nazareth, Vua dân Do Thái. ( Ga 19,19). Và còn khẳng định với uy quyền quyết định không cho thay đổi, như có lời phản đối và yêu cầu sửa đổi: Điều ta đã viết, đã viết!
Hậu thế từ ngày đó hằng nói đến hành động của Ông đưa đến cái chết của Chúa Giêsu Kitô, mỗi khi người tín hữu Chúa Kitô, ít là hằng tuần vào ngày Chúa nhật, đọc kinh Tin Kính có câu: „Người chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta, thời quan Phongxiô Philatô“ không phải để ca ngợi hay cám ơn ông. Nhưng để nói lên vào thời điểm lịch sử Chúa Giêsu Kitô đã bị quan tổng trấn Philato lẩn trốn trách nhiệm, cho kết án tử hình trên thập gía!
Ông Simon Syrene, người vác đỡ gánh nặng cây thập gía
Nếu quan Philatô, một vị quan có quyền hành xét xử, đã không làm gì để giúp đỡ bênh vực Chúa Giêsu trong bước đường bị vu không ghét bỏ, thì có một người xa lạ không có liên quan gì tới, lại có hành động ngược hẳn lại: giúp đỡ cùng chia sẻ vác đỡ thập gía cho Chúa Giêsu.
Phúc âm chỉ viết ngắn gọn thuật lại: „Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê. Ông là thân phụ hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giê-su“ (Mc 15, 21)
Ông Simon không tình nguyên, nhưng bị bắt buộc. Với Ông là một việc qúa ngạc nhiên sửng sốt rất bực dọc khó chịu vượt ngoài sự tưởng tượng suy nghĩ: Dọc đường đi bỗng bị lôi vào vòng lao lý, như cùng bị kết án!
Không biết Ông có cưỡng chống lại, hay nói lời gì phản đối thanh minh cầu cứu không? Nhưng Ông, như phúc âm thuật lại, đã cùng đưa tay kê vai vác thập gía đỡ gánh nậng cho người tử tội Giêsu.
Không có bút tích nói gì về lịch sử đời ông có quen biết Chúa Giêsu trước đó hay không. Nhưng chắc Ông có lòng thương cảm hoàn cảnh người đang trong lúc gặp đau khổ khốn cùng bị hành hạ vác thập gía nặng nề. Bị bắt buộc, nhưng Ông đã không tìm cách bỏ chạy trốn thoát. Trái lại làm công việc cùng giúp đỡ!
Việc làm lòng nhân đạo của Ông thể hiện tinh thần nếp sống, mà Chúa Giêsu đã nói đến như thước đo cho việc thẩm định trong ngày phán xét, khi ra trước tòa Thiên Chúa:
"Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm việc bác ái cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.“ ( Mt 25,40)
Và Hội Thánh Công giáo đã thiết lập 14 chặng con đường thập gía Chúa Giesu với hình vẽ khắc và lời đọc để tưởng nhớ và cầu nguyện. Nơi chặng đường Thứ Năm suy ngắm nhắc nhớ đến biến cố Ông Simon vác đỡ thập gía Chúa Giêsu.
Bà Veronica, người trao khăn lau mặt
Trong nếp sống đạo đức có nghi thức suy niệm 14 chặng đường thập gía Chúa Giêsu. Nơi chặng thứ sáu suy niệm cảnh tượng Bà Veronika trao khăn lau mặt cho Chúa Giêsu đang nặng nhọc vác thập gía.
Không có sử sách nào, ngay cả bốn phúc âm Chúa Giêsu cũng không nói đến tên Bà Veronica. Nhưng theo tương truyền đạo đức người phụ nữ có tên Veronica đã có cử chỉ hành động lòng nhân hậu với Chúa Giêsu trên đường vác thập gía đến nơi chịu tử hình.
Quan Philatô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm nói lên mình vô tội vì sợ đám đông, thì Bà Veronica là người theo dõi cảnh tượng Chúa Giêsu vác thập gía giữa đường, lại mạnh mẽ rẽ đám đông tiến đến gần Chúa Giêsu đang quằn quại trên khuôn mặt tràn đầy mồ hôi và máu chảy trào ra, trao cho ngài chiếc khăn để lau mặt. Bà hành động vì lòng thương cảm với người bị nạn trong cơn mệt nhọc như tuyệt vọng quằn quại mặt mình đầy vết thương máu cùng mồ hôi chảy trào ra.
Bà không sợ đám đông. Vì có thể bị quân lính xua đuổi ngăn cản. Nhưng Bà đã can đảm rẽ họ ra, đi xông vào cho tầm nhìn con mắt và trái tim tâm hồn mình sát gần Chúa Giêsu.
Qua cung cách xử sự như thế, Bà Veronika đã không như Philato tìm cách lẩn trốn trách nhiệm. Nhưng đã chen mình như là người thân có liên hệ vào biến cố đau thương vô nhân đạo muốn nâng đỡ cứu giúp Chúa Giêsu bị kết án gặp thương khó khổ nạn, mà không có ai thương cứu giúp.
Một hành động can đảm cùng nguy hiểm cho đời Bà lúc đó. Nhưng lại mang chiều kích chan chứa lòng đạo đức nhân hậu thương cảm tình người.
Có thể Bà Veronica trước đó đã là người đi theo nghe Chúa Giêus giảng dậy, hay được nói cho biết về Chúa Giêsu. Giờ phút lúc đó lòng thương cảm đã đánh động bừng lên ngọn lửa tình yêu lòng thương cảm như trong bài giảng Tám mối phúc thật, mà Chúa Giêsu đã nói:
„Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương“ ( Mt 4,27).
Theo đạo đức bình dân tên Veronica có nguồn gấc từ tiếng Hylạp „rera eikon“ có nghĩa là“ khuôn mặt đích thực“. Qua tấm khăn lau thể hiện cử chỉ lòng nhân hậu thương cảm của bà Veronica , Chúa Giêsu đã chỉ cho bà khuôn mặt đích thực của ngài: Khuôn mặt tình yêu của Chúa in vào tâm hồn bà và nơi tấm khăn lau.
Giuse thành Arimathia, „người lo huyệt mộ!“
Ông Giuse người thành Arimathia chỉ được phúc âm nói đến vào ngày sau cùng đời Chúa Giêsu với nhiệm vụ lo an táng xác Chúa.( Mt 27,57-60).
Theo Kinh thánh thuật lại vị Giuse thành Arimathia: „là người giầu có, là người lương thiện công chính, là thành viên thế gía trong Hội Đồng. Ông mong đợi Triều đại Thiên Chúa tới. Ông không tán thành quyết định của Thượng Hội Đồng là giết Chúa. Ông mạnh dạn xin Philatô cho tháo xác Chúa. Là người liệm xác Chúa. Là người cho Chúa mượn mộ của mình. Là môn đệ Chúa cách kín đáo vì sợ người Do Thái.“ ( Nguyễn Tầm Thường. Kẻ đi tìm, tr. 207).
Không có sử sách nào viết để lại về thân thế lịch sử của Giuse thành Arimathia. Nhưng Kinh thánh viết thuật lại Ông là môn đệ theo Chúa cách kín đáo.( Phúc âm Thánh Gioan 19,38).
Và như thế Ông có thể đã trực tiếp có lần nghe Chúa Giêsu giảng giáo lý, hay đã được nghe thuật lại những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm. Vì thế tinh thần giáo lý của Chúa đã âm thầm thấm nhập bén rễ sâu vào tâm hồn đời sống Ông.
Khi tận mắt chứng kiến giờ phút thảm kịch tang thương sau cùng của Chúa Giêsu bị đóng đinh chết trên thập gía, Ông đã can đảm cùng với Ông Nicodemo đến xin Quan tổng trấn Philato tháo xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập gía, mang tắm rửa tẩm liệm rồi an táng trong ngôi mộ còn mới chưa chôn cất ai do chính ông đã sắm dọn.
Ông đã sống thực hành lời Chúa giảng dậy: „Chôn xác kẻ chết“ ( Mt 5, 1-12 - Kinh thương người có 14 mối, thương xác bảy mối)
Ông Giuse người Arimathia qua cung cách lối sống đó đã mang đến niềm an ủi rất sâu đậm cho Đức Mẹ Maria, cho thân nhân những người tin theo Chúa Giêsu trong cảnh đau buồn tang tóc bơ vơ hoang mang lo sợ: „an ủi kẻ âu lo“.
Cung cách sống như thế là nếp sống của một con người can đảm và có lòng đạo đức nhân hậu.
Trong nếp sống đạo đức của Hội Thánh Công giáo có tập tục suy ngắm cầu nguyện 14 chặng con đường thập gía Chúa Giesu đã trải qúa. Nơi chặng thứ 13. và 14. tưởng nhớ tới biến cố Ông Giuse thành Arimthia tháo xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập gía và mang an táng trong mộ huyệt.
Có thể trong cuộc mai táng Chúa Giêsu do Ông Giuse người Arimathia đứng ra thực hiện cũng có mặt cả Ông Simon và Bà Veronica nữa cùng cộng tác vào công việc đau thương nhân đạo„ chôn xác kẻ chết“ trong dòng nước mắt đau buồn thương cảm không chừng!
Quan Philato đứng ra xét xử vụ án Giêsu đã rửa tay để chạy tội, bỏ mặc Chúa Giêsu cho bị kết án tử hình thập gía.
Ông Simon thành Syrene không bỏ chạy thoát thân. Trái lại cùng giúp đỡ tiếp sức đỡ gánh nặng thập gía cho Chúa Giêsu.
Bà Veronica can đảm chen vào rẽ quân lính quyền lực ra một bên. Tìm cách đến sát bên an ủi giúp đỡ Chúa Giêsu đang trong cơn quằn quại đau thương trao cho tấm khăn lau mồ hôi và máu chảy trên khuôn mặt . Một công việc theo trực gíac của bản tính con người nhất là nơi người phụ nữ, rất đạo đức thấm đậm sâu sắc lòng nhân hậu tình người “ Thăm viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc.“
Ông Giuse người Arimathia can đảm làm công việc trước hết và sau cùng cho đời Chúa Giêsu “ Chôn xác kẻ chết“ ngay trong chính ngôi mộ mà Ông đã mua sắm sẵn cho mình. Một công việc đạo đức chan chứa lòng nhân hậu cùng là vinh dự thánh đức cao cả cho đời Ông.
Thứ Sáu Tuần Thánh
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh nghi thức rửa chân
- Viết bởi Dân Chúa
Từ hơn một năm nay bệnh đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm khắp nơi trên hòan cầu đe dọa sức khoẻ đời sống con người. Nên có qui luật y tế phải năng hằng ngày, hằng giờ lúc „rửa tay“ với xà phòng với nước, rửa tay với thuốc sát trùng…giữ vệ sinh tẩy trừ vi trùng bám dính vào tay.
Qui luật y tế rửa tay phòng chống vi trùng bệnh đại dịch ăn sâu vào nếp sống con người từ ngày đó.
Tẩy rửa trong nếp sống Do Thái giáo và Kitô giáo
Thời cựu ước trước Chúa Giêsu Kitô có ghi chép thành luật chi tiết về việc tẩy rửa giữ vệ sinh, như luật với người bị bệnh phong: „ Người được thanh tẩy sẽ cạo hết lông, lấy nước mà tắm rửa và sẽ ra thanh sạch. Sau đó trở về trại, nhưng phải cách ly ở bên ngoài lều của mình trong vòng bảy ngày. Đến ngày thứ bẩy, nó sẽ cạo hết lông, cạo đầu, râu và lông mày, nó sẽ giặt áo , lấy nước tắm rửa thân thể và sẽ ra thanh sạch.“ ( Sách Levi 14,8-9).
Rồi luật còn nghiêm ngặt buộc khi đụng chạm vào xác chết hay người bị bệnh, mắc ô uế cũng phải tẩy rửa cho thành sạch sẽ, phải rửa tay, tắm rửa thân thể, thay giặt quần áo, và sau đó phải sống cách ly, như trong sách lề luật Lêvi viết chi tiết lưu lại.
Đến thời Tiên tri Isaia, Tiên tri Jeremia và các Tiên tri khác chỉ dậy sự tẩy rửa theo hướng nhìn khác: không còn chú trọng đến nghi thức tẩy rửa thân thể quần áo cho sạch sẽ. Nhưng chú trọng nhiều hướng về sự tẩy rửa đời sống tâm hồn đạo đức luân lý:
„Vì tay các ngươi đầy những máu. Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta.Đừng làm điều ác nữa., hãy sống làm điều thiện“ ( Isaia 1,15-17)
Tiên tri Jeremia nhân danh Thiên Chúa quở trách than phiền:
„Ngươi có dùng thuốc mà thanh tẩy ngươi, có cho nhiều xà bông mấy đi nữa thì trước nhan Ta, vết tội của ngươi vẫn sờ sờ ra đó- sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.“ ( Jeremia 2,22)
Vua David đã viết ăn năn thống hối kêu xin Thiên Chúa tẩy rửa tâm hồn tội lỗi của mình rất thống thiết:
„ Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.“ (Tv 51,3-5).
Chúa Giêsu Kitô thời tân ước đề ra hướng dẫn cho nếp sống đạo đức làm người trong chiều tương quan với Thiên Chúa, Đấng sinh thành con người, và trong chiều tương quan giữa con người với nhau trên nếp sống sự công bình từ trong tâm hồn. Đó mới là nghi thức tẩy rửa đúng đắn. ( Mt 15,19, Lc 11,38-41): Tẩy rửa bên trong tâm hồn cho nên thanh sạch đẹp lòng Thiên Chúa cùng con người quan trọng cho đời sống hôm nay và ngày mai cần thiết hơn cả.
Nghi thức rửa chân
Hằng năm vào chiều ngày Thứ Năm tuần thánh, trong nếp sống đạo Công giáo có nghi lễ tưởng nhớ bữa tiệc ly sau cùng của Chúa Giesu ngày xưa đã ăn với các Thánh Tông Đồ. Trong nghi lễ phụng vụ này có nghi thức rửa chân, mà ngày xưa Chúa Giêsu đã làm cho các Tông đồ của mình.
Vậy hình ảnh nghi thức rửa chân có nguồn gốc từ đâu và mang ý nghĩa sứ điệp gì cho đời sống đức tin vào Chúa?
Qui luật rửa chân thời xưa bên vùng phương Đông là cử chỉ hiếu khách cùng nói lên lòng khiêm hạ kính trọng, như Tổ phụ Abraham đã đối xử khi khách tới thăm:
„ Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây.“ ( Sách Sáng Thế, 18,4).
Nhưng Chúa Giêsu đã mặc cho nghi thức qui luật hiếu khách biểu lộ lòng khiêm hạ này một gía trị nội dung mới thành lề luật yêu thương:
„Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.“ ( Gioan 13,34). Và từ đó trở thành nghi thức phụng vụ trong nếp sống đạo đức.
Nghi thức hiếu khách rửa chân đã có từ xa xưa, và Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly sau cùng cách đây hơn hai ngàn năm cũng đã rửa chân cho các môn đệ mình trước khi hy sinh chịu chết.
Cung cách xử sự của Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ mình với những tín hữu Chúa Kitô thời Hội thánh lúc ban đầu là gương sống động hướng dẫn quan trọng cho nếp sống đạo đức nhắc nhở đến mối tương quan liên hệ với nhau là anh em phục vụ nhau:
„Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. ( Gioan 13,15)
Mãi đến thế kỷ 4. sau Chúa giáng sinh nghi thức phụng vụ rửa chân mới được phổ biến lan truyền ra bên ngoài thành Roma. Và sử sách ghi lại chi tiết thành luật của đức giáo hoàng từ thế kỷ 12. sau Chúa giáng sinh.
Đức giáo hoàng Benedictô 16 đã có suy niện về hình ảnh rửa chân mà Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện xưa kia:
„ Thiên Chúa từ trời cao đi xuống trần gian, và trở thành một người tôi tớ. Ngài rửa chân chúng ta, để chúng ta có thể ngồi chung bàn với Ngài. Điều này nói lên toàn thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô. Điều này cắt nghĩa làm sáng tỏ ơn cứu chuộc.
Bể hay chậu nước trong đó chúng ta được tẩy rửa là tình yêu của ngài, mà ngài đã sẵn sàng chịu đựng dấn thân trong sự tử nạn. Chỉ có tình yêu mới có sức mạnh biến đổi sự không thanh sạch của chúng ta, và nâng cao cho lên tới sự cao cả của Thiên Chúa.
Bể hay chậu nước tẩy rửa chúng ta chính là ngài, Đấng đã hoàn toàn tự mình dấn thân hy sinh sâu thẳm trong đau khổ và trong sự chết.
Luôn luôn ngài thể hiện tình yêu tẩy rửa chúng ta trong các Bí Tích Rửa tội và giải tội,
Ngài luôn luôn qùy gối xuống trước chân chúng ta và thực hiện phần vụ của người tôi tớ, công việc phục vụ. Tình yêu của ngài bao la vô hạn, trải rộng ra tới mức hoàn thành trọn vẹn. (Đức Giáo Hòang Benedictô 16. , Thứ Năm tuần Thánh 13.04.2006)
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh Chúa Giêsu ngày lễ Lá
- Hình ảnh lời xin vâng của Đức mẹ Maria
- Hình ảnh dụ ngôn hạt lúa
- Hình ảnh Thánh Giuse, người phù hộ bảo trợ
- Hình ảnh con rắn đồng
- Hình ảnh người phụ nữ trong đời sống
- Hình ảnh điều răn Thiên Chúa
- Hình ảnh Thánh Giuse, người công chính
- Giữa cơn chao đảo khủng hoảng
- Hình ảnh Thánh Giuse, cha nuôi Chúa Giêsu