Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
18/06 Hãy làm tôi tớ Thiên Chúa
- Viết bởi Mt 6, 24-34
Hãy làm tôi tớ Thiên Chúa.
Thứ Bảy tuần 11 thường niên.
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Lời Chúa: Mt 6, 24-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
"Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì?
Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin.
Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Người sẽ thêm cho
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chế độ nô lệ tưởng như đã không còn trên thế giới.
Nhưng ngày nay người ta vẫn nói đến những hình thức nô lệ mới.
Nước nghèo mất chủ quyền, chịu nô lệ cho nước giàu,
các phụ nữ trở nên nạn nhân của nô lệ tình dục,
trẻ em nô lệ cho chơi game, thanh niên nô lệ cho ma túy.
Xem ra khó tránh được chuyện bị làm nô lệ,
giữa một thế giới đề cao tự do và giải phóng.
Khi không muốn làm nô lệ cho ai,
con người lại trở nên nô lệ cho cái tôi ích kỷ.
Khi không chấp nhận lệ thuộc Đấng Tạo Hóa cao vời,
con người lại trở nên nô lệ cho các thụ tạo do mình tạo ra.
Đức Giêsu đặt chúng ta trước một chọn lựa.
“Anh em không thể đồng thời làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được.”
Nếu có hai chủ thì thế nào cũng yêu mến người này hơn người kia.
Giữa Thiên Chúa và Tiền Của, tôi sẽ gắn bó với ai hơn, tôi sẽ chọn ai?
Tôi không thể giả vờ thỏa hiệp để chọn cả hai, để được cả hai.
Thần Tài hứa hẹn cho tôi sự an toàn và hạnh phúc giả tạo,
còn Thiên Chúa hứa cho tôi hạnh phúc đích thực, vững bền.
Chỉ khi đặt Thiên Chúa lên trên mọi sự, tôi mới thật sự tự do.
Có sáu động từ lo trong bài Tin Mừng trên đây.
Đức Giêsu nhiều lần khuyên các môn đệ đừng lo (cc. 25. 31. 34).
Nhưng làm người ai lại không lo về ngày mai, trừ phi là trẻ thơ?
Trên thế giới bao người vẫn phải vật vã từng ngày với cơm ăn, nước uống?
Con người có thể sống vô tư như chim trời không
khi chim trời ngày nay cũng bị đe dọa không nơi trú ẩn?
Chúng ta cần hiểu cho đúng chữ lo của Đức Giêsu.
Ngài không dạy chúng ta sống vô trách nhiệm, phó mặc hay lười biếng.
Cái lo mà ta nên tránh là cái lo âu, lo sợ của người kém lòng tin (c. 30),
không tin rằng Thiên Chúa quý con người hơn mọi thụ tạo khác.
hơn giống chim trời, hơn hoa ngoài đồng nội.
Lo âu đó chi phối quá khiến người ta cứ loay hoay, bối rối tự hỏi:
ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? (c. 31).
Lo âu này khiến người ta bất an và sợ hãi, vì là lo âu một mình,
quên rằng mình có Người Cha biết rõ những nhu cầu thiết yếu (c. 32),
và sẵn sàng lo cho mình những điều cần dùng (c. 33).
Lo âu này cũng khiến người ta tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu của mình
hơn là ưu tiên tìm kiếm xây dựng Nước Thiên Chúa (c. 33).
Kitô hữu không phải là người ngây thơ, sống không lo ngày mai.
Kitô hữu là người biết lo liệu, lo toan cho cuộc sống của họ.
Nhưng họ không căng thẳng vì phải bơ vơ lo một mình.
Họ lo như một người con trưởng thành, cùng lo với Thiên Chúa Cha.
Họ lo một cách thư thái nhẹ nhàng như loài chim buổi sớm đi tìm thức ăn.
Kitô hữu nắm được chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình an.
Đó là cứ tìm kiếm Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác sẽ được ban dư dật.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người - cũng như con -
đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Suy Niệm 2: Không thể làm tôi hai chủ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su dứt khoát nói với ta: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được”. Ai lo tìm những giá trị đời này sẽ bỏ quên Thiên Chúa. Ai tìm Thiên Chúa sẽ không màng gì những lợi lộc đời này. Vì Thiên Chúa đã ban cho ta điều cơ bản nhất: sự sống. Thế mà ta cứ lo tìm những gì phụ thuộc. “Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” Chúa đưa ra ví dụ cụ thể. Chim trời không gieo không gặt vẫn được Chúa nuôi dưỡng. Bông hoa ngoài đồng không dệt không may mà áo đẹp còn hơn vua chúa. Huống chi chúng ta là con cái của Chúa. “Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” Vì thế Chúa khuyên ta cứ an tâm phục vụ Thiên Chúa. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Gio-át là người hai lòng hai dạ. Ông đã thờ phượng Chúa. Nên được Chúa phù hộ. Qua thầy cả Giơ-hô-gia-đa. Nhưng nghe lời xiểm nịnh của các thủ lãnh Giu-đa ông đã thay lòng đổi dạ. Bỏ “Đền Thờ của Đức Chúa là Thiên Chúa tổ tiên họ, mà phụng sự các cột thờ và các ngẫu tượng”. Tư tế Da-ca-ri-a, là con tư tế Giơ-hô-gia-đa, đứng lên ngăn cản. “Họ liền toa rập chống lại ông và, theo lệnh vua, họ ném đá giết ông trong sân Đền Thờ Đức Chúa”. Vì thế Chúa đã từ bỏ ông. Một số ít quân đội A-ram tiến đánh. Nhưng số đông Giu-đa thua trận. “Vua bị giết ngay trên giường. Vua đã chết,…nhưng không được chôn nơi phần mộ hoàng gia” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô là người chỉ chọn phụng sự Thiên Chúa. Ngài đã từ bỏ mọi lợi lộc trần gian. Tuy được Thiên Chúa yêu thương ban tràn đầy ân sủng. Một ân huệ lớn lao là được đưa lên tầng trời thứ ba. Nhưng ngài vẫn còn chịu đau khổ. “Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi”. Đó là thiệt thòi ngài chịu nơi trần gian. Ngài tha thiết xin Chúa “cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Và điều lạ lùng xảy ra. “Tôi tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi… Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”. Khi hoàn toàn không còn trông cậy gì ở trần gian. Chỉ trông cậy vào Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ làm việc. Và thánh nhân “cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô”. Từ bỏ trần gian. Chỉ phụng sự Chúa. Sẽ có tất cả (năm lẻ).
Suy Niệm 3: Thiên Chúa quan phòng
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng cho mạng sống mình: sẽ ăn gì? mặc gì? ngày mai sẽ ra sao?, mà phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa. Ngài đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự quan phòng liên lỉ của Thiên Chúa: chim trên trời, bông huệ ngoài đồng, chúng có đáng gì đâu, thế mà Thiên Chúa vẫn hằng nuôi nấng, để ý đến, huống chi con người, vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính giá máu Ngài.
Ðọc kỹ bản văn của Matthêu, chúng ta thấy có bốn lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến nỗi mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói như thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm nơi của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: "Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?". Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
Thiên Chúa biết rõ chúng ta không phải là những con chim hay bông hoa ngoài đồng, mà là những con người phải làm việc để nuôi thân và góp phần xây dựng gia đình và xã hội. Chúa dạy chúng ta "trước hết hãy tìm" nghĩa là hẫy đặt đúng chỗ công việc: việc nào trước, việc nào sau. "Trước hết hãy lo tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài", lời này đặt nền tảng cho người Kitô hữu trong việc chọn lựa: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người và công việc của chúng ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với Chúa; đảo lộn trật tự này tức là đi ngược thánh ý và chương trình của Thiên Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem từ trước đến giờ, chúng ta đã chọn Chúa hay chọn tiền bạc? Ðã quá lo lắng đến vật chât hay đã luôn tín nhiệm vào Thiên Chúa quan phòng? Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm trước hết Nước Chúa và sự thánh thiện, và tin chắc rằng Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi sự khác mỗi khi chúng ta cần đến, vì Chúa là Cha chúng ta và hằng yêu thương săn sóc chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Như loài chim
“Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt. 6, 25-26)
Chim trời và hoa huệ ngoài đồng
Sống như loài chim. Chẳng phải lo đến cơm ăn áo mặc. Sống như vậy thật thảnh thơi tuyệt vời và không thiếu những vần thơ. Có những ngày nào đó, ta mong ước được sống như vậy. Nhưng cuộc sống còn đó với lắm đòi hỏi nhiêu khê. Chúng ta đâu phải là những cánh chim trời. Phải có tiền để mua lương thực và còn dành dụm đôi chút. Và mọi cái đều đắt đỏ, mỗi ngày lại đắt hơn. Những kẻ có đồng lương tối thiểu, hoặc những ai đành phải hưởng trợ cấp của chính phủ, thì ít có thích thú mơ ước được sống như loài chim. Chỉ những người giầu có, có lẽ có thể thực hiện được giấc mơ tương tự và có thể biến ước mơ thành hiện thực. Những người bình thường thường phải chắt chiu từng xu và cố dành dụm lấy vài đồng, bởi lẽ những ngày xấu và những tai ương biết đâu lại chẳng ập tới và thường nhanh hơn không ngờ.
Chúa Giêsu tỏ ra nghiêm chỉnh
Tất cả những điều trên đều đúng. Thế nhưng Chúa Giêsu không chế nhạo ai, khi Người mời gọi người ta sống như chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Hãy hiểu cho đúng. Chúa không đòi hỏi ai phải tỏ ra hoàn toàn vô lo về những của cải vật chất. Điều Người mong muốn, chính là sự lo lắng kiếm tiền, và lo luôn luôn kiếm được nhiều tiền hơn, không được là nỗi bận tâm hàng đầu của ta. Ngoài chuyện ăn ngon mặc đẹp, còn có những chuyện khác quan trọng hơn trong cuộc đời. Ngoài chuyện bảo đảm tài chánh cho ngày mai, còn có chuyện khác bắt ta phải chú ý tới.
Sống cho một điều khác, chứ không phải sống vì tiền bạc. Sống không quá cồng kềnh. Sống luôn tin tưởng vào ngày mai. Sống hiến dâng từng giờ và từng giờ cho lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương mọi người. Đó chính là lối sống Chúa Giêsu muốn đề nghị cho ta. Thật sự có kiểu sống nào tuyệt hảo hơn không?
Suy Niệm 5: Đâu là ‘trục’ của việc chúng ta kiếm tìm?
Nếu ta đọc đoạn Tin Mừng tuyệt diệu này, sau khi nghe tin tức hoặc nhìn xem sự lưu thông của một xa lộ qua khung cửa sổ, ta sẽ cảm thấy một tương phản gắt gao đến độ tự hỏi: cái gì là thật và cái gì là không thật? Trong thế giới chúng ta sống, đâu là sự tìm kiếm ưu tiên cho Nước Chúa và sự công chính của Người? Một thế giới sai trục đi về đâu, bởi vì “tỷ số tăng trưởng” của nó đã bị rối loạn? Trong suốt lịch sử đời sống nhân loại, con người đã chiều theo cám dỗ kiếm tìm không ngừng sự thụ hưởng vật chất, trong khi định mệnh con người lại là thiêng liêng. Ở đây, Chúa Kitô, bằng những từ ngữ bóng bẩy, mời gọi con người đi tìm cái chính yếu. Ngài không khuyên dạy sự phó thác thụ động nơi Chúa quan phòng, cũng không dạy việc khinh chê các nhu cầu thể xác và tinh thần, cũng không cổ võ một thứ lạc quan thuyết vô tư. Ngài chỉ nói lên điều nào cần trước nhất và điều nào phụ thuộc vào. Người môn đệ Chúa Kitô, đã trở nên con Thiên Chúa trong Đức Kitô, đương nhiên phải tìm kiếm trước nhất Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người; công việc dưới đất phải được suy tư, sắp xếp theo sự công chính của Nước này, và hoa quả của nó sẽ được Cha trên trời ban thêm cho.
Từ ngữ của thánh Mátthêu và thánh Gioan gặp nhau ở đây để nói lên rằng: phải đặt ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời. Nó phải được ưu đãi, và nếu cần, phải loại bỏ những gì làm cản trở bước tiến của nó. Cũng như Đức Kitô miệt mài trong việc tìm kiếm chuyên nhất Ý Chúa Cha và tìm thấy nơi đó niềm an vui, cũng thế, người Kitô hữu, noi gương Đức Kitô, phải tìm kiếm cũng một Thánh Ý này, vì đó là vận mệnh, là mức viên mãn của mình, và đồng thời cũng là sự thành đạt của xã hội loài người. Kiếm tìm Nước Chúa không phải là một việc làm giữa bao việc làm khác. Đây là việc làm chính. Nó liên lụy toàn con người. Hơn nữa sự kiếm tìm này giải thoát tâm hồn khỏi những lắng lo và bận tâm, vì Thiên Chúa chắc chắn sẽ ban cơm ăn áo mặc cho kẻ nào, sau khi đã làm việc cách bình thường, biết đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa về những sự còn lại.
Đối với những nhu cầu vật chất, tôi có thái độ của người ngoại giáo hay Kitô giáo?
Suy Niệm 6: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”
Vở kịch “Con người của mọi mùa” là một câu chuyện có thật về thánh Thomas More.
Trong một màn, một người bạn gây áp lực buộc thánh nhân phải ký giấy xác nhận rằng cuộc hôn nhân giữa vua Henry VIII và Anne Boleyn là hợp pháp. Nếu không chịu ký, vua sẽ buộc tội ngài là phản quốc.
Thánh nhân từ chối, vì Ngài nghĩ rằng cuộc hôn nhân này là bất hợp pháp. Người bạn của ngài giận dữ nói: “Anh cứ làm rối tung mọi thứ. Thực ra, tôi không biết cuộc hôn nhân này có hợp pháp không. Nhưng quỷ quái thật, Thomas, hãy nhìn vào danh sách này, anh biết chứ! Anh không thể thỏa hiệp vì tình bạn sao?”. Thomas More vẫn từ chối, ngài không thể làm tôi hai chủ được.
Chỗ nào trong cuộc đời tôi bị áp lực làm tôi hai chủ?
“Này con, đừng bao giờ tạo ra một tình bạn hoặc giữ một tình bạn bằng cách làm một điều sai trái”. (Robert E. Lee).
Suy Niệm 7: Tin vào Chúa quan phòng
Xem lại CN 8 TN A, Lễ mùng một Tết.
Khi nói đến khái niệm “Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng”, ấy là lúc chúng ta nói đến sự can thiệp của Thiên Chúa cách nhiệm mầu, khiến con người không thể ngờ cũng như không thể hiểu được.
Tuy nhiên, sự quan phòng của Thiên Chúa không giống như kiểu quan niệm của những người không có niềm tin. Những người đó thường hay coi đó như là một định mệnh, hay số mệnh đã được ấn định trước cho mỗi người phải chịu một kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành công hay thất bại giống như kiểu rút thăm, rút số ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.
Nhưng quan phòng theo mặc khải của Thánh Kinh có hai vế: về phía Thiên Chúa, Người là Đấng Khôn Ngoan, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy lo toan cho con cái, luôn tìm dịp để ban phát cho con của mình những điều tốt đẹp nhất, đồng thời luôn bảo vệ để chúng được an lành; còn về phía con người, được mời gọi tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì không thể nào một người con xin cá, mà cha hay mẹ của mình lại cho rắn hay bọ cạp, xin bánh lại cho đá...
Hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ và cũng là mời gọi mỗi người chúng ta: hãy tin tưởng vào một mình Thiên Chúa, không được “bắt cá hai tay”, tức là làm tôi hai chủ. Thiên Chúa, Đấng Yêu Thương luôn chăm sóc anh em mọi lúc. Hãy xem chim trời, hoa huệ ngoài đồng thì sẽ thấy được tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người là dường nào!
Tuy nhiên, sự tin tưởng vào Chúa không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ theo kiểu: “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. “Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, ước gì tâm hồn chúng con được như em bé nằm gọn trong vòng tay Chúa để được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Chúa và biết cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ mà Chúa đang thực hiện trong trần thế hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 8: Thiên Chúa thương yêu quan phòng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa là Cha chúng ta, nên ta phải biết cậy trông phó thác. Đừng sống như kẻ không có Cha trên trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa vì Chúa thương nhận con là con cái Chúa và hằng thương yêu quan phòng cho cuộc đời con.
Lạy Chúa, mỗi người mỗi phận. Con cũng như bao người phải lo phận mình. Sống vô lo như chim trời, cây cỏ, mà chẳng dùng trí khôn Chúa ban để tính toán làm ăn, đó là sống thiếu trách nhiệm. Chúa không dạy con sống vô trách nhiệm. Nhưng ngược lại có lắm người và đôi khi cả con nữa quá lo lắng đến độ quên Chúa là Cha Toàn Năng và hằng thương yêu con người.
Khi con lo lắng cào cấu sao cho có nhiều của cải tiền bạc mà quên luật công bình bác ái…, chính là lúc con đang quên Chúa là Cha và quên mọi người là anh em. Nếu tiền của trở thành ông chủ đời con, nó dắt con đến tình trạng mất nghĩa cùng Chúa và mất tình với anh em.
Xin giúp con luôn cố gắng làm việc với tất cả trí khôn Chúa ban để thăng tiến bản thân và giúp đỡ mọi người. Tiền của phải làm công cụ phục vụ con dưới sự hướng dẫn của lề luật Chúa. Con sẽ chỉ được tự do khi biết chọn Chúa làm chủ đời mình.
Xin giúp con biết làm tôi Chúa cách trung thành, không vì đồng tiền của cải mà sao lãng bổn phận thờ phượng Chúa, không vì công ăn việc làm mà từ chối giữ luật Chúa. Xin Chúa ban ơn để con luôn trung thành với Chúa: lúc vui và cả khi buồn, khi thành công và cả khi thất bại.
Lạy Chúa, con xin phó thác đời con nơi Chúa. Xin Chúa giúp con luôn sống như một người con đẹp lòng Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai”.
Suy Niệm 9: Phó thác trong tay Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo hoàng của lòng nhân hậu. Một ngày kia, có một vị Giám mục đến gặp Ngài và chia sẻ những lo âu, nhọc nhằn, mất ngủ… vì trách nhiệm chủ chăn, rồi xin ngài cho một lời khuyên. Sau khi nghe những tâm sự của vị Giám mục, Đức Giáo hoàng mỉm cười và nói: “Khi mới được bầu làm Giáo hoàng, tôi cũng lo âu và mất ngủ như Đức Cha vậy. Thế rồi một hôm trong giấc ngủ, có một thiên thần hiện đến vỗ vào cái bụng to của tôi và nói: “Gioan ơi, ngươi chớ lo lắng thái quá, hãy phó thác trong tay Chúa và nghỉ ngơi cho khỏe”. Kể từ hôm đó, tôi không bị mất ngủ nữa”.
Suy niệm
Lo âu, đó là sự thương tình của con người, đặc biệt là trước những sự việc quan trọng, trách nhiệm nặng nề và lao công vất vả trong cuộc sống để mưu sinh…
Thế nhưng, Chúa Giêsu muốn con người sống trong bình an hạnh phúc, Ngài muốn con người “đừng lo lắng”.
Chúa Giêsu đã khuyên dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những sự khác, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,33-34). Ngài đưa ra hình ảnh chim không lo gieo trồng và làm lụng vất vả vẫn được nuôi sống, hoa đồng nội không dệt may vẫn được mặc sắc màu đẹp tươi, tất cả được đặt dưới sự quan phòng của Tạo hóa. Hình ảnh quá ấn tượng, tuyệt vời diễn ra chung quanh mỗi ngày mà ta chưa nghiệm ra tình yêu quan phòng của Thiên Chúa cho vạn vật của vũ trụ. Hình ảnh cũng dễ làm chúng ta có thể hiểu sai ý của Đức Kitô: Đừng làm gì cả, sống vô tư như anh chàng ngồi dưới gốc cây chờ sung rụng. Thật thế, Đức Giêsu đã không nói rằng không nên làm việc. Ngài cũng không bao giờ khuyến khích con người lười biếng, vô tư ỷ vào lòng bố thí của bá tánh khi đi ăn xin, vô nghề nghiệp.
Thiên Chúa luôn khuyến khích con người lao công, vì chính Ngài đã truyền cho con người ngay từ thuở tạo dựng vũ trụ: “Hãy thống trị đất và bắt nó phục tùng” (St 1,28). Đức Giêsu khẳng định của ăn có được là do lao công: “Vì thợ đáng được nuôi ăn” (Mt 10,10).
Lo lắng làm việc là trách nhiệm của con người với Thiên Chúa với anh em với vũ trụ vạn vật nhưng Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa”, gợi lên ý nghĩa Kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu dạy cầu nguyện nước Chúa và danh Cha trước hiển trị trên trời và dưới đất rồi mới đến cơm bánh nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
“Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” cũng có nghĩa là một lối sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa theo yêu cầu và luật lệ của nước Ngài.
Cho nên, việc tìm kiếm nước Thiên Chúa không phải là một sự chờ đợi tiêu cực, không chỉ là một thái độ tôn giáo nội tâm, nhưng là một lối thực hành đức công chính, là sự dấn thân như bài giảng bát phúc đã trình bày (x. Mt 5,1-12).
Tuy nhiên, sự nỗ lực của con người không chỉ là sự cố gắng của bản thân mà cùng đồng hành với Thiên Chúa, Đấng luôn ở với chúng ta mỗi ngày cho đến tận thế như lời hứa của Ngài (x. Mt 28,20), Đấng tỏ ra với con người qua lời ngôn sứ Isaia: “Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49,15).
Chúa Giêsu khuyên dạy: “Đừng lo lắng cho mạng sống, lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể, lấy gì mà mặc…” (Mt 6,25). Tin mừng Matthêô dùng 6 lần động từ “lo lắng” cùng với lời khuyên nhủ: “đừng lo” để nói lên lời khẩn bách mời gọi từ bỏ mọi âu lo thái quá, vì cả cuộc sống của ta đã được đặt trước mặt Thiên Chúa Cha là Đấng “biết rõ điều ta cần” (x. Mt 6,8.32). Thánh Phêrô mời gọi chúng ta: Mọi lo âu, hãy trút cả cho Chúa, vì Người chăm sóc anh em (x. 1Pr 5,7).
Cuộc sống hằng ngày vốn nhiều lo lắng: Lo lắng và ám ảnh một quá khứ vất vả, thất bại khiến chúng ta không dám bước vào hiện tại và tiến tới tương lai. Lo lắng về một hiện tại chưa thành công, còn nhiều vất vả, không đủ nương tựa vào cuộc sống, khiến ta luôn mệt mỏi không dám dấn thân; lo lắng về việc cơm áo gạo tiền, khiến chúng ta rơi vào trạng thái lo âu triền miên. Vì thế, sẽ lo lắng về một tương lai mịt mù không có chút ánh sáng để tiếp tục bước đi. Giữa biển đời ngập tràn lo âu, lời thánh Âugustinô chia sẻ cho chúng ta: “Phó thác quá khứ cho lòng thương xót của Chúa, hiện tại cho tình yêu của Ngài, và tương lai cho sự quan phòng của Ngài”.
Ý lực sống:
“Tin vào Người, thì Người sẽ nâng đỡ con. Đường con đi, hãy giữ cho ngay thẳng và trông cậy vào Người” (Hc 2,6).
Suy Niệm 10: Tin vào Chúa quan phòng (Mt 6,24-34)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
“Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”. Đó là một lời cảnh giác cho những ai quá coi trọng, suy tôn tiền của mà bỏ quên Thiên Chúa. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy cậy trông, tin tưởng vào Cha đầy quyền năng và tình thương. Hãy phó thác cuộc đời chúng ta cho Cha, Cha sẽ làm cho chúng ta tất cả những gì tốt đẹp nhất.
“Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Dù trong địa vị nào, con người vẫn muốn “bắt cá hai tay”, đối với họ thì Chúa cũng muốn mà xa hoa cũng muốn. Thật ra, tiền của không có gì là xấu xa mà là rất cần thiết cho cuộc sống, nhưng nó sẽ xấu khi ta trở thành nô lệ chúng, để rồi vì tiền mà không ngại bất cứ thủ đoạn nào phạm đến Chúa và tha nhân. Nhất là vì lo chạy theo tiền bạc mà quên mất việc đạo đức rồi dần dần tiền của lấn át cả Thiên Chúa, tiền và những lo toan vật chất ngự trị trong tâm hồn ta thay cho Thiên Chúa.
Đọc kỹ bản văn Mátthêu, chúng ta thấy có sáu lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm vào của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: “Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?” Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: hãy giúp mình rồi trời sẽ giúp cho.
Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác (của ăn, áo mặc, tuổi thọ), vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Sở dĩ con người lo lắng thái quá mà mất đi cả hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Con người còn hơn chim trời cũng như hoa cỏ đồng nội bội phần. Nếu con người biết tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, biết đón nhận từng giây phút hiện tại Ngài ban cho, thì con người sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình. Ngược lại, con người sẽ phải vất vả cực nhọc và cuối cùng, cũng chỉ là người bắt bóng.
Hãy tin vào Chúa quan phòng
Chúa Giêsu không chủ trương cho chúng ta lười biếng hay ỷ lại, mà là muốn chúng ta đừng quá tin cậy vào sức mình, nhưng cần đến sự tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự tin tưởng vào Chúa quan phòng không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy theo ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
“Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa: Biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Người dựng nên mọi sự tốt đẹp, biết xây dựng Nước trời cho tình thương của Thiên Chúa trải rộng khắp mọi nơi (Hiền Lâm).
“Chỉ có một đường đến hạnh phúc, đó là ngừng lo lắng về những gì vượt khả năng ý muốn của mình” (Triết gia Epictetus). Trong Tin mừng hôm nay, kiểu nói đừng lo được lặp lại đến 6 lần, điều đó cho thấy Chúa Giêsu lưu ý ta đừng để những nỗi lo về nhu cầu của cuộc sống này khiến ta quên đi, - hoặc gạt qua một bên, hoặc coi như chuyện nhỏ, - việc tìm kiếm Nước trời cũng như việc nên thánh trong cuộc đời ta. Ngài không bảo ta vô trách nhiệm với bản thân và gia đình, lười biếng làm việc mưu sinh, vô lo về ngày mai. Trái lại, Ngài dạy ta tin tưởng, cậy trông nơi Thiên Chúa là Cha quan phòng yêu thương. Cha lo liệu cho chim trời, hoa huệ, huống chi con người được Cha yêu thương, đến nỗi ban Con Một cho ta, dẫn ta đến Nước trời (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Đừng quá lo cho ngày mai
Một thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến hỏi một ngư phủ:
- Sao anh không đi đánh cá?
Chàng ngư phủ trả lời:
- Tôi đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy câu trả lời chưa được thoả mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn?
Thay vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại:
- Nhưng thưa ông để làm gì?
Với đầu óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường hướng làm ăn cho anh chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
- Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ là một người giàu có.
Chàng ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia nên hỏi tiếp:
- Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời:
- Rồi anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Lúc ấy, chàng ngư phủ mỉm cười nói:
- Thế tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui sướng cuộc đời hay sao?
Suy Niệm 11: Hãy chọn làm tôi Thiên Chúa
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Phân tích
Bài Tin Mừng này có hai ý lớn:
1. Không ai có thể làm tôi hai chủ. Vậy phải chọn làm tôi Thiên Chúa hay làm tôi tiền của.
2. Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác: của ăn, áo mặc, tuổi thọ; vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Suy gẫm
1. Trong câu Chúa Giêsu cảnh cáo về việc làm tôi tiền của, chữ “Tiền Của” được viết hoa, ngụ ý đó là một thứ tà thần. Thật vậy, tiền của có sức ám người ta tất mạnh, và có sức phá hoại mọi thứ đạo đức. Đừng bao giờ coi thường nguy hiểm của nó.
2. Một ông già trúng số độc đắc 100 triệu, ông bị bệnh tim, gia đình lo sợ tin vui sẽ giết mất ông. Vì thế họ đến gặp một mục sư, xin ngài đến thăm dò và hỏi xem ông cụ sẽ làm gì nếu có 100 triệu. Ông nói: “Tôi sẽ cho ngài và cho Nhà thờ một nửa” mục sư té xỉu.
3. Sở dĩ con người lo lắng thái quá và từ đó không còn được hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận từng giây phút hiện tại sống sung mãn từng khoảnh khắc cuộc sống. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa cũng có nghĩa là chấp nhận các khuyết điểm của mình, khoan dung đối với những giới hạn của người khác, và nhìn mỗi thất bại như một cơ may mới.
4. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6, 34).
Cuộc sống hiện tại với bao nhiêu mới mẻ, hấp dẫn khiến mình phải chạy đua với thời gian, với model của thời đại và ước muốn hoàn thiện bản thân. Mà muốn thành công trong một lĩnh vực nào đó, là cả một quá trình. Vậy mà mình muốn đạt được ngay. Thế là cứ lo nghĩ, dự định với kế hoạch mà không đủ can đảm thực hiện nó trong giây phút hiện tại và như thế ngày nào cũng bận tâm lo nghĩ về tương lai chỉ thêm chán nản.
Cuộc sống luôn đòi hỏi mỗi người chúng ta ở việc học, cách sống, sự an toàn, sự chia sẻ, sự cảm thông, khả năng yêu thương đối với tha nhân. Tại sao mình không chịu bắt tay vào những công việc đó ngay trong những giây phút này? Như thế có tốt hơn chăng hay cứ hoài lo âu nghĩ ngợi!
Lạy Chúa, mải loay hoay với những tính toán cho tương lai mà con quên mất mình đang sống ở đâu và phải làm gì. Xin Chúa cho con can đảm sống tốt giây phút hiện tại với Chúa, với anh em và chính bản thân con.
Suy Niệm 12: Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Bài Tin Mừng này có hai ý lớn:
1. Ý thứ 1: Không ai có thể làm tôi hai chủ (Mt 6,24). Vậy, phải chọn một là làm tôi Thiên Chúa hai là làm tôi Tiền Của.
Abraham từ ngày được Thiên Chúa chọn, ngày càng sống thân tình với Thiên Chúa hơn và xa cách các thần tượng. Thấy thế, ông thân sinh dẫn ông Abraham đến trước mặt vua Ramos, nhà vua hỏi Abraham:
- Tại sao ngươi lại không tôn thờ các thần tượng của vương quốc?
Abraham trả lời với giọng cương quyết không hề sợ hãi:
- Tâu hoàng thượng, bởi vì lửa thiêu rụi các thần tượng ấy.
- Như vậy thì hãy tôn thờ lửa - Vua trả lời. Nhưng Abraham đáp:
- Nếu thế, hạ thần tôn thờ nước tốt hơn, vì nước dập tắt được lửa.
- Thế thì hãy tôn thờ nước.
- Tâu hoàng thượng, không. Hạ thần tôn thờ mây thì tốt hơn, bởi nước từ mây mà ra.
- Thế thì hãy tôn thờ gió.
Nghe thế, Abraham trả lời vua Ramos:
- Nếu gió là thần thì ta hãy tôn thờ con người, vì con người có hơi thở.
Vua Ramos kiên nhẫn:
- Vậy thì hãy tôn thờ con người.
Abraham trả lời:
- Tâu hoàng thượng, không. Vì con người phải chết.
Nhà vua giận dữ quát lên.
- Vậy thì hãy tôn thờ sự chết đi.
Sau cùng Abraham nói: - Đấng duy nhất tôn thờ là chủ tể của cả sự sống và sự chết, đó là Thiên Chúa, Chúa của hạ thần.
Sau cuộc cãi nhau với vua Ramos, Abraham trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa bởi vì ông vén mở cho nhà vua thấy sự thật và sứ điệp của Chúa muốn nhắn gởi.
2. Ý thứ hai: Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác (của ăn, áo mặc, tuổi thọ) vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Sở dĩ con người lo lắng thái quá mà mất đi cả hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Con người còn hơn chim trời cũng như hoa cỏ đồng nội bội phần. Nếu con người biết tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, biết đón nhận từng giây phút hiện tại Ngài ban cho, thì con người sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình. Ngược lại, con người sẽ phải vất vả cực nhọc và cuối cùng, cũng chỉ là người bắt bóng.
Một thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến hỏi một ngư phủ:
- Sao anh không đi đánh cá?
Chàng ngư phủ trả lời:
- Tôi đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy câu trả lời chưa được thỏa mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn nữa?
Thay vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại:
- Nhưng thưa ông để làm gì?
Với đầu óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường chỉ hướng làm ăn cho chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
- Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ là một người giàu có.
Chàng ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia nên hỏi tiếp:
- Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời.
- Rồi anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Nghe vậy, chàng ngư phủ mỉm cười nói:
- Thế tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui hưởng cuộc sống hay sao?
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nói với chúng ta: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa” (Mt 6,33). Phải chăng khi khuyên chúng ta, đừng lo về miếng cơm manh áo, là Chúa đã muốn gieo vào trong đầu óc chúng ta tư tưởng ươn lười, chỉ muốn sống dựa dẫm vào người khác? Chắc chắn là không.
Đây là lời cầu nguyện trích từ sách Gương Chúa Giêsu:
Lạy Chúa, Xin ban cho con ơn Chúa Thánh Thần, để con được vững chí.
Xin ban sức mạnh củng cố con người nội tâm trong con. Xin giải thoát tâm hồn con khỏi những lo lắng, sầu muộn vô ích. Đừng để nó bị quyến rũ theo đuổi một của gì bất luận sang hèn, một hãy làm cho con coi tất cả như là của mau qua.
Lạy Chúa! Xin ban cho con ơn khôn ngoan của trời, để con biết đi tìm cho được Chúa trước hết, cảm mến Chúa trên hết và nhận định mọi cái khác theo trật tự mà Thượng trí Chúa định liệu cho con.
Vì ai đứng vững được trước những giọng nói ngả nghiêng, ai bưng tai được trước những lời phỉnh nịnh, người đó mới thực là khôn. Amen.
17/06 Kho tàng trên trời
- Viết bởi Mt 6, 19-23
Kho tàng trên trời.
Thứ Sáu tuần 11 thường niên.
"Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".
Lời Chúa: Mt 6, 19-23
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó.
Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm.
Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Kho tàng ở đâu, tim ở đó
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cuộc sống con người ở đời thật mong manh và bấp bênh.
Vì thế con người muốn tìm cho mình một cái gì chắc chắn.
Của cải vật chất hứa hẹn cho con người một chỗ dựa an toàn.
Càng có nhiều của cải thì càng vững:
nhiều người đã thành thật tin như vậy
nên đã suốt đời lo tích trữ một kho tàng trên trần gian.
Thầy Giêsu không tin như thế.
Đối với Thầy, kho tàng dưới đất cũng mong manh và bấp bênh.
Thời xưa mối mọt là kẻ thù đáng sợ của nhiều thứ tài sản (G 4, 19).
Nhà cửa, đồ đạc đều có thể làm mồi cho chúng.
Thật ra vật chất tự nó đã mang mầm mống hư hoại rồi.
Hơn nữa, sự đe dọa không chỉ đến từ bên trong.
Kẻ trộm là nguy hiểm có thực đối với những căn nhà thời ấy.
Hắn có thể đào ngạch, khoét vách làm bằng bùn,
để lấy đi những của cải thường được chôn dấu dưới đất (c. 19).
Kho tàng dưới đất quả là không bền.
Thầy Giêsu đề nghị chúng ta tích trữ một cách khôn ngoan hơn,
tích trữ một kho tàng gì đó mà mối mọt không đục khoét được
và kẻ trộm không sao ăn cắp được.
Đó là thứ kho tàng trên trời được tích trữ qua bao việc lành,
những việc ta làm theo ý Thiên Chúa.
Có một sự khác biệt lớn giữa kho tàng trên trời và kho tàng dưới đất.
Tích trữ kho tàng dưới đất khiến ta cậy dựa vào của cải đời này.
Tích trữ kho tàng trên trời đòi ta hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa.
Kho tàng ở đâu thì tim anh ở đó (c. 21).
Kho tàng trên trời sẽ nâng tim anh lên trời cao.
Kho tàng dưới đất sẽ kéo tim anh xuống đất thấp.
Trái tim là nơi sâu thẳm của tâm linh con người.
Chính vì thế thi thoảng cần kiểm tra xem tim mình đang ở đâu,
kho tàng nào đang khiến mình gắn bó.
Chúng ta phải ngừng theo đuổi những kho tàng mau qua
để gắn bó với những giá trị thực sự bền vững.
Con người thời nay cũng phải sống trong sự bấp bênh triền miên.
Càng tiến bộ kỹ thuật lại càng có nhiều bất ổn, bất trắc,
nên đời sống vẫn không vì thế mà được thư thái bình an.
Nhiều người đã cảm được sự phù du của vật chất và tiếng tăm.
Tiền bạc và quyền lực như nước trôi qua kẽ tay, chẳng ai nắm được.
Thầy Giêsu mời chúng ta đổi mới cái nhìn.
Đừng nhìn bằng mắt xấu, nghĩa là bằng cặp mắt thèm muốn, tham lam.
Hãy nhìn bằng mắt tốt, nghĩa là bằng cặp mắt siêu thoát, quảng đại.
Cái nhìn bằng mắt tốt sẽ đem lại ánh sáng cho toàn thân (c. 22).
Cái nhìn bằng mắt xấu sẽ gây ra bóng tối kinh khủng (c. 23).
Con mắt là ngọn đèn cho thân thể.
Ước gì con mắt tôi biết thấy Chúa là kho tàng đích thực của mình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Tích trữ kho tàng trên trời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tích trữ thường đi với đầu cơ. Thu thập của cải, hàng hóa, hoặc tiền bạc để dành chờ khi cần đem ra dùng hoặc bán lại với giá thật cao, thu được nhiều lợi. Có nhiều món hàng hôm nay chẳng có giá trị gì nhưng mai sau giá cao khôn lường. Tùy tầm nhìn, tùy chuyên môn, tùy thời hạn, có người tích trữ nhà đất, có người tích trữ vàng bạc, có người tích trữ thóc lúa, có người tích trữ tranh ảnh, có người đầu tư vào con người như bà Giơ-hô-se-va đã bồng Gio-át vào trốn trong Đền Thờ, thoát lưỡi gươm của A-than-gia. Sáu năm sau ông trở thành vua cai trị Í-ra-en (năm chẵn).
Chúa Giêsu khuyên ta hãy khôn ngoan tích trữ kho tàng sao cho không bao giờ hư hao hay bị mất mát. Đó là kho tàng ở trên trời. Kho tàng trên trời khác hẳn kho tàng dưới đất. Giữa hai kho tàng, ta phải khôn ngoan lựa chọn. Lựa chọn này không phải dễ dàng vì kho tàng dưới đất là thứ khả giác, dễ thấy còn kho tàng trên trời vô hình khó thấy. Kho tàng dưới đất tiện dụng ngay tức khắc, kho tàng trên trời chỉ dùng được ở đời sau. Kho tàng dưới đất đem lại tiện nghi hưởng thụ cho hiện tại. Kho tàng trên trời phải chấp nhận thiệt thòi trong hiện tại để được hưởng thụ trong tương lai.
Thánh Phaolo đã khôn ngoan khi từ bỏ kho tàng dưới đất để tích trữ kho tàng trên trời khi từ bỏ những ưu thế, phẩm giá, quyền lợi của ngài trong thế giới Do thái để chấp nhận bị đánh đòn, bị ném đá, bị đắm tàu, bị nguy hiểm, chịu đói khát, rét mướt trần truồng vì Chúa và vì Tin Mừng. Đó là ngài tích trữ kho tàng ở trên trời. Ngoài ra ngài còn chăm lo cho Hội Thánh là di sản Chúa Giê-su để lại: “Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh” (năm lẻ).
Lựa chọn lý tưởng là nền tảng cho cuộc sống. Sáng suốt sẽ chọn được lý tưởng tốt và sẽ đạt tới hạnh phúc. Người khôn ngoan trong Chúa có cặp mắt sáng là người có lựa chọn đúng. Nếu chọn sai là mắt có vấn đề, nhìn không thấy mà chọn lựa bóng tối sẽ đi trong bóng tối. Đã lựa chọn nền tảng sai thì cả cuộc đời chìm trong bóng tối.
Xin cho con khôn ngoan, có đôi mắt sáng để biết chọn lựa, chấp nhận những đau khổ thiệt thòi ở đời này, đó chính là tích trữ kho tàng trên trời, để sau này được hưởng hạnh phúc đích thực trong Nhà Cha, nơi hạnh phúc vững bền mãi mãi.
Suy Niệm 3: Hai tư thế
Trong điện Vatican, có treo một bức họa nổi tiếng của Rafaelo mang tên là "trường phái Athène", mô tả dung mạo và sứ điệp của hai triết gia Hy Lạp là Aristote và Platon. Danh họa Rafaelo mô tả Aristote đứng vững trên mặt đất, một tay cầm cuốn sách luân lý, một tay chỉ xuống mặt đất; còn Platon thì được vẽ hai chân chỉ chạm nhẹ mặt đất, một tay cầm cuốn sách, một tay chỉ về trời cao. Trong hai tư thế khác nhau này, Rafaelo muốn nói lên khía cạnh nổi bật của thiên tài Hy Lạp, đồng thời là hai chiều kích căn bản của ơn gọi làm người, đó là chinh phục mặt đất, đồng thời vượt qua vật chất, vượt khỏi tầm mức những gì thấy được; vừa dấn thân trong lãnh vực trần thế, vừa biết hướng về trời cao và những giá trị đời đời.
Tin mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay cũng mời gọi chúng ta đang sống trong ơn gọi trên trần gian, nhưng hãy biết hướng về trời cao, nơi tích chứa của cải đích thực. Tin Mừng nhắc đến hai tư tưởng: một mời gọi con người hướng về trời, một mời nói lên vai trò của mắt, không phải mắt thân xác, nhưng là mắt tinh thần, mắt đức tin hướng dẫn cuộc sống con người. Suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể nhận ra được liên hệ giữa hai tư tưởng này. Sự tăm tối tinh thần là điều đáng sợ hơn cả, vì không nhận thấy đâu là điều phúc thật của con người. Do mù quáng tinh thần và chỉ nhận của cải, danh vọng, quyền bính là phúc thật, con người sẽ tìm cách có được những thứ ấy càng nhiều càng tốt. "Kho tàmg của con ở đâu, thì lòng con ở đó". Ðó là định luật tâm lý tự nhiên của con người. Nếu tôi chỉ nhìn thấy lý tưởng của mình trong việc thu tích của cải, danh vọng, quyền thế, thì làm sao tôi có thể hướng nhìn trời cao và số phận đời đời của con người.
Xin Chúa thanh tẩy và soi sáng con mắt tinh thần chúng ta, để chúng ta có thể nhận ra đâu là điều thiện hảo và qui hướng về đó mà tiến tới.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Sống điều cốt lõi
“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được.” (Mt. 6, 19-20)
Mới chịu tin có một nửa
Trong cuộc sống có nhiều chuyện làm ta phải vất vả và tiêu tốn, dầu biết rằng nó chẳng bao giờ đem lại hạnh phúc trọn vẹn cho ta. Người ta gọi những cái đó là tiền bạc, tiện nghi, thú vui, địa vị, thăng thưởng… Những cái đó không có gì là xấu cả, nếu ta biết xử dụng tốt. Những thứ đó có thể mang lại cho ta ít nhiều hạnh phúc và tọai nguyện. Chẳng ai lại khinh miệt những thứ đó. Ta đâu phải là những thiên thần. Và những của cải trần gian có đó không phải để làm cho con người thoái hóa, nhưng là giúp thăng tiến.
Tuy nhiên nếu chỉ bám víu vào của cải và coi đó như tiền cọc cho ta tìm hớn hở và sống an bình thì lầm đường rồi. Người ta đã nói nhiều và nói đi nói lại điều này rồi. Chúng ta chịu tin đấy, nhưng chưa trọn vẹn, vì nếu không hẳn chúng ta sẽ chú tâm hơn nữa để tìm kiếm những thực tại khác, còn quý hơn cả những của cải trần gian, vì nó có thể làm cho ta thành những con người hạnh phúc.
Những của cải quý giá hơn
Những thực tại kia tiềm ẩn ngay trong nội tâm ta, chứ không ở bên ngoài.Những thực tại ấy không nằm trong diện sở hữu, nhưng là thực thể thuộc về hiện hữu của ta. Nếu muốn gọi tên những thực thể đó, người ta sẽ gọi là tinh thần phục vụ, là sự hiến thân quên mình. Người ta cũng gọi nó là tình nghĩa bạn bè, là bình an nội tâm, là sự sống thiêng liêng. Đó là những kho báu đích thực mà Phúc âm nói đến. Kho tàng đó ở trong nội tâm ta và người ta không thể dùng tiền bạc mà mua sắm được.
Cái làm cho đời sống ta có phẩm chất, không phải là những của cải quý giá mà ta có, nhưng là phẩm chất của tâm hồn và ý hướng của ta. Đó chính là khả năng ta có, khả năng dám sống mạo hiểm một cách cao đẹp với những người ta yêu thương, và mạo hiểm một cách đặc biệt với Thiên Chúa Đấng yêu thương ta. Tiếc rằng chúng ta lo lắng quá nhiều đến cái là hời hợt và thứ yếu, còn cái là cơ bản và cốt lõi trong đời, thì lại không để tâm cho đủ.
Suy Niệm 5: Điểm lợi thú của chúng ta ở đâu?
Con người tôn giáo xây dựng bản ngã mình theo điều họ ao ước, điều họ hướng đến, tìm kiếm, nói cách khác, kho tàng của họ. Không thể tích trữ cùng một lúc hai kho tàng, một ở dưới đất và một ở trên trời. Phải chọn lựa. Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: Phúc Âm không thể trung lập. Phúc Âm đòi hỏi dấn thân. Phúc Âm đòi hỏi con người không được chia sẻ giữa hai kho tàng nhưng phải dấn thân theo đuổi một trong hai mà thôi. Môn đệ Đức Kitô từ chối dấn thân con người mình, đời sống mình vào những của cải chóng tàn của một thế giới đi vào hư vô. Trái lại hãy dấn thân vào cái hơn là bất diệt nữa. “Trời” ở đây không phải là một sự vật, nhưng là một Con người. Môn đệ Đức Kitô phải dấn thân cho Đức Kitô, phó thác cho Đức Kitô, sống vì Đức Kitô, làm những công việc của Đức Kitô. Điều họ tìm kiếm là xây dựng bản ngã, số phận, hạnh phúc mình trong Đức Kitô. Cần phải nhớ Đức Kitô đã hiến tất cả công việc và mạng sống cho anh chị em mình. Chính nhờ một đường lối như thế mà người Kitô hữu tích trữ kho tàng trên trời.
Cũng như việc quyến luyến với một kho tàng nào liên kết số phận vào đó, cũng thế con mắt điều khiển các thái độ của thân thể: Chúng ta đang đứng trước một kiểu nói đặc biệt của Kinh Thánh.
Thân thể là con người cụ thể. Mắt đóng vai trò lôi kéo tất cả con người vào sự sống hay sự chết. Mắt và con người góp phần tích cực trong việc lựa chọn chúng muốn. Nếu mắt rộng mở, nghĩa là khi hiểu biết rõ ràng, con người quyết định bằng một lựa chọn tốt, lúc bấy giờ toàn con người ở trong ánh sáng. Đức Kitô mời gọi chúng ta hãy “ngước mắt” nhìn về những gì tốt lành, chân thật, công minh, tươi đẹp, nhưng chớ “ngước mắt” trên những gì có thể lôi cuốn chúng ta vào bóng tối sự gian dối và sự dữ. Đâu là những chọn lựa của chúng ta về sách báo, phim ảnh, bạn bè…?
Mắt tôi, tức là sự chú ý của tôi, có được định hướng nhờ một sự lựa chọn tình bạn cao cả nhất, tình bạn với Đức Kitô không?
Suy Niệm 6: Hai cuộc sống
Sống trên đời ai cũng phải làm lụng vật vả để kiếm kế sinh nhai. Đây là quy luật sinh tồn tất yếu của con người trong đời sống.
Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu cho các môn đệ thấy con người chúng ta có hai cuộc sống. Một là cuộc sống thể xác; hai là cuộc sống thần linh. Cuộc sống thể xác luôn gắn liền với quy luật: sinh, lão, bệnh, tử. Vì thế, cuộc sống này có giới hạn nhất định của nó. Tuy nhiên, trong niềm tin, con người còn có cuộc sống vĩnh cửu, nơi cuộc sống này, không có sinh, cũng chẳng có diệt, tức là cuộc sống thần linh.
Tuy nhiên, để có cuộc sống hạnh phúc trong cuộc sống thần linh thì lại phải kết tố từ chính cuộc sống trần gian này. Thế nên, những gì diễn ra trong cuộc sống vật chất thì đều có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực trong cuộc sống mai hậu.
Lời Chúa hôm nay cho thấy, Đức Giêsu đã khuyên các môn đệ hãy lo tích trữ những của cải trên trời, nơi đó mối mọt không tài nào đục khoét được cũng như không ai lấy mất đi. Gia tài đó được tích trữ qua hành động yêu thương, sự sẻ chia bác ái vô vị lợi.
Cùng một sứ điệp, Đức Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy hướng về quê trời như là mục đích tối hậu của mình. Muốn được như thế, ngay giây phút này, chúng ta hãy tích trữ những việc lành phúc đức với lòng mến ngang qua những nghĩa cử bác ái, liên đới, cảm thông và yêu thương anh chị em đồng loại. Đây chính là kho tàng không thể mối mọt nào đục khoét được.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trong khi lo tìm kiếm của cải vật chất phần xác, thì cũng biết tìm kiếm của cái trên trời. Xin cho chúng con làm mọi việc vì lòng mến Chúa và yêu người chân thành, để những việc ấy thật sự có giá trị cứu chuộc linh hồn chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tích trữ kho tàng trên trời
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tiền bạc, danh lợi, chức quyền... tất cả chỉ là tạm thời. Cuộc sống ở trần gian không có gì vững bền: vui qua, sầu tới; hợp rồi tan, biến chuyển rồi lại biến chuyển. Nếu khôn ngoan, hãy tích trữ cho mình kho báu vĩnh cửu bằng tình yêu chân thành, sẵn sàng chia sẻ cho anh em những gì có thể. Đây là kho tàng không những bền lâu mà còn bảo đảm cho chúng ta cuộc sống vĩnh viễn trên trời.
2. Lời Chúa hôm nay cho thấy, Chúa Giêsu đã khuyên các môn đệ hãy lo tích trữ những của cải trên trời, nơi đó mối mọt không tài nào đục khoét được cũng như không ai lấy mất đi. Gia tài đó được tích trữ qua hành động yêu thương, sự chia sẻ bác ái vô vị lợi. Cùng một sứ điệp, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi người chúng ta hãy hướng về Quê trời như là mục đích tối hậu của mình. Muốn được như thế, ngay giây phút này, chúng ta hãy tích trữ những việc lành phúc đức với lòng mến ngang qua những cử chỉ bác ái, liên đới, cảm thông và yêu thương anh chị em đồng loại. Đây chính là kho tàng không thể mối mọt nào đục khoét được.
3. Cả Tây phương lẫn Đông phương có chung một quan niệm: “bao tử đi trước, đầu óc theo sau” hoặc “Có thực mới vực được đạo”. Bởi thế “tích cốc phòng cơ” – để dành của cải khi thiếu hụt – vẫn được xem là thái độ khôn ngoan. Sự thiếu hụt không những làm cho con người bị khổ cực... bị xem thường, mà đôi khi còn dẫn con người vào đường tội lỗi.
Chúa Giêsu không kết án thái độ cất dành của cải, nhưng chỉ lưu ý con người biết đâu là của cải đích thực, đâu là kho lẫm thật để con người ký gửi của cải: “Các ngươi chớ tích trữ cho mình kho tàng dưới đất, nơi mối mọt nhấm nát được, nơi trộm cắp đào khoét mất được. Nhưng hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời, nơi mối mọt không nhấm nát, nơi trộm cắp không đào khoét phòng mất được” (Mỗi ngày một tin vui).
4. Chính vì thế mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cần đầu tư vào một kho tàng mang tính vĩnh viễn hơn là những thứ vật chất mau qua. Đó là kho tàng trên trời, nơi không thể bị mối mọt hay sẻ trộm chiếm đoạt. Kho tàng trên trời không phải là những gì chúng ta tích trữ cho riêng mình, nhưng là những gì chúng ta biết trao ban cho Chúa và tha nhân. Những gì chúng ta mua sắm sẽ để lại cho người khác, và những gì chúng ta cho đi sẽ theo chúng ta đến trước tòa phán xét để biện hộ cho chúng ta. Kho tàng trên trời là các việc lành chúng ta làm khi còn ở trần gian, như săn sóc người nghèo, an ủi người đau khổ, cho kẻ đói ăn...
5. “Đèn của thân thể là con mắt”. Mắt còn tượng trưng cho con người. Con mắt sáng, tượng trưng cho lương tâm lành mạnh. Người có con mắt lương tâm sáng là người hào hiệp, và kẻ có con mắt lương tâm tối tức là kẻ sống hẹp hòi. Ai có lương tâm lành mạnh thì cuộc sống người đó sáng ngời. Ngược lại ai mà có lương tâm hắc ám thì cả cuộc sống đời người đó tối đen, lương tâm lệch lạc sẽ làm cho con người lạc lối và thu mình lại chỉ còn biết có mình.
6. Chúa Giêsu còn nhắc nhở ta rằng nếu lòng chúng ta hướng về kho tàng trên trời, thì đôi mắt ta sẽ rạng sáng; trái lại, nếu lòng chúng ta quá chú tâm đến kho tàng dưới đất, đôi mắt ta sẽ ra tối tăm, mù quáng. Kho tàng trên trời trước hết là Thánh Danh Chúa, Nước Trời, là những giá trị Chân, Thiện, Mỹ. Kho tàng ấy còn là những ưu tư, quan tâm hướng về các việc lành phúc đức, những thiện ích cho tha nhân và bản thân. Kho tàng dưới đất là những tham lam, thèm muốn, chiếm đoạt, hưởng thụ bằng mọi giá, làm giầu bằng mọi cách. Nếu lòng ta hướng về loại kho tàng này, toàn bộ hướng đi cuộc đời sẽ rơi vào tăm tối lầm lạc. “Kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” là bằng chứng xác thực nói lên ý hướng sống, quyết định thành bại của ta ngay từ khởi đầu. Ánh sáng của ta được tỏa chiếu qua lòng tin vào các giá trị siêu nhiên qua phương thế dấn thân vì mục đích cao cả của Nước Thiên Chúa (5 phút Lời Chúa).
7. Truyện: Món quà Giáng sinh.
Đức cha Bossuet cho làm một hang đá trong nhà nguyện của tu viện. Chiều hôm Noel, ngài trả lương cho các người thợ. Rồi ngài nói với họ:
- Chờ một tí, tôi sẽ cho các anh quà “Giáng sinh”.
Nói xong, ngài mở khăn trải bàn. Người ta thấy trên bàn, nằm kề nhau, 4 đồng tiền vàng và 4 cuốn sách “Hạnh các thánh”. Đức cha Bossuet nói với các người thợ là họ có thể chọn, hoặc một đồng tiền, hoặc một cuốn sách. Ba người đã chọn 3 đồng tiền vàng, còn người thứ tư tuyên bố:
- Ở nhà, mẹ già của tôi cũng rất cần tiền, nhưng bà cũng thích những cuốn sách tốt. Tôi lấy cuốn “Hạnh các thánh”.
Tuy nhiên, khi ông này vừa mở cuốn sách ấy ra thì ông tìm thấy 6 đồng tiền vàng dán sát bìa cuốn sách. Hãy tưởng tượng niềm vui của ông và nỗi hối tiếc ân hận của ba người kia như thế nào. Ông này đã không hối hận về sự lựa chọn của mình.
Vâng! Chỉ có những con mắt thật sáng mới nhìn thấy những giá trị thực sự cần thiết mình phải theo đuổi ở đời này.
Suy Niệm 8: Kho tàng ở đâu, lòng trí ở đó
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mục đích đời người là trở về với Thiên Chúa, Đấng sáng tạo nên con người. Ai không ái mộ những sự trên trời, người đó sống dang dở đời mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong Giáo Hội đã có bao kinh nghiệm của các thánh nhân dạy con rằng: chỉ có Chúa mới là cùng đích đời con. Thánh Âu-tinh sau 33 năm lặn lội với đời đã đạt được nhiều thành công ở đời, cuối cùng ngài đã nói: “Lòng tôi còn khắc khoải mãi cho tới khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Chính bản thân con cũng đã hơn một lần cảm nghiệm rằng: dù có thành đạt trong công việc làm ăn mà không giữ trọn vẹn luật công bằng thì lòng con vẫn bất an; dù bề ngoài có hả hê khi thắng thế đối phương, thì lương tâm con vẫn bị cắn rứt nếu con không sống trọn đạo bác ái với nhau…
Lạy Chúa, Chúa dạy con tìm kiếm kho tàng trên trời. Chính Chúa đã in trong lòng con khát vọng về Chúa. Lòng con chỉ được bình an khi sống trên đời mà tâm trí biết ái mộ những sự trên trời. Đời này chỉ là phương tiện, đời sau mới là cứu cánh. Trần gian là đường đi, và quê trời mới là đích đến, nơi đó có Chúa là Cha đang đón đợi con. Xin Chúa thêm ơn để con đừng mải mê đi tìm kho tàng dưới đất mà quên hướng về Chúa.
Xin dạy con chăm chỉ làm việc và đừng để công việc cản lối con về với Chúa. Xin cho con khi vui hưởng những thiện hảo trên đời, con đừng quên Chúa. Và khi con vui, con cũng vui sao để Chúa cùng vui được với con, để niềm vui được nối dài tới vĩnh cửu. Amen.
Ghi nhớ: “Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó”.
Suy Niệm 9: Tích trữ kho tàng trên trời
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Phân tích
Hai cụm từ quan trọng trong đoạn Tin Mừng này là “Kho Tàng” và “Con mắt.”
1. Kho tàng tượng trưng cho những giá trị mình coi trọng. Chúa dạy đừng tích trữ kho tàng dưới đất chứa những của cải vật chất và nó không bền: han sét, mối mọt, trộm cắp. Nhưng hãy tích trữ kho tàng trên trời: những việc lành vì rất bền vững an toàn không bao giờ hư mất.
2. Con mắt sáng, tượng trưng cho lương tâm lành mạnh. Ai có lương tâm lành mạnh thì toàn thể cuộc sống người đó sáng ngời. Ngược lại ai mà lương tâm hắc ám thì cả cuộc sống đời người đó tối đen.
Suy gẫm
1. Nếu kho tàng tượng trưng cho những thứ mà người ta coi trọng, thì hiện nay kho tàng của tôi là gì?
Chúa nói tất cả mọi kho tàng dưới đất đều không an toàn. Tôi nghĩ xem kho tàng của tôi có thực sự an toàn không?
2. ”Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đó”: một trắc nghiệm nữa để giúp tôi biết kho tàng của tôi ở đâu, đó là nhớ xem những khi cầu nguyện lo ra, những khi vừa bừng mắt thức dậy, và những lúc ngồi suy nghĩ vẩn vơ, tôi hay thường nghĩ tới gì? nhớ tới ai?
3. ”Con mắt là đèn soi.” Câu này cũng khuyến cáo tôi hãy cẩn thận về những điều tôi nhìn xem và những cách tôi nhìn xem.
Những điều tôi nhìn xem: Tốt hay xấu? Có lợi hay tai hại? Muốn biết hãy nhớ một số cảnh tượng mà tôi đã xem sau đó để lại trong lòng tôi những dư âm gì?
Những cách tôi nhìn xem: tôi nhìn người nghèo hèn thế nào? Tôi có thấy Chúa trong những thứ tôi nhìn không?
4. ”Đèn của thân thể là con mắt” (Mt 6, 22)
Em thì quờ quạng trước chiếc gậy trên tay, em thì bám vào vai bạn và hai tay lấn bước. Nơi lớp học, các em dùng bàn tay nhỏ bé của mình để đọc từng chữ.
Tôi chạnh lòng khi nhìn thấy cảnh tượng này ở một trường khiếm thị. Bất chợt ánh mắt tôi dừng lại ở một em đeo Thánh Giá trước ngực. Tiến lại gần, tôi làm quen với em và được biết trước khi vào trường này, mẹ em đã đưa cây Thánh Giá cho em và bảo: “ Đèn của thân thể con người là mắt, còn đây chính là đèn của tâm hồn con.”
Tôi hỏi em: “Em có vui không?” Thật hạnh phúc.” Em đáp: “Có chứ anh, em đã mất con mắt của thân thể, nhưng thật sự con mắt của tâm hồn em vẫn sáng.”
Nghe lời xác quyết ấy, tôi giật mình tự nghĩ: “Con mắt tâm hồn có bị tắt không nhỉ?”
Lạy Chúa, xin thắp sáng lên trong tâm hồn con ngọn lửa hồng tình yêu Chúa.
Suy Niệm 10: Kho tàng ở trên trời
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Hai cụm từ quan trọng trong đoạn Tin Mừng hôm nay này là “Kho Tàng” và “Con mắt”.
Kho tàng tượng trưng cho những giá trị mình coi trọng. Chúa dạy đừng tích trữ kho tàng dưới đất nhưng hãy tích trữ kho tàng trên trời (tức là những việc lành) vì chúng rất bền vững an toàn không bao giờ hư mất.
Con mắt sáng, tượng trưng cho lương tâm lành mạnh. Ai có lương tâm lành mạnh thì toàn thể cuộc sống người đó sáng ngời. Ngược lại, ai mà lương tâm hắc ám thì cả cuộc sống đời người đó tối đen.
Vâng! Tất cả mọi kho tàng ở dưới đất đều không an toàn.
Công chúa Diana mang một chiếc nhẫn kim cương trị giá 205 ngàn Mỹ kim, tương đương với tiền Việt Nam là 3 tỷ 71 triệu đồng; và đám cưới của cô với hoàng tử Charles nước Anh tốn hết 3 triệu 500 ngàn Mỹ kim, tương đương với 52 tỷ 500 triệu đồng Việt Nam, với 2700 khách danh dự. Vậy mà tổ ấm đắt giá đó đã tan vỡ sau 15 năm tình lận đận. Bị tử nạn xe và được chôn cất, công chúa Diana không mang theo nhẫn kim cương cũng không mang được một Mỹ kim nào. Trong hòm cô hôm đó, chỉ có xâu chuỗi của mẹ Têrêsa thành Calcutta đã tặng cô mà thôi.
Khi chết, vua chúa hay anh ăn mày cũng đều như nhau cả. Nhà phú hộ trong Tin Mừng chỉ hưởng được mấy chục năm sung sướng, nhưng anh ăn mày Lazarô lại được sung sướng đời đời: không biết ai khôn hơn ai?
2. “Kho tàng của con ở đâu thì lòng con ở đó” (Mt 6,21).
Một trắc nghiệm giúp tôi biết kho tàng của tôi ở đâu, đó là nhớ xem những khi cầu nguyện lo ra, những khi vừa bừng mắt thức dậy và những lúc ngồi suy nghĩ vẩn vơ, tôi thường hay nghĩ tới gì? Nhớ tới ai?
Ngày kia, có một người gặp một vị tu hành đi qua làng, người này vội chạy theo và nài xin vị tu hành:
- Xin ngài cho tôi viên ngọc quí trong bị của ngài.
Vị tu hành ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao lại hỏi xin tôi viên ngọc quí?
Người kia liền thưa:
- Tối hôm qua tôi nằm mơ thấy có một ông tiên bảo tôi là, sẽ có một vị tu hành, mang theo một viên ngọc quí đi ngang qua làng anh, nếu xin được viên ngọc quí ấy, thì anh sẽ là người sung sướng nhất trên đời này. Ngài là người tu hành, nên đâu có cần đến những thứ phàm tục này. Vậy xin ngài thương tôi và gia đình tôi, cho tôi viên ngọc quí của ngài để tôi nuôi sống vợ con tôi.
Vị tu hành đáp:
- Quả thực tôi không có viên ngọc nào cả.
Và để cho người kia tin, vị tu hành đưa bị của ông ra cho người kia xem. Mở bị ra, người kia sáng mắt lên rồi hô to:
- Đây thôi, viên ngọc quí khổng lồ như thế này mà ngài nói là không có.
Vị tu hành ngạc nhiên nói:
- Đó là cục đá mà ông nói là viên ngọc ư? Cục đá này tôi lượm được khi xuống suối uống nước. Nếu ông muốn thì tôi biếu ông.
Người kia sung sướng cầm viên ngọc trong tay, cám ơn vị tu hành rối rít, rồi chạy về nhà, trong lòng thầm nghĩ, thế là từ nay mình sẽ không còn vất vả cầy sâu cuốc bẫm nữa, mà nghiễm nhiên trở thành nhà phú hộ. Ý tưởng mình sẽ được giàu sang phú quí nhờ viên ngọc, đã khiến cho người kia không biết cất giữ viên ngọc ở đâu, vì để ở chỗ nào ông ta cũng sợ bị mất. Do đó, chỉ còn cách là giữ nó trong mình. Nhưng giữ nó trong mình thì chẳng còn làm được việc gì, kể cả việc ngủ nghỉ nữa, vì ngủ thì cũng sợ người khác lấy mất.
Sau nhiều ngày đêm lo lắng, thậm chí có đêm phải thức trắng để giữ viên ngọc, người kia cảm thấy có ngọc cũng chẳng sung sướng gì, nên ông cầm viên ngọc đi tìm vị tu hành để trả lại. Người này gặp vị tu hành đang nằm ngủ thật ngon lành dưới một gốc cây. Rón rén đến bên cạnh vị tu hành, người kia lên tiếng:
- Thưa ngài, tôi xin trả lại ngài viên ngọc mà ngài đã cho tôi mấy hôm trước, vì tôi thấy có nó, tôi cũng chẳng sung sướng gì, mà còn khổ nữa là khác nữa. Xin ngài cho tôi viên ngọc mà ngài đang dùng, viên ngọc đã làm cho ngài được thảnh thơi, ngủ rất ngon lành, dù chỉ là ở dưới một gốc cây, viên ngọc đã làm cho ngài được siêu thoát, sự siêu thoát đã khiến cho ngài sẵn sàng cho tôi viên ngọc quí kia, mà không một chút tiếc xót.
Mẩu chuyện trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào lời căn dặn của Chúa Giêsu: “Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất....nhưng các con hãy tích trữ cho mình một kho tàng ở trên trời” (Mt 6,19-20).
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời. Amen.
16/06 Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu
- Viết bởi Mt 6, 7-15
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu.
Thứ Năm tuần 11 thường niên.
"Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này".
Lời Chúa: Mt 6, 7-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:
"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
"Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lạy Cha chúng con
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chúng ta không thể lèo lái hay ép buộc Thiên Chúa
bằng những lải nhải dài dòng hay bằng những câu thần chú.
Cầu nguyện không phải là thông báo cho Chúa biết nhu cầu của ta (c. 8).
Cha Teilhard de Chardin đã viết:
“Chúng ta phải cầu xin Chúa không phải vì lề luật buộc như thế,
cũng không phải vì Chúa không biết ta cần gì.
Không, kinh nguyện là tình yêu, là cách diễn tả tình yêu.”
Thiên Chúa thích nghe miệng chúng ta nói lên nhu cầu của mình.
Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, Abba, như Ngài đã gọi.
Abba là tiếng gọi âu yếm thân thương của đứa con đối với người cha.
Khi gọi Thiên Chúa là Cha, chúng ta thấy mình hết sợ hãi và xa cách.
Cha siêu việt và quyền uy, nhưng Cha không áp bức và bắt con làm nô lệ,
Cha cao sang ở trên trời nhưng Cha lại gần gũi với nhu cầu của con cái.
Ba lời cầu xin đầu tiên đều hướng về Cha: Danh Cha, Nước Cha, và Ý Cha.
Danh Cha được vinh hiển khi Nước Cha được thành tựu, Ý Cha được thể hiện.
Nước Cha đã đến rồi với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu,
nhưng chúng ta vẫn phải cầu xin cho Nước ấy mau đến cách viên mãn.
Ý Cha và quyền tối cao của Cha đã được thể hiện trọn vẹn trên trời rồi,
nhưng còn phải được thể hiện dưới đất nữa, nơi mọi người và nơi từng người.
Ba lời cầu đầu tiên, là những lời trực tiếp nài xin Cha.
Làm cho Danh Cha được biết đến, Nước Cha được nhìn nhận,
Ý Cha được tuân hành: đó là công việc của Cha cho đến tận thế.
Nhưng việc đó cũng cần sự cộng tác hằng ngày của mỗi Kitô hữu
qua việc họ sống tận căn những đòi hỏi gai góc của Nước Trời,
để cho thấy Nước Trời đã đến trên mặt đất.
Bốn lời cầu xin sau nhắm đến nhu cầu cụ thể của các môn đệ.
Xin lương thực hàng ngày là điều cần thiết cho họ,
những người nay đây mai đó, sống nhờ lòng tốt của người nghe.
Xin ơn tha thứ là điều ta cần mỗi ngày từ Chúa, sau bao sai lỗi,
mà cũng là điều ta phải trao lại cho anh em.
Xin Chúa đừng đưa chúng ta vào cơn thử thách quá sức chịu đựng
đến mức mất đức tin và quỵ ngã.
Nhưng xin Chúa gìn giữ và giải thoát chúng ta khỏi Ác Thần.
Kinh Lạy Cha giúp chúng ta trò chuyện với chính Thiên Chúa là Cha.
Chúng ta được mở ra trước thế giới trên trời nơi Cha ngự trị,
những cũng được mở ra trước thế giới dưới đất của con người.
Một thế giới có bao người thiếu bánh ăn, cần được chia sẻ.
Một thế giới có nhiều xung đột và hận thù, cần sự bao dung thứ tha.
Một thế giới hỗn loạn với bao điều phải chấn chỉnh cho hợp Ý Chúa.
Một thế giới không biết mình là anh em, con cùng một Cha.
Kinh Lạy Cha bao giờ cũng nhắc chúng ta về những điều dang dở…
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ?
Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa. Amen. (Hélder Câmara)
Suy Niệm 2: Như người con hiếu thảo
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cầu nguyện là hành vi cao đẹp. Vì nâng con người lên. Chúa Giê-su dạy ta cầu nguyện. Đừng lải nhải nhiều lời như người dân ngoại. Đừng biến mình thành kẻ ăn mày. Nhưng nâng tâm hồn lên. Như người con hiếu thảo. Người con hiếu thảo quan tâm đến việc nhà. Đến chương trình của cha. Cầu nguyện đầu tiên là tha thiết với chương trình của Cha. Cộng tác với chương trình của Cha. “Nguyện Danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Hiến thân thực hiện chương trình của Cha. Vì trong chương trình đó có hạnh phúc của ta. Vì Cha nên yêu thương anh em. Cầu nguyện cho tha nhân. Tha thứ cho anh em. Để nên một trong Cha. Chúa Giê-su là người đầu tiên. Là Con Một Yêu Dấu. Hiếu thảo. Đã hoàn toàn huỷ mình ra không. Để thánh ý Cha được thể hiện.
Ê-li-a là người con hiếu thảo. Hoàn toàn quên mình vì Chúa. Vì Chúa ông chịu thiệt thòi. Bị săn đuổi. Phải chạy trốn. Bị bỏ rơi. Nhưng ở trong Chúa, ông được đầy uy lực. “Ông dùng lời Thiên Chúa mà đóng cửa trời, và ba lần cũng cho lửa đổ xuống… Ông dùng lời của Đấng Tối Cao mà làm cho một kẻ chết trỗi dậy”. Sau đó lại đến Ê-li-sa. Người đã bỏ hết gia đình, ruộng vườn, bò bê. Để thực hiện chương trình của Thiên Chúa. “Lúc sinh thời, ông đã làm nhiều dấu lạ, sau khi chết, ông vẫn còn thực hiện những điềm thiêng”. Các ngài đến với Chúa như những người con hiếu thảo. Nên Chúa dùng các ngài thực hiện chương trình của Chúa. Vì kết hợp với Chúa, các ngài được quyền năng. Và Lời Chúa ở với các ngài (năm chẵn).
Thánh Phao-lô cũng là một người con hiếu thảo. Ngài yêu mến Chúa Giê-su. Chết cho bản thân. Để chỉ sống cho Chúa. Ngài yêu thương dân bằng tình yêu của Chúa. Nên ngài mong ước dân thuộc về Chúa. Nên một với Chúa. Trung tín với Chúa. Đừng thay lòng đổi dạ. “Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết”. Nên một với Chúa. Để cộng tác với Chúa. Trở thành cánh tay nối dài. Thực hiện chương trình của Chúa trên trần gian. Như thánh Phao-lô. Làm hết sức mình để chương trình của Chúa được thực hiện: “Tôi đã hạ mình xuống để tôn anh em lên, khi rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa. Tôi đã bóc lột các Hội Thánh khác, ăn lương của họ, để phục vụ anh em”.
Xin cho con trở thành người con hiếu thảo. Để khi cầu nguyện con gặp người Cha quyền năng và yêu thương. Và không mong gì hơn là hiến mình cho công trình của Cha được thực hiện. Đó là hạnh phúc của con.
Suy Niệm 3: Kinh Lạy Cha
Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu nguyện.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì "Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin". Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.
Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện.
Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Chúng ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ta thường cầu xin ngược lại
“Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin. Vậy anh em hãy nguyện như thế này:
“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,
xin cho danh thánh Cha vinh hiển,” (Mt. 6, 7-9)
Mẫu kinh tuyệt hảo
Chúa Giêsu đã ban cho ta một mẫu cầu nguyện là Kinh Lạy Cha. Không có lời kinh nào tuyệt hảo và quân bình hơn kinh Lạy Cha. Vậy để cầu nguyện nên, ta phải cảm hứng từ kinh Lạy Cha, để có được những tâm tình và ý hướng xứng hợp.
Mặc dầu người ta đã nói nhiều về kinh này, nhưng nhắc lại một lần nữa ở đây, thiết tưởng cũng là điều tốt. Kinh Lạy Cha gồm hai phần. Trong phần đầu ta lo đến những sự thuộc về Chúa. Ta cầu xin cho điều Chúa muốn được thực hiện: “Nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Từ phần thứ hai của kinh, ta mới quan tâm đến những chuyện thuộc về ta: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, xin chớ để chúng con xa chước cám dỗ …”.
Muốn cầu ngụyện nên, phải cầu nguyện theo cách này. Việc của Chúa phải được đặt lên hàng đầu. Việc của ta phải ở hàng thứ yếu. Nếu ta đặt những lợi ích của ta lên trên và trước những lợi ích của Chúa, nếu ta nghĩ đến ta trước khi nghĩ đến Chúa, là ta cầu xin điều trái ngược. Và Thiên Chúa không ưa điều gì làm trái ngược.
Hãy đứng ở vị trí thứ hai
Vậy mà ta vẫn thường cầu xin ngược lại như thế. Ta vẫn luôn làm như vậy, mỗi khi ta không cần đến kinh Lạy Cha, mà dùng lời lẽ riêng của mình để bày tỏ điều ta muốn. Điều đầu tiên nảy ra trong đầu óc ta thường là cầu xin Chúa ban cho ta được những ơn lành; nào là xin cho được mạnh khỏe, xin cho những người thân của ta, xin cho qua khỏi cơn bối rối v.v…
Ta phải học cho biết cầu nguyện đúng chỗ. Cầu nguyện đúng chỗ, là quan tâm trước hết đến Chúa, là dành cho Người địa vị hàng đầu, còn ta đứng hàng thứ yếu. Nếu ta không có khả năng làm được như vậy, thà rằng chú ý và thành tâm đọc kinh Lạy Cha nhiều lần còn tốt hơn.
Suy Niệm 5: Thân phận đích thực của con người
Kinh “Lạy Cha” là một lời kinh giản dị, phong phú, qui tụ vào cái chính yếu, đầy sức sống, phản ánh một nếp sống tôn giáo sâu đậm vào bậc nhất. Những đức tính này rất đáng lưu ý, nếu chúng ta nghĩ đến sự kiện là kinh này chỉ được biên soạn khoảng bốn mươi hay năm mươi năm sau khi Chúa Giêsu đã giảng dạy. Điều này có nghĩa là trong khoảng thời gian đó các cộng đoàn Kitô hữu, ngược lại với điều người ta lo sợ, đã không kéo dài kinh đó ra, đã không chất thêm vào, cũng như đã không diễn giải sâu rộng. Ngay từ đầu, các môn đệ đã nhận ra trong Kinh Lạy Cha một Kinh Nguyện chính yếu và họ đã gìn giữ nó nguyên vẹn. Cái dấu tích trung thực này càng làm cho lời kinh quý giá hơn.
Khi dạy kinh Lạy Cha, không những Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện, nhưng Ngài còn muốn cho chúng ta ý thức địa vị của con người chúng ta. Ngài nói rằng: sự viên mãn của thân phận chúng ta, và của hạnh phúc chúng ta là ở chỗ tự vượt lên khỏi mình nơi Thiên Chúa, trong ý muốn và trong Nước Ngài; nhưng để đến đó, chúng ta có thể tin cậy ở nơi Ngài. Đàng khác ngay từ bây giờ, chúng ta phải thực thi sự hòa giải với nhau giữa con người, hòa giải mà Thiên Chúa ban cho qua mối tương quan giữa chúng ta với Chúa. Địa vị con người đặt chúng ta trong hai mối tương quan mà thực ra chỉ là hai nhịp điệu của cùng một đời sống duy nhất. Đối với Thiên Chúa, tương quan của chúng ta là tương quan con thảo; đối với con người lại là tương quan huynh đệ.
Đâu là địa vị, chỗ đứng của tôi trước mặt Thiên Chúa? Tôi có phải là đứa con hoang đàng mà người Cha chờ đợi và tiếp đón mỗi ngày? Tôi là con người mà thân phận được thể hiện trong ý muốn và Nước của Đấng vì tình yêu mà tạo dựng và phân phát sự sống Ngài chăng? Ước chi Chúa gìn giữ tôi khỏi làm người anh cả trong dụ ngôn, nổi giận vì người ta mừng ngày trở lại của người em; người anh mà đối với em mình không có những tâm tình như người Cha.
Tôi có xin Chúa Giêsu dạy tôi biết cách cầu nguyện kinh Lạy Cha không?
Suy Niệm 6: Hãy cầu nguyện như thế này
Nhắc đến cuộc đời của thánh Gioan M. Vianey, cha sở họ Ars. Người ta không thể quên câu chuyện sau đây về một nông dân xứ Ars: Mỗi ngày trước khi ra đồng, anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới ra đồng. Khi trở về nhà anh cũng ghé vào nhà thờ để cầu nguyện như vậy. Trong xứ ai cũng nể và kính phục. Một hôm có người hỏi: “Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế?”. Anh nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.
“Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”. Câu trả lời trên của anh nông dân xứ Ars diễn tả được tận gốc tủy của việc cầu nguyện. Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa. Máy móc tự động có thể làm hơn con. Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng, vì lúc cầu nguyện con nối liền sự kết hợp với Thiên Chúa. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện. Không cầu nguyện dù có làm phép lạ con cũng đừng tin. Các tông đồ đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện”. Chúa Giêsu đáp: “Khi các con cầu nguyện hãy nói: Lạy Cha chúng con ở trên trời”.
Chúa đã dạy đọc kinh để giúp chúng con cầu nguyện, nhưng điểm chính là gặp gỡ, là nói chuyện giữa Chúa và con. Khi con cầu nguyện đừng lo phải nói gì, chỉ vào phòng đóng cửa mà cầu nguyện với Cha của con một cách kín đáo, chắc chắn Ngài sẽ nhận lời con. Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử.
Những chia sẻ trên của tác giả “Đường Hy Vọng” hướng dẫn chúng ta hiểu sâu hơn ý nghĩa của đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe. Giờ đây chúng ta hãy chia sẻ với nhau những ý nghĩa sâu xa của lời kinh Lạy Cha mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho các tông đồ. Trong vài phút suy niệm này, chúng ta hãy chú ý đến tinh thần phải có khi cầu nguyện.
Trong đoạn Phúc Âm trên, Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ lời kinh Lạy Cha, như những lời dạy nói về tinh thần phải có khi cầu nguyện. Đó là tinh thần tha thứ cho kẻ xúc phạm đến mình, và tinh thần đơn sơ khiêm tốn nhằm gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng: “Khi anh cầu nguyện, thì đừng nhiều lời như những kẻ ngoại giáo, vì họ nghĩ rằng nói nhiều thì được nhiều”. Vì suốt ngày mỏi mệt rao giảng Tin Mừng, nên mỗi khi đêm về quỳ gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, thánh Phanxicô có những lúc quá mệt mỏi phải ngủ gục bên bàn thờ. Lúc ấy ngài thường cầu nguyện với Chúa một cách đơn sơ như sau: “Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa, thì ít nữa xác con đây muốn ở gần Chúa”.
Cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa là Cha, chứ không phải là giờ làm bài. Giờ cầu nguyện là giờ của quả tim, chứ không phải là giờ của luận lý. Đừng nặn óc bóp trán để trình bày với Chúa. Khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta không cô độc lẻ loi một mình. Thánh Phaolô tông đồ giãi bày như sau: “Chúng ta không biết phải cầu nguyện như thế nào cho phải, nhưng Chúa Thánh Thần cầu nguyện cho chúng ta với những lời kêu van không thể diễn tả được” (Rm 8,26)
Nhờ bí tích Rửa tội mà ta đã lãnh nhận, mỗi người Kitô hữu sẽ được kết hợp với Chúa Giêsu Kitô và được lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy cố gắng sống trong Chúa Thánh Thần, để phát triển đời sống con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nếu ta không phải là người cầu nguyện thì không ai tin ta làm việc vì Chúa. Nếu muốn biết công việc tông đồ của ai như thế nào, thì hãy xem người đó có cầu nguyện hay không, và cầu nguyện ra sao?
Lạy Chúa, xin hãy thương ban cho chúng con được tràn đầy Chúa Thánh Thần để canh tân chính mình và anh chị em trong môi trường chúng con sống. Amen.
Suy Niệm 7: Thiên Chúa là Cha yêu thương
Xem lại thứ Ba tuần 1 MC, Thứ Tư tuần 27 TN
Đạo Công Giáo của chúng ta thật hạnh phúc vì được gọi Thiên Chúa là Cha. Đây là đặc ân cao quý mà nhờ Đức Giêsu mặc khải, chúng ta mới biết và dám thưa với Thiên Chúa “Ápba - Cha”.
Hôm nay, các môn đệ đã xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện, vì thế, Ngài đã lên tiếng dạy họ cầu nguyện:
Trước tiên, cần xác định căn tính là con của các môn đệ với Cha trên trời: “Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời”. Khi có chung một Cha, thì ắt sẽ có nhau là anh em.
Thứ hai, đã là con thì luôn mong cho danh Cha mình được tỏ lộ và nhiều người tin nhận: “Xin làm cho Danh Cha được vinh hiển”; “Triều đại Cha mau đến”.
Thứ ba là nguyện xin cho: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”, tức là xin Cha thể hiện mục đích của Người trên nhân loại như đã có trong chương trình yêu thương của Người.
Thứ tư, thể hiện lòng trông cậy vào Cha, đồng thời phó thác đời sống xác hồn cho Cha để Người chăm lo: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”.
Thứ năm, ý thức mình là kẻ tội lỗi nên cần Cha tha tội: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”, tức là thành khẩn xin Cha tha mọi tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Người, cũng như cho ta biết tha thứ các lỗi lầm mà anh em xúc phạm đến ta.
Thứ sáu, ý thức sự mong manh, yếu đuối của bản thân, nên cần Cha bảo vệ: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
Cuối cùng, xin được trao phó mọi sự trong tay Cha, để xin Cha cứu giúp khỏi bị rơi vào tình trạng mất ơn nghĩa cùng Cha: “Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”.
Qua kinh lạy Cha, Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, thì ngày hôm nay, Ngài cũng dạy mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện như thế để xứng đáng là con Cha trên trời và có nhau là anh em trong cùng đại gia đình Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con luôn sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa và luôn tin tưởng, phó thác cũng như biết cùng nhau làm sáng danh Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 8: Chân trời rộng mở: con cùng một Cha
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Lời kinh Chúa dạy dẫn chúng ta đến một chân trời rộng mở. Tất cả đều là con cùng một Cha. Vì thế, ta cần giang rộng vòng tay đón nhận anh em trong tình yêu Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con xin dâng Cha tâm tình cảm tạ tri ân, vì Con Một Cha đã dạy con gọi Chúa là Cha. Ngài cũng dạy con biết cách trò chuyện với Cha trong tâm tình cha con. Lời kinh tuyệt hảo này như cánh cửa mở ra dẫn con bước vào khung trời yêu thương: mọi người là con Cha, là anh em với nhau.
Lạy Cha, lời kinh Chúa Giêsu dạy giúp con khám phá địa vị của người khác. Cho dù người bên cạnh con sống với tâm hồn khép kín, cho dù người bên cạnh con đang cố tình tránh mặt Cha, cho dù người bên cạnh con gây nên bất hòa… thì họ vẫn là con Cha, là anh chị em với con. Cha đã quảng đại đón nhận tất cả mọi người vào gia đình Cha. Xin cũng mở rộng lòng con để con biết đón nhận mọi người. Xin Cha phá tung cánh cửa ích kỷ nơi con để con biết nghĩ đến người khác. Vì từ nghĩa cử cao đẹp con làm cho anh em là con đang được lớn lên trong ân tình của Cha. Và từng ánh mắt cảm thông, từng nụ cười chia sẻ với người khác, là con trở nên thân thiết với họ, làm tình anh em được bền chặt hơn.
Lạy Cha, tình thương của Cha đang thúc bách con yêu thương người khác. Và thực hành yêu thương là điều khẩn cấp, vì đó là điều kiện để con trở thành con Cha và nên anh em bạn hữu thân thiết với mọi người. Xin Cha giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này”.
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu dạy ta cách cầu nguyện
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi, tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: Nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”.
Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mạc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái.
Suy niệm
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cách cầu nguyện: đừng nói nhiều lời vì Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài đã hiểu rõ chúng ta đang cần gì. Ðiều quan trọng là chúng ta phải sống trong tương quan thân tình với Cha và với anh chị em như Ngài dạy lời cầu nguyện Abba - Lạy Cha.
So với kinh Lạy Cha của Luca ghi lại, kinh Lạy Cha của Matthêu chi tiết hơn: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Trong lúc đó, Luca ghi nhận vắn tắt hơn: “Lạy Cha, nguyện cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”. Và câu kết của kinh Lạy Cha theo Matthêu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ”, trong khi Luca trình bày ngắn hơn: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
Lời kinh Lạy Cha, đầu tiên “nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”: Nước Cha đến là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Ngài loan báo Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (x. Lc 4,43; 8,1; 10,9.11). Vì Cha là tình yêu, khi danh Cha toả sáng, là tình yêu Cha trải dài trên trái đất nơi những người con của Cha hiện hữu và ý Cha thể hiện được cả dưới đất cũng như trên trời: Tuân hành thánh ý là nhiệm vụ của Đức Kitô ở trần gian (x. Mt 26,39) là lương thực của Đức Giêsu (x. Ga 4,34).
Bốn lời nguyện tiếp theo, con người trình bày với Cha về các nhu cầu và những sự cần thiết của mình trên đường tiến về quê cha: được nuôi dưỡng, xin được tha thứ - chữa lành tội lỗi và được thắng cuộc chiến đấu với Sự Dữ bằng Sự Lành và ân sủng đến từ Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế. Khi xin “cho chúng con” là chúng ta nói lên, trong tình hiệp thông huynh đệ của mình, lòng tin tưởng của con cái được phó thác nơi Cha trên trời.
Với tâm tình con thảo, “Việc cầu nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm nhu tin tưởng” (Giáo lý Công giáo, số 2800). Cha luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát, như Chúa Giêsu khẳng định: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10).
Tất cả thúc đẩy chúng ta luôn tin tưởng phó thác vào Chúa là Cha hiển vinh như định luật tình thương mà Con Thiên Chúa đã mạc khải: “Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11).
Ý lực sống:
“Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi” (Tv 89,2).
Suy Niệm 10: Phải cầu nguyện thế nào (Mt 6,7-15)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Thiên Chúa là Cha chúng ta. Người biết rõ chúng ta cần gì và điều gì tốt hơn cho chúng ta. Vì thế, khi cầu nguyện không nên lải nhải nhiều lời. Chúa muốn lắng nghe những lời tâm tình đơn sơ chân thành của chúng ta, những quan tâm của ta đối với cuộc sống với anh em, chứ không phải là những nhu cầu cá nhân, ích kỷ. Chúng ta hãy xin Chúa Giêsu dạy chúng ta cách cầu nguyện đẹp ý Chúa. Khi cầu nguyện, chúng ta phải đặt mình trong tương quan Cha – con với Thiên Chúa: Cha muốn gì, con xin vâng theo.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình, bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì ”Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”. Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều hơn chúng ta khẩn xin (Mỗi ngày một tin vui).
Chúa Giêsu không muốn cho các môn đệ nói nhiều lời với Thiên Chúa. Cầu nguyện không phải là nói nhiều lời như con két. Nhưng trước hết, phải là hành động của con tim, của lòng yêu mến đối với Thiên Chúa Cha, là trao đổi tâm tình với Thiên Chúa, Cha chúng ta, Đấng ngự trên trời: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Thánh Augustinô đã khuyên các tín hữu như sau: “Tất cả những gì chúng ta muốn cầu nguyện đều có sẵn trong kinh Lạy Cha. Và những gì không có trong kinh này, thì chúng ta không nên cầu xin”.
Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Công giáo là tâm tình con thảo với Cha trên trời, là thể hiện niềm tin và phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa.
Các nhà tu đức học thường coi cầu nguyện là câu chuyện thân mật giữa ta và Chúa với tâm tình con thảo. Vì thế, cầu nguyện là nói chuyện với Chúa. Đã nói chuyện thì phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện sẽ trở thành độc thoại. Xin kể ra đây một ít sự kiện để chúng ta hiểu việc cầu nguyện với Chúa như thế nào. Khi viếng Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây là một số câu trả lời:
* Thánh Ignatiô Loyola nói: “Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một người bạn, có khi như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài ơn, thú tội đã phạm với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo”.
* Còn thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con khẩn cầu Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi con chìm vào lòng nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh của Chúa”.
* Vua Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước Anh:
- Tại sao bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng?
- Bởi vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với Vua trên trời hơn là nghe kẻ khác nói về Ngài.
* Khi thánh Phanxicô khó khăn trình lên Đức Thánh Cha Hônôriô II bản qui luật của Dòng, để xin Ngài phê chuẩn thì Đức Thánh Cha có hỏi thánh nhân: - Có bao giờ con thấy Chúa chưa?
Phanxicô: - Dạ thưa có. Con vừa thấy đêm hôm qua.
Đức Thánh Cha: - Người có nói gì với con không?
Phanxicô: - Người và con ở bên nhau suốt đêm mà không nói được gì. Tuy nhiên mỗi lần con nói “Abba” với Người thì Người lại trả lời với con: “Con Ta”. Cứ thế... chẳng có gì hơn cho tới sáng.
Truyện: Thế nào là cầu nguyện không ngừng
Tác phẩm “Con đường hành hương” kể câu chuyện như sau:
Một người kia học Thánh kinh thấy lời khuyên hãy cầu nguyện không ngừng. Ông không biết làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vì thế, ông hành hương đến một tu viện và xin một tu sĩ chỉ dạy ông. Vị tu sĩ mời khách hành hương ở lại tu viện, trao cho ông một tràng chuỗi và dặn ông cứ lần chuỗi và đọc câu “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Người này nghe lời làm theo, mỗi ngày vừa lần chuỗi vừa đọc không biết bao nhiêu lần câu đó, có đến cả trăm ngàn lần.
Một ngày kia vị tu sĩ qua đời. Người khách hành hương khóc sướt mướt khi đưa vị tu sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó ông rời tu viện tiếp tục cuộc hành hương, bởi vì vị tu sĩ ấy vẫn chưa dạy cho ông làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vừa đi, ông vừa làm như thói quen vị tu sĩ đã dạy. Khi ông hít vào, ông đọc “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa”, khi thở ra, ông đọc tiếp “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Cứ thế không bao lâu lời cầu nguyện đã thành hơi thở của ông: dù khi ăn, dù khi uống, dù khi nói năng, đi đứng... Mỗi hơi thở, mỗi nhịp đập của trái tim ông đều trở thành cầu nguyện. Và người khách hành hương chợt hiểu: Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là cầu nguyện không ngừng (Chờ đợi Chúa).
Suy Niệm 11: Chúa Giêsu dạy về sự cầu nguyện
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Phân tích
Chúa Giêsu dạy về sự cầu nguyện:
1. Khi cầu nguyện không cần nhiều lời: lý do là Chúa Cha biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta nói ra.
2. Bảy điều cần phải xin: Kinh Lạy Cha.
Suy gẫm
Vì nghĩ rằng cầu nguyện là nói cho Chúa nghe, nên tôi không có gì để nói hay tôi không cảm thấy Chúa đang nghe thì tôi không cầu nguyện. Thực ra cầu nguyện trước hết là ở với Chúa, kết hợp tâm tình với Chúa. Khi cầu nguyện điều cần hơn là xin Chúa nói cho tôi biết Chúa cần gì nơi tôi.
2. Có hai hình thức cầu nguyện là cầu nguyện chung với những người khác và cầu nguyện riêng một mình với Chúa. Việc cầu nguyện riêng nuôi dưỡng việc cầu nguyện chung. Người nào ít cầu nguyện riêng thì việc cầu nguyện chung của họ chủ yếu là làm theo lệ, không có tâm tình bao nhiêu.
3. Tác phẩm “Con đường hành hương” kể câu chuyện như sau:
Một người kia đọc Thánh Kinh thấy lời khuyên hãy cầu nguyện không ngừng. Ông không biết làm thế nào để có thể cầu nguyện không ngừng. Vì thế ông hành hương đến một tu viện và xin một Tu sĩ chỉ dạy cho ông. Vị Tu sĩ mời người khách hành hương ở lại tu viện, trao cho ông một tràng chuỗi và dặn ông cứ lần chuỗi và đọc câu “lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Người này nghe lời làm theo, mỗi ngày vừa lần chuỗi vừa đọc không biết bao nhiêu lần câu đó, có đến cả trăm ngàn lần.
Một ngày kia vị Tu sĩ qua đời. Người khách hành hương khóc sướt mướt khi đưa vị Tu sĩ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đó ông rời tu viện tiếp tục cuộc hành hương, bởi vì vị Tu sĩ ấy vẫn chưa dạy cho ông thế nào là cầu nguyện không ngừng. Vừa đi, ông làm theo thói quen như vị Tu sĩ đã dạy. Khi ông hít vào, ông đọc “Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa” khi ông thở ra, ông đọc tiếp “Xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Cứ thế không bao lâu lời cầu nguyện đã trở thành hơi thở của ông. Dù khi ăn, dù khi uống, dù khi nói năng, đi đứng. Mỗi hơi thở, mỗi nhịp đập của trái tim ông đều trở thành lời cầu nguyện. Và người khách hành hương chợt hiểu: “Bây giờ tôi đã hiểu thế nào là cầu nguyện không ngừng.”
4. ”Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho kẻ có lỗi với chúng con” (Mt 6, 12).
Sao Vân không nhìn nó? nhiều lần Ly thấy nó nhìn Vân có vẻ muốn nói chuyện lắm.
Kệ nó, Vân biết nhưng Vân không muốn! Nó đã xúc phạm Vân. Vân chỉ nói chuyện khi nào nó xin lỗi.
Vân cố chấp và ích kỷ quá! Vân nên…
Ly định nói gì nữa nhưng tôi đã quay mặt bỏ đi, mặc cho Ly đứng một mình giữa sân trường.
Chiều, đi lễ. Bước vào nhà thờ, tôi cúi mình chào Chúa rồi sốt sắng đọc kinh “Lạy Cha chúng con ở trên trời... như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.”
Tôi dừng lại và không thể đọc được nữa. Ánh mắt biết lỗi của và câu nói của Ly cứ hiện lên trong đầu tôi như bắt tôi nhìn lại mình.
Lạy Chúa, khi bị treo trên Thập Giá, Chúa đã biện hộ cho tội chúng con: “Xin Cha tha tội cho chúng vì chúng chẳng biết.” Xin Chúa cho con lòng quảng đại để luôn biết tha thứ cho nhau.
Suy Niệm 12: ,,,,
(Lm. Đinh Tất Quý)
1. Trong số các việc đạo đức, người Do Thái rất coi trọng 3 việc này: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Nhiều người làm việc đó chỉ nhằm mục đích để được tiếng là đạo đức, cho nên họ làm cho người ta thấy mà khen họ. Chúa Giêsu gọi đó là giả hình.
Ngài dạy các môn đệ khi làm việc đạo đức, chỉ nên nhắm vào việc làm vui lòng Cha trên trời mà thôi, cho nên hãy làm cách kín đáo.
Người ta kể một câu chuyện vui như sau:
Anh Guton Boris có thói quen ghi lại tất cả những việc làm tốt của mình vào sổ tay, đến ngày kết thúc cuộc đời ở trần gian, anh xuất hiện trước toà Chúa và trình lên Ngài một cuốn sổ tay dày cộm, trong đó anh ghi được tổng cộng tất cả là 50.000 việc làm tốt. Chúa Giêsu nhìn và tỏ vẻ rất nghiêm trang nhưng Ngài không phản ứng gì. Đoạn Ngài từ từ mở sổ riêng của Ngài ra nhìn vào đó hồi lâu rồi nói với anh.
- Con nói là đã làm được 50.000 việc tốt nhưng theo sổ riêng của Ta thì chỉ có một việc duy nhất mà thôi, vì thế con chưa được ở lại đây với Ta mà phải trở lại trần gian để được thanh luyện thêm rồi mới trở lại đây để ta xét.
Anh Guton Boris vội vã thanh minh.
- Thưa Chúa, con đâu ghi láo, mỗi lần làm xong việc tốt là con ghi ngay vào sổ. Quả thật tất cả là con đã làm 50 ngàn việc lành trong suốt đời sống con ở trần gian. Tại sao Chúa lại chỉ nhận có một việc, còn 49.999 việc kia thì sao.
Bấy giờ, Chúa Giêsu chậm rãi giải thích:
- Này con, con đã làm 50 ngàn việc tốt nhưng với ý khoe khoang chứ không phải vì ý ngay lành hay vì tình yêu đối với Ta. Chỉ có một lần duy nhất con làm vì ý ngay lành mà thôi, đó là lúc con mới được rước Ta vào lòng lần đầu tiên. Ý ngay lành rất quan trọng vì nếu không có nó, những việc tốt con làm không có giá trị gì đối với Ta cả. Con đã muốn khoe khoang, muốn được mọi người khen ngợi, vì thế 49.999 việc tốt kia là những việc khoe khoang vô ích mà thôi.
Vâng, con người có thể che mắt được thiên hạ chứ làm sao giấu được Chúa.
2. “Cha của anh Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho anh” (Mt 6,6b).
Trong một bài tạp bút của báo Tuổi trẻ số ra chủ nhật đầu tháng 10/1998, tác giả Uông Thế Biển có ghi lại một kinh nghiệm như sau:
Chuyện xảy ra cách đây đã hơn mười năm. Ngày ấy, tôi làm lục lâm vượt sông Nghệ An đi buôn bè gỗ đường dài. Lần đầu và lần sau, người đưa đường cho tôi là Văn Suối, người dân tộc. Trong cuộc luồn rừng với tôi, Suối là cuốn tự điển sống về rừng. Anh thuộc tên từng loại côn trùng, thảo mộc, và với anh, rừng là cuộc sống, là máu thịt của anh.
Trời ngả sang chiều, chúng tôi dừng chân trong căn lều từ lâu đã bị bỏ hoang. Căn lều đã siêu vẹo, lưng lửng trên bếp có một ống đứa đựng muối còn sạch sẽ, trong đó vẫn còn một dúm muối khô như ai đó vừa bốc bỏ vào. Tôi và Suối mở cơm nắm ra ăn. Vì mệt, nên chúng tôi chỉ ăn hết phần nửa mo cơm. Theo thói quen, tôi định hất phần cơm còn lại đi nhưng Suối giằng lấy. Tôi nhìn anh gói ghém lại phần cơm và trèo lên bên dưới mái lều, anh không quên bốc một nắm muối mang theo cho vào ống đứa, và bỏ lại bên hòn đá năm bảy que diêm.
Thấy tôi ngạc nhiên, Văn Suối giải thích “Lần đầu tiên đi rừng, cậu không hiểu là phải. Đây là tập quán của những người quanh năm sống gắn bó với rừng: nắm cơm thừa, vài ba hạt muối, đôi lúc đã cứu được cả mạng sống người đi lạc đường, một viên ký ninh cắt tạm cơn sốt, một que diêm có thể đốt lên ngọn lửa sưởi ấm một người lạc trong rừng đang bị cô đơn và sợ hãi đe dọa. Những túp lều hoang trơ trọi giữa rừng núi trùng điệp này là nơi trú chân cho những người lỡ đường giữa mênh mông đại ngàn. Là người đi rừng, ai cũng có thể lâm vào hoàn cảnh như thế”.
Bao năm đã qua, tôi vẫn không quên được lời của Văn Suối, người bạn chỉ chung một chuyến đi, và ấn tượng về mục đích đẹp dành cho những người bạn rừng vẫn mãi theo tôi...
Nét đẹp của người bạn rừng trên đây hẳn phải là sự quan tâm đến người khác. Cử chỉ anh còn đẹp hơn nữa vì được thực thi trong một nơi ẩn khuất, không chờ đợi một đáp trả nào. Cử chỉ ấy gợi lại tinh thần vô vị lợi mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi các Kitô hữu:
Lạy Chúa, trong mọi sự, xin cho chúng con biết làm sáng lên hình ảnh của Chúa bằng lòng quảng đại và hy sinh vô vị lợi của chúng con.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy của lợi danh, nhưng dạy chúng con biết phục vụ trong khiêm hạ và yêu thương. (Hosanna).
15/06 Đạo đức thực sự vì Chúa
- Viết bởi Mt. 6, 1-6, 16-18
Đạo đức thực sự vì Chúa.
Thứ Tư tuần 11 thường niên.
"Cha ngươi Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi".
Lời Chúa: Mt. 6, 1-6, 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.
Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.
"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đấng thấu suốt những gì kín đáo
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
phải có danh gì với núi sông.”
Danh tiếng để lại cho đời là điều khiến nhiều người bận tâm.
Có người hiến mình để làm những công trình lớn lao để lại cho hậu thế.
Nhưng cũng có người rơi vào thói háo danh,
làm mọi sự chỉ để tìm cho mình chút tiếng khen mau qua.
Trong Bài Giảng trên núi mà ta nghe hôm nay,
Đức Giêsu tố giác thói háo danh của những người đạo đức giả,
khi họ làm ba việc đạo đức căn bản là bố thí, cầu nguyện, ăn chay.
Ngài cũng cho thấy cách sống đạo của người môn đệ.
Làm các việc đạo đức để tìm tiếng khen, là một cám dỗ có thật.
Có người thổi kèn trong hội đường hay ngoài phố khi bố thí.
Có người thích đứng cầu nguyện tại giữa ngã ba đường.
Có người có mang bộ mặt thiểu não khi ăn chay.
Tất cả chỉ nhằm thu hút sự chú ý của nhiều người khác,
chỉ nhằm “cho người ta thấy”, “để người ta khen” (cc. 1. 2. 5. 16).
Họ làm những việc tốt lành, nhưng lại tìm mình, co quắp trên chính mình,
trong khi lẽ ra những việc này phải mở họ ra trước Thiên Chúa.
Đối với Đức Giêsu, được người ta khen là nhận được phần thưởng rồi,
nên cũng chẳng được Cha trên trời ban thưởng nữa (c. 1).
Họ được phần thưởng mau qua của người đời,
nhưng mất phần thưởng trọng hậu trong ngày sau hết.
Đức Giêsu mời các môn đệ đi vào cái kín đáo, thầm lặng,
nơi đó không có con mắt của người đời, không có tiếng khen chê.
Nơi đó kín đến mức tay trái không biết việc tay phải làm.
Nơi đó là căn phòng đóng cửa, để chỉ có Cha và anh gặp gỡ.
Cha là Đấng hiện diện ở nơi kín đáo (cc. 6. 18).
Cha cũng là Đấng thấy những gì được làm ở nơi kín đáo (cc. 4. 6. 18).
Cha thấy anh đã bố thí, cầu nguyện, ăn chay cách thầm lặng.
Chính Cha sẽ ban thưởng cho anh.
“Hữu xạ tự nhiên hương” có thể là một hình ảnh đẹp về người Kitô hữu.
Đời Kitô hữu là cuộc đời kín đáo thầm lặng, như bị che khuất.
Nhưng cũng là cuộc đời không che giấu được trước mắt mọi người.
Chính khi cái tốt được làm một cách vô cầu, thì nó lại tỏa ngát hương.
Không hẳn là chúng ta luôn luôn phải cầu nguyện trong phòng đóng cửa.
Cũng như không hẳn chúng ta phải tô son đánh phấn khi ăn chay.
Nhưng điều quan trọng là chúng ta làm mọi sự cho vinh danh Chúa.
Cầu nguyện:
Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng xăng,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.
Và khi đã hoàn tất việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan. Amen.
(R. Tagore, Đỗ Khánh Hoan dịch)
Suy Niệm 2: Chúa sẽ trả lại
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tôn giáo là một tổ chức. Nhưng thực chất lại là mối liên hệ sâu xa và riêng tư giữa từng người với Thiên Chúa. Càng sâu xa và riêng tư hơn nữa khi đó là mối liên hệ Cha – Con. Vì thế các thực hành tôn giáo đúng nghĩa chỉ nói lên mối tình Cha – Con riêng tư. Không để khoe khoang thành tích. Không làm để cho người đời khen tặng. Thực tế đã có nhiều giả hình, phô trương trong sinh hoạt tôn giáo. Mượn đạo tạo đời. Đó là điều Chúa Giê-su cảnh báo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiếng đánh trống, …Khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy…Khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả,…Còn anh, khi ăn chay, phải làm…để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”.
Chúa sẽ trả lại. Trả cách hậu hĩnh. Như thánh Phao-lô cảm nghiệm. “Thưa anh em, tôi xin nói điều này: gieo ít thì gặt ít; gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm việc thiện”. Người vui vẻ dâng hiến cho Chúa. Chỉ vì Chúa sẽ được Chúa trả lại gấp bội (năm lẻ).
Ê-li-a suốt đời phục vụ Chúa. Ông chỉ biết một mình Chúa. Bất chấp vua A-kháp và hoàng hậu I-de-ven. Kết hợp mật thiết với Chúa. Hi sinh trọn đời cho Chúa. Rồi cuối cùng Chúa ban phần thưởng trọng hậu. Cho có người nối tiếp nhiệm vụ tiên tri. Cho xe lửa và ngựa lửa đón ngài về trời. Để lại quyền năng cho Ê-li-sa, người kế vị: “Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc…E-li-sa trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan. Ông lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi xuống mà đập xuống nước … nước rẽ ra hai bên, và ông Ê-li-sa đi qua” (năm chẵn).
Khi sống đạo hình thức. Ta không có Chúa. Đạo thật buồn nản. Là gánh nặng. Nhưng khi sống nội tâm. Với một mình Chúa. Ta có niềm vui. Và sức sống. Vì Chúa sẽ đổ tràn niềm vui mừng hạnh phúc, trả lại cho ta.
Suy Niệm 3: Các việc đạo đức
Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia. Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.
Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành. Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Đừng phô trương
“Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng.” (Mt. 6, 1)
Hãy nhìn tôi đây
Tất cả chúng ta đều nhìn nhận rằng những cách cư xử như vậy mà Chúa muốn chúng ta chấp nhận, đều là tuyệt hảo. Bố thí không khua chiêng đánh trống, cầu nguyện không để cho ai thấy, ăn chay không làm bộ rầu rĩ, ta muốn cho mọi người hành động như thế, và ta muốn mình cũng làm như vậy. Nhưng thực ra không phải dễ dàng đâu. Trong ta, mỗi người đều có một chút riêng tư, thực tế khó mà dứt ra được.
Ta thích cho người khác nhìn thấy việc tốt ta làm, cũng là thích phô trương những khía cạnh tốt của ta. Người ta phô trương mình, cũng là vì ý tốt và hàu như vô tình thôi.
Khi người khác có dụng ý khoe khoang, tìm những cử chỉ hợp thời để làm nổi bật mình, ta rất tinh để nhận ra điều đó. Lẽ nào ta lại không tinh tường đủ để nhận ra chính mình cũng mắc chứng tật đó khi tìm dịp để đặt mình lên bục cao sao?
Ta hãy nhớ lại chỉ trong một tuần lễ thôi, biết bao lần ta đã làm hết sức để cho người ta khen ta là dễ thương, quảng đại và hay giúp đỡ. Có lẽ những lần đó nhiều hơn ta tưởng.
Hãy để chính Thiên Chúa nhìn ta!
Thiên Chúa yêu thích những con người đơn sơ, khiêm tốn và kín đáo. Những kẻ thích làm ngôi sao nhỏ”, đối với Chúa thường chỉ là những người kiêu ngạo lớn. Khi ta thu xếp để người chung quanh ca ngợi ta, thì Thiên Chúa nhắm mắt lại. hoặc nhìn đi nơi khác.
Thiên Chúa chỉ đoái nhìn và xót thương những ai không tìm cách làm cho người ta nhìn mình.
Suy Niệm 5: Ý định và cách thức thể hiện
“Sống như kẻ công chính” có nghĩa, vào thời Chúa Giêsu, là trung thành với ba việc làm căn bản của đời sống tôn giáo: bố thí, kinh nguyện và chay tịnh. Một cách mặc nhiên Chúa Giêsu nói: các việc làm này quan trọng, và vì thế phải tránh đừng làm giảm giá chúng. Phải thực thi chúng không phải “trước mặt người ta”, nhưng trước mặt Thiên Chúa.
Một đàng con người có thể xác; vì vậy, thật là hợp lý khi thân xác được liên kết với cách thức diễn tả của đời sống thiêng liêng, tôn giáo. Điều này đưa đến những cử chỉ bên ngoài, có thể xem thấy được, thuộc về thể xác.
Người ta gọi là những việc làm. Đàng khác, thân xác là phương thế, là trung gian, là điểm tựa cho những tương quan xã hội. Những sinh hoạt thể xác, trông thấy được không thể là dửng dưng, nhưng được xem xét, lượng giá. Vì thế các việc làm tôn giáo là đối tượng của xem xét và lượng giá. Chúa Giêsu đề phòng chúng ta khỏi việc sử dụng những việc làm tôn giáo để lôi kéo sự xét đoán nịnh bợ và đánh giá khen ngợi của những kẻ trông thấy.
Phải làm gì? Hãy làm sao cho các việc làm này bớt tính cách thể xác, bớt dễ dàng cho người ta xem thấy tới mức tối đa. Vấn đề không phải là phát động một tôn giáo thoát xác và hoàn toàn bên trong. Bố thí, cử chỉ có tính cách vật chất; kinh nguyện đi đôi với thân xác; chay tịnh, kiêng cử thể xác. Tất cả những cái đó đều tốt và nên thực hành cách trung tín. Nhưng còn cách thức thực hiện: phải làm sao cho những việc làm có sự tham dự của thể xác và có thể thấy được, bớt tính cách phô trương. Phải làm cho chúng trở nên kín đáo tới mức tối đa, và hãy luôn ước muốn chỉ một mình Thiên Chúa xét đoán thôi. Tóm lại Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu điều này: đời sống tôn giáo là một việc làm giữa chúng ta và Thiên Chúa; vì thế điều hệ trọng là cái nhìn của Thiên Chúa trên ta, một cái nhìn thấu suốt được mọi bí nhiệm. Dùng những việc làm tôn giáo để được nhân loại tán dương thay vì muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, là sự giả hình ghê tởm nhất. Ngày nay chúng ta có thể thêm: khinh dể bố thí, kinh nguyện, chay tịnh mà Chúa Giêsu đã làm gương thi hành, và lớn tiếng tuyên bố cổ võ một Phúc Âm giải thoát nhưng rỗng tuếch nhựa sống, điều này cũng là một sự giả hình không kém.
Việc từ bỏ mình của tôi, mà Thiên Chúa biết có tỏa rạng niềm vui không?
Suy Niệm 6: Đừng cầu danh
Một thi sĩ người Anh, ngoài tài làm thơ ông còn có năng khiếu về âm nhạc. Thi sĩ thường cùng với nhóm thân hữu họp để ngâm thơ và hòa nhạc. Một đêm nọ, lúc đang trên đường tới dự một buổi hòa nhạc, thi sĩ đã gặp một chiếc xe ngựa đang bị sa lầy, trên xe hàng hóa chất đầy, tài xế thì già yếu và con ngựa lại gầy còm. Không chút ngần ngại, ông đã bỏ cây đàn sang một bên, dỡ số hàng hóa trên xe xuống, đẩy xe qua khỏi vũng lầy và chất hàng hóa lên xe trở lại. Ông còn tặng thêm cho bác tài xế ít tiền nhỏ để mua thức ăn cho con ngựa. Xong xuôi công việc thì trời đã về khuya và bộ đồ dạ hội đã vấy bùn. Tuy nhiên, ông vẫn đến nơi hẹn, lúc ông đến nơi thì buổi hòa nhạc đã gần tàn, một người bạn nói với ông: “Nhà thơ của chúng ta đã lỡ mất một buổi hòa nhạc tuyệt vời”. Thi sĩ vui vẻ mỉm cười và đáp: “Vâng! đúng thế. Tuy nhiên, bù lại tôi đã tấu được khúc nhạc khác tuyệt vời hơn nhiều”.
Mỗi công việc đều đem lại một kết quả, kết quả đem lại cho con người hài lòng thì nó là phần thưởng. Đối với nhóm bạn bè thân hữu của thi sĩ thì công việc của ông làm đã hạ thấp giá trị người nghệ sĩ, ông bỏ mất phần thưởng giá trị để lao mình vào chuyện không đâu. Riêng đối với nhà thơ thì khác, qua công việc bác ái vừa làm, ông đã tấu được những khúc nhạc tuyệt vời. Vậy đâu là giá trị, là phần thưởng của công việc. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta phương thế để tìm kiếm và chọn lựa.
Thật thế, bố thí, cầu nguyện và ăn chay là ba nét chính yếu trong đời sống đạo của người Do thái, vì chúng diễn tả đến ba mối tương quan của con người. Có thể gọi “bố thí” là sự liên hệ đối với người khác, “cầu nguyện” là trao đổi, trò chuyện cùng Thiên Chúa và “ăn chay” là công việc liên quan đến chính bản thân mình.
Trong đời sống đạo chẳng thể bỏ qua ba công việc này, chúng rất cần thiết, vì đó là hình thức diễn đạt của con người hữu hình. Một tinh thần chịu sự lệ thuộc của thân xác, hình thức bên ngoài để bộc lộ bên trong. Tuy nhiên, cũng vì hình thức bên ngoài mà việc làm lại mang những ý nghĩa khác nhau, vì có người lợi dụng chiếc vỏ hình thức này để che giấu hoặc phô bày những khuyết điểm, nghĩa là thái độ giả hình. Thái độ giả hình này đã bị Chúa Giêsu thẳng thắn kết án. Những hạng người giả hình này, họ cũng bố thí, ăn chay, cầu nguyện, nhưng tựu trung chỉ để phô diễn cái tôi của họ để rồi đánh mất giá trị đích thực của công việc. Giá trị ít khi đi chung đường, và chính giá trị này sẽ hủy diệt giá trị kia.
Giữa Thiên Chúa và thế gian đã có một cách biệt rõ ràng; nếu chỉ tìm kiếm những giá trị trần gian thì con người khó lòng vươn tới được giá trị ở trong Thiên Chúa: “Họ đã được thưởng công rồi”. Lời nói nhẹ nhàng của Chúa Giêsu cũng là một tuyên bố dứt khoát đối với những ai mải mê chạy theo các giá trị trần thế, và dù người ta có muốn quay về với giá trị đích thực thì giấc mộng phù du cũng đã cản lối quay về.
Bố thí là một lời yêu thương nghĩ đến người khác, nhưng nếu bố thí chỉ muốn làm thỏa mãn cái tôi của mình thì làm sao thấy được kẻ khác. Cầu nguyện hướng về Thiên Chúa, thế mà chỉ quy về bản thân thì làm sao còn chỗ cho Thiên Chúa, còn biết Ngài ở đâu để trò chuyện. Ăn chay là một đền bù cho những gì sai lỗi, khiếm khuyết. Ăn chay được diễn tả như một khao khát được Thiên Chúa lấp đầy, thế nhưng nếu con người đã no thỏa với chính mình thì họ đâu cần đến Thiên Chúa. Đã tìm thấy giá trị nơi bản thân mình nên con người đánh mất giá trị quý báu do công việc đem lại.
Bởi thế, lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay luôn là lời hướng dẫn cho người Kitô hữu khi hành động, không chỉ trong các việc làm căn bản của đời sống đạo, mà cả đến mọi công việc làm trong đời sống hằng ngày của con người. Công việc chỉ có giá trị khi người Kitô hữu biết nhìn công việc bằng ánh mắt của Đức Kitô, biết phân tích theo những tiêu chuẩn thẩm định của Thiên Chúa. Có thể người đời cho là thấp kém hoặc không ai biết đến. Tuy nhiên, Thiên Chúa Đấng thấu suốt mọi điều, Ngài sẽ thưởng công cho cách tràn đầy.
Lạy Chúa, trước một công việc chúng con làm, xin Chúa sáng soi để chúng con có thể khám phá được đâu là giá trị thực và xin giúp sức để chúng con quyết tâm theo đuổi giá trị ấy. Vì thân xác chúng con thật yếu đuối, vẻ hào nhoáng bên ngoài vẫn luôn là miếng mồi quyến rũ kéo chúng con lạc đường lối của Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết chấp nhận những tầm thường để đổi lấy những giá trị cao cả của Nước Trời. Amen.
Suy Niệm 7: Khiêm nhường thì mới có ích
Xem lại Thứ Tư lễ Tro.
Ngày nọ, có một người đến nói với cha xứ: “Con sẵn sàng dâng cúng tiền để mua một quả chuông cho Giáo xứ, nhưng với điều kiện, phải khắc tên con trên quả chuông ấy!”.
Đây là thực trạng của rất nhiều người biểu lộ niềm tin của mình cách thực dụng như thế!
Sẵn sàng giúp đỡ, nhưng không thể thành hiện thực khi không được nêu danh tánh và công trạng của mình cách công khai!
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng khuyên răn các môn đệ của Ngài phải cẩn trọng trong việc thi hành đức bác ái, kẻo lỡ trở thành “công dã tràng” tức là tốn công vô ích. Ngài dạy cho các ông khi làm việc thiện, hãy làm vì lòng mến và tinh thần vô vị lợi. Không cần phô trương để người đời biết mà ca tụng. Nếu muốn được biểu dương thì hẳn đã được phần thưởng do người phàm tán tụng rồi, và như một quy luật: đã được người đời thưởng công thì không được Thiên Chúa chúc phúc nữa.
Vậy, cùng một việc bác ái, khi thi hành, chúng ta muốn được phần thưởng muôn đời do Thiên Chúa ban tặng hay chỉ muốn phần thưởng tạm bợ, nhất thời, mau qua chóng hết do con người trao tặng?
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cùng nhau làm một bài toán hầu tính ra sự hơn thiệt để mà tiến bước. Tuy nhiên, đáp án chỉ có khi chúng ta kết thúc cuộc sống trần thế này, và lúc ấy, phần thưởng được trao ban khi và chỉ khi chúng ta làm việc thiện với lòng tin, cậy trông và lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con tinh thần của Chúa và giúp chúng con thi hành vì yêu mến Chúa và anh chị em, để mọi hành động, mọi việc làm của chúng con đều xuất phát từ tấm lòng khiêm cung và tràn đầy yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 8: Làm việc đạo đức là làm vì Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Bố thí, cầu nguyện và ăn chay chỉ có giá trị trước mặt Chúa khi được thực hiện vì Chúa, chứ không vì người đời hay với dụng ý khoe khoang.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, lắng nghe Tin Mừng hôm nay, con thấy Chúa muốn dạy con rằng các việc đạo đức con làm là làm cho Chúa, là sống với Chúa và với mọi người trong sự chân thành yêu thương, mà không cầu lợi cho mình, không mong tìm sự đánh giá của người khác. Chúa muốn cảnh giác con, để con tránh khỏi hình thức đạo đức bên ngoài. Chúa không muốn con đến cùng Chúa với dụng ý tư lợi, không muốn con đối xử với kẻ khác bằng thái độ vị kỷ. Trong gia đình, thật là tệ nếu con cái yêu thương bố mẹ chỉ vì muốn cha mẹ mua cho chiếc xe, cái máy. Con cũng không thể đến với Chúa với thái độ như vậy.
Ẩn sau các việc đạo đức là một thái độ sống: sống trước mặt Chúa và cho Chúa như một người cha. Đó là cách để con tỏ bày lòng thảo hiếu yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa cho con nhận ra điều đó để con sống tốt trước mặt Chúa. Chúa là Cha yêu thương con, đã ban cho con rất nhiều ơn mà con không nhận thấy được. Chúa ban ơn phúc cho con mà không mong tìm điều gì cho Chúa. Con ao ước cuộc sống của con là cách thức để nói lên tấm lòng của con đối với Chúa, dù khi con sống một mình hoặc con sống trước mặt kẻ khác.
Con muốn sống lương thiện không phải để được tiếng khen của người đời nhưng là để sống theo giáo huấn của Chúa. Con muốn cầu nguyện bởi vì đời sống con cần Chúa và phải gắn bó với Chúa. Con yêu thương tha nhân vì chúng con là con của Chúa. Xin tình yêu Chúa tinh luyện mọi hành vi và cuộc sống của con. Amen.
Ghi nhớ: “Cha ngươi Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.
Suy Niệm 9: Làm vui lòng Cha trên trời
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một tòa giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi”. Nghe thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm”. “Ô thế bạn ở đâu vậy?”. “Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo” (Trích Món quà giáng sinh).
Suy niệm
Ba việc đạo đức tiêu biểu mà người Do Thái thường làm: bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Người pharisiêu vụ lợi hình thức luôn làm những việc này trước mặt công chúng để người khác biết và khen họ đạo đức.
Chúa Giêsu cảnh báo những người làm việc đạo đức chỉ để khoe khoang và lấy tiếng khen của người đời, như thế thì vô ích trước mặt Ngài. Mọi hành vi đạo đức nhằm phần thưởng nhân loại trần thế, thì mất phần thưởng thần linh và vĩnh cửu.
Chúa dạy hãy làm việc bác ái và các việc đạo đức cách khiêm nhường và làm cách kín chỉ mong làm vui lòng Cha trên trời. Thiên Chúa thấu suốt mọi sự sẽ thưởng cho: “Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con”. Hơn nữa, việc đạo đức trên nền khiêm tốn và cách kín đáo xây dựng nên sự “công chính” theo Tin Mừng, có chiều sâu nội tâm của các ý hướng, quên mình và ưu tiên cho danh dự và quyền lợi của Thiên Chúa.
Xin Chúa dạy chúng ta tinh thần nhỏ bé và nhân hậu. Ðể mọi hành động, mọi việc làm của chúng ta luôn kín đáo, xuất phát từ tấm lòng chân thành khiêm cung vì Chúa và vì anh chị em. “… Và khi đã hoàn tất việc đời, lạy Thiên Chúa muôn loài, một mình, lặng lẽ, tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan” (R. Tagore, Đỗ Khánh Hoan dịch).
Ý lực sống:
‘‘ Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng” (2Cr 9,7).
Suy Niệm 10: Hãy trung thực, đừng giả hình (Mt 6,1-6.16-18)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Trong số các việc đạo đức, người Do thái coi trọng 3 việc là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Chúa dạy chúng ta cách thức làm ba việc lành ấy cho tốt, để đáng được Chúa thưởng công.
Điều cốt yếu là khi làm ba việc lành đó, chúng ta tránh phô trương ra bên ngoài, mỗi khi làm được việc gì lành, điều gì tốt, chúng ta luôn luôn muốn cho mọi người biết. Còn khi làm việc gì không tốt thì chúng ta muốn giấu kín. Chúng ta phải làm việc lành với lòng khiêm tốn, âm thầm, kín đáo, vì lòng mến Chúa yêu người thực sự, để làm đẹp lòng Chúa, làm sáng danh Chúa, để Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ thưởng công chúng ta.
Tin mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Maisen, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quí, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia. Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người ta khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác (Mỗi ngày một tin vui).
Nhưng lời Chúa dạy hôm nay sao mà gắt gao quá, phải không bạn? Khi làm việc lành phúc đức tôi đã hy sinh cái lợi, cái thú rồi thì ít ra tôi cũng được phép kiếm chút danh chứ? Câu trả lời của Chúa là KHÔNG! Chúa nói rõ: làm việc đạo đức mà cầu danh thì đấy là đạo đức giả. Điều Chúa muốn, đó là chúng ta thực thi ý Ngài với ý thức rằng:”Chúng tôi chỉ là những tôi tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (x. Lc 17,10). Các sách Tin mừng cho thấy Chúa Giêsu đã gặp gỡ, tiếp xúc với rất nhiều loại người, nhưng gặp rắc rối là với những kẻ đạo đức giả, chứ không phải với những người tội lỗi thật (5 phút Lời Chúa).
Trước đây Chúa Giêsu trình bày sự công chính mới trong lãnh vực các điều răn, nay Ngài đề cập tới nền đạo đức mới: phải thực thi những việc đạo đức thế nào phải phù hợp với tinh thần của Chúa Kitô. Những lời khuyên bảo của Chúa Giêsu về những việc đạo đức được bao gồm ba chiều kích:
- Đối với tha nhân: bố thí.
- Đối với Thiên Chúa: cầu nguyện.
- Đối với bản thân: chay tịnh.
Ba chiều kích này tiêu biểu cho cả cuộc sống. Điều cốt yếu trong cả ba trường hợp vẫn là sống thật, sống trước mặt Thiên Chúa với ý hướng ngay thẳng và thi hành ý Chúa.
Bố thí, cầu nguyện, ăn chay là ba nét chính yếu trong đời sống đạo của người Do thái. Việc làm thì tốt, nhưng vì hình thức bên ngoài mà việc làm mang ý nghĩa khác, bởi vì có người bố thí, cầu nguyện, ăn chay chỉ là để phô diễn cái tôi của họ để rồi đánh mất đi giá trị đích thực của công việc.
- Bố thí là lời yêu thương gửi đến người khác, nhưng nếu chỉ để mình được thấy thì làm sao thấy được kẻ khác;
- Cầu nguyện là hướng về Thiên Chúa, nhưng nếu chỉ qui về mình thì làm sao còn có chỗ cho Thiên Chúa;
- Ăn chay là một đền bù cho những lỗi lầm, và diễn tả khao khát được Thiên Chúa lấp đầy, nhưng nếu con người đã no thoả trong chính mình thì làm sao họ còn cần đến Thiên Chúa.
Giữa Thiên Chúa và thế gian đã có một cách biệt rõ ràng: nếu đã tìm giá trị trần gian, con người khó lòng vươn tới được giá trị đích thực. “Họ đã được thưởng công rồi”: đó là lời tuyên bố dứt khoát đối với những ai chỉ mải miết chạy theo những giá trị trần thế.
Lời Chúa hôm nay là một hướng dẫn cho người Kitô hữu không những trong các việc làm căn bản của đời sống đạo, mà cả những công việc trong đời sống hằng ngày nữa. Công việc chỉ có giá trị khi người Kitô hữu biết nhìn công việc bằng ánh mắt của Đức Kitô và biết phân tích theo những tiêu chuẩn thẩm định của Thiên Chúa. Đó có thể là công việc mà người đời cho là tầm thường hoặc không được ai biết đến, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho.
Truyện: Đừng phô trương
Có một linh sư Ấn độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được một trung tâm cầu nguyện và qui tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người tìm thầy học đạo. Để thử đức vâng lời của anh, ông bảo anh phải bơi qua một dòng sông đầy cá sấu. Không chút ngần ngại, người thanh niên nhảy xuống và bơi qua sông mà không bị nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của Thầy tôi”. Sự kiện này làm cho vị linh sư tin rằng mình là một người thánh thiện. Do đó ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của mình. Ông tập họp tất cả các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “Tung hô quyền năng của ta” và nhảy xuống sông. Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Dụ ngôn trên có thể là một định nghĩa về sự thánh thiện. Thánh thiện là sự quên mình, quên mình đến độ không còn ý thức về sự thánh thiện của mình và sử dụng chính sự thánh thiện của mình nữa. Thiên Chúa ban sự thánh thiện cho một người nào đó là để những kẻ khác được hưởng nhờ. Bao lâu sự thánh thiện của người đó còn được người khác hưởng dùng thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút người đó muốn giữ riêng sự thánh thiện cho mình, thì người đó mất sự thánh thiện và đánh mất cả chính mình (Chờ đợi Chúa).
Suy Niệm 11: Làm cho Cha trên trời được vui
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Phân tích
Trong số các việc đạo đức, người Do Thái rất coi trọng 3 việc: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Nhiều người làm việc đó chỉ nhằm mục đích được tiếng mình là đạo đức, cho nên họ làm sao cho người ta thấy mà khen họ. Chúa Giêsu gọi đó là giả hình.
Ngài dạy các môn đệ khi làm việc đạo đức, chỉ nên nhắm vào làm cho Cha trên trời vui thôi, cho nên hãy làm cách kín đáo.
Suy gẫm
1. Hãy tự đặt cho mình một số câu hỏi ngắn để trắc nghiệm ý ngay lành của mình khi làm những việc đạo đức:
Trong Thánh lễ, khi tôi lên rước lễ, hay khi tôi lên đọc Sách Thánh, tôi nghĩ đến ai hay nghĩ đến điều gì nhiều nhất: Chúa? Những cặp mắt nhìn tôi? Bề trên sẽ đánh giá tôi?
Trong thời gian nghĩ không ai để ý đến một số việc đạo đức của tôi nữa, như nguyện gẫm, lần chuỗi khi đó tôi có làm những việc đó không? Làm như thế nào?
Thí dụ tôi có tham dự các giờ cầu nguyện đầy đủ, nhưng có người vì không thấy nên nói tôi bỏ bê những việc đó, tôi nghĩ sao? Tôi phản ứng thế nào?
Ngoài những việc đạo đức quy định và thời gian quy định cho những việc đó, tôi có làm thêm việc nào nữa không hay kéo dài thêm thời gian không?
2. Có một Linh Sư Ấn Độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được một trung tâm cầu nguyện và quy tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người tìm thầy học đạo. Để thử đức vâng lời của anh, ông ta bảo anh ta phải bơi qua một con sông đầy cá sấu. Không chút ngần ngại người thanh niên nhảy xuống và bơi qua sông mà không bị nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi.” Sự kiện này làm cho vị Linh Sư tin là mình thánh thiện. Do đó ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của mình. Ông tập họp tất cả các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “tung hô quyền năng của ta” và nhảy xuống sông. Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã nhào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Dụ ngôn trên có thể là một định nghĩa về sự thánh thiện. Thánh thiện là sự quên mình, quên mình đến độ không có ý thức về sự thánh thiện của mình và sử dụng chính sự thánh thiện của mình nữa. Thiên chúa ban sự thánh thiện cho một người nào đó để những người khác được hưởng nhờ. Bao lâu sự thánh thiện của người đó còn được người khác hưởng dùng thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại kể từ khi người đó muốn giữ riêng sự thánh thiện cho mình thì người đó đã đánh mất sự thánh thiện và đánh mất cả chính mình.
3.“Cha của anh đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho anh” (Mt 6.6b)
Sáng nay mình đi học trễ, tuy thế vẫn cố sức đạp xe cho thật nhanh cho kịp giờ học.
À mà! Một bà cụ gánh trái cây bị xe thồ tông phải, trái cây lăn đầy ra đường.
Tôi tự nhủ: “Đường vắng quá có giúp cũng chẳng ai thấy, cứ lo việc của mình đã.” Thế là tôi vụt qua, mặc cho bà cụ lẻ loi một mình. Đi được một quãng tôi chợt cảm thấy thật có lỗi với bà cụ ấy. Những bài học về nhân bản như bị xé vụn trước mặt mình. Cả ngày hôm đó hình ảnh bà cụ cứ làm tôi ray rứt mãi.
Vậy đó, nhiều lúc mình cứ tưởng làm những việc lớn lao mới được tiếng tăm, được người ta kính nể, thán phục. Nhưng tôi đã lầm, nhặt một mảnh kính vỡ giữa đường, dắt một em bé qua đường, nếu làm được với tất cả với lòng mến và khiêm nhường, thì quả thật mình làm được một việc lớn. Ngược lại nếu có “dời non lấp bể” để rồi công việc mình làm chỉ để phục vụ cho cái tôi huênh hoang tự đắc thì kết quả chỉ là con số không.
Lạy chúa, xin đừng để con sa vào cạm bẫy của lợi danh, nhưng dạy con biết phục vụ trong khiêm hạ và yêu thương.
Suy Niệm 12: Phong cách cầu nguyện theo Chúa Giêsu
(Lm Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện:
1. Khi cầu nguyện không cần nhiều lời: lý do là Chúa Cha biết chúng ta cần gì trước khi chúng ta nói ra.
Mẹ Têrêsa nói: “Cầu nguyện không là xin xỏ, nhưng là trao thân gửi phận nơi bàn tay Thiên Chúa, để Ngài định liệu. Cầu nguyện là lắng nghe tiếng Ngài từ sâu thẳm tấm lòng chúng ta”.
Mẹ Têrêsa khuyên các nữ tu của Mẹ “Hãy yêu mến việc cầu nguyện”.
Hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện để có thể được ân sủng của Chúa.
Đức Cha Tihamer Toth kể:
Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi hỏi lý do thì người học trò đáp:
- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi được Ngài.
Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:
- Tại sao thầy buồn thế?
- Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa .
- Bộ ông ta khùng ư?
- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đàng khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.
- Như thế là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?
- Thì con cũng thế thôi .
Hãy cầu nguyện để có thể hiểu Chúa đã yêu thương chúng ta thế nào, và để ta cũng có thể yêu thương kẻ khác giống như vậy.
2. Cầu nguyện là nói chuyện với Chúa.
Đã nói chuyện thì phải có lúc nói lúc nghe. Nếu chỉ nói thì cuộc nói chuyện sẽ trở thành độc thoại.
Xin kể ra đây một ít sự kiện để chúng ta hiều việc cầu nguyện với Chúa như thế nào.
Khi viếng Chúa, các thánh thường làm gì? Sau đây là một số câu trả lời:
Thánh Ignatiô Loyola nói: “Có khi tôi nói chuyện với Chúa như một người bạn, có khi như một người đầy tớ đối với Chúa. Tôi xin Chúa một vài ơn, thú tội đã phạm với Chúa, xin Ngài an ủi và khuyên bảo”.
Còn thánh Phanxicô Xaviê trả lời: Có khi tôi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con khẩn cầu Chúa đừng để con thoải mái trong cuộc đời, hoặc ít ra, khi con chìm vào lòng nhân lành thương xót của Chúa, xin dẫn đưa con đến nhà thánh của Chúa”.
Vua Louis IX của nước Pháp có lần hỏi vua Henry III của nước Anh:
- Tại sao bệ hạ thích dự Thánh lễ hơn là nghe giảng?
- Bởi vì, vua Henry trả lời, tôi thích nói chuyện mặt đối với Vua trên trời hơn là nghe kẻ khác nói về Ngài.
Trong tác phẩm: “Năm chiếc bánh và hai con cá” Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, trang 21 có kể câu chuyện sau đây: Câu chuyện về ông già Jim.
- Mỗi ngày cứ vào lúc 12 giờ trưa, ông ta vào nhà thờ không quá hai phút. Sự việc đó làm ông từ giữ nhà thờ rất thắc mắc nên theo dõi. Rồi một hôm ông từ mạnh dạn chặn ông Jim lại và hỏi:
- Ngày nào ông cũng vào nhà thờ làm gì vậy?
- Tôi đến để cầu nguyện.
- Không thể được! Cầu nguyện gì chỉ trong 2 phút?
- Tôi vừa già, vừa dốt. Tôi cầu nguyện theo kiểu của tôi!
- Ông nói gì với Chúa?
- Tôi cầu nguyện: “Giêsu, có Jim đây!” rồi tôi về.
Vâng! Đó là lời cầu nguyện thật đơn sơ nhưng thật cảm động.
Và đây câu chuyện ông lão nhà quê được kể lại trong hạnh thánh Gioan Maria Vianney.
Hàng ngày ngồi ở tòa giải tội, cha sở họ Ars luôn nhìn thấy một ông lão ghé vào nhà thờ mỗi chiều sau khi đã lam lũ suốt ngày ngoài đồng. Ông luôn quì ở hàng ghế ấy. Quì một chút rồi ông lại lặng lẽ đi ra, y như lúc ông vào. Một hôm, ngài gọi ông lại và hỏi:
- Ông ơi, chiều nào tôi cũng thấy ông ghé nhà thờ, quì nguyên một chỗ, ngày nào cũng vậy, mà không thấy miệng ông mấp máy đọc kinh gì cả. Ông quì đó làm gì vậy?
Ông lão tủm tỉm trả lời:
- Con nhìn Chúa, Chúa nhìn con, rồi ra về.
Đây là lời cầu nguyện của thánh Augustinô.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con biết con,
Xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
Quên đi chính bản thân,
Yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
Biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
Tất cả những gì xảy đến cho con
Và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con luôn yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con luôn được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
Thánh Augustinô.
13/06 Ðừng báo thù
- Viết bởi Mt 5, 38-42
Ðừng báo thù.
Thứ Hai tuần 11 thường niên. – Thánh Antôn Pađôva, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác".
* Chào đời khoảng cuối thế kỷ 12, tại Lít-bon, Bồ-đào-Nha, nhập hội kinh sĩ thánh Augustinô, nhưng sau khi làm linh mục được ít lâu, thánh Antôn hâm mộ lý tưởng sống Tin Mừng của thánh Phanxicô.
Người đã đến Át-xi-di, sống bên cạnh thánh Phanxicô (năm 1221). Với tài năng giảng thuyết ngoại thường, người được phái qua Pháp là nơi các giáo thuyết của phái Ca-tha đang hoành hành. Người lập một tu viện ở Bơ-ri-vơ La Gai-ác. Thánh nhân là người đầu tiên trong dòng dạy thần học cho anh em. Người qua đời tại Pađôva sau khi giảng tĩnh tâm mùa Chay tại đó (năm 1231).
Lời Chúa: Mt 5, 38-42
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng".
Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ai xin, hãy cho
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Đoạn Tin Mừng hôm nay dễ bị đem ra nhạo cười,
vì có vẻ nó dung túng sự ác và biểu lộ một tinh thần yếu hèn bạc nhược.
Người ta hay nghĩ rằng nếu cứ sống theo tinh thần của Chúa Kitô,
thì hẳn kẻ ác sẽ tha hồ tác oai tác quái trong thế giới này.
Tuy nhiên, chính vì con người muốn sống theo khuynh hướng tự nhiên,
nên thế giới hôm nay mới không ngớt chiến tranh và đau khổ.
Đánh phủ đầu là đánh trước khi người kia kịp đánh mình.
Trên thế giới mỗi ngày có biết bao vụ sát nhân chỉ vì một chút hờn oán.
“Mắt đền mắt, răng đền răng”,
câu này thường được dùng để cho thấy sự tàn nhẫn của Cựu Ước.
Thật ra, Cựu Ước chẳng bắt người ta phải móc mắt, nhổ răng kẻ thù.
Câu này chỉ nhằm giới hạn việc báo thù trong mức độ cân xứng.
Trong xã hội mang tính bộ tộc của Ítraen thuở ban đầu,
“mắt đền mắt” đã là một tiến bộ đáng kể.
Đức Giêsu đi xa hơn khi đòi hỏi đừng chống cự lại người ác,
nghĩa là đừng lấy ác báo ác, đừng sống theo luật báo phục (lex talionis).
“Nếu bị ai vả má bên phải, hãy đưa cả má kia ra nữa” (c. 39).
Bị vả má bên phải nghĩa là bị tát bằng mu bàn tay phải.
Không phải là đau hơn, nhưng là nhục nhã hơn nhiều.
Đức Giêsu đã từng có kinh nghiệm này trong cuộc Khổ Nạn (Mt 26, 67).
“Đưa má kia” đơn giản chỉ có nghĩa là
tránh trả thù, chịu mình ở thế yếu,
vì báo oán là chuyện của Thiên Chúa (Rm 12, 19-20).
“Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,21).
“Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong, hãy để cho hắn lấy cả áo ngoài nữa” (c. 40).
Ở Đông phương, áo ngoài là quan trọng để chống cái lạnh ban đêm,
nên nếu bị cầm cố, thì cũng phải trả lại cho người ta có cái mà đắp (Đnl 24, 13).
Đưa cả áo trong lẫn áo ngoài cho kẻ kiện cáo mình,
là chấp nhận bị trần trụi và xấu hổ, nếu ai đó chỉ có một bộ thôi.
Trong xã hội Paléttin bị đô hộ bởi đế quốc Rôma,
chuyện bị ép vác đồ dùm cho lính tráng vẫn hay xảy ra (x. Mt 27, 32).
“Người bắt anh đi một dặm, hãy đi với người ấy hai dặm” (c. 41).
Môn đệ Đức Giêsu, trước những ép buộc không mấy chính đáng,
chẳng những được mời ưng thuận, mà còn làm hơn cả điều bị ép buộc.
Câu cuối của bài Tin mừng cho thấy thái độ bác ái của Kitô hữu
trước những yêu cầu của có thật của tha nhân (c. 42).
Mở lòng ra trước người xin, người muốn vay mượn,
dù kẻ ấy là kẻ thù hay người không có khả năng hoàn trả.
Lời của Đức Giêsu hôm nay làm chúng ta choáng váng.
Lời này không đòi dẹp bỏ hệ thống pháp luật, cảnh sát hay nhà tù.
Nhưng nếu các Kitô hữu cứ để cho Lời này thấm vào lòng từ từ,
đời sống của họ sẽ được thay đổi một cách kỳ diệu, và bộ mặt thế giới sẽ đổi khác.
Hiền hậu, bao dung, quảng đại, đó là điều thế giới hôm nay thiếu trầm trọng.
Gandhi, người say mê những câu Lời Chúa hôm nay, đã than phiền:
“Tôi thích Đức Kitô của các anh,
nhưng tôi không thích các Kitô hữu.
Vì các Kitô hữu thì chẳng giống Đức Kitô mấy.”
Chỉ mong chúng ta có trái tim hiền hậu giống Đức Kitô hơn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa:
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường,
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn, để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở,
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
Suy Niệm 2: Thừa tác viên của Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người đời cư xử với nhau theo sức mạnh. Mạnh được yếu thua. Câu chuyện vườn nho Na-vốt là tiêu biểu. A-kháp đã có nhiều vườn tược. Nhưng vẫn còn ham muốn vườn nho của Na-vốt. Hoàng hậu I-de-ven đã dùng thủ đoạn gian dối. Vu cáo Na-vốt. Giết chết ông. Và chiếm vườn nho. Người có quyền thế có mọi sự. Sai bảo người khác làm điều dữ. Giết người. Cướp của. Nhưng lại dùng chiêu bài đạo đức. “Trong thư bà viết rằng: “Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh và đặt Na-vốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. Hãy đặt hai đứa vô lại ngồi đối diện với nó, để chúng tố cáo nó: ‘Ông đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua’. Và hãy đem nó ra ngoài ném đá cho chết”.Thật là ghê gớm (năm chẵn).
Ngược hẳn với thói cư xử của người đời, Chúa dạy ta điều răn mới. Kiện toàn Lề Luật. Đề ra một lối sống mới. Đó là tinh thần Nước Trời. Và sẽ canh tân trần gian. Không còn mạnh hiếp yếu. Quyền lực áp chế dân đen. Nhưng là hiền lành, khiêm nhường và bác ái. Không dùng bạo lực. Chỉ dùng bác ái. Quảng đại. Yêu thương. Phục vụ: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: … Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặn, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi”. Đó chính là tinh thần của Chúa. Chính Chúa Giê-su đã làm như thế. Quỳ xuống rửa chân cho các tông đồ. Chữa lành anh lính bị Phê-rô chém đứt tai. Tha thứ cho những kể giết mình. Xin Chúa tha tội cho những kẻ làm hại mình. Đó chính là tinh thần Nước Trời.
Thánh Phao-lô ý thức được cộng tác với Chúa trong công trình xây dựng Nước Trời. Ngài làm tròn vai trò thừa tác viên của Chúa. Sống tinh thần của Chúa. Làm chứng cho Nước Trời. “Trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẩn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng”. Về phương diện con người ngài bị coi như khốn khổ. Nhưng ngài cảm thấy đầy đủ, bình an, sung mãn trong Chúa: “Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; … coi như nghèo túng, nhưng kỳ thức chúng tôi làm cho bao người trở nên giầu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả”(năm lẻ).
Xin cho con sống tinh thần của Chúa. Và làm chứng cho Nước Trời ở giữa trần gian. Bằng chấp nhận mọi thiệt thòi ở đời này. Để được sung mãn trong Nước Trời.
Suy Niệm 3: Thay đổi những cử chỉ phản xạ tự nhiên
“Anh em nghe luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị vả mà bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa.” (Mt. 5, 38-39)
Phản xạ tự nhiên
Trong các điều Chúa đòi hỏi ở đây, chẳng có điều nào là tự nhiên đối với ta cả. Giơ má bên trái khi người ta vả ta má bên phải, không chống cự lại khi người đánh ta, cho họ vay mượn mà không đòi những những bảo đảm cần thiết để người ta hoàn trả. Tất cả những cử chỉ đáp lại trên đây đều không phải là những cử chỉ bộc phát tự nhiên đối với ta. Ngay cả những người lương thiện và nhân từ cũng chẳng hành động theo cách đó.
Có lẽ tất cả chúng ta đều đồng ý rằng thi hành đúng như lòi Chúa dạy, trong nhiều trường hợp, thiết tưởng mình sẽ tỏ ra ngây ngô và hèn nhát. Chẳng khác nào như nối giáo thêm cho giặc và bỏ ngỏ cửa nhà cho trộm dễ vào vậy. Trong cuộc sống thường phải biết đứng thẳng hiên ngang và không được mềm như bún. Phải có khả năng tỏ ra cương quyết, khả năng đòi lại quyền lợi của mình.
Những cử chỉ phản xạ của người con cái Chúa
Thiết tưởng Chúa Giêsu cũng sẽ đồng ý với điều ta vừa nói. Chúa không mong muốn ta trở thành những con người hiền lành như cục đất, bạc nhược và mềm như bún. Vậy phải hiểu rõ Chúa chờ đợi gì ở nơi ta.
Điều Chúa mong đợi ở nơi ta chính la, khi phải đương đầu với mọi tình huống, thì cử chỉ phản xạ đầu tiên của ta luôn luôn phải là cử chỉ của lòng nhân ái, hiểu biết và đầy quảng đại. Chúa đồng ý là tiên vàn ta phải cố gắng lấy đức báo oán, lấy tình yêu thắng hận thù. Người cho rằng đấy là cách làm tốt nhất để tước khí giới kẻ tấn công ta hay có ý lợi dụng ta.
Chỉ có tình yêu và lòng đại độ mới thay đổi được lòng người xấu. Hãy giết chết bạo lực từ trong trứng nước bằng một phản ứng bất bạo lực. Hãy làm bẽ mặt đối phương bằng một tâm hồn vô cùng độ lượng. Hãy có những cử chỉ phản xạ của những người con cái Chúa chứ đừng trả miếng theo lối hoàn toàn phàm phu. Chúa mời gọi ta làm như vậy đó. Ai dám bảo Chúa lầm?
Tránh mắc vào guồng bạo động
Sau khi đọc đoạn Tin Mừng này, người ta tự hỏi phải tổ chức đời sống xã hội trên thể thức công bằng nào? Phải chăng là bật đèn xanh cho người hung ác và kẻ bất lương mà không bắt họ phải chịu thiệt thòi gì cả?
Thật ra, những lời Chúa Giêsu nói không nhằm đến nền luân lý trong xã hội. Luật báo thù, xét về phương diện xã hội học, đã là một bước tiến quan trọng so với những tập tục xa xưa, khi mà sự trả đũa diễn ra trong hỗn loạn. Nhưng ở đây Chúa Giêsu tuyên bố: luật báo thù phải được bãi bỏ. Luật lệ xã hội không bao giờ đủ để làm cho công bằng và hòa bình chân chính ngự trị. Chúa Giêsu kêu mời đừng trả đũa khi bị lầm lỗi và thiệt hại. Điều này không có nghĩa là xã hội được miễn khỏi việc tái lập công bằng, nhưng người Kitô hữu không được trả thù, nghĩa là gây thiệt hại lại khi bị thiệt hại. Có một khác biệt sâu xa giữa việc đền bù một bất công thuộc thẩm quyền tư pháp và gây thiệt hại lại khi bị thiệt hại.
Đàng khác phải nhớ rằng Chúa Giêsu dùng thứ ngôn ngữ rất thực tế, hợp với dân chúng. Chúa lấy những ví dụ đập mạnh vào sự chú ý của dân chúng nhờ tính cách rắn rỏi và có vẻ nghịch lý. Nếu hiểu theo nghĩa đen thí dụ cái vả má, người ta sẽ tự hỏi tại sao Chúa Giêsu, khi bị tên đầy tớ vả má trước mặt Caipha, lại quả quyết mình vô tội, thay vì giơ má bên kia nữa. Vậy điều hệ trọng là tìm xem điều Chúa Giêsu muốn dạy qua những thí dụ về áo choàng, cái vả má… Lời giải thích được tìm thấy trong câu ngắn ngủi này: Ta bảo các ngươi đừng cự lại người ác. Điều này có nghĩa: chớ cãi vã, đánh đập, trả thù, chớ đi vào tinh thần kiện tụng (là thứ tinh thần quen thuộc trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu). Bình an là hoa quả của công bằng, nhưng không ai có bình an bằng phương tiện bạo động tự xử cho mình.
Một điểm nhỏ cần lưu ý: nếu ai cậy nhờ ngươi… Trong đời sống thường nhật chúng ta đã chẳng bị ‘nhờ vả’ bởi đủ thứ việc sao? Đừng tìm cách tránh né, nghĩa là chúng ta đừng lẩn trốn, nhưng hãy đáp lại với lòng quảng đại và nhân ái.
Suy Niệm 4: Khoan dung với kẻ ác
Lorobel khi còn làm quan toàn quyền ở Ấn Độ, vào một ngày kia ông đáp tàu trở về Trung Quốc, cùng trên chuyến tàu có một phu nhân mang theo đứa nhỏ, bà chẳng ngó ngàng gì đến đứa bé khiến nó cứ khóc thét suốt ngày đêm. Hành khách ai cũng bực mình, có người thô lỗ còn hăm dọa sẽ ném đứa bé xuống biển. Lorobel đã quyết định một việc mà ít ai ngờ tới: Ông ẵm đứa bé lên, đặt nó ngồi trên đùi của ông và từ giờ này qua giờ khác, ông nói chuyện đùa giỡn và làm trò đùa hoặc làm bất cứ điều gì đứa bé thích. Đầu tiên đứa bé ngạc nhiên quên đi chuyện khóc lóc, và sau khi quen rồi nó lại thích thú quấn quýt bên Lorobel. Hành khách trên tàu cảm thấy dễ chịu, ít bực mình và đôi khi còn vui lây niềm vui của đứa bé. Đứa bé không còn làm phiền ai nữa, nhưng nó đã trở nên tâm điểm truyền đạt niềm vui cho hành khách.
Nếu có mặt trên chuyến tàu cùng với Lorobel hôm đó, chúng ta cũng được chứng kiến một cảnh khôi hài, đó là một vị quan toàn quyền đầy uy quyền như thế mà lại nhận lãnh vai trò vú em. Ông không sử dụng uy quyền của mình để ra lệnh cho người đàn bà, nhưng đã dùng tình thương để đối xử với sự thiếu sót của bà. Đây quả thực là một phản chiếu lời dạy của Chúa Giêsu được thánh sử Matthêu gởi đến cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thật vậy, đền ơn trả oán là một áp dụng cụ thể trong công bằng giao hoán. Từ khi có ý niệm về luật pháp thì việc báo oán cũng được quy định. Luật của người Babylon viết: “Nếu kẻ nào làm cho một người nào đó trong giai cấp bị mất mắt hoặc gẫy tay chân thì phải chịu mất mắt hoặc gẫy tay chân để đền bù. Nếu đối tượng là kẻ bần dân thì chỉ cần đền bù bằng một lạng bạc”. Người Do thái cũng áp dụng luật này, nhưng không phân biệt giai cấp: mắt đền mắt, răng thế răng, mọi người đều có quyền được đền bù xứng đáng.
Thật ra ý niệm về công bằng này không hoàn toàn chia khỏi luật lệ người Do thái. Sách Lêvi viết: “Ngươi sẽ không báo oán, không tư thù với con cái dân ngươi”. Hoặc sách Cách Ngôn có viết: “Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó bánh ăn, nếu nó khát hãy cho nó nước uống”. Như vậy, dân tộc Israel vẫn còn chút gì là dân riêng của Chúa. Họ không buộc phải tuân giữ những điều này, họ vẫn có thể được đòi hỏi mắt đền mắt, răng thế răng. Chỉ khi Chúa Giêsu đến, Ngài mới kéo con người ra khỏi cái vòng oán thù lẩn quẩn này. Có thể xem cái vả vào má là một cái đụng chạm đến danh dự, một xúc phạm về tinh thần, và kiện tụng để đoạt áo là một đụng chạm đến của cải, một xúc phạm về vật chất.
Dù bị xúc phạm đến vật chất hoặc tinh thần thì người môn đệ của Chúa Giêsu không được vịn vào đó để báo oán, nhưng phải đưa má bên kia cho họ vả nữa. Hành động như vậy xem ra như một nhu nhược, cúi đầu khuất phục, nhưng chính hành động ấy diễn tả một thái độ quả cảm sẵn sàng cho đi tất cả để phục vụ người khác. Con người càng trở nên cao cả qua việc cho đi mà không giữ lại cho mình điều gì, dù điều đó là niềm hạnh phúc chính đáng, dù đó là một chút quyền lợi hợp với quyền sống con người. Càng cho đi, người môn đệ càng gần gũi với Thầy của mình là Đức Giêsu, Đấng đã cho đi hoàn toàn, cho đi cả mạng sống của mình.
Đồng thời, khi cho đi như vậy con người lại càng gần gũi với nhau hơn. Khi trao ban cho người khác điều gì là mở ngỏ cho họ sự cảm thông, và khi thực hành điều Chúa dạy: “Ai xin thì con hãy cho, ai muốn vay mượn con đừng khước từ”, cũng có nghĩa là đã thêm được một lần nối kết và nhiều nối kết sẽ tạo nên sự bền chặt và sức mạnh. Sợi tơ nhện mỏng manh, nhưng nhiều sợi tơ sẽ giữ được con ruồi. Một sự cho đi của con người xét ra thì chẳng đáng gì, thế nhưng nếu cả một thế giới cho đi thì cũng đủ khả năng để cầm giữ sự ác, để chống lại quyền lực của sự dữ.
Lạy Chúa, thế giới vẫn còn nhiều bóng dáng của sự ác, vẫn còn nhiều chiến tranh, vì mỗi người chúng con chỉ biết thu góp quyền lợi về cho mình mà chưa biết cho đi. Xin Chúa cho chúng con biết sẵn sàng cho đi, để rồi trong trao ban chúng con sẽ được nhận lãnh, chúng con sẽ gặp được Chúa là chính nguồn bình an, đồng thời cũng làm người em bên cạnh cũng nếm được mùi hạnh phúc thật của Chúa. Amen.
Suy Niệm 5: Ðừng báo thù
"Mắt đền mắt, răng đền răng", đó là công thức của luật báo thù. Người ta xúc phạm đến tôi bao nhiêu, tôi phải làm lại cho người đó bấy nhiêu. Kẻ lý luận như thế là dựa trên sự công bằng, nhưng đây là sự công bằng theo mức độ của loài người. Luật trả thù này đã được ghi chép thành văn trong bộ luật của vua xứ Babylon năm 1750 TCN. Trong Bộ Ngũ Kinh, người ta cũng có thể đọc thấy vài công thức của luật trả thù này, và đó là sự bất toàn của Luật Môsê thời Cựu Ước.
Nhưng luật trả thù này không những có trong những bộ luật lâu đời, mà còn nằm trong tâm hồn con người mọi thời. Chúa Giêsu muốn nhắc cho các môn đệ Ngài xưa cũng như nay, là cần phải sẵn sàng dập tắt ngay nơi bản thân mầm mống của bạo động: "Ðừng chống cự người ác". Ngài nhấn mạnh đến tinh thần mà người môn đệ phải có, đó là tinh thần tha thứ, vượt qua điều anh em xúc phạm đến mình. Ðây là hình thức cao cả của tình yêu Kitô: yêu thương một cách nhưng không, không đòi lại điều gì, cũng không chờ đợi điều gì. Như vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Ai muốn lấy áo trong của con, thì hãy cho nó cả áo ngoài" không phải là thái độ thụ động, mà là thái độ tích cực sống yêu thương tha thứ như Chúa đã nêu gương từ trên Thập giá khi Ngài cầu nguyện: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm". Chúa Giêsu đã yêu thương và tha thứ đến cùng, và Ngài dạy chúng ta sống theo gương Ngài, nếu chúng ta muốn trở nên môn đệ đích thực của Ngài.
Chúng ta hãy cầu xin bằng chính lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô Assisiô: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn u sầu.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 6: Yêu và sống
Xem lại CN 7 TN A, CN 7 TN C, thứ Năm tuần 23 TN
Khi đạo Công Giáo mới được loan báo trên quê hương Nước Việt, cha ông chúng ta đã mau mắn đón nhận Tin Mừng và sống những giá trị Tin Mừng ấy rất sống động. Một trong những điểm sáng mà tổ tiên chúng ta đã sống đó là “tình yêu thương”. Khi sống như thế, nhiều người không phải là Kitô hữu, họ đã không hiểu được các ngài theo đạo gì, vì thế, họ không ngần ngại đặt cho tôn giáo mới này là: “Đạo Yêu Nhau”.
Hôm nay, Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học yêu thương. Yêu thương thì không oán hờn; không tính toán thiệt hơn; yêu thương thì không có khái niệm trả thù mà sẽ tha thứ không chỉ bẩy lần, mà bẩy mươi lần bẩy, tức là không có giới hạn.
Trong thực tế hôm nay, nhiều người Công Giáo không dám sống căn tính của mình là yêu thương. Bởi vì khi yêu thương như Chúa đòi hỏi, thì họ phải trả giá bằng chính sự thiệt thòi, ức hiếp, bóc lột, coi thường, khinh khi..., vì thế, không thiếu gì hình ảnh những người Công Giáo cũng “ga lăng” chẳng kém gì ai! Đây đó vẫn có những người Công Giáo sống kiểu “đàn anh đàn chị!”.
Lời Chúa ngày hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy trở nên “thánh thật” chứ không chỉ làm thánh “lâm thời”. Muốn trở nên “thánh thật” thì phải mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương nhau thật lòng, dầu có phải thiệt thòi đôi chút. Chấp nhận đau khổ, hiểu lầm vì mối lợi lớn hơn là được biết Chúa và được Chúa yêu thương. Sẵn sàng đi trên con đường tình yêu được chứng minh bằng việc đón nhận thập giá trong cuộc sống vì lòng yêu mến Chúa, để qua đó, chúng ta có sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa dạy khó quá đối với con người yếu đuối, ích kỷ của chúng con! Nhưng chúng con tin Lời Chúa có sức mạnh biến đổi. Xin Chúa thánh hóa chúng con, để mỗi ngày chúng con nên giống Chúa hơn khi biết quảng đại, bao dung và vô vị lợi như Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tha thứ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tha thứ là điều khó khăn nhất và cũng là điều cao cả nhất mà Chúa Giêsu đã cống hiến cho con người. Lòng tha thứ không báo thù chính là tuyệt đỉnh của yêu thương.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong thế giới hôm nay, con đọc qua báo chí, qua truyền thanh, qua truyền hình và cả thực tế vẫn xảy ra chung quanh con, bao nhiêu là chuyện gây thù báo oán. Người ta ăn miếng trả miếng, và càng ngày con người càng lạc sâu vào cái vòng luẩn quẩn của hận thù ghen ghét.
Lời Chúa hôm nay mở ra cho con một lối thoát, đó là lấy thiện thắng ác, dùng tình yêu đáp trả hận thù. Chính Chúa đã nêu gương cho con, khi trên thập giá, Chúa đã tha thứ cách tuyệt đối cho những kẻ đang reo hò đắc thắng vì đã giết được Chúa. Và ngày hôm nay, qua bí tích Hòa Giải, Chúa vẫn hằng tha thứ những lỗi lầm con đã phạm, cho dù đã bao lần con sa đi ngã lại. Chúa chỉ đòi con đền đáp ơn Chúa, bằng cách con cũng biết tha thứ cho anh em con, như Chúa đã tha thứ cho con.
Lạy Chúa, khi tha thứ không những con phải quên đi những lỗi lầm của anh em, mà còn phải xóa sạch những điều ấy trong tư tưởng, trong lời nói và nơi việc làm của con. Tha thứ là biết đối xử tử tế với họ như những người tốt.
Lạy Chúa, điều này không phải là dễ dàng, bởi vì trao ban tiền của, trao ban thời gian, trao ban chính mạng sống mình, xem ra còn dễ làm hơn là trao ban sự tha thứ. Xin Chúa dạy con biết thực hành bài học yêu thương của Chúa, để nơi đâu có hận thù, con loan báo tình yêu; nơi đâu có bất hòa, con trao ban lòng tha thứ. Xin Chúa biến đổi lòng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác”.
Suy Niệm 8: Thể hiện tình yêu qua sự tha thứ, yêu thương
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Winifred Potenza sống ở Santa Rosa, California. Trong một đêm khuya con trai cả của bà là Jonathan 21 tuổi cùng bạn gái Lisa Rodriguez chết ngay tại chỗ sau khi bị một viên tài xế say xỉn tông trúng. Potenza gần như hóa dại và không thể gượng dậy trước nỗi đau. Bà thường lang thang trên phố mỗi đêm, khi thì thổn thức, khi thì la hét.
Viên chưởng lý cáo buộc người tài xế say xỉn mới 20 tuổi về tội giết người. Anh đã nhận tội và chờ đợi phán quyết của toà. Anh hiểu hành động của mình và dằn vặt muốn được chết.
Ngồi trong phòng xử án, khi quan tòa quyết định William chịu án 15 năm tù, Potenza mới thực sự nhìn thấy William lần đầu tiên. Trong chốc lát, bà hiểu rằng anh không phải là kẻ tàn ác như bà từng được nghe nói. Sau này bà kể rằng, khi ấy bà đã nghĩ: “Chúa ơi, đây là sai lầm”. Bà hiểu rằng, William cũng có cha mẹ và cha mẹ anh cũng xót xa lo lắng cho con trẻ. Bà nói: “William không cố tình giết người, đây chỉ là một tai nạn thảm kịch”, Potenza từ từ đứng lên và đi qua hàng người bảo vệ, nhẹ nhàng ôm lấy William. Bà tha thứ và trở thành người bạn, người bào chữa cho người đã cướp mất mạng sống con bà. Lòng vị tha giúp Potenza hàn gắn vết thương và cũng giúp William hàn gắn nỗi ăn năn hối hận, đưa anh trở lại với cuộc sống. Hàng tuần, Potenza tới thăm William, đầu tiên là nhà tù Corcoran rồi nhà tù Vacaville. Bà nói: “William là một người tốt, anh ấy có tài năng đặc biệt và xứng đáng được hưởng một cơ hội khác”.
Potenza đã không ngừng nỗ lực làm việc, thuyết phục tòa án giảm cáo buộc tội giết người xuống thành tội ngộ sát, đồng thời giảm án tù cho William. Nỗ lực của bà đã được đền đáp. Sau bảy năm thụ án, William được ân xá và ra tù trước thời hạn.
Còn với Potenza, cái chết của con trai và sự hóa giải đau thương cùng với tình yêu vị tha đánh dấu bước khởi đầu của một dự án nghệ thuật lớn. Bà đã hoàn thành dự án chuyển tải thông điệp xã hội trong suốt 30 năm. Bà tập trung vào dự án hòa bình, cả ở góc độ cá nhân và toàn cầu. Dự án mang tên “Những Trái Tim Của Thế Giới”. Đó là các bức sơn dầu khổ lớn, mỗi bức mô tả một trái tim được vẽ từ chính biểu tượng, màu cờ của mỗi quốc gia. Có 80 trong số 185 tác phẩm đã hoàn thành…
Suy niệm
Trong cuộc sống hàng ngày, theo tình cảm tự nhiên, trước người anh em làm khổ chúng ta, chúng ta đáp trả bằng sự giận hờn, căm thù: Lửa để chống lại lửa, dễ dàng theo luật trả thù mắt đền mắt, răng đền răng. Cách hành xử đó trở nên như là nguyên tắc báo thù: Phạm nhân phải bồi thường tương xứng với thiệt hại đã gây nên. Nguyên tắc này đã được áp dụng chung từ thời xa xưa cho đến nay trong thế giới văn minh của con người. Người ta đã tìm thấy nguyên tắc báo thù này trong bộ luật Hammourai 2000 năm trước Chúa Giêsu. Trong Cựu ước được quy định “Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng” (Xh 21,24 và x. Đnl 19,21; Lv 24,20).
Ban đầu Thiên Chúa tìm cách làm cho dân riêng biết vâng phục Lề Luật, biết vâng lời và luật đã quy định một cách rất tự nhiên trong cách hành xử giữa người với người mình như luật quy định: “Mắt thế mắt, răng đền răng” (Xh 21,24). Trong Cựu ước người ta còn cầu nguyện “chống lại” các kẻ thù của mình “Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu diệt kẻ gian tà… Lạy Chúa, kẻ ghét Ngài, làm sao con không ghét? Con ghét chúng, ghét cay, ghét đắng, chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139,19-22) (và xem thêm các Thánh vịnh 17,13; 28,4; 69,23-29…). Thủ bản kinh Thánh ở Qumram có lệnh truyền này: “Ngươi sẽ ghét những đứa con của bóng tối”.
“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Ngài tỏ lộ trên dân Ngài đặc tính tình yêu và giáo dục dân Chúa cách tiệm tiến để đạt tới tình yêu thương tuyệt hảo như Cha trên trời. Dân Chúa trưởng thành từ từ và vươn đến sự toàn thiện. Để sự thù hận nơi con người được hòa giải bằng tình yêu qua sự tha thứ, quảng đại, yêu thương. Nhờ vậy con người sẽ được bình an và vui sống trong sự hoàn thiện như Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã mời gọi mọi người hãy trở nên như Ngài (x. Mt 5,48).
Xin cho chúng ta học theo tinh thần của Chúa dạy: Luôn quảng đại bao dung. Lấy ân báo oán, lấy yêu thương báo hận thù. Chúa muốn con cái Ngài trải rộng tình thương cho tất cả mọi người, kể cả thù địch. Phải biết yêu như Chúa đã yêu.
Ý lực sống:
Chúa Giêsu đã dạy tôi yêu thương tất cả mọi người, kể cả kẻ thù. Nếu không làm như thế, tôi sẽ không xứng đáng là Kitô hữu nữa. Thật là đẹp, nhưng khó hiểu quá. (ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân Hy Vọng).
Suy Niệm 9: Đừng trả thù (Mt 5,38-42)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Luật xưa dạy rằng: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Phạm nhân phải đền bù tương xứng với thiệt hại đã gây nên. Đó là luật công bằng. Còn Chúa Giêsu, Ngài dạy chúng ta phải quảng đại bao dung: lấy ân báo oán, lấy yêu thương đáp trả hận thù. Chúa muốn con cái mình phải biết yêu thương như Chúa đã yêu và trải rộng tình thương cho tất cả mọi người kể cả thù địch.
Bộ luật cổ nhất của nhân loại là bộ luật của Hammurabi vua cai trị Babylon khoảng gần 2.300 năm trước CN, qui định hễ ai gây thiệt hại hoặc thương tích cho người khác thế nào thì phải đền bù đúng như vậy. Luật ấy được lặp lại nhiều lần như nguyên tắc cơ bản cho luật Cựu ước: “Mắt đền mắt, răng đền răng” (x. Xh 21,23-25; Lv 14,19-20; Đnl 19,21).
Dù nó cổ nhất thật, luật đó vẫn còn thể hiện ưu điểm của chế độ pháp trị là ngăn ngừa sự báo thù quá khích và tuỳ tiện. Chúa Giêsu dạy một nền giáo lý mới: Chẳng những Ngài loại bỏ hẳn sự báo thù theo kiểu “ăn miếng trả miếng” hay “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”, mà Ngài còn dạy phải vượt qua sự công bằng theo luật, bằng cách sống tinh thần quảng đại bao dung, không giận dữ, không báo thù (5 phút Lời Chúa).
“Ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra...”
Chúa Giêsu còn đi xa hơn các bậc tiền nhân Cựu ước khi đòi hỏi rằng phải yêu thương đáp lại hận thù, có như thế mới diệt được tận căn cái ác ở trong con người. Ngài chủ trương một thái độ rất cá biệt, tương phản hoàn toàn với thái độ bình thường: “Đừng chống cự với người ác”. Ngài đòi hỏi các môn đệ phải bẻ gãy vòng xích bạo lực, dù hợp pháp và được báo thù.
Nguyên tắc yêu thương của Chúa Giêsu làm đảo lộn cách xử sự theo qui ước của loài người. Sứ điệp Tin mừng vượt quá giới hạn công bằng giao hoán kiểu xử sự dân ngoại. Đức ái Kitô giáo chấp nhận cả các giới hạn và khiếm khuyết của con người và lòng nhân ái của Kitô hữu là thông dự vào tình yêu của chính Thiên Chúa.
Khi dạy đừng báo thù, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm, nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung, hiền từ, quảng đại và tha thứ. Chỉ người nào rất mạnh mới chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình. Người đó còn mạnh về tình thương nữa, vì chỉ những ai có tình thương rất mạnh, mới có thể tiếp tục yêu thương và không trả đũa kẻ xúc phạm đến mình.
Ngày 4/4/1968, mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho quyền bình đẳng của người Mỹ da đen bị bắn chết. Hàng triệu người da đen và những người da trắng hiểu biết đã thương tiếc ông. Martin Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để “ôn hoà” đấu tranh, chống cảnh kỳ thị chủng tộc màu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi cho mọi người được đối xử bình đẳng như nhau trong một đại gia đình của Thiên Chúa mà ông đã bị bắn gục.
Theo quan niệm dân gian thì người ta nghĩ thế nào?
Người đời chia con người thành hai loại xung khắc nhau: hiền nhân quân tử và tiểu nhân. Trong xã hội chịu ảnh hưởng Nho giáo thì con người hiền nhân quân tử được đề cao, coi là bậc thầy, mẫu mực của mọi người. Còn tiểu nhân là những con người tầm thường, bê bối, và nếu hiểu trong tinh thần Kitô giáo, thì ta hiểu tiểu nhân là những kẻ tội lỗi. Những kẻ tiểu nhân, những kẻ vũ phu có những hành động vụt chạc, thiếu suy nghĩ, không cầm được mình, khi bị sỉ nhục là tuốt gươm xông đánh kẻ thù, giống như trường hợp anh chàng Tân Ti Tụ; còn người quân tử thì hiếu dũng không thèm chấp nhặt những sỉ nhục ấy, họ bình tĩnh đón nhận một cách vui vẻ như hiền triết Socrates.
Vì thế, người đời coi tha thứ là đặc tính của người trượng phu, anh dũng:
Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,
Đấng anh hùng đừng oán mới hay.
Truyện: Trả thù làm chi?
Văn hào Nga ông Leon Tolstoi có kể chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà người giàu có để xin bố thí một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu nổi những lời van xin, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả và bị tống giam vào ngục. Ngay hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh áp giải người giàu có vào tù. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay không rời khỏi hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm.
Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy khuôn mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.
Suy Niệm 10: Tình yêu mang lại tha thứ
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu tiếp tục bàn đến luật trả đũa.
Khuynh hướng tự nhiên là muốn trả đũa, và trả đũa thì thường nặng hơn mức người ta gây cho mình: “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”.
Cựu ước hạn chế sự trả đũa đúng với mức thiệt hại người ta gây cho mình: “mắt đền mắt, răng đền răng”.
Phần Chúa Giêsu Ngài dạy hoàn toàn không trả đũa.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Không trả đũa, đó không phải là thái độ của kẻ yếu, mà ngược lại đó là thái độ của kẻ mạnh. Chỉ người nào rất mạnh mới chế ngự được khuynh hướng trả đũa và vốn nằm sẵn trong lòng mình. Người đó còn mạnh về tình thương nữa, vì chỉ có một tình thương rất mạnh mới có thể tiếp tục yêu thương và không trả đũa kẻ xúc phạm mình.
2. Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy nhưng không tài nào ngủ lại được nữa. Sáng hôm sau ông nói với một người bạn: từ thủa nhỏ tới giờ, tôi vốn là người trí dũng. Đến nay 80 tuổi tôi chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đên qua có người đến làm nhục tôi. Tôi cảm thấy bức rức và cố tìm gặp được người đó, bằng không tôi phải chết mất.
Thế là ngay sáng hôm ấy, ông cùng người bạn đi tìm kẻ thù đã khiêu khích mình. Năm ngày trôi qua, nhưng ông vẫn chưa tìn được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hâm hực vì không tìm được kẻ thù, ông về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.
Cicéron diễn giả Lamã nói: “con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Đúng thế, con người tự tạo ra cho mình kẻ thù rồi tự tiêu diệt chính mình. (trích món quà giáng sinh)
3. ”Anh em đã nghe luật dạy rằng: “mắt đền mắt, răng đền răng”. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự với người ác; trái lại, nếu ai bị vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 38-39)
Trong trận bóng chung kết tuần vừa qua của trường, tôi tham gia thi đấu cho khoa của mình. Trân đấu diễn ra trong sự vui vẻ đoàn kết.
Đến phút 20 của hiệp I, tôi ghi được một bàn thắng. Và từ giây phút đó, trận đấu trở nên sôi nổi hơn nhưng cũng không thiếu sự thô bạo.
Tôi sớm trở thành nạn nhân. Một cái đạp từ phía sau, do cố ý, làm tôi gục xuống. Tuy đau nhưng tôi vẫn gượng cười và tiếp tục thi đấu. Hiệp I gần kết thúc, sự “không may” một lần nữa đến với tôi bằng cú lên gối ngực của chính kẻ đã đạp tôi lần trước. Thế là tôi phải ra sân.
Trận đấu kết thúc với tỉ số 1-1. Người ấy đã đến gặp tôi và xin lỗi.
Chúa ơi, nếu con vì đau mà trả thù ngay trên sân thì ắt sẽ không có sự nhận lỗi và xin lỗi này. Và hận thù sẽ tiếp nối hận thù phải không Chúa? Con cám ơn Chúa đã giúp con thắng được chính mình. Xin cho con luôn nhớ rằng: “bạo động chỉ gây thêm bạo động. Chỉ có tình yêu mới mang lại tình yêu” (Hosanna).
Suy Niệm 10: Tha thứ xây dựng tương lai
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu tiếp tục bàn đến luật trả đũa.
1. Khuynh hướng tự nhiên là muốn trả đũa, và trả đũa thì thường nặng hơn mức người ta gây cho mình: “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. (Còn rất rừng rú)
Cựu ước hạn chế sự trả đũa đúng với mức thiệt hại người ta gây cho mình: “mắt đền mắt, răng đền răng”. (Mt 5,38) (= Đã có sự công bằng hơn)
Phần Chúa Giêsu, Ngài dạy hoàn toàn không trả đũa. (=Bác ái)
Không trả đũa, đó là thái độ của kẻ mạnh. Chỉ có kẻ yếu mới không đủ can đảm để không trả đũa.
Thánh Antôn tu rừng, người khởi xướng đời sống ẩn tu trong Giáo Hội, có một lần sau khi giảng xong về đề tài bài giảng trên núi, thì có một giáo dân đến hỏi ngài:
- Thưa cha, chúng con phải làm gì để được trở nên hoàn thiện?
Thánh Antôn trả lời:
- Tin Mừng đã dạy: “Ai vả má phải ngươi, hãy đưa má trái cho họ” (Mt 5,39).
Nhóm giáo dân thưa:
- Điều này khó quá, làm sao thực hiện nổi.
Thánh Antôn nói:
- Nếu không, ít nhất hãy để nguyên má phải và đừng trả đũa, đừng báo thù, hãy tha thứ cho kẻ đã xúc phạm các con.
Nhóm giáo dân vẫn lắc đầu:
- Thưa cha, điều này vẫn quá khó khăn, thật không dễ gì để yên cho người khác xúc phạm đến mình.
Thánh Antôn nghe xong liền quay sang môn đệ và nói:
- Con đi nấu cháo cho những người này ăn đi vì họ quá yếu đuối. Thật, ta còn làm gì được cho các ngươi nữa, ngoại trừ lời cầu nguyện mà thôi.
2. Chỉ người nào rất mạnh mới chế ngự được khuynh hướng trả đũa vốn nằm sẵn trong lòng mình. Người đó còn mạnh về tình thương nữa, vì chỉ có những ai tình thương rất mạnh, mới có thể tiếp tục yêu thương và không trả đũa kẻ xúc phạm mình.
Ngày 4-4-1968, mục sư Luther King lãnh tụ da đen tranh đấu cho quyền bình đẳng của người Mỹ da đen bị bắn chết. Hằng triệu người da đen và những người da trắng hiểu biết đã thương tiếc ông.
Martin Luther King đã hy sinh cả cuộc đời mình để ôn hòa đấu tranh, chống cảnh kỳ thị chủng tộc mầu da. Cũng chính vì đã dám lên tiếng đòi cho mọi người được đối xử bình đẳng như nhau trong một đại gia đình của Thiên Chúa mà ông đã bị bắn gục.
Những ai đã nghe nói về Martin Luther King đều không thể quên được tinh thần yêu thương tha thứ của ông với những bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây ra. Câu chuyện sau đây do ông kể lại là một bằng chứng:
Chú bé da đen tên là Tom, theo thói quen, vừa tan trường là chạy đi phân phát báo cho các trường để lấy tiền giúp đỡ gia đình. Hôm ây, chú bé bất ngờ mót tiểu quá, thay vì chạy đến một gốc cây hay là bờ tường, nó chạy ngay vào nhà vệ sinh dành riêng cho người da trắng, vừa để tiểu và cũng vừa để xem một lần cho biết.
Được vào trong nhà vệ sinh sạch sẽ, mát mẻ, em thấy sung sướng. Bất ngờ, Tom nghe có tiếng chân người bước nhanh đập trên nền nhà đi về hướng nhà vệ sinh mà em đang ở trong đó. Chưa kịp phản ứng gì thì Tom đã bị người da trắng ập tới, đánh Tom một cái làm em ngã dúi vào nhà vệ sinh. Rồi kèm theo với cái đạp lên thân thằng bé là những lời nguyền rủa nó đã dám vi phạm luật lệ của bang Alabama. Theo đó thì người da đen bị cấm không được bén mảng đến những nơi dành cho riêng người da trắng, kể cả nhà vệ sinh.
Được chứng kiến cảnh đau lòng trên, ông Martin Luther King khuyên chú bé Tom da đen:
- Cháu Tom bé nhỏ đáng thương ơi, cháu có thể lựa chọn giữa hai thái độ, hoặc là cháu chạy nhanh ra khỏi nhà vệ sinh ấy, rồi nhặt những cục đá lên mà liệng vào người da trắng đã hạ nhục cháu kia, và sau đó cháu chạy về khu vực của người da đen và đề nghị với những người da đen như thế này: Một ngày kia, chúng mình sẽ giết sạch những người da trắng.
Nhưng cũng còn một thái độ, một sự lựa chọn khác nữa cao thượng hơn, đó là cháu sẽ im lặng nhớ đến Chúa Giêsu ngày xưa, Ngài cũng đã bị người ta xô té mấy lần trên đường vác Thập Giá. Nhưng lần nào cũng thế, Ngài cũng chỉ im lặng, chỗi dậy để tiếp tục đi đến đồi Golgotha. Cháu hãy tha thứ cho người da trắng kia đã hạ nhục cháu. Cháu Tom ơi! Trả thù là điều quá dễ, nhưng yêu thương mới là khó. Chúng ta là những người da đen Hoa-kỳ, chúng ta muốn xây dựng ngày mai tươi sáng hơn nhưng chỉ có tình thương mới làm được việc đó!
Có lần Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận tâm sự: “Nhiều lúc tôi cảm thấy khó chịu trong lòng vì người ta phỏng vấn, muốn thúc giục tôi nói những chuyện giật gân, trong thời gian lao tù, v.v... Đó không phải mục đích của tôi. Nguyện vọng lớn nhất của tôi là trao lại cho các bạn trẻ một sứ điệp của tình thương và sự thật, của công lý và hòa bình, của tha thứ và hòa giải, để xây dựng”.
12/06 Biết tất cả sự thật
- Viết bởi Ga 16, 12-15
Biết tất cả sự thật.
CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN – CHÚA BA NGÔI năm C. Lễ Trọng.
"Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy; Thánh Thần sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
Lời Chúa: Ga 16, 12-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lĩnh hội được.
Khi Thần Chân lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói vậy, và Người sẽ bảo cho các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con.
Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm LỄ CHÚA BA NGÔI – Năm C
Lời Chúa: Cn 8,22-31; Rm 5,1-5; Ga 16,12-15
1. Toàn bộ sự thật--‘Manna’
Suy Niệm
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em,
nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi."
Đức Giêsu khi sắp về với Cha,
đã chấp nhận giới hạn của các môn đệ.
Ngài chưa nói hết được những điều Ngài muốn nói,
nhưng Ngài không muốn ép họ phải cố hiểu.
Cần có thời gian, và nhất là cần Thánh Thần...
Đức Giêsu chấp nhận ra đi khi việc huấn luyện còn dang dở.
Ngài chấp nhận mình không phải là vị thầy duy nhất:
Sau này, Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều (Ga 14,26).
Ngài cũng chẳng phải là Đấng Bảo Trợ duy nhất
vì còn một Đấng Bảo Trợ khác đến sau Ngài (x. Ga 14,16).
Ngài đã vén mở cho các môn đệ thấy sự thật,
sự thật về Cha, về bản thân mình và về con người.
Nhưng Ngài biết rằng cần có Thánh Thần
từ từ dẫn dắt các môn đệ mới hiểu thấu
và đi vào toàn bộ sự thật.
Vì lợi ích của họ, Đức Giêsu sẵn sàng ra đi (x. Ga 16,7),
để nhường chỗ cho Đấng Cha và Ngài sai đến.
Đức Giêsu chẳng tìm mình, và Thánh Thần cũng vậy.
Thánh Thần chỉ có sứ mạng
là đưa con người đến với Cha và Con là Đức Giêsu.
Ngài chẳng tìm vinh quang cho mình,
nhưng chỉ tìm tôn vinh và làm chứng cho Đức Giêsu.
Cha cũng chẳng tìm mình.
Cha chẳng giữ gì làm của riêng.
"Mọi sự Cha có đều là của Thầy" (c.15)
Cha là nguồn mạch luôn trào dâng qua Con.
Con là Con vì đón nhận tất cả từ Cha.
Tình yêu liên kết Cha và Con là Thánh Thần,
Khi chiêm ngắm thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi,
chúng ta thấy đó là một cộng đoàn lý tưởng.
Mỗi ngôi vị đều sống cho hai ngôi vị kia.
Yêu thương và hiệp thông với nhau đòi từ bỏ.
Nhưng từ bỏ lại làm cho mỗi ngôi vị trọn vẹn là mình,
và sống trong hạnh phúc viên mãn.
Thiên Chúa của Kitô giáo là một cộng đoàn yêu thương,
nhưng thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi lại không khép kín.
Thế giới ấy vươn ra ngoài mình,
để cho hạnh phúc tuôn đổ trên toàn bộ công trình sáng tạo.
Cha yêu loài người đến độ sai Con Một làm người.
Con yêu loài người đến độ dám sống và chết cho họ.
Thánh Thần yêu loài người đến độ luôn ở bên
để ủi an nâng đỡ.
Cả Ba Ngôi cùng nhau lo cho loài người.
Ước mơ lớn nhất của Ba Ngôi là đưa cả nhân loại
đi vào thế giới thần linh của mình,
để mỗi người được hưởng hạnh phúc làm con trong Chúa Con.
Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu mở ra, chia sẻ, mời gọi.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ đợi chờ.
Chúng ta tự hỏi mình có sẵn sàng mở ra
để Chúa đi vào thế giới của mình
và để mình đi vào thế giới của Chúa không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cha là Đấng Sáng Tạo, Con là Đấng Cứu Độ, Thánh Thần là Đấng đem lại sự sống, sự canh tân, sự hiệp nhất. Bạn là hình ảnh Chúa Ba Ngôi, bạn thấy mình giống Ngài ở điểm nào?
Thế giới hôm nay bị đổ vỡ vì lòng ích kỷ của nhiều người, bị xâu xé giữa tôi và chúng ta. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi giúp gì để giải quyết vấn đề trên?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
2. Mọi sự của Cha là của Thầy--‘Manna’
Suy Niệm
Mỗi ngày chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần,
chúng ta nhắc đến Chúa Ba Ngôi là Cha, Con và Thánh Thần.
Chúng ta muốn ghi dấu của Ba Ngôi trên thân thể,
và trên mọi hoạt động của ta, hay đúng hơn,
chính Ba Ngôi đã không ngừng ghi dấu trên cuộc đời ta
và trong suốt dòng lịch sử.
Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Duy Nhất trong Ba Ngôi vị
là mầu nhiệm được Đức Giêsu mạc khải cho ta.
Cha là Đấng yêu Con và hằng sinh ra Con.
Con là người được yêu và được Cha sai vào thế giới.
Thánh Thần là tình yêu, nối kết Cha và Con.
Như vậy Thiên Chúa của Kitô giáo
không phải là một ngôi vị đơn độc,
nhưng là Ba Ngôi hiệp thông chặt chẽ với nhau.
Ba Ngôi chia sẻ cho nhau mọi sự mình có:
"Mọi sự Cha có đều là của Thầy" (Ga 16,15).
Ba Ngôi cùng nhau hành động trong sự hoà hợp.
Thánh Thần không tự mình mà nói
nhưng chỉ nhắc lại và đào sâu lời Đức Giêsu,
giống như Đức Giêsu đã chẳng tự mình mà nói
nhưng chỉ nói những gì mình nghe được từ Cha.
Thánh Thần sẽ tôn vinh Đức Giêsu
như Đức Giêsu đã suốt đời tôn vinh Cha.
Nếu sống là sống với, sống cho, sống nhờ
thì ta có thể gặp được mẫu mực sống tuyệt vời nơi Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mỗi Ngôi đều không tìm mình, chỉ sống cho Ngôi khác,
và từ đó tạo ra khuôn mặt riêng của mình.
Thiên Chúa vừa là một, vừa là ba.
Hội Thánh cũng vừa duy nhất, vừa đa dạng.
Mười hai tông đồ, bốn sách Tin Mừng, hai kinh Lạy Cha...
Để sự duy nhất đừng trở thành độc khối nghèo nàn,
để sự đa dạng đừng trở thành cớ chia rẽ,
cần có sự hiệp thông sâu xa trong Hội Thánh.
Đời sống của Ba Ngôi là mẫu mực
cho mọi tổ chức của con người trên trần thế.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta chiêm ngắm
sự hiện diện của Ba Ngôi ở nơi ta.
"Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23),
"Thánh Thần ở lại bên cạnh anh em và sẽ ở trong anh em" (Ga 14,17).
Đây là tin mừng quá đỗi lớn lao:
Thiên Chúa siêu việt xa thẳm lại ở rất gần ta,
chỉ cần quay vào nội tâm, là ta gặp được Ngài.
Kitô hữu là người mang trời cao,
mang thiên quốc trong mảnh đời yếu đuối của mình.
Hãy cung kính trước sự hiện diện đó,
và để cho Tình Yêu Ba Ngôi tự do hoạt động nơi bạn,
và qua bạn mà lan đến toàn thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai." Bạn có kinh nghiệm gì về việc sống hết mình cho người khác, mà vẫn không đánh mất chính mình?
Một em bé nói: "Thiên Chúa là một người cha yêu con cái như một người mẹ." Đâu là hình ảnh của bạn về Thiên Chúa? Có khi nào bạn cảm nghiệm được Ngài yêu bạn không?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi, Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
3. Mầu nhiệm tình yêu--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó. Nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Đó là tình yêu hiệp thông. Ba Ngôi Thiên Chúa liên kết với nhau trong tình yêu. Tình yêu đó khiến cho Ba Ngôi trở nên một. Đây là điều Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định: “Ta và Cha Ta là một”; “Xin cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha” (Ga 17,21). Nên một trong tư tưởng. Nên một trong hành động. Nên Chúa Giêsu luôn làm theo thánh ý Chúa Cha: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10). Và Đức Chúa Thánh Thần cũng không làm gì ngoài ý muốn của Chúa Giêsu như Chúa Giêsu khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”. Sự hiệp thông trọn vẹn đến nỗi một Ngôi chính là biểu hiện của cả Ba Ngôi như Chúa Giêsu cho biết: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Thật là một sự kết hiệp trọn vẹn.
Đó là tình yêu dâng hiến. Chúa Cha có gì thì ban cho Chúa Con tất cả. Như lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Chúa Cha ban cho Chúa Con cả chính bản thân mình nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha. Đến nỗi ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha (cf. Ga 14,9). Ngược lại, nhận được gì thì Chúa Con dâng lại cho Chúa Cha. Dâng cả bản thân. Dâng cả ý muốn. Dâng cả mạng sống. Khi hấp hối trong vườn Giệtsimani, Chúa Giêsu sợ hãi cái chết theo thánh ý Chúa Cha. Người đã tha thiết cầu nguyện: “Áp ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36). Quả thật tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa là một tình yêu dâng hiến hoàn toàn. Dâng hiến đến không còn giữ gì cho bản thân mình.
Đó là tình yêu tác sinh. Sự dâng hiến không làm cho tình yêu nghèo nàn đi. Trái lại càng làm cho tình yêu thêm sung mãn. Càng cho đi lại càng thêm phong phú. Càng nhận lãnh lại càng thêm năng lực cho đi. Tình yêu đó lan toả đến cả muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Tình yêu tràn trề sung mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn đổ xuống muôn loài, làm cho muôn loài được hiện hữu, được sống, được tham dự vào nguồn tình yêu vô biên để được hạnh phúc vĩnh cữu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Về lý thuyết, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thật khó hiểu. Nhưng thực ra Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rất cụ thể trong đời sống ta. Bạn hiểu điều này thế nào?
2. Ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Ta phải sống thế nào để là hình ảnh trung thực của Người?
3. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch hạnh phúc. Muốn được hạnh phúc ta phải kết hiệp với nguồn mạch hạnh phúc này. Nhưng để kết hiệp với Chúa Ba Ngôi, ta phải làm gì?
4. Ba Ngôi với con người – ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi là chân lý nền tảng và cao siêu nhất trong đạo, nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đặc biệt tới con người.
Các tông đồ học với Đức Giêsu chỉ mới được gần ba năm, coi như trình độ lớp ba. Cho nên Người nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Đối với môn học đời, muốn biết được những điều căn bản phổ thông, phải học hết lớp mười hai; muốn biết sâu sắc tường tận một môn học phải học hết cử nhân, kỹ sư, luật sư, phó tiến sĩ. Muốn khám phá được điều mới, phải là tiến sĩ, bác học. Đó là tiến trình học vấn của loài người. Những mầu nhiệm cao siêu trên trời mênh mông vô cùng chỉ có kỳ công của Chúa Thánh Thần soi sáng, dậy dỗ được thôi: “Khi nào Thánh Thần chân lý đến, Người sẽ dậy anh em tới chân lý toàn diện”.
I- Bây giờ các tông đồ mới biết được vài điều về Chúa Ba Ngôi.
Điều thứ nhất: Một Thiên Chúa có Ba Ngôi riêng biệt: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa trên sông Gióc-đan: “Trời mở ra, tiếng Đức Chúa Cha phán: Này là Con Ta yêu dấu” và Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đáp trên Người. Nhờ thế, các ông biết được: Một Thiên Chúa duy nhất mà có Ba Ngôi, gọi theo tiếng loài người là: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ví như trong một gia đình có cha, mẹ và con; hay một mặt trời có ánh sáng, sức nóng và lửa cháy; hay một hình tam giác đều có ba góc riêng biệt và bằng nhau.
Điều thứ hai: Ba ngôi bằng nhau về bản tính, uy tín và phép tắc vô cùng. Khi Đức Giêsu dậy: “Anh em hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt. 28, 19).
Chữ và chỉ ngang hàng nhau, không có ngôi nào hơn ngôi nào kém nhau. Ví như ta nói: Anh và tôi và ông ấy, cả ba nhân vị đều là người cùng bản tính như nhau, cùng phẩm giá như nhau, và ba người đều có những cơ năng: Trí khôn, ý chí, tình cảm, tinh thần và vật chất. Mỗi khi ta làm dấu Thánh giá, nhắc nhở ta đã được Rửa tội nhân danh Ba Ngôi và tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời ta được chia sẻ đời sống hạnh phúc vinh quang của Người.
II- Ba Ngôi với con người: Ba Ngôi đặc biệt trực tiếp thương yêu ta
Theo giáo lý “Chúa Cha dựng nên ta, Chúa Con cứu chuộc ta, Chúa Thánh Thần thánh hóa ta”. Tuy nhiên, Ba Ngôi luôn luôn hợp nhất với nhau nên một để cứu độ ta như Đức Giêsu đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Thánh Thần lấy những gì của Thầy và loan báo cho anh em”. Như vậy, của Cha là của Con và cũng là của Thánh Thần. Thánh Phaolô đã giải thích cho Giám mục Titô về công việc Ba Ngôi thực hiện ơn cứu độ cho ta như thế này: “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng thương yêu của Người đối với nhân loại. Không phải tự sức chúng ta đã làm nên việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt. 3, 4-6). Như vậy, chúng ta có thể nói: Của trời đất vô tận Chúa Cha đã dựng nên, Chúa Con hy sinh làm lụng vất vả, cực khổ đến chết để thâu góp lương thực vào kho cho ta, và Chúa Thánh Thần lấy lương thực đó ra ban phát cho ta. Hay Ngôi Cha như một bác học, sáng chế đủ mọi thứ thuốc, Ngôi Con như một bác sĩ toàn năng đến sống lăn lộn với chúng ta, khám bệnh, ra toa cho ta, Ngôi Thánh Thần như một dược sĩ coi toa phát thuốc cứu chữa ta. Thánh Phaolô cảm thấy ơn phúc Chúa Ba Ngôi làm cho ta vô cùng trọng đại, nên Ngài luôn luôn nhập đề các thơ gởi cho các giáo đoàn bằng những lời chào: “Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” (Eph 1, 3) và khi kết thúc, Phaolô thường dâng lời cầu chúc cho các giáo đoàn bằng câu: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (2Cr. 13, 13)
Ba bài đọc lời Chúa hôm nay còn giúp ta nhận ra sâu sắc hơn ơn Chúa Ba Ngôi làm cho ta:
Bài I kể ra công trình sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Ngài đã dựng nên đức khôn ngoan được áp dụng vào Đức Kitô. Thực vậy, “Thiên Chúa Cha đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một cho thế gian được sống”. Con Một đã sinh ra từ đời đời như tác phẩm đầu tay và Người lấy làm vui thú đến ở giữa phàm nhân. Rồi Chúa Cha dựng nên cõi trời, làm ra mặt đất, vực thẳm, núi non, mạch nước và các nguyên tố vũ trụ. Sau là dựng nên phàm nhân được sống với đức khôn ngoan là nguồn vui của Chúa Cha.
Bài II kể đến công trình cứu độ của Ngôi Con là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người làm cho ta nên công chính, mở lối cho ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, cho ta được trông đợi hưởng vinh quang Thiên Chúa, nên khi gặp gian truân, ta phải trung kiên chịu đựng, đừng thất vọng “vì Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng ta, Nhờ Thánh Thần mà Người ban cho ta”.
Bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói đến công trình giáo dục, thánh hóa của Thánh Thần: Người sẽ dẫn ta đến chân lý toàn diện. “Người sẽ lấy những gì của Thầy và loan báo cho anh em”. Như vậy “chỉ một mình Thánh Thần mới có thể hé mở cho ta thấy tình yêu của Chúa Ba Ngôi, dẫn dắt ta vào tình yêu của Ngài, và giúp ta sống sâu thẳm trong tình yêu chân thật của Thiên Chúa” (Charles Brethes; Feuillets liturgiques, Annec).
Lạy Ba Ngôi cực Thánh, qua phép rửa tội, chúng con đã được ghi ấn tín Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Xin cho chúng con trọn đời trung thành với đức tin để Người thương đổ đầy tình yêu của Người vào lòng chúng con. Amen.
5. Tin nhận mầu nhiệm cao cả-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Trong các nghi lễ Phụng vụ chúng ta mừng một mầu nhiệm, nhưng trong Thánh lễ hôm nay chúng ta mừng kính một mầu nhiệm cao cả và thâm sâu nhất trong đạo, đó là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đây là một mầu nhiệm không là điều nghịch lý nhưng chỉ nghịch thường hay siêu lý. Với lý trí con người, không ai có thể hiểu thấu được, nhưng vì là mầu nhiệm do Đức Giêsu đã mạc khải cho loài người, nên chúng ta chỉ biết cúi đầu tin nhận với lòng tôn kính và mến yêu.
Trong Thánh kinh Cựu ước, loài người chỉ được mạc khải về Một Thiên Chúa duy nhất. Còn trong Thánh kinh Tân ước, Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi. Thực ra, Đức Giêsu không nói rõ về Chúa Ba Ngôi, Ngài chỉ nói lên tương quan mật thiết của Ngài với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nhưng nhờ Chúa Thánh Thần Đấng mà Đức Giêsu sai đến cho chúng tqa, Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta hiểu thêm về ý nghĩa những lời Đức Giêsu dạy và những việc Ngài làm. Cho đến muôn đời không ai hiểu thấu được mầu nhiệm này dù là những bậc thông minh thượng trí. Tuy nhiên, Chúa sẽ mở trí mở lòng cho những kẻ bé mọn, tức là cho những ai khiêm tốn cầu xin và đón nhận, để có thể cảm nghiệm được mầu nhiệm này trong cuộc sống.
Nhân ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy tăng cường lòng tôn sùng và yêu mến Chúa Ba Ngôi trong đời sống cá nhân, trong gia đình cũng như trong cộng đồng. Dấu Thánh giá cũng là dấu hiệu nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi trong đời sống hằng ngày. Hãy thành kính tuyên xưng Chúa Ba Ngôi mỗi khi làm dấu Thánh giá.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 8,22-31.
Bài đọc này ca ngợi Đức Khôn ngoan của Thiên Chúa, có thể được xem là một sự mò mẫm hướng về sự mạc khải của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Chúng ta có thể coi Đức Khôn ngoan trong trích đoạn này ám chỉ Ngôi Hai Thiên Chúa.
- Ngài hiện hữu từ muôn đời.
- Ngài đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo dựng.
- Ngài vừa ở bên cạnh Thiên Chúa, vừa gần gũi với loài người.
+ Bài đọc 2: Rm 5,1-5.
Thánh Phaolô nói với tín hữu Rôma về vai trò của Ba Ngôi trong cuộc sống người tín hữu.
Đức Kitô làm cho mối quan hệ yêu thương giữa chúng ta với Thiên Chúa trở nên hiện thực.
Quan hệ này mang lại cho chúng ta niềm hy vọng và nâng đỡ chúng ta trong lúc gian khổ. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Từ nay, nhờ đức tin, chúng ta có thể “được bình an với Thiên Chúa” và nhờ đức ái, sống bởi tình yêu của Ngài.
+ Bài Tin mừng: Ga 16,12-15.
Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu có ý tỏ bày cho các môn đệ mối liên hệ của Ngài đối với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, nhưng đặc biệt về vai trò của Chúa Thánh Thần:
- Những gì Chúa Con mạc khải đều nhận lãnh từ nơi Chúa Cha.
- Sẽ không còn mạc khải nào mới nữa.
- Chính Chúa Thánh Thần giúp các ông tiếp thu trọn vẹn ý nghĩa mọi điều Đức Giêsu nói, đặc biệt về Chúa Cha.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Chúa Ba Ngôi trong đời sống ta
I. MẠC KHẢI VỀ CHÚA BA NGÔI
1. Về bài Tin mừng hôm nay.
Bài Tin mừng hôm nay là một đoạn trích trong bài tường thuật về cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu và các môn đệ trước khi Thầy trò sắp biệt ly (x. Ga 13,17). Trong đoạn này, Đức Giêsu không hề nói về Chúa Ba Ngôi vì chưa bao giờ Ngài nói tới từ ngữ đó. Ngài chỉ có ý tỏ bầy cho các môn đệ thấy rõ mối tương quan của Ngài với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
2. Mạc khải của Cựu ước.
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi không được mạc khải trong Kinh thánh Cựu ước, bởi vì dân riêng của Chúa trong Cựu ước chưa sẵn sàng đón nhận mầu nhiệm này. Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất. Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất trong Cựu ước (Đnl 6, 4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần ở Trung đông thời bấy giờ.
Thế nên, Thánh kinh Cựu ước không nói gì về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Đôi khi Thánh kinh Cựu ước ám chỉ – ám chỉ chứ không nói rõ – về Ba Ngôi Thiên Chúa mà thôi. Chẳng hạn như trong sách Sáng thế, Thiên Chúa dùng số nhiều để nói về mình: “Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta”(St 1,26). Đại danh từ Ngôi Thứ Nhất số nhiều ở đây là “chúng ta” ám chỉ rằng có hơn một Ngôi vị trong Thiên Chúa.
3. Mạc khải của Tân ước.
Chỉ khi Đức Giêsu xuống thế làm người chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa và hứa sai Thánh Thần xuống để hướng dẫn thì tín điều Ba Ngôi Thiên Chúa mới được tỏ hiện.
Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan: Chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga 1,32-34). Tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Con là Con Ta yêu dấu”(Mt 1,11). Trong bữa Tiệc ly, Đức Giêsu còn bầy tỏ cho các môn đệ về Chúa Thánh Thần: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con hơn. Nếu Thầy không đi, Đấng Phù trợ sẽ không đến với các con”(Ga 16,7) Tiếng nói, chim câu, Đức Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống động về Chúa Ba Ngôi.
Trong Tin mừng thánh Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi: “Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”(Mt 28,19).
Thánh Phaolô luôn cầu chúc cho các tín hữu: “Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em”.
II. TÌM HIỂU VỀ CHÚA BA NGÔI
1. Tam vị nhất thể Thiên Chúa giả.
Nếu ai đọc kinh cầu chữ của Giáo phận Bùi chu do ông cử Thiện dịch thì khi nói tới Chúa Ba Ngôi chúng ta có câu: “Tam vị nhất thể Thiên Chúa gia” nghĩa là Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời.
Theo giáo lý Công giáo, chúng ta biết chỉ có một Thiên Chúa có Ba Ngôi và Ba Ngôi là: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mỗi Ngôi Vị đều là Thiên Chúa, dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Mỗi Ngôi Vị đều bằng nhau về thần tính và uy quyền, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa. Mỗi Ngôi Vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất. Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi yêu thương nhau hướng về nhau.
2. Sinh hoạt của Ba Ngôi.
Vì Ba Ngôi là một Thiên Chúa, nên mọi hành động trong Ba Ngôi đều chung với nhau. Nhưng theo thần học thì những hành động trong Ba Ngôi chia ra thành hai loại:
- Opus ad intra: hành động hướng nội.
- Opus ad extra: hành động xuất ngoại.
Hành động hướng nội của Ba Ngôi như sự sống và tình yêu… thì Ba Ngôi như nhau, nghĩa là Ngôi nào cũng sống động và cũng yêu thương, không những thương yêu mình mà còn thương yêu nhau để phát sinh mọi tạo vật, để mọi tạo vật yêu lại mình. Vì thế, thánh Gioan Tông đồ đã gọi: “Thiên Chúa là Tình yêu”(1Ga 4,16).
Hành động xuất ngoại cũng là hành động chung cho cả Ba Ngôi Vị, nhưng thần học thường chỉ riêng cho Ngôi Vị này ngôi khác hành động này hành động nọ, với mục tiêu làm sáng tỏ của từng Ngôi Vị. Ví dụ: việc tác thành vũ trụ thì chỉ cho Chúa Cha – việc cứu chuộc thì chỉ cho Chúa Con – và việc thánh hóa thì chỉ cho Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần, mặc dầu tác thành cũng là Thiên Chúa tác thanh – cứu chuộc cũng là Thiên Chúa cứu chuộc – và thánh hóa cũng là Thiên Chúa thánh hóa, tại vì Ba Ngôi cũng là một Thiên Chúa mà thôi.
Ở đây nghe có vẻ lủng củng, nhưng học thần học thì phải nói như thế. Nói như thế nhưng cũng chẳng hiểu gì!!! Tuy thế, chúng ta vẫn phải tìm hiểu theo khả năng của chúng ta, còn bao nhiêu Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn và bổ túc cho như lời Đức Hồng y Henri de Lubac đã nói:
“Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến. Nhưng Thiên Chúa vừa là bên bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần”.
3. Mấy hình ảnh diễn tả Chúa Ba Ngôi.
Trong cuộc đời trần thế này, nơi chúng ta còn bước đi trong đức tin, chúng ta không thể hiểu được hết được nhiều về một mầu nhiệm nào cả và thâm sâu như vậy. Chúng ta chỉ hiểu phần nào trong giới hạn chật hẹp của trí tuệ con người và qua những hình ảnh tương đối, bất toàn, mượn nơi thế giớùi loài người Ví dụ: hình tam giác đều có ba cạnh ba góc bằng nhau; thời gian có ba giai đoạn: quá khứ, hiện tại, tương lai; nước ở thể hơi, thể lỏng, thể đặc; điện có sức làm chuyển động, đốt nóng và soi sáng… Chúng ta dùng kiểu nói nào hay hình ảnh nào để diễn tả cũng chỉ là tương đối, chứ không thể nào diễn tả hết được.
III. THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA ĐỐI VỚI CHÚA BA NGÔI
1. Sự hiểu biết còn rất hạn hẹp.
Đức Giêsu sắp sửa về trời, nơi mà từ đó Ngài được sai đến trần gian, Ngài đến trần gian để bầy tỏ cho loài người biết Thiên Chúa. Sứ mạng của Ngài đã hoàn thành, nhưng sự hiểu biết về Thiên Chúa của loài người mới chỉ bắt đầu: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không có sức chịu nổi”(Ga 16,12).
Cũng như các Tông đồ, chúng ta mới chỉ ở bước đầu của một cuộc khám phá, một cuộc mạo hiểm. Có nhiều điều chúng ta chưa chịu nổi, Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn cho chúng ta sau này. Chớ gì đừng bao giờ chúng ta tự mãn, coi mình là hiểu biết tất cả, vênh vang trước những mảnh vụn đức tin tầm thường mà chúng ta đang sống.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin. Thực tại Ba Ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý. Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói lòa rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dầy đặc mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Truyện: Augustinô và mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Thánh Augustinô một hôm đi bách bộ trên bãi biển và tâm trí thì luôn suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi: Làm sao chỉ có một Thiên Chúa và Ngài lại có Ba Ngôi khác nhau: Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ Hai là Con và Ngôi thứ Ba là Thánh Thần. Như vậy lẽ ra phải có Ba thay vì chỉ có Một Thiên Chúa mới hợp lý? Augustinô không sao lý giải được mầu nhiệm này: Một mà lại là Ba, và Ba chỉ ở trong Một?
Bấy giờ Augustinô trông thấy em bé trai đang ngồi trên bãi biển, tay cầm một cái vỏ sò múc nước biển rồi đổ vào một cái lỗ nhỏ hang còng ở trên bãi cát. Vị Giám mục hỏi cậu bé:
- Này em, em đang làm gì vậy?
Cậu bé trả lời:
- Cháu đang cố gắng múc tất cả nước của đại dương này để đổ vào lỗ hang của con còng này
Vị Giám mục nói:
- Sao em lại làm một điều vô lý như thế? Em hãy nhìn xem: nước biển bao la như vậy thì làm sao cái lỗ hang còng nhỏ bé kia có thể chứa hết nước của nó được?
Nhưng Augustinô thật bất ngờ, khi nghe cậu bé đáp:
- Việc cháu làm đây cũng không vô lý bằng việc Ngài đang làm: làm sao ngài có thể dùng trí khôn nhỏ bé của ngài mà hiểu thấu được mầu nhiệm lớn lao vô cùng của Thiên Chúa?
Nói xong cậu bé biến mất.
Bấy giờ Giám mục Augustinô hiểu rằng Chúa đã sai thiên thần đến để giúp mình ý thức về sự giới hạn và bất lực khi phải đối diện với những mầu nhiệm cao cả vô cùng của Thiên Chúa.
2. Phải khiêm nhường tin nhận.
Chúa Ba Ngôi không phải là một thứ ẩn ngữ, một thứ siêu phương trình toán học dành cho những nhà trí thứ ưu hạng… Đó chỉ là một thực tại hoàn toàn đơn giản “bị che giấu đối với các bậc khôn ngoan thông thái”, nhưng lại được mạc khải cho những người bé mọn”(Mt 11,25).
Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài sẽ giãi bầy những điều thuộc về Đức Giêsu, về ý nghĩa lời giáo huấn cũng như những việc Ngài làm cho chúng ta. Không ai lãnh hội được tất cả những gì Đức Giêsu đã phán, không ai nắm được hết mọi giá trị những lời giáo huấn của Ngài cho cuộc sống, cho đức tin từng cá nhân, cho xã hội, cho thế giới. Chúa Thánh Thần soi sáng liên tục để khai mở ý nghĩa về Đức Giêsu.
Theo lời Đức Giêsu dạy, chúng ta hãy khiêm tốn xin Chúa Thánh Thần đến soi dẫn chúng ta để tiếp tục hiểu thêm lời Chúa. Về vấn đề này, Linh muc X. Léon-Dufour giải thích thêm:
“Nếu Đức Giêsu ngừng nói bên tai, thì việc Ngài nói trong tim (đồng nghĩa với “mạc khải”) vẫn còn tiếp tục nhờ trung gian của Chúa Thánh Thần. Quả vậy, Thánh Thần không nói nhân danh quyền năng của mình, cũng giống như Đức Giêsu đã không nói tự ý mình; Thánh Thần sẽ nhận từ Đức Giêsu cũng giống như Đức Giêsu nhận từ Chúa Cha (8, 26). Tiếng nói của Thánh Thần chắc chắn không đập vào lỗ tai, nhưng thấm sâu tự tâm hồn. Như vậy, Chúa Con tiếp tục mạc khải của mình bằng cách thế khác trước, cách thế “thần linh”… Chúa Thánh Thần sẽ là người biểu lộ Đức Giêsu vậy”.
3. Hãy yêu mến và tôn sùng Chúa Ba Ngôi
* Trong đời sống cá nhân.
Mừng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, chúng ta cùng nhau nhắc lại lời thánh Phaolô: “Chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống như chính lời Chúa phán: “Ta sẽ cư ngụ và đi lại giữa họ, sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân riêng của Ta”(2Cr 6,15). Dựa vào lời Chúa hứa như thế, nên thánh Tông đồ khuyên nhủ mọi người chúng ta: “Anh chị em yêu dấu, hãy thanh tẩy chính mình cho sạch những điều ô uế về phần thân thể lẫn tâm linh, hãy hoàn thành sự thánh hóa trong niềm kính sợ Thiên Chúa”(2Cr 7,1).
Sống thánh thiện để lòng mỗi người chúng ta xứng đáng là đền thờ của Chúa. Đàng khác, vì biết Thiên Chúa đang ngự nơi lòng mình, hãy tập thưa chuyện với Ngài. Chân phước Elizabeth Chúa Ba Ngôi là một nữ tu dòng kín ở Dijon, được tôn phong ngày 24/02/1984, đã sống mầu nhiệm tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong tâm hồn. Chị viết: “Chớ gì tôi được sống mãi trong căn phòng nhỏ bé mà Chúa đã xây dựng từ lâu trong đáy hồn tôi. Ở đó tôi được nhìn thấy Chúa, được cảm nghiệm có Chúa ở bên”. Chị đã cầu nguyện:
“Lạy Chúa Ba Ngôi lòng con thờ phượng
Xin cho con quên mãi chính mình đi
Để chìm trong Chúa, rồi không biệt ly
Bất động và êm như đi vào vĩnh viễn…
Cho hồn con an bình, nơi lưu luyến
Thành thiên đàng chỗ an nghỉ tình yêu…”
Cũng hơi lạ, nhưng cũng tâm tình tương tự của sĩ quan trẻ tên Charles de Foucauld, chàng đã từng sống một cuộc đời bê bối, sau này được cải hóa, chàng trở thành một nhà khổ tu tại sa mạc Sahara, Phi châu, và trong một lá thư gửi về cho bà chị, chàng viết: “Thiên Chúa ở trong chúng ta, tận cung lòng chúng ta. Ngài luôn luôn ở đó, nghe chúng ta và yêu cầu chúng ta nói chuyện với vị Thượng khách tối cao của tâm hồn của chị. Yếu hèn như em, đời em như chị đã biết, em còn có thể làm được, thì chị cũng thế. Việc này không làm chị bận rộn đến quên lãng việc khác của chị đâu. Chỉ một phút thôi, thay vì chỉ nhìn mình, thì nay chị thành hai người chu toàn các bổn phận của chị. Dần dà, chị tập được thói quen và sau này chị không ngớt cảm thấy Đấng ngự nơi tâm hồn thật ngọt ngào biết bao”.
* Trong đời sống gia đình
Mẫu gương đầu tiên, các gia đình chúng ta học được nơi mầu nhiệm Ba Ngôi là mẫu gương về hiệp nhất. Đây là sự hiệp nhất trong tình yêu, khiếân cho Ba Ngôi nên một. Nếu mỗi thành viên trong gia đình chúng ta cũng biết yêu thương nhau theo mẫu gương của Ba Ngôi, nghĩa là người này luôn nghĩ đến ý muốn, hạnh phúc của người kia, và luôn làm vui lòng người kia, thì gia đình chúng ta cho dù có nhiều người cũng sẽ trở nên một.
Mẫu gương thứ hai là tuy chỉ có một Chúa nhưng lại là Ba Ngôi riêng biệt. Sự riêng biệt này nhắc nhở chúng ta: trong gia đình, mỗi người có một chỗ đứng và một bổn phận riêng. Do đó, mỗi người cần chu toàn bổn phận của mình trong gia đình cách chu đáo. Mỗi người phải sống theo câu châm ngôn “Chính danh”, nghĩa là sống đúng với địa vị và vai trò của mình. Vợ chồng biết tôn trọng lẫn nhau. Cha mẹ sống đúng với vai trò của cha mẹ, luôn làm gương sáng cho con cái bằng chính đời sống tiết độ, công chính của mình. Con cái phải biết vâng phục cha mẹ trong tâm tình yêu mến và thảo hiếu, như Đức Giêsu luôn vâng phục Chúa Cha (x. Ga 4,34; Dt 5,8-9).
Nếu mỗi gia đình trong giáo xứ chúng ta biết sống “Chinh danh”, nghĩa là, từng người trong gia đình luôn sống đúng vai trò của mình và chu toàn nhiệm vụ của mình trong tình yêu, gia đình chúng ta dù đông cũng trở nên một. Chúng ta trở nên một, nhưng mỗi người vẫn còn là chính mình. Nhờ đó, gia đình của chúng ta sẽ không tẻ nhạt, nhưng ngày càng trở nên sung mãn, phong phú và thật sự hạnh phúc (Internet).
* Trong đời sống hằng ngày.
Một trong những điều Giáo hội muốn nhắc nhở cho chúng ta về Chúa Ba Ngôi là dấu Thánh giá. Dấu thánh giá nhắc nhở cho ta về lòng tin vào hai mầu nhiệm quan trọng trong đức tin Công giáo là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi và mầu nhiệm Cứu chuộc..
Ta thấy Linh mục rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi như lời Chúa dạy: “Các con hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”(Mt 28,20). Các bí tích khác cũng được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi. Linh mục kêu cầu Chúa Ba Ngôi khi cử hành bí tích Giải tội. Linh mục xức dầu bệnh nhân, nhân danh Ba Ngôi. Đức Giám mục cử hành bí tích Thêm sức trong dấu Chúa Ba Ngôi. Ta bắt đầu và kết thúc kinh đọc bằng dấu thánh giá tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Trước khi ăn ta cũng làm dấu thánh giá tạ ơn Chúa Ba Ngôi cho ta của ăn hằng ngày. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi trên cuộc đời và trong cuộc sống hằng ngày.
6. Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Vai trò Ba Ngôi Thiên Chúa trong đời sống tín hữu
"Chúa Thánh Thần sẽ dẫn chúng con đến sự thật toàn vẹn". (Ga 1613)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một trong ba mầu nhiệm căn bản của đức tin chúng ta, căn bản vì có ảnh hưởng quan trọng trên cách sống đức tin của chúng ta. Nhưng hình như từ trước tới nay chúng ta chưa ý thức bao nhiều về tầm quan trọng ấy.
Trong Thánh lễ này, chúng ta xin cho Lời Chúa soi sáng cho chúng ta hiểu được tầm quan trọng ấy, và xin ơn Chúa giúp chúng ta sống đức tin của mình một cách tích cực hơn.
II. Gợi ý sám hối
Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhưng chúng ta chưa mấy tin tưởng phó thác vào tình yêu Chúa.
Chúa Con đã chịu chết để Thiên Chúa tha thứ tội lỗi chúng ta. Nhưng chúng ta không biết tha thứ cho nhau.
Chúa Thánh Thần muốn mọi người sống yêu thương nhau như anh em cùng một Cha trên trời. Nhưng chúng ta thường nhìn người chung quanh như những kẻ xa lạ, thậm chí là những kẻ thù.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Cn 8,22-31)
Trích đoạn này trình bày Ngôi Hai như là Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
Ngài hiện hữu từ thuở đời đời.
Ngài đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo dựng.
Ngài vừa ở bên cạnh Thiên Chúa, vừa gần gũi với loài người.
2. Đáp ca (Tv 8)
Đây là một bài ca tụng công trình tạo dựng của Thiên Chúa, đặc biệt con người là thụ tạo cao quý nhất, chỉ thua kém thiên thần một chút.
3. Tin Mừng (Ga 16,12-15)
Đoạn Tin Mừng này nói đến sự liên hệ giữa Ba Ngôi, nhưng đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Chúa Thánh Thần:
Tất cả những gì mà Chúa Con mặc khải đều là do lãnh nhận từ Chúa Cha.
Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ hiểu rõ tất cả những gì Chúa Con đã dạy, nhờ đó các môn đệ được dẫn đến sự thật toàn vẹn.
4. Bài đọc II (Rm 5,1-5)
Đoạn thư Phaolô này cũng nói đến vai trò của Ba Ngôi trong cuộc sống người tín hữu: Nhờ Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần, chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Sự thật toàn vẹn
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay "Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi". Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại "Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?" Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng. Một lần khác Chúa Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập giá. Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự "Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con". Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ. Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi. Về sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu: một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài nói "Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô trong thân xác tôi". Ngài còn nói "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô", cái thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
2. "Khi tôi ngắm cõi trời"
Một đêm nào đó trời thanh mây tạnh, chúng ta hãy ra khỏi nhà, ngước mắt nhìn lên bầu trời. Chúng ta thấy gì? Chúng ta sẽ thấy các tinh tú hằng hà sa số, có cái sáng nhiều có cái sáng ít, có cái nằm riêng rẻ có cái ở trong một chùm sao.
Trong hằng hà sa số các tinh tú ấy, trái đất chúng ta chẳng đáng là gì cả. Một hành tinh nhỏ bé, rất nhỏ bé.
Thế mà Thiên Chúa lại quan tâm đặc biệt đến hành tinh nhỏ bé này. Trong vô vàn tinh tú, chỉ có hành tinh nhỏ bé này được hai vinh dự vô cùng to lớn:
Vinh dự to lớn thứ nhất là con người trên hành tinh nhỏ bé này được Thiên Chúa đặt làm chủ tể mọi loài trong vũ trụ rộng lớn bao la.
Vinh dự to lớn thứ hai là không một hành tinh nào khác ngoài hành tinh này được Ngôi Hai Thiên Chúa đến cư ngụ. Chẳng những thế, Ngài còn chịu chết ở cái hành tinh nhỏ bé này nữa.
Tác giả Thánh Vịnh 8 đã ngỡ ngàng không hiểu nỗi tình yêu bao la của Thiên Chúa và hạnh phúc vô cùng của con người: "Khi tôi nhìn ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, mặt trăng và muôn tinh tú mà Chúa tôi gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa tôi nhớ đến, con người là gì mà Chúa để ý chăm nom. Chúa dựng nên con người chỉ kém thiên thần một chút. Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang. Chúa đặt con người cai trị các công trình tay Chúa tác thành. Chúa đặt muôn vật dưới chân con người."
3. Một cuộc sống đáng mơ ước
Chúng ta không sống cô độc một mình, nhưng cùng sống với những người khác: gia đình, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp, cộng đoàn giáo xứ v.v.
Trong những cộng đoàn sống chung ấy, chúng ta thường mơ ước:
Phải chi mọi người đều "trong suốt" với nhau, nghĩa là ai nấy cũng hiểu nhau vì ai nấy đều chân thành tỏ cho nhau hết mọi ý nghĩ của mình.
Phải chi mọi người đều hết lòng yêu thương nhau, nghĩa là chỉ có yêu thương chứ không hề có một chút gì là ganh ghét, đố kỵ, e dè nhau
Phải chi mọi người đều hết sức hợp tác giúp nhau trong mọi công việc.
Phải chi mọi người đều chia xẻ tất cả những gì của mình để tất cả đều là của chung.
Đó chính là cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Chúng ta mơ ước cuộc sống đó. Mơ ước này không phải chỉ là ước mơ suông không bao giờ đạt được. Chúa Giêsu nói Thiên Chúa sẵn sàng thông chia cho chúng ta cuộc sống ấy nếu chúng ta biết thông hiệp với Ba Ngôi Thiên Chúa.
4. Vài suy nghĩ về Thiên Chúa là Cha
a/ Thế nào là một người cha?
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại
Ngay cả trước khi đứa con sinh ra: vừa biết nó thụ thai thì đã yêu thương và nôn nóng chờ ngày nó sinh ra.
Ngay cả khi chưa biết sau này nó sẽ ra sao: chưa biết sau này nó đẹp hay xấu, thông minh hay ngu đần, khoẻ mạnh hay yếu ớt, tốt hay xấu, hiếu thảo hay ngỗ nghịch... Chỉ vì nó là con cho nên mình yêu thương nó.
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Người cha nào cũng muốn đứa con khoẻ như mình, thông minh như mình, giỏi như mình, khéo như mình, có của cải địa vị như mình, hạnh phúc như mình... Thậm chí còn hơn mình... Và làm tất cả để đứa con được như thế.
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Chỉ có con quên cha và bỏ cha, chứ không hề có cha quên con và bỏ con. Dù đứa con ấy xấu xa và ngỗ nghịch đến đâu đi nữa, Cha vẫn yêu thương nó.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
Cha sung sướng khi thấy con vui, con khoẻ, con thành đạt... Cha đau buồn khi thấy con bất hạnh, khổ sở...
- Cha là kẻ lệ thuộc con:
Yêu thương ai là lệ thuộc người ấy, là để cho người ấy có quyền trên mình, mình ở thế yếu đối với người ấy.
Trẻ con dù rất yếu ớt nhưng lại có quyền lực rất lớn trên cha mẹ. Do đó chúng nhõng nhẽo, đòi cái này cái nọ, giận không thèm ăn uống khi không được cho cái mà chúng đòi... Những yêu sách ấy của chúng đã làm cho cha mẹ phải "điêu đứng" khổ sở.
b/ Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng ta
Tất cả những gì ta đã nói về người cha tự nhiên đều đúng với Thiên Chúa, và đúng một cách tuyệt đối, trọn vẹn:
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại: "Từ muôn đời Chúa đã yêu con"
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Sách Sáng thế nói Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.
Tin Mừng Ga ghi lại lời Chúa Giêsu "Mọi sự của Cha là của Con" (Ga 17,10)
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Điều này hoàn toàn và tuyệt đối đúng với Thiên Chúa: "Con người có thể sống không Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không thể thôi làm Cha được" (Louis Evely).
Dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng minh họa điều này rất rõ.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
"Thiên Chúa là người táo bạo nhất trong thiên hạ, bởi vì Ngài đã dám đặt tất cả hạnh phúc của mình trong hành vi yêu thương. Ngài đã để hạnh phúc mình tuỳ thuộc vào một kẻ khác" (Louis Evely)
- Cha là kẻ lệ thuộc con:
"Thiên Chúa là Cha, Cha cách trọn vẹn, hoàn toàn. Chúng ta thì khác, chúng ta chỉ là cha một ít thôi. Đồng ý rằng ta là cha của con cái chúng ta, nhưng chúng ta cũng còn lệ thuộc đủ mọi thứ khác như là công việc, nghề nghiệp, cuộc sống hôn nhân, những sở thích riêng tư, những thành công, những việc giải trí của mình, và chúng ta lại cũng còn lệ thuộc về chính mình nữa. Chúng ta không là cha cho đủ... Chỉ một mình Thiên Chúa mới là Cha mà thôi. Đối với Con của Ngài, Ngài đã hiến mình trọn vẹn. Nơi Ngài không còn có một phần nhỏ nhoi nào là quay trở về mình, là tìm "cái tôi" nữa" (Louis Evely)
* Tóm lại Thiên Chúa là Cha ở chỗ "Thiên Chúa chỉ biết yêu thương và trao ban. Ngoài ra Ngài không là cái gì khác nữa" (Louis Evely)
5. Thiên Chúa trổi vượt trên cha mẹ trần thế
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu "AB". Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội giết người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà... Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: "Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đánh, giết mẹ! Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: "Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!" Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: "Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: "Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: "Xin đừng chụp ảnh con tôi..." Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị đánh động do câu chuyện vừa kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ, đàng khác là điều gì đó hơn là sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những con vật không xử sự với mẹ chúng cách tàn nhẫn đến như vậy! Nhưng như vậy lại càng làm nổi bật khối tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi người mẹ. Thử hỏi do đâu mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế? Ta nên để ý về lời cắt nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này liên quan tới Thiên Chúa Ba Ngôi như sau:
"Khi gọi Thiên Chúa là "Cha", ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng có thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của Thiên Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ, nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế: không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn có tin vui nào để nói với gia đình này?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy một hình ảnh của một gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa con đầu lòng lớn lên dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm tù! Nếu Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có kế hoạch nào hữu hiệu để cứu vãn gia đình này chăng? Nếu bạn là người từng tìm hiểu và chia sẻ đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, chính bạn có tin vui nào để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người con ngồi tù, hoặc với người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về? Ở đây không bàn về công tác xã hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin đối với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Hãy coi người mẹ trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về yêu thương. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là CHA theo một nghĩa chưa từng có: Người không chỉ là cha vì là Tạo Hoá, từ muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha: "Không ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho." (Mt 11,27) - GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu báo tin sẽ cử một Đấng Bào Chữa khác, đó là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa (x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy (Kinh Tin Kính Nixêa Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ (x.Ga 14,17) để dạy bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn" (Ga 16,13). Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức Giêsu và với Chúa Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là "kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời" (x.Ep 1,9). Người đã cưu mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là Đức Giêsu Kitô. "Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người" (Ep 1,4-5). Ta được mời gọi "trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người" (Rm 8,29) nhờ "Thần Trí làm nên nghĩa tử" (Rm 8,15), kế hoạch này đúng là "ân sủng được trao ban từ muôn thuở" (2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi mà mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả chính phạm nhân, người bố của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được mời gọi đạt tới hạnh phúc bất diệt chính họ hằng ao ước. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)
6. Ba Ngôi Thiên Chúa, một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương
Người ta kể rằng: Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn... Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
- Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
- Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí thánh; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi: Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất: "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một..."
Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình: vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu." Mình với ta tuy hai mà một... Ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một". Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh... Tiếc rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành nhà trọ: khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào! Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường quen gọi là các "phe" (frère). Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm: "Nhà có ba người thì ba phe, sống chó gì được!" (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết: Kính gởi phe M., phe H., phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại!
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu, trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi làm dấu thánh giá: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.(Sr Têrêsa, trích từ Vietcatholic)
7. Nhìn thấy Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết". Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được". Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: "Hãy xem kìa". Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo: "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác".
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta".
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa". Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa". "Ta có thể nhìn thấy Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn". Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi". Người chăn cừu giải thích: "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó".
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)
8. Những hình ảnh của Thiên Chúa
Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa:
Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?"
- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.
Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta có một hình ảnh sai lạc về Ngài?
Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, "Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình". Vậy, Chúa Giêsu ra sao? Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào? Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống. Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta sống hằng ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta cùng dâng lên Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần lời khẩn cầu cho Hội thánh là Mẹ chúng ta và cho toàn thể thế giới:
1. Hội thánh là dấu chỉ tình yêu của Chúa dành cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội thánh / luôn hiệp nhất trong yêu thương và chân lý vẹn toàn.
2. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người / nhận biết Chúa là Cha nhân hậu từ bi.
3. Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai thành tâm đi tìm Chúa / đều được hạnh phúc gặp Người.
4. Chúa Thánh thần là Đấng Thánh hóa nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban Thánh thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để Người giúp chúng ta nên thánh trong bổn phận thường ngày.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng hằng hữu, xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và ban cho chúng con luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Chủ tế chú ý nhấn mạnh tất cả những đoạn kết của các lời cầu nguyện có công thức Ba Ngôi.
- Trước kinh Lạy Cha: Lời kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy cố gắng đọc lên với cả tâm tình con thảo như Chúa Giêsu và do Chúa Thánh Thần khơi lên trong lòng chúng ta.
VII. Giải tán
Chúng ta đã dâng Thánh lễ tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi đầy tình yêu thương. "Xin chúc anh chị em được đầy ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần".
7. "Khi tôi ngắm cõi trời"--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
Một đêm nào đó trời thanh mây tạnh, chúng ta hãy ra khỏi nhà, ngước mắt nhìn lên bầu trời. Chúng ta thấy gì? Chúng ta sẽ thấy các tinh tú hằng hà sa số, có cái sáng nhiều có cái sáng ít,có cái nằm riêng rẻ có cái ở trong một chùm sao.
Trong hằng hà sa số các tinh tú ấy, trái đất chúng ta chẳng đáng là gì cả. Một hành tinh nhỏ bé, rất nhỏ bé. Thế mà Thiên Chúa lại quan tâm đặc biệt đến hành tinh nhỏ bé này. Trong vô vàn tinh tú, chỉ có hành tinh nhỏ bé này được hai vinh dự vô cùng to lớn:
* Vinh dự to lớn thứ nhất là con người trên hành tinh nhỏ bé này được Thiên Chúa đặt làm chủ tể mọi loài trong vũ trụ rộng lớn bao la.
* Vinh dự to lớn thứ hai là không một hành tinh nào khác ngoài hành tinh này được Ngôi Hai Thiên Chúa đến cư ngụ. Chẳng những thế, Ngài còn chịu chết ở cái hành tinh nhỏ bé này nữa.
Tác giả Thánh Vịnh 8 đã ngỡ ngàng không hiểu nỗi tình yêu bao la của Thiên Chúa và hạnh phúc vô cùng của con người: "Khi tôi nhìn ngắm cõi trời, công cuộc tay Chúa tạo ra, mặt trăng và muôn tinh tú mà Chúa tôi gầy dựng, thì nhân loại là chi mà Chúa tôi nhớ đến, con người là gì mà Chúa để ý chăm nom. Chúa dựng nên con người chỉ kém thiên thần một chút. Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang. Chúa đặt con người cai trị các công trình tay Chúa tác thành. Chúa đặt muôn vật dưới chân con người."
8. Vài suy nghĩ về Thiên Chúa là Cha--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
a/ Thế nào là một người cha?
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại. Ngay cả trước khi đứa con sinh ra: vừa biết nó thụ thai thì đã yêu thương và nôn nóng chờ ngày nó sinh ra.
Ngay cả khi chưa biết sau này nó sẽ ra sao: chưa biết sau này nó đẹp hay xấu, thông minh hay ngu đần, khoẻ mạnh hay yếu ớt, tốt hay xấu, hiếu thảo hay ngỗ nghịch... Chỉ vì nó là con cho nên mình yêu thương nó.
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có: Người cha nào cũng muốn đứa con khoẻ như mình, thông minh như mình, giỏi như mình, khéo như mình, có của cải địa vị như mình, hạnh phúc như mình... Thậm chí còn hơn mình... Và làm tất cả để đứa con được như thế.
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con: Chỉ có con quên cha và bỏ cha, chứ không hề có cha quên con và bỏ con. Dù đứa con ấy xấu xa và ngỗ nghịch đến đâu đi nữa, Cha vẫn yêu thương nó.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ. Cha sung sướng khi thấy con vui, con khoẻ, con thành đạt... Cha đau buồn khi thấy con bất hạnh, khổ sở...
- Cha là kẻ lệ thuộc con: Yêu thương ai là lệ thuộc người ấy, là để cho người ấy có quyền trên mình, mình ở thế yếu đối với người ấy.
Trẻ con dù rất yếu ớt nhưng lại có quyền lực rất lớn trên cha mẹ. Do đó chúng nhõng nhẽo, đòi cái này cái nọ, giận không thèm ăn uống khi không được cho cái mà chúng đòi... Những yêu sách ấy của chúng đã làm cho cha mẹ phải "điêu đứng" khổ sở.
b/ Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng ta
Tất cả những gì ta đã nói về người cha tự nhiên đều đúng với Thiên Chúa, và đúng một cách tuyệt đối, trọn vẹn:
- Cha là kẻ yêu thương con mình bằng một tình yêu vô cùng quảng đại: "Từ muôn đời Chúa đã yêu con"
- Cha là kẻ muốn cho con mình tất cả những gì mình có:
Sách Sáng thế nói Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.
Tin Mừng Ga ghi lại lời Chúa Giêsu "Mọi sự của Cha là của Con" (Ga 17,10)
- Cha là kẻ không bao giờ quên con và bỏ con:
Điều này hoàn toàn và tuyệt đối đúng với Thiên Chúa: "Con người có thể sống không Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa không thể thôi làm Cha được" (Louis Evely).
Dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng minh họa điều này rất rõ.
- Hạnh phúc và đau khổ của người Cha là do thấy con hạnh phúc hay đau khổ.
"Thiên Chúa là người táo bạo nhất trong thiên hạ, bởi vì Ngài đã dám đặt tất cả hạnh phúc của mình trong hành vi yêu thương. Ngài đã để hạnh phúc mình tuỳ thuộc vào một kẻ khác" (Louis Evely)
- Cha là kẻ lệ thuộc con:
"Thiên Chúa là Cha, Cha cách trọn vẹn, hoàn toàn. Chúng ta thì khác, chúng ta chỉ là cha một ít thôi. Đồng ý rằng ta là cha của con cái chúng ta, nhưng chúng ta cũng còn lệ thuộc đủ mọi thứ khác như là công việc, nghề nghiệp, cuộc sống hôn nhân, những sở thích riêng tư, những thành công, những việc giải trí của mình, và chúng ta lại cũng còn lệ thuộc về chính mình nữa. Chúng ta không là cha cho đủ... Chỉ một mình Thiên Chúa mới là Cha mà thôi. Đối với Con của Ngài, Ngài đã hiến mình trọn vẹn. Nơi Ngài không còn có một phần nhỏ nhoi nào là quay trở về mình, là tìm "cái tôi" nữa" (Louis Evely)
* Tóm lại Thiên Chúa là Cha ở chỗ "Thiên Chúa chỉ biết yêu thương và trao ban. Ngoài ra Ngài không là cái gì khác nữa" (Louis Evely)
9. Ba Ngôi Thiên Chúa, một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
Người ta kể rằng: Thánh Augustin, một hôm đi bách bộ dọc bờ biển Địa Trung Hải, vừa đi vừa suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng nhiên Thánh nhân gặp một em nhỏ lấy vỏ sò múc nước đổ vào một cái lỗ. Đang còn ngạc nhiên về công việc luống công vô ích này, em bé đã trả lời: việc em múc hết nước biển đổ vào lỗ nhỏ, còn dễ hơn điều mà Thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Rồi em bé biến đi.
Nhớ lại lớp giáo lý xa xưa, ở đó, Chúa Ba Ngôi được ví như một hình tam giác đều, có ba góc bằng nhau. Hay chúng ta cũng được nghe so sánh Chúa Ba Ngôi với nước ở ba thể: khí, lỏng và rắn... Tuy nhiên, tất cả những lối so sánh ấy dường như quá khô khan, vì không phản ánh một cách trung thực và sống động hình ảnh thật sự của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Cách đây vài năm, vào ngày cuối của khoá học về Chúa Ba Ngôi, cha giáo sư hỏi chúng tôi:
- Bây giờ các anh chị đã hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chưa?
Gần như cả lớp đồng thanh:
- Thưa cha hiểu.
Cha bật cười:
- Vậy thì các anh chị giỏi hơn tôi rồi!
Dĩ nhiên, con người giới hạn của chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm quá siêu vượt này, nhưng để sống, lại là điều hoàn toàn có thể. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là hình ảnh rất thân quen, rất gần gũi nếu nhìn Ba Ngôi dưới khía cạnh tình yêu. Vâng, Ba Ngôi Thiên Chúa chính là một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Tình yêu ấy đã không giữ lại cho mình, nhưng đổ tràn vào trần gian. Một tình yêu tràn ngập vũ trụ khi Thiên Chúa Cha dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài; là tình yêu cứu độ, thứ tha qua cái chết nhục nhằn của Chúa Con chí thánh; là tình yêu thánh hóa, đổi mới trong Thánh Thần. Thánh Gioan đã định nghĩa: Thiên Chúa là tình yêu. Một tình yêu chan hòa, chia sẻ giữa Ba Ngôi: Cha trao cho Con tất cả, Con dâng tất cả cho Cha, tình yêu khắng khít giữa Cha-Con là Thánh Thần. Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao, không phải chỉ là trao quà tặng hay cái gì đó ở bên ngoài mình, nhưng là trao đi điều quý nhất: "Thiên Chúa yêu thế gian, đến nỗi tặng ban cả Con Một..."
Thiết nghĩ không có hình ảnh nào diễn tả đẹp hơn mầu nhiệm Ba Ngôi cho bằng hình ảnh một gia đình: vợ chồng yêu thương nhau và con cái là kết tinh của tình yêu." Mình với ta tuy hai mà một... Ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một". Dù là hai, bốn, mười hoặc nhiều hơn đi nữa, nhưng gia đình, cộng đoàn chúng ta sẽ thực sự phản ánh sự hiện diện của Thiên Chúa Ba Ngôi, nếu chúng ta chỉ có một trái tim để yêu thương, một niềm vui để chia sẻ, một nỗi buồn để cảm thông nâng đỡ, một khát vọng nên thánh... Tiếc rằng ngày nay, nhiều gia đình, cộng đoàn đã không còn là tổ ấm, nhưng biến thành nhà trọ: khách đến rồi khách lại đi, chẳng cần biết những người thân yêu của mình đang nghĩ gì, làm gì, cần gì và sống như thế nào! Đời sống gia đình nặng nề, khó thở và tẻ nhạt, bởi vì nơi ấy đã không còn tình yêu nữa.
Chợt nhớ lại câu chuyện khá ngộ nghĩnh xảy ra tại một cộng đoàn các sư huynh ở Việt Nam. Cộng đoàn gồm ba vị, người Việt mình thường quen gọi là các "phe" (frère). Lần kia, một nhân viên của sở bưu điện đem thư đến, vừa giao thư vừa lẩm bẩm: "Nhà có ba người thì ba phe, sống chó gì được!" (chỉ là vì trên bì thư, người gởi viết: Kính gởi phe M., phe H., phe B.). Thật là một sự hiểu lầm tai hại!
Chúng ta sẽ mãi còn xa lạ với mầu nhiệm Ba Ngôi, nếu chúng ta còn xa lạ với tình yêu được bắt đầu ngay trong gia đình, cộng đoàn. Gia đình, cộng đoàn chúng ta hãy trở thành một bản nhạc du dương hòa điệu, trong đó mỗi người là một nốt nhạc đã được Thiên Chúa đặt để. Xin đừng tự ý thăng giáng, cũng đừng thay đổi vị trí, vai trò của mình. Hãy sống đúng bổn phận Chúa trao, và như thế, mọi việc chúng ta làm đều bắt nguồn và quy hướng về tình yêu, tình yêu của mầu nhiệm Ba Ngôi mà mỗi ngày chúng ta lặp lại nhiều lần khi làm dấu thánh giá: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (Sr Têrêsa, trích từ Vietcatholic)
10. Sự thật toàn vẹn--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
Chúa Thánh Thần là Đấng dẫn ta đến sự thật toàn vẹn. Sự thật toàn vẹn là gì? Đó chính là điều Chúa Giêsu ngụ ý trong câu đầu bài Tin Mừng hôm nay "Thầy còn nhiều điều muốn nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không có sức chịu nổi". Trong khoảng thời gian Chúa Giêsu sống cạnh các môn đệ, có nhiều điều Chúa Giêsu vừa mới nói hé một chút thì các môn đệ đã không chịu nổi nên Chúa Giêsu thôi không nói nữa. Thí dụ khi hai người con của bà Giêbêđê đến xin Chúa cho họ được ngồi hai bên tả hữu Ngài, Chúa Giêsu hỏi lại "Nhưng chúng con có uống nổi chén đắng của Thầy không?" Hai ông tuy đáp liều là nổi nhưng sau đó không dám xin nữa và Chúa Giêsu cũng không nói thêm gì nữa. Trong câu chuyện ấy, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa nói rõ chính là chén đắng.
Một lần khác Chúa Giêsu vừa mở miệng báo tin Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết chết, thì Phêrô cũng không chịu nổi nên vội lên tiếng can ngăn. Trong chuyện này, sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu chưa thể nói rõ chính là mầu nhiệm đau khổ của Thập giá.
Trong đêm thứ năm trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu quỳ trước các môn đệ và rửa chân cho họ, Phêrô lại một lần nữa không chịu nổi nên cự nự "Không đời nào con để Thầy rửa chân cho con". Ở đây sự thật toàn vẹn mà Chúa Giêsu cũng chưa tiện nói hết là sự hạ mình của Ngài và của các môn đệ.
Tóm lại sự thật toàn vẹn là các môn đệ phải chấp nhận số phận của Thầy mình, phải tự khiêm tự hạ, phải chịu đau khổ chịu bắt bớ và có thể chịu chết giống như Thầy. Nhưng trong tất cả những lần kể trên Chúa Giêsu không nói hết ý nghĩ của mình được vì các môn đệ đã không chịu nổi.
Về sau khi Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời, Chúa Thánh Thần đã dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn ấy, và khi đó, nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, các ông đã chịu nổi, chẳng những chịu nổi mà còn vui lòng chịu: một lần kia vì đã rao giảng về Chúa Giêsu, các tông đồ bị bắt giam trong tù hết một đêm, sau đó bị điệu ra Thượng Hội đồng, bị đánh đòn một trận rồi mới được thả ra. Sách Công vụ viết khi ấy các ông lòng đầy hân hoan vì được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Chúa Giêsu. Thánh Phaolô cũng thế, sau biết bao gian truân nguy hiểm vì loan báo Tin Mừng, ngài nói "Tôi sung sướng vì được thông phần cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô trong thân xác tôi". Ngài còn nói "Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô", cái thập giá mà những người trí thức hy lạp coi là điên rồ và những người Do Thái sùng đạo coi là cớ vấp phạm.
11. Những hình ảnh của Thiên Chúa--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
Người Châu Phi có một câu chuyện sau đây về Thiên Chúa: Một hôm Thiên Chúa đi thăm châu lục rộng lớn này và Ngài thấy có một bộ lạc bị mất đức tin. Thế là Ngài hiện ra giữa một mảnh ruộng đang có 4 người làm việc, mỗi người một góc. 4 người này thấy Chúa hiện ra giữa mảnh ruộng. Họ chăm chú nhìn Ngài rồi phục mình thờ lạy.
Sau đó Thiên Chúa biến hình rồi xem sự việc sau dó diễn tiến thế nào. 4 người kia chạy vào làng và nói rằng: đúng là có Thiên Chúa vì họ đã thấy Ngài hiện ra. Từ này về sau chúng ta đừng sống vô thần nữa mà phải lo thờ phượng Chúa. Mọi người nghe đều tin là Thiên Chúa đã hiện ra thật. Nhưng một người hỏi: "Thế thì Thiên Chúa mặc áo màu gì?"
- Ngài mặc áo đỏ. Người thứ nhất trả lời.
- Không, Ngài mặc áo xanh. Người thứ hai cãi lại.
- Hai đứa bây sai cả. Ngài mặc áo màu lục. Người thứ ba nói thế.
- Tất cả đều điên hết rồi. Người thứ tư la to. Ngài mặc áo vàng.
Thế là mọi người cãi nhau chí choé, rồi ấu đả nhau. Cuối cùng bộ lạc chia thành 4 phe.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy mọi người dân bộ lạc ấy đều sai lầm. Thực ra mỗi người chỉ thấy một thoáng về Thiên Chúa. Lẽ ra mỗi người phải biết rằng mình chỉ thấy được một phần thì họ cho rằng họ thấy toàn vẹn. Nếu như họ biết lấy cái nhìn của người khác để bổ sung cho cái nhìn của mình thì họ sẽ có một hình ảnh đầy đủ và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa lớn hơn tất cả chúng ta. Chúng ta không bao giờ hiểu biết trọn vẹn về Ngài. Để hiểu biết những sự dưới thế chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, thế thì làm sao chúng ta nắm bắt được những sự trên trời. Chỉ có ơn ban khôn ngoan mới giúp chúng ta hiểu được đường lối của Thiên Chúa. Con người có thể biết những chân lý đức tin, nhưng không thể hiểu biết chính Thiên Chúa.
Cần phải có một hình ảnh đúng đắn về Thiên Chúa, nếu không thì mọi sự sẽ lạc hướng cả. Làm sao chúng ta có thể thờ phượng Ngài cho phải đạo hoặc có một liên hệ đúng đắn với Ngài nếu chúng ta có một hình ảnh sai lạc về Ngài?
Muốn biết Thiên Chúa là thế nào, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu, vì, như Thánh Phaolô nói, "Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình". Vậy, Chúa Giêsu ra sao? Trong mọi hình ảnh Chúa Giêsu, hình ảnh đẹp nhất là Mục Tử nhân lành. Chính Chúa Giêsu đã mô tả mình bằng hình ảnh này. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành, hiến mạng sống mình cho đàn chiên. Trong hình ảnh Chúa Giêsu, chúng ta thấy được tình thương Thiên Chúa dành cho chúng ta.
Còn Chúa Thánh Thần thì thế nào? Chúa Thánh Thần chính là tình thương giữa Chúa Cha với Chúa Con, và giữa các Đấng với chúng ta.
Mầu nhiệm Ba Ngôi không phải là vấn đề để tranh luận, cũng không phải là vấn đề để học biết, mà là để cầu nguyện và để sống. Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới này không phải là một thế giới ở đâu xa xôi, mà chính là thế giới mà ta sống hằng ngày. Như câu chuyện của Châu Phi vừa kể phía trên, thế giới ấy là thế giới mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. (FM)
12. Thiên Chúa trổi vượt trên cha mẹ trần thế--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
Trong phòng xử án Toà án nhân dân Thành phố Hồ chí Minh sáng ngày 16-8-1996, ngay ở hàng ghế đầu, suốt những giờ xét xử của Hội đồng xử án, một người đàn bà với đôi mắt ướt đẫm nước mắt, cứ nhìn đăm đăm vào chiếc lưng của bị cáo đang đứng trước vành móng ngựa. Đó là chiếc lưng của đứa con đầu lòng của bà trong chiếc áo tù, và có in ký hiệu "AB". Cho đến khi công tố viên đọc xong lời buộc tội và đề nghị mức án "hai mươi năm tù vì tội giết người" bà bỗng nấc lên một tiếng rồi ngất xỉu. Bà ngất xỉu có lẽ vì bà chịu đựng không nổi mức án dành cho con bà: 20 năm tù vì cái tội giết người; mà người nó định giết không ai khác hơn là chính bà. Bà là mẹ của bị cáo và cũng chính là người bị hại!
Hơn một năm trước đây, vào ngày 16 tháng 7, 1995, chính nó đã cầm một thanh gỗ tròn dài nửa mét đánh vào đầu bà, rồi cầm một con dao đâm vào ngực bà. Người đầm đìa máu bà ngã xuống ngất xỉu - vì con. Hôm nay bà lại ngã xuống, ngất xỉu... cũng vì con.
Con bà - Lương Quốc Tuấn, sinh năm 1976, ở quận 11, làm thợ cửa sắt. Từ khi lên 5 tuổi, cha của Tuấn đã bỏ mẹ con Tuấn đi sống với người khác. Mẹ của Tuấn lặn lội nuôi hai đứa con thơ lớn lên. Thế mà... Sáng hôm đó, chúa nhật, Tuấn dậy trễ. Tuấn hỏi xin mẹ mấy ngàn ăn hủ tiếu. Mẹ Tuấn không cho, bảo lấy mì ăn liền nấu ăn. Tuấn khai trước toà: "Mẹ nói từ ngày quen con nhỏ đó thân ốm nhom ốm nhách, không tiền không bạc... mẹ không cho tiền còn nói nọ nói kia..." Thế là Tuấn đã làm cái điều mà có lẽ nghe đến, ai cũng phải thấy rợn cả người: đnh, giết mẹ!
Với 10 vết thương, chỉ có hai vết ở tay, còn lại toàn ở đầu và ngực nhưng khi từ bệnh viện sau sáu ngày điều trị trở về, bà lại ráng sức để xách đồ ăn vào thăm con đang bị giam trong tù! Sợ con bị đưa ra toà, bà đã viết giấy bãi nại xin xóa tội cho con. Và trước toà, bà cứ khóc nói: "Từ nhỏ đến khi lớn nó ngoan lắm. Nó không uống rượu, không hút thuốc, xin toà giảm tội!" Rồi bà nức nở tỏ ra ray rứt, ân hận, trách mình: "Tôi không nuôi nó ăn học đến nơi đến chốn. Nó phải đi làm sớm, lúc học xong lớp 8." Hoàn toàn bà không hề nhắc gì đến cái tội tày trời mà đứa con của mình đã mắc phải.
Bên trong phòng xử án, khi bà tỉnh lại, phóng viên Hoàng Chức Nguyên đến xin hỏi chuyện bà, bà lại khóc nói: "Tôi không nói được gì đâu, đau đớn quá." Khi có các phóng viên đến chụp ảnh con bà đang bị một tay còng vào ghế, bà van nài: "Xin đừng chụp ảnh con tôi..." Khi những người công an còng hai tay con bà giải đi, bà đã lao người với theo, bà ngã trong vòng tay của người quen. Lúc ấy phóng viên lại thấy rất rõ một vết thẹo trên trán bà. Vết thẹo do chính tay con bà cầm một thanh gỗ đập vào để lại... (theo Tuổi Trẻ 17-8-1996, trang 2).
Chắc không ai lại không bị đánh động do câu chuyện vừa kể. Một đàng là khối tình quá lớn nơi người mẹ, đàng khác là điều gì đó hơn là sự vô ơn bạc nghĩa về phía người con, có khi những con vật không xử sự với mẹ chúng cách tàn nhẫn đến như vậy! Nhưng như vậy lại càng làm nổi bật khối tình trước sau như một, vô điều kiện và cho không nơi người mẹ. Thử hỏi do đâu mà người mẹ có được thứ tình yêu cao cả đến như thế? Ta nên để ý về lời cắt nghĩa của sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo về vấn đề này liên quan tới Thiên Chúa Ba Ngôi như sau:
"Khi gọi Thiên Chúa là "Cha", ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái. Nơi Thiên Chúa, tình cha con trìu mến này cũng có thể diễn tả qua tình mẫu tử. Hình ảnh này làm rõ nét hơn tính nội tại của Thiên Chúa, mối thâm tình giữa Thiên Chúa và thụ tạo. Như vậy, ngôn ngữ đức tin được hình thành từ kinh nghiệm về cha mẹ trần thế, những người dưới một khía cạnh nào đó, là đại diện đầu tiên của Thiên Chúa nơi con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy là cha mẹ trần thế có thể làm sai lệch và bóp méo hình ảnh làm cha làm mẹ. Cho nên, cần phải nhắc lại là Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt phái tính của người phàm. Người không là nam mà cũng không là nữ. Người là Thiên Chúa. Vì Người là nguồn gốc và là chuẩn mực cho chức năng làm cha làm mẹ, nên Người luôn trổi vượt trên cha mẹ trần thế: không ai là cha một cách trọn hảo như Thiên Chúa (GLGHCG,239).
Bạn có tin vui nào để nói với gia đình này?
Nhưng câu chuyện lại cho thấy một hình ảnh của một gia đình bi đát. Chồng đã bỏ vợ và hai con nhỏ, nay đứa con đầu lòng lớn lên dám đâm chém người mẹ đã sinh ra mình, để rồi lãnh 20 năm tù!
Nếu Thiên Chúa là nguồn gốc đầu tiên của mọi sự và là Đấng uy quyền siêu việt, đồng thời là Đấng nhân hậu yêu thương chăm sóc mọi con cái, Ngài có kế hoạch nào hữu hiệu để cứu vãn gia đình này chăng? Nếu bạn là người từng tìm hiểu và chia sẻ đời sống Tin Mừng của Đức Kitô, Đấng cứu độ trần gian, chính bạn có tin vui nào để nói với gia đình này, với người mẹ đáng kính, người con ngồi tù, hoặc với người bố đi hoang cần được kêu gọi trở về? Ở đây không bàn về công tác xã hội nhưng chủ yếu bàn về niềm tin, khởi đi từ niềm tin đối với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Nhờ lý trí tự nhiên, con người có thể nhận biết Thiên Chúa cách chắc chắn, dựa vào những công trình của Người. Hãy coi người mẹ trong câu chuyện nói trên là công trình kỳ diệu biết bao về yêu thương. Nhưng còn có một loại nhận biết khác, mà con người không thể đạt tới bằng sức lực của chính mình, đó là loại nhận biết nhờ mạc khải của Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là CHA theo một nghĩa chưa từng có: Người không chỉ là cha vì là Tạo Hoá, từ muôn thuở Người là Cha trong tương quan với Con duy nhất, Ngôi Con từ muôn thuở cũng chỉ là Con trong tương quan với Ngôi Cha: "Không ai biết Người Con trừ Chúa Cha, cũng như không ai biết Chúa Cha trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho." (Mt 11,27) - GLGHCG, 240.
Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu báo tin sẽ cử một Đấng Bào Chữa khác, đó là Chúa Thánh Thần. Người tác động từ thuở khai thiên lập địa (x. St 1,2). Người đã dùng các ngôn sứ mà phán dạy (Kinh Tin Kính Nixêa Contantinôpôli). Nay Người sẽ ở lại với và trong các môn đệ (x.Ga 14,17) để dạy bảo (Ga 14,26) và dẫn đưa họ đến sự thật trọn vẹn" (Ga 16,13). Chúa Thánh Thần được mạc khải như một Ngôi Vị Thiên Chúa, khác với Đức Giêsu và với Chúa Cha (GLGHCG, 243).
Mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn trong câu chuyện, đều cần được vén màn cho thấy Thiên Chúa là hạnh phúc trường cửu, sự sống bất diệt, ánh sáng không tàn lụi. Thiên Chúa là tình thương tràn lan giữa Ba Ngôi vị tựa như sức nóng và ánh sáng tràn lan từ mặt trời. Thiên Chúa tự ý muốn thông chia vinh quang sự sống hạnh phúc của Người. Đó là "kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ thuở đời đời" (x.Ep 1,9). Người đã cưu mang kế hoạch đó từ trước khi tạo dựng vũ trụ nơi Con yêu dấu của Người là Đức Giêsu Kitô. "Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử trong Con của Người" (Ep 1,4-5). Ta được mời gọi "trở nên đồng hình đồng dạng với Con của Người" (Rm 8,29) nhờ "Thần Trí làm nên nghĩa tử" (Rm 8,15), kế hoạch này đúng là "ân sủng được trao ban từ muôn thuở" (2Tm 1, 9-10) xuất phát trực tiếp từ tình thương Ba Ngôi. Tình thương này được trải ra trong cuộc sáng tạo, trong toàn bộ lịch sử cứu độ sau khi nguyên tổ sa ngã, trong sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, Thánh Thần mà sứ mạng Hội Thánh nối tiếp (Sắc lệnh Truyền Giáo AG 2-90).
Chính theo kế hoạch yêu thương của Ba Ngôi mà mọi người trong gia đình phạm nhân Lương Quốc Tuấn, kể cả chính phạm nhân, người bố của phạm nhân và người mẹ đáng mến của anh, đều được mời gọi đạt tới hạnh phúc bất diệt chính họ hằng ao ước. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)
13. Thiên Chúa Ba Ngôi--Lm Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
Thời Cựu Ước người Do Thái nhận biết “Thiên Chúa là Đấng duy nhất” (Đnl.6, 4). Nhờ Đức Giêsu, Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa là “Ba Ngôi Vị”.
Con người nói về Thiên Chúa
Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, ngôn từ con người không thể diễn tả hoàn toàn được. Những hình ảnh diễn tả về Thiên Chúa Cha như một “ông già” râu dài phúc hậu, hoặc “chim bồ câu” chỉ Chúa Thánh Thần, là những hình ảnh biểu trưng. Cả những từ ngữ về Thiên Chúa, như “Cha”, như “Con”, như “Thánh Thần”, cũng là những từ ngữ được dùng với nghĩa loại suy; nghĩa là, chúng chỉ diễn tả được phần nào về Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, Ngài không có hình ảnh như con người; Thiên Chúa là Cha, nhưng không phải là cha hoàn toàn theo nghĩa con người vẫn thường dùng; Thiên Chúa là Con nhưng cũng không phải là con như con người.
Theo con người, cha luôn có trước con, nhưng không như vậy nơi Thiên Chúa Ba Ngôi; nơi Thiên Chúa, Ba Ngôi không ngôi vị nào có trước ngôi vị nào; tuy vậy Thiên Chúa vẫn là Cha, là Lời, là Thánh Thần; và cũng có thể nói Thiên Chúa là Cha, là Con, là Thánh Thần. Nơi con người, chỉ có một bản tính người nhưng có nhiều người khác nhau; nhưng không vậy nơi Thiên Chúa. Tuy một bản tính Thiên Chúa, nhưng Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba Chúa, mà chỉ là một Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, không có từ ngữ “ba ngôi”. Từ ngữ “ba ngôi” là từ ngữ do các nhà thần học sáng tạo để diễn tả Thiên Chúa là Đấng “nguồn” của mọi sự, Đức Giêsu như Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, đến độ đồng nhất với Thiên Chúa, và được diễn tả là “Thiên Chúa nhập thể”, Thánh Thần như Đấng từ Cha và Con. Ba Ngôi Thiên Chúa không phải là ba thực tại (nếu là ba thực tại, nghĩa là, ba Chúa), nhưng chỉ là một thực tại, và là ba ngôi vị phân biệt rõ ràng: Cha không phải là Con hoặc Thánh Thần, Con không phải là Cha hoặc Thánh Thần, Thánh Thần không phải là Cha và Con. Tuy vậy Ba Ngôi là một với nhau, là một trong mọi sự, là một trong bản tính, là một trong ý muốn, là một trong quyền năng, là một trong hiện hữu.
Thiên Chúa Đấng là nguyên uỷ mọi loài, là nguồn của tất cả, là “Cha”, là Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, là Thiên Chúa nhập thể, là “Con”, là ngôi hai Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa. Thánh Thần là Thiên Chúa đang hiện diện nơi cung lòng con người, hướng dẫn con người trong mọi sự, dạy dỗ con người mọi điều, là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Thiên Chúa Đấng Siêu Việt, Đấng vượt trên tất cả, Đấng “ngự trên trời”, đang hiện diện trong cung lòng mỗi người (Ga.14, 16.23). Ngay cả từ ngữ “ngự trên trời”, cũng là cách nói để chỉ Thiên Chúa là Đấng siêu việt mà con người không thể thấu đáo được. Đức Giêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” nhưng Ngài đang “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ngôn từ là phương tiện để diễn tả về Thiên Chúa, phaỉ cố gắng để hiểu, và xin ơn Thánh Thần để hiểu Thiên Chúa hơn. Nói như vậy, không phải là phủ nhận giá trị của từ ngữ. Cũng phải dựa vào từ ngữ để hiểu điều Kinh Thánh, Giáo Hội, và các nhà thần học muốn diễn tả.
Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương chúng ta vô cùng
Giáo Hội đọc Cựu Ước trong niềm tin Thiên Chúa Ba Ngôi, và hiểu Đức Khôn Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng vũ trụ. Đức Khôn Ngoan là Ngôi Lời Thiên Chúa trước khi nhập thể. Đức Khôn Ngoan trước khi nhập thể, vẫn ở nơi Thiên Chúa và đã yêu mến con người.
Thánh Thần, Đấng ở nơi Thiên Chúa và được sai tới với con người, sẽ dạy dỗ con người, sẽ dẫn con người tới sự thật trọn vẹn. “Mọi sự của Cha đều là của Thầy” nhưng Thánh Thần lại “lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”, như vậy nơi Ba Ngôi tất cả là chung.
“Thiên Chúa đã tuôn đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”. Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa, yêu chúng ta vô cùng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có thường ý thức Thiên Chúa luôn hiện diện với bạn không? Ý thức Thiên Chúa hiện diện với bạn, bạn được gì?
2. Bạn hiểu thế nào khi nói Thiên Chúa là Cha? Tương quan của bạn với Ngài như thế nào?
3. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần gần gũi với bạn không? Tại sao?
14. Thiên Chúa Ba Ngôi—Lm Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
Sau biến cố Đức Giêsu phục sinh, chắc các tông đồ đã từng hỏi nhau: “Thầy mình là ai?”. Và rồi nhờ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các ngài mỗi ngày một nhận biết về Đức Giêsu hơn. Với biến cố Đức Giêsu lên trời, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.16, 19), nghĩa là, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể. Vào ngày lễ ngũ tuần, các tông đồ đã nhận biết quyền năng Thánh Thần (Cv.2, 1-17). Nhờ nhớ lại những giáo huấn của Đức Giêsu, các tông đồ cũng nhận biết Thánh Thần là Đấng Trợ Giúp được Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Phục Sinh gởi tới với con người (Ga.14, 16; 15, 26).
Vào thời sơ khai của Giáo Hội, các Kitô hữu đã nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Cha (Ga.15, 26). Tín hữu nhận ra Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Kitô, và Thánh Thần có một tương quan rất đặc biệt với nhau và với con người. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Corinthô viết “nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Thánh Thần ở cùng anh chị em” (2Cor.13, 13). Cha, Đức Giêsu Kitô, và Thánh Thần là ba “ngôi vị” (persona, prosopon, hypotases) luôn yêu thương con người.
Nếu hiểu một Thiên Chúa Ba Ngôi là một bản tính Thiên Chúa có ba ngôi vị, như một bản tính người nhưng có ba ngôi vị người khác nhau, thì sai lầm; vì lúc đó, là ba Chúa chứ không phải là một Thiên Chúa nữa. Hiểu như vậy rất sai trái với điều đã được mặc khải nơi Cựu Ước: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất, ngươi phải phụng thờ Người với hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực ngươi” (Đnl.6, 4). Một số người muốn bảo vệ tính duy nhất của Thiên Chúa nên đã giải thích: chỉ có một Thiên Chúa, nên lúc thì Ngài là Cha, lúc thì Ngài là Con nhập thể, lúc thì Ngài là Thánh Thần. Hiểu như vậy cũng là sai lầm, vì Cha vẫn luôn là Cha, Con vẫn là Con, và Thánh Thần vẫn là Thánh Thần; Cha, Con, và Thánh Thần tuy là một với nhau, nhưng vẫn là từng ngôi vị phân biệt, Cha không lẫn lộn với Con hoặc Thánh Thần. Một số khác cũng muốn bảo vệ tính duy nhất của Thiên Chúa, nên giải thích: Đức Giêsu Kitô cũng là Thiên Chúa nhưng không hoàn toàn là Thiên Chúa, Ngài kém Thiên Chúa một chút. Quan niệm như vậy trái với giáo lý của Kitô Giáo, của Công Giáo.
Cha, Con, và Thánh Thần là ba ngôi vị phân biệt nhưng là một trong tất cả. Cha chỉ là Cha khi có Con; không có Con cũng chẳng có Cha; Cha sinh Con từ thuở muôn đời; Thánh Thần nhiệm xuất từ Cha và Con, cũng như tình yêu là tương quan giữa Cha và Con. Tuy dù Cha là nguồn gốc tất cả, Con sinh bởi Cha, và Thánh Thần nhiệm xuất bởi Cha qua Con, nhưng Ba Ngôi, nói theo Ba Ngôi nội tại, đều có cùng một quyền năng và là một trong tất cả trừ tương quan ngôi vị. Có người đã trích dẫn “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga.14, 28) và “Còn về ngày giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (Mc.13, 32) để khẳng định rằng Thiên Chúa Cha, xét theo bản chất, cao trọng hơn Đức Giêsu Kitô. Để hiểu đúng hai câu này, phải hiểu nó trong nhiệm cục cứu độ; vì là người trọn vẹn nên Đức Giêsu không biết tất cả; vì là người, nên Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của Ngài, nên Chúa Cha cao trọng hơn Ngài.
Trong Cựu Ước, nơi sách Châm Ngôn, người ta đã biết Đức Khôn Ngoan đã được sinh ra trước tất cả; Đức Khôn Ngoan đã hiện diện với Thiên Chúa và là niềm vui của Thiên Chúa; Đức Khôn Ngoan đã đùa vui với con cái loài người (Cn.8, 31). Nhưng chỉ với Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra Thiên Chúa Ba Ngôi và nhận biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng khi biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể: Ngài có trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và Cha là một (Ga.10, 30.33), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62).
“Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy… Thánh Thần sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga.16, 13.15). Nơi Chúa Cha, Thánh Thần, và Đức Giêsu, tất cả là chung đến độ là một trong tất cả. Tuy là một, nhưng vẫn là Cha, Con, và Thánh Thần phân biệt; Ba Ngôi không lẫn lộn với nhau. Chính nhờ nhiệm cục cứu độ, mà người ta nhận biết Thiên Chúa là Ba Ngôi Vị: Cha khởi đầu với sáng kiến, Con thực hiện, và Thánh Thần làm hoàn tất trong dòng lịch sử. Cha, Con, và Thánh Thần có thể được phân biệt nhưng không thể tách biệt khỏi nhau, không thể độc lập với nhau vì là một Thiên Chúa. Cha chỉ là Cha trong tương quan với Con, và Thánh Thần bởi Cha và Con mà ra; có thể phân biệt các ngôi vị nhưng không thể tách biệt như những thực tại độc lập, bởi vì Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa.
Cha sáng tạo vũ trụ và con người qua Con trong Thánh Thần. Chính Cha đã sai Con giáng trần để cứu độ con người dưới tác động quyền năng của Thánh Thần; và một khi Con hoàn tất cuộc sống dương thế, Thánh Thần được sai tới để hoàn tất công trình cứu độ con người. Hiện tại, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đang hiện diện với mỗi người chúng ta. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (Ga.14, 23). “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga.20, 22). Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi để sống với Thiên Chúa, để ý thức sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng mình. Mỗi người đều được mời gọi để đi vào tương quan tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người. Mỗi người đều được mời gọi để sống hạnh phúc với Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Chỉ nhờ nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, người ta mới nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Bạn có đồng ý với khẳng định đó không? Tại sao?
2. Bạn có năng ý thức Thiên Chúa Ba Ngôi đang hiện diện với bạn không? Theo bạn, một khi ý thức Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần đang hiện diện với bạn, thì bạn được gì?
15. Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm đời sống người tín hữu--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Ngày hôm nay, Phụng vụ Giáo hội mừng kính trọng thể Một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Một bản thể duy nhất trong Ba Ngôi Vị. Thiên Chúa không phải là Ðấng đơn độc nhưng là Ðấng thông hiệp trọn vẹn. Nhân loại là hình ảnh của Thiên Chúa luôn tràn đầy tình yêu, là món quà thân yêu được ban tặng cho mỗi người. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự hiện diện của Ba Ngôi bao trùm cả đời sống chúng ta và tôn thờ Ngài.
Bài giáo lý thuộc lòng
Thủa thiếu thời, trước khi bước vào Thánh lễ Chúa nhật, sau phần Kinh Sáng Tối, mọi người lại cùng nhau cất lên: Bổn dạy những lẽ cần cho được rỗi linh hồn. Phần thứ I… bắt gặp câu:
Hỏi. Có mấy sự mầu nhiệm rất cần phải tin cho được rỗi linh hồn?
Thưa. Có Ba Sự Mầu Nhiệm này: một là sự Đức Chúa Trời Ba Ngôi...
Lớn lên tôi mới hiểu đây là Một trong Ba Mầu Nhiệm phải tin cho được rỗi linh hồn. Thảo nào, những câu hỏi mà người học ai cũng được hỏi và buộc phải trả lời chính xác là:
Hỏi. Có nhiều Đức Chúa Trời chăng?
Thưa. Có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Đức Chúa Trời có mấy Ngôi?
T. Đức Chúa Trời có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha. Ngôi Hai là Con: Ngôi Ba là Thánh Thần.
H. Ngôi Nhất là Cha, có phải Đức Chúa Trời chăng?
T. Phải.
H. Ngôi Hai là Con, có phải Đức Chúa Trời chăng?
T. Phải.
H. Ngôi Ba là Thánh Thần, có phải Đức Chúa Trời chăng?
T. Phải.
H. Nếu vậy có phải ba Đức Chúa Trời chăng?
T. Chẳng có, vì Ba Ngôi cũng một tính, một phép, vậy có một Đức Chúa Trời mà thôi.
H. Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém chăng?
T. Ba Ngôi cũng bằng nhau. (Sách Bổn Địa Phận Hà Nội tr. 11)
Điều thứ nhất. Đoạn thứ II. Phần I Sách Bổn nói trên là một bản tóm tắt tuyệt vời đầy đủ, dễ hiểu về Thiên Chúa là thực thể duy nhất hiện hữu trong Ba Ngôi Vị. Ba Ngôi bình đẳng, đồng tồn tại vĩnh cửu, tuy riêng biệt nhưng cùng một bản thể và một uy quyền ngang nhau, nên Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa mà thôi.
Một Đức Chúa Trời có Ba Ngôi
Khi bước vào khoa Thần học, tôi được dạy và đọc thấy các nhà thần học suy tư về Một Thiên Chúa có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa độc nhất. Chúa Con sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con tự đời đời như một Nguyên lý duy nhất, Ba Ngôi nhưng là Một Thiên Chúa hòa quyện vào nhau một cách hoàn hảo trong Tình Yêu và hành động, cùng tác động trên thế giới.
“Đức tin công giáo là thế này, chúng ta thờ kính Một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, và Ba Ngôi trong Một Thiên Chúa, mà không lẫn lộn các Ngôi Vị, không phân chia bản thể: thật vậy, Ngôi Cha là khác, Ngôi Con là khác và Ngôi Thánh Thần là khác; nhưng thần tính, sự vinh quang ngang nhau và uy quyền vĩnh cửu của Chúa Cha, của Chúa Con và của Chúa Thánh Thần là một”.
Các Ngôi vị thần linh không thể tách rời nhau trong cùng một bản thể duy nhất, thì cũng không thể tách rời nhau trong các hoạt động của mình. Nhưng trong hoạt động thần linh duy nhất này, mỗi Ngôi vị hiện diện theo cách đặc thù của mình trong Ba Ngôi, nhất là trong các sứ vụ thần linh là việc Nhập Thể của Chúa Con và việc trao ban Chúa Thánh Thần (GLHTCG số 266-267).
Ba Ngôi trong đời sống người tín hữu
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, mỗi người chúng ta đều được ghi Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Liền sau đó sẽ được thẩm vấn và đòi buộc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi. Câu hỏi sẽ là:
- Anh chị em có tin kính Thiên Chúa, là Cha Toàn Năng, Đấng Tạo Dựng nên trời đất không?
- Anh chị em có tin kính Đức Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha…?
- Anh chị em có tin kính Đức Chúa Thánh Thần…? Câu trả lời cho cả ba câu hỏi trên sẽ là, “Thưa có.”
Và cứ thế, hằng ngày, biết bao lần chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau khi ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm … chúng ta đọc kinh Vinh Danh, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính… nhất là chúng ta làm Dấu Thánh Giá nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi, cho thấy toàn thể thân xác cũng như linh hồn ta, tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi và Thiên Chúa Ba Ngôi bao trùm toàn bộ đời sống ta.
Vậy, nhờ ân sủng của bí tích Rửa Tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta được kêu gọi để tham dự vào sự sống của Ba Ngôi Diễm Phúc, “ở trần thế này trong bóng tối của đức tin và sau khi chết trong ánh sáng vĩnh cửu” (GLHTCG số 265). Amen.
16. Ba Ngôi nhưng là một Thiên Chúa--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm vĩ đại, thẳm sâu và trung tâm đức tin Đạo Công giáo, trong đó Ba Ngôi phát xuất từ nhau và trở về với nhau. Ba Ngôi Cha, Con, Thánh Thần, nhưng là Một Thiên Chúa, duy nhất trong sự hiệp thông và hiệp thông trong duy nhất, đồng thời, khác biệt nhưng cùng một bản thể và ngang hàng bằng nhau.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm chúng ta không thể nào diễn tả được. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cho ta biết được mầu nhiệm ấy khi Ngài tự mạc khải là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc Nhập Thể của Con Thiên Chúa mạc khải rằng Thiên Chúa là Cha từ muôn thuở, và Chúa Con là Đấng đồng bản thể với Chúa Cha, nghĩa là, Chúa Con là Thiên Chúa duy nhất trong Chúa Cha và cùng với Chúa Cha. Sứ vụ của Chúa Thánh Thần, Đấng Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, và Chúa Con sai đến “từ nơi Chúa Cha” (Ga 15,26), mạc khải rằng Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con là một Thiên Chúa duy nhất. “Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con”. “Chúa Thánh Thần chủ yếu xuất phát từ Chúa Cha, mà từ đời đời Chúa Cha ban tặng cho Chúa Con, nên Chúa Thánh Thần xuất phát chung từ Hai Ngôi”. (GLHTCG số 261-262).
Theo thánh Grégoire de Nazianze (329 – 390): Ba Ngôi có cùng một bản tính, nhưng khác biệt về ngôi vị: Ngôi Cha “bất thụ sinh”, Ngôi Con “nhiệm sinh”, Ngôi Thánh Thần “nhiệm xuất”. Thánh Thần, Đấng nhiệm xuất bởi Cha, thì không phải là một thụ tạo; hơn nữa vì Ngài không được sinh ra, nên Ngài không phải là Con; nhưng vì Ngài ở giữa Đấng bất thụ sinh và Đấng nhiệm sinh, nên Ngài là Thiên Chúa...
Theo Grégoire de Nysse (331? – 394): Ba Ngôi chỉ là một Thiên Chúa, vì đồng bản tính, nhưng khác biệt nhau vì Ngôi Hai bởi Cha mà ra và chỉ mình Người là Con Một, còn Ngôi Ba bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con mà có, nên gọi là Thánh Thần của Chúa Kitô. Chỗ khác ngài khẳng định Tam Vị Nhất Thể, Ngôi Cha là nguyên ủy và Hai Ngôi kia là do nguyên ủy, Ngôi Con mãi mãi là Con, còn Thánh Thần xuất bởi Ngôi Cha qua Ngôi Con.
Theo thánh Augustinô (354 – 430 ): Ba Ngôi là một sự hằng hữu duy nhất, một quyền năng duy nhất: “Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần thuộc về một bản thể duy nhất và đồng nhất, là Thiên Chúa sáng tạo, là Ba Ngôi toàn năng” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, IV, xxi, 30). Do thuộc cùng một bản thể, Ba Ngôi ngang hàng với nhau đến nỗi “Chúa Cha không lớn hơn Chúa Con về thần tính, Chúa Cha và Chúa Con cùng với nhau cũng không lớn hơn Chúa Thánh Thần, từng Ngôi riêng biệt cũng không kém hơn chính Ba Ngôi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngội, VIII ). Là ba, nhưng không phải là ba Thiên Chúa, mà chỉ là một Thiên Chúa.
Chúa Cha là Thiên Chúa, Chúa Con là Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Tuy nhiên đó không phải là ba Thiên Chúa, nhưng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là chính Ba Ngôi (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, viii, 9).
Tương quan giữa Ba Ngôi phân biệt, nhưng không phân chia sự duy nhất. Chúa Cha luôn luôn là Cha và Chúa Con luôn luôn là Con. Nếu có lúc Chúa Con bắt đầu là Con thì một ngày nào đó sẽ thôi là Con. Nếu Chúa Cha có khởi đầu là Cha thì có lúc thôi là Cha. Chúa Cha chỉ được gọi là Cha do Ngài có một người Con, và Chúa Con chỉ được gọi là Con do Ngài có một người Cha. Vì vậy, cho dù có sự khác nhau giữa việc làm Cha và làm Con, bản thể lại không khác nhau, vì các Ngài không được gọi như thế xét về bản thể, nhưng là về tương quan và tương quan này không phải là một tùy thể vì nó không thay đổi” (x.Giáo lý về Chúa Ba Ngôi, V, v, 6).
Lễ Chúa Ba Ngôi là dịp tốt để người Kitô hữu ý thức được sự hiện diện của mầu nhiệm này trong đời sống chúng ta: từ ngày chịu Phép Rửa tội, chúng ta lãnh nhận nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi cho đến ngày chúng ta trước Mình Thánh Chúa, hiện tại hóa vinh quang của Chúa Cha qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Đó là dấu chỉ để các Kitô hữu sẽ nhận Dấu Thánh Giá, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Nhiệm vụ của Chúa Giêsu Kitô, Chúa Con là mạc khải Chúa Cha, vì Người là hình ảnh hoàn hảo, và trao ban Chúa Thánh Thần, Đấng mà Người cũng đã mạc khải. Tin Mừng mà chúng ta công bố hôm nay cho thấy: Chúa Con nhận lãnh tất cả từ Chúa Cha trong sự hiệp nhất hoàn hảo: “Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy”, và Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Chúa Giêsu nói: “Vì thế Thầy đã nói: Người sẽ lãnh nhận từ nới Thầy mà loan truyền cho các con” (Ga 16,15). Và trong một đoạn văn khác, Chúa Giêsu cũng nói tương tự: "Khi Đấng Phù Trợ đến, Đấng Thầy sẽ từ nơi Cha Thầy sai đến với các con. Người là Thần Chân Lý bởi Cha mà ra, Người sẽ làm chứng về Thầy"(Ga 15, 26).
Thật là sự an ủi tuyệt vời mà chúng ta có được Thiên Chúa Ba Ngôi, cao vời và không thể tiếp cận, đến với chúng ta, ở trong chúng ta và làm cho chúng ta đối thoại được với Ngài. Và Chúa Thánh Thần, Ngài dẫn dắt chúng ta đến sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,13). Đây là “phẩm giá vô song của người Kitô hữu”, mà thánh Lêô cả Giáo hoàng đã nói nhiều lần: chúng ta có được nơi mình mầu nhiệm Thiên Chúa, và có chỗ ở trên Trời, nơi Chúa Giêsu Vị Cứu Chúa của chúng ta đang đợi những "công dân" Nước Trời (x. Pl 3,20 ), về cư ngụ nơi cung lòng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Xin tạ ơn Ngài, lạy Chúa, xin tạ ơn Ngài là Một Chúa Ba Ngôi chân thật và chí tôn chí thánh. Chúa Cha là nguồn tình thương, Chúa Con là mạch ân sủng, Chúa Thánh Thần là suối ơn hiệp thông. Amen.
17. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp liền sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta long trọng cử hành lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa trong Ba Ngôi, một trong những mầu nhiệm người tín hữu phải tin cho được rỗi linh hồn. Nhưng làm sao chúng ta có thể diễn tả hay thấu hiểu về Thiên Chúa Ba Ngôi này? Ai có thể giúp ta thấy được khuôn mặt thực của Thiên Chúa? Ai sẽ chỉ cho ta con đường để gặp gỡ Ngài? Tự sức trí khôn con người là không thể. Phải nại đến Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể, qua Ngài mầu nhiệm Thiên Chúa được vén mở, nhờ Người mà chúng ta biết có Một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị là Cha, Con và Thánh Thần.
Thánh Augustinô viết: “Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được”.
Đúng, Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại, sâu thẳm, chúng ta không thể nào diễn tả được. Trí tuệ và miệng lưỡi con người không tài nào giải thích được những mối tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; tuy nhiên các giáo phụ đã tìm cách diễn tả nội dung chính yếu này và một trong những cách đó là Dấu Thánh Giá: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Dấu tôn vinh, chúc tụng và nguyện cầu
Thường ngày, chúng ta làm Dấu Thánh Giá rất nhiều lần, khởi đầu ngày mới cho đến khi đi ngủ, bước vào nhà thờ cho đến lúc nhận lãnh phép lành, trước và sau bữa ăn, khi đi ngang qua Thánh Giá, vườn thánh, trước cơn cám dỗ nguy hiểm …
Khi đặt tay lên trán chúng ta tôn vinh Chúa Cha toàn năng. Đưa tay xuống ngực chúng ta chúc tụng Chúa Con tình yêu. Đưa tay sang trái, phải vinh danh Chúa Thánh Thần, Nguồn ơn Thánh Thiêng hồng phúc của đời chúng ta. Mỗi lần làm Dấu Thánh chúng ta xin Chúa Ba Ngội ngự đến biến đổi tâm hồn chúng ta nên giống Ngài trong lời nói cũng như việc làm.
Như vậy, Dấu Thánh Giá bao trùm toàn thể xác và linh hồn; tất cả con người ta được thánh hiến nhân danh Một Chúa Ba Ngôi. Vì thế, Dấu Thánh Giá gói ghém lời tuyên xưng đức tin và nền tảng cầu nguyện của chúng ta.
Dấu kẻ có Đạo.
Hỏi: Dấu kẻ có Đạo là dấu nào? Thưa: là dấu cây Thánh Giá. Đức Giêsu đến trần gian nhằm cứu chuộc chúng ta, Người đã chết trên Thánh Giá để trao ban sự sống cho chúng ta. Chính nhờ hy tế của Người trên Thánh Giá mà chúng ta, những người “kitô hữu”, nghĩa là thuộc về Đức Kitô. Dấu Thánh Giá là dấu chỉ người kitô hữu. Chính nhờ dấu này mà chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, đã đến thế gian để cứu chuộc chúng ta.
Trong năm Phụng vụ, có hai thời điểm giúp người kitô hữu ý thức về giá trị của Dấu Thánh Giá.
- Mùa Phục Sinh chỉ cho ra rằng chúng ta được cứu chuộc nhờ cây Thánh Giá.
- Lễ Chúa Ba Ngôi, giúp chúng ta tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi.
Dấu Thánh Giá là dấu của người chịu phép Rửa tội, người thuộc về Chúa. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta được “vẽ” và “ghi” dấu Thánh Giá. Dấu này bề ngoài không thể thấy được, nhưng in trong tâm hồn người kitô hữu. Đồng thời cũng là hành động Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến.
Hành động Đức Tin
Dấu Thánh Giá tóm lược Ba Mầu Nhiệm Cả trong Đạo Công giáo.
1 – Chúng ta vẽ Dấu Thánh Giá trên mình, vì Chúa Giêsu đã mặc lấy thân xác người phàm đến để cứu chuộc ta. Đây là mầu nhiệm Nhập Thể.
2 – Dấu Thánh Giá nhắc lại rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta. Đây là mầu nhiệm Cứu Chuộc. Thánh Giá là chiến thắng của Đức Giêsu trên sự dữ và ma quỉ. Chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ hy tế của Chúa Giêsu trên Thánh.
3 – Dấu mà chúng ta vẽ trên mình kèm theo lời đọc: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Chúng ta khẳng định mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Hiểu như thế sẽ giúp chúng ta làm dấu Thánh giá nghiêm túc hơn.
Hành động của Đức Cậy.
Niềm hy vọng của chúng ta là về Trời như các thánh đã ái mộ những sự trên Trời. Chính vì Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu độ chúng ta, nên chúng ta có thể về Trời. Khi vẽ trên mình Dấu Thánh Giá, chúng ta nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá để cứu chúng ta, Người đã mở cửa Trời cho chúng ta.
Vậy, chúng ta khẳng định với nhau rằng, cuộc sống lữ hành của chúng ta là đi về Trời nơi chúng ta hy vọng sẽ tới sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế.
Hành động Đức Mến.
Thánh Giá gốm hai thanh gỗ ngang và dọc. Thanh dọc trình bầy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa, thanh ngang diễn tả tình yêu của chúng ta đối với “tha nhân”.
Cần phải ghi nhận rằng khi được đưa lên khỏi đất, thanh dọc của cây Thánh Giá đỡ lấy thanh ngang: ngụ ý nói rằng tình yêu của chúng ta đối với tha nhân được “nâng đỡ” bởi tình yêu Thiên Chúa.
Nếu thanh dọc của cây Thánh Giá thiếu (tình yêu Thiên Chúa), thanh ngang bị bỏ nằm trên đất, không thể đưa lên khỏi đất. Ý muốn nói, trong hành động của đức Ái: “yêu tha nhân là yêu chính Chúa”.
Nhưng nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, (yêu tha nhân), hỏi rằng có còn là cây Thánh Giá nữa hay không?
Hai điều cần thiết: “là mến Chúa và yêu người”. Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình nhiều lần: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.
Xin dâng lời chúc tụng, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đến muôn thủa muôn đời. Amen.
18. Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi
Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Mỹ dưới thời tổng thống Nixon, có viết một cuốn sách trong đó ghi lại biến cố xảy ra đêm 7.8.1974, đêm cuối cùng trước khi tổng thống Nixon từ chức. Lúc đó vào khoảng 9 giờ tối, chuông điện thoại vang lên, tổng thống gọi ông đến toà Bạch Ốc ngay lập tức. Khi đến ông thấy tổng thống đang ngồi uể oải trong chiếc ghế màu nâu. Ánh sáng yếu ớt từ chiếc đèn nhỏ dùng để đọc sách hắt xuống nền nhà. Hai người trao dổi với nhau về nhiều vấn đề. Tổng thống tiễn ông đến tận chân cầu thang. Thình lình tổng thống dừng lại và yêu cầu ông cùng quỳ gối cầu nguyện. Kissinger cho hay rằng mình không biết là có quỳ xuống hay không, nhưng ông nhớ rất rõ là lúc ấy ông cảm thấy lo sợ và không biết phải cầu xin điều gì.
Hình ảnh Kissinger sợ hãi quỳ xuống trong bóng đêm và không biết phải cầu xin điều gì khiến chúng ta suy gẫm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi hôm nay. Thực vậy, giống như Kissinger, chúng ta cũng có cảm giác đầy lo âu, nhưng chúng ta lại không biết phải cầu xin gì với Chúa Ba Ngôi. Chúng ta phải áp dụng mầu nhiệm này vào cuộc sống thường nhật ra làm sao?
Các tu sĩ thường coi ba lời khấn của mình là cách thế thuận tiện giúp họ tận hiến cho Chúa Ba Ngôi. Với đức khó nghèo, họ tận hiến cho Chúa Cha vì qua đó họ biểu lộ lòng phó thác vào sự quan phòng của Ngài: Các con đừng lo mình sẽ ăn gì mặc gì. Cha trên trời biết rõ các con cần đến những thứ ấy. Với đức khiết tịnh, họ tận hiến cho Chúa Con, bởi vì Đức Kitô đã sống độc thân như họ. Người đã tự cho mình thuộc về mọi người chứ không thuộc riêng về một ai. Và sau cùng với đức vâng lời, họ tận hiến cho Chúa Thánh Thần. Họ muốn lắng nghe sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần và bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài.
Với chúng ta cũng vậy, dưới một góc độ nào đó, chúng ta có thể áp dụng ba nhân đức trên vào cuộc sống chúng ta để tận hiến cho Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, trước một tình hình kinh tế đầy biến động, mỗi người chúng ta, nhất là những người già cả và thất nghiệp, chúng ta cần phải tín thác vào Chúa Cha, như chim trời hay như cánh hoa ngoài đồng nội. Tiếp đến, trước một thế giới đầy tham lam ích kỷ, chúng ta cần noi gương Chúa Giêsu Đấng đã đến để phục vụ và Ngài đã truyền cho chúng ta: Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Và sau cùng, trước một xã hội bùng nổ về thông tin, chúng ta cần được Chúa Thánh Thần dẫn lối để luôn đi đúng con đường phải đi.
Và như thế, mặc dù không tuyên hứa, nhưng chúng ta vẫn có thể áp dụng tinh thần ba nhân đức ấy vào cuộc sống thường ngày. Thực vậy, hãy phó thác vào sự quan phòng của Chúa Cha. Hãy thực thi giới luật yêu thương của Chúa Con và hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.
19. Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn--Lm Trầm Phúc
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm chính yếu của Kitô giáo. Chúng ta tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính. Chúng ta tin một Thiên Chúa duy nhất là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Từ “Thiên Chúa Ba Ngôi” phải đợi nhiều thế kỷ mới hình thành. Đầu tiên, vào cuối thế kỷ thứ hai, Giám Mục Thêôphilô thành Antiôkia sử dụng từ này trong một bức thư gởi cho Antolycus, một người lạc giáo và được các Giáo hội chấp nhận. Tuy nhiên, phải đợi đến thế kỷ VI từ Chúa Ba Ngôi mới được hình thành và được chấp nhận.
Người Do Thái chỉ tin vào Thiên Chúa độc nhất, toàn năng. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa cũng tự mạc khải là Cha của dân Do Thái. Nơi các tiên tri, Ngài thường gọi Israen là “con Ta”. Ngài cũng tỏ cho dân Do Thái thấy tình yêu của Ngài đối với dân. Ngài yêu dân Israen như một người chồng yêu thương vợ và đau đớn khi bị phụ tình. Tiên tri Hôsê đã có những trang tràn đầy tình yêu.
Tiên tri Giêrêmia diễn tả tình yêu Thiên Chúa như một người cha, yêu thương đứa con bé bỏng của mình, chăm sóc, nâng niu.
Nhưng chỉ có Chúa Giêsu mới mạc khải khuôn mặt thật của Chúa Cha, mới cho chúng ta biết Thiên Chúa là Ba Ngôi, là Cha, Con và Thánh Thần. Chính Thiên Chúa cũng tỏ ra cho chúng ta biết Ngài là Cha của Chúa Giêsu: “Này là Con Ta rất yêu dấu, Con đẹp lòng Ta”. Chúa Thánh Thần cũng xuất hiện dưới hình thức chim bồ câu khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả ở sông Giođan.
Chúa Giêsu nói đến Chúa Cha, mạc khải Cha trên trời và chứng tỏ Ngài là Con. Ngài thường dùng cách nói: “Cha Ta, Đấng ngự trên trời”. Khi cầu nguyện, Ngài dùng từ “Abba” là tiếng nói của trẻ thơ để gọi Cha Ngài.
Trong đoạn Tin Mừng Giáo hội trích dẫn hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy sự hiệp thông toàn vẹn giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần được gọi là “Thần Khí Sự Thật sẽ đến và dẫn anh em đến sự thật vẹn toàn”, sự thật đó chính là Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Thần sẽ giúp chúng ta hiểu về Ba Ngôi một cách đầy đủ hơn. Thánh Thần đó không tự mình nói điều gì, “Ngài chỉ nói những gì Ngài đã nghe từ Chúa Cha và Chúa Con. “Ngài sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em”. Điều này chứng tỏ mối hiệp thông giữa Ba Ngôi thật tuyệt diệu!
Mối liên hệ giữa Chúa Cha với Chúa Con cũng vẹn toàn vì “mọi sự của Chúa Cha đều là của Thầy”, vì “Cha với Thầy là một”. Là một nhưng không lẫn lộn. Thầy không phải là Chúa Cha và Chúa Cha không là Thầy. Thánh Thần là của Thầy, nhưng Ngài không phải là Chúa Cha, cũng không là Chúa Con. Ngài là mối liên hệ yêu thương giữa Cha và Thầy. Ngài là của Thầy, nhưng đồng thời Ngài cũng là của Cha Thầy.
Làm sao giải thích điều không thể giải thích? Giáo hội vẫn cố gắng tìm cách giải thích mầu nhiệm Ba Ngôi bằng nhiều cách, nhưng vẫn còn phải cố gắng đào sâu mãi. Thiên Chúa là vô biên và ngôn ngữ và trí khôn loài người có hạn. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể lười biếng tìm kiếm sâu hơn. Phải nhờ Thánh Thần mà thôi vì Ngài mới dẫn chúng ta đến “sự thật toàn vẹn”.
Chúng ta không thể hiểu Thiên Chúa bằng những lý luận mà chỉ hiểu bằng ánh sáng Thánh Thần, bằng đức tin mà thôi. Chúng ta không thể múc cạn đại dương bằng một vỏ sò.
Các thánh hiểu Ba Ngôi như một gia đình. Ngài là hiến ban, là tình yêu, là niềm vui yêu thương và được yêu. Khi chúng ta nói đến tình yêu, chúng ta chỉ hiểu theo tình yêu hạn chế của con người. Thiên Chúa là Tình Yêu tuyệt đối. Chúa Cha yêu Chúa Con bằng một tình yêu tuyệt đối. Tình yêu đó không thể có ở trong thế giới của con người. Chúa Con cũng yêu Chúa Cha bằng một tình yêu tuyệt đối và tình yêu tuyệt đối giữa Chúa Cha và Chúa Con là Thánh Thần.
Chúng ta chỉ tuyên xưng những gì chúng ta có thể hiểu được, và tất cả được gồm tóm trong một câu của thánh Gioan: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Vì là Tình Yêu, Ngài yêu thương chúng ta. Vì yêu thương chúng ta, Ngài đến liên hệ với chúng ta, Ngài sai Con Một Ngài đến trần gian để chứng tỏ cho chúng ta thấy tình yêu của Ngài sâu đậm đến mức nào. Và Thánh Thần là Tình Yêu khôn tả của Ngài được đổ tràn trên chúng ta, khiến chúng ta trở thành con và trong tình con thảo đó, chúng ta gọi Ngài là “Abba” (cha).
Mầu nhiệm Ba Ngôi là tất cả đối với chúng ta. Chúng ta không thể tìm đâu ra ý nghĩa cuộc sống và hạnh phúc. Tất cả khơi nguồn từ tình yêu Ba Ngôi và kết thúc trong tình yêu đó.
Ngài ban cho chúng ta một hồng ân tuyệt hảo là được yêu mến Ngài. Chúng ta có cảm thấy đó là một hồng ân không? Thánh Inhaxiô thành Antiôkia viết: “Anh em chỉ yêu một mình Thiên Chúa thôi”. Chúa cũng mong chúng ta yêu Ngài thôi, vì chỉ có Ngài là hạnh phúc độc nhất của chúng ta. Giới răn của Ngài là Yêu: “Nghe đây, hỡi Israen. Đức Chúa là Thiên Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết sức ngươi…” Chúa Giêsu lặp lại: “Điều răn thứ nhất và quan trọng nhất là hãy yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn…” Chỉ có Thiên Chúa là đáng yêu trên hết mọi sự. Thế nhưng, dù được khích lệ như thế nào, hình như chúng ta vẫn không yêu. Có cái gì cản trở tình yêu.
Tình yêu Chúa vẫn mời gọi, nhưng chúng ta vẫn ởm ờ, không dứt khoát.
Các thánh đã yêu và đã chuyển lại cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu của các ngài, nhưng hình như chúng ta vẫn không có can đảm bước vào tình yêu. Đó là một điều đáng tiếc.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu chỉ biết sống cho tình yêu: “Ơn gọi của em là yêu”. Đó cũng là ơn gọi của chúng ta. Chúng ta có đáp lại ơn gọi đó không?
Ai? hay cái gì đã cản trở không cho chúng ta yêu mến Chúa? Ai đã tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa? Chúng ta phải tìm cho ra nguyên nhân, nếu không, chúng ta không bao giờ có thể yêu mến Chúa, và như thế, chúng ta sẽ không bao giờ đạt tới hạnh phúc. Cầu xin cho chúng ta đủ can đảm dứt khoát với những gì không giúp chúng ta yêu mến Chúa. Xin cho chúng ta đủ can đảm bỏ mình để chỉ sống cho Chúa mà thôi.
Chúa Giêsu không bỏ rơi chúng ta trong sự yếu hèn của chúng ta, Ngài vẫn kề cận, nâng đỡ chúng ta. Ngài đã dùng một phương tiện hết sức tuyệt vời để đến trong chúng ta là một tấm bánh, nhờ đó chính Ngài sẽ ở trong chúng ta và giúp chúng ta yêu mến Chúa, miễn là chúng ta không cản trở hoạt động của Ngài. Ăn lấy Ngài đi, sống với Ngài trong những thực tại nhỏ bé hằng ngày của chúng ta, như thế cũng đủ để đền đáp tình yêu của Ngài.
20. Lễ Chúa Ba Ngôi--Lm Inhaxiô Hồ Thông
Mặc khải “Một Chúa Ba Ngôi” không thuộc về Cựu Ước. Cựu Ước quan tâm đặc biệt đến việc gìn giữ sự tinh tuyền Một Chúa vốn không ngừng bị đe dọa bởi ảnh hưởng của các tôn giáo đa thần chung quanh. Tuy vậy, Cựu Ước để cho thoáng thấy vài linh cảm về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, nhất là trong các sách Cựu Ước muộn thời: tầm quan trọng được ban cho Chúa Thánh Thần, kiểu nhân cách hóa tiệm tiến của Lời, đoạn của Đức Khôn Ngoan thần linh.
Chính Ngôi Lời làm người đã mặc khải Chúa Cha và Thánh Thần, và sự hiệp nhất của hai Ngôi Vị này với Chúa Con trong một sự hiệp thông tròn đầy tình yêu, một sự tuôn tràn liên tục, một trao đổi thường hằng, vì bản chất Thiên Chúa vốn là tận hiến cho nhau. Chính nhờ sự tận hiến này: tình yêu hiến tế của Chúa Con và sự sai phái của Chúa Thánh Thần, mà con người được dự phần vào đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa. Như vậy mặc khải Một Chúa Ba Ngôi là một dữ kiện đặc trưng của Ki-tô Giáo biệt phân với các tôn giáo độc thần khác như Do Thái Giáo và Hồi Giáo.
Cn 8: 23-31
Trong bản văn của sách Châm Ngôn, Đức Khôn Ngoan nói về sự hiện diện của Ngài bên cạnh Chúa Cha ngay từ trước và suốt công trình sáng tạo. Đây là một trực giác về một cuộc sống trao đổi ở giữa lòng của chính Thiên Chúa.
Rm 5: 1-5
Trong thư gởi cho các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô phác họa việc Ba Ngôi Thiên Chúa tham dự vào công trình cứu độ loài người, dưới ba viễn cảnh: đức tin, đức cậy và đức mến.
Ga 16: 12-15
Tin Mừng được trích từ Diễn Từ Cáo Biệt của Đức Giê-su theo thánh Gioan. Chúa Giê-su hứa với các môn đệ Ngài rằng Thần Khí Sự Thật sẽ được sai đến để dẫn dắt các ông tới sự thật toàn vẹn về Ngài và Cha Ngài.
BÀI ĐỌC I (Cn 8: 22-31)
Sách Châm Ngôn cùng với sách Gióp, sách Giảng Viên, sách Khôn Ngoan và sách Huấn Ca hình thành nên bộ sách minh triết Cựu Ước. Sách này được sáng tác như một bức tranh khảm được đính với những câu châm ngôn thuộc niên biểu và nguồn gốc khác nhau. Sách được đặt dưới sự bảo hộ của vua Sa-lô-mon (“Những Châm Ngôn của vua Sa-lô-mon”), một vị vua nổi tiếng là khôn ngoan và được truyền tụng là ngâm tới ba ngàn câu thơ (1V 5: 12).
Chương 8 và chương 9 của sách Châm Ngôn hình thành nên một phân đoạn được dâng hiến cho Đức Khôn Ngoan thần linh. Đức Khôn Ngoan này được nhân cách hóa lần đầu tiên và sẽ được lấy lại bởi hai tác giả thuộc trào lưu minh triết sau này, đặc biệt bởi hiền nhân Si-rác (thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên) và tác giả sách Khôn Ngoan (thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên). Kiểu nhân cách hóa này thật ra vẫn mang tính chất thi ca và văn chương, nhưng mở ra những viễn cảnh về những mối liên hệ giữa Thiên Chúa và Đức Khôn Ngoan của Ngài và vén mở một sự linh cảm về một cuộc sống nội tại ở nơi Thiên Chúa, chuẩn bị xa cho mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi Vị.
1. Ở bên Thiên Chúa, từ nguyên thủy:
“Chúa đã dựng nên tôi như tác phẩm đầu tay, trước những công trình của Người, thời xa xưa nhất”. Như vậy, Đức Khôn Ngoan có nguồn gốc từ thuở xa xưa nhất. Tác giả thích nhấn mạnh Đức Khôn Ngoan có trước mọi công trình sáng tạo và hiện diện trong khi công cuộc tạo dựng đang diễn tiến. Dường như tác giả gợi ra rằng chính nhờ sự hiện diện của Đức Khôn Ngoan mà vũ trụ xuất đầu lộ diện từ sự hỗn mang, được tổ chức, được phân định ranh giới và được đặt nền móng vững chắc. Đức Khôn Ngoan có mặt ở đó, bên cạnh Thiên Chúa, như một “tay thợ cả”.
2. Hiện diện giữa loài người:
Đức Khôn Ngoan gặp thấy niềm vui thú của mình là ở bên cạnh Thiên Chúa và vui mừng về công trình sáng tạo; nhưng Ngài cũng vui chơi trên mặt đất và vui thích ở giữa phàm nhân.
Ở đây, thi ca xem ra lấn át tư tưởng thần học. Hài Nhi Thần Linh thật đáng yêu và vui tươi, Ngài muốn rời bỏ cuộc sống thân cận với Thiên Chúa để vui chơi giữa loài người. Tuy nhiên, sức quyến rũ của bức tranh vẫn là mang tính gợi ý: một Đấng từ Thiên Chúa mà đến, rất thân thiết với Thiên Chúa và vui thích được ở với loài người… Đó không phải là một linh cảm xa về Mầu Nhiệm Nhập Thể sao?
3. Nguồn mạch Thần Học về Ba Ngôi Thiên Chúa:
Chúng ta ở tận nguồn mạch Thần Học về Ba Ngôi Thiên Chúa. Những đường nét của Đức Khôn Ngoan chủ yếu được áp dụng cho Ngôi Hai, Ngôi Lời, vừa là lời vừa là khôn ngoan của Thiên Chúa. Thánh Gioan đã viết trong Tựa Ngôn như vậy: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa… Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành”.
Trong thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-lô-xê, bài thánh thi ca ngợi Đức Ki-tô, thủ lãnh hoàn vũ, được gợi hứng trực tiếp bởi những câu đầu tiên của sách Châm Ngôn: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 15-17).
BÀI ĐỌC II (Rm 5: 1-5)
Chủ đề căn bản của thư gởi tín hữu Rô-ma là ơn cứu độ mà Đức Ki-tô đem đến cho loài người, ơn cứu độ này không là phần thưởng nhưng là ân sủng.
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay được trích từ chương 5, chương cấu thành bản lề giữa phần thứ nhất và phần thứ hai của bức thư. Phần thứ nhất xoay quanh đức tin, đối lập với Lề Luật, phần thứ hai nhắm đến cuộc sống Ki-tô hữu được ân sủng làm sinh động, dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Phần dẫn nhập (5: 1-5) trình bày một tổng đề nhỏ về công việc của Ba Ngôi Thiên Chúa, trong những viễn cảnh đức tin, đức cậy và đức mến.
1. Chúa Cha và lời đáp trả của đức tin:
“Chúng ta được nên công chính nhờ đức tin”. Câu mở đầu này thiết lập mối liên hệ với phần thứ nhất và tóm tắt phần thứ nhất này. Chính nhờ đức tin mà Thiên Chúa cho chúng ta được dự phần vào sự công chính của Người, nghĩa là cho chúng ta được nên thánh, chứ không nhờ công trạng của mình để mà chúng ta đừng tự cao tự đại. Nhờ đó, Người đem đến cho chúng ta sự bình an. Thánh Phao-lô luôn luôn bắt nguồn từ Chúa Cha, căn nguyên của ơn cứu độ.
2. Chúa Con và con đường hy vọng:
Chính Chúa Con đã thay thế kỷ nguyên của Lề Luật bằng thời kỳ ân sủng và đã mở ra nguồn hy vọng: “Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 17). Vì thế, từ nay “chúng ta tự hào vì được trông đợi hưởng vinh quang với Thiên Chúa”. Ở đây, thánh Phao-lô dùng từ “tự hào” theo nghĩa “hãnh diện”, chứ không còn theo nghĩa “tự mãn” như trước đó.
Người Ki-tô hữu phải nuôi dưỡng niềm hy vọng lớn lao này, thậm chí càng phải kiên cường hơn nữa khi gặp gian truân. Chúng ta nhận ra biện chứng mạnh-yếu, rất tâm đắc với thánh nhân: ai càng yếu hèn, Thiên Chúa càng bày tỏ quyền năng của Người ở nơi người ấy. Từ ngữ “gian truân” thường nhất chỉ những phiền nhiễu mà người công chính phải chịu đựng vì niềm tin của mình. Tuy nhiên ở đây, từ ngữ này xem ra có nghĩa rộng hơn, những gian nan thử thách thời hiện tại, những gian truân này rèn luyện đức trung kiên và như vậy trắc nghiệm giá trị đức tin của chúng ta. Vì đức tin của chúng ta là nguồn hy vọng không hề mai một. Thư thánh Gia-cô-bê cũng diễn tả theo cùng một ý nghĩa: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn” (Gc 1: 2-3). Trước đó, thánh Phao-lô đã viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Thật vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời” (2Cr 4: 17).
3. Thánh Thần và sự tuôn tràn tình yêu:
Bảo chứng cho niềm hy vọng của chúng ta là tác động của Chúa Thánh Thần “Đấng tuôn tràn tình yêu Thiên Chúa vào lòng chúng ta”. Bản văn này là lời khẳng định rõ nét nhất trong toàn bộ Tân Ước về mối liên hệ giữa tình yêu và Thánh Thần. Đây cốt là tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Vào lúc chúng ta lãnh nhận phép Rửa, tình yêu này tháp nhập chúng ta vào đời sống Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong cuộc sống của người Ki-tô hữu, Thánh Thần tuôn đổ tình yêu Thiên Chúa vào lòng chúng ta. Động từ Hy-lạp được sử dụng ở đây gợi lên sự tràn bờ, như nước tuôn trào đến mức vật chứa không thể chứa hết được. Trong Kinh Thánh, hình ảnh “nước” là một trong những biểu tượng về Thánh Thần. Khi loan báo ân ban Thánh Thần cho người phụ nữ Sa-ma-ri, Đức Giê-su sánh ví với “một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4: 14).
TIN MỪNG (Ga 16: 12-15)
Những lời tâm sự của Đức Giê-su dành cho những bạn hữu chí thiết của Ngài trong Diễn Từ Cáo Biệt cung cấp những ánh sáng rõ ràng nhất mà chúng ta có được về đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, thậm chí ở giữa lòng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chắc chắn, những tác giả Cựu Ước đã có vài linh cảm về đời sống quan hệ của Thiên Chúa; tiếp đó, kinh nghiệm của Giáo Hội cho phép hiểu biết hơn chức năng của Ngôi Ba mầu nhiệm.
Chỉ một mình Đức Giê-su mới có thể vén mở đời sống thâm sâu của Thiên Chúa. Với các môn đệ, Ngài đã mặc khải Chúa Cha và Ngài đã không ngừng định vị chân tính của chính Ngài trong mối quan hệ với Chúa Cha. Ngoài ra, Đức Giê-su đã không thể mặc khải Chúa Cha mà đồng thời không mặc khải Chúa Thánh Thần, Đấng được liên kết cả với Chúa Cha lẫn Chúa Con, trong một tình yêu tận hiến cho nhau giữa Ba Ngôi Vị.
Tin Mừng Gioan trao gởi cho chúng ta một cách phong phú nhất những lời tâm sự này của Đức Giê-su, đặc biệt trong Diễn Từ Cáo Biệt. Bản văn chúng ta đọc hôm nay được trích từ diễn từ này.
1. Ân ban sức mạnh:
“Thầy có nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Các Tông Đồ đang trong tâm trạng buồn phiền và xao xuyến. Đức Giê-su đã loan báo cho họ cái chết sắp đến của Ngài, nhưng họ không thể lường được chiều kích rộng lớn của tấn thảm kịch sắp giáng xuống trên Thầy mình và làm cho chính họ xáo động sâu xa. Đức Giê-su biết sự yếu đuối của họ, những khó khăn mà họ gặp phải để hiểu mầu nhiệm về con người và vận mệnh đau khổ của Ngài. Ngài giữ thinh lặng về những viễn cảnh này hiện nay quá sức chịu đựng của các ông. Trước đó, Ngài đã hứa với các ông một Đấng Bảo Trợ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thánh Thần sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận” (Ga 14: 16-17); bây giờ Ngài lập lại cho họ lời hứa này.
2. Thần Khí Sự Thật:
“Khi nào Thần Khí Sự Thật đến, Ngài sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn diện”. Thánh Thần sẽ giúp các Tông Đồ hiểu biết sâu xa giáo huấn mà họ đã nhận được, sẽ giúp họ khám phá những khía cạnh của giáo huấn mà vào lúc này họ vẫn chưa có thể hiểu được. Sẽ không có mặc khải mới, nhưng Mặc Khải của Chúa Giê-su được đào sâu, được minh giải, nhờ Chúa Thánh Thần, ánh sáng nội tâm ở với họ.
“Ngài sẽ loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến”, tức là những thành quả của cuộc Thương Khó và Tử Nạn mà Đức Giê-su sắp phải chịu, cũng như sự Phục Sinh của Ngài. Thuở xưa, Thánh Thần đã nói qua các ngôn sứ, bây giờ chính Giáo Hội sẽ bảo quản những lời hứa cứu độ, phân phát những ân phúc Cứu Độ mà Giáo Hội sẽ phải loan truyền và phát triển cho đến tận thế.
“Người sẽ tôn vinh Thầy”. Thánh Thần sẽ làm cho sự thật của Đức Giê-su được sáng tỏ, sẽ phục hồi danh dự của Đấng Công Chính bị kết án cách bất công, sẽ làm cho nhận biết vinh quang mà Chúa Con đã nhận được bên cạnh Chúa Cha.
3. Vai trò của Ba Ngôi Thiên Chúa và sự duy nhất của Mặc Khải:
“Người không tự mình nói điều gì… Người sẽ lấy những gì của Thầy… Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy…”. Những ngôn từ này để cho thoáng thấy những mối liên hệ vừa hiệp nhất vừa khác biệt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng Gioan này là một trong những đoạn văn mà việc soạn thảo thần học Ba Ngôi dựa vào. Đối mặt với các lạc giáo, Giáo Hội buộc phải xác định, phát biểu và định nghĩa niềm tin của mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi được cô động trong Kinh Tin Kính. Chúng ta biết rằng suốt nhiều thế kỷ, những cuộc tranh cãi nổ ra giữa Tây Phương và Đông Phương về vấn đề là phải chăng Thánh Thần nhiệm xuất “duy nhất từ Chúa Cha”, hay “từ Chúa Cha qua Chúa Con”, hay “cả từ Chúa Cha lẫn từ Chúa Con”. Đây là cuộc tranh cãi nổi tiếng về “filioque”. Các Giáo Hội Đông Phương từ chối biểu thức “và từ Chúa Con” vì sợ rằng việc quy chiếu đến cả Chúa Cha lẫn Chúa Con khiến cho nghĩ rằng có hai căn nguyên trong mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua biểu thức này, Giáo Hội Tây Phương muốn diễn tả rằng không thể có được sự đổ tràn ân ban Thánh Thần nếu không có sự trung gian của Chúa Con.
Ngôn ngữ phàm nhân chỉ là một cách thức tiếp cận mầu nhiệm. Dù thế nào, Đông Phương cũng như Tây Phương đều không nghĩ đến việc đặt sự hơn kém giữa Ba Ngôi Thiên Chúa: sự duy nhất của Ba Ngôi thì hoàn toàn, và sự ngang bằng của Ba Ngôi thì tuyệt đối.
21. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi--Dã Quỳ
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta hân hoan mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là lễ trọng nhất và cao cả nhất trong đạo chúng ta. Thiên Chúa mà chúng ta tin kính thật kỳ diệu. Trong Người có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba ngôi hợp nhất và làm thành một. Chúng ta sẽ không thể hiểu thấu được Thiên Chúa bằng trí khôn của con người. Sự khẳng định về Thiên Chúa Ba Ngôi là một huyền diệu và là một món quà mầu nhiệm của Thiên Chúa mà ta chỉ có thể đón nhận bằng đức tin và với một trái tim đơn sơ của con thơ.
Chúng ta tin vào Mầu nhiệm Ba Ngôi bởi vì Thiên Chúa đã nói với chúng ta. Ngài đã vén mở cho chúng ta qua trung gian của Chúa Giêsu- Con Ngài. Người đã đến nhà chúng ta, ở cùng chúng ta và giảng dạy cho chúng ta.
Chính Chúa Giêsu đã nói cho ta biết mối tương quan tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Không có Đấng nào giữ gì cho riêng mình, nhưng tất cả đều được chia sẻ, hiệp thông, cho đi và đón nhận...Và tất cả được hợp nhất nên một " Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại...Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em."(Ga 16, 13-14) Những mạc khải của Chúa Thánh Thần cũng luôn đồng nhất với những gì Chúa Giêsu đã loan báo. Bởi vì Chúa Con và Thánh Thần đều phát xuất từ Chúa Cha và qui hướng về Chúa Cha "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy... Thánh Thần lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em."( Ga 16, 15)
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không phải là bài toán khó hiểu và tối tăm mà chúng ta không biết phải nghĩ gì, nhưng là một thực tại phong phú, rất sâu thẳm và rất sáng láng làm chúng ta thán phục. Muốn cảm nhận được cách sống động Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta phải trở về với nội tâm của mình, đón nhận trong đức tin và tình yêu. Chúng ta cần đặt hết lòng tin tưởng vào Lời Chúa và sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Hạnh phúc cho chúng ta khi tin rằng Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ và là Bạn của ta, Chúa Thánh Thần không ngừng thổi tình yêu và lòng thương xót của Chúa Cha và Chúa Con vào trong cuộc sống của chúng ta. Vâng, chúng ta thật hạnh phúc.
Cảm nhận mình thật hạnh phúc vì được dựng nên trong tình yêu và bằng tình yêu của Thiên Chúa bởi Người là Tình Yêu. Thiên Chúa làm ra chúng ta bằng chính bàn tay Người, được là tạo vật giống hình ảnh Người và vì thế, ta sẽ mãi ở trong tình yêu của Người khi Người khẳng định "Ta đã yêu con bằng mối tình muôn thuở."(Gr 31,3) Thiên Chúa yêu chúng ta vì ta phát xuất từ con tim và từ tình yêu của Người, nên Thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước."(1Ga 4, 19b)
Chúng ta còn hạnh phúc hơn nữa vì trong kế hoạch tình yêu kỳ diệu, Chúa Cha đã ban Ngôi Hai cho chúng ta. Vì yêu chúng ta cách tột cùng nên Chúa Giêsu nhập thể làm người để cứu độ chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa "Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô."(Ep 1, 5) Chính Chúa Giêsu đã nâng chúng ta lên và đưa chúng ta vào mối tình Cha con với Thiên Chúa. Chúng ta được Thiên Chúa nhận làm nghĩa tử ngay từ lúc ta lãnh nhận Phép Thanh Tẩy, nhờ muôn vàn ân sủng của Chúa Thánh Thần.
Tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa luôn theo ta suốt mọi ngày trong đời sống. Bởi vì ta là con, nên Cha yêu thương và chăm sóc chúng ta nhất là những đứa con yếu đuối bệnh tật. Chúng ta không thể sống trên trần gian này nếu không có ơn Thiên Chúa trợ giúp. Hết mọi ơn ta lãnh nhận đều đến từ tình yêu sống động của Người, như lời Thánh Giacôbê nhắn nhủ "Mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú."( Gc 1,17) Vì thế ta vô cùng biết ơn Ba Ngôi Thiên Chúa, vì Chúa Cha ban mọi ơn lành cho ta qua Chúa Con là Đấng trung gian và trong Chúa Thánh Thần mà mọi Bí Tích chúng ta cử hành luôn được Người thánh hóa và chứng nhận.
Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu luôn trào tràn trong Ba Ngôi và vì thế, Người thông ban nguồn tình yêu của Người cho chúng ta. Ba Ngôi Thiên Chúa luôn lo lắng cho chúng ta như người cha không bao giờ mệt mỏi. Người không chỉ quan phòng và bao bọc chúng ta nơi trần thế, nhưng Người còn chuẩn bị một gia tài ở trên trời dành cho tất cả những ai tin vào Người. (x. 1Pr 1, 3-5) Thiên Chúa dựng nên ta để đưa ta về trời với Người và hưởng vinh quang của Người. Chúng ta khởi đầu hành trình nơi trần gian bằng đức tin và ân sủng dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhưng rồi một ngày ta sẽ bước tới thiên đàng với tình yêu. Thiên Chúa sẽ đưa ta vào trong Người và khi ấy ta sẽ hiểu biết Người hơn.
Trong tâm tình mừng lễ, chúng ta cầu xin: “Nguyện xin ân sủng Chúa Giêsu Kitô, Tình yêu của Chúa Cha và Ơn Thông Hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta."( x. 2Cr 13,13) Đồng thời chúng ta xin Chúa Thánh Thần giúp ta biết sống, biểu lộ và làm vinh danh Chúa Ba Ngôi trong cuộc sống của ta. Mỗi khi làm Dấu Thánh Giá, ta tuyên xưng: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trên thân xác ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần, ta cũng biết ý thức để sống xứng đáng ơn gọi là con Thiên Chúa và là chứng nhân cho Chúa giữa lòng đời bằng cuộc sống hiệp nhất với Chúa và với nhau; bằng đời sống yêu thương và chia sẻ như mẫu gương của Chúa Ba Ngôi. Và ước gì chúng ta biết nhân danh Chúa trong mọi tư tưởng, lời nói, hành động của ta và sống sâu xa nền tảng đức tin vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng con chúc tụng, tôn vinh và cảm tạ Chúa muôn đời: Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần, như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời chẳng cùng. Amen.
22. Thiên Chúa, như Đức Giêsu muốn diễn tả--Lm Gioan Nguyễn Văn Ty
Thánh Gioan ghi nhận: Đức Giêsu trong diễn từ ly biệt đã khảng định: Người muốn nói với các môn đệ nhiều điều, và toàn là những nội dung tối quan trọng, có điều các ông hoàn toàn chưa sẵn sàng đón nghe: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em chưa có sức chịu nổi.” Tôi vẫn hay thắc mắc: điều gì mà có tầm quan trọng vượt bậc đến thế, để mà Đức Kitô gọi nó là: ‘sự thật toàn vẹn’?
Giáo hội chọn bản văn Gio-an chương 16 cho lễ Chúa Ba Ngôi năm C quả là có ý nghĩa, chính vì đoạn Tin Mừng này hé mở cho thấy nội dung đích thực của cái thực tế vẫn thường được mệnh danh là mầu nhiệm ‘Chúa Ba Ngôi’. Điều này, tôi thiết nghĩ: các môn đệ cũng như các tín hữu tiên khởi chắc chắn đã nắm bắt rất rõ, trước cả khi nó được diễn đạt bằng công thức ‘Một Chúa Ba Ngôi – Sancta Trinitas ’.
Sự thật toàn vẹn Người đề cập tới trước hết bắt đầu bằng chính con người Đức Kitô Giêsu: “Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em”. Đức Giêsu đã lặp lại câu nói trên tới hai lần, điều này cho thấy: chỉ khi nào ta khởi đi từ Giêsu, ta mới có thể hiểu biết cách chính xác, Thiên Chúa thật sự là ai.
Trước mắt các môn đệ là: một ông Giêsu xuất thân từ làng quê Na-da-rét; ông là một bậc thầy đang rao giảng một học thuyết rất kì lạ; còn hơn thế nữa, ông đã có một đời sống và một cái chết không ai hiểu nổi. Ông khảng định rằng: đó là cuộc sống và cái chết trọn vẹn hiến dâng và trao ban, không chỉ cho người tốt mà cả cho kẻ xấu. Nhưng nếu chỉ là cá nhân ông như thế thì dầu có anh hùng và đáng khâm phục thật, nhưng cũng chỉ cá lẻ một mình ông mà thôi. Đàng này ông lại không ngừng tuyên bố rằng: con người và cuộc sống (nhất là cái chết Thập Giá) của ông là biểu lộ trung thực nhất về Thiên Chúa, Đấng mà ông không những gọi là Cha của mình, mà còn tự đồng hóa mình với Ngài. Và Đấng đó, khác với suy nghĩ thông thường của người Do Thái, kể cả các thầy tiến sĩ thông luật thời đó, cũng là Thiên Chúa - Cha đầy nhân ái của hết thảy mọi người, cách riêng những người tội lỗi nhất; sau này qua việc ông được cho chỗi dậy từ cõi chết, những lời khảng định trên của ông trở nên có sức thuyết phục không ai cưỡng lại được.
Nhận biết được điều này mới là nhận biết Giêsu cách đích thực, đồng thời cũng là nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa: “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình” (Ga 13:31-32). Tuy nhiên qua phát biểu của một số môn đệ thâm tín nhất như Tô-ma (xem Ga 14:5-7) Phi-lip-phê (xem Ga 14:8-11) Giu-đa không phải It-ca-ri-ốt (xem Ga 14:22-24)…, ta biết: điều này xem ra không dễ dàng được chấp nhận. Tin rằng ‘Thiên Chúa là Cha đầy nhân ái, yêu thương và tự hiến mình cho con người tội lỗi’ còn khó hơn cả tin ‘ba là một hay một là ba’. Điều sau này mới chỉ là một nghịch lý về mặt suy luận toán học, còn điều kia mới thực là nghịch lý làm đảo lộn mọi tương quan trời đất cố hữu. Cần phải chính Chúa Cha trong Đức Kitô gởi một nhân vật bí nhiệm là Thánh Thần - Đấng Bảo Trợ đến mới đưa nổi các tín hữu tới sự hiểu biết và tin thác vào tình yêu vĩ đại này.
Như vậy công việc chính yếu của Chúa Thánh Thần là: làm cho Kitô hữu chúng ta nhận biết Đức Giêsu Thập Giá là Lời tình yêu vô song của Chúa Cha. Thánh Thần chính là đức tin đối thần của tín hữu chúng ta, là Đấng Sáng Soi cho phép ta tiếp cận, hiểu biết và chấp nhận điều mà lẽ thường ta ‘không có sức chịu nổi’; là Đấng dẫn ta ‘tới sự thật toàn vẹn’, vì chính sự thật này mới làm cho ta được sống và sống dồi dào. Vì thế Thánh Thần chính là Hồng Ân tình yêu vĩ đại nhất mà Chúa Cha nhân ái trong Đức Giêsu Kitô có thể ban, để ta tiến vào tình yêu sinh động và phong phú nhất của Người.
Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là khởi nguồn và cùng đích của niềm tin Kitô hữu. Mầu nhiệm đó không hệ tại ở việc, nó quá bí nhiệm tới nỗi không ai kham nỗi, nhưng chính yếu hệ tại: nó quá phong phú, quá sinh động tới độ làm thay đổi toàn diện cuộc sống con người chúng ta. Mầu nhiệm đó chính là cốt lõi của Tin Mừng. Quả thực kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội để trở thành môn đệ Đức Giêsu, mọi Kitô hữu sẽ không ngừng “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28:19) như một tuyên tín về tình yêu nhân ái vô biên của Thiên Chúa. Và bất cứ ai ngưng tuyên xưng khối tình yêu vĩ đại này như căn nguyên và sức sống của đời mình thì sẽ lập tức không còn là Kitô hữu đích thực nữa. Chúa Ba Ngôi quả thật là mầu nhiệm của các mầu nhiệm, nhưng không phải để hiểu biết mà là để sống!
Lạy Chúa, lẽ ra con đã phải cảm tạ khôn nguôi về niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi, lẽ ra mỗi lần thốt lên ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ lòng con đã phải tràn ngập vui sướng. Nhưng tiếc thay thực tế đã không được như thế, chỉ vì con cứ ngắm nhìn Thiên Chúa như một Đấng quyền uy cao sang, nên nhiều khi con cảm thấy khó chịu về mầu nhiệm khó hiểu và khô khan này; nhiều khi con chỉ lạnh lùng thốt lên ‘nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần’ cách máy móc vội vàng, như một công thức vô bổ. Xin Thánh Thần tích cực tác động trong con, để dạy con điều con không thể kham nỗi, là nhận biết tình yêu nhân ái bao la của Thiên Chúa Cha, biểu lộ qua Thập Giá của Đức Kitô Giêsu. Xin cho con biết không ngừng ca ngợi Ba Ngôi từ ái. Amen.
23. Hy vọng đã vươn lên--Lm Giuse Đỗ Vân Lực
Hy vọng là động lực sống. Hướng sống và niềm vui sẽ mất đi, nếu không còn niềm hy vọng. Nhưng làm cách nào nuôi niềm hy vọng trong tâm hồn? Đó là bí quyết của Thánh Linh. Chỉ niềm tin nào đem lại hy vọng, mới có giá trị và tồn tại.
NGUỒN HY VỌNG.
Cuộc sống luôn có những biến động. Niềm hy vọng luôn bị đe dọa khi gặp những khó khăn. Nhưng không phải bất cứ ai gặp khó khăn đều đánh mất niềm hy vọng. Niềm hy vọng cũng huyền nhiệm như niềm tin Kitô giáo. Đó là lý do tại sao phải tìm hiểu niềm hy vọng do Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta!
Trước hết, chỉ có Thiên Chúa mới đem lại và bảo đảm niềm hy vọng cho chúng ta. Vì niềm hy vọng bắt nguồn từ Thánh Linh. Quả thế, “chúng ta không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm 5:5) Tình yêu Thiên Chúa là nguồn hy vọng, vì chính trong tình yêu, Thiên Chúa đã sáng tạo và cứu độ. Không có tình yêu, chẳng có một giá trị nào hiện hữu và tồn tại. Bởi vậy, Thiên Chúa đã đặt nền tảng niềm hy vọng trên tình yêu tức là Thánh Linh. Chẳng có gì tạo nổi niềm hy vọng ngoài tình yêu Thiên Chúa! Thiên Chúa yêu thương chúng ta mãnh liệt và sâu đậm, nên niềm hy vọng của chúng ta chắc chắn phải lớn lao và bền vững hơn bất cứ thực tại nào trên trần gian.
Nhưng tình yêu chưa đủ! Thiên Chúa muốn niềm hy vọng phải đặt vào đúng chỗ. Mù quáng chỉ dẫn tới ảo tưỡng và sụp đổ. Cần phải có sự thật nữa. Bởi thế, Đức Giêsu mới hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.” (Ga 16:13) Sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người! Không thấy được sự thật toàn vẹn, con người không thể được giải thoát. Không được giải thoát, không có tình yêu và niềm hy vọng đích thực. Thánh Linh đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn của tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa vô cùng mãnh liệt và cao cả khiến các môn đệ không thể hiểu nổi. Quả thực, nếu không có Thánh Linh soi sáng, làm sao nhận ra ơn cứu độ lớn lao nơi cái chết và phục sinh của Đức Kitô?
Thần Khí chính là sự khôn ngoan, “một sự khôn ngoan soi sáng cho thấy ý nghĩa thực tại.” (Faley 1994:387) Thánh Linh “luôn hiện diện với Thiên Chúa trong toàn thể tiến trình tạo dựng.” (Faley 1994:384) Người# luôn hoạt động để tạo dựng một vũ trụ có trật tự. Cuộc tạo dựng không chỉ xảy ra trong vũ trụ, nhưng cả trong Giáo hội nữa. Thần khí không chỉ hoạt động trong thời gian viết Thánh Kinh! Nhưng Người còn hoạt động trong Giáo hội qua dòng thời gian nữa! Muốn bảo vệ sự thật toàn vẹn, Người phải làm việc trong trật tự. Cứ nhìn vũ trụ sẽ thấy công việc Thánh Linh làm trong Giáo hội, không thể theo ngẫu hứng hay tình cảm cá nhân!
Hơn nữa, Thánh linh còn đưa các môn đệ vào sự thật toàn vẹn về con người. Mục đích cuối cùng của mạc khải là giao hòa con người với Thiên Chúa và anh em. Nhưng làm sao giao hòa với Thiên Chúa và anh em, nếu con người không biết hết sự thật về chính mình và những tương quan vô cùng phong phú của mình? Không có gì khó bằng khám phá chính mình. Nhưng Thánh Linh sẽ giúp con người nhận ra sự thật khó khăn đó. Khi biết rõ chính mình, con người sẽ khiêm tốn hơn và hạnh phúc hơn. Khi biết rõ tương quan sâu xa giữa mình và Thiên Chúa cũng như tha nhân, con người sẽ thấy mình phải cố gắng tới mức nào. Vì chính trong tương quan này, con người sẽ tìm được hạnh phúc tròn đầy. Chỉ trong tương quan với anh em, con người mới trở nên hình ảnh Thiên Chúa đích thực. Vì tự bản chất, Thiên Chúa là một tương quan. Nếu không, đã chẳng có Ba Ngôi trong một Thiên Chúa. Trong các tương quan phản ánh tình yêu Thiên Chúa nhất, chúng ta phải kể đến gia đình. Chính trong gia đình, con người cảm nghiệm được tình yêu thắm thiết của Ba Ngôi. Càng chia sẻ sâu xa tình yêu gia đình, càng đi sâu vào huyền nhiệm Thiên Chúa.
Huyền nhiệm Thiên Chúa chính là sự thật toàn vẹn, đối tượng của niềm tin. Bởi vậy, được đưa vào sự thật toàn vẹn là “được nên công chính nhờ đức tin,” tức là được tham dự vào đời sống Thiên Chúa. Đời sống Thiên Chúa chan hòa bình an! Không biết được sự thật toàn vẹn đó, cuộc sống sẽ tràn ngập đau khổ. Trái lại, nhờ Thánh Linh, mọi vấn đề sẽ được giải quyết, kể cả vấn đề đau khổ. Tín hữu không những không sợ đau khổ, nhưng nhờ ân sủng của Thiên Chúa, họ “còn tự hào khi gặp gian truân.” (Rm 5:3) Tín hữu không tìm cách diệt trừ hay phủ nhận đau khổ. Vì đau khổ dính liền với thân phận làm người. Nhưng họ quan niệm đau khổ là một thử thách cần phải vượt qua. Cuộc vượt qua thử thách đó không dựa vào sự thật bình thường, nhưng vào sự thật toàn vẹn do Thánh Linh mạc khải.
Càng đi sâu vào sự thật toàn vẹn về Thiên Chúa và con người, càng được giải thoát. Càng được giải thoát, càng vui tươi và bình an. Chính Thánh Linh cảm thấy được niềm vui đó khi từ sự thật Thiên Chúa mà đến. Người mạc khải: “Ngày ngày ta là niềm vui của Người, trước mặt Người, ta không ngớt vui chơi, vui chơi trên mặt đất, ta đùa vui với con cái loài người.” (Cn 8:30-31) Lối nhìn trần giới hoàn toàn khác hẳn. Khôn ngoan mang bộ mặt trang trọng, chứ không thể đi đôi với “vui chơi”. Nhưng chính niềm vui mới là dấu chỉ hy vọng lớn lao. Đó là lý do tại sao niềm vui tràn ngập tuổi trẻ đầy hy vọng. Hơn nữa, càng khôn ngoan càng chứng tỏ đã nắm được chân lý toàn vẹn. Càng nắm chắc chân lý toàn vẹn, càng đặt được nền tảng sâu xa cho niềm hy vọng và niềm vui. Do đó, có một tương quan sâu xa giữa niềm hy vọng và sự khôn ngoan, sự khôn ngoan bắt nguồn từ niềm tin nơi Thiên Chúa.
Đó là lý do tại sao niềm tin phát sinh hy vọng. Chính thánh Phaolô quả quyết: “Còn chúng tôi thì nhờ Thần khí và dựa vào đức tin mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng.” (Gl 5:5) Khi đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, con người có thể tìm được niềm hy vọng vững chắc, vì Thiên Chúa hằng hữu. Thực vậy, “vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:2) Đức tin là bảo đảm cho chúng ta đạt được niềm hy vọng ngay tự đời này dù đầy những bất trắc. Hơn nữa, đức tin còn có thể giúp con người bình an giữa cuộc đời đầy sóng gió. Thật vậy, “chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là người trung kiên, thì có quyền trông cậy.” (Rm 5:3-4) “Ngay cả những thử thách cũng góp phần giúp con người hy vọng đạt tới vinh quang, và sự chịu đựng sinh ra sức mạnh củng cố niềm hy vọng. Đó là niềm hy vọng có nền tảng, chứ không phải chỉ là ước vọng suông.” (Faley 1994:386) Niềm hy vọng là cao điểm qui tụ tất cả sức mạnh của người tín hữu. Không có hy vọng, không ai còn hứng khởi để vượt qua những thử thách muôn mặt. Khi đã vượt qua những thử thách đó, con người có thể hãnh diện và đầy hy vọng. Nhưng sức mạnh nào đã giúp họ vượt qua thử thách, nếu không phải là Thánh Linh? Có vượt qua thử thách của đức tin, chúng ta mới có thể theo Đức Giêsu vào chung hưởng ân sủng Thiên Chúa. Chính đức tin và hy vọng khiến Kitô hữu khác hẳn với mọi người. Bình thường ai cũng run sợ trước đau thương thử thách. Nhưng người Kitô hữu như tràn đầy hứng khởi và tự hào vì được trở nên giống Đức Kitô đau khổ trong sứ mệnh cứu độ. Quả thế, thập giá là “sức mạnh cứu độ của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:18) Nếu không trung kiên gắn bó với thánh ý Thiên Chúa, chắc chắn Đức Giêsu đã không thể đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Bởi thế, ai trung kiên mới có quyền hy vọng!
Niềm hy vọng này lại trở thành mấu cứ cho niềm tin và tình yêu. Quả thực, “lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em.” (Cl 1:5) Lời chân lý gieo niềm hy vọng cứu độ vì phát xuất từ Thiên Chúa và do chính Thánh Linh loan báo. Quả thế, Thần Khí “sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.” (Ga 16:13) Thánh Linh loan báo một tương lai vững chắc, chắc như chính “những biến cố vào giờ Chúa Giêsu vậy.” (NIB 1995:773) Không phải Thánh Linh sẽ cho người tín hữu biết trước tương lai. Thật vậy, theo Bultmann, “người tín hữu chỉ có thể đo lường được tầm quan trọng và họ mức chịu đựng khi thực sự đụng đầu với thực tế. Họ có thể đoán trước tương lai trong niềm tin, chứ không biết trước về kiến thức.” (NIB 1995:773) Nếu thế, Lời Chúa vô cùng cần thiết để củng cố lòng tin trước bất cứ thử thách bất ngờ nào. Bởi vậy, vai trò Thánh Linh vô cùng quan trọng trong việc trao Lời Chúa cho cộng đoàn niềm tin và trong tương lai (x. NIB 1995:773) Hoàn thành trọng trách đó, Thánh Linh sẽ đem lại vinh quang cho Chúa Cha và Chúa Con. Thật vậy, “Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì là của Thầy mà loan báo cho anh em.” (Ga 16:14) Loan báo Tin Mừng vừa cứu độ muôn dân vừa vinh danh Thiên Chúa.
CHIỀU HƯỚNG MỚI
Thánh Linh đã thực sự trở thành ngôi vị không thể thiếu trong công cuộc cứu độ. Điều kiện thực tế không cho phép các môn đệ hiểu tất cả những gì Chúa mạc khải trong một lúc. Cái gì cũng phải đợi thời gian mới chín mùi được! Chính Chúa đã nói rõ điều đó: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.” (Ga 16:12) Chúa Giêsu cũng tôn trọng trình tự thời gian. Người cũng không thể đi trước thời gian hay giẫm chân lên Chúa Thánh Thần. Tương lai thuộc về Thánh Linh. Chính Thánh Linh vừa tiếp tục công cuộc mạc khải vừa ban sức mạnh và ánh sáng để các môn đệ được nâng lên mà nắm chắc nguồn hy vọng là Lời Chúa. Không thể tiên đoán Thánh Linh đi xa tới mức nào trong tương lai Giáo hội. Công đồng Vatican II chứng tỏ Thánh Linh đã làm một cuộc “hiện xuống mới” giữa thời đại hôm nay. Cuộc hiện xuống mới bắt đầu với cánh cửa Giáo hội mở ra thế giới. Từ sau Vatican II, Giáo hội không còn tự cho mình ở trên và tách lìa trần gian. Trái lại, “Thánh Linh trong công đồng đại kết đã dẫn Giáo hội qua một tiến trình tự đánh giá sâu sắc về mình như thành phần thế giới.” (Faley 1994:388) Từ nay, Giáo hội không còn chỉ thấy Chúa hiện diện trong Thánh Kinh, truyền thống, các nghi thức phụng vụ, “nhưng cả trong các biểu tượng và nghi thức từ các văn hóa và tôn giáo khác nữa.” (Heim 1998:14) Nhờ Thánh Linh hướng dẫn, Giáo hội còn “tìm sự hiện diện Thiên Chúa trong hoàn cảnh của người nghèo và bị bách hại, trong các tôn giáo thế giới, và các giáo hội Kitô giáo khác. Có một sự khôn ngoan vô hạn trong tất cả những thực tại này, một sự khôn ngoan làm giàu cho đức tin.” (Faley 1994:388) Khi đã thoát khỏi tình trạng tự giam hãm mình trong vòng Công giáo chật hẹp, Giáo hội có nhiều ảnh hưởng và tương quan phong phú hơn. Giáo hội đã bắt gặp nhiều cách diễn tả và cảm nghiệm khác nhau về sự thật nơi các tôn giáo khác và các anh em Tin Lành. Thánh Linh đã đánh thức Giáo hội sau bao thế kỷ triền miên trong những giới hạn nhân gian.
Dĩ nhiên cuộc đối thoại với các tôn giáo và anh em Tin Lành không được xa rời nguyên tắc “trung thành với Chúa Kitô và xác tín về ơn cứu độ dành cho mọi người.” (Heim 1998:26) Phong trào đại kết đã có kinh nghiệm sâu xa về liên tôn và suy tư về “hệ thống chân lý và những khả năng hiệp nhất không dựa nhiều trền việc đồng thuận hoàn toàn về giáo lý.” (Heim 1998:13) Đó là chiều cạnh lý thuyết cần thiết cho cuộc đối thoại. Về mặt thực tế, không thể không nghĩ đến những nỗ lực của các nhà truyền giáo trong các thế kỷ qua. Kinh nghiệm Alexandre de Rhodes, Nobili, Ricci cho thấy việc hội nhập văn hóa rất cần thiết cho việc rao giảng Tin Mừng. Nói khác, “việc lột xác trong việc truyền giáo đòi phải đối thoại với các tôn giáo khác, hoặc ở mức độ thân thiện, giáo thuyết, hành động xã giao, hay kinh nghiệm tôn giáo.” (Heim 1998:14) Hơn nữa, cần phải “chú ý tới tôn giáo phổ quát, thường gồm những yếu tố giao lưu văn hóa và tôn giáo đa nguyên.” (Heim 1998:14) Chính Thánh Linh sẽ hướng dẫn Giáo hội khi mở ra chiều hướng quá sâu rộng và phong phú như thế. Thực tế, Giáo hội vẫn tin rằng “ý thức đức tin (sensus fidei) sẽ cung cấp một nền tảng luận lý để đánh giá về hình thức biểu tượng của hòa điệu đa nguyên này.” (Heim 1998:14)
Thánh Linh đang mở ra một mùa xuân tràn đầy hy vọng trong lòng Giáo hội, niềm hy vọng phát xuất tự và cũng phát sinh ra lòng tin và tình yêu. Tương quan bộ ba tin cậy mến thật là huyền nhiệm, huyền nhiệm như chính Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính tương quan đó đã mở ra cho Giáo hội những chiều hướng mới đi vào một thế giới đang ngóng chờ Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ.
24. Lễ Chúa Ba Ngôi--Lm Vũ Đình Tường
Tường thuật trong Cựu Ước về lịch sử hình thành vũ trụ, sách Sáng Thế Kí, các chương đầu tiên, ghi lại công trình Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ từ hư không và đặt loài người vào trong vũ trụ đó để loài người thay Ngài làm chủ vũ trụ. Vì là chủ nên trách nhiệm coi sóc, bảo vệ và giữ gìn; đồng thời cũng hưởng hoa trái do đất nước sinh sôi. Đất cung cấp thực phẩm nuôi thân, nước uống và cung cấp ngay cả phong cảnh tuyệt vời cho con người thưởng lãm. Nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ vũ trụ là nhiệm vụ chung của cả nhân loại. Thường con người chỉ lo chăm sóc những gì thuộc riêng mình như vườn rau trước ngõ, ao cá sau nhà mà lơ đi những thứ khác. Là chủ vũ trụ loài người có trách nhiệm bảo vệ môi sinh, bờ biển và rong biển; cánh rừng và thú rừng; bầu trời và chim muông; sa mạc và cây gai trong đó; băng giá và tuyết rơi, bầu khí quyển và các vì sao như thế mới làm tròn bổn phận người chủ có trách nhiệm.
Không may loài người với bản tính ích kỉ nghĩ về mình, cho mình nhiều hơn, cộng thêm nhẹ dạ, tin nghe lời manh rãnh, gian tà xúi bẩy của ma quỷ. Loài người dại dột đã làm sai ý Chúa, không làm tròn nhiệm vụ chủ nhân trái đất, trái lại tàn phá vũ trụ không thương tiếc và làm hại đến bản thân.
Mặc dù loài người lầm lỗi gây hại cho vũ trụ và tạo đau khổ cho chính thân mình như thế, Thiên Chúa yêu thương loài người, không đành tâm để mặc loài người phải hư đi, đau khổ quằn quại kéo lê cuộc sống. Chúa Cha sai con một mình, Đức Kitô xuống thế, nhận thân phận con người để cứu loài người và sửa lại những gì đã hư mất, đồng thời ban thêm ơn để loài người nhận lại tình thương đặc biệt Thiên Chúa trao ban.
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ.'(Gn 3,17).
TÂN ƯỚC
Đức Kitô xuống thế làm người bình thường như chúng ta nên một phần nhân loại từ chối nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Cho là Ngài quá tầm thường và từ chối lắng nghe giáo lí Ngài giảng dậy. Tìm kiếm chân lí là nhu cầu sống, vì từ chối Thiên Chúa chân thật nên con người tìm chân lí nơi loài thụ tạo, họ ca tụng, tôn vinh lẫn nhau, kẻ thờ tài, người thờ tiền, kẻ khác thờ sắc đẹp. Lối sống này nguy hại. Hoặc là dẫn đến kêu ngạo khi thành công; hai là tuyệt vọng khi vinh quang xụp đổ. Vì sao? Vì
Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất (Gn 5,44).
CON ĐƯỜNG SỐNG
Những ai thành tâm, tin nhận Đức Kitô là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế sẽ được sống bình an, hoan lạc phát xuất từ nội tâm. Một bình an thực sự mà chính Đức Kitô xác định thế giới không có để cho. Họ tìm được tình yêu thực sự vì chính Thiên Chúa là tình yêu vì ai ở trong Thiên Chúa sẽ không bao giờ bị hư mất, nếu có chết cũng được sự sống mới. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa xác nhận:
'Tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sự sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết'. (Gn 6,40).
'Con không tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; và điều Chúa Cha làm người Con cũng làm như vậy'. (Gn 5,19).
Con đường sống là con đường liên kết với Thiên Chúa vì có sự liên kết, hợp nhất mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đức Kitô không tự ý làm gì (5,30; 8,28) nói gì (7,16-17; 12,49;14,10) Người không tự ý đến thế gian (7,28; 8,24) Chúa Cha cho Người thấy mọi điều mình làm nên điều gì Chúa Cha làm, Chúa Kitô cũng làm như vậy nên ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha và được Chúa Thánh Thần kết hợp.
CHÚA THÁNH THẦN
Món quà Chúa Con luôn hứa ban cho nhân loại đó là Chúa Thánh Thần được sai đến thời hậu Phục Sinh chính là thời đại của chúng ta đang sống. Thánh Thần Chúa đến đổi mới và canh tân bộ mặt trái đất. Thánh Thần đến làm rõ nghĩa những gì Chúa Kitô đã rao giảng. Tạo vật mới, trời mới đất mới do Chúa Kitô tái tạo được trao cho vào tay loài người làm chủ và coi sóc. Trong Cựu Ước loài người đã thất bại; Tân Ước loài người không phải một mình coi sóc vũ trụ vì Chúa Kitô hứa gởi Đấng Bảo Trợ đến soi sáng, hướng dẫn để loài người không rơi vào vết xưa cũ của tội lỗi.
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Gn 14,26).
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Người sẽ không tự mình nói điều gì nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết (Gn 16,13)
Nhân loài có Thánh Thần Chúa kề bên chỉ bảo, hướng dẫn. Người thiện tâm nhận được sự thật toàn vẹn.Thời hậu Phục Sinh là thời sung mãn nhất vì được Ngôi Ba Thiên Chúa soi sáng. Tình yêu Chúa hướng dẫn cuộc sống, tình yêu Chúa giúp sáng tạo, tình yêu Chúa giúp kết hợp gắn bó.
Ngày nay các khoa học gia la hoảng về vũ trụ bị nóng, băng đá bắc và nam cực đang tan, băng tuyết đỉnh Hymã lạpsơn rơi lã chã, mưa rơi không đều, khí hậu bất thường. Họ đâu biết là nhân loại vẫn vô tình, vô tâm và ngay cả kêu ngạo tin vào khoa học, tin vào tài sức mình, không tin Ngôi Ba nên vũ trụ rơi vào tình trạng thời Cựu Ước, bị tàn phá, hủy diệt.
Từ chối Chúa Thánh Thần loài người có trí khôn hơn cả nên sẽ chịu đau khổ nhiều hơn cả.
Chúng ta tin có một Thiên Chúa, Ngài có Ba Ngôi. Mỗi Ngôi vị mang một trọng trách riêng. Ngôi Cha sáng tạo, Ngôi Hai cứu chuộc và Ngôi Ba thánh hoá và hoàn thiện.
25. Chúa Ba Ngôi
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi muôn đời vẫn là một mầu nhiệm cao vời nhất. Vì Chúa Ba Ngôi không phải là kết quả của việc con người suy luận. Sở dĩ chúng ta biết được là vì Thiên Chúa đã tỏ lộ. Thiên Chúa đã mạc khải, đã nói với con người bằng chính ngôn ngữ nhân loại. Ngôn ngữ đó không đủ khả năng diễn đạt tất cả những thực tại thuộc lãnh vực thần linh. Mầu nhiệm chỉ được mạc khải theo khả năng lĩnh hội của con người trong tương quan với thời gian và không gian.
Để mạc khải về Ngôi Hai, Thiên Chúa đã chuẩn bị hằng mấy mươi thế kỷ bằng việc kén chọn cho mình một dân tộc. Qua dân tộc đó, Ngài biểu dương sức mạnh và tình thương để họ thấy rằng trên trời dưới đất, chính Ngài là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Chính Chúa của Israel là Thiên Chúa duy nhất, mọi người phải tôn thờ và quy phục. Không có thần linh nào vượt trổi trên Ngài. Ngài là Đấng toàn năng cao cả, mọi giới răn và huấn lệnh của Ngài đem lại sự sống và sức mạnh cho những ai tuân giữ. Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài để hướng dẫn chăm sóc bênh vực và nhất là yêu thương họ. Hình ảnh áng mây cột lửa nhà tạm... nói lên sự hiện diện của Ngài. Ngài yêu thương họ bằng tình phụ tử chiến đấu bên cạnh họ, nuôi dưỡng họ bằng mật ngọt và bằng lúa thơm.
Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai có thể trông thấy Ngài trừ khi là Ngôi Con tự cung lòng Chúa Cha mà đến, và Người đã đến ở giữa chúng ta. Mầu nhiệm ngôi hiệp chứng tỏ con người có khả năng tuân nhận và thông hiệp với Thiên Chúa. Ngôi Hai làm người đê con người trở thành con Thiên Chúa. Chúa Cha và Chúa Con là một, Chúa Cha yêu mến Chúa Con và Chúa Con yêu mến Chúa Cha. Cả hai ở trong tình yêu và tình yêu ấy chính là Chúa Thánh Thần. Tình yêu liên kết ngôi Cha ngôi Con nên một thân thể. Đến giờ Chúa Giêsu phải về cùng Chúa Cha, nhưng Ngài không để các môn đệ mồ côi. Ngài sẽ xin Chúa Cha ban Thánh Thần cho các ông. Ta đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng yên ủi sẽ không đến cùng các con, song nếu Ta đi, thì Ta sẽ sai Người đến. Chúa Thánh Thần đã đến trong ngày lễ Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa. Các ông đã lấy cái chết để làm chứng cho niềm tin nơi Thiên Chúa, là Cha, Con và Thánh Thần. Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một phép rửa.
Công chúa Luise ngày kia bị một nữ tỳ trách móc. Không cầm nổi tức giận, công chúa bảo: Ngươi hãy nhớ, ta là con của đức vua. Nhưng người nữ tỳ trả lời: Còn tôi, tôi là con Thiên Chúa. Công chúa hiểu và về sau đã trở thành một vị nữ tu dòng Kín.
Qua bí tích Rửa Tội mọi người chúng ta đều được đóng ấn hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa đến cư ngụ trong linh hồn chúng ta. Hình anh đó phải lớn lên, lớn lên mãi, để mỗi ngày chúng ta càng trở nên giống Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự thánh thiện. Yêu Chúa là tuân giữ những điều Chúa dạy. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong người ấy.
26. Sống đời sống Thiên Chúa--Lm Hồng Phúc
Năm 1961, sau khi người cộng sản Liên-xô phóng được lên không trung phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì chính phủ Liên-xô đã ra một thông cáo với lời lẽ phạm thánh như thế này: Người Nga chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa, nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có! Cũng như người ta có phủ nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói rọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong Bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây 3 ngàn năm, có một dân Israen, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp loè sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác”.
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu ra đời, Ngài hé mở cho chúng ta một mầu nhiệm khác: Thiên Chúa là một nhưng lại có ba Ngôi. Ngài mạc khải cho chúng ta chính đời sống nội tâm của Thiên Chúa. Ngài nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha. Ngài và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Ngài với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha, Ngài nói lời của Chúa Cha cũng như Ngài hứa ban Thánh Thần. Ngài hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Ngài dạy ai muốn theo Ngài phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta không thể hiểu hết được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình ảnh Chúa là một mà ba, một Chúa nhưng có ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng có 3 giai đoạn: trẻ, trung niên và già – ba giai đoạn nhưng một cuộc đời; linh hồn có 3 cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận – ba cơ năng một linh hồn; nước là một, nhưng có 3 hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới 3 hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công giáo Ái-Nhĩ-Lan là một chiếc lá với 3 khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng có ba Ngôi.
Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời sống căn bản nội tâm của Thiên Chúa. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi. Tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba Ngôi vậy.
27. Một Chúa Ba Ngôi: Tình Yêu Hiệp Nhất--Lm Phanxicô Xaviê Lê Văn Nhạc
Tin Mừng Ga 16: 12-15 Chúa Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng lượng vật lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh sáng.
Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng:
"Tôi không chấp nhận điều gì tôi không hiểu, vấn đề "Ba Chúa trong một Chúa" hay bất cứ điều gì tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin".
Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: "Bạn có tin mặt trời không?" Kẻ hoài nghi trả lời: "Dĩ nhiên có chứ". Linh mục nói tiếp: "Được, ánh sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh sáng.
Chúa Ba Ngôi có phần tương tự như vậy: Mặt trời là Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng: Ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức nóng: Từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?" Người hoài nghi im lặng.
Anh chị em thân mến,
Khi chúng ta họp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi, trước tiên chúng ta chấp nhận rằng: đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được, giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi nhiều lần, nhất là trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta đón nhận, chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng lượng vật lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh sáng. Chúa Ba Ngôi soi sáng lòng trí con người. Mặt trời tỏa sức nóng. Chúa Ba Ngôi tuôn đổ sức nóng thiêng liêng:
Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Chúa Ba Ngôi không phải là bộ ba năng lượng không hồn, nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa là yêu thương: "Thiên Chúa là Tình yêu thương". Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Chúa Con yêu thương Chúa Cha và mối tương quan tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần. Tình yêu hoàn toàn hiến thân, cho đi, để làm giàu người khác và làm nên một với người khác. "Thiên Chúa là Tình yêu", Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng… Nhưng Ngài là ba, ba nhưng hoàn toàn hiệp nhất với nhau đến nỗi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Trong Ba Ngôi, mỗi ngôi hoàn toàn là tặng phẩm hiến dâng cho nhau, hoàn toàn tương quan với nhau, hoàn toàn yêu thương nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha, và sự trao đổi hoàn toàn giữa Cha và Con là Thánh Thần. Vì thế, Thiên Chúa là một nhưng lại là ba; là ba nhưng lại là một. Chúa Giêsu đã nói: "Mọi sự của Con là của Cha, và mọi sự của Cha là của Con" (Ga 17,10). "Cha Thầy và Thầy là một" (Ga 10,30). "Cha ở trong Con và Con ở trong Cha" (Ga 10,38). "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14,9).
Thưa anh chị em,
"Thiên Chúa là Tình Yêu" vì thế mọi hoạt động bên trong cũng như bên ngoài của Thiên Chúa đều là yêu thương: từ việc tạo dựng vũ trụ, vạn vật, loài người cho đến việc cứu chuộc loài người chúng ta, đều là hành động của tình yêu, một tình yêu không ngừng ban phát, chia sẻ, nhân lên. Thiên Chúa đã ban phát, đã chia sẻ tình yêu của Ngài cho loài người chúng ta và Ngài muốn cho tình yêu ấy tiếp tục tràn lan từ trong lòng chúng ta đến những con người khác: "Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài nên hoàn tất trong chúng ta" (1Ga 4,12). Bởi vậy, "ai không yêu thương anh em thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu thương" (1Ga 4,8). Còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài. Loài người chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi khi trở nên một cộng đoàn huynh đệ do tình yêu từ Thiên Chúa Ba Ngôi đến nối kết chúng ta lại với nhau trong Ngài.
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao xa, tuyệt vời, vì đó là chính mầu nhiệm đời sống tình yêu bên trong Thiên Chúa. Tuy nhiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm thiết thân nhất với chúng ta; vì đó là chính sự sống Thiên Chúa ban cho chúng ta. Thiên Chúa đã ban Con của Ngài để Con Ngài đưa chúng ta vào trong cung lòng Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là Tình yêu luôn nối kết Chúa Cha với Chúa Con, bây giờ lại đến nối kết chúng ta với Chúa Con và Chúa Cha. Vì vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là Thiên Chúa xa cách ngự nơi cao thẳm trên trời, nhưng Ngài đang ngự trong chúng ta và đang hoạt động trong chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ đến ở trong chúng ta: "Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy; Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng ta sẽ đến ở trong người ấy" (Ga 14,23). Chúng ta sẽ là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta sẽ là những Đền thờ sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như thế, thưa anh chị em, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mới thực sự là lẽ sống cho đời chúng ta và mỗi lần đọc lên "Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" chúng ta sẽ không còn đọc một cách vô ý thức nữa, nhưng với lòng cung kính mến yêu.
Vậy, giờ đây, chúng ta kính cẩn tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong Kinh Tin Kính.
28. Sống niềm tin vào Chúa Ba Ngôi--Lm Giuse Nguyễn Thành Long
Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa có thể nói được là "mầu nhiệm nguồn" của mọi mầu nhiệm. Và con người biết được mầu nhiệm Ba Ngôi là nhờ Chúa Giêsu mạc khải, chứ không phải do nổ lực suy lý của mình. Có điều Chúa Giêsu không bao giờ trình bày mầu nhiệm lớn lao này bằng khái niệm "kỷ thuật số": "3 ngôi" - ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai, ngôi thứ ba.... Ngài chỉ nói Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhưng cũng là mầu nhiệm mà chúng ta tuyên xưng mỗi ngày, qua Dấu Thánh Giá, kinh Sáng Danh, kinh Tin Kính.... Tuy nhiên, đó không phải là mầu nhiệm để tuyên xưng hay để hiểu mà thôi, nhưng còn là để sống. Nói cách khác, tuyên xưng niềm tin vào Mầu nhiệm Ba Ngôi thì phải sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Vậy sống niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi cụ thể là sống thế nào?
- Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa trước hết là sống tâm tình cảm mến tri ân:
Cảm mến tri ân vì Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm quá đổi lớn lao này. Cảm mến tri ân vì Ba Ngôi mà lại chỉ một Chúa. Đây là nguyên lý của sự hiệp nhất và bền vững của thế giới tạo thành. Có người thắc mắc tại sao không hiểu Ba Ngôi là ba Chúa cho đơn giản mà lại dạy Ba Ngôi một Chúa cho phức tạp, khó hiểu, mệt cái đầu? Thiết nghĩ nếu Ba Ngôi mà ba Chúa có lẽ số phận của con người và vũ trụ này sẽ bất hạnh biết chừng nào, bởi vì cứ tưởng tượng một nhà ba chủ, một nước ba vua, một giáo hội ba giáo hoàng,.. thì sẽ ra sao chúng ta biết rồi.
- Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa thứ đến là sống tinh thần hiệp nhất yêu thương:
Tự bản tính, Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu hiệp nhất Cha Con và Thánh thần. Chỉ trong tương quan tình yêu, chúng ta mới có thể hiểu phần nào Ba Ngôi mà lại một Chúa: "Ta và Cha Ta là một, Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta". Nói cách khác, chỉ có tình yêu mới khả dĩ cắt nghĩa được khía cạnh ngôi hiệp trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi thế mà những người đang yêu hiểu khái niệm "ngôi hiệp" một cách dễ dàng hơn, như lời họ bộc bạch trong một bài hát: "Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Tình yêu nối kết chúng ta, ta thương nhau quá nên hai hoá ra thành một".
Tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa luôn yêu thương hiệp nhất như là bản chất của các Ngài, thì ta cũng phải sống tinh thần hiệp nhất yêu thương như các Ngài vẫn sống. Mọi hình thức chia rẽ, hận thù, ly giáo, đoạn tuyệt... đều đi ngược với niềm tin mà ta tuyên xưng vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
- Sống niềm tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa sau nữa còn là sống tinh thần hy sinh phục vụ:
Ba Ngôi Thiên Chúa không giữ lại tình yêu cho riêng mình mà chia sẻ tình yêu ấy cho mọi thụ tạo, đặc biệt là con người qua tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Ba Ngôi Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người qua mầu nhiệm nhập thể để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người được sống và sống dồi dào. Do vậy không thể tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi mà lại sống ích kỷ hẹp hòi, chỉ biết đến mình, lo cho mình mà thôi.
Khi nghiên cứu vết máu trên tấm khăn liệm thành Turin, các nhà khoa học đã xác định được Chúa Giêsu thuộc nhóm máu B. Là con cái của Thiên Chúa Ba Ngôi và là anh em của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là ta cùng huyết thống với Ngài, cùng nhóm máu với Ngài, nhóm máu B. "B" là bác ái, "B" là bao dung, "B" cũng là bình an. Bác ái với mọi người nhất là những người nghèo khổ bất hạnh. Bao dung với những người lầm lỗi, những người đã xúc phạm đến ta hay làm ta tổn thương. Có như thế thì ta mới có được sự bình an của Chúa Ba Ngôi nơi tâm hồn mình được.
Người ta kể rằng Christophe Colombus, người đã khám phá ra châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách rất đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi, cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh". Trong cuộc khởi hành thứ 3 của ông năm 1498, Christophe Colombus đã thề hứa sẽ dâng Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá đầu tiên. Vì thế hòn đảo ông đặt chân đến đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta khi mừng lễ trọng kính Chúa Ba Ngôi, hay mỗi khi tuyên xưng mầu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cũng biết đưa mầu nhiệm ấy vào trong cuộc hằng ngày, bằng việc hết lòng yêu mến Chúa Ba Ngôi như Christophe Colombus đã từng yêu mến. Đồng thời biết hết tình hiệp nhất yêu thương và hết mình hy sinh phục vụ anh chị đồng loại ngay trong gia đình, gia tộc và trong cộng đoàn mà mình đang sống. Amen.
29. Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời chúng ta
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm lớn lao nhất của Ki tô giáo, vì mầu nhiệm này thuộc về đời sống thâm sâu của bản tính Thiên Chúa, mà trí khôn con người không thể nào hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta tin là vì chính Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta. Tuy nhiên câu hỏi chúng ta cùng chia sẻ hôm nay, đó là Ba Ngôi Thiên Chúa nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống của mỗi người chúng ta?
Ngôi thứ nhất là Cha của chúng ta.
Đúng thế, trong các tôn giáo không có một vị thần minh nào đã dám mạc khải mình như thế. Hẳn chúng ta phải hãnh diện vì có được một Thiên Chúa gần gũi chúng ta như một người cha. Và người cha ấy lại là một người cha toàn năng, như thánh vịnh 115 đã diễn tả: Cha chúng ta ở trên trời và Ngài làm được tất cả những gì Ngài muốn. Đồng thời, Ngài còn là một người cha đầy lòng nhân từ và hay thương xót. Ngài biết chúng ta thiếu thốn và luôn ra tay cứu giúp. Có lẽ nhiều người vẫn chưa cảm nghiệm được hết tình phụ tử này. Đa số trong chúng ta mới chỉ biết nhìn vào những hoàn cản phiến diện bên ngoài, để rồi nghi ngờ tình Chúa yêu thương: Tại sao chúng ta luôn ăn ngay ở lành mà vẫn cứ bị thiệt thòi và thất bại? Trong khi đó, kẻ ác thì trái lại, cuộc đời họ cứ lên hương như diều gặp gió? Người lành như thua chạy và chân lý như bị rút vào bóng tối?
Trước hết, chúng ta tin rằng Thiên Chúa là tình yêu. Ngài muốn biểu lộ tình yêu ấy cho mọi người, người lành cũng như kẻ dữ. Nhưng tới một lúc nào đó, sự công bằng của Ngài sẽ được thể hiện và Ngài sẽ xét xử tuỳ theo công việc chúng ta đã làm.
Đối với những thử thách đang gặp, phải chăng Chúa muốn chúng ta kiên nhẫn và vững lòng cậy trông, bởi vì kiên trì trong gian truân sẽ dẫn đưa chúng ta tời hạnh phúc. Hơn thế nữa, rất có thể Chúa đang thử thách để xem chúng ta có bằng lòng vâng phục hay không, bởi vì vâng lời thì trọng hơn của lễ. Đồng thời để xem đức tin của chúng ta đã thực sự trưởng thành hay chưa? Một đức tin trưởng thành sẽ không bao giờ nao múng trước mọi nghịch cảnh. Một người cha đích thực thì phải biết uốn nắn con cái, chứ không được muông chiều và làm cho chúng hư đi: Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi…Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước. Giữa những hoàn cảnh đen tối, ông không hề oán trách, nhưng một mức phó thác cho Chúa. Cách giải quyết của ông là ở mọi nơi và trong mọi lúc phải luôn tin tưởng và tình thương của Chúa. Sau khi đã được tôi luyện trong đau khổ như thế, chắc chắn chúng ta sẽ xứng đáng lãnh nhận phần thưởng Nước Trời mà Ngài đã hứa ban.
Tiếp đến, Ngôi thứ Hai là Đấng Cứu độ chúng ta.
Sau khi nguyên tổ phạm tội, thì tất cả chúng ta đều phải sống dưới ách nô lệ tội lỗi. Không ai có thể giải thoát chúng ta, bởi vì tội là sự vấp phạm đến Thiên Chúa, nên chỉ một mình Ngài mới có thể giải thoát chúng ta. Và Thiên Chúa đã thực hiện điều ấy. Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta chính là Ngôi Hai nhập thể, như lời thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã ban chính Con Một của mình cho nhân loại…Ngài đã chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta và tỏ cho chúng ta thấy một tình yêu tuyệt vời, đó là tình yêu của một người dám hy sinh mạng sống vình vì bạn hữu.
Sau cùng, Ngôi thứ ba là Đấng an ủi chúng ta.
Hẳn rằng trong cuộc sống, có những lúc chúng ta chán nản, không biết phải cầu xin thế nào cho đẹp lòng Chúa. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta hãy nhờ Chúa Thánh Thần mà cầu nguyện. Ngài nắm giữ một vai trò quan trọng và cần thiết trong tâm hồn chúng ta. Ngài sẽ thêm sức, soi sáng và chỉ cho chúng ta cách thức cầu nguyện. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết những nhu cầu cân thiết để kêu xin. Chính Ngài sẽ làm cho tâm hồn chúng ta được lắng đọng và bình an, để rồi chúng ta sẵn sàng vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Ngài thấu suốt mọi tâm tư nguyện vọng và Ngài luôn ra tay nâng đỡ, để rồi chúng ta tìm lại được niềm an ủi và khích lệ, vui mừng và hạnh phúc.
Bởi đó, hãy mở rộng cõi lòng để Chúa Thánh Thần ngự đến và biến đổi tâm hồn chúng ta thành đền thờ của Chúa Ba Ngôi và đừng bao giờ làm buồn lòng các Ngài.
30. Duy nhất--Lm Giuse Trần Việt Hùng
Sách Phương Ngôn còn gọi là Châm Ngôn (Proverb) nói về sự Khôn Ngoan. Người Do thái ví sự khôn ngoan như người phụ nữ cố gắng kiên trì dẵn dắt mọi người ra khỏi con đường gian tà và tội lỗi. Trong đoạn sách Châm Ngôn hôm nay, sự Khôn Ngoan được diễn tả như một nhân vật đã hiện diện với Thiên Chúa trước khi tạo dựng vũ trụ: "Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất." (Cn 8,22). Sự Khôn Ngoan ở cùng Thiên Chúa qua mọi công trình sáng tạo. Tiến trình lịch sử cứu độ được hé mở một cách rất tiệm tiến. Dân Dothái tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và độc thần. Mầu nhiệm về Ngôi Ba Thiên Chúa được mạc khải từ từ từng bước. Hình bóng Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần còn được ẩn giấu. Sự Khôn Ngoan được nhân cách hoá trong cách diễn tả: "Khi chưa có các vực thẳm, khi chưa có mạch nước tràn đầy, ta đã được sinh ra." (Cn 8,24).
Nguồn Kinh Thánh mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi. Thuở xưa, Thiên Chúa đã dùng nhiều cách phán dạy cha ông qua các ngôn sứ, nay Chúa dạy chúng ta qua chính Con Một của Người. Chúa Giêsu đã mạc khải về ngôi vị Thiên Chúa: "Tôi và Chúa Cha là một." (Ga 10,30). Chúa Giêsu là hiện thân và là Ngôi Lời của Thiên Chúa, khi chúng ta biết Chúa Giêsu, là biết Chúa Cha: "Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người." (Ga 14,7). Thánh Luca diễn tả hình ảnh Thiên Chúa trong ngôi vị khác nhau qua biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: "Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con." (Lc 3,22). Chính Chúa Giêsu đã dùng cách tuyên xưng Ba Ngôi Vị Thiên Chúa khi sai các Tông đồ ra rao giảng Tin Mừng: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần." (Mt 28,19).
Giáo Hội tin kính Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm vì sự giới hạn của ngôn ngữ, sự hiểu biết và trí khôn con người. Qua sự tìm hiểu và kinh nghiệm, chúng ta cũng chỉ học biết một chút về cơ cấu của các sự vật hiện hữu. Chúng ta bị giới hạn mọi thứ từ thời gian, không gian, kiến thức hẹp hòi và sự hiểu biết nông cạn. Tin vào lời Chúa. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Nếu chúng ta đòi hỏi hiểu thấu về Thiên Chúa, tôi sợ rằng đó chỉ có thể là chúa do con người nắn nên. Dựa vào lời mạc khải, Kinh Thánh không bao giờ dùng từ Chúa Ba Ngôi. Khoảng năm 115-120, thời Giáo Hội sơ khai, một triết gia tin đạo là Tertullian đã dùng từ ‘Chúa Ba Ngôi’ (Trinity) để cố gắng tìm cách đưa đức tin vào ngôn ngữ của loài người. Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa Cha là ‘Abba’, Thánh Tôma Tông đồ khi nhận diện ra Chúa đã thưa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi." Chúa Giêsu là Chúa và Ngài gọi Thiên Chúa là Cha.
Giáo Hội đã suy tư rất nhiều qua sự đóng góp của các Thánh Giáo phụ và các vị tiền bối như Origen, Tertullian, Arius, Thánh Basil, Thánh Gregory of Nyssa, Thánh Gregory of Nazienzen và Thánh Augustinô… Đã mất khoảng hơn 300 năm để suy tư tìm tòi, bàn cãi tranh luận và đôi khi là nguyên cớ gây tù đày, phân rẽ và hành khổ nhau. Cho tới khi các giáo phụ họp Công đồng Nicea 325 để định nghĩa về sự liên hệ giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha. Rồi chờ đợi cho tới hơn nửa thế kỷ sau, Công đồng Constantinople mới định nghĩa về Ngôi Thánh Thần. Thánh Augustinô tóm gọn ý nghĩa mầu nhiệm: Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Chúa Cha không phải là Chúa Con. Chúa Con không phải là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần không phải là Chúa Cha, chỉ duy nhất có một Thiên Chúa. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là ba ngôi riêng biệt nhưng kết hợp làm một Chúa. Thiên Chúa của tình yêu.
Chúng ta nhận biết được tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người qua sự hy sinh của Chúa Giêsu chết trên cây Thánh giá. Mỗi lần chúng ta ghi dấu Thánh giá trên thân mình, tuyên xưng rằng: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi kết hợp trong tình yêu; trao ban tình yêu và hiến mình vì tình yêu. Chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm tình yêu vì tình yêu như biển trời mênh mông có thể dung chứa mọi thứ. Chúng ta được ngụp lặn trong biển tình yêu của Thiên Chúa. Tình Chúa lan toả như khí trời. Tình Chúa bao la hơn biển cả. Mỗi tâm hồn đều được mời gọi để mở đón tình yêu, sống tình yêu và trao ban tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không bao giờ vơi cạn.
Chúa Giêsu trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ: Người thổi hơi vào các ông và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là nguồn mạch sự sống. Ngài tiếp tục hoạt động canh tân Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập. Qua mọi thời, nguồn ơn Chúa Thánh Thần luôn tràn đổ trong tâm hồn các tín hữu. Luôn có những nhân chứng đích thực giữa dòng đời để chấn hưng, cải đổi và thắp niềm hy vọng cho mọi người trên đường lữ hành. Chúng ta đều là con cái Thiên Chúa vì được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Thánh Phaolô dạy: "Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa." (Rm 8,14).
Qua Bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ vụ làm nhân chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Chúng ta trở nên con cái và được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúng ta là những người được thừa kế ân sủng cứu độ: "Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người." (Rm 8,17). Mỗi người đều phải chu toàn sứ vụ Kitô hữu của mình. Chúng ta không thể sống dựa, ăn nhờ, ở bám hay tùy thuộc vào người khác. Quan sát rừng cây, chúng ta thấy có cả ngàn ngàn các loại cây chen nhau mọc trong rừng. Rừng xanh được tạo nên bởi cả rừng cây muôn loại và muôn màu sắc. Các cây cùng chen nhau mọc vươn lên trong khoảng không, nhưng mỗi cây đều phải bám rễ sâu để giữ thân mình. Mỗi cây có sự sống và có các kết cấu riêng biệt. Mỗi cây tự mình hút chất bổ để nuôi dưỡng thân mình qua những cách thế được tạo hóa phú bẩm. Cây nào không bám rễ sâu sẽ dễ bị tróc gốc khi gặp mưa to gió lớn. Chúng ta hãy bám rễ niềm tin sự sống vào Chúa Kitô Phục Sinh.
Đời sống người Kitô hữu phải gắn bó với tình yêu Chúa Kitô Thập Giá. Tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta đặt niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu của ơn cứu độ. Hãy trông cậy vào nguồn ân sủng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta sẽ nhận biết ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống này. Tất cả quy về sự thật là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu chết và sống lại để chuộc tội cho nhân loại. Thánh Gioan viết: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến." (Ga 16,13).
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mọi nơi và mọi lúc. Mỗi khi làm dấu thánh giá trên thân xác, xin cho chúng con ý thức và nhận biết tình yêu tuyệt vời Thiên Chúa đã dành cho loài người chúng con. Chúng con tôn thờ, ca ngợi và cảm tạ hồng ân Chúa đến muôn muôn ngàn đời.
31. Thiên đàng dương thế - Lm Minh Vận, CRM.
Thánh Phanxicô Salesiô có một người bạn rất thân là Đức Cha Camus. Đức Cha Camus đến nghỉ hè với Thánh Nhân một thời gian khá lâu. Lúc về nhà vị Giám Mục đã phát biểu: "Trước đây, tôi nghe Đức Cha Phanxicô Salesiô hằng luôn sống trước tôn nhan Chúa, như thể Chúa luôn luôn hiện diện bên ngài, nhưng tôi vẫn chưa tin. tiện dịp, tôi xin đến nghỉ hè tại nhà ngài, để chính mình có dịp kiểm chứng. Nhờ được ở một phòng kế cận phòng ngài, ngày đêm tôi quan sát mọi thái độ, mọi cử chỉ của ngài qua một khe hở, lúc làm việc cũng như lúc ngủ nghỉ, lúc viết lách cũng như lúc cầu nguyện... Nay tôi xin xác nhận rằng: Ngài hằng luôn sống trước tôn nhan Chúa. Ngài ở một mình, nhưng có Chúa hiện diện bên ngài luôn".
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội, sốt sắng dâng Thánh Lễ kính thờ Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao trọng nhất trong Kitô Giáo. Nhờ mầu nhiệm cực trọng này, Chúa ban cho chúng ta một ơn rất cao trọng là cho chúng ta được tham dự vào sự sống thần linh và được tận hưởng tình yêu thâm sâu của chính Chúa Ba Ngôi, khi chúng ta được diễm phúc trở nên con Chúa qua việc lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy. Từ ngày đó, hồn xác chúng ta trở thành Đền Thờ sống động nơi Chúa Ba Ngôi ẩn ngự; hay nói cách khác, chúng ta là người chiếm hữu được Thiên Chúa, Đấng là nguồn mọi an vui hạnh phúc, là tất cả mọi sự, là gia nghiệp đời đời, là Thiên Đàng của chúng ta ngay trên trần gian này.
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu và xin Chúa cho chúng ta cảm nghiệm và thưởng nếm được ơn rất rọng đại này.
I. XÁC TÍN NIỀM TIN CHÚA HIỆN DIỆN
Thánh Gioan Tông Đồ đã viết: "Thiên Chúa là Tình Yêu" (I Jn 4:16). Mà bản tính tình yêu là thông ban. Vậy Ba Ngôi Thiên Chúa tự thông ban chính mình cho nhau theo bản tính, trong đời sống tự tại, thâm sâu, kỳ diệu và hoàn toàn được mãn nguyện từ đời đời. Nhưng chính nhờ tình yêu sung mãn kỳ diệu đó, Thiên Chúa cũng muốn thông ban cho các loài thụ sinh, bằng cách cho chúng được tham dự sự hiện hữu của Ngài; đặc biệt Chúa tạo dựng loài người chúng ta giống hình ảnh Ngài, như một thụ sinh siêu việt được Ngài rất mực yêu thương. Như một người Cha đầy tình phụ tử, Chúa luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, trong lòng chúng ta, để săn sóc hướng dẫn, chỉ dạy chúng ta trong mọi chi tiết dù rất nhỏ mọn, suốt cả cuộc sống, bằng ơn quan phòng khôn ngoan đầy yêu thương của Ngài.
1. Hiện Diện Bằng Quyền Năng: Là một thụ tạo đã được tác thành, chúng ta cũng như mọi thụ tạo khác, đều được Chúa hiển ngự và thấu nhập trong trót bản thân và cả cuộc sống, bằng quyền quan phòng toàn năng của Đấng Tạo Hóa, hằng luôn săn sóc, nuôi dưỡng và bảo tồn.
2. Hiện Diện Bằng Ơn Thánh: Nhờ Nhiệm Tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận, trở nên con Chúa, chúng ta được diễm phúc hơn các loài thụ tạo khác, là được Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, như lời Chúa Kitô đã tuyên bố với các Môn Đệ: "Ai yêu mến và tuân giữ giáo huấn của Thầy, người ấy sẽ được Chúa Cha yêu thương; lại được Chúa Cha cùng với Thầy và Chúa Thánh Linh hiển ngự trong lòng họ" (xem Jn 14:23). Sự hiện diện thần linh này sẽ tồn tại luôn mãi trong tâm hồn, bao lâu chúng ta còn sống trong sủng trạng, với tâm hồn trong sạch, có ơn nghĩa thánh không vướng mắc trọng tội.
3. Hiện Diện Thực Tại Sống Động: Đặc biệt hơn nữa, mỗi khi chúng ta có đủ điều kiện đón rước Chúa Giêsu Thánh Thể ngự vào tâm hồn, chúng ta được diễm phúc hơn các Thần Thánh trên trời, là được Chúa Kitô ngự vào tâm hồn chúng ta, như xưa Người ngự trong cung lòng trong sạch Đức Trinh Nữ Maria, thời gian chín tháng Me cưu mang Chúa. Lúc đó, Chúa hiện diện trong chúng ta một cách thực tại sống động, bằng cả thân xác, linh hồn và thiên tính của Ngôi Hai Thiên Chúa.
II. CHÚA BA NGÔI NGỰ TRONG TÂM HỒN
Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta, bao lâu chúng ta sống trong sủng trạng, có ơn nghĩa thánh như những con ngoan thảo hằng làm đẹp lòng Chúa. Tại nơi đây cũng như trên nơi vĩnh phúc, đời sống thần linh kỳ diệu của Chúa Ba Ngôi hằng tiếp diễn một cách sống động và thâm sâu nơi chính bản thể nội tại của Người.
Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương thông ban chính mình cho nhau một cách tự tại và hoàn toàn sung mãn: Chúa Cha được hoàn toàn thỏa lòng nơi chính bản thể nội tại mình, nhiệm xuất Ngôi Con; Chúa Cha và Chúa Con yêu mến nhau nhiệm sinh Ngôi Ba là Thánh Linh Tình Ái.
Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn chúng ta và hằng thông ban cho chúng ta sự sống thần linh của Người bằng tất cả tình yêu thương nồng thắm.
1. Như Cha Nhân Từ: Vì công nghiệp Chúa Cứu Thế, chúng ta từ thân phận thụ tạo nô lệ, cũng như tội nhân và kẻ phản bội, được trở nên con Chúa, được phúc tôn xưng Chúa là Cha, khi chúng ta kêu cầu: "Lạy Cha chúng con ngự trên trời!" (Mt 6:9) Quả thật, Chúa là Cha hằng yêu thương săn sóc chúng ta bằng tất cả tấm lòng nhân từ âu yếm, nồng thắm trong cả cuộc sống dù những điều cực nhỏ mọn (xem Mt 5:45). Chúa Kitô đã dùng nhiều dụ ngôn để mạc khải cho chúng ta chân lý Chúa là Cha chúng ta. Chúa muốn chúng ta sống với Chúa bằng tấm lòng con ngoan thảo, luôn làm hài lòng Cha, như chính Chúa Giêsu đã làm gương, để chúng ta được Chúa Cha mãn nguyện tuyên phán với chúng ta: "Con là con Cha yêu dấu, con hằng làm vui thỏa lòng Cha" (Mt 3:17).
2. Như Bạn Tâm Phúc: Vì yêu thương, Chúa còn hạ xuống ngang hàng với chúng ta, khi gọi chúng ta là Bạn Tâm Phúc: "Thầy không còn gọi chúng con là tôi tớ nữa, nhưng Thầy gọi chúng con là Bạn Tâm Phúc, vì tất cả những điều Thầy đã nghe biết nơi Cha, thì Thầy đều đã tỏ cho chúng con biết" (Jn 15:15). Chúa muốn chúng ta sống với Chúa bằng tâm tình người bạn tri âm, tri kỷ, người tình, người yêu của Chúa.
3. Như Đấng Thánh Hóa: Theo lời Thánh Phaolô, chúng ta là Đền Thờ Chúa Thánh Linh (I Cor 3:16). Thánh Linh là Đấng đã được Chúa Kitô hứa ban, Người hiển ngự trong tâm hồn chúng ta với sứ mạng là Đấng Thánh Hóa, Đấng An Ủi, Thầy Dạy Chân Lý, Đấng Soi Dẫn các tâm hồn trên đường thánh thiện. Chính Chúa Kitô đã phán dạy: "Thánh Linh là Đấng Chúa Cha phái đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy dỗ các con mọi điều và nhắc lại cho các con mọi sự Thầy đã phán dạy các con trước" (Jn 14:26). Để đạt tới Ơn Cứu Độ và Đích Thánh Thiện, Chúa muốn chúng ta chân thành thú nhận sự bất lực của mình, chúng ta không thể làm nổi việc gì, nếu không có ơn Chúa trợ giúp (Jn 15:15), nhưng nhờ Đấng Thánh Hóa, chúng ta có thể quả quyết đuợc như Thánh Phaolô: "Nhờ Đấng ban sức mạng cho tôi, tôi có thể làm được mọi sự" (Phil 4:13).
III. NGHĨA VỤ PHẢI CÓ ĐỐI VỚI CHÚA BA NGÔI
Đức Tin dạy cho biết: Nếu chúng ta sống trong sủng trạng, có nghĩa với Chúa, chúng ta được diễm phúc có Chúa Ba Ngôi hiển ngự trong tâm hồn. Nhờ đặc ân cao trọng này, chúng ta được trở nên Đền Thờ Sống Động của Chúa, được mệnh danh là người mang Thiên Chúa trong lòng, người chiếm hữu được Thiên Chúa làm của riêng mình, Chúa là Đấng gồm tóm mọi Chân, Thiện, Mỹ, là nguồn hạnh phúc của chúng ta.
Vậy để đền đáp một trong muôn phần những hồng ân cao cả Chúa ban, chúng ta cần chu toàn ba nghĩa vụ khẩn thiết sau đây:
1. Tôn Thờ: Cần phải dâng lên Chúa lòng tôn thờ xứng đáng, vì không những chúng ta là một thụ tạo của Đấng Tạo Hóa, một thần dân của Vua cao cả, một người con trong Gia Đình Thiên Chúa, chúng ta còn là những linh hồn được tuyển chọn, hiến dâng đời mình để phục vụ cho vinh danh Chúa, với nghĩa vụ là Người Tôn Thờ Thiên Chúa.
Để cho toàn nghĩa vụ khẩn thiết này, chúng ta hãy hiến tế bản thân và cuộc đời chúng ta, hiệp với Lễ Hiến Tế cực trọng của Chúa Cứu Thế, hằng hiến dâng nơi các bàn thờ đêm ngày trên khắp thế giới, để tôn thờ, ngợi khen, chúng tụng Chúa.
2. Yêu Mến: Là con cái, chúng ta hãy hết lòng yêu mến Chúa là Cha, như những người con ngoan hiền thảo hiếu, hằng tìm mọi cách làm vui lòng Cha. Hãy qui hướng tất cả mọi tư tưởng, lời nói, việc làm vì Chúa và nỗ lực chu toàn mọi bổn phận to nhỏ hằng ngày vì lòng yêu mến Người. Gắng biến đổi mọi ánh nhìn, mọi hơi thở, mọi nhịp rung động của trái tim, trở thành những tác động yêu đương dâng lên Chúa, với chủ đích làm vinh danh Chúa, để Chúa được tôn vinh, yêu mến và bản thân chúng ta được thánh hóa.
3. Tri Ân: Là người thụ ân, chúng ta hãy không ngừng dâng lên niềm tri ân lên Chúa bằng tất cả tấm lòng trìu mến, vì biết bao hồng ân Chúa ban: Ơn được tạo dựng làm người, được cứu chuộc khỏi án phạt đời đời, được phục hồi ơn làm con Chúa. Ngoài ra, còn biết bao ơn phúc khác hằng bao phủ hồn xác chúng ta trong trót cuộc sống, trong mọi lãnh vực tự nhiên cũng như siêu nhiên; nhất là ơn được Chúa Ba Ngôi hằng hiển ngự trong tâm hồn chúng ta như Thiên Đàng của Người nơi dương thế này. Chúng ta hãy sống niềm tri ân bằng cách giữ tâm hồn trong sạch, luôn làm hài lòng Chúa, biến cuộc đời chúng ta thành bài ca tri ân không ngừng dâng lên Chúa.
Kết Luận
Làm thế nào chúng ta có thể chu toàn được ba nghĩa vụ khẩn thiết trên đây?
* Là Kitô Hữu, nhờ lãnh nhận Nhiệm Tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái Chúa, là người thuộc về Chúa Kitô, người chiếm hữu được Thiên Chúa, người được mang Thiên Chúa trong tâm hồn; chúng ta hãy ý thức giá trị của ơn cao trọng này và cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu diễm phúc đó.
* Hơn nữa, chúng ta còn là những người được tuyển chọn làm tông đồ vinh danh Chúa, qua các tác vụ khác nhau trong mỗi đoàn thể chúng ta tham dự, như những thừa tác viên chinh phục tha nhân về với Chúa; chúng ta hãy sống như những chứng nhân đích thực của Chúa; để chớ gì khi chúng ta giao tiếp với những ai, họ sẽ nhận ra Chúa hiện diện nơi chúng ta, như họ đã từng thấy Chúa nơi các Thánh.
Xin Mẹ Maria ban ơn trợ giúp, giữ gìn chúng ta luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, để chúng ta có thể chu toàn được những nghĩa vụ phải có đối với Chúa, như những con ngoan hiền thảo hiếu được Chúa hài lòng.
32. Đời sống yêu thương nơi Ba Ngôi Thiên Chúa--Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin Mừng Ga 16: 12-15 Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta biết Tình yêu ở nơi Ngài và chính Ngài là Tình yêu.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là nền tảng của niềm tin Kitô giáo. Đây là mầu nhiệm không thể hiểu thấu. Chúng ta cần phải sống trong sự thân tình với chính Thiên Chúa mới có thể hiểu được. Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta biết Tình yêu ở nơi Ngài và chính Ngài là Tình yêu; Tình yêu giải thích tất cả công trình của Ngài. Tình yêu tuôn trào lên muôn vật, cách đặc biệt nơi con người, thụ tạo cao quí của Thiên Chúa.
Đồng thời, Thiên Chúa cũng đòi hỏi con người một sự đáp trả duy nhất, đáp trả bằng tình yêu. Một tình yêu khởi đi từ Chúa Cha, qua và trong Chúa Con, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần. Đời sống của người Kitô hữu đích thực là đời sống của tình yêu, không thể định nghĩa khác được.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA: Ga 16,12-15
Chính Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta hiểu mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, dẫn chúng ta đi vào trong Ngài, và giúp chúng ta sống mật thiết với Ngài.
a. Kết thúc thời kỳ trần thế, Đức Kitô không phải không buồn khi nhận thấy các môn đệ còn lâu mới hiểu những giáo huấn của Người. Tự các ông cũng không khám phá nổi mầu nhiệm cuộc đời của Người.
b. Đức Kitô đã gửi Thánh Thần đến. Nhờ Ngài, các môn đệ tiến dần vào trong mầu nhiệm tình yêu. Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn các ông đến chân lý vẹn toàn. Từ đó, các ông khám phá và nhận ra chân lý sẽ là con đường sống, là qui tắc nội tâm cho cuộc đời. Chúa Thánh Thần không mang lại một mạc khải mới, nhưng chỉ liên tục giải thích mạc khải của Đức Kitô để không ngừng soi chiếu các biến cố của thời đại. Ngài đón nhận tất cả từ Đức Kitô, cũng như Đức Kitô đã đón nhận mọi sự từ Chúa Cha.
c. Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy… Chúa Thánh Thần sẽ lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. Lời khẳng định này của Đức Giêsu Kitô giúp chúng ta hiểu phần nào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nơi Ba Ngôi không có sự khác biệt mà luôn là duy nhất và hiệp nhất. Chúa Giêsu đón nhận từ Chúa Cha, không làm gì khác với ý định của Chúa Cha. Chúa Thánh Thần cũng không tự mình mà nói nhưng nghe gì thì nói vậy. Ngài chỉ soi sáng để con người hiểu những gì Chúa Giêsu đã mạc khải. Ba Ngôi hiệp nhất và là một từ trong ý định đến hành động.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Mầu nhiệm Ba Ngôi, mầu nhiệm hiệp nhất: Trong mạc khải của Chúa Giêsu, khi nói về Chúa Cha cũng như Chúa Thánh Thần, Người đề cập đến như những ngôi vị tách biệt nhau. Trong sự tách biệt rạch ròi giữa các ngôi vị, Chúa Giêsu lại cho thấy có sự hiệp nhất nên một giữa các Ngôi với nhau. Chúa Thánh Thần lãnh nhận từ nơi Chúa Giêsu mà loan truyền cho các môn đệ, và những gì Chúa Cha có đều là của Chúa Giêsu, như thế, giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không có sự khác biệt nhau về tư tưởng, đường lối và hành động. Mỗi Ngôi đều có cái mà hai Ngôi kia có, và không chiếm hữu điều gì cho riêng mình. Mạc khải của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy: Ba Ngôi vừa khác biệt, vừa đồng nhất; vừa tách rời, vừa hiệp nhất. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm cao siêu vượt quá xa tầm trí hiểu của con người, không thể lý giải được bằng lý trí, nhưng xem ra lại dễ dàng noi gương sự hiệp nhất của Ba Ngôi để xây dựng và phát triển gia đình cũng như cộng đoàn.
Nhìn vào sự hiệp nhất Ba Ngôi, mỗi người chúng ta tự hỏi xem ngày nay chúng ta đã và đang sống và xây dựng sự hiệp nhất trong gia đình cũng như trong Giáo hội như thế nào? Vợ chồng, cha mẹ và con cái có sự thống nhất thuận thảo trong việc xây dựng hạnh phúc gia đình hay không? Nếu chỉ nghĩ đến cái tôi thì không bao giờ có sự hiệp nhất. Trong Giáo hội cũng thế, là thành viên của Giáo hội mỗi Kitô hữu đã sống và đi theo những giáo huấn của Giáo hội ra sao? Sự hiệp nhất giữa giáo dân và giáo sĩ để xây dựng giáo xứ, Giáo hội và loan báo Tin mừng như thế nào? Không hiếm những chuyện "trống đánh xuôi kèn thổi ngược" giữa người trên và người dưới; giữa giáo sĩ và giáo dân. Những điều đó không thể nào tạo nên sự hiệp nhất và phát triển cũng như không thể nào làm cho người ngoài hiểu được Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
2. Sống Mầu nhiệm Ba Ngôi trong Giáo hội: Mầu nhiệm Ba Ngôi là nền tảng căn bản của niềm tin Kitô giáo. Chính vì thế, đời sống đức tin của mỗi Kitô hữu trong Giáo hội phải dựa trên nền tảng của Ba Ngôi. Khi mạc khải về Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Giêsu cho thấy có sự kính trọng tuyệt đối và không có sự lệ thuộc hay thống trị lẫn nhau. Đàng khác, có sự thông hiệp hoàn toàn của Ba Ngôi với nhau trong mối dây hiệp nhất. Các Ngài làm việc gì cũng có nhau, luôn cùng nhau hành động. Giữa các Ngài luôn luôn là sự thống nhất tuyệt đối. Giáo hội do Chúa Giêsu thiết lập chính là phản ảnh rõ nét về đời sống nội tại của Ba Ngôi Thiên Chúa. Mỗi thành phần trong Giáo hội phải liên đới thống nhất với nhau, cùng nhau gánh vác trách nhiệm. Giữa các bậc sống cần phải có sự tôn trọng nhau, nhất là giữa giáo sĩ với tu sĩ và giáo dân. Ngày nay, xã hội phát triển, sự tự do dân chủ cũng ngày càng phát triển hơn, thiết tưởng trong đời sống Giáo hội cũng cần phải chú trọng thích đáng đến các vấn đề này. Vai trò của người giáo dân, người nữ tu xem ra bị coi nhẹ. Đây đó vẫn tồn tại việc xem giáo dân như những Kitô hữu hạng hai, còn giáo sĩ mới là nhất, mới cần được tôn trọng. Ai cũng mơ ước sự hiệp thông hoàn toàn với nhau trong Giáo hội, sự hiệp nhất trọn vẹn, hoàn toàn đơn sơ và chân thành với nhau. Đấy cũng chính là lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu hằng cầu cùng Chúa Cha cho Giáo hội của Người: Xin cho chúng nên một như Chúng Ta là một.
Tin vào một Thiên Chúa Duy Nhất có Ba Ngôi, thì phải sống và làm thế nào để thể hiện niềm tin ấy. Có một phương thế hay nhất là xây dựng sự hiệp nhất trong chính Giáo hội mình. Tôi đã sống và xây dựng sự hiệp nhất giữa tôi và anh chị em trong Giáo hội theo gương Ba Ngôi như thế nào?
3. Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm của tình yêu: Tìm hiểu tất cả những giáo huấn của Chúa Giêsu về Mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta dễ dàng nhận thấy một điều cơ bản, Chúa Giêsu không phải là một giáo sư triết học hay tôn giáo học giảng những điều cao siêu mang tính lý thuyết, hàn lâm về Thiên Chúa Ba Ngôi. Người cũng không giảng bài về Ba Ngôi học theo kiểu chúng ta học thần học hôm nay, và trong chính ngôn từ Người dùng cũng chẳng có từ "Ba Ngôi". Người chỉ đơn giản nói lên một sự thật mà Người đang sống đó là mối tương quan giữa Người với Thiên Chúa: Người là Con của Chúa Cha, Người đón nhận mọi sự từ Chúa Cha và làm tất cả theo đúng ý Chúa Cha không làm gì khác. Chúa Thánh Thần, cũng thế, lãnh nhận từ nơi Người để rồi nói với mọi người. Chúa Giêsu nói về những gì Người có và đang sống với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Giáo huấn của Người cho thấy Thiên Chúa không phải là một ý niệm trừu tượng của triết học khô cứng, im lặng thậm chí cô đơn, nhưng là một thực tại tình yêu sống động. Nơi Thiên Chúa Ba Ngôi có một nhịp đập duy nhất của ba trái tim yêu thương. Chính tình yêu ấy là khởi sự của sáng tạo và cứu độ.
Chúa Giêsu yêu và nói về tình yêu của Người. Cho nên, chỉ có thể hiểu Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong nhãn giới của tình yêu mà thôi. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa Ba Ngôi. Ai yêu thương thì quả thật người ấy hiểu và có Thiên Chúa Ba Ngôi nơi mình.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta tình yêu thương hiệp nhất nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong tâm tình cảm phục, chúng ta cùng dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta.
1. Giáo hội lãnh nhận sứ mạng nối kết mọi người trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa qua việc loan báo Tin mừng và xây dựng sự hiệp nhất trong Giáo hội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hội luôn hoạt động trong sự cộng tác, tôn trọng lẫn nhau và hiệp nhất giữa mọi thành viên với nhau.
2. Chính vì sự chia rẽ, hận thù giữa con người với nhau mà ngày nay trong xã hội có biết bao người đang lâm vào cảnh lầm than bần cùng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia, các tổ chức thiện nguyện biết nỗ lực cộng tác và cùng nhau xây dựng hòa bình cho xã hội hôm nay.
3. Nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta được vào sống trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa tràn đầy yêu thương. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn phụng vụ nơi đây luôn biết sống chan hòa, yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, trong Chúa chỉ có tình yêu ngự trị. Xin cho mỗi người, mỗi gia đình và toàn thể cộng đoàn chúng con luôn sống dồi dào tình yêu Chúa để mỗi người biết tôn trọng, sống cho nhau và vì nhau, nhờ đó, gia đình và cộng đoàn chúng con ngày càng phát triển hơn. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
33. Tình yêu kỳ diệu--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 22-5-2013, Nick Vujicic, chàng trai không chân không tay tới Việt Nam. Từ ngày 22 đến 26 tháng 5, Nick sẽ có 8 buổi diễn thuyết (45 phút/buổi) với các đối tượng khác nhau. Anh sẽ trình bày trước 25.000 sinh viên tại sân vận động Mỹ Đình (Hà Nội) từ 18g30 – 21g30 và ngày 23-5 trước 15.000 người tại sân vận động Thống Nhất, Sài Gòn từ 18g – 21g ngày 25-5. Anh đến Việt Nam để truyền cảm hứng cho các bạn trẻ về niềm tin tình yêu và nghị lực.
Nick Vujicic sinh ngày 4-12-1982 tại Melbourne, Australia và hiện đang sống tại Mỹ. Không may mắn như những đứa trẻ khác, Nick đã ra đời với cơ thể không lành lặn, thiếu chân, thiếu tay. Bố mẹ Nick gần như ngất đi sau khi nhìn thấy đứa con bé bỏng đáng thương của mình chào đời. Thế nhưng, họ luôn cố gắng giúp con trai có một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác.
Bằng nghị lực phi thường cùng phương châm sống: "Tật nguyền lớn nhất trong đời là khi mất hy vọng. Hãy tin tôi đi, mất hy vọng còn tồi tệ hơn nhiều so với chỉ mất chân tay", Nick Vujicic đã vươn lên để trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng thế giới. Anh là người "kỳ diệu nhất hành tinh". Qua những bài diễn thuyết, Nick Vujicic luôn nói về niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa Tình Yêu đã cho anh nghị lực vươn lên để trở thành người có ích, sống vui tươi hạnh phúc.
Có người nông dân dạy con trai mới lớn: muốn cho mướp ra nhiều trái phải bấm ngọn.
Cậu bé hỏi: tại sao?
Người cha trả lời: vì nó tức nên nó đâm trái.
Có thể cậu bé không bằng lòng với câu trả lời của cha, nhưng sau này khi vào đại học nông nghiệp, cậu sẽ biết rõ lý do.
Một em bé đứng trước thi hài ông nội, hỏi mẹ: Mẹ ơi sao ông nội chết vậy hả mẹ?
Mẹ đáp: vì ông nội già rồi.
Bé lại hỏi: thế bà nội già rồi sao không chết? Chú Tư trẻ vậy sao lại chết.
Người mẹ vui mừng vì thấy con thông minh lý sự nhưng lúng túng không tìm ra câu trả lời thoả đáng. Khi lớn lên bé sẽ hiểu lý do.
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau: Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, biết mây mấy tầng. Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
Có lẽ trong tất cả mọi điều khó hiểu của cuộc sống con người thì tình yêu là khó hiểu nhất. Chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm.
Thế nhưng, mầu nhiệm tình yêu có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là cao cả nhất, khó hiểu nhất. Như sách giáo lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa "cho chúng ta".
Trước mầu nhiệm Ba Ngôi, một mầu nhiệm cao sâu, trí khôn nhỏ bé của con người không thể hiễu nổi.Tại sao Một Chúa mà Ba Ngôi? 1 là 3 và 3 là 1?.
Vậy phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào?
Ba Ngôi là một mầu nhiệm thuộc đời sống nội tại của Thiên Chúa, vượt quá mọi khả năng hiểu biết và suy luận của trí khôn hữu hạn con người. Qua bao thời đại, trí khôn con người dựa vào mạc khải để tìm hiểu huyền nhiệm sâu thẳm này.
Thánh kinh có bàn nhiều về mầu nhiệm Ba Ngôi.
- Mạc khải Cựu ước chủ yếu là mầu nhiệm Thiên Chúa duy nhất nhưng cũng có mầm móng về mầu nhiệm Ba Ngôi. Niềm tin độc thần là tín điều lớn nhất của Cựu ước (Đnl 6, 4-5). Điều này cần thiết cho bối cảnh đa thần giáo ở Trung đông thời bấy giờ.
- Mạc khải Tân ước dạy rõ ràng hơn về Thiên Chúa Ba Ngôi. Sứ thần Gabriel đến báo tin cho Đức Maria: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ che chở bà, vì thế Hài Nhi bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa". Những lời đó cho biết: Đấng Tối Cao là Chúa Cha cùng với Chúa Thánh Thần sẽ lo cho Hài Nhi sắp sinh ra là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Hình ảnh đặc trưng nhất là khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan, chim bồ câu ngự xuống đậu trên Ngài (Ga1, 32-34). Tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là con Ta yêu dấu (Mt 1, 11). Tiếng nói, chim câu, Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên chân dung sống động về Ba Ngôi. Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu hứa với các tông đồ: "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bàu Chữa khác, đó là Thần Khí sự thật..." Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban Đấng Bàu Chữa là Thần Khí sự thật, nghĩa là Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Trong phúc âm Matthêu có câu nói nổi tiếng về Ba Ngôi "Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28, 19). Thánh Phaolô luôn cầu chúc: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em.
Chỉ có một Thiên Chúa nhưng Thiên Chúa có Ba Ngôi và là Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần. Mỗi ngôi vị đều là Thiên Chúa, dù vậy vẫn chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Mỗi ngôi vị đều bằng nhau về thần tính và ưu phẩm, nhưng không có ba Thiên Chúa ngang nhau mà chỉ có một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị đều có trọn vẹn sự sống thần linh trong mình dù chỉ có một sự sống thần linh duy nhất. Nói theo từ ngữ của Công đồng Vatican II: Sáng kiến cứu độ là của Chúa Cha. Chúa Cha chia sẻ và bàn bạc sáng kiến ấy với Chúa Con và Chúa Thánh Thần.Việc thực hiện sáng kiến ấy giống như một bản trường ca gồm hai phần chính. Đức Kitô thực hiện phần đầu. Ngài nhập thể, mạc khải về Chúa Cha dâng lên Cha hy lễ thập giá để cứu độ. Phần hai dựa vào công trình ấy mà nâng con người lên, đưa con người về cùng Cha, đó là phần vụ của Chúa Thánh Thần. Thánh Ignatio Loyola trong một lần cầu nguyện, bổng nhiên nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm duy nhất.
Thiên Chúa duy nhất nhưng không phải là Thiên Chúa đơn độc mà là cộng đồng Ba Ngôi thương yêu nhau hướng về nhau. Ba Ngôi là một gia đình. Giáo hội là một gia đình của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu là Trưởng Tử, mọi người là anh chị em của nhau. Đạo lý Đông phương vốn trọng chữ trung, chữ hiếu và chữ nhân, rất gần gũi với tinh thần Kitô giáo. Trung với Chúa, hiếu thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ, nhân ái với mọi người.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và duy nhất là một mầu nhiệm vĩ đại thâm sâu mà trí tuệ con người không thể nào hiểu hết, chỉ có thể đón nhận bằng đức tin. Thực tại Ba ngôi không là một điều nghịch lý nhưng là nghịch thường và siêu lý. Mầu nhiệm Ba Ngôi là ánh sáng chói loà rực rỡ, ánh sáng ban sự sống cho những ai khiêm nhường đón nhận và sẽ là bóng tối dày đặc đầy mâu thuẫn đối với những kẻ kiêu căng muốn dùng lý trí làm thước đo siêu việt.
Nhìn lên cung thánh, ta thấy Thánh Giá, Nhà Tạm, Bàn Thờ. Đó là trung tâm niềm tin của người Kitô hữu.Trên Thánh Giá, Đức Kitô đã tự hiến làm hy lễ dâng lên Chúa Cha.Ngài tự nguyện chịu đau khổ, chịu chết trong tinh thần vâng phục và yêu mến đối với Cha, để thiết lập giao ước mới với Giáo hội trong máu của Ngài. Ngài đã phục sinh về với Cha nhưng vẫn luôn ở lại với Giáo hội qua Bí Tích Thánh Thể mà Nhà Tạm là nơi Ngài hiện diện thường trực. Bàn thờ tượng trưng cho Chúa Kitô.Khi linh mục cử hành thánh lễ là tưởng niệm hy lễ thập giá và cử hành mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô.
Ba Ngôi sống bằng một lương thực thần linh, cùng một sự sống đó là tình yêu thần linh. Chúng ta được tham dự vào sự sống của Ba Ngôi khi đi vào cử hành mầu nhiệm vượt qua trong thánh lễ. Với chúng ta sự sống ấy là sự sống của Đức Kitô, Mình và Máu Đức Kitô trao ban qua thánh thể "Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì có sự sống đời đời" (Ga 6, 34). Khi chia sẽ chén hiệp thông cuả Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi hiệp thông với nhau để trở nên một như Ba Ngôi là một(Ga 17, 21).
Chúng ta đến Nhà thờ để tìm Chúa và gặp Chúa. Nói theo kiểu nói của Đức Hồng y Henry de Lubac: Con người tìm Chúa là một người bơi lội giữa đại dương. Mỗi lần tiến tới là đẩy lui một đợt sóng. Bơi lội giữa đại dương làm cho con người khiếp đảm lo sợ không tới bến. Nhưng Thiên Chúa vừa là bến bờ vừa là đại dương. Ai bơi lội trong đại dương là bơi lội trong Thiên Chúa. Hướng tới Chúa đã là ở trong Chúa, tìm Chúa gặp Chúa là hướng về Chúa. Không có sự tìm kiếm nào mà không phải phấn đấu, không gặp mâu thuẫn đau khổ. Nhưng chúng ta tin vào Thiên Chúa đang ở với chúng ta trong Đức Kitô và lôi kéo chúng ta với sức mạnh Chúa Thánh Thần.
Sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là sống hiệp thông và chia sẻ, là ở lại trong tình yêu. Mỗi ngày người tín hữu chúng ta làm dấu Thánh giá nhiều lần trên thân xác "Nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh thần". Ước gì mỗi người cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, hiệp thông chia sẻ trong cuộc sống hàng ngày của mình.
34. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi--R. Veritas--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
“Chúc tụng Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
Vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta”.
Đó là mở đầu thánh lễ mừng kính Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô, nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng đã không giải thích tại sao Thiên Chúa duy nhất mà lại có Ba Ngôi.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn từ biệt dài trong bữa Tiệc Ly về sự hiện diện và tác động của từng ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa Ba Ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các tông đồ lúc đó cũng đã không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến, chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành.
“Ta và Cha Ta, Chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữ giới răn Ta truyền thì Chúng ta sẽ đến ngự trong người đó”. Trong Phúc âm thánh Gioan được dùng trong thánh lễ kính Chúa Trời Ba Ngôi là những lời của Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa: Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các môn đệ như sau: “Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, vì Người không tự mình mà nói, nhưng Người nghe gì thì sẽ nói như vậy và Người sẽ dạy bảo các con biết những việc tương lai. Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người đã lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con. Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói là Người sẽ lãnh nhận nơi Thầy mà loan truyền cho các con”.
Đó là những lời trích từ bài diễn văn dài được ghi lại nơi ba chương của Phúc âm thánh Gioan, từ chương XIV-XVI, trong đó mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được Chúa Giêsu nhắc đến mà không giải thích cho các tông đồ. Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa mà là sống mầu nhiệm Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày nay. Trí khôn con người hữu hạn làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng, nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ như trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển.
“Thầy con nhiều điều phải nói với chúng con, nhưng bây giờ chúng con không thể lĩnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy chúng con biết tất cả sự thật, Ngài sẽ đưa các con vào trong trọn cả sự thật”. Mỗi ngày chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm bao la của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi không bao giờ ngừng, cả cho đến khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa trở nên giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em xung quanh như chính Thiên Chúa muốn.
Càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện, kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở rộng đón nhận anh chị em xung quanh và phục vụ họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể. Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không chứng minh hay giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu thánh giá chúng ta mang lấy hy sinh mình hàng ngày trước mỗi công việc quan trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi vĩnh phúc mai sau.
35. Ngôn ngữ của dấu chỉ--Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Có câu chuyện vui giả tưởng trong dân gian: Một giáo sư dậy môn thần học sau khi qua đời được đưa đến trình diện Thiên Chúa. Trước ngai tòa Thiên Chúa, vị giáo sư được Thiên Chúa ca ngợi về công lao nghiên cứu giảng dậy cho sinh viên về mầu nhiệm Thiên Chúa. Sau đó Thiên Chúa tiếp: “Thưa giáo sư, nhưng đôi khi ngài giảng dậy nói về Ta, mà chính Ta cũng không biết như thế…!”
Phải, chúng ta có thể nói, diễn tả về Thiên Chúa cao sang diệu vợi bao nhiêu có thể. Nhưng người nghe có thể lĩnh hội hiểu được không? Và có giúp cho đức tin của họ thêm sâu xa vững chắc vào Chúa không, nhất là trong những khi đời sống gặp cảnh chao đảo hồ nghi?
Những nhà thần học tầm cỡ to lớn vĩ đại thông thái thường đưa ra nhận xét: Tất cả những gì chúng ta nói về Thiên Chúa, đều vừa không đúng như Ngài là, và cũng có điểm giống như Ngài là. Nhất là về mầu nhiệm Một Thiên Chúa có ba ngôi.
Vậy diễn tả đức tin về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như thế nào cho dễ hiểu cùng nói lên được cả tâm tình đức tin từ trong tâm hồn?
Người tín hữu Chúa Kitô hằng ngày đều tuyên xưng đức tin mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi. Họ tuyên xưng bằng lời nói qua môi miệng, và còn bằng cả cử chỉ trên ngay nơi chính thân thể mình: Dấu Thánh Giá.
Dấu Thánh Giá với người tín hữu Chúa Kitô là dấu chỉ cực thánh nhất. Dấu chỉ này biểu lộ diễn tả đức tin từ trong tâm hồn ra bên ngoài. Dấu chỉ đó là ngôn ngữ của đức tin từ trong trái tim tâm hồn người tin yêu Thiên Chúa.
Ngay từ thuở còn thơ bé sau khi mở mắt chào đời, em bé đã được Hội Thánh ghi dấu thánh giá trên trán rồi tưới gội làn nước Bí Tích rửa tội trên đỉnh đầu: Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Amen.
Em được rửa tội không chỉ trong làn nước thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng nên, nhưng còn trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Rồi trong đời sống hằng ngày, người tín hữu Chúa Kitô đều làm dấu thánh giá, để nói lên lời cầu xin ơn chúc lành, phù hộ của Chúa, để nói lên tâm tình tạ ơn, và tuyên xưng đức tin vào Một Thiên Chúa có Ba ngôi
Dấu thánh giá nhắc nhớ đến Bí Tích và đức tin rửa tội ngày xưa đã lãnh nhận “một Thiên Chúa, một đức tin và một phép Rửa”.
Những dấu chỉ dấu thánh gía hình chữ thập được làm trên toàn thân thể:
- trên trán, nơi có trí não suy nghĩ điều tin
- trên môi miệng, nơi để nói loan truyền điều tin
- trên ngực, nơi có trái tim trung tâm của sự sống và tình yêu”, yêu mến điều tin
- ngang sang hai bờ vai trái và phải nói lên tâm tình: Những người bên trái bên phải con đường đời sống mà ta gặp gỡ hay có trách nhiệm với đều liên kết với nhau trong sự tin tưởng cùng lo cho nhau.
Dấu thánh giá không chỉ diễn tả đức tin của riêng một cá nhân với Chúa, nhưng còn nói lên chiều kích nền tảng của nếp sống trong xã hội con người với nhau.
Người tín hữu Chúa Kitô mỗi khi làm dấu thánh gía nói lên đức tin vào một Chúa Ba Ngôi. Và qua đó họ được củng cố thêm mạnh sức cho đức tin vào Chúa: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Họ không sống đức tin một mình, nhưng trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Và dấu chỉ dấu thánh giá họ làm là ngôn ngữ diễn tả đức tin từ trong tâm hồn ra bên ngoại ngay trên chính thân thể mình.
36. Sống yêu thương hiệp nhất theo khuôn mẫu Ba Ngôi--Lm Ignatiô Trần Ngà
Mầu nhiệm Ba Ngôi tuy cao siêu nhưng không viển vông xa rời thực tế. Trái lại đây là một mầu nhiệm rất thiết thân, rất gắn bó với đời sống người tín hữu. Mầu Nhiệm nầy mời gọi các ki-tô hữu luôn sống yêu thương hiệp nhất theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Gia đình Thiên Chúa" hiệp nhất trong yêu thương: Ba Ngôi nên một.
Trước hết, chúng ta hãy chiêm ngắm "Gia đình" ba Ngôi (xin tạm dùng cụm từ ‘Gia đình’ để diễn tả sự hiệp thông rất mật thiết giữa ba Ngôi Thiên Chúa). "Gia đình" nầy có ba Vị hay ba Ngôi riêng biệt (Vị / Ngôi đồng nghĩa với nhau): Vị thứ nhất là Chúa Cha, Vị thứ hai là Chúa Con, Vị thứ ba là Chúa Thánh Thần, tuy vậy ba Vị chỉ là một Thiên Chúa. (sách bổn cũ ghi: Thiên Chúa nhất Thể tam Vị).
Chính Chúa Giêsu khẳng định chân lý nầy khi Ngài phán: "Thầy với Chúa Cha là một" (Ga 10,30). Vì thế, "ai thấy Thầy là đã xem thấy Chúa Cha" và Chúa Thánh Thần bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra (kinh tin kính).
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn nói rõ hơn cho chúng ta biết tình hiệp thông khắng khít giữa Người với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần: "Tất cả những gì Cha có, đều là của Thầy" (Ga 16,15).
Ngoài ra, Chúa Giêsu còn dạy cho chúng ta biết: "Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3,35). Rồi "Con yêu Cha nên Con làm mọi sự đúng như Chúa Cha đã truyền dạy" (Ga 14, 31) cho dù phải "vâng lời Chúa Cha trong mọi sự cho đến chết và chết trên thập giá" (Phi 2,8).
Như thế, trong "Gia đình" nầy, tình yêu thương đậm đà thắm thiết giữa ba Ngôi đã liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần nên một với nhau, thế nên Hội Thánh dạy rằng dù có ba Ngôi, nhưng chỉ có một Chúa.
Thiên Chúa kiến tạo các gia đình nhân loại theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Thế rồi, Thiên Chúa đã chọn "Gia đình ba Ngôi" như một khuôn mẫu lý tưởng để dựng nên gia đình Ađam- Evà. Kinh thánh cho biết: "Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ" (St 1,27) và đôi vợ chồng đầu tiên nầy tuy gồm hai ngôi vị khác nhau nhưng cũng chỉ là một.
Để trình bày tính cách 'hai mà một' nầy, kinh thánh mô tả cách thi vị như sau: Sau khi tạo dựng Ađam, Thiên Chúa khiến cho ông ngủ say rồi rút xương sườn của ông mà dựng nên E-và rồi dẫn bà đến với ông. Bấy giờ A-đam nói: "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi” (St 2, 23). Bởi đó, “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt" (St 2, 24).
Qua Tin Mừng Mat-thêu, Chúa Giêsu một lần nữa khẳng định với mọi người rằng trong hôn nhân, hai vợ chồng “không còn là hai nhưng chỉ là một xương một thịt” nên không bao giờ được chia lìa. (Mt 19,6).
Thiên Chúa kiến tạo Hội Thánh theo khuôn mẫu ba Ngôi.
Tiếp theo, Thiên Chúa cũng chọn "Gia đình" Ba Ngôi làm khuôn mẫu lý tưởng để dựng nên gia đình thứ ba, rộng lớn hơn nhiều là đại Gia đình Hội Thánh.
Để thực hiện dự án nầy, Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích thánh tẩy để tháp nhập mọi tín hữu vào thân mình Người (như những cành nho được tháp vào thân nho, như bàn tay được tháp vào cơ thể.) Thánh Phao-lô dạy: “Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô. (Ga 3, 27-28). Thế là cả hàng tỉ người tin Chúa và được thanh tẩy trong Đức Giêsu Ki-tô không còn là nhiều nhưng đã hiệp thông nên một: một nhiệm thể Chúa Ki-tô.
Chúa Giêsu lại còn dùng bí tích Thánh Thể để tăng cường sự hiệp thông nầy nên mật thiết hơn. Nhờ hiệp thông với Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong thánh lễ, các tín hữu được trở nên đồng huyết nhục với Chúa Giêsu và nên một với nhau.
Chúa Giêsu muốn rằng sự hiệp thông giữa những người con cái Chúa phải bền chặt như sự hiệp thông giữa ba Ngôi. Thế nên, trước khi lìa xa các môn đệ, Ngài thành khẩn cầu xin cùng Chúa Cha: "Lạy Cha, xin cho họ nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha".(Ga 17, 21)
* * *
Trong ngày lễ Chúa ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm chọn “Gia đình ba Ngôi Thiên Chúa” làm mô hình lý tưởng để xây dựng gia đình chúng ta, xây dựng giáo xứ chúng ta thành gia đình yêu thương và hiệp nhất bền chặt như “Gia đình Thiên Chúa ba Ngôi”, nhờ đó mỗi gia đình sẽ trở nên hình ảnh sống động về Thiên Chúa ba Ngôi như lời nhắn nhủ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư mục vụ gửi cộng đoàn dân Chúa năm 2002 (số 6):
“Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa ba Ngôi Thiên Chúa.”
37. Gia đình Kitô hữu hiệp thông nên một--Lm Inhaxiô Trần Ngà
Khi tìm hiểu đạo, nhiều người tự hỏi: Tại sao chỉ có một Chúa mà lại có ba ngôi? Ngôi là gì? Tại sao có ba ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà chỉ là một Thiên Chúa duy nhất… và có hình ảnh nào giúp hiểu thêm về ba ngôi Thiên Chúa không?
Trước hết, ngôi là gì? Ta có thể hiểu cách đơn giản rằng từ “ngôi” đồng nghĩa với từ vị hay đấng, “ba ngôi” đồng nghĩa với ba vị hay ba đấng.
Thứ đến, ta có thể dùng hình ảnh một gia đình đầm ấm yêu thương để diễn tả về ba ngôi Thiên Chúa.
Gia đình ki-tô hữu, ba ngôi nên một
Một gia đình yêu thương đầm ấm có người cha là ngôi hay vị thứ nhất, người mẹ là ngôi thứ hai và đứa con là ngôi thứ ba. Ba người này, ba vị này hay nói theo ngôn từ giáo lý là ba ngôi này luôn yêu thương gắn bó mật thiết với nhau, một lòng một ý với nhau, lúc nào cũng xem nhau như một… Như thế, ba ngôi (người) này không còn là ba mà đã hiệp thông nên một.
Chính Chúa Giê-su xác nhận hai vợ chồng này là một khi dạy rằng: “Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mat-thêu 19, 5-6).
(Ở đây, Chúa Giê-su không có ý dùng từ “một” theo số học để tính số lượng, nhưng theo nghĩa hiệp nhất, nghĩa là các thành viên trong gia đình hiệp thông nên một với nhau.)
Và đứa con là ngôi (người) thứ ba trong gia đình, được sinh ra từ sự phối hợp của đôi vợ chồng đã trở nên “một xương một thịt” này cũng gắn bó mật thiết với cha với mẹ trong tình yêu thương, nên cả ba người trở nên một.
Ba người trong gia đình này luôn gắn bó hiệp nhất với nhau trong tình yêu thương là một hình ảnh về ba ngôi Thiên Chúa.
Vì thế, trong thư mục vụ gửi cộng đồng dân Chúa năm 2002, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã dùng hình ảnh gia đình hiệp thông trong yêu thương như một hình ảnh về ba ngôi Thiên Chúa. Thư mục vụ có câu: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình ki-tô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa ba ngôi Thiên Chúa” (số 6).
Gia đình Thiên Chúa[1], ba Ngôi nên một
Giờ đây, chúng ta hãy chiêm ngắm "Gia đình" ba ngôi Thiên Chúa.” "Gia đình" nầy có ba vị hay ba ngôi riêng biệt: Ngôi thứ nhất là Chúa Cha, ngôi thứ hai là Chúa Con, ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần.
Chúa Giê-su tỏ cho chúng ta biết Ngài và Chúa Cha là một, như sau: "Thầy với Chúa Cha là một" (Ga 10,30). Vì thế, "Ai thấy Thầy là đã xem thấy Chúa Cha" (Ga 14,9).
Còn Thánh Thần là Đấng xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con, là một với Chúa Cha và Chúa Con.[2]
Như thế, trong "Gia đình" nầy, tình yêu thương sâu đậm giữa ba ngôi đã liên kết Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần nên một, thế nên Hội thánh dạy rằng dù có ba Ngôi, nhưng chỉ có một Chúa.
Gia đình ki-tô hữu hiệp thông nên một theo mẫu mực gia đình ba Ngôi Thiên Chúa
Như thế, mầu nhiệm ba Ngôi tuy cao siêu nhưng không viển vông xa rời thực tế. Trái lại đây là một mầu nhiệm rất thiết thân, rất gắn bó với đời sống người tín hữu. Mầu nhiệm nầy mời gọi các ki-tô hữu luôn sống yêu thương hiệp nhất theo mẫu mực ba Ngôi.
Hôm xưa, trước khi rời xa các môn đệ để bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giê-su tha thiết cầu nguyện với Chúa Cha cho các môn đệ Ngài được hiệp thông nên một với nhau cách mật thiết. Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một…” (Ga 17, 20-23).
Và hôm nay, Chúa Giê-su hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha… để họ được nên một như Chúng Ta là một.”
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con quyết tâm chọn “Gia đình” ba ngôi làm mẫu mực lý tưởng để xây dựng gia đình chúng con, xây dựng giáo xứ chúng con thành gia đình yêu thương và hiệp nhất bền chặt như “Gia đình” ba ngôi Thiên Chúa, nhờ đó mỗi gia đình sẽ trở nên hình ảnh sống động về Thiên Chúa ba ngôi như lời nhắn nhủ của Hội đồng Giám mục Việt Nam: “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình ki-tô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa ba ngôi Thiên Chúa.”
---------------------------
[1] “Gia đình Thiên Chúa” là cụm từ mà Đức Giám mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền phát biểu tại Công đồng Vatican II và được các nghị phụ hoan hỉ đón nhận.
[2] GLHTCG số 245
38. Ba Ngôi huyền nhiệm tình yêu--Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Trong thiên nhiên và vạn vật còn có biết bao nhiêu những điều kỳ thú, bí ẩn mà với trí óc hạn hẹp của con người vẫn chưa khám phá hết được những bí ẩn đang tổn tại trong thiên nhiên. Con người chỉ biết thinh lặng và kính phục trước những huyền nhiệm vẫn diễn ra trong thế giới chung quanh. Thực vậy, mỗi khi đứng trước một vấn đề nan giải, khó hiểu và vượt quá trí tưởng tượng như thế, chúng ta thường đóng khung vấn đề bằng một từ gọi là huyền nhiệm. Huyền nhiệm hay mầu nhiệm thường là vấn đề không kiểm chứng được bằng khoa học mà chỉ bằng niềm tin. Thế nên, có rất nhiều mầu nhiệm trong đạo được đóng khung bằng mầu nhiệm và đòi buộc các tín hữu phải tin, điều đó cũng đúng. Vì đức tin của chúng ta không dựa trên khoa học hay cảm tính mà dựa trên mạc khải. Chính Chúa đã mạc khải chính mình qua giòng thời gian. Qua các tổ phụ, các tiên tri và thời sau hết qua Con Một chí ái là Đức Giêsu Kytô. Chúng ta tin vì chính Chúa đã nói với chúng ta. Chúng ta tin vì Chúa là Đấng chân thật và lời Người thì không bao giờ sai lầm. Nhưng, có bao giờ chúng ta tự hỏi Chúa đã mạc khải điều đó để làm gì? Lời mạc khải của Chúa có liên hệ gì với đời sống chúng ta hay không? Đó mới là điều quan yếu mà chúng ta cần bàn hỏi để hiểu và để sống những điều Chúa muốn nơi chúng ta.
Hôm nay lễ kính Chúa Ba Ngôi. Đây là một mầu nhiệm. Một mầu nhiệm mà chắc chắn Thiên Chúa đã mạc khải không nhằm mục đích cho chúng ta đóng khung để thờ, để "kính nhi viễn chi" mà là để chúng ta sống theo mẫu gương của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thế nên, mừng lễ Chúa Ba Ngôi không phải là dịp để chúng ta đưa ra những luận điệu, chứng cứ để chứng minh về một Thiên Chúa Ba Ngôi mà là để chúng ta chiêm ngắm về căn tính, về bản chất của Ngài để bắt chước, noi theo. Vì chứng cứ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã được Ngôi Hai Thiên Chúa nói với chúng ta bằng cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Người.
Thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa thật ngắn ngọn và đầy đủ: Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì luôn trao ban sự sống, luôn hy sinh chính mình và luôn giúp nhau thăng tiến. Chúa Giêsu đã nói về Ba Ngôi Thiên Chúa với cách biểu lộ tình yêu như thế.
Chúa Cha trao ban sự sống cho nhân loại, qua công trình tạo dựng vạn vật và đỉnh cao là tạo dựng con người giống hình ảnh của Ngài.
Chúa Con đã hy sinh chính mình để cứu chuộc nhân loại bằng việc tự nguyện nộp mình chịu chết để đền thay tội lỗi nhân loại.
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá con người nên nghĩa tử của Chúa và luôn tác động để con người hoàn thiện chính mình mỗi ngày nên tốt đẹp hơn.
Như vậy, sự tỏ bầy mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là tỏ bày tình yêu. Tình yêu tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá. Chính Ngài đã làm tất cả vì yêu chúng ta và cũng đòi buộc chúng ta phải noi gương Ngài mà sống để yêu thương nhau. Thiên Chúa không đòi chúng ta phải bù đắp tình yêu cho Ngài, vì Ngài đã tròn đầy. Ngài không cần chúng ta thêm gì cho Ngài. Ngài chỉ cần chúng ta mặc lấy tình yêu đó để đối xử tốt với nhau trong cuộc đời hôm nay.
Thế giới hôm nay đang thiếu vắng rất nhiều về tình yêu như thế. Ngay tại gia đình, nhiều cha mẹ đã đang tâm chối bỏ quyền sống nơi các thai nhi vô tội. Nhiều đôi vợ chồng tan vỡ vì thiếu sự hy sinh và lòng bao dung tha thứ cho nhau. Nhiều cuộc tình đã đau khổ vì thiếu sự bổ túc và tôn trọng lẫn nhau, mà chỉ tìm đến với nhau để khai thác tiền bạc và thú vui thể xác.
Ở ngoài xã hội lại càng thiếu vắng nhiều hơn. Khoa học tiến bộ nhưng nguy cơ giết người hàng loạt luôn là mối lo cho toàn thể nhân loại. Vũ khí hạt nhân và các chất hoá học độc hại luôn bị người ta dùng để kiếm tiền và củng cố quyền lực. Mới đây ở Việt Nam đã phát hiện ra hàng loạt các đồ dùng mỹ phẩm và thức ăn có chất độc hại gây ung thư như: ở trong son môi, trong kem đánh răng, trong nước tương, trong bột nêm, bát phở và trên các loại hoa quả tươi xanh. Xem ra nhân loại hôm nay chỉ cần tiền và quyền bính, còn các giá trị đạo đức nhân văn chỉ là những trang sách được mở ra ở học đường nhưng không ứng dụng ở trừơng đời. Xã hội càng văn minh con người càng thiếu hy sinh cho nhau. Thế giới quá quen với cụm từ "mac ke no", tất cả chỉ lo cho bản thân mình, lo hửơng thụ và tìm kiếm danh lợi thú cho bản thân.
Giữa một thế giới mà các giá trị đạo đức đã bị sự gian ác và ích kỷ làm đảo lộn như thế, liệu người kytô hữu có dám lội ngược dòng để sống đúng với đòi hỏi của tình yêu hay không? Chúa đòi chúng ta yêu người yêu đời nhưng cuộc đời có quá nhiều người gian dối, bất trung và phản bội liệu rằng chúng ta có dám sống chứng nhân cho tình yêu hay không?
Chính Chúa đã sống điều đó. Cho dù con người có phản bội, bất trung Chúa vẫn trung thành với tình yêu của mình. Cho dù con người đã cố tình sống xa tình Chúa, Chúa vẫn tìm muôn nghìn cách để cứu chuộc con người. Chúa vẫn nhẫn nại, từ bi và rất mực khoan nhân. Cho dù con người có ngỗ nghịch phạm thượng chối bỏ Thiên Chúa, chống đối lại Chúa, Chúa vẫn cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ.
Nguyện xin Chúa là tình yêu giúp cho mỗi người chúng ta biết sống yêu như Thiên Chúa đã yêu, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ cuộc sống, cũng như luôn quảng đại giúp nhau sống đúng phẩm giá làm người hơn. Amen.
39. Thiên Chúa san sẻ với chúng ta--Achille Degeest--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
Nhờ tác động Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đang sống với chúng ta. Sau khi lãnh bí tích thanh tẩy, ước vọng thầm kín sâu sắc nhất của chúng ta là vươn lên khỏi tầm cỡ mình trong Đức Giêsu Kitô. Nhưng làm thế nào để gặp Chúa? Bí tích thanh tẩy tạo ra trong chúng ta một bản thể mới, ở ngoài sự hiểu biết thông thường. Đức tin cho biết, chúng ta nhờ Thần Khí mà được kết hợp với Đức Kitô hằng sống. Chúa Thánh Thần là nguồn gốc bản thể hữu hình của Đức Giêsu. Do tác động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở nên Thiên Chúa mặc lấy tính loài người. Chúa Thánh Thần cũng là nguồn gốc bản thể siêu hình của chúng ta. Do tác động Chúa Ngôi Ba, bản thể ấy trở thành con người được tham dự vào tính Thiên Chúa. Tác động Chúa Thánh Thần hằng có, hằng diễn ra trong thế giới. Nhờ vậy, đối với chúng ta, cuộc gặp gỡ Đức Giêsu không chỉ trong một lúc một nơi để có thể nhớ lấy ngày tháng, địa điểm. Cách sâu sắc hơn, Chúa là sự hiện diện sống động hằng có, làm biến đổi bản thể bên trong chúng ta. Chúa Thánh Thần mặc khải cho chúng ta bắt đầu hiểu biết Đức Giêsu Kitô, hơn nữa cho thấy Người bắt đầu làm cho chúng ta sống. Tất cả sự thật là thế. Nhiều người cho rằng người ta đã gặp hoặc đang gặp Đức Giêsu trong chốc lát, theo họ Chúa là Thầy có lời giảng dạy sáng như bạch nhật, nắm vững một phần chân lý. Đối với Kitô hữu đã lãnh ơn Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu là Thầy nắm vững tất cả chân lý, trong Người chúng ta không bao giờ hết khám phá điều gì là tốt lành cho tâm trí mình, với Người chúng ta luôn luôn trên đường đến với Thiên Chúa. Như vậy chúng ta không những có thể gặp Đức Giêsu trong hiện tại, hơn nữa Người đang ngự trong chúng ta. Hai câu sau đây cần được đào sâu ý nghĩa:
1) Người sẽ tôn vinh Ta.
Câu này có thể hiểu theo nghĩa Chúa Thánh Thần mở rộng tâm hồn chúng ta nghênh đón Đức Kitô hằng sống và đích thật. Theo tầm hiểu biết của nhân loại, Đức Giêsu là một sự kiện lịch sử, chung cục người ta hiểu biết rất ít về Chúa. Trong chiều sâu đức tin, chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Chúng ta nhìn nhận Chúa theo đúng tước vị Con Người, đó chính là niềm vinh hiển của Chúa, và cũng là công trình Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta. Một nhận xét sơ lược: Chúa Ngôi Ba dẫn chúng ta ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của những kiến thức vật chất và tự nhiên của chúng ta, nếu không tâm trí chúng ta như bị giam hãm trong một lao tù.
2) Để thông báo cho các ngươi.
Chúng ta cần chú ý đến sự thật này, một sự thật loài người chẳng thể ý niệm: Thiên Chúa san sẻ với chúng ta. Vì tin vào Đức Giêsu Kitô, vì nghênh tiếp Con Thiên Chúa, vì tuân phục những đòi hỏi của Thần Khí, chúng ta được vinh dự Thiên Chúa san sẻ cho chúng ta. Đức Giêsu, Người-Chúa, là khởi điểm cho hoạt động thiết yếu sâu sắc nhất của chúng ta. Chúng ta được mặc khải bên trong để nhận biết mình được tham dự thần tính trong Đức Giêsu. Đó là ý nghĩa đích thật của từ nếp sống mới thánh Phaolô thường dùng. Đó không phải là một nhãn hiệu, cũng không phải là một khẩu hiệu. Nếp sống mới có thật tùy theo mức độ chúng ta nhờ nếp sống mới trở nên giống Đức Kitô nhiều hay ít.
40. Dâng lời chúc tụng Ba Ngôi--Lm GB. Trần Văn Hào
‘‘Xin dâng lời tôn vinh chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Kh 1,8a)
Một đan sĩ nọ đã nói: “Nếu ngày xưa Moisen đã không bước vào chỗ tăm tối và mù mịt trên núi Sinai, ông đã không gặp thấy Chúa. Cũng vậy, nếu chúng ta không thấy mình dốt nát và mù tối khi suy hiểu về Thiên Chúa, chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được Ngài”. Điều này rất đúng khi chúng ta suy niệm về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi mà Giáo hội hôm nay mừng kính. Đây là mầu nhiệm căn bản nhất của đức tin Công giáo, đồng thời cũng là chân trời vĩ đại và tối tăm nhất đối với đầu óc suy lý của con người. Mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu và thực ra chúng ta không thể hiểu nổi. Khi đối diện trước các thực tại của Thiên Chúa, chúng ta không thể nhận thức bằng lý trí nhưng chỉ có thể trải nghiệm bằng đức tin. Thái độ cần thiết nơi chúng ta không phải là đứng lên cách ngạo nghễ để vắt óc tìm tòi, nhưng phải quỳ gối xuống cách khiêm tốn trong cung chiêm và thờ lạy.
Thực hành đức tin khi tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trước khi bắt đầu làm bất cứ công việc gì, người Công giáo chúng ta luôn bắt đầu bằng dấu Thánh giá với lời tuyên tín: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Thánh Phaolô thường gửi lời chào thăm đến các cộng đoàn với văn thức xưng tụng Thiên Chúa Ba Ngôi. Giáo hội cũng dùng lại văn thức này để khởi đầu Thánh lễ khi vị linh mục chào chúc cộng đoàn: “Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em (2 Cor 13,13; Eph 1,2). Chúng ta nhớ lại giai thoại về thánh Augustinô. Khi Ngài đi bách bộ bên bờ biển và suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Ngài gặp một em bé đang dùng cái vỏ sò để múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ tí xíu. Em bé nhắc nhở cho thánh nhân biết rằng, việc lấy một cái vỏ sò bé tí teo đong đầy nước biển xem ra khá xuẩn ngốc, nhưng việc dùng đầu óc chật chội của con người để cố nhét vào cả bầu trời bao la của mầu nhiệm Thiên Chúa còn xuẩn ngốc hơn gấp bội. Vì vậy, đi vào thế giới của mầu nhiệm, chúng ta phải hết sức khiêm tốn và nhận ra những bất toàn nơi đầu óc mình.
Các thánh giáo phụ vay mượn ý nghĩa của 3 lời khuyên phúc âm để minh họa tình yêu đối với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống tinh thần khó nghèo chính là thể hiện niềm tin vào Chúa Cha, đấng quan phòng và luôn yêu thương con cái mình. Đức Khiết tịnh diễn bày tinh thần từ bỏ để sống với một tình yêu thuần khiết theo gương Chúa Giêsu. Sự Vâng phục của người tu sĩ mời gọi chúng ta mở lòng cho Chúa Thánh Thần tác động. Đó chính là ân ban của Thần Khí giúp chúng ta luôn biết tìm kiếm và quy thuận thánh ý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Cha và về Thần khí tác sinh. Khi Ngài lãnh phép rửa tại sông Giorđan, mầu nhiệm Ba Ngôi từ từ được vén mở, qua tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống và Thánh Thần đậu xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Ngoài những điều mà Kinh thánh mạc khải, giáo huấn của Giáo hội cũng đầy ắp những gợi mở cho chúng ta về mầu nhiệm cao cả này. Đây là giáo lý căn bản và chúng ta vẫn thường xuyên tuyên xưng mầu nhiệm ấy mỗi khi chúng ta giơ tay làm dấu Thánh giá để cầu nguyện cùng Chúa Ba Ngôi.
Phẩm tính căn bản của mầu nhiệm Ba Ngôi chính là tình yêu.
Trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan, vị tông đồ đã định nghĩa về Thiên Chúa qua một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,16). Đức Thánh Cha Phanxicô cũng khẳng quyết rằng, ‘Lòng thương xót’ là tên gọi thứ hai của Thiên Chúa, bởi vì thương xót là cách hiển thị rõ nét về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Khi chiêm niệm về mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta hãy cảm nghiệm như Thánh Phaolô đã từng diễn tả: “Thiên Chúa đã đổ đầy tình yêu của Người vào tâm hồn chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho chúng ta (Rm 5, 5b). Để mặc khải về tình yêu của Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính con một của Ngài để ai tin vào người Con, sẽ được sống. (Ga 3,16). Vì thế khi chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, chúng ta bắt đầu sống ơn gọi làm con và khởi đầu sứ vụ thực hành tình yêu như Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đã nói: “Mỗi người chúng ta được trao ban một sứ vụ để chu toàn, đó là sứ vụ của tình yêu”.
Kết luận
Một bữa nọ, Ông Voltaire, một triết gia vô thần đi bách bộ với một anh bạn trên con đường quê ven rừng. Giữa giao lộ có một cây Thánh giá phủ đầy tuyết. Voltaire đã công khai bỏ đạo từ lâu, và hoàn toàn không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Ông còn ngạo nghễ chế diễu niềm tin của các Kitô hữu. Nhưng người bạn đang đi với ông lại có niềm tin rất sâu xa. Voltaire chỉ vào cây Thánh giá phủ đầy tuyết và nói với anh bạn: “Đây là hình ảnh của tôn giáo ngày nay. Thiên Chúa của các anh đã bị văn minh khoa học phủ kín mặt mày và niềm tin tôn giáo đã bị sự lạnh lùng băng giá của con người hôm nay che lấp. Vì vậy, Thiên Chúa của các anh không còn lý do để hiện hữu nữa”. Chợt lúc đó, có một cơn gió mạnh thổi đến hất tung chiếc mũ trên đầu Voltaire và quăng xuống đất, đồng thời cơn gió đã làm tan chảy lớp tuyết bao phủ cây Thánh giá. Gương mặt Chúa Giêsu từ từ hiện lộ một cách rõ nét. Người bạn của Voltaire lúc đó mới trả lời ông: “Này bạn, đây mới là hình ảnh đích thực của niềm tin tôn giáo ngày hôm nay. Cho dù con người vẫn lạnh lùng và chai cứng như lớp tuyết trắng che kín Thánh giá, nhưng sức mạnh của Thiên Chúa vẫn dư sức hất tung sự kiêu ngạo của con người và làm tan chảy sự lạnh lùng nơi con tim sỏi đá của mọi người. Ngài luôn hiện hữu cho dù con người vẫn đang ra sức loại trừ Ngài”.
Một nhà tu đức đã nói: “Chúng ta hãy kiếm tìm Thiên Chúa chứ đừng tìm nơi ở của Ngài”. Chúa ở khắp mọi nơi và đang ở trong tâm hồn mỗi người. Chúng ta hãy không ngừng đi kiếm tìm Ngài.
41. Ba Ngôi Thiên Chúa: Một tình yêu nhiệm lạ--Lm Antôn Hà Văn Minh
Tin Mừng Ga 16: 12-15 Tình yêu được Thiên Chúa tỏ bày qua nhiệm cục cứu chuộc được thực hiện bởi Cha, Con và Thánh Thần.
SUY NIỆM
Hôm nay Giáo Hội long trọng mừng Lễ Chúa Ba Ngôi được gọi đây là mầy nhyệm chính yếu đối với đức tin Công giáo. Thật vậy, đức tin giúp chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành để cho con người. Tình yêu được Thiên Chúa tỏ bày qua nhiệm cục cứu chuộc được thực hiện bởi Cha, Con và Thánh Thần. Không có nhiệm cục cứu chuộc này con người không thể nào có được niềm hy vọng về một đời sống vĩnh cửu.
Thật vậy sau khi con người phản bội chống lại lệnh truyền, Thiên Chúa không nỡ để con người ra hư vong, Ngài quyết dẫn đưa con người trở về với sự sống. Việc Thiên Chúa đưa ra quyết định cứu chuộc con người là một hành động xuất phát từ tình yêu của Đấng được gọi là Cha. Vâng, mặc dù con người không được sinh ra từ Thiên Chúa như Ngôi Hai, nhưng với bản chất là Cha, Thiên Chúa tạo dựng con người và đã đặt để con người trong mới tương quan mới tương quan phụ tử. Nhờ mối tương quan phụ tử này, con người đã được Thiên Chúa yêu thương cách lạ lùng đến nỗi tác giả Thánh vịnh phải thốt lên: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,đặt muôn loài muôn sự dưới chân” (Tv 8, 6-7). Và khi con người phạm tội, cho dẫu khi ra hình phạt, Thiên Chúa cũng không thể nào đành lòng nhìn con người hư vong, Ngài đã ra tay tế độ bằng một hành động mà không ai có thể ngờ rằng Thiên Chúa yêu thương con người đến thế sao? Thánh Gioan đã diễn tả: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 16-17).
Tình thương Thiên Chúa dành cho con người là phản ảnh tình thương Ngài dành cho Ngôi Hai, người Con duy nhất. Quả thật, con người không thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa dành để cho mình nếu Ngôi Hai Thiên Chúa không nhập thể làm người. Vì là Con hiếu thảo nên Ngôi Hai cũng mang trong mình trọn vẹn tình yêu của Cha, nên Người, trong tinh thần vâng phục, sẵn lòng dấn thân vào trong lịch sử của nhân loại qua việc nhập thể làm người, để tỏ bày cho nhân loại nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người biết bao cho dẫu con người chẳng có công trạng gì.
Việc tỏ bày tình yêu không đơn giản chỉ là lời nói thốt ra từ môi miệng, bởi Ngôi Hai Nhập Thể làm người không chỉ là thổ lộ tâm tư của Thiên Chúa, nhưng còn là cứu chuộc con người khỏi bàn tay thần chết. Vì thế, việc tỏ bày tình yêu Thiên Chúa của Ngôi Hai Nhập Thể là một công trình được thực hiện bằng cả cuộc đời. Từ lời giảng dạy, đến hành vi, từ hơi thở đến từng nhịp đập con tim đều chất chứa lời yêu thương và cứu độ, và sau cùng là sự hiến thân trên Thập Giá thể hiện sự vâng phục trọn vẹn Thánh ý Cha trong việc cứu chuộc con người. Khi suy niệm về cái chết của Cháu Giêsu trên Thập giá, Đức Benêđictô đã thốt lên: “Trong cái chết thập tự của Chúa Giêsu, việc ‘Thiên Chúa quay lại chống đối chính mình’ đạt đến mức tuyệt đỉnh, khi Người tự hiến chính mình, để nâng con người lên và cứu độ họ - đó là tình yêu trong hình thức triệt để nhất” (Thông điẹp Thiên Chúa là Tình yêu, số 12).
Phúc âm Gioan đã trình bày: trong Chúa Con mà Chúa Cha được nhận biết, và ai nhận biết Chúa Con (và có sự thông hiệp với Người), thì kẻ ấy cũng nhận biết rằng, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha (x. Gio 10, 38). Đó là chân lý, với nhận thức về chân lý này những kẻ tin có được sự sống: Tình yêu, đúng thế, tình yêu chính là Cha ở trong Con và Con ở trong Cha sẽ đến cư ngụ trong những ai yêu mến chân lý này (x. Gio 14, 23). Trong “lời cầu của Đấng là Linh mục Thượng phẩm”, Chúa Giêsu, cầu khẩn với Cha, cho những kẻ tin được nên một và “trong chúng ta”, như là Cha ở trong Con và Con ở trong Cha (x. Gio 17, 21); Tình yêu: Cha ở trong Con và Con ở trong Cha – đó là Chân lý - ước chi được thấm nhuần nơi các kẻ tin, để nhờ đó, với chân lý này họ có được sự sống và “thế gian cũng nhận biết rằng Cha đã sai Con và Cha cũng yêu thương họ như Cha đã yêu Con” (Gio 17, 23). Trong Chân lý này Thánh Thần sẽ xuất hiện, không thêm bớt một điều gì mà Con đã nói với nhân loại. Khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm cho các môn đệ hiểu được rằng, “Thầy ở trong Cha, và anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em” (Gio 14, 20; x. Gio 14, 16tt). Trong Chúa Thánh Thần và chính nhờ tác động của Ngài mà những kẻ tin nhận ra rằng, Chúa Giêsu Kitô (cùng với Chúa Cha) ở trong họ (1 Gio 3, 24; 4, 13). Chúa Thánh Thần minh chứng rằng, Tình yêu Thiên Chúa được mặc khải cho con người qua người Con, thấm nhập vào các kẻ tin và đón nhận họ vào hiệp nhất với tình yêu của Con và Cha ( 1 Gio 4, 16).
Nhưng làm sao nhân loại có thể bước vào mối tương quan phụ tử với Thiên Chúa để có thể hưởng nhờ ơn cứu độ mà Đức Kitô đã mang lại? Thánh Phaolô đã đưa ra câu trả lời: “Tất cả những ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu phải là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ sệt như xưa: nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: Abba! – Cha ơi!”(Rm 8,14-15). Vâng, chính Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng là tình yêu, là sức sống của Thiên Chúa được trao ban cho chúng ta, sẽ là động lực để chúng ta nhận ra tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu thúc đẩy chúng ta hành động để đáp trả lại tình yêu cao trọng này. Sách Công vụ Tồng đồ đã tường thuật: Sau khi nhận lãnh Thánh Thần, Thánh Phêrô đã mạnh dạn loan báo “Thưa anh em Đức Giê-su Na-da-rét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Người đã bị anh em treo trên thập giá, Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô’’ (Cvtđ 2, 22. 32. 36). Khi nghe những điều đó “họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác: Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì? Ông Phê-rô đáp: Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần.” (Cvtđ, 2, 37-38). Như vậy chính Thánh Thần Thiên Chúa vừa là động lực thúc đẩy loan báo Tin Mừng, vừa là tác nhân biến đổi người được loan báo. Điều đó được thực hiện từ nguồn mạch duy nhất, đó chính là tình yêu. Quả thật, ơn cứu độ được thực hiện do bởi Thiên Chúa yêu thương, và ơn cứu độ đó cũng chỉ dành cho những ai đón nhận quà tặng yêu thương bằng một thái độ đáp trả trong mối tương quan cha-con. Có nghĩa là đón nhận với trọn vẹn tâm tình biết ơn, tín thác và mến yêu như tâm tình của người con dành cho cha.
Mừng Mầu nhiệm Ba Ngôi dể hiểu được Thiên Chúa yêu thương nhân loại là dường nào, và cách Ngài hành động để tỏ bày tình yêu thương cũng thật lạ lùng biết bao, hiểu điều đó để chúng ta tạ ơn vì tình yêu thương đó và nỗ lực sống yêu thương như lời mời gọi của Chúa Giêsu: Các con hãy yêu thương như Thầy yêu thương.
Lạy Chúa, Mầu Nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm của một tình yêu lạ lùng Chúa dành cho nhân loại chúng con. Chúng con xin được ccảm tạ Chúa, nhất là Chúa đã đưa chúng con vào trong cộng đoàn Giáo Hội, một cộng đoàn yêu thương. Xin cho chúng con biết nỗ lực xây dựng cộng đoàn này bằng chính đời sống yêu thương của chúng con. Amen.
42. Tình yêu hiệp nhất--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một linh mục ngồi trong phi trường đợi chuyến bay. Một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và đề cập về tôn giáo. Ông khoe rằng: “tôi không chấp nhận điều gì tôi không hiểu, vấn đề “ba Chúa trong một Chúa” hay bất cứ điều gì tương tự, không ai có thể giảng nghĩa cho tôi, nên tôi không tin”.
Chỉ vào luồng sáng qua cửa sổ, linh mục hỏi: “bạn có tin mặt trời không?”. Kẻ hoài nghi trả lời: “dĩ nhiên có chứ”. Linh mục nói tiếp: “được, ánh sáng bạn thấy qua cửa sổ, là từ mặt trời cách đây 150 triệu km chiếu tới, sức nóng chúng ta cảm thấy phát xuất từ mặt trời và ánh sáng.
Chúa Ba Ngôi có phần tương tự như vậy: mặt trời Thiên Chúa Cha. Mặt trời chiếu sáng: ánh sáng là Thiên Chúa Con. Từ mặt trời và ánh sáng tỏa ra sức nóng: từ Chúa Cha và Chúa Con phát xuất Chúa Thánh Thần. Bạn có thể giải thích được mặt trời, ánh sáng và sức nóng được không?” người hoài nghi im lặng.
Anh chị em thân mến,
Khi chúng ta họp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi, trước tiên chúng ta chấp nhận rằng: đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được, giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi nhiều lần, nhất là trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta đón nhận, chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mạch mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi như mặt trời trên bầu trời. Mặt trời là nguồn năng lượng vật lý. Chúa Ba Ngôi là nguồn sống trong chúng ta. Mặt trời chiếu tỏa ánh sáng. Chúa Ba Ngôi soi sáng lòng trí con người. Mặt trời tỏa sức nóng. Chúa Ba Ngôi tuôn đổ sức nóng thiêng liêng: tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Chúa Ba Ngôi không phải là bộ ba năng lượng không hồn, nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Đời sống nội tại thâm sâu nhất của Thiên Chúa là yêu thương: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Chúa Con yêu thương Chúa Cha và mối tương quan tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là Chúa Thánh Thần. Tình yêu hoàn toàn thân, cho đi, để làm giàu người khác và làm nên một với người khác. “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng... nhưng Ngài là ba, ba nhưng hoàn toàn hiệp nhất với nhau đến nỗi chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Trong Ba Ngôi, mỗi ngôi hoàn toàn là tặng phẩm hiến dâng cho nhau, hoàn toàn tương qua với nhau, hoàn toàn yêu thương nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha, và sự trao đổi hoàn toàn giữa Cha và Con là Thánh Thần. Vì thế, Thiên Chúa là một nhưng lại là ba; là ba nhưng lại là một. Chúa Giêsu đã nói: “Mọi sự của Con là Cha, và mọi sự của Cha là của Con” (Ga 17,10). “Cha Thầy và là một” (Ga 10,30). “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga, 14,9).
Thưa anh chị em,
“Thiên Chúa là Tình Yêu”, vì thế mọi hoạt động bên trong cũng như bên ngoài của Thiên Chúa đều là yêu thương: từ việc tạo dựng vũ trụ, vạn vật, loại người cho đến việc cứu chuộc loài người chúng ta đều là hành động của tình yêu, một tình yêu không ngừng ban phát, chia sẻ, nhân lên. Thiên Chúa đã ban phát, đã chia sẻ tình yêu của Ngài cho loài người chúng ta và Ngài muốn cho tình yêu ấy tiếp tục tràn lan từ trong lòng chúng ta đến những con người khác: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài nên hoàn tất trong chúng ta”(1 Ga 4,12). Bởi vậy, “Ai không yêu thương anh em thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu thương” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài. Loài người chúng ta trở nên hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi khi trở nên một cộng đoàn huynh đệ do tình yêu từ Thiên Chúa Ba Ngôi đến nối kết chúng ta lại với nhau trong Ngài.
Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao xa, tuyệt vời, vì đó là chính mầu nhiệm đời sống tình yêu bên trong Thiên Chúa. Tuy nhiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm thiết thân nhất với chúng ta; vì đó là chính sự sống Thiên Chúa ban cho chúng ta. Thiên Chúa đã ban Con của Ngài để Con Ngài đưa chúng ta vào trong cung lòng Chúa Cha nhờ Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là tình yêu luôn nối kết Chúa Cha với Chúa Con, bây giờ lại đến nối kết chúng ta với Chúa Con và Chúa Cha. Vì vậy, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là Thiên Chúa xa cách ngự nơi cao thẳm trên trời, nhưng Ngài đang ngự trong chúng ta và đang hoạt động trong chúng ta. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, Thiên Chúa Ba Ngôi sẽ đến ở trong chúng ta: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy; Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở trong người ấy” (Ga 14,23). Chúng ta sẽ là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta sẽ là những Đền Thờ sống động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Như thế, thưa anh chị em, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mới thực sự là lẽ sống cho đời chúng ta và mỗi lần đọc lên “Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” chúng ta sẽ không còn đọc một cách vô ý thức nữa, nhưng với lòng cung kính mến yêu.
Vậy, giờ đây, chúng ta kính cẩn tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần trong Kinh Tin Kính.
43. Nhìn thấy Thiên Chúa – McCarthy--‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’
Suy Niệm 1. NHỮNG HÌNH ẢNH VỀ THIÊN CHÚA
Có một câu chuyện ở Châu Phi về Thiên Chúa như sau. Một ngày nó lúc Thiên Chúa du hành qua các đại lục mênh mông, khi lên cao khi xuống thấp. Đặc biệt Thiên Chúa nhận thấy một bộ tộc đã đánh mất đức tin vào Người. Vì thế, Người hiện ra trong một cánh đồng nơi có bồn người làm việc, mỗi người một góc. Những người làm ruộng thấy Thiên Chúa đứng đó, giữa một cánh đồng, liền nhìn thật kỹ và rồi họ sấp mình thờ lạy Người.
Kế đó, Thiên Chúa biến mất nhưng vẫn theo dõi việc gì xảy ra sau đó. Bốn người nông dân chạy về ngôi làng của họ, tập họp dân làng và tuyên bố không còn nghi ngờ gì nữa: Thiên Chúa thật sự hiện hữu và chăm sóc họ khi Người ngự xuống viếng thăm họ. Vì vậy, tất cả mọi người phải bắt đầu thờ phụng Người một cách nghiêm chỉnh. Dân làng tiếp nhận tin tức với sự nồng nhiệt. Họ muốn biết những người ấy đã có thị kiến hay không. Thế nên một dân làng hỏi: “Thiên Chúa ăn mặc như thế nào?”.
“Người mặc một cái áo choàng đỏ”, người thứ nhất đáp.
“Không, Người mặc một cái áo choàng xanh lam”, người thứ hai đáp.
“Cả hai anh đều sai”, người thứ ba nói. “Đó là một áo choàng màu xanh lá cây”.
“Các anh điên rồi”, người thứ tư gào to. “Người mặc một cái áo choàng màu vàng”.
Và đến đây, họ bắt đầu cãi nhau. Hết cãi nhau lại đánh nhau. Sau cùng, họ khinh miệt nhau và thù ghét lẫn nhau, và phân chia ra thành bốn bè phái.
Với một chút suy nghĩ, họ có thể dễ dàng đạt đến sự nhất trí. Mỗi người chỉ được nhìn Thiên Chúa thoáng qua. Thay vì nhấn mạnh đến thị kiến toàn diện, họ nên thừa nhận mỗi người chỉ có được một phần thị kiến.
Nếu họ cởi mở đối với quan điểm của người khác thì cuối cùng họ có thể đạt được một hình ảnh rộng rãi hơn và phong phú hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa cao cả hơn tất cả chúng ta. Chúng ta có thể không bao giờ hiểu đầy đủ về Thiên Chúa. Chúng ta đã phải vất vả để hiểu biết những sự vật trần gian. Vậy làm thế nào chúng ta có thể hiểu hết mọi việc trên trời? Chỉ có ơn khôn ngoan mới có thể giúp chúng ta biết những đường lối của Thiên Chúa. Người ta có thể biết những chân lý đức tin nhưng vẫn chưa biết Thiên Chúa.
Có một hình ảnh chính xác về Thiên Chúa là rất quan trọng. Nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm, mọi sự việc khác sẽ mù mờ. Làm thế nào chúng ta có thể cầu nguyện đúng đắn, hoặc có một quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa, nếu chúng ta có một hình ảnh sai lầm hoặc không phù hợp với Người? Người Kitô hữu quan niệm đời sống là một lời đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Để nói Thiên Chúa giống với cái gì, tất cả chúng ta chỉ cần nhìn vào Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ của Thánh Phaolô: “Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình”. Vậy Đức Giêsu giống cái gì? Trong tất cả những hình ảnh mà chúng ta có về Đức Giêsu, một hình ảnh đáng yêu nhất là người Mục Tử Nhân Từ. Chính Đức Giêsu đã dùng hình ảnh ấy. Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Từ, đã thí mạng sống mình cho đàn chiên. Trong Đức Giêsu, chúng ta thấy tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta. Còn về Chúa Thánh Thần? Chúa Thánh Thần là dây liên kết yêu thương giữa Chúa Cha và Chúa Con, và giữa hai ngôi Cha và Con với chúng ta.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi không phải để bàn cãi hoặc nghiên cứu mà để cầu nguyện và để sống. Người Kitô hữu sống trong thế giới của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế giới ấy không phải là một nơi nào đó ở bên ngoài không gian. Nó cũng là thế giới của mỗi ngày. Như trong câu chuyện Châu Phi cho chúng ta thấy Thế giới mỗi ngày là nơi Thiên Chúa biểu lộ chính Ngài cho chúng ta.
Suy Niệm 2. Ý NGHĨA CỦA THIÊN CHÚA
Đức tin không phải là thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc, nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ cong chúng ta. Chúng tôi không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Ngài, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng nói trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quỳ Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ, người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài viết:
“Ôi Đấng Toàn Mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên ngoài, và tìm kiếm Chúa ở bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con mà con không ở với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời Thánh Phaolô đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28).
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong lúc ông vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hoà nhập vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, sâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật” (John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta quy phục nhưng không bị mất chính mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Isaac Newton là một nhà toán học và khoa học vĩ đại của mọi thời. Tuy nhiên về cuối đời ông, ông nói về những thành tựu của mình:
“Tôi không biết tôi xuất hiện với thế giới như thế nào, nhưng đối với tôi, tôi giống như một cậu bé chơi đàn trên bãi biển và thỉnh thoảng thích thú vì tìm thấy một viên sỏi bóng loáng hơn hoặc một vỏ sò xinh đẹp hơn thường gặp, trong khi đại dương bao la của chân lý chưa khám phá vẫn còn trải ra trước mắt tôi”.
Cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ mới bắt đầu. Chúng ta vẫn chỉ là những đứa bé chơi đùa trên bãi biển. Mầu nhiệm tăng lên thay vì giảm bớt với mỗi khám phá mới.
Một số người muốn biết mọi sự, muốn giải thích mọi sự, muốn tháo gỡ mọi sự thành những sự kiện. Nhưng sống với mầu nhiệm là một điều lý thú. Albert Einstein đã nói: “Kinh nghiệm đẹp nhất chúng ta có thể có là kinh nghiệm về điều mầu nhiệm ”. cả khi có đức tin thì mầu nhiệm, bóng tối đều không thế biết vẫn còn. Chúng ta không thể thấy toàn bộ đời sống. Như lới Van Gogh đã nói: “Trên trần gian này, chúng ta chỉ nhìn thấy một nửa bán cầu”.
44. Mầu nhiệm Ba Ngôi trong đời thường--Lm Giuse Đỗ Văn Thụy
Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình: "Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.
Ai trong chúng ta cũng biết câu chuyện về Thánh Augustinô ngày kia gặp một cậu bé đang cố sức lấy một chiếc vỏ sò múc nước biển đổ vào một cái hang. Thánh nhân đã chê cười cậu bé. Nhưng cậu đã đáp lại: việc tôi làm không đáng chê cười bằng việc ngài muốn dùng trí khôn loài người để tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sau một đời ăn chơi trụy lạc và chạy theo tà thuyết, Augustinô đã tìm về với Kitô Giáo. Ngài được xem là điển hình của một sự khao khát và tìm kiếm không ngừng. Điều đó được thể hiện qua một giai thoại như sau:
Augustinô thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến thức và nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí nhiệm về Thiên Chúa, tình cờ ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò múc nước biển đổ vào đó.
Nhưng dã tràng xe cát Biển Đông, cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự: thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước biển đại dương.
Thánh nhân lắc đầu bảo nó: cháu không thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói: múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu nhiệm về Thiên Chúa và thánh nhân đã giật mình tỉnh ngộ.
Quả thật, mầu nhiệm Ba Ngôi là một mầu nhiệm cao cả, trí khôn chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi lại là một mầu nhiệm rất gần gũi với đời sống chúng ta.
Chúng ta cảm nhận mầu nhiệm Ba Ngôi qua cây cối thực vật ngay bên cạnh chung quanh chúng ta. Đây là câu chuyện của tình yêu thương.
Lá cây, thân cây, cành cây và rễ cây cùng yêu thương nhau. Tình yêu của chúng tiếp diễn không ngừng, lá non đâm chồi thay thế cho lá vàng, vỏ cây yêu rễ cây, rễ cây yêu cành cây. Thân cây ôm giữ chúng lại với nhau, và lá cây xõa bóng phủ hết cả thân cây. Thân cây yêu mặt đất và yêu cả bầu trời
Ngay từ khoảnh khắc nó đâm chồi nhú lên khỏi mặt đất, nó luôn cắm sâu vào lòng đất và vươn thẳng lên trời cao. Nó yêu lũ chim chóc xây tổ trên cành của mình, nó yêu bầy thú trú ẩn dưới gốc, nó yêu cả lũ côn trùng nương náu trong từng lớp vỏ cây. Tất cả là một gia đình.
Quả thật, cây cối cho chúng ta thấy một hình ảnh rất sống động về Chúa Ba Ngôi:
- Chúa Cha là bộ rễ cắm sâu trong lòng đất.
- Chúa Con là thân cây và tất cả chúng ta là cành.
Lá cây phải làm việc đêm ngày, ấy thế mà lá không bao giờ ganh tị với hoa khi được con người đến chiêm ngưỡng. Lá cũng không bao giờ ghen tương với những trái cây khi con người nâng niu những trái chín mọng. Thường thường con người chỉ quan tâm đến những nụ hoa và những trái cây trên cành mà hầu như chẳng bao giờ để ý đến lá cây gì cả, ấy thế mà lá vẫn cứ âm thầm làm việc. Quả thật đây là một hình ảnh rất ấn tượng để giới thiệu cho con người tình yêu thương bác ái mà Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta.
- Chúa Thánh Thần chính là nhựa cây lấy từ rễ cây để nuôi sống thân cây, cành cây và lá cây. Cây làm sao sống được nếu không có nhựa cây nuôi sống. Lá làm sao có thể xanh tươi được nếu không được bộ rễ chuyển nhựa cây lên. Cành cây làm sao có trái được nếu không được cung cấp đầy đủ nhựa sống. Như thế nhựa cây rất cần cho sự sống của cây, nhưng nhựa cây lại tùy thuộc vào bộ rễ là chính Chúa Cha.
- Chúa Cha là bộ rễ cắm sâu trong lòng đất. Nhờ Chúa Cha là bộ rễ cắm sâu trong lòng đất mà thân cây mới có thể đứng vững, nhờ đó mới chuyển nhựa lên để nuôi cây, nhờ đó cây mới có thể sinh hoa kết trái.
Nhìn vào rừng cây chúng ta thấy rõ điều này. Quan sát rừng cây, chúng ta thấy có cả ngàn ngàn các loại cây chen nhau mọc trong rừng. Rừng xanh được tạo nên bởi cả rừng cây muôn loại và muôn mầu sắc. Các cây cùng chen nhau mọc vươn lên trong khoảng không, nhưng mỗi cây đều phải bám rễ sâu để giữ thân mình.
Mỗi cây có sự sống và có các kết cấu riêng biệt. Mỗi cây tự mình hút chất bổ để nuôi dưỡng thân mình qua những cách thế được tạo hóa phú bẩm. Cây nào không bám rễ sâu sẽ dễ bị tróc gốc khi gặp mưa to gió lớn. Chúng ta hãy bám chắc vào Chúa Cha như thân cây bám vào bộ rễ cắm sâu trong lòng đất.
Bởi đó, ngày lễ Chúa Ba Ngôi phải là một ngày lễ giúp chúng ta tưởng nhớ đến Bí Tích Rửa Tội, vì nhờ Bí Tích Rửa Tội, chúng ta trở nên con của Chúa Cha, em của Chúa Giêsu và đền thờ của Chúa Thánh Thần. Hơn nữa, Bí Tích Rửa Tội còn nói lên mối dây liên hệ giữa chúng ta và Chúa Ba Ngôi. Đây cũng là điều mà Dấu Thánh Giá nhắc nhở cho chúng ta. Thực vậy, khi làm Dấu Thánh Giá, chúng ta hãy nhủ thầm: tôi đã được rửa tội nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Vì thế, tôi phải chu toàn thánh ý Chúa Cha, thực hiện những lời giảng dạy của Chúa Con và thánh hóa bản thân với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.
Đồng thời, ngày lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, còn đem lại cho chúng ta niềm an ủi và khích lệ. Chúa Cha luôn nhìn xem chúng ta, yêu mến và giúp đỡ chúng ta. Chúa Con luôn khuyên nhủ chúng ta noi gương bắt chước Ngài, quảng đại chấp nhận những hy sinh, những gian khổ. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta làm lành lánh dữ, trao ban cho chúng ta ánh sáng và sức mạnh.
Mỗi ngày chúng ta làm dấu trên mình: "nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Ước gì chúng ta cũng biết in dấu Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Tình Yêu trong cuộc đời ta, để chúng ta không ngừng kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Amen.
45. Tại sao không là một mà phải là ba?--Lm Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Tại sao không là một mà phải là ba?
Ta sẽ trả lời làm sao, nếu có ai đó đặt cho ta một câu hỏi và cũng là câu thách đố như thế này: “Giả như Thiên Chúa chỉ có một Ngôi vị duy nhất chứ không phải ba ngôi, thì điều đó có làm cho đời sống chúng ta thay đổi gì không?” Nói rộng ra nếu khi Giáo hội truy cứu Phúc âm, tầm tra Kinh thánh mà xác định lại Thiên Chúa chỉ là một chứ không phải ba; Giêsu chỉ là con người và Thánh Thần chỉ là thiên thần bậc nhất, cả hai chỉ là thụ tạo chứ không phải ngang hàng Chúa Cha, thì điều đó có làm cho cuộc sống của ta giảm bớt cái gì không? Có buồn hơn không? Hay là vui hơn vì đỡ phải thờ lạy cả hai vị kia. Làm dấu thánh giá có khi khoẻ hơn, vì chỉ cần rờ trán, nhân danh Cha là đủ.…
Tôi có thể đoán được câu trả lời, đại loại như sau: Thiên Chúa Ba Ngôi hay Thiên Chúa một ngôi vị cũng vậy thôi, có lẽ chẳng thay đổi gì là mấy. Tôi vẫn ăn vẫn ngủ vẫn sống… để đi nhà thờ, thờ một Chúa một Ngôi hay Ba Ngôi cũng được!
Nhưng cũng một mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi này mà đặt thành một câu hỏi khác, thì có lẽ câu hỏi sau này ảnh hưởng hơn tới đời sống chúng ta. Câu hỏi như sau: “Nếu Thiên Chúa không phải là Tình yêu thương, thì cuộc sống của chúng ta ở trần gian này có mất bớt hương vị không?” Câu trả lời có thể thấy ngay: Nếu vậy cuộc sống hơi căng đó. Thiếu bóng dáng Thiên Chúa Tình Yêu thì còn lại bóng dáng của Thiên Chúa biết hết mọi sự, dò xét từng hành vi góc cạnh của con người, ghi nhận vào bộ nhớ để đến ngày phán xét mở ra hạch tội: đó là một Thiên Chúa quan toà kiêm mật thám. Nếu Thiên Chúa không phải tình yêu mà là như vậy thì cuộc sống căng thẳng quá bởi vì con người có ai mà không có lỗi. Gioan nói: “Ai nói mình không có tội là nói dối.”
Đến đây, ta đã hé thấy đề tài ta sẽ suy nghĩ: Tại sao Thiên Chúa phải là ba Ngôi Vị?
Thiên Chúa một ngôi, hai ngôi hay ba ngôi chẳng liên hệ gì tới tôi, nhưng Thiên Chúa không phải là Tình yêu thì cuộc sống của tôi đen quá. Điều này liên hệ đến tôi. Vậy ai tinh ý sẽ thấy được câu trả lời cho câu hỏi: tại sao Thiên Chúa phải là ba ngôi vị.
1. Thưa vì Thiên Chúa là Tình yêu.
Nếu Thiên Chúa chỉ là một vị, đơn độc, thì không sao "yêu" được. “Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn, đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không thành…” Là tình yêu thì ít ra phải có hai vị ngang nhau, đồng loại, hai “người” mới yêu nhau được. Còn con người đối với con chó con mèo thì quí mến, chứ không phải là yêu –hiểu đúng nghĩa. Vì thế Thiên Chúa là Tình yêu thì Thiên Chúa phải có ít là hai vị ngang hàng nhau, cùng là Thiên Chúa thật.
Nhưng nếu Tình yêu chỉ có giữa hai vị với nhau, thì tình yêu đó chưa phong phú. Tình yêu phong phú, đầy tràn phải là tình yêu sản sinh, “tình yêu phát sinh tình yêu.” Vì thế Thiên Chúa là tình yêu đầy tràn không thể co cụm giữa hai vị mà là phát sinh vị thứ ba như là hậu quả tất nhiên của một tình yêu sung mãn. Thiên Chúa là Tình Yêu thì Thiên Chúa phải là ba vị. Điều này các đôi bạn trẻ hiểu được hơn ai hết. (Không phải ba vị là mối tình tam giác, có kẻ thứ ba chen vào đâu!). Nên hai người yêu nhau, yêu nhau thật sự (chứ không chỉ lấy nhau để thoả mãn nhau) thì thường mong ước có người thứ ba, tức người con như là hiệu quả cụ thể của mối tình giữa hai người: một mối tình phong nhiêu sản sinh. Hai người lấy nhau mà không muốn có con thì chưa phải là tình yêu. Muốn mà không thể có, thì khác.
Có điều khác biệt giữa Thiên Chúa Ba Ngôi và tình yêu vợ chồng là: Thiên Chúa thiêng liêng, không có hình hài, thể xác, nên không lệ thuộc nơi chốn lẫn thời gian, vì thế nơi Ngài, Ba Ngôi vị khởi từ một lúc, có từ đời đời, chứ không phải đợi chín tháng mười ngày mới có Chúa Thánh Thần. Cha, Con yêu nhau và Thánh Thần là chính Tình yêu (hậu quả của Tình yêu) giữa Cha và Con (Người (CTT) bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra). Vậy tại sao Thiên Chúa phải là ba ngôi vị. Thưa vì Thiên Chúa là Tình yêu phong nhiêu.
2. Vì Thiên Chúa là một gia đình, nên Thiên Chúa phải là ba.
Một gia đình mà tờ hộ khẩu chỉ ghi tên một người, hoặc hai người vợ và chồng thì như còn thiếu. Một gia đình là phải có cha – mẹ – con, mới là gia đình đầy đủ. (Vì thế những vợ chồng son sẻ thường được giáo hội khuyến khích nhận con nuôi).Trong gia đình Thiên Chúa ba ngôi vị, người ta đã so sánh như thế nào với gia đình nhân loại?
- Truyền thống Đông phương thường ví Cha là cha – Con là con – Thánh Thần là mẹ. Vì Thánh Thần là tình yêu bao la. Lòng mẹ bao la như biển thái bình, dạt dào. Trong ca tiếp liên lễ Chúa Thánh Thần, Giáo hội gọi Chúa Thánh Thần là niềm an ủi trong lúc lệ rơi, là nghỉ ngơi trong cảnh cơ hàn. Người mẹ trong gia đình đúng là người an ủi. Lòng mẹ chính là chỗ nghỉ ngơi khi mệt nhọc. Mẹ là Chúa Thánh Thần.
- Nhưng truyền thống Tây phương lại xem Chúa Thánh Thần Ngôi Ba là con, tức là hậu quả của mối tình giữa ngôi I và ngôi II. Hai Ngôi yêu nhau, nhiệm xuất ra ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần.
Bởi thế, ta không cần xét xem Thiên Chúa là một gia đình thì ai là cha, ai là mẹ, ai là con. Cho bằng Thiên Chúa khôn ngoan nhiệm mầu đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, tức là một con người biết yêu thương, và sống trong gia đình.
Đức Piô 12 đã nhận xét: Trong một gia đình mà người cha quên mình đi để chỉ nghĩ đến vợ con, người mẹ quên mình đi để chỉ nghĩ đến chồng con; các con quên mình đi để nghĩ tới cha mẹ, thì gia đình ấy đúng là Thiên đàng. Gia đình là Thiên đàng. Thiên đàng có Thiên Chúa, Thiên Chúa là Tình yêu.
Người vợ đi chợ về, đưa trái cam cho chồng. “Anh ăn trái cam cho có sức đề kháng” (Vitamin C). Người chồng và cũng là người cha không ăn, nhưng lén đưa cho đứa con út, nghĩ rằng nó nhỏ nhất nhà, nó phải được chăm sóc hơn. Con út không ăn, để dành chờ anh hai đi làm về, trao cho anh: “Anh đi làm về mệt cần bổ dưỡng.” Anh cả cầm quả cam – đi xuống bếp, thấy mẹ vất vả anh đề nghị mẹ dùng quả cam này để mẹ thêm sức sống. Quả cam từ người mẹ đi một vòng trở về người mẹ.
Trong gia đình đích thực, câu chuyện quả cam trên vẫn thường diễn ra. Lúc đó hình ảnh quả cam được thay bằng món quà, cục kẹo, xấp vải, chiếc áo…, hay khái quát hơn, tình thương yêu. Tình yêu luân chuyển giữa cha mẹ con cái vợ chồng anh em càng nhiều thì càng xứng đáng là đại diện là bản sao cho Thiên Chúa Ba Ngôi là một gia đình.
Một linh mục giáo sư thần học, dạy môn Thiên Chúa Ba Ngôi cho các nữ tu. Cuối khoá, thầy hỏi: “Các sơ bây giờ đã hiểu mầu nhiệm Ba Ngôi chưa?” Gần như cả lớp đồng thanh: “Dạ hiểu rồi.” Cha bật cười: “Vậy thì các chị giỏi hơn tôi rồi!”
Những ai sống trong gia đình có cha mẹ con cái, hiểu mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi hay hơn các linh mục hì hục lý giải mầu nhiệm này. Bởi lẽ Thiên Chúa là Ba vì Ngài là một gia đình. Hãy chỉ cho chúng tôi, các linh mục, hiểu rõ hơn mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi ngay trong gia đình của anh chị. Đó là lời xin lời mời và là một thách thức các anh chị đó. Giờ thì chúng ta hãy tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi qua Kinh Tin Kính.
46. Sống mầu nhiệm Ba Ngôi trong Chúa Thánh Thần
Là con người có nhiều giới hạn, chắc hẳn chúng ta phải công nhận là chúng ta không thể nào hiểu hết tất cả mọi sự trên thế gian này. Huống chi đối với những điều cao siêu mầu nhiệm. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng trọng thể một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo. Ðó là mầu nhiệm một Thiên Chúa duy nhất trong ba ngôi vị.
Làm sao chúng ta có thể hiểu thấu mầu nhiệm này cũng như sống mầu nhiệm này được nếu không được hướng dẫn bởi ơn trên. Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Khi nào Thần Khí sự thật đến, Ng ười sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn " (Ga 16, 13). Sự thật toàn vẹn ấy là chúng ta đang sống trong tình yêu của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Ðồng thời, trong Chúa Thánh Thần chúng ta cũng được kêu mời sống mầu nhiệm ấy trong cuộc sống hằng ngày.
Chúng ta đã được học giáo lý: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. Có vẻ như Ba Ngôi làm việc riêng lẽ, nhưng nhờ mạc khải của Chúa Giêsu dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần chúng ta biết được trong Cha có Con, trong Con có Cha và Thánh Thần chính là tình yêu giữa Cha và Con.
Do đó, mỗi người chúng ta đang được may mắn sống trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Tình yêu ấy đưa con người lên địa vị làm con trong Chúa Con. Qua Bí tích Rửa tội chúng ta được đón nhận ơn vô cùng cao quý ấy. Rồi qua Bí tích Hòa giải chúng ta lấy lại được ơn ấy do tội lỗi mà chúng ta đánh mất.
Ba Ngôi cùng một uy quyền, cùng một bản thể và cùng một mục tiêu duy nhất. Mục tiêu đó làđem tình yêu và hạnh phúc đến cho con người. Là con của Chúa chúng ta hãy hết sức hãnh diện về điều ấy.
Ðể rồi với niềm hãnh diện đó, mỗi ngày chúng ta cố gắng sống mầu nhiệm này cho thật tốt trong cuộc sống hằng ngày. Ðây là mầu nhiệm độc đáo của người con Chúa. Càng sống yêu thương nhau bao nhiêu chúng ta càng làm cho mầu nhiệm ấy được sáng tỏ bấy nhiêu.
Nguyện xin tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi luôn ở cùng chúng ta và xin Người ban thêm sức mạnh để chúng ta biết sống mầu nhiệm cao cả này cho thật tốt trong cuộc sống.
47. Mầu nhiệm Tình Yêu
Là người Công giáo chắc hẳn ai cũng biết và thuộc nằm lòng ba mầu nhiệm chính trong đạo. Một trong ba mầu nhiệm chính đó là mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Mầu nhiệm mà Giáo hội cho chúng ta mừng cách trọng thể hôm nay. Đây là mầu nhiệm căn bản và nền tảng cho đức tin cho mọi tín hữu.
Chúng ta biết, mầu nhiệm là cái gì đó vượt quá trí khôn con người. Cho nên với sức tự nhiên, chúng ta không thể hiểu nổi. Dầu vậy, với mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, chúng ta có thể hiểu được phần nào khi dựa vào những gì Chúa Giêsu đã mạc khải. Hơn nữa, dựa vào kinh nghiệm tình yêu chúng ta sẽ nhận biết mầu nhiệm này một cách dễ dàng.
Ba Ngôi tuy riêng biệt nhưng luôn hiệp nhất, yêu thương và nên một với nhau. Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa chúng ta đã biết: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa. Thông thường chúng ta nghĩ Ba Ngôi tách biệt nhau và hành động riêng lẽ. Thế nhưng dựa vào mạc khải chúng ta thấy Ba Ngôi luôn hành động cùng nhau.
Ngay từ trang đầu của Sách Sáng thế đã cho thấy: " Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước " (St 1, 1- 2). Như vậy, lúc sáng tạo thì Ba Ngôi đã cùng hoạt động rồi. Thiên Chúa phán: " Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta " (St 1, 26). Hình ảnh của Thiên Chúa chính là yêu thương nhau. Mà Chúa có một ngôi thì làm sao nói là yêu thương nhau được.
Mạc khải ấy được nên trọn vẹn hơn vào thời Tân ước. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thì cùng lúc ấy có tiếng Chúa Cha phán cũng như có Chúa Thánh Thần hiện diện với hình chim bồ câu (Mc 1, 9 - 11). Đặc biệt, chính Chúa Giêsu là hiện thân của Chúa Cha. Người đã trả lời cho ông Philipphê: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy" (Ga 14, 9 - 11)
Từ những điều trên, chúng ta thấy vì tình yêu Ba Ngôi đã đi đến mức tuyệt đỉnh nên không còn là Ba nhưng là Một. Chúng ta có thể lấy hình ảnh tình yêu vợ chồng để minh họa. Khi anh thanh niên yêu cô gái và ngược lại thì cả hai luôn muốn nên một với nhau về mọi phương diện. Dù là hai cá nhân riêng biệt nhưng họ không muốn là hai nữa nhưng chỉ là một. Cả hai mong ước trao hiến trọn vẹn cho nhau đến nổi không còn tha thiết giữ lại gì riêng cho mình. Trong tình yêu con người với nhau đã là vậy huống chi là với tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vì tình yêu của con người luôn là phản ảnh của tình yêu Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta luôn được ở trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi lãnh Bí tích Rửa tội, vị đại diện Giáo hội đã nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi đón nhận ta vào cộng đoàn Giáo hội. Rồi mỗi khi làm dấu thánh giá, Giáo hội muốn chúng ta vừa tuyên xưng vừa tự nhắc mình đang sống trong tình yêu cao đẹp ấy. Đồng thời Chúa và Giáo hội cũng muốn mỗi người chúng ta làm sao cho tình yêu ấy luôn được triển nở qua cách sống của mình. Đó là cách sống vị tha, quảng đại và hiệp nhất với nhau. Xin tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi thương chúc lành cho mỗi người chúng ta.
48. Mầu nhiệm đức tin
Thánh Tôma, một nhà thần học nổi tiếng, đã nói:
- Sống trên trần gian, chúng ta chỉ biết rằng Thiên Chúa vượt lên trên tất cả những gì trí khôn chúng ta có thể mường tượng ra.
Bất kỳ một ai suy nghĩ, đều phải công nhận Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Mà cái nhân của mầu nhiệm này chính là Ba Ngôi. Một điều trí khôn chúng ta chẳng bao giờ có thể khám phá ra.
Trong Cựu ước, chúng ta không tìm thấy một dấu vết nào về mầu nhiệm cao siêu này. Chỉ mình Đức Kitô mới tỏ lộ cho chúng ta hay mà thôi. Thực vậy, Tân ước đã trình bày cho chúng ta thấy mối liên hệ mật thiết giữa Ba Ngôi cực thánh. Tín điều này là nền tảng, là khung cửa dẫn chúng ta vào miền đất của đức tin Kitô giáo.
Từ thưở đời đời, Thiên Chúa đã không cô độc lẻ loi, đã không khép kín, nhưng luôn ngập tràn yêu thương, mở ra và và chuyển thông sự sống. Cách riêng là đối với con người, Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một đặc ân cao quí, đó là được tham dự vào cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Nhờ bí tích rửa tội, Chúa Cha ban cho chúng ta quyền được làm con Ngài, cũng như quyền được thừa kế nước trời, do công nghiệp tử nạn của Đức Kitô, người anh cả của gia đình nhân loại.
Hơn thế nữa, Chúa Cha và Chúa Con còn ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Ngài là sợi dây tình yêu liên kết chúng ta lại với Chúa và với nhau. Chính vì thế, bí tích rửa tội là một ơn huệ vô cùng trọng đại. Nối kết chúng ta lại với Đức Kitô và qua Đức Kitô nối kết chúng ta lại với Chúa Ba Ngôi.
Ngoài ra, bí tích rửa tội còn giúp chúng ta nhận biết bản tính đích thực của Thiên Chúa, bản tính ấy chính là tình yêu. Thánh Gioan, vị tông đồ có diễm phúc tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly, không ngừng nói với chúng ta rằng:
- Thiên Chúa là tình yêu.
Thực vậy, tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một mảnh nhỏ tách ra từ trái tim ngập tràn yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả mọi yêu thương của chúng ta chỉ là một phản ảnh yếu ớt cho tình yêu của Ngài. Tất cả mọi yêu thương liên kết chúng ta lại trong tình bác ái, rập theo khuôn mẫu của Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu tuyệt vời. Đó chính là đỉnh cao của sự thánh thiện, của địa vị và phẩm giá nơi con người.
Thế nhưng, chúng ta phải thành thật thú nhận rằng: Tình yêu là một danh từ quá mung lung và chúng ta chỉ là những kẻ mò mẫm đi tìm một cách thức diễn tả. Chúng ta chỉ có thể thấy được tình yêu đích thực trong việc chiêm ngắm, thờ lạy và vâng phục thánh ý Thiên Chúa mà thôi.
Kể từ năm 1934, Đức Thánh Cha Gioan 22 đã khuyến khích và phát động việc tôn thờ Chúa Ba Ngôi, một điểm quan trọng và nền tảng cho đức tin Kitô giáo, bằng cách mặc cho ngày lễ hôm nay một vẻ long trọng khác thường, đặt nó vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Hiện Xuống, như một kết thúc cho chương trình của Thiên Chúa: tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
Hãy dâng lên Chúa Ba Ngôi tâm tình thờ lạy và ngợi khen, dù ngôn ngữ loài người chỉ là những lời bập bẹ trước vẻ cao siêu tuyệt vời của Thiên Chúa.
Giáo hội luôn thấy ở trước mặt mình mầu nhiệm Ba Ngôi, không phải chỉ trong ngày lễ hôm nay, mà hơn thế nữa, mọi bí tích được thực hiện, mọi lời kinh chính thức được kêu cầu…tất cả đều được làm nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Rồi mỗi khi làm dấu thánh giá cũng như mỗi khi đọc kinh sáng danh, chúng ta đều tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Và nhiều lúc, Giáo hội đã mượn lời thánh Phaolô để cầu chúc cho chúng ta:
- Nguyện xin ơn sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần hằng ở cùng anh chị em.
Hãy đáp lại lời mời gọi của Giáo hội bằng cách dâng lên Chúa Ba Ngôi những tâm tình thờ lạy và cảm tạ, đồng thời hãy cố gắng sống xứng đáng với tình yêu thương mà Chúa Ba Ngôi đã dành cho mỗi người chúng ta.
49. Ba Ngôi yêu thương hiệp nhất
1. Ngày hôm nay cho dù khoa tâm lý học rất phát triển nhưng không phải đơn giản để có thể hiểu được một con người. Cho nên câu nói của người xưa vẫn không kém giá trị: “Dò sông dò biển dễ dò, nào ai lấy thước mà đo lòng người". Vâng đúng thế, vì sự hiểu biết của con người giới hạn, cho nên con người không hiểu nổi chính mình, hay tha nhân, thì làm sao có thể hiểu biết đối với Đấng dựng nên con người. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, là một trong những đoạn Đức Giêsu mạc khải về Một Thiên Chúa, nhưng có Ba Ngôi riêng biệt, đây là mầu nhiệm chính yếu, nền tảng đối với người Kitô hữu.
2. Như người thầy không thể dạy cho các em học trò cấp lớp nhỏ về phép khai căn của một con số, mà chỉ dạy điều nầy ở cấp cao hơn khi các em đủ sức tiếp thu. Cũng vậy, trong Cựu Ước dân Do thái luôn sống gần gũi với những dân ngoại, với niềm tin đa thần... Vì vậy mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi có thể làm cho người Do thái lầm tưởng là có ba Chúa, thay vì Thiên Chúa duy nhất! Có lẽ vì thế trong Cựu Ước mới ám chỉ, chứ chưa nói về Thiên Chúa Ba Ngôi. Chẳng hạn trong sách Sáng Thế, khi nói về tạo dựng, Thiên Chúa được dùng ở số nhiều, tức hơn một ngôi vị, để nói về mình: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống chúng ta" (St 1,26). Sách Sáng thế cũng trình bày về việc "Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước", và Thiên Chúa dùng "Lời" của mình, "Thiên Chúa phán", để tạo dựng vũ trụ vạn vật (x. St 1).
3. Đức Giêsu, Ngôi Lời của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, mạc khải cách rõ ràng về Chúa Ba Ngôi, như đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có thể tóm tắt như sau: Tất cả những gì Chúa Con mạc khải đều là do lãnh nhận từ Chúa Cha và Chúa Thánh Thần sẽ dạy các môn đệ hiểu rõ tất cả những gì Chúa Con dạy. Hay trước khi về trời, qua lệnh truyền của Đức Giêsu, Người nói rất rõ về Thiên Chúa Ba Ngôi: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28,19).
4. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi xem ra khô khan, vượt quá sự hiểu biết của con người! Suy niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi có liên hệ gì đến đời sống ta hay không? Thưa có, tuy Ba Ngôi là Thiên Chúa cao vời, nhưng lại rất gần gũi với cuộc sống của chúng ta, chẳng hạn như:
- Đời sống của chúng ta trong sự liên kết mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hoá ta, đó là giáo lý mà ai trong chúng ta cũng nằm lòng.
- Nhìn vào Chúa Ba Ngôi, chúng ta thấy mỗi Ngôi có phận vụ riêng, nhưng luôn gắn bó với nhau. Điều nầy cho chúng ta suy nghĩ nơi cộng đoàn, nơi gia đình mỗi người trong khả năng của mình cố gắng đảm nhận phần trách nhiệm riêng, nhưng trong tinh thần liên kết, nâng đỡ nhau để chu toàn bổn phận cách tốt nhất.
- "Ba Ngôi Một Chúa" cũng làm cho chúng ta suy nghĩ đến cộng đoàn mẫu về yêu thương hiệp nhất. Nơi Ba Ngôi tình yêu chia sẻ, trao ban: "Người (Chúa Thánh Thần) sẽ tôn vinh Thầy" (Ga 16,14), hay "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy" (Ga 16,15), Ngôi nầy hướng đến Ngôi kia, cho nên tuy ba mà thành một. Nếu đời sống cộng đoàn, gia đình theo gương Ba Ngôi chắc hẳn sẽ tạo nên cộng đoàn, gia đình yêu thương hiệp nhất. Trong phạm vi rộng lớn hơn đó là thế giới nầy sẽ yêu thương nhau bớt hận thù, chiến tranh; bớt chênh lệnh kiến thức, giàu-nghèo, nếu chúng ta biết chia sẻ những giá trị tinh thần, của cải vật chất cho nhau.
5. Tin tưởng, tuyên xưng Chúa Ba Ngôi thực ra không khó, nhưng cái khó là noi gương Ba Ngôi để sống, vậy mọi người hãy nhìn lại đời sống của mình:
- Chúng ta có sống trong tâm tình biết ơn Thiên Chúa Ba Ngôi: Đấng tạo dựng, cứu chuộc và luôn ban ơn nâng đỡ ta mọi giây phút trong cuộc sống?
- Chúng ta có theo gương Ba Ngôi để dám nhận lãnh trách nhiệm và cố gắng chu toàn bổn phận của mình cách tốt nhất đối với Giáo Hội, gia đình...?
- Chúng ta có theo gương Ba Ngôi sống yêu thương hiệp nhất? Đẩy lui hẹp hòi ích kỷ, thay vào đó biết chia sẻ những giá trị tinh thần, vật chất với nhau không? Hãy lắng nghe thánh Phaolô căn dặn: "Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em" (2Cr 13,11).
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi ban cho chúng ta biết sống tâm tình yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân thực sự, nhờ đó chúng ta có được sự bình an hạnh phúc đời nầy và nhất là được hưởng niềm vui mãi mãi với Ba Ngôi mai sau. Amen.
50. Thiên Chúa là Cha--Lm Giacôbê Tạ Chúc
Tháng năm có ngày của Mẹ, tháng sáu có ngày của Cha. Cha Mẹ sinh con ra, qua bao tháng năm nhọc nhằn nuôi con khôn lớn. Ôi tình cha nghĩa mẹ bao là thiết tha.
Người công giáo gọi Thiên Chúa là Cha, nhưng trong bóng dáng của người cha đó, vẫn đong đầy tình mẹ chứa chan. Thiên Chúa là Phụ tử và Ngài cũng là Mẫu tử. Lễ Chúa Ba Ngôi diễn tả một cách tròn đầy một Thiên Chúa duy nhất nhưng phong phú trong đa dạng: Ngài là Cha-Con-Thánh Thần. Nơi Ngài vừa là tình yêu của một người Cha, nhưng không hề thiếu vắng tấm lòng bao la của một người Mẹ.
Như ánh mặt trời cùng lúc cho vạn vật ánh sáng, sức nóng dù nó cách chúng ta đến 150 triệu cây số. Thiên Chúa Ba Ngôi hoạt động và mang lại ân sủng cho con người. Chúa Cha tác thành vạn vật, Ngài sai Người Con nhập thể để cứu vạn chúng sinh. Chúa Thánh Thần được Chúa Giê-su sai đến để soi sáng và thánh hóa con người. Thật vậy, từ đầu lịch sử của công trình sáng tạo, Ba Ngôi Thiên Chúa đã cùng hoạt động, với nhau, cho nhau và vì nhau. Mặc dù trong cựu ước, chưa có một sự quả quyết rõ ràng về Thiên Chúa Ba Ngôi, bởi lẽ, não trạng của dân Do Thái là niềm tin độc thần. Hãy tưởng tượng người nhạc sỹ sáng tác một bản nhạc, anh ta viết ở cung đô trưởng, muốn đánh hợp âm đô trưởng cùng một lúc người ta phải kết hợp một loạt ba note: đô-mi-sol. Ba note tạo thành một hợp âm đô trưởng, khi hát lên bản nhạc nghe du dương vô cùng. Niềm tin vào Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi do chính Đức Giê-su truyền dạy. Giáo Hội qua rất nhiều công đồng đã khẳng định một cách xác tín về điều này. Các Công Đồng quan trọng nhất đã định tín về chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, Công Đồng Constantinopoli năm 381, công đồng Latran IV năm 1215, công đồng Lion II năm 1274, công đồng Floren năm 1439. Dùng lý lẽ hạn hẹp của mình để đào sâu chân lý về Thiên Chúa là điều khó khả thi, nhất là những ai có ý định đem khoa học để giải thích sự hiện diện của Thiên Chúa thì quả là một điều khó hơn “ mò kim đáy biển”. Cũng giống như một người muốn ôm hết biển cả vào lòng, nhưng khi nhảy vào đại dương và bơi vào trong biển khơi thì ngày càng mịt mù ngăn cách. Chỉ trong niềm tin và tình yêu, chúng ta mới có thể thấy Thiên Chúa không đơn độc, ở Ngài tình yêu làm phát sinh muôn điều thiện hảo, và điều thiện hảo lớn lao quá đỗi là khi Thiên Chúa đã ban chính con một mình cho chúng ta. Tình yêu có Ngôi vị của Ngài là nguồn cảm hứng dạt dào để Thiên Chúa như một họa sỹ tài ba, đã vẽ nên một bức tranh tuyệt vời là vũ trụ và con người, nó không ở thể tĩnh mà luôn động. Một khi đặt con người vào trong vũ trụ, Thiên Chúa muốn bộc bạch cho con người thấy, nơi Ngài, tình yêu chính là điểm phát xuất Mầu Nhiệm Ba Ngôi.
Tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi là nét đẹp của hiệp nhất trong những khác biệt. Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai. Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa". Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu.
51. Mầu nhiệm Ba Ngôi
Chúng ta biết do kinh nghiệm cụ thể rằng khi một em bé chào đời trong một gia đình nào đó, thì điều trước tiên em cảm nghiệm chung quanh em là: một tình yêu, một bầu khí âu yếm lan tỏa. Chỉ từ từ em mới gọi tình yêu bao bọc quanh em là ba, là má, là anh, là chị. Tôi nghĩ chúng ta là Kito6 hữu thì cũng phải đi theo một hành trình tương tự đó vào huyền nhiệm Ba Ngôi. Ta cũng được một tình yêu được một bầu khí âu yếm bao bọc. Một tình yêu, một bầu khí lan tỏa nhưng không tên. Nhưng dần dần trong tình yêu đó ta phân biệt được những khuôn mặt để rồi ta bập bẹ gọi tên là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là huyền nhiệm Ba Ngôi một tình yêu qúa phong phú đến độ ta sẽ không bao giờ biết hết được, có kinh nghiệm trọn vẹn được. Cho dù có ai nghiên cứu Kinh Thánh thì có thể khám ra trong đó những giai đoạn lớn của mặc khải về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây chính là cuộc khám phá lớn nhất trong mọi thời đại, mỗi thế hệ Kitô hữu theo một qúa trình thực hiện riêng. Ngày xưa người ta thích nói nhất thể tam vị. Một Thiên Chúa Ba Ngôi nghĩa là người ta muốn nói đến Thiên Chúa thoat ra ngoai định nghĩa, người vượt các định luật toán học. Thánh Augustinô, người đã viết rất nhiều về Chúa Ba Ngôi mà cuối cùng phải thốt lên rằng: Khi người ta nói về Ba Ngôi hẳn là không phải để nói một điều gì đó hơn là để khỏi phải thinh lặng.
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như tất cả những mầu nhiệm đặc biệt Kitô giáo, không tự nhiên dễ hiểu đối với những trí tuệ thích lý luận của con người. Mới đây một đứa trẻ đã nói với cha nó rằng: "Ba mà cũng còn tin những chuyện ấy à?". Phản ứng của đứa trẻ này minh họa rõ ràng cái não trạng vụ khoa học mà ta đã bị thấm nhiễm, và não trạng đó có khuynh hướng chủ trương cái gì có thể kiểm nghiệm được, mới được coi là có thật.
Tuy nhiên, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm đáp ứng được những ước mơ thâm sâu nhất của nhân loại. Bí mật của thế giới chúng ta không phải là cái gì trừu tượng, hoặc một sức mạnh vô danh tăm tối, nhưng là một tình thương..., có thể nói được rằng: "đó là nhịp đập của ba trái tim thương yêu nhau" hoặc nói theo ngôn ngữ truyền thống hơn, nhưng cùng một thực tại lạ lùng đó, ta nói: Thiên Chúa là ba ngôi vị, nhưng ba ngôi là một Chúa duy nhất.
Thật vậy, bạn hãy mở sách Tin Mừng bất kỳ trang nào, bạn sẽ thấy rằng Đức Giêsu không khi nào đóng vai giáo sư dạy môn tôn giáo hoặc môn triết học. Người đã không hề giảng bài về Chúa Ba Ngôi. Người cũng không bao giờ nói ra từ ngữ đó. Không! Nhưng đơn giản là Người đã sống. Người đã sống như một người Con.
Như vậy, cách sử sự và những lời của Đức Giêsu đưa ta vào làm quen với "Ba Ngôi" vừa hoàn toàn tách biệt, tuy nhiên, lại vừa hoàn toàn liên kết nên một. Vâng, Đức Giêsu là Đấng luôn "quy hướng về Đấng khác".
Quả thật, trong suốt lịch sử của nhân loại đi tìm kiếm từ tôn giáo, Đức Giêsu và chỉ một mình Đức Giêsu là người đủ bạo dạn để dám nghĩ rằng: Thiên Chúa không phải là Đấng cô đơn, xoay tròn chung quanh mình, giam hãm mình trong một thứ ích kỷ thánh thiêng..., nhưng Thiên Chúa là Đấng khởi nguồn và làm nẩy sinh mối liên hệ yêu thương.
Lạy Chúa, xin cho con luôn xác tin về mầu nhiệm Ba Ngôi để con không nhưng tin mà còn sống và loan báo mầu nhiệm đó cho những người khác. Amen.
52. Thiên Chúa Tam vị nhất thể--Lm Giacôbê Tạ Chúc
Mỗi lần đọc kinh, hay đi tham dự thánh lễ, mỗi người Kitô hữu đều biết làm dấu Thánh Giá trên mình: “Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần, Amen”.
Cách tuyên xưng Mầu nhiệm Ba Ngôi rất đơn giản và rất hiện sinh trong đời sống bình thường khi thờ phượng một Chúa: Cha-Con-Thánh Thần, mà chúng ta đã thể hiện.
Sách Giáo lý công giáo dạy rằng: “Người Kitô hữu được rửa tội” nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Trước khi lãnh nhận Bí tích, họ phải trả lời ba lần “Tôi tin” để đáp lại những câu thẩm vấn về đức tin vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đức tin của mọi Kitô hữu đều dựa trên mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi (số 232). Trong dòng chảy của lịch sử cứu độ, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chỉ được tỏ tường trong những lời dạy của Đức Kitô: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9). Chúa Giêsu luôn khẳng định Ngài làm theo ý của Cha, và Ngài với Cha là một. Cuộc vượt qua của Chúa Giêsu không phải là một dấu kết của một bản nhạc mà là khởi đầu của một sáng tác mới trong Thần Khí của sự thật: “Thầy sẽ xin cùng Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14, 16). Rõ ràng Chúa Giêsu là một Mạc khải trọn vẹn về một Thiên Chúa duy nhất-Ba Ngôi. Chúa Cha là tình yêu, mà tình yêu thì phải có đốii tượng để trao ban, đối tượng đó chính là Chúa Giêsu. Tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con là một tình yêu trao dâng và hướng về. Tình yêu ấy đạt trọn vẹn dưới tác động của Thần Khí, hay tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con nhiệm sinh Chúa Thánh Thần. Bức Icône “Ba Ngôi” của Rubliov đạt tới mức kỳ diệu của ảnh đạo, khi ông diễn tả một khía cạnh thâm sâu của Mầu Nhiệm Ba Ngôi: Ba Ngôi hòan tòan hướng về nhau. Như thế Thiên Chúa không cô độc trong Mầu Nhiệm Ba Ngôi. Từ tình yêu giữa các Ngôi vị, mà Thiên Chúa đã tác thành con người để chia sẻ tình yêu cho chúng ta. Ba Ngôi vị hướng về nhau trọn vẹn, kết hợp với nhau và là Một với nhau. Ba Ngôi vị có cùng Bản Thể với nhau nhưng không phải là một Bản Thể đóng kín, một Bản Thể cá vị, mà là một Bản Thể mở rộng. Nhờ thế mà con người được đưa vào trong chính cung lòng của Ba Ngôi Huyền Nhiệm.
Tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi không là một trạng thái Tĩnh, nhưng luôn ở dạng Động. Tham dự vào đời sống Ba Ngôi, đó là nền tảng của sự hiệp thông trọn vẹn vào đời sống của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Mỗi lần cử hành mầu nhiệm vượt qua, chúng ta tiến tới cuộc khổ nạn và Phục sinh vinh hiển nhờ Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, tiến tới Chúa Cha (per Christum in Spiritu Sancto ad Patrem).
53. Chúa Ba Ngôi
Các nhà thần học cổ điển đã thường tranh luận với nhau về vấn đề tương quan giữa tin và hiểu. Tin trước hiểu sau hay là hiểu trước rồi mới tin sau, đó là hai chiều kích luôn song hành với nhau. Đức tin tìm được sự hiểu biết hay là hiểu biết tìm đến đức tin. Thật ra, hiểu rồi tin hay tin rồi mới hiểu là hai chiều kích không thể thiếu được trong sinh hoạt của con người. Một con người có trí khôn để hiểu biết, nhưng lại là một trí khôn có giới hạn. Tin và hiểu, hiểu rồi tin cần bổ túc cho nhau luôn mãi trong cuộc sống nhân bản của con người cũng như trong cuộc sống Kitô.
Trước mầu nhiệm Thiên Chúa vô cùng cao cả được mạc khải cho con người hữu hạn thì yêu cầu phải hiểu rồi mới tin, có thể là một yêu cầu của con người tự phụ, tự kiêu. Nhưng ngược lại, nếu chỉ muốn tin mà không cần hiểu biết gì cả thì cũng dễ dàng rơi vào trong sự mù quáng khó tin.
Trước mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ Chúa nhật hôm nay, nếu cứ xoay quanh vấn đề tin và hiểu thì có lẽ chúng ta sẽ không đi đến đâu cả.
Chúa Giêsu đã áp dụng phương pháp đặc biệt khác đối với các tông đồ để mạc khải cho các ngài về mầu nhiệm Thiên Chúa, đó là kinh nghiệm sống cao độ giữa Chúa Giêsu và các tông đồ mà cao điểm là kinh nghiệm Chúa Phục sinh và biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống để hướng dẫn các ông tiến sâu vào trong mầu nhiệm của Thiên Chúa. Các tông đồ cần sống với kinh nghiệm sống với Chúa Giêsu và cần Chúa Thánh Thần hướng dẫn để có thể đi sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa này, và khám phá ra mầu nhiệm Thiên Chúa đó không phải một Thiên Chúa đơn độc, nhưng là một Thiên Chúa phong phú gồm cả Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Khi mời theo Chúa và cả khi gần kết thúc cuộc đời theo Chúa trên trần gian, các tông đồ đã không hiểu gì cho lắm về mầu nhiệm Thiên Chúa như được Chúa Giêsu mạc khải. Các ngài còn tranh tụng với nhau về địa vị lớn nhỏ, muốn ngồi bên hữu, bên tả của Chúa. Tranh tụng với nhau về lúc nào sẽ thiết lập lại vương quốc cho dân tộc Israel và tranh tụng với nhau biết bao chuyện thường tình khác nữa của con người trần tục.
Kinh nghiệm sống của các ông với Chúa Giêsu chắc có lẽ sẽ không đi đến đâu, sẽ không phát sinh hiệu năng làm các ông trở thành chứng nhân cho Chúa, bao lâu các ông chưa hiểu mối liên hệ nào giữa cuộc đời của các ông với cuộc đời của Chúa Giêsu: Theo Chúa để làm gì? Và có ích gì cho cuộc sống?
Hành động của Chúa Giêsu Phục sinh ban Chúa Thánh Thần xuống trên các tông đồ có thể nói là hành động cuối cùng để hoàn tất công cuộc mạc khải mầu nhiệm Thiên Chúa, để đưa các tông đồ vào mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn. Chúa Thánh Thần sẽ dẫn đưa chúng con đến vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần sẽ đến để dẫn đưa chúng con vào trong sự thật mỗi ngày một trọn vẹn hơn, sâu xa hơn.
Đó là điều mà chúng ta nghe được trong bài Phúc âm hôm nay, một đoạn trích ngắn từ bài diễn văn dài của Chúa Giêsu cho các tông đồ trong bữa Tiệc Ly. Đó là con đường tương quan sống động giữa Thiên Chúa và con người. Nếu mất đi hay không có mối tương quan này thì e rằng những đồ đệ của Chúa ngày xưa cũng như chúng ta hôm nay sẽ chỉ là những kẻ mang danh hiệu là người Kitô, người Công giáo trống rỗng, không có nội dung, không có cuộc sống thánh thiện chi cả.
Tiếp xúc hằng ngày với Chúa Giêsu, các tông đồ cảm nghiệm được rằng, mầu nhiệm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải trước mắt các ông qua lời giảng dạy và qua những dấu lạ Chúa làm là một mầu nhiệm rất phong phú về Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, luôn luôn hiệp nhất với nhau và luôn luôn yêu thương con người, muốn biến đổi con người để con người sống yêu thương hiệp nhất với nhau và với Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần có một ý định rõ ràng là mời gọi các ông, mời gọi những con người đi theo Ngài hãy cộng tác vào chương trình hành động của Thiên Chúa trong lịch sử, để tình thương Thiên Chúa được hiện diện mãi trong con người.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức của trí khôn con người, một trí khôn có giới hạn nhưng lại tự kiêu, không chấp nhận giới hạn, muốn đặt vấn đề về tất cả mọi sự và thắc mắc tại sao Thiên Chúa có một mà lại có ba ngôi? Chúng ta hãy vượt qua sự tò mò ý thức này để kiểm điểm lại mối tương quan sống động giữa ta với Thiên Chúa hiện nay. Mối tương quan đó như thế nào rồi? Đang sinh sống tốt tươi hay đã héo hon. Xin Chúa giúp chúng ta thiết lập lại mối tương quan này, cảm thấy được Thiên Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta và xác tín về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta, và để cho tình yêu đó biến mọi người chúng ta mỗi ngày trở nên chứng nhân cho Ngài giữa anh chị em.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, Ba Ngôi Thiên Chúa của tình yêu thương, xin gìn giữ chúng con trong tình yêu mãi mãi và biến mỗi người chúng con trở nên những chứng nhân làm chứng cho tình yêu này. Xin Chúa thương gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
54. Mầu nhiệm
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm thâm sâu, cao cả nhất, vì là chính đời sống nội tại của Thiên Chúa, và đây cũng là mầu nhiệm trung tâm và nền tảng của các mầu nhiệm khác. Bởi vì các mầu nhiệm khác như Nhập Thể, Cứu Chuộc, Sống Lại, Lên Trời, Hiện Xuống đều đặt nền tảng trên mầu nhiệm này, hoặc chỉ hiểu được nhờ mầu nhiệm này. Nhìn vào lịch sử cứu chuộc, chúng ta thấy rõ ràng có Ba Ngôi hoạt động: Chúa Cha sai Con mình xuống trần cứu thế, Chúa Con sinh làm người thực hiện ý định cứu chuộc của Chúa Cha. Rồi Chúa Thánh Thần được cả Chúa Cha và Chúa Con gửi đến để trợ giúp và thánh hóa mọi người và mỗi người hoàn thành ơn cứu chuộc của mình.
Như vậy, khi dạy cho chúng ta biết công cuộc cứu chuộc của Ngài, Thiên Chúa đồng thời cũng dạy cho chúng ta biết về Ba Ngôi nơi Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể biết được mầu nhiệm này nhờ Thiên Chúa trực tiếp mạc khải. Tuy nhiên, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu. Con số 1, 2, 3 là để đếm đo. Mà đã đếm đo thì phải là những gì hữu hình, có lượng, có chất thì mới đếm đo được. Thiên Chúa vô hình, thiêng liêng, không lệ thuộc vào không gian và thời gian như chúng ta, thì làm sao đo đếm được. Mặc dầu mầu nhiệm này đã được chính Chúa Giêsu dạy bảo qua ngôn ngữ của loài người, nhưng vẫn là chuyện khó hiểu. Tuy nhiên, khó hiểu mà không nghịch lý.
Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy có Ba Ngôi. Ba Ngôi thật sự phân biệt nhau, khác nhau, nhưng Ba Ngôi chỉ có một bản tính duy nhất là bản tính Thiên Chúa, nên chỉ có một Thiên Chúa thôi. Ngôi Cha và Ngôi Con là một: một bản tính, một quyền năng như Chúa Giêsu đã quả quyết: “Cha Ta và Ta là một”. “Cha Ta làm sao thì Ta làm y như vậy”, “Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha”. Ngôi Ba và Ngôi Hai cũng là một, như Chúa Giêsu đã nói: “Chúa Thánh Thần sẽ đến từ Cha và Ta. Người chỉ nói những gì nghe biết bởi Chúa Kitô”, “Ai nói dối Chúa Thánh Thần thì cũng nói dối chính Thiên Chúa”. Những điều trên cho chúng ta biết: Ba Ngôi đồng bản tính với nhau, nếu không đồng bản tính thì không thể có sự liên hệ và lệ thuộc mật thiết giữa Ba Ngôi như vậy được.
Trong cuộc đời trần thế này, nơi chúng ta còn đang bước đi trong đức tin, chúng ta không thể hiểu được hết, được nhiều về một mầu nhiệm cao cả và thâm sâu như vậy. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào trong giới hạn chật hẹp của trí tuệ con người và qua những hình ảnh tương đối, bất toàn, mượn nơi thế giới loài người, như hình tam giác đều, ba tài năng của con người: hiểu, nhớ và muốn. Ba giai đoạn của thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Điện có sức làm chuyển động, đốt nóng và soi sáng… Chúng ta dùng kiểu nói nào hay hình ảnh nào để diễn tả thì cũng chỉ là tương đối vậy thôi, vì ngôn ngữ loài người không thể diễn tả hết được, như có người đã nói: “Đố ai định nghĩa được tình yêu”, phương chi là nói tới Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có một câu chuyện kể rằng: một hôm, khi suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thánh Âu Tinh, trong một thị kiến, nhìn thấy mình đi bách bộ trên bãi biển. Bên bờ đại dương bao la, ngài nhìn thấy một em bé chơi một trò chơi kỳ lạ. Em đào một lỗ nhỏ giữa cát trắng, và dùng một cái vỏ sò múc nước biển đổ vào lỗ ấy. Cho đến bao giờ em mới múc được hết nước đại dương đổ vào cái lỗ nhỏ ấy? Không thể làm được. Thì ra đó là một thiên thần từ trời xuống dạy cho nhà tiến sĩ Âu Tinh một bài học về Thiên Chúa Ba Ngôi: đừng hòng dùng lý trí để mà tìm hiểu bản thân của Thiên Chúa vô hình và siêu việt, người ta chỉ có thể dùng con tim để mà tiếp xúc và hiệp thông mà thôi.
Thế nên, chúng ta hãy xin Thiên Chúa cho lòng chúng ta được khiêm tốn. Đừng bao giờ điên rồ đòi “giải quyết vấn đề Thiên Chúa”, đứng mất công bóp trán hòa hợp số 1 với số 3, vì Thiên Chúa không phải là một vấn đề hay một bài toán để chúng ta giải quyết. Nếu Thiên Chúa nằm trong sự giải quyết của con người thì không còn phải là Thiên Chúa nữa, mà chỉ là sản phẩm do trí óc chật hẹp của con người tạo ra. Nhưng đâu phải trí óc chúng ta tạo nên Thiên Chúa, chính Thiên Chúa đã tạo nên trí óc chúng ta.
Xin đề nghị một điều, hay đúng hơn là nhắc lại một điều, bởi vì điều này chúng ta đã và đang làm rồi, đó là làm dấu thánh giá. Mỗi lần làm dấu thánh giá là một lần chúng ta biểu lộ lòng tôn kính và tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Điều muốn nói ở đây là chúng ta hãy làm dấu thánh giá mỗi khi có thể và nhất là làm nghiêm trang, tôn kính, đúng vị trí từng ngôi trên trán, trên ngực và trên hai vai đàng hoàng, chứ đừng làm ẩu, vội vàng như đuổi ruồi muỗi hay vẽ bùa, vừa bất kính vừa không ích lợi gì. Ước mong từ nay, trước khi làm một việc gì, chúng ta hãy làm dấu thánh giá với tất cả ý thức và niềm tin: Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.
55. Ba Ngôi: mầu nhiệm
Trong cuộc sống, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn con người vẫn không bao giờ hiểu thấu nổi. Để diễn tả các điều khó hiểu của cuộc sống, cha ông ngày xưa mới đố nhau:
Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, Biết mây mấy tầng.
Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió, Gió đừng rung cây.
Nhưng tất cả mọi điều khó hiểu trong cuộc sống con người có lẽ tình yêu là khó hiểu nhất. Vâng, chỉ nguyên định nghĩa tình yêu thôi cũng đủ để hao tổn bao công sức và giấy mực, qua các thời đại mà vẫn không có được một định nghĩa diễn tả trọn vẹn ý nghĩa. Và vì không có được một định nghĩa như vậy nên người ta mới coi tình yêu như là mầu nhiệm vậy.
Nhưng tình yêu ấy có đáng là gì so với các mầu nhiệm của Thiên Chúa, mà trong các mầu nhiệm của Thiên Chúa thì mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà ngày hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính là mầu nhiệm cao cả nhất, khó hiểu nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta. Như sách giáo lý của Giáo Hội khẳng định: “Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trọng tâm của đức tin và đời sống Kitô hữu. Bởi vì đây là mầu nhiệm về đời sống nội tại của Thiên Chúa mà cũng là mầu nhiệm của Thiên Chúa “cho chúng ta” “.
Vậy vấn đề đặt ra cho chúng ta ở đây đó là phải hiểu và đón nhận mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm quá cao siêu này như thế nào.
Khi nói đến mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, có người thì chấp nhận một cách thụ động, coi như một sự thật hiển nhiên không cần tìm hiểu thêm, người khác thì cố gắng dùng những hình ảnh cụ thể để so sánh chân lý cao siêu này hầu dễ được tin nhận hơn như ngọn lửa của que diêm, cả ba đặc tính: sáng, nóng và cháy xuất hiện cùng một lúc và không thể tách rời nhau, hoặc với một tam giác đều có ba cạnh, ba góc bằng nhau. Nhưng tốt hơn hết, chúng ta tuyên xưng: đây là mầu nhiệm đức tin, nghĩa là chúng ta đón nhận trọn vẹn chân lý ấy nhờ tin vào mạc khải của Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Bởi vì nếu không có Thiên Chúa mạc khải, thì chúng ta không biết gì về Ba Ngôi, việc nhập thể của Con Thiên Chúa hay sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Như thánh Gioan tông đồ vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc đời, cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu mới định nghĩa được “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là tình yêu tức là tự chính nơi Thiên Chúa là yêu thương và là nguồn gốc của mọi tình yêu.
Vâng, chính vì tình yêu mà Chúa Cha sinh ra Chúa Con; đã trao cho Chúa Con tất cả, ngay chính bản thân mình, như trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Đức Giêsu khẳng định rõ ràng: “mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy”. Và Chúa Cha yêu Chúa Con đến nỗi luôn ở trong Chúa Con, hiệp thông làm một với Chúa Con. Nên khi tông đồ Philipphê tha thiết muốn được xem thấy Chúa Cha, Đức Giêsu đã trả lời ngay: “Ai thấy Thầy là thấy Cha. Anh không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy sao?” Và chính sự kết hợp giữa Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất ra một tình yêu, tình yêu ấy lại là một ngôi vị, đó là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là luồng tình yêu từ Chúa Cha đến Chúa Con và từ Chúa Con đến Chúa Cha, là sức mạnh tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Vì thế, trong Ba Ngôi luôn có một sự đón nhận, trao hiến và hiệp thông tình yêu vĩnh cửu trong một Thiên Chúa duy nhất.
Quả thực, tình yêu nào cũng muốn bộc lộ, muốn hiệp thông, muốn trao hiến, người yêu nào cũng muốn tỏ tình thì đối với tình yêu Thiên Chúa chúng ta còn mạnh mẽ gấp bội. Qua công trình sáng tạo Thiên Chúa muốn vũ trụ vạn vật và con người hiệp thông với Ngài để đón nhận tình yêu và sự sống. Ngay cả khi con người sa ngã, chối từ lòng thương ấy thì Thiên Chúa “vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” nên “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một cho thế gian”. Người Con Một ấy chính là Đức Giêsu. Qua Đức Giêsu mà chúng ta thấy được bộ mặt của Thiên Chúa, Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là yêu thương. Qua kiếp sống làm người, qua cái chết đau thương, Ngài muốn tỏ ra cho nhân loại thấy rằng Ba Ngôi Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta. Đặc biệt qua biến cố Phục sinh của Đức Giêsu chính Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu hiệp thông vừa nối kết Đức Giêsu lại với Chúa Cha, làm cho Đức Giêsu làm một với Chúa Cha vừa nối kết nhân loại với Thiên Chúa và với nhau. Và vì yêu thương cho đến cùng, nên Giáo Hội là Dân Thiên Chúa được sinh ra từ tình yêu của Chúa Cha, được Chúa Con thiết lập, được nuôi dưỡng và hoàn tất nhờ Chúa Thánh Thần để qua sự hiện diện của Giáo Hội như một dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại luôn mãi.
Đối với Giáo Hội, qua bao thời đại vẫn không ngừng thể hiện căn tính của mình cho nhân loại thấy mình vừa là dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, vừa hiệp thông với Thiên Chúa trong tình yêu, đặc biệt qua đời sống phụng vụ, như Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế về Giáo Hội đã trích lại câu mấu chốt của thánh Cyprianô rằng: “Giáo Hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta nhận thấy nếu Thiên Chúa là tình yêu và con người đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa thì một cách tất yếu phẩm giá của con người đã được xây dựng trên tình yêu. Vì thế, ai chối bỏ tình yêu, gieo rắc hận thù thì người đó đã chối bỏ con người và do đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Trái lại “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”.
Hôm nay Thiên Chúa Ba Ngôi đang dùng tiếng nói của Giáo Hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy sống hiệp thông trong tình yêu của Ngài hơn nữa. Cụ thể là thành viên trong gia đình mỗi người chúng ta xem đã hiệp thông với Thiên Chúa Ba Ngôi để đón nhận và thể hiện tình yêu của Ngài như thế nào? Rồi, giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ với con cái và giữa anh chị em với nhau đã thực sự yêu thương nhau góp phần làm cho gia đình mình trở nên dấu chỉ và hình ảnh sống động của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa tình yêu nơi trần gian hay chưa?
Nếu Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta tôn thờ là nguồn mạch tình yêu đã trao ban tình yêu qua chương trình cứu độ và sẵn sàng đón nhận mọi người hiệp thông với Ngài, thì Ngài cũng đang mong chờ thái độ đáp trả của chúng ta, một thái độ biết đón nhận, trao hiến và hiệp thông tình yêu với Ngài và với anh em đồng loại.
Trong thánh lễ này chúng ta cùng cầu xin Chúa Thánh Thần, Đấng là tình yêu hiệp thông luôn hướng dẫn đời sống mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta, giúp chúng ta biết lắng nghe và thực hành lời của Chúa Giêsu để cùng với việc can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi như qua việc làm dấu thánh giá, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, chúng ta biết sống bác ái yêu thương trong gia đình, khu xóm, cộng đoàn của mình, để xứng đáng là những nghĩa tử của Chúa Cha và luôn được sống hiệp thông trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa.
56. Lễ Chúa Ba Ngôi
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi. Dịp này cũng giúp cho chúng ta thấy rõ hơn về tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người. Khi chiêm ngắm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta có những cảm nghiệm về tình yêu của Ngài như sau.
Thứ nhất: Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sách giáo lý Công giáo dạy rằng: "Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo và đời sống Kitô giáo. Đó là nguồn mạch của tất cả các mầu nhiệm khác của đức tin. Đó là giáo huấn căn bản nhât và chủ yếu nhất trong "Phẩm trật các chân lý của đức tin" (GLCG 134). Thật thế, Ngài là một thực tại giống như không khí chúng ta đang hít thở để bảo tồn sự sống. Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm gống như mầu nhiệm của sự sống. Bất kỳ sự sống nào không liên kết chặt chẽ với Thiên Chúa đều vô nghĩa. Và trống rỗng. (Ga 15, 4; 1Cr 13,1-3). Do đó, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi nhắc nhở chúng ta biết rằng Thiên Chúa đang hiện hữu, điều khiển và nâng đỡ từng giây phút của mọi sinh hoạt vạn vật và nhân sinh trên vũ trụ.
Thứ hai: Thiên Chúa Ba Ngôi là một liên hệ yêu thương. Lịch sử cứu rỗi nhân loại là cuộc gặp gỡ tình yêu giữa Thiên Chúa và con người. Trong Tân Ước, các Tông Đồ mới gặp gỡ Chúa Giêsu, họ đã thấy Ngài là một Con Người tuyệt hảo, đầy thu hút. Họ đem lòng yêu mến, "un coup de foudre" bỏ mọi sự bước theo Ngài (Mc 1, 16-20; Mt 4, 18-22). Dần dần qua sự liên hệ thân mật giữa Chúa Giêsu và các Tông Đồ, Ngài cho họ biết những điều bí mật về Thiên Chúa Cha, về chính Ngài là Thiên Chúa Con, và về Đức Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4, 6). Và sự liên hệ là: "Ta và Chúa Cha là một" (Ga 10, 30).
Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi để chia sẻ sự sống và tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả cuộc sống Kitô hữulà sự liên đới và hiệp thông với mỗi ngôi vị của Ba Ngôi, mỗi người Kitô hữu là đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị: " Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14, 23). Nên chúng ta cần bày tỏ sự kính trọng và yêu thương đối với mọi người chúng ta gặp gỡ. Sự kính trọng và yêu thương như những cơn mưa tưới nước xuống vườn hoa. Khi mưa rơi trên những cây hoa, nó sẽ nở bông, khi con người được cư xử với sự kính trọng và yêu thương, họ cũng sẽ nở hoa, vì có ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị nơi họ.
Thứ ba là Thiên Chúa Ba Ngôi chính là Sự Thật. Thiên Chúa Ba Ngôi chính là sự thật mà mỗi người phải dựa trên đó để sống có ý nghĩa và được cứu rỗi. Yêu mến Thiên Chúa là sống trong sự thật, và chỉ có sự thật mới giải thoát đuợc con người (Ga 8, 32). Chúa Giêsu đã nói: "Ta là đường, là sự thật, và là sự sống" (Ga 14, 6). Đức Chúa Cha đã sai Chúa Con đến để dẫn đưa con người về với sự thật của ơn cứu rỗi mà Ađam và Eva đã bị ma quỷ lừa dối (Rm1, 20; Ep 1, 3). Và chính Đức Chúa Giêsu đã gọi Chúa Thánh Thần là Thần Khí Sự Thật: "Khi nào Thần Khí Sự Thật đến,Ngài sẽ hướng dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn" (Ga 16, 13; 14, 17; 15, 26)
Khi chúng ta xum họp nơi đây để chúc tụng và Tôn vinh Chúa Ba Ngôi, chúng ta chấp nhận rằng đây là một mầu nhiệm, một chân lý không ai có thể hiểu được giảng giải được. Chúng ta biết đó là sự thật, vì Chúa Giêsu đã nói với chúng ta về Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta đón nhận, tin, vì Chúa Giêsu đã dạy, chúng ta tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguồn mọi sự thiện hảo.
Chúa Ba Ngôi là ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Chúng ta là con cái của Người nên chúng ta đi trong đường lối của Người, tín thác hoàn toàn và yêu thương như Ngài đã yêu.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin giúp chúng con biết yêu thương và sống chứng nhân về tình yêu mà Ngài dành cho chúng con. Amen.
57. Ba Ngôi: Ý nghĩa
Đức tin không phải là một thứ tự kỷ ám thị. Đây là ân sủng của một sự gặp gỡ mầu nhiệm với một Đấng nào đó. Nó ở bên ngoài mọi lý lẽ và cảm xúc, nhưng lý lẽ và cảm xúc cũng có thể hiện diện. Chúng ta có thể hiểu Thiên Chúa bằng trí óc và bằng giác quan. Thật vậy bằng toàn bộ con người chúng ta. Chúng tôi không nói về một xác tín của trí tuệ, mà về một cảm thức về Thiên Chúa – một cảm giác. Đó là một kinh nghiệm tuyệt vời làm sao.
Nhà văn Nga, Tolstoy kể lại câu chuyện một đêm kia, ông đang cầu nguyện Thiên Chúa trong giường ngủ của ông trước một ảnh Đức Bà Đồng Trinh của Hy Lạp. Ngọn đèn đêm đang cháy. Kế đó ông ra ngoài ban công. Đêm tối đen như mực, và bầu trời đầy sao – sao mờ, sao sáng, một đám sao hỗn độn. Có một vẻ lóng lánh trên bầu trời, và trên địa cầu có những bóng đêm và hình dáng những cây khô. Ông nói: “Đó là một đêm kỳ diệu. Làm thế nào mà người ta không tin vào linh hồn bất tử khi người ta cảm thấy sự vĩ đại vô biên như thế trong bản thân mình? Tôi có thể chết. Và tôi nghe một tiếng trong nội tâm nói với tôi: Người đấy, ông hãy bái quì Người và thinh lặng”.
Người nào có cảm giác về Thiên Chúa và về sự hiện diện của Người trong đời sống, người ấy thật hạnh phúc. Đó là tài sản duy nhất đang có. Như một người đã nói: “Tôi không cần tin Ngài. Vấn đề đức tin không còn quan trọng nữa. Tôi biết chính điều ấy”.
Khi người ta biết một điều gì, thật sự biết một cách thâm sâu trong tâm hồn họ. Người ta không cần biện luận hoặc chứng minh điều đó. Họ biết đúng điều đó và như thế là đủ. Đức tin thật sự là một ơn của Thiên Chúa. Người ta tin với tâm hồn dù không biết tại sao hoặc cũng không tìm kiếm sự hiểu biết. Một sự chắc chắn thân thiết đổ đầy tâm hồn người ta cũng đủ.
Khi chúng ta có một cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới, chúng ta không còn cảm thấy lẻ loi cô độc trong thế giới. Chúng ta có thể nhìn thấy với sự thán phục và yêu thương mọi tạo vật như là công trình của một Đấng Nghệ Nhân là bạn của chúng ta.
Cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới là một phúc lành cao cả, nhưng cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta là một phúc lành còn cao cả hơn. Suốt đời, thánh Âu Tinh đã học theo điều đó. Ngài viết:
“Ôi Đấng toàn mỹ từ muôn đời cho đến muôn đời, con đã yêu Chúa chậm trễ, vâng, con đã yêu Chúa chậm trễ. Chúa ở bên trong con, nhưng con ở bên ngoài, và tìm kiếm Chúa ở nơi bên ngoài ấy. Và thật vô duyên, con đắm chìm trong những sự vật khả ái mà Chúa đã tạo dựng. Chúa ở với con, mà con không ở với Chúa. Những vật thụ tạo giữ con xa cách Chúa; tuy rằng nếu chúng không ở trong Chúa thì chúng sẽ không còn hiện hữu. Tại sao con lại cầu xin Chúa đến với con khi mà nếu Chúa không ở với con, con sẽ không còn hiện hữu”.
Chúng ta gặp Thiên Chúa không phải chỉ trong thế giới bên ngoài chúng ta nhưng trong thế giới bên trong chúng ta, và thấy rằng Người gần gũi chúng ta hơn là chúng ta vẫn nghi ngờ. Người tham dự vào chúng ta như lời thánh Phaolô đã nói: “Chính ở nơi Người mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu”.
Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi dù không rõ ràng ở nơi nào. Người giống như một nhà viết tiểu sử mà công việc là kể lại câu chuyện trong lúc ông vẫn đứng ở hậu cảnh.
Đối với nhiều người, sự im lặng của Thiên Chúa là một vấn đề lớn. Nhưng “Một Thiên Chúa ồn ào và hiển nhiên sẽ là một bạo chúa áp bức, không an toàn thay vì là một sự động viên không giới hạn đối với bản chất yếu đuối và hay sợ sệt của chúng ta. Câu đáp lại của Người hòa nhập vào cuộc hành trình dài, gồm những sự kiện to lớn của đời sống, xâu thành chuỗi xuyên suốt mọi vật” (John Updike).
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà chúng ta qui phục nhưng không bị mất chính mình.
58. Thiên Chúa Ba Ngôi
Để giải thích mầu nhiệm THIÊN CHÚA BA NGÔI có người dùng đặc tính của mặt trời:
- Phát ánh sáng
- Toả sức nóng
- Xoay tròn quanh mình
Tuy nhiên, chúng ta biết, mặt trời chỉ là một trong những thụ tạo của Thiên Chúa Ba Ngôi, nên chúng ta không thể chỉ dùng mặt trời và 3 đặc tính của nó mà giải thích được về Thiên Chúa, Đấng tạo dựng muôn loài. Mặt trời chỉ là một thụ tạo của Thiên Chúa, lại khá gần gũi với cuộc sống chúng ta. Thế nhưng, chúng ta biết được gì về mặt trời? Chúng ta biết tạo sao mặt trời có khả năng chiếu sáng liên tục không? Tại sao mặt trời sưởi ấm được trái đất dù cách xa hơn 145 triệu km?
Người ta đoán rằng, trên mặt trời có năng lượng hạt nhân hay nhiên liệu chi đó đốt cháy liên tục, nhưng cũng chưa có ai lên tới đó được để nhìn tận mắt, đo đạc hẳn hoi bằng máy móc xem thực hư thế nào.
Mặt trời chỉ là một trong những thụ tạo của Chúa, loài người xem thấy hằng ngày mà cũng chưa hiểu biết về nó cho đủ, huống chi là Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng tạo dựng vũ trụ, là chủ của mặt trời và muôn vì tinh tú. Điều chúng ta thấy thực tế nhất là tận hưởng những tính năng của mặt trời, để phục vụ cho con người. tính năng đó là ánh sáng, là hơi ấm để chúng ta sống, làm việc. Nhờ có ánh sáng mặt trời mà cây cối mới quang hợp tạo ra dinh dưỡng, các sinh vật mới phát triển và cung cấp nguyên liệu cho con người. Thử nghĩ, nếu không có mặt trời thì thế giới này sẽ chìm vào trong tăm tối, lạnh lẽo, băng giá.
Nhớ mùa đông năm trước, ánh sáng mặt trời chỉ hơi yếu ớt một chút mà khi ra đường, tôi mặc mấy lớp áo cũng không đủ ấm. Lúc đó tôi ước gì có một ngày nắng hè thì sướng biết bao.
Tôi không biết rõ tại sao mặt trời có thể chiếu sáng và sưởi ấm suốt hàng triệu năm mà không hết năng lượng. nhưng tôi chắc một điều là tôi đang được thừa hưởng ánh sáng và sức nóng của mặt trời.
Tương tự, đối với mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, tôi không thể hiểu cho thấu đáo, tường tận. Thế nhưng, tôi biết mình đang được Chúa Ba Ngôi yêu thương quan phòng. Chúa Cha đã tạo dựng vũ trụ này, trong đó có tôi. Chúa Con yêu thương nhân loại và đã hiến mình cứu chuộc tôi, Chúa Thánh Thần tiếp tục hướng dẫn chúng ta trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Chính Chúa đã tỏ lòng yêu thương tôi và mọi loài. Ngài không thiên vị, Ngài nhân hậu từ bi, cho mưa xuống trên người liêm khiết lẫn kẻ bất lương. Ngài muốn cho tất cả mọi người được hạnh phúc.
Đáp lại tình yêu thương vô bờ đó, chúng ta hãy vâng nghe lời Ngài, vâng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và tuân giữ lề luật Chúa ban. Chắc chắn, những gì Chúa dạy chúng ta là vì ích lợi cho phần hồn chúng ta và đem tới hạnh phúc vô cùng đời sau. Chúa không dạy chúng ta làm điều gì vượt quá sức mình, nhưng là điều chúng ta có khả năng chu toàn. Chúng ta hãy sống theo lời Ngài dạy để xứng đáng với phẩm giá là con cái Chúa Ba Ngôi, là thụ tạo hữu hình tuyệt vời nhất trên trái đất do Chúa tạo dựng.
59. Lãnh nhận một cái mền!
Các thánh ký Phúc Âm đã có một cảm nghiệm về Thiên Chúa là Đấng Vô Cùng giầu sang, hoàn mỹ, và uy quyền mà không một chữ, hoặc một hình ảnh nào có thể diễn tả được. Cần phải là ba để diễn tả cách đầy đủ sự sung mãn và phong phú của Thiên Chúa, Đấng mặc khải mình cho chúng ta. Một Chúa, chứ không phải ba Chúa. Tín điều Chúa Ba Ngôi, sự cảm nhận được Ba Ngôi Thiên Chúa, hay là bất cứ cái gì đi nữa, đều qui về một Chúa. Thiên Chúa của chúng ta là Chúa duy nhất! Sự cảm nghiệm về Thiên Chúa bằng cách này đã là nguồn sức sống cho các tín hữu thời sơ khai. Do cái cảm nghiệm này đã làm cho họ có sức mạnh để nhận biết Tình yêu mà họ chưa từng có bao giờ biết từ trước. Cái cảm nghiệm này là một điều cực kỳ quan trọng trong cuộc sống của họ, và cuộc sống của chúng ta nữa.
Chuyện đã xảy ra thời Tân Ước đó là Chúa Giêsu đã đến giữa họ, và họ đã cảm nghiệm được Thiên Chúa trong một cái nhìn mới mẻ đầy sửng sốt mà không thể nào giữ trong lòng nổi. Họ phải loan truyền Tin Mừng này ra cho toàn thể thế giới. Điều họ đã nhận ra là Thiên Chúa Cha, Đấng yêu thương họ vô cùng, hiện diện trong Người Con, và Người Con đã hiện thân ở giữa họ. Thiên Chúa, trong Người Con, đã hiện diện ở giữa họ như là một thần tượng tuyệt hảo trong cuộc sống của con người.
Chúng ta tụ tập nơi đây bởi vì chúng ta muốn biết làm sao để sống một cuộc đời Kitô giáo. Đây là một mẫu gương cho chúng ta. Đây không phải là những cảm nghiệm mơ hồ về Thiên Chúa mà chúng ta không thể nào nắm được. Thiên Chúa đang hiện diện như là một người giữa chúng ta. Như các Kitô hữu thời sơ khai đã cảm nghiệm được sự mặc xác của Thiên Chúa và đã sống qua những biến cố của Quyền Năng Phục Sinh, họ nhận ra trong một cách mới mẻ Thiên Chúa yêu thương họ biết bao.
Hơn thế nữa, họ còn có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa bằng một cách khác, một điều mới xảy ra. Họ diễn tả cái đó giống như là ngọn gió thổi qua. Họ nói đó là những ngọn lửa sống động, ấm áp, và linh thiêng. Họ khám phá ra cái cảm nghiệm này của sự hiện diện Thiên Chúa ở trong họ, và nó làm cho họ được sống động. Họ nhận ra rằng họ được tẩy rửa. Cái mặc cảm tội lỗi trong người của họ đã được tẩy xoá và được tăng thêm sức mạnh. Họ đã có thể đứng lên trước công chúng, vua chúa, và rao giảng Tin Mừng. Bởi Chúa Thánh Thần quá tuyệt hảo, các thánh ký đã nhắc đến Ngài hơn 350 lần bằng nhiều cách thế khác nhau. Chẳng hạn Đấng Bảo Trợ, Đấng Bào Chữa, Thần Chân Lý, Đấng Ban Phát Ơn Phúc, Ánh Sáng của Tâm Hồn, Đấng Ban Sức Mạnh, Đấng An Ủi.
Vào một buổi sáng ngày Chúa nhật, một bà mẹ đã nói với người con cả rằng, "Billy, hôm nay mẹ không thấy khỏe để đi lễ được, con đi lễ đi." Và Billy đã đi Lễ. Lễ song, khi Billy về nhà, mẹ chàng hỏi, "Hôm nay con ngồi ở đâu?" "Thì con vẫn ngồi ở chỗ cũ," Billy trả lời mẹ. Câu trả lời đó đã làm cho mẹ cậu nghi ngờ, bà liền tiếp, "Thế hôm nay bài Phúc Âm nói về cái gì?" Billy ngẫm nghĩ và trả lời cách ngập ngừng, "Ờ...để xem coi, hình như hôm nay có cái gì đó liên quan đến vấn đề lãnh nhận một cái mền." Thế là xong! Mẹ cậu liền gọi cho cha xứ và hỏi cha hôm nay bài Phúc Âm nói gì, cha liền trả lời, "Hãy kiên nhẫn, các con sẽ nhận lãnh sức mạnh..."
"Các con sẽ nhận lãnh sức mạnh" Chúa Giêsu phán, "khi Thần Chân Lý đến trên các con" Đó là sức mạnh của tình yêu. Đó là sức mạnh biến đổi. Đây không phải là điều gì mới mẻ cả. Các bạn đã biết cả rồi. Tuy nhiên, có khi nào bạn để ý để mà suy nghĩ và đem ra thực hành không? Những hàng chữ chỉ là những chữ chết nếu không được đem ra thi hành.
Các thánh ký Phúc âm đã nghĩ đến việc chúng ta thành thật trước mặt Chúa về con người của chúng ta; về những cái đưa đẩy tranh chấp trong cuộc sống của mình; về những cái chống đối và địch thù khi thi hành đức ái của Chúa Giêsu trong cuộc sống; về cách thức chúng ta làm cho người khác đau khổ; về những cái khác biệt khinh thị người này người nọ; về cách thức chúng ta che đậy hoặc bào chữa những lỗi lầm của mình. Các thánh ký hằng luôn kêu gọi chúng ta hãy đối diện với hiện thực về chính con người của mình trước mặt Chúa.
Khi chúng ta thống hối, thành thật, và khi chúng ta biết phá đi những cái cản trở trong cuộc sống, thì lúc đó chúng ta sẽ bắt đầu cảm nghiệm được cuộc sống của Chúa trong chúng ta. Các bạn sẽ trở thành con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng từ ban đầu. Một con người yêu thương. Các bạn sẽ có cái nhìn mới mẻ về những người thân trong gia đình.
Thần Khí Chân Lý đang chờ đợi bạn để dẫn dắt và cảm hóa bạn với những điều tuyệt diệu sau: Tôi đi tìm linh hồn của mình, nhưng tôi không thấy. Tôi đi tìm Chúa, mà Chúa ẩn náu ở đâu. Tôi đi tìm người anh em, và tôi gặp ở đó cả ba.
60. Gia đình yêu thương là hình ảnh gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa--Lm Thu Băng
Trong đoạn Tông thư Thánh phaolô có lời cầu chúc: "Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng ta và tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em" là một lời mạc khải xác quyết của Ngài về gia đình đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi, trong đó có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Mầu nhiệm về Thiên Chúa duy nhất đồng một bản thể nhưng có Ba Ngôi riêng biệt và hành động khác nhau đã được các thánh Tông Đồ tuyên tín ngay trong thời khơi dựng Giáo Hội qua kinh Tin kính. "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng dựng nên trời đất muôn vật. Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô Con một Đức Chúa Cha, xuống thế làm người, chịu chết chuộc tội cho thiên hạ Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng ban sự sồng...". Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của chính Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã nói cho chúng ta biết về Chúa Ba ngôi. Chúng ta cũng tin như thế vì thế giá của các thánh Tổ phụ và các thánh khác đã được Chúa mạc khải cho. Thánh Augustinô dạy: "Màu nhiệm Chúa Ba ngôi chỉ có thể hiểu được khi chúng ta được hợp nhất với Chúa trên thiên đng"
Thánh Augustinô là vị đại thánh Tiến sỹ của Giáo hội, ngài đã suy nghĩ và tìm hiểu để dạy cho mọi người biết về Chúa Ba ngôi thế nào khi ngài đi bách bộ trên bờ biển. Chúa đã sai một thiên thần nhỏ đến nơi ngài đang suy niệm, lấy con sò múc nước biển đổ vào lỗ con dã tràng đào trên cát. Augustinô thấy em làm việc các thích thú, nhưng có về kỳ ngộ đối với ngài, nên ngài đến hỏi em:
- Em làm việc gì mà ngộ thế?
Em trả lời:
- Cháu có ước vọng tát cạn nước biển khơi bằng cách múc nước đổ vào lỗ con dã tràng này.
- Không được đâu em, biển thì rộng bao la, nước biển thì dạt dào mà lỗ dã tràng thì nhỏ bé, làm sao tát cạn được biển.
Thiên thần nhỏ trả lời:
- Cháu nghĩ cháu có thể làm được việc này và tát cạn được nước biển cách dễ dàng hơn điều ngài đang suy luận trong lòng về Thiên Chúa Ba ngôi nữa.
Nói rồi Thiên thần biến đi và lời đó đánh thức ngài về với thực tại con người. "Tát cạn nước biển còn dễ hơn việc suy về Chúa Ba ngôi" và ngài đã kết luận "Thiên Chúa Ba Ngôi là một màu nhiệm chỉ có thể hiểu đủ khi ta được về trời". Tuy nhiên ngài cũng dùng nhiểu thí dụ cụ thể để giải đáp những thắc mắc theo trí óc loài người. Ngài diễn tả sự DUY NHẤT của Thiên Chúa Ba Ngôi như một hình tam giác đều với đầy đủ mọi đặc tính như nhau và bằng nhau của toán học.
Ngài cũng dùng ngọn đèn cầy để diễn tả TÁC ĐỘNG RIÊNG của mỗi Ngôi: Ngọn lửa nguồn chính, là Chúa Cha phát sinh ra ánh sáng là Chúa Con để cứu người ta khỏi ngồi trong bóng tối tội lỗi. Ngọn lửa cũng đem hơi ấm là Thánh Thần để thánh hóa, sưởi ấm mọi cõi lỏng cô lạnh. Cả ba hành động khác nhau nhưng cũng do một nguồn là ngọn lữa.
Ta cũng có thể diễn tả sự NHẤT TRÍ và HÒA HỢP của Chúa Ba ngôi trong tư tưởng và hành động như người chơi dương cầm: Cây đàn là Chúa Cha hợp với năng khiếu, tài khéo của đôi tay là Chúa Con để dệt lên những cung điệu nhịp nhàng thánh thót là sự sống động của Chúa Thánh thần, làm thỏa lòng người nghe. Tuy ba hành động khác nhau nhưng cả ba đều hợp nhất trong hành động, đều hòa hợp trong việc làm. Chính sự hợp nhất vả hòa đồng ấy mà Thiên Chúa Ba Ngôi cảm thấy mình hạnh phúc không chi sánh bằng, một hạnh phúc bất tận và miên trường trong sự trường cửu của Ngài.
Thánh Phaolô đã cảm khoái được sự hợp nhất yêu thương này nơi Thiên Chúa nên ngài khuyên chúng ta: "Anh chị em hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí, hãy hòa thuận với nhau thì Thiên Chúa, nguồn sự bình an hạnh phúc sẽ ở với anh chị em" (2 Cor 13:12). Gia đình Chúa Ba Ngôi là một gương mẫu yêu thương, hòa thuận và nhất trí. Chúng ta cũng hãy gắng tạo cho gia đình chúng ta nên một gia đình nhất trí trong yêu thương và trong che chờ đùm bọc như vậy.
Một trong những năn trở dễ phá vỡ hạnh phúc gia đình, tôi muốn lưu ý anh chị em là sự khó chịu buồn bực do bạn bè, do chủ hãng, do sở làm, do nhà trường, do hoàn cảnh giao tế xã hội... tạo nên cho mình rồi khi về nhà không gạt bỏ, không để nó ở ngoài cửa, mà đem về trút đổ trên con cái, trên vợ chồng... gây khó khăn cho nhau, làm mất đi bầu khí hạnh phúc gia đình. Chớ gì khi về nhà chúng ta chỉ sống cái bầu khí của gia đình: yêu thương, chia sẻ, nâng đỡ, an ủi nhau.... Đó là hình ảng của gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa, duy nhất, thánh thiện, nhất trí và yêu thương.
Nguyện xin Chúa Ba ngôi soi dẫn trí lòng mỗi người trong gia đình chúng con, biết sống đúng địa vị trong nhà, biết hợp lòng nhất trí với nhau trong tư tưởng và hành động để chúng con trở nên một gia đình hạnh phúc, nên hiện thân của Gia đình Ba ngôi Thiên Chúa giữa trần gian. Amen.
61. Ba bộ mặt
Khi quảng diễn về năng lực mặt trời, Denis Hayes, một nhà môi trường học, nhận xét rằng mặt trời đang chiếu sáng trái đất chúng ta. Nó cũng sưởi ấm cho trái đất chúng ta. Giờ đây nó sẵn sàng và đang chờ đợi để năng lực hóa những hoạt động của trái đất chúng ta.
Chúng ta có thể nghĩ rằng mặt trời như là một người bạn vĩ đại, quảng đại trên bầu trời, có gồm ba bộ mặt. Mỗi bộ mặt mỉm cười trên chúng ta theo mỗi phương thức khác nhau. Và mỗi nụ cười là kết quả đem lại những điều lành mạnh cho chúng ta.
Bộ mặt đầu tiên mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những ánh sáng chiếu rọi trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ hai mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức nóng để sưởi ấm trái đất chúng ta. Bộ mặt thứ ba mỉm cười, và nụ cười đó đưa ra những tia sức mạnh để năng lực hóa trái đất chúng ta.
Chỉ có một người bạn duy nhất trên bầu trời, thế nhưng người bạn duy nhất này có ba bộ mặt khác nhau. Và khi mỗi bộ mặt mỉm cười, nó chúc phúc cho chúng ta theo một phương thức đặc biệt.
Những nhận định của Hayes về mặt trời đưa ra một cuộc giới thiệu hiệu nghiệm cho ngày Lễ mà chúng ta mừng kính hôm nay: Lễ Chúa Ba Ngôi.
Đơn giản hóa, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nghĩa là trong Thiên Chúa có ba ngôi vị khác nhau. Thiên Chúa Cha là Thiên Chúa. Thiên Chúa Con là Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Thế nhưng, không phải là ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa duy nhất.
Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa theo phương thức mà chúng ta nghĩ về mặt trời: như là có ba bộ mặt.
Trước tiên, bộ mặt của Thiên Chúa như là Thiên Chúa Cha. Khi bộ mặt Thiên Chúa là Cha mỉm cười, nó đưa đến nguồn gốc của chúng ta và nguồn gốc của tất cả mọi sự: từ hàng vạn ngôi sao lấp lánh trên bầu trời đến những con chim trời hót líu lo, rồi đến muôn vàn thứ cá trong biển cả.
Thứ đến, bộ mặt Thiên Chúa như là Thiên Chúa Con. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Con mỉm cười, thì xảy ra là Thiên Chúa từ trời xuống thế làm người, chia sẻ bản tính nhân loại của chúng ta, đi với chúng ta, và chỉ tỏ cho chúng ta phải sống và yêu thương như thế nào.
Sau cùng, bộ mặt Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần. Khi bộ mặt Thiên Chúa như là Thánh Thần mỉm cười, thì điều đó đưa Thiên Chúa vào nội tâm chúng ta, cư ngụ trong đó, làm cho chúng ta trở nên những đền thờ của Đấng Tối Cao - dùng hình ảnh của Thánh Phaolô: "Anh chị em không biết rằng thân thể anh chị em là đền thờ của Chúa Thánh Thần trong anh chị em hay sao?"
Và như thế, chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa giống y như là chúng ta nghĩ về mặt trời: như là người bạn vĩ đại yêu mến có ba bộ mặt. Bộ mặt Thiên Chúa là Cha, là Thiên Chúa tạo dựng. Bộ mặt Thiên Chúa là Con là Thiên Chúa làm người. Bộ mặt Thiên Chúa là Thánh Thần, là Thiên Chúa thánh hóa, cho chúng ta chia sẻ Thiên tính của Thiên Chúa.
Chúng ta cùng nhau làm Dấu Thánh Giá tuyên xưng đức tin: Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần.
62. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có phải tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa đều đã được mạc khải qua Đức Giêsu Kitô, và không còn gì để nói về Thiên Chúa ngoài những mạc khải ấy?
2. Theo Đức Kitô, “khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Thần Khí sự thật đã đến chưa, và Ngài đã mạc khải sự thật về Thiên Chúa như thế nào?
3. Có thể có nhiều cách nhìn khác nhau nhau về Thiên Chúa không? Các cách nhìn ấy có thể mỗi cách đều có giá trị riêng của nó không? Tại sao?
4. Ba Ngôi Thiên Chúa có khác biệt nhau không? Sự khác biệt ấy làm cho Ba Ngôi hợp nhất hay chia rẽ? Sự khác biệt giữa mọi loài, mọi vật, mọi tôn giáo trên thế giới, có nằm trong ý muốn của Thiên Chúa không?
Suy tư gợi ý
1. Còn nhiều điều phải nói về Thiên Chúa hơn những điều đã nói ra.
Đức Giêsu đến thế gian để mạc khải cho con người biết về Thiên Chúa, nhưng đời Ngài quá ngắn ngủi (33 năm), mà trong đó Ngài chỉ dành một phần thời gian rất nhỏ (3 năm) để giảng dạy. Làm sao Ngài có thể nói hết về Thiên Chúa, Đấng vô cùng vô tận? Thế giới này là hữu hạn, thế mà con người nghiên cứu hết đời này đến đời khác, thế kỷ này đến thế kỷ khác, và đã có hàng tỷ cuốn sách viết ra về thế giới, thế mà vẫn không hết. Con người lúc nào, thời nào cũng vẫn khám phá ra cái mới về thế giới, vũ trụ. Thế giới hữu hạn mà còn vậy, Thiên Chúa là Đấng vô hạn, lẽ nào Đức Giêsu lại chỉ cần nói trong 3 năm mà hết được? Giả như Đức Giêsu có dành ra 100 hay 1000 năm để nói về Thiên Chúa, thì cũng không nói hết được, vì Ngài là Đấng vô biên và phong phú khôn lường! Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Chúa Cha, Ngài nói: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi”. Nghĩa là về Thiên Chúa thì còn nhiều điều phải nói lắm, nhưng có nói thêm thì các tông đồ lúc ấy chẳng lãnh hội được!
“Không có sức chịu nổi”, vì chân lý về Thiên Chúa thì quá cao siêu, mà khả năng hiểu biết của con người thì quá hạn hẹp, nông cạn, làm sao trong một thời gian quá ngắn con người hiểu biết được. Những môn học dành cho cấp 3, thì học sinh cấp 2 không thể lãnh hội được. Cũng vậy, Đức Giêsu không thể nói cho các môn đệ những điều về Thiên Chúa vượt quá khả năng lãnh hội của họ lúc đó được, vì nói mà họ không hiểu thì vô ích. Ngài chỉ nói trong khả năng lãnh hội hạn hẹp của họ mà thôi. Phải chờ trình độ hiểu biết, suy tư và tâm linh của họ cao hơn, thì mới có thể nói những điều cao siêu, khó hiểu hơn.
Vì thế, chúng ta đừng quá ảo tưởng về những điều đã được mạc khải qua Đức Giêsu, cho đó là trọn vẹn, là gồm đầy đủ tất cả những gì có thể nói về Thiên Chúa. Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta lại quá hữu hạn như thế sao?
2. Thần Khí sự thật sẽ tiếp tục mạc khải
Con người có nhu cầu hiểu biết về Thiên Chúa. Vì thế, việc mạc khải về Thiên Chúa vẫn được tiếp tục mạc khải qua lịch sử con người bởi Thánh Thần, như Đức Giêsu đã hứa: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”. Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần, nhưng Ngài không nói gì cả. Và chắc chắn trong suốt chiều dài lịch sử con người, Ngài còn xuống trên rất nhiều người khác nữa, thuộc tất cả mọi thời đại. Cách mạc khải của Thánh Thần không phải theo kiểu của Đức Giêsu: nhập thể thành một người để nói với một số người. Mà theo kiểu ngôn sứ Giôen đã báo trước: “Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta, cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ” (Cv 2,17-18; xem Ge 3,1-2).
Nếu tất cả những gì Đức Giêsu nói không phải là tất cả những gì có thể nói được về Thiên Chúa vô hạn, thì chắc chắn còn nhiều điều được mạc khải về Thiên Chúa là do Thánh Thần của Ngài, ngoài những gì Đức Giêsu đã nói. Theo ngôn sứ Giô-en được Phê-rô nhắc lại trong sách Công vụ tông đồ, thì trong lịch sử con người, Thần Khí đã được đổ xuống trên rất nhiều người, để họ nói lên những chân lý về Thiên Chúa, và đó chính là mạc khải của Thánh Thần. Những mạc khải ấy ở đâu? là gì? Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ, và rất có thể nhờ đó, ta thấy được chỗ đứng của các tôn giáo trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa.
Vì khi Ngài là chủ tể điều khiển lịch sử, thì việc xuất hiện các tôn giáo lớn trên thế giới không thể là ngoài thánh ý của Ngài. Nhất là khi Ngài lại để cho các tôn giáo ấy xuất hiện và phát triển trước Kitô giáo. Chẳng hạn tại châu Á, đang khi các tôn gio khác xuất hiện từ những thế kỷ đầu công nguyên, thì mãi đến thế kỷ 15, Thiên Chúa mới cho Kitô giáo được truyền bá một cách có qui mô tại châu Á. Tại sao Thiên Chúa lại để Kitô giáo đến trễ như vậy? Ngài có muốn Kitô giáo cạnh tranh với các tôn giáo khác không? – Chúng ta phải nhận ra ý muốn của Ngài qua việc Ngài đã làm trong lịch sử, chứ không phải là đoán ý của Ngài qua sự mong muốn của chúng ta! Trời cao hơn đất bao nhiêu thì thánh ý Ngài cao hơn ý chúng ta như vậy! (xem Is 55,8-9)
3. Muôn loài vạn vật đều đa dạng và đa diện
Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật đa hình đa dạng, và vật nào cũng đều đa diện. Vật nào cũng đều có thể có nhiều cách nhìn khác nhau, do nhiều người khác nhau nhìn từ nhiều vị trí khác nhau. Cùng một vấn đề, nhưng người nhìn thấy thế này, kẻ nhìn thế khác: một bác sĩ khó có thể có cùng một cách nhìn với một kỹ sư, và lại càng khác xa cách nhìn của một bác nông dân. Chẳng ai dám kết luận là cách nhìn này đúng, cách nhìn này sai, mà chỉ có thể kết luận rằng chúng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau. Thiên Chúa vẫn luôn luôn thích có sự đa dạng trong vũ trụ. Chẳng hạn đối với loài hoa, Ngài đã dựng nên hàng vạn loại khác nhau, trong đó mỗi loại đẹp mỗi vẻ. Chắc chắn Ngài và bất kỳ ai trong chúng ta, chẳng ai muốn dẹp đi mọi loại hoa, chỉ để tồn tại một loài mà ta nghĩ là đẹp nhất mà thôi. Như thế thế giới này sẽ bớt phong phú, sẽ trở nên buồn tẻ hơn. Cũng thế, chắc hẳn Ngài cũng không thích trên thế giới này chỉ tồn tại một cách nhìn duy nhất về Ngài, một cách thờ phượng duy nhất dành cho Ngài theo kiểu một tôn giáo nào đó, vì như thế, thế giới sẽ trở nên đơn điệu, buồn tẻ. Chính vì thế, Ngài đã cho lập nên nhiều tôn giáo, nhiều ý thức hệ khác nhau, không phải để nhân loại chia rẽ nhau, mâu thuẫn nhau, mà để bổ túc cho nhau.
Thiên Chúa muốn người ta hợp tác với nhau, yêu thương nhau, chấp nhận sự khác biệt của nhau, hơn cả sự hoàn hảo cá nhân của họ. Chính vì thế, Ngài đã không dựng nên những con người hoàn hảo, có khả năng tự độc lập. Mà Ngài đã dựng nên những con người không hoàn hảo: người được mặt này mất mặt kia, kẻ được mặt kia nhưng lại mất mặt này, để con người cần lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại, hầu nhờ đó họ cộng tác với nhau, yêu thương nhau. Cũng như người nam và người nữ nhờ khác nhau, nhờ không hoàn hảo (người được mặt này kẻ được mặt kia), mà họ yêu thương và kết hợp với nhau thành vợ chồng.
4. Hãy bắt chước Ba Ngôi Thiên Chúa của chúng ta
Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi khác biệt nhau, mỗi Ngôi một vẻ. Nhờ vậy, Ba Ngôi yêu thương nhau, hợp với nhau thành một Thiên Chúa duy nhất. Ba Ngôi tuy khác biệt nhau, nhưng lại chấp nhận nhau, cần lẫn nhau, hợp tác với nhau, yêu thương nhau, sống chung hòa bình với nhau. Ba Ngôi không bao giờ muốn tiêu diệt nhau để chỉ còn một Ngôi tồn tại. Ba Ngôi đều bằng nhau, tôn trọng nhau, tôn trọng cả sự bình đẳng giữa nhau, không Ngôi nào muốn vượt trội hơn để thống trị Hai Ngôi kia.
Mọi người, mọi gia đình, mọi tập thể, mọi tôn giáo, cần bắt chước Ba Ngôi trong những khía cạnh ấy. Đừng ai mong mình vượt trội hơn những người khác, muốn thống trị những người khác, muốn chiếm địa vị độc tôn, độc quyền. Ba Ngôi của chúng ta là một Ba Ngôi hợp nhất, nhưng hợp nhất ở đây là thứ hợp nhất trong đa dạng, chứ không phải hợp nhất trong đồng nhất. Mọi tập thể, mọi gia đình, mọi tôn giáo, cần phải chống lại cơn cám dỗ muốn hợp nhất bằng cách làm mọi sự thành đồng nhất: muốn mọi người chỉ còn một cách nhìn, một cách suy nghĩ duy nhất là cách của mình. Trái lại, cần phải tôn trọng sự khác biệt và bình đẳng, thì nhân loại mới có nhiều khả năng yêu thương nhau, và sống chung hòa bình với nhau được.
Mọi chia rẽ, chiến tranh trong gia đình, trong tập thể đều phát xuất từ ý của một người nào đó muốn áp đặt ý của mình lên người khác, muốn thống trị, muốn trổi vượt, muốn độc tôn. Và cái ý ngông nghênh ấy cuối cùng chỉ là những hình thức thể hiện tính kiêu ngạo, ích kỷ, muốn tự đề cao mình.
Cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, xin cho mọi người, mọi tập thể trên trần gian, trong đó có Giáo Hội của chúng con, biết bắt chước tinh thần yêu thương hợp tác của Ba Ngôi: biết yêu thương nhau, biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của nhau, không áp đặt lẫn nhau, ép người khác trở nên giống mình, nghĩ như mình, nhưng muốn cho nhau cùng tồn tại, để cùng xây dựng một thế giới hòa bình, yêu thương và hợp nhất với nhau. Đó cũng chính là Nước Trời mà Đức Giêsu muốn xây dựng cho trần gian.
63. Suy niệm của GP. Vĩnh Long
Anh chị em thân mến.
Giờ phút này đây, chúng ta đang bắt đầu một ngày mới. Ánh bình minh đã từ từ ló dạng.
Đó là một việc rất bình thường cho con người. Có khi nào lúc màn đêm buông xuống, khi lên giường chợp mắt, chúng ta chợt giật mình suy nghĩ: nếu ngày mai không có ánh mặt trời, và mãi mãi mặt trời sẽ biến mất, chúng ta không biết mình sẽ ra sao. Nhưng rất may đều đó đã không xảy ra. Sau một đêm dài nghỉ ngơi dưỡng sức, chúng ta lại được chào đón ánh bình minh tươi đẹp, với vầng mặt trời từ từ hiện đến, mang những tia nắng ấm áp cùng với ánh sáng chan hòa bao phủ trần gian. Mỗi ngày mặt trời vẫn trung thành xuất hiện, vẫn tỏa sáng và mang hơi ấm đến cho con người. Nếu người nào biết tận hưởng, thì đây là điều rất hữu ích. Còn nếu ai quá lạm dụng, thì cho dù có tầng ozone bao bọc, họ cũng không tránh khỏi hậu quả tai hại do sự lạm dụng quá đáng.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta vừa nghe lại những Lời quý báu Chúa Giêsu nói:
"Khi Thần Chân Lý đến Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật" Người sẽ làm vinh danh Thầy, vì Người lãnh nhận từ nơi Thầy mà loan truyền cho các con "Tất cả những gì Cha có đều là của Thầy".
Chúa Giêsu muốn tỏ cho loài người biết về mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi cùng hợp nhất không bao giờ chia rẽ, cho đến nỗi Ba Ngôi mà chỉ có một.
Mầu nhiệm cao cả nầy, chúng ta biết từ rất lâu, nhưng hiểu không được bao nhiêu. Như một đứa trẻ, nó biết cha mẹ yêu thương, nhưng không biết được tình yêu thương đó như thế nào. Nhưng chúng ta thử lấy tâm tình của một trẻ thơ mà tìm hiểu Chúa Ba Ngôi theo những gì mình hiểu biết.
Chúng ta thử ví Thiên Chúa Cha như vầng mặt trời,
Chúa Giêsu như ánh sáng được chiếu tỏa từ mặt trời,
Chúa Thánh Thần là sức nóng từ vầng mặt trời có ánh sáng phát ra.
Mặt trời vẫn trung thành với trái đất như thế nào, Thiên Chúa cũng trung thành với loài người như thế, và còn hơn thế nữa, vì mặt trời thì dường như vô tri, còn Thiên Chúa, Ngài yêu thương loài người, tất cả những gì Ngài thực hiện đều phát xuất từ lòng yêu thương. Không thể có một khối mặt trời mà không có ánh sáng và sức nóng. Cũng thế Thiên Chúa hiện hữu trong một bản tính duy nhất nhưng Ba Ngôi Vị riêng biệt.
Thiên Chúa Ba Ngôi còn hiện hữu qua con người của chúng ta. Con người chúng ta được mang hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là công trình tạo dựng của Thiên chúa Cha. Con người được cứu chuộc để được tỏa sáng, được trong sạch. Đó là công trình cứu chuộc của Ngôi Hai. Con người được ban cho sức mạnh để những việc làm đạt kết quả tốt đẹp. Đó là sức nóng của Chúa Thánh Thần nung đốt
Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình, nhìn lại hình ảnh của Chúa Ba Ngôi, một hình ảnh đã bị biến dạng. Chúng ta đã dùng những chất bẩn của tiền bạc, của lợi lộc cá nhân, những chất bẩn của sự ích kỷ, của sự tranh chấp, lừa lọc để bôi nhọ hình ảnh tuyệt vời của Thiên Chúa Ba Ngôi nơi mỗi người. Vì sự bôi nhọ đó mà ngay cả chính mình không nhận ra, thì làm sao người khác có thể nhận ra được Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chúng ta được.
Chúng ta biết chờ đón ánh bình minh trong đêm tối. Thế mà trong những lúc thất vọng, chúng ta đã quên mất Thiên Chúa của mình. Chúng ta không còn biết có một Thiên Chúa vẫn trung thành và yêu thương luôn chờ đón mình. Vậy mỗi người đã xử dụng mặt trời như thế nào? - Chúng ta chỉ biết phiền trách vì ánh nắng chói chan, vì cơn nóng gay gắt. Hay chúng ta biết tận dụng được những gì từ ánh mặt trời ban cho.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng biết nhìn thấy được hình ảnh Chúa Ba Ngôi trong đời sống, để biết sống cho xứng đáng.
64. Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Thiên Chúa--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước. (Thư Chung 2011, Số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha, sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại (x. GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo.
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô. Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là một Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu.
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người, hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người. Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp nhất.
3. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất trong đời sống đạo.
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu thánh giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội thánh. Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là chúng ta hãy làm dấu thánh giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng.
Đi sâu hơn chút nữa, chúng ta càng thấy mầu nhiệm Ba Ngôi thật gần gũi và thật là cao cả. Thánh Augustinô đã nói: "Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi".
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu, như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: " Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian" (Ga 3, 16). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: " Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15, 13). Yêu thương là cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại. Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại. Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi tình yêu của con người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể hiểu thấu mầu nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, xin cho chúng con biết sống yêu thương để chúng con luôn thấy Chúa hầu chúng con ngày càng trở nên giống hình ảnh của Chúa. Amen.
65. Hiệp nhất
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm còn ẩn dấu rất sâu kín và rất khó hiểu, chính vì thế muốn trình bày để cho người khác hiểu, cho dù các nhà tiến sĩ lừng danh của Hội Thánh đi nữa, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Khi học ở đại chủng viện, môn học về Chúa Ba ngôi: De Deo uno, De Trinite, là môn học khó nuốt nhất cho các thầy chủng viện nhất. Câu chuyện của Thánh Augustinô gặp thiên thần dùng vỏ nghêu định múc cả nước dưới biển để đổ vào cái vũng nhỏ mà thiên thần đào bằng tay, chính là để nhắc nhở cho chúng ta.... Dù vậy, với ơn Chúa, chúng sẽ hiểu được phần nào mầu nhiệm này. Chính Hội thánh cũng không dám tự phụ mình hiểu rõ về TC Ba Ngôi...
a. Trước hết, ta nên nói chút ít về Chúa Ba Ngôi: Ba Ngôi TC vì là Ba Ngôi vị riêng biệt, nên ta gọi là Ba Ngôi. Vì Ba Ngôi hiệp thông mật thiết đến nỗi trở thành duy nhất, "trở nên là một" nên ta gọi là một Chúa duy nhất. Chúng ta gọi một Chúa, không phải vì Ba Ngôi là 3 ý tưởng, là 3 khái niệm trong một Chúa duy nhất; nhưng vì Ba Ngôi là Ba Ngôi vị riêng biệt, do sự hiệp thông chặt chẻ với nhau trong cùng một tình yêu và một ước muốn duy nhất như nhau, nên ta mới gọi là một Thiên Chúa duy nhất. Điểm này không bao giờ có ở nơi con người trần gian, vì con người là sinh vật bất toàn, nên sự hiệp thông của nó cũng bị giới hạn, không bao giờ trở nên là một; dù ngay trong tình yêu đôi bạn, vợ chồng là hình ảnh tiêu biểu nhất cũng vậy.
b. mầu nhiệm của Ba Ngôi Thiên Chúa chính là mầu nhiệm của Tình yêu Hiệp thông: Mấy lời Chúa Giêsu nói trên đây về Chúa Ba Ngôi tuy rất ngắn, nhưng nói lên rất nhiều về Thiên Chúa Ba ngôi, về mầu nhiệm hiệp thông nơi Ba Ngôi Thiên Chúa. Sở dĩ Ba Ngôi kết hiệp mật thiết đến trở nên là một, chính vì Ba Ngôi TC là Đấng toàn thánh, ngàn lần chí thánh. Hơn nữa, vì tình yêu chân thật và thánh thiện thì có đặc tính hiệp thông và chia sẻ, nên mới có khả năng trở nên là một như thế.
Người ta nói tình yêu chân thật là một thứ nam châm, có sức hút người ta gần lại với nhau, nên hai người không thể nào, và cũng không muốn rời xa nhau. Khi yêu nhau chân thật, người ta muốn ở bên nhau, muốn hiến trao cho nhau. Hai khía cạnh của Tình yêu chân chính là: bên nhau - nên một. Một hình ảnh rất mờ nhạt của Tình Yêu Thiên Chúa Ba ngôi chính là bộ ba mà TC dựng nên trên trần gian: cha - mẹ - con cái. Đúng vậy, nếu bộ ba này sống tình yêu trọn vẹn, sẽ có nhiều nét rất giống Tình Yêu của Ba Ngôi, vì thực ra chính hình ảnh này là do Thiên Chúa dựng nên kia mà... Vì thế, người ta có thể nói, Tình Yêu nơi con người bất toàn bao nhiêu, thì Tình Yêu nơi Ba Ngôi thiên Chúa lại trọn vẹn và hảo bấy nhiêu... Ba Ngôi Thiên Chúa càng yêu thương nhau, các Ngài muốn gần nhau, nên một với nhau bấy nhiêu, Ba Ngôi càng không muốn điều gì là của riêng mình nữa, mà chỉ muốn nên một mà thôi.... Như trên đã nói, điều này chỉ có nơi Thiên Chúa, nơi con người không thể đạt được mức độ thành toàn như vậy...
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi chính là để nhắc nhở ta sống mầu nhiệm Tình Yêu Hiệp thông đó.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu đã nói: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nổi đã ban Con Một Mình..." Tình Yêu của Thiên Chúa là thế, dù yêu nhân loại là thụ tạo bất toàn, nhưng Người vẫn dành cho một tình yêu cao cả thần thánh như vậy. Còn phần thì sao? Khi hiểu được như vậy, ta có sẵn sàng đáp lại cho tình yêu của TC không? Ta có cố gắng yêu mến Chúa như ý Chúa muốn, yêu mến Chúa qua mọi người chung quanh ta, nhất là những người nghèo khổ, không ai nhìn tới, những người bị xã hội bỏ rơi, ruồng bỏ không?
66. Ơn vô ngộ--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Trước hôm bước vào cuộc khổ nạn và phục sinh, Đức Giêsu đã tâm sự cùng những người theo Ngài rằng sẽ có một ngày Ngài lìa xa họ để về cùng Chúa Cha. Đối với các môn đệ, đây là một tâm sự buồn. Bởi vì sau bao tháng ngày bên nhau, tình thầy trò trở nên nồng thắm tưởng chừng không thể phân ly. Ấy thế mà giờ đây Thầy lại nói đến giây phút chia lìa.
Song với tình thương bao la, muốn lắng lo chăm nom mọi sự cho đoàn chiên non yếu, Đức Giêsu đã vội trấn an các môn đệ: “Ta sẽ không bỏ các con mồ côi đâu… Nhưng Ta sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các ngươi Đấng Bầu Chữa để ở với các ngươi luôn mãi” (Ga 14&15).
Như thế, với lời yên ủi động viên trên, Đức Giêsu đã mạc khải một mầu nhiệm vô cùng quan yếu của niềm tin Kitô giáo-Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là “nguồn mạch của tất cả các mầu nhiệm khác của đức tin, là ánh sáng soi chiếu các mầu nhiệm đó.” Giáo lý Công giáo đã xác định: có ba mầu nhiệm căn bản cho niềm tin, và mầu nhiệm thứ nhất, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là điểm khởi phát của hai mầu nhiệm còn lại-mầu nhiệm Ngôi Hai Xuống Thế Làm Người và mầu nhiệm Ngôi Hai Cứu Chuộc nhân loại.
Cũng như trong nỗi sầu thương của Thánh giá có tia sáng của Phục sinh, thì trong giai điệu của biệt ly giữa thầy trò vẫn ánh lên hào quang của chân lý cứu độ. Ngay trong khúc tâm sự “buồn”, Đức Giêsu đã mạc khải về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như căn nguyên và đích cùng của sự sống nhân thế. Ngài đã nói về Cha như Ngôi Thứ Nhất trong Ba Ngôi; Ngài nói về mình như Ngôi Thứ Hai xuất tự nơi Cha; và Thần Chân Lý là Ngôi Thứ Ba phát xuất từ Cha và Con. Mỗi Ngôi hoàn toàn tách biệt nhau, nhưng đều là một Chúa duy nhất, không Ngôi nào trỗi vượt hay kém thua Ngôi nào.
Nói cách khác, theo định nghĩa của Công đồng Tôlêđô năm 675: “Chúa Cha cũng là cái là Chúa con, Chúa Con cũng là Cái là Chúa Cha, Chúa Cha và Chúa Con cũng là cái là Chúa Thánh Thần, nghĩa là một Thiên Chúa duy nhất về bản tính.” Nhưng ba Ngôi hoàn toàn tách biệt nhau chứ không phải thông chia với nhau một thần tính duy nhất. Sự riêng biệt trong Ba Ngôi Thiên Chúa cũng có nghĩa là: “Ngôi Con không phải là Ngôi Cha; Ngôi Cha không phải là Con; và Thánh Thần không phải là Chúa Cha hoặc Chúa Con.”
Ba Ngôi tách biệt nhau nhưng lại tương quan vô cùng chặt chẽ. Điều đó có nghĩa là khi nói đến Cha tức phải có Con, không thể là Cha nếu không có Con. Rồi khi nói về Con nghĩa là đã có Đấng sinh nên mình chính là Chúa Cha. Tương quan Cha-Con và Con-Cha đã làm nên Ngôi Vị Thánh Thần.
Qua Thánh Kinh, không ít người Kitô hữu đã nhìn thấy Ngôi Cha như Đấng sáng tạo đất trời và con người, Ngôi Con là Đấng nhập thế cứu đời, và Ngôi Ba Thánh Thần là Đấng tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngôi Hai qua việc hiện diện, thánh hoá, và hướng dẫn Giáo hội cho đến ngày cánh chung. Nhìn như thế thì có vẻ như Ba Ngôi hoàn toàn tách rời nhau trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc.
Đúng hơn, Ba Ngôi luôn “đồng hành” với nhau kể từ khi dựng nên vũ trụ cho đến khi viên thành mọi sự: Thiên Chúa Cha sáng tạo, nhưng luôn có Thần Khí “là là trên mặt nước” và Lời Sáng Tạo (Kn 1:1-3). Thiên Chúa Con cứu thế nhưng luôn được Chúa Cha ở cùng và được Thánh Thần hướng dẫn (Lc 3:21-22). Và trong công việc thánh hoá của Chúa Thánh Thần thì Ngài lại luôn truyền đạt cho nhân thế những gì của Đức Giêsu, mà những gì Đức Giêsu có đều là của Cha (Ga 16:15).
Trong bài Phúc âm Lễ Chúa Ba Ngôi năm nay, Chúa Thánh Thần được nhắc đến như Thần Chân Lý, Đấng sẽ nói cho các môn đệ tất cả những gì nhận được từ Đức Kitô, Đấng tự xưng mình là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Thực tế, Chúa Thánh Thần đang ban ơn trợ giúp Giáo hội khám phá và bước theo chân lý hầu được sống trong sự sống sung mãn của Chúa Ba Ngôi.
Một trong những ơn đặt biệt của Thần Chân Lý mà Thiên Chúa trao ban cho Giáo hội giữ gìn nguyên vẹn và truyền đạt trung thành các mạc khải của Đức Kitô là ơn vô ngộ hay còn gọi là ơn không thể sai lầm.
Đức Giáo hoàng được ơn vô ngộ đó, nhưng tất nhiên chỉ những khi Ngài quyết định “tự ngai toà” (ex Cathedra) với tư cách là thủ lãnh của toàn thể Giáo hội, để tuyên dạy những gì liên quan đến tín lý và luân lý. Các giám mục thông hiệp với Đức Giáo hoàng, chẳng hạn như trong các công đồng chung, để ấn định và truyền dạy những điểm giáo lý một cách vô ngộ, cũng được Chúa Thánh Thần ban cho ơn đó.
Những lần tuyên bố hay giáo huấn với tư cách vô ngộ thường là rất hiếm. Trong lịch sử Giáo hội, những vấn đề đã được xác định bằng ơn vô ngộ như: Bản tính Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên thần, Ơn sủng, Sa ngã, Cứu chuộc, Nhân tính và Thiên tính của Đức Kitô, các Bí tích, Thiên đàng, Hoả ngục, Luyện tội, Đức Mẹ Vô Nhiễm. Trong thế kỷ vừa qua, năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII đã dùng đặc ân không thể sai lầm để tuyên bố về tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Tất nhiên không phải lúc nào các Đức Giáo hoàng cũng đều sử dụng ơn vô ngộ. Trong khi giảng dạy bình thường, các ngài sẽ không hưởng ơn đó. “Tuy vậy, các giáo hữu vẫn buộc phải vâng lời các Ngài như một chiến sĩ phải vâng lệnh cấp trên mình mặc dầu cấp ấy không có ơn vô ngộ” (F. Lelotte).
Có những sắc lịnh không được phán đi “từ ngai toà”, nhưng nếu đó là những vấn đề liên quan đến tín lý, luân lý và được Giáo hội nắm giữ cùng giảng dạy từ lâu đời thì nó vẫn mang tính chất vô ngộ và buộc giáo dân đón nhận, ví dụ như việc răn dạy về tội ác của việc ngừa thai nhân tạo trong thông điệp Humanae Vitae hay việc truyền chức thánh chỉ dành cho phái nam trong thông điệp Ordinatio Sacerdotalis.
Người Kitô hữu chân chính sẽ luôn nhận thức rằng qua Giáo hội Thiên Chúa Ba Ngôi muốn truyền ban sức sống phong phú dồi dào cho con người. Chúa Thánh Thần không khi nào lại dùng Giáo hội để bóp nghẹt những gì là niềm vui, hạnh phúc, và bình an chân thật trong lòng nhân thế. Trái lại với ơn Chúa soi dẫn, Giáo hội đang là công cụ để đưa nhân loại đến với sự sống trọn vẹn trong tình yêu của Cha và Con và Thánh Thần.
Xác tín như thế, bạn và tôi hãy cùng can đảm học hỏi và vững vàng bước đi trong lối đường mà Giáo hội đã chỉ ra. Có được như vậy, chắc chắn lời đoan quyết của Chúa Giêsu, “Các điều ấy Ta đã nói với các ngươi rồi, ngõ hầu sự vui mừng của Ta có nơi các ngươi, và sự vui mừng của các ngươi được nên trọn,” sẽ viên thành trong cuộc đời của chúng ta.
67. Suy Niệm Lễ Chúa Ba Ngôi--Lm Anthony Trung Thành
Trong các bổn phận chính mà người Kitô hữu phải làm, việc trước tiên là tin những gì Thiên Chúa truyền và Giáo Hội thay mặt Chúa dạy. Trong những điều phải tin, quan trọng hơn cả là các sự Mầu nhiệm, trong đó có Mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Trong bài suy niệm này, xin được gởi mở mấy điểm sau đây: Mầu nhiệm là gì? Nội dung Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là gì? Chính Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi? Ta có bổn phận nào đối với Thiên Chúa Ba Ngôi?
1. Mầu nhiệm là gì?
Mầu nhiệm, là những sự thật siêu nhiên vượt quá khả năng hiểu biết của con người. Nhìn nhận có những mầu nhiệm không phải là phủ nhận trí khôn của con người, nhưng trái lại là chấp nhận trí khôn của con người thua kém sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Một hôm, Thánh Augustinô đi dạo trên bãi biển giữa cảnh trời đất bao la, biển rộng mênh mông suy nghĩ về Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng Ngài thấy một em bé trai đang loay hoay chạy đi chạy lại, tay cầm một cái vỏ sò chạy đi múc nước biển đổ vào một cái lỗ nhỏ trên cát.
Dừng lại quan sát em bé hồi lâu, Thánh nhân liền đến hỏi:
- Bé ơi! bé đang làm gì đó?
- Cháu muốn múc hết nước biển đổ vào cái lỗ này cho đầy.
Thánh nhân nhìn em bé mỉm cười dịu dàng nói:
- Cháu không thể làm như vậy được đâu!
- Chú bé đáp lại: Vậy mà cháu làm việc này còn dễ hơn việc ông đang nghĩ.
Nói xong, chú bé biến mất.
Lúc này thánh nhân mới bừng tỉnh và nhận ra rằng: Thiên Chúa nhắc cho biết trí khôn loài người không thể nào hiểu thấu đáo hết được Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
2. Nội dung Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là gì?
Một là trong Thiên Chúa có ba ngôi khác biệt nhau. Hai là mỗi một ngôi cũng là Thiên Chúa. Ba là ba ngôi đều bằng nhau. Bốn là ba ngôi chỉ làm thành một Thiên Chúa.
Vì là mầu nhiệm nên chúng ta không thể hiểu. Tuy không hiểu, nhưng chúng ta tin, vì Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta.
3. Chính Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết về Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi?
Thời Cựu Ước, khi nhân loại chưa sẵn sàng đón nhận, nên Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chưa được tỏ bày một cách rõ rệt, có chăng thì cũng chỉ tỏ bày một cách mờ nhạt. Chẳng hạn, tiên tri Isaia nghe được tiếng các Thiên thần ca tụng Thiên Chúa rằng: “Thánh, Thánh, Thánh...Chúa là Thiên Chúa các đạo binh” (x. Is 6,3). Trong sách Sáng Thế cũng tường thuật lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người rằng: “Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng ta...” (St 1,26). Cụm từ “Chúng ta” ở số nhiều, có ý chỉ về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sang thời Tân Ước, khi nhận thấy con người đã sẵn sàng đón nhận, nên Chúa Giêsu đã mạc khải Mầu nhiệm này một cách rõ ràng, có khi mặc khải từng ngôi vị, có khi mạc khải hai ngôi vị, có khi mạc khải cả ba ngôi vị.
Mạc khải từng ngôi một:
Hai dẫn chứng tiêu biểu sau đây, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,25-26); “Lạy Cha, sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô” (x. Ga 17,1; 3).
Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta về Chúa Con, khi Ngài xác nhận lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16,13-18). Ngài còn tự nhận mình là Con Thiên Chúa và ngang bằng với Thiên Chúa (Ga 10, 22-39).
Chúa Giêsu cũng cho chúng ta biết có một Đấng Bảo Trợ khác đó là Chúa Thánh Thần (x. Ga 16,5-10), Ngài được sai đến để trợ giúp và thánh hoá chúng ta (x. Ga 16,13-15).
Mạc khải cả ba ngôi Thiên Chúa:
Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (x. Lc 3,21-22).
Ngày Chúa Giêsu lên trời, Ngài dạy các Tông đồ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).
4. Người Kitô hữu phải có bổn phận gì đối với Thiên Chúa Ba Ngôi?
Chúa Cha đã dựng nên chúng ta, Chúa Con đã cứu chuộc chúng ta và Chúa Thánh Thần thánh hoá chúng ta. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đều mang ơn Thiên Chúa Ba Ngôi và luôn cần đến Ngài. Vì vậy, để tỏ lòng tôn kính, chúng ta cần phải làm những việc sau đây:
Thứ nhất, luôn giục lòng tin có Chúa Ba Ngôi ngự trong linh hồn ta, luôn cầu nguyện và kết hiệp với Ngài, sống đúng với lương tâm ngay thẳng, xa tránh các tội lỗi, làm nhiều việc lành…Để xứng đáng là đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.
Thứ hai, hãy năng làm dấu Thánh giá, làm một cách cung kính: Làm dấu Thánh giá trước khi đi ngủ, khi vừa mới thức dậy; Làm dấu Thánh giá trước và sau khi ăn cơm, trước và sau các giờ kinh nguyện; Đặc biệt khi gặp sự khốn khó, khi bị cám dỗ về đàng trái…Hãy làm dấu thánh giá để kêu cầu Thiên Chúa Ba Ngôi phù trợ và gìn giữ chúng ta. Thánh Antôn lần kia đang cầu nguyện thì bị cám dỗ về đàng trái, Ngài lấy lòng sốt sắng vạch hình thánh giá trên nền nhà thờ, lập tức hình thánh giá in đậm trên nền nhà thờ và ma quỷ bỏ chạy, còn Ngài được thoát khỏi cơn cám dỗ.
Thứ ba, hãy bắt chước Thiên Chúa Ba Ngôi sống hiệp nhất yêu thương. Tuy Chúa Cha là Đấng Tạo Dựng, Chúa Con là Đấng Cứu Chuộc, Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hoá. Nhưng trong việc tạo dựng, cứu chuộc và thánh hoá đều có sự hiện diện của Ba Ngôi. Chúa Giêsu đã từng nói: "Thầy với Chúa Cha là một" (Ga 10,30); "Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy" (Ga 16,15); “Tất cả những gì của Con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 17,10). Trước khi về trời, Ngài khẩn thiết cầu xin Chúa Cha cho các môn đệ và những người theo Ngài được hiệp nhất nên một với nhau (x. Ga 17, 21-23). Vậy, chúng ta hãy noi gương Thiên Chúa Ba Ngôi biết sống hiệp nhất yêu thương: Hiệp nhất nên một giữa vợ chồng; Hiệp nhất giữa các thành viên trong gia đình: "Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa" (Thư chung HĐGMVN 2002, số 6); Hiệp nhất giữa các thành viên trong cộng đoàn; Hiệp nhất giữa mọi thành phần trong Hội Thánh. Thánh Phaolô dạy: "Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3, 27-28). Trong bài giảng sáng ngày 12-5 vừa qua, tại Nguyện đường Nhà trọ Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Sự hiệp nhất của cộng đoàn Kitô, của gia đình Kitô, là một lời chứng cho sự thật rằng Chúa Cha đã gởi Con mình đến thế gian”.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, xin cho chúng con luôn biết tin kính và yêu mến Chúa. Xin cho moi thành phần trong Hội Thánh luôn biết cộng tác với nhau, sống hiệp nhất yêu thương để càng ngày càng diễn tả rõ nét hình ảnh hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và Giáo Hội. Amen.
68. Nhìn thấy Chúa
Một vị vua kia đến cuối cuộc đời cảm thấy buồn chán. Ông nói: "Suốt đời ta, ta đã cảm thụ được tất cả những gì mà một con người có thể cảm thụ được bằng các giác quan. Nhưng vẫn còn một điều ta chưa được thấy, đó là ta chưa thấy Chúa. Bây giờ nếu ta chỉ được nhìn thấy Chúa một thoáng thôi thì ta cũng sẽ mãn nguyện mà chết". Nhà vua tham khảo ý kiến những bậc khôn ngoan, hứa cho họ đủ thứ phần thưởng nếu họ giúp ông thực hiện điều mơ ước ấy. Nhưng chẳng ai giúp được.
Thế rồi có một chàng chăn cừu nghe chuyện trên và tìm đến gặp nhà vua. Chàng nói: "Có lẽ hạ thần có thể giúp Bệ Hạ được". Nhà vua rất sung sướng theo người chăn cừu leo lên nhiều ngọn đồi. Khi đến đỉnh một ngọn đồi nọ, người chăn cừu đưa tay chỉ mặt trời và bảo: "Hãy xem kìa". Nhà vua ngước mắt nhìn lên nhưng liền nhắm lại ngay vì chói quá. Ông bảo: "Nhà ngươi muốn cho ta mù sao!" Người chăn cừu đáp: "Tâu Bệ Hạ, đây chỉ mới là một phần nhỏ của vinh quang Thiên Chúa mà Bệ Hạ còn nhìn không nổi. Thế thì làm sao Bệ Hạ có thể nhìn được Thiên Chúa bằng cặp mắt bất toàn của Bệ Hạ? Bệ Hạ phải tìm cách nhìn Ngài bằng cặp mắt khác".
Nhà vua rất thích ý tưởng ấy, nói: "Ta cám ơn ngươi đã mở cắp mắt trí khôn của ta. Bây giờ hãy trả lời cho câu hỏi khác của Ta: Thiên Chúa sống ở đâu?" Người chăn cừu lại đưa tay chỉ lên trời: "Bệ Hạ hãy nhìn những con chim đang bay kia. Chúng sống trong bầu không khí bao quanh. Chúng ta cũng thế, chúng ta sống trong sự bảo bọc của Thiên Chúa. Xin Bệ Hạ đừng tìm kiếm nữa, mà hãy mở rộng mắt ra để nhìn, mở tai ra để nghe. Thế nào Bệ Hạ cũng thấy được Ngài. Thiên đàng ở ngay dưới chân chúng ta cũng như ở ngay trên đầu chúng ta".
Nhà vua dừng bước, cố gắng nhìn, cố gắng lắng nghe. Thế là một cảm giác bình an lộ rõ trên khuôn mặt buồn thảm của ông. Người chăn cừu nói tiếp: "Tâu Bệ Hạ, còn một điều nữa". Rồi chàng dẫn nhà vua đến một cái giếng. Nhà vua nhìn xuống mặt nước bằng phẳng, hỏi: "Ai sống dưới đó thế?" Người chăn cừu đáp: "Thiên Chúa". "Ta có thể nhìn thấy Ngài không?" "Được chứ, Bệ Hạ chỉ cần nhìn". Nhà vua chăm chú nhìn xuống giếng, nhưng chỉ thấy gương mặt của mình phản chiếu trên mặt nước. Ông nói: "Ta chỉ thấy mặt Ta thôi". Người chăn cừu giải thích: "Bây giờ thì Bệ Hạ đã biết Thiên Chúa sống ở đâu rồi. Ngài sống trong Bệ Hạ đó".
Nhà vua nhận ra rằng người chăn cừu khôn ngoan và giàu có hơn ông. Ông cám ơn chàng và trở về hoàng cung. Chẳng ai biết ông có nhìn thấy Thiên Chúa không, nhưng ai cũng nói rằng có một điều gì đó đã biến đổi trái tim ông, bởi vì từ đó trở đi ông đối xử rất nhân hậu với mọi người, kể cả người đầy tớ hèn hạ nhất của ông.
Thiên Chúa ở khắp chung quanh chúng ta. Nhưng chừng nào chúng ta chưa khám phá Ngài ở ngay trong lòng chúng ta thì Ngài như vẫn còn ở xa, vẫn như một người lạ thờ ơ vô tình. Còn khi chúng ta cảm nhận Ngài ở trong chúng ta thì không bao giờ chúng ta còn cảm thấy cô đơn nữa, và khi đó chúng ta sẽ nhìn thấy thiên nhiên là một công trình của một Đấng Nghệ Sĩ thân thiết của chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi vừa ở trong chúng ta vừa siêu vượt chúng ta. Đúng là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm tình yêu. (FM)
69. Thiên Chúa Ba Ngôi
Trong một vài phút ngắn ngủi này, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Trước hết là Ngôi Cha.
Trong Cựu ước, dân Do Thái là một gia đình có Thiên Chúa là cha. Ngài là đấng đã tuyển chọn quan phòng và chăm sóc đến những nhu cầu của họ.
Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã nhiều lần mạc khải cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha. Ngài là Cha của mọi người. Ngài yêu thương chăm sóc và ban thưởng cho những việc lành chúng ta làm. Ngài tha tội và nêu gương thánh thiện. Tương quan của mỗi người đối với Chúa là lòng hiếu thảo rập theo khuôn mẫu của Đức Kitô.
Đức Kitô đã làm việc nhân danh Chúa Cha. Giáo lý của Đức Kitô là bởi Chúa Cha. Đức Kitô vâng theo thánh ý Chúa Cha và hoàn tất mọi việc Chúa Cha trao phó.
Thiên Chúa là Cha. Trong các tôn giáo, liệu có vị thần nào dám mạc khải mình như thế không. Chúng ta có hãnh diện vì được một Thiên Chúa ở gần và yêu thương như một người Cha. Có lẽ nhiều người trong chúng ta chưa kinh nghiệm được tình phụ tử, và chúng ta tự hỏi:
- Tại sao người công chính lại gặp phải tai ương hoạn nạn, còn đứa ác nhân lại gặp nhiều may mắn.
Trước hết, chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa là tình yêu, Ngài làm mưa trên người lành cũng như trên kẻ dữ. Ngài muốn tỏ ra nhân hậu với mọi người cho đến khi sự công bằng được tỏ hiện trong ngày sau hết. Còn với người lành gặp nhiều tai ương, Chúa cũng vẫn tỏ lòng từ nhân. Ngài muốn họ vững lòng cậy trông vào Ngài, đồng thời hãy can đảm và kiên trì vì kiên trì trong gian truân sẽ đưa đến hạnh phúc nước trời.
Sống trong những khó khăn thử thách chúng ta cần xét đến một lý do nữa, Thiên Chúa thử thách con cái Ngài để xem họ có bằng lòng vâng phục hay không? Vì vâng lời trọng hơn của lễ. Chúa đặt chúng ta vào trong hoàn cảnh nan giải để xem đức tin của chúng ta đã trưởng thành hay chưa?
Một người cha thật thì phải biết giáo dục và uốn nắn con cái chứ không được nuông chiều. Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi. Gương ông Giob đã chứng tỏ cho thấy một đức tin không nao núng trước nghịch cảnh. Cách giải quyết tốt đẹp nhất là tin tưởng và phó thác cho tình thương của Chúa.
Tiếp đến là Ngôi Con.
Sau khi nguyên tổ phạm tội thì nhân loại sống dưới ách tội lỗi. Con người không thể tự mình giải thoát vì tội là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, cho nên cần phải có một Đấng cứu thế, đó là chính Ngôi Hai Thiên Chúa mới có đủ thẩm quyền cứu độ chúng ta.
Về Ngôi Hai chúng ta cần biết một vài điểm cốt yếu: Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Ngài là Đấng vô tội đã mặc lấy thân phận tội nhân để cứu chuộc chúng ta. Ngài là đường, là sự thật, là sự sống. Ngài đã thiết lập Giáo hội và trao ban cho Giáo hội các bí tích để tiếp tục công cuộc cứu độ cho đến tận cùng thời gian.
Sau cùng là Chúa Thánh Thần.
Khi sứ mạng Chúa Giêsu hoàn tất, Ngài về trời và sai Chúa Thánh Thần đến trong ngày Hiện xuống để thánh hóa chúng ta và hướng dẫn Giáo hội.
Về những việc làm của Chúa Thánh Thần chúng ta ghi nhận: Ngài thánh hóa chúng ta, hồi sinh những tâm hồn tội lỗi. Ngài ngự trong chúng ta và trong Giáo hội. Giúp Giáo hội đào sâu chân lý và trang điểm Giáo hội bằng muôn ơn sủng để trở thành hiền thê của Đức Kitô.
Ngài nâng đỡ và ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách, giúp đỡ chúng ta chống lại những dục vọng sai trái. Ngài cầu nguyện thay cho chúng ta là những kẻ yếu hèn. Trong những giờ phút u tối, đừng bao giờ mất lòng cậy trông, hãy chạy đến với Chúa Thánh Thần, Ngài sẽ soi sáng và thêm sức, Ngài làm cho tâm hồn chúng ta dịu lại trước thánh ý Thiên Chúa…
70. Lễ Chúa Ba Ngôi--Lm Đaminh Trần Đình Nhi
Khi nói về Thiên Chúa Ba Ngôi, ta quen thuộc với những hình ảnh Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Quả thực Ba Ngôi gắn liền với cuộc đời và số phận của ta. Nhưng trong thần học của Tin Mừng Gio-an, Chúa Ba Ngôi thường được diễn tả qua mối liên hệ sống động với ta, đặc biệt trong việc Thiên Chúa tỏ ra những gì Người muốn ta tiếp nhận hoặc lắng nghe. Thánh sử Gio-an gọi tất cả những điều Thiên Chúa muốn cho ta biết qua Chúa Giêsu là sự thật toàn vẹn. Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta suy niệm những công việc của Ba Ngôi làm để ta nhận ra được “mọi kích thước dài rộng cao sâu và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt qua sự hiểu biết” (Ep 3:18).
1) “Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1:2)
Giữa Thiên Chúa và con người có một khoảng cách vô biên, ta không thể tự sức mình biết được những gì về Thiên Chúa nếu chính Người không tỏ ra cho ta. Tuy nhiên, Chúa đã nối liền khoảng cách ấy bằng cách sử dụng một số người được tuyển chọn để nói thay cho Người. Họ là các vị ngôn sứ, chuyển đạt cho ta những điều Thiên Chúa muốn mặc khải bằng ngôn ngữ loài người. Nhưng ngôn ngữ loài người có giới hạn, nên mặc dù Thiên Chúa đã “nhiều lần nhiều cách” (Dt 1:1) nói với con người qua các vị ngôn sứ, các vị ấy vẫn không thể diễn đạt được hết những gì Thiên Chúa muốn nói. Kinh Thánh Cựu Ước là sưu tập những điều Thiên Chúa “phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ”, nói về những gì Thiên Chúa làm cho ta và những gì ta phải thực thi để sống xứng đáng là con cái Người. Thế mà kết quả của những lần “nói thay Thiên Chúa” chẳng là bao. Thiên Chúa đã thay đổi đủ kiểu đủ cách để củng cố mối quan hệ mà con người vẫn xa dần.
Chẳng lẽ Thiên Chúa phải thất bại? Không bao giờ. Thiên Chúa còn một cách cuối cùng, Người sử dụng cách ấy “vào thời sau hết này”. Đó là Người dùng chính Ngôi Lời để nói với nhân loại. Không phải nói bằng Lời uy quyền như ta thường nghe trong Cựu Ước: “Chúa phán”, nhưng bằng lời thông thường của con người dùng để nói với nhau. Không phải bằng Lời từ trời cao vọng xuống cõi trần, nhưng là Lời “đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14). Từ đây, Thiên Chúa nói với ta bằng toàn bộ ngôn ngữ loài người, từ tiếng nói bập bẹ của trẻ thơ tới lời lẽ của người lớn, từ những cử chỉ nhỏ nhặt cho tới tất cả lối sống, để cho con người thấy thế nào là kiếp người, thế nào là một người con Thiên Chúa. Trong ba năm rao giảng Tin Mừng, Lời đã trở thành những bài giảng đơn sơ dễ hiểu, nhưng chứa đựng những chân lý ngàn đời, bày tỏ những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Nhưng đặc biệt nhất, ngôn ngữ của Chúa Giêsu là ngôn ngữ của yêu thương, diễn tả không chỉ bằng lời nói, nhưng bằng những nghĩa cử đầy tình yêu, yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân đến chết trên thập giá. Đó là tột đỉnh của ngôn ngữ Thiên Chúa muốn nói với nhân loại: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một.
2) “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”
Cả một đời Chúa Giêsu là để nói lên sự thật toàn vẹn rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Nhưng bây giờ vào lúc Người đang đàm đạo với môn đệ trước khi chịu cuộc Thương Khó, sự thật toàn vẹn vẫn chưa được tỏ lộ. Nó chỉ được tỏ lộ đầy đủ khi Chúa Giêsu chết trên thập giá để minh chứng Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến mức độ nào.
Tất cả những giáo lý và mặc khải Thiên Chúa muốn dạy con người đã được trình bày qua lời giảng và lối sống của Chúa Giêsu. Nhưng Chúa lại nói Người còn nhiều điều phải nói với môn đệ, vậy “nhiều điều” ấy là gì? Là tất cả những gì sẽ xảy ra trong cuộc Thương Khó, cái chết, sự sống lại và vinh hiển của Người. Tóm lại là ý nghĩa của mầu nhiệm Kitô, một mầu nhiệm cần phải được thấm nhập vào ta, biến đổi ta thành “dưỡng tử” của Thiên Chúa và “đồng thừa tự” với Đức Kitô.
Mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ là một mầu nhiệm đem ra học hỏi như một môn học thuần lý, nhưng là một mầu nhiệm thực hành để suy niệm, chiêm ngưỡng và sống, như thánh Phao-lô đã nêu gương. “Với tôi, sống là Đức Kitô”, hoặc “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”. Mầu nhiệm Kitô là lời Thiên Chúa muốn nói với nhân loại và nhân loại có bổn phận phải lắng nghe và đón nhận, giống như “hạt giống rơi nhằm đất tốt nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục” (Mt 13:8).
3) “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn”
Chúa Cha nói với ta. Chúa Con là tất cả những điều Chúa Cha nói với ta. Nhưng làm sao ta hiểu được những điều Chúa Cha nói, đó là vai trò của Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha phán dạy ba môn đệ trên núi Ta-bô-rê: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Hãy vâng nghe lời Người nghĩa là nghe Người dạy dỗ, nhưng nhất là biết nhìn nhận ra sứ mệnh cứu thế của Người và tin vào Người. Chúa Cha cũng đã nhắc nhở điều này: “Để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3;16). Các môn đệ đã đi theo Chúa Giêsu một thời gian khá dài. Vậy mà các ông vẫn không nhận rõ thân thế, sự nghiệp và sứ mệnh của Người. Các ông phải đợi tới khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, “xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2:3-4), dần dần các ông mới thấu hiểu được “nhiều điều khác” Chúa Giêsu chưa thể nói vì các ông “không có sức chịu nổi” (Ga 16:12).
Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp ta hiểu Lời của Thiên Chúa, tức là tất cả những điều Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi con người Đức Kitô. Chúa Thánh Thần không chỉ hoạt động khi linh hứng cho các tác giả viết xuống lời Chúa, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động nơi ta khi ta đọc và suy niệm lời Chúa. Tuy nhiên, hiểu lời Chúa không chỉ bằng trí óc, mà phải hiểu bằng đời sống của ta. “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như một người khi xây nhà đặt nền móng trên đá” (Lc 6:47-48). Lời Chúa nếu không được Chúa Thánh Thần tác động thì cũng chỉ trơ trơ ra đó, không ích lợi gì cho ta. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần chỉ đưa ta “tới sự thật toàn vẹn” khi ta cộng tác với sự hướng dẫn của Người. Tiếp nhận trong thái độ mở lòng là công việc của ta, còn làm cho Lời sinh hoa kết quả là công việc của Chúa Thánh Thần.
Chỉ bảo dạy dỗ ta là công việc linh hoạt của Ba Ngôi Thiên Chúa, mục đích giúp ta được dần dần biến đổi thành tạo vật mới để “được sống muôn đời”. Chúa Cha nói với ta mọi giây mọi phút trong cuộc đời, Chúa Con hiện diện với ta “mọi ngày cho đến tận thế” và Chúa Thánh Thần đang trên đường dẫn ta “tới sự thật toàn vẹn”. Một cách đặc biệt, Thiên Chúa Ba Ngôi đang sống trong ta, nhưng liệu ta có “sống” mầu nhiệm Ba Ngôi hay không thì lại là vấn đề khác.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Ba Ngôi Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Vậy tôi đã tránh né không nghĩ đến vì không thể hiểu, hay vì tôi không nhận ra khía cạnh thực hành?
Tôi có xác tín mình cần “nghe” được tất cả những gì Thiên Chúa muốn “nói” với tôi qua Chúa Kitô và “hiểu/sống” những điều ấy nhờ Chúa Thánh Thần không? Toi sẽ làm gì để nghe và thực hành lời Chúa?
Cầu nguyện
“Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa,
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động sự bình an của con, hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo.”
- Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 31)
71. Sống đời sống Thiên Chúa
Năm 1961, sau khi người Cộng sản Liên Xô phóng được lên không gian phi thuyền đầu tiên có người điều khiển và trở về trái đất thì có người đã tuyên bố: Chúng tôi đã lục lọi khắp cùng thượng tầng không gian mà chúng tôi không gặp một ông già nào có tên là Đức Chúa Trời cả.
Người ta phủ nhận Thiên Chúa. Nhưng việc người ta phủ nhận Thiên Chúa không làm chứng vì thế mà Thiên Chúa không có. Cũng như người ta có phủ nhận mặt trời thì mặt trời vẫn là mặt trời, vẫn chói lọi trên đầu chúng ta.
Hôm nay, trong bài đọc I, Thánh Kinh cho chúng ta biết rằng cách đây ba ngàn năm, có một dân Israel, đã khẳng định có Thiên Chúa, “chúng tôi đã gặp Người”. Người đã tuyển chọn dân ấy, đã đưa ra khỏi Ai Cập, làm bao nhiêu sự lạ và hôm nay, giữa chớp lòe sấm vang đã ban Mười Điều Răn, khiến cho toàn dân phải kêu lên: “Trên trời dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, không có Chúa nào khác”.
Thiên Chúa là một! Nhưng Chúa Giêsu xuống thế, Người hé mở cho chúng ta một mầu nhiệm: Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi. Ngài mặc khải cho chúng ta chính đời sống thần linh của Thiên Chúa. Người nói cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Cha. Người và Chúa Thánh Thần là mối giây tình yêu liên kết Người với Cha và liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Vậy những gì chúng ta biết về Thiên Chúa Ba Ngôi là do chính kinh nghiệm và lời giảng của Chúa Giêsu. Người cầu nguyện cùng Chúa Cha, Người nói lời của Chúa Cha cũng như Người hứa ban Thánh Thần. Người hành động với sức mạnh Thánh Thần, rồi Người dạy ai muốn theo Người phải được rửa tội nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, phải sống mầu nhiệm Ba Ngôi vì chính đó là sự sống của Thiên Chúa.
Mầu nhiệm ấy chúng ta mừng hôm nay. Vì là mầu nhiệm, trí khôn chúng ta không thể hiểu thấu được. Hình như khi tạo dựng người ta “giống hình ảnh Chúa”, Thiên Chúa đã tạo nên chung quanh chúng ta và trong chúng ta những hình ảnh Chúa là một mà có Ba Ngôi. Ví dụ, con người ta có một nhưng trải qua ba giai đoạn: trẻ, trung niên và già -ba giai đoạn nhưng một cuộc đời. Linh hồn có các cơ năng: trí nhớ, trí hiểu và trí lý luận –ba cơ năng của một linh hồn. Nước là một, nhưng có ba hình thức: mây vi vu trên trời, khối đá đông đặc, nước chảy dưới cầu, đều là nước dưới ba hình thức. Biểu hiệu trên quốc kỳ nước Công giáo Ái Nhĩ Lan là một chiếc lá với ba khía cạnh ám chỉ Thiên Chúa là một nhưng có Ba Ngôi.
Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta mầu nhiệm Ba Ngôi, vì chính đó là đời sống căn bản thần linh. Chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi, tâm hồn ta trở nên đền thờ Chúa Ba Ngôi và Chúa mời gọi ta sống đời sống của Chúa Ba Ngôi.
72. Tôn thờ Chúa Ba Ngôi trong đời sống--Lm Trần Bình Trọng
Trong thời Cựu ước, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi không được mạc khải cho dân được chọn. Bị bao vây bởi các dân thờ đa thần, dân Do thái được Thiên Chúa truyền dậy qua Môsê là họ phải tôn thờ một Thiên Chúa là Chúa tể duy nhất, hằng hữu, toàn năng và chân thật, ngoài ra không có chúa nào khác (Đnl 4:39). Đó là điều thiết yếu trong tôn giáo độc thần của họ. Do đó, đề cập đến mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có thể khiến họ lầm tưởng rằng có ba chúa hay ba thần. Mà ba chúa hay ba thần là điều trái nghịch với nền tôn giáo độc thần của họ, lại còn có thể làm giảm lòng tin của họ vào một Chúa.
Thế nên Thánh kinh Cựu ước không nói gì về mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi. Đôi khi Thánh kinh Cựu ước mới ám chỉ, chứ không nói rõ, về Ba ngôi Thiên Chúa. Chẳng hạn như trong sách Sáng thế, Thiên Chúa dùng số nhiều để nói về mình: Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta (St 1:26). Đại danh từ ngôi thứ nhất số nhiều ở đây là chúng ta, ám chỉ rằng có hơn một ngôi vị nơi Thiên Chúa.
Chỉ khi Chúa Giêsu xuống thế làm người chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa và hứa sai Chúa Thánh thần xuống để an ủi, thánh hoá và ban sức mạnh thiêng liêng cho loài người, thì tín điều Ba Ngôi Thiên Chúa mới được tỏ hiện. Khi ông Gioan tiền hô làm phép rửa cho Đức Giêsu ở sông Giođan, thì Chúa Thánh thần và Thiên Chúa Cha cũng được bày tỏ. Khi ra khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán: Đây là Con yêu quí của Ta, Ta hài lòng về Người (Mt 3:16-17). Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu còn bầy tỏ cho các tông đồ về Chúa Thánh thần: Thầy ra đi thì có lợi cho chúng con hơn. Nếu Thầy không đi, Đấng Phù Trợ sẽ không đến với chúng con (Ga 16:7).
Như vậy trong dòng lịch sử cứu độ, Chúa Cha được bầy tỏ trước tiên, rồi đến Chúa Con, rồi đến Chúa Thánh Thần. Ba ngôi trong một Chúa là một Mầu nhiệm. Ta có thể dùng hình tam giác cân để diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong hình tam giác cân và đều, ta thấy ba cạnh và ba góc đều nhau và bằng nhau, nhưng chỉ là một hình tam giác. Thánh Patriciô dùng một lá tam diệp thể (shamrock) để so sánh mầu nhiệm Ba Ngôi Một Chúa. Ngài hỏi dân Ái Nhĩ Lan xem họ thấy bao nhiêu lá tam diệp thể. Họ trả lời một. Rồi Ngài hỏi vậy có bao nhiêu lá. Họ nói có ba. Khi học kinh bổn thời tiền Công đồng Vaticanô II và sau đó một thời gian, ta còn nhớ học bằng cách tự hỏi, rồi tự thưa. Những người sinh trước Công đồng Vaticaanô II hẳn còn nhớ thưa thế nào cho câu hỏi: Hỏi Đức Chuá Trời có mấy ngôi? Rồi người học tự thưa theo sách, hay thưa theo những người đọc thuộc lòng: Thưa Đức Chúa Trời có Ba ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần. Rồi Sách lại hỏi thêm: Hỏi trong Ba Ngôi, có Ngôi nào trước, Ngôi nào sau, Ngôi là hơn, Ngôi nào kém chăng? Họ lại tự thưa theo sách Bổn: Thưa Ba Ngôi cũng bằng nhau. Sở dĩ trước đây giáo dân học kinh bổn thuộc lòng như vậy là vì người ta thiếu sách vở, và có những người lại không biết đọc. Việc học thuộc lòng còn có điểm lợi là ghi tạc vào tâm khảm của họ một niềm tin vững chắc như kiềng ba chân.
Một trong những điều Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta về Chúa Ba ngôi là dấu thánh giá. Dấu thánh giá nhắc nhở cho ta về lòng tin vào hai mầu nhiệm quan trọng trong đức tin người công giáo là mầu nhiệm một Chúa Ba ngôi và mầu nhiệm cứu chuộc. Ta thấy linh mục rửa tội nhân danh Chúa Ba ngôi như lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay: Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần (Mt 28:20). Các bí tích khác cũng được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong phần đầu lễ, linh mục chủ tế dùng lời chúc bình an của thánh Phaolô để chào đón giáo dân tham dự thánh lễ như sau: Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em. Linh mục kêu cầu Chúa Ba Ngôi khi cử hành Bí tích Giải Tội. Linh mục sức dầu bệnh nhân, nhân danh Chúa Ba Ngôi. Đức giám mục cử hành Bí tích Thêm sức trong dấu thánh Chúa Ba Ngôi. Ta bắt đầu và kết thúc kinh đọc bằng dấu thánh giá tuyên xưng đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Trước khi ăn, ta cũng làm dấu thánh giá, tạ ơn Chúa Ba ngôi cho ta của ăn hàng ngày.
Biết được có mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi còn làm giàu cho đời sống thiêng liêng của người tín hữu. Biết được có Chúa Cha là Đấng tạo dựng loài người, Chúa Con là Đấng cứu chuộc nhân loại, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, an ủi, ban sức mạnh thiêng liêng giúp ta dễ dàng cầu nguyện, biết phải xin với Ngôi Vị nào cho thích hợp. Xét về phương diện thần học thì khi ta cầu nguyện với một Ngôi Vị là ta cầu nguyện với Ngôi Vị kia vì Ngôi Cha, Ngôi Con, Ngôi Thánh Thần là một Chúa. Tuy nhiên xét theo tâm lý học, thì để cho ăn chắc, ta có thể cầu nguyện với cả Ba Ngôi Vị cùng lúc như: Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi, con thờ lạy, chúc tụng và tạ ơn Ba Đấng. Con xin Ba Đấng ban cho con được thế nọ, thế kia vân vân...
Thiết tưởng hôm nay nhân ngày lễ kính Chúa Ba Ngôi ta cần trả lời vài thắc mắc sau đây: Ta có ý thức được chỗ đứng của Chúa Ba ngôi trong đời sống chưa? Dấu thánh giá ta làm có nhắc nhở cho ta về lòng tin vào Chúa Ba ngôi không? Ta có làm dấu thánh giá cách ý thức và kính cẩn, hay làm một cách cẩu thả, vô ý thức?
Lời cầu nguyện: xin cho được biết tôn thờ Chúa Ba Ngôi.
Lậy Thiên Chúa Ba Ngôi toàn năng!
Con thờ lậy, đội ơn và chúc tụng Ba ngôi Thiên Chúa.
Con cảm tạ Chúa đã tạo thành nên con.
Xin Ngôi Hai Thiên Chúa tiếp tục công việc cứu độ nơi con.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần thánh hoá đời sống con.
Xin đến phù trợ mỗi khi con làm dấu thánh giá,
kêu cầu đến Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.
73. Lòng thương xót của Thiên Chúa Ba Ngôi trong trần gian--Jos.Vinc. Ngọc Biển
Hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng trọng thể mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm mẹ trong tất cả các mầu nhiệm.
Vì thế, mọi cử hành phụng vụ đều hướng về mầu nhiệm này như là điểm quy chiếu, mấu chốt, cốt lõi phát sinh mọi nguồn thiện hảo do lòng xót thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Trong lịch sử cứu độ, mọi diễn biến của vũ trụ và con người từ khi tạo dựng trời đất, muôn vật, đến thời Đức Giêsu xuống thế làm người, chịu chết, sống lại và lên trời cho đến khi Chúa Thánh Thần hiện xuống tới nay, đều có sự hợp nhất trong mọi hoạt động của cả Ba Ngôi.
Tuy nhiên, để cho dễ hiểu, Giáo Hội hướng về Chúa Cha là Đấng tạo dựng trời đất, muôn vật, muôn loài. Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa trần gian. Qua đó, chúng ta dễ dàng hiểu về sự hiệp nhất trong đa dạng của Ba Ngôi Thiên Chúa.
1. Lòng thương xót của Chúa Cha trong lịch sử cứu độ
Khởi đi từ công trình tạo dựng: Kinh Thánh diễn tả tình trạng hỗn mang trước khi được Thiên Chúa chúc lành. Sự trật tự chỉ có khi Người can dự, tác tạo cũng như phân chia vai trò và phú bẩm đặc tính cho từng loài.
Đỉnh cao của công trình tạo dựng ấy là việc sáng tạo con người giống hình ảnh Người. Người còn cho con người vinh hạnh cộng tác vào công trình tạo dựng ấy qua việc tác sinh và trông nom, canh tác “Vườn”. Đây là đặc trưng biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nhưng Tổ tông đã không nghiệm được lòng thương xót ấy, nên đã kiêu ngạo, phản bội, bất trung với Thiên Chúa. Vẫn một dạ thương xót, nên Người đã không bỏ mặc. Ngược lại, ngay lập tức, Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ sẽ đến để chuộc những gì đã mất.
Cứ thế, trong suốt dọc dài lịch sử thời Cựu Ước, Thiên Chúa luôn theo sát dân Người như hình với bóng để xót thương con người cách đặc biệt. Vì thế, Người không màng chi đến những lời than phiền, trách móc, bất trung, vô ơn, phản bội của họ.
Tình thương ấy không phải trong khái niềm trừu tượng, nhưng nó được hiện tại hóa nơi những hành vi của Người như: giải cứu dân thoát khỏi biết bao tai ương, hoạn nạn; đưa dân từ cảnh nô lệ trở về Đất Hứa trong tư cách của người tự do; nuôi sống dân bằng “Bánh Bởi Trời và Nước từ tảng đá vọt ra”. Người đã gửi nhiều vị trung gian đến để giải thoát dân khỏi đau khổ thể xác, bình an tâm hồn, đồng thời dẫn dân đi trong đường lối xót thương để được cứu độ.
Tuy nhiên, khi yêu thương như vậy, lòng dạ Thiên Chúa vẫn chưa thỏa lòng, nên vào thời sau hết, Người đã trao tặng cho nhân loại chính Con Một dấu ái của mình là Đức Giêsu, để Ngài trực tiếp mạc khải trọn vẹn về lòng xót thương của Thiên Chúa cho nhân loại.
2. Lòng thương xót của Đức Giêsu nơi công trình cứu chuộc
Đến lượt Đức Giêsu, Ngài đã đến trần gian như một người nghèo. Nghèo đến độ cha mẹ Ngài không đủ tiền để thuê một phòng trọ cho đàng hoàng nơi đêm vắng hoang vu để Ngài hạ sinh. Cũng chính cái nghèo này mà Ngài phải giáng trần trong hang bò lừa hoang vu giá lạnh. Vì thế, những người biết đến để thờ lạy chẳng ai khác, họ cũng là những mục đồng nghèo và những người xa lạ như ba nhà Chiêm Tinh.
Cuộc đời ấu nhi của Đức Giêsu không được êm ả ngay từ lúc mới chào đời... nên chỉ ít hôm sau khi sinh, Ngài đã phải cùng với cha mẹ mình chạy trốn sự tàn độc của con cáo già Hêrôđê gây nên.
Trong suốt thời gian sống tại gia đình nơi làng quê Nazaretz, Đức Giêsu sống bình thường giản dị như bao người thời đó.
Hết thời gian ấy, Ngài ra đi thi hành sứ vụ. Tuy là Con Thiên Chúa, Ngài cũng không dành cho mình những đặc quyền, đặc lợi, nhưng vẫn sống tinh thần nghèo. Nghèo đến độ: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, con người...”. Ngài cũng không tìm đến với những người mũ mão cân đai, lắm tiền nhiều bạc, quyền cao chức trọng trong dân. Ngược lại, luôn “chạnh lòng thương” đến với những người cùng đinh của xã hội. Họ là những người nghèo về tinh thần lẫn vật chất. Họ cũng là những người thấp cổ bé họng, luôn bị áp bức, bóc lột... nên khi đến, Đức Giêsu đã giải thoát họ cả về tinh thần lẫn thể xác... Vì thế, cái giá phải trả đó chính là sự phản bội của môn đệ, bị bắt bớ, mạ lỵ, vu vạ, đánh đập và giết chết như một tử tội...
Như vậy, cả cuộc đời Đức Giêsu, Ngài luôn làm lộ hiện lòng thương xót của Thiên Chúa trên nhân loại và từng người, để con người hiểu được tâm tư, lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, và chính họ cũng biết thương xót như đã được xót thương...
Con đường ấy không kết thúc khi Ngài trở về trời, nhưng đã được chuyển trao cho Chúa Thánh Thần, để Người tiếp nối con đường thương xót của Thiên Chúa nơi các chứng nhân qua việc bảo trợ và thánh hóa.
3. Lòng thương xót của Chúa Thánh Thần qua việc thánh hóa
Nói về thời của Chúa Thánh Thần, chúng ta nghĩ ngay đến vai trò thánh hóa và bảo trợ Giáo Hội.
Người thánh hóa Giáo Hội, để Giáo Hội như người mẹ, luôn trung thành với sứ mệnh xót thương nhân loại đã được Đức Giêsu ủy thác. Đồng thời, luôn trở thành những sứ giả phản chiếu sự trung thực của lòng thương xót Chúa đến với anh chị em. Ngõ hầu tâm tư của người môn đệ được quyện hòa vào thao thức của Đức Giêsu, để những người tiếp bước không bị rơi vào vòng luẩn quẩn của sự ác nhân, thất đức, cũng như những tiện nghi sang trọng không phù hợp với đường thương xót của Thiên Chúa và những giá trị Tin Mừng.
Bên cạnh đó, Chúa Thánh Thần luôn biến đổi những con người khô khan, nguội lạnh, ác độc..., trở nên những con người sốt sắng, đạo đức và nhân hậu...
Lòng thương xót ấy còn được thể hiện qua việc Người luôn bảo vệ Giáo Hội khỏi biết bao nguy khốn đang ngày đêm tấn công. Vì thế, Người luôn bào chữa, phù trợ, để giúp cho các chứng nhân khôn ngoan trước những chất vấn về niềm tin và hy vọng của con người.
Có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là Chúa Thánh Thần luôn thánh hóa để người muôn nước được hiệp thông với nhau trong đức tin, đức cậy, đức mến. Để dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Giáo Hội vẫn là một Giáo Hội hiệp nhất trong đa dạng theo khuôn mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như vậy, Chúa Thánh Thần luôn ở bên chúng ta như hình với bóng, như hơi thở, như ánh sáng..., để giúp chúng ta yêu mến, tôn thờ Thiên Chúa cho phải đạo. Qua đó, chúng ta được hưởng trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa.
4. Tin Thiên Chúa là làm cho lòng thương xót của Người được hiện tại hóa
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy yêu mến, cậy trông và tin thờ Chúa Ba Ngôi hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Đồng thời biết quy hướng về Người trong mọi chiều kích như là điểm khởi đầu và cùng đích của chúng ta.
Tuy nhiên, “đức tin không có việc làm là đức tin chết”, vì thế, việc yêu mến, cậy trông và tin thờ ấy không chỉ dừng lại ở việc khấn nguyện, kinh sách, lễ lạy... nhưng thiết nghĩ, trách nhiện của chúng ta là phải làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được hiện tại hóa trong cách ăn nết ở, để người ta thấy cách sống của mình, họ nhận ra khuôn mặt và lòng dạ thương xót của Thiên Chúa.
Những biểu hiện đó có thể là: một nghĩa cử hiệp thông với những người bị áp bức, bóc lột, đối xử bất công...; một đôi tai và trái tim nhạy bén với những dấu chỉ thời đại; một đôi tay nhân ái, một đôi chân bước ra khỏi sự an toàn để đến với những trẻ em mồ côi, người tàn tật, neo đơn; một ánh mắt cảm thông với những người tội lỗi, để tìm cách đưa họ về nẻo chính đường ngay...
Khi lựa chọn những hành vi đó, ấy là chúng ta đang làm cho đường thương xót của Thiên Chúa từ trời đến với con người và làm cho con người được đi trong đường thương xót ấy để về trời.
Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng con. Xin cũng ban cho chúng con được trở nên chứng nhân của lòng thương xót Chúa trong cuộc sống hằng ngày nơi xã hội hôm nay. Amen.
74. Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần--Jos.Vinc. Ngọc Biển
Tin Mừng Ga 16: 12-15 Trong đời sống đức tin của chúng ta, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm căn bản, trọng tâm của các mầu nhiệm khác.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm căn bản, trọng tâm của các mầu nhiệm khác. Nói cách khác, đây chính là mầu nhiệm mẹ của các mầu nhiệm. Đã là mầu nhiệm, với sự hiểu biết của con người, chúng ta không thể biết nếu không được mặc khải. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi - Nhất Thể mà lại Tam Vị quả thật là một mầu nhiệm vượt lên trên trí hiểu của con người. Vì thế, chúng ta chỉ có thể biết được phần nào qua sự mặc khải của chính Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống thế và hiện hữu giữa trần gian trong vai trò Thiên Chúa làm người.
Tuy nhiên, nếu muốn biết phần nào về Thiên Chúa Ba Ngôi, trước tiên, chúng ta phải biết được về căn tính của chính Đức Giêsu, bởi lẽ, Ngài là trung gian duy nhất dẫn đưa chúng ta vào mối thông hiệp của Thiên Chúa. Cũng chính vì nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta biết được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần..
1. Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa
Khi biết Đức Giêsu là “Logos - Lời” của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chứng minh cách cụ thể chân tính ấy nơi những mặc khải của Ngài ngang qua những hành động như: cho người mù được sáng mắt; kẻ què được đi; người phong hủi được sạch; người điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại; và, người nghèo khó được nghe loan báo Tin Mừng (x. Mt 11,4-5; Lc 7,22). Đức Giêsu cũng được ví như hạt giống; là cửa sự sống; cây nho; và cửa đàn chiên... (x. Mt 7,13-14; Ga 12,24; Ga 10,7-9; 14,6; Ga 15,1-2; Ga 10,11; Lc 15,4-7).
Như vậy, Đức Giêsu chính là “Lời” của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa. Ngài hiện hữu giữa trần gian là để mặc khải về Nước Thiên Chúa, về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, hầu đưa nhân loại về với Cha trong ý định ban đầu của Người.
Không những chỉ biểu lộ chính mình, Đức Giêsu còn biểu lộ Chúa Cha là Đấng Đồng Nhất với Ngài.
2. Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha
Mặc khải đầu tiên được khởi đi qua biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan, các tầng trời mở ra và có Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Ngài như chim bồ câu, đồng thời có tiếng Chúa Cha tuyên phán: “Con là Con Ta yêu dấu” (Mt 1,11).
Tiếp theo, Thiên Chúa Cha được mặc khải như là tình phụ tử trong sứ điệp của Đức Giêsu. Điều mới mẻ là: không những Ngài đã giảng về lòng phụ tử của Thiên Chúa, nhưng Ngài còn gọi Thiên Chúa bằng tiếng “Abba” trong lời kinh của Ngài. Tiếng “Abba” thì chỉ một mình Marcô ghi lại (x. Mc 14,36), nhưng cách gọi Thiên Chúa là Cha thì rất nhiều: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha... vì Cha đã mặc khải cho những người bé mọn”(Mt 11,25). Hay: “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46; x. Ga 17,1.5.11.21.25). Đức Giêsu thường xuyên gọi Thiên Chúa như thế. Sự kiện ấy nói lên tương quan đặc biệt giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa, một kinh nghiệm thân ái độc nhất vô nhị mà chỉ mình Đức Giêsu mới có được.
Chính vì sự đặc biệt này mà Ngài đã nói: “Không ai biết được Con trừ phi có Cha, và cũng không ai biết được Cha trừ phi có Con và kẻ được Con mặc khải ra cho” (Mt 11,27). Mặc khải về Chúa Cha còn phát xuất từ kinh nghiệm, lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha là Chúa trời đất” (Mt 11,25), nghĩa là của toàn vũ trụ. Đức Giêsu cũng đã dạy các môn đệ đọc lời kinh “Lạy Cha” (x. Mt 6,9-13; Lc 11,2-4). Chính tương quan độc đáo ấy đã giúp cho các môn đệ sau biến cố phục sinh nhận ra Đức Giêsu là Con Một của Thiên Chúa.
Ngoài ra, chúng ta có thể hiểu được mặc khải về Chúa Cha qua hình ảnh của một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân từ (x. Mt 5,45; x. Lc 6,35); là Đấng giàu lòng thương xót (x. Lc 15,7); là Đấng quan phòng (x. Mt 6,27). Người theo dõi đến cả số phận những con vật nhỏ bé phải “rơi xuống đất” (x. Mt 6,29).
Kế đến, Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta về Chúa Thánh Thần.
3. Đức Giêsu mặc khải về Chúa Thánh Thần
Khởi đầu mầu nhiệm Nhập Thể, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Đức Maria (x. Lc 1,35). Tiếp theo là vai trò của Chúa Thánh Thần trên cuộc đời của Đức Giêsu: Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giêsu khi Ngài chịu phép rửa dưới hình chim bồ câu (x. Lc 3,22). Chúa Thánh Thần đã dẫn Đức Giêsu “vào hoang địa bốn mươi ngày” (x. Lc 4,1-2). Chính Đức Giêsu đã xác nhận: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó…”. Khi trừ Quỷ, Đức Giêsu đã khẳng định quyền năng của Ngài đến từ Thánh Thần (x. Mt 12,28). Ngài cũng đề cao vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc từ chối hay đón nhận. Đón nhận thì được tha, khước từ thì bị hủy diệt (x. Mt 12,31-32).
Rồi Đức Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Ðấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Ðó là Thần Khí sự thật.” (Ga 14,15-17); “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật xuất phát từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15,26-27; x. 16,13). Khi mọi sự đã hoàn tất trên thập giá, Đức Giêsu đã gục đầu xuống và trao Thần Khí (x. Ga 19,29-30).
Cuối cùng, sau khi phục sinh, Đức Giêsu đã trao bình an và sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ, đồng thời cũng trao ban Chúa Thánh Thần kèm theo quyền tha tội cho các ông (x. Ga 20,22-23).
Như vậy: “Loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2 Pr 1,4).
4. Sống tinh thần mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở nên thụ tạo mới, được mang danh là người Kitô hữu, được trở nên hình ảnh sống động của Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ của Thánh Tôma Aquinô thì: nhờ Bí tích Rửa Tội, chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô; được trở nên đền thờ của Chúa Thánh Thần; chúng ta được Thiên Chúa yêu thương: “Ta sẽ cư ngụ và đi lại giữa họ, sẽ là Thiên Chúa của họ và họ sẽ là dân riêng của Ta.” (2 Cr 6,15).
Vì vậy, qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta được rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Kể từ đây, trong ta có Chúa và trong Chúa có ta. Ta và Thiên Chúa chung nhau một giòng máu qua Đức Giêsu. Lời cầu nguyện của Đức Giêsu giúp ta hiểu được mầu nhiệm tình thương này: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như Chúng Ta” (Ga 17,11).
Mong sao, trong đời sống của chúng ta, nơi gia đình, xóm làng, Giáo xứ, hội đoàn... luôn biết yêu thương, đùm bọc nhau. Hãy noi theo hành động xuất ngoại của Thiên Chúa khi Ngôi này vì Ngôi kia và ngược lại nhưng vẫn chỉ là một Thiên Chúa duy nhất.
Lạy Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con tin vững vàng, phó thác trọn vẹn và yêu mến hết lòng nơi Thiên Chúa. Xin cũng cho chúng con biết yêu thương nhau và sống đúng vai trò của mình trong cuộc sống hằng ngày theo khuôn mẫu Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
75. Thần Khí Sự Thật--Lm FX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
“Sách về Giờ của Đức Giêsu” của TM Ga kéo dài từ ch. 13 đến ch. 20. “Diễn từ cáo biệt” (ch. 13–17) là phân đoạn đầu tiên của “Sách” này. Chúng ta có thể xác định bố cục của phân đoạn này như sau:
- Bữa ăn cuối cùng (13,1-30);
- Bài diễn từ (phần 1: 13,31–14,31):
a) Dẫn nhập (13,31-38),
b) Phân đoạn 1 (14,1-14),
c) Phân đoạn 2 (14,15-24),
d) Phân đoạn 3 (14,25-31).
- Bài diễn từ (phần 2: 15,1–16,33):
a) Phân đoạn 1 (15,1-17),
b) Phân đoạn 2 (15,18–16,4a): các môn đệ bị bách hại,
c) Phân đoạn 3:
* Đơn vị 1 (16,4b-15): Đấng Bảo Trợ [cc. 5-7; 8-11; 12-15],
* Đơn vị 2 (16,16-33).
- Bài diễn từ (phần 3: 17,1-26):
a) Phân đoạn 1 (17,1-8),
b) Phân đoạn 2 (17,9-19),
c) Phân đoạn 3 (17,20-26).
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong phần hai, phân đoạn 2 và đơn vị 1 của Diễn từ cáo biệt.
2.- Bố cục
Bản văn Ga 16,12-15 có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp (16,12);
2) Vai trò của Thần Khí (16,13-14);
3) Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (16,15).
3.- Vài điểm chú giải
- không có sức chịu nổi (12): Dùng động từ Hy Lạp bastazein ở đây cũng lạ. Động từ này thường được sử dụng trong khung cảnh cuộc Thương Khó (19,17; x. Lc 11,46; 14,27; Gl 6,2.5). Bởi vì ý tưởng căn bản là các môn đệ không thể hiểu, mà bastazein lại có nghĩa là “nâng lên, mang, vác, chịu đựng”. Do đó, rất có thể câu nói muốn nói là nhờ Thánh Thần, các môn đệ hiểu biết mạc khải, nhưng cũng tham dự vào cái chết và cuộc tôn vinh của Đức Giêsu (x. 13,7.33).
- Thần Khí sự thật (13): Danh hiệu này đã xuất hiện trong đoạn văn đầu tiên nói về Đấng Bảo Trợ (14,17). Dịch sát là “Thần Khí của sự thật” (“sự thật”, alêtheia ở thuộc-cách). Trong tư tưởng Ga, thuộc-cách này chỉ đối tượng: Thần Khí truyền đạt sự thật, cho dù cũng có thể hiểu là một thuộc-cách đồng-chức-ngữ (apposition) (x. 1 Ga 5,6 [7]: “Thần Khí là sự thật”). Ở đây, câu văn không mô tả yếu tính hay hữu thể của Thần Khí.
- Người sẽ loan báo (13): Động từ anangellein, “loan báo, khai mở, tuyên bố”, xuất hiện ba lần trong các chương 13–15. Ý nghĩa chung của động từ này là “nói lại những gì đã được nói rồi” (ngoại trừ Ga 4,25), bởi vì tiếp đâu ngữ ana- có giá trị như tiếp đầu ngữ re- trong tiếng Anh (re-announce, re-proclaim). Bản LXX, đặc biệt sách Isaia, cũng dùng động từ này theo nghĩa ấy (x. Is 42,9; 44,7; 45,19; 46,10).
- tới sự thật toàn vẹn (13): Trong câu văn hodêgêsei hymas en tê alêtheia pasê, en + tặng-cách cho hiểu rằng đây không phải là đạt tới một chân lý mới, một chân lý vượt quá chân lý thuộc mạc khải của Đức Kitô. Trái lại, đây là nghĩa trọn của chân lý cũng là bản thân Đấng mạc khải.
- những điều sẽ xảy đến (13): Phải chăng sẽ có một mạc khải mới? Thật ra, dựa vào ý nghĩa của anangellein và chiều hướng cánh chung học đã thể hiện của TM IV, có thể nói rằng “loan báo những điều sẽ xảy đến” có nghĩa là giải thích cho mỗi thế hệ thấy những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm có một ý nghĩa cho họ hôm nay.
- Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy (15): Trong thần học về Chúa Ba Ngôi, câu này đã được dùng để chứng minh rằng Chúa Con có cùng một bản tính với Chúa Cha; nhưng ở đây tác giả Ga đang nghĩ đến mạc khải được thông ban cho loài người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Chương 16 (cũng như ch. 14 là bản văn đầu tiên nói đến Đấng Bảo Trợ) nói đến vai trò của Đấng Bảo Trợ như là thầy dạy các môn đệ.
* Câu chuyển tiếp (12)
Câu 12 chuyển sang vai trò của Đấng Bảo Trợ là giảng dạy. Đức Giêsu muốn nói gì khi tuyên bố là Người còn nhiều điều phải nói, nhưng vào lúc này, các môn đệ không có sức chịu nổi? Phải chăng Người có ý nói là sẽ có những mạc khải mới sau khi Người chết? Tuy nhiên, Ga 15,15 dường như loại trừ những mạc khải mới: “Tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. Câu 12 cũng theo một chiều hướng như vậy: chỉ sau khi Đức Giêsu sống lại, các môn đệ mới hiểu được trọn vẹn những gì đã xảy ra và đã được nói trong thời gian Đức Giêsu hoạt động (x. Ga 2,22; 12,16; 13,7). Lời hứa ban cho các môn đệ hiểu sâu hơn có thể được diễn tả bằng câu “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em”, bởi vì Đức Giêsu sẽ tác động trong và qua Đấng Bảo Trợ mà thông ban sự hiểu biết này. Khó mà có thể khẳng định rằng trong TM IV, có ý tưởng về một sự mạc khải khác nữa sau hoạt đông của Đức Giêsu, bởi vì Người chính là sự mạc khải của Chúa Cha, là Lời của Thiên Chúa (1,1.14.18).
* Vai trò của Thần Khí (13-14)
Ở đây chúng ta được giới thiệu Đấng Bảo Trợ như là vị hướng dẫn các môn đệ đến sự thật toàn vẹn. Trong Cựu Ước, đã có những ý tưởng như thế về Thần Khí (x. Tv 25,4-5 [sự thật]; 143,10 [thần khí]; Is 63,14). Đôi khi người ta nêu vấn nạn là: các bản văn Cựu Ước đó chỉ liên hệ đến việc hướng dẫn luân lý, chứ không liên hệ đến việc hiểu biết mạc khải sâu xa hơn; và như thế dung mạo Đấng Bảo Trợ do Ga phác ra hoàn toàn khác: như vậy, “thần khí”, “đường lối”, “chân lý” trong TM Ga có ý nghĩa hoàn toàn khác. Thật ra đó là bối cảnh Cựu Ước và tác giả TM IV đã đi từ bối cảnh đó để viết; nhưng chắc chắn Đấng Bảo Trợ hướng dẫn trên con đường chân lý không chỉ có nghĩa là đưa đến một hiểu biết sâu sắc hơn bằng lý trí những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng còn hàm ý là đưa đến một cách sống phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Và như vậy, tư tưởng Ga không xa tư tưởng Cựu Ước như ta tưởng. Ta cũng có thể nghĩ đến vai trò hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan (x. Kn 9,11; 10,10); cũng như gương mặt của Đức Giêsu theo Ga được phác ra phỏng theo Đức Khôn Ngoan thần linh được nhân cách hóa, thì dung mạo của Đấng Bảo Trợ cũng được phác ra tương tự.
Đấng Bảo Trợ sẽ hướng dẫn các môn đệ tới sự thật toàn vẹn. Ở Ga 8,31-32, Đức Giêsu đã hứa: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật”. Điều này được nên trọn trong và qua Đấng Bảo Trợ. Dẫn dắt tới sự thật toàn vẹn là dẫn đưa vào mầu nhiệm của Đức Giêsu là Sự Thật (14,6). Chi tiết xác định “sự thật toàn vẹn” (x. 14,26) và điểm nhấn rằng Đấng Bảo Trợ sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng chỉ nói những gì Người nghe, dường như cũng xác nhận rằng không có mạc khải mới. Đấng Bảo Trợ sẽ giúp cho mỗi thế hệ hiểu sâu sắc những gì Đức Giêsu muốn cho chính thời đại họ.
Câu 14 càng củng cố ấn tượng là Đấng Bảo Trợ không mang đến một mạc khải mới, bởi vì Người nhận từ Đức Giêsu những gì Người phải loan báo cho các môn đệ. Tuy nhiên, “dẫn tới sự thật toàn vẹn” không phải là việc duy nhất trong công tác “làm nhớ lại” (14,26). Bởi vì Thánh Thần cũng là “Đấng tạo hóa”, việc nhớ lại Người làm ra cũng đi đôi vối việc loan báo “những điều sẽ xảy đến (erchomena)”: việc nhớ lại không làm cho các môn đệ quay lưng lại với tương lai, nhưng giúp họ nắm lấy và giải thích tương lai.
Như Đức Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha (17,4) bằng cách mạc khải Chúa Cha cho loài người, nay Đấng Bảo Trợ “tôn vinh” Đức Giêsu bằng cách mạc khải Người cho loài người. Vinh quang hàm ý có sự tỏ hiện ra hữu hình: Đấng Bảo Trợ sẽ làm chứng và biến người ta thành chứng nhân (15,26-27) cho Đức Giêsu Phục Sinh; như thế Người sẽ giới thiệu công khai Đức Giêsu Phục Sinh đang chia sẻ vinh quang của Chúa Cha (17,5). Và đây cũng là một yếu tố thuộc cánh chung học đã thể hiện: Đối với các TMNL, Con Người sẽ đến trong vinh quang vào Ngày Cuối Cùng (Mc 13,26), còn đối với TM IV, đã có vinh quang rồi do Đức Giêsu hiện diện trong và qua Đấng Bảo Trợ.
* Tương quan giữa Thần Khí với Chúa Cha và với Đức Giêsu (15)
Câu 15 gián tiếp nhắc đến tương quan của Đấng Bảo Trợ với Chúa Cha và với Chúa Con. Ở chương 16 này, ta thấy Đức Giêsu là Đấng sai phái Đấng Bảo Trợ (16,7); nhưng ở 14,16.26, Chúa Cha lại là Đấng sai phái. Nhưng c. 15 cho thấy rằng khi viết ch. 16, tác giả cũng biết rằng cuối cùng Đấng Bảo Trợ, cũng như Đức Giêsu, là sứ giả của Chúa Cha. Khi loan báo hoặc giải thích những gì thuộc về Đức Giêsu, Đấng Bảo Trợ thực sự giới thiệu Chúa Cha cho loài người; bởi vì Chúa Cha và Đức Giêsu có mọi sự chung với nhau. Sau này các nhà thần học Đông phương và Tây phương sẽ tranh cãi trong Thần học về Ba Ngôi xem Thánh Thần nhiệm xuất từ một mình Chúa Cha hay là từ Chúa Cha và Chúa Con. Còn trong tư tưởng Ga, không thể hiểu được chuyện Đấng Bảo Trợ có điều gì nhận lấy từ Đức Giêsu mà lại không nhận lấy từ Chúa Cha, nhưng tất cả những gì Người có để cho loài người, đều nhận lấy từ Chúa Cha và từ Đức Giêsu.
+ Kết luận
Vai trò của Thánh Thần được khẳng định rõ ràng: Người đưa các thế hệ môn đệ vào trong sự thật toàn vẹn, tức là hiểu biết sâu sắc mầu nhiệm Đức Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể. Như Đức Kitô luôn quy chiếu về Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người (x. 7,17-18; 12,49; 14,10), Thánh Thần cũng quy chiếu về Chúa Con. Người sẽ là vị “gia sư” nhắc lại cho các môn đệ tất cả mạc khải của Đức Giêsu và giúp đào sâu qua các thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua bản văn này, chúng ta thấy Đức Giêsu nói về Chúa Cha và Thánh Thần như là những nhân vật riêng biệt, khác với chính bản thân Người. Người giới thiệu Chúa Cha như là nguồn mạch thông ban mọi sự: Chúa Cha sai phái Chúa Con và Thánh Thần; Chúa Con luôn quy chiếu về Chúa Cha để nhận Lời mà truyền đạt cho các môn đệ, cũng như để lấy các quyết định. Chúa Con công chính hóa loài người, ban cho họ sự bình an của Người và ký thác cho họ quyền lực giao hòa. Người nói về Thánh Thần như là một nhân vật mà người ta đang chờ đợi, sẽ đến để hoàn tất một sứ mạng riêng, đó là đưa các môn đệ đến chỗ hiểu kỹ càng hơn trọn vẹn mạc khải Người đã ban. Đàng khác, Người cũng cho thấy là Chúa Cha và Thánh Thần kết hợp mật thiết với Người, đến nỗi Đấng này không làm gì mà không có Đấng kia. Sự tách biệt nói lên tính tự lập, sự kết hợp nói lên sự hiệp thông trọn vẹn. Đây là mẫu mực cho đời sống của mọi tập thể trong Họi Thánh.
2. Mặc dù Đức Giêsu đã truyền đạt cho các môn đệ tất cả các bí mật của Người (Ga 15,15), các ông vẫn chưa hiểu được. Các ông cần một phương pháp thích ứng mà Thánh Thần, với khoa sư phạm riêng, sẽ cung cấp cho. Thánh Thần không phải là một vị thầy giảng dạy, nhưng là một vị “gia sư” giải thích cặn kẽ giáo huấn của vị thầy. Như vậy, Thánh Thần không có giáo thuyết riêng; Người chỉ nhắc lại mạc khải về Chúa Cha nơi Chúa Con và giúp các môn đệ hiểu (14,26). Thánh Thần cũng giúp các thế hệ môn đệ hiểu được mạc khải của Đức Kitô và chọn được các xử sự tương ứng. Đưa lại một ý nghĩa Kitô giáo cho lịch sử, giúp người ta khám phá ra trong mọi sự có dấu vết của chương trình Thiên Chúa, đó là sứ mạng của Thánh Thần nơi các môn đệ, và đó cũng là sứ mạng chứng nhân của họ.
3. Từ ngữ “sự thật” trong truyền thống Kinh Thánh hàm ý “sự vững vàng”, “sự bền bỉ”, “thực tại chắc chắn”. Sự thật của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Kitô (Ga 1,9). Vậy điểm tựa vững chắc của người tín hữu là Đức Giêsu Kitô (Ga 1,12). Thánh Thần sẽ giúp các tín hữu xác tín về vai trò này của Đức Giêsu và luôn liên kết với Người.
4. Ba Ngôi là “thẻ căn cước” của người Kitô hữu. Người môn đệ của Đức Giêsu phải phản ánh dung mạo của Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Người ta thấy được dấu ấn Ba Ngôi nơi cộng đoàn khi mọi người được chấp nhận và đón tiếp, khi niềm vui và nỗi buồn được chia sẻ, khi sự đa dạng không xóa mất sự hợp nhất, nhưng làm cho mọi người nên phong phú. Chúng ta thấy được dấu ấn của Ba Ngôi tại bất cứ nơi nào người ta tìm kiếm vinh quang chân thực: không phải là thứ vinh quang do cạnh tranh và thống trị, nhưng do khiêm nhường phục vụ những ai cần được yêu thương.
5. Hôm nay, chúng ta không cử hành một Tín điều của Giáo Hội, nhưng cử hành một mầu nhiệm sâu thẳm là chính Thiên Chúa, Đấng đã chọn cắm lều giữa chúng ta, “là người thật và cũng là Thiên Chúa thật”, đã không để chúng ta mồ côi, nhưng cho chúng ta được chia sẻ sự sống của Thiên Chúa nhờ ân sủng của Thánh Thần. Chính Thánh Thần không ngừng nối kết ta với Thiên Chúa và với tha nhân trong tình yêu. Chính niềm tin về mối tương quan này sẽ mở mắt và giúp ta ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa, như một nhà thần bí nói rằng: “Gần kề với chúng ta hơn cả chính chúng ta”. Giáo lý về Chúa Ba Ngôi nói đến chính tình yêu Thiên Chúa không ngừng đổ tràn trên thế giới này. Đây không phải là ngày để các vị giảng thuyết tìm kiếm những “giải thích hay ví dụ” về Ba Ngôi. Hôm nay không phải để nói về từ ngữ hay cấu trúc, nhưng là cử hành sự hiện diện sống động của Thiên Chúa, Đấng đang cư ngụ giữa chúng ta. Hôm nay, chúng ta ca tụng. Nếu muốn biết thêm về những mâu thuẫn liên quan đến Ba Ngôi vào thời đầu của Giáo Hội và giáo lý này tiến triển ra sao, thì ngày mai chúng ta có thể tìm trong sách vở (Siciliano).
76. Chú giải của Noel Quesson
Kinh Thánh không công bố lần nào từ trừu tượng, “Chúa Ba Ngôi” cả. Kinh Thánh cũng không bao giờ định nghĩa như ngôn ngữ duy lý Hi Lạp sẽ làm, là có “Ba Ngôi vị trong Thiên Chúa duy nhất. Mầu nhiệm cố yếu nhất trong Thiên Chúa không được mạc khải bằng những công thức nhưng nhờ các sự kiện Cựu ước chỉ nói về Thiên Chúa Người Cha" (Đnl 32,6 - Tv 67, 6 - Is 63, 16 Gr 2, 4.1). Và các “con cái” của Thiên Chúa là dân tộc Israel (Xh 4,22 -Hs 11,1), hay hiện thân là ông Vua (2 Sm 7,14 - Tv 110,3) hơn những người công chính (Kn 2, 18 - 5,5 - 18, 13). Sau cùng, ta nhận thấy Thần Khí của Thiên Chúa xâm nhập một số người (St 41, 38 - Ti 6, 34 -Is 11,2 - Ed 39, 29 - Ge 3, 1).
Đúng vậy Cựu ước đã không mạc khải cách minh nhiên Ba Ngôi trong Thiên Chúa. Nhưng ngay các tác giả Tân ước cũng lập lại thứ ngôn ngữ Kinh Thánh trên, để diễn tả tính hoàn toàn mới lạ của “hiện tượng Giêsu": Ngài trực diện với Chúa Cha, và loan báo việc thông ban Thần Khí. Khi cắt nghĩa những sự kiện đó, Kitô giáo còn phải dò dẫm suy tư rất lâu, trước khi xác định một kiểu diễn tả đức tin đầu tiên nhớ những quan niệm triết học HiLạp, từ Công đồng Ni-xê năm 325 đến Công đồng Kan-xê-Đoan năm 451.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêau nói về Thánh Thần.
Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi.
Đó là một kinh nghiệm mà con người chúng ta thường gặp thấy Ngay cả với những người thân yêu, chúng ta cũng khó mà "thông truyền" hết những gì mà chúng ta mang trên mình và muốn chia sẻ cho họ. Như vậy, trước khi chịu chết Đức Giêsu đã không nói hết mọi điều. Nhưng đây không chỉ là khó khăn ta quen gặp trong vấn đề diễn tả. Đây chính là mầu nhiệm đức tin mà ta chỉ dần dần bước vào. Ngay cả những bạn hữu thân thiết nhất, đã sống kề cạnh lâu ngày với Đức Giêsu, cũng không nhận thức được điều gì đã xảy ra, Người là "Ai". Họ mang quá nhiều ý kiến có sẵn về Thiên Chúa và Đấng Mê-xi-a đã được hứa ban. Họ cần phải tự lột bỏ, thay đổi ý kiến, và lớn lên trong đức tin. Chỉ có thập giá và sự Phục sinh của Người, như một thứ va chạm điện mãnh liệt, mới phá được những xác tín của họ và bó buộc họ phải tiến triển.
Phải, đức tin là một sự "tiến triển". Đó là một sức sống cần phải phát triển. Trong Thiên Chúa, luôn có những điều mới lạ cần phải khám phá, cũng như trong sự phát triển của một tương quan yêu thương với một người nào đó: hôn phu, người chồng, bạn hữu, đồng nghiệp... Biến cố bi đát của tông đồ, là những người hầu như không: hiểu biết gì về Đức Giêsu trước lúc Người ra đi, cảnh giác chúng ta không nên biến đức tin thành một Đức tin tĩnh, chỉ đắc thủ một lần là xong... "Tôi có đức tin rồi..." “Tôi không thể mất đức tin..."
Cũng như các tông đồ tôi mới chỉ ở bước đầu của một cuộc khám phá, một cuộc mạo hiểm. Lạy Chúa, đối với con, cũng có nhiều điều con chưa chịu nổi, Thần Khí của Chúa sẽ mạc khải cho con sau này, nếu con biết chăm chú lắng nghe. Xin giữ gìn thần trí con luôn thức tỉnh để đón nhận Thần Khí của Thiên Chúa! Chớ gì đừng bao giờ con tự mãn, coi mình là hiểu biết tất cả, vênh vang trước những mảnh vụn Đức tin tầm thường mà con đang sống.
Dĩ nhiên, con cũng nghĩ đến những người con đang chung sống. Họ cũng gặp một tình trạng như thế: Họ đang bước đi trên cùng "con đường đức tin" đó. Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói, có những chân lý, những thái độ họ chưa khám phá ra cách sống động... Giờ đây họ chưa có thể "chịu nổi"? Lạy Chúa, xin ban cho con sự kiên nhẫn của Chúa. Chớ gì con biết tiến bước nhịp nhàng với Chúa, với những mạc khải yêu thương của Chúa... cùng đồng hành với anh em con trong bước tiến riêng của họ.
Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.
Tôi ghi nhận từ đẹp trên đây: "dẫn tới" Tôi hình dung ra một người dẫn đường lên núi cao. Đó là người biết rõ mọi lối đường là người yêu thích và thưởng ngoạn ngọn núi đó mà anh muốn làm cho người khác càng thích thú... Là người đi trước và giúp ta tiến lên. Nhưng như bạn biết, người dẫn đường không thay thế bạn được: chính bạn phải bước theo. Nếu vì quá mệt lả, bạn từ chối bước cao hơn... Anh ta không thể cưỡng chế tự do của bạn. Anh ta hiện diện ở đó, là để "hướng dẫn” bạn. Lạy Thần Linh Thiên Chúa, ánh sáng dịu dàng. Xin hướng dẫn con, để con không từ chối việc lên núi... một bước…. rồi thêm một bước nữa! để trên bước đường con đi tới, con gặp được những người dẫn đường tình nghĩa huynh đệ mà Thần Khí Chúa đang tác động.
Bởi vì, đúng vậy, đúng là một cuộc "chạy đua lên núi cao": Đức tin là cuộc tìm kiếm mầu nhiệm Thiên Chúa! Đó là chóp đỉnh không ai có thể một mình đạt tới: cần phải có một "người nào đó" dẫn lên. Cần phải có một ông thầy, một người dẫn đường biết rõ bí mật.
Trong suốt nhiều thế kỷ, các Công đồng cố gắng tìm hiểu những lời trên đây của Gioan...và kết thúc bằng cách quả quyết rằng, thực sự' Thần Khí là một "Đấng nào đó "...là một Ngôi vị... là Đấng hiểu biết mầu nhiệm thâm sâu của Thiên Chúa từ bên trong, để hướng dẫn con người đạt tới đó Trong bức ảnh diễn tả Chúa Ba Ngôi của Roublev, Thánh Thần là ngôi thứ ba, với khuôn mặt tuyệt đối giống hai ngôi kia, Chúa Cha và Chúa Con. Nhưng trong tư thế đầu Ngài hoàn toàn nghiêng về hai Ngôi kia cách âu yếm để hoàn thành chuyển động của "vòng tròn hoàn hảo", thì mắt Ngài thực tế lại nhìn về phía trái đất, hướng đến con người đang cầu nguyện trước ảnh tượng, để "mở ra" và “thông truyền" cho con người chính sự chuyển động của Thiên Chúa: đó là Tình Yêu!
Thần Khí sự thật! Sự thật toàn vẹn!
Nhưng coi chừng! khi bàn về Thiên Chúa, sự thật không phải là thái độ tri thức... cũng như' sự hiểu biết về một con người mà ta muốn yêu thương. Trước hết, không phải là học biết, quan sát, đo nghiệm, đặt dưới ống kính hiển vi... nghiên cứu cách khoa học, như thể ta nghiên cứu một "sự vật" ở đây, thuộc về một lãnh vực khác. Hiểu biết một "Người nào đó" là bước vào mối tương quan với họ.
Nói rằng mình là "tín hữu không thục hành"... thì đó là một lời thú nhận quan trọng, nếu người đó ý thức và thực sự đã suy nghĩ kỹ. Một tình yêu nếu không được "thực hành" thì sẽ là gì? Một tương quan với một người nào đó, nếu không thể sống động và thể hiện, thì sẽ ra sao? Lạy Thần Khí sự thật, xin hướng dẫn con tới sự thật "toàn vẹn"!
Ngài sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến.
Đó là hình ảnh của tiếng phản dội vào thần trí ta. Giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và Thánh Thần, luôn có sự liên tục hoàn hảo. Đó là cùng một tiếng nói lập lại nhiều lần, với cách thức khác nhau. Thánh Thần không nói gì khác về Đức Giêsu cả! Sự thật duy nhất và xác thực về Thiên Chúa, là Đức Giêsu. Mọi sự người ta đã nói trước, và mọi điều Người ta đã nói sau... về Thiên Chúa, mà không phù hợp với những gì Đức Giêsu của Thiên Chúa tỏ lộ cho ta, thì đều sai lầm! Đó là một Thiên Chúa giả! và với sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta cần phải điều chỉnh nhiều ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa. "Nếu Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, thì ân sủng và sự thật nhờ Đức Giêsu Kitô mà có" (Ga 1,17) "Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sáng (Ga 14,6)
Người sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em.
Như chúng ta đây biết, Đức Giêsu là Người con hoàn hảo, hoàn toàn hướng về Chúa Cha. Đức Giêsu "không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm, vì điều gì Chúa Cha làm, thì Người Con cũng làm như vậy. Quả thật, Chúa Cha yêu Người Con và cho Người Con thấy mọi điều mình làm" (Ga 5,19-20). Đó là mầu nhiệm thâm sâu của Chúa Ba Ngôi: Mỗi Ngôi là sự thấu suốt trọn vẹn của Ngôi khác. Ở đây, Đức Giêsu mạc khải cho thấy, Thánh Thần bước vào hoạt động thẩm chiếu trọn vẹn đó. Những tương quan yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa không có gì là giấu ẩn, là che đậy đóng kín: Mỗi Ngôi trong Ba Ngôi không giữ cái gì làm của riêng mình". Mọi sự đều được chia sẻ, thông ban, hiến tặng... và mọi sự đều được tiếp đón, nhận lãnh! Những lời nói trần gian của chúng ta đều trở yếu kém, để diễn tả tính chất phi thường của mối liên quan liên kết Chúa Cha, Chúa Con, và Thánh Thần. Mọi tương quan nhân loại của ta đều bắt nguồn từ mối tương quan đó! Đỉnh cao không thể vượt qua được về Thiên Chúa, đó là: mạc khải về Chúa Ba Ngôi.
Nhưng trước hết, Chúa Ba Ngôi không phải là một thứ ẩn ngữ, một thứ siêu phương trình toán học dành cho những nhà trí thức ưu hạng... Đó chỉ là một thực tại hoàn toàn giản đơn bị che giấu đối với các bậc khôn ngoan thông thái nhưng lại được mạc khải cho những người 'bé mọn" (Mt 11,25). Bởi vì, nói về Thiên Chúa cũng là nói về con người, "được tạo dựng theo hình ảnh và hòa ảnh của Thiên Chúa". Bé thơ, trẻ mới sinh không biết rằng nó có một gia đình. Nhưng ngay từ những tuần lễ đầu tiên, mơ hồ nó thấy mình được che chở trong một tình yêu thương... Nó cảm thấy quanh mình một tình âu yếm, luôn đáp lại mọi cơn đói khát, mọi tiếng kêu la của nó. Trước hết nó cảm nghiệm tình yêu đó như "một" cái gì lờ mờ, nhưng hoàn toàn mạnh mẽ và thích thú. Bé chỉ cần bật tiếng khóc, là "nó" có mặt ở đó...
Với thời gian, cuối cùng thì bé cảm nhận được rằng, sự hiện diện đó có nhiều dạng không hẳn chỉ là "một" tiếng cao và giọng trầm, khuôn mặt mịn như nhung và khuôn mặt lởm chớm những rầu, bàn tay mềm mại và bàn tay sắt thép... Nhiều người đang phải sống cùng một tình thương đó quanh bé, vì bé..." (Rey-mermet). Bằng cách đó, những người đơn sơ cũng khám phá ra mầu nhiệm của Gia đình Thiên Chúa: nhờ "thực tập" ngày này qua ngày khác...cho tới lúc ở trong Gia đình.
Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy, vì thế Thầy đã nói: “Người lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em".
Một lời phát biểu gây ngạc nhiên. Trước hết chúng ta hãy để cho lời đó gây bối rối nơi ta.
Một anh thợ mộc làng Nadarét tầm thường, một con người cũng mang xương thịt thấp hèn, thế mà trước ngày bị kết án tử hình bởi những nhà cầm quyền dân sự và tôn giáo của đất nước anh, đã dám cả quyết rằng "mọi sự Thiên Chúa có đều là của anh".' Và không chỉ một lần trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã gợi lên sự hiệp nhất lạ lùng như thế giữa Người và Thiên Chúa: Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa hữu hình (ta có thể nói được như thế! bởi vì quả thực Thần Khí của Đức Giêsu, biểu lộ cách vô biên ngoài tầm mắt của ta). Và Thần Khí, chính là Đức Giêsu - tiếp tục và được lập lại mãi mãi trong tâm hồn con người. Thần Khí phản chiếu Đức Giêsu. Và Đức Giêsu phản chiếu Đức Chúa Cha vô hình. Tôi chiêm ngưỡng sự duy nhất và tính khác biệt này... Đó là sự hiệp thông các ngôi vị "nhiều mà chỉ là một": nguyên mẫu của con người! chương trình hành động cho mọi xí nghiệp, mọi gia đình, mọi xã hội. Đó là một "chóp đỉnh" thực sự mà một phần không thể đạt thấu. Chúng ta có để cho Người "hướng dẫn" ta tới đó không? Lạy Thánh Thần xin hãy đến!
77. Chú giải của Fiches Dominicales
CHÚA CON ĐÃ SAI THÁNH LINH ĐỂ TIẾP TỤC CÔNG TRÌNH CỦA NGƯỜI Ở TRẦN GIAN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ thời kỳ của Đức Giêsu.
Vào, giờ Đức Giêsu sắp "phải bỏ thánh giá mà về với Chúa Cha", ta thấy có hai giai đoạn trường bài diễn từ sau bữa Tiệc Ly.
- Thời kỳ của Đức Giêsu, thì các môn đệ không làm sao có sức chịu nổi " những lời Người.
- Thời kỳ của Thánh Linh " thì chính Người sẽ dẫn dắt các ông tới sự thật toàn vẹn”.
X Léon-dutour quảng giải: "Bấy giờ" của bữa tiệc ly đối tương phản với thời kỳ Đấng Bảo Trợ đến; là việc đến này tùy thuộc vào lễ vượt Qua của Chúa Con" (“Lecture de L’Evangilc de St Jean ", cuốn 3, Seuil, trg 231).
2. Đến thời kỳ của Chúa Thánh Thần.
Thần Khí này, Đức Giêsu hứa với các tông đồ: "sẽ dẫn các ông đến sự thật toàn vẹn ". Việc Chúa Thánh Thần đến soi sáng vào quá khứ của Đức Giêsu, sẽ khiến cộng đoàn các môn đệ của Người hiểu sâu thêm những lời nói và việc làm của người, hiểu để áp dụng và đi vào cuộc sống. Hơn nữa, Người còn cho các môn đệ thông hiệp vào hiện tại của Đức Giêsu, người Con đã được tôn vinh nơi Thiên Chúa và đang muốn thông ban cho các môn đệ chính con người vinh quang của mình.
- Thần Khí này, Đức Giêsu phán tiếp "sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em". Để dẫn đến sự thật, Thần Khí "sẽ nói lên" hay là "sẽ diễn tả” điều mà Người nhận từ Chúa Con... X. Léon-dufour giải thích thêm: "Nếu Đức Giêsu ngừng nói bên tai, thì việc Người nói trong tim (đồng nghĩa với “mạc khải”) vẫn còn tiếp tục nhờ trung gian của Thần Khí. Quả vậy Thần Khí không nói nhân danh quyền năng của mình, cũng giống như Đức Giêsu đã không nói tự ý mình; Thần Khí sẽ nhận từ Đức Giêsu cũng giống như Đức Giêsu nhận từ Chúa Cha (8, 26). Tiếng nói của Thần Khí chắc chắn không đập vào lỗ tai, nhưng thấm sâu tận tâm hồn. Như vậy Chúa Con tiệp tục mạc khải của mình bằng cách thế khác trước, cách thế thần linh"... Chúa Thánh Linh sẽ là người biểu lộ Đức Giêsu vậy":
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Nguồn suối không hề cạn”
“Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em". Vào lúc ly biệt, những lời kín đáo này phát ra từ môi miệng Đức Giêsu để kết thúc buổi hàn huyên đầy tình hiệp thông. Vấn đề không tại điều muốn nói, mà tại ý nghĩa thẳm sâu nằm ở những lời ấy. Sánh với những gì nằm sâu trong lòng biển cả bao la, thì lời nói cũng chỉ như đám bọt biển trắng xoá trên mặt mà thôi. Điều mà Thầy muốn ban cho anh em, chia sẻ với anh em là những gì tự đáy lòng Thầy, là những gì là sâu xa nhất từ nội tâm Thầy.
Không phải là Thầy không còn thời giờ, cũng chẳng phải là Thầy còn nói thêm nhiều điều khác. Thầy chỉ mong muốn lặp đi lặp lại mãi mãi điều cốt lõi. Ước chi điều cốt lõi được lặp lại hoài này, luôn có được vẻ tươi mát của buổi bình minh đang xuất hiện.
Nội tâm Thầy như mạch nước muốn vọt lên nhưng lại không vọt lên được. Điều Thầy muốn nói ra thì lại không thể diễn tả được. Và người nghe không bao giờ có thể hiểu, cũng không thể cảm nghiệm được với ánh sáng và cường độ mà Thầy mong muốn vì điều đó thuộc về Thầy một cách quá lạ thường. Cái "tôi" thẳm sâu này không sao tả xiết.
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em". Nhưng lúc này, như thế là đủ rồi. Không thể nói thêm nữa, là người nghe cũng không thể tiếp thu hơn. Sự truyền đạt từ người này sang người kia kết thúc, vào lúc mối hiệp thông không còn có thể hiệp nhất thêm nữa.
"Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em". Khi Đức Giêsu tâm sự điều này với các bạn hữu của Người, thì tình Thầy trò thân mật trước lúc chia ly rất phong phú đến nỗi không có thể nói gì hơn nữa.
Vả lại Người còn có thể mạc khải gì hơn về Người hoặc về Chúa Người chăng? Người chẳng phải là mạc khải đầy đủ về Thiên Chúa rồi đấy sao? Đây không phải một "món hàng tàng trữ" ngủ yên trong tủ sắt, hoặc được nâng niu giữ gìn trong hộp quý. Không đâu, đây là một dòng suối không hề cạn kiệt.
Thần Khí, trong khi giúp người ta hiểu biết và nhìn nhận Đức Gtêsu, sẽ khiến người ta không ngừng đói khát muốn hiểu biết hơn nữa. Thần Khí khơi dậy nơi lòng người tín hữu sự hiện diện của Đấng Phục sinh. Người giúp khám phá sự hiện diện đó là gì, có hệ quả gì trong cuộc sống thường nhật cũng như trong những giờ phút trọng đại của lịch sử.
Một sự hiện diện kín đáo và mãnh liệt.
Một sự hiện diện đầy bình an và tình thương.
Và sự hiện diện này là Sự sống. "
2. Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải, Người là ai?
(N. Quesson trong “Les entretiens du dimanche. Année C".
Roguet -Ardant. trg 101-102)
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, cũng như tất cả những mầu nhiệm đặc biệt kitô giáo, không tự nhiên dễ hiểu đối với những trí tuệ thích lý luận của con người. Mới đây một đứa trẻ đã nói với cha nó rằng: "Ba mà cũng còn tin những chuyện ấy à? Phản ứng của đứa trẻ này minh họa rõ ràng cái não trạng vụ khoa học mà ta đã bị thấm nhiễm, và não trạng đó có khuynh hướng chủ trương cái gì có thể kiểm nghiệm được, mới được coi là có thật.
Tuy nhiên, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong những mầu nhiệm đáp ứng được những ước mơ thâm sâu nhất của nhân loại. Bí mật của thế giới chúng ta không phải là cái gì trừu tượng, hoặc một sức mạnh vô danh tăm tối, nhưng là một tình thương..., có thể nói được rằng: " đó là nhịp đập của ba trái tim thương yêu nhau " hoặc nói theo ngôn ngữ truyền thống hơn, nhưng cùng một thực lại lạ lùng đó, ta nói: Thiên Chúa là ba ngôi vị, nhưng Ba Ngôi là một Chúa duy nhất.
Thật vậy bạn hãy mở sách Tin Mừng bất kể trang nào, bạn sẽ thấy rằng Đức Giêsu không khi nào đóng vai giáo sư dạy môn tôn giáo hoặc môn triết học. Người đã không hề giảng bài về Chúa Ba Ngôi. Người cũng không bao giờ nói ra từ ngữ đó. Không! Nhưng đơn giản là Người đã sống. Người đã sống như một Người Con. Người chỉ mang trong tim, chỉ nói ra nơi cửa miệng cái tên của lòng yêu thương, các tên của Đấng mà, các trẻ nhỏ Do Thái ngày nay vẫn còn dùng để gọi cha của chúng trên các đường phố Giêrusalem.
Chúng ta vừa mới nghe những lời rất đơn sơ của Tin Mừng: Mọi sự thuộc về Cha, do thánh Gioan kể lại (Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu phiên dịch cách hồn nhiên là: à Papa le Bon diêu": thuộc về “Ba" Chúa Trời) những gì thuộc về Cha Thầy, là của Thầy. Rồi Người nói tiếp liền: " Thần Khí sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em".
Như vậy, cách sử sự và những lời của Đức Giêsu đưa ta vào làm quen với "Ba Ngôi" vừa hoàn toàn tách biệt, tuy nhiên, lại vừa hoàn toàn liên kết nên một. Vâng, Đức Giêsu là Đấng luôn "qui hướng về Đấng khác".
Quả thật, trong suốt lịch sử của nhân loại đi tìm kiếm từ tôn giáo, Đức Giêsu và chỉ một mình Đức Giêsu là người đủ bạo dạn để dám nghĩ rằng: Thiên Chúa không phải là Đấng cô đơn, xoay tròn chung quanh mình, giam hãm mình trong một thứ ích kỷ thánh thiêng..., nhưng Thiên Chúa là Đấng khởi nguồn và làm nẩy sinh mối liên hệ yêu thương.
78. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THẦN KHÍ SỰ THẬT
1. “Ta còn lắm điều phải nói với các ngươi”. Các nhà chú giải đã phải khổ vì mấy chữ trong 15,15 theo đó thì Chúa Giêsu đã nói tất cả cho các tông đồ. Chắc chắn Ngài đã nói hết cho họ vì Ngài là mạc khải hoàn hảo của Cha và không còn gì mới để Chúa Thánh Thần mạc khải thêm; vì thế đừng đợi chờ một mạc khải nào khác. Tất cả đã được Kitô mang đến vì Ngài là “lời” (1,1.14), là “sự cắt nghĩa” Chúa Cha (1,18). Không còn chữ nào có thể thêm vào Lời đó, không còn có thể sửa chữa được điều gì. Nhưng có thể quảng diễn ra dài hơn, trở lại những điều Ngài đã nói để thấu hiểu tường tận (thánh Gioan đã dùng phương pháp khai triển kiểu vòng ốc này) (x.14,16.26). Nếu Đức Kitô xét rằng nói hết bây giờ cho các tông đồ cũng đều vô ích, mặc dầu họ có nhiều thiện chí, là vì chỉ Thánh thần mới có thể biến họ đủ khả năng quán triệt mạc khải của Thiên Chúa bằng cách làm cho họ biết đón nhận “những điều thần thiêng (1Cr 2,13); như trẻ sơ sinh trong 1Cr 3,1, họ chưa có thể ăn uống gì ngoài sữa.
2. Thần khí “sự thật” đến khi mạc khải kết thúc, sẽ hoàn toàn đưa họ vào tận nguồn chân lý. Ngài sẽ hướng dẫn họ khám phá toàn bộ chân lý và chân lý sẽ là con đường sống đối với họ, là qui tắc nội tâm cho cuộc đời của họ (Tv 25,5.9; 143,10; Kn 9,11; 10,17). Mặc dầu Chúa đã truyền đạt tất cả những điều bí nhiệm cho (15,15), họ vẫn chưa thể hiểu hết được. Để thấu hiểu, họ cần có một phương pháp thích hợp mà khoa sư phạm của Thánh Thần sẽ mang đến. Thánh Thần không phải là thày dạy nhưng là một người lặp lại và giải thích lời giáo huấn của thày thôi. Ngài không tự quyền nói, cũng như Chúa Giêsu cũng như Chúa Giêsu không nói tự quyền mình (Ga 3,32; 7,16-17; 8,26-28.40,12,14,10; 15,15) nhưng chỉ mạc khải Chúa Cha để tôn vinh danh Người (Ga 12,28; 14,13; 15,8; 17,4-6) Vì thế Thánh Thần không có giáo thuyết riêng. Ngài chỉ đến khơi lại và giúp cho hiểu được mạc khải của Cha được Con (14,26).
Khoa sư phạm của Thánh Thần còn có một mục đích khác; soi sáng những biến cố sẽ xảy ra. Vì thấu hiểu mạc khải của Đức Kitô sẽ không ích gì nếu không biết áp dụng vào các hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. Nhờ ánh sáng của Ngài, môn đệ có khả năng nhận thức họ phải cư xử thế nào cho phù hợp với các hoàn cảnh khác nhau sẽ xảy đến, để điều chỉnh lối sống của họ theo nhân sinh quan và vũ trụ quan Kitô giáo. Người Kitô hữu nhìn mọi sự khác cái nhìn của lương dân vì họ giải thích tất cả bắt nguồn từ biến cố luôn hiện thực của Đức Kitô. Sự chết, sự phục sinh và lên trời của Ngài không phải chỉ là những sự kiện quá khứ đã xong xuôi chẳng còn âm hưởng gì đến thời hiện tại. Các hành vi cứu thế của Đức Kitô vẫn kéo dài từ thời gian này qua thời gian nọ, trong công việc tầm thường hàng ngày cũng như trong những biến động của lịch sử. Gán cho lịch sữ mộ ý nghĩa Kitô giáo, giúp khám phá ra những dấu vết của chương trình Thiên Chúa trong tất cả sự kiện đó ("vì tôi đã không e ngại mà dấu giếm đi, để không loan báo cho anh em biết ý định của Thiên Chúa")(Cv 20,27), chiếu ánh sáng sống động của mạc khải trên mọi biến cố, vào mọi thời đại: đó là sứ mệnh của Thánh thần nơi các môn đệ. Như vậy, Ngài không có tiên báo chi tiết về tương lai cũng như không tường thuật những biến cố làm đề tài của niên sử. Dưới con mắt của Ngài, điều thiết yếu không phải là chỗ đó, nhưng là chiều hướng diễn tiến của kế hoạch cứu rỗi.
Tuy nhiên, Thánh Thần sẽ biến tất cả Kitô hữu thành những ngôn sứ. Giống như các ngôn sứ CƯ, bổn phận chủ yếu của họ không phải là tiên báo, nhưng là khám phá ý định Thiên Chúa trong biến cố hiện đại, “đọc các thời triệu”, nhận biết chiều kích riêng của Thiên Chúa đằng sau những biến cố đó. Tất cả mọi biến cố của thế giới, xảy ra từ ngày Chúa Giêsu hiển vinh, đều thuộc về thời cánh chung, cho nên việc thấu hiểu trật tự mới, mà người đàn bà Samarotanô trông đợi nơi đấng Messia (4,25), chỉ có Thánh Thần thông ban mà thôi. Tác giả sách khải huyền đã thử nói tiên tri theo kiểu này.
Vì thế Thánh Thần không mang lại một mạc khải mới, nhưng chỉ liên tục giải thích mạc khải của Đức Kitô để không ngừng soi chiếu các biến cố của thời đại. Thánh Thần liên tục tham chiếu mạc khải của Đức Kitô. Ngài đón nhận tất cả từ Đức Kitô, cũng như Đức Kitô đã đón nhận mọi sự từ Cha. Có một tiếp nối hoàn hảo giũa mạc khải trong Đức Kitô và sự thông hiểu nhờ Thánh Thần. Cả hai đều bắt nguồn từ Cha.
Nhưng tất cả những cái đó không cấm giáo hội, dưới ảnh hưởng của Thánh Thần, giải thích không ngừng nội dung mạc khải do Đức Kitô mang đến, phát sinh cái mà các nhà khoa học gọi là “sự tiến triển các tín điều”. Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Thánh truyền do các tông đồ truyền lại được tiến triển trong Giáo hội dưới sự trợ giúp của Thánh Thần. Thật vậy, các sự việc và các lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn nhờ sự chiêm ngắm và học hỏi của các tín hữu, những người đã ghi nhận những điều đó lòng (Lc 2,19 và 51); nhờ sự thông hiểu những điều thiêng liêng họ cảm nghiệm được, hoặc nhờ việc giảng dạy của những người lãnh nhận một đoàn sủng chắc chắn về chân lý, do việc kế vị trong chức giám mục. Nói cách khác, qua bao thế kỷ Giáo hội luôn hướng tới sự viên mãn của chân lý Thiên Chúa cho đến khi lời Chúa được hoàn tất nơi chính Giáo hội (hiến chế mạc khải của Thiên Chúa, số 8).
KẾT LUẬN
1. Trước khi tiếp tục mùa quanh năm (là mùa sẽ kết thúc năm phụng vụ bằng lễ Chúa Kitô Vua). Hôm nay Giáo hội muốn chúng ta thưởng thức mạc khải chính yếu do Đức Kitô mang đến. Qua tất cả những biến cố cuộc đời Ngài mà chúng ta đã cùng nhau sống lại suốt năm phụng vụ này Chúa Giêsu đã dần dần cho chúng ta nhận biết một cách cụ thể mối giây liên lạc giữa Ngài với Cha và Thánh Thần. Chính qua Ngài, chúng ta từ từ tiến sâu vào mạc khải của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã tỏ mình ra không như là một hữu thể trừu tượng, một kiến trúc của trí tuệ, hay còn tệ hơn nữa như một người xa lạ. Trong Đức Kitô, người trở nên một người trong chúng ta để chúng ta dễ nhận biết Ngài: “Ai thấy Ta là thấy Cha”, Chúa Giêsu đã nói với Philipphê như vậy.
2. Trong lời Chúa nghe hôm nay, chúng ta hãy thử tìm hiểu xem Chúa Giêsu nói thế nào về Cha và Thánh Thần, Chúa đã tự mạc khải thế nào cho ta. Đầu tiên, Chúa Giêsu nói đến Cha và Thánh Thần như những ngôi vị riêng biệt khác với chính Ngài. Trong phúc âm chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Khi Ngài đến, vì là Thần khí sự thật...”. Chúa Giêsu nói đến Ngài như một ngôi vị thật sự mà người ta đợi chờ, như một Đấng sẽ đến và sẽ hoàn tất một sứ mệnh rõ ràng và lạ thường.
Chúng ta nhớ lại là đã cùng nhau đọc và suy niệm một vài đoạn trong diễn từ sau Tiệc ly trong các Chúa nhật mùa Phục sinh; trong các đoạn đó, Chúa Giêsu thường nói về Cha và Thánh Thần; chính nơi Cha mà Con qui chiếu mọi dự định của mình và nhận lấy Lời để loan truyền. Con công chính hóa loài người, ban cho họ sự bình an và uỷ cho họ quyền hòa giải. Thánh Thần dẫn đưa những ai đón nhận Con đi đến chân lý.
3. Chính khi nói về các Đấng đó như những ngôi vị tách biệt, Chúa Giêsu cũng nói đến Cha và Thánh Thần như hiệp nhất với Ngài. Ngài cho thấy các đấng đã hiệp nhất với nhau đến nỗi Đấng này sẽ không làm gì nếu không có đấng kia. Trong bài phúc âm hôm nay cũng thấy nói đến sự hiệp nhất Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Thánh Thần chỉ lặp lại giáo huấn của Chúa Giêsu hay khi dạy là Ngài dạy về Chúa Giêsu. Mọi điều Đức Kitô biết và có được đều bắt nguồn từ Cha. Hơn nữa, tất cả những gì Cha biết và có thì Người đã ban cho Đức Kitô đến nỗi mỗi ngôi đều có cái mà ngôi kia có và đồng thời không chiếm hữu một điều gì riêng cho mình. Khi nói đến Cha và Thánh Thần, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy các đấng vừa khác biệt vừa đồng nhất, vừa tách rời vừa hiệp nhất, khi các đấng hành động thì là ba, và đồng thời cũng chỉ có một hiện diện.
4. Khi nói cho chúng ta biết về chính Ngài và về mối tương giao của Ngài với Cha và Thánh Thần, Chúa Giêsu tỏ bí mật tình yêu cho chúng ta, Ngài thỏa mãn những gì mà chúng ta ao ước tự thâm tâm nhưng cảm thấy không thể nào đạt được.
Một đàng, sự phân biệt các ngôi vị cho thấy sự phân biệt tự trị trọn vẹn của mỗi ngôi. Cho nên có một sự kính trọng tuyệt đối và không có sự lệ thuộc hay thống trị lẫn nhau. Thật vậy ai mà không ước mơ được sự giải thoát khỏi uy lực của kẻ khác? Vì đó chính là điều kiện căn bản để ngôi vị được tự trị và độc lập trọn vẹn.
Đàng khác, có sự thông hiệp hoàn toàn của Ba Ngôi với nhau trong mối hiệp nhất. Các đấng không bao giờ làm việc gì mà không có nhau; các Ngài luôn cùng nhau hành động; điều gì ngôi này có thì ngôi kia cũng có; ngôi này là gì thì ngôi kia cũng vậy. Ai mà không ước mơ sự thông hiệp hoàn toàn với người khác, sự hiệp nhất khắn khít đến nỗi không còn ranh giới, đến nỗi thông giao với nhau một cách trọn vẹn, đơn sơ, chân thành. Ở đây chúng ta bắt gặp lại từ ngữ nổi tiếng của thánh Gioan, một từ ngữ mà chưa bao giờ có ai tát cạn ý nghĩa phong phú: “Thiên Chúa là tình yêu”. không phải là Thiên Chúa có tình yêu như có ánh sáng, quyền năng hay sự sống. Không! Ngài là tình yêu. Tình yêu là bản chất của Ngài.
5. Chính giữa lòng cuộc sống hàng ngày và trong mối tương giao với người khác, chúng ta sẽ dần dần bắt chước tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ học cách yêu thương dưới ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu xin Chúa mạc khải cho chúng ta có lòng ước muốn tình yêu đó. Như vậy sự hiểu biết Thiên Chúa sẽ làm tâm hồn ta luôn tràn ngập bình an và hân hoan vui sướng.
79. Lễ Chúa Ba Ngôi--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Theo Phụng Niên của Giáo Hội, Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay được Giáo hội sắp xếp vào tuần thứ hai của Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, ngay sau tuần Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi được Giáo Hội cử hành ngay sau Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống như thế thật là hợp tình hợp lý, vì biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là biến cố cho thấy Ngôi Ba Thiên Chúa là Ngôi Vị cuối cùng trong Ba Ngôi tỏ mình ra, sau khi Ngôi Hai đã hóa thành nhục thể và ở giữa loài người vào thời của Người, "thời sau hết" (Heb 1:2), "thời viên trọn" (Gal 4:4) cũng như sau khi Ngôi Cha đã tỏ Danh Ngài ra qua Moisen cho dân Do Thái trong thời Cựu Ước (x Ex 3:14). Tuy Giáo Hội không cử hành Lễ Trọng Kính Thiên Chúa Ba Ngôi trọng thể như Đại Lễ Giáng Sinh hay Đại Lễ Phục Sinh về phương diện phụng vụ, thế nhưng, về phương diện tín lý và tu đức, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cao trọng nhất và siêu việt nhất. Nếu trong Cựu Ước Thiên Chúa đã tỏ mình ra là một Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất, một thực tại chi phối toàn diện Lịch Sử Cứu Rỗi thời Cựu Ước, thì trong thời Tân Ước, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất này lại tỏ mình ra là một Vị Thiên Chúa Ba Ngôi. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi tuy được mạc khải sau Mầu Nhiệm Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất nhưng lại là tuyệt đỉnh của tất cả Mạc Khải Thần Linh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Bởi vì, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất trong thời Cựu Ước ấy cũng chính là Vị Thiên Chúa Ba Ngôi của thời Tân Ước, Vị Thiên Chúa tỏ hết mình ra nơi Con của Mình là Lời Nhập Thể bằng Quyền Phép Thánh Linh. Đó là tất cả ý nghĩa của bài Phúc Âm theo Thánh Gioan Năm C hôm nay: "Tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày, đó là lý do Thày nói những gì Ngài truyền đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày". Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy niệm câu Phúc Âm mạc khải về hoạt động ngoại tại của Chúa Ba Ngôi này.
Trước hết, "những gì Ngài thông đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày" đây là gì, nếu không phải là "những gì Cha có"? Mà "những gì Cha có" đây là gì, nếu không phải, như Chúa Kitô khẳng định, "đều ở nơi Thày" hay "đều thuộc về Thày" hoặc "đều là của Thày", tùy theo bản dịch. Theo tôi, cả câu Phúc Âm "Tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày, đó là lý do Thày nói những gì Ngài thông đạt cho các con Ngài đều lấy từ nơi Thày", và riêng câu "tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày" đây là cốt lõi của tất cả mạc khải về Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi vì, qua câu "tất cả những gì Cha có đều ở nơi Thày" này, Chúa Kitô muốn mạc khải cho chúng ta thấy rằng: Người chính là bản thân của Cha, đúng như Thánh Phaolô xác tín và tuyên xưng trong Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái đoạn 1 câu 3: "Người Con này là phản ánh vinh hiển Cha, là hiện thân đích thực của hữu thể Cha". Chính Chúa Kitô đã minh định trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 10 câu 30: "Cha và Ta là một", đến nỗi, Người còn đoan quyết cũng trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 9: "ai thấy Thày là thấy Cha". Thế nhưng, dù con người có được Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất mạc khải cho biết chính bản thân Ngài là ai và như thế nào qua Con Ngài Nhập Thể và Tử Giá, tự mình, con người vẫn không thể nào thấu hiểu được Mạc Khải Thần Linh tự bản chất vô cùng cao cả và có tính cách vô cùng lạ lùng không thể tin được này đối với tâm trí thấp hèn và hạn hẹp của con người. Do đó, Vị Thiên Chúa Chân Thật Duy Nhất đã tỏ hết mình ra nơi Con Mình như thế mới cần phải sai đến cùng con người "một Đấng Phù Trợ khác" (Jn 14:16), "Ngài là Thần Chân Lý" (Jn 16:13), "Vị Thần Linh thấu suốt mọi sự, kể cả những sự sâu nhiệm nơi Thiên Chúa", như Thánh Phaolô xác tín trong Thư Một gửi Giáo Đoàn Côrintô đoạn 2 câu 10. Như thế, sứ vụ của Thánh Linh được sai đến là để giúp con người nhận biết Thiên Chúa như chính Ngài biết Ngài, đúng như Chúa Kitô minh xác về sứ vụ của Vị Thiên Chúa Ngôi Ba này, là để "thông đạt cho các con những gì Ngài lấy từ Thày" hay "những gì Cha có ở nơi Thày", tức là làm cho chúng ta "nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô" (Jn 17:3).
Nếu theo lời Chúa Giêsu mạc khải trong Lời Nguyện Tiệc Ly đoạn 17 câu 3, "sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô", thì một khi chúng ta nhờ Thánh Thần để có thể nhận biết Chân Lý Tối Thượng này, tức là chúng ta đã có một Kiến Thức Thần Linh như Thiên Chúa, hay nói cách khác, tức là chúng ta biết Thiên Chúa như chính Ngài biết Ngài. Mà "nhận biết" đây hay Kiến Thức Thần Linh đây là chính "sự sống", vì "Sự sống đời đời là nhận biết", do đó, Thánh Linh là Đấng làm cho chúng ta "nhận biết", hay ban cho chúng ta Kiến Thức Thần Linh, tức là làm cho chúng ta được sống, Sự Sống Thần Linh của Thiên Chúa. "Tôi tin kính Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống" chính là ở chỗ này. Thật vậy, Sự Sống Thần Linh đây chính là Sự Sống nơi Thiên Chúa. Mà Sự Sống nơi Thiên Chúa đây là gì, nếu không phải là Thực Tại Thiên Chúa Nhận Biết Mình Ngài hay Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân. Nếu Thiên Chúa không biết mình ngay từ đời đời cho đến đời đời thì Ngài không phải là Thiên Chúa, không phải là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu, Toàn Hữu, Hiện Hữu. Không phải hay sao, chỉ có tạo vật vô tri, mới không biết mình. Kể cả tạo vật có sự sống thể lý đi nữa, như cây cỏ thuộc loài thực vật và muông chim cầm thú thuộc loài động vật, cũng không biết mình. Trong "muôn vật hữu hình" được Thiên Chúa dựng nên trên "đất" thế gian chỉ có loài người mới có khả năng biết mình mà thôi. Khả năng đó chính là tâm linh của họ. Thế nhưng, thực tế cho thấy, dù con người có tâm linh để biết mình, song họ cũng không biết mình ngay khi vừa được thụ thai trong lòng mẹ, tức vừa hiện hữu trên đời. Trái lại, dù có thể biết được bản thân mình đi nữa, thế nhưng, cho tới chết, họ vẫn không thể nào thấu triệt được bản thân mình, tức vẫn không hoàn toàn biết hết về mình. Đó là lý do cho tới giây phút cuối cùng của cuộc đời, con người vẫn có thể lầm lỗi, vấp phạm, hay vẫn không biết mình đã lầm lỗi, vấp phạm mà ăn năn thống hối, nghĩa là, nếu không có ơn trên trợ giúp, hay nói đúng hơn, nếu không có "Đấng Phù Trợ khác" là Thánh Thần Thiên Chúa ở với, con người vĩnh viễn sẽ không nhận ra Chân Lý mà trở về với Đấng Tối Cao, tức vẫn không biết mình, hay nói cách khác, vẫn ở trong sự chết. Một tử thi vô hồn không biết gì nữa chính là hình ảnh của con người chết về tâm linh, hoàn toàn và vĩnh viễn không biết mình.
Trái lại, Thư Thứ Nhất của Thánh Gioan đoạn 1 câu 5 đã công bố: "Thiên Chúa là ánh sáng, trong Ngài không có tối tăm". Nghĩa là Thiên Chúa là hiện hữu, trong Ngài không có sự chết, không có vô tri, đúng như Ngài đã mạc khải Danh Ngài cho Moisen trong sách Xuất Hành ở đoạn 3 câu 14 "Ta là Đấng Hiện Hữu". Đúng thế, "Hiện Hữu" chính là Bản Tính Thần Linh của Thiên Chúa cũng là Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa. Mà Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa, như trên đã xác tín, chính là Thực Tại Thiên Chúa Nhận Biết Mình Ngài hay Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân. Sáu chữ "Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân" đây là câu nói có thể tạm tóm gọn Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. "Thiên Chúa" đây hiểu là Ngôi Cha, như Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo số 245 giải thích: "Giáo Hội nhìn nhận Ngôi Cha như là 'nguồn gốc của tất cả thần tính"; "Bản Thân" đây hiểu là Ngôi Con, vì như trên đã trích lời Con tuyên bố: "Ai thấy Thày là thấy Cha"; và "Ý Thức" đây hiểu là Ngôi Ba, vì "Ngài là Thần Chân Lý" như Chúa Kitô đã mạc khải trong Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 17 và đoạn 16 câu 13. Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, hay nói rõ hơn, Mầu Nhiệm Sự Sống Thần Linh nơi Thiên Chúa, cũng là Thực Tại Thiên Chúa Ý Thức Bản Thân này thật ra đã được mạc khải ngay từ đầu, khi Thiên Chúa thực hiện dự định "Chúng ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh chúng ta và tương tự như chúng ta", một dự định được Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 1 câu 26. Con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài đây là gì, nếu không phải là "Ngài đã dựng nên họ có nam có nữ", một mạc khải cũng được ghi nhận trong cùng Sách Khởi Nguyên ở đoạn 1 câu 27. Và Thiên Chúa đã dựng nên con người tương tự như Ngài đây như thế nào, nếu không phải có tâm linh, tức có khả năng nhận biết. Đó là lý do, ngay sau khi tỉnh dậy từ một giấc ngủ say, Adong đã nhận ngay ra bản thân mình là Evà qua câu nói đầu tiên mở màn cho lịch sử xã hội loài người: "Đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi", như được Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 2 câu 23.
Vâng, theo tôi, con người chúng ta chính là dụ ngôn Thiên Chúa muốn dùng để diễn tả Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi của Ngài. Thật vậy, nếu đức tin dạy chúng ta rằng Thiên Chúa có Ba Ngôi, và Ngôi nào cũng là Thiên Chúa, song chỉ có một Thiên Chúa Duy Nhất chứ không phải là Ba Thiên Chúa, thì mầu nhiệm đức tin này đã được Thiên Chúa tỏ cho thấy một phần nào nơi Mầu Nhiệm Con Người, một thụ tạo duy nhất được dựng nên theo hình ảnh và tương tự Thiên Chúa. Đúng thế, nếu Ngôi Con được nhiệm sinh từ Ngôi Cha và cũng là Thiên Chúa thật thế nào, thì Evà cũng từ Adong mà có, và cũng là một con người thật như vậy. Rồi nếu Thánh Thần "bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra", Ngài cũng là Thiên Chúa thế nào, thì từ Adong cũng xuất phát một ý thức nhận biết Evà rồi cả hai nên một xác thịt, một con người như thế. Tóm lại, nếu chỉ có một Thiên Chúa duy nhất thế nào thì đầu tiên cũng chỉ có một con người duy nhất như vậy; thứ đến, nếu Thiên Chúa Duy Nhất ấy là chính Ngôi Cha thì con người duy nhất đầu tiên ấy là chính Adong; rồi từ Ngôi Cha sinh ra Ngôi Con cũng là Thiên Chúa có cùng một bản tính như Ngôi Cha thế nào, thì từ Adong cũng phát sinh ra Evà cũng là con người có cùng bản tính như Adong như vậy; sau hết, bởi Chúa Cha và Chúa Con đã xuất phát Thánh Thần cũng là Thiên Chúa có cùng một bản tính như Ngôi Cha và Ngôi Con thế nào, thì Adong và Evà cũng nên một xác thịt như một con người như vậy.
Ôi, được phản ánh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi như thế, thân phận con người nhân loại chúng ta nói chung cao cả biết bao, và ơn gọi hôn nhân của chúng ta nói riêng trọng đại biết mấy! Thế nhưng, chúng ta đã sống thân phận làm người và ơn gọi hôn nhân của chúng ta như thế nào để phản ảnh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
80. Mầu nhiệm hiệp thông và chia sẻ--Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28,19).
2. CÂU CHUYỆN: Chính tôi đã gặp thấy Người.
Hồi ấy Anrê Phốtsa (André Foissard) là một sinh viên thuộc một gia đình vô tín ngưỡng. Thân phụ ông là người vô thần, cố tình để trên bàn học của con các sách báo có nội dung bài bác đạo Công giáo để con cũng đi heo sự vô tín của mình. Nhưng dù sống trong môi trường vô tín như thế, Phốt-sa vẫn đạt tới đức tin nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Một hôm, anh đi vào nhà thờ Đức Bà ở Pa-ri để tìm một người bạn. Cặp mắt của anh tình cờ nhìn thấy tượng Chúa Giê su đang chịu đóng đanh trên cây thập giá. Lập tức anh đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Anh đã đứng dưới chân cây thập giá ấy một hồi lâu và những giọt nứơc mắt cứ tự nhiện lăn dài trên má. Bấy giờ anh cảm thấy mình như một đứa con đi lạc trong một thời gian dài, vừa tìm thấy người cha thân yêu. Sau này anh đã thuật lại biến cố ấy trong một tác phẩm thời danh là "Quả thật có Thiên Chúa. Chính tôi đã gặp Ngài".
3. SUY NIỆM:
- Nhận biết có Thiên Chúa: Với trí khôn suy luận theo nguyên lý nhân quả, người ta có thể biết có Đấng Tạo Hóa. Nhưng trong nhiều trường hợp, người ta còn cảm nhận được sự hiện hữu của Người, như trong câu chuyện của ông An-rê Phốt-sa nói trên.
- Hiểu biết về Thiên Chúa: Chính nhờ Đức Giê su, loài người mới hiểu biết rõ ràng về Thiên Chúa. Chẳng hạn Thiên Chúa chỉ là Một nhưng Ngài lại có Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha yêu Chúa Con từ trước muôn đời và đã sai Chúa Con xuống trần gian làm người gọi là Đấng Thiên Sai. Chúa Thánh Thần là Chúa Ngôi Ba, là Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa con. Như vậy Thiên Chúa không những là Đấng Độc Nhất (x. Xh 20,2-3), mà Ngài còn là Ba Ngôi. Như các thành viên trong một gia đình, Ba Ngôi luôn hiệp thông mật thiết với nhau và chia sẻ cho nhau mọi sự mình có (x Ga 16,15).
- Các bằng chứng về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong Tân Ước:
+ Trong cuộc Thần hiện tại sông Gio-đan: Tin mừng Mát-thêu đã thuật lại như sau: "Khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khi Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự xuống trên Người. Và có tiếng từ trời phán: "Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người" (Mt 3,16-17).
+ Khi nói chuyên với ông Ni-cô-dê-mô: Đức Giêsu đã mặc khải về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi cho ông như sau: "Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những Lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương Con và đã giao mọi sự trong tay Người. Ai tin vào Con thì được sống đời đời" (Ga 3,34-36a).
+ Khi trao sứ mệnh truyền giáo cho các môn đệ trước khi lên trời: "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28,19).
+ Trong bài giảng của Phê-rô vào lễ Ngũ Tuần: sau khi được Chúa Thánh Thần hiện Xuống Phê-rô đã giảng như sau: "Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: Đó là điều anh em đang thấy và đang nghe" (Cv 2,33).
+ Thánh Phao lô cầu chúc cho các tín hữu trong thư Cô-rin-tô: "Cầu chúc toàn thể anh em được tràn đầy ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men" (2 Cr 13,13). Trong thu Ga-lát: "Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em... Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác, làm ngôi nhà Thiên Chúa" (Ep 2,18.22).
- Sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi:
+ Mỗi ngày, khi làm dấu Thánh giá là chúng ta tuyên xưng đức tin về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Làm dấu Thánh giá là ta ghi dấu của Ba Ngôi trên thân thể và trên mọi hoạt động của ta. Do đó ta cần phải làm mọi việc cách nghiêm túc đẹp lòng Thiên Chúa.
+ Như "Thiên Chúa vừa là Một theo Bản Tính, vừa là Ba theo Ngôi Vị", Hội thánh cũng phải vừa thống nhất vừa đa dạng. Hội thánh có mười hai Tông đồ, bốn sách Tin mừng, hai kinh Lạy Cha... Tuy nhiên, để sự thống nhất mà không trở nên khép kín nghèo nàn, để sự đa dạng đừng biến thành cớ gây chia rẽ, thì cần phải có sự hiệp thông sâu xa giữa mọi thành phần trong Hội thánh. Đời sống của Ba Ngôi là mẫu mực cho mọi tổ chức của loài người.
+ Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta ý thức sự hiện diện của Ba Ngôi nơi chúng ta như Đức Giê-su đã dạy: "Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23). Ngòai ra Thiên Chúa siêu việt cũng ở với chúng ta và nhắc nhở chúng ta qua tiếng lương tâm. Chúng ta chỉ cần hướng vào nội tâm là sẽ gặp Người. Chúng ta cần ý thức và tôn kính sự hiện diện ấy và để cho tình yêu của Chúa Ba Ngôi tự do hoạt động nơi chúng ta, và qua chúng ta đến với các dân tộc trên thế giới.
4.THẢO LUẬN:
1) Chúa Cha là Đấng sáng tạo, Chúa Con là Đấng cứu chuộc, Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Vậy mỗi tín hữu phải có bổn phận thế nào đối với Chúa Ba Ngôi?
2) "Thiên Chúa là Tình Yêu". Vậy bạn cần sống tinh thần hiệp thông, chia sẻ yêu thương nơi gia đình, đoàn thể và trong xứ đạo của bạn thế nào để nên giống như tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa?
5. NGUYỆN CẦU
- Lạy Chúa Cha đầy tình yêu thương. Xin cho chúng con biết thực thi bác ái trong cuộc sống hằng ngày để xứng đáng trở thành con cái của Cha: Giữa một thế giới đang tôn thờ quyền lực và đề cao lợi lộc vật chất, xin dạy chúng con biết phục vụ tha nhân trong sự âm thầm vô vụ lợi. Giữa một thế giới muốn thống trị chiếm đoạt, xin dạy chúng con biết nhận ra mọi người là anh em để khiêm nhường phục vụ cho nhau.
- Lạy Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Chúa là mẫu mực của một tình yêu tinh tuyền. Xin cho các tín hữu chúng con trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa lòng xã hội. Xin dạy chúng con biết yêu người như Chúa đã yêu con, biết sống với và sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường đón nhận. Lạy Ba Ngôi chí thánh. Xin cho chúng con vững tin vào sự hiện diện của Chúa đang ở trong con và ở trong những người đang đi tìm Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
81. Lễ Chúa Ba Ngôi--Lm Phạm Ngọc Lê
1. Thiên Chúa tự mạc khải cho ta. Không có trí khôn nào của con người dù xuất chúng và hoàn hảo nhất có thể hiểu thấu mầu nhiệm đời sống tự tại của chính Ba Ngôi Thiên Chúa. Không có một triết thuyết nào có thể chứng tỏ Thiên Chúa là một đồng thời là ba dựa trên sự suy luận. Không có một tôn giáo nào có thể vén lên bức màn che nơi cực thánh ẩn chứa thực tại của Thiên Chúa, là Chân lý, Tình Yêu và sự sống. Những điều ta hiểu về Thiên Chúa hằng sống và chân thật đều do Thiên Chúa tự mạc khải cho ta: "Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài". (MK, 2) Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã tự tỏ mình ra, trước hết như Đấng tạo hóa và quan phòng mọi tạo vật. (Bài 1) Bài Tin Mừng dạy ta rằng Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, đã mạc khải cho ta biết chúng ta là con cái Thiên Chúa. Về phần Chúa Thánh Thần, Ngài dẫn đưa ta đến sự thật toàn vẹn. Điều đó có nghĩa là Ngài giúp ta hiểu và kinh nghiệm sâu xa hơn thực tại đời sống Ba Ngôi và kết quả của đời sống ấy phát sinh cho đời sống của chúng ta trong thế giới: bình an với Chúa Cha, làm con củaThiên Chúa qua phép rửa, được Thiên Chúa yêu thương nhờ đó ta có thể vượt qua mọi thử thách và luôn sống trong niềm hy vọng chắc chắn. Thiên Chúa không tự mạc khải mình như một cụ già cô độc, nhưng như một người Cha với cuộc sống gia đình chan hòa mà hai điểm nổi bật đó là sự thật và tình yêu.
2. Thiên Chúa mạc khải cho ta và thách thức ta. Khi mạc khải chính đời sống thâm sâu của mình, Thiên Chúa tỏ cho nhân loại căn tính sâu thẳm của họ và phận vụ quan trọng nhất của họ trong lịch sử. Vì thế mà mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi không thể không có liên quan gì đến người kitô hữu. Như Giáo lý dạy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là ánh sáng chiếu soi chúng ta. (CCC, 234). Gợi lên trong trí ta về việc sáng tạo, vì Chúa Cha tạo dựng vũ trụ và con người với đôi tay tài năng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (Bài 1) Mạc khải cho ta không chỉ thân phận thụ tạo của ta mà còn cho biết về cuộc sống chiêm ngưỡng và hiệp thông của ta nữa. Ngài cho ta hiểu mối liên hệ trong gia đình Thiên Chúa (Tin Mừng) và qua đó, cho ta thấy sự hiệp thông của ta vào đời sống thần linh này và ta phải là phản ấy của cuộc sống ấy. Ta được tỏ cho biết thân phận của ta, như người biết lắng nghe Thánh Thần, thần chân lý sẽ truyền đạt tất cả những gì mà Ngài đã nghe được từ nới Cha và nhận được từ Ngôi Lời nhập thể. Bằng hoạt động của Thánh Thần, Ngài tỏ cho ta biết thân phận của chúng ta những người nam nữ của niềm hy vọng đối lại những người chẳng có niềm hy vọng, những người không có niềm tin; một niềm hy vọng vững chắc không làm ta thất vọng (Bài 2) Mạc khải về căn tính của ta, đặt ta trước Thiên Chúa Ba Ngôi hằng sống, đưa ta đi vào đời sống thần linh để rồi mỗi một kitô hữu diễn tả ra trong cuộc sống hằng ngày, đây là một thách đố. Nó trở thành hiện thực trong sự hiệp nhất niềm tin, trong tình yêu là yếu tính của kitô giáo, trong vâng phục theo thúc đẩy của Thánh Thần trong tâm hồn, với tư cách là Thần dạy chân lý, và trong nhiều cách diễn đạt mang tính văn hóa của cùng một đức tin duy nhất.
Gợi Ý Mục Vụ.
1. Mầu Nhiệm của Đức Tin và Tình Yêu. Đây không phải chỉ là một mầu nhiệm để ta tin mà còn để ta yêu mến nữa. Tôi tin, chúng ta tin, một Thiên Chúa duy nhất, mà với tư cách là Cha ban sự sống cho ta, trong tư cách là Con mời gọi ta sống tròn đầy kinh nghiệm làm con mà Ngài chia sẻ cho ta, và trong tư cách là Thần Khí là tình yêu tương giao giữa Cha và Con, dạy ta biết yếu tính của Thiên Chúa và của mọi tạo vật chính là tình yêu. Tôi tin Thiên Chúa là sự Sống, Hiệp thông, Chân lý và Tình yêu. Tôi tin rằng khi chiếm hũu được những giá trị linh thiêng ấy, tôi sẽ đạt được sự toàn hảo của con người và của người kitô hữu. Là kitô hữu, tôi bày tỏ niềm tin của tôi bằng việc yêu mến sự cao cả và vẻ đẹp của Chúa Ba Ngôi. Với tình yêu của tôi dành cho từng ngôi vị, tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là điều trừu tượng, không phải là điều tốt đẹp thuộc thế giới tâm linh, càng không phải là trò chơi của những ý niệm nhờ đó ta có thể hiểu những suy tư của các nhà thần học, nhưng Thiên Chúa Ba Ngôi vị mà tôi yêu như một người con cái, mà tôi vâng phục như là một tạo vật, mà tôi tôn thờ vì Ngài là Chúa và là Thiên Chúa của tôi. Tôi nghĩ đây là điều tích cực và thiết yếu vì ngay từ những lớp giáo lý sơ đẳng, các trẻ em đã được dẫn đưa vào mối liên hệ để phụng thờ Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Từ những hiểu biết giáo lý về Chúa Ba Ngôi, ta được giải thích rõ hơn dựa trên nền tảng của Thánh Lễ, khởi đầu và kết thúc nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và về Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong Thánh Lễ, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nói với con người (trẻ thơ và người trưởng thành) dựa trên Tin Mừng. Trong Thánh Lễ, mọi kinh nguyện đều quy về Chúa Cha, nguồn mạch mọi ân phúc. Trong Thánh Lễ, Thánh Thần hiện diện và hoạt động cách đặc biệt trong lúc truyền phép để biến đổi bánh rượu trở nên Mình và Máu Đức Kitô, và biến đổi cuộc sống nghèo hèn của chúng ta khi ta tiếp rước Mình Máu Đức Kitô. Nếu Thiên Chúa là mầu nhiệm của Tình Yêu, sao ta không thích con đường tốt nhất để đi vào mầu nhiệm đó?
2. Vinh Quang Của Ba Ngôi. Ba Ngôi được vinh hiển khi con người sống có ý nghĩa và có mục đích, và qua họ toàn thể tạo thành. Vậy con người phải sống ra sao? Họ phải sống đúng phẩm giá của họ, đúng phẩm giá của một con người và đúng theo ơn gọi của một kitô hữu. Đây chính là bi kịch của mầu nhiệm Ba Ngôi, cũng là bi kịch của con người: thường thì vinh quang của Ba Ngôi bị con người làm cho mờ tối. Họ không sống đúng như họ phải sống, khi họ tin rằng họ toàn quyền thay vì là những tạo vật lệ thuộc, khi họ sống và sử dụng tạo vật tùy theo lợi ích của riêng họ. Con người không sống đúng như họ phải sống khi mà họ quên rằng họ được Thiên Chúa tạo dựng theo hình Ngài và cho rằng hình ảnh đẹp nhất của họ là nơi thú vật. Con người không sống đúng theo như họ phải sống khi họ nghĩ rằng họ không được tạo dựng từ tình yêu và cho tình yêu, và khi họ nghĩ rằng sự trọn hảo của riêng họ tương ứng với việc họ thống trị trên kẻ khác. Con người không sống đúng như họ phải sống khi mà họ tin rằng họ là chủ cuộc sống và từ đó họ sống tùy thích hơn là sống như những kẻ thụ ân, biết quản lý cuộc sống của mình cách khôn ngoan vì đã nhận tất cả từ chính Thiên Chúa.
82. Sống Tình Yêu Ba Ngôi--Huệ Minh
Tin Mừng Ga 16: 12-15: Với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và chấp nhận đồng hành gắn bó với tha nhân.
Trong tất cả mọi thực tại tuyệt diệu khó hiểu của cuộc sống con người, có lẽ tình yêu là khó hiểu nhất: Đố ai cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều...Tình yêu của con người mà còn khó hiểu, thì tình yêu của Thiên Chúa lại càng khó hiểu hơn gấp ngàn vạn lần. Bởi vì, Thiên Chúa được gì khi tạo dựng nên chúng? Tại sao Chúa lại phải chịu chết để cứu chuộc chúng ta? Chỉ có tình yêu đích thực vô biên và vô vị lợi mới trao ban sự sống và tận hiến tất cả.
Thiên Chúa là Tình Yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô cùng. Nhưng Ngài là 3: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu thương hiến tặng sự sống, hoàn toàn tương quan với nhau, hiệp nhất với nhau: Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu và sự sống này giữa Cha và Con là Chúa Thánh Thần.
Tình thương của Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã an bài vũ trụ, nâng đỡ cuộc sống con người và ban cho chúng ta sự sống. Tình thương của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta, để làm sáng tỏ lại hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, giúp chúng ta trở về nhà Cha an toàn. Tình thương của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ban ơn soi sáng, nâng đỡ, an ủi, giúp chúng ta sống trọn kiếp sống trần gian.
Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi mà còn lan tỏa ra bên ngoài, trên khắp vũ trụ: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban cho thế gian quà tặng quý giá nhất của người Con Chí Ái của Ngài, nghĩa là chính sự sống của Ngài. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng trao ban Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi Người Con ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu mà chúng ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa: "Ai không yêu thương anh em là không biết Thiên Chúa" (1Ga 4,8). Còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh em như Ngài đã yêu thương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Lễ Chúa Ba Ngôi cho ta thấy được mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Và theo sự diễn tả của thánh Gioan, thì từ nguyên thủy đã có tình yêu và tình yêu qui hướng về Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa chính là tình yêu. Và tình yêu đã nhập thể, đến sống giữa chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ ra cho loài người, như là Con Thiên Chúa. Đồng thời, trong Ngài chúng ta nhận Thiên Chúa là Cha và Chúa Thánh Thần như là người mẹ trao ban sự sống. Tuy chỉ là một, nhưng Ngài lại có Ba Ngôi, đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Không ai biết được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong thời Cựu ước, loài người chỉ được biết có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê, Ngài là Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì chính Chúa Giêsu mạc khải cho trong thời Tân ước này. Theo mạc khải đó, chúng ta biết được có sự hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu thương và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh được làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha: "Cha ơi". Đáp lại vinh dự đó, chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến tận cùng thế giới.
Điều độc đáo mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi muốn nói lên đó là Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự khác biệt. Ngài yêu thích sự khác biệt. Ngài tạo ra sự khác biệt và Ngài bao hàm chính sự khác biệt đó trong bản tính của Ngài. Nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa của sự hiệp nhất. Ngài hiệp nhất những gì khác biệt. Phải có cái khác biệt thì mới có thể nói tới hiệp nhất. Phải có Ba Ngôi mới có thể hiệp nhất thành một Thiên Chúa. chỉ khi nào chúng ta chấp nhận và tôn trọng cái khác biệt: khác biệt về hiện hữu, về chủng tộc, văn hóa, tôn giáo, địa vị, phái tính, tuổi tác v.v... và sống với những khác biệt đó, hiệp nhất những cái khác biệt đó. Chỉ khi đó, chúng ta mới đi đúng con đường mà ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi soi dẫn chúng ta. Sự hiệp nhất ấy không làm cho chúng ta phong phú hơn và sống đúng bản chất là cộng đoàn của Thiên Chúa yêu thương, là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ có thể yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và chấp nhận đồng hành gắn bó với tha nhân, coi tha nhân là thành phần của chính hiện hữu của mình, đồng thời ý thức rằng mình chỉ có thể sống nhờ tha nhân, sống với tha nhân và sống cho tha nhân; bởi vì tự chính trong nguyên lý, sự sống không phải là một thực tại đơn độc, khép kín, mà là chia sẻ, hiệp thông: sự sống thần linh của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và nơi từng người nói lên sự hiệp nhất bền chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một mô hình tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho ta để ta cũng phải củng cố sự hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng ta. Sự hiệp nhất sẽ đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.
Chúng ta biết do đức tin: Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là chỉ có một bản thể, trong bản thể ấy lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế gian... cho nên đã phó Con Một Người cho thế gian, nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không những ban Chúa Con là ngôi thứ Hai mà là ban chính mình, trong đó gồm cả bản tính Thiên Chúa ở trong Ba Ngôi, cho nên ban Con Một Người tức là đã ban tất cả Thiên Chúa – tất cả mình – và chính mình cho thế gian. Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG thế gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là cho TẤT CẢ.
Mừng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội muốn nhắc nhớ chúng ta chân lý ấy. Tỏ mình cho chúng ta, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng Ngài là Ba Ngôi Vị, Ngài là Tình Yêu. Đó là mầu nhiệm cơ bản nhất, từ đó Giáo Hội được xuất phát và xây dựng; Giáo Hội vừa là hình ảnh vừa là thể hiện Chúa Ba Ngôi. Nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi không chỉ là nền tảng của Giáo Hội, mà còn là ánh sáng chiếu dọi vào bí ẩn của con người. Thật thế, chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta mới hiểu rõ được ơn gọi và định mệnh của con người. Nếu Thiên Chúa là tình yêu và nếu con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thì một cách tất yếu, con người chỉ thực sự là người khi biết yêu thương. Phẩm giá của con người được xây dựng trên chính tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc hận thù, người đó cũng chối bỏ con người và chối bỏ chính Thiên Chúa; trái lại ai sống trong tình yêu, người đó cũng sống trong Thiên Chúa.
Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì "Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa". Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một Thiên Chúa Tình Yêu.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc đời chúng ta "như con ngươi trong mắt Ngài". Chúa biết rõ từng cuộc đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với tình yêu ban đầu, vì cho dầu "như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta cũng không bao giờ bỏ các ngươi". Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân.
Vâng, có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình yêu của Chúa cho anh em. Vì con người là "hoạ ảnh của Chúa", nên con người phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta.
83. Hiệp nhất trong Tình Yêu Ba Ngôi--Huệ Minh
Nhớ lại vừa mới bắt đầu Thánh Lể, lời mở đầu của thánh lễ mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi hôm nay: "Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã tỏ lòng từ bi đối với chúng ta". Dẫu rằng mừng Lễ Ba Ngôi nhưng các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba ngôi là mầu nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo, Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là 3; 1 là 1. Không tính với toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay ba đốt hay hình tam giác mà ví von. Thậm chí con người nói rằng; là như thế là đùa bỡn với Thiên Chúa, còn tệ hơn phủ nhận Ngài.
Kinh Thánh đã nói gì về Chúa Ba Ngôi. Có lẽ câu văn nổi tiếng nhất bàn về Chúa Ba Ngôi được tìm thấy trong Tin Mừng theo thánh Matthêu, khi Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ: Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Thật vậy, nhìn lại ta thấy hình ảnh đặc trưng nhất về Chúa Ba Ngôi là hình ảnh khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đang khi đó, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, rồi từ trời có tiếng nói: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Tiếng nói, chim bồ câu và Chúa Giêsu, ba hình ảnh này tạo nên một chân dung sống động về Chúa Ba Ngôi.
Thánh Phaolô cũng bàn về Chúa Ba Ngôi khi viết: Ân sủng của Đức Kitô, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em.
Hẳn ta còn nhớ thánh Luca trong sách Tông đồ Công vụ, cũng như trong Tin Mừng, đã nhìn nhận lịch sử cứu độ mang chiều kích của Chúa Ba Ngôi. Thời Cựu Ước là thời của Chúa Cha. Thời điểm giảng Tin Mừng là thời điểm của Chúa Con và thời này là thời của Chúa Thánh Thần. Kinh Tín Kính chúng ta đọc trong thánh lễ cũng đã tuyên xưng: Chúa Cha là Đấng sáng tạo. Chúa Con là Đấng cứu độ và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, trao ban nguồn sống.
Thật vậy, chính Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu và hoàn tất nơi Chúa Giêsu, Ngài mạc khải trọn vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao.
Các tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: "Ta và Cha Ta, chúng ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong người đó". Và nơi Tin Mừng theo Thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong thánh lễ kính Ðức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Chuyện xảy đến nơi tâm tư của thánh Augustinô khi Ngài suy nghĩ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển. "Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật. Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật."
Quả thật, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm lớn trong đạo, vượt qua cái giới hạn nhỏ bé của trí khôn con người. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là nhờ Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Điểm cốt yếu không phải là bàn luận xem thế nào là 3 và thế nào là 1. Nhưng chính là tình thương của Thiên Chúa.
Đúng như vậy, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Khởi sự từ ý tưởng của Chúa Cha, được thực hiện do Chúa Con và được tiếp nối do Chúa Thánh Thần. Tình yêu ấy ngày nay vẫn còn được tiếp diễn qua từng người Kitô hữu, cũng như qua từng cộng đoàn, qua từng giáo xứ bằng những nỗ lực, những cố gắng liên kết mọi người lại trong công bình, yêu thương và hợp nhất. Cuộc sống của Chúa Ba Ngôi là tình thương. Ước chi cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng phải ngập tràn tình thương để trở nên một phản ảnh trung thực của Chúa Ba Ngôi.
Được hiệp thông nên một trong yêu thương là một hạnh phúc tuyệt vời nên Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người chung chia hạnh phúc ấy. Vì thế, hôm xưa trong bữa tiệc ly, Người thành khẩn cầu xin cho các môn đệ: “Lạy Cha, xin cho tất cả chúng nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha…. để họ được nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một”. (Ga 17, 20-23)
Và ta thấy Chúa Giêsu hướng nhìn về mỗi thành viên trong gia đình chúng ta và cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cho người cha, người mẹ và đứa con nầy nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.”
Rồi Ngài cũng hướng về mỗi tín hữu trong Hội Thánh và tha thiết khẩn cầu: “Lạy Cha, xin cho các tín hữu được gắn bó nên một trong yêu thương như Chúng Ta là một.”.
Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa, cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Ðây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa là người cha nhân ái, chậm bất bình và rất mực khoan nhân. Chúa có giận thì giận trong giây lát, nhưng yêu thương thì yêu thương tới cùng. Cho dù chúng ta có yếu đuối bất toàn, Chúa vẫn yêu thương. Chúa không đoán phạt chúng ta theo như chúng ta đáng tội. Chúa như người cha luôn ngong ngóng chờ đợi đứa con tội lỗi trở về để được ôm con vào lòng và lại ban muôn ân huệ dư tràn.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta luôn được ơn Chúa soi sáng để chúng ta có thể có một đức tin sáng suốt và mạnh mẽ, không phải chỉ dựa vào lý trí, nhưng bằng chính đời sống thực hành đức tin hàng ngày của chúng ta qua đức Bác Ái mà Ba Ngôi Thiên Chúa mời gọi.
11/06 Người con có biệt tài khuyên nhủ
- Viết bởi Mt 10, 7-13
Người con có biệt tài khuyên nhủ.
Thứ Bảy tuần 10 thường niên – Thánh Banaba, tông đồ. Lễ nhớ.
“Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
* Thánh nhân quê ở đảo Sýp. Ít lâu sau lễ Ngũ Tuần, người có mặt trong cộng đoàn Giêrusalem, rồi ở Antiôkia, nơi người đã giới thiệu ông Saolê thành Tácxô với các anh em.
Người đã cùng với ông Phaolô đi loan báo Tin Mừng cho Tiểu Á, nhưng sau người trở lại đảo Sýp. Thánh Banaba, với cái nhìn rộng rãi, khoáng đạt, đã giữ vai trò chủ yếu trong tiến trình truyền giáo của Hội Thánh.
Lời Chúa: Mt 10, 7-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng: Nước Trời đã gần đến. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ: Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.
“Các con chớ mang vàng, bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc: vì thợ thì đáng được nuôi ăn. Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở nơi đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi.
“Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: “Bình an cho nhà này”. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì sự bình an của các con sẽ trở về với các con”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Người được sai đi
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Chúng ta không rõ Thầy Giêsu đã sai các môn đệ lên đường
sau thời gian họ sống với Ngài bao lâu.
Nhưng chúng ta biết chắc là Thầy có sai các môn đệ.
Thầy sai họ đi để làm những việc Ngài đã và đang làm (Mt 9, 35),
như rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, chữa bệnh, trừ quỷ (c. 8a).
Như thế họ trở nên những cộng sự viên của Ngài trong cùng một sứ vụ.
Thầy Giêsu không độc quyền trong công việc.
Ngài cũng không giữ riêng cho mình quyền trên các thần ô uế (Mt 10,1).
Việc chia sẻ quyền và mời gọi cộng tác đã có từ thời Thầy Giêsu,
và vẫn kéo dài trong Giáo Hội.
Lời dặn dò của Đức Giêsu trước khi sai họ đi đã đánh động nhiều tâm hồn,
đặc biệt những vị sáng lập các dòng tu.
Đặt mình vào bối cảnh vùng Galilê cách đây gần hai mươi thế kỷ,
chúng ta mới hình dung được khuôn mặt của những vị tông đồ đầu tiên.
Trước hết họ được sai đến với chính đồng hương của họ,
“những chiên lạc nhà Israel”, vất vưởng không người chăn dắt (Mt 9, 36).
Loan báo Tin Mừng là lên đường, đường đất đá hay đường núi đồi,
và đi bằng đôi chân của mình, không giày dép.
Những bước chân nhẹ nhàng vì hành trang chẳng có gì.
Thắt lưng chẳng mang tiền vàng, bạc, đồng, để dùng khi hữu sự.
Cả những điều một người lữ hành thường có cũng không:
một bao bị, một cái áo dự phòng, một cái gậy để chống khi đi đường xa.
Người tông đồ được đặt ở trong tình trạng bấp bênh, không chỗ dựa.
Chỗ dựa duy nhất của họ là lòng tốt của Thiên Chúa,
được thể hiện qua lòng tốt của người đón nghe Tin Mừng.
Chuyện ăn, chuyện ở, họ đều phải tin tưởng phó thác (cc. 10b. 11).
Hành trang nhẹ nhàng, tâm hồn nhẹ nhàng,
nên các tông đồ cũng thi hành sứ vụ một cách nhẹ nhàng, thanh thoát.
Họ làm mọi sự mà chẳng đòi hỏi gì (c. 8b).
Vừa rao giảng Tin Mừng rằng Nước Trời đã đến rồi,
vừa minh chứng Tin Mừng ấy bằng bao niềm vui đem đến cho người khác.
Bệnh nhân được khỏi, người chết sống lại, người phong được sạch,
và nhất là ma quỷ không còn chỗ cư ngụ trong lòng con người (c. 8a).
Bình an là lời chúc trên môi dành cho mọi căn nhà họ đến ở (c. 12).
Rõ ràng hành trình truyền giáo là một kinh nghiệm đầy ắp niềm vui hứng khởi,
cho đoàn chiên và cho chính các tông đồ.
Nếu Thầy Giêsu dặn dò các tông đồ hôm nay, Ngài sẽ nói gì?
Ngài sẽ bảo chúng ta đừng mang gì và nên làm gì cho con người hôm nay?
Chắc Ngài cũng sẽ khuyên hãy nhẹ nhàng hơn, phó thác hơn, vô vị lợi hơn.
Thế giới hôm nay vẫn yếu đau và bị ám như cách đây hai ngàn năm.
Thế giới hôm nay vẫn chờ một Tin Vui, một lời chúc Bình an.
Chúng ta vẫn được mời gọi để làm điều Ngài và các môn đệ đã làm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Suy niệm 2: Cách sống làm chứng cho Tin Mừng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu, người tông đồ phải dùng lời giảng và bằng chứng tá đời sống để loan báo Nước Trời đã đến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con, con cám ơn Chúa đã chỉ dạy chân tình và cặn kẽ, cho con biết điều con phải rao giảng và cách con phải sống để làm chứng cho Tin Mừng.
Con nhận thật rằng con chẳng có khả năng gì đặc biệt. Con cảm thấy bất lực trước những đau khổ về thể xác và tâm linh của anh chị em quanh con. Con lại càng bất lực hơn nữa trước sức mạnh của sự dữ, sự ác nơi thế gian này. Nhưng lạy Chúa, con tin vào sức mạnh, vào quyền năng của Chúa. Xin Chúa dùng con như khí cụ tình thương của Chúa.
Giờ đây, con mới hiểu được vì sao mà Chúa muốn con sống đơn giản và siêu thoát. Đó là để con được nên giống Chúa, để con thấy được quyền năng Chúa biểu lộ nơi con. Đó cũng là để giải phóng con, cho con được tự do với thế trần mà thuộc trọn về Chúa, là người của Chúa, mang bình an đến cho muôn người.
Lạy Chúa, xin thứ lỗi cho những lần con xao lãng nhiệm vụ, con đã để lòng quá lo lắng chuyện đời. Cũng không thiếu những lần con chùn bước trước những khó khăn của đời tông đồ.
Cậy vì lời cầu bầu của thánh Ba-na-ba, xin Chúa ban cho con lòng tín trung với Chúa, gắn bó với sứ mạng tông đồ. Xin cho đời con nên dấu chỉ cho mọi người nhận thấy Nước Chúa đang đến. Xin cho con được vào Nước Trời trong ngày sau hết của đời con. Amen.
Ghi nhớ: “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
Suy niệm 3: Thánh Banaba
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
I. ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ
Banaba “là một người tốt lành, đầy Thánh Thần và lòng tin’’ (Cv 11,23). Ngài được sách Công Vụ nhận là Tông Đồ (14,4) cho dù ngài không thuộc nhóm Mười Hai
Ngài là một người Do Thái thuộc giáo tỉnh Cypern, gốc Lêvi và tên gọi là Giuse. Chúng ta không biết ngài đã gia nhập Kitô giáo lúc nào. Như Sách Tông Đồ Công Vụ ghi, ngài có lòng đại độ: “Giuse, người đã được các Tông Đồ đặt tên là Banaba nghĩa là con của sự an ủi một người Lêvi, người gốc Kyprô, có một thửa ruộng, ông đã bán đi và đem bạc đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv 4,36-37)
Ngài là người hướng dẫn Saolô sau khi Saulô trở lại đến gặp các vị Tông Đồ ở Giêrusalem (Cv 9,26-27). Sau này vào khoảng năm 42, Barnaba đã tìm đến với Saolô ở Tarsô rồi cùng với Phaolô sang truyền giáo tại Antiôkia. Trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất này, cả hai đi Kyprô và mạn nam Tiểu Á. Chính các ngài đã đi Giêrusalem dự Công Nghị Tông Đồ để đấu tranh cho việc những người dân ngoại, khi gia nhập Kitô giáo, không phải lệ thuộc Lề Luật cũ. Sau đó xẩy ra một cuộc tranh cãi giữa hai người. Lý do là vì Phaolô không muốn đem theo Marcô, bà con của Banaba đi theo mình trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ hai cho nên Banaba đã đem Marcô đi với mình đến Kyprô (Cv 15,39).
Theo truyền thuyết, sau này Banaba bị ném đá chết tại Salamít. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
II. CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH
Phaolô và Banaba đều là những tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẻo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau:
Lần thứ nhất là về vấn đề ăn chung (Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ Do thái giáo, trong đó có tục lệ phân biệt những món ăn nào sạch những món ăn nào dơ. Bởi đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn chung bàn với họ. Nhưng một lần kia vì sự có mặt của những người Do thái nên và vì muốn tránh không muốn gây khó chịu cho họ, nên thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã tránh ngồi chung bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô đã nổi giận đứng lên công khai trách hai người nặng lời. Sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại của hai vị, tức là hai vị đã nhịn. Chúng ta nên để ý: Lúc đó Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, và Banaba người đỡ đầu cho Phaolô. Phaolô chỉ là một người đến sau, một người cấp dưới. Là một người đến sau và người cấp dưới vậy mà hôm nay Phaolô dám công khai chỉ trích hai bậc trưởng thượng của mình trước mặt cả người Do thái lẫn người lương mới tòng giáo. Vậy mà hai Phêrô và Barnaba vẫn nhịn. Đây phải nói là một tấm gương hết sức sống động về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí.
Lần đụng độ thứ hai là về việc có liên quan đến Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba đã cho Marcô nhập đoàn. Nhưng sau một số gian khổ, Marcô đã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô rất giận. Đến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô đi theo, có ý là để cho Marcô đoái công chuộc tội. Nhưng Phaolô cương quyết không nhận. Phần vì Banaba thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên nhất định giữ anh này lại. Kết quả là Banaba và Phaolô đành phải chia tay nhau, mỗi người dẫn một đoàn truyền giáo riêng đi giảng mỗi người một hướng. Thật không dè rằng chuyện bất đồng này lại đưa đến kết quả tốt. Đó là việc truyền giáo càng ngày càng được đẩy mạnh hơn. Và thêm một kết quả nữa cũng hết sức tốt đẹp. Nó đã chứng minh cho quan điểm của Banaba là hợp lý. Đó là Barnaba đã thực sự cứu chữa được Marcô, không những đã giúp Marcô trở thành một tông đồ nhiệt thành mà sau này còn là tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Tóm lại chúng ta thấy mỗi người chúng ta khi sinh ra đã mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
Đoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ trước khi sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trong đó lời dặn đầu tiên là “Anh em hãy chữa lành” và lời dặn cuối cùng là “Đến đâu anh em hãy mang bình an tới đó”. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai điều này, Thánh Banaba đã thực hiện rõ nhất hai lời căn dặn này của Chúa:
Ngài đã cứu giúp Phaolô khi đứng ra bảo lãnh cho Phaolô trước mặt các tông đồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác với nhau một cách vui vẻ.
Ngài đã cứu giúp giáo đoàn Antiôkhia, chẳng những đã hóa giải được mối e ngại của Giêrusalem đối với những hoạt động truyền giáo của giáo đoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi dưỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ lên đối với giáo đoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo đoàn mẹ con hòa thuận hợp tác với nhau.
Ngài cũng đã hỗ trợ chính giáo đoàn mẹ Giêrusalem, đem đồ cứu trợ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
Cùng với Phaolô, Ngài bênh vực cho các tín hữu gốc lương dân trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc Do thái và Kitô hữu gốc lương dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
Ngay cả khi có những đụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng luôn giữ được bầu khí huynh đệ vì việc làm của ngài phát xuất bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: Thí dụ như trong vụ ăn uống là vì Ngài không muốn gây cớ vấp phạm cho các tín hữu gốc Do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ đã lỡ một lần lỗi phạm.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta có được tâm hồn giống như tâm hồn của thánh Barnaba: Luôn biết đấu tranh cho lẽ phải nhưng với một tấm lòng bao dung và nhất là chỉ vì yêu mến Chúa.
Suy niệm 4: Ra đi truyền giáo
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assisi, cách nghiêm trang, suy tưởng về Chúa... Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh: “Thưa cha, giảng ở đâu ạ?”
Cha thánh trả lời: “Giảng là đem Chúa đến bằng gương sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn”.
Suy niệm
Lời Thầy không luôn vang mãi mọi thời đại vì nhu cầu của cánh đồng truyền giáo thế giới luôn mang tính cấp bách: “Các con hãy ra đi…”.
“Ra đi” chứ không phải “ở lại”, ra đi thoát khỏi cái tôi ích kỷ, chỉ quanh quẩn cho chính mình, nhưng cất bước lo cho sứ mạng gieo giống Tin Mừng, làm việc trên cánh đồng truyền giáo.
Ra đi và nói lớn cho thế giới: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông”, đó là nước tình yêu và ân sủng, nước công chính và bình an. Cho nên, phải chuẩn bị bằng tâm tình sám hối, như Gioan Tẩy giả loan báo (x. Mt 3,3), như chính Thầy cũng loan báo (x. Mt 4,12-17; Mc 1,14-15; Lc 4,14-15). Lo việc Nước Trời và công chính trước tiên (x. Mt 6,33).
Ra đi và “Hãy chữa những người đau yếu trong thành”, môn đệ như thầy chí thánh quan tâm chia sẻ đến người đau khổ, chữa lành bệnh tật, mang hạnh phúc cho mọi người. Thật thế, người môn đệ của Chúa luôn quan tâm đến những nhu cầu được chữa lành, chia sẻ cho anh em đồng loại như sau này Phaolô đã cảm nghiệm và chia sẻ: “Vui với người vui, khóc với người khóc…” (Rm 12,15). Và tại Cửa Đẹp Đền thờ, thánh Phêrô thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi! “… anh trở nên cứng cáp” (Cv 3,6-7).
Ra đi “đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”, nhưng tín thác hoàn toàn vào Thầy, sống nghèo khó, thanh thoát trước các phương tiện của con người... và không lo lắng thái quá về vật chất, nhưng luôn chú tâm vào sứ mạng được sai.
Ra đi và khi “vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!”. Những người mang sứ mạng Tin Mừng luôn mang và quan tâm tới sự an bình và chuyển giao bình an Tin Mừng mà mình sở hữu trong tư cách sứ giả Tin Mừng cho gia đình, cộng đồng và những con người mà mình gặp. Sự bình an sẽ chiến thắng lo âu, sợ sệt… sinh niềm vui tâm hồn… Sự bình an như ngôn sứ Isaia loan báo bằng hình ảnh: “Này Ta tuôn đổ xuống Thành Đô ơn thái bình tựa dòng sông cả, và Ta khiến của cải chư dân chảy về tràn lan như thác vỡ bờ” (Is 66,12)
Lời mời gọi ra đi làm việc trên cánh đồng truyền giáo của Chúa xa xưa cũng là lời mời gọi dành cho mỗi người chúng ta trong cộng đoàn tín hữu. Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo”.
Ý lực sống:
Ra đi cứu độ - gieo bác ái,
Sứ mạng Tông đồ tỏa thơm hương.
Suy niệm 5: Người con có biệt tài khuyên nhủ
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Barnaba tông đồ. Là một người Do Thái sinh trưởng tại đảo Sýp vào khởi đầu của đạo Kitô, Barnaba có tên là Giuse, thuộc dòng tộc Lêvi. Có lẽ thánh nhân từng sống tại Giêrusalem trước khi Chúa Giêsu chịu tử nạn. Vì nhiệt tình và sự thành công trong công tác rao giảng, cho nên thánh nhân được các thánh tông đồ tặng cho biệt hiệu là Barnaba, nghĩa là “người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi”.
Sau khi trở lại, thánh Phaolô đến Giêrusalem, nhưng cộng đoàn tín hữu tại đây vẫn còn ngờ vực thiện chí của ngài.
Chính thánh Barnaba là người đứng ra bảo đảm và giới thiệu thánh Phaolô với các tông đồ, nhưng sau đó thánh Phaolô lui về ẩn dật trong nhà ngài tại Tácxô trong nhiều năm và Barnaba vẫn ở lại Giêrusalem. Sau này các thánh tông đồ sai Barnaba đến Antiokia để điều tra về sự thành công của thánh Phaolô trong công tác rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, Barnaba đã nhận ra ngay ơn Chúa trong công việc của thánh Phaolô. Ðây là lý do để nối kết hai người lại với nhau trong cánh đồng truyền giáo của dân ngoại. Cả hai sát cánh bên nhau tại Antiokia trong vòng một năm. Một trận đói lớn đã tàn phá Giêrusalem, Barnaba và Phaolô đã quyên góp để mang về Giêrusalem cứu trợ. Sau công tác này, cả hai trở về Antiokia và mang theo một người bà con họ hàng với Barnaba là Marcô, vị thánh sử tương lai.
Từ Antiokia, cùng với Marcô, Barnaba và Phaolô lên đường đi đến đảo Sýp, quê hương của Barnaba và từ đó sang Tiểu Á. Tại một trạm đầu tiên ở Tiểu Á, Marcô đã chia tay với Barnaba và Phaolô. Barnaba và Phaolô bắt đầu những trạm truyền giáo cam go nhất. Mỗi một bước đi là mỗi một lần bị chống đối và bách hại từ phía những người Do Thái. Những người này cũng xúi giục dân ngoại chống lại các vị tông đồ.
Tại Líttra, sau khi thánh Phaolô chữa lành một người tàn tật, dân thành xem các ngài như những vị thần. Họ định giết bò để tế cho các ngài nhưng liền sau đó bị người Do Thái xúi giục họ lại quay ra tấn công hai ngài. Riêng thánh Phaolô bị gây thương tích. Dù bị chống đối và bách hại, hai vị tông đồ vẫn hoán cải được nhiều người cũng như tổ chức được giáo đoàn. Bị người Do Thái và dân ngoại chống đối và bách hại, Barnaba và Phaolô còn gặp khó khăn ngay cả từ phía cộng đoàn Giêrusalem. Vấn đề xoay quanh việc có nên cắt bì cho dân ngoại không. Hai vị thánh này đã tranh đấu và cuối cùng đã tìm được giải pháp trong cộng đoàn Giêrusalem.
Về sau, trong chuyến đi trở lại để viếng thăm các cộng đoàn, Barnaba và Phaolô đã chia tay nhau mỗi người một ngả. Barnaba đi với Marcô đến Sýp; Thánh Phaolô cùng với một người môn đệ tên là Xila trở lại Tiểu Á. Những năm tháng còn lại của Barnaba không còn được nhắc đến nữa. Nhưng cũng như thánh Phaolô, thánh Barnaba vừa rao giảng Tin Mừng vừa tự lực cánh sinh. Khi thánh Phaolô bị giam tại Rôma, Marcô đã trở thành môn đệ của ngài. Ðiều này cho thấy rằng Barnaba không còn nữa.
Theo truyền thuyết, thánh Barnaba là vị giám mục đầu tiên của thành Milanô. Dù thế nào đi nữa, tất cả mọi truyền thuyết đều gặp nhau trong cùng một điểm là xem Barnaba như con người được mến chuộng nhất trong thế hệ Kitô đầu tiên. Trong sách Tông Ðồ Công Vụ, thánh sử Luca gọi ngài là một con người tốt, đầy tràn Chúa Thánh Thần. Thái độ của ngài đối với thánh Marcô chứng tỏ một trái tim nhân hậu và đại lượng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 6: Thánh Barnabas
Thánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội, đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Qua sách Công Vụ Tông Ðồ, chúng ta được biết ngài là người Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse, và các tông đồ đã đặt tên cho ngài là Barnabas sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản.
Mặc dù Barnabas không phải là một người trong nhóm Mười Hai nguyên thủy, Thánh Luca coi ngài như vị tông đồ vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Một trong những đóng góp quan trọng của Barnabas là ngài đã đảm bảo cho Saolô, một người mới tòng giáo mà ai ai cũng sợ hãi vì quá khứ bắt đạo của Saolô. Sau đó, Barnabas được sai đi rao giảng ở Antiôkia. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnabas đã xin Phaolô (tên cũ là Saolô) đến tiếp tay; cả hai đã xây dựng một giáo hội thật phát triển. Theo sách Công Vụ Tông Ðồ, chính ở Antiôkia mà “lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô Hữu.”
Chính trong cộng đoàn siêng năng cầu nguyện này mà “Thánh Thần phán bảo, 'Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô để lo cho công việc mà Ta đã kêu gọi hai người ấy.” Sau đó họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.” Do đó, Barnabas và Phaolô khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên thực sự ở nước ngoài, trước hết đến Cyprus (là nơi họ hoán cải một quan đầu tỉnh người Rôma) và sau đó đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Trong một thành phố, người Hy Lạp quá mến mộ các ngài đến nỗi họ tôn thờ Barnabas và Phaolô như các thần Zeus và Hermes. Vất vả lắm thì các ngài mới ngăn cản được đám đông hiếu khách ấy đừng dâng của lễ mà tế các ngài.
Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Phaolô và Barnabas đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã làm chủ tình hình trong Công Ðồng Giêrusalem.
Barnabas và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnabas đem Máccô đến Cyprus. Sau này, ba người: Phaolô, Barnabas và Máccô đã làm hòa với nhau.
Mặc dù không có những dữ kiện rõ ràng, dường như Barnabas, với sự tháp tùng của Gioan Máccô, đã trở về Cyprus. Ở đây, theo truyền thuyết, ngài đã chịu tử đạo vào năm 61.
Lời Bàn
Thánh Barnabas được đề cập như một người tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Ngài là người “đầy tràn Thánh Thần và đức tin. Do đó đã lôi cuốn một số đông người về với Chúa.” Ngay cả khi ngài và Thánh Phaolô bị trục xuất khỏi Antiôkia, họ “tràn ngập niềm vui và Thánh Thần.”
(Trích trong ‘Gương Thánh Nhân’ – http://nguoitinhuu.com)
Suy niệm 7: Thánh Bác-na-ba
(Lm. Trọng Hương)
A. Hạt giống...
Những chỉ dẫn tiếp theo về cách đối xử của người được sai đi giảng Tin Mừng:
- Công việc sẽ làm: “chữa lành” người đau yếu.
- Trừ quỷ.
- Tinh thần phục vụ quảng đại: Hãy cho cách nhưng không, vì trước đó ta đã lãnh nhận cách nhưng không.
- Đừng quá bận tâm đến những phương tiện vật chất. Có thứ gì thì dùng thứ đó.
- Cũng đừng quá quan tâm kén chọn chỗ trọ.
- Phải đem bình an đến cho những người mình gặp gỡ.
B.... nẩy mầm.
1. “Các con hãy rao giảng rằng Nước Trời đã đến gần”: nhiều người không tin có Thiên Chúa, nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa ở quá xa. Sứ giả Tin Mừng phải làm cho người ta tin rằng Thiên Chúa và Nước Trời đang ở thật gần, bởi vì Thiên Chúa chính là Emmanuel, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
2. “Chữa lành các bệnh nhân…, làm cho kẻ chết sống lại…, làm cho những người cùi được sạch… trừ quỷ…”: tông đồ là một con người chuyên làm lành: xoa dịu những đau khổ, đem lại lẽ sống cho kẻ tuyệt vọng, giúp đỡ những người bị xã hội khinh chê, giải thoát người ta khỏi tội lỗi…
3. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không”: Làm tông đồ cũng là một bổn phận công bình. Tôi đã lãnh nhận rất nhiều từ Chúa và Giáo Hội cho nên tôi cũng phải biết cho đi.
4. Nhận và cho: Một hôm có một vị bá tước đến cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền 25 đồng vàng để ngài giúp những người nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy, ông ta giả trang làm một người ăn xin đến xin thánh nhân bố thí. Thánh Gioan Thiên Chúa động lòng thương, lấy cả số tiền 25 đồng vàng đem cho người ấy kèm với những lời khích lệ an ủi. Ngày hôm sau, vị bá tước đích thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng bác ái của Ngài. Khi từ giã, ông đưa tặng thêm 150 đồng vàng nữa ngoài số 25 đồng mà ông xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi tuần ông lại gởi tới bệnh viện của thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo (Góp nhặt)
5. Phaolô và Banaba đều là những tông đồ nhưng cá tính và cách đối xử khác hẳn nhau. Phaolô thì nguyên tắc và cứng rắn, còn Banaba thì tình cảm và mềm dẽo. Bởi thế đôi khi hai ông đụng độ nhau: lần thứ nhất là về vấn đề ăn chung Ga 2,13). Số là Giáo Hội đã có quyết định rằng lương dân tòng giáo không bị buộc giữ tục lệ do thái giáo, trong đó có tục lệ phân biệt những món ăn nào sạch những món ăn nào dơ. Bởi đó các tông đồ đều hòa đồng với lương dân, ăn chung bàn với họ. Nhưng một lần kia vì có mặt những người do thái nên vì muốn không gây khó chịu cho họ, thánh Banaba và cả thánh Phêrô đã tránh ngồi chung bàn ăn với những người lương tòng giáo. Lần đó Phaolô đã nổi giận đứng lên công khai trách nặng hai ngài. Nhưng sách thánh không viết gì về phản ứng ngược lại của hai vị, tức là hai vị đã nhịn. Phêrô vị lãnh đạo Giáo Hội, Banaba người đỡ đầu cho Phaolô, còn Phaolô chỉ là một kẻ đến sau, một người cấp dưới. Thế mà hôm nay người đến sau và người cấp dưới ấy công khai chỉ trích hai bậc trưởng thượng trước mặt cả người do thái lẫn người lương tòng giáo. Vậy mà hai vị này vẫn nhịn. Thật là một tấm gương về lòng khiêm tốn và coi trọng hòa khí. Lần đụng độ thứ hai là về việc của Marcô (Cv 15,39): Trong chuyến truyền giáo thứ nhất, Banaba đã cho Marcô nhập đoàn. Nhưng sau một số gian khổ, Marcô đã bỏ cuộc về nhà với mẹ. Phaolô giận lắm. Đến khi chuẩn bị chuyến truyền giáo thứ hai, Banaba lại rủ Marcô theo, có ý là để Marcô đoái công chuộc tội. Nhưng Phaolô cương quyết không nhận. Phần Banaba thì cũng thiết tha muốn cứu vớt Marcô nên cũng nhất định giữ anh này. Kết quả là Banaba và Phaolô đành phải chia tay nhau, mỗi người dẫn một đoàn truyền giáo riêng đi giảng một hướng riêng. Chuyện bất đồng này lại sinh kết quả tốt là việc truyền giáo càng được đẩy mạnh hơn. Còn thêm một kết quả nữa chứng minh quan điểm của Banaba là hợp lý, đó là ông đã thực sự cứu chữa được Marcô, Marcô trở thành một tông đồ nhiệt thành và tác giả quyển Tin Mừng thứ hai.
Mỗi người chúng ta khi sinh ra mang sẵn một loại tính tình. Hãy sống Tin Mừng và loan Tin Mừng theo cá tính riêng của mình.
6. Đoạn Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ trước khi sai các ông đi rao giảng Tin Mừng. Trong đó lời dặn đầu tiên là “Anh em hãy chữa lành” và lời dặn cuối cùng là “Đến đâu anh em hãy mang bình an tới đó”. Với cá tính tự nhiên thích hợp với hai điều này, Thánh Banaba đã thực hiện rõ nhất hai lời căn dặn này của Chúa:
- Ngài đã cứu chữa Phaolô khi đứng ra bảo lãnh Phaolô trước mặt các tông đồ; rồi giúp cho hai bên hoà thuận với nhau, cộng tác nhau vui vẻ.
- Ngài đã cứu chữa giáo đoàn Antiôkhia, chẳng những hóa giải được mối e ngại của Giêrusalem đối với những hoạt động truyền giáo của giáo đoàn non trẻ này, mà còn khuyến khích họ, bồi dưỡng giáo lý cho họ và nâng uy tín của họ đối với giáo đoàn mẹ Giêrusalem. Rồi lại làm cho hai giáo đoàn mẹ con hòa thuận hợp tác.
- Ngài cứu chữa chính giáo đoàn mẹ Giêrusalem, đem đồ cứu trọ của Antiôkhia về cho Giêrusalem.
- Cùng với Phaolô, Ngài cứu chữa các tín hữu gốc lương dân. Bênh vực họ trong hội nghị Giêrusalem. Góp phần làm cho kitô hữu gốc do thái và kitô hữu gốc lương dân sống hòa thuận với nhau trong cùng một niềm tin.
- Ngay cả khi đụng chạm với Phaolô, Thánh Banaba cũng được thúc đẩy bởi tấm lòng thích cứu chữa và hòa giải: trong vụ ăn uống là vì Ngài không muốn gây vấp phạm cho các tín hữu gốc do thái; trong vụ Marcô là vì Ngài muốn cứu vớt một kẻ đã lỡ một lần lỗi phạm.
7. “Đừng sắm vàng bạc hay tiến đồng để giắt lưng. Đi đường đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giày hay cầm gậy” (Mt 10,9-10)
Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan đã lên đường. Họ tức khắc bỏ chài lưới mà lên đường. Họ muốn tung cánh trong tự do bát ngát. Họ gieo Tin Mừng khắp cánh đồng Galilê.
Quê hương con, bao thế hệ cũng đã lên đường. Họ kiếm tìm bình đẳng, bác ái và tự do. Họ đấu tranh cho công bằng xã hội. Họ xây dựng một thế giới hòa bình. Và nhiều người đã bỏ mình vì Nước Chúa.
Còn con… Con cần đội chiếc mũ bằng cấp. Con thích mặc chiếc áo sắc đẹp. Con muốn xỏ đôi giày tình yêu. Con ham vác vài bao của cải, và tay cầm cây gậy quyền năng. Rồi con trở nên nặng nề vì các tạo vật ấy.
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. Xin sai chúng con lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát. (Hosanna)
Suy niệm 8: Thánh Barnaba
Dù không phải là một trong số mười hai tông đồ được Đức Chúa Giêsu tuyển chọn, nhưng thánh Barnaba được thánh ký Luca gọi là tông đồ trong sách Tông đồ Công vụ của ngài. Vì như tông đồ Phaolô, Barnaba cũng nhận được từ Thiên Chúa một sứ vụ đặc biệt. Thánh nhân là người gốc Dothái, sinh tại đảo Cyprô. Tên của ngài là Giuse nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba. Danh xưng này có nghĩa là “con của sự an ủi.”
Ngay khi trở thành Kitô hữu, thánh Barnaba đã bán tất cả những gì ngài có và đem tiền dâng cho các tông đồ. Thánh nhân là người tốt bụng. Ngài rất nhiệt thành hăng say tin yêu Đức Chúa Giêsu. Barnaba được sai đến thành Antiôkia để rao giảng Tin mừng. Antiôkia là thành phố lớn thứ ba trong đế quốc Rôma thời ấy. Tại đây, những người tin theo Đức Chúa Giêsu lần đầu tiên được gọi là Kitô hữu. Barnaba nhận thấy mình cần sự giúp đỡ nên liền nghĩ tới Phaolô thành Tarsô. Ngài tin rằng Phaolô đã thực sự được ơn trở lại. Chính Barnaba đã đứng ra thuyết phục thánh Phêrô và cộng đoàn Kitô hữu; và đã xin cho Phaolô đến làm việc với mình. Barnaba là người khiêm tốn. Ngài không ngại chia sẻ năng lực và trách nhiệm. Ngài cũng biết Phaolô có một ân sủng rất đặc biệt và ngài muốn thánh nhân có cơ hội để trao ban.
Một thời gian sau, Chúa Thánh Linh đã chọn Phaolô và Barnaba để thực hiện một sứ vụ quan trọng. Sau đó không lâu, hai vị tông đồ đã lên đường thực hiện sứ mệnh anh dũng này. Các ngài đã phải chịu nhiều đau khổ và thường hay gặp nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng giữa những thử thách cam go, việc rao giảng của các ngài đã thuyết phục được nhiều người trở về với Đức Chúa Giêsu và Giáo hội của Người.
Sau đó, thánh Barnaba tiếp tục thực hiện một cuộc truyền giáo khác. Lần này với thánh Marcô, người bà con với ngài. Họ đi về Cyprô, quê hương của Barnaba. Qua việc rao giảng của thánh Barnaba, rất nhiều người đã trở nên Kitô hữu đến nỗi Barnaba được gọi là tông đồ của đảo Cyprô. Theo ý kiến chung, người ta cho rằng vị đại thánh này đã bị ném đá chết vào năm 61.
Thánh Barnaba đã nhận một danh xưng biểu hiệu đúng con người của ngài: một người tốt luôn luôn khuyến khích người khác yêu mến Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện với vị thánh này và xin ngài làm cho chúng ta cũng được trở nên những “người con của sự an ủi” như thánh nhân.
Suy niệm 9: Thánh Barnaba
Mặc dù thánh Barnaba không phải là một người trong nhóm mười hai tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, nhưng thánh Luca coi ngài như vị tông đồ, vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Thánh nhân là người gốc Do Thái, sinh tại đảo Síp. Tên của ngài là Giuse, nhưng các tông đồ đổi thành Barnaba sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản. Danh xưng này có nghĩa là “người con có biệt tài khuyên nhủ hay an ủi.”
Thánh Barnaba là một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội. Ngài đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Đồng thời, chính ngài là người đã đứng ra đảm bảo về sự trở lại thực sự của thánh Phaolô trước mặt cộng đoàn Kitô hữu khi Phaolô mới trở lại đạo. Sau đó, Barnaba được sai đi rao giảng ở Antiôkia để rao giảng Tin Mừng. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnaba đã xin Phaolô đến giúp sức cho mình. Cả hai đã xây dựng một Giáo Hội thật phát triển tại nơi đây. Theo sách Công Vụ Tông Đồ, chính ở Antiôkia mà "lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô hữu".
Sau một thời gian, Chúa Thánh Thần đã chọn thánh Barnaba và thánh Phaolô để thực hiện một sứ vụ quan trọng, đó là đem Tin Mừng đến cho dân ngoại. Do đó, hai ông đã khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên ở nước ngoài, trước hết là đến Síp và sau đó là đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh một vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Thánh Phaolô và Barnaba đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã được Công đồng Giêrusalem chấp thuận, tức là những người ngoài Do Thái khi rửa tội không buộc phải chịu cắt bì.
Barnaba và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo của mình, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Máccô, vị thánh sử tương lai. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnaba đem Máccô đến đảo Síp. Sau này cả ba người là Phaolô, Barnaba và Máccô đã làm hòa với nhau.
Tuy không có những dữ kiện rõ ràng, nhưng theo truyền thuyết thì thánh Barnaba đã được phúc tử đạo tại Síp vào năm 61. Đồng thời, truyền thống Hội Thánh nhìn nhận ngài là vị sáng lập Hội Thánh tại đảo Síp. Bên cạnh đó, người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448 và trên ngực ngài còn có một cuốn Phúc âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Barnaba đã chép tay.
Thánh Barnaba là mẫu gương về lòng nhiệt thành trong việc rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, và là mẫu gương về một đời sống khiêm nhường, bác ái và chia sẻ cho tha nhân. Chúng ta hãy cầu xin thánh nhân phù trợ cho mỗi người chúng ta, để trong đời sống thường ngày chúng ta biết quan tâm và chia sẻ Tin Mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người.
Pet. Hải Văn SDB
Suy niệm 10: Thánh Barnaba
Thánh Barnaba nắm giữ một chức vụ nổi bật trong những chương đầu của sách Công Vụ Tông Đồ, không phải cho mình mà nhằm giới thiệu thánh Phaolô, anh hùng trong cuốn sách.
Ngài là một người Do Thái được sinh tại Chypre. Và là một phần tử trong Giáo Hội sơ khai ở Giêrusalem. Chính ở địa vị này mà khoảng năm 39 tân tòng Saolê được đón nhận vào cộng đoàn các tông đồ (Cv 9-27). Bốn năm sau, Ngài kêu gọi Saolê tham gia công tác hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo mới được thiết lập ở Antiôkia (Cv 11,19-26). Thành phố này rất quan trọng, chỉ kém Rôma và đã trở nên trung tâm Kitô giáo của lương dân.
Một lần nữa, cùng với Saolê, Ngài được trao phó cho nhiệm vụ mang tiền cứu trợ gởi về cho Giáo Hội Giêrusalem (Cv 27-30). Nơi đây hai người lại được Gioan Marô là bà con của Barnaba (Gl 4,10) nhập bọn. Ba người họp thành đoàn truyền giáo, lên đường khoảng năm 45 (Cv 13 và 14). Từ đây Barnaba dần dần ẩn mặt đi. Dầu Chypre là sinh quán của Ngài, nhưng chính Saolê dưới tên mới là Phaolô dẫn dầu cuộc truyền bá Phúc Âm. Phaolô và đoàn tùy tùng lên đường tới lục địa Tiểu Á. Khi cùng Phaolô rao giảng (Cv 14,8-18), Barnaba được coi là thần Jupiter và Phaolô là Hermes. Đây là chứng cớ hùng hồn về vai trò hỗ tương của hai ông. Ba năm sau Phaolô trở về và được cộng đồng Giêrusalem phê chuẩn về đường lối Ngài theo trong chuyến hành trình (Cv 15,1-35).
Năm sau, dự định hành trình truyền giáo thứ hai có sự tranh chấp về việc kết nạp Gioan Marcô (Cv 15,35-41). Phaolô chọn các bạn đồng hành khác và Barnaba trở về Chypre. Việc giới thiệu Phaolô đã được hoàn thành và tên Ngài không còn được nhắc đến trong sách Công Vụ nữa. Trong việc trao đổi thư từ của Phaolô với Giáo Hội Côrintô cho thấy khoảng năm 56 thánh Barnaba vẫn còn sống (1Cr 9,5). Sáu năm sau Phaolô xin Marcô đến gặp mình ở Roma (2Tm 4). Sự kiện này cho phép chúng ta nghĩ rằng thánh Barnaba đã qua đời.
Một truyền thống sau này nói tới chuyến hành trình của thánh Barnaba tới Alexandria, Rôma, và Milan. Tại Milan, Ngài là Giám mục tiên khởi. Một truyền thống đáng tin hơn cho biết Ngài chết vì ném đá ở Salamis, sinh quán của Ngài. Nay còn nhiều mảnh vụn của cuốn ngụy thư Phúc Âm thánh Barnaba và của một tác phẩm thuộc thế kỷ thứ V là công vụ thánh Barnana. Nhưng những tài liệu này không cho biết nhiều hơn những điều đã biết được từ sách Công Vụ các tông đồ. cuốn gọi là thơ thánh Barnaba mà nhiều giáo phụ chép vào thơ mục Thánh Kinh, nay người ta biết được là tác phẩm của một người Do Thái theo Kitô giáo ở Alexandria.
Người ta nói rằng mộ Ngài được tìm thấy năm 448. Trên ngực Ngài còn có một cuốn Phúc Âm theo thánh Matthêu mà chính thánh Ngài đã chép tay.
(tgpsaison.net)
Suy niệm 11: Thánh Barnaba
Thánh Bác-na-ba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ trang trại người Sýp, gốc Do-thái. Tên khai sinh của Ngài là Giu-se, nhưng các Tông Đồ đã đổi tên cho Ngài thành Bác-na-ba, nghĩa là người có tài yên ủi (Cv 4,36). Trong cuộc bầu chọn để trở thành thành viên của nhóm Mười Hai, Ngài cũng là một trong hai ứng cử viên được đề cử để thế chỗ cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Tuy nhiên khi các Tông Đồ tổ chức rút thăm thì Ngài đã không trúng, nhưng thánh Mát-thi-a đã trúng (Cv 1,23-26). Sau khi gia nhập cộng đoàn Giáo hội sơ khai, Thánh Nhân đã bán hết tài sản, nhà cửa và ruộng vườn của mình đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ (Cv 4, 36-37). Thánh Nhân còn là người có tài khuyên bảo, đầy Thánh Thần và Đức Tin (Cv 11,23-24). Không những thế, Thánh Bác-na-ba còn là người bảo lãnh để Cộng đoàn Giáo hội tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem đón nhận Thánh Phao-lô, khi vị Tông Đồ này trở lại (Cv 9,26-27).
Sau khi Thánh Phao-lô bị gửi về quê, còn mình thì được các Tông Đồ cử đến Antiochia (tức Antakya ngày nay), Thánh Bác-na-ba đã trẩy đi Tác-xô để tìm Thánh Phao-lô. Sau đó cả hai cùng trở lại Antiochia và cùng hoạt động truyền giáo tại đó trong suốt một năm (Cv 11,22-26). Thánh Bác-na-ba cũng đồng hành với Thánh Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên tới đảo Sýp, cũng như tới vùng Tiểu Á. Cả hai đã cùng tham dự Công Đồng Giê-ru-sa-lem. Tại Công Đồng này, các Tông Đồ đã thống nhất quyết định sẽ thi hành sứ mạng truyền giáo cả ở nơi người Do-thái lẫn nơi người gốc dân ngoại (Cv 15,2-35).
Một cuộc tranh cãi đã nổ ra giữa Thánh Phao-lô và Thánh Bác-na-ba vì vấn nạn liên quan đến bổn phận phải tuân giữ những quy luật Do-thái giáo đối với các Ki-tô hữu gốc dân ngoại (Gl 2,11-14; Cv 15,22-35), và vì Gio-an Mác-cô, người em họ của Bác-na-ba. Do cuộc tranh cãi này nên hai vị Tông Đồ đã chia tay nhau. Sau đó, Thánh Bác-na-ba cùng với Thánh Mác-cô đã đến thăm các Cộng Đoàn tại đảo Sýp, quê hương của Ngài (Cv 15,39). Theo nhiều truyền thuyết có tính huyền thoại, Thánh Bác-na-ba đã chữa lành nhiều bệnh tật bằng cách dùng cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu mà Ngài luôn mang theo mình, để đặt lên đầu các bệnh nhân. Cũng theo truyền thuyết, Thánh Bác-na-ba còn đến truyền giáo tại Rô-ma, và đã ban Bí Tích Thanh Tẩy cho một tân tòng, mà sau này người tân tòng ấy đã trở thành Giám mục của Rô-ma, tức Đức Giáo Hoàng Clê-men-tê I. Rời Rô-ma, Ngài đến Mi-lan, và được coi là Giám mục tiên khởi của Giáo đoàn này. Nhưng theo một truyền thuyết khác thì Thánh Bác-na-ba đã trở lại đảo Sýp, và tại đó, Ngài đã được phúc Tử Đạo thông qua việc bị ném đá đến chết.
Một số chuyên gia đã so sánh Thánh Bác-na-ba ngang hàng với Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.
Có một bức thư mang tên của Ngài, nhưng nó được coi là mạo danh, và cũng được xếp vào hàng ngũ các sách Ngụy Thư. Bức thư này muốn chứng minh những huấn giáo của Ki-tô giáo nguyên thủy về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của Ngài như là sự tương ứng và hài hòa với Cựu Ước; trong thời Giáo hội cổ đại, bức thư này đôi khi được coi như thành phần của quy điển Tân Ước. Thực tế thì bức thư đó đã xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng vào năm 130, và với cách giải thích Cựu Ước có tính bài Do-thái của mình, nên bức thư này không được công nhận là của Thánh Bác-na-ba. Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhưng tiếc rằng nó đã bị thất truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân, nhưng mãi cho tới thế kỷ XVI nó mới được biên soạn. Theo một truyền thống trước đây, mà truyền thống này phát xuất từ Tertullianô, Thánh Bác-na-ba được coi là tác giả của Thư gửi Tín Hữu Do-thái.
Các Giáo hội Chính Thống đã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70 môn đệ do đích thân Chúa Giê-su tuyển chọn.
Tương truyền về việc Thánh Bác-na-ba được hưởng phúc Tử Đạo tại đảo Sýp xem ra đáng tin cậy hơn. Theo đó, Ngài đã được phúc Tử Đạo vào khoảng năm 63 dưới thời hoàng đế Nero, và được an táng tại đó trong một hang mộ của một nghĩa trang lớn thuộc vùng Salamis cổ, tức khu hoang tàn của Famagusta ngày nay (phía Đông đảo Sýp). Một ngôi Thánh Đường của Giáo hội Sýp đã được kiến thiết trên ngôi mộ của Ngài. Sau một cuộc tranh cãi lâu dài giữa các nhà lãnh đạo của Giáo hội Sýp với Đức Thượng Phụ Giáo chủ Antiochia về tính độc lập của Giáo hội Sýp, tại Công Đồng Ê-phê-sô, các Nghị Phụ đã đưa ra quyết định nghiêng về Giáo hội Sýp, nhưng Antiochia đã thu hồi quyết định đó.
Theo tương truyền, vào năm 477, trong một buổi tối, Thánh Bác-na-ba đã hiện ra với Đức Tổng Giám Mục Anthemios của đảo Sýp, và đã chỉ cho Đức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ của Ngài. Sau đó, thi hài của Thánh Nhân đã được tìm thấy. Khai quật ngôn mộ của Ngài, người ta phát hiện ra rằng, khi Thánh Bác-na-ba qua đời, người bạn đường của Ngài là Thánh Mác-cô, đã an táng Ngài một cách hết sức trang trọng. Trên ngực của Thánh Bác-na-ba có đặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do chính Thánh Bác-na-ba chép lại. Đức Tổng Giám mục Anthemios đã cấp tốc báo cho triều đình hoàng đế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Qua đó vị Giám mục của Giáo hội Sýp đã thuyết phục được nhà cầm quyền rằng, Giáo hội Sýp được thành lập bởi Thánh Bác-na-ba, nên không ít tính Tông Truyền hơn Giáo hội Antiochia, và vì thế được coi là ngang hàng với Giáo hội đó. Một nguồn suối đã bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối này được cho là có khả năng chữa lành cũng như có khả năng kỳ diệu, đặc biệt là đối với những phụ nữ vô sinh và những bệnh ngoài da. Vào năm 1953, một nhà nguyện mới đã được kiến thiết ngay trên phần mộ được cho là của Thánh Bác-na-ba.
Các Thánh Tích của Thánh Bác-na-ba đã được tôn kính tại nhiều nhà thờ khác nhau trên nước Ý, và tại một số nơi khác như Prag (Tiệp Khắc), Köln, Andechs (Đức), Toulouse (Pháp) và Namur (Bỉ).
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist
10/06 Quyết liệt xa tội
- Viết bởi Mt 5, 27-32
Quyết liệt xa tội.
Thứ Sáu tuần 10 thường niên.
"Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi".
Lời Chúa: Mt 5, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Chớ ngoại tình". Phần Thầy, Thầy bảo các con: Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi. Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục.
"Có lời dạy rằng: "Ai bỏ vợ mình, hãy trao cho vợ một giấy ly dị". Phần Thầy, Thầy bảo các con: bất cứ ai bỏ vợ mình-ngoại trừ vì lý do gian dâm-là làm cớ cho vợ ngoại tình; và ai cưới người vợ bị bỏ, cũng phạm tội ngoại tình nữa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ngoại tình trong lòng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay hẳn gây sốc cho những ai nghe Đức Giêsu,
và nhất là cho chúng ta ở thế kỷ này nữa.
Đòi hỏi của Đức Giêsu mang tính tận căn, vượt quá Luật Môsê.
Không phải chỉ là tránh ngoại tình trong hành động,
mà còn phải tránh cả ngoại tình trong tư tưởng, trong trái tim,
khi nhìn người phụ nữ bằng cái nhìn thèm muốn chiếm đoạt.
Phụ nữ ở đây hẳn là người đã có chồng, đầu tóc được che khăn.
Thèm muốn ở đây không phải chỉ là một rung động tự nhiên trước vẻ đẹp,
nhưng muốn nói đến một dục vọng xác thịt được nuôi dưỡng kéo dài,
nhắm đến một tương quan bất chính với người phụ nữ ấy.
Thèm muốn này có tính chiếm đoạt.
Điều này đã được nói đến ở giới răn thứ mười:
chớ thèm muốn vợ người khác (Xh 20, 17).
Đàn ông hôm nay thấy khó tránh cái nhìn thèm muốn, chiếm đoạt.
vì phụ nữ hôm nay biết cách lôi kéo cái nhìn của họ.
Nhiều phụ nữ coi “gợi cảm” và “gợi tình” là điều cần nhắm tới.
Các quán bán cà phê đều cần những cô “có ngoại hình”.
Trong các tạp chí và trên mạng thiếu gì những hình ảnh tươi mát, dâm ô.
Chúng ta đã quen với một nền văn hóa tiếp thị bằng hình ảnh như thế.
Từ nhìn đến thèm muốn cháy bỏng, rồi dẫn đến sa ngã thực sự.
Nạn mãi dâm, ngoại tình, đổ vỡ trong gia đình vẫn là chuyện nhức nhối.
Từ đó phát sinh bao bệnh tật và tệ nạn trong xã hội.
Đức Giêsu muốn ngăn chặn cái xấu từ trong gốc rễ.
Bà Evà đã nhìn, đã thèm muốn, rồi cuối cùng đã hái trái cấm.
Từ mắt đến tim và đến tay: đó vẫn là con đường bình thường của cám dỗ.
Đức Giêsu đã dùng lối ngoa ngữ để nói lên đòi hỏi tận căn của Ngài.
Nếu mắt hay tay làm dịp cho chúng ta phạm tội về xác thịt,
thì thà mất mắt phải hay tay phải mà vào Nước Trời
còn hơn toàn thân bị ném vào hỏa ngục.
Chúng ta không hiểu theo nghĩa đen để rồi chặt tay hay móc mắt,
vì làm thế cũng chẳng khiến ta hết dục vọng.
Nhưng chúng ta hiểu mình cần phải chịu những hy sinh đau đớn
mới có thể giữ mình thanh khiết để xứng đáng với Nước Trời.
Làm sao để cái nhìn của tôi được trong sáng ngay giữa một thế giới ô uế?
Làm sao để tôi không coi người khác phái chỉ là đối tượng của dục vọng xác thịt?
Làm sao tôi có thể quay đi và nhắm mắt để được tự do?
Cầu nguyện :
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,
xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao
vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,
để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực
vào những chuyện tình cảm chóng qua,
nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ thân xác con thanh khiết. Amen.
Suy Niệm 2: Thiên Chúa của niềm hy vọng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa tiếp tục kiện toàn Lề Luật. Bằng nội tâm hoá. Giữ luật không phải theo hình thức bề ngoài. Nhưng từ đáy sâu tâm hồn. Đó là diệt tận căn sự dữ. Thực ra việc làm chỉ là kết quả cuối cùng. Chỉ là phần ngọn. Phần gốc khởi đầu và ăn sâu trong tâm hồn. “Bất cứ ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”.
Phải diệt trừ tội lỗi tận gốc. Vì sự sống. Đây là kiện toàn Lề Luật ở mức cao nhất. Luật cũ đưa đến sự chết. Luật mới đưa đến sự sống. Chịu thiệt thòi đời này để được sự sống đời đời. “Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”.
Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống. Của niềm hy vọng. Những ai phục vụ Chúa. Chịu thiệt thòi ở đời này. Đừng nghĩ rằng thế là hết. Là chết. Chúa sẽ mở ra con đường hy vọng mới. Mở ra sự sống mới. Ê-li-a tuyệt vọng. Vì cuối cùng chỉ còn mình ông thờ phượng Chúa. Ông bị săn đuổi sắp chết. Sẽ chẳng còn ai tiếp tục thờ phượng Chúa. Nhưng trong cơn gió thoảng nhẹ nhàng, Chúa cho ông thấy cả một niềm hy vọng, một sự sống mới nảy sinh. “Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sac mạc cho tới Đa-mát mà về. tới nơi, ngươi sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; Còn Giê-hu con của Nim-si, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua Ít-ra-en. Ê-li-sa, con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô quả quyết điều đó. Ngài có thể bị xua đuổi, hành hạ. Nhưng như thế sự sống của Chúa càng tỏ hiện. “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật thế, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi”. Càng chịu đau khổ vì Chúa, thì sự sống của Chúa càng mạnh mẽ. Càng chết cho Chúa thì sự sống sẽ càng sung mãn. Và sẽ dẫn đến sự sống lại. Sự sống đời đời. Đó chính là niềm hy vọng. “Quả thật, chúng tôi biết rằng Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em” (năm lẻ).
Hãy diệt trừ tội lỗi. Dù phải chịu đau khổ. Kể cả mất mạng sống. Nhưng Chúa sẽ trả lại cho ta sự sống. Sự sống đích thực. Sung mãn. Vĩnh cửu.
Suy Niệm 3: Chớ ngoại tình, đừng ly dị
Hôn nhân không phải là một sự phối hợp tạm thời để có thể dễ dàng phân ly vì sự thay đổi hoặc vì đam mê của con người. Chúa Giêsu lên án những phóng đãng luân lý, như sự bất trung, ngoại tình, ly dị do pháp luật cho phép.
Chống lại sự bất trung, Chúa Giêsu lên án cách nhìn ngắm không trong sạch của những ước muốn xác thịt, liều mình đi đến chỗ phạm tội trong tâm hồn. Cử chỉ này bị coi là đã thành tội, vì tội phát sinh bởi ý muốn thầm kín của tâm hồn. Với những lời gắt gao, Chúa nhắc lại việc cần phải dấn thân một cách nghiêm chỉnh và cương quyết chống lại những lạc hướng do ích kỷ, để cứu vãn và tăng cường tình yêu hôn nhân bằng mọi giá.
Chống lại việc ly dị, Chúa Giêsu đã sửa lại luật Môsê cho phép ly dị trong một số trường hợp. Ðối với Ngài, lý do là sự lựa chọn của một tình yêu dâng hiến, với tình yêu này, người nam và người nữ dấn thân sống chung với nhau suốt đời. Ngài kêu gọi lương tâm của con người, và không luật nào được thay thế và vi phạm lương tâm này. Tội tà dâm phải được loại trừ tận gốc rễ, và trong tư tưởng thầm kín. Cái nhìn trong sạch: "Phúc cho ai có tâm hồn trọng sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa"; muốn thế, cần phải hy sinh những gì gây cớ vấp phạm.
Trong luật cũ có vẻ bao dung đối với nam giới và nghiêm khắc đối với nữ giới, thì Chúa Giêsu đặt cả hai trên cùng một cấp bậc: Ngài lên án rõ ràng và như nhau về việc ly dị đối với cả hai giới, và tuyên bố việc phối hợp với người khác sau khi ly dị là ngoại tình.
Theo giáo huấn của Chúa, việc phối hợp giữa người nam và người nữ là một biểu lộ của tình yêu, và tình yêu này đến từ Thiên Chúa, chứ không do tình dục ích kỷ. Tình yêu là một sự trao ban cho nhau, là cuộc gặp gỡ của tự do.
Xin Chúa cho chúng ta biết tiến lên theo Thánh Thần thúc đẩy, để chúng ta không chiều theo những ước muốn và hành động của xác thịt; trái lại biết sống trong tự do của Chúa, nhờ đó lề luật của Chúa sẽ trở nên nguồn an vui và sức mạnh của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Giải phóng tình yêu
“Anh em đã nghe luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt. 5, 27-28)
Những lời nói cũ rích?
Có những người nói rằng thời đại ta là thời đại giải phóng tình dục và họ vỗ tay hoan hô. Những người khác nhìn thấy cảnh sống phóng túng tràn lan hầu như khắp nơi, thì lại chỉ buông lời trách móc. Ta nên xử trí thế nào cho phải. Cách ăn nết ở của đàn ông đàn bà cũng như của thanh thiếu niên nam nữ xưa đối với nhau có những mặt tốt và mặt xấu của nó. Xưa có những cách bày tỏ tình bằng hữu, cho đến cả tình yêu nữa, không phải luôn luôn hoàn hảo, xứng với con người hay hợp với tinh thần Kitô giáo đâu. Nhưng những cách cư xử mới của những người thời nay cũng không phải là hoàn toàn bảo đảm. Chắc chắn là chúng ta đã đạt tới những nếp sống phóng túng chẳng giúp gì cho việc khơi đậy và phát triển một tình yêu sâu xa giữa nam nữ cũng như giữa vợ chồng.
Trong bối cảnh hiện nay thì chắc chắn những lời Chúa phán kia có nguy cơ bị coi là lỗi thời. Không được thèm muốn vợ người khác, phải cương quyết để sống trung tín với người nam hay nữ mình yêu, người ta còn sẵn sàng thực hiện điều này không?
Yêu thương, khó đấy
Thế nhưng ta phải thực hiện yêu thương, sẽ phải luôn luôn thực hiện yêu thương, bởi lẽ không bao giờ một tình yêu muốn được coi là chân thật, bền bỉ và trung tín sẽ chịu dung dưỡng với những dễ dãi và thỏa hiệp.
Từ mấy thập niên qua, người ta dã tốn công nhiều để giải phóng người nam và người nữ khỏi một số những điều cấm kỵ vốn cản trở họ yêu nhau một cách hồn nhiên và được vui sướng. Nhưng giờ đây một trách vụ mới lại được đặt ra. Phải giải phóng tình yêu khỏi tất cả những gì làm thoái hóa, hư hỏng và bóp nghẹt tình yêu, làm cho tình yêu trở thành một thực phẩm không còn mùi vị gì nữa và không còn mời gọi vươn lên nữa.
Chúa Giêsu đã yêu thương đến độ đón nhận thập giá. Chẳng có tình yêu giữa hai vợ chồng khi tình yêu ấy không trải qua con đường này.
Suy Niệm 5: Hãy sống trong sạch từ tư tưởng
Trên các trang mạng xã hội gần đây có đăng tải câu chuyện của một quan tham, ông ta là Phó Chánh Văn phòng UBND tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Ông này có ý đồ dâm đãng với nhiều phụ nữ. Ông ta trở thành điển hình cho thói ăn chơi sa đọa và bệnh hoạn. Giấc mơ mà ông này đeo đuổi chính là được "qua đêm" với 1.500 người phụ nữ. Kết cục ông đã bị bắt (xc. http://www.tienphong.vn/the-gioi/quan-tham-trung-quoc-dat-muc-tieu-ngu-voi-1500-nguoi-phu-nu-711861.tpo).
Hôm nay Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học về sự thanh bạch, khiết tịnh từ bên trong, Ngài nói: “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi”. Sau đó, Ngài đã nói lên tính cẩn trọng, dứt khoát với tội để có sự toàn vẹn trong cuộc sống mai hậu: “Nếu mắt bên phải con làm con vấp phạm, thì hãy móc quăng khỏi con đi: thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Và nếu tay phải con làm con vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng đi, vì thà mất một chi thể còn lợi cho con hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục”.
Trong đời sống thực tế, có nhiều người bên ngoài tỏ ra rất đạo đức, thánh thiện, nhưng bên trong luôn đi tìm muốn sự bất khiết.
Lời Chúa hôm nay nhắc cho mỗi chúng ta hãy tránh xa những dịp tội, nhất là tội dâm dục, để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc trên Thiên Quốc mai sau.
Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con và ban cho có tự do, đồng thời Chúa cho phép chúng con sử dụng sự tự do đó để làm điều thiện hay xấu. Xin Chúa ban ơn trợ lực, để chúng con biết sử dụng ân huệ Chúa ban mà làm việc tốt, hầu sinh ích cho phần hồn chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chung thủy trong đời hôn nhân
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa dạy phải sống chung thủy trong đời hôn nhân. Muốn được như vậy, phải cương quyết không chiều theo những thèm muốn tội lỗi và cương quyết cắt đứt dịp tội.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Cha Toàn Năng, chúng con tạ ơn Cha đã tạo dựng nên chúng con là những người nam, người nữ. Tạ ơn Cha đã cho chúng con khả năng hấp dẫn lẫn nhau, hướng về nhau, để xây dựng một cuộc sống gia đình hạnh phúc. Nhưng tội lỗi đã phá đổ điều tốt đẹp ấy và làm cho chúng con trở thành lệch lạc. Chúng con chỉ muốn thỏa mãn đam mê dục vọng một cách ích kỷ.
Lạy Cha, xin Cha giúp con làm chủ bản thân mình, xin giúp con chấn chỉnh sự lệch lạc ngay từ cái nhìn, ngay từ trong ý hướng tâm hồn của con. Con sẽ hành động xấu khi con chiều theo ước muốn xấu. Và hành động của con chỉ tốt khi con có những ý hướng tốt.
Cuộc sống con hôm nay tràn ngập biết bao hình ảnh dâm ô thúc đẩy con phạm tội. Xin cho con ơn biết khôn ngoan và can đảm tránh xa dịp tội. Xin giúp con giữ gìn đôi mắt trong sạch. Trong lúc con bị cám dỗ, xin ban ơn nâng đỡ giúp con chiến thắng. Xin Cha cho các thanh niên thiếu nữ biết quý trọng tâm hồn trong sạch như là hương thơm ngọc quý của tuổi trẻ.
Đặc biệt, con xin Cha thương xót những gia đình đang trong cơn khủng hoảng vì ngoại tình hoặc có nguy cơ ly tán. Xin Cha cho gia đình họ và gia đình chúng con đây được trung tín trong lời cam kết hôn nhân. Xin giúp gia đình họ vượt qua những giờ phút thử thách để tìm lại được hạnh phúc trong tình yêu. Amen.
Ghi nhớ : “Ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, thì đã ngoại tình với người ấy trong lòng rồi”.
Suy Niệm 7: Kiện toàn Lề Luật
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Đaminh Saviô sinh ra trong một gia đình Công giáo, cha mẹ sống rất đạo đức, đặc biệt là người mẹ. Bà chu đáo trong giáo dục con cái, dạy cho con biết phân biệt điều lành điều dữ và nhất là biết tránh xa các dịp tội. Đaminh ghi nhớ rõ từng lời mẹ dạy.
Lên năm tuổi, ngài trở thành một cậu giúp lễ. Khi lên bảy tuổi, ngài được rước lễ lần đầu. Trong ngày đó, Đaminh đã chọn cho mình một quyết tâm để sống. Ngài hứa với Chúa Giêsu: “Thà chết chẳng thà phạm tội!”.
Hằng ngày, Đaminh đã cầu nguyện để luôn trung thành với lời hứa ấy... Đaminh luôn gìn giữ tâm hồn trong trắng, không dính vết tội nhơ. Cậu rất gớm ghét tội lỗi làm mất lòng Chúa.
Ngày 18/5/1950, Đaminh Saviô qua đời lúc tuổi đời vừa tròn 14 và trở nên một trong những vị thánh trẻ nhất trong Giáo hội Công giáo.
Suy niệm
Chúa Giêsu hoàn thiện luật như chính Ngài nhấn mạnh: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Kiện toàn Lề Luật khi Ngài dạy thực thi luật vớt tất cả tâm hồn. Ngài dạy không dừng lại, quanh quẩn ở luật pháp mà vượt qua luật, Ngài dẫn đưa nhân loại đi tới Tin Mừng đem hạnh phúc tình thương cho con người. Chính bài giảng Bát phúc trình bày tính cách vĩnh cửu của luật pháp mà Ngài hoàn thiện.
Tuy nhiên, luật của Ðức Giêsu đòi hỏi đến tận nguồn gốc của hành động, nguyên nhân thúc đẩy hành động. Vì thế, luật của Ngài đòi hỏi khắt khe hơn và buộc người ta phải hoán cải tận căn rễ của sự tội: Sẵn sàng làm một số việc vừa quyết liệt lại vừa đau đớn không kém gì hành động chặt tay và móc mắt. Chúa Giêsu không nói chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân hay móc mắt vì đây chỉ là cách nói nhấn mạnh của Ngài để gây một ấn tượng khó quên đối với người nghe: Giữ luật trong tình yêu vì tình yêu phải hy sinh.
Khi kiện toàn Lề Luật, Đức Giêsu hoàn thiện hôn nhân. Luật cũ trọng nam khinh nữ khi bao dung đối với nam giới mà nghiêm khắc đối với nữ giới. Chúa Giêsu đặt cả hai trên cùng một cấp bậc và bất ly dị khi hôn nhân được chúc lành làm thành bí tích. Ngài lên án rõ ràng và như nhau về việc ly dị đối với cả hai giới, và tuyên bố việc phối hợp với người khác sau khi ly dị là ngoại tình. Xin cho chúng ta quyết tâm sống luật Chúa với tình yêu và sự tín trung…
Ý lực sống:
Luật pháp kiện toàn Chúa rộng ban,
Yêu thương, thanh khiết, chẳng tà gian…
Kỷ cương tuân giữ, gieo nhân ái,
Hoa lòng tươi nở khắp muôn phương
(Trích và kết hợp từ Thiên Pháp của Hạt Nắng và Đường Thiện hảo của Bâng Khuâng Chiều Tím).
Suy Niệm 8: Chung thủy trong hôn nhân
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Lề luật diễn tả ý Thiên Chúa, vì thế sống theo luật là sống theo Chúa. Thế nhưng luật lệ cần được kiện toàn theo hoàn cảnh, theo thời gian. Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng: Ngài không phá bỏ luật Cựu ước, nhưng Ngài canh tân để bộ luật được hoàn thiện hơn. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa dạy phải chung thuỷ trong đời sống hôn nhân. Muốn sống được như vậy, phải cương quyết không chiều theo những thèm muốn tội lỗi và cương quyết cắt đứt mọi dịp tội.
Luật cũ cho ly dị thực ra không phải Thiên Chúa ban, nhưng vì sự yếu đuối của dân mà ông Maisen đã chấp nhận. Chúa Giêsu đã kiện toàn theo tinh thần mới khi khẳng định sự bất khả phân ly của hôn nhân. Có lần nhóm Biệt phái đến hỏi Chúa Giêsu họ có phép được ly dị không? Thay vì trả lời “Có” hay “Không”, thì Chúa Giêsu lại nhắc cho họ điều căn bản là từ thuở ban đầu trong ý định của Thiên Chúa đã muốn cho người nam và người nữ kết hợp với nhau trong việc cộng tác sáng tạo và bất khả phân ly. Thế nhưng, vì ích kỷ mà con người phản bội dối gian nhau, thiếu tình yêu và tha thứ cho nhau... dẫn đến đổ vỡ. Chính vì thế mà Maisen cho phép ly dị như một chọn lựa ngoài ý muốn để giải gỡ cho họ.
Chống lại luật ly dị, Chúa Giêsu đã sửa lại luật Maisen cho phép ly dị một số trường hợp. Đối với Ngài, lý do là sự lựa chọn của một tình yêu dâng hiến, với tình yêu này, người nam và người nữ dấn thân sống chung với nhau suốt đời. Ngài kêu gọi lương tâm của con người, và không luật nào được thay thế và vi phạm lương tâm này. Tội tà dâm phải được loại trừ tận gốc rễ, và trong tư tưởng thầm kín. Cái nhìn trong sạch: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa”, muốn thế, cần phải hy sinh những gì gây cớ vấp phạm.
Sự chung thuỷ trong hôn nhân mà Kitô giáo đề cao cũng được tìm thấy trong nhiều tôn giáo và văn hoá khác. Tuy nhiên, nét nổi bật của đòi hỏi chung thuỷ trong Kitô giáo chính là nền tảng của nó, tức là Thiên Chúa. Con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa, và nếu Thiên Chúa là tình yêu chung thuỷ, thì hình ảnh Ngài nơi con người cũng phải là tình yêu chung thuỷ, ơn gọi của con người chính là thực hiện hình ảnh ấy.
Dù sống độc thân hay trong bậc hôn nhân, ơn gọi chung của con người vẫn là sống chung thuỷ. Chung thuỷ với chính bản thân, hay chung thuỷ với người khác, đối tượng cuối cùng của chung thuỷ vẫn là Thiên Chúa. Khi con người tôn trọng chính mình là lúc con người tôn trọng hình ảnh Thiên Chúa trong chính mình (Mỗi ngày một tin vui).
Chúa Giêsu cũng dạy ta phải tránh xa dịp tội. Việc Chúa Giêsu nói cái gì trở nên dịp tội thì hãy lo cất đi, chấp nhận mất một bộ phận mà tránh được hỏa ngục. Ở đây không hiểu theo nghĩa đen là phải chặt tay móc mắt, vì nếu thế thì không còn ai toàn vẹn vì bản năng yếu đuối của con người. Điều Chúa muốn nói ở đây chính là “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, nghĩa là phải cất đi và xa lánh những nguy cơ có thể đẩy chúng ta đến phạm tội, dù phải chấp nhận phần thiệt về mình, như lánh xa những ấn phẩm đen, không đến những nơi chốn không thích hợp, tránh dùng những thức uống làm mình mất kiểm soát...
“Ai nhìn phụ nữ mà thèm muốn...”
Có những đôi mắt là “cửa sổ của tâm hồn” nhưng cũng có “những đôi mắt in hình viên đạn”. Những viên đạn hận thù, ghen tương, trả đũa, những viên đạn thèm khát tình dục được ”bắn” vào người khác. Mà sở dĩ chúng ta mang những “đôi mắt in hình viên đạn” thèm muốn, bởi vì chính chúng ta đã mở tung “cửa sổ tâm hồn” cho những trang sách báo nhảm nhí, những cuốn phim với lắm hình ảnh bạo lực, đồi truỵ, và bao hình thức giải trí phóng túng khác... Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu lên án những ai chủ ý dùng con mắt của minh, để khơi gợi những ước muốn bất chính, hay nói cách khác, Ngài cảnh báo những tâm hồn chất đầy những ý muốn bệnh hoạn và dùng con mắt để thỏa mãn những ham muốn đen tối ấy (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Tình yêu chung thuỷ
Nói đến sự chung thuỷ, người ta nhắc đến gương của một công chúa nước Thụy Điển. Khi chồng bị nhà vua giam tù chung thân, bà đã đến xin cho được ở tù với chồng. Nhà vua ngạc nhiên giải thích cho bà: bản án của chồng bà là án chung thân, hơn nữa chồng bà bị giam tù, nên bà được tự do tái hôn. Nghe thế, công chúa trả lời: “Tâu bệ hạ, dù chồng tôi có vô tội hay không, anh ấy vẫn mãi mãi là chồng tôi”. Nói xong, nàng chìa cho nhà vua xem chiếc nhẫn trên đó có khắc hàng chữ “Sola mors” (chỉ sự chết mới có thể phân rẽ).
Công chúa đã sống với chồng 17 năm, chỉ sau khi nhà vua băng hà, hai người mới được trả tự do.
Suy Niệm 9: Tinh thần mới trong luật hôn nhân.
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu tiếp tục giải thích tinh thần mới trong khi giữ luật. Hôm nay Ngài bàn đến luật hôn nhân và khiết tịnh.
Điều quan trọng nằm trong con tim chứ không phải nơi những thể hiện bên ngoài. Do đó phải giữ trọn con tim. Ngài minh chứng cho người mình đã cùng cam kết, và bất cứ sự gì có thể đẩy mình vi phạm cam kết đó thì phải ngăn chặn từ gốc rễ: một cái nhìn, một ước muốn.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Phải thừa nhận rằng thứ văn minh thời nay không được sạch. Khi đề cập quá nhiều đến giới tính, xem ra nó đề cao giới tính, nhưng thực chất là hạ thấp giới tính vì nó khiến người ta không còn tôn trọng giới tính nữa, coi đó là một thú vui, một nhu cầu mà mình có thể thỏa mãn một cách dễ dàng. Sống trong bầu khí thiếu trong sáng đó, không nhiều thì ít tôi cũng bị lây nhiễm. Hôm nay tôi phải tự kiểm: tôi có tôn trọng giới tính của tôi không? Tôi có tôn trọng những người khác phái không? Tôi có cương quyết dứt khoát với các cám dỗ không?
2. Ngoại tình là không chung tình. Bất cứ hình thức san sẻ nào, dù chỉ là một chút san sẻ, cũng là ngoại tình. Tôi đã hứa dành tình yêu của tôi cho ai? Tôi có san sẻ cho ai khác không? San sẻ như thế nào?
3. Muốn chung tình thì phải từ bỏ.
“Tôi vất bỏ những cám dỗ ma quái trong đời cùng với nét phù du của chúng. Tôi sẽ vút lên khỏi đỉnh núi cao. Tôi tự do! Tôi tự do! (Xác quyết)
4. Đức Hồng Y Roncalli (sau là Giáo Hoàng Gioan 23) ngày kia dự tiếp tân bên cạnh nữ công tước mặc chiếc váy cực kỳ ngắn. Ngài tỏ vẻ khó chịu bằng cách suốt cả bữa tiệc làm như không biết bà. Cuối bữa, ngài đưa cho bà một trái táo. Rất hân hạnh, bà nói:
- Tôi không biết phải cám ơn ngài như thế nào. Nhờ đâu tôi được ưu ái như thế?
Ngài chăm chăm nhìn bà rồi nói:
- Sau khi Eva ăn quả táo, bà mới nhận ra là mình thiếu quần áo. (Góp nhặt)
Suy Niệm 10: Mái ấm gia đình
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai vấn đề rất quan trọng trong nếp sống gia đình: ngoại tình và ly dị. Đây là hai vấn đề rất thời sự của xã hội hôm nay.
1. Về vấn đề ngoại tình. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã làm cho người nghe phải kinh ngạc. Theo Lời Chúa dạy thì tư tưởng cũng quan trọng như hành động. Chúa Giêsu dạy rằng, một người bị xét xử không chỉ vì những việc họ đã làm mà còn cả vì những ước muốn họ chưa thể hiện bằng hành động nữa. Như vậy, theo tiêu chuẩn của thế gian, một người không bao giờ phạm một điều cấm nào thì người đó là người tốt, còn theo tiêu chuẩn của Chúa Giêsu, thì chưa đủ. Theo Chúa, một người được coi là tốt khi người đó không những không làm mà ngay cả trong ước muốn người đó cũng không dám nữa. Đây là một ví dụ về tiêu chuẩn mới của Chúa Giêsu.
Luật pháp thiết định rằng: “Ngươi chớ phạm tội tà dâm “ (Xh 20,14).
Các giáo sư Do Thái cho tội này trọng đến nỗi can phạm có thể bị án tử hình (Lv 20,10).
Còn Chúa Giêsu lại dạy rằng: chẳng những hành động tà dâm bị cấm mà cả tư tưởng tà dâm cũng là phạm tội trước mặt Thiên Chúa.
2. Vấn Đề Ly Dị
Ở đây, Chúa Giêsu muốn thắt chặt lại đời sống hôn nhân mà con người thường hay có thái độ buông lỏng. Trong Cựu Ước, luật Môisen đã cho làm tờ ly dị và trong xã hội hôm nay, ly dị hầu như đã trở thành một nạn dịch vì nó quá phổ biến. Lý do là vì người ta sống quá tự do. Lấy nhau quá dễ dàng thì bỏ nhau cũng dễ dàng.
Bài Tin Mừng hôm nay là một lời mời gọi người Kitô hữu phải chú ý đến việc giáo dục hôn nhân và gia đình kỹ càng hơn. Phải chú trọng đến đời sống đạo đức, nghĩ đến hạnh phúc kẻ khác cũng như của con cái hơn là sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn mình.
Một họa sĩ nọ, suốt đời mơ ước sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất trần gian. Ông đến hỏi một vị giáo sĩ:
- Xin ngài cho con biết điều gì đẹp nhất trần gian ?
Vị giáo sĩ liền trả lời:
- Tôi nghĩ rằng: Điều đẹp nhất trần gian là niềm tin, bởi vì niềm tin nâng cao giá trị con người. Ông có thể tìm thấy niềm tin bất cứ nơi nhà thờ nào có những người họp nhau để cử hành và chia sẻ cơm bánh cho nhau.
Nhà nghệ sĩ chưa thỏa mãn, tiếp tục cuộc điều tra, ông đặt ra một câu hỏi tương tự với một cô dâu. Cô dâu trả lời:
- Tình yêu là điều đẹp nhất trần gian, bởi vì tình yêu làm cho đắng cay nên ngọt ngào, mang lại tiếng cười thay cho tiếng khóc, biến nghèo nàn thành giàu sang, làm cho điều bé nhỏ trở thành cao trọng. Cuộc sống sẽ nhàm chán nếu không có tình yêu.
Vẫn chưa thỏa mãn với điều mơ ước, nhà nghệ sĩ đến gặp một người lính chiến từ trận mạc trở về. Được vấn kiến, người lính chiến trả lời:
- Hòa bình là điều đẹp nhất trần gian, chiến tranh là điều bỉ ổi, ở đâu có hòa bình, ở đó có cái đẹp.
Sau khi nghe những lời phát biểu trên đây, nhà họa sĩ tự hỏi ? Làm sao có thể vẽ lại một lúc: Niềm tin, Tình yêu và Hòa bình. Về đến nhà, ông nhận ra niềm tin nơi ánh mắt con cái. Tình yêu trong cái hôn của người vợ. Chính niềm tin nơi con cái và tình yêu nơi người vợ làm cho tâm hồn ông tràn ngập hạnh phúc và an bình. Nhà nghệ sĩ chợt hiểu thế nào là điều đẹp nhất trần gian. Sau khi hoàn thành tác phẩm, ông đặt tên cho nó là: Mái ấm gia đình.
Mái ấm là mái nhà che mưa che nắng, là bốn vách che kín không để gió lùa vào, là chiếc thảm trên sàn nhà giữ cho khỏi giá băng, nhưng mái ấm gia đình không chỉ có thế mà còn hơn thế nữa. Đó là tiếng cười của em bé, tiếng hát của bà mẹ, sức mạnh của người cha. Đó là hơi ấm của những con tim biết yêu, là sự ân cần, là lòng chung thủy, là tình bằng hữu …Mái ấm gia đình là ngôi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ được học cho biết thế nào là điều ngay lẽ phải, thế nào là việc thiện, thế nào là lòng tử tế. Đó là nơi tuổi thơ tìm về khi đau khổ bệnh hoạn. Đó là nơi được chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền. Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương. Đó là nơi những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, vì là giá trị của mồ hôi và nước mắt. Mái ấm gia đình là nơi được Thiên Chúa luôn chúc phúc.
Lạy Chúa, dù xiêu vẹo dột nát, xin cho căn hộ gia đình chúng con luôn là một mái ấm đứng vững với niềm tín thác vào tình yêu của Chúa và được xây đắp không ngừng bằng tình yêu thương giữa mọi người chúng con. Amen.
09/06 Phải sống công chính hơn
- Viết bởi Mt 5, 20-26
Phải sống công chính hơn.
Thứ Năm tuần 10 thường niên.
"Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt".
Lời Chúa: Mt 5, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
"Các con đã nghe dạy người xưa rằng: "Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án". Còn Thầy, Thầy sẽ bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là "ngốc", thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là "khùng", thì sẽ bị vạ lửa địa ngục. Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chớ giết người
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Chớ giết người”, đó là một trong những giới luật quan trọng.
Dân Do thái đã nhận giới luật này từ Thiên Chúa
qua trung gian ông Môsê trên núi Xinai (Xh 20, 13; Đnl 5, 17).
Đức Giêsu không đến để bãi bỏ Luật Môsê.
Ngài nâng Luật này lên một tầng cao mới.
Không phải chỉ hành vi giết người mới là tội.
Ngay cả ai giận ghét anh em trong lòng
và biểu lộ ra bằng những lời nhục mạ, mắng chửi,
cũng phải chịu những hình phạt tương tự (c. 22).
Đức Giêsu đẩy giới răn này đến chỗ triệt để, tận căn.
Ngài tìm về cội nguồn của hành vi sát nhân nơi tâm con người.
Nếu lòng con người không còn giận ghét anh em,
và lời nói giữ được sự kính trọng, ôn hòa,
thì tội giết người hoàn toàn có thể tránh được.
Sống với nhau tránh sao khỏi những tranh chấp, cọ sát.
Đi làm hòa với người anh em trong cộng đoàn là điều khẩn trương.
Thậm chí phải để lại lễ vật sắp dâng trước bàn thánh
mà đi làm hòa với một người anh em đang bất bình với mình,
rồi sau đó mới trở lại dâng lễ vật cho Chúa (cc. 23-24).
Phải chăng người ta chỉ đến được với Chúa và được đoái nhận lễ vật
khi người ta đến được với anh em trong sự an hòa thứ tha?
Để đến được với người đang xích mích với mình,
cần khiêm hạ, ra khỏi mình và lên đường đến với người ấy.
Đi bước trước để đến với người khác, dù lỗi không thuộc về mình,
đó là cách làm hòa và làm lành những vết thương.
Hòa giải với tha nhân phải được coi là việc cần làm ngay
trước khi ta có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua việc dâng của lễ.
“Chớ giết người”, giới răn này xem ra bị coi nhẹ trong thế giới hôm nay,
một thế giới tự hào là văn minh, nhưng mạng sống con người bị rẻ rúng.
Những vụ phá thai, những tai nạn xe cộ mỗi ngày,
những cuộc chiến không ngừng giữa các quốc gia thù nghịch.
Bao cuộc khủng bố đã làm hàng ngàn người chết.
Những tội ác diệt chủng đã xóa sổ cả triệu con người.
“Chớ giết mình”, con người cũng không biết quý mạng sống mình.
Những vụ tự tử, những cái chết do sử dụng ma túy hay ăn chơi,
những bệnh tật do con người tự phá hoại thân xác mình.
Cain đã giết em là Abel vì ghen tương và giận dữ.
Tội ác đó vẫn xuất hiện mãi trên mặt đất cho đến nay.
Làm thế nào để ta biết trân trọng sự sống của người khác và của mình?
Làm thế nào để Thiên Chúa được nhìn nhận như Chủ Tể của sự sống?
Kitô hữu được mời gọi tôn trọng nhân vị của từng người,
trong trái tim, trong lời nói cũng như hành động .
vì mỗi người mang hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ. Amen.
Suy Niệm 2: Công chính hơn Biệt phái
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa kiện toàn Lề Luật để phù hợp với Nước Trời. Và môn đệ phải sống theo luật mới để công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu.
Luật cũ đòi buộc bên ngoài. Luật mới đòi buộc trong tâm hồn. Luật cũ cấm ghen ghét. Luật mới đòi yêu thương. Không chỉ cấm giết người. Mà còn cấm cả ghen ghét. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người…Còn Thầy, Thầy báo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”. Không những không được giận anh em. Mà còn không được để cho anh em bất bình với mình. “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”. Luật mới là luật yêu thương. Yêu thương không phải ở bề mặt. Mà phải từ đáy sâu tâm hồn. Như thế mới đẹp lòng Chúa. Là của lễ xứng đáng dâng Chúa. Mới công chính hơn kinh sư.
Đó là không còn sống theo xác thịt. Nhưng theo Thần Khí. Ê-li-a là người sống theo Thần Khí. Ông không để lòng giận ghét ai. Dù ông bị vua A-kháp và hoàng hậu I-de-ven làm hại. Ông chỉ làm theo lệnh Chúa. Xong việc rồi ông lại đối xử tốt với vua A-kháp. Khi Chúa tha tội, ban mưa xuống đất Do thái, Ê-li-a đã chăm sóc cho vua. Lo cho vua ăn uống cho kịp chạy mưa. Và khi mưa xuống ông chạy trước xe để tháp tùng vua theo đúng nghi lễ quân thần. “Vua A-kháp cỡi xe đi Gít-rơ-en. Tay Đức Chúa đặt trên ông Ê-li-a; ông thắt lưng và chạy trước vua A-kháp cho tới lúc vào Gít-rơ-en”. Đó quả là con người sống theo Thần Khí (năm chẵn).
Phao-lô cho biết lý do luật mới công chính hơn. Đạo cũ đọc Kinh Thánh qua một tấm màn. Còn đạo mới gặp trực tiếp với Chúa. Chúa là Thần Khí. Thần Khí là tự do. Nên tâm hồn không bị ràng buộc trong sự chết. Nhưng phản chiếu vinh quang Chúa Ki-tô. Tự do yêu thương. Vì thế Tin Mừng Chúa Giê-su bừng sáng lên. Tuy nhiên những ai sống theo xác thịt vẫn không nhìn thấy ánh sáng đó. Chỉ những ai sống theo Thần Khí mới bừng sáng lên. Sống theo Thần Khí. Con người tràn đầy tự do. Và tràn đầy yêu thương. Đó là công chính hơn biệt phái (năm lẻ).
Lạy Chúa xin “làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng con, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa, rạng ngời trên gương mặt Đức Ki-tô”.
Suy Niệm 3: Sự thánh thiện đích thực
Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau: tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.
Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:
- Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?
Người đàn bà trả lời:
- Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.
Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:
- Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người đàn bà liền nói:
- Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.
Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
- Thế bà cầu nguyện cho ai?
Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:
- Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.
Chân phước Marchello ngắt lời bà:
- Bà không cầu nguyện cho bà sao?
Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:
- Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.
Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.
Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: "Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời."
Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: "Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn" đó sao?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm mến được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thái độ nửa vời
“Anh em đã nghe người xưa rằng: “Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải lửa hỏa ngục thiêu đốt.” (Mt. 5, 21-22)
Làm như mọi người
Xã hội nào cũng có những luật lệ, quy tắc, những điều được làm, những điều cấm đoán, mà người ta phải tôn trọng, nếu không cuộc sống của người khác sẽ gặp trắc trở phiền hà. Nói chung mọi người đều được yêu cầu đừng vượt quá giới hạn. Phải giữ một mức cư xử tốt đẹp tối thiểu hoặc cùng lắm cũng phải tỏ ra có tình người thật.
Không ăn trộm ăn cắp, không làm thiệt hại tài sản người khác, không mưu hại mạng sống và sức khỏe của ai, không làm giầu cách gian lận, tuân theo luật lệ giao thông. Đó là đại khái những loại luật lệ quy tắc mà ta phải tuân thủ. Khi chu toàn được những điều này – tuy không phải lúc nào cũng dễ dàng – ta thường khá hài lòng về mình. Thiên hạ coi những ai giữ trọn được như vậy, chẳng phải anh hùng thì ít ra cũng là những con người lương thiện, những công dân tốt.
Làm hơn được chăng?
Chúa Giêsu còn đòi hỏi nhiều hơn thế. Chúa đòi hỏi những ai tin vào Người phải có lòng tốt, lòng quảng đại, sự hiến thân mỗi ngày phải tiến xa hơn nhiều. Xã hội bất quá kêu gọi tôn trọng công bình. Còn Chúa Giêsu lại mời gọi người ta sống yêu thương. Dưới con mắt Chúa, công bình chỉ là một thái độ nửa vời, hoặc nên gọi là không trọn mức cũng được. Nếu chỉ cư xử với nhau theo đức công bình, ta chỉ mới được nửa đường tới dích thôi. Chúa mốn ta giữ đức công bình được tình yêu làm cho thăng hoa tốt đẹp. Đành rằng phải có đức công bình để con người có thể cùng nhau chung sống, nhưng không đủ cho con người được sống hạnh phúc.
Chúng ta thường chỉ coi đức công bình là đủ, như vậy là ta cũng chỉ có thái độ nửa vời. Những người có thái độ nửa vời, sẽ chẳng được vào Nước Trời đâu.
Suy Niệm 5: Hãy trở nên công chính hơn
Xem lại thứ Sáu tuần 1 MC
Cuốn sách: “Những căn bệnh trầm kha trong đời sống đức tin Công Giáo tại Việt Nam”, ở phần dẫn nhập, tác giả kể một câu chuyện đại khái thế này: có một người giàu có, cuộc sống sung túc, và ông ta có rất nhiều vợ. Mỗi người đều có cơ ngơi riêng. Khi gần qua đời, ông ta tin vào Chúa, theo đạo Công Giáo và được Rửa tội...
Khi nghe câu chuyện ấy, một người Công Giáo đã thốt lên ngay: “Ông này hên thật, được cả đời này lẫn đời sau!”
Điều ấy cho thấy khá rõ hiện trạng đời sống đức tin của người Kitô hữu Việt Nam: đạo không phải là một hồng phúc, nhưng là một sự may rủi, đôi khi trở thành gánh nặng!
Hôm nay, Đức Giêsu muốn giúp cho các môn đệ đi một bước xa hơn trong việc giữ Luật. Ngài nói: "Nếu các con không công chính hơn các Luật Sĩ và Kinh Sư, các con sẽ chẳng thể vào được Nước Trời" (Mt 5,20).
Nước Trời không thể có cho những người “bắc nước trực gạo người” hay “há miệng chờ sung rụng”. Nước Trời cũng không dành cho những người vụ Luật và chỉ biết sống cho chính mình mà không cần quan tâm đến anh chị em đồng loại.
Vậy, để như điều kiện cần cho được vào Nước Trời, đó chính là phải sống thật tâm, sống hết mình với Chúa và với nhau. Tức là tất cả phải được xây dựng trên tình yêu. Nếu có tình yêu, thì đâu còn chuyện giết hại lẫn nhau; đâu còn mắng chửi nhau là ngu là ngốc; và làm sao đến dâng lễ vật mà trong lòng còn căm ghét anh chị em mình... Hãy sống với giây phút hiện tại và thánh hóa chúng, vì đối với Thiên Chúa, Người không tính thời gian hay công việc, mà Người nhìn tận sâu thẳm của tâm hồn con người nơi công việc hay suy nghĩ của họ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã chỉ ra cho chúng con con đường để được cứu độ, đó là con đường yêu thương. Xin cho chúng con biết đi trên con đường đó cho đến hết đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Sống luật yêu thương cách cụ thể
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Luật yêu thương Chúa Giêsu dạy cần thực hiện cách cụ thể: sống hòa thuận và biết tha thứ. Ta cần phải sống yêu thương tha thứ như lễ vật dâng Chúa mỗi ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, con hân hoan dâng Cha tâm tình yêu mến cùng với anh em con. Hôm nay, con không đến với Cha một mình, nhưng con đến cùng với anh em khác.
Lạy Cha, trên đường đến với Cha, con còn gặp biết bao trở ngại từ chính con. Con chưa hòa hợp được với anh em. Con còn khó chịu với người bên cạnh. Nhưng Cha muốn con nắm chặt tay bạn bè trong tình thương mến. Cha muốn con đi bước trước đến với người bất hòa với con, làm hòa với họ trước khi đến với Cha.
Lạy Cha, con chiêm ngưỡng hy lễ tuyệt hảo của Con Cha trên thập giá, hy lễ của Chúa Giêsu. Trước khi hoàn tất hy lễ ấy, chung quanh thập giá đông vô kể những kẻ bất bình và thù oán, họ đang hả hê vì đã giết được Ngài. Con Một Cha đã ngước mắt lên thưa với Cha: “Lạy Cha xin tha cho họ”. Thật là cao cả. Chính Thiên Chúa đã làm hòa với người đang cướp mất mạng sống mình. Lạy Cha, đây chính là lý do duy nhất thôi thúc con tha thứ cho anh em. Tha thứ không phải là nhát đảm nhưng là hành động anh hùng, không phải là thua thiệt, nhưng là nhận được nhiều hơn. Cùng với hy lễ thập giá của Chúa Giêsu, hôm nay, con xin dâng Cha không phải chỉ lời cầu nguyện, không phải chỉ tâm tình yêu mến, nhưng xin dâng lên Cha lòng quảng đại tha thứ cho anh em. Amen.
Ghi nhớ : “Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt”.
Suy Niệm 7: Ta muốn lòng nhân từ
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Lần đầu tiên một buổi lễ được trực tiếp truyền thanh cho cả thế giới theo dõi là lễ đăng quang của vua George VI của Vương quốc Anh.
Trong lễ đó, có nghi thức Đức Tổng giám mục Canterbury trao cho nhà vua cuốn Kinh Thánh và nói: “Thưa Hoàng đế cao cả, chúng thần xin trình Ngài cuốn sách này. Đây là báu vật cao quý nhất trên thế giới. Sự khôn ngoan ở đây, quy luật của hoàng gia cũng ở đây. Đây là những lời hằng sống của Thiên Chúa”.
Suy niệm
Luật lệ tự nó tốt nhưng không hoàn hảo. Lề Luật luôn là phương tiện chứ không là cứu cánh, như Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát” (Mc 2,27). Chúa Giêsu đến để kiện toàn thái độ và áp dụng tinh thần của luật là dẫn đến tình thương, cho nên, luật của Đức Kitô hoàn thiện và “trội hơn” Luật cũ, khi Đức Giêsu đề nghị không chỉ sống theo luật nhưng sống theo luật với ân sủng và tình yêu, cho nên, luật vì con người. Chúa Giêsu mời gọi không dừng lại ở những việc làm hình thức mà phải “công chính hơn” tới mức hoàn thiện “như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Trong tinh thần luật vì con người như Chúa Giêsu nói: “Con người làm chủ ngày Sabát” (Lc 6,9), Chúa Giêsu tiến xa và hoàn thiện luật, sự hoàn thiện đó đã thiết lập Luật Mới, khi Ngài dạy hãy biến “ách nặng nề, nô lệ” của Luật Cũ thành “sự tự do vui thỏa” trong Chúa Thánh Thần. Đừng câu nệ chỉ ở nơi chữ viết ràng buộc nhưng cảm nghiệm sâu xa từ trái tim mình là chủ đích của luật Chúa. Chúng ta thấy rõ minh họa đầu tiên qua “mối tương giao huynh đệ”: Thập giới truyền bảo “ngươi không được giết người’ ?. Còn Chúa Giêsu, đi đến cùng đích đòi hỏi của Lề Luật, khi tuyên bố rằng, việc không phạm tội sát nhân: Chưa đủ, mà còn phải loại bỏ nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa: “Các con đã nghe người xưa dạy rằng ‘Không được giết người, … còn Ta, Ta bảo thật bất cứ ai phẫn nộ với anh chị em mình, thì sẽ bị phạt nơi tòa án…” (Mt 5,21-22).
Thật thế, trong sự hoàn thiện của luật, không chỉ giết người mới được coi là phạm luật, phải ra toà mà ngay cả thái độ giận dữ, hay buông lời nhục mạ anh em thì đã được coi là vi phạm luật. Và có ý muốn ngoại tình là đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi (x. Mt 5,27). Thậm chí chưa tích cực giải hòa với một người anh em đã gây căng thẳng, bất bình, cũng coi như là phạm Luật, không còn quyền dâng của lễ cho Thiên Chúa. Cho nên, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để lễ vật lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Chúa Giêsu đến để làm trọn Lề Luật trong tinh thần của luật yêu thương, có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích Lề Luật rắc rối bên ngoài làm cho con người trở nên vụ lợi và hình thức mà Chúa Giêsu đã kết án: “Khốn cho các ngươi giả hình, như má tô vôi, bên ngoài trắng trẻo mà bên trong thối tha” (Mt 23,13-36).
Đức Giêsu kiện toàn Lề Luật bằng cách thổi tình yêu của Ngài vào luật pháp khi nhấn mạnh đến điều cốt lõi: “Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải hi tế”. Ngài khẳng định giới răn trọng nhất mà toàn bộ Lề Luật và tiên tri đều quy về yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình (x. Mt 22,34-40). Chính Ngài đã kiện toàn giới răn cao cả ấy bằng cách tự hiến đời mình. Phần các môn đệ là chúng ta, kiện toàn Lề Luật khác hẳn việc tuân thủ các giới luật và mệnh lệnh của Chúa Kitô.
Ý lực sống:
“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người pharisiêu,
thì sẽ chẳng được vào nước Trời”. (Mt 5,20)
Suy Niệm 8: Đức công chính của người môn đệ (Mt 5,20-26)
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Hôm nay Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: Phải công chính hơn những người biệt phái và luật sĩ. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào cả, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.
Tại sao Chúa Giêsu đòi các môn đệ Ngài phải công chính hơn người biệt phái?
Thưa bởi vì, theo họ, thánh thiện là chu toàn cách chi li và máy móc những luật lệ đã được qui định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Đả phá quan niệm và cách thực hành của những người biệt phái và luật sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người biệt phái, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: “Nếu các con không ăn ở công chính hơn những biệt phái và luật sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước trời”.
Không dùng gươm giáo hay bất cứ vũ khí hoặc phương tiện nào để đổ máu, kết liễu mạng sống người khác, làm như thế, những người luật sĩ và biệt phái cho rằng đã là tuân thủ đúng luật Maisen là “Chớ giết người”. Không sai! Nhưng Chúa Giêsu muốn các môn đệ Ngài phải công chính hơn thế, khi Ngài dạy giữ luật ngay từ ý hướng bên trong, vì đó là căn cội dẫn đến hành vi biểu hiện bên ngoài: có loại trừ được lòng giận ghét thì mới không mắng chửi người khác, và như thế mới loại trừ được một động cơ quan trọng dẫn đến tội sát nhân. Giận dữ, mắng chửi đã là giết người trong tư tưởng rồi. Đàng khác, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm người khác còn gây ra đau khổ nặng nề hơn cả việc làm hại đến thân thể tha nhân (5 phút Lời Chúa).
“Chớ giết người”, chúng ta phải hiểu thế nào?
Luật Maisen qui định kẻ giết người phải bị đem ra toà xử, và tùy nghi luật lấy lại sự công bằng đúng sai xét về mặt xã hội và được áp dụng mắt đền mắt răng đền răng khi phạm nhân đã hành động sai.
Sự kiện toàn của luật Tin mừng không chỉ dừng lại ở hành động cụ thể tay chân mới là tội, và ngay cả việc giận hờn mắng nhiếc nhau đã xứng bị đem ra hội đồng và đáng phải sa hỏa ngục rồi. Thật vậy, giết nhau không chỉ dừng lại ở thể xác, nhưng bằng lời lẽ và hiến kế thâm độc còn đáng sợ hơn biết chừng nào...
Sự kiện toàn không chỉ dừng lại ở tính tương quan con người, mà là thành tương quan đối với Thiên Chúa, xúc phạm đến nhau tức là xúc phạm đến Thiên Chúa và xứng đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.
“Vậy nếu khi anh em sắp dâng lễ vật”
Việc bất bình ở đây hiểu thế nào?
Có thể xảy ra trường hợp một người thù ghét chúng ta mà không vì lỗi chúng ta. Đó không phải là vấn đề ở đây. Chính Chúa Giêsu cũng đã có những kẻ thù hung dữ, tàn bạo, tuy Ngài không hề có lỗi gì với họ. Vậy đừng lo lắng khi mình khám phá ra chung quanh mình có người nào đó cư xử với chúng ta như là có điều gì bất bình với chúng ta , mặc dầu chúng ta không làm điều gì phiền lòng họ. Trong trường hợp này, nếu chúng ta có thể đi bước đầu dàn xếp sự việc thì càng tốt, nếu không thể làm điều đó, hãy giao phó sự việc cho Chúa.
Nhưng điều Chúa Giêsu đòi hỏi là: để đến gần Chúa, chúng ta không được là nguyên nhân phát sinh bất công hay thiếu bác ái làm đau lòng người anh em. Điều này Chúa muốn dạy chúng ta.
Nếu có bất hoà xảy ra, thì phải mau chóng đi làm hoà ngay. Sự làm hoà này cần kíp và cấp bách như một điều kiện cần phải làm trước khi làm việc phụng thờ Thiên Chúa.
Không những không được thù oán, gây bất hoà với ai, mà còn không được là đối tượng cho lòng thù oán mà chúng ta có thể gây ra cho kẻ khác.
Ngay ở đời này, chúng ta phải cố hòa giải với Chúa bằng cách sống hòa thuận với nhau, chớ đợi đến đời sau, kẻo sẽ gặp án phạt rất nghiêm ngặt, vì đời này là chỗ tha thứ, đời sau là nơi thưởng phạt (Trần Hữu Thành).
Truyện: Hoà giải trước vị thần
Một trong những đền thờ cổ nói lên tinh thần của người Rôma xưa, đó là đền thờ dâng kính nữ thần có sứ mệnh hoà giải loài người với nhau, nhất là những đôi vợ chồng bất hoà.
Người Rôma xưa coi định chế hôn nhân là điều quan trọng trong sinh hoạt chính trị, xã hội; do đó, họ rất quan tâm đến việc bảo toàn gia đình. Khi hai vợ chồng bất hoà và như vậy có thể nguy hại cho đời sống gia đình, người ta khuyên họ đến trình diện nữ thần hòa giải.
Nghi thức diễn ra trước nữ thần rất đơn sơ: mỗi người có thể trình bày lý lẽ, phơi bày những bất công mà mình phải gánh chịu trong đời sống gia đình. Nghi thức đòi hỏi hai người không được nói một lúc, hễ ai ngắt lời người kia hoặc cả hai cùng nói một lúc thì điều đó bị coi như phạm thánh.
Nghi thức này có thể mang đến những kết quả phi thường: sau khi trình bày lý lẽ, rủa xả thậm tệ người phối ngẫu, bác bỏ mọi lời buộc tội, hai vợ chồng thường làm hoà với nhau trước mặt vị thần.
Suy Niệm 9: Lý tưởng sống cho người môn đệ
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: phải công chính hơn những người biệt phái. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.
Sau đó Chúa Giêsu đưa ra thí dụ về cách giữ một số khoản luật:
Luật “không được giết người”: môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.
Luật dâng lễ vật: lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy lòng yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hòa giải với người anh em nào có chuyện bất hòa với mình.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Có hai thứ thước để đo mức công chính. Thước đo của người biệt phái là xem mình có giữ luật đàng hoàng hay không; thước đo của người môn đệ Chúa là xem mình có sống trọn tình yêu thương không. Tôi thường dùng thứ thước nào ?
2. Cách nói cường điệu của Chúa Giêsu khi giải thích các khoảng luật “chớ giết người” cho tôi thấy thêm được rằng giận, mắng và chửi người anh em cũng là một cách giết chết người đó. Giết chết người anh em bởi vì tôi không coi người đó là anh em nên mới nặng lời như thế. trong lòng tôi “người anh em” kể như đã chết rồi, chỉ còn là một người dưng, một kẻ thù.
3. Nếu Chúa đã chọn việc làm hòa trọng hơn của lễ, thì tôi có biết bao của lễ có sẵn hàng ngày chung đụng và nhiều va chạm này. Sao tôi không dâng cho Chúa ?
4. “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21)
Phần lớn chúng tôi, những người trẻ, không giết người nhưng lại “giết” mình. Tội ấy có đáng xét xử không ? Chúng ta ít hỏi mình như thế bởi vì còn đắm say với men rượu, men tình trong những cuộc ăn chơi phóng túng. Kết cuộc là hủy hoại thân xác và tâm hồn, trí não và tương lai của mình cách thảm hại.
Lạy Chúa, xin cho giới trẻ chúng con biết quý trọng sự sống, và giúp nhau vun trồng sự sống, sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng con. (Hosanna)
Suy Niệm 10: Giữ luật với tâm tình yêu thương
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: phải công chính hơn những người Pharisêu. Công chính của người Pharisêu là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào. Việc giữ luật đó chỉ là máy móc không một chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa phải được thể hiện qua việc giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương.
Sau đó, Chúa Giêsu đưa ra vài thí dụ về cách giữ một số khoản luật:
Thí dụ, luật “không được giết người”: môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.
Hay luật dâng lễ vật: lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy lòng yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hòa giải với người anh em nào có chuyện bất hòa với mình đã.
2. Như vậy ở đây, theo ý của Chúa, ta thấy có hai thứ thước để đo mức công chính. Thước đo của người Pharisêu là xem mình có giữ luật đàng hoàng hay không; còn thước đo của người môn đệ Chúa là xem mình có sống trọn tình yêu thương hay không. Chúng ta thường dùng thứ thước nào ?
Trong một làng nọ, có ba người bạn đã quen biết nhau từ lâu:
- Ablin là người thợ rèn.
- Ali làm ruộng.
- Carin là thầy lang.
Ablin, người thợ rèn có tính nóng nẩy, hay say rượu và lười biếng. Còn Ali thì có lòng kính sợ Chúa và ngày ngày từ sáng sớm đến chiều tối, ông chăm chỉ làm việc trên cánh ruộng để có đủ cơm ăn áo mặc cho gia đình. Người ta thấy đôi lúc Ali cũng nổi sùng với những người hàng xóm chung quanh, nhưng cách chung ai cũng phải công nhận ông là người tốt bụng và không hề lường gạt ai. Và cuối cùng, là Carin, một thầy lang nổi tiếng là thánh thiện. Kẻ ốm đau nhất là những người từ ở nơi xa đến, chỉ cần nhìn thấy gương mặt hiền hậu của ông cũng đủ khỏi bệnh.
Nhưng không hiểu vì lý do gì mà cả ba người đều mắc bệnh phong cùi trong cùng một ngày. Dĩ nhiên theo luật pháp và vì lợi ích của dân làng, họ phải bị trục xuất ra khỏi làng và người ta đã dựng cho ba người một túp lều để họ có chỗ che nắng che mưa.
Một hôm, cả ba người nằm ngủ và mơ thấy Chúa. Chúa phán với họ: “Hãy cầu xin cho được lành bệnh”. Sáng thức dậy, họ thuật lại giấc mơ của mình cho nhau nghe và vui mừng vì biết chắc đó là điều Chúa muốn. Họ quyết tâm cùng cầu xin Chúa như Ngài đã phán bảo họ.
Sau ba ngày, người thợ rèn, Ablin, được khỏi bệnh, khỏe mạnh và trở về làng trước. Ông tự nhủ trong lòng: không hiểu vì sao mà mình được Chúa thương nhất trong ba người.
Sau ba tháng, thì đến lượt bác nông phu là Ali, cũng được lành bệnh và trở về làng. Trên đường về ông thầm nghĩ là mình được Chúa yêu thương hơn là ông bạn thầy lang. Ông ấy vẫn còn đang bị bệnh! Thật tội nghiệp. Rồi ông tự nhủ với lòng của mình: phải chăng tiếng đồn về lòng nhân đức của thầy lang đều là sai hay sao! Nếu quả ông ta là người thánh thiện, được Chúa thương thì ông phải được Chúa chữa lành bệnh trước chớ. Còn mình, tại sao mình chính trực hơn tên thợ rèn mà cũng phải chờ đến ba tháng.
Ngày tháng trôi qua, năm này đến năm khác, ông thầy lang vẫn còn bị bệnh phong cùi hành hạ, ngày càng thêm ghê tởm và bác nông phu không sao giải thích được điều thắc mắc đó.
Một hôm, đang nằm ngủ ông nghe tiếng Chúa phán bảo:
- Ali, Ta biết rõ trong lòng con vẫn đang thắc mắc về số phận của Carin. Tại sao một con người tệ hơn con như Ablin lại được khỏi bệnh trước, mà Carin là người thánh thiện hơn con lại bị bệnh lâu như vậy. Hãy nghe đây: Sở dĩ ta nghe lời Ablin mau mắn như vậy chỉ vì sự yếu đuối của hắn. Nếu Ta để lâu hơn hắn sẽ ngã lòng thất vọng, không còn tin tưởng vào Ta nữa. Trong trường hợp của con, nếu Ta để lâu hơn ba tháng nữa thì con cũng ngã lòng thất vọng. Trái lại, lòng tin tưởng của Thầy Carin rất mạnh. Ta có thể làm ngơ như không nghe thấy lời Carin cầu xin, vậy mà Carin vẫn không thất vọng, bởi vì Carin là bạn thân của Ta, nên đã hiểu lòng Ta và vì Ta đã trở thành mọi sự cho Carin rồi”.
Sáng hôm sau, Ali giật mình thức dậy, bên tai vẫn còn nghe rõ ràng Lời Chúa cắt nghĩa và ông tự hỏi: “Biết đến bao giờ Chúa mới trở nên mọi sự, trở nên tất cả cho đời tôi. Tình yêu Chúa thật bao la và mầu nhiệm biết bao. Làm sao con có thể hiểu được Chúa cư xử như vậy với những bạn thân tình của Chúa. Thế mà con cứ ngỡ rằng: họ là những người bị Chúa quở phạt”.
Vâng, người công chính là người biết đặt Chúa lên trên tất cả mọi sự và trên cà cuộc đời của mình.
08/06 Kiện toàn lề luật
- Viết bởi Mt 5, 17-19
Kiện toàn lề luật.
Thứ Tư tuần 10 thường niên.
"Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn".
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn.
Vì Thầy bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Để kiện toàn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ. )
Đã có thời người ta nghĩ rằng theo Công giáo là bất hiếu,
vì phải từ bỏ việc cúng giỗ cha mẹ tổ tiên.
Nếu người chết cũng có nhu cầu ăn uống tiêu dùng như người sống,
thì hiếu thảo đòi phải lo cho người đã khuất được đầy đủ, ấm no.
Nhiều người không dám theo đạo,
vì sợ theo đạo thì không được cúng giỗ tổ tiên, phải bỏ ông bà.
Vào thời thánh Mátthêu, một số người Do thái cũng có nỗi sợ tương tự.
Họ tin vào Đức Giêsu và muốn trở thành môn đệ của Ngài,
nhưng họ lại sợ làm thế là bỏ đạo của cha ông, bỏ Do thái giáo.
Họ sợ giáo huấn mới mẻ của Đức Giêsu làm họ bỏ Luật Môsê,
và không còn thuộc về dân Thiên Chúa nữa.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu khẳng định :
“Đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hay lời các Ngôn sứ.
Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (c. 17).
Luật Môsê thật ra là Luật của Thiên Chúa trao qua trung gian ông Môsê.
Môsê đã làm nhiệm vụ trao lại cho dân Do thái và giải thích Luật ấy.
Người Do thái từ bao đời đã giữ Luật theo lời giải thích của Môsê.
Bây giờ có một Đấng mới xuất hiện, là Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa.
Ngài biết rõ ý định của Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Đức Giêsu không gạt bỏ Luật của Thiên Chúa được trao cho Môsê.
Nhưng Ngài sẽ giải thích lại Luật ấy cho đúng với ý Thiên Chúa,
vì chẳng ai biết rõ ý Cha bằng Con.
Trong Bài Giảng trên núi mà ta sắp nghe trong những ngày tới,
ta sẽ thấy Đức Giêsu giải thích lại Luật Môsê như thế nào.
Hành vi đó được gọi là kiện toàn hay hoàn chỉnh.
Một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ đã được mở ra với Đức Giêsu.
Giai đoạn chung cục này vừa liên tục, vừa vượt quá giai đoạn cũ.
Đức Giêsu mời chúng ta tuân giữ nghiêm túc Luật Thiên Chúa đã ban,
nhưng theo cách giải thích mới mẻ, hoàn chỉnh và có thẩm quyền của Ngài.
Muốn trở nên hoàn thiện, muốn đón nhận Nước Trời do Ngài khai mở,
cần sống Luật Tôra đã được Ngài giải thích lại.
Người Kitô hữu gốc Do thái khi theo Đức Giêsu thì chẳng sợ mình bỏ đạo,
bỏ Lề Luật, bỏ các Ngôn sứ hay truyền thống của cha ông
Giáo huấn của Đức Giêsu đã chứa đựng cốt lõi tinh túy của Luật ấy rồi.
Làm thế nào để các Kitô hữu Á Châu cảm thấy đức tin của mình
không tạo ra sự xung đột hay đoạn tuyệt
với những giá trị của nền văn hóa mình đã lãnh nhận và đã sống?
Làm sao để mình sống viên mãn là một Kitô hữu, một người Công Giáo Rôma,
mà vẫn chẳng mất căn tính là người Việt Nam hay người Châu Á?
Chỉ cần một điều kiện, đó là thấy Kitô giáo không phá bỏ, nhưng kiện toàn
tất cả mọi giá trị cao quý có trong các nền văn hóa và tôn giáo khác.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa,
Chúa đã muốn trở nên con của loài người,
con của trái đất, con của một dân tộc.
Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa
dù họ từ khước Tin Mừng
và đóng đinh Chúa vào thập giá.
Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu
sau những năm dài chiến tranh,
một quê hương đang mở ra trước thế giới
nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc
và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên
trong sự an toàn và tiện nghi vật chất,
nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau,
và làm một điều gì đó thật cụ thể
cho những đồng bào quanh chúng con.
Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước
bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn
cộng tác với muôn người thiện chí. Amen.
Suy Niệm 2: Kiện toàn lề luật
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thấy Chúa Giê-su hành xử khá tự do. Chữa bệnh ngày sa-bát. Không ăn chay. Lui tới với người tội lỗi, phong cùi. Nhiều người nghĩ rằng Chúa đến để phá huỷ Lề Luật. Nhưng hôm nay Chúa minh định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Chúa kiện toàn thế nào? Có ba yếu tố cơ bản. Kiện toàn bằng tình yêu. Xưa kia luật là cứng ngắc. Khắt khe. Không nhân nhượng. Nhưng Chúa đã cho biết nền tảng của Lề Luật là tình yêu. Phải giữ luật vì lòng yêu mến. Mến Chúa và yêu người. Như Chúa dạy: “Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ”. Thậm chí Người còn ban hẳn một điều răn mới thay cho các điều răn cũ. Đó là phải thương yêu. Kiện toàn bằng lòng thương xót. Xưa kia máy móc nghĩ rằng cứ giữ luật là nên công chính. Tôi có thể tự mình nên công chính. Nay phải cậy nhờ lòng thương xót của Chúa. Chỉ nhờ lòng thương xót của Chúa tôi mới có thể được ơn cứu độ. Kiện toàn bằng Thần Khí. “Lời Chúa là Thần Khí và là sự sống”
Ê-li-a là người đầy Thần Khí và có lòng yêu mến lớn lao nên dám hi sinh tính mạng khi chống lại hoàng hậu I-de-ven độc ác. Cả nước đã theo hoàng hậu mà thờ thần Ba-an, nhưng Ê-li-a, với lòng yêu mến Chúa trung tín, vẫn tuân giữ lề luật của Chúa. Ông tin tưởng vững vàng vào lòng thương xót của Chúa nên dám thách thức các sư sãi của Ba-an trong một buổi cầu nguyện dâng hi lễ công khai trước mặt toàn dân. Tin tưởng và khiêm nhường, ông đã cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa, và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này”. Vì thế Chúa đã nhận lời ngài. Cho lửa bởi trời xuống thiêu đốt lễ vật ông dâng. Và toàn dân đã lấy lại được niềm tin. “Toàn dân thấy vậy, liền phủ phục sát đất và nói: “Đức Chúa quả là Thiên Chúa!” (năm chẵn).
Thánh Phao-lô cho biết Chúa kiện toàn bằng Thần Khí. Giao Ước cũ căn cứ trên chữ viết. Giao Ước dựa vào Thần Khí. Chữ viết thì giết chết. Thần Khí mới ban sự sống. Chữ viết thì mau qua. Thần Khí thì vĩnh cửu. Vì thế Giao Ước mới là hoàn hảo. Và người phục vụ Giao Ước mới cũng sẽ được vinh quang. “Nếu việc phục vụ Lề Luật – thứ Lề Luật chỉ đưa đến sự chết và được khắc ghi từng chữ trên những bia đá – mà được vinh quang đến nỗi dân Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi vinh quang – dù đó chỉ là vinh quang chóng qua -, thì việc phục vụ Thần Khí lại không được vinh quang hơn sao…Thật vậy nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang, thì cái còn mãi lại chẳng vinh quang hơn sao”? (năm lẻ).
Suy Niệm 3: Kiện toàn lề luật
Luật cơ bản nhất trong đời sống tu trì vốn là luật bác ái và nền tảng của luật này là sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau. Sự kiện này tiêu biểu cho chính sự tuân hành luật lệ trong Giáo Hội. Giáo Hội có luật lệ, nhưng không bao giờ dùng sức mạnh đe dọa để cưỡng bách người tín hữu tuân hành. Tinh thần đích thực của việc tuân hành luật lệ trong Giáo Hội chính là tình mến; không có tình mến, thì một bộ luật, dù hoàn hảo đến đâu, cũng không khác gì một cây khô héo.
Ý nghĩa và tinh thần ấy của luật lệ, chúng ta có thể đọc được trong Tin Mừng hôm nay. Những người Biệt phái, nhất là các Luật sĩ, vốn là những người rất trung thành với lề luật, họ tuân giữ luật lệ không thiếu một chấm, một phết. Nhưng đàng sau sự trung thành ấy có hàm ẩn tự mãn: họ cho rằng trung thành với lề luật là đương nhiên trở thành người công chính, và vì nghĩ mình là người công chính, nên họ lên mặt khinh dễ những người không tuân giữ luật lệ một cách nghiêm chỉnh như họ.
Chúa Giêsu không phải là người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Môsê truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến.
Luật lệ vốn là lời loan báo của các tiên tri về Ðấng Cứu thế, do đó luật lệ có tính tiên tri. Khi chu toàn lề luật, Giáo Hội chứng tỏ cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng các tiên tri đã loan báo. Như vậy, một cách nào đó, khi người Kitô hữu tuân hành lề luật, họ cũng loan báo chính Chúa Kitô, nhưng dĩ nhiên, họ chỉ có thể loan báo về Ngài khi việc tuân giữ của họ thể hiện được chính tinh thần của Ngài. Xét cho cùng, đối với người Kitô hữu, tuân giữ lề luật là mặc lấy tâm tình của Chúa Kitô, là sống như Ngài, là trở thành hiện thân của Ngài.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn ý thức sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta và ban sức mạnh để chúng ta chu toàn lề luật của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Rắc rối yêu thương
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ. Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt. 5, 17)
Quá nhiều luật lệ!
Hai mươi hoặc ba mươi năm vè trước, người Kitô hữu phải tuân giữ nhiều luật lệ và điều răn hơn hôm nay. Điều gì phải làm hay không được làm đều đã được phân định rạch ròi đến từng chi tiết. Thời ấy người ta rất tỉ mỉ, phải nói là quá tỉ mỉ nữa.
Khoảng mấy năm gần đây, nhiều sự đã thay đổi. Hôm nay người ta thường nghe nói rằng chẳng còn luật lệ gì nữa. Có người tiếc rẻ, người khác lại vui mừng. Những người luyến tiếc mạnh miệng nói rằng Giáo hội bây giờ dễ dãi quá, để mặc cho ai nấy muốn làm gì thì làm.
Đức Giêsu với lề luật
Chúa Giêsu bảo ta rằng “dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, cũng không được bãi bỏ”. Nói được rằng Chúa Giêsu ủng hộ việc có nhiều luật lệ và điều răn chăng? Chắc chắn là không.
Như ta biết, đối với Chúa Giêsu chỉ có một điều răn thâu tóm mọi điều răn khác. Đó là điều răn dạy phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Nhưng bởi chỉ có một điều răn nền tảng, thì không có nghĩa là không có điều răn nào khác cũng quan trọng.
Để yêu thương như Chúa muốn, người ta không thể giữ mực chung chung, mà phải đi vào cụ thể, phải chú ý đến cả những điều nhỏ nhặt. Tình yêu được hình thành từ vô vàn những sự chăm chú, từ vô số những cái tế nhị, từ ngàn lẻ một những chuyện nhỏ nhặt. Ta đừng tin những ai nói mình yêu Chúa yêu anh em mà lại bất chấp mọi điều khác.
Những điều răn nhỏ nhất phải tuân giữ mà Chúa nói đến ở đây, chính là những điều tế nhị phải có trong khi yêu thương vậy.
Suy Niệm 5: Giữ luật theo tinh thần của Chúa
Xem lại CN 6 TN A, Thứ Tư tuần 3 MC
Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quý hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là Lề Luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chiếc nhẫn thần đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc?
Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ trong ngày Sabát, giới lãnh đạo Dothái tỏ vẻ khó chịu và nghi ngờ việc Đức Giêsu bất chấp Lề Luật. Thấy được sự sầm sì của họ, Đức Giêsu lên tiếng dạy các môn đệ và cũng một cách gián tiếp giáo huấn những người Pharisêu: "Các con đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề Luật hay Lời các ngôn sứ; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn" (Mt 5,17). Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn mặc cho Lề Luật một ý nghĩa mới, đó là Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Khi Luật vì con người, thì tình yêu sẽ vượt lên trên Lề Luật, còn khi con người vì Luật, thì chính Luật sẽ đè bẹp và giết chết con người trong sự vô nhân đạo.
Lạy Chúa Giêsu, xin đừng để chúng con tuân giữ Lề Luật của Chúa trong sự ép buộc, nhưng là trong lòng mến, để qua đó, nhờ Lề Luật mà làm cho chúng con được gần Chúa và anh chị em chúng con hơn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Giữ luật theo ý Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu kiện toàn luật Cựu ước, vì Người cho ta hiểu được ý nghĩa của lề luật, và vì Người thực hiện những lời tiên báo trong Cựu ước. Phải giữ luật theo ý hướng của Chúa Giêsu thì mới trở nên công dân Nước Trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa ban lề luật cho con là để con được tự do, được nên thánh, lề luật của Chúa là những bậc thang vững chắc đưa con đến với Chúa, đưa con vào Nước Trời.
Thế nhưng nhiều khi con có cảm tưởng luật Chúa ràng buộc con, làm con mất tự do thoải mái trong cuộc sống. Nhiều khi con cảm thấy nặng nề khi đi lễ ngày Chúa nhật. Nhiều khi con thấy luật hôn nhân công giáo giới hạn tự do của con. Nhiều khi luật Chúa đưa con đến những chọn lựa khó khăn và ngăn cản con chọn những giải pháp dễ dãi.
Với Lời Chúa hôm nay, con muốn đặt niềm tin vào Chúa. Chính vì yêu thương mà cha mẹ cấm cản hoặc truyền dạy con cái làm điều này điều nọ. Cũng vậy, con xác tín rằng chính vì yêu thương và muốn con sống tốt mà Chúa ban luật Chúa cho con. Xin cho con biết tin vào Chúa và vào tình thương của Chúa để con yêu mến và sống theo luật Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con tinh thần tôn trọng lề luật Chúa. Chắc chắn con sẽ phải hy sinh ý riêng mình rất nhiều, nhưng con tin rằng khi con hết lòng với Chúa, Chúa sẽ ban cho con cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc. Đời con sẽ như cây trồng bên bờ suối và trổ sinh hoa trái đúng mùa. Amen.
Ghi nhớ : “Thầy không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn”.
Suy Niệm 7: Giữ Luật Chúa với tình yêu mến
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cổ ngôn Đông phương có nói: “Nhân vô thập toàn”, nghĩa là con người không đủ mười phần hoàn toàn, lời của cổ nhân xác nhận sự chưa hoàn thiện của con người để khích lệ mọi con cháu thăng tiến thêm trên đường cải thiện. Các luật lệ đã được quy định để định hướng giúp con người làm việc thiện tránh điều ác. Thánh Tôma Aquinô định nghĩa: “Luật pháp là những quy định của lý trí nhằm công ích, được ban hành do người điều khiển cộng đồng”. Thánh Giacôbê khẳng định Đấng Tối Cao tức Thiên Chúa tạo tác mọi quyền hành và luật lệ khi viết: “Chỉ có một Đấng làm ra Luật Lệ” (Gc 4,12).
Có Thiên luật và Nhân luật.
Thiên luật là luật thiên nhiên, luật phát sinh từ tâm linh của Thiên Chúa, chi phối mọi hành động và sinh hoạt (Summa Theologia, I-II, q. 93, a). Là luật tự nhiên được ban cho con người cùng với những hợp lý như những quy tắc của các hành vi tự do. Hay luật Thiên Chúa ban hành qua con người là những luật lệ được mạc khải trực tiếp cho nhân loại. Loại luật này được phân làm hai: Luật Cũ, cũng gọi là Cựu ước (ban hành qua Abraham, Môisê và các ngôn sứ) và Luật Mới, cũng gọi là Tân ước (ban hành cho con người qua Đức Giêsu).
Nhân luật được coi phát sinh từ Thiên Chúa khi giải thích những luật lệ do Thiên Chúa mạc khải, khuyến dụ mọi người tuân giữ để đạt tới cứu cánh thiện hảo, là luật dân sự hay Giáo luật.
Suy niệm
Ngay từ thời xa xưa, Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Luật này càng phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ.
Khổng Tử dạy các môn đệ rằng: “Trước hết hãy có sẵn một nền trắng, rồi sau mới vẽ thành bức họa” (Luận ngữ II, 8). Phải có phông nền rồi mới có thể tiếp tục công trình hội họa. Công trình hoàn thiện Luật được theo một tiến trình phát triển được Chúa mạc khải sơ khởi phông nền với các tổ phụ, đặc biệt là Môisê qua mười điều răn, được các ngôn sứ phát triển và được chính Con Thiên Chúa, Đức Giêsu hoàn thiện.
Thật thế trong Đức Giêsu Kitô, Giáo huấn của Ngài làm nên Luật Kitô giáo: Tân ước hoàn thành các Lề luật đã được mạc khải sơ khởi mà ta gọi là Luật Do Thái giáo: Cựu ước. Tân ước là một chồi non làm sinh hoa kết trái nhưng được nuôi từ gốc và bằng nhựa của cây ôliu cũ tức “Cựu ước”, để làm cho cây sinh ra nhiều quả (x. Rm 11,17-24). Chính Đức Giêsu là Đấng đã được loan báo và chuẩn bị cả ngàn năm mong đợi của dân Do Thái khi chờ đón Đấng Cứu Thế, Đấng đến cứu họ được tự do và để kiện toàn Luật và lời các ngôn sứ đã loan báo trước làm hoàn thành toàn bộ Kinh Thánh với hai phần rõ rệt: Tân ước và Cựu ước. Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật.
Các kinh sư và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn Lề Luật: Tất cả vì luật. Chúa Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hạng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ ngày Sabát (x. Lc 6,8-11; 13,14; 14,1-6; 6,1-2…). và các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn (x. Lc 11,38). Họ cho rằng: Ngài muốn phá bỏ Lề Luật, nhưng Chúa Giêsu tuyên bố: “… đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môisê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Xin Chúa thổi tình yêu của Ngài vào trong cuộc sống chúng ta, để khi tuân giữ giới răn Đạo Chúa và giáo huấn của Giáo hội Chúa Kitô, chúng ta giữ Luật Chúa không chỉ vì sợ và tỏ lòng kính tôn, nhưng thực thi với tinh thần của tình yêu.
Ý lực sống:
“Hãy yêu mến Chúa rồi làm điều bạn muốn” (thánh Augustinô).
Suy Niệm 8: Kiện toàn lề luật (Mt 5,17-19)
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu tuyên bố cho mọi người biết: Ngài đến không phải để bãi bỏ luật Maisen và lời dạy của các tiên tri trong Cựu ước, nhưng làm cho hoàn hảo và đầy đủ hơn.
Vì Chúa Giêsu dạy một số điều xem ra không đúng với luật Maisen và giáo huấn của các tiên tri theo lối giải thích của những người Biệt phái, nên nhiều người tưởng Ngài muốn hủy bỏ Luật Maisen. Vì thế Ngài phải giải tỏa sự hiểu lầm ấy: Ngài không huỷ bỏ mà là kiện toàn chúng. Kiện toàn bằng cách dạy người ta hiểu những khoản luật đó là ý muốn của Cha trên trời nên phải sống những khoản luật đó trong tinh thần Cha – Con.
Hôm nay, khi thấy Chúa Giêsu làm phép lạ trong ngày Sabat, giới lãnh đạo Do thái tỏ vẻ khó chịu và nghi ngờ việc Chúa Giêsu bất chấp Lề luật. Thấy được sự xầm xì của họ, Chúa Giêsu lên tiếng dạy các môn đệ và cũng một cách gián tiếp giáo huấn những người Biệt phái: “Các con đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Lề luật hay lời các tiên tri; Thầy không đến để bãi bỏ nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Khi nói như thế, Chúa Giêsu muốn mặc cho Lề luật một ý nghĩa mới, đó là Luật vì con người chứ không phải con người vì Luật. Khi Luật vì con người, thì tình yêu sẽ vượt lên trên Lề luật, còn khi con người vì Luật, thì chính Luật sẽ đè bẹp và giết chết con người trong sự vô nhân đạo.
Chúa Giêsu không phải là con người vô kỷ cương và luật pháp. Ngài đã sống như một người Do thái, nghĩa là tuân giữ luật lệ của Maisen truyền lại. Chỉ có điều khác biệt giữa Ngài và các người Biệt phái, đó là tinh thần: nếu những người Biệt phái tự cho mình là người công chính nhờ tuân giữ Lề luật, thì Chúa Giêsu lại khẳng định rằng chỉ nhờ ơn Chúa, con người mới có thể nên công chính. Chúa Giêsu tuân giữ Lề luật để kiện toàn nó, kiện toàn theo nghĩa thực hiện chính những lời loan báo của các tiên tri liên quan đến Ngài, kiện toàn đến độ mặc cho Lề luật một tinh thần mới, tức là tình mến (Mỗi ngày một tin vui).
Ngay những năm đầu của lịch sử Giáo hội đã xảy ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng có nguy cơ làm tan nát Giáo hội còn non trẻ: đó là có cần phải tuân giữ những truyền thống của Luật Maisen hay không. Luật giữ ngày hưu lễ có còn đòi buộc nữa không, một khi người ta đã trở nên môn đệ của Chúa Giêsu? Đó cũng là những vấn nạn của mọi thời: trung thành bảo vệ truyền thống hay cách mạng đổi mới tận căn? Người ta nghĩ rằng đối với người môn đệ của Chúa Giêsu, mọi giáo huấn Cựu ước không còn giá trị nữa. Chúa Giêsu đã trả lời: “Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn”.
Đối với Ngài, vấn đề không hệ tại ở việc bảo thủ một ý hướng cứng nhắc, cũng chẳng phải là lật đổ đổi mới, mà là trao ban cho quá khứ một sự sống mới. Vì đâu có phải mọi truyền thống đều tốt và nên bảo vệ cả đâu. Cũng chẳng phải hễ cái gì mới cũng quí cả đâu! Điều mà các bậc tổ tiên đã sống, đã hệ thống hóa trong những thời xa xưa là điều đáng quí, nhưng chúng cần được Chúa Giêsu kiện toàn bằng cách lột bỏ sự khô cứng của Lề luật (5 phút Lời Chúa).
Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kỳ và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quí hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kỳ diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy xiết rất mạnh, làm cho ngón tay trở nên đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có chiếc nhẫn thần là Lề luật của Thiên Chúa. Tuy nhiên, chiếc nhẫn đó mang lại cho chúng ta niềm vui, hạnh phúc hay đau khổ là do thái độ của chúng ta đối với chúng. Thái độ đó là yêu mến hay bị ép buộc.
Truyện: Tiếng nói lương tâm của một vị vua
Dạo tháng 4 năm 1990 để khỏi ký đạo luật cho phép phá thai do Quốc hội thông qua, vua nước Bỉ đã từ chức trước đó hai ngày, vì với tư cách là Kitô hữu, lương tâm không cho phép ông ký nhận. Theo hiến pháp Bỉ, do sự từ chức của Nhà vua, Hội đồng Bộ trưởng sẽ thay nhà vua để công bố đạo luật. Theo đạo luật này, nếu gặp khủng hoảng khó khăn và có chứng nhận của bác sĩ, người phụ nữ có quyền phá thai trong 12 tuần lễ đầu. Nhà vua từ chức được đúng hai ngày, Quốc hội tuyên bố việc từ chức của ông chấm dứt, và ông lại tiếp tục cai trị.
Một ông vua từ chức để một luật lệ bất nhân ra đời, đó là hình ảnh của luật pháp loài người: hoặc con người tìm kẽ hở của luật pháp để thủ lợi và hành động ngược với tiếng lương tâm, hoặc do con người nhân danh pháp luật để chà đạp người khác. Mục đích của luật pháp là để phục vụ con người, do đó nếu luật pháp đi ngược lại con người và chối bỏ Thiên Chúa, thì lúc đó thà vâng lời Thiên Chúa còn hơn vâng lời loài người (Mỗi ngày một tin vui).
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu không hủy bỏ Luật nhưng kiện toàn
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Vì Chúa Giêsu dạy một số điều xem ra không đúng với luật Môisê và giáo huấn của các ngôn sứ theo lối giải thích của người Pharisêu, nên nhiều người tưởng Ngài muốn hủy bỏ luật Môisê. Vì thế Ngài phải giải tỏa sự hiểu lầm ấy: Ngài không hủy bỏ chúng mà là kiện toàn chúng.
Kiện toàn bằng cách dạy người ta hiểu những khoản luật đó là ý muốn của Cha trên trời nên phải sống những khoảng luật đó trong tinh thần Cha - Con.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Cuộc sống xã hội cần được luật pháp bảo đảm. Cuộc sống càng phức tạp thì mạng lưới pháp luật càng gia tăng. Một đàng con người cảm thấy được pháp luật bảo vệ, nhưng đàng khác cũng cảm thấy bị luật pháp đe dọa. Và sự đe dọa đáng sợ nhất là cái chết của tình người. Chúa Giêsu đến để chỉ cho con người đâu là giá trị cao cả nhất và cũng là quy luật cao cả nhất của cuộc sống. Giá trị và quy luật ấy chính là tình yêu. Một ngôi nhà đẹp đẽ đến đâu mà thiếu vắng tình người thì cũng giống như một nghĩa địa; một xã hội tiến bộ tới đâu mà thiếu vắng tình người thì chẳng khác nào một bãi sa mạc. Chúa Giêsu đến không phải để dẹp bỏ pháp luật nhưng là để kiện toàn, bằng cách đem lại cho nó một linh hồn, một sức sống. Linh hồn và sức sống ấy chính là tình yêu thương. (Trích “Chờ đợi Chúa”)
2. Chuyện cổ Đông phương kể rằng: ngày xưa, có một vị đạo sĩ dâng cho vua một chiếc nhẫn thần kì và vô giá. Nó vô giá vì được làm bằng thứ kim loại quý hiếm và gắn đầy kim cương lóng lánh: nó kì diệu ở chỗ nếu người đeo nó làm điều lành, thì nó rất vừa vặn và chiếu sáng. Nhưng nếu người đó làm điều ác, thì nó sẽ biến thành một cái máy rất mạnh, ngón tay rất đau đớn.
Mỗi người chúng ta cũng có một chiếc nhẫn thần là lề luật của Thiên Chúa. (Góp nhặt)
3. Có hai thái độ quá khích với lề luật: một là thái độ vụ luật, vụ nguyên tắc, giữ luật một cách nô lệ không chút tình cảm; hai là thái độ bất chấp ngang tàng sống như không có luật.
4. “Ta không đến để hủy bỏ lề luật nhưng đến để kiện toàn”: trước một khoản luật mà tôi cảm thấy khó chịu vì xem ra không còn thích hợp nữa, tôi phải làm gì ? Lời Chúa Giêsu dạy rằng tôi không nên hủy bỏ khoản luật ấy, nhưng tôi hãy tìm cách kiện toàn: kiện toàn bằng cách tìm hiểu tinh thần và ý nghĩa của nó, kiện toàn bằng cách đặt vào đó một tình thương.
5. “Ai bãi bỏ dù là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước trời”. (Mt 5,19)
Một ngày nọ các dấu chấm câu nghĩ rằng mình chẳng được đọc lên thành lời như các từ, nên buồn bã rủ nhau bỏ đi hết. Thế là có người đọc như sau:
“Nàng có ba người anh đi bộ đội những em nàng”
Chẳng phải tôi đã từng tự nhủ mình như thế này sao:
Tội nhẹ! chẳng sao cả!
Một lần nữa thì đã sao!
Mình chỉ thử một lần thôi!
Lạy Chúa, xin cho con luôn nhớ rằng: “Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn” (Lc 16,10) (Hosanna).
Suy Niệm 10: Giá trị và quy luật cao cả nhất, chính là tình yêu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Vì Chúa Giêsu dạy một số điều xem ra không đúng với luật Môisen và giáo huấn của các ngôn sứ theo lối giải thích của người Pharisêu, nên nhiều người tưởng Ngài muốn hủy bỏ luật Môisen. Thí dụ, Ngài đã không giữ tục rửa tay như luật pháp đặt ra. Ngài chữa lành người đau trong ngày Sabat dù luật pháp không cho phép. Thế mà ở đây Chúa lại nói về luật pháp với một sự tôn kính, mà không một luật sĩ hay đạo sĩ Do Thái nào có thể nói hay hơn được.
Như chúng ta biết, cuộc sống xã hội cần phải được luật pháp bảo đảm. Cuộc sống càng phức tạp thì mạng lưới pháp luật càng chặt chẽ.
Chúa Giêsu đến để chỉ cho con người biết đâu là giá trị cao cả nhất và cũng là quy luật cao cả nhất của cuộc sống. Giá trị và quy luật ấy chính là tình yêu. Một ngôi nhà đẹp đẽ đến đâu đi nữa mà thiếu vắng tình người thì cũng giống như một nghĩa địa; một xã hội tiến bộ tới đâu mà thiếu vắng tình người thì chẳng khác nào một bãi sa mạc. Chúa Giêsu đến không phải để dẹp bỏ pháp luật nhưng là để kiện toàn, kiện toàn bằng cách đem lại cho lề luật một linh hồn, một sức sống. Linh hồn và sức sống ấy chính là tình yêu thương. (Chờ đợi Chúa)
2. Người ta kể lại rằng, một lần kia một vị giáo sư của đại học Baltimore, Hoa Kỳ, yêu cầu các sinh viên đang theo lớp giảng huấn của ông về xã hội học, hãy đến một xóm nghèo của thành phố để nghiên cứu về cơ may được thăng tiến trong xã hội của hai trăm em học sinh trong xóm. Vị giáo sư không khỏi ngạc nhiên khi đọc những bản báo cáo của các sinh viên sau thời gian nghiên cứu báo cáo lại. Các sinh viên cho rằng, không em nào trong hai trăm em của xóm nghèo này được xét là có cơ may phát triển.
Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó. Hồ sơ của hai trăm em được lưu giữ cẩn thận tại trường để rồi lại hai mươi năm sau, một vị giáo sư khác đem ra nghiên cứu lại và lần này giáo sư yêu cầu các sinh viên của mình hãy đến xóm nghèo trên, để điều tra lại xem hai trăm em đã được phỏng vấn cách đây hai mươi năm hiện đang như thế nào. Bản tường trình thứ hai này cho biết một kết quả hết sưc bất ngờ và tích cực:
“Ngoại trừ hai mươi em chết hoặc đã cùng gia đình dọn đi nơi khác không để lại địa chỉ, còn lại 180 em thì có một trăm bảy mươi sáu đã thành công trên đường đời, vượt xa mức tiên đoán của bản phúc trình thứ nhất đã được thực hiện hai mươi năm trước. Các em đó đã trở thành: người thì luật sư, kẻ thì bác sĩ, người khác là những nhà kinh doanh nổi tiếng”.
Vừa bỡ ngỡ, vừa tò mò muốn biết tại sao các em trước kia bị thẩm định như là không có cơ may nào để tiến lên trong xã hội, nhưng nay đã thành công như vậy thì vị giáo sư này mới cho các sinh viên đi gặp từng người đã thành công để hỏi lý do. Tất cả đều nói đến một con người còn sống đã ảnh hưởng sâu xa đến đời sống của họ, con người đáng kính đó chính là thầy giáo của ngôi trường họ đã học. Vị giáo sư tìm đến người thầy giáo già để hỏi xem đã ông dùng bí quyết nào mà những học trò của ông lại thành công như vậy.
Thầy giáo già trả lời: “Bí quyết của tôi đơn sơ lắm: tôi đã lấy tình yêu thương giáo dục những trẻ đó”.
Tôi đã lấy tình yêu thương mà giáo dục những trẻ đó. Đấy là bí quyết của giáo dục. Và chỉ có tình yêu mới có thể giúp con người phát triển.
Không có tình yêu trong gia đình, cha mẹ không thể giúp con cái phát triển. Không có tình yêu trong xã hội, xã hội đó không thể đem lại sự phát triển đích thực cho con người. Con người cần đến tình yêu nhiều hơn của cải vật chất. Mẹ Têrêsa Calcutta đã có lời khuyên rất đơn sơ nhưng cũng rất căn bản cho mọi công cuộc phát triển và cho hạnh phúc của con người. Mẹ nói:
“Hãy phổ biến tình yêu khắp nơi bạn sinh sống, trước hết là trong gia đình: cha mẹ hãy yêu thương con cái, vợ chồng yêu thương nhau, mọi người yêu thương người thân cận, đừng để bất cứ ai đến với bạn mà lúc ra về lại không cảm thấy mình được trở thành tốt hơn, hạnh phúc hơn. Hãy biểu lộ hình ảnh sự tốt lành của Thiên Chúa trong ánh mắt, nụ cười, trong lời nói việc làm”.
Chỉ tình yêu thương mới giúp con người phát triển. Thiên Chúa đã đối xử với chúng ta như vậy. Ngài là tình yêu và không ngừng yêu thương chúng ta. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu của Ngài, đồng thời đối xử như thế đối với anh em chung quanh. Yêu mến Chúa và yêu thương anh em, đó là trọn cả lề luật.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mọi người như anh em.
Và cho chúng con biết yêu như Ngài. Amen.