Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
25/02 Con Ta rất yêu dấu
- Viết bởi Mc 9, 1-9
Con Ta rất yêu dấu.
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY năm B.
"Ðây là Con Ta rất yêu dấu".
Lời Chúa: Mc 9, 1-9
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ.
Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY B
Lời Chúa: St 22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,2-10
1. Được biến đổi hình dạng--‘Manna’
2. Rực rỡ trắng tinh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
3. Biến hình--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Sống thân mật với Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. “Lên núi”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
6. Muốn hạnh phúc phải vâng lời Người--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
7. Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
8. Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
9. Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
10. Thử thách trong cuộc sống--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
11. Đức tin trong đau khổ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
12. Hãy nghe lời Người--Lm. Đan Vinh
13. Biến đổi lòng tin, biến đổi cuộc đời!--Lm. Anmai, CSsR
14. Xin ơn biến đổi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
15. Xin ơn biến đổi trong Mùa Chay Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
16. “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
17. Đường lối của Thiên Chúa và tư tưởng của con người--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
18. Đây là Con Ta yêu dấu--Lm. Trầm Phúc
19. Nhìn vào mặt tốt--Lm. Ignatiô Trần Ngà
20. Từ Tabor đến Golgotha--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
21. Hai khuôn mặt một tình yêu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
22. Chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
23. Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
24. Thế giới nào là ảo?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
25. Thôi đừng đầy đọa nhau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
26. Tuân phục--Trầm Thiên Thu
27. Đức Tin cột trói chúng ta--Peter Feldmeier--Văn Hào, SDB chuyển ngữ
28. Thay đổi--Lm. Vũ Đình Tường
29. Con yêu dấu--Lm. Vũ Đình Tường
30. Ngộ ra--Lm. Vũ Đình Tường
31. Ánh sáng của đức tin--Lm. Hà Ngọc Đoài
32. Ai hiểu được chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
33. Crux est lux-Thập Giá là vinh quang!--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
34. Lên núi--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
35. Người đã phó nộp Ngài vì hết thảy chúng ta--Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu
36. Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
37. Tìm vinh quang Thiên Chúa ở đâu?--Lm. Trần Xuân Lãm
38. Đức Giêsu hiển dung--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
39. Con người phải lòng Thiên Chúa--Lm. Giuse Lê Danh Tường
40. Lên núi cầu nguyện--Tôma Nguyễn Xuân Hiệp
41. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Đức Ông James M. Reinert--Đan Quang Tâm dịch
42. Lên núi để được biến đổi--Lm. Minh Anh
43. Hai khuôn mặt một tình yêu--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
44. Vâng phục thánh ý Chúa: Đường trọn lành hoàn hảo--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
45. Hãy Nghe Lời Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
46. Biến hình trong đời thường--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
47. Một thoáng Thiên Đàng--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
48. Từ cõi chết sống lại, nghĩa là gì?--Lm Trần Bình Trọng
49. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--‘Tin Vui Xuân Lộc’
50. Đức Giêsu biến đổi hình dạng--Lm PX Vũ Phan Long
51. Tin vào Đức Giêsu Kitô--Lm. Fx. Vũ Phan Long
52. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
53. “Hãy nghe Lời Người”--Lm. Xuân Hy Vọng
54. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
55. Từ Tabor đến Golgotha--Thiên Phúc
56. Biến hình--tinmung.net
57. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Alfonso
58. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
59. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
60. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--AM Trần Bình An
61. Một thoáng Thiên Đàng--AM Trần Bình An
62. Hạnh phúc thiên đàng--Lm. Minh Vận, CRM
63. Sống trọn ơn gọi của mình--Lm. Tuấn Bình, CRM
64. Đệ tam nhãn--Lm. Vincent Travers
65. Suy Niệm của JKN
66. Tình yêu tận hiến--Lm. Anphong Trần Đức Phương
67. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan
68. Hãy lắng nghe--Rolland Dionne
69. Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
70. Chúa tỏ vinh quang Ngài--Noel Quesson
71. Cuộc biến hình--Jacques Hervieux
72. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Noel Quesson
73. Vinh quang trên đỉnh núi--William Barclay
74. Đức Giêsu hiển dung trên núi--Fiches Dominicales
75. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
76. Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
77. Đức tin và đau khổ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
78. Abraham
79. Vinh quang
80. Đau khổ
81. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
82. Thập Giá, Vinh Quang
83. Y phục Người trở nên rực rỡ
84. Đức Giêsu biến hình vinh quang
85. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
86. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
87. Con đường Chúa và tôi đi
88. Vinh quang thập giá
89. Tabor với Đức Giêsu
90. Đức tin và đau khổ
91. Chúa biến hình
92. Sống với Chúa
93. Biến hình
94. Giây phút tột đỉnh
95. Trên đỉnh Taborê
96. Thiên Chúa về phía
97. Sự hy sinh của Isaac
98. Tin để lên núi--Huệ Minh
1.Được biến đổi hình dạng--‘Manna’
Suy Niệm
Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ,
đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức Giêsu:
núi của Bài Giảng về các mối phúc,
núi Tabo nơi Ngài biến hình,
núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo,
để củng cố niềm tin của họ,
trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi
và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo
chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời,
báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha biến hình.
Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt,
và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất,
nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Đức Chúa
cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa
làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình,
như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình:
tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy,
chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu
chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng
và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18).
Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi
và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.
Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc
khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao.
Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa
để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng
và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường
và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa
để rồi được sai xuống núi hành đạo.
Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được
con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
2.Rực rỡ trắng tinh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9, các vị hoàng đế Byzantin
đã ra lệnh đập phá các ảnh tượng tôn giáo,
bởi họ tin rằng Kinh Thánh cấm không được tạc ảnh tượng.
Đầu thế kỷ thứ 8, thánh Gioan Đamascô đã chống lại chuyện này.
Ngài viết: “Vào thời xưa, Thiên Chúa không có hình có dạng,
nên không bao giờ có thể được vẽ ra.
Nhưng nay, khi Thiên Chúa đã mang xác thể,
trò chuyện với con người,
tôi sẽ vẽ một bức tranh theo Thiên Chúa mà tôi thấy.”
Nhờ khẳng định mạnh mẽ này của thánh nhân
mà ngày nay chúng ta có những ảnh tượng thánh.
Qua mầu nhiệm Nhập Thể, nơi con người Đức Giêsu,
Thiên Chúa vô hình đã có một khuôn mặt, một thân xác,
giống như bất cứ người nào trong chúng ta.
Các môn đệ đã rất quen với khuôn mặt ấy, thân xác ấy.
Họ đã có thời gian sống chung, trò chuyện và gặp gỡ
với người mà họ gọi là Thầy, là Rabbi !
Cách đây sáu ngày, tại vùng đất dân ngoại (Mc 8,27),
Thầy đã nói cho các môn đệ biết về tương lai của mình:
bị đau khổ, bị loại trừ, bị giết và sống lại.
Thầy cũng nói cho các môn đệ biết về tương lai của họ:
từ bỏ mình, vác thập giá, mất mạng sống để rồi tìm được lại.
Họ đã có dấu hiệu chùn bước khi nghe về tương lai u ám…
Chẳng ai để ý đến việc Thầy nói về phục sinh (Mc 8,31),
hay về việc Thầy sẽ đến trong vinh quang rực rỡ (Mc 8,38).
Hôm nay, Thầy dẫn ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao,
nơi Thầy quen gặp Cha, Đấng sai Thầy.
Chính nơi đây Thầy đã được Cha biến đổi hình dạng.
Không phải chỉ khuôn mặt, nhưng toàn bộ con người.
Cả con người Thầy rạng ngời ánh vinh quang thần linh.
Cả y phục của Thầy cũng mang sắc trắng của thiên giới.
Vị Thầy thân quen của họ như bước ra từ một thế giới khác.
Rồi có hai nhân vật đáng kính là Êlia và Môsê xuất hiện.
Các vị này trò chuyện với Thầy Giêsu.
Cảnh tượng linh thiêng này làm họ ngây ngất và hoảng sợ.
Đỉnh điểm của thị kiến này là tiếng nói phát ra từ đám mây.
Mây vừa che giấu, vừa tỏ bày sự hiện diện của Thiên Chúa.
Thiên Chúa trực tiếp nói với các môn đệ từ đám mây.
Ngài giới thiệu cho họ biết Thầy Giêsu của họ là ai.
Thầy không chỉ là Đấng Kitô như Phêrô tuyên xưng.
Thầy chính là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa,
có tương quan thân thiết với Cha chẳng ai sánh bằng.
Hai ông Êlia và Môsê xuất hiện rồi lại biến đi.
Chỉ Thầy Giêsu còn ở lại, chỉ Thầy được gọi là Con yêu dấu.
Thiên Chúa Cha ra lệnh: Hãy lắng nghe Người (Mc 9,7).
Lắng nghe về định mệnh đang chờ đợi cả Thầy lẫn trò,
rồi chấp nhận và đi vào con đường Thiên Chúa dọn sẵn,
con đường hẹp, chẳng ai muốn đi,
nhưng lại dẫn đến sự sống, chứ không phải là ngõ cụt.
Cứ mỗi Chúa nhật 2 Mùa Chay ta lại đọc bài Chúa Biến hình.
Đây là một hy vọng xanh ngát ngay giữa màu tím của phụng vụ.
Rồi cũng đến lúc Thầy trò phải xuống núi hạnh phúc này
để lên núi Cây Dầu và núi Sọ.
Rồi có lúc ba môn đệ sẽ thấy khuôn mặt xao xuyến của Thầy,
khuôn mặt đầy máu và thương tích trong cuộc Khổ nạn.
Nhưng Phêrô sẽ không quên được kinh nghiệm này (2 Pr 16-18):
nghe tiếng của Thiên Chúa Cha phán từ trời trên núi thánh.
thấy Thầy Giêsu với vẻ lẫm liệt uy phong.
Biến hình là quà tặng của Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu.
Khi Ngài đón lấy ý định nhiệm mầu của Cha,
thì thần tính vốn bị che giấu nay được Cha vén mở.
Mùa Chay là thời gian chúng ta lên núi để được biến hình,
nếu chúng ta chấp nhận lắng nghe và tuân giữ lời Con Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hon
sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
3.Biến hình--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên núi.
Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến hình.
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể làm con người 'biến hình'. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?
4.Sống thân mật với Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người. Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rởi Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết người, Chúa cho ta hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình của tình yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua hành động của Abraham mà ta nghe đọc trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho ta hiểu biết về bản thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường Thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Bạn đã có kinh nghiệm về sống thân mật với Chúa chưa?
2) Sống thân mật với Chúa ta sẽ hiểu biết gì?
3) Trong mùa Chay này, bạn có dành thời giờ để sống thân mật với Chúa không?
5.“Lên núi”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Nếu Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ muốn đưa chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu, thì Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời chúng ta cùng lên núi với Người. Vào sa mạc để sống tinh thần khổ chế của chay tịnh; lên núi cao để được biến đổi, canh tân.
Trong truyền thống Thánh Kinh, núi cao thường được coi như nơi thuận tiện để con người được gặp gỡ Thiên Chúa. Ba tháng sau khi ra khỏi Ai Cập, các vị kỳ lão đại diện cho Dân Do Thái được ông Môisen dẫn lên đỉnh núi Sinai để gặp Chúa. Tại đây Chúa ban cho họ Luật Giao ước (x. Xh chương 19). Ngôn sứ Elia trong cuộc chạy trốn vua Akháp đã đi bốn mươi ngày đêm để đến núi Horeb. Ở đó, ông được gặp Chúa và tìm được sức mạnh để có thể đối diện với những khó khăn trong sứ mạng (x. 1V chương 19). Trong Tân ước, núi cao cũng là những địa điểm gắn liền với giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính trên núi cao mà Người giảng tám mối phúc thật, được coi như Luật Mới của Tin Mừng. Cũng trên đỉnh núi, người biến hình đổi dạng trước mặt ba môn đệ. Và cuối cùng, trên núi cao, Đấng Phục sinh đã gặp gỡ các môn đệ và sai các ông đi khắp thế gian để tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng mà Người đã thực hiện khi còn tại thế.
Để lên được núi cao, con người phải buông bỏ những ràng buộc. Người nào mang quá nhiều hành trang sẽ khó có thể tới đỉnh núi. Lên núi thiêng liêng là bỏ bớt những tham lam ích kỷ, những toan tính nhỏ nhen để con người thanh thoát. Chỉ khi nào chấp nhận buông bỏ, chúng ta mới gặp được Chúa.
Có hai cuộc lên núi được đề cập trong Lời Chúa hôm nay, đó là Bài đọc I trích sách Sáng thế và Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô.
Ông Abraham sinh được một mụn con vào lúc đã một trăm tuổi và ông đặt tên là Isaac. Tên gọi này có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho tôi cười”, như chính bà Sara vợ ông đã giải thích (x. St 21,1-7). Chẳng cần phải nói, chúng ta cũng biết hai ông bà yêu quý cậu con trai nối dõi tông đường này thế nào, vì đây là niềm hy vọng và là niềm vui duy nhất của ông ở tuổi xế chiều. Tuy vậy, Chúa muốn thử thách lòng trung thành của Abraham, và Ngài truyền cho ông sát tế con mình làm của lễ toàn thiêu trên một ngọn núi. Dưới ngòi bút của tác giả, Abraham được diễn tả như một người kiên định và hoàn toàn phó thác vào Chúa. Đối với ông, thánh ý Chúa là điều tối quan trọng, những điều khác chỉ là vô nghĩa, kể cả đứa con độc nhất của mình. Nếu Abraham đã trung thành với Chúa, thì Chúa không bỏ rơi ông. Chúa có cách can thiệp của Ngài. Chính Chúa sẽ tìm ra một giải pháp, một lối thoát cho hoàn cảnh này. “Chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ!” – lời nói của Abraham với con mình đã khẳng định sự xác tín của ông. Và, quả thật là Chúa sẽ liệu, như chúng ta thấy ở phần kết của câu chuyện. Ngọn núi từ đó được mang tên “Núi Đức Chúa sẽ liệu”. Qua vị sứ thần, Thiên Chúa đã ghi nhận lòng vâng lời, trung thành và tín thác của ông, khi ông không ngần ngại sát tế đứa con thừa tự của mình. Chính do lòng trung thành này mà Thiên Chúa hứa cho ông những điều tốt đẹp ở tương lai. Đó là một dòng dõi đông đảo và được chúc phúc.
Cuộc lên núi thứ hai được diễn tả như một cuộc thần hiện của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Tác giả Mác-cô cẩn thận ghi rõ chi tiết thời gian “sáu ngày sau” ở đầu trình thuật. Đó là sáu ngày sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ nhất cuộc thương khó và phục sinh. Trước lời loan báo này, xem ra các ông không hiểu gì. Vậy nên ông Phêrô mới can gián Người và bị Người gọi là Satan (x. Mc 8,33). Chính trong bối cảnh ấy là Chúa dẫn ba môn đệ thân tín lên núi và Người biến hình đổi dạng trước mắt các ông. Ba môn đệ đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi. Các ông ngỡ ngàng trước cảnh tượng mà các ông nhìn thấy. Nơi đây, các ông chứng kiến một cuộc “thần hiện” huy hoàng: Chúa Giêsu không còn dáng vẻ của một người thường như mọi ngày, nhưng Người đã tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa, vinh quang sáng ngời, quyền năng mạnh mẽ. Bóng mây bao phủ và tiếng nói từ trời là cách diễn tả Thiên Chúa Cha. Ngài giới thiệu cho mọi người biết sứ mạng Thiên Sai của Con Một Ngài. Hai nhân vật nổi bật của Cựu ước, ông Môisen tượng trưng cho Lề Luật, ông Elia tượng trưng cho truyền thống ngôn sứ, đều hiện ra cùng lúc để làm chứng về Chúa Giêsu. Đối với độc giả Do Thái, khi đọc những dòng trình thuật này, chắc chắn họ không thể thắc mắc gì về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Người là Đấng được Lề Luật và các Ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để cứu độ con người. Ba môn đệ là những người được biến đổi trước hết. Nếu trước đó sáu ngày, ông Phêrô còn ngờ nghệch và nghi nan, thì hôm nay khi chứng kiến Chúa biến hình, ông lại choáng ngợp trước vẻ huy hoàng của cuộc biến hình. Ông đã ngỏ lời làm ba lều, một cho Chúa, một cho ông Môisen và một cho ông Elia. Tác giả Phúc âm không quên chú giải thêm: ông không biết mình nói gì, vì kinh hoàng. Khi chứng kiến cuộc “thần hiện” này, quan niệm về Đấng Thiên sai nơi ba tông đồ không còn mang những nét trần tục, nhưng hoàn toàn thần thiêng. Nhờ sự biến đổi này, các ông xác tín vào Thày mình, Đấng họ đã từ bỏ mọi sự mà tin theo.
Trong cuộc sống thường nhật, giữa bao nhiêu bon chen tính toán trần tục, chúng ta thường bị cám dỗ và có nguy cơ trở nên tầm thường, ti tiện trong ứng xử. Mùa Chay là mùa “lên núi” để tập sống tinh thần của Abraham, tín thác cậy trông vào Chúa. Mùa Chay cũng là mùa lên núi như các tông đồ để cảm nhận rõ hơn sứ mạng của Đấng Cứu thế, với xác tín Người đang hiện diện giữa chúng ta. Theo Chúa chính là một cuộc leo núi, kiên trì, liên lỉ. Trong cuộc leo núi, có nhiều người bỏ dở ngang đường vì không đủ can đảm trút bỏ những vướng víu ngăn cản tiến lên. Mùa Chay giúp ta nhìn lại chặng đường mình đã đi, nhiều khi không phải là lên cao nhưng trái lại, đang là những tụt dốc, làm chúng ta càng ngày càng trở nên xa Chúa và xa rời anh chị em mình. Sám hối ăn năn, giao hòa với Chúa và với anh em, từ bỏ lối mòn của quá khứ để dám lên đường khởi đầu một hành trình mới, đó chính là một cuộc “lên núi” thiết thực đối với chúng ta.
“Chúa không hứa ban cho chúng ta một cuộc hành trình êm ả, Người chỉ hứa giúp ta đến đích an toàn” (John Gower – Thi sĩ người Anh, thế kỷ 14).
6.Muốn hạnh phúc phải vâng lời Người--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
“Lạy Thầy, chúng con ở đây sướng quá, chúng con xin dựng ba nhà, một cho Thầy, một cho Môisen, và một cho Êlia”. Đây là tâm sự của Phêrô lúc được hưởng hạnh phúc Chúa biến hình rực rỡ vinh quang, một hạnh phúc thiên đàng vừa hé mở. Phêrô đã thuật lại rất sống động tâm sự này cho các tín hữu đang chịu thử thách cam go vì đạo, và được Marcô, con tinh thần của Phêrô viết lại.
Thánh Phêrô đã quả quyết có hạnh phúc đời đời để cho mọi người tin tưởng vững vàng sống theo lời Chúa, sẵn sàng hy sinh vì đức tin, họ sẽ được vinh quang nước trời. Một thứ hạnh phúc làm ngây ngất mãi mãi. Một thứ hạnh phúc sáng láng rực rỡ toát ra từ chính con người của Đức Giêsu, chứ không phải thứ ánh sáng bên ngoài bao phủ Người. Ánh sáng đó là chính ánh sáng Ngôi Lời Thiên Chúa. Gioan đã được cùng với Phêrô hưởng ánh sáng rực rỡ này nên khi mở đầu sách Tin mừng thứ bốn, Gioan đã viết: “Ngôi Lời là sự sáng đích thực, sáng soi cho mọi người” (Ga. 1, 9).
Trong lễ dâng Đức Giêsu vào đền thờ, tiên tri Simêon đã nhìn thấy “Người là ánh sáng muôn dân, là vinh quang của dân Chúa” (Lc. 2, 32). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai tin Tôi sẽ không ở trong tăm tối” (Ga. 12, 46). Nhất là khi “Người sống lại sáng chói rực rỡ khiến quân dữ ngã lăn bất tỉnh” (Mt. 28, 3-4). Do đó, trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng”. Và trong kinh cầu chúng ta tung hô: “Chúa Giêsu là mặt trời soi đường công chính”.
Ánh sáng đó làm cho những người công chính như Môisen, Êlia được vinh phúc tràn ngập đời đời, còn người phàm đã biết theo Chúa như Phêrô, Giacôbê, Gioan cũng được ngây ngất chút đỉnh rồi lịm đi vì chưa đủ sức chứa đựng ánh sáng huy hoàng của nước trời, còn kẻ dữ phải khiếp sợ chết xỉu đi.
Từ hạnh phúc biến hình núi Tabor, Đức Giêsu dẫn đưa các môn đệ vượt qua đau khổ núi Sọ để đến hạnh phúc vinh quang phục sinh muôn đời.
Hôm nay Giáo hội là mẹ nhân lành theo gương Chúa Giêsu, cũng muốn dẫn đưa con cái mình là chúng ta từ hạnh phúc núi Tabor vượt qua biển khổ trần gian đến hạnh phúc vinh quang phục sinh bất diệt.
Không một thứ hạnh phúc thế gian nào sánh được. Hạnh phúc thế gian luôn luôn chất chứa đắng cay, đau khổ như ma túy, rượu chè, cờ bạc, trai gái. Khi chưa được thì thèm khát, khi mắc vào thì chán ngán, thất vọng, càng sa bẫy, càng bị kìm kẹp trong đau khổ tuyệt vọng.
Thí dụ: Tôi biết có anh chị đậu cao học (Master), quen nhau, yêu nhau nồng nàn suốt hai năm trời. Lễ cưới chi phí đến 20.000 đô. Họ hàng bạn bè, ai cũng mừng cho đôi uyên ương hạnh phúc. Nhưng chỉ được một tuần, giận nhau, bỏ nhau, đoạn tuyệt. Cha mẹ khuyên can cực lòng đến sinh bệnh, con cũng chẳng nghe.
Đấy là những hạnh phúc của thế gian.
Còn hạnh phúc của Thiên Chúa ban thì chưa thấy một đấng thánh nào chán cả. Phêrô được hưởng rồi, đã ra sức cố gắng nghe lời Con Yêu Dấu đến nỗi phải hy sinh chịu đóng đanh chết trên thập giá, vẫn luôn luôn “sướng quá”. Phaolô khi té ngựa được thấy ánh sáng rực rỡ của Đức Giêsu, dù mắt mù đi, ông đã bỏ đạo Biệt phái, đạo tổ tiên mà ông đã hăng say học hỏi từ nhỏ và cuồng nhiệt chống đối, bắt bớ kẻ phản đạo đó, để trở về với ánh sáng Đức Kitô, làm tông đồ của Đức Giêsu, một tông đồ vĩ đại nhất, nhiệt thành truyền đạo Ánh sáng nhất, chịu nhiều cực hình đau khổ nhất. Biết bao nhiêu các thánh tử đạo chỉ được thấy ánh sáng đức tin, đã coi cực hình thân xác nhẹ như lông hồng.
Muốn được hạnh phúc như các ngài, ta phải đến với ánh sáng Đức Kitô, nghe lời Con yêu dấu Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Abraham đã triệt để nghe lời Người, đến nỗi sẵn sàng sát tế con mình để tỏ lòng trung thành kính mến Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hài lòng về tinh thần nghe lời Người của Abraham hơn là của lễ sát tế con ông. Vì: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần tế lễ” (Mt. 9, 13). Và nhờ đó “mọi dân trên mặt đất sẽ được chúc phúc, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Môisen đã nghe lời Người, dù kinh hoàng run sợ nghĩ đến phải trở về đối diện với vua Pharaon đang lùng bắt ông. Dù phải cực khổ vào sinh ra tử suốt bốn mươi năm trong sa mạc để dẫn đưa dân về đất Hứa.
Êlia đã nghe lời Người dù biết mình phải lao vào lưỡi gươm trả thù của hoàng hậu Giêzabel, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tà thần. Và hàng triệu, hàng tỷ người đã nghe lời Con yêu dấu của Chúa Cha, vì biết rằng: “Thiên Chúa bênh đỡ ta, ban tất cả cho chúng ta, chí như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc cho Con mình phải chết vì hết thảy chúng ta”, để “Con Người từ cõi chết sống lại” “sẽ cho chúng ta được sống lại vinh phúc với Người” (Rm. 8, 31-34).
Lạy Chúa, xin cho con lắng nghe lời Con yêu dấu Ngài, dù phải nhục nhã ê chề. Xin cho con trung kiên giữ trọn lời Người, dù phải chịu sát tế với Người, con vẫn một lòng thưa như tổ phụ Abraham: “Dạ con đây”.
7.Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Có nhiều tôn giáo tin nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo đặc biệt nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, đến độ dám cho Con Yêu Dấu của Ngài nhập thể làm người ở giữa con người.
I. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu đã cùng với ba môn đệ lên núi. Ngài đã biến hình, áo Ngài trở nên trắng như tuyết. Tin Mừng Mác-cô không nói gương mặt Đức Giêsu biến đổi như thế nào, chỉ dùng chữ “biến hình;” tuy nhiên, người ta nghĩ rằng nếu áo của Ngài như vậy, thì gương mặt và thân xác của Ngài cũng phải “ra khác” một cách rất đặc biệt. Cựu Ước cũng đề cập đến gương mặt của Môsê trở nên sáng láng sau khi ông gặp gỡ Thiên Chúa, nên ông phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái (Xh.34, 29-35). Thánh Phaolô đã giải thích gương mặt của Môsê được biến đổi vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Vậy khi Đức Giêsu biến hình, hàm chứa Ngài là người phản ánh Thiên Chúa một cách rất đặc biệt.
Tiếng từ trong đám mây nói với ba môn đệ: “Đây là Con Ta, Đấng rất được yêu. Hãy nghe Ngài.” Như vậy, Thiên Chúa nhận Đức Giêsu là Con của Ngài, và là Đấng được yêu đặc biệt. Thực ra, tước vị “con Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ nhiều người (G.38,7), dân Israel (Hos.11, 1), vị vua thiên sai (Tv.2, 7). Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa gọi là người Con, được yêu đặc biệt; tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba môn đệ chưa thể nào nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa như các ngài đã nhận ra sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức Giêsu vẫn là một người rất đặc biệt.
Đức Giêsu nhận mình là Con Người. Đức Giêsu thật sự là người như tất cả mọi người. Một người cảm thấy gì thì Đức Giêsu cũng cảm thấy như vậy. Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám dỗ về miếng ăn, về danh vọng và về quyền hành (Mt.4, 1-11); và không chỉ vậy, Ngài còn bị cám dỗ về đức tin nữa: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34). Đức Giêsu, nếu có điều gì khác chúng ta, thì đó là Ngài không phạm tội (Dt.4, 15). Ngài đã dùng tự do để vâng phục Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng tự do Thiên Chúa ban để phản lại Ngài.
II. Abraham đã sẵn sàng hiến tế con mình cho Thiên Chúa
Abram, tổ phụ dân Do Thái, là một con người rất đặc biệt. Thiên Chúa đã mời gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho. Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ nghiệp, và trở thành một mối chúc lành cho nhiều người. Abram đã tin và đã đi theo lời mời của Thiên Chúa. Đặt mình vào hoàn cảnh của người thời đó, ta nhận ra Abram đã tin vào Thiên Chúa một cách rất đặc biệt. Thời đó người ta chưa có luật lệ như hiện tại, người ta phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo vệ mình và tài sản khỏi bị người khác đánh cướp. Thế mà Abram dám rời bỏ gia đình, ra đi với tài sản và vợ là Saray. Nếu không tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không ai dám làm điều đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ mất tài sản nhưng còn mất cả mạng sống mình. Abram đã dám làm.
Thiên Chúa đã đổi tên Abram thành Abraham, Saray thành Sara; và đã cho ông bà có một người con tên là Isaac. Thiên Chúa cũng nói với Abraham rằng dòng giống ông sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà giờ đây Thiên Chúa lại bảo ông đem người con duy nhất của mình đi hiến tế làm của lễ dâng Thiên Chúa. Tại sao Thiên Chúa lại “đổi ý” như vậy? Tại sao Thiên Chúa không “nhất quán” với chính Ngài: đã hứa cho dòng dõi của ông nhờ Isaac mà có, mà bây giờ lại đòi ông phải hiến tế Isaac? Làm sao có thể vâng lời Thiên Chúa được?
Một lần nữa, Abraham đã tin và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sao Abraham cũng làm, vì ông tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac. Chắc chắn Abraham đã có những suy nghĩ cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng chính mình bằng niềm tin phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Qua hành vi này, ông trở thành cha tất cả những người tin (Rm.4, 18tt). Cả cuộc đời của Abrahm là một chuỗi những hành vi tin. Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn chưa có đất để chôn (St.23), tuy vậy ông vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông điều Ngài đã hứa.
III. Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Ngài
Khi Đức Giêsu còn tại thế, chẳng ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, kể cả các tông đồ. Chỉ sau khi Ngài sống lại, và với ơn Thánh Thần soi sáng, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm, nên mới nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa thật đặc biệt. Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng thật đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu lại hiểu biết về Thiên Chúa và về con người một cách thâm sâu hơn.
Con người là ai mà được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy! Sao Thiên Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như thể “trao trứng cho ác” như vậy? Một người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra con người gian ác sẽ giết Con của Ngài, như vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi Người Con của Ngài cho con người? Tại sao Thiên Chúa tin con người đến độ như vậy? Cho đến cùng, Kitô hữu nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng: Thiên Chúa tin vào con người dù thật sự không thể tin được.
“Thiên Chúa không dung tha chính Con Ngài nhưng phó thác Con của Ngài vì tất cả chúng ta.” Nhìn Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục thê thảm trên thập giá, người ta có cảm tưởng như thể Thiên Chúa yêu thương con người hơn cả Đức Giêsu. Thật ra không phải Thiên Chúa yêu thương con người hơn Con của Ngài; nhưng điều đó lại cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Theo thánh Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho ta, thì Ngài không còn tiếc gì với ta nữa. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng!
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nơi Abraham có điều gì bạn kính phục?
2. Bạn có nhận thấy Thiên Chúa tin và phó thác vào con người khi cho Con Ngài nhập thể không? Tại sao?
3. Đức Giêsu có bị nghi ngờ về đức tin không? (chẳng hạn, không biết mình có sống lại thật không? nếu bạn nghĩ có, tại sao bạn nghĩ như vậy? xin đưa bằng chứng hoặc lý luận bảo vệ ý kiến của bạn.)
8.Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
1. Thiên Chúa có quyền đòi hỏi như vậy không?
Abraham không con, Thiên Chúa đã ban Isaac cho ông, và hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế con của mình trên một ngọn núi.
Isaac là người con duy nhất của Abraham với Sara. Thiên Chúa cũng hứa rằng chính từ nơi Isaac mà Abraham có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển!
Thiên Chúa ban Isaac cho Abraham, rồi bây giờ Thiên Chúa muốn đòi lại! Thiên Chúa hứa ban cho Abraham dòng giống đông đảo qua Isaac, nhưng bây giờ Thiên Chúa muốn Abraham hiến tế Isaac cho Ngài! Tại sao Thiên Chúa lại oái oăm như vậy? Giết Isaac, có khác nào Abraham giết mình!
Trong Kinh Thánh chúng ta còn thấy có nhiều đoạn văn cho thấy như thể Thiên Chúa coi thường mạng sống con người:
Thiên Chúa đã giết các con đầu lòng của người Aicập để giải phóng dân tộc Do thái;
Thiên Chúa đã ra lệnh thần tru "giết tất cả người và súc vật không chừa một mạng sống" trong một số thành mà dân Do thái đánh chiếm.
Tại sao Thiên Chúa lại đòi điều khủng khiếp như vậy nơi con người? Thiên Chúa có thể bắt con người phải giết người, và đặc biệt là giết con của mình, để hiến tế Ngài không? Thiên Chúa có quyền thử con người và đòi buộc con người như thế không?
Phải chăng là Thiên Chúa bất nhân?
2. Thiên Chúa đã hiến con của Ngài cho chúng ta
Thiên Chúa thử để cho thấy Abraham chọn Thiên Chúa trên hết, trên cả con mình, và trên cả chính mình. Tương tự vậy, Thiên Chúa đã cho Satan hành hạ Gióp, để người ta thấy rõ Gióp là người công chính và thánh thiện như thế nào!
Có thể chúng ta không dám hiến mạng con chúng ta cho Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã dám hiến mạng Con của Ngài cho chúng ta: "Thiên Chúa không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta; và như vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không ban mọi sự cho chúng ta cùng với Con của Ngài sao?" (Rm.8, 31-32).
Thiên Chúa không đòi, nhưng Thiên Chúa mời, và nếu chúng ta dám dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa, thì chắc Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của chúng ta. Thiên Chúa mời gọi, để chúng ta được trổi trang hơn, được trổi vượt hơn.
Nếu chúng ta bất bình trước những đòi hỏi của Thiên Chúa đối với Abraham và đối với nhiều người, thì đáng lẽ chúng ta phải rung động sâu xa trước biến cố Thiên Chúa dám hiến Con của Ngài cho chúng ta! Thiên Chúa dám hy sinh Con của Ngài, và như vậy là hy sinh chính Ngài cho chúng ta.
Chúng ta dễ phản đối Thiên Chúa vì cho rằng Ngài đã đòi hỏi chúng ta, chứ dường như chúng ta chưa rung động trước tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài hiến Con Ngài cho chúng ta! Và nếu vậy, chúng ta là loài phản loạn, yêu sách, đòi hỏi, và không khiêm tốn nhận biết mình thực sự: con người có là gì trước Thiên Chúa. "Nhân bản" thì không bằng "Chúa bản", vì lấy Chúa làm nền tảng thì hàm chứa luôn tôn trọng con người thực, giúp con người thực sự, làm con người hạnh phúc thật.
3. Đây là Con Ta rất yêu dấu
Các môn đệ không hiểu nhiều về biến cố này, vì các ông chưa biết Đức Yêsu là Thiên Chúa. Các ngài chỉ biết Đức Yêsu là người rất đặc biệt của Thiên Chúa. Biến cố "Chúa hiển dung" này soi sáng biến cố phục sinh, và giúp các tông đồ nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa.
Đức Yêsu là Thiên Chúa. Nếu đúng như vậy, thì Thiên Chúa yêu con người biết bao, vì Ngài đã hiến Con của Ngài vì tất cả chúng ta! Ôi tình yêu Thiên Chúa thật thâm sâu, thật nhiệm mầu.
Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Ngài là tuyệt đối, Ngài có quyền đòi hỏi mọi sự, và trên nguyên tắc con người phải dâng hiến tất cả cho Ngài, dâng hiến Ngài những gì qúy nhất, và thậm chí cả con người của mình.
Con người phải tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, cho dù Ngài có đòi hỏi gì đi nữa:
những con đầu lòng của người Aicập vẫn được Thiên Chúa thương;
những em bé bị chết ở Bêlem dưới tay bạo chúa Hêrôdê được tôn kính "các thánh anh hài";
các thánh tử đạo được thưởng công xứng đáng.
Tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, là những nhân đức đối thần, tức là những hành vi căn bản và nền tảng mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Không tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa được.
Con người phải bỏ mình để Thiên Chúa trở nên nhất nơi mình.
9.Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Cũng vì thương, Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người. (Mc 9,7)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Trong Mùa Chay, Hội Thánh nhắc chúng ta nhớ những điều rất quan trọng. Chúa nhật vừa qua, Hội Thánh nhắc ta nhớ đến những ơn ban của Chúa. Hôm nay Hội Thánh nhắc ta nhớ đến một ơn quý giá nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là Đức Giêsu, Người Con Một yêu quý của Ngài.
Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho chúng ta để Đức Giêsu sống với chúng ta và chúng ta sống với Ngài, sống theo Ngài và sống như Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chú ý lắng nghe Lời Đức Giêsu và kết hợp thân thiết với Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Chúa nhật vừa qua, Đức Giêsu đã kêu gọi chúng ta sám hối, nghĩa là bỏ con được cũ lầm lạc để quay về với Chúa. Chúng ta đã thực sự quay về chưa?
Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa. Chúng ta đã làm việc này chưa?
Đã qua một tuần Mùa Chay rồi, mỗi người chúng ta có dự định cụ thể nào chưa?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc 1: St 22,1-2.9a.10-13.15-18
Tường thuật chuyện Abraham tế sát Isaac.
Tế sát Isaac là một hy sinh rất lớn của Abraham, vì: a/ Isaac là đứa con duy nhất mà vợ chồng ông sinh được trong lúc tuổi già; b/ đứa con ấy lại là tất cả niềm hy vọng của ông về lới Chúa hứa sẽ cho ông một dòng dõi đông đúc; b/ bởi thế, Isaac là "đứa con một yêu dấu" của Abraham. Vậy mà ông đành giết nó để dâng cho Chúa.
Tuy nhiên tấm lòng của Abraham đối với Thiên Chúa còn to lớn hơn: a/ Chúa vừa gọi "Abraham" thì ông đáp lại ngay "Dạ, tôi đây"; b/ Chúa muốn ông làm một việc vừa ngược với tình cảm của ông, vừa xem ra cũng ngược với lời Ngài đã hứa (cho ông một dòng dõi đông đúc), ông cũng sẵn sàng làm.
Thiên Chúa coi trọng tấm lòng hơn lễ vật, coi trọng sự hy sinh trong tâm hồn Abraham hơn đứa con mà ông sắp dâng. Cho nên Chúa bảo ông dừng tay. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Ngài.
2. Đáp ca: Tv 115
Tác giả đang ở trong một hoàn cảnh bi đát "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực", hơn nữa đang chứng kiến "cái chết của những bậc thánh nhân", thế mà tác giả vẫn tin vào Thiên Chúa.
Đáp lại đức tin kiên vững ấy, Thiên Chúa đã "bẻ gãy xiềng xích" và cứu thoát tác giả. Ông vui mừng ca tụng Chúa và dâng lễ vật tạ ơn.
Những tâm tình này rất đúng với Abraham.
3. Tin Mừng: Mc 9,2-10
Bài tường thuật Đức Giêsu biến hình. Điểm đáng chúng ta lưu ý nhất là tiếng từ trời "Đây là con yêu dấu của Ta". Câu này là vang vọng của lời Thiên Chúa nói với Abraham về Isaac "Hãy đem Isaac đứa con rất yêu dấu của ngươi... dâng nó làm lễ toàn thiêu" (Bài đọc I)
Như thế, Isaac là hình bóng của Đức Giêsu. Cũng như Abraham đã hy sinh đứa con một yêu dấu của mình, thì Thiên Chúa cũng không tiếc khi ban Đức Giêsu, Người Con Một yêu dấu của Ngài, cho nhân loại để chịu chết cứu chuộc nhân loại.
4. Bài đọc II: Rm 8,31-34
Thánh Phaolô suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời Đức Giêsu và hiểu rằng tất cả đều vì lợi ích cho loài người chúng ta: Khi Đức Giêsu chịu chết là chịu chết "vì tất cả chúng ta"; và khi Ngài sống lại lên ngự bên hữu Chúa Cha thì cũng là để "biện hộ cho chúng ta".
Đức Giêsu chính là ơn ban tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Món quà ngoài sức tưởng tượng
Các bài đọc hôm nay nói về những món quà vượt sức tưởng tượng.
Abraham là một người sẵn lòng với Thiên Chúa. Ngài bảo ông bỏ quê hương xứ sở mà ra đi đến một nơi vô định. Ông mau mắn làm theo. Thiên Chúa thấy lòng quảng đại của ông, Ngài bảo ông dâng Isaac cho Ngài. Món quà này chắc chắn Abraham không ngờ tới, vì đó không phải là một đồ vật hoặc một con vật mà là một con người. Con người ấy lại là đứa con duy nhất của ông. Hơn nữa nó còn là tất cả hy vọng của ông vì ông sinh ra nó trong lúc tuổi đã già, và ông nghĩ chỉ có nó mới thực hiện được mong ước của ông là có một dòng dõi. Dâng nó đi là dâng tất cả. Thế mà Abraham đã dâng. Một món quà ngoài sức tưởng tượng (bài đọc I).
Nhưng món quà mà Thiên Chúa ban cho loài người còn ngoài sức tưởng tượng hơn nữa. Đó là ban Đức Giêsu, Người Con độc nhất, Người Con thân yêu vô cùng. Hơn nữa, Thiên Chúa ban Người Con ấy để Người Con ấy chịu chết vì tội lỗi loài người, chết thay cho loài người (bài Tin Mừng). Thật chẳng có tấm lòng nào bằng như thế. Chẳng có tình yêu nào cao cả như thế (bài đọc II).
* 2. "Hãy vâng nghe lời Người"
Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:
- Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
- Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.
- Ông hãy đẫp vỡ nó ra!
- Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ!
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:
- Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu?
- Bằng nửa vương quốc.
- Hãy đập vỡ nó ra!
- Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:
- Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?
- Muôn tâu, đẹp không thể nói được.
- Hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi:
- Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?
Abdul bình tỉnh đáp:
- Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.
Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: "Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài".
* 3. Con yêu dấu
Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay về việc Đức Giêsu biến hình, tôi chẳng có chút cảm xúc nào cả. Đọc thêm bài đọc I về chuyện Abraham tế sát Isaac, tôi khám phá rằng Isaac là hình bóng của Đức Giêsu, và người cha già Abraham là hình bóng của Thiên Chúa. Và tôi rất xúc động vì tiếng gọi "Con yêu dấu".
Abraham yêu dấu Isaac biết chừng nào vì đó là đứa con duy nhất ông sinh ra được trong lúc tuổi đã già. Chúa Cha cũng yêu dấu Đức Giêsu biết chừng nào vì đó chẳng những là Người Con duy nhất mà còn là Người Con tuyệt hảo của Ngài.
Có người cha nào không tan nát cõi lòng khi đứa con yêu dấu duy nhất của mình phải chết? Chúa Cha hiểu được tâm trạng này nên Ngài chỉ thử lòng Abraham thôi chứ không nỡ để Isaac phải chết. Thế mà Chúa Cha lại cho Đức Giêsu Con Yếu Dấu của Ngài phải chết thật! Ôi tình Chúa Cha thương loài người chúng ta bao la và vĩ đại biết chừng nào!
Chúa Cha chỉ mong nơi loài người chúng ta một điều duy nhất là "Hãy vâng nghe Lời Đức Giêsu" thôi. Nếu điều duy nhất ấy mà chúng ta cũng không đáp ứng thì thật là phụ bạc biết chừng nào!
4. Thử thách và biến hình
Bài đọc I nói về thử thách (Thiên Chúa bảo Abraham tế sát Isaac), còn bài Tin Mừng nói về biến hình. Hai khía cạnh này liên kết với nhau và bổ sung cho nhau như hai mặt của một đồng tiền.
Khi Thiên Chúa mới gọi Abraham, Ngài đã thử thách ông: Ông phải từ bỏ quê hương xứ sở để đi đến một nơi vô định. Vì Abraham trung thành trong thử thách nên Thiên Chúa đã cho ông có con. Trước khi dẫn đời ông sang một biến đổi nữa, Thiên Chúa lại thử thách ông: đứa con duy nhất ấy, Ngài muốn ông giết đi để làm lễ tế cho Ngài. Một lần nữa Abraham đã vâng lời và một lần nữa ông được biến đổi: Isaac vẫn sống và sinh con cháu, nhờ đó Abraham thực sự có một dòng dõi.
Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy Đức Giêsu chịu thử thách trong sa mạc. Hôm nay chúng ta chứng kiến Ngài biến hình trên núi.
Học sinh cũng phải thường xuyên trải qua thử thách là các kỳ thi. Nhưng có như thế thì học sinh mới được chuyển cấp, càng ngày càng cao hơn, giỏi hơn...
5. Biến đổi là Quy luật
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Một triết gia đã nói "Không ai tắm hai lần trong một dòng sông".
Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết, cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào cũ của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng cũng như thế.
Bởi thế trong Mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ có nghĩa là chết.
6. Từ Tabor đến Golgotha
Một Linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng rất sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp "trai tài gái sắc". Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyên trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay "người đẹp" là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay "nàng già" là trái táo ăn thừa. Nên chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
*
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia" (Mc.9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi. Chúa chỉ mặc "tấm áo trắng như tuyết" trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp. Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng thủy chung, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruỗi trên các đường phố Palestina rao giảng chữa bệnh và làm các phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi trong vườn Giêtsêmani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Têrêxa thành Lisieux: "Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê". Thánh Bernadette cầu nguyện: "Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau".
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục sinh sẽ bừng sáng. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã biến hình cho các môn đệ thấy vinh quang của Người, để củng cố đức tin cho các ông, và chuẩn bị các ông đón nhận cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
Trung thành với Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh là nguồn thách đố cho Hội thánh / chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng bước theo đường lối Đức Giêsu / dù khi được vinh quang hay khi phải trải qua gian nan tử nạn.
Trung thành để phục vụ công lý và công ích cho xã hội là nguồn thách đố cho các nhà cầm quyền / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo trên thế giới luôn can đảm cương quyết / không nhượng bộ những gì vi phạm đến nhân phẩm và nhân quyền của người dân.
Nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp, chậm tiến... là những thách đố cho người Việt Nam hôm nay. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người Việt Nam biết can đảm kiên nhẫn / để đoàn kết với nhau và từng bước vượt qua mọi khó khăn.
Những khó khăn bên ngoài và bên trong mà Hội thánh ở Việt Nam đang trải qua cũng là những thách đố cho mỗi Kitô hữu Việt Nam /. Chúng ta hãy cầu xin cho các Kitô hữu Việt Nam luôn vững lòng tin cậy / và luôn tích cực phục vụ đồng bào nhất là những người nghèo khổ.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin còn non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì cũng chắc chắn được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa mai sau. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Đức Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.
- Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.
VII. Giải tán
Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Người Con Yêu Dấu duy nhất của Ngài là Đức Giêsu cho chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Chúa Cha chỉ mong mỏi mỗi một điều là chúng ta vâng nghe Lời Đức Giêsu thôi. Trong tuần này, chúng ta hãy luôn tâm niệm lời Chúa Cha nói: "Đây là Con Yêu Dấu của Ta. Hãy vâng nghe lời Người".
10.Thử thách trong cuộc sống--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor trước mặt ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Việc biến hình này có ý nghĩa gì? Chắc chắn nhờ việc chứng kiến vẻ vinh quang tương lai của Chúa, Ngài muốn chuẩn bị cho các ông đối diện với biến cố khổ nạn của Ngài sẽ xẩy ra sau này.
Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải theo gương các môn đệ mà trèo lên núi, bất chấp khó khăn, can đảm dấn thân bước theo Đức Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài. Cuộc đời của chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, nhiều gian nan thử thách và có hàng ngàn lý do khiến chúng ta bỡ ngỡ, bối rối trước những hoàn cảnh éo le. Chúng ta sẽ không hiểu tại sao lại có những thử thách ấy! Chúa không thương yêu chúng ta sao? Không thắc mắc, chúng ta hãy bắt chước ông Abraham hoàn toàn tin tưởng phó thác đời mình trong tay Chúa quan phòng, vâng theo thánh ý Chuá, Ngài sẽ lo liệu, và ta hãy tâm niệm rằng: “Khi Chúa đóng cửa chính thì Ngài sẽ mở những cửa sổ”. Ngài sẽ có cách giải quyết.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: St 22,1-2.9a,10-15
Theo nghiên cứu, người ta thấy dường như việc dùng trẻ con để tế lễ rất thịnh hành vào các thế kỷ thứ 8 và thứ 7 trước công nguyên. Cho nên khi nhắc nhở rằng mọi con đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa, lề luật liền nhấn mạnh đến việc buộc phải chuộc con đầu lòng bởi một của lễ thay thế. Câu chuyện tế lễ Isaac minh hoạ cho lề luật trên, đồng thời nhấn mạnh đến hành động đặc biệt của Abraham.
Thiên Chúa đã hứa với Abraham là ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân lớn lao. Ông chỉ có một người con duy nhất là Isaac do bà Sara sinh ra. Thế mà Thiên Chúa đã truyền cho ông phải hiến tế người con yêu dấu của mình. Như thế làm sao có thể dung hòa được giữa việc hiến tế Isaac và lời hứa của Thiên Chúa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển?
Abraham tiến thoái lưỡng nan, không biết theo con đường nào. Tuy thế, ông đã phải trấn áp nỗi đau khổ của người cha, ông lấy nghị lực đức tin mà thưa“Xin vâng” với thánh ý Chúa. Ông đã làm một việc vượt trên cả mức độ anh hùng. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Chúa.. Đức tin và lòng tuân phục của ông sẽ được phần thưởng liền sau đó.
+ Bài đọc 2: Rm 8,31-34
Có nhiều người còn nghi ngờ vào tình yêu của Thiên Chúa đến nỗi còn sợ sệt và tuyệt vọng. Thánh Phaolô với giọng điệu cảm kích sâu xa đã tuyên bố rằng không có gì phải thất vọng, bằng chứng là: Thiên Chúa đã không dung tha cho Con Một mình. Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là bằng chứng hùng hồn của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.
Việc Đức Giêsu bị chết trên thập giá đã khiến chúng ta không còn lý do nào phải hoài nghi và sợ sệt. Lỗi lầm lớn nhất chúng ta có thể vấp phải sẽ là hoài nghi, thiếu tin tưởng:”Nếu Thiên Chúa yểm trợ chúng ta, còn ai chống lại nổi chúng ta “Rm 8,31)?
+ Bài Tin mừng: Mc 9,2-10
Khi đi theo Đức Giêsu, các Tông đồ có cùng hoài bão của người Do thái là Đấng Cứu thế của họ sẽ là Đấng Cứu thế vinh thắng oai hùng tái lập vương quốc của Đavít và Salomon. Nhưng khác với cái nhìn trần tục của các ông, trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Thiên sai sẽ là một “tôi tớ đau khổ và khiêm tốn đã được các tiên tri phác hoạ”.
Để củng cố niềm tin cho các môn đệ trước cuộc thương khó đầy xỉ nhục của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ lên núi Tabor, biến hình trước mặt các ông để các ông thấy khuôn mặt sáng ngời của Ngài hầu củng cố niềm tin cho các ông truớc những ngày đen tối sắp tới.
Theo gương các tông đồ, chúng ta cũng phải có một niềm tin như vậy trước gian nan thử thách trong cuộc sống của một Kitô hữu. Hẳn nhiên, cũng như các tông đồ, Chúa cũng dành cho chúng ta những giờ phút sáng tươi hoan hỉ nội tâm để giúp chúng ta đi tới tận cùng điểm dốc Calvê.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Từ Tabor đến Golgotha.
I. ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH.
1. Diễn tiến việc biến hình.
Thánh Marcô cho biết: sáu ngày sau khi thánh Phêrô truyên xưng Đức Giêsu tại Cêsarêa của vua Philippe, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu qúi là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Thánh sử không cho biết là núi nào: núi Tabor hay Hermon. Các nhà chú giải Thánh Kinh ngày nay nghiêng về núi Hermon, song cổ truyền cho biết chính Tabor đã được hồng ân ấy.
Vì đi đường mệt nhọc các ông lăn ra ngủ và khi thức giấc, các ông nhìn thấy cảnh lạ lùng: Chúa biến hình, “áo Ngài trắng như tuyết, không thể nào giặt được như vậy”. Có ông Maisen và Elia đàm đạo với Ngài để khuyến khích Ngài đi vào cuộc tử nạn và có tiếng phát ra trong đám mây:”Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài”. Sau đó, Đức Giêsu trở lại tình trạng bình thường. Việc biến hình này có ảnh hưởng sâu đậm đến ba ông.
2. Ý nghĩa việc Chúa biến hình
Đức Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem, và quyết định ấy có nghĩa là chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi Ngài đã chấp nhận đôi về quyết định của Ngài.
a) Sự hiện diện của Elia và Maisen
Maisen là đại diện cho pháp luật và Elia là tiên tri đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Đức Giêsu, có nghĩa là nhà tuyên bố pháp luật vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Đức Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Đức Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Đức Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng hướng vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
b) Biến hình giúp môn đệ vững tin
Khi nghe Đức Giêsu báo cho họ biết là Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu chết, họ bàng hoàng, bối rối lo sợ vì bao điều mơ tưởng của họ sẽ bị tiêu tan, tương lai của họ trở nên bấp bênh, đen tối. Tuy thế, những gì đã xem thấy trên núi biến hình cho họ có cơ hội bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe tiếng của Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con Ngài.
Ngoài ra, việc Chúa biến hình trên núi khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Xác tín rằng mình là chứng nhân trước sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, sau này khi có dịp, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe.
c) Lời mời gọi biến đổi
Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong đó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.
Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy qui luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù vẫn là một bầu trời.
Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Héraclite đã nói:”Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”.
Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết cái kia sinh ra, sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào của 7 năm trước nữa.
Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng thì cũng như vậy. Bởi thế trong mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ là chết (Carôlô, Sợi chỉ dỏ, năm B, tr 134-135).
Việc Chúa biến hình nhắc cho các môn đệ và chúng ta phải thay hình đổi dạng linh hồn mình. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta phải cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện hơn:”Hãy lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân tận tâm linh anh em””(Ep 4,22).
Thánh Tông đồ còn khuyên nhủ chúng ta hãy làm một cuộc canh tân toàn diện để cho con người nội tâm của ta biết nghe theo luật của Chúa mà bỏ đường lối của xác thịt. Vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô Ngài đã viết:”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”(Ep 4,22-24).
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải đổi mới toàn diện, phải đổi từ con người cũ sang hẳn con người mới tốt lành. Đổi mới toàn diện là phải đổi mới tận căn chứ không phải chỉ đổi mới nửa vời hoặc đổi mới hời hợt một số cái, hoặc chỉ đổi mới cái bên ngoài để rồi trở thành con người mà người đời gọi một cách mỉa mai: ”Nửa người ngửa ngợm nửa đười ươi”, đúng như người ta nói:
Thay quần thay áo thay hơi,
Thay dáng thay dấp mà người chẳng thay.
(Ca dao)
Truyện: Cách làm cho trắng da.
Người ta thuật rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia đình người da đen ở. Gia đình đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi. Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau hết, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.
Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học trò về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem mầu da mất chưa. Nhưng! Màu đen quá sậm, cậu mất công. Vài phút sau, thầy giáo gọi cậu:
- Này em làm gì đấy?
Cậu giật mình thưa:
- Con cố sức trừ bỏ màu da đen để nên người da trắng, song không sao được..
(Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)
II. BIẾN ĐỔI VÀ THỬ THÁCH
1. Thử thách của tổ phụ Abraham
Bài đọc I hôm nay thuật lại việc Abraham sát tế Isaác con mình. Việc này cho chúng ta thấy cá tính và đức tin của ông. Lệnh truyền sát tế Isaác, người con duy nhất sinh ra trong tuổi già, thì vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không còn người con trai này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống Isaác được dành lại.
2. Thử thách của chúng ta
Đường lối Thiên Chúa thật lạ lùng... nhiều khi đường lối Chúa lại chẳng xem ra đi ngược với mục đích đang tìm kiếm sao? Câu chuyện về hy tế của Abraham khá làm sáng tỏ những phương thức của Thiên Chúa. Quả thật, tất cả chỉ là thử thách trong cuộc đời. Nhưng một khi chân trời mây mù bưng bít, không trông đâu được sự giúp đỡ của loài người, mọi sự dường như mất hết, chúng ta không còn cân nhắc suy tính được nữa, và thất vọng tự hỏi:”Tại sao Thiên Chúa xử như vậy”?
Nhưng chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chuá luôn yêu thương chúng ta, Ngài đã phó nộp Con Một Ngài trên cây thánh giá vì phần rỗi chúng ta. Như vậy, khi Ngài để cho chúng ta nhờ đau khổ và thử thách kết hợp với sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn rằng, nhờ đó, Ngài cũng muốn liên kết chúng ta vào sự Phục sinh và vinh quang của Chúa Kitô. Do đó, thử thách cũng có ý nghĩa tích cực vủa nó. Không lạ gì khi thấy người ta nói: Có cứng mới đứng đầu gió (Tục ngữ)
Chính những đau khổ và gian nan thử thách sẽ làm cho chúng ta thêm giá trị trước mặt Chúa, nó thanh luyện chúng ta, nó làm cho chúng ta thể hiện lòng trung thành đối với Chúa. Lúc đó, đức tin của chúng ta mới có giá trị sau khi đã được thanh luyện như vàng ra khỏi quặng:
Có gió lung, mới biết tùng bá cứng,
Có lửa hừng, mới biết thức vàng cao.
(Tục ngữ)
Thánh Giacôbê Tông đồ nói về vấn đề này:”Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài”(Gc 1,12).
Trong gian nan thử thách, hãy giữ vững niềm hy vọng và tin tưởng phó thác. Nhưng làm sao giữ được niềm hy vọng tâm hồn? Hãy noi gương Chúa Kitô! Tất cả cuộc đời Ngài chỉ là một chuỗi phó thác trong tay Chúa Cha. Trong lúc hấp hối Ngài than thở:”Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha”. Sự tín thác mến yêu này là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người và là nguyên nhân của Phục sinh khải hoàn. Chính trong việc chiêm niệm về Chúa Kitô tín thác cho Tình Yêu mà chúng ta múc lấy nghị lực để nói như Ngài:”Lạy Cha, đừng theo ý con, một theo ý Cha”.
3. Thử thách và đức tin
a) Đức tin cần được thử thách
Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ còn biết dựa vào đức tin để phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp. Đức tin cũng cần phải được thử thách thì mới có gia trị. Nếu ở trên núi Tabor, ông Phêrô thưa với Chúa:”Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Maisen”(Mc 9,5). Các ông muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor, ngủ yên trong hào quang rực rỡ, bỏ lại dưới núi bạn đồng môn, muốn hưởng thụ đầy đủ ánh hào quang của Chúa, thì các ông sẽ nói thế nào ở vườn Cây Dầu và ở đồi Golgotha?
Người đời cũng cảm nghiệm thấy giá trị và ích lợi của thử thách. Chính thử thách làm cho con người thêm giá trị. Con người chỉ được đánh giá đúng qua thử thách như thi sĩ Nguyễn công Trứ nói lại câu nói của cổ nhân:
Văn vô sơn thủy vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải có đức tin vững mạnh. Tuy thế đức tin không phải lúc nào cũng ở đỉnh cao, đức tin có lúc lên cao, có lúc xuống thấp theo nhịp điệu vui buồn, sướng khổ, may mắn hay trắc trở.
Khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và sán lạn như đức tin của các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta, và Thánh Thần dường như đang nói với chúng ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ ở vười Cây Dầu (Mark Link).
Áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta cảm thấy đức tin mình ở những điểm cao, lúc đo chúng ta yêu thương hết mọi người. Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả: “Chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi. Đó là lúc chúng ta thấy mình có nhiều kẻ thù hơn là thực tế, và thấy người bạn nào của mình cũng đều có lỗi với mình cả. Vào những ngày như vậy, chúng ta khó mà biết được tại sao có những lúc chúng ta lại nghĩ rằng cuộc đời này là dễ dàng vui tươi” (Anthony Padovano).
b) Tin tưởng và phó thác
Những lúc gặp đau khổ hoặc gian nan thử thách chúng ta chỉ còn biết tin tưởng và phó thác cho Chúa. Ngài có thể làm được tất cả trong những cái loài người cho là không có thể, để quyền năng của Chúa được tỏ hiện nơi ta, như thánh Phaolô đã nói:”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”(2Cr 12,10).
Có câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa:”Khi Thiên Chúa đóng của chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới.
Truyện: Niềm đau tượng hình.
Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.
Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.
Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.
Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào.
(Thiên Phúc, Chuyện hay đông tây, tập 1, tr 159)
Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay. Niềm tin của Abraham yếu ớt và dường như phai mờ khi ông nghĩ rằng Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaác. Điều đó làm cho ông khổ tâm và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông.
Thiên Chúa cũng thử thách niềm tin của chúng ta như thế. Khi bị thử thách, tâm hồn chúng ta cũng đau khổ và bối rối. Nhưng nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.
Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một: Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường Tình Yêu. Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu thì: ”Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Đức Giêsu ta trèo lên đồi Calvê”. Hiểu được đau khổ là con đường tình yêu, thì thánh nữ Bernadette đã cầu nguyện:”Con không xin cho mình khỏi đau khổ, nhưng chỉ xin Ngài đừng bỏ con trong đau khổ”.
11.Đức tin trong đau khổ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Áp-ra-ham trong bài đọc một. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Áp-ra-ham với vợ chính là Sa-ra, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Áp-ra-ham và Sa-ra, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin của Áp-ra-ham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Áp-ra-ham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận "lòng tôn kính và tin yêu" của Áp-ra-ham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Áp-ra-ham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là "Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ". Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa bệnh. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng Ngài mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau...
Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: "Chạy trời không khỏi nắng", nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ luỵ của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho".
12.Hãy nghe lời Người--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Sau khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, Đức Giê-su muốn củng cố lòng tin của các ông đang bị giao động, bằng cách đưa 3 môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cao. Tại đây, Người biến hình trước mặt các ông, rồi có lời Chúa Cha xác nhận Người là Con yêu dấu. Có Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo về cuộc khổ nạn Người sắp trải qua. Như vậy, việc biến hình cho thấy cuộc khổ nạn của Đức Giê-su là do thánh ý của Chúa Cha và cũng nhằm khích lệ tinh thần của các môn đệ, giúp các ông kiên vững lòng tin khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn của Người sau này.
CHÚ THÍCH:
- C 2-4: + Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an: Đây là ba môn đệ được Chúa ưu ái. Người cho các ông nhìn thấy vinh quang Thiên tính của Người, như chuẩn bị tinh thần trước để các ông khỏi bị vấp ngã khi phải chứng kiến cảnh Người phải lo buồn sầu não trong vườn Cây Dầu trước giờ chịu khổ nạn (x. Mc 14,33). + Lên núi cao: Chưa xác định là núi nào trong hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Núi cao thường được coi là nơi Đức Chúa ngự. Lên núi cao là để gặp gỡ Đức Chúa, như Mô-sê gặp Đức Chúa trên núi Khô-rếp trong vùng Si-nai để đón nhận mười điều răn được khắc trên hai tấm bia đá (x. Xh 24,12-18), còn Ê-li-a là vị ngôn sứ thời kỳ Các Vua, ông phải chạy trốn cuộc truy bắt của hoàng hậu I-de-ven bằng cách trớn lên “núi Thiên Chúa” (x. 1V 19,2.8). Trong Tin mừng hôm nay, ba môn đệ đã được Đức Giê-su cho leo lên núi cao để được Người mặc khải cho biết về Thiên tính của Người. + Người biến đổi hình dạng: Đức Giê-su tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân, để mang một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu tỏa vinh quang thiên giới. Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a đang ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ đây đã tỏ bày ra trước kỳ hạn về vinh quang phục sinh sau này. + Ông Ê-li-a và ông Mô-sê: Hai vị này đều đã từng leo núi để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị đều là nhân vật của thời cánh chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm: Mô-sê thì bị chết ở miền đất Mô-áp trước khi dân vào chiếm Hứa Địa, nhưng không ai biết được mộ phần ông ở đâu (x. Đnl 34,6), còn Ê-li-a thì leo lên chiếc xe ngựa rực lửa bay về trời trong cơn gió lốc (x. 2V 2,11). Ở đoạn này, sự hiện diện của Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật, và của Ê-li-a tượng trưng cho các Ngôn sứ. Điều này chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy thời kỳ Cánh Chung và Cứu Độ đã khởi đầu. + Hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su: Mác-cô không nói đến nội dung cuộc đàm đạo, đang khi Lu-ca lại cho biết: “Và nói về cuộc xuất hành” (nghĩa là cuộc ra đi: chết, sống lại và lên trời của Đức Giê-su) - mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (x Lc 9,29).
- C 5-8: + Xin dựng ba cái lều: Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ Lều kéo dài 7 ngày. Trong các ngày này, họ phải đến ở tạm trong các lều trại làm bằng cành cây, để ôn lại công ơn Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng ở trong các lều trại nơi sa mạc (x. Lv 23,34.42-43). Ở đây, Phê-rô xin dựng 3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông đang chứng kiến. + Có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây diễn tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời kỳ xuất hành của dân Do Thái xưa (x. Xh 40,34-38) + Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người: Lời Chúa Cha công nhận Đức Giê-su là “Con” (x. Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép Rửa tại sông Gio-đan (x. Mc 1,11). Đức Giê-su cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi người phải nghe theo lời Người chỉ dạy (x. Mt 16,14; Cv 3,22-23).
- C 9-10: + Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy: Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi làm phép lạ chữa bệnh hay trừ quỉ, Đức Giê-su thường đòi người vừa được chữa lành phải giữ kín sự việc xảy ra, không được tiết lộ cho người khác biết là Đức Giê-su đã làm phép lạ ấy. Đòi hỏi giữ kín được gọi là “Bí Mật của Đấng Thiên Sai”. Sở dĩ Đức Giê-su không muốn cho người ta biết Người là Đấng Thiên Sai vì cần có thời gian để Người giảng dạy dân Do Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai theo Ý Thiên Chúa của Người. Nếu nói sớm sự thật này sẽ làm cho dân Do thái đang bị tinh thần ái quốc cực đoan tác động, đang mong đợi một Ông Vua Thiên Sai theo nghĩa trần tục, sẽ hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su và sẽ gây bạo loạn, gây cớ cho quân Rô-ma đem quân đến tiêu diệt dân Do Thái nhỏ bé, sẽ bất lợi cho sứ mệnh Thiên Sai về mặt thiêng liêng tinh thần của Đức Giê-su. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên tính của Đức Giê-su sẽ được các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, nghĩa là sau khi Người từ cõi chết sống lại. + Các ông tuân lệnh đó: Ba môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su. Các ông không nói gì về cuộc biến hình này, mãi đến khi Người trải qua mầu nhiệm chết và sống lại. Dù các ông không hiểu tại sao Người lại cấm như vậy. + Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Cũng như Phê-rô đã can trách Đức Giê-su đừng chấp nhận con đường cứu thế qua đau khổ thập giá theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ khác đều không hiểu hay không muốn hiểu về con đường “Từ trong cõi chết sống lại” hoặc “Qua đau khổ vào vinh quang” đã được Đức Giê-su công bố trước cuộc biến hình (x Mc 8,31).
CÂU HỎI: 1) Tại sao Đức Giê-su lại hiển dung biến hình trước mặt ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an? 2) Chúa biến hình trên núi cao là núi gì? 3) Đức Giê-su hiển dung để mặc khải Người là ai? 4) Nội dung cuộc đàm đạo với Mô-sê và Ê-li-a là gì và nhắm mục đích gì? 5) Tại sao ông Phê-rô lại xin Thầy cho dựng 3 lều? 6) Đám mây diễn tả về điều gì? 7) Qua lời phán từ trong đám mây, Thiên Chúa muốn mặc khải Đức Giê-su là ai với 3 môn đệ của Người? 8) Bí mật Đấng Thiên Sai nghĩa là gì? Tại sao Đức Giê-su cấm ba môn đệ không được nói ra điều các ông vừa được chứng kiến? 9) Tại sao các môn đệ lại thắc mắc về ý nghĩa của câu “Từ trong cõi chết sống lại” do Đức Giê-su đã nói sau khi biến hình?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Thiên thần cũng có thể biến thành ác quỉ:
Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc cua, ông chợt thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ông nói với cậu bé rằng: “Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ của ông. Mấy giờ sau, cậu ta rất ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy khuôn mặt của em rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng”. Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình an. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù gặp khó khăn về tài chính mà họa sĩ vẫn không bán.
Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ cũng đang đi dạo để tìm hứng vẽ tranh. Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần lôi thôi rách nát và có khuôn mặt chai lì gian ác, trông như một tên quỉ sứ. Ông suy nghĩ: “Sao trên đời này lại có người mang bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ? Phải chi ta vẽ được gương mặt quỉ sứ này để so sánh với gương mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” trong phòng khách nhà ta thì hay biết mấy!”
Bấy giờ gã ăn mày đã chìa tay xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá. Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi đi ngang phòng khách, gã trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ có lần đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng!” Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau:
“Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi sinh ra hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi đã bán tất cả gia sản và lao mình vào các thú vui trác táng... Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền bạc của cha mẹ và phải nhập bọn với lũ bạn đi trộm cắp. Rồi tôi bị bắt và thụ án mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua rất nhiều gian khổ tủi nhục: Bị đánh đập, ứng hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống đó. Cuối cùng chính tôi lại trở thành kẻ bóc lột hành hạ các tù nhân mới nhập trại và các bạn tù khác nhỏ yếu hơn tôi. Bây giờ sau khi vừa mãn hạn tù, tôi đang trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại còn mang thêm bệnh lao phổi sang thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là phải đi ăn xin như ông thấy đó”.
Trước tâm sự của một người đã phung phí trót cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã ăn xin hãy cố ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng”. Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những ai thắc mắc về hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một con người. Và sự khác biệt giữa hai khuôn mặt thiên thần và ác quỉ chỉ cách nhau 20 năm phóng đãng mà thôi!”.
2) Vâng lời đáng quý hơn mọi báu vật:
Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng xem một viên ngọc trai vừa to vừa rất đẹp và hỏi rằng:
- Khanh hãy lượng định xem viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
- Tâu Bệ Hạ, nó đáng giá hơn số lượng vàng khối mà 4 con lừa có thể chuyên chở.
Vua ra lệnh cho quan Tể tướng:
- Nhà ngươi hãy đập bể viên ngọc này đi!
Quan Tể Tướng liền nói:
- Tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đập bể một báu vật rất quý giá như thế được ạ!
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua lại đưa viên ngọc quý cho quan Thị Vệ trong cung và cũng hỏi:
- Theo khanh, viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
- Bằng cả một tỉnh thành của Vương quốc.
- Khanh hãy đập bể nó ra!
- Đập vỡ viên ngọc này ư? Tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được công việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho quan Thị Vệ một chiếc áo danh dự và còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:
- Ngươi có thấy viên ngọc nào đẹp bằng viên ngọc to quý này không?
- Muôn tâu, thần chưa hề thấy viên ngọc nào quý giá như viên ngọc của Đức Vua.
- Nhà ngươi hãy đập nát nó đi.
Lập tức Abdul cầm một viên đá lớn đập nát viên ngọc quý kia thành bụi. Quần thần ai nấy đều thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi ông rằng:
- Sao nhà ngươi lại dám làm như thế?
Abdul bình tỉnh đáp lại:
-Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào.
Trước thái độ vâng phục tuyệt đối của Abdul, nhà vua đã khen ngợi chàng đã làm đúng nhiệm vụ của một bề tôi trung thành và đã ban thưởng bội hậu hơn hai vị quan kia.
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được Đức Giê-su chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa vì luôn vâng lời Ngài, như Tin Mừng hôm nay đã ghi nhận: Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7b).
3. THẢO LUẬN: 1) Hãy cho biết nguyên nhân nào đã biến một em bé có khuôn mặt trong trắng của thiên thần lại biến thành khuôn mặt gian ác của quỉ dữ? 2) Bạn sẽ thực tập nhân đức nào để loại bỏ thói hư quan trọng bạn đang mắc phải trong Mùa Chay này?
4. SUY NIỆM:
1) Cuộc hiển dung của Đức Giê-su:
- Biến cố Đức Giêsu biến hình trên núi hé lộ cho ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi Thầy Giê-su của các ông: Từ khuôn mặt đến y phục bên ngoài của Đức Giêsu đều biến đổi nên sáng láng đẹp đẽ khiến ba môn đệ cảm thấy sung sướng ngất ngây.
- Bấy giờ đang là lễ Lều Trại, ông Phê-rô trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh đã nhìn thấy Thầy Giê-su trò chuyện với hai nhân vật rất nổi tiếng là ông Mô-sê, đại diện cho Lề Luật và ông Ê-li-a, đại diện cho Lời Chúa phán, nên đã xin Thầy cho được dựng ba cái lều: Một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a.
2) “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7):
Tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám mây chính thức xác nhận Đức Giêsu là “Con Yêu Dấu” và dạy các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người”.
- Đức Giêsu là Con Một của Chúa Cha, mang nơi mình tất cả vinh quang và quyền năng của Chúa Cha, thể hiện qua việc biến đổi hình dạng và y phục: Khuôn mặt của Người trở nên sáng chói vinh quang của Thiên Chúa giống như ông Mô-sê sau khi được tiếp xúc với Đức Chúa. Áo Người đang mặc hóa nên “rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”. Các môn đệ ngỡ ngàng và ngây ngất khi được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu.
- Tiếp đến tiếng Chúa Cha từ trong đám mây truyền cho các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người”: Vâng lời Đức Giê-su là vâng lời Chúa Cha như Người đã nói: "Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy" (Lc 10,16). Vâng lời Đức Giêsu là làm theo lời Đức Ma-ri-a đã dạy gia nhân trong tiệc cưới Ca-na: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Cụ thể vâng lời Đức Giê-su còn là chấp nhận đi con đường “qua đau khổ là chấp nhận thập giá và cái chết để được vào trong vinh quang phục sinh”, điều mà ông Phê-rô đã không chấp nhận và còn lên tiếng can trách Đức Giê-su và đã bị Người mắng: “Xa-tan. Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Cuối cùng vâng nghe Đức Giêsu là không được nói với ai về những gì vừa chứng kiến, cho tới khi Con Người “từ cõi chết sống lại”.
3) “Từ trong cõi chết sống lại” (Mc 9,10) nhờ phương thế nào?:
Cuộc đời người tín hữu chính là họa lại cuộc sống của Đức Giê-su: Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được dìm mình trong dòng nước và trồi lên khỏi mặt nước giống như Đức Giê-su đã trải qua cuộc tử nạn và được an táng trong mồ, rồi ngày thứ ba đã từ cõi chết trỗi dậy. Các tông đồ các thánh tử đạo đã chấp nhận đi con đường này. Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải sẵn sàng chấp nhận sự thua thiệt, mất mát giữa đời thường. Chẳng hạn: vì đức tin và quyết tâm trung thành với Chúa không làm điều sai trái nên có thể mất việc làm, mất cả địa vị xã hội...
Thánh Phao-lô dạy: “Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa, chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,7-10). Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cũng cần xét mình và quyết tâm sám hối bằng việc loại trừ các thói hư như: lười biếng việc đạo đức dự lễ, đọc kinh gia đình, không tham lam ích kỷ vô trách nhiệm, tránh nói hành nói xấu kẻ vắng mặt, biết nín nhịn để không gây gỗ với những kẻ mình không ưa… Nhờ việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, dọn mình xưng tội, tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần, quyết tâm thi hành các công tác tông đồ bác ái và phục vụ cụ thể theo phân công của cấp trên… Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ được biến đổi nên người mới và được sống lại thật về linh hồn trong Mùa Phục Sinh sắp tới.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu, hiện giờ chưa tới lúc chúng con được biến hình vinh quang, nhưng đang là lúc chúng con phải biến đổi nên tốt hơn nhờ sự ăn năn sám hối tội lỗi và ăn chay hãm mình đền tội. Nhờ đó, chúng con sẽ ngày một nên con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Chúa Cha hơn, nên môn đệ thực sự của Chúa nhờ chăm chỉ nghe và thực hành Lời Chúa. Xin cho chúng con biết cộng tác với ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
13.Biến đổi lòng tin, biến đổi cuộc đời!--Lm. Anmai, C.Ss.R.
Ông bà ta vẫn thường nói “Ở trong chăn mới biết chăn có rận!” hay là “Đèn nhà ai nấy rạng”. Những câu nói ấy như muốn nói rằng khi và chỉ khi ở trong hoàn cảnh thì mới hiểu được chứ còn ở ngoài không thể nào hiểu được. Người ta cũng thường nói “có đau bệnh mới thương người ốm!”. Cũng như ý ở trên, ông bà ta muốn nói rằng khi mình đối diện với thực tại, đối diện với hoàn cảnh bi đát của cuộc đời người ta mới biết chứ còn chưa đối diện thì không thể nào biết được.
Nhớ lại thầy già trong nhà Dòng. Những ngày cuối đời, Thầy phải đối diện với những cơn đau đớn vật vã do chứng bệnh ung thư mang lại. Khi đến thăm Thầy, thầy thỏ thẻ với tôi: “Bây giờ có ai đến an ủi đi chăng nữa thì cũng không thể nào hiểu được cơn đau của tôi!”. Và cứ như vậy, Thầy cố gắng chịu đựng, dâng những cơn đau của thể xác lên cho Chúa như của lễ cuối đời của Thầy vậy. Câu nói của Thầy già làm tôi nhớ mãi. Chỉ có ai đau bệnh mới biết nỗi đau là gì chứ còn chỉ đến thăm, chỉ đến an ủi thì cũng chẳng thể nào hiểu được cơn đau đang hành hạ bệnh nhân.
Và rồi, một linh mục đàn anh cũng ra đi với căn bệnh ung thư quái ác. Những ngày cuối đời, cũng vào thăm anh nhưng tôi chỉ lặng lẽ nhìn anh chứ không dám nói gì vì có nói gì thì nói cũng chẳng thể nào xoa dịu được nỗi đau của anh. Đôi khi lời an ủi, lời nói nó trở thành phản cảm khi người bệnh vì lẽ chúng ta không hiểu, không mang tâm trạng đau đớn là gì. Phải có sự hy sinh và đặc biệt là có lòng tin con người mới có thể chịu đựng, vượt qua những cơn đau đớn mà thể xác bị hành do đau bệnh.
Mới đây, chiều mùng 1 Tết. Nhận được cuộc điện thoại của một Sơ báo tin một Sơ thân quen vừa được Chúa gọi về sáng mùng 1. Kể lại hành trình chuyển Sơ kia từ thành phố về Buôn Ma Thuột, Sơ bên kia điện thoại nhấn đi nhấn lại chuyện phải đấu tranh với ma quỷ trong những giờ phút cuối đời của bệnh nhân. Những cơn đau đớn hoành hành, những cơn vật vã do chứng bệnh ung thư đôi khi làm nhụt chí bệnh nhân, làm cho bệnh nhân nản lòng trông cậy. Sơ nói với tôi rằng, lúc ấy phải đọc kinh, cầu nguyện để giành giật lại với sức lôi kéo của ma quỷ.
Nhớ đến giờ khắc cuối cùng của Mẹ tôi cũng thế! Bà bị bệnh ung thư! Trước khi mời cha đến xức dầu, Mẹ cứ quay mặt vô tường không thèm nhìn ai, nói chuyện với ai dù lúc đó Mẹ rất tỉnh táo. Kể từ lúc lãnh bí tích xức dầu và được người đọc kin phó linh hồn, bỗng dưng bà quay ra nhìn mọi người lần cuối và vẻ mặt thanh thản hơn trước đó! Thế đấy! Giờ phút cuối, giờ phút chuẩn bị ra đi của con người, giờ phút phải đối diện với cái chết thật là căng thẳng. Chính giờ phút ấy con người phải đối diện với lòng tin vào Đấng Cứu Độ mà bao nhiêu lâu nay họ theo. Chính giờ phút ấy là giờ phút quyết định ơn cứu độ của con người và con người phải dứt khoát trước giờ phút ấy.
Câu chuyện về Abraham sát tế cục cưng của mình là Isaac chúng ta đã nghe quá nhiều lần. Nhiều đến độ chỉ cần nghe “Lời Chúa trong sách sáng thế …” rồi “Người gọi ông: "Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây! ". Cứ nghe như vậy là chúng ta biết về trình thuật về việc Thiên Chúa thử lòng tin của ông. Phải nói là Thiên Chúa quá cay nghiệt khi bắt Abraham đáp trả lòng tin bằng việc sát tế đứa con yêu của mình. Thử hỏi mỗi người chúng ta khi phải từ bỏ vật chất, từ bỏ một chút lợi lộc nào đó chúng ta chưa dám bỏ chứ huống hồ gì là đứa con độc nhất vô nhị của mình. Nghe nhiều, đọc nhiều thấy chẳng có gì cả vì chúng ta biết trước kết cục của câu chuyện là Abraham đã sẵn sàng sát tế con mình nhưng Thiên Chúa đã ra tay ngừng lại như đoạn sách mà chúng ta vừa nghe.
Biết câu chuyện, biết trình thuật, biết kết quả có lẽ không hay lắm khi ta phải đối diện với thử thách to lớn như Abraham. Nói thì ai nói cũng được và nói thì dễ nhưng làm thì quả là quá khó khăn, quá xa vời. Thử đặt mình vào hoàn cảnh thật của Abraham chúng ta sẽ thấy căng thẳng đến chừng nào khi đáp trả lời mời gọi của Chúa. Lòng tin lúc đó được thử thách một cách hết sức căng thẳng. Thử hỏi chúng ta có một đứa con duy nhất chúng ta có dám sát tế để dâng cho Chúa không? Trường hợp Abraham còn bi đát hơn khi ông và bà Sara vợ ông đã quá thời sinh nở. Có đứa con cầu con tự vậy mà Chúa lại bảo phải hiến dâng! Thật là cay nghiệt, thật là bi đát.
Sau khi thử thách lòng tin, Thiên Chúa đã ban cho ông ân huệ đúng như lời Thiên Chúa hứa là cho ông trở thành cha của nhiều dân tộc, là cha của dòng dõi những kẻ tin. Abraham đã được Thiên Chúa đổi tên và từ đó, cuộc đời của ông được ơn nghĩa với Thiên Chúa và ơn của Chúa ở với ông cho đến suốt đời.
Cũng như những người bệnh, chúng ta khi đối diện chúng ta mới biết được căng thẳng là dường nào. Chúng ta có đáp trả lại lòng tin trong thử thách đau đớn phút cuối đời để sau đó chúng ta được hưởng phúc vinh quang với Chúa là Đấng Cứu Độ chúng ta không?
Chúng ta chúc tụng, hoan hô, ca ngợi Abraham thì cũng bằng thừa vì lẽ chuyện đã xảy ra rồi. Phải nói là Abraham liều mạng, Abraham đã bỏ ngõ cuộc đời mình, bỏ ngõ tương lai của mình vào phán quyết của Thiên Chúa. Đứng vào vị thế của Abraham chúng ta sẽ trả lời với Chúa như thế nào? Câu trả lời ấy tuỳ thuộc vào mỗi người chúng ta, vào lòng tin của mỗi người chúng ta.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Maccô thuật lại cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Trong giây phút huy hoàng của cuộc đời, các ông nói với Thầy rằng: “chúng con ở đây thật là hay!”. Thế nhưng sau cái giây phút vinh quang ấy, trở về với đời thường, lòng tin của các ông cũng rất chênh vênh, cũng rất cheo leo. Đơn giản nhất mà chúng ta thấy đó là vào giây phút nghiệt ngã nhất của cuộc đời Chúa Giêsu, giây phút mà Chúa Giêsu lên Giêrusalem để chịu đau khổ ấy thì chúng ta thấy còn được mấy môn đệ theo Chúa? Lúc bấy giờ còn ai dám nói với Thầy Giêsu rằng “chúng con ở đây thật là hay” nữa. Chỉ còn mình Mẹ Maria và môn đệ yêu dấu là Gioan mà thôi.
Thật ra, chúng ta thấy các môn đệ được Chúa Giêsu tỏ mình và rồi các môn đệ đã một lần nữa xác tín cuộc đời của mình vào Thầy Chí Thánh. Dẫu cuộc đời có những lúc chênh vênh, có những lúc chuệch choạc như Phêrô chối Thầy nhưng cuối cùng Phêrô vẫn tin vào Thầy và được làm Đá Tảng của Hội Thánh.
Vâng! Chắc có lẽ cuộc đời của ta cũng giống như các môn đệ xưa thôi! Chúng ta vẫn đi theo Chúa, chúng ta vẫn được Chúa tỏ mình nhiều lần nhiều cách trong cuộc đời nhưng chúng ta không nhận ra chúng ta không tin để chúng ta biến đổi cuộc đời như các môn đệ xưa.
Chúng ta dừng lại đôi chút để nhìn lại cuộc đời mình. Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn, Chúa đã tỏ mình cho chúng ta quá nhiều lần nhưng lòng chúng ta cứ chai lại, cứ cứng thêm.
Qua các ngôn sứ, qua sách Thánh chúng ta biết rõ rằng Đức Giêsu Kitô – Chúa chúng ta – đã đón nhận cái chết và chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ chúng ta nhưng lòng chúng ta cứ hững hờ làm sao đó.
Một con người phải nói là cứng tin, quay lưng lại với Chúa nhưng rồi sau những biến cố của cuộc đời đã thay đổi cuộc đời, đã biến đổi lòng tin của mình. Người ấy chính là tác giả thư gửi tín hữu Rôma mà chúng ta vừa nghe đấy. Cuộc đời của Ngài có quá nhiều thử thách. Ngài sinh ra thuộc dòng dõi Bengiamin, là người Pharisêu chính hiệu, Ngài được học hành tử tế và giữ luật Do Thái một cách không ai trách khứ được như Ngài đã từng tâm sự. Ban đầu bắt Chúa đấy nhưng cuối cùng đã quay về với Chúa và quy phục trước Chúa. Trong đoạn thư ngắn hôm nay Ngài quả quyết với chúng ta: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8,31b-34).
Để có lòng tin vào Chúa thánh Phaolô đã trải qua biết bao nhiêu thử thách về lòng tin, về sự từ bỏ những vinh quang lợi lộc trần gian. Qua những thử thách, qua những khó khăn Thánh Phaolô đã khẳng định, đã xác quyết với mỗi người chúng ta về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa sau những trải nghiệm của đời Ngài. Ngài đã minh định lòng tin cho chúng ta để rồi lòng tin của chúng ta có nền tảng. Không chỉ mình Thánh Phaolô mà còn nhiều vị thánh Tông đồ và các thánh khác đã tuyên xưng lòng tin của mình trước bao nghịch cảnh của cuộc đời. Sau khi được biến đổi lòng tin, cuộc đời của các Ngài đã được biến đổi và được hưởng Nhan Thánh Chúa muôn đời.
Con đường của lòng tin, con đường của sự tín thác vào Thiên Chúa không đơn giản như một số người nghĩ. Lòng tin luôn bị thử thách và luôn luôn cần được đáp trả. Như Abraham xưa, chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi lời đáp trả về lòng tin.
Thiên Chúa ngày hôm nay có thử thách chúng ta thì Ngài không thử thách khắc nghiệt như thử thách Abraham hay Phaolô. Thiên Chúa không còn đòi buộc chúng ta phải sát tế đứa con thừa tự duy nhất của chúng ta như Abraham hay là Thiên Chúa không đòi buộc chúng ta phải từ bỏ tất cả những vinh hoa phú quý của cuộc đời như Phaolô. Thiên Chúa thử thách chúng ta qua những biến cố nho nhỏ trong cuộc đời: Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ một chút đố kỵ trong lòng chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta bỏ một chút lòng tự cao tự đại trong ta, Chúa mời gọi chúng ta bỏ một chút tính điêu ngoa chua chát trong lòng chúng ta …. Phần đáp trả chính là phần của chúng ta. Thiên Chúa luôn luôn ở lại với mỗi người chúng ta như Chúa đã từng ở với Abraham, với Phaolô.
Nguyện xin Chúa đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta xác tín hơn lòng tin của chúng ta vào Chúa. Xin Chúa thương ban thêm lòng tin cho mỗi người chúng ta để chúng ta có thể đứng vững trước bao nhiêu sóng gió của cuộc đời.
Xin Chúa biến đổi lòng tin của chúng ta, xin Chúa biến đổi cuộc đời của chúng ta như xưa Chúa biến đổi cuộc đời Abraham, cuộc đời Thánh Phaolô và các thánh nam nữ của Thiên Chúa.
14.Xin ơn biến đổi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố Chúa Giêsu biến hình, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.
Thánh sử Marcô nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cao cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện... bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia.... Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình:
1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình?
2. Tại sao Môise và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?
3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi?
Tại sao Đức Giêsu Biến Hình?
Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.
Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?
Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn, vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô” (x. Mc 8, 29). Hơn nữa, cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17). Phần Gioan, vì đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là “người môn đệ Chúa yêu” (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” (Mt 20, 22), ông giữ lời và đã đi đến cùng điều ông cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.
Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?
Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Người. Có kẻ cho Người là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác cho là Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mc 8,28).
Người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa, không thuộc về Người. Trong lúc biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Người khẳng định mình còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta rằng Người là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Người biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.
Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, Phêrô đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.
Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng:
Vinh quang Ba Ngôi
Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong biến cố Chúa biến hình. Chúa biến hình là hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: “Ðây là Con Ta Yêu Dấu!” (Mc 9, 7). Trong ánh sáng vinh quang, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ.
Lắng nghe lời Đức Giêsu
Trong biến cố Chúa biến hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, mà còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa gửi đến. Ngoài Lề Luật nơi ông Môisen và lời tiên tri nơi sứ ngôn Êlia, lời Chúa Cha còn vang lên mời gọi chúng ta “vâng nghe lời Người” (Mc 9, 8).
Xin ơn biến đổi
Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, là những con đường dẫn chúng ta lên Núi Thánh. Ở đó, Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con.
Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Người.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta cũng biết biến đổi: biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.
15.Xin ơn biến đổi trong Mùa Chay Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay Thánh, phụng vụ Giáo Hội trình bày cho chúng ta cảnh đẹp lộng lẫy biến hình của Chúa Giêsu, có Phêrô, Giacôbê và Gioan làm chứng. Tin Mừng mô tả: “Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt các ông và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết” (Mc 9, 2-3).
Chúa Giêsu biến hình
Trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.
Xin ơn biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần
Chúa biến hình, báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng con mắt cũng như trái tim để nhìn thấy Ánh Sáng nhiệm mầu của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Bốn thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Nếu như sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13), thì giờ đây chúng ta cũng phải xin Chúa Thánh Thần trợ giúp.
Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta biết biến đổi. Nhưng để biến đổi đâu có dễ, cần phải ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay, đặc biệt là xin Ngài biến đổi.
Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người khô khan biếng trễ xưng tội rước lễ, lười đi nhà thờ bỏ lễ Chúa nhật thành người đạo đức thánh thiện và siêng năng. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự mãn thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.
Chúa Thánh Thần đã biến đổi các giác quan của các tông đồ, họ mới có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Cặp mắt được đổi mới, các ông mới nhìn rõ hơn những gì tỏa sáng, tai được biến đổi để nghe rõ hơn tiếng nói tuyệt vời và có thật: là tiếng nói của Thiên Chúa Cha, Đấng hài lòng về Con yêu dấu của Ngài. Chúng ta cũng thế, hãy để Chúa Thánh Thần tác động mới mong được biến đổi, giác quan của chúng ta mới có thể nhìn thấy và nghe được những điều kỳ diệu và vui mừng trong Thiên Chúa cùng với hàng ngũ các thánh đã được Chúa Giêsu phục sinh từ trong cõi chết.
Để được biến đổi
Hãy vâng nghe lời Chúa.
Nhờ vâng nghe và thực hành lời Chúa, tổ phụ Abraham đã lên đường. Chúa bảo đi là đi. Thế nên, Abraham đã trở nên tổ phụ của một dân tộc đông đảo như sao trời cát biển.
Trong lúc biến hình, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, và dạy các môn đệ: “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Có vâng nghe lời Chúa Cha, Đức Giêsu mới trở nên người con chí ái đẹp lòng Cha mọi đàng. Nhờ vâng nghe Lời Chúa, chúng ta mới xứng đáng là người môn đệ của Đức Giêsu.
Cầu nguyện
Đang khi cầu nguyện, Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trở nên sáng láng. Chúng ta cũng chỉ được biến đổi thân phận tội lỗi của mình bằng việc tha thiết cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp và thứ tha. Đây là Mùa Chay, mùa biến đổi, chúng ta cần đến với Chúa để được biến đổi trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chẳng hạn như tham dự tĩnh tâm, giục lòng ăn năn sám hối tội lỗi, quyết tâm sửa đổi thói hư tật xấu bằng việc thực hành nhân đức mỗi ngày để đền tội.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi con. Xin biến đổi con mắt, môi miệng và lỗ tai con, để con biết thấy cái hay cái đẹp của tha nhân, biết nói lời hay lẽ phải, biết nghe Lời Chúa, và nhất là thực hành Lời Chúa dạy. Amen.
16.“Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Đi riêng ra một chỗ
Trên đường đi theo Đức Ki-tô, vào một lúc nào đó, các tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan được chọn để đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Trong Kinh Thánh, núi là nơi Thiên Chúa tỏ hiện và con người đi lên núi để gặp gỡ Ngài. Núi có ý nghĩa như thế, vì đó là hình ảnh diễn tả việc giữ khoảng cách với những vấn đề của cuộc sống, vốn hay trói buộc con người, để có thể hướng về trời cao và những gì thuộc về trời cao. Chính vì thế, Đức Giê-su hay lên núi cầu nguyện, giảng ở trên núi, chẳng hạn Bài Giảng Trên Núi trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu (Mt 5-7); và đặc biệt lần này, trên một ngọn núi cao, Ngài bày tỏ căn tính thần linh của Ngài trong tương quan với Thiên Chúa Cha và lịch sử cứu độ.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, trong ơn gọi thánh hiến và cả trong ơn gọi gia đình nữa, chúng ta cũng được Chúa mời gọi, và phải nói mạnh hơn, được Chúa chọn, đi riêng ra một chỗ, tới “ngọn núi cao” biểu tượng, nghĩa là tới nơi Thiên Chúa tỏ hiện và ngỏ lời với chúng ta, để lắng nghe Lời của Ngài, để nhận ra ân huệ Ngài ban và cảm nếm được sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta, qua đó, có thể ca tụng và tạ ơn Chúa, và cũng để xin Ngài chữa lành, soi sáng, thêm sức và tái tạo chúng ta, và có khi một cách đơn sơ, để ở với Ngài một cách nhưng không. Cuộc sống của chúng ta vốn đầy thách đố đủ loại, vì thế, chúng ta cần biết bao, cùng với Chúa, đi riêng ra một nơi, lên ngọn núi cao.
Thật ra, những lúc đi riêng ra một nơi với Chúa, vẫn được ban cho chúng ta đấy thôi, nhưng chúng ta lại thường không đón nhận cách quảng đại như một ơn huệ Chúa ban.
* Đó là thời gian cầu nguyện cá nhân hằng ngày.
* Đó là thời gian chúng ta dâng Thánh Lễ, đọc kinh Phụng Vụ, thời gian chúng ta cầu nguyện chung với nhau.
* Đó là thời gian tĩnh tâm, tĩnh tâm tháng, tĩnh tâm năm hay những lúc chúng ta khao khát cầu nguyện và sắp xếp được thời gian.
Ước gì trong những lúc “đi riêng ra một nơi” với Chúa, Chúa ban cho chúng ta có cùng kinh nghiệm thiêng liêng như các tông đồ, đó là cảm nếm căn tính chói ngời của Chúa, để có thể nói: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!”.
2. Dung nhan rạng ngời của Đức Giê-su
Ánh sáng chói lòa của Đức Giê-su trên đỉnh núi (Mc 9, 2-8) muốn nói cho chúng ta về kinh nghiệm niềm vui và hạnh phúc của lựa chọn cho đi sự sống của mình, đánh liều cuộc đời mình trong một ơn gọi, vì Đức Kitô và vì Tin Mừng, như chính Ngài đã nói trước đó:
Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.
(Mc 8, 34-38)
Chính lúc Đức Giê-su biến đổi hình dạng, là lúc có sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Elia, tượng trưng cho lịch sử cứu độ. Chúng ta hãy lắng nghe các ngài đàm đạo. Theo thánh sử Lu-ca, các vị đàm đạo về cuộc Xuất Hành Người sẽ hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (Lc 9, 31). Như thế, lịch sử cứu độ (Lề Luật và ngôn sứ) loan báo mầu nhiệm Vượt Qua và mầu nhiệm Vượt Qua hoàn tất lịch sử cứu độ. Mà lịch sử cứu độ là gì? Là lịch sử kể lại sự hiện diện, sự quan phòng và cách dẫn đưa của Thiên Chúa giầu lòng thương xót hành trình làm người của những cuộc đời, của một dân tộc, đầy thăng trầm và tội lỗi, bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, không chỉ từ khởi đầu của dân tộc Israel, nhưng ngay từ khởi của loài người (x. St 3).
Chúng ta hãy chiêm ngắm Đức Giê-su trở nên chói lọi như mặt trời, như bản văn Tin Mừng tường thuật: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 2-3); và theo lời kể của thánh Mát-thêu: “Dung nhan người chói lọi như mặt trời, và y phục người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2). Như thế, chính khi lịch sử cứu độ được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Giê-su, dung nhan của Ngài trở nên Mặt Trời, Mặt Trời ban ánh sáng, sức nóng và sự sống: “Chẳng có chi tránh được ánh dương nồng” (Tv 19, 7).
Dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ được hiểu như trên, chúng ta được mời gọi đọc lại và nhận ra cuộc đời chúng ta cũng là một “lịch sử cứu độ”, như kinh nghiệm thiêng liêng của hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24, 13-35), tuy đầy thăng trầm, tội lỗi và bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, nhưng hướng tới Mầu Nhiệm Vượt Qua và được Mầu Nhiệm Vượt Qua hoàn tất, như thánh sử Gioan mong ước: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20, 31). Chính khi nhận ra hành trình làm người và hành trình ơn gọi của chúng ta, quá khứ, hiện tại và tương lai của cuộc đời chúng ta hướng tới và được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Ki-tô, đó sẽ là lúc chúng ta sẽ có được kinh nghiệm chiêm ngắm Dung Nhan chói ngời của Đức Ki-tô.
Vậy, trên hành trình đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình và nhất là trong đời sống dâng hiến, chúng ta hãy ước ao và xin Chúa ban cho chúng ta kinh nghiệm thiêng liêng nền tảng này: Đức Ki-tô trở nên chói ngời trong cuộc đời và ơn gọi của chúng ta ; và ước gì cuộc sống hằng ngày của chúng ta với những đòi hỏi của ơn gọi, là lời diễn tả tâm tình vui sướng: “Lạy Chúa, chúng con ở đây, thật là hay!”
3. “Chúng con ở đây thật là hay”
Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của các môn đệ để hiểu hết lời nói này của ông Phê-rô:
Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!
Chúng con xin dựng ba cái lều…
Có người hiểu câu nói này của ông Phê-rô như sau: “Rất may, có chúng con ở đây để phục vụ các Ngài…”. Tuy nhiên, như Thánh Mác-cô thuật lại, thực ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Vì thế, chúng ta phải hiểu đó đơn giản là lời diễn tả cảm xúc, diễn tả niềm hạnh phúc khôn tả được chiêm ngắm vĩnh cửu ; và ông Phê-rô muốn duy trì hạnh phúc này mãi mãi, bằng cách dựng lều cho các vị. Lều là biểu tượng của sự an nghỉ cánh chung. Và đối với ông Phê-rô, cánh chung là đây.
Chúng ta hãy ước ao có được kinh nghiệm này khi chiêm ngắm các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Giê-au, và nhất là Cuộc Thương Khó của Ngài, vì có một lúc nào đó, Ngài sẽ trở lên chói lọi đối với chúng ta. Và chính với kinh nghiệm chiêm ngắm Đức Ki-tô chói ngời trong các Tin Mừng và trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta có thể nhận ra Chúa chói ngời, ngay trong đời sống đi theo Người đầy thách đố của chúng ta.
Thật vậy, đó chính là điều Chúa Cha muốn, khi Ngài đáp lời Phê-rô. Bởi vì, khi ông còn đang nói, có đám mây sáng ngời bao phủ cách ông. Đám mây là hình ảnh của sự di động, không thể làm chủ hay nắm bắt được, thay vì cố định, dễ làm chủ và nắm bắt như căn lều ; và từ đám mây Thiên Chúa Cha lên tiếng:
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời người.
Như thế, chính khi chúng ta vâng nghe Đức Giê-su, và đi theo Ngài trên con đường Thập Giá, trong ơn gọi của chúng ta với tâm tình biết ơn và yêu mến, chúng ta sẽ có được niềm hạnh phúc thần linh của Thiên Chúa. Và khi đó, chúng ta có thể nói: “Lạy Chúa, chúng con ở đây thật là hay!”.
17.Đường lối của Thiên Chúa và tư tưởng của con người--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Hôm nay, thánh sử Máccô trình thuật câu chuyện Đức Giêsu biến hình. Việc Đức Giêsu biến hình được diễn ra sau khi vị Tông đồ trưởng tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Tuy nhiên, ngay sau khi ông tuyên tín như vậy, Đức Giêsu đã tiên báo cho các ông biết trước về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu. Thấy vậy, Phêrô đã can ngăn kịch liệt khi nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Thầy mình, ông nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" (Mt 16,22).
Nhưng Đức Giêsu đã quở mắng cách nặng nề khi nói ông là “Xatan”. Ngài cũng nói thêm: Tư tưởng của Phêrô là tư tưởng của loài người, không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.
Chính vì lý do trên, mà hôm nay, Đức Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín với mình lên núi Tabor và biến hình trước mắt các ông, để qua đó, dần dần Ngài mặc khải và dẫn các ông vào đường lối cũng như tư tưởng của Thiên Chúa.
1. Lý do Đức Giêsu hiển dung
Các môn đệ là những người được Đức Giêsu đích thân tuyển chọn làm trợ tá cho Ngài, để rồi mai đây chính Ngài sẽ trao phó Giáo Hội cho các ông, ngõ hầu các ông sẽ tiếp bước đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa!
Tuy nhiên, không thể trao phó một công trình vĩ đại, quan trọng, mang tính trường tồn cho những người lơ mơ…, trao phó như thế thì chẳng khác gì “trao trứng cho ác”.
Thiếu hiểu biết và nhiều khi hiểu sai đường lối của Đức Giêsu nơi các môn đệ thật là rõ nét, vì đã có những lúc các ông phỏng chiếu một Đức Giêsu oai phong, quyền lực, chẳng khác gì các vị tướng lãnh chốn trần ai.
Thế nên, nơi các ông, nhiều lần họ đã đôi co với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời; có những người lại còn dẫn cả mẹ mình đến để năn nỉ kỳ nèo cho được ngồi bên tả và bên hữu trong Nước mà Đức Giêsu sẽ thiết lập; rồi cụ thể như Phêrô, chỉ cách đó có 6 ngày, ông đã đại diện cho anh em để tuyên xưng hùng hồn niềm tin của mình vào Thầy Giêsu, nhưng sau đó, khi nghe thấy Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu, ngay lập tức, ông đã không chần trừ, mà đã khẳng khái lên tiếng can ngăn! Như vậy, các môn đệ là những người kề vai sát cánh bên Đức Giêsu, nhưng tư tưởng của các ông vẫn lè phè dưới đất, chưa vươn lên để hiểu được tâm tư của Thầy mình.
Chính vì những lý do này, nên các ông không thể chấp nhận một Vị Tôn Sư mà mình chọn làm người dẫn dắt, lại là một người thất bại qua cái chết đau thương và nhục nhã trên cây thập tự giá như một tử tội được!
Để giúp các môn đệ, nhất là ba môn đệ thân tín mà sau này chính các ông sẽ là các chứng nhân trong những chuyện đặc biệt, nên Đức Giêsu đã đưa các ông lên núi Tabor để biến hình trước mắt các ông, nhằm củng cố đức tin, ban hành sứ điệp và đưa các ông đi vào đường lối cứu chuộc của Thiên Chúa.
2. Qua đau khổ mới đến vinh quang
Câu chuyện biến hình được khởi đi từ việc Đức Giêsu dẫn ba môn đệ của mình lên núi, và đang khi Ngài cầu nguyện “rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy (x. Mc 9, 3).
Bên cạnh Ngài còn có Môsê là người đại diện cho lề luật Cựu Ước, và Elia là ngôn sứ vĩ đại nhất. Cả hai cùng hiện ra và đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này cho thấy: toàn bộ lề luật và lời các ngôn sứ đều quy hướng về Đức Giêsu và về cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài như là trung tâm của công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Đức Giêsu!
Khi thấy diện mạo Đức Giêsu biến đổi và khung cảnh thánh thiêng, huy hoàng tuyệt đẹp như vậy, tâm hồn các ông ngây ngất và lòng các ông hân hoan quá đỗi.
Chắc chắn trong cuộc đời của các ông chưa một lần nào được hạnh phúc như vậy! Vì thế, Phêrô đã thay lời cho Gioan và Giacôbê để thưa lên với Đức Giêsu, ông nói: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia" (Mc 9, 5).
Qua lời đề nghị này của Phêrô, lại một lần nữa, nơi ông toát lên tính hưởng thụ, thực dụng…! Ông muốn được ở lại trong vinh quang với Đức Giêsu mãi mãi và không chịu đối diện với thực tế mà ông và các bạn của ông sẽ còn phải tiếp tục…!!!
Thấy được điều đó, Đức Giêsu đã không để cho các ông rơi vào tình trạng bi đát của tư tưởng: “Thích sướng, ngại khổ”. Nên Ngài đã không những khước từ đề nghị của ông, mà còn mặc khải cho ông hiểu được quy luật tất yếu của Tin Mừng, đó là: “Phải qua đau khổ mới tới vinh quang.”
Sau khi cho các ông lạc vào thiên cung, cho các ông nếm trước vinh quang Thiên Quốc, Đức Giêsu đã mời gọi các ông phải xuống núi.
Xuống núi với anh em, với đồng loại, và với những công việc thường ngày.
Xuống núi để tiếp tục cuộc hành trình theo Thầy của mình. Xuống núi trong tâm tình cảm nghiệm rõ nét con đường mà Thầy đã, đang và sẽ đi, để mai đây chính mình sẽ tiếp bước.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Trong đời sống thực tế của nhiều người nơi cộng đoàn, đã có nhiều lần chúng ta cũng mang trong mình tư tưởng của các Tông đồ khi xưa, đó là: tham sân si; tranh gành địa vị; trọng hình thức mà quên đời sống nội tâm. Nhiều khi gây chia rẽ, lên mặt dạy đời, hay luôn chọn cho mình những công việc nhàn hạ, còn việc nặng nhọc để lại cho người khác. Rồi cũng không thiếu những người theo Chúa, tin Chúa, nhưng theo và tin kiểu công dân hạng hai, tức là lúc thuận tiện thì theo và tin…, nhưng khi gian nan thử thách đến là bỏ giữa chừng và sẵn sàng đi cầu ông nọ, khấn bà kia thay Chúa.
Đôi khi chúng ta cũng có tư tưởng thực dụng như: tìm mọi cách để níu kéo Thiên Chúa về với mình. Thiên Chúa là Đấng ta được hưởng độc quyền, còn người khác, chúng ta luôn muốn Chúa phải thẳng tay để đánh phạt họ….
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có tư tưởng của Thiên Chúa thay cho tư tưởng của loài người. Đó là: luôn đặt ý Chúa lên trên hết. Phải biết yêu thương nhau chân thành. Xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất và bình an. Sẵn sàng kề vai sát cánh bên nhau cả những công việc nhẹ nhàng lẫn công việc nặng nề.
Biết đón nhận những đau khổ, thử thách trong đời sống đạo với tâm tình: “Mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28). Và: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Sẵn sàng lột xác để biến đổi, để từ con người ích kỷ, thành bao dung; từ chỗ thực dụng thành vô vị lợi; từ chỗ chỉ biết nghĩ đến mình, thì giờ đây biết nghĩ đến người khác; từ chỗ muốn được hạnh phúc và sung sướng mà không chấp nhận đau khổ, thành một người mang trong mình tư tưởng của Thiên Chúa và đi vào đường lối của Đức Giêsu đã đi, đó là: “Qua đau khổ mới đến vinh quang”.
Muốn thực thi được những điều trên, quan trọng nhất, chúng ta phải biết lắng nghe lời Đức Giêsu, thi hành điều Ngài dạy và đi theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đã đi khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, chắc chắn đã có nhiều lần chúng con như các môn đệ khi xưa, đó là: chỉ thích sung sướng, hạnh phúc mà không biết đón nhận khổ đau. Xin Chúa khai trí mở lòng chúng con, để chúng con hiểu được đường lối cũng như tư tưởng của Chúa, từ đó, biết đi theo Chúa trên chính con đường mà Ngài đã đi để được sống đời đời. Amen.
18.Đây là Con Ta yêu dấu--Lm. Trầm Phúc
Biến cố Chúa biến hình trên núi đã trở thành một câu chuyện quen thuộc đối với chúng ta và như thế, chúng ta không còn chú trọng đến nhiều mà chỉ xem như một câu chuyện thông thường. Nhưng nó vẫn là một biến cố không thường, đối với các môn đệ và cho cả chúng ta hôm nay.
Chúa biến hình như một khúc nhạc dạo đầu của một bi kịch độc nhất vô nhị trên trần gian sắp diễn ra trên thập tự.
Chúa Giêsu chỉ chọn ba môn đệ mà thôi. Những môn đệ sau nầy sẽ chứng kiến rõ rệt nhất cuộc khổ nạn của Ngài, những trụ cột quan trọng nhất của Giáo Hội. Ngài đã sống giữa các ông như các ông. Xem ra Ngài tầm thường như mọi người trừ những khi Ngài làm phép lạ. Nhưng hôm nay, trên đỉnh núi, Ngài trở nên như một người không còn thuộc về trần thế nầy nữa. Vinh quang của Ngài rực sáng qua y phục của Ngài và có sự hiện diện của hai nhân vật là tiên tri Êlia và ông Môsê đàm đạo với Ngài. Những việc xảy ra gần như vượt xa khỏi tầm hiểu của các môn đệ, vì thế Phêrô ngây ngất vì thấy vinh quang của Thầy, vừa thấy hai nhân chứng quan trọng nhất của Cựu Ước hiện ra.
Ông xin làm ba lều cho Thầy và cho hai nhân vật kia, để ở lại với các Ngài lâu dài. Thời điểm nầy, dân Do thái đang mừng lễ Lều, nhắc lại thời cha ông của họ lưu lạc trong sa mạc, sống dưới lều tạm. Nhưng ý của Phêrô lại khác, vinh quang của Thầy làm ông choáng ngợp và mong ước cất ba lều để kéo dài những giây phút ngất ngây đó. Thánh Maccô không nói rõ là hiện tượng ánh sáng đó kéo dài bao lâu, và cuộc đàm đạo đó ngắn hay dài. Đối với Phêrô và các môn đệ, đây là một kinh nghiệm không thể quên. Sau nầy Phêrô còn nhắc lại trong thư thứ hai của ngài: “chúng tôi đã thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Ngài”.
Phêrô, trong thư thứ hai cũng nhắc đến lều là thân xác với ý nghĩa là chúng ta chỉ sống tạm trong thân xác mà thôi: “Tôi thiết nghĩ: bao lâu còn ở trong cái lều nầy… vì biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều nầy…” Khi viết những giòng chữ nầy, chắc thánh nhân cũng nhớ đến ngày nào đó, ông đã xin dựng ba lều cho Chúa và hai vị khách thiên quốc trên đỉnh núi. Giờ đây, ông đã hiểu bài học Chúa Giêsu đã cho ông trên đỉnh núi kia là thân xác chúng ta, dù chỉ là tro bụi, cũng tàng trữ vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta, khi chúng ta dám theo Ngài lên đỉnh núi vinh quang và theo Ngài cho đến đỉnh núi thống khổ Canvê.
Thánh Phêrô cũng nói đến thị kiến trên đỉnh núi: “Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang danh dự, khi có tiếng từ trời phán với Người: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quí mến”. Tiếng nói đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người. Lời chứng của Phêrô trùng hợp với lời tường thuật của thánh Maccô.
Chính Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Chí Ái của Người. Người Con đó, Chúa Cha đã ban cho chúng ta làm giá chuộc cho chúng ta như thánh Gioan cũng nói: “Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi ban Con Một cho trần gian”. Và hôm nay, Giáo Hội cũng nhắc đến ông Abraham được lệnh Chúa sát tế Isaac, đứa con duy nhất của ông. Một lệnh truyền rất khó thực hiện, nhưng Abraham đã vâng phục. Chúng ta hiểu thế nào là sự vâng phục tuyệt đối của ông. Ông dám vâng phục vì ông đã tin vô điều kiện. Nhưng mệnh lệnh đó đã kết thúc trong niềm vui. Phải chăng đây là hình ảnh của tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với chúng ta. Abraham dâng con một mình cho Thiên Chúa, Thiên Chúa lại trao ban cho chúng ta Con Một của Người. Hai hình ảnh quyện vào nhau để nói lên mối liên hệ thật sâu đậm giữa Thiên Chúa với chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Ngài cái gì quí nhất của chúng ta và ngược lại, chính Ngài lại ban cho chúng ta cái gì quí báu nhất của Ngài, là đứa con một yêu dấu của Ngài.
Chúa Giêsu được trao ban cho chúng ta, chính Chúa Cha đã xác nhận như thế: “Nầy là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ngài là lời nói duy nhất của Chúa Cha. Nghe lời Ngài chính là nghe lời Chúa Cha. Nghe lời Ngài không phải chỉ nghe bằng lỗ tai, cũng không như một tiếng nói, một âm thanh, mà là chấp nhận chính bản thân Ngài vì Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, vì thế Ngài là sự sống. Tin vào Ngài sẽ được sống. Chúng ta nhận được một quà tặng hết sức quí báu là chính Con Một Thiên Chúa. Ngài đã được trao tặng để sống với chúng ta, và chính Ngài lại gánh vác tội lỗi chúng ta, mang lại cho chúng ta ơn tha thứ và hạnh phúc thiên đàng. Ngài làm người để biến trần gian nầy thành thiên quốc. Nhưng chúng ta không bước theo Ngài, không mấy người tin vào Ngài, không sống như Ngài, làm sao biến trần gian nầy thành thiên quốc được? Nhiều người có thể xem điều nầy chỉ là mơ mộng viễn vông, nhưng chỉ vì họ không thể thực hiện được. Chúng ta có dám sống như Ngài không? Dám hy sinh cái gì quí nhất là bản thân mình để phục vụ Chúa không? Abraham, xưa đã dám liều, và hôm nay cũng có những kitô hữu cũng đang liều mình cho Chúa và anh em trên khắp thế giới. Những người đó mới thực sự là Kitô hữu, là những chứng nhân can đảm cho tình yêu Chúa.
Chúa Giêsu đến trong trần gian, mang thân con người, sống như con người để biến hóa mọi sự. Ngài làm cho trần gian nầy mang một ý nghĩa. Trước tiên, “Ngài sẽ chết cho chúng ta… sẽ biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”. Tất cả thực tại trần gian sẽ mang lấy ánh sáng của Ngài, sẽ được biến hình trong vinh quang như Ngài, chúng ta cũng sẽ được biến đổi như Ngài để thành con ánh sáng. Trần gian đang cần những con người mang ánh sáng vì càng ngày bóng tối của tội lỗi đang phủ lấp thế gian và con người càng lún sâu vào một cuộc sống vô nghĩa, không có ngày mai, không một ánh sáng hy vọng nào.
Hãy mang lấy ánh sáng của tình yêu, như Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, Ngài đã đến thắp lên ngọn đèn hy vọng, chúng ta đừng để nó tắt đi.
Mùa Chay chính là lúc chúng ta nhìn về Chúa với tất cả lòng tin cậy, nhìn về tâm hồn chúng ta để hoán cải vì nhiều lúc chúng ta cũng trở thành bóng tối. Chúng ta đã được gọi từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Chúa để thành con cái ánh sáng. Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái…” Ngài cũng bảo chúng ta hãy mặc lấy khí giới của ánh sáng. Đó chính là ơn gọi của Kitô hữu. Giữa một thế giới mịt mù anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên trời, thánh Phêrô cũng căn dặn như thế.
Chúng ta chỉ có một chọn lựa là theo Chúa chúng ta trên con đường Ngài đã vạch ra cho chúng ta. Phải từ bỏ những hành vi ám muội và sống thánh thiện. Muốn như thế, chỉ có một con đường:đóng đinh con người cũ vào thập giá, đi vào cuộc tử nạn với Chúa.
Nói thì nghe rất dễ, nhưng thực tế không dễ. Chúng ta vẫn thích an nhàn, sống không có vấn đề. Đặt lại vấn đề đã là khó rồi, thực hiện càng cam go hơn. Con đường nên thánh không loại trừ hy sinh và can đảm. Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã run lên sợ hãi đến nỗi mướt mô hôi máu, nhưng Ngài đã đi đến cùng, vâng phục đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá. Từ bỏ những tật xấu là một điều ai cũng muốn, nhưng dám can đảm đi đến cùng là một điều không dễ. Chúng ta ngại ngùng, điều đó là điều không thể tránh. Đó là cái giá phải trả. “Xác thịt thì nặng nề”. Chúa không bảo chúng ta ngồi bóng mát ăn bát vàng, mà ngược lại dấn thân quyết liệt vào con đường hoán cải, tín thác vào tình yêu. Chỉ có tình yêu mới đủ sức vực chúng ta dậy để bước tới mỗi ngày.
Chúa Giêsu đã đi đến cùng, đã dám đối mặt với mọi đau đớn nhục hình chỉ vì ngài đã yêu Chúa Cha và Ngài đã chứng minh tình yêu của Ngài bằng sự vâng phục triệt để như thế. Chúng ta không thể nên thánh nếu không biết yêu mến Chúa và yêu mến Chúa chính là giữ lời Người. Đó là điều Chúa Cha đã dạy chúng ta. Đó cũng chính là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến hạnh phúc Thiên đàng.
Hôm nay, trong giờ phút nầy, Chúa Giêsu có mặt bằng Tấm Bánh nhỏ, tấm bánh tình yêu. Chỉ vì yêu mà Ngài đã chấp nhận thân phận một chiếc bánh nhỏ. Và chính đó là dấu hiệu rõ rệt nhất của tình yêu vô biên của Ngài. Ngài không từ chối một điều gì để yêu mến chúng ta. Chúng ta từ chối Ngài chăng?
Trong mùa Chay thánh nầy, hãy đến với Ngài thường xuyên, ăn lấy Ngài để cùng với Ngài, trở nên ánh sáng cho trần gian như Ngài đã mong ước.
19.Nhìn vào mặt tốt--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu…
Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn!
Không lẽ cuộc đời của Thầy Giêsu lại kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giêsu trong vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giêsu mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phêrô kéo riêng Chúa Giêsu ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Người đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.”
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giêsu trong giờ phút vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gioan vững bước theo Chúa Giêsu đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giêsu cho các ông thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
***
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành tráng của nó, người ta sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.
Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.
Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
20.Từ Tabor đến Golgotha--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”. Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
***
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện: “Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.
21.Hai khuôn mặt một tình yêu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân mình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha, cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa”. Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
22.Chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình, vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, nói cách khác là ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.
Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu. “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22, 2). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng thật ra đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.
Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo “như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển”. Tình yêu thật diệu kỳ. Một lẽ như nhiên, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (x.Rm 8,32).
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng khả tín.
Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. “Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới”.
Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó “bản thể của Đấng là Tình Yêu”, thì Phêrô đã lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”(Mc 9,5). Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.
“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 14,24). “ Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12). “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và vươn lên.
23.Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa có câu: "chọn mặt gửi vàng". Nghĩa là để tin tưởng một ai cũng cần xem mặt, xem hoàn cảnh, gia cảnh người đó để đánh giá về họ có đáng tin hay không? Thế mà, vẫn sai lầm. Vẫn chọn sai người. Vì "Sông sâu còn có kẻ dò - Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng".
Vâng, lòng người nham hiểm hơn núi sông, biết người còn khó hơn dự đoán thời tiết. Thời tiết còn có xuân hạ thu đông và sáng - trưa - chiều - tối, còn con người, giữa mảng tối và sáng thật khó phân biệt. Thời tiết còn có hiện tượng bên ngoài để suy đoán những điều sẽ xảy ra, còn lòng người vẫn cò thể đóng kịch đến mức độ "nói vậy mà không phải vậy". Có ai đó nói không ngoa rằng: con người là một diễn viên tài ba nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối nhau suốt cả đời mà vẫn không bại lộ. Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền lành, trong lòng lại kiêu căng ngạo mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm; có người bộ dạng như quân tử, thực ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì, nhưng nội tâm cương trực; Có người xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát. Điều này cho thấy con người thật phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều nghe biết về Chí Phèo trong truyện của Nam Cao. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê tởm.
Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân mình.
Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người thân phận chẳng ra gì như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Là tinh hoa của trời đất. Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và vạn vật. Con người dù tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không ngừng toả sáng bản chất của mình là "nhân linh ư vạn vật".
Vâng, con ngừơi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Bản tính giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi con người đó. Họ làm việc xấu chứ con người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá làm người, thế nên ta vẫn phải yêu thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp họ phục hồi phẩm gia cao đẹp của con người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng tội lỗi và đam mê. Bên cạnh đó, có những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng tâm hồn họ lại thanh cao. Họ có thể là những con người có "duyện lặn vào trong" dầu rằng bên ngoài chẳng có gì hay ho.
Như thế điều quan yếu là hãy biết nhận ra điều tốt nơi nhau. Cho dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể tìm ra điều tốt nơi họ. Hơn nữa, nhân vô thập toàn. Ai trong chúng ta mà không bị tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em hay trước mắt mọi người. Mỗi người chúng ta đều cần người khác đánh giá tốt về mình thì chính chúng ta cũng hãy nói tốt và nghĩ tốt với tha nhân.
Khi Chúa hiển dung trong bản tính Thiên Chúa để củng cố niềm tin nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cũng phải biết tỏ ra phẩm giá cao quý nơi mỗi người chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa qua cách đối như con cái sự sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng thời cũng phải biết tôn trọng nhau vì đều được tạo dựng giống hình ảnh Người. Chúa Giêsu Ngài hoà nhập vào đời nhưng Ngài không đồng hoá mình như bao tội nhân. Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Con người chúng ta không thể đồng hoá mình với con vật như thuyết Duy Vật đã nói, để rồi sống theo bản năng, chiều theo tính xác thịt nhưng luôn biết chế ngự tính xác thịt nơi bản năng con người. Chúa hiển dung là lời mời gọi chúng ta hãy toả sáng hình ảnh của Chúa trong đời sống của mình khi thống trị tật xấu và đam mê. Hãy chế ngự tính hư nết xấu trong con người cùa mình. Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi chúng ta qua đời sống thanh sạch, công bằng, bác ái và yêu thương. Con người không thể là con vật thuần tuý vì con người không chỉ có thể xác mà còn có hồn thiêng bất tử, nên không thể chiều theo thể xác mà đánh mất linh hồn, hay tự huỷ trong những đam mê tội lỗi. Con người phải hơn con vật khi biết chế ngự tính hư nết xấu, làm theo lẽ phải và hướng về sự thiện.
Ước gì hình ảnh Chúa đừng đánh mất nơi chúng ta. Ước gì hình ảnh Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống thanh cao, luôn biết sống theo công lý và tình thương. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Xin đừng để những đam mê mù quáng làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp ấy nơi mỗi người chúng ta.
24.Thế giới nào là ảo?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay người ta nói nhiều về thế giới ảo. Thế giới của mạng Internet. Thế giới dấu mặt. Thế giới mà con người chỉ biết nhau trong những ảo ảnh wedcam hay do photoshop tạo ra. Thế giới mà người ta có thể đánh lừa nhau qua những phần mềm thông minh. Ở nơi đây chúng ta gặp thấy rất nhiều con người sống hai mặt. Ở trong thế giới ảo họ tha hồ tâng bấc về mình. Họ tha hồ vẽ ra khuôn mặt đáng thương của mình. Ở thế giới ảo rất khác xa với thế giới thật mà họ đang sống. Thế nên, rất nhiều người vỡ mộng. Rất nhiều người bị lừa. Rất nhiều người oan gia vì quá tin người.
Thế giới ảo và thế giới thật khác nhau. Con người ảo và con người thật cũng khác nhau. Nhưng phải chăng chỉ có ở thế giới mạng mới sống ảo, còn cuộc sống hiện thực thì chân thực? Khó mà có câu trả lời chính xác, vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò”. Thế giới thật vẫn còn đó những người sống ảo. Họ cố gắng che đậy sự thật về mình. Họ sống hai mặt như đồng tiền hai mặt không bao giờ giống nhau. Thế giới thiện – ác. Chân thật-giả dối. Cuộc sống luôn có hai mặt. Con người lại là một diễn viên tài giỏi luôn che đậy những sự thật thầm kín bên trong.
Cuộc sống vốn thật thật giả giả khó phân biệt. Sự thật là thế. Nhưng người sống ảo sẽ không bao giờ hạnh phúc. Lương tâm luôn làm họ buồn bã, lo âu, sợ hãi. Chỉ có “sự thật mới giải thoát chúng ta”. Sống thật mới đem lại niềm vui nội tâm cho tâm hồn. Sống thiếu chân thật chỉ dày vò chúng ta trong bể khổ trần gian.
Cuộc sống của Chúa Giê-su dưới mắt người đời thì hoàn toàn là một người phàm. Vì Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Thế nhưng, Ngài luôn sống thật khi tỏ ra mình là Thiên Chúa. Ngài luôn tỏ mình là người nhưng còn mang bản tính Thiên Chúa. Ngài đã làm nhiều phép lạ phi thường để tỏ mình có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài phục sinh kẻ chết. Ngài đe sóng gió biển cả phải im lặng. Đó là những việc ngoài khả năng của con người. Đó là việc của Thiên Chúa mới có thể thắng vượt sự dữ.
Hôm nay trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền năng. Một Thiên Chúa uy nguy đến độ các môn đệ say xưa chiêm ngắm Người. Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình. Ông ao ước được chiêm ngắm dung nhan Thầy như lúc này mãi mãi. Ông bảo rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết tại sao mình nói, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan hiển linh của Thầy.
Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.
Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen.
***
Qua hiện tượng đáng buồn của người Việt trong cái tết nguyên đán. Xin được chia sẻ thêm về hiện tương này với ước mong mang lời Chúa canh tân cách sống của con người hôm nay theo chủ để Lễ Chúa Hiển Dung.
Hình ảnh bất thường của người Việt
Một mùa xuân nữa đã qua đi. Mùa xuân qua đi thường để lại một lưu luyến nhớ xuân, một niềm vui trọn vẹn ngày xuân. Nhưng mùa xuân này để lại cho chúng ta một nỗi buồn về con người, về tình người đã mất, về phẩm chất người dân Việt hiền lành nay đang đánh mất.
Theo báo cáo của bộ Y tế cho biết, trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua, đã có hơn 6.000 người phải vào viện do đánh nhau, và đã có 15 người tử vong. Chuyện lạ là năm nay mới có thêm tổng kết về nhập viện do đánh nhau. Đây thực sự là tai họa, vì do chính con người chủ động gây ra cho anh em mình. Nó là một báo động đỏ về tình trạng bạo lực leo thang trong xã hội. Ngay trong những ngày tết, là những ngày mà lẽ ra, người Việt mình phải cư xử với nhau một cách hài hòa nhất, thân thiện nhất. Ngày tết, gặp nhau là chúc vạn sự lành, trăm điều tốt đẹp trong năm mới. Nhiều mắc mớ, trắc trở, mâu thuẫn trong năm cũ cũng được mọi người chủ động dẹp bỏ, gác sang bên trong ba ngày tết. Nhưng xem ra điều này đã không còn đối với một bộ phận không nhỏ người Việt Nam.
Trước thực trạng trên, có người đã viết trên facebook: “Việt Nam phải vui Tết cách khác, không thể vui Tết mà chết, bị thương nhiều, kẹt xe, bị móc túi... nhiều như thế này. Xã hội bị tổn thất lớn về nhân lực, bị tổn thương về tâm lý và bệnh viện quá vất vả về những thương tật không đáng có”.
Bạo lực là xấu. Nhưng vì sao nó lại xảy ra quá nhiều trong ba ngày tết – thời gian dành cho sự tốt đẹp và an lành? Đó là điều chúng ta, từ người dân tới các cơ quan công quyền, cần suy nghĩ một cách nghiêm túc về những “hiện tượng lạ” ấy.
Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ..., là người ta đã có thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm...
Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này? Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?
Nếu con người biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ nghĩ mình là con vật nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, lễ Chúa Hiển Dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa được tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Và xin cho chúng ta biết sống đúng bản chất của hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu và biết sống cho tình yêu. Amen.
25.Thôi đừng đầy đọa nhau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”
- Thỏ trả lời: Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu...
Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Con người là hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đáng tiếc là nhiều người đã không nhận ra điều đó. Họ không nhận ra hình ảnh mình nơi tha nhân để có thể yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đòi được tôn vinh, được bá chủ nên sẵn sàng cắn xé chính đồng loại của mình.
Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ..., là người ta đã có thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm... Thậm chí trong hai tháng vừa qua có đến 3 vụ vào tận bệnh viện Thống Nhất để thanh toán cả những người đang nằm cấp cứu!
Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này? Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?
Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
26.Tuân phục--Trầm Thiên Thu
Tuân phục là vâng lời, còn gọi là thanh tuân. Vâng lời là nhân đức quan trọng: “Vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ” (1 S 15:22). Vâng lời là một trong ba (hoặc bốn, hoặc năm, tùy dòng) lời khấn của các tu sĩ: Vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh (thanh tuân, thanh bần, thanh tịnh). Con cái phải biết vâng lời cha mẹ, người nhỏ phải biết vâng lời người lớn, nhân viên phải biết vâng lời giám đốc,… Nếu không vâng lời thì mọi thứ sẽ đảo lộn. Tất nhiên vâng lời phải theo nghĩa tích cực, không thể vâng lời khi người trên dạy làm điều sai trái hoặc độc đoán.
VÂNG LỜI TUYỆT ĐỐI
Trình thuật St 22:1-2.9-13.15-18 kể chuyện về đức vâng lời của tổ phụ Ápraham.
Sau nhiều chuyện, Thiên Chúa lại thử lòng ông Ápraham. Người gọi ông: “Ápraham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Người phán: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho”.
Ông Ápraham chỉ có một đứa con trai yêu dấu, mà theo tục lệ Do Thái, “anh Hai” rất quan trọng vì là con thừa tự và có quyền trưởng nam, thế mà Chúa lại bảo dâng đứa con đó làm lễ toàn thiêu. Căng quá! Thế nhưng ông Ápraham không hề so đo, không hề thắc mắc, không hề nghi ngờ, không hề tiếc, mà ông còn mau mắn tuân phục lời Chúa dạy.
Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Ápraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Ápraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. Gay cấn quá! Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Ápraham! Ápraham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”.
Thật tuyệt vời! Ông Ápraham ngước mắt lên nhìn, ông thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Ápraham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Càng tin tưởng thì người ta càng có thể mau mắn vâng lời. Tác giả Thánh vịnh bộc bạch: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: “Ôi nhục nhã ê chề!” (Tv 116:10). Bị nhục nhã ê chề mà còn tin ư? Thật khó quá! Thật thế, thường thì chúng ta chỉ tạ ơn Chúa khi mình được ơn này, ơn nọ, vì thấy “hợp ý mình”, còn nếu “trái ý mình” thì chắc hẳn chúng ta không muốn tạ ơn Chúa, cho vậy là “phi lý”, thậm chí có người còn có thể trách Chúa! Tuy nhiên, nếu suy cho thấu đáo, chúng ta sẽ khả dĩ chân nhận tất cả đều là Hồng ân Thiên Chúa, vì “thân này là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16). Do đó, chúng ta càng phải biết “dâng lễ tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv 116:17). Vâng lời và tạ ơn Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm hãnh diện và hạnh phúc của chúng ta.
Trong Rm 8:31-34, thánh Phaolô đặt ra một loạt câu hỏi: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”.
Những câu hỏi đó lại chính là những câu trả lời rạch ròi và chính xác. Đúng là không phải nói gì thêm!
HẠNH PHÚC MIÊN MAN
Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo tới một ngọn núi cao. Bỗng nhiên Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài mặc trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Các ông còn thấy có ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Các ông được thấy “hiện tượng lạ” không chỉ là người “may mắn” mà còn là người có trọng trách nặng nề hơn. Tặng phẩm nào cũng gắn liền với trách nhiệm nào đó, như tục ngữ Việt Nam nói: “Cây càng cao, gió càng rung”.
Ông Phêrô thấy vậy, quá phấn khởi, nên ông thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mc 9:5). Vừa kinh hoàng vừa hạnh phúc tột đỉnh vì được “nếm thử” vinh quang Thiên đàng, ông Phêrô không còn nhớ đến hai anh bạn bên cạnh và quên cả chính mình, chỉ muốn dựng lều cho Chúa Giêsu, cho ông Môsê và ông Êlia mà thôi.
Bỗng có đám mây bao phủ các ông, và có tiếng nói vọng ra: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Chính Thiên Chúa truyền dạy chúng ta vâng lời Đức Kitô, vì Ngài vừa là Con “cưng” của Chúa Cha vừa tuyệt đối vâng lời. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa rất quý trọng đức vâng lời.
Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Hẳn là các ông còn dư âm niềm hạnh phúc ấy và chắc là tiếc những giây phút kia lắm. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó nên giữ bí mật riêng, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con người thật yếu đuối, vừa thấy nhãn tiền vinh quang Nước Trời mà vẫn chưa đủ lòng tin!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống khiêm nhường và vâng lời, đồng thời xin thêm đức Tin, đức Cậy và đức Mến cho chúng con, để chúng con làm đẹp lòng Chúa là vui lòng tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Yêu Dấu của Cha, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
27.Đức Tin cột trói chúng ta--Peter Feldmeier--Văn Hào, SDB chuyển ngữ
Này là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người (Mc 9,7)
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay dường như có vẻ thách đố chúng ta. Bài đọc thứ nhất kể lại câu truyện Chúa nói với Abraham hãy đem Isaac con của ông lên núi để sát tế. Abraham đã tuân theo chỉ lệnh của Chúa. Isaac chẳng nghi ngờ gì, đã cùng với cha bắt đầu cuộc hành trình. Hai cha con đi suốt ba ngày đường trèo lên núi cao. Đến nơi, Abraham cột trói Isaac lại, và đang dự định giết con để tế lễ. Khi ông toan tính làm như thế, một sứ thần đã hiện ra và cầm giữ tay ông lại. Thần sứ nói với ông rằng Thiên Chúa rất hài lòng vì ông đã vâng lời Ngài: “Vì ngươi đã vâng phục Ta, không tiếc đứa con trai thừa tự duy nhất mà ngươi rất quý mến, nên Ta sẽ chúc lành cho ngươi và hứa cho dòng giống ngươi trở nên đông đúc.”
Chúng ta phải đọc câu truyện trên đây dưới lăng kính truyền thống Do Thái giáo và cả truyền thống Kitô giáo. Có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau, nhưng những diễn giải dường như vẫn chưa lột tả được trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của bản văn. Một số nhà chú giải sánh ví Thiên Chúa như một vị thần chuyên thử thách. Họ còn đặt vấn đề xa hơn, liệu Thiên Chúa còn thử thách Abraham đến mức độ nào, khi truyền lệnh cho ông cầm dao giết đứa con ruột của mình? Một số khác lại đọc thoáng qua câu truyện và tự hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại ra một lệnh truyền quái ác và nghịch thường như vậy, vì người Do Thái không bao giờ được phép giết con mình để tế thần, không giống như các dân ngoại vẫn thường làm. Triết gia Kieerkegard lại có một cái nhìn khác khi ông kết luận “Đức tin nếu chỉ khởi phát từ một ý thức thuần mang tính luân lý với sự vâng lời tối mặt, thì đó chỉ là đức tin mù quáng và xuẩn ngốc’’. Cả ba nhận định trên đây đều phiếm diện và không thấu triệt tường tận câu truyện mà Kinh thánh trình bày. Cách lý giải thứ nhất chỉ phác vẽ Thiên Chúa như một Đấng cao ngạo ở tít trên cao, thích thử thách con người, đến mức độ cách hành xử của Ngài giống hệt một cuộc tra tấn hay khủng bố. Về cách giải thích thứ hai, chúng ta cũng thấy không hơp lý chút nào. Câu truyện quả thực không hề muốn nêu lên sự tương phản giữa đức tin và luân lý. Tôi cũng muốn nói rằng, chúng ta đừng xem đức tin như một thái độ mù quáng và ngốc ngếch, vì đức tin và lý trí không hề đối kháng hay loại trừ nhau. Abraham đã không mù quáng khi thực thi điều Chúa muốn như nhiều người lầm tưởng. Ngày nay, nếu có ai ra lệnh cho chúng ta là phải dùng dao giết con, thì chắc chắn chúng ta sẽ gọi cảnh sát ngay lập tức. Thiên Chúa của chúng ta không độc ác như thế đâu.
Thế thì câu truyện trên muốn nói cho chúng ta điều gì? Chúng ta hãy đan nối với truyền thống Do Thái giáo để hiểu nội dung một cách sâu xa hơn. Vấn đề ở đây không phải là Abraham có ý định sát tế Isaac, nhưng ông chỉ muốn tuân hành ý Chúa cách triệt để. Ông cột trói Isaac và hiến dâng cho Chúa, không hề tiếc nuối và giữ lại cho mình. Đây là một thái độ vâng phục trọn vẹn trong đức tin. Qua hình tượng Isaac, tổ phụ Abraham đã trói buộc mình và dòng dõi của mình vào chính Thiên Chúa và vào lời hứa của Ngài. Hành động này không phải là nhằm giải quyết công việc trước mắt, cụ thể là việc giết đứa con đặt lên bàn để tế lễ. Nhưng động thái của tổ phụ Abraham mang chiều kích linh thánh, một hành vi biểu tỏ đức tin, và dẫn đưa đến một chân trời rộng mở hơn, đó là chân trời của lời hứa.
Bài học ở đây, là khi chúng ta biểu tỏ đức tin, chúng ta cột trói mình (như Abraham cột trói Isaac) vào với Thiên Chúa, tự nguyện “trao nộp”chính chúng ta trong bàn tay của Thiên Chúa, thì đáp lại, Thiên Chúa cũng sẽ trói buộc Ngài trong giao ước với chúng ta, và Ngài sẽ hiến trao tất cả cho chúng ta, vì Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước mà Ngài đã cam kết.
Đây là sự cột trói song phương, giữa chúng ta và Thiên Chúa.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng gợi mở cho chúng ta am tường về sự trói buộc lưỡng chiều này. Thánh nhân viết “ Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn có thể chống lại được chúng ta” (Rm 8, 31b). Tiếp nối suy tư này, Thánh Phaolô tiếp tục đưa dẫn chúng ta đến một bản hòa điệu song đối với những câu hỏi và những thách đố được gợi ra. Ngài viết: “Vì tôi thâm tín rằng, dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai hoặc bất cứ sức mạnh nào,… không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta (Rm 8,38-39). Đây là hình mẫu sự cột trói thâm sâu giữa chúng ta và tình yêu Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay dẫn mời chúng ta thông dự vào cuộc biến hình của Đức Giêsu. Ở trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã mục kích vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài đàm đạo với Môisê và Elia. Hai vị ấy là biểu thị cho lề luật và các ngôn sứ, như được nhắc đến trong lời kinh tổng nguyện của phụng vụ hôm nay. Tuy nhiên cả hai vị này đều có liên hệ đến những biến cố rất ý nghĩa trong cựu ước. Môise và Êlia đều đã tiếp cận trực tiếp Đức Chúa Giavê trên núi Sinai (Xh 24,1,19). Đồng thời, cả hai ông đều gợi nhắc về Đấng Messia, Đấng sẽ đến cứu chuộc dân người. Êlia được đặc cách để tiên báo về đấng Messia và ông cũng chính là người dọn tâm hồn cho dân chúng trước khi ngày của Đức Chúa khởi sự (Mal 3,23). Còn ông Môisê, vào thời của Chúa Giêsu, người ta vẫn có truyền thống xem ông, giống như vai trò của Êlia, người đã đạt đến sự viên toàn của sự đợi chờ Đấng Mesia ở trên nước trời. Vì thế, giây phút Chúa biến hình trên núi Tabor, cũng mang chở một chiều kích cánh chung, và tiên báo sự viên thành giao ước mà Chúa đã ký kết trên núi Sinai năm xưa.
Ba môn đệ đã nghe tiếng Chúa Cha từ trong đám mây “Đây là con yêu dấu của ta, hãy nghe lời Người”. Cả ba ông đã chứng kiến giây phút viên toàn của lịch sử, lúc Đức Giêsu vén mở vinh quang chiến thắng của Ngài. Đó là những khoảnh khắc các ông được thông dự trước vào sự tròn đầy của sự thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Nhưng liền ngay sau đó, các ông phải trở về đối mặt với cuộc sống đời thường. Từ trên núi xuống, chỉ còn lại duy nhất một mình Đức Giêsu, một Thiên Chúa làm người, một Thiên Chúa đang sống kiếp tăm tối của thân phận con người như chúng ta, và vinh quang chói ngời trên núi Tabor vẫn còn đang bị che dấu. Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta hôm nay, chúng ta cũng phải cột trói và hiến dâng bản thân, để trao dâng cho Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa nhưng mang trên vai những bầm dập và khổ đau trong phận người. Chúng ta cột trói vào Ngài, hiến dâng cho Ngài, có nghĩa là chúng ta phải cùng với Ngài đi lên Giêrusalem để được sát tế. Hơn nữa, như thánh Phaolô gợi nhắc, chúng ta phải cột trói vào Ngài giữa những cay đắng và bi thương trong cuộc sống hiện sinh hôm nay. Chúng ta diễn tả động thái đức tin, bằng cách trói buộc vào Đức Giêsu, bởi vì chính Ngài cũng đã tự trói buộc vào thân phận con người của chúng ta, đã tự nguyện tiến nhận cái chết để cho chúng ta được ơn giải cứu.
Cuộc biến hình của Đức Giêsu trên đỉnh núi Tabor vén mở để cho chúng ta cảm thấu được uy quyền, hiểu biết về sứ mạng và nhận ra bản tính đích thực của Đấng là Thiên Chúa – Người, là chính Đức Giêsu. Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng sẽ khởi đầu và kết thúc cùng với Ngài, bởi vì trong cuộc lữ hành đó, chúng ta sẽ mãi mãi gắn kết và buộc trói chúng ta vào với Ngài.
28.Thay đổi--Lm. Vũ Đình Tường
Vũ trụ chúng ta sống luôn biến đổi. Người sống vùng sa mạc nhận biết biến đổi rõ nhất là trong sa mạc. Sau một cơn bão thung lũng cát biến thành núi cát. Sức mạnh đó vượt ngoài tưởng tượng của loài người. Các khoa học gia có thể giải thích, đo lường, tìm hiểu nhưng bất lực không thể ngăn cản. Người sống vùng đồng bằng nhận biết biến đổi qua nước chảy trên sông. Người ta nói nước chảy đá mòn. Thực tế dân sống vùng sông ngòi biết nước chảy vài ba năm sông bị cạn dần, bờ sông bị mòn, lòng sông đã không mòn mà còn bị phù sa bù lấp làm lòng sông nông cạn. Biến đổi trong vũ trụ là điều không thể tránh. Cuộc sống đời người cũng có nhiều biến đổi theo từng giai đoạn. Từ trẻ thơ biến thành thiếu niên rồi thanh niên rồi trưởng thành, thành người lớn trước khi phải nhờ đến cây gậy chống bước đi, cụ ông, cụ bà. Mỗi một giai đoạn đều có thay đổi về cả vóc dáng lẫn tinh thần.
Tương tự như thế cuộc sống tâm linh cũng có những giai đoạn phát triển, thay đổi. Mỗi một giai đoạn giúp chúng ta biến thành con người khác. Cũng vóc dáng đó, cũng con người đó nhưng trong tâm hồn có biến đổi, có giao động, có dấu chỉ của thành hình. Thành hình như thế nào tuỳ thuộc vào chọn lựa lối sống của mỗi cá nhân.
Mừng kính lễ Chúa biến hình giúp chúng ta nhận biết con người trung tín theo Chúa không biến hình nhưng thành hình. Thành hình như thế nào chúng ta không thể khẳng định rõ ràng. Chúng ta chỉ biết qua hình ảnh nhận được trên núi thánh chúng ta mường tượng ra cuộc sống tương lai của người trung thành theo Chúa sẽ tương tự như hình ảnh trên núi thánh. Nhìn vào hình dạng biến đổi của Thầy để có cảm nghiệm là sẽ trở nên giống Thầy. Toàn thân sẽ trắng như tuyết, mặt mày sáng tươi và tinh thần đầy hoan lạc. Điều này tự mình không thể hoàn thành nhưng nhờ vào ơn Thầy ban cho. Kẻ tin theo Chúa được khai mở chút ít về cuộc sống tương lai nhờ các môn đệ được Chúa cho cảm nhận trên núi thánh. Con người trở nên trong sáng nhờ ánh sáng của Thầy chiếu dọi. Như mặt trăng sáng nhờ mặt trời, các môn đệ trung tín trở nên trong sáng nhờ ánh sáng mặt trời công chính là Đức Kitô chiếu toả.
Môn đệ không dám so với Thầy thì ít ra hình ảnh các tổ phụ cho biết các ngài cũng biến đổi như thế. Các ngài không so với Thầy, các ngài có được sự sáng nhờ Thầy ban cho, nhờ sống trung tín trong niềm tin. Niềm tin đây chính là ai tin vào Thầy cũng sẽ cảm nhận được sự sống mới nơi Thầy ban cho. Sự sống đó biến đổi con người bất toàn của ta trở nên tốt hơn, đẹp hơn, cao quí hơn, hoàn toàn hơn và cuối cùng trong sáng như tuyết. Đây là một cảm nghiệm, niềm hạnh phúc tuyệt vời mà trần thế không thể nào diễn tả. Các môn đệ đi theo Thầy được Thầy ưu đãi cho cảm nghiệm sự sống tương lai. Các ngài được nhìn thấy tương lai đời mình hạnh phúc như hình ảnh trên núi thánh. Dù chỉ hé mở một chút đã khiến các ngài say mê, muốn buông bỏ mọi sự nơi trần thế, không còn quyến luyến chi. Trước khi thực sự bước vào cộc sống mới, cuộc sống thành hình đó các ngài phải xuống núi. Xuống núi không phải để tích trữ, thu góp. Xuống núi để chính thức từ bỏ, dứt khoát xa lìa những gì thuộc về trần thế. Mỗi một hành động tốt lành đều giúp ta trở nên trong sáng hơn, mỗi một cử chỉ bác ái, yêu thương đều biến ta trở nên tốt lành hơn. Chính những biến đổi hàng ngày trên thay hình đổi dạng cuộc sống của ta, giúp ta trở nên trong sáng hơn. Từ bỏ lối sống tự tạo để bước theo con đường Thầy đã đi qua, con đường Thầy dẫn đường, chỉ lối. Con đường từ bỏ dù chông gai, cay đắng cũng rất đáng từ bỏ, cố gắng, trung tín bước theo Thầy vì sau những vất vả, gian truân là ánh sáng ngập tràn. Sau những âu lo, phiền muộn là niềm vui vĩnh cửu. Sau những khổ đau là hạnh phúc tuyệt vời. Sau những xua đuổi, rượt bắt là tưng bừng chào đón, đàm đạo. Hình ảnh đám mây bao phủ chính là trở ngại ngăn cách lớn nhất cho những ai không thể dứt khoát từ bỏ. Chỉ khi nào vượt qua đám mây che phủ đó con người mới nhận biết chân giá trị của cuộc sống mai hậu đang đón chờ.
Chúng ta cầu xin tâm tình trong lòng luôn ấp ủ cảnh sống tươi sáng. Ước mong niềm hy vọng tươi sáng sẽ xoá tan mây mù, tăm tối.
29.Con yêu dấu--Lm. Vũ Đình Tường
Mỗi lần Chúa Cha nhắc đến tình yêu Cha Con dành nhau ta thấy tình yêu đó luôn thể hiện không phải bằng ngôn từ không mà luôn kèm theo sứ mạng của Tin Mừng. Sứ mạng đó được thể hiện qua hành động cụ thể. Sứ mạng Chúa Con tự nguyện lãnh nhận ngay sau khi Đức Kitô lãnh nhận phép thanh tẩy từ Joan đó là công khai rao giảng về nước trời.
Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con
Liền sau đó Đức Kitô tiến vào hoang địa và ở đó bốn mươi ngày ăn chay, cầu nguyện chuẩn bị cho chương trình rao giảng công khai về nước Thiên Chúa đã đến gần.
Ngày biến hình trên núi thánh có sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba đều chứng kiến cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và tổ phụ Môisen và tiên tri Elia. Cuộc đàm thoại bị gián đoạn khi các ông nghe tiếng Chúa Cha vang vọng như tiếng sấm phán
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài
Các tông đồ được chiêm ngắm ít nhiều về cuộc sống tương lai và các ông vui mừng muốn ở lại trên núi thánh nhưng Đức Kitô có chương trình Ngài cần thực hiện nên Thầy trò xuống núi. Sự hiện hữu của các tổ phụ trên núi thánh xác nhận một niềm tin. Niềm tin đó chính là có sự sống đời sau. Đối với nhân loại các tổ phụ đã chết nhiều năm trước, mộ các ngài còn nằm kia nhưng sao các ngài đang sống, hiện diện trên núi thánh xác nhận các ngài đang an vui sống gần Chúa. Nhắc đến tổ phụ Môisen là nhắc đến hành trình bốn mươi năm, vượt sa mạc dẫn dân Chúa chọn về Đất Hứa. Môisen dưới sự hướng dẫn, bảo bọc của Thiên Chúa đã vượt qua ngàn trùng gian khổ, dẫn dân Chúa chọn vượt Biển Đỏ, giải thoát họ khỏi ách nô lệ của Pharaô tiến vào Đất Hứa. Tiên Tri Elia cũng có sứ mạng vất vả không kém. Elia đặt trọn niềm tin vào lời Chúa làm tròn sứ mạng trong lo âu, sợ hãi cho sự sống còn của chính ông. Vua Ahab làm vua vùng phía bắc xứ Israel từ 874-853 BC. Ông nghe lời vợ là Jezebel thờ tà thần Baal. Thiên Chúa sai tiên tri Elia báo cho vua biết nếu không thống hối ông và toàn dân sẽ bị phạt. Vua Ahab đã không thống hối còn tìm các giết Elia. Nhà tiên tri phải trốn nơi hoang địa và Thiên Chúa cứu ông khỏi tai hoạ và giúp ông hoàn thành điều Thiên Chúa sai phán. (Muốn biết thêm chi tiết mời đọc số một, Sách các Vua chương 17-22).
Tiếng phán ra của Chúa Cha từ trong đám mây là bằng chứng rõ ràng khác cho thấy Thiên Chúa hằng sống luôn đồng hành với Đức Kitô. Những sáng sớm Đức Kitô tìm nơi thanh vắng cầu nguyện chính là Ngài đàm đạo cùng Chúa Cha.
Sứ mạng xuống núi của Đức Kitô là mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Một sứ mạng đầy đau thương, nhiều nước mắt và cuối cùng là chết trong cô đơn, trên thập giá, nơi đồi vắng. Một kiểu hoang địa mà khi nghe đến ai cũng cảm thấy chân tay run rẩy, toàn thân rùng rợn. Đức Kitô đi trọn con đường đó và sau ba ngày chôn trong mộ Ngài sống lại vinh quang.
Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết người ta mới nhận ra sức mạnh vô song và vinh quang ngàn trùng của Thiên Chúa. Sức mạnh đó mạnh hơn sự chết và vinh quang đó sáng tỏ hơn mặt trời chiếu sáng. Điều này cho thấy có sự liên kết giữa biến hình và sự sống trường sinh. Để có sự sống trường sinh cần có biến hình. Để được biến hình lại cần hoàn thành sứ mạng trao phó. Để hoàn thành sứ mạng trao phó cần đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô sẽ được vinh thăng sống muôn đời kề cận vinh quang Thiên Chúa, nhận cùng lời Chúa phán trên núi thánh.
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.
30.Ngộ ra--Lm. Vũ Đình Tường
Ngộ ra là nhận thức bất ngờ biết được của sự vật đã từng coi qua, nhìnlại, xem đi, xem lại rất cẩn trọng hay của đoạn văn từng nghiền ngẫm nhiều lần, rồi bất thần nhận biết điều hay, ý tốt, hiện ra trong tâm trí làm cho tâm hồn hứng khởi, tâm trí vui, rạo rực điều vừa cảm nhận được. Ngộ ra là nguồn hứng khởi cho tâm trí, giúp tâm trí giầu mạnh, mở ra một chân trời mới, cánh cửa mới cho tâm hồn.
Đối với Kitô hữu ngộ ra điều mới mẻ về đức tin là một bước tiến nhảy vọt trong linh đạo, dẫn đến yêu mến Chúa nhiều hơn và phục vụ tha nhân tích cực và hăng say hơn. Ngộ ra thoả mãn điều con tim khao khát, mong đợi. Ngộ ra gây hứng khởi cho tâm hồn, làm cho tinh thần sảng khoái, sức mạnh nội tâm nhảy vọt. Ngộ ra điều mới mẻ về tình yêu Chúa, điều này không chỉ có lợi cho đức tin mà còn làm cho ta nhận ra giá trị thực và rõ hơn mục đích của cuộc lữ hành trần thế. Ngộ ra còn xác tín điều quan trọng khác là Thiên Chúa hiện thực và hiện diện trong cuộc lữ hành của ta. Ngộ ra còn thay đổi nhận thức về Thiên Chúa. Hình ảnh Thiên Chúa yêu thương, giầu bác ái, chậm phê bình và hay tha thứ là hình ảnh Thiên Chúa ta tôn thờ. Ngộ ra còn giúp nhận biết đau khổ trần thế, bệnh tật, già nua không phải do Chúa dựng nên nhưng đó là một phần của tiến trình sống. Cây cối, thú vật và mọi sinh vật khác đều trải qua chương trình lột xác để trưởng thành hơn. Riêng con người thì đó là tiến hoá để trở nên tốt hơn trước khi tiến vào cuộc sống vĩnh cửu.
Ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo Đức Kitô đã lâu. Các ngài chưa bao giờ nhận biết vinh quang thực của Đức Kitô mãi cho đến khi được chính mắt nhìn thấy trên núi thánh. Chính kinh nghiệm trên tỏ cho các ông biết rõ hơn về Đức Kitô, Đấng các ông đang tin theo. Con mắt đức tin mở ra, tâm trí các ông rộng mở, tinh thần cao vút và con tim nhảy mừng vì được diện kiến vinh quang Thiên Chúa. Trong giây phút mừng vui tột cùng các ông không biết nói gì. Phúc âm thuật lại lưỡi các ông hầu như co cứng, không phát lên lời.
Các ông không biết phải nói gì vì các ông kinh hoàng Mc. 9,6
Đứng trước cảnh huy hoàng, rực rỡ của Thiên Chúa, ngôn ngữ loài người bế tắc, ngôn ngữ trần gian chỉ đủ để diễn tả niềm vui trần thế mà không thể diễn ta nổi niềm vui đến từ trời cao. Nhớ lại ngày Chúa Giáng Sinh các thiên thần cũng không diễn tả niềm vui bừng lên như ánh sáng ban mai bằng lời nói nhưng cất tiếng hát vang vọng không trung để diễn tả niềm vui. Các tông đồ dù cảm thấy vui mừng nhưng không biết làm cách nào diễn tả nguồn vui trào dâng trong tâm hồn. Các ông không hát nhưng cúi gục mặt thầm thán phục và kinh hãi trước hào quang vượt quá sức nhìn của mắt thường. Tai các ông còn nghe được tiếng đối đáp của các tổ phụ và rồi Đức Kitô đã khuyến khích các ông. Khi tỉnh lại các ông nhận ra Đức Kitô còn các vị khác đã biến khỏi mắt các ông. Kinh nghiệm trên núi thánh bồi bổ đức tin các ông tin tưởng bước theo Đức Kitô. Đức tin trở nên vững vàng hơn, dấn thân tích cực hơn và hy sinh trọn vẹn hơn. Kinh nghiệm trên núi thánh ban cho các ông con mắt mới, quả tim mới, tâm hồn mới và cuộc sống mới. Cuộc sống đơn sơ nhưng đầy bình an, hy vọng. Điều các ông nghe được trên núi thánh
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài Mc 9,7
Đây chính là điều Chúa Cha mời gọi Kitô hữu trung thành đi theo Đức Kitô, theo Con yêu dấu Thiên Chúa để nhận tình yêu Chúa Cha dành cho. Trên đường xuống núi Đức Kitô dặn các tông đồ dấu kín những gì đã chứng kiến. Các ông ấp ủ điều đó trong lòng. Miệng không nói ra nhưng tâm hồn khắc ghi những gì đã chứng kiến và trong cuộc sống rao giảng Tin Mừng tâm trí các ông luôn quay lại khúc phim núi thánh. Dù đã nhìn thấy, nghe được nhưng các ông vẫn chưa hiểu rõ í nghĩa câu
Sống lại từ cõi chết có nghĩa gì Mc 9,11
Mãi cho đến khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết hai tông đồ trên đường Emaus đã chẳng xác nhận điều đó là gì khi các ông miệng nói ra:
Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? (Luca 24,32)
31.Ánh sáng của đức tin--Lm. Hà Ngọc Đoài
"Người biến hình trước mặt các ông... và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người." (Mc 9:1,7) Có một vị đạo sĩ cao niên bị mù. Ai nhìn thấy ông đều tỏ ra thương tâm và tìm cách cứu chữa ông. Có người mời được một y sĩ lừng danh đến chữa trị cho đạo sĩ. Y sĩ rất tự tín, đến gặp đạo sĩ và khuyên rằng: "Ngài hãy an tâm và tin vào bài thuốc của tôi có thể giúp cho đôi mắt được sáng như xưa." Mọi người đứng chung quanh đều vui mừng và chờ đợi. Riêng đạo sĩ bình tĩnh trả lời: "Không dám phiền ông phải bận tâm cho sự mù lòa về phần xác của tôi. Hơn lúc nào hết, tâm hồn tôi thấy những gì mà trước đây tôi không thấy, và bây giờ tôi được thấy rõ hơn" Nhờ con mắt Đức Tin mà đạo sĩ có thể nhìn tới thế giới siêu linh. Đôi mắt phần xác bị mù lòa vì tuổi đời làm giới hạn bao nhiêu, thì con mắt tinh thần lại vượt không gian và thời gian để vươn tới sự gần gũi Thiên Chúa bấy nhiêu. Nhờ con mắt của Đức Tin mà linh hồn có thể nhìn thấy được mạc khải của thế giới linh thiêng. Nhờ vậy vị đạo sĩ có niềm vui trong tâm hồn. Khi Đức Giêsu báo tin cho các tông đồ biết là cuộc hành trình giảng đạo của Ngài đang đi về Giêrusalem. Tại đó, vì trung tín với Thiên Chúa Cha trong việc rao giảng mà Ngài phải chịu khổ hình cho đến chết. Rồi Ngài sẽ sống lại. Khi nghe tin đó thì các tông đồ lo sợ và khuyên can. Để giúp các tông đồ được siêu thoát, Đức Giêsu đem họ lên núi cao và tỏ bày vinh quang của Ngài qua sự biến hình. Trên đỉnh núi cao này Ngài chuẩn bị cho cuộc khổ nạn trên đỉnh núi Calvê. Khi bị treo trên thÿnh giá, người ngoại giáo binh sĩ Rôma, và tội nhân sẽ nhận ra Ngài là ai. Chính họ tuyên xưng 'Ngài là Con Thiên Chúa."
"Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. " (TV 114:9) Chúng ta đang sống giữa một thế giới đa văn hóa, và nhiều tôn giáo. Những phép thuật của khoa học làm cho một số bị lung lạc đức tin! Là Kitô hữu, chúng ta nhìn vào Chúa Kitô là Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho chúng ta vào cõi sống trường sinh.
32.Ai hiểu được chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, hay nói cách khác là ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.
Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu.. " Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho" ( St 22, 2 ). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.
Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo "như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển". Tình yêu thật diệu kỳ, vì Thiên Chúa là Tình Yêu ( 1Ga 4,8 ). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? ( x. Rm 8,32 ).
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu ( x. Ga 15,13 ). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng hiển nhiên.
Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. "Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới".
Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó "bản thể của Đấng là Tình Yêu", thì Phêrô đã lên tiếng: " Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia."( Mc 9,5 ) Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.
"Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" ( Mc 9,7 ). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" ( Ga 14,24 ). " Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" ( Ga 13,12 ). " Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó" ( Mt 7,12 ).
Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và vươn lên.
33.Crux est lux-Thập Giá là vinh quang!--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung trên núi Ta-bo là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải cứu độ. Chúng ta thấy ở đây, Mô-sê và Ê-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời là đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Kitô của Tin Mừng cho các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Các môn đệ này sẽ là các nhân chứng được coi là ‘trụ cột’ của Giáo Hội (theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát), những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Xem chú thích Mc 9:1tt trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu quả thật là như thế thì hiển dung đâu chỉ đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần suy sụp của các môn đệ trước cuộc khổ nạn đau thương Đức Giêsu sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa của nó chắc hẳn phải lớn lao hơn nhiều…, và vì thế đáng để ta dành đôi chút thời giờ tìm hiểu thêm.
Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con người mọi thời đại và mọi tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-li-a là hai nhân vật Cựu Ước được mô tả như đã có diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ; Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem sách Xuất Hành chương 19), và Ê-li-a trên đỉnh núi Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của hoàng hậu I-dê-ven (xem 1 Vua chương 19). Tuy nhiên thứ vinh quang Đức Chúa mà hai ông được chứng kiến thực tế đã rất khác nhau; một đàng là ‘Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… (Xh 19:18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra đứng ở cửa hang… (1 V 19:12-13). Nếu thế vinh quang mà Đức Giêsu muốn hiển thị trong lần biến dạng trên núi Ta-bo có chi khác với những lần đó không? Trước hết đó hẳn phải là một thứ vinh quang đích thực, vì được hiển thị do chính Người Con duy nhất từ Thiên Chúa mà đến. Vinh quang đó không những phải vượt xa mọi thứ hào quang đôi mắt phàm tục có thể nhìn thấy, mà còn phải vượt xa những gì cả Mô-sê lẫn Ê-li-a đã được chứng kiến trong những lần thị kiến Đức Chúa thời Cựu Ước.
Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9:31), điều đó chứng tỏ cuộc xuất hành sắp tới mới biểu hiện vinh quang thật, khác với những gì các ông đã biết hoặc đang được chứng kiến lúc này. Thứ hào quang mà hai ông hiện đang được chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang phải là cuộc xuất hành các ông đang được nghe đề cập tới. Đức Giêsu cũng hàm cùng một ý đó khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: “không được kể lại cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Đúng vậy, cuộc tử nạn hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ hiện cách rực rỡ nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì vinh quang chói lọi của Người không thể là điều gì khác hơn biểu hiện của tình yêu đầy từ nhân và xót thương thông qua hành động cứu chuộc. Sau này khi gần tới giờ ra đi chịu chết và khi cầu nguyện với Chúa Cha, chính Đức Giêsu đã không ngần ngại gọi giờ phút ‘tang thương’ đó là giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ phút Thiên Chúa được tôn vinh cách tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17:1.8).
Chính Mô-sê và Ê-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được chứng kiến thứ vinh quang đó, vinh quang của Thập Giá. Và Đức Giêsu thật sự mong muốn và khích lệ các môn đệ, đặc biệt ba môn đệ thâm tín nhất, loan truyền cho mọi người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại làm ba lều bên thứ vinh quang ‘giả tạo’ của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây chính là cuộc chuyển biến quyết định nhất của mọi niền tin, từ Cựu Ước bước qua Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh quang của tha thứ và cứu độ, từ quan niệm về một Đức Chúa quyền phép qua hình ảnh một Thiên Chúa là Cha của Đức Kitô Giêsu đầy xót thương nhân hậu? Đối với các môn đệ là những người Do Thái chính hiệu, sự chuyển tiếp này không thể không gây ngỡ ngàng và đặt ra nhiều vấn nạn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì’, và Đức Giêsu còn phải cất công giải thích nhiều lần hơn nữa. Điều này cũng sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, tiếp tục là vấn đề then chốt độc đáo của niềm tin Kitô hữu (so với các tôn giáo khác, nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo) khi phải vẽ lên trong tâm linh các tín hữu hình ảnh về một Thiên Chúa… lòng lành, xót thương và cứu độ, những nét không tuân theo bất cứ thứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào, nhưng chỉ dựa trên mạc khải duy nhất của Đức Kitô thập giá. Cách duy nhất họ có thể làm là để mình hoàn toàn bị khuất phục bởi mạc khải vinh quang thập giá, điều làm cho họ, trước mặt khôn ngoan của người đời, bị liệt vào hạng ngu đần và hèn nhất; do đó “Hãy vâng nghe lời Người!”
Mùa chay chính là thời gian để mỗi chúng ta vâng nghe và đón nhận thứ vinh quang cứu độ này của Thiên Chúa, vì thế đó là thời gian của thanh lọc và củng cố niềm tin Kitô.
Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phêrô dựng lều, nhưng không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, mà là để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu xót thương của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. Amen.
34.Lên núi--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay năm B, Thánh Máccô thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu đưa ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng với Người lên ngọn núi Tabor. Đây là ba môn đệ thân tín của Chúa. Người yêu họ cách đặc biệt. Điều đó cho thấy, Chúa Giêsu khi xuống trần gian, Người cũng rất người. Người yêu mọi người nhưng vẫn có những tình cảm đặc biệt cho một số người. Người biến hình trước mặt ba môn đệ. Áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không một thợ giặt trên trần gian nào có thể giặt trắng đến thế. Đó là một khoảnh khắc kỳ diệu trong đời. Ba môn đệ đã ngơ ngẩn, ngẩn ngơ khi chứng kiến khoảng khắc đó. Phêrô đã thốt lên “chúng con ở đây thật là hay”. Ông nói mà không biết mình nói gì vì tất cả các ông đều hoảng sợ. Quả thực, không hay sao được khi được ở bên Chúa, được xem thấy Chúa. Nếu có một điều để ước, tôi cũng ước được ở đó cùng với ba môn đệ để chứng kiến khoảnh khắc Chúa biến hình. Chỉ một lần và chỉ một lần thôi, được thấy Chúa là mãn nguyện lắm rồi.
Nếu như Chúa Nhật I, Chúa mời tôi vào sa mạc, thì Chúa Nhật II hôm nay, Chúa mời tôi lên núi với Người. Sa mạc và núi cao đều là những nơi Chúa hẹn gặp con người. Giữa thiên nhiên tươi đẹp, Chúa ngỏ lời với con người. Để gặp được Chúa, tôi cũng phải ra khỏi bản thân để lên núi với Người.
Có một lần, tôi cùng với một nhóm Linh mục đi lên núi Yên Tử. Đây là ngọn núi cao 1068m so với mực nước biển, có ngôi Chùa Đồng nổi tiếng, nằm ở ranh giới của hai tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh. Dù đã có hệ thống cáp treo nhưng du khách vẫn phải tự leo lên một quãng đường khá dài. Trong nhóm của chúng tôi, một số cha lớn tuổi xin đầu hàng ngay từ đầu. Một số khác leo được giữa chừng thì bỏ cuộc vì bụng to quá. Chỉ có một nhóm nhỏ lên được tới đỉnh núi. Người lên đỉnh núi đầu tiên là một vị linh mục nhỏ nhất. Có lẽ ngài chỉ khoảng hơn 40 kg.
Quan sát vị linh mục chinh phục đỉnh núi đầu tiên, tôi rút ra được một bài học cho riêng mình. Để leo lên một ngọn núi cao, tôi cần phải có những hành trang cần thiết.
Thứ nhất đó là một niềm tin kiên vững không bỏ cuộc. Leo núi đòi tôi phải tốn nhiều sức lực. Có những đoạn đường nhiều chông gai không dễ đi. Tôi dễ dàng bỏ giữa chừng. Tôi cũng có thể thấy một cái gì đó trên đường lôi cuốn khiến tôi xao lãng. Tôi cần phải mạo hiểm, phải ra khỏi bản thân để có một cú nhảy của niềm tin, như niềm tin của cụ Abraham trong bài đọc 1 (St 22, 1-18 ). Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế chính con một yêu dấu của mình là Isaac cho Ngài. Đây là điều vượt quá luân thường đạo lý. Không có một nền luân lý nào cho phép cha giết con. Đó là một tội ác không thể dung thứ. Vì thế mà hành động của Abraham chỉ có thể hiểu được trong viễn cảnh ông tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Ông tin Thiên Chúa có thể trả lại sự sống cho Isaac và ông vẫn sẽ là tổ phụ của một dân đông đảo. Trong tác phẩm “Kinh hãi và run sợ” (Crainte et Tremblement), Soren Kierkegaard đã viết những dòng vô cùng tuyệt vời để diễn tả niềm tin của Abraham “Tôi nghiêng mình bảy lần trước quý danh Ngài và tôi nghiêng mình bảy mươi lần trước hành động đó của Ngài”. Abraham đã trở thành cha của những người có niềm tin là thế.
Thứ hai, để lên núi, tôi cần buông bỏ. Tôi cần bỏ lại những hành trang cồng kềnh khiến con người tôi ra nặng nề. Bụng càng to càng khó leo núi. Biết bao thứ trong cuộc đời bủa vây tôi. Tham luyến, sân hận, si mê đó là những thứ như muốn kéo ghì tôi xuống. Tôi cần can đảm chặt đứt những thứ đó để có thể nhẹ nhàng thanh thoát. Càng nhẹ nhàng, tôi càng dễ dàng bay cao. Có những thói quen đã ăn sâu vào con người tôi. Muốn bỏ đi quả là điều không hề dễ dàng.
Lạy Chúa, xin biến đổi con mỗi ngày. Xin cho con một niềm tin kiên vững vào Chúa. Xin cho con biết thành tâm sám hối mỗi ngày để loại bỏ đi những Virus độc hại vẫn thường xâm chiếm linh hồn con. Xin cho con biết chạy đến với Chúa mỗi ngày bởi vì: “Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề. Ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi” (Tv 16,11).
35.Người đã phó nộp Ngài vì hết thảy chúng ta--Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu
Buổi sáng tinh sương hôm đó, trên con đường dẫn tới vùng đất Moriyah (theo truyền thuyết, chính là ngọn đồi sau này đền thánh Giêrusalem sẽ được xây trên đó), cụ già Abraham tay "cầm lửa và dao phay", Isaac, đứa con duy nhất của cụ vác củi. Cả hai đang mải miết trèo núi để làm lễ tế kính tiến Thiên Chúa Giavê.
Câu chuyện xảy ra vượt sức tưởng tượng của con người! Khởi đầu là lệnh truyền của Thiên Chúa Giavê: "Ngươi hãy lấy con ngươi, con một ngươi, ngươi yêu dấu tức là Isaac mà đi tới đất Moriyah, và ở đó hãy dâng nó làm của lễ thượng hiến trên một quả núi ta sẽ tỏ cho ngươi" (St 22,2). Tiếp đó là việc thi hành thượng lệnh không sai một ly: "Abraham xây tế đàn rồi sắp củi, và trói Isaac con ông mà đặt lên tế đàn, trên đống củi, đoạn Abraham giơ tay cầm lấy dao phay để tế sát con mình" (St 22,9-10).
Hành động của Abraham là tột đỉnh của lòng tin: quả thực Abraham đã không từ chối Chúa một điều gì, ngay cả người con duy nhất của ông. Đức tin của Abraham đã trở nên khuôn vàng thước ngọc cho mọi lòng tin, không phải một đức tin mù quáng, phi lý, nhưng một đức tin dựa trên chính Thiên Chúa, Đấng hằng trung tín. Cuộc thử thách đức tin của Abraham thật khủng khiếp, nhưng "lòng kính sợ Thiên Chúa" là thành trì kiên cố bảo vệ đức tin kiên vững của ông trong cơn bão táp. Chính vì thế, Thiên Chúa Giavê đã ân thưởng ông bội hậu: "Vì ngươi đã không từ chối với ta con một ngươi thì ta sẽ ban phúc chúc lành cho ngươi, ta sẽ làm cho dòng giống ngươi thêm đông, nên nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển... Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi vì ngươi đã vâng nghe tiếng Ta". (St 22,17-18). Dòng giống đông như "sao trời cát biển" đó chính là những cõi lòng tin Thiên Chúa, đó chính là hội thánh tại thế, đó chính là mỗi người chúng ta.
"Ngài là con chí ái Ta, các ngươi hãy nghe Ngài" (Mc 9,7)
Hiến tế của Abraham dâng hiến Isaac mới chính là hình bóng của một Hy lễ toàn hảo của chính Đức Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã quả quyết: "Người đã không tha cho chính con của Người, nhưng đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy" (Rm 8,32). Lòng mến của Thiên Chúa đối với con người thật khôn lường khôn tả. Chính tình yêu vô bờ bến ấy, thể hiện qua việc Đức Kitô chịu nạn chịu chết trên bàn thờ thập giá, đã khơi nguồn ân cứu độ, hoàn thành giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và con người.
Mùa chay thánh, mùa dọn lòng người tín hữu đón nhận tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, chúng ta hãy cùng với ba môn đệ Phêrô, Giacobê và Gioan chiêm ngưỡng bản tính và vinh quang Thiên Chúa hiện tỏ nơi Đức Kitô con yêu dấu của Ngài. "Hãy nghe Ngài" vì Ngài là "Đường là sự thật và sự sống" dẫn đưa con người về với Thiên Chúa. Thái độ của người tín hữu trong mùa chay thánh là hãy lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, và đem ra thực hành Lời Chúa trong đời sống.
Hãy luôn ghi nhớ rằng, con đường đức tin Abraham xưa đã đi cũng như cuộc hành trình đức tin của chúng ta trong thế giới hôm nay, cả hai chỉ là một, sẽ đầy thử thách chông gai, và chóp đỉnh vẫn là: Vâng Phục và Kính Sợ Thiên Chúa.
36.Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng có thể bay nhanh tới những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có thể di chuyển nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng tầm nhìn rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các ông đã xác định được hướng sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh sáng thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Chúng ta tìm về ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt vời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.
ÁNH SÁNG THẦN KỲ
Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần kỳ trên núi, các môn đệ mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và mộng tưởng. Giấc mơ Thiên sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng cái thế thực hiện tất cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế Thày lại tiên báo về một Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu diệt khỏi mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thày như dẫn các môn đệ vào con đường hầm dầy đặc bóng tối.
Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm. Đức Giêsu muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người phải củng cố niềm tin các môn đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một chân trời vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thày quyết định dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một điểm mốc cho tương lai.
Núi là nơi lý tưởng để Thày trò cầu nguyện. Nhưng lần này khác hẳn. “Núi là nơi thường chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và những cuộc thần hiển” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới đỉnh núi, “Người biến đổi hình dạng trươc mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (Mc 9:3) Đức Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân xác không cản nổi luồng sáng từ thiên tính Người. Niềm tin các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng tỏa ra một thứ hào quang tương tự khi chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây bồ đề (?). Bởi vậy nói theo kinh nhà Phật, trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng đã thành con đường dẫn các môn đệ thoát khỏi bến mê và trở về nhà Cha an toàn.
Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ hiểu được lời Đức Giêsu hứa về “Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực” (Mc 9:1) và xác tín “Thày là Đức Kitô” (Mc 8:30). Nói cách khác, Thày tự mạc khải là Đấng quyền năng có sứ mạng cứu nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò lớn lao đó, Thày xứng đáng là vị lãnh đạo muôn dân vào Đất Hứa. Thày xuất hiện để lời các tiên tri trở thành hiện thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Eâlia đã xuất hiện để củng cố và chiếu sáng niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của Thày. Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh bóng dung nhan Đức Giêsu.
CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI
Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây ngất về dung nhan Thày trổi vượt hơn các ông Môsê và Eâlia, thì “có một đám mây bao phủ các ông” (Mc 9:7). Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải được nhắc lên đám mây, các ông mới nghe được tiếng Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Lời trìu mến chừng nào! Tất cả cơ nghiệp Chúa Cha là Đức Giêsu! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không ngần ngại hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn tả phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên Chúa đối với con người. Abraham chỉ bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại, “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B] 1999:10). “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (1 Cr 6:20).
“Tiếng trong đám mây làm liên tưởng tới vị tiên tri trong Đệ Nhị Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những ngày sau hết” (Faley 1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự bản tính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không? Vậy mà từ xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư luận! Bởi vậy từ nay, dù Thày có nói những điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải chấp nhận. Sự thật vẫn là sự thật. Thày không sợ sự thật. Thày muốn môn đệ cũng phải đối diện với sự thật. Vì “sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32).
Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô cảm thấy lúng túng. “Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9:6). Một kinh nghiệm khó quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo dài mãi cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba lều chỉ là một cách nói lên điều ông không biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn các môn đệ “ngủ quên trên chiến thắng”. Ngay trên núi, sau khi chứng kiến cảnh Thày biến hình, các ông đã bị trả về thực tế. “Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (Mc 9:8). Thực tế trơ ra đó. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế. Các ông lại phải tiếp tục nghe những điều nhức nhối tâm can phát ra từ miệng Thày. Thày trò rủ nhau xuống núi. Thày tiếp tục quả quyết về số phận không thể tránh: “Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê.” (Mc 9:12) Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thày biến hình khỏi tâm trí các ông? Làm sao các ông quên được lời phán từ đám mây: “Hãy vâng nghe lời Người”. Nghe lời Người để tìm đến sự sống, chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ bừng dậy khi “Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Đó mới là điều ám ảnh tâm trí các ông suốt đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả lời đích xác, dẹp yên mọi xôn xao trong lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng Thiên sai bá chủ sẽ nhường bước cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng biến hình chỉ là bóng mờ so với ánh sáng Phục sinh. Nhưng không chứng kiến hay cảm nghiệm được ánh sáng biến hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao “Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Trong ánh sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng “nơi Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ dân Người.” (Fisichella 1995:669) Người chính là vị Thiên sai đến thực hiện tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải thoát nhân loại.
Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân loại vẫn còn sống trong những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công còn hiện diện khắp nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên. “Sứ mệnh Thiên sai vẫn còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc giải thoát toàn vẹn và sau cùng. Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang lại ơn cứu độ. Biến cố đó không chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta phải trở nên khí cụ thực hiện công bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn hoành hành”(Fisichella 1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa một xã hội đầy bạo động và sa đọa này.
Hi vọng không phải lóe lên ở cuối đường hầm, nhưng chiếu toả mãnh liệt trên đỉnh núi. Hôm nay sau khi chiêm ngưỡng dung nhan Đức Giêsu, các môn đệ đã nhận thấy “sức mạnh duy nhất của Thiên Chúa là sức mạnh tình yêu, tình yêu toàn năng” (TGM Angelo Comastri: Zenit 12/3/2003) đang hoạt động mãnh liệt trong tâm hồn con người và toàn thể vũ trụ.
37.Tìm vinh quang Thiên Chúa ở đâu?--Lm. Trần Xuân Lãm
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống trần gian mang hình hài thể xác con người như ta, nhưng hôm nay Ngài tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của con người, để mặc lấy một hình dạng khác rất siêu phàm: "Y phục Ngài rực rỡ, trắng tinh, không thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng như vậy". Sự sáng láng chiếu tỏa vinh quang của thiên giới.
Đức Ki-tô chính là Đấng Messiah ẩn mình, người tôi trung đau khổ của Thiên Chúa, hôm nay được tỏ bày trước kỳ hạn vinh quang, qua việc các đại diện của lề luật và ngôn sứ là Mô-sê và Ê-li-a, hiện ra và đàm đạo với Ngài. Đây là lần thứ hai có tiếng phán từ trời về Chúa Giê-su: "Này là Con Ta chí ái" (Mc 9:7)
Trong lúc còn thử thách ở cuộc đời trần gian, chúng ta được mời gọi tin phục hoàn toàn vào Thiên Chúa qua mọi biến cố trong cuộc đời. Thiên Chúa ẩn náu mình đi không muốn tỏ vinh quang và quyền phép uy nghi của Ngài ra, để ép buộc chúng ta nghe lời Ngài. Ngài đã ban cho chúng ta tự do và Ngài tôn trọng tự do đó. Hơn nữa, có tự do mới có công phúc.
Tuy nhiên những ai đọc và suy niệm lời Chúa, những ai có con mắt đức Tin trong sáng thì đã thấy và đã biết Thiên Chúa uy quyền và vinh quang ở đâu: ở trong Bí tích Thánh thể, trong các Bí tích, trong Phúc âm, trong mọi biến cố, hoàn cảnh cuộc đời. Chúa hiện ra ở đó còn uy quyền sáng láng hơn cả khi biến hình trên núi cao hôm nay.
Bài Phúc âm còn ngụ ý dạy chúng ta, nếu muốn được nhìn thấy Thiên Chúa vinh quang và uy nghi thì phải lên núi cao, vượt trên mọi thấp hèn của xác thịt. Bên cạnh đó, chúng ta cần sẵn sàng bước theo con đường thập giá của Đức Ki-tô, vì con đường ấy dẫn chúng ta đến vinh quang và phúc trường sinh muôn đời.
38.Đức Giêsu hiển dung--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
“Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức Giêsu, hiểu sai những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ mang tư tưởng nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa...”
Có một mối liên hệ sâu xa giữa biến cố được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay (Mc 9,2-10) với lời tiên báo về số phận của Con Người trong Mc 8,31. Trước phản ứng rất mạnh mẽ của ông Phêrô (đại diện cho nhóm các đồ đệ) đối với lời tiên báo đó (8,32), Đức Giêsu, vốn đầy tình thương yêu nhân lành đối với các đồ đệ, đã muốn giúp các ông hiểu và đón nhận chương trình cứu độ của Thiên Chúa, bằng cách cho các ông được trải nghiệm một thực tại ngoại thường: biến cố hiển dung.
“Khi ấy, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao” (c.2). Tác giả Tin Mừng không nói rõ đó là ngọn núi nào. Có lẽ ông muốn ám chỉ núi Sinai, là ngọn núi mà ở đó, ông Môsê và ông Êlia (các nhân vật sẽ xuất hiện trong c.4) đã được chứng kiến các cuộc thần hiện của Thiên Chúa (x. Xh 34,1-8; 1V 19,8-18). Trước đây, các đồ đệ đã từng được biết rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (8,30), nhưng các ông lại hiểu sai về tư cách và sứ mạng Mêsia của Người. Đức Giêsu đã cố gắng giúp họ không hiểu sai, bằng cách nói cho họ biết về số phận đang được dành sẵn cho Con Người (8,31), nhưng Người đã thất bại trong nỗ lực đó (8,32). Bây giờ Người đưa các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng ra một nơi, để một lần nữa, giúp các ông điều chỉnh cái ý tưởng sai lầm của các ông về Đấng Mêsia và giúp các ông đón nhận những hệ luận của việc gắn bó với Người. Những gì các ông sắp trải nghiệm sẽ là một cuộc thần hiện, cho các ông thấy tình trạng vinh quang của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng sự chết. Người muốn cho các ông cảm nghiệm trước ánh vinh quang của Đấng sắp đi vào cuộc khổ nạn kinh hoàng.
“Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (cc.2c-3). Vinh quang của Đức Giêsu được trình bày qua các chi tiết về vẻ huy hoàng của y phục của Người. Theo quan niệm đương thời, y phục là cách diễn tả con người, và trong trình thuật này, nó có giá trị ám chỉ nhân tính của Đức Giêsu. Y phục đó bây giờ “trở nên rực rỡ, trắng tinh”. Sự rực rỡ và trắng tinh thuần khiết đó biểu tượng cho vinh quang thần linh thấm đẫm nhân tính của Người. Đó là vinh quang thực của Đấng bị trao nộp vào tay người đời vì sự sống thật của nhân loại. Sự chết mà Người sắp trải qua sẽ thất bại tận căn trước vinh quang thần linh này. Và vẻ huy hoàng thuần khiết đang được tỏ lộ nơi Đức Giêsu này có nguồn gốc thiên thai, chứ không phải là kết quả của nỗ lực nhân loại: “Không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”.
“Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu” (c.4). Sự xuất hiện của hai nhân vật vĩ đại của Cựu Ước là các ông Môsê và Êlia, đã đem vào trong những thực tại mà các đồ đệ đang trải nghiệm một đường nét và ý nghĩa mới: mối liên hệ của Cựu Ước với Đức Giêsu. Tác giả Mc đã không nói rằng ông Môsê và ông Êlia đến, mà là các ông “hiện ra”, như thể một thực tại đang còn ẩn giấu bây giờ được tỏ lộ ra. Đàng khác, ông Môsê và ông Êlia hiện ra là để cho các đồ đệ của Đức Giêsu thấy, và tác giả không hề nói gì về vẻ vinh quang của các vị ấy. Hai vị là đại diện của Cựu Ước (Lề Luật và các ngôn sứ) như đã được ban truyền cho dân. Và tuy hiện ra cho các đồ đệ thấy, nhưng ông Môsê và ông Êlia không nói gì với các ông mà chỉ đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là Cựu Ước chẳng truyền đạt cho các đồ đệ của Đức Giêsu sứ điệp nào nếu không qua Đức Giêsu. Ông Môsê và ông Êlia xuất hiện trong sự quy hướng về Đức Giêsu mà thôi. Chính Đức Giêsu mới là Đấng xác định giá trị của Cựu Ước. Môsê và Êlia, tức là Lề Luật và các ngôn sứ, không phải là những giá trị tuyệt đối, mà là những thực tại tùy thuộc vào thực tại Giêsu. Đức Giêsu và sứ điệp của Người siêu vượt hơn hẳn mọi thực tại cao quý nhất của mặc khải Cựu Ước. Những gì Đức Giêsu nói và thực hiện thì quan trọng hơn hẳn những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã dạy.
“Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia" (c.5). Sự tiến triển của biến cố hiển dung bị đoạn tục bởi sự kiện ông Phêrô lên tiếng. Được trực tiếp chứng kiến những gì đang diễn ra, ông Phêrô hướng về Đức Giêsu (chứ không phải về ông Môsê hay ông Êlia) và thưa chuyện với Người.
Ông Phêrô đưa ra một đề nghị, nhân danh các bạn (“chúng con”) và hy vọng sẽ được Đức Giêsu đồng ý. Điểm chính yếu trong đề nghị là việc làm ba cái lều, một cho Đức Giêsu, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia. Có hai khía cạnh đáng chú ý, được diễn tả bằng danh từ “lều” và số từ “ba”. Hạn từ “lều” gợi ý về lễ Lều: ông Phêrô nối kết cuộc hiển dung của Đức Giêsu với sứ mạng Mêsia của Người, và ông hiểu đó là sứ mạng Mêsia theo hướng dân tộc chủ nghĩa. Với số từ “ba” và được phân chia rõ ràng là “một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”, ông Phêrô đang đặt cả ba vị trên cùng một bình diện, xóa mờ sự tùy thuộc của các ông Môsê và Êlia đối với Đức Giêsu và đặt các ông ấy trong tư thế độc lập. Thực tại đang xảy ra, như chúng ta đã nói trên kia, là ông Môsê và ông Êlia xuất hiện chung với nhau trong sự quy hướng về Đức Giêsu. Nhưng trong đề nghị của ông Phêrô, thì Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia đồng hàng với nhau, và mỗi vị có vai trò riêng của mình, mỗi vị có “lều” riêng của mình. Đức Giêsu là Đấng Mêsia; ông Môsê: Lề Luật và các thiết chế; ông Êlia: nhà cải cách tôn giáo vĩ đại. Bằng cách đó, ông Phêrô cho thấy ý tưởng của ông về Đấng Mêsia (x. 8,29.33). Một cách gián tiếp, ông Phêrô phủ nhận sự mới mẻ của sứ điệp và vai trò của Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.
Rõ ràng ông Phêrô đã được nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, nhưng chưa hiểu. Đúng ra, cần phải nối kết vinh quang đang được hé lộ trong biến cố hiển dung này với thực tại phục sinh của Con Người sau cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, như Đức Giêsu đã từng nói trước (8,31), nhưng ông Phêrô chưa thực hiện được sự nối kết đó. Ông vẫn đang còn mang tư tưởng của loài người chứ chưa phải là tư tưởng của Thiên Chúa (8,33).
“Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (c.6). Tại sao các ông lại kinh hoàng đến độ không biết nói gì? Có yếu tố nào đe dọa các ông ở đây? Trong sự sợ hãi và cảm thấy bị đe dọa đó, ông Phêrô lại chỉ ngỏ lời với Đức Giêsu thôi, chứ không nói gì với các ông Môsê và Êlia, chứng tỏ ông cảm thấy kinh hoàng là vì một điều gì đó nơi Đức Giêsu. Quả thực, ông và các bạn đang được chứng kiến vinh quang thần linh tỏ lộ nơi Đức Giêsu. Các ông hiểu rằng nơi Người đang có mãnh lực thần linh của chính Thiên Chúa, vốn là mãnh lực có thể gây chết chóc cho người phàm một khi họ được chứng kiến. Và điều đó gây ra nỗi kinh hoàng tột độ cho các ông.
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" (c.7). Xuất hiện yếu tố thứ ba của cuộc thần hiện. Yếu tố thứ nhất là sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu, cho thấy tư cách và vị thế thần linh của Người. Yếu tố thứ hai là sự xuất hiện của các ông Môsê và Êlia, chứng tỏ Đức Giêsu là điểm đến, là đỉnh điểm, là điểm quy chiếu của tất cả Cựu Ước. Bây giờ xuất hiện yếu tố thứ ba: Đức Giêsu được công bố là Con Thiên Chúa, Đấng hiến dâng chính mạng sống mình, Đấng là Lời tối hậu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Có thể nói sự xuất hiện của đám mây và tiếng phán từ đám mây chính là đỉnh điểm của cuộc thần hiện. Đám mây vừa mạc khải vừa che giấu sự hiện diện của Thiên Chúa. Và trong thực tế, đám mây đã thế chỗ của những chiếc lều mà ông Phêrô muốn làm. Nói chính xác hơn, sự xuất hiện của đám mây bao trùm đồng một trật Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia, chính là sự từ chối, hoặc chí ít cũng là sự điều chỉnh, cái đề nghị vừa được phát biểu của ông Phêrô. Khi đề nghị làm ba cái lều “ở đây” là ông Phêrô đang muốn cầm giữ cả ba vị trong cõi đất này, với hy vọng rằng vương quốc Mêsia, nhờ các Ngài, sẽ được khai mở như là một thực tại thế tạm. Trái lại, Thiên Chúa cho thấy rằng vinh quang của Đức Giêsu và thực tại Người mang đến, tự bản chất, thuộc về cảnh vực thần linh chứ không phải là những thực tại thế tạm.
Cùng với đám mây và từ đám mây, có tiếng phán. Tiếng ấy không nói với Đức Giêsu nhưng là nói với các môn đệ và cung cấp cho các ông lời giải thích về những gì đang diễn ra. Phần thứ nhất của lời giải thích là một khẳng định: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đại từ “đây” rõ ràng loại trừ ông Môsê và ông Êlia khỏi điều được công bố và đồng thời nhấn mạnh tính cách hơn hẳn của Đức Giêsu so với hai vị đó. Ngữ đoạn “là Con của Ta” cho thấy một cách tường minh rằng thực hữu của Đức Giêsu xuất phát từ chính Thiên Chúa, rằng hành động của Người là hành động của chính Thiên Chúa, rằng lời của Người là lời của chính Thiên Chúa. Định ngữ “yêu dấu” nhấn mạnh mối tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu.
Phần thứ hai là một lời kêu gọi: “Hãy vâng nghe lời Người”. Đức Giêsu là Tôn Sư độc nhất, là Đấng công bố lời tối hậu của Thiên Chúa. Các môn đệ chỉ phải vâng nghe lời Người mà thôi. Cựu Ước (mà đại diện ở đây là các ông Môsê và Êlia) không có gì để nói trực tiếp với các môn đệ nữa nếu không phải là qua Đức Giêsu. Như thế, không hề có hai mặc khải song song hay tiếp nối (Cựu Ước và Đức Giêsu), mà chỉ có một mặc khải duy nhất nơi Đức Giêsu, Đấng thực hiện và hoàn tất những gì được nói trong Cựu Ước, Đấng quyết định giá trị và đem lại sự trường tồn cho những thực tại Cựu Ước.
Tác giả Tin Mừng không nói gì về phản ứng của các môn đệ đối với những gì vừa được công bố từ đám mây. Trong Kinh Thánh, một khi được ý thức, lời của Thiên Chúa sẽ gây nên nơi người nghe sự sợ hãi. Nhưng các môn đệ ở đây không phản ứng gì. Hình như tác giả Tin Mừng có ý ngầm cho biết rằng các ông đã chẳng hiểu đúng ý nghĩa của những thực tại đang diễn ra, y như trước đây các ông đã không hiểu đúng ý nghĩa lời tiên báo của Đức Giêsu (x. 8,31tt).
“Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (c.8). Trái với đề nghị của ông Phêrô, các ông Môsê và Êlia đã biến đi. Từ nay, họ không còn vai trò gì trong lịch sử nữa, chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, Đấng duy nhất mà các môn đệ phải vâng nghe lời, Đấng duy nhất là tôn sư và ngôn sứ. “Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”.
Sau đó, các Ngài rời cảnh vực thần linh và trở về với lịch sử trần trụi. Cho đến lúc này, như chúng ta đã hơn một lần nói ở trên, các môn đệ chưa hiểu đúng những thực tại mà các ông vừa được trải nghiệm. Vì thế, “ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại” (c.9). Chỉ khi vinh quang của Người được liên kết chặt chẽ với sự từ chối và cái chết mà Người đã từng nói cho các ông biết, thì các ông mới có thể nói lại cho người khác những gì các ông vừa được trải nghiệm trên núi. “Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì” (c.10).
Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức Giêsu, hiểu sai những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ mang tư tưởng nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa... Nhưng đồng thời, ngay trong Mùa Chay thánh này, biết đâu Chúa vẫn đang hiển dung cho chúng ta một cách nhiệm mầu... Từng chi tiết của cuộc hiển dung trong bài Tin Mừng hôm nay đều đáng được suy niệm một cách nghiêm túc và đều có ý nghĩa sâu xa đối với đời sống đức tin của chúng ta....
39.Con người phải lòng Thiên Chúa--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Đứng trước Thiên Chúa, con người tự thấy mình hèn kém. Nó sợ hãi khi nghĩ đến sự công thẳng của Thiên Chúa giáng xuống những con người tội lỗi. Nhưng nhìn về tình yêu bao la của Chúa, con người lại e dè, xấu hổ. Nó tự thấy mình bất xứng với tình yêu mà Chúa Cả Trời Đất dành tặng cho nó. Thiên Chúa thì mải mê tìm kiếm và tỏ tình với con người. Rồi cũng đến lúc con người ngã vào lòng Thiên Chúa. Lịch sử cuộc tình ấy tiếp tục được trình bày trong Chúa nhật thứ II này.
Người đầu tiên thuận lòng theo Chúa
Sau khi đơn phương ký kết với ông Noe, Thiên Chúa không ngừng bày tỏ tình thương của Ngài với con người. Nhưng sau biến cố Đại Hồng thủy bi thương, dường như con người chẳng sợ hãi Thiên Chúa; Con người tiếp tục làm ngơ trước tình thương của Ngài. Câu chuyện tháp Babel như lặp lại cái tội kiêu ngạo của con người, tội đòi được bằng Trời. Tuổi thọ của các tổ phụ được mô tả dần dần bị giảm xuống cho thấy hậu quả của tội lỗi con người tiếp tục đè nặng trên đôi vai của nó.
Abraham, một người cụ thể phải lòng Chúa đã đột ngột bước vào lịch sử cuộc tình giữa Trời và người. Một con người chính thức gục ngã trước tình thương của Chúa. Ông đã không thể cưỡng lại được tình cảm yêu mến và sự chăm lo của Chúa dành cho Ông. Abraham đã thất thần phải lòng Thiên Chúa. Ông bước đi theo Ngài bất chấp mọi sự. Ra đi nhưng Ông không biết mình sẽ đi đâu. Chỉ đơn giản là Ông đi theo tiếng gọi của Ngài.
Bài đọc thứ nhất (St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18) trích lại phần cao trào thử thách mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Chấp nhận đi theo Chúa rồi, nhưng những gì trải ra trước mắt Ông chỉ toàn là những trái ngang và mù mịt. Lời Chúa hứa ban cho Ông Bà một dòng dõi đông đúc luôn được Chúa nhắc lại. Nhưng điều quan trọng là tuổi Ông Bà đã già mà vẫn chưa có con thì nói gì đến dòng dõi. Thế rồi niềm hy vọng được khơi lên mạnh mẽ khi đứa con trai duy nhất của Ông Bà đến tuổi khôn. Nhưng chính lúc ấy thì Thiên Chúa kêu Ông hãy hiến tế con mình. Trái ngang và mịt mù làm vậy, nhưng Abraham vẫn nhanh nhẹn bước đi và thi hành theo Lời Chúa. Ông đã phải lòng Chúa thật rồi.
Tại sao Chúa lại cứ thử thách con người như thế? Người ta có thể than trách về Ngài cứ như là Chúa chỉ nói lời chứ không thực hiện. Nhưng lịch sử cho thấy Thiên Chúa đã dần thực hiện lời hứa của Ngài với tổ phụ Abraham về một dòng dõi đông đúc, một miền đất phì nhiêu và một lời chúc phúc. Ngược lại, lịch sử của con người lại phơi bày những yếu đuối, đổ vỡ, phản bội và bất trung với Chúa. Những thử thách trong tình yêu nhằm thanh tẩy con người ấy càng làm cho câu chuyện tình của Chúa và con người ngày càng trở nên mãnh liệt và đầy thi vị.
Cảm nếm cảnh xum vầy chan hòa hạnh phúc
Trong bài đọc thứ hai (Rm 8, 31b-34) trích từ thư Thánh Phaolo Tông đồ gửi tín hữu Roma, thánh nhân đã thốt lên: “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Tình yêu mà Chúa dành cho con người quả thực không có biên giới. Thiên Chúa đã không để cho Tổ phụ Abraham dâng hiến đứa con một của mình cho Ngài. Nhưng đến lượt Ngài, thì Ngài đã trao ban chính Con Một của mình cho con người. Thiên Chúa không bao giờ để cho con người bị tận diệt; và để cứu con người khỏi cảnh hư vong, Thiên Chúa đã trao ban tất cả cho con người.
Nếu có giây phút nào đó khiến con người nghi ngờ tình yêu của Chúa, thì Ngài sẵn sàng cho con người hưởng kiến vinh quang ngày chiến thắng, ngày đoàn tụ trong hân hoan. Khung cảnh thần hiện của Chúa Giêsu trên núi Tabor được thuật lại trong bài Tin mừng Chúa nhật này (Mc 9, 1-9). Chúa Giêsu biến hình trở nên sáng láng cùng sự xuất hiện của Môsê và Êlia. Tất cả làm cho không gian trở nên lạ thường. Các môn đệ chứng kiến cảnh này đã bị choáng ngợp trước vẻ huy hoàng. Phêrô lên tiếng nhưng “Phêrô không rõ mình nói gì”. Các ông như không còn ý thức về thân phận mình nữa mà chỉ còn lại là sự thâm nhập của Chúa vào trong con người các ông.
Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm”. Được cảm nếm giây phút rạng ngời trong Chúa, các ông chẳng còn thiết tha gì ở thế gian này. Ông đã thốt lên một lời trong tâm trạng hoảng sợ. Đứng trước cảnh tượng mà người ta chỉ còn có thể ngây người, há miệng, trố mắt nhìn thì làm sao mà còn nghĩ được gì. Phêrô nói mà còn chẳng biết mình nói gì. Nhưng nó lại cho ta thấy khát vọng sâu xa của con người là được ở lại trong Chúa. Lời thốt lên ấy của Phêrô là tiếng vọng từ tận sâu thẳm của tâm hồn con người. Chứng kiến một tình yêu cao cả đến thế nơi Chúa thì con người cũng dần phải lòng hết thôi.
Ngẫm
Phải lòng Thiên Chúa là hạnh phúc cho con người. Tình yêu Chúa có sức thanh tẩy con người tội lỗi, tái tạo và biến đổi con người đổ vỡ trở nên thánh thiện tinh tuyền. Chỉ một lần bạn được cảm nếm sự dịu ngọt của Chúa, bạn sẽ thấy tâm hồn trở nên tươi mới. Và cũng chỉ một lần bạn được ngã vào vòng tay yêu thương của Chúa sẽ muôn đời bạn không thể quên Ngài. Những ngày tháng, hay chỉ là những phút giây bạn phải lòng Thiên Chúa, bạn bị Chúa chiếm hữu tâm hồn, thì bạn sẽ đủ nghị lực và niềm tin để vượt qua tất cả mọi chông gai thử thách trên đường đời.
Nếu không màng chi đến thời khắc lịch sử, thì Mùa Chay đến rồi lại đi. Chẳng còn gì đọng lại trong tôi, trong bạn. Mùa Chay là cơ hội, là dịp mà con người tự tạo ra cho nhau để mà cùng nhau cảm nếm Tình yêu Chúa. Trong tĩnh lặng hay trong hoảng loạn, trong không gian thiêng thánh hay giữa chốn phồn hoa, lời tỏ tình của Chúa vẫn không ngừng vang lên.
Hãy dừng lại một chút để cảm nếm bạn ạ. Hãy nuốt đi những miếng nhai nhồm nhoàm để hớp lấy giọt sương sa thanh khiết mát rượi; hãy bỏ xuống chiếc kính màu chắn nắng để diện kiến vinh quang rạng ngời của Tạo Hóa; hãy rút cái phone ra khỏi tai để bạn có thể nghe thấy âm thanh thực của cuộc sống, những âm thanh từ trời cao hay tiếng róc rách của con suối dưới chân đồi; hãy mở rộng tâm hồn để được cảm nhận tất cả những cung bậc của tình Trời và người đang rung lên từ những tế bào sống trong ta.
40.Lên núi cầu nguyện--Tôma Nguyễn Xuân Hiệp
Chuyện kể rằng: Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, rất hợp tính và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện. Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng, ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo. Mười năm sau, người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hợp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa. Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh ta. * Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua. * Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác. * Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi, có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa. Sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước. Vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế. Muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải biết từ bỏ những thói quen xấu, những cám dỗ đam mê và đồng thời biết nổ lực luyện tập những nhân đức tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết đứng, chứ không còn là một thân cây tươi tốt sống động vươn mỗi ngày. Sở dĩ người anh trở nên tầm thường, khô cằn vì suốt 10 năm qua anh ta luôn tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái xấu nào và cũng không nổ lực tập một nhân đức nào. Tức anh ta không chịu “lên núi” trong đời sống hằng ngày để cầu nguyện, để gặp Chúa, để được biến đổi.
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta theo Chúa Giêsu “lên núi cầu nguyện”. Bài đọc 1, sách Sáng Thế tường thuật lại biến cố “lên núi” của Tổ phụ Abraham đầy giân truân vất vả, cả sự dâng hiến mạng sống người con một yêu dấu theo thánh ý Thiên Chúa. Chính bởi đức tin mạnh mẽ và quả cảm vượt thắng tất cả mà ông được gặp gỡ Thiên Chúa và được chúc phúc. Bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi giáo đoàn Rôma: hãy tín thác vào Thiên Chúa Tình Yêu, cho dẫu hành trình đức tin như một cuộc “leo núi” đầy khó nguy. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước và thể hiện tình yêu qua Người Con Một: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”. Bài Tin Mừng, thánh sử Maccô đã tường thuật lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt các môn đệ thân tín là: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Qua biến cố ấy, Chúa Giêsu muốn để lại cho các tông đồ và mỗi chúng ta bài học hữu ích trong hành trình đức tin của người kitô hữu là phải “lên núi” “Đức Giêsu lên núi cầu nguyện” (Mc 9, 28). Đây là bài học căn bản và nền tảng mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta: Phải cầu nguyện, kết hiệp và tìm thánh ý Chúa sau và trước những công việc làm. Để thực hiện điều ấy, “Đức Giêsu lên núi”, tức phải vứt bỏ những vướng bận lo toan thành công thất bại, phải dành thời giờ cho việc leo núi, vượt thắng những cám dỗ đam mê, phải nổ lực phấn đấu không ngừng với thân xác nặng nề để leo lên độ cao khó khăn vất vả trong đời sống tâm linh mới có thể sống tương giao với Thiên Chúa và để lắng nghe thánh ý của Người. Nếu thiếu vắng đời sống tương giao kết hiệp với Thiên Chúa trong thinh lặng, trong thẳm sâu tâm hồn để kín múc sức sống thần linh từ Thiên Chúa, thì xem chừng cách cầu nguyện ấy đã đi vào vết xe đổ của kiểu cầu nguyện đầy hình thức bên ngoài mà Chúa Giêsu đã từng lên án những người Biệt Phái. Đó là kiểu cầu nguyện kể lể, huênh hoang báo cáo kết quả cho cấp trên là Thiên Chúa. Hay kiểu cầu nguyện xem Thiên Chúa chỉ là chỗ dựa tinh thần tạm thời. Khi gặp thất bại, gian truân thì sốt sắng đến với Thiên Chúa như chiếc phao cứu sinh của đời sống tâm lý để giải tỏa những xung đột, những bế tắc, để vượt qua những bĩ cực thương đau. Sự sốt sắng cầu nguyện hy sinh ấy là vì con người, chỉ dừng lại ở nhu cầu ích lợi cá nhân chứ chưa đi vào mối tương giao kết hiệp với Thiên Chúa để tìm thánh ý Người. Nhà thần học Bonneffeur bảo: Đó là kiểu cầu nguyện ngoại giáo; một kiểu cầu cạnh tư lợi. Người không biết Chúa và cả những người vô thần cũng làm như thế. Một kiểu cầu an! Còn Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt thoát những vướng bận lo toan của đời thường để kết hiệp với Chúa, để tìm thánh ý Chúa trong từng biến cố, từng phút giây. Phải kết hiệp với Thiên Chúa cách liên lỉ mọi lúc mọi nơi, mọi công việc. (x. Mc 18,1-8. 9-14) Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn mỗi người chúng ta biết “lên núi” mỗi ngày, biết từ bỏ những cám dỗ đam mê, những vướng bận đời thường, mà sống kết hiệp với Thiên Chúa qua Thánh lễ, kinh nguyện, xét mình, tĩnh tâm, lãnh bí tích Giao hòa …. Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor hôm nay là hình ảnh tiên trưng hành trình vác thập giá lên núi Canvê và phục sinh của Chúa Giêsu. Và đó cũng là hành trình đức tin của mỗi người tín hữu chúng ta. Mỗi người chúng ta phải “lên núi” mỗi ngày mới có thể “biến hình”, mới có thể phục sinh sáng láng như Đức Giêsu Kitô. Amen.
41.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Đức Ông James M. Reinert--Đan Quang Tâm dịch
MÙA CHAY, NHỚ LẠI VAI TRÒ VÀ SỨ MẠNG
CỦA TA TRONG GIÁO HỘI
Câu truyện Ápraham sẵn sàng hiến tế con trai mình là Ixaác đặt toàn bộ việc cử hành Mùa Chay vào trong một ánh sáng tuyệt hảo. Thánh Phaolô ám chỉ về câu truyện này trong Thư gửi tín hữu Rôma. Tuy nhiên, ông nhắc cộng đồng rằng Thiên Chúa không những chỉ sẵn sàng hiến tế Con của Người nhưng Người còn “đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”.
Bởi vì hy tế đó, ta có can đảm và sự tự tin để biết rằng nếu ta trung thành, ta không có gì phải sợ. Thiên Chúa đã làm tất cả việc này cho chúng ta, Phaolô viết. Làm sao Người lại lên án chứ?
Tất cả điều này được tái củng cố trong câu truyện Hiển Dung khi Đức Giêsu khích lệ các tông đồ đừng mất đức tin trong ngày sắp đến. Trình thuật Hiển Dung trong Phúc âm Thánh Máccô thực tế chỉ là sự chép lại từng từ trong Phúc âm của Thánh Mátthêu và Thánh Luca. Ngay cả các biến cố dẫn đến sự kiện cũng y hệt.
Điều quan trọng là đặt bài Phúc âm ngày hôm nay vào trong ngữ cảnh. Theo Thánh Máccô, sự kiện xảy ra sáu ngày sau khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thày là ai?” Câu trả lời mà Thánh Phêrô đưa ra cho Người, quen gọi là lời tuyên tín của Phêrô, “Thầy là Đức Kitô!”, đã đưa Đức Giêsu đến chỗ báo trước lần thứ nhất về cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người và vạch ra các đòi hỏi cho các môn đệ. Một lần nữa, Đức Giêsu sắp nhắc nhở các môn đệ và tất cả chúng ta rằng đây là một bộ phận trong kế hoạch của Thiên Chúa và từ lúc này trở đi, trong khi tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, Người sẽ nói về thập giá rất nhiều lần.
Nay, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên đỉnh núi và Người hiển dung. Chắc chắn đây là một sự nếm trước về cuộc phục sinh. Hầu như chắc chắn là các môn đệ vẫn còn tìm cách để hiểu biết đầy đủ điều Đức Giêsu muốn nói khi bảo họ: “Người sẽ bị giết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Nay họ được giải thích rõ về lời nói đó. Họ xem thấy vinh quang của trời; họ thấy mối liên quan giữa “lề luật” trong Môsê và các “ngôn sứ” trong Êlia và sứ điệp mà Đức Giêsu đã và đang rao giảng.
Trong Chủ nhật thứ hai này của Mùa Chay, ta được nhắc đến các vai trò và trách nhiệm của ta trong Giáo hội. Tất cả điều này đến với ta bằng sự đoan chắc rằng đây là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa, ta có các nghĩa vụ với tư cách là môn đệ và ta có sự đoan chắc về Nước Thiên Chúa – mà ta vừa mới nhìn qua – trước hết trong câu truyện Hiển Dung và rồi trong sự phục sinh của Đức Giêsu vào sáng Chúa nhật Phục sinh.
“Toàn thể dân Chúa đều có một vai trò để thực hiện trong khi Giáo Hội hoàn thành sứ mạng của mình. Bằng các cách thức khác nhau và thông qua mỗi thành viên theo các năng khiếu và cách hành động thích hợp với ơn gọi của mỗi người, dân Chúa đáp lại bổn phận công bố và làm chứng cho Tin Mừng (x. 1 Cr 9,16), trong sự nhận thức rằng “hoạt động truyền giáo là một công việc của mọi Kitô hữu” (Thông điệp Redemptoris Missio, 2) (Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Giáo hội Công giáo, 538).
“Đời sống cá nhân và xã hội, cũng như hành động con người trong thế giới, luôn luôn bị tội lỗi đe doạ. Tuy nhiên, “bằng cách chịu khổ vì chúng ta…, Đức Giêsu Kitô không những làm gương cho chúng ta để chúng ta bước theo Người, mà Người còn mở ra cho chúng ta một con đường. Nếu đi theo con đường ấy, cuộc sống và cái chết của chúng ta sẽ được thánh hoá và mặc một ý nghĩa mới” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22). Trong đức tin và thông qua các bí tích, người môn đệ Đức Kitô gắn bó mật thiết với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu để con người cũ của mình, cùng với những khuynh hướng xấu, chịu đóng đinh với Đức Kitô. Rồi khi trở thành thụ tạo mới, họ được ân sủng tăng sức để có thể “bước đi trong đời sống mới” (Rm 6,4). Điều này “không chỉ đúng với các Kitô hữu, mà còn đúng đối với mọi người thiện chí, vì ân sủng vẫn đang hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn những người ấy. Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người và vì ai ai cũng được mời gọi hưởng chung một định mệnh duy nhất, là định mệnh thần linh, ta phải tin rằng Đức Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng trở thành những người thông phần vào Mầu nhiệm Vượt Qua, bằng phương cách chỉ có Thiên Chúa biết” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22) (sđd, 41).
42.Lên núi để được biến đổi--Lm. Minh Anh
“Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao”.
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ không bất ngờ khi nói, Mùa Chay là mùa cầu nguyện; nhưng sẽ khá bất ngờ khi bảo, Mùa Chay là ‘mùa lên núi’ và bất ngờ hơn khi cho rằng, Mùa Chay còn là mùa biến đổi. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ‘lên núi lòng mình’ để cầu nguyện; ở đó, như các môn đệ, chúng ta sẽ được đổi thay. Và như thế, Mùa Chay là mùa ‘lên núi để được biến đổi’.
Bài đọc Sáng Thế tường thuật cuộc lên núi nghiệt ngã của Abraham; ở đó, vị tổ phụ vâng lời Thiên Chúa, đã chấp nhận hiến tế Isaac con mình. Thế nhưng, ngọn núi này còn có tên là núi ‘Thiên Chúa sẽ liệu’, vì Abraham còn nhận ra khuôn mặt của một Ngôi Vị thần linh có trái tim thương xót vô bờ; Người là Thiên Chúa nhân hậu, đã tha chết cho con ông, cũng là Đấng đã đưa ông ‘lên núi để được biến đổi’. Lòng tin của ông vào Người càng tuyệt đối hơn, ông sẽ là “Cha các kẻ tin”.
Ngôi Vị thần linh có trái tim xót thương vô bờ đó, ‘đã liệu’ cho con của Abraham thoát chết, lại ‘không liệu’ cho Con Một của mình khỏi chết. Thánh Phaolô hẳn đã nhớ lại ngọn núi ân phúc ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ cho Abraham ấy để nói đến cái chết cần thiết của Chúa Giêsu, một cái chết không thể thiếu cho ơn cứu độ nhân loại vốn cũng xảy ra trên một ngọn núi ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ khác; Phaolô viết, “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con, vì tất cả chúng ta”.
Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy sự cần thiết việc các môn đệ ‘lên núi để được biến đổi’. Chúa Giêsu biết rõ những ai theo Ngài, cụ thể là các môn đệ, sẽ khó chấp nhận Ngài. Bởi lẽ, yêu kẻ thù, vác thập giá, hy sinh mạng sống và lời kêu gọi nên hoàn thiện, với họ, thật là cay nghiệt; và nhất là, họ sẽ trải qua những gì Ngài đã báo trước về cuộc thương khó và tử nạn của Ngài; cùng lúc, họ sẽ chịu bắt bớ và tan tác như chiên mất chủ. Vì những lý do đó, Chúa Giêsu đã đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan lên núi; ở đó, Ngài biến hình trước mặt họ, tỏ cho họ thoáng thấy Ngôi Vị thần linh cao cả của Ngài; đó là một mặc khải về Ngôi Vị thật của Con Thiên Chúa, Ngôi Vị Thiên Chúa. Việc chứng kiến sự vĩ đại và vinh quang của một vị Thiên Chúa nơi Thầy mình hẳn sẽ đọng lại trong họ và giúp họ mỗi khi bị cám dỗ dẫn đến nản lòng hay tuyệt vọng trước những quẩn bách hay những đòi hỏi thánh thiện Ngài đặt ra. Tắt một lời, cuộc hiển dung của Chúa Giêsu là sự ‘chuẩn bị gần’ trước khi họ đi vào thương khó của Thầy và trò; ‘lên núi để được biến đổi’ là thế!
Sau năm 373, muốn biết Chúa nhiều hơn, Thánh Gioan Kim Khẩu đã lên núi, một vùng cao gần Antioch. Mặc dù vì bệnh tật, thời gian cô tịch này không được nhiều năm, nhưng thánh nhân đã học được rằng, có Chúa ở bên, ngài có thể một mình chống lại bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì. Sau đó, là giám mục Constantinople, ngài đã chống lại những sai lạc của hoàng đế Theodosius, người khiến ngài phải lưu đày. Gioan Kim Khẩu đã để lại những lời bất hủ, “Điều gì khiến tôi có thể sợ hãi? Cái chết ư? Các người biết rằng, Đức Kitô là sự sống của tôi, tôi sẽ có được nó nhờ cái chết! Hay là lưu đày? Trái đất và tất cả sự sung mãn của nó đều thuộc về Chúa! Nghèo khó ư? Tôi không sợ; vì tôi chẳng ước mơ giàu có! Và chết ư? Tôi chẳng chồn chân!”.
Anh Chị em,
Như Thánh Gioan Kim Khẩu, những ngày Mùa Chay, chúng ta được mời gọi ‘lên núi’ không ngừng để biết Chúa Giêsu, hiểu Ngài như các môn đệ hiểu. Một khi đã xác tín Đấng tôi đi theo là ai, chúng ta mới có thể dễ dàng noi gương Ngài, nghĩa là sẵn sàng hiến tế ‘Isaac đời mình’, hiến tế cái tôi của mình. Và đây đích thực là sự biến đổi tận căn mà Thiên Chúa đang chờ đợi mỗi người. Chúng ta ‘lên núi lòng mình’ bằng lời cầu nguyện thầm lặng của trái tim, ra sức tìm kiếm Thiên Chúa, hầu có thể nhìn vào nội tâm của mình, và nhất là để nhìn vào khuôn mặt của Chúa Giêsu và cho phép ánh sáng Ngài tràn ngập, chiếu sáng và biến đổi cuộc sống của chúng ta. Và như thế, thật ý nghĩa, Mùa Chay này, chúng ta đã ‘lên núi để được biến đổi’ vậy.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã cho con thấu hiểu và cảm nghiệm, con đang bước theo một Giêsu nhân từ và giàu lòng xót thương. Cho con không ngừng hiến tế ‘Isaac đời con’, vươn ra khỏi cái tôi ích kỷ; cho con biết yêu mến việc ‘lên núi để được biến đổi’ hầu nên giống Ngài ngày một hơn”, Amen.
43.Hai khuôn mặt một tình yêu--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Mc 9: 2-10: Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: "Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa".
Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tùy sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Ga-ê-ta-nô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, Cha Ga-ê-ta-nô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân hình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, Cha Ga-ê-ta-nô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, Cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồ côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của Cha Ga-ê-ta-nô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài Cha Ga-ê-ta-nô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha. Cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Ta-bo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ở giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang lóe lên ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của Lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: "Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao?" (Rm 8,32). Nếu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn Con mình đến Thập giá trên Núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cha sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự hiến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: "Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa". Người Con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang Phục Sinh. Cảnh tượng huy hoàng của Núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết. Chấp nhận mất tất cả để nhận lại tất cả, chấp nhận chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, "người Cha của mọi kẻ có lòng tin" đã lấy chính cuộc đời mình để làm sáng tỏ cuộc định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên Núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Ga-ê-ta-nô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, "Người Con Một yêu quí của Cha, Người đẹp lòng Cha", đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ muôn thuở nơi Chúa Cha, để hóa thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa, nhờ Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gắng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta, góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
44.Vâng phục thánh ý Chúa: Đường trọn lành hoàn hảo--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Thiên Chúa là Đấng thượng trí, khôn ngoan vô cùng, mọi phán quyết, dạy dỗ của Người đều là chân lý, là tình thương cứu độ: Thầy là đường, là sự thật và có lời ban sự sống đời đời (cf. Jn 14, 1 – 12), nghĩa là bản chất của lời làm nên sự sống trần gian.
Đầy dẫy chứng từ Kinh Thánh minh xác chân lý cứu độ phát xuất từ lời “tình yêu và sự sống” thần linh được đón nhận trong tự do của loài thụ tạo.
Abraham vâng lời Chúa ra đi, đạt tới đất hứa, được nên công chính bởi tin, trở thành tổ phụ của tất cả những ai bước đi trong đức tin này, nghĩa là được vào Nước Chúa, sở hữu sự sống muôn đời.
Đức Maria, bởi sự vâng phục tuyệt đối, trở nên Mẹ Thiên Chúa, nên dấu chỉ và niềm hy vọng cho dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian.
Trên tất cả, Chúa Giê-su, cuộc đời Ngài đồng hóa với sự “vâng phục”, như của ăn làm cho cơ thể sống, sự vâng phục ý Cha làm cho Giê-su luôn sống như một Adam mới, trở nên nguyên nhân phần rồi đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người.
Những nhân chứng của niềm hy vọng lớn lao giúp chúng ta lắng nghe, vâng phục và thực thi ý Chúa, được cụ thể trong phụng vụ Lời Chúa, để được sống và sống dồi dào.
Chủ đề xuyên suốt các chúa nhật mùa chay: sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người được thiết lập qua dấu chỉ “Giao Ước”. Lắng nghe và thực thi ý Chúa là dấu chỉ đức tin, điều kiện cấu thành sự hiệp thông cứu độ, đem lại sự sống đời đời.
Trong chúa nhật I, hiệp thông giao ước làm theo cách thức Chúa chỉ: Noe lên núi, đóng tàu. Tình hiệp thông ghép các tấm ván thành con tàu cứu gia đình ông khỏi đại nạn hồng thủy.
Chúa Giê-su mời gọi con người hoán cải canh tân đón nhận Nước Trời. Trong con tàu Giê-su, mỗi người trở thành chi thể sống động, có Giê-su là đầu, để hễ đầu đi tới đâu, thì toàn thân được lôi kéo tới đó, đầu có sự sống bởi Cha, thì các chi thể, nhờ Ngài, cũng được sống như vậy.
Trong chúa nhật II mùa chay, tình hiệp thông giao ước còn được nâng lên mức độ cao hơn khi Thiên Chúa đòi hỏi sự hiến tế chính bản thân mình.
Abraham, trong bài đọc I, được ban tặng mọi phúc lành giao ước với điều kiện phải tuyệt đối vâng phục ý Chúa. Lệnh truyền sát tế I-xa-ác là một đòi hỏi rất nặng nề, nếu không muốn nói là quá sức chịu đựng. Giết con ruột, con một duy nhất, có khác gì giết chết chính bản thân mình. Giết chết con một duy nhất đồng hóa với tận diệt, tuyệt tự, điều mà người Do Thái không bao giờ dám nghĩ và dám làm, vì nó là sự chúc dữ tồi tệ, đáng nguyền rủa nhất.
Đặt mình vào tâm trạng Abraham lúc này, chúng ta thấy đức tin của ông thật mạnh mẽ, phi thường, đã dám nhảy liều trong niềm hy vọng. Nhờ tin vững vàng vào Thiên Chúa, ông đã vượt lên trên con người tự nhiên, mỏng giòn, yếu đuối. Sẵn sàng hiến tế I-xa-ác là hành vi đức tin của bậc anh hùng. Nhờ đó, ông được nên “công chính”, đón nhận mọi lời hứa giao ước.
Bài đọc thứ I cho cái kết có hậu: tất cả đều hoan hỷ, hạnh phúc:
Chúa vui, vì biết ông là người có lòng yêu mến, kính sợ Ngài. Chúa chúc phúc, ban thưởng tất cả mọi sự hơn những gì ông dám ước mơ: được đất hứa làm gia nghiệp muôn đời, được con cái đông như sao trời cát biển, được lôi kéo vào dòng dõi ông tất cả những kẻ bước đi trong đức tin của ông.
Abraham vui, vì sự sống của con ông được bảo tồn, được hưởng tất cả lời hứa và qua ông nhân loại cũng được chúc phúc.
Abraham thật có phúc, vì đã tin và vâng phục đức tin trong mọi sự ! Ông thật là bạn hữu, là con yêu dấu của Cha trên trời, xứng danh trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.
Abraham chỉ là hình ảnh tiền trưng của Đấng phải đến, Đức Giê-su Kitô. Abraham là người bởi đất, được nên công chính bởi “tin”, Đức Giê-su là người của “Trời”, làm cho nhân loại nên công chính bởi “Nhập thể”. Bản tính thần linh đảm nhận lấy nhân tính và thần hóa nhân tính nên hàng thần thiêng.
Sự “hiển dung” là cách diễn tả nhân tính Giê-su được được đưa vào vinh quang sáng láng bất diệt. Trong trạng thái vinh hiển này, Giê-su hoàn tất mọi điều lề luật và các ngôn sứ chỉ về Ngài. Sự xuất hiện của Mô-sê và Ê-li-a là nhân chứng cho cả mạc khải rằng: Đấng phải đến đã đến rồi, nhân loại không còn phải chờ đợi đấng nào khác nữa.
Đặc biệt trong biến cố này là sự thần hiển Ba Ngôi: Giê-su biến đổi sáng láng tốt lành, Chúa Thánh Thần lấy hình đám mây bao phủ tất cả, Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7b).
Như vậy, trong tư cách Ngôi Lời nhập thể, Giê-su là người duy nhất vâng phục trọn vẹn thánh ý Cha, đã trở nên Con rất yêu dấu của Cha.
Giê-su, đã thay thế Adam bất trung, trọn niềm tin phó thác nơi Cha, trở nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho tất cả những ai tùng phục người.
Cuộc đời Giê-su kết thúc bằng: “mọi sự đã hoàn tất”, trở nên Con yêu dấu, Con hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo.
Trong sự phục sinh vinh hiển, lên trời, ngự bên hữu Cha, Giê-su là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người.
Phao-lô coi vai trò trung gian của Chúa Giê-su là sự bênh đỡ mạnh thế không ai có thể chống lại chúng ta.
Cũng vậy, vì một tình yêu luôn luôn lớn hơn, Cha trên trời đã thí bỏ Con Một yêu dấu vì tất cả chúng ta, lẽ nào Ngài lại ruồng rẫy, hất hủi, kết án chúng ta.
Giê-su, đã chết và đã sống lại, đang ngự bên hữu Cha, biện hộ và chuyển cầu, để chúng ta được sống và sống dồi dào.
Chúng ta cũng phải nghe lời Cha: đón nhận và thực hành giáo huấn của Chúa Giê-su, thì lời hứa giao ước mới được mãi mãi duy trì, tình yêu và sự sống thật mới đạt thấu chúng ta.
Hãy biết lắng nghe, thực hiện ý Cha trên trời, để trong Giê-su, chúng ta cũng trở nên con yêu quý của Cha, xứng đáng hưởng phúc lành là sự sống muôn đời. Amen.
45.Hãy Nghe Lời Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Đoạn 9,2-9 thuộc phần thứ hai của văn mạch 8,31-9,29. Trong phần thứ nhất (8,31-9,1), Chúa Giêsu loan báo công khai lần đầu tiên về cuộc thương khó, cái chết, và sự sống lại, và các môn đệ đã tỏ ra không hiểu (8,31-33). Người còn nói thêm những điều kiện xem ra khó thực hiện để làm môn đệ của Người và để cứu lấy mạng sống (8,34-9,1). Do đó, trong phần thứ hai, việc biến hình (9,2-9), đối thoại về Êlia (9,10-13) và biểu hiện quyền năng của Chúa Giêsu (9,14-29) là để mạc khải Chúa Giêsu cho các môn đệ và để kêu gọi các ông hãy tin và nghe lời Người.
Mọi chi tiết cuộc biến hình tập trung về Chúa Giêsu, mà cao điểm là tiếng nói từ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người” (9,7). Chúa Cha thực hiện việc biến hình nầy. Cuộc biến hình diễn ra trong khung cảnh của thế giới Thiên Chúa. Phần chuẩn bị: chiếc áo rực rỡ và trắng tinh Chúa Giêsu đang mặc biểu thị tình trạng của Người sau khi sống lại (x.16,5), hai khuôn mặt lớn của Cựu Ước: Môsê đại diện cho Lề luật và giao ước (1,44; 7,10; 10,3; 12,26). Êlia tranh đấu để dân chúng trung thành với giao ước mà chuẩn bị cho Chúa đến (Mal 3,22.24; Dnl 18,15). Phần mạc khải: đám mây biểu thị sự hiện diện của Thiên Chúa (Xh 19,9.16; 20,21; 24,15-18; 34,5). Tiếng nói từ đám mây ngỏ với ba môn đệ là tiếng của Thiên Chúa (Xh 24,16). Lời ấy xác quyết với họ Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa (1,11, nói trực tiếp với Chúa Giêsu; 14,61; 15,39), và ra một mệnh lệnh là phải nghe lời Người.
“Hãy nghe lời Người” được ban ra như một giới răn. Như xưa, trong khung cảnh núi Sinai, đám mây, Thiên Chúa đã tỏ mình ra (Xh 20,2-17; Đnl 5,6-21) và đã ban Mười Giới Răn trên bia đá cho Môsê (Xh 34,28; Đnl 4,13; 5,22; 10,4), bây giờ, cũng trên núi cao và có đám mây, Thiên Chúa tỏ mình ra trong Chúa Giêsu và giới răn của Người là hãy nghe lời Con Yêu Dấu của Người. Giới răn nầy được đặt trước cả giới răn thứ nhất: “Hãy nghe, hỡi Israel” (12,29). Như thế, những khó khăn của các môn đệ đã được soi sáng. Chúa Giêsu mà Phêrô tuyên xưng là Đấng Kitô (8,29), cũng chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Cuộc khổ nạn và sự chết của Người (8,31) sẽ được vượt qua bằng sự sống lại bởi quyền năng của Thiên Chúa. Những đòi hỏi của Người về việc vác thánh giá và từ bỏ chính mình (8,34-38) là có thể thực hiện, vì điều ấy được bảo đảm bởi lời của Con Thiên Chúa.
Lời của Chúa Giêsu bây giờ đáng nghe hơn cả lề luật của Môsê và lời của Êlia. Hãy nghe lời của Chúa Giêsu cách tuyệt đối để được chia sẻ vinh quang của Người (x. 8,38).
46.Biến hình trong đời thường--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mc 9: 2-10: Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm khổ nạn.
Chúng ta vừa nghe thánh Marcô thuật lại quang cảnh hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Sự Biến Hình của Chúa Giêsu mang nhiều ý nghĩa:
1. Đây là một điều thật quí báu cho Chúa Giêsu
- Chúa Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem và quyết định ấy có nghĩa là phải đối diện và chấp nhận thập giá. Người cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước trên con đường khổ giá. Trên đỉnh núi, Người đã nhận ra quyết định của Người.
- Êlia và Môsê đã đến gặp Chúa Giêsu: Môsê là nhân vật tối cao đã ban bố Lề Luật cho dân Israel. Êlia là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố lề luật vĩ đại nhất và vị ngôn sứ lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng “xin cứ tiến lên!” Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu hoàn thành tất cả những gì họ đã từng mong đợi. Nó cũng có nghĩa là họ thấy nơi Chúa Giêsu tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tròn đầy. Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Người đang đi đúng đường, vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
2. Đây là một điều quí báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa Giêsu
Các môn đệ đang bị tan nát cõi lòng khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rằng Người sắp phải lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dường như đã thiêu hủy tất cả những gì họ được biết về Đấng Mêsia. Các môn đệ đang bối rối, ngẩn ngơ, kinh ngạc, chẳng hiểu sự việc thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng.
Những gì đã thấy trên núi cao cho họ một cơ hội để bám lấy Chúa Giêsu ngay cả khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe chính tiếng nói của Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là "Người Con Yêu Dấu". Nó khiến các môn đệ trở thành các chứng nhân cho vinh quang của Chúa Giêsu vì chính họ đã được thấy vinh hiển của Người.
3. Biến Hình trên núi làm các ông hân hoan, không muốn xuống núi...
- Biến Hình trên núi làm các ông hân hoan, không muốn xuống núi, vì trên núi hạnh phúc hơn cuộc sống đời thường... nhưng phải xuống núi. Hiểu được điều đó nên Susanna Wesley đã có lời cầu nguyện “Lạy Chúa, xin giúp con nhớ rằng đạo không chỉ hạn hẹp trong nhà thờ hay trong cầu nguyện, suy ngẫm, mà là ở khắp mọi nơi trước nhan Chúa”.
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ như sau: "vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình. Nhà bếp chan hòa ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nói lên lời." Maslow gọi lúc đó là "giây phút tột đỉnh".
"Giây phút tột đỉnh" là thời khắc ngắn ngủi quí báu làm chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác. Ý tưởng về "giây phút tột đỉnh" giúp chúng ta hiểu được phần nào những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm trong bài Phúc Âm hôm nay.
Các ngài đã cảm nghiệm được những "giây phút tột đỉnh"
Chỉ trong một mấy phút quí báu, các ngài đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa sáng láng và vinh hiển. Đó chính là mục đích của việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi cao. Tuy nhiên trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối.
- Mặt tối là đêm Vườn Cây Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt mặt u ám của đêm Vườn Cây Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng láng của Người trên núi cao, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ông đã bỏ đi hết, thì lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng Cứu Độ? Vì thế, Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ngài thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho các ngài thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm Vườn Cây Dầu sắp đến.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm khổ nạn.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang trên núi cao để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì chắc chắn cũng được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa. Amen.
47.Một thoáng Thiên Đàng--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn. Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26). Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho họ cảm nếm một chút Thiên Đàng trước Thiên Đàng.
[Một thoáng Thiên Đàng đã làm cho ông Phêrô ngây ngất và muốn ở lại đó luôn: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”. Ông Môsê đại diện cho luật, ông Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông đến chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đấng mà hai ông đã loan báo và chờ đợi. Ông Môsê đã xin cho được thấy dung nhan Thiên Chúa mà không được (x.Xh 33,19-22). Ông Êlia là “ông Ba Lửa”, ba lần khiến lửa từ trời xuống, một lần để đốt của lễ trên núi Cat Minh (1V 18, 36-38), hai lần để đốt lính của vua (2V 1,9-12); ông không xin được thấy dung nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa tỏ cho ông thấy Người không ở trong gió bão, không ở trong cơn động đất, không ở trong lửa. “Sau lửa có tiếng gió hiu hiu.Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông” (1V 19,11-13). Hôm nay cả hai ông được chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đức Kitô.
Ông Phêrô ngây ngất không biết phải nói gì, “vì các ông kinh hoàng”. Đây không phải lần đầu các ông kinh hoàng. Nhưng hôm nay nỗi kinh hoàng lên tới cực độ khi đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”. Đó là câu trả lời cho sự phản kháng của ông Phêrô. Hãy vâng nghe lời Người, kể cả lời về thập giá mà loài người không thể chấp nhận. Chỉ có Con Yêu Dấu của Thiên Chúa mới chấp nhận và cho ta sức mạnh để vác mà đi đàng sau Người, để có thể vào trong vinh quang với Người. Tại sao Thiên Đàng lại ở cuối con đường thập giá? Tại sao lại cần đến Con Yêu Dấu của Thiên Chúa để dẫn ta đi trên con đường ấy mà vào trong vinh quang?
Một thoáng Thiên Đàng trôi qua như gió thoảng, như mây bay: “Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”. Trên đường xuống núi, Đức Giêsu lại truyền cho các ông giữ bí mật: “Người truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”]. (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô; Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.” (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 269).
Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cor,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(x.sđd, trang 273).
Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan “như sư tử gầm thét, ngày đêm rình mò chờ chực cắn xé” (1 Pr 5,8).Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta. Nếu chúng ta“có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20-21). Sức mạnh đức tin thật lớn lao!
Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.
Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa.
Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình đức tin đi đến sự sống mới.Thánh Phaolô đã đi trọn hành trình ấy và ngài đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Kitô. Tư tưởng “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Pl 3,10) bàng bạc trong các bức thư của ngài và đã trở thành nguyên lý căn bản đưa chúng ta đến ơn cứu rỗi. Cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời người. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con người cũ, loại dần lối sống tội lỗi để làm con người mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Bài đọc 2).
Thiên Chúa yêu thương con người là một tình yêu không “môn đăng hộ đối”, hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thương của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham.Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Messia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thương lạ lùng đó. Thiên Chúa hiến mình cho con người: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết để vào Phục Sinh khai mở con đường dẫn tới sự sống. Tin vào tình thương Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, đem Lời Chúa vào cuộc sống, để cho Lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta được trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Đó là được biến hình trong Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa như Thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,10).
“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người đó…sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.
48.Từ cõi chết sống lại, nghĩa là gì?--Lm Trần Bình Trọng
Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải chịu sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan, là những người sẽ chứng kiến cảnh sầu khổ của Chúa trong vườn cây dầu. Vì thế Chúa đưa ba tông đồ lên đỉnh núi để biến hình cho họ thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Việc Chúa biến hình có mục đích là củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ, trong cái viễn tượng của cuộc khổ hình và thánh giá. Sau cảnh biến hình, Chúa ra lệnh cho các tông đồ không được thuật lại cho ai những điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con người từ cõi chết sống lại (Mc 9:9). Các tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
Trong Mùa Chay ta cùng với các tông đồ suy gẫm ý nghĩa của lời Chúa: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Các tông đồ bày tỏ nỗi buồn sầu khi Chúa Giêsu tiên báo, Con người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị lên án tử hình, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mc 8:31). Các ông không thể nào quan niệm được rằng Thày mình sẽ phải chịu đau khổ. Các ông muốn Đức Kitô đi theo đường lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ hình thập giá. Vì thế Phêrô đại diện cho các tông đồ kéo riêng Người ra và trách Người (Mc 8:32).
Từ đó các tông đồ quan sát và suy niệm những cảnh: Thày mình bị bách hại trong vườn cây dầu, bị dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính tra tấn và đánh đòn, cuối cùng chịu đội mão gai, vác thánh giá và chịu chết trên thập giá. Những cảnh bách hại và lăng nhục Thày mình phải chịu làm các tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản lòng vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan những mối hi vọng của họ. Họ khiếp sợ vì bị người Do Thái truy nã, bách hại. Rồi khi được loan tin là Thày mình đã sống lại họ trở nên hoang mang, không biết đâu là thực hư. Chỉ sau khi đối diện với Chúa phục sinh họ mới trở nên xác tín. Và từ đó họ ra đi để làm chứng cho việc Chúa sống lại. Để chia sẻ cái niềm vui phục sinh của Thày mình, họ cũng đã phải trải qua những bách hại, chịu tù đày và chịu khổ hình trên thập giá. Đúng như lời Chúa phán: Đày tớ không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách hại Thày, họ cũng bách hại các con (Ga 15:20). Và như vậy các tông đồ dần dần đã hiểu được từ cõi chết sống lại như thế nào? Các vị tử đạo trong đó có tiền nhân Việt Nam, 117 vị anh hùng tử đạo, cũng đã hiểu đuợc tư cõi chết sống lại là thế nào trước khi dám để cho lý hình hành xử.
Đối với ta, tư cõi chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi người? Một biến cố rất quan trọng xẩy ra trong đời sống ta, mang lại sự sống thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta cũng được sống lại từ cõi chết. Cái tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Thế rồi từ đó trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng trải qua những cuộc chết đi sống lại nho nhỏ, không phải như các tông đồ, cũng không phải như các vị tử đạo. Khi ta sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa, và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã chết đi cho mình một phần, để được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam, ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính nói hành nói xấu, ta sẽ đuợc tham dự vào đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Đó chính là ý nghĩa của lời Chúa: Nếu hạt lúa miến rơi xuống đất mà không mục nát đi, nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu mục nát đi, nó sẽ sinh nhiều bông trái (Ga 12:24). Khi ta chịu cắt tỉa những tính mê nết xấu, ta sẽ được vươn lên về đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng. Bấy giờ ta mới cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: chết đi sống lại như thế nào.
49.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--‘Tin Vui Xuân Lộc’
Bài Tin Mừng về việc Chúa hiển dung còn gọi là Chúa Biến Hình hôm nay nằm trong phần đầu của phần III nói về Mầu Nhiệm Con Người. Sau khi loan báo về cuộc Thương khó và Phục Sinh lần thứ nhất, Chúa Giêsu dạy cho các tông đồ và các môn đệ, là những người đi theo Ngài về Thập Giá, về Từ bỏ. Sau đó Ngài liền củng cố ngay niềm tin cho các Tông đồ bằng biến cố hiển dung như một lời trấn an trước đau khổ, Thập giá và cái chết, hơn nữa như một lời khẳng định: chỉ có con đường Thập giá mới dẫn tới cuộc sông vinh quang Phục sinh. Giơ đây, chúng ta hãy cùng ba môn đệ lên núi, chiêm ngắm cuộc biến đổi kỳ lạ này để học được tâm tình của Chúa Giêsu.
“Sáu ngày sau....” ý nói về một khoảng cách gần sau khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó và sự chết của Ngài. Lần này, Chúa Giêsu chỉ dắt ba ông đi riêng ra, đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chúng ta thấy đây là nhóm nòng cốt của tập đoàn 12 vị là. Ba vị này: một người là thủ lãnh, cầm đầu Giáo Hội sau này; một vị là Giám mục tiên khởi Jérusalem và một vị được mệnh danh là “Người được Chúa yêu”. Thánh sử Máccô ghi rõ “chỉ mính các ông thôi tới một ngọn núi cao”. “Núi cao” ý nói vinh quang Thiên Chúa sẽ được tỏ hiện trên đó và đúng thế “Người biến dổi hình dạng trước mắt các ông”. Đây chính là mục đích mà Chúa Giêsu dẫn ba ông đi riêng ra, tách biệt khối nhóm 12. Sự biến đổi của Ngài được miêu ta phủ đầy ánh sáng chói loà. Ánh sáng trắng ấy không có thợ nào ở trần gian làm được. Đây chính là vẻ huy hoàng từ nơi Thiên Chúa, ánh sáng chiếu dọi của Con Chiên trong sách Đaniel và sách Khải Huyền. Cùng lúc ấy, các ông thấy Môsê và Êlia xuất hiện, trò chuyện với Chúa Giêsu. Hai vị thuộc thế hệ Cựu Ước, đại diện cho lề luật và các Ngôn sứ, có ảnh hưởng rất lớn đối với người Do Thái. Hai vị đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc vượt qua của Ngài tại Giêrusalem (x. Lc 9,31) Ý nói toàn bộ lề luật và các Ngôn sứ; nói đúng hơn toàn bộ Kinh Thánh đều qui về Chúa Giêsu và làm chứng rằng Chúa Giêsu là người hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia. Ngài là Người Tôi Tớ đau khổ trong Isaia, là Đấng Mêsia, Đấng Cứu độ nhân loại ẩn mình. Ngài chính là Thiên Chúa đến gánh tội trần gian (x. Ga 1,29), là Đấng Trung gian đưa Thiên Chúa đến với con người và qui tụ con người đem về cùng Thiên Chúa.
Lúc này, Phêrô theo cảm tính đã bày tỏ tâm tình muốn ở lại trong vinh quang này mãi. Ông thưa rằng: Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay. Ông không biết ý kiến của hai ông kia thế nào, nhưng ông cảm thấy ý của mình có lẽ là tốt nhất, tuyệt vời nhất. Nếu Chúa đồng ý, ông sẽ dựng ba cái lều cho ba vị, còn ông và các bạn không cần chốn nương thân. Thấy sự lúng túng và chỗ hổng này, Thánh Sử Maccô viết một câu như muốn biện minh cho câu nói thiếu hụt ấy: Ông không biết phải nói gì vì kinh hoàng. Qua câu này, chúng ta lại thấy rõ hơn vẻ huy hoàng chói lọi toát ra từ con người Giêsu, một con người cùng ăn cùng uống “ người trần mắt thịt” mà nay đột nhiên biến đổi kỳ diệu, đến nỗi người môn đệ cùng sống với Ngài đã thốt lên những lời vô nghĩa, còn hai ông kia không nói được gì cả.
Giờ đây là giờ Thiên Chúa hành động: một đám mây, có tiếng phán: và xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Chúa Cha, con người chỉ còn một bổn phận là VÂNG NGHE LỜI NGÀI mà thôi. Một mạc khải, một xác tín, một lệnh truyền. Chúa Cha mạc khải cho ba môn đệ biết: Chúa Giêsu là Con Yêu dấu của Ngài, chính Chúa Cha khẳng định với các ông điều này qua sự hiện diện và lời nói của Ngài trong đám mây. Ngài ra lệnh đòi buộc các ông: hãy nghe lời Con của Ngài. Đây là một mạc khải từ Thiên Chúa; Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu, người Nagiarét, cùng ăn cùng uống với các ông đây là Con Thiên Chúa. Ngài là Con Yêu Dấu của Chúa Cha vì luôn làm đẹp lòng Cha, luôn chọn Thánh Ý Cha làm lương thực nuôi sống mình (x, Ga 4,34). Bây giờ, Chúa Cha cũng muốn các môn đệ, những người đi theo Chúa Giêsu. Hãy bắt chước Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã tuân giữ ý Cha, thì các ông hãy vâng giữ lời Chúa Giêsu, chính là tuân hành Thánh Ý Chúa Cha vậy.
Cuộc hiển dung kết thúc sau khi tiếng phán chấm dứt, các ông nuối tiếc nhìn quanh, nhưng chỉ còn hiện tại: Chúa Giêsu và các ông mà thôi. Sau biến hình, mọi sự trở về bình thường, một Giêsu bằng xương bằng thịt... có dễ lôi cuốn các ông vào con đường Thập Giá, con đường Vượt Qua hay không?
Trong câu 9 và 10. Chúa Giêsu ra lệnh các ông phải giữ kín những điều mới xảy ra, mà chỉ được rao truyền sau khi Ngài sống lại. Chúa Giêsu muốn giữ kín bí mật Mêsia, bí mật Con Thiên Chúa khi Ngài còn đang sống trên trần gian này. Các ông vâng lời, nhưng vẫn thắc mắc “ từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì? Từ “sống lại”, từ “phục sinh” vượt xa tầm trí hiểu của các ông; các ông vẫn cho rằng: chết là hết. Các ông vẫn chưa hiểu và tin vào sự sống lại.
Ngày nay, mỗi người chúng ta được biến đổi hàng ngày. Chúng ta thường chú ý về những biến đổi về thể xác, về kiến thức, về địa vị, danh vọng... Có bao giờ chúng ta để ý chăm chút, nuôi dưỡng để biến đổi về tâm hồn, về đời sống tâm linh của chúng ta chưa?. Nếu chưa, chúng ta hãy mau đến với Bí Tích Thánh Thể, nơi đó chính Chúa Giêsu sẽ dạy chúng ta cách biến đổi theo ý Chúa Cha, biến đổi để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng vời Con Chí Ái của Người là Đức Giêsu Kitô khổ nạn và Phục Sinh. Amen.
50.Đức Giêsu biến đổi hình dạng--Lm PX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Cuộc đời của Đức Giêsu là một hành trình, một chuyến đi đường. Điều này, tác giả Mc đã cho thấy dọc theo tác phẩm của ngài với từ ngữ “con đường” (hodos), đặc biệt trong phân đoạn 8,27–10,45: ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu thường xuyên ở trên đường cùng với các môn đệ (8,27; 9,33.34; 10,32). Trên đường đi, Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại cách Người sống. Người tìm cách giải thích cho các môn đệ rằng, một bên, do chương trình mà Người sẽ thực hiện theo lệnh của Thiên Chúa, bên kia do kế hoạch của các đối thủ muốn khử trừ Người, Người phải chọn lựa giữa đánh liều mạng sống và phản bội sứ mạng. Vì đã chọn vâng lời Thiên Chúa, Người đi lên Giêrusalem.
Biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng là cốt lõi của đoạn trung tâm 8,27–10,45 và được trực tiếp liên kết với phân đoạn Phêrô tuyên xưng đức tin và lời loan báo đầu tiên về Thương Khó (8,27–9,1).
Chúng ta có lý khi coi bài tường thuật về Hiển Dung như là cái trục của TM Mc. Điều này càng rõ khi người ta nhận thấy bài này có thể dễ dàng tách khỏi ngữ cảnh: chỉ việc nối câu nói của Đức Giêsu về Quang Lâm gần kề (9,1) với cuộc tranh luận về Êlia phải đến trước (9,11-13) thì thấy tư tưởng cũng như thể văn không bị cắt đứt gì cả (Với lại các yếu tố của các bài tường thuật chỉ được nối với nhau bằng các liên từ kai: 9,1: “Và Người nói”; 9,2: “Và Người lên núi…”; 9,11: “Và các ông hỏi …”).
Sau khi đã nói đến những gian khổ mà các môn đệ phải chấp nhận nếu muốn đi theo Người, Đức Giêsu thêm: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm cái chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực” (9,1). Theo tác giả, biến cố Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đến là đối tượng của Tin Mừng (1,14-15). Còn “uy lực” của Thiên Chúa thì sẽ được biểu lộ vào ngày Quang Lâm. Đức Giêsu đã khẳng định như thế nhiều lần (x. 12,18-27; 13,24-27; 14,61-62).
Nếu tạm bỏ bài Hiển Dung sang một bên, ta thấy cuộc tranh luận sau đó bàn về việc Êlia trở lại (9,11-13). Đồng hoá Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu với Êlia và các ngôn sứ Israel ngày xưa là một đề tài được Mc thường xuyên đề cập đến, ở đây, cũng như ở trong 6,14-16 và 8,27-29. Cuộc tranh luận ấy trước tiên có tầm mức cánh chung, bởi vì ngôn sứ Malakhi đã loan báo Êlia sẽ trở lại làm vị tiền hô của Đấng Mêsia (x. Ml 3,23-24). Đức Giêsu đã nhìn nhận Gioan Tẩy Giả đóng vai trò này (Mc 1,2-8; x. Lc 1,17). Nói tóm, cuộc tranh luận về việc ngôn sứ Êlia trở lại, cho dù được coi là đã được thể hiện nơi Gioan Tẩy Giả, được ghép rất tự nhiên vào một lời của Đức Giêsu liên hệ đến biến cố Nước Thiên Chúa đến.
Vậy, bài tường thuật Hiển Dung đã được tháp vào đây là do nền thần học của tác giả và do cấu trúc ngài cung cấp cho tác phẩm của ngài, nhưng cũng là để làm một đoạn giải thích sự chậm trễ của Quang Lâm. Nếu như vậy, tác giả đã thực hiện được một sự hài hoà đáng phục bởi vì câu nói về Quang Lâm của Đức Giêsu được minh hoạ và báo trước trong biến cố Hiển Dung. Sự xuất hiện của Êlia được nhắc đến trong biến cố này, gợi ra câu hỏi về vai trò của Êlia sau đó. Khi đó, viễn cảnh Quang Lâm được lặp lại, càng thêm long trọng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (9,2a-b);
2) Đức Giêsu biến đổi hình dạng (9,2c-8);
3) Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9,9-10).
Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự “đóng khung” vừa chính xác vừa tinh tế, ở cc. 2 và 8. Một đàng, Mc viết rằng “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao”. Đàng khác, ông nói rằng “Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”: kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài cc. 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của TM Mc, là bí mật thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Mc cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Mêsia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật Hiển Dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Mêsia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.
3.- Vài điểm chú giải
- sáu ngày sau (2): Toàn bài gợi tới Xh 24. Cũng như Môsê, Đức Giêsu lên núi với ba bạn đồng hành nêu rõ tên (Xh 24,1.9). Tới ngày thứ bảy, Thiên Chúa nói với Môsê; qua sáu ngày, Đức Giêsu lên núi và có tiếng Thiên Chúa phán. Tác giả Riesenfield nhấn mạnh tới chi tiết “sáu ngày sau” mà cho rằng đấy là biến cố Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng Mêsia (truyền thống dành ngày thứ bảy để tưởng niệm Thiên Chúa đăng quang làm vua). Đám mây, cũng giống như trong Xh 24,16t, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
- một ngọn núi cao: Ta không thể xác định đây là ngọn núi nào, nhưng nó có thể gợi tới núi Sinai (theo Xh 24). Ngọn núi là nơi có các cuộc thần hiển: Thiên Chúa nói với Môsê trên núi (Xh 24,15tt); Ngài tỏ mình ra với Êlia trên núi (1 V 19,8).
- Người biến đổi hình dạng: Không có kinh nghiệm nào trong quá khứ, dù là kinh nghiệm của Môsê ở trên núi Sinai, có thể giúp hình dung sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu ở đây. Điều đặc biệt là khi Người ở trong vinh quang thiên quốc, các môn đệ vẫn nhận ra Người. Đức Giêsu có “y phục rực rỡ, trắng tinh không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 3). Thật ra đây là một “ánh sáng chói lọi”, là màu sắc của những thực tại thiên quốc và cánh chung. Cuộc Hiển Dung không phải là kết quả của một nỗ lực con người, nhưng là một biến cố được mô tả theo dạng thái bị động (c. 2: metemorphôthê, aorist passive) để cho thấy rằng Thiên Chúa là Đấng hành động một mình trong biến cố này.
- thấy ông Êlia cùng ông Môsê (4): Theo truyền thống, Môsê có vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa. Thứ tự Êlia–Môsê của riêng tác giả Mc tương ứng với vị trí quan trọng hơn mà Êlia có trong TM II. Ngoài ra, ông còn là một dung mạo mang tính khải huyền và thiên sai hơn Môsê. Tuy nhiên, c. 5, với tên Môsê ở trước, ta nhận ra dấu vết của truyền thống mà Mc chưa xóa đi. Dù sao, sự xuất hiện của hai ông chứng tỏ “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Hai ông xuất hiện vừa cho thấy Đức Giêsu hiệp thông với thiên giới, vừa giới thiệu với tư cách và số phận của Người.
- đàm đạo với Đức Giêsu: Mc không cho biết đề tài cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu với Êlia và Môsê.
- chúng con xin dựng ba cái lều (5): Khi ba nhân vật thiên giới đàm đạo với nhau, ba tông đồ, những con người “phàm phu tục tử”, ở cách xa. Do đó, khi ngỏ lời với Đức Giêsu mà chỉ thưa Người là “Thầy” (rabbi) và đề nghị được dựng ba lều, Phêrô đã chứng tỏ sự ngỡ ngàng hụt hẫng của mình. Đề nghị của Phêrô là nhắm duy trì hoàn cảnh các ông đang trải nghiệm. Tuy nhiên, ta chỉ hiểu được đề nghị này nếu ta đặt nó vào trong khung cảnh lịch sử của Lễ Lều. Lễ này kéo dài kỷ niệm 40 năm dân Israel đã sống trong sa mạc, dưới lều, để phụng sự Đức Chúa (Yhwh), và được Ngài che chở (đám mây sáng). Nhân danh dân tộc mình, Môsê đã yêu cầu vua Pharaô để cho dân đi vào sa mạc để có thể cử hành lễ mừng Đức Chúa. Lễ này có thể trùng hợp với cuộc thần hiển tại núi Sinai, nhưng thật ra, nó bao trùm những năm dài trước khi vào Đất Hứa. Người Do-thái đã ghi giữ rồi nhớ nhung đời sống du mục này và đã kết tinh nó vào Lễ Lều, kéo dài một tuần, để kết thúc chu kỳ Lễ Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần. Trong Do-thái giáo hậu lưu đày, Lễ này có chứa nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia.
Thật ra, vì mối bận tâm của Mc là cho thấy hành trình đức tin của các môn đệ, nên đề nghị này của Phêrô chứng tỏ ông không hiểu gì (tương tự ở 8,32t): Do muốn duy trì niềm hạnh phúc thiên giới, ông lại đang muốn tránh những đau khổ chắc chắn phải đi vào.
- kinh hoàng (6): Tác giả đã nhận định: “Thật ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (9,6; xem 14,40: tình trạng ngây dại ở vườn Ghếtsêmani). Sự kinh hoàng này (tương tự sự kinh hoàng của các phụ nữ khi sứ thần hiện ra tại mộ, x. 16,5-8) chứng tỏ các ông khó mà hiểu, thậm chí không thể hiểu, tầm mức thiên sai của những lời nói và hành vi của Đức Giêsu. Phêrô đã minh giải sai cuộc tỏ mình của Đấng Mêsia trên núi; tất cả những gì ông có thể nói ra đều mang vẻ ngờ nghệch vì ông kinh hãi trước sự đột nhập của thế giới thần thiêng. Và khi Mc ghi nhận ở c. 8 rằng “các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, ta lại không nghe ra như một lời trách nhắm đến đến các tông đồ là đã không biết tiếp tục dựa vào lòng tin mà nhìn ra Đức Giêsu vẫn không ngừng sống cùng các thánh của Cựu Ước và sống trong tình thân thiết với Cha Người đó sao? Khi cũng những vị tông đồ này tự hỏi câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, thì đây không phải hỏi về một vấn đề tín điều (bởi vì đây là một tín điều được mọi người, trừ phái Sađốc, chấp nhận), nhưng là băn khoăn về Đức Giêsu: Các ông đang vấp phạm vì cái chết mà Đức Giêsu sẽ phải đi qua. Chẳng phải là Đấng Mêsia sẽ được cất lên trời như Êlia, như Môsê sao? Chẳng lẽ Người lại phải xuống cõi chết trước khi sống lại? Mc đã nêu bật sự tăm tối của các tông đồ dọc theo tác phẩm của Người (x. 4,13.40-41; 6,50-52; 8,17-21; 9,32; 10,24.26.32.38).
- Từ đám mây (7): Đám mây là tấm phông trên đó Đức Giêsu biến đổi hình dạng, từ đó Êlia và Môsê đi ra để nói chuyện với Đức Giêsu và từ đó tiếng Chúa Cha phát ra; Êlia và Môsê lại biến mất vào đó, và cùng với đám mây, cũng biến mất vinh quang của Đức Giêsu. Như trong cuộc Xuất hành, đám mây tượng trưng sự hiện diện gần kề của Thiên Chúa. Đám mây này là tấm màn ngăn cách một thời gian nữa những thực tại trần thế với những thực tại biên giới. Đám mây này đã xé ra khi Đức Giêsu đến thế gian và nhận phép rửa. Đám mây này là nơi Đấng Phục Sinh biến mất vào hôm sau ngày sống lại và theo lời sấm Đanien; trên đám mây này, Đức Giêsu sẽ tái hiện vào thời tận thế để quy tụ những kẻ được tuyển chọn.
- Đây là con Ta yêu dấu (7): Sự xuất hiện của đám mây và tiếng nói của Thiên Chúa vừa giải nghĩa cuộc Hiển Dung vừa trả lời cho phản ứng của Phêrô.
So với Lời nói tại Phép Rửa (1,11), lời công bố này không thêm gì mới về Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và Đấng Mêsia, nhưng lời này đưa lại một điều chỉnh quan trọng cho lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,29). Vị tông đồ chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia; Trời Cao chứng thực Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nếu thị kiến về Đức Giêsu hiển dung giới thiệu trước vinh quang của Đức Giêsu vào ngày Phục Sinh và ngày Quang Lâm, Tiếng Nói lại chứng thực Đức Giêsu là Con luôn sống thân thiết với Chúa Cha và gợi ý rằng Người đã có từ muôn đời (tiền hữu). Lời gửi gắm cuối cùng đã đẩy cuộc truyện trò của Êlia và Môsê vào hàng thứ yếu; kể từ nay chính Đức Giêsu là Đấng duy nhất mà các tín hữu phải lắng nghe; Người là Đấng trung gian duy nhất của Giao Ước Mới trong đó Êlia, Môsê và tất cả các ngôn sứ được tham dự vào.
- truyền cho các ông không được kể lại (9): Đây là lệnh im lặng cuối cùng trong Mc, lệnh này có một ý nghĩa căn bản cho cả các lệnh khác với cùng một giới hạn về thời gian. Bằng c. 9 này, tác giả hướng bài tường thuật Hiển Dung về Phục Sinh: bài tường thuật như thế nối kết số phận của Đức Kitô và lời loan báo về Triều Đại Thiên Chúa. Những gì ba môn đệ đã thấy trên núi làm cho các ông thành những người được nhận trước sự hoàn tất của lời hứa 9,1. Sau lệnh của Đức Giêsu, tác giả dừng lại với môn đệ. Các ông tuân giữ lệnh truyền (ton logon ekratêsan cũng có thể có nghĩa là là “ghi nhớ ký ức”, theo kiểu nói La-tinh [memoria] tenere), nhưng tranh luận xem “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, chắc chắn theo nghĩa là “cuộc sống lại của Đức Giêsu”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (2a-b)
Cuộc Hiển Dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu đưa riêng ba môn đệ chọn lọc là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái Gia-ia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với Thiên Chúa; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.
* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8)
Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quan thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng Nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên Chúa.
Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Người. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì chúng ta không thể trực tiếp có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu Đấng giúp chúng ta có sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Cuộc Hiển Dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc Hiển Dung.
* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10)
Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc Thương Khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
+ Kết luận
Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do-thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?
5.- Gợi ý suy niệm
1. Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Người không phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.
2. Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào để thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Người. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai ngài.
3. Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thì giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại “Đức Giêsu là Con Thiên Chúa”, khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải “vâng nghe lời” Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.
4. Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu cấm các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.
51.Tin vào Đức Giêsu Kitô--Lm. Fx. Vũ Phan Long
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đem 3 người Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao để tỏ mình ra cho các Ngài thấy. Trong cuộc tỏ mình này có Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Có thể khẳng định đây là một sự kiện hùng vĩ và vượt xa sức tưởng tượng của con người.
Theo cách diễn tả của các Tin mừng Nhất lãm, sau khi loan báo cuộc Thương khó sắp đến, Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên núi và biến đổi hình dạng trước mắt các ông.
Biến cố này có mục đích củng cố niềm tin cho các môn đệ, niềm tin mà mới đây Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô” (8,29) và cung cấp trước cho các ông một điểm tựa để các ông khỏi chao đảo khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Người.
Chúng ta cũng có thể theo truyền thống Đông phương coi đây là một mạc khải về thần tính của Đức Giêsu, khi liên kết ba cuộc “tỏ mình ra” của Đức Kitô trong các biến cố hiển linh, phép Rửa tại sông Giođan và cuộc hiển dung này.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 9,2-10
* Đức Giêsu đưa ba môn đệ chọn lọc đi (2a-b).
Cuộc hiển dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu đưa riêng Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái Giaia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với Thiên Chúa ; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.
* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8).
Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quen thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người ; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu, cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về lãnh vực của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên Chúa.
Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Ngài. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì chúng ta có thể có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18 ; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Cuộc hiển dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Người ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ người ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này chúng ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu ; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa ; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc hiển dung.
* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10).
Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:
Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự "đóng khung" vừa chính xác vừa tinh tế, ở các câu 2 và 8. Một đàng, Maccô viết rằng: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao". Đàng khác, ông nói rằng: "Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi": kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài các câu 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của Tin mừng Maccô, là bí mật Thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Maccô cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Messia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật hiển dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Messia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi ; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con ; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.
Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do Thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
1. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng hoàn tất chương trình của Thiên Chúa.
Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: "Đây là Con Ta yêu dấu". Người không phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.
Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào mà thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Ngài. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai vị.
Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thời giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại "Đức Giêsu là Con Thiên Chúa" ; khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải "vâng nghe lời" Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.
2. Vâng theo giáo huấn của Đức Giêsu:
Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.
Đức Giêsu luôn nói lời Thiên Chúa và kêu mời môn đệ đón nhận để thuộc về gia đình thiêng liêng của Người: "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em Tôi, là mẹ Tôi" (Mc 3,35). Hoặc: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy" (Ga 14,23-24).
Đi vào đường lối của Đức Giêsu không chỉ có nghĩa là "làm ba lều" rồi ở lại đó với Người. Chúng ta có xử sự như thế khi đi vào các giờ cầu nguyện thờ phượng trong nguyện đường. Nhưng chúng ta còn được mời bước theo Đức Giêsu, có những tâm tình như Người: "Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người" (Pl 2,6-9).
IV. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, hôm nay, do yêu thương các môn đệ, Đức Giêsu đưa ba đại diện môn đệ lên núi cao để chuẩn bị cho các ông đi vào cuộc thương khó với Người. Chính tại đây, Người đã được Chúa Cha giới thiẹu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Tin tưởng vào lòng yêu thương quan phòng của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
1. "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Chúng ta cùng cầu nguyện cho toàn thể Họi thánh biết trân trọng lời Chúa Cha giới thiẹu Đức Giêsu hôm nay, mà luôn chăm chú lắng nghe giáo huấn của Người, tha thiết nghiền ngẫm để hiểu đúng đắn và trung thành thực hiện trong đời sống hằng ngày.
2. Ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, cho thấy Người chính là Đấng nối tiếp và làm trọn Cựu ước. Chúng ta cùng cầu nguyện để cho mọi dân tộc đang đi tìm Thiên Chúa, có thể tìm ra Đấng chân thật duy nhất, để tôn thờ cho phải đạo, và có thể đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu.
3. Đức Giêsu sẽ từ cõi chết sống lại. Người đã chết trên cây thập giá trên đồi Sọ xưa kia, nhưng cũng đã sống lại. Người tái diễn cuộc Tử nạn, Phục sinh hôm nay trên bàn thờ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các tín hữu đang gặp thử thách biết tin tưởng để cho Đức Giêsu dẫn dắt, hầu có thể làm chứng về quyền năng Phục sinh trong cuộc sống hằng ngày.
Lời kết: Lạy Chúa Cha cực thánh, xin giúp chúng con biết lắng nghe lời Con Cha dạy trong Kinh thánh và qua các giáo huấn của các mục tử, để chúng con bước đi vững vàng trên đường lối của Cha, làm chứng được trước mặt thế giới về nẻo đường cứu độ duy nhất và giúp nhau đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
52.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Chay năm B nhấn mạnh một chủ đề duy nhất: “Con Một”.
St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18
Bài Đọc I kể cho chúng ta tổ phụ Áp-ra-ham đã sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa, I-xa-ác, “đứa con một” mà ông hết lòng yêu mến.
Rm 8: 31b-34
Bài Đọc II, trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, gợi lên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại quá lớn “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”.
Mc 9: 2-10
Tin Mừng Mác-cô kể cho chúng ta cuộc Biến Hình, trong đó Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ấy vậy, cuộc Biến Hình xảy ra chỉ sau vài ngày trước lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, nghĩa là “Con Một” chịu chết vì hết thảy chúng ta.
BÀI ĐỌC I (St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18)
Trong khuôn khổ hạn định của Phụng Vụ, chuyện tích nổi tiếng nầy không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích nầy nổi tiếng mấy đi nữa, nó cũng để lại cho chúng ta một ấn tượng bất ổn vì cách hành xử của Thiên Chúa làm chúng ta khó chịu. Làm thế nào một vị Thiên Chúa tốt lành, đầy lòng yêu thương, lại có thể thử thách một người công chính đến tận mức như vậy. Cho dù ngay từ đầu câu chuyện, người kể chuyện nói trước “đây chỉ là một cuộc thử thách”, nghĩa là sự việc không thực sự xảy ra, cũng không làm cho chúng ta khỏi hoang mang.
1. Lịch sử hình thành chuyện tích hiện nay:
Tuy nhiên, lịch sử hình thành câu chuyện soi sáng cho chúng ta ý nghĩa của câu chuyện và xua tan những xao xuyến của chúng ta. Các nhà chú giải mời gọi chúng ta phải phân biệt hai giai đoạn khác nhau trong việc hình thành chuyện tích nầy:
-Chuyện tích nguyên tác đã bị thất truyền, nhưng ý nghĩa của nó thì rõ ràng: ngay từ nguồn gốc, có một sự đối lập giữa tôn giáo của dân Do thái và tôn giáo của dân Ca-na-an về việc hiến tế con cái cho thần linh.
-Câu chuyện mà chúng ta đọc xuất hiện sau nầy, được soạn thảo mười một thế kỷ sau đó. Chuyện tích này được đưa vào trong tập truyện của vị tổ phụ Áp-ra-ham để bày tỏ một ý hướng khác với ý hướng của câu chuyện nguyên thủy: câu chuyện sau nầy là một thần học về sự thử thách, đồng thời loan báo một sứ điệp chan chứa hy vọng. Ở bên kia nhân vật I-xa-ác, ẩn hiện “dân Chúa chọn”, bị đe dọa diệt vong (nhất là vương quốc Ít-ra-en miền Bắc). Chính trong bối cảnh bi thảm đó, sứ điệp vang lên: phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn dân mà Ngài gọi “con đầu lòng của Ngài” (Xh 4: 22-23) phải bị họa diệt vong.
2. Tôn giáo của dân Ca-na-an:
Tổ phụ Áp-ra-ham đến đất Ca-na-an có lẽ vào khoảng 1850 trước Công Nguyên. Ông đến từ miền Lưỡng Hà Địa thuộc nền văn hóa Su-me. Thành Ua của người Can-đê, quê hương của ông, đã là một thành phố rực rỡ nền văn minh Su-me. Nhưng Áp-ra-ham không là người Su-me, nhưng là người Sê-mít. Ông di dân đến sống với những người Sê-mít, được gọi chung là người Ca-na-an. Ông khám phá nhiều dị biệt không chỉ về văn hóa nhưng cũng về phụng tự nữa: như việc dân Ca-na-an thực hành việc hiến tế gia súc cũng như con cái cho các thần linh mà dân Su-me lại không hề biết đến.
Ngay cả Kinh Thánh cũng cung cấp vài chứng liệu về việc hiến tế con cái của mình trong hai trường hợp: vào những hoàn cảnh đặc biệt như thiên tai, nguy hiểm, nguy cơ thất trận để xin thần linh cho tai qua nạn khỏi, hay vào lúc cử hành lễ đặt móng để xin thần linh cho công việc xây cất được hoàn thành. Trong trường hợp thứ nhất, nạn nhân được chọn phải là con người đắt giá nhất, thân thiết nhất như vua Mô-áp, khi thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, “liền bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu” (2V 3: 27). Vua A-khát cai trị miền Giu-đa, mất niềm tin vào Đức Chúa, trước hoàn cảnh tuyệt vọng vì bị quân thù công hãm Giê-ru-sa-lem, “làm lễ thiêu con trai mình” (2V 16: 3). Một thế kỷ sau đó, vua Mơ-na-se cũng làm tương tự (2V 21: 6). Trong trường hợp thứ hai, sách Các Vua quyển thứ nhất tường thuật: “Ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa” (1V 16: 34).
Phải chăng khi có ý định hiến tế I-sa-ác, ông Áp-ra-ham muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với Thiên Chúa của mình chẳng thua kém gì dân Ca-na-an đối với các thần linh của họ?
3. Tôn giáo của dân Ít-ra-en:
Tuy nhiên, dù việc hiến tế các con trai đầu lòng của mình mang phẩm chất cao quý đến mấy đi nữa, tôn giáo Ít-ra-en luôn luôn ghê tởm những hành vi man rợ như thế. Luật Mô-sê nói rất rõ: “Ngươi phải nhường lại cho Đức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Thiên Chúa… Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại” (Xh 13: 11-13).
Vào thế kỷ thứ mười và thứ tám trước Công Nguyên, những văn kiện và những truyền thống liên quan đến các tổ phụ được tập hợp lại và soạn thảo. Từ lâu, chuyện tích hiến tế I-xa-ác minh chứng quyết định của luật Mô-sê: I-xa-ác được chuộc lại bởi hy tế của “con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây” (St 22: 13). Trong câu chuyện nầy, chân dung của tổ phụ Áp-ra-ham được phát họa như một con người có tấm lòng quảng đại và một con người có niềm tin kiên vững.
A. Một con người có tấm lòng quảng đại:
Ông Áp-ra-ham thường hằng bày tỏ tấm lòng quảng đại. Ông Áp-ra-ham để ông Lót, cháu của mình, chọn những cánh đồng màu mở nhất. Ông Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm của mình. Ông Áp-ra ham đã cứu giúp vua Sơ-đom, nhưng từ chối mọi quà tặng mà vua đề nghị ban cho ông: “Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy” (St 14: 23). Ông Áp-ra-ham cũng hành xử với Thiên Chúa cùng một cách như vậy. Khi chấp nhận hiến tế đứa con một của mình, ông Áp-ra-ham dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa của mình.
B. Một con người có niềm tin kiên vững:
Việc hiến tế I-xa-ác được định vị ở cuối một loạt những thử thách trong đó vị tổ phụ đã bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa của mình rồi, bất chấp những vẻ bên ngoài khó mà tin được. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển; ấy vậy thực tế, ông và vợ mình càng ngày càng già yếu đi mà không có một người con nối dõi tông đường. Thiên Chúa hứa ban cho ông tất cả đất đai mà ông thấy trước mắt; ấy vậy, ông chỉ là một khách kiều cư, lang thang phiêu bạt nay đây mai đó. Vị tổ phụ cũng giữ một thái độ tràn đầy niềm tin như vậy khi ông dẫn đứa con trai duy nhất của mình lên núi để hiến tế theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Cho dù ông không lý giải được lệnh truyền này nhưng ông vẫn tin là Thiên Chúa có một giải pháp, vì Ngài không thể nào mâu thuẩn với chính mình. Như vậy ông Áp-ra-ham đưa ra một khuôn mẫu đức tin, một đức tin dựa trên “lời Thiên Chúa” chứ không trên lý lẽ của người đời. Vì thế, ông Áp-ra-ham được cả ba tôn giáo: Do thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, gọi là “Cha của những kẻ tin”.
Khi nhấn mạnh đức vâng phục của vị tổ phụ, một cách nào đó người kể chuyện muốn đặt ông Áp-ra-ham đối nghịch với nguyên tổ A-đam. Ông A-đam vì bất phục tùng đã đem đến những lời nguyền của Thiên Chúa trên nhân loại. Trái lại, ông Áp-ra-ham vì vâng phục đã đem đến những lời chúc phúc của Thiên Chúa trên muôn thế hệ.
Đáp lại niềm tin và sự vâng phục đến mức anh hùng của vị tổ phụ, Thiên Chúa làm mới lại mọi lời hứa mà Ngài đã hứa với ông trước đó. Hơn nữa, Thiên Chúa còn cam kết: “Ta lấy chính danh Ta mà thề”. Một cách nào đó, ông Áp-ra-ham trở thành một người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, chứng nhân về lời thề của Thiên Chúa, vì lời thề thì chắc chắn hơn một lời hứa.
4. Thần học về sự thử thách:
Tác giả sống vào khoảng năm 750 trước Công Nguyên trong vương quốc Ít-ra-en miền Bắc. Chẳng bao lâu sau vương quốc nầy bị tấn công và trở thành chư hầu của đế quốc Át-sua và cuối cùng bị tiêu diệt (721 trước Công Nguyên).
Để soi sáng cho những biến cố mà tác giả đã trải qua, ông đọc lại những chứng liệu lịch sử. Chẳng có gì quá đáng khi nói rằng ông đã thấy ở nơi cuộc hiến tế I-xa-ác một dấu chỉ cho thấy cách thức Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử thánh: những ý định của Ngài bên ngoài xem ra thất bại. Ông Áp-ra-ham luôn luôn hy vọng cho dù bên ngoài chẳng le lói một tia hy vọng nào. Ít-ra-en phải thấy ở nơi hành vi tròn đầy tin tưởng nầy nền tảng của việc mình được tuyển chọn và họ cũng phải thấy ở nơi việc Đức Chúa can thiệp để cứu I-xa-ác một sự đảm bảo rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những người con của Lời Hứa.
Khi ghi lại chuyện tích hiến tế I-xa-ác, tác giả muốn trả lời cho những thử thách mà những người đương thời của ông đã trải qua trong suốt những khủng hoảng lớn của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên.
5. Khía cạnh ngôn sứ:
Hình ảnh người cha hiến tế đứa con một của mình, đứa con rất mực dấu yêu của mình, và hình ảnh người con mang trên vai mình bó củi sẽ được dùng để hiến tế chính mình, thật sự gợi lên một tấm thảm kịch khác, trong đó chính Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài để cứu độ nhân loại.
Khi ám chỉ đến hy tế của I-xa-ác, thánh Gioan áp dụng tước hiệu “Con Một” vào Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16), và thánh Phao-lô đã phải thốt lên: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32). Ẩn hiện phía sau chuyện tích nầy, chúng ta đọc thấy cái vẻ thất bại bên ngoài của Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng tình yêu Thiên Chúa đối với loài người được bày tỏ cách rực rỡ ở nơi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, Con Một của Ngài.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 31b-34)
Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma vào mùa đông những năm 56-57; lúc đó thánh nhân hiện ở Cô-rin-tô. Những ngày lưu lại ở đây giúp thánh nhân khây khỏa trước những căng thẳng (các bài đọc của những Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta những vang âm của những căng thẳng nầy). Cũng chính ở nơi đây mà ngài viết thư gởi các Ki-tô hữu Rô-ma mà ngài dự định sẽ viếng thăm họ. Như vậy, bức thư nầy chuẩn bị cuộc hành trình đến Rô-ma của ngài.
1. Bối cảnh:
Bài Đọc II được trích từ chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma, chương dâng trào cảm xúc bao la đến độ chúng ta như cảm thấy tâm tình tôn giáo nồng nàn của vị Tông Đồ. Thánh nhân miêu tả hoàn cảnh ưu tiên của người Ki tô hữu: được Thần Khí ngự trong lòng, được gọi là con cái của Thiên Chúa, được dành cho vinh quang bất diệt, được công chính hóa nhờ đức tin. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu lớn lao đến như thế, nên chúng ta không có gì phải sợ ngoài một niềm hy vọng chan chứa niềm vui.
2. Người Ki-tô hữu chẳng có gì phải sợ cả:
Chương 8 nầy kết thúc với một bài thánh thi ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa bằng một cung giọng đắc thắng. Bài Đọc II là phần khởi đầu của bài thánh thi nầy. Không một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (8: 32). Còn sự đảm bảo nào có thể sánh ví với tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta và những ân huệ mà Ngài ban tặng cho chúng ta!
Thánh Phao-lô hình dung một phiên tòa ở đó những người Thiên Chúa chọn được điệu đến. Ai dám buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa vừa buộc tội họ vừa tuyên bố họ công chính? Hay chẳng lẽ Đức Ki-tô ngự bên hữu Chúa Cha lại buộc tội chúng ta? Ấy vậy, Đức Ki-tô là Đấng đã cứu chúng ta và cầu bầu cho chúng ta. Vì thế, người Ki tô hữu chẳng có gì phải lo sợ cả.
TIN MỪNG (Mc 9: 2-10)
Biến cố Biến Hình là một trong những biến cố chất nặng mầu nhiệm Tin Mừng nhất, nhưng cũng là một trong những biến cố phong phú nhất về giáo huấn.
Biến cố này được xác định vào thời điểm rất có ý nghĩa: “Sáu ngày sau”. Vài ngày trước đó, gần miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ của Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phê-rô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô” (Mc 8: 29). Đức Giê-su nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện để mặc khải sứ mạng mà Ngài sẽ thực hiện, vì thế Ngài báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Phê-rô không đồng tình với lời loan báo nầy liền tìm cách ngăn cản Ngài. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào trong bối cảnh nầy biến cố Biến Hình, biến cố đem đến một câu trả lời.
Biến cố nầy phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su? và biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với ba nhân chứng: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan?
1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su:
Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong khi Đức Giê-su đang hướng đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, thì Chúa Cha đem đến cho Ngài một niềm an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã có trước khi nhập thể và lúc nầy đây Ngài được nhận lại trong chóc lát.
“Ông Ê-li-a và ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su”. Trên núi cao rực rỡ ánh vinh quang gợi lên núi Xi-nai, việc ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra không có gì phải ngạc nhiên. Cả hai nhân vật Cựu Ước nổi tiếng nầy đã gặp gỡ Thiên Chúa trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, sự hiện diện của hai ông nêu bật rõ nét nhất tước vị Mê-si-a: sự hiện diện của hai ông chứng thực rằng Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su. Chắc chắn, ông Mô-sê đại diện Lề Luật và ông Ê-li-a đại diện truyền thống Ngôn Sứ, nhưng ở bên kia hình tượng nầy, họ là “dấu chỉ”. Quả thật, họ là những người mà truyền thống liên kết thường nhất với triều đại Mê-si-a. Ông Mô-sê đã loan báo rằng một ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, những lời của đấng ấy cũng sẽ là lời của Thiên Chúa (Đnl 18: 18), trong khi ông Ê-li-a được truyền tụng là sẽ trở lại chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến. Cuộc Biến Hình nhấn mạnh mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước.
Vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, Chúa Cha đã công bố: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1: 11). Nay vào lúc Đức Giê-su biến hình, Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”, lời tuyên bố nầy một lần nữa khẳng định tử hệ thần linh của Đức Giê-su và trọn tình yêu của Chúa Cha dành cho Con của Ngài. Vì thế, lời nầy đem lại cho Đức Giê-su một niềm an ủi lớn lao mà Ngài đã nhận được vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, và được làm mới lại vào thời điểm Ngài khởi sự phần thứ hai, phần khó khăn nhất của sứ vụ của Ngài. Tuy nhiên, lời tuyên bố vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa nhấn mạnh trên sự hài lòng của Chúa Cha với Con Ngài, trong khi lời tuyên bố vào lúc Biến Hình lại nhấn mạnh trên sứ điệp: “Hãy vâng nghe lời Người”, bởi vì Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.
2. Biến cố Biến Hình đối với các môn đệ:
Chỉ có ba nhân chứng được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình nầy: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan. Đây là ba nhân chứng mà Đức Giê-su đã cho họ được chứng kiến việc Đức Giê-su cho con gái ông Gia-ia được sống lại (Mc 5: 37-42); cũng chính ba Tông Đồ nầy Đức Giê-su sẽ đem theo với Ngài vào vườn Ghết-sê-ma-ni ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài (Mc 14: 33). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng qua biến cố Biến Hình này Đức Giê-su an ủi họ trước.
Việc thánh Phê-rô có mặt ở biến cố Biến Hình thật quan trọng: biến cố nầy củng cố những gì ông đã tuyên xưng từ trực giác của mình ở Xê-da-rê Phi-líp-phê và làm chứng rằng Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa hằng sống. Mặt khác, lời loan báo của Thầy mình về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà ông không thể nào chấp nhận được lại được thay thế một Đức Giê-su chói ngời vinh quang thần linh. Vị thủ lãnh của các Tông Đồ và người bạn đồng hành của Đức Giê-su sau nầy sẽ có nhiệm vụ rao giảng một Đức Ki-tô chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút nầy được chiêm ngưỡng chính Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật danh tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê.
Như vậy, đây là nền tảng niềm tin của Các Tông Đồ, mà trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội được thiết lập. Thánh Gioan, người môn đệ trung thành từ đầu cho đến cuối sẽ chiêm ngắm Thầy Mình chịu đóng đinh trên khổ giá cũng sẽ viết: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sựu thật” (Ga 1: 14). Còn thánh Gia-cô-bê, ông sẽ là vị Tông Đồ đầu tiên chịu chết vì niềm tin của mình.
Thánh Phê-rô là người duy nhất tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê-phi-líp-phê và cũng chính ông phản kháng trước lời loan báo về cuộc Tử Nạn của Ngài. Ở đây, ông là người duy nhất phản ứng. Thánh nhân đầy phấn chấn. Ông muốn thời gian dừng lại và giữ chân ba nhân vật chính của cuộc Biến Hình. Ông đề nghị dựng ba cái lều: một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Trong tận cõi lòng mình, ông chứng thực rằng ông luôn luôn tin tưởng vào triều đại vinh quang của Đấng Mê-si-a.
“Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông sợ quá”. Đức Giê-su đột nhiên xuất hiện trước mặt các ông trong một mầu nhiệm cao cả đến nổi sự sợ hãi linh thánh xâm chiếm các ông.
“Bổng có một đám mây bay đến bao phủ các ông”. Trong Cựu Ước, “đám mây” tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Cha hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông vào trong mầu nhiệm của Ngài, trong sự bí mật của mặc khải mà họ không được kể cho ai “cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại” như Đức Giê-su đòi hỏi họ.
Vào lúc nầy, các Tông Đồ không hiểu được “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su cho các ông chứng kiến việc phục sinh của con gái của ông Gia-ia và biến cố Biến Hình của Ngài.
Sau này, các ông sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình nầy. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng, diễn tả rõ ràng điều nầy: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là Con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết như vậy: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3: 21).
53.“Hãy nghe Lời Người”--Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Trong thời khắc dịch bệnh vẫn lan tràn, cướp đi tính mạng nhiều người trên toàn thế giới, Giáo hội vẫn tiếp tục sứ mạng trở nên chứng tá cho lòng nhân từ, xót thương và đầy yêu thương của Chúa qua mỗi ngày, đặc biệt Mẹ Giáo hội cùng với chúng ta nhận bụi tro trên đầu, ý thức thân phận yếu hèn, dễ sa ngã của bản thân. Hơn nữa, chúng ta được mời gọi bước vào thời kỳ ân sủng của Mùa Chay, hướng chúng ta trở về với Chúa, lắng nghe Lời Người và tái khám phá vị Thiên Chúa mà chúng ta hằng tin thờ, tôn kính.
Trước hết, Thiên Chúa - Đấng mãi giữ lời: Ab-ra-ham tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, mặc dù chưa biết đích đến là đâu. Ông vâng nghe và thực hiện ngay những gì Người phán truyền, thậm chí chịu hy sinh sát tế đứa con được ân ban. Nhờ vào niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, mà Ab-ra-ham đã chẳng từ chối điều gì, và ông sẵn sàng làm theo thánh ý Chúa. “Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta” (St 22, 16-18). Xuyên suốt dòng lịch sử dân tộc Is-ra-el, chúng ta thấy rõ Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những gì Người phán hứa. Thiên Chúa hằng trung thành, tín trung, giữ trọn lời của Người, không những dành cho dân Is-ra-el, mà còn trao ban dồi dào cho chúng ta qua Con Một yêu dấu của Người.
Thứ đến, Thiên Chúa - Đấng hằng bên đỡ: Thánh Phao-lô xác tín rằng: “Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?…Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta” (x. Rm 8, 31. 34). Thiên Chúa không chỉ giữ lời phán hứa, mà còn luôn nâng đỡ, chở che, bảo vệ chúng ta, dẫu ta chẳng xứng đáng với Người. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là: chúng ta cho rằng Thiên Chúa đương nhiên phải chăm nom, coi sóc ta; trong khi đó chúng ta vẫn mãi mê với tư lợi, với dự định cá nhân, mà chẳng đoái hoài đến lời kêu mời, thúc giục của Người mỗi ngày, hầu hân hoan thực thi Lời Người, và sống chính trực, yêu thương, tha thứ như Người giáo huấn chúng ta qua Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức Thánh, qua mọi biến cố cuộc đời.
Sau cùng, Thiên Chúa - Đấng luôn hiển dung: Trước khi lên Giê-rê-sa-lem chịu tử nạn, Đức Giê-su đã biến hình, tỏ cho ít nhất ba môn đệ thân tín biết vinh quang của Người. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận thấp hèn con người, mà vâng phục thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập giá, nhưng từ cõi chết, Người phục sinh. Mầu nhiệm khổ nạn-chịu chết-phục sinh (thường được gọi là biến cố cuộc đời Đức Ki-tô - Christ-event) được tái diễn hằng ngày trong đời sống đức tin của chúng ta, nhất là: trong Thánh lễ, khi tham dự các Bí tích, khi sống Lời Chúa, khi chúng ta sống bác ái, tha thứ. Nhờ đó, Chúa hiển dung nơi cung lòng chúng ta, trong cộng đoàn, hội nhóm chúng ta, trong gia đình và mọi mối tương quan của chúng ta, giúp chúng ta biến đổi cung cách sống, lối sống, tất cả các phương diện con người chúng ta. Tuy nhiên, để cảm nghiệm trọn vẹn nó, tiên vàn, chúng ta phải ghi nhớ lời của Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (x. Mc 9, 7). Chúng ta phải tháp nhập vào Đức Giê-su, phải nương náu, sống với Người, ở lại trong Người, ngõ hầu mọi lời nói, hành vi, tư tưởng,…của Đức Giê-su tỏ lộ rõ rệt nơi chúng ta.
Lạy Thiên Chúa - Đấng trung tín
Xin cho con luôn nhủ mình tín trung
Giữ trọn lời Chúa đến cùng
Sống trong hoan lạc thuỷ chung tinh tuyền.
Lạy Thiên Chúa - Đấng mãi liên
Hằng bên đỡ dù triền miên ngày tháng
Che chở con, tình chứa chan
Luôn chính trực, đời bình an thiết tha.
Lạy Thiên Chúa - Đấng ngợi ca
Mặc lấy xác phàm, bao la tin yêu
Chịu khổ hình Thập tự treo
Phục sinh vinh thắng, sống theo Cha hiền.
“Đây là Con Ta tinh tuyền,
Vâng nghe Người dạy, hằng luôn thi hành”. Amen!
54.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Thưa ACE, trong hành trình Mùa Chay năm nay, không biết chúng ta đã có những quyết tâm và đã lựa chọn ra được những hướng đi, hành động như thế nào cho riêng mình? Liệu rằng những quyết tâm và hành động đó có làm cho Chúa yêu thích? Hay nói khác hơn, thái độ và cách sống của chúng ta trong Mùa Chay này có thực sự làm cho Chúa hài lòng, để rồi chính Chúa Cha Ngài sẽ vinh danh chúng ta là những người con mà Ngài yêu quý? Các bài đọc Lời Chúa hướng dẫn, đồng hành và soi sáng cho chúng ta, hầu giúp chúng ta đi đúng hướng để đạt đến mục đích tối hậu là được trở nên những người con sống đẹp lòng Chúa.
Chúa muốn chúng ta phải làm gì? Không biết đây có phải là mối quan tâm chính của chúng ta trong thời gian Mùa Chay này? Đối với Apraham, trên mỗi chặng đường của hành trình theo Chúa, ông luôn cố gắng để nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Để sống đẹp lòng Chúa, ông đã từ bỏ quê hương để đến nơi mà Chúa hứa. Sau không biết bao nhiêu gian nan thử thách trên hành trình theo Chúa, cho đến khi về già thì Chúa mới cho ông sinh hạ được một “người con thừa tự Isaac”. Thế nhưng, để sống đẹp lòng Chúa, ông phải làm gì với “của lễ đầu lòng Isaac” mà Chúa ban tặng đây? Đứng trước những suy tính phải hành động thế nào, ông đã nghe được tiếng Chúa phán: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Nếu là chúng ta, chắc hẳn không ai trong chúng ta lại dám mạo hiểm để làm theo tiếng Chúa dạy. Nhưng với Apraham, trong mọi hoàn cảnh ông đều thưa với Chúa: “Dạ, con đây”. Đó chính là thái độ, cách sống hoàn toàn tín thác trong khiêm tốn. “Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình”. Một hành động mà không một người Cha nào lại nỡ lòng để làm cho một người con mà mình yêu quý. Thật vậy, Thiên Chúa đã thấy hành động của Apraham, hành động của một con người luôn kính sợ Thiên Chúa, hành động của một người con luôn hiếu thảo với Thiên Chúa đến nỗi không ngại để hy sinh bất cứ điều gì, ngay cả chính người con duy nhất là Isaac cho Chúa. Chúa đã hài lòng, Chúa đã chúc phúc cho Apraham và cho dòng dõi của Isaac. Thưa ACE, với mẫu gương tuyệt vời của Apraham, mỗi người chúng ta phải nên làm gì?
Chúa biết rõ những giới hạn và sức của chúng ta, Chúa biết chúng ta còn chần chừ, còn tính toán hơn thiệt, nên Chúa đã ban cho chúng ta một quà tặng cao quý gấp bội còn hơn “của lễ Isaac” mà Apraham đã dâng cho Chúa. Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm về ơn thánh Chúa. Vì yêu thương chúng ta, vì muốn ban ơn cho chúng ta, vì muốn nên mẫu gương cho chúng ta noi theo, Thiên Chúa “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Người Con Chí Ái duy nhất là Chúa Giêsu, Thiên Chúa cũng không nỡ, nhưng đã hiến ban cho chúng ta, để qua đó, thấy lòng Chúa yêu thương chúng ta biết là dường nào.
Thật vậy, Tin mừng hôm nay minh chứng cho chúng ta thấy thái độ và cách sống tuyệt hảo của Chúa Giêsu, đó chính là vâng theo, thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha. Thánh ý của Thiên Chúa chính là để tỏ cho con người thấy chúng ta rất đặc biệt trước mặt Thiên Chúa, vì thế, Ngài muốn trao ban những ơn phúc tốt lành nhất cho chúng ta. Thật vậy, khi bước vào con đường khổ nạn thập giá, chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu vừa làm đẹp lòng Chúa Cha, vừa trở nên mẫu gương tuyệt hảo mà Ngài muốn dành tặng riêng cho chúng ta noi theo: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Thái độ, hành động và cách sống của mỗi người chúng ta có đẹp lòng Thiên Chúa Cha hay không tùy thuộc vào việc chúng ta có nghe theo lời và làm theo mẫu gương mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Trong cuộc biến hình trước khi bước vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu biết được những giới hạn, yếu đuối của các môn đệ nên Ngài đã nâng đỡ, củng cố và đã tỏ vinh quang cùng ơn thánh, sức mạnh của Chúa cho các ông. Chính qua ơn thánh này, ai chấp nhận, tin và sống thì sẽ được ơn cứu rỗi và thánh hóa.
Ước mong rằng, trên hành trình Mùa Chay, dẫu có gặp phải những khó khăn, thử thách, nhưng đời sống đức tin của chúng ta luôn được Chúa củng cố, gia tăng và trao ban những ơn thánh qua Giáo hội, qua các bí tích ban ơn sủng. Lạy Chúa, được đồng hành với Chúa trên hành trình tử nạn là ơn phúc cho chúng con, xin cho chúng con được ở mãi và sống kết hiệp mật thiết với Ngài. Amen.
55.Từ Tabor đến Golgotha--Thiên Phúc
Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”.Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện:“Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.
56.Biến hình--tinmung.net
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một chuyện thần thoại không? Cách đây khá lâu, trên nhiều đài truyền hình, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
57.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Tin mừng Mc 9: 2-10: Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor để đức tin của các ông được củng cố, trở nên như kiềng ba chân, mà sau này, chính các ông sẽ giúp cho các đồng môn thực thi lệnh truyền của Thầy mình, vác thập giá mình để theo Thầy.
SUY NIỆM
Khi xem các kênh truyền hình, có lúc chúng ta bắt gặp mục quảng cáo về một loại xà bông, một chất tẩy rửa, đánh bay mọi vết bẩn tới 99,9%, đem lại sự sáng bóng như mới v.v.. Thế nhưng để làm sáng tâm hồn một con người thì chất tẩy nào đây?
Bài đọc thứ I trích sách Sáng Thế kể cho chúng ta một thử thách mà Thiên Chúa đem đến cho Apraham thật chằng dễ chịu chút nào, và độc giả thính giả khó mà chấp nhận được lòng tin của vị tổ phụ như thế. Thiên Chúa hứa ban cho ông Apraham một dòng dõi đông đúc, trong khi thực tế, vợ chồng ông già yếu mà không có con cái nối dòng. Đã vậy, khi có được mụn con trai duy nhất, đứa con cầu con khẩn là Isaác mà ông hết lòng yêu mến, thì Ngài lại biểu đem lên núi để hiến tế. Apraham buồn lắm nhưng ông vẫn tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa sẽ có cách của Ngài, nên đã làm theo mà không do dự. Tâm hồn được khai sáng nhờ lòng tin không do dự của Ápraham vào Thiên Chúa giúp ông trở nên tổ phụ của mọi dân tộc, là Cha của những kẻ tin.
Đó cũng chính là hình ảnh tiên trưng cho Người Con Một mà Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng Ngài đã trao ban để làm của lễ đền tội cho hết thảy mọi người. Người Con yêu dấu của Thiên Chúa đã tin tưởng hoàn toàn vào chương trình cứu chuộc của Cha mình. Chương trình ấy được chứng thực bởi hai nhân vật vĩ đại trong Cựu ước là Môisen tượng trưng cho “Lề luật”, vàÊlia tượng trưng cho “các tiên tri” loan báo Lời Chúa mà dân Israel coi là hai cột trụ vững chắc, qua đó Thiên Chúa không thất tín bao giờ. Trên núi Tabor này, những môn đệ thân tín được chứng kiến cảnh tượng hai vị hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu, để minh chứng Người là Đấng phải đến.
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor để đức tin của các ông được củng cố, trở nên như kiềng ba chân, mà sau này, chính các ông sẽ giúp cho các đồng môn thực thi lệnh truyền của Thầy mình, vác thập giá mình để theo Thầy, có bước vào khổ nạn mới có thể tiến tới phục sinh. Có thể nói, ba môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu được coi là những người vào sanh ra tử với Người, là những người được khai sáng tâm hồn trước tiên để trong những giây phút quan trọng và quyết định, các ông vững tin và giúp cho các anh em khác cũng tin.
Câu chuyện về một vị vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:
– Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?
– Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.
– Ông hãy đẫp vỡ nó ra !
– Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ !
Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.
Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:
– Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu?
– Bằng nửa vương quốc.
– Hãy đập vỡ nó ra !
– Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.
Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.
Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho một chàng lính:
– Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?
– Muôn tâu, đẹp không thể nói được.
– Hãy đập nát nó đi.
Lập tức chàng lính ấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của chàng lính. Họ hỏi:
– Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?
Chàng lính bình tỉnh đáp:
– Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.
Nhà vua khen ngợi thái độ của chàng lính và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.
Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài”.
Lạy Chúa, trên đỉnh Tabor, các môn đệ được chứng kiến Thầy mình biến hình, để các ông vững tin mà vác thập giá theo Con Chúa lên đồi Golgotha. Xin cho mỗi người chúng con cũng được khai sáng tâm hồn, biết vâng nghe Lời Con của Chúa để trong mọi phút giây của cuộc đời, chúng con luôn vững tin đón nhận thập giá Chúa trao, nhờ đó Chúa biến thập giá ấy thành thánh giá cứu độ cho đời chúng con. Amen.
58.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
MÙA CHAY NHẮC TA NHỚ RẰNG CHÚNG TA KHÔNG ĐƠN ĐỘC TRONG HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM SỰ HIỂU BIẾT
Bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay gây tác động mạnh mẽ và khó hiểu. Cả hai bài đọc đều là những trình thuật quan trọng nhưng chúng thường đưa đến nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Các bài đọc này nhắc nhở chúng ta phải đọc và suy niệm dựa trên Kinh Thánh, cầu xin sự sáng tỏ và bằng lòng với sự vô tri về một số vấn đề.
Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe câu chuyện ông Abraham sẵn sàng hiến tế người con trai của mình là Isaac, một hành động thường được hiểu là dấu chỉ của đức tin. Sau khi ban cho Abraham và Sara một người con trai là Isaac khi ông bà đã già, Thiên Chúa lại ra lệnh cho ông hiến tế người con của mình. Yêu cầu này có vẻ đi ngược lại với trình thuật Kinh Thánh vì Isaac là người con của giao ước.
Hơn nữa và thậm chí đáng báo động hơn, điều này ngược lại với trách nhiệm bảo vệ con cái của cha mẹ và cho thấy Thiên Chúa mong muốn sự hy sinh của con người. Thế nhưng, Abraham lại ưng thuận mà không hề chất vấn chương trình của Thiên Chúa. Điều này cho thấy sự cam kết của Abraham với Thiên Chúa và sự hiểu biết của ông rằng Isaac là ân huệ của Thiên Chúa, hoặc nó cũng có thể cho thấy sự thiếu quan tâm của ông về mạng sống của Isaac. Tương tự như vậy, điều này có vẻ giống như một thử thách đức tin vô lý mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Khi Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac, Thiên Chúa liền can thiệp và thay thế bằng một con cừu đực, một hành động thường được hiểu như là dấu chỉ của việc Thiên Chúa không chấp nhận hy lễ của con người. Nhiều cuộc tranh luận về tính chất phức tạp về mặt thần học và triết học đã kéo dài qua hàng thế kỷ và tiếp tục đặt ra nhiều thách thức. Mặc dù Abraham thể hiện một đức tin mạnh mẽ và sự tin cậy vững vàng nơi Thiên Chúa thế nhưng những hành động của ông chắc chắn không nên bắt chước. Trình thuật có thể cho thấy một yêu cầu đầy thử thách như thế để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dâng hiến và vâng phục. Thiên sứ khẳng định điều này khi tuyên bố: “Giờ đây ta biết ngươi hết lòng với Thiên Chúa vì ngươi đã không tiếc dâng hiến đứa con yêu dấu của ngươi cho Ta.”
Trình thuật cũng là một lời nhắc nhở hãy luôn rộng mở và chú ý đến Thiên Chúa. Trong ba lần, Abraham đều thưa “Hineni” (này con đây) khi trả lời Thiên Chúa, Isaac và thiên sứ. Điều này gợi nhớ lại câu chuyện về lời kêu gọi tiên tri với Samuel (được đọc vào Chúa nhật thứ hai Thường niên năm nay) và những lần cậu đáp trả “này con đây”. Có thể Abraham không phải là một hình mẫu về trách nhiệm làm cha mẹ nhưng ông là hình mẫu cho sự sẵn sàng và chấp nhận quyền năng Thiên Chúa. Câu chuyện đồng thời đưa ra những song đối đáng chú ý về việc Thiên Chúa hiến tế Chúa Giêsu, Người Con duy nhất của Ngài, hai biến cố đặt liền nhau đáng để cầu nguyện và suy niệm nhất là trong mùa Chay thánh.
Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta lắng nghe câu chuyện về cuộc biến hình, trong đó thân hình Chúa Giêsu được biến đổi cũng như mối liên hệ của Ngài với tiên tri Môsê và Êlia được xác nhận qua một thị kiến. Sự hiện ra của Êlia là đặt biệt quan trọng vì sự trở lại của ông được mong đợi để báo trước về Đấng Messia. Cũng vậy, theo truyền thống, Êlia đã không chết nhưng được đưa lên trời bằng một cơn lốc lửa (2V 2,1-12), một tham chiếu để giúp các môn đệ của Chúa Giêsu hiểu về sự phục sinh.
Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến cuộc hiển dung và đã sửng sốt, kinh hãi. Phêrô đề nghị xây ba cái lều, điều này cho thấy ông muốn ghi nhớ vị trí này với những đền thờ di chuyển được. Các môn đệ cũng nghe thấy lời tuyên bố từ trời rằng Chúa Giêsu chính là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng mà họ phải lắng nghe, một lời vang vọng từ biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa. Cuối cuộc hiển dung, Chúa Giêsu yêu cầu các ông không được tiết lộ sự kiện này cho đến sau cuộc phục sinh nhưng các môn đệ bối rối “tự hỏi việc sống lại từ cõi chết có nghĩa là gì.” Việc các môn đệ không biết chắc là điều thú vị vì những sự kiện mà các ông chứng kiến thì rất khó nà hiểu trọn vẹn được. Khi tiếp tục hành trình mùa Chay, các bài đọc có thể gợi hứng cho chúng ta, nhắc nhớ rằng chúng ta không đơn độc trong hành trình tìm kiếm hiểu biết và làm sáng tỏ, cũng như chúng ta nên dành thời gian nghiêm túc học hỏi và cầu nguyện.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/01/21/second-sunday-lent-gospel-reflection-catholic-scripture-239721
59.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Có hai thuyết về ngọn núi nơi Chúa Giêsu biến đổi hình dạng: có thể là núi Các-men ở miền bắc Ga-li-lê và gần Xê-da-rê Phi-líp-phê, nơi ông Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô; còn truyền thống quen thuộc thì cho đó là núi Ta-bô-rê ở phía nam Ga-li-lê giáp ranh với Sa-ma-ri và nằm trên đường xuống Giu-đê-a. Nếu ta coi hành trình của Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem như tột đỉnh sứ mệnh cứu thế của Đấng Kitô, thì Ta-bô-rê quả thực là bước quyết định để Chúa xác tín sứ mệnh ấy và nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem để chịu đau khổ và chịu chết. Tuy nhiên, biến cố biến đổi hình dạng không chỉ có ý nghĩa đối với Chúa Giêsu, mà còn có ý nghĩa đối với các môn đệ, những kẻ muốn theo Chúa cũng phải “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
a) Để Chúa Giêsu xác tín sứ mệnh và quyết định đi Giê-ru-sa-lem
Sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu mỗi ngày cần phải được củng cố thêm, sao cho đúng với kế hoạch Chúa Cha đã phác họa. Sau những ngày tháng thành công và nổi danh tại Ga-li-lê, Chúa Giêsu chắc chắn bị cám dỗ không muốn rời Ga-li-lê. Tại sao lại rời bỏ môi trường mình đang gặt hái được những kết quả tốt đẹp? Nhưng Chúa Giêsu đặt thánh ý Chúa Cha lên trên hết. Người cần phải quyết định rõ ràng, theo “tư tưởng của Thiên Chúa” hay theo “tư tưởng của loài người”, lên Giê-ru-sa-lem hay ở lại Ga-li-lê. Việc biến đổi hình dạng trên núi có thể coi như một tiến trình quyết định lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Vậy quyết định đi Giê-ru-sa-lem được củng cố như thế nào qua những gì xảy ra trên núi Ta-bô-rê?
Trước hết là qua sự xuất hiện của ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a bên cạnh Chúa Giêsu. Ông Mô-sê là người đem Lề Luật của Thiên Chúa cho Ít-ra-en. Còn Ê-li-a là vị ngôn sứ vĩ đại nhất. Chúa Giêsu đến để thực hiện tất cả những gì Lề Luật và các ngôn sứ nói. Do đó, sự hiện diện của hai vị bên cạnh Chúa Giêsu đã nói lên đầy đủ ý nghĩa sứ mệnh của Người, đồng thời là một khích lệ to lớn. Ta có cảm tưởng câu chuyện giữa Chúa Giêsu với Mô-sê và Ê-li-a xoay quanh đề tài về sứ mệnh của Chúa Giêsu mà thôi. Các ông nói với Chúa: “Ngài đã thi hành sứ mệnh cứu thế một cách tốt đẹp, xin Ngài cứ tiếp tục sứ mệnh ấy!” Các ông nhìn thấy nơi Chúa Giêsu thể hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã dạy các ông nói trước đây.
Tiếp đến là qua lời xác nhận của chính Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Khi nói những lời này, Chúa Cha xác nhận tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm trong quá khứ đều làm đẹp lòng Người. Đồng thời những lời đó cũng ngầm hiểu: Con đã quyết định đi Giê-ru-sa-lem là đúng, vậy Con cứ tiếp tục làm như đã quyết định. Chúa Giêsu không chỉ thấy việc chấp nhận thập giá như một điều không thể tránh né, nhưng tích cực hơn như một lẽ sống của Người và của toàn thể nhân loại. Người mong Chúa Cha sẽ nói qua Người với nhân loại những lời “đây là con Ta yêu dấu”.
b) Biến cố Chúa Giêsu biến đổi hình dạng mang ý nghĩa đối với môn đệ Người
Các môn đệ nản lòng sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Ông Phêrô thì phổi bò nên “bắt đầu trách Người”. Ông đóng vai trò của Xa-tan cám dỗ Chúa Giêsu đừng làm theo những gì Người đã loan báo. Ông đã rời chỗ đứng của ông, thay vì bước đi theo sau Chúa thì ông lại bước lên trước làm chướng ngại con đường thập giá của Người. Mới đây ông đã thay mặt anh em môn đệ để tuyên xưng đức tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô thì bây giờ ông cũng thay mặt anh em để cản đường Chúa lên Giê-ru-sa-lem. Do đó, việc Chúa biến đổi hình dạng trên núi thật là cần thiết để ông và các bạn trở về chỗ đứng môn đệ của họ và lấy lại đức tin đã bị lung lạc do hình ảnh Thương Khó và cái chết của Chúa tại Giê-ru-sa-lem. Dù hiểu hay không hiểu sứ mệnh của Chúa Giêsu, thì ít ra lúc này các ông cũng được phục hồi niềm tin vào Người sau khi nghe những lời Chúa Cha nói với Người: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ngoài ra biến cố trên núi hiển dung cũng chuẩn bị các ông trong sứ mệnh làm chứng cho Chúa Giêsu. Vinh hiển các ông được chứng kiến trên núi là những gì tiên báo cho vinh hiển của Chúa Kitô Phục Sinh mà các ông sẽ rao giảng cho muôn dân.
c) Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trong cuộc sống Kitô hữu
Có khi nào ta nghĩ rằng cả cuộc đời Kitô hữu của ta là tiếp diễn cuộc biến đổi hình dạng của Chúa Giêsu theo một nghĩa nào đó không? Dĩ nhiên ta không dám hiểu đó là một cuộc biến đổi chiếu tỏa vinh quang, nhưng là một sự thay đổi con người của ta trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn. Thánh Lê-ô Cả Giáo hoàng đã nói trong bài giảng của ngài: “Thiên Chúa đã khôn ngoan dự liệu cho niềm hy vọng của Hội Thánh có nền tảng vững vàng: Người cho Hội Thánh biết toàn thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô sẽ được biến đổi ra sao. Người cũng dự liệu cho các chi thể tin chắc mình sẽ được thông phần vinh quang rực rỡ của Đầu là Đức Kitô” (Bài đọc 2, giờ Kinh Sách CN 2 mùa Chay).
Có lẽ thánh Phao-lô đã diễn tả cuộc biến đổi hình dạng của đời sống Kitô hữu một cách cụ thể nhất qua những lời ngài gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11). Việc ta biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô quả thực tiếp tục cuộc hiển dung của Người trên núi Ta-bô-rê.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Thập giá nào trong cuộc sống có thể làm cho tôi mất đi đức tin vào Chúa Kitô? Tôi có nhận ra được ý nghĩa đích thực của thập giá đó không?
Phụng vụ Lời Chúa lấy câu truyện Chúa Giêsu biến đổi hình dạng làm chủ đề cho Chúa Nhật 2 mùa Chay có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi có nhận ra sứ điệp nào đặc biệt không? Và tôi đã đáp lại thế nào?
Ông Phêrô xin dựng cho Chúa một cái lều trên núi để ông được tiếp tục cảm nghiệm những giây phút đầy an ủi khích lệ. Tôi có muốn dựng một cái lều ngay trong đời sống của tôi để Chúa cư ngụ và biến đổi con người tôi không? Dựng lều như thế nào?
Cầu nguyện
“Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tan,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn”.
- Cha Pi-ô
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 16)
60.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--AM Trần Bình An
Cùng đăng sơn, cùng hạ sơn
Chúa Nhật 14.04.1985, Lễ Lòng Chúa Xót Thương, Lm. Jose Maniyangat đi dâng Thánh Lễ tại một nhà thờ thuộc điểm truyền giáo ở phía Bắc Kerala và bị một tai nạn chí tử. Ngài thuật lại sau này: Tôi đang lái xe gắn máy, thì bị đâm đầu vào một chiếc xe jeep do một người đàn ông say khướt sau một lễ hội Ấn giáo, điều khiển. Tôi được đưa gấp vào bệnh viện cách đó khoảng 35 dặm. Trên đường đi, linh hồn tôi lìa khỏi xác và tôi đã cảm nghiệm cái chết. Tức khắc, tôi gặp Thiên Thần Hộ Thủ của tôi. Tôi nhìn thấy thân thể mình và những người đến mang tôi vào bệnh viện. Tôi nghe họ khóc và cầu nguyện cho tôi. Vào lúc ấy thiên thần của tôi nói với tôi: ”Ta đến đem người vào thiên đàng, Chúa Giêsu muốn gặp người và nói chuyện với người”. Thiên thần cũng cho biết rằng dọc đường Ngài muốn chỉ cho tôi thấy Hoả Ngục và Luyện Ngục...
Kế đó, thiên thần của tôi hộ tống tôi tới Thiên Đàng đi qua một hầm màu trắng lớn sáng chói loà. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự an bình và niềm vui như thế nầy trong đời. Thiên Đàng lập tức mở ra và tôi nghe tiếng nhạc mê ly nhất mà tôi chưa từng được nghe trước đây. Các thiên thần ca hát và ngợi khen Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy tất cả các thánh, đặc biệt là Mẹ Maria và Thánh Giuse,và rất nhiều giám mục và linh mục thánh thiện đang lấp lánh sáng như những vì sao. Và khi tôi xuất hiện trước Người, thì Chúa Giêsu nói với tôi: ”Ta muốn con về lại thế gian. Trong cuộc sống lần thứ hai của con, con sẽ nói bằng một ngôn ngữ nước ngoài. Mọi thứ đều có thể xảy đến cho con với ân sủng Ta ban..”. Sau những lời nầy, Đức Maria nói với tôi: ”Hãy làm bất cứ điều gì Người nói với con. Mẹ sẽ giúp con trong các thừa tác vụ của con.” Lời nói không thể diễn tả hết vẻ đẹp của Thiên Đàng. Ở đó chúng ta tìm thấy được an bình và hạnh phúc nhiều dường nào, vượt qúa một triệu lần trí tưởng tượng của chúng ta. Chúa Giêsu đẹp đẽ vượt xa hơn bất cứ hình ảnh nào có thể mô tả. Dung nhan Người rạng ngời và toả sáng và rực rỡ hơn ngàn vạn mặt trời đang mọc. Những bức hoạ chúng ta nhìn thấy trên thế giới chỉ là cái bóng vẻ lộng lẫy uy phong của Người. Đức Mẹ ở bên Chúa Giêsu, Mẹ rất tươi đẹp và rạng rỡ. Không một hình ảnh nào chúng ta gặp trên thế gian có thể sánh với vẻ đẹp thực sự của Mẹ. Thiên Đàng là nhà thực sự của chúng ta; tất cả chúng ta được kêu gọi phải đạt tới Thiên Đàng và được vui hưởng Thiên Chúa muôn đời. Sau đó, tôi cùng với Thiên Thần trở về thế gian... (Jn. M. Vũ Sơn Bảo dịch theo Ingodscompany)
Cảm nhận ngây ngất về Thiên Đàng của Lm Jose Maniyangat có lẽ tương đồng với niềm hân hoan, hạnh phúc của các Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor. Các ngài đã được Người mời gọi cùng lên núi, để được mặc khải về Ngôi Lời, Con Thiên Chúa. Rồi, lại cùng theo Người xuống núi, tiếp tục sứ mạng Đi Gieo và làm chứng nhân.
Đăng sơn
Xưa, ông Môsê lên núi Sinai để cầu nguyện và nhận lãnh 10 Điều Răn trên núi Sinai. Còn ngôn sứ Êlia trong tâm trạng chán nản, mệt mỏi vì bị binh lính của hòang hậu Idaven truy sát, đã nỗ lực vượt sa mạc trong 40 đêm ngày, leo lên núi Khôrép để được Thiên Chúa an ủi, ban sức mạnh lấy lại niềm tin, tiếp tục hăng say thi hành sứ vụ. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi. Các ngài được vinh dự diện kiến Người, hội ngộ cùng ông Môsê và ngôn sứ Êlia, đại diện cho Lề luật và Ngôn sứ. Các ông ngây ngất trước ánh sáng Ngôi Lời chan hòa vinh hiển, cùng ao ước và khao khát được mãi mãi hạnh phúc sống bên Thiên Chúa Tình Yêu.
Đăng sơn là lên núi là từ bỏ mọi sự, xác thịt, của cải, ham muốn, chỉ duy nhất chọn Chúa mà thôi. Bỏ mọi sự, kể cả những vấn vương tình cảm thân bằng quyến thuộc, cũng như từ bỏ chính bản ngã tham sân si. Dấn thân leo lên núi Chúa có nghĩa chấp nhận gian lao thử thách, nguy hiểm, chịu khinh khi, thù ghét, bắt bớ, hành hạ, tù đầy và tử vong.
“Ai trong anh em, không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi được.” (Lc 14, 33) Đức Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ quyết liệt, từ người thân đến chính bản thân mình. “Ai đến với Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được.”(Lc 14, 26). Hơn thế, Đức Giêsu còn thêm điều kiện chấp nhận những khó khăn cơ cực khi theo Người.“Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14, 27)
Khi xa lánh, dứt bỏ bụi trần, nâng hồn lên với Chúa, thì tâm hồn người Kitô hữu được hưởng niềm hoan lạc vô song, tuyệt vời. Vì thế, các tâm hồn các thánh luôn được nếm trải những giờ phút xuất thần, tràn ngập niềm vui, hạnh phúc bên Chúa.
Chẳng phải lúc nào ai cũng có thể leo 1 000 bậc thang lên đỉnh núi Tao Phùng ở Vũng Tàu, để chiêm ngưỡng tượng Chúa Kitô Vua, hoặc hiếm khi được leo 220 bậc thang lên tượng Chúa Cứu Thế ở Rio De Janeiro, Brasil, để được hạnh ngộ với Người. Nhưng hằng ngày, ai cũng có thể lên núi với Người qua sám hối, ăn chay và cầu nguyện, qua tĩnh tâm, kinh hạt, suy gẫm và nhất là qua Lời Chúa và Thánh Thể.
“Hãy sống bên Chúa, và con sẽ nên thánh. Thiên Đàng không gì khác là Thiên Chúa hiện diện.” (Đường Hy Vọng, số 242)
Hạ sơn
“Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (Mc 9, 7) Thiên Chúa mặc khải cho các môn đệ, cho mọi tín hữu Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, phải tin cậy và vâng phục Người để được cứu rỗi.
Đức Giêsu dẫn ba môn đệ tâm huyết lên núi, Người biến hình rồi lại dẫn xuống núi nhập thế. Tin Mừng thánh Luca thuật lại: “Hôm sau, khi Đức Giêsu và ba môn để ở trên núi xuống, có đám người đông đảo tới đón Người.” (Lc 9, 37) Đăng sơn là chiều kích đầu tiên hướng lên trời với Thiên Chúa, hạ sơn chiều kích thứ hai hướng đến, thương yệu, phục vụ tha nhân, kể cả kẻ thù.
Hạ sơn là hạ mình xuống trước mặt tha nhân. Trở nên người phục vụ tình nguyện, noi gương Người. “Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người." (Mc 10, 45) Điều đầu tiên, Đức Giêsu mong đợi nơi những ai theo Người, là một tấm lòng đơn sơ, khiêm nhường, vâng phục và yêu thương.
Hạ sơn cũng là từ bỏ con người cũ, nặng tính xác thịt, vị kỷ, kiêu căng, tham lam, háo danh háo của, để mặc lấy con người mới, xả kỷ vị tha, canh tân, sống theo Tin Mừng.
“Phải canh tân bao lâu? Phải luôn luôn khởi sự lại. Phải luôn luôn tu chỉnh thêm. Con đừng an nghỉ, bao lâu hôm nay con chưa tiến hơn hôm qua một bước trong sự hiệp nhất với Chúa. Con phải đinh ninh rằng: dừng lại là khởi sự thụt lùi xuống dốc, khởi sự thoái hóa.” (Đường Hy Vọng, 640 & 641)
Lạy Chúa Giêsu, kính xin Chúa biến đổi cuộc đời chúng con, từ tình trạng hư thân mất nết, chiều theo tính xác thịt và thế gian, mà hướng lòng lên cùng Chúa, biết sám hối, canh tân theo Tin Mừng, để được Chúa thương xót, cứu rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin mẹ giúp chúng con hướng lòng về tha nhân, trở nên kẻ phục vụ trong tin yêu, cũng như nhìn thấy Chúa Giêsu trong mọi người, để mến yêu và phục vụ tha nhân. Amen.
61.Một thoáng Thiên Đàng--AM Trần Bình An
Ngày xưa ông Mô sê đã hai lần lên núi Sinai mây phủ trắng xóa, suốt 40 đêm ngày mỗi lần, để được Đức Chúa ban Giao ước (Xh 24, 15-18 & Xh34, 1-28).
Sau này, khi ngôn sứ Elia tế lễ Đức Chúa thành công, đánh bại 450 tư tế thần Baal, liền bị hoàng hậu Jezabel cho người truy sát. Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4). Ông nằm vật ra, chờ chết. Nhưng thiên sứ của Đức Chúa đã nuôi dưỡng ông, rồi chỉ ông đi 40 đêm ngày, đến núi Khô rép để gặp Đức Chúa.
Đến thời Tân Ước, trên núi Tabor, Chúa Giêsu hiển dung trước mặt ba môn đệ, Phêrô, Gioan và Giacôbê. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (Mt 17,2) Và kìa, có hai nhận vật đàm đạo với Người, đó là ông Elia và ông Mô sê. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc 9, 30-31). Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giê su rằng” Thưa Thầy chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Elia.” Thật ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng.(Mc 9, 5-6)
Như thế, các ông Mô sê, Elia, và ba môn đệ đã được diễm phúc cảm nhận Thiên Chúa vinh hiển, tựa gần như được chạm đến cõi Thiên Đàng. Nơi mà ông Mô sê phải lấy khăn che mặt, không dám nhìn trực diện Đức Chúa, nơi mà ngôn sứ Elia phải lấy áo choàng che mặt trước Đức Chúa, và nơi các môn đệ kinh hoàng, không biết phải nói gì trước nhan thánh Chúa Giêsu vô cùng sáng lạn.
Các Thánh nhân sau này cũng có vị được chạm đến ngưỡng cửa Thiên Đàng, qua những lúc xuất thần. Như Thánh nữ Faustina tiết lộ thị kiến: “Hôm nay trong thần trí tôi được ở trên Thiên Đàng và nhìn thấy những điều mỹ diệu, cũng như hạnh phúc tuyết vời đang chờ đợi chúng ta sau khi qua đời…Giờ đây, tôi hiểu được câu nói của Thánh Phaolô tông đồ: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe và lòng chưa từng nghiệm được những gì Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những kẻ yêu mến Ngài.” (NK 777 -80)
Như thế, Thiên Chúa đã phần nào tiết lộ nguồn hạnh phúc vô biên trên cõi Thiên Đàng, dành cho những linh hồn nào được Ngài đón nhận mai sau. Những linh hồn đã chiến thắng ngoạn mục cả ba kẻ thù: thế gian, thân xác và ma quỷ, để sống mật thiết trong tình yêu cứu độ của Chúa Cứu Thế.
Lạy Chúa Giêsu xin giúp con biết hối cải, hy sinh, dốc lòng theo Chúa, để được hưởng phúc trường sinh trên Thiên Đàng.
Lạy Mẹ từ bi nhân hậu, xin dẫn dắt con về đường ngay nẻo chính, xin giúp con tu thân, tích đức, xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa muôn đời. Amen.
62.Hạnh phúc thiên đàng--Lm. Minh Vận, CRM
Một nhà đại phú hộ người Pháp, suốt đời chỉ lo hưởng thụ mọi vinh hoa phú quí, dinh thự nguy nga đồ sộ, đầy tớ tấp nập, ra vào hầu hạ, yến tiệc xa hoa với mọi lạc thú trần gian... Rồi bỗng nhiên, một hôm ông ngã bệnh nặng, hết bác sĩ này đến danh y khác được mời đến điều trị bệnh tật cho ông với lời hứa, nếu cứu ông khỏi chết sẽ được hậu tạ, dầu phải chấp nhận bất cứ điều kiện nào... Nhưng sau khi chẩn mạch, khám nghiệm và gắng sức chữa chạy, tất cả các bác sĩ, danh y đều bó tay vì bệnh trạng của ông đã đến hồi vô phương cứu chữa.
Khi biết mình không thể sống nổi, nhà đại phú hộ rất buồn bã thất vọng, gọi vợ con đến trăng trối: "Khi ta chết rồi, hãy khắc vào một bia đá đặt trên mộ ta lời rất bỡ ngỡ nhưng chân thật này: "Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!"
I. NÚI TABORÊ HUY HOÀNG
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật sự kiện Chúa Kitô biến hình, tỏ vinh quang Người cho ba Tông Đồ Pherô, Gioan và Giacobê, cho ba ông thưởng nếm một chút hạnh phúc Thiên Đàng, khiến các ông cảm nghiệm được niềm vui sướng và khoái lạc tràn đầy, đến nỗi Thánh Pherô đã phải sửng sốt kêu lên: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Maisen và một cho Elia".
Thế rồi, lúc còn đang ngây ngất bỡ ngỡ trước cảnh thiên thai, huy hoàng thần tiên đó, bỗng có một đám mây bao phủ các ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán ra: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài". Giây phút vui sướng thần tiên qua đi, các ông bừng tỉnh nhìn chung quanh, không còn thấy ai nữa, duy có một mình Chúa Giêsu và các ông.
Mục đích cho ba môn đệ thân tín nhất của Chúa, được hưởng sự vinh quang và hạnh phúc trong cuộc Chúa biến hình hôm nay, là để củng cố niềm tin tưởng của các ông và các môn đệ khác; khiến các ông thêm can đảm và kiên trì trong gian lao thử thách sẽ gặp, nhất là khỏi thất vọng trước cuộc khổ hình đau thương và cái chết tất tưởi đẫm máu của Thầy mình.
II. TIÊN BÁO VINH QUANG BẤT DIỆT
Niềm vui sướng hạnh phúc ba vị được nếm hưởng hôm nay, chỉ là hình bóng một chút vinh quang bất diệt, Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo của Chúa trên Quê Trời. Sau đời gian truân thử thách trần gian qua đi, những tôi trung con thảo của Chúa sẽ được vào nơi đầy ánh sáng huy hoàng tráng lệ, tận hưởng niềm vui sướng khoái lạc triền miên, hạnh phúc vô cùng vô tận. Thân xác sẽ được phục sinh vinh quang và trường tồn, y phục sẽ trở nên trắng hơn tuyết và sáng ngời như mặt trời... Chính Thánh Phaolô, sau khi được thưởng nếm những giây phút hạnh phúc Thiên Đàng này, trong cuộc thị kiến nơi tầng trời thứ ba, đã chỉ có thể thuật lại bằng một câu nói rất vắn gọn này: "Mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được hạnh phúc mà Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo được Chúa yêu thương".
Ngay khi còn sống nơi trần gian này, Chúa cũng đã cho một vài vị Thánh được tiên hưởng những khoái lạc phúc đức đó trong giây lát. Cũng có khi cho thân xác các ngài được tiên hưởng hình bóng sự không hư nát của thân xác vinh quang sau này trên Nơi Vĩnh Phúc.
Trong cuốn sách nhan đề "The Incorruptibles", tác giả Jean Carrol Cruz đã đề cập đến 102 vị Thánh, được chôn cất đã nhiều năm trong hầm mộ, mà thân xác các ngài vẫn còn tươi tốt như lúc còn sinh thời, chẳng hạn như các vị sau đây:
Thánh Gioan Maria Vianney, Cha Sở họ Ars nước Pháp, sau 45 năm chôn cất, lúc cải táng trong dịp điều tra tôn phong Hiển Thánh, người ta thấy xác ngài vẫn còn tươi tốt y nguyên.
Thánh Albertô Cả, từ trần năm 1280, sau hơn 200 năm được cải táng, xác ngài vẫn còn nguyên vẹn.
Thánh Nữ Agatha, từ giã trần gian năm 251, thế mà sau 11 thế kỷ, vẫn không hề tan rữa.
III. ĐỂ ĐƯỢC ĐỒNG HƯỞNG VINH QUANG
Để được đồng hưởng vinh quang hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên Quê Trời, chúng ta cũng cần phải chết với Chúa: Chết cho tội lỗi, chết cho tính mê nết xấu, chết cho những đam mê thú tính, chết cho tính tự ái kiêu căng... và vâng giữ các giáo huấn Chúa Kitô dạy, như lời Chúa Cha đã tuyên phán: "Các ngươi hãy vâng nghe và tuân giữ lời Ngài".
Trần gian không phải là nơi hưởng thụ như nhà đại phú hộ trên kia. Ông chỉ lo tận hưởng những khoái lạc trần gian, mà không màng chi tới hạnh phúc trường tồn trong đời sống mai hậu, nên cuối đời ông đã phải thất vọng trăng trối, đặt trên mồ ông tấm bia khắc ghi lời quả quyết thú nhận sự lầm lỡ của mình: "Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!"
Trái lại, trần gian chính là đường dẫn chúng ta, là những người lữ hành đang tiến về Quê Hương Vĩnh Cửu. Vì trần gian là chốn đền tội, là nơi lập công, là trường tập đức, đào tạo chúng ta nên những kẻ anh hùng chiến thắng, những công dân Nước Trời, những vị Thánh, những con ngoan thảo của Thiên Chúa, sẽ được khải hoàn vinh quang tiến về Quê Hương Chân Thật giữa muôn ngàn Thần Thánh.
Kết Luận
Thánh Phaolô Tông Đồ đã căn dặn chúng ta phải ghi tâm khắc cốt lời này: "Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ". Bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn thời giờ để lập công đức, để khi giờ Chúa gọi ra đi, chúng ta khỏi hối tiếc thất vọng.
Nếu chúng ta biết: "Vâng nghe lời Con Chúa" truyền dạy, chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban.
63.Sống trọn ơn gọi của mình--Lm. Tuấn Bình, CRM
Theo tường trình của các nhà tâm lý ở Hoa kỳ thì số người tìm đến để giúp trị liệu ngày càng gia tăng, đặc biệt là giới trẻ, vì một lý do rất đơn giản là họ không tìm được mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả là trong số này cũng có rất nhiều người Công giáo. Nếu là người Công giáo tại sao không chịu mở sách Giáo lý ra mà tìm hiểu để khỏi phải mất công tốn của đi nhờ các nhà tâm lý. Vì chưng, sách Giáo lý Công giáo ngay từ những hàng đầu tiên đã khẳng định rằng: mục đích chúng ta sống ở đời này là để nhận biết và mến yêu Thiên Chúa, rồi từ đó phát sinh hiệu quả thương yêu mọi người như anh chị em và cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp... để sau cùng trở về với Thiên Chúa là Đấng đã gọi chúng ta ra đi cũng là Đấng mong ngóng chúng ta trở về. Đây chính là ơn gọi phổ quát mà mọi người sinh vào trần gian được kêu mời để đạt tới, vì nó bao trùm hết những ơn gọi khác mà chúng ta vẫn hằng đáp trả qua những tiếng xin vâng nối tiếp nhau trong cuộc sống.
Để đạt được mục đích tối hậu của cuộc sống con người, Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào những bậc sống khác nhau với quyền tự do chọn lựa: kẻ sống độc thân, người lập gia đình, và có một số rất ít chọn cuộc sống tu trì. Trong mỗi bậc sống đó, Thiên Chúa liên tục mời gọi chúng ta dưới nhiều hình thức để thăng tiến bậc sống mình đã chọn. Nói chung, dù ở bậc sống nào chăng nữa thì tất cả cũng chỉ là phương tiện để chúng ta tìm gặp Chúa mà thôi. Do đó, điều quan trọng không hệ tại bậc sống nhưng hệ tại việc chúng ta lợi dụng các phương tiện Chúa ban để sống trọn ơn gọi của mình.
Để gầy dựng một dân riêng, Giavê đã mời gọi Abram từ bỏ quê cha đất tổ, đi đến miền đất xa lạ mà ông chưa từng biết đến. Sau đó, lại truyền cho ông sát tế Isaac là người con duy nhất để làm của lễ toàn thiêu... Tuy ngập ngừng và khó hiểu nhưng ông vẫn vâng nghe và nhờ đó đã trở thành tổ phụ của một dân tộc hùng vĩ. Đang khi hăng say bắt bớ các Kitô hữu, thánh Phaolô được Chúa mời gọi để đem Tin Mừng cho dân ngoại. Dẫu sợ sệt và cảm thấy mâu thuẫn nhưng ông cũng can đảm vâng nghe và đã trở thành rường cột của Giáo hội. Ba thánh tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong bài Phúc âm hôm nay cũng được Chúa mời gọi lên núi để chiêm ngưỡng dung nhan vinh hiển của Ngài. Mặc dù các ông rất thích đến nỗi muốn dựng lều để được ở luôn trên đó, nhưng vì Chúa muốn cách khác nên các ngài lại xuống núi. Chính vì sự mau mắn vâng nghe đó mà sau này chẳng những các ông được chiêm ngưỡng, nhưng còn được dự phần vào vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu nữa.
Điều này tỏ cho chúng ta thấy rằng cuộc sống của mỗi người, dù có đi lên hay bước xuống, rẽ trái hay quẹo phải, tất cả đều có thể đạt được mục đích tối hậu là chiếm hữu được Chúa, nếu chúng ta bước theo tiếng gọi của Ngài. Nói theo kiểu bình dân thì cuộc đời dẫu lên voi hay xuống chó đều có thể gọi là một cuộc đời thành tựu nếu chúng ta biết chấp nhận giới hạn của mình và làm cho nó thăng tiến theo chiều hướng thích hợp với những giới hạn đó. Không ai hạnh phúc cho bằng người biết chấp nhận và vui với những gì có được trong tầm tay. Chúa không dựng nên bất cứ ai trong chúng ta chỉ để ăn hại, nhưng Ngài dựng nên mỗi người với một dụng ý riêng. Cũng mười ngón tay thon dài như nhau nhưng của người này thì Chúa muốn họ dùng để đánh đàn, viết sách, còn của kẻ khác thì Ngài mời gọi họ dùng để trồng cây hoặc đào mương, vét giếng... Chính vì vậy mà không ai có quyền tự hào cho rằng ơn gọi hay công việc của mình cao trọng hơn của người khác. Bởi lẽ, nếu để hoàn thành ơn gọi của mình theo ý Chúa mà làm công việc hèn mọn như làm đầy tớ cả đời thì cũng cao đẹp và công phúc như người có bổn phận xây nhà thờ cho Chúa vậy. Điều can hệ là chúng ta đã tận dụng các khả năng Chúa ban để nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong cuộc sống hay không mà thôi.
Xin Mẹ là Đấng đã mau mắn và tự tình thưa lời "Xin Vâng" với Chúa giúp chúng con biết lắng nghe và mau mắn thưa lời "Fiat" với ơn Chúa soi động trong cuộc sống thường ngày, để ngày sau được cùng Mẹ thông phần vào vinh quang rực rỡ của Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
64.Đệ tam nhãn--Lm. Vincent Travers
Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabôrê. Phêrô la lên: "Lạy Chúa, chúng ta ở đây thú vị biết bao!". Thật thế, các ông thấy được một khía cạnh nơi Chúa Giêsu mà các ông chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Điều nầy lưu lại một ấn tượng sâu xa giúp các ông đứng vững trong những ngày đen tối đầy thử thách đang trải dài trước mắt các ông. Từ đây trở đi, Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là một rabbi, con ông thợ mộc ở Nagiarét. Giờ đây Ngài là Đức Kitô, con yêu dấu của Thiên Chúa.
Đã thấy vinh quang
Dòng chữ đầy ý nghĩa nhất ở trong phần mở đầu của đoạn Phúc Âm nầy là: "Chúa Giêsu đã đem ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện." Chúng ta cũng có thể nhớ lại một dịp về sau khi Ngài đem riêng bộ ba đó theo Ngài. Đó là khi ở trong vườn Giếtsêmani. Ở trên núi Tabôrê họ đã thấy vinh quang của Chúa. Ở trong vườn cây dầu, họ đã chứng kiến cảnh hấp hối của Chúa. Đó là lúc trèo lên núi cao. Đó là lúc tụt xuống đất thấp. Ở trên cao họ đã được hỗ trợ cho khi phải xuống đất thấp. Kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay đã ghi lại như sau: "Ngài đã mạc khải vinh quang của Ngài để tăng sức cho họ khi phải đối diện với sự nhục nhã của thập giá." Thật đúng như vậy, nhưng một câu hỏi đã được đặt ra: "Còn đối với chúng ta thì sao?".
Chúng ta có thể đối đầu với nhiều chống đối và bách hại, thử thách và áp lực, nếu chúng ta có được một dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa cho thấy rồi ra cuối cùng mọi sự sẽ được êm xuôi, đâu vào đấy. Chúng ta có điều gì để bám víu vào, có mạc khải nào cho thấy chúng ta sẽ trải qua cơn khủng hoảng khi mất đi một người thân yêu, khi bị sa thải mất việc hoặc bị chối bỏ trong một sự tương giao... mà những điều đó xem ra là cả một vũ trụ đối với chúng ta? Câu trả lời là "có". Trong thực tế, chúng ta đã có những lúc được thấy Chúa biến hình khi Ngài tự mạc khải cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta thấy - thấy và nhận thấy điều gì đang xảy ra đó. Sự nghịch lý lớn lao ở trong Thánh kinh là: "ai có đôi mắt thì bị mù, còn ai mù thì có thể thấy".
Thiên Chúa vô hình
Những nhà thần bí học đã đề cập đến đệ tam nhãn - con mắt thứ ba. Họ nói tới việc nhìn thấy với con mắt của tâm hồn. Họ nói cho chúng ta rằng nếu chúng ta nhìn xem bề ngoài thì chúng ta đánh mất điều cơ bản, cái thực tại ở bên trong. Có một câu đầy ý nghĩa trong sách "The Little Prince"(Vị Tiểu Hoàng Tử). Câu đó là: "Điều gì cơ bản thì con mắt không thể thấy được."
Một quyển sách khác - quyển "Reaching For The Invisible God"(Đạt Tới Thiên Chúa Vô Hình) - đã đặt câu hỏi: "Ở đâu chúng ta có thể trông mong gặp được Thiên Chúa Vô Hình?".Joseph Mary Plunket, thi sĩ người Ái-Nhĩ-Lan là với khả năng con người, đã nhìn thấy Thiên Chúa vô hình ở trong thiên nhiên. Ông đã cảm hứng viết ra bài thơ sau đây:
"Tôi đã thấy huyết Ngài trên đóa hoa hồng,
Và vẻ đẹp của đôi mắt Ngài trên những vì sao.
Thân thể Ngài chiếu sáng giữa màn tuyết trắng muôn thuở,
Những giọt lệ Ngài rơi lã chã từ bầu trời cao."
Thiên Nhiên đã cung ứng cho thi sĩ Plunket những dịp biến hình và ngạc nhiên thay, ông đã chiêm ngắm vinh quang Thượng Đế trong một đóa hoa tươi, một hạt mưa rơi và một cụm tuyết trắng.
Chúng ta cũng thế, chúng ta được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa vô hình với khả năng con người chúng ta. Phải chăng đôi khi chúng ta đã không hỏi một người thân yêu hãy "nhận ra chúng ta" trong đám quần chúng đông đảo sao? Sự thật họ đã nhận ra và chúng ta vui sướng biết bao khi thấy họ nhận ra chúng ta trong đám đông đó. Chúng ta hãy nhận ra Thiên Chúa với con mắt của tâm hồn. Ngài đến với chúng ta không phải theo cung cách chúng ta nhưng theo cung cách của Ngài. Có thể chúng ta không nhận chân sự hiện diện của Ngài trừ khi chúng ta cố nhìn ra Ngài.
Thiên Chúa trong tô cháo gà
J.D. Salinger đã viết quyển sách "Fanny and Zooey" khiến người đọc phải choáng váng. Một cảnh gây nên ấn tượng lớn là khi Fanny từ trường cao đẳng về nhà, thần kinh bại hoại thê thảm. Cô đang nghiên cứu tỉ mỉ nền thần bí học về đạo giáo và cố gắng đó đã khiến cô căng thẳng tột độ. Thêm vào đó, mẹ cô cảm thấy lo lắng bồn chồn và để biểu lộ điều đó, bà đã dọn cho cô một tô cháo gà. Fanny rõ biết mẹ cô đang ra sức vỗ về cô nhưng sự trao tặng đó chọc giận cô khiến cô văng tục.
Em trai Fanny đang ngồi bàn ăn, nhảy nhổm lên và đối đầu với cô. Cậu thẳng thừng bảo cô là toàn bộ lối tiếp cận của cô đối với tôn giáo đều sai lầm hết: "Nếu tôn giáo là điều chị truy tầm, thì đây là lúc có người nói cho chị biết là chị đang đánh mất mỗi một tác động về tôn giáo đang xảy ra trong căn nhà nầy. Chị không có chút nhận thức khi thưởng thức một tô xúp đã được thánh hóa và đó là loại xúp duy nhất mà mẹ dọn ra trên bàn ăn nầy."
Cậu em đã thấy điều mà cô chị không thấy. Cậu đã nhìn thấy với đệ tam nhãn, sự mạc khải của tình yêu Thiên Chúa ở trong tô cháo gà của mẹ cậu. Fanny mù mắt. Cô có đôi mắt nhưng cô đã không thể thấy. Cô đã không thể thấy Đức Kitô ở trong cuộc sống tầm thường. Cô không thể thấy Ân sũng Thiên Chúa trong một tô cháo gà. Có thể cô đã ganh tị với Phêrô, Giacôbê và Gioan ở trên núi Tabôrê, nhưng cô cũng có một kinh nghiệm về biến hình và giả như cô đã quan sát, có thể cô đã được biến đổi và cô sẽ la lên: "Lạy Chúa, Con tạ ơn Chúa, thật thích thú được ở nơi đây, tại bàn ăn nầy."
Sự mạc khải có thể đã nuôi dưỡng cô, nâng đỡ cô khi xuống tinh thần và giúp đỡ cô qua cơn khủng hoảng.
Thiên Chúa ở đây
Đối với chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể chứng kiến những cuộc biến hình trong đời sống chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều đó nhưng thường khi đôi mắt chúng ta mất cơ hội thấy Ngài trong cuộc sống thường nhật, khi chúng ta thưởng thức một tô xúp nóng, khi ngắm xem một buổi chiều tà hay một đóa hoa xinh, khi được trao tặng một nụ cười tươi, khi đón tiếp những người anh chị em bất hạnh nhất của chúng ta. Thánh kinh cho chúng ta rõ hoặc là chúng ta thấy Chúa khắp mọi nơi hoặc là chúng ta không thấy Ngài ở đâu hết. Mỗi một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa vô hình là một lúc đầy ân sũng khiến chúng ta phải la lên: "Lạy Chúa, chúng con ở đây thật thích thú biết bao!"
Thích thú cho đến đỗi Phêrô, Giacôbê và Gioan đã muốn ở lại mãi trên đỉnh núi Tabôrê. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn dắt họ xuống núi. Không ai sống mãi trên một đỉnh núi. Thỉnh thoảng lên đó một lúc và rồi sau đó phải đi xuống thật xa để có những hoài vọng và cảm hứng mới. Chúng ta phải xuống núi. Sống là sống trong những thung lũng, làng mạc và thị thành. Chính ở đó có nhà cửa, trường ốc, bệnh xá, nhà tù, công sở, hảng xưởng và dinh thự...Đó là nơi người ta sinh hoạt, nơi có sự yêu thương và tha thứ, nơi có được miếng cơm manh áo, nơi vác thánh giá hằng ngày, nơi pha lẫn tiếng khóc và tiếng cười, đàn hát nhảy múa kể cả sinh hoạt cho phần rỗi linh hồn. Đó là nơi làm cho những mảnh đời chúng ta có ý nghĩa. Đó là nơi chúng ta đem thi thố những hoài bão và ước vọng. Chúng ta nên làm chiếu tỏa ánh sáng của núi Tabôrê trong đời sống chúng ta, ánh sáng mà qua đó bộ mặt nhân loại của chính Thiên Chúa được mạc khải.
65.Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giêsu khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy nơi Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các ông thấy được bản chất của Ngài?
2. Chúng ta cần hành xử với mọi người đúng theo bản chất con người họ, hay theo những gì chúng ta thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và sâu xa nhất của mỗi người là gì?
3. Bản chất đích thực của mọi người chung quanh ta – là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa – có hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta thường hành xử theo con mắt đức tin hay theo con mắt xác thịt?
Suy tư gợi ý:
1. Bản chất và hiện tượng
Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể… bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như tây phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chất và hiện tượng.
– Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ), tính nết (quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa), v.v…
– Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.
2. Khi Đức Giêsu hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của Ngài
Khi sống với Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v… Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.
Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Môsê và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.
3. Chúng ta cần thấy được bản chất của mình và tha nhân
Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.
Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.
4. Bản chất đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái của Thiên Chúa, được dựng nên giống như Ngài
Sự hiển dung của Đức Giêsu cho các tông đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng “theo hình ảnh của Ngài” (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), “giống như Ngài” (St 1,26; 5,1), để trở thành “con cái Ngài” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa “ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại” là “được thông phần bản tính của Ngài” (2Pr 1,4). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi “được thông phần bản tính của Ngài”, một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga 10,35). Đức tin Kitô giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, và thật sự hành xử đúng theo những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao!
Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.
Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quí của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quí của con người, bất chấp con người thế nào.
Là người Kitô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều “hiển dung” trước con mắt đức tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quí của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
Cầu nguyện
Lạy Cha, việc Đức Giêsu hiển dung trước mắt các tông đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt đức tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con “hiển dung” trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quí mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.
66.Tình yêu tận hiến--Lm. Anphong Trần Đức Phương
Chúng ta đã bước sang Chúa Nhật II Mùa Chay. Trong Chúa Nhật II Mùa Chay, bài Phúc Âm cả ba chu kỳ năm A (Matthêu 17: 1-9), năm B (Matcô 9: 2-10), và năm C (Luca 9:28-36) đều nói đến việc Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao cầu nguyện và Ngài ‘biến hình’ trước mặt các ông. Tuy có một vài chi tiết nhỏ khác nhau, nhưng cả ba Thánh Sử đều ghi lại ‘dung nhan Chúa Giêsu biến đổi, sáng láng, áo Ngài trắng tinh tuyền…’; rồi các ông cảm thấy thật hạnh phúc và muốn ‘dựng lều’ để ở lại trên đó luôn. Đặc biệt cả ba Thánh Sử đều ghi lại lời Chúa Cha nói: “Này là Con ta yêu dấu!...” Đây cũng là lời Chúa Cha nói về Chúa Giêsu sau khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả (Matthêu 3:17). Lời này nhắc đến Thánh vịnh 2,7 “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con!” và lời tiên tri Isaia “Đây là tôi tớ Cha, Ta hài lòng về Người” (Isaia 42:1).
Bài Đọc I trong cả năm A, năm B và năm C đều nói về tổ phụ Abraham. Ông Abraham đã được coi như người Cha của những người có lòng tin nơi Chúa (The Father of Believers). Ông đã tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa là Đấng đã gọi ông và ông đã vâng theo lời Chúa, từ bỏ quê hương của mình là đất Ur và ra đi đến nơi Chúa chỉ cho ông là đất Palestine (Năm A: Sáng Thế 12: 1-4). Thiên Chúa đã ký kết với ông một giao ước cho dòng dõi của ông tồn tại và phát triển và được hưởng phần đất Palestine làm gia nghiệp (Năm C: Sáng Thế 15: 5-12, 17-18). Abraham đã thấy rõ tình yêu thiên Chúa đối với ông. Ông luôn luôn tin tưởng nơi Chúa và chấp nhận mọi thử thách, gian nan trong cuộc sống theo Thánh ý Chúa. Cả khi Chúa thử thách ông và bảo ông hy sinh người con trai duy nhất của ông là Isaac cho Chúa, ông đã sẵn sàng ngay (Năm B: Sáng Thế 22: 1-2,9,10-13,15-18). Dù Isaac không bị giết, nhưng tấm lòng của Abraham đã chứng tỏ niềm tin và tình yêu tuyệt đối của ông đối với Chúa, sẵn sàng hy sinh tất cả để đáp trả tình yêu Chúa.
Bài Đọc II (Roma 8: 31-34) nhắc đến tình yêu muôn đời của Thiên Chúa đối với chúng ta; đã tạo dựng chúng ta “theo hình ảnh Chúa”, cho chúng ta vượt xa mọi loài thụ tạo, chúng ta có xác, và cũng có hồn thiêng, được chung hưởng cuộc sống đời đời với Chúa. Hơn nữa, cũng vì yêu thương chúng ta, ‘Thiên Chúa đã hy sinh chính Con một yêu dấu của Ngài để hy sinh đền vì tội lỗi chúng ta!”
“Tình yêu đáp trả tình yêu!”
Mùa Chay là thời gian ‘thuận tiện’ để chúng ta suy gẫm về tình yêu Chúa đối với nhân loại và mỗi người chúng ta. Chúng ta đã làm gì để đáp trả lại tình yêu của Chúa đối với chúng ta. Chúng ta có dám hy sinh tất cả DANH, LỢI, THÚ để sống trọn vẹn cho Chúa, để hoàn toàn tận hiến cho Chúa, dám cùng chết đi với Chúa theo tính xác thịt của chúng ta, từ bỏ tính hư nết xấu, chết đi thật cho tội lỗi để có thể sống lại thật với Chúa trong Mùa Phục Sinh.
Cuộc đời là một thử thách không ngừng qua các lỡ làng, đau khổ hàng ngày, mà bản tính con người lại thích an hưởng, thích ‘dừng lại’ và ‘dựng lều’; nhưng thử thách cứ luôn xảy ra, và mỗi người chúng ta đều “phải chịu nhiều gian khổ mới được vào nước Thiên Chúa!” (Công Vụ Tông Đồ 14,22). Chính Thánh Phêrô cũng muốn ‘dựng lều’ để hưởng hạnh phúc êm đềm khi Chúa ‘biến hình’; nhưng không được, Thày trò phải ‘xuống núi’, phải đối diện với thực tế, với bao gian truân vất vả trên đường truyền giáo, rồi cũng phải chịu khó khăn và chịu chết.
Xin cho chúng ta luôn biết nhìn lên Thập Giá của Chúa, để can đảm “bỏ mình đi, vác thánh giá hàng ngày theo chân Chúa” (Matcô 8, 34…) đến đỉnh núi Gôn-gô-ta, và chấp nhận thử thách cuối cùng là cái chết, ‘chịu táng trong mồ’, để có thể ‘được sống lại và lên trời vinh hiển’, hưởng hạnh phúc đời đời với Mẹ Maria, các Thiên Thần và các Thánh.
67.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một dịp nhìn lại cá tính và đức tin của Abraham. Lệnh truyền sát tế Isaac, người con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già, thì thật là vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không có người con Isaac này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại.
Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Như Abraham ngày xưa, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi lên đường đi đến một vùng đất chưa hề biết, đặc biệt nhiều khi hoàn cảnh chung quanh làm cho đức tin chúng ta trở nên không thể hiểu được, hầu như là vượt khỏi khả năng suy nghĩ của con người. Những lúc khủng hoảng, như cái chết của người thân yêu làm cho cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại càng cần tín thác vào Lời Chúa. Chúng ta đang đi nhờ ánh sáng đức tin chứ không phải bằng đôi mắt trần (2Cr 5,7). Một khi chúng ta tin tất cả những gì Chúa nói và Chúa làm, không phải vì chúng ta đã thấy, nhưng chỉ vì Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa đang hiện diện trong lòng chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc đời Đức Chúa Giêsu: Biến Hình trên Núi. Các tông đồ đã hoàn toàn bị 'hớp hồn' khi được nhìn thấy vinh quang Đức Kitô trong phút giây, và nhất là khi được mạc khải cho biết Thầy của mình là ai: "Này là Con Ta yêu dấu. Hãy lắng nghe Lời Người."
Biến cố hồng phúc hôm nay sẽ giúp các ông chịu đựng đêm tối trong vườn Giệtsêmani, khi phải chứng kiến cơn hấp hối của Chúa Giêsu. Những giây phút vui vẻ khi mọi sự đều hòa hợp "đâu vào đấy" thì rất hiếm hoi và họa hoằn "năm thì mười họa". Không ai có ý bảo chúng ta phải ngồi đó mà trông chờ Chúa Biến Hình, nhưng chúng ta được kêu mời theo chân các tông đồ leo lên núi, tiếp tục suy tư sứ điệp ẩn tàng trong Lời Chúa và thực tâm sống sứ điệp ấy với lòng xác tín sâu xa. Chỉ qua khổ nạn và cái chết, Đức Kitô mới đi vào trong vinh quang phục sinh. Nếu Người biến đổi thân xác đầy thương tích của chúng ta và làm cho chúng ta rập khuông với thân xác vinh hiển của Người, thì con đường chúng ta đi chính là con đường thương khó của riêng Chúa thôi.
Biến cố Biến Hình hôm nay nói với chúng ta không chỉ về những giai đoạn thử thách và khổ đau của chúng ta mà còn về vinh quang tiềm tàng dành sẵn cho chúng ta, với điều kiện là chúnt ta luôn luôn đi theo con đường của Chúa với một niềm tin tưởng cậy trông, không bao giờ ngã lòng thất vọng.
Mùa Chay cho chúng ta một cơ hội quý báu để nhìn lại chính mình với những an toàn giả tạo mà chúng ta cứ khư khư ôm lấy không chịu vất bỏ trên con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng một cuộc sống mà không duyệt xét lại thì không đáng sống. Để cho Mùa Chay này tràn đầy ơn phúc, giúp chúng ta trở thành những người dễ thương, quảng đại và chân thực, chúng ta phải chết đi cho những lối sống của thế gian bằng cách hy sinh và từ bỏ chính mình. Có lẽ không ai trong chúng ta sẽ được kêu gọi hiến tế đứa con duy nhất như Abraham xưakia, nhưng phần đông chúng ta được kêu gọi quay lưng lại với tính ích kỷ của mình và tránh xa những lời nói việc làm gây bất an trong gia đình hay đầu độc cuộc sống cộng đồng. Để thắng vượt những yếu hèn tội lỗi và trở nên con người trưởng thành chín chắn, chúng ta cần kiên nhẫn và nỗ lực suốt đời người, vì không có gì đáng giá mà lại đơn giản và dễ chiếm đoạt.
68.Hãy lắng nghe--Rolland Dionne
Tha hồ lựa chọn.
“Hãy hoán cải, hãy tin vào Tin Mừng”. Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay như Ngài đã nói với thính giả xứ Galilê vào lúc khai mạc công trình rao giảng. Phải chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc? Chúng ta còn tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không?
Sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi không phải là điều dễ dàng. Sự lựa chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ mang đến nhiều điều hệ lụy và đưa chúng ta vào những tình huống không thể thoái lui được. Có vô số những vị “giảng đạo” xuất hiện trước cửa nhà chúng ta và lui tới trong các khu xóm của chúng ta. Các giáo phái phát triển mỗi ngày một nhiều. Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi họ có thể hoán cải cả quỉ dữ nữa và nhất là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng những người xác tín nhất. Ta tự hỏi: Phải tin gì đây? Phải nghĩ gì đây? Ai là ngôn sứ thật? Ai có thể nói cho chúng ta biết điều này?
Tầm quan trọng của việc lắng nghe.
Một trong những nỗi bất ổn lớn nhất của thế giới chúng ta, đó là thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe, hiện nay là cách điều trị tốt nhất đối với nhiều người. Trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi lắng nghe: “Đây là Con chí ái của Ta, hãy lắng nghe lời Ngài”. Theo Thánh Kinh, lắng nghe không phải chỉ là nghe bằng tai nhưng là để cho mình được uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa nói về những người chống lại luật của Ngài: “Chúng không nghe lời Ta”.
Cũng như những kẻ được chứng kiến cuộc biến hình, chúng ta được mời gọi lắng nghe, được mời gọi đi vào sự biến hình của Chúa Kitô. Lắng nghe Chúa Kitô phải dẫn đưa chúng ta đến chỗ thay đổi sâu xa. Chúng ta được mời gọi chấp nhận cả một chương trình sống. Những đòi hỏi triệt để của phép rửa phải được thực hiện không thể còn chỗ cho sự tầm thường hoặc nguội lạnh nữa.
Kẻ lòng Ta ưu ái.
Một khẳng định không chút do dự, không chút giảm thiểu: “Đây là Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời Ngài”. Trong tất cả các ngôn sứ đây là vị ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là Đấng mà các ngươi đã mơ ước, nhưng đó là ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta bởi vì Ngài đến để giải thoát và cứu độ. Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và có thể thông truyền sức sống của Ta. Chỉ mình Ngài đáng tin cậy, bởi vì Ngài là người duy nhất đã thể hiện dự tính của Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài.
Việc lựa chọn bao giờ cũng kéo theo những đòi hỏi. Trong mùa chay này chúng ta được mời gọi chiến đấu với sự dữ nơi chúng ta và xung quanh chúng ta. Con đường mà chúng ta phải theo là con đường giúp chúng ta tái sinh. Làm điều lành, thực thi bác ái huynh đệ và đặc biệt hơn nữa thương yêu những kẻ bé mọn, đó phải là những ưu tiên và phải dẫn đưa chúng ta vào đường hoán cải để làm cho chúng ta trở nên những kẻ “được ưu ái”.
Tin tưởng.
Chương trình dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu là chương trình đòi hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá ngắn đối với chương trình của cả một đời người. Thiên Chúa của chúng ta có vẻ như là một Thiên Chúa khắt khe và nhỏ nhen. Thực ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì Ngài thương yêu chúng ta. Ngài đòi hỏi nhiều, nhưng Ngài cũng hứa cho chúng ta những điều tuyệt vời nữa.
Về phía Ngài, Ngài ban cho chúng ta mọi sự cả đến sự sống của Ngài nữa. Không những Ngài sẽ ban sự sống ấy cho chúng ta sau khi chúng ta chết đâu, nhưng ngay ở trần thế này. Việc tuyên xưng đức tin vào đêm vọng Phục Sinh giúp chúng ta tìm lại được sự sống ấy.
Chúng ta có sẵn sàng chết một cách nào đó để sống lại tốt hơn không? Chúng ta có sẵn sàng “lắng nghe” không? Có sẵn sàng để cho lời Chúa uốn nắn chúng ta và sống theo lời Ngài dù lời ấy có vẻ vô lý không? Hãy để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi người chúng ta và chúng ta sẽ có quyền được gọi là “Con yêu dấu”.
69.Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Để có thể minh định vị trí cách xác đáng trong trí chúng ta đoạn Phúc Âm về sự Biến hình này của Chúa, chúng ta hãy nhớ lại, những tâm tư nào có thể có nơi các môn đệ là các Tông đồ tương lai khi Chúa Giêsu loan báo cho họ lần đầu cuộc khổ nạn của Người. Là người dân Do Thái tốt như họ, các môn đệ Chúa cũng chia sẻ niềm hy vọng chung của dân Israel. Họ hy vọng một Đấng Cứu Thế toàn thắng và vinh quang. Nhưng đến một lúc mà Chúa thách đố họ hãy có một hành động đức tin. Nhân danh họ, Phêrô nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa. Nhưng sự tuyên xưng ấy chưa bao trùm được hết tất cả số mệnh của Chúa Giêsu. Phêrô tuyên xưng đức tin vào CON NGƯỜI của Chúa Giêsu, song Phêrô không tưởng tượng nổi là Thiên Chúa lại có thể trải qua thảm kịch cuộc Khổ nạn. Thành thử cần phải gợi lên dần dần trong trí óc các môn đệ sự mạc khải điều mà dưới con mắt họ, sẽ là một gương xấu khủng khiếp, một sự thử thách rất lớn lao cho đức tin của họ. Cũng cần phải củng cố đức tin họ trước. Giai thoại Biến hình tượng trưng một thời kỳ quan trọng trong việc giáo dục các môn đệ. Đây là những con người đang chờ đợi một Đấng Cứu Thế vinh quang. Vậy mà Chúa Giêsu lại mạc khải cho họ biết rằng Chúa Cứu Thế là người Tôi tớ đau khổ và bị hạ nhục. Làm cách nào giúp họ vượt lên được khỏi sự trái ý họ cảm thấy? Chúa Giêu muốn giúp họ điều này bằng cách cho họ thấy là Con Thiên Chúa, mặc dầu chịu đau khổ, sẽ được vinh quang. Và đó là việc Chúa Biến hình hôm nay.
Chúng ta ghi nhận rằng cho đến cùng các môn đệ vẫn còn vấp phải gương xấu của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Cần phải có sự Sống lại và ngày lễ Ngũ tuần họ mới thực hiện được những gì mà Thiên Chúa muốn nơi Con Chí Ái của Người.
Chúng ta hãy lưu ý điều này:
1) Đây là Con Chí Ái của Ta.
Điều quan trọng là vào một lúc trang nghiêm Chúa Cha lên tiếng quả quyết rằng Chúa Giêsu là con người mà các môn đệ bắt đầu đi theo quả thật là Con của Ngài. Chúng ta đừng tưởng tượng rằng: vào giây phút đó, các môn đệ quan niệm tiếng ‘Con’ như chúng ta quan niệm ngày nay, vì ngày nay chúng ta đã được biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Họ nhận ra là qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra và hành động. Họ linh cảm thấy Chúa Giêsu có một nguồn gốc và số mệnh vượt xa các giới hạn loài người. Tiếng từ Trời phán: này là Con Ta yêu dấu, điều đó cũng có nghĩa là Con duy nhất. Họ nhận ra cách sâu sắc giữa Thiên Chúa và Chúa Giêsu có mối tương quan phụ tử thật là độc đáo. Họ ý thức rằng Chúa Giêsu tuỳ thuộc vào Thiên Chúa, đặc mệnh như một người Con. Tiếng lại phán thêm: Hãy nghe lời Người. Trong trí óc các môn đệ là những người đang mong đợi Đấng Cứu thế, mấy tiếng đó có nghĩa là: Hãy nghe lời Người như lời đáp lại sự chờ mong của các ngươi vào Đấng Cứu Thế, ở cả những ngày mà Người trải qua thảm kịch Khổ nạn.
2) Hãy nghe Lời Người.
Lời huấn dụ đó (hay mệnh lệnh đó) từ trời cao cũng ngỏ cùng chúng ta ngày hôm nay. Nhưng hiện giờ mỗi người trong chúng ta đều đã biết những phản kháng của bản tính con người chống lại lời mời gọi hãy theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Chúng ta đều biết rằng, qua Chúa Giêsu, số phận chúng ta là một số phận quang vinh, nhưng Thiên Chúa buộc phải giáo dục chúng ta như những người môn đệ và đưa chúng ta dần dần vượt qua chướng ngại vật của sự đau khổ và sự chết. Thỉnh thoảng Người trợ lực chúng ta trong công cuộc này, bằng cách ban cho chúng ta những giây phút hoan lạc nội tâm, nó có tác dụng biến đổi đức tin của chúng ta. Nói chung thì những giây phút ấy khá hoạ hiếm. Điều quan trọng là chúng ta biết ‘nghe’ Chúa Giêsu. Chúng ta có thực hiện được điều mà Người trả lời cho tất cả những thắc mắc, chờ mong, ước muốn sâu xa nhất của chúng ta không?
Sự Biến hình của Chúa được các Phúc âm trình bày như một giai đoạn trong tiến trình của Chúa tới Giêrusalem, nơi mà Chúa sẽ phải chết và sẽ Phục Sinh. Trong nhịp độ cuộc Khổ nạn và Vinh quang đánh dấu cho những bước đi của Chúa tiến tới đích, sự Biến hình là một âm điệu khải hoàn. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Người tiếp tục đến cùng con đường của Người. Trên đường đời mà dần dà mỗi ngày chúng ta một đi sâu vào, chúng ta cũng ý thức được cho chính chúng ta, nhịp điệu khổ nạn và vinh quang, thử thách và hy vọng. Gương mẫu nào, sức mạnh nào sẽ giúp chúng ta đi đến cùng? Chúng ta hãy “NGHE” Chúa Giêsu; Đấng đi trước chúng ta, dìu dắt chúng ta đến sự biến hình bất diệt của chúng ta.
70.Chúa tỏ vinh quang Ngài--Noel Quesson
“Đừng kể lại cho ai nghe… cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.
Đức giám mục Curtis một lần tới thăm Đức hồng y Newman. Hai người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức hồng y Newman cho Đức giám mục Curtis biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được đặt Mình Thánh trong phòng. Không ngờ tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động mạnh, đến nỗi khi Đức hồng y mời Đức giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả lời: “Tôi không thể nào ngủ được khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một mái nhà”.
Đã hẳn bao giờ Thiên Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó, thì thường làm ta xúc động mãnh liệt. Ta biết điều này khi đọc thấy thái độ của các Tông đồ được chứng kiến Chúa tỏ vinh quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ ràng mình được sống bên sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các Tông đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta phải có một số điều kiện.
Trước hết ta cần bắt chước các Tông đồ lên một đồi cao. Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh đều xảy ra trên núi cao. Không nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ, ngột ngạt của độ cao… và tránh đám đông ồn ào gây nhiễu.
Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến Chúa biến hình: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đây không phải tình cờ. Khi làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết được sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ này theo để các ông được chứng kiến (Mc 5,37). Cũng chính ba ông là những người gần gũi Chúa khi Chúa cầu nguyện và hấp hối trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Chúa cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân tính Chúa, để các ông thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em.
Một điều kiện nữa để thành môn đệ gần gũi của Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Đây là lần thứ hai có tiếng từ trời phán xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói với chúng ta. Là môn đệ Chúa, thì phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Kinh Thánh, trong tìm tòi suy luận, nhưng nhất là trong Kinh Nguyện một mình riêng rẽ đối diện với Chúa nơi thanh vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa đích thân dạy dỗ, mặc khải cho.
Sự biến hình, bộc lộ đôi chút vinh quang Thiên Chúa, làm vui thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các ông đừng kể lại với ai ‘cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’. Vì Chúa biết rằng chỉ sau cái chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới hiểu rõ về Chúa. Khuôn mặt đích thực của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập tự chứng tỏ tình yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
71.Cuộc biến hình--Jacques Hervieux
Quang cảnh rực rỡ đang diễn ra đã tỏa lan trên bầu khí nặng nề ngự trị trong Phúc âm kể từ khi Chúa Giêsu loan báo về cái chết không thể nào tránh được của Ngài (8,31 và tiếp theo). Đây giống như một giai đoạn tạm nghỉ được dành cho Thầy trò trên bước đường dấn thân vào cái chết. Chúa Giêsu mang theo Ngài ba môn đệ được Ngài yêu chuộng nhất (c. 2). Chỉ ba người này được theo Ngài vào căn phòng em bé gái được Chúa Giêsu làm cho sống lại (5,37-43). Và cũng chỉ ba người này là những nhân chứng đặc biệt trước cơn hấp hối của Thầy (14,33-34). Sở dĩ Chúa Giêsu cho họ tham dự vào những cuộc mạc khải then chốt là vì họ được kêu gọi để trở nên cột trụ cho Giáo Hội Ngài. Việc tách các môn đệ này riêng ra để đến một chốn rất xa cho chúng ta đoán được ý định của Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho họ một điều bí mật sâu xa nào đó. Truyền thống cho rằng Chúa Giêsu và ba môn đệ này đã leo lên ngọn núi Taborê, một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê, không xa Nadaret bao nhiêu. Tuy nhiên cách xác định vị trí này mãi đến thế kỷ thứ ba mới thấy. Ngoài ra địa danh này không phù hợp với chuyến du hành mạn bắc vào ngay vùng dân ngoại (8,27). Chính vì thế theo các nhà chuyên môn, đúng hơn đây là núi Hermon, ngọn núi đồ sộ cao tới 2760 mét phủ đầy tuyết rất gần vùng Cêsarê Philipphê là nơi Chúa Giêsu được coi như đang có mặt.
Dù sao thì ở đây, Maccô cũng ít quan trọng đến địa lý hơn là thần học. Như người ta sẽ thấy, đối với Maccô, “ngọn núi cao” này nhắc nhở đến ngọn núi Sinai thời xuất hành là nơi Thiên Chúa đã gặp gỡ Môsê cách rất đỗi thân mật (x. Xh 24,12-18). Quả thực, trình thuật này đang dẫn chúng ta đến cuộc hiển linh của Chúa Giêsu (c. 2c). Trong một giây phút chói lòa, vị Sư Phụ đã biến hình trước mắt các đệ tử mình. Người ta chợt nghĩ ngay đến hiện tượng liên quan đến Môsê: “Da mặt ông tỏa sáng” sau khi được trực kiến Thiên Chúa trên núi Sinai (Xh 34,29-35).
Hoàn toàn tự nhiên khi Maccô nhờ đến các hình ảnh Thánh Kinh để mô tả biến cố xảy đến cho Chúa Giêsu (c. 3). Như chúng ta đã biết, nơi người Sêmit, y phục một người tượng trưng chính bản thân người đó. Y phục Ngài tỏa ra rõ nét trắng toát mà loài người không thể có. Y phục màu trắng báo hiệu ánh sáng quang vinh thần thánh nơi các thiên sứ (16,5) hay nơi những kẻ được chọn (x. Kh 3,5).
Đối với các môn đệ này, cuộc thị kiến đầy kinh ngạc về tình trạng “quang vinh” của Chúa Giêsu lại còn được bổ sung thêm bằng việc xuất hiện của Êlia và Môsê (c.4). Hai nhân vật lẫy lừng này đến đây làm gì? Môsê là cha đẻ của Lề Luật Do Thái. Chính trong sự hiện diện đầy uy nghi của Thiên Chúa trên núi Sinai mà Môsê đã tiếp nhận Lề Luật (x. Xh 19 và 20). Và bốn thế kỷ sau, Êlia cũng đã hành hương lên chính ngay núi thánh Sinai để gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống (x. IV 19,1-13). Những nhà lãnh đạo của dân riêng Chúa được truyền thống Do Thái xem như vẫn hiện đang sống trong VINH QUANG: Môsê thì với tư cách nhà làm luật vĩ đại của Israel, còn Êlia là khuôn mặt dẫn đầu trong số các tiên tri. Ở đây, cả hai hội tụ lại, họ tượng trưng cho Lề Luật và các tiên tri, điều này bao hàm ý nghĩ toàn bộ Kinh Thánh đều ủng hộ Chúa Giêsu. Đàm đạo với hai vị này, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng nơi bản thân Ngài đã hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia.
Mãi đến lúc này, bị quang cảnh khác thường đột nhiên xảy đến, các môn đệ đều ngậm câm. Giờ đây, nhân danh họ, Phêrô mới dám ngỏ lời với Chúa Giêsu (c.5). Ông gọi Chúa bằng “Thầy” (Rabbi) nghĩa là vị Thầy mà ông phải tuân theo mọi lời giáo huấn. Phêrô muốn nói cho Thầy mình niềm hạnh phúc mà ông và các bạn đang cảm nhận khi được tham dự vào lễ hội thiên quốc này. Tuy nhiên phải chăng phản xạ của Phêrô quá ư trần tục? Không phải là ông muốn lôi kéo dài giây phút hạnh phúc khôn lường này sao? Ở đây việc Phêrô đề nghị dựng lên ba lều cho Chúa Giêsu và hai vị khách thiên quốc có lẽ nhằm mục đích ám chỉ đến “lễ lều” của Do Thái. Vào mùa thu, tức mùa hái nho, người ta thường dùng các cành cây dựng lên trong vườn nho những chiếc chòi nhỏ với niềm hy vọng mãnh liệt sẽ được đón tiếp Đấng Mêsia ở đây (x. Lv 23,33-36). Tuy nhiên như thường thấy xảy ra trong các Phúc âm, ở đây Phêrô bị lầm. Ông ta không nắm bắt được ý nghĩa sâu xa của biến cố ông được trải qua. Vả lại bản văn cho thấy Phêrô hoàn toàn không ý thức gì về lời đề nghị của mình (c. 6). Maccô ghi nhận nỗi kinh hoàng của các môn đệ trong trường hợp quá khác thường này. Có vẻ như Phêrô đã thử “làm quen” với một hiện tượng thần linh vượt quá tầm hiểu biết của mình…
Chính lúc này một thị kiến bổ túc mới có thể hướng dẫn độc giả hiểu được toàn bộ sự cố (c. 7a). “Đám mây” được mượn trực tiếp từ sách Xuất hành (được Maccô cố ý khai thác trong toàn bộ đoạn này). Trong bước đường gian khổ nơi vùng hoang mạc, dân Chúa chọn đã được một cụm mây sáng lòa hướng dẫn (x. Xh 13,21 và tiếp theo). Đám mây thần thánh này được người xưa mượn từ hiện tượng phong nhiêu của bão tố để ám chỉ việc Thiên Chúa kề cận dân Ngài. Đây là một hình ảnh tuyệt hảo nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa với loài người, vừa ẩn khuất mà lại vừa hiển lộ. Đây là trường hợp Thiên Chúa trao ban một sứ điệp quan trọng: “Chính Ngài là con yêu quý của Ta” (c.7b). Thật thú vị khi ghi nhận rằng những lời này được Thiên Chúa ngỏ với các môn đệ. Với vài thay đổi nhỏ nhặt, những lời này lặp lại những lời đánh dấu cuộc tấn phong Chúa Giêsu vào lúc Ngài chịu phép rửa (x. 1,11). Vào lúc đó, Thiên Chúa Cha đã để cho Chúa Giêsu đăng quang trong sứ mệnh làm Đấng Mêsia. Giờ đây, sau khi đón nhận ra thân thế Mêsia của Thầy mình (8,29), Phêrô và các môn đệ còn phải đón nhận mầu nhiệm sâu thẳm hơn nữa về thân thế Ngài. Bởi vì Ngài là Đấng Mêsia nhưng đồng thời còn là “Người Con rất yêu dấu” của Chúa Cha nữa.
Như thế giọng nói từ trời khích lệ các môn đệ tiếp tục bước theo con đường họ đi trong đức tin để khám phá được trọn vẹn thân thế Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa sâu xa của biến cố mà họ vừa trải qua. Tuy nhiên phải thêm rằng trọng điểm của trình thuật này xem ra hệ tại nơi các từ ngữ sau: “Hãy nghe lời Ngài” (c.7c). Lời mời gọi ngắn gọn này nhắm tới điều mà Chúa Giêsu mới nói với các môn đệ Ngài (8,31-33). Như người ta đã thấy: Phêrô đã chống lại như một con quỷ dễ thương trước những viễn cảnh bi đát mà Thầy vừa mới hé lộ. Chắc chắn các môn đệ rất phiền não khi phải “nghe” Chúa Giêsu xác định điều này. Giờ đây một khi vừa được trông thấy –như một ánh chớp lòa- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, đồng thời cuối cùng Ngài sẽ lãnh nhận được số phận quang vinh bên kia cái chết thì liệu họ có giữ được niềm hy vọng và tiếp tục bước theo Thầy mình trên con đường thập giá không?
Câu cuối cùng diễn tả tình trạng trở lại bình thường khá tê tái (c.8). Maccô cố ý nhấn mạnh: đối với những kẻ theo Ngài, cuộc biến hình của Chúa Giêsu sẽ chỉ là một phút hồng ân “ngắn ngủi” để nâng đỡ đức tin của họ trên bước đường gian truân. Rõ ràng biến cố trên đây đã được Maccô đọc lại dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh và của Kinh Thánh. Ông nhằm nâng đỡ lòng trông cậy của các Kitô hữu Rôma đang chịu khổ đau và chết chóc vì cơn bách hại.
72.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Noel Quesson
Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình
Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày" trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì "sáu ngày" trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa: "Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi Môsê" (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: "sáu ngày"... "Môsê"... "đám mây"... "núi "... Trình thuật của Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà “Lễ lều tạm" (Yom Sukkôt) tại Israel lại xảy ra sáu ngày sau "Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một nhà trú, một lều tạm.
Phêrô, Giacôbê và Gioan
Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính ba" môn đệ này đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái 12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghét-sê-ma-ni (Mc 14,83).
Họ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy. Họ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác.
Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên một ngọn núi cao...
Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để "gặp gỡ Thiên Chúa". Một đầu óc hiện đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với "Thiên Chúa" (Xh 24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân chúng.
Và Người biến đồi hình dạng trrớc mắt các ông
Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:
Một quan niệm "bi quan": Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.
- Một quan niệm "lạc quan": Chính "thế gian này" là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.
- Nhưng cũng có một "quan niệm thứ ba biến dạng" Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa, nhưng đó chỉ là "hình ảnh", là "họa ảnh" tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị "tiêu diệt", nhưng cần được "biến dạng". Trên núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh thần. Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến Hình là đại “Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một "kỹ thuật", người họa sĩ hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh - của Thiên Chúa hay không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã "dìm" ta trong Đức Kitô, đã làm cho ta được "tham dự vào bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1,4). Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động của Chúa là Thần khí" (2 Cr 3,18).
Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó - nghĩa là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Cl 3,3-4).
Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã "xảy đến" cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là "giặt sạch nhất", "trắng nhất". Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.
Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên trời và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. "Anh em được mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27). "Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử" (l Cr 15,53). "Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới" (Cl 3,10).
Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.
Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong đợi của Israel được ghi trong "lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng! cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra “làm vì". Đó là khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với Đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một "cửa ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khái cho "trên núi". Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-24). Vả lại theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (Mc 9,11-13).
Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã khởi sự.
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.
Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm 'tuyên xứng đức tin" (Mc 8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (Mc 8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một “người chứng" không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo; chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.
Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người".
Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là "Sự hiện diện của Thiên Chúa" (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (Mc 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta không thể vận dụng "những suy luận" cá nhân, cũng không nhờ vào "những nghiên cứu Kinh Thánh", nhưng qua cách cầu nguyện "riêng một mình trên núi"; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của con người.
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩ a là gì?
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.
73.Vinh quang trên đỉnh núi--William Barclay
Ở đây chúng ta đang đối diện với một biến cố trong đời sống Chúa Giêsu vốn được phủ bằng một tấm màn bí mật. Chúng ta chỉ cố tìm xem đã có chuyện gì xảy ra. Maccô bảo rằng việc này xảy ra sáu ngày sau biến cố gần Xêdarê Philípphê, Luca thì nói tám ngày sau. Tuy nhiên, ở đây không hề có sự bất nhất. Cả hai vị đều muốn nói như ngày nay chúng ta nói là “độ chừng một tuần lễ sau”. Cả hai Giáo Hội Đông lẫn Tây phương đều kỷ niệm ngày Chúa Giêsu biến hình vào ngày 06 tháng 08 dương lịch. Vấn đề quan trọng không phải ngày đó đúng hay không, nhưng đó là thời điểm mà chúng ta nên tìm cách ghi nhớ. Truyền khẩu nói đến sự biến hình xảy ra trên đỉnh núi Tabor. Giáo Hội phương đông gọi lễ Chúa Biến Hình là lễ Taborion, có lẽ việc chọn núi Tabor được căn cứ vào câu đề cập đến núi Tabor trong Tv 89,12, nhưng đó là một lựa chọn đáng tiếc. Núi Tabor nằm về phía Nam xứ Galilê, còn Xêdarê Philípphê thì ở mãi tận phía bắc. Núi Tabor cao không hơn 300 mét và vào thời Chúa Giêsu có một đồn binh trên đó. Điều có lý hơn là sự việc đã xảy ra trên sườn núi Hermôn một ngọn núi phủ tuyết quanh năm, cao gần 3000 mét, gần Xêdarê Philípphê hơn và khung cảnh cũng yên tĩnh hơn nhiều.
Chúng ta không thể xác quyết đã có chuyện gì xảy ra. Chúng ta chỉ biết cúi đầu cung kính khi cố gắng tìm hiểu. Maccô bảo áo của Chúa Giêsu trở nên sáng rực. Từ ông dùng là chữ stibein, chữ được dùng chỉ sự sáng chói của đồng hoặc của vàng được nung chảy, hoặc của thép được đánh bóng hay ánh sáng chói chang vàng rực của mặt trời. Lúc biến cố ấy kết thúc, có một áng mây che phủ họ. Trong tư tưởng của người Do Thái, sự hiện diện Thiên Chúa luôn luôn được kết hợp với đám mây. Trong ngày khánh thành đền thờ sau khi được Salômôn xây cất, một đám mây đã bao trùm đền thờ. Dân Do Thái mơ ước khi Đấng Mêsia đến, đám mây hiện diện của Thiên Chúa cũng sẽ trở lại với đền thờ (Xh 16,10; 19,9; 33,9; 1V 8,10; 2Mcb 2,8). Việc đám mây kéo xuống là một cách nói rằng Đấng Mêsia đã đến, và bất kỳ người Do Thái nào cũng hiểu như vậy.
Sự biến hình có hai ý nghĩa:
1/ Đó là một điều thật quý báu cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cần quyết định một số sự việc, Ngài đã quyết định lên Giêrusalem và quyết định ấy có nghĩa là đối diện và chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi, Ngài đã nhận được sự chấp thuận quyết định của Ngài.
(a) Êlia và Môsê đã đến gặp Ngài. Môsê là nhân vật tối cao đã ban bố luật cho dân Israel. Cả hai dân tộc đã chịu ơn ông về luật của Chúa. Êlia là vị ngôn sứ đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Mọi người luôn luôn nhìn lại ông như một ngôn sứ mang chính lời Chúa đến cho con người. Khi hai nhân vật lỗi lạc nhất đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố luật vĩ đại nhất và vị ngôn sứ lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên!”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu hoàn thành tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng đường, và cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
(b) Thiên Chúa Cha phán với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ hành động theo ý riêng. Ngài luôn luôn đến với Thiên Chúa Cha và thưa rằng “Cha muốn con phải làm gì đây?” Ngài đặt mọi kế hoạch và dự kiến trước mặt Chúa Cha và Chúa Cha phán với Ngài “Con đang làm đúng điều chính Con yêu dấu Ta phải làm. Hãy tiếp tục đi”. Trên núi Biến Hình, Chúa Giêsu được bảo đảm Ngài không lầm đường. Ngài đã thấy thập giá không những là việc không tránh được và còn là điều vô cùng chính đáng.
2/ Đó là điều quý báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa.
(a) Họ đang bị tan nát khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rằng Ngài sắp lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dường như tiêu hủy, phủ nhận tất cả những gì họ đã được hiểu về Đấng Mêsia. Họ đang bối rối, ngẩn ngơ, kinh ngạc, chẳng hiểu sự việc thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng. Những gì đã thấy trên núi Biến Hình cho họ một cơ hội để bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe chính tiếng nói của Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Ngài.
(b) Nó khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Kitô theo một ý nghĩa đặc biệt. Theo định nghĩa chứng nhân là người thấy, sau đó tỏ bày ra. Lần ấy, trên núi, họ đã được cho thấy vinh hiển của Chúa Kitô. Do đó, khi có cơ hội, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng để lại kể cho mọi người nghe.
74.Đức Giêsu hiển dung trên núi--Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Sau khi loan báo cuộc khổ nạn
Đáp lại câu hỏi thúc ép của Đức Giêsu, Phêrô vừa mới tuyên bố Thầy là Đấng Messia”. Đức Giêsu liền dẫn các môn đệ vào con đường khổ nạn và chết mà Người sẽ phải đi để hoàn thành sứ mạng của Người. Maccô viết: "Rồi Người bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại”. Viễn tượng kinh hoàng như thế đi ngược với tư tưởng Người thời đó. Về Đấng Cứu thế. Nghĩ rằng Đấng Cứu thế mà cũng phải trải qua đau khổ và sự chết là điều không ai dám nghĩ, cả những người Do Thái thời đó cũng như các môn đệ của Đức Giêsu: Bởi đó Phêrô tức tốc phản ứng, ông liền kéo riêng người ra và bắt đầu trách Người”. Cử chỉ đó đã làm cho Phêrô bị một lời quở trách cực mạnh từ Đức Giêsu: "Satan, lui ra đàng sau thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: "Ai muốn theo tôi phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Con đường mà Con Người đi cũng là con đường bắt buộc đối với các môn đệ Người.
2. Cuộc hiển dung của Đức Giêsu trên núi.
Maccô đã đặt tường thuật hiển dung của Chúa trong tương quan với việc công bố lần thứ nhất cuộc khổ nạn, việc này đã
vấp phải sự không hiểu nơi các môn đệ và khiến bọn họ kinh hoàng. Giống như Matthêu và Luca, tác giả Tin Mừng thứ hai diễn tả bằng một lối văn tượng trưng, mượn những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (cuộc Thiên Chúa tỏ mình) ở núi Sinai ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 330).
Ngày xưa, trong cuộc xuất hành qua hoang địa, Môsê đã công bố cho con cái Israel rằng: "Đức Chúa, Thiên Chúa của người, sẽ cho nổi lên giữa các người một vị ngôn sứ giống như Ta, các người hãy nghe lời Người”. Hôm nay Maccô đã bật mí: vị ấy đã đến rồi, đây là thời gian hoàn tất, một kỷ nguyên mới đã khai sinh.
Maccô viết: "Sáu ngày sau" mà lại không chỉ rõ sau cái gì, nhưng rất có thể là ông muốn nói về biến cố Xuất Hành.
+ Hoặc là nói về sáu ngày mà sau đó, theo Xh 24,1 6, "Thiên Chúa gọi ông Môsê từ giữa đám mây lên núi Sinai”. Nếu thế, theo Maccô, đó là một cách giới thiệu biến cố hiển dung như một Sinai mới và đồng thời giới thiệu Đức Giêsu như một Môsê mới.
+ Hoặc là nói về sáu ngày chuẩn bị cho đại lễ Lều Trại, lễ đó người ta dựng lều bằng cành cây (như người Do Thái còn làm ngày nay) để tưởng nhớ cuộc xuất hành, với hy vọng vào thời đại cứu thế mà Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ mãi mãi ở giữa dân Người. Nếu thế, theo Maccô đó là một cách côgn bố thời đại mới đã khởi đầu.
Cũng như ngày xưa Môsê lên núi Sinai, thì Đức Giêsu cũng dẫn các bạn hữu của Người lên một ngọn núi cao. Nhưng ngọn núi nào? Từ ngữ này mang ý nghĩa thần học nhiều hơn là địa lý: núi ở trong Kinh Thánh là địa điểm đặc tuyển cho việc mặc phải thần linh. Ở đây nói về một Sinai mới, một cuộc mặc khải quyết định của Thiên Chúa.
- Cũng như Môsê, lúc lên núi nhận giao ước, chỉ đem theo Giousê, Đức Giêsu chỉ gọi riêng đi theo Người có "Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Cũng ba người đó, những người bạn thân nhất được theo Chúa vào phòng bé gái chết mà được Người làm cho sống (5,37-43); ba người đã chứng kiến cuộc hấp hối của Người trong vườn cây dầu: Đức Giêsu đã liên kết họ với Người trong những thời điểm mạnh của mặc khải, để họ trở nên những trụ cột của Hội Thánh Người.
- Cũng như da mặt của Môsê ngời sáng, vì ông đã đàm đạo với Thiên Chúa và cũng như dân Israel xem thấy mặt ông chiếu sáng (Xh 34,29-35), Đức Giêsu "hiển dung" trước các môn đệ, vinh quang Thiên Chúa, cái vinh quang mà Đức Giêsu chiếu toả vào buổi sáng Phục sinh, lúc này đang xâm chiếm bao phủ Người.
Vào lúc đó ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. Đó là hai vị có thần thế trong Cựu ước. Cả hại vị đều đã trèo lên núi: Môsê lên để lập giao ước, Êlia lên để nhận sứ mạng cải tổ giao ước. Hai vị tượng trưng cho toàn bộ Cựu ước: Lề Luật và các Ngôn sứ (Êlia) giờ đây được thực hiện: thời đại cứu thế đã khởi đầu.
Phêrô đề nghị "Chúng ta hãy làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Thực ra, ông không biết mình nói gì do quá kinh hoàng, Maccô giải thích. Phêrô đã lầm lẫn vì nghĩ rằng đã đến giờ mà Thiên Chúa cư ngụ vĩnh viễn ở giữa dân Người và họ có thể ở đó miên trường.
Sau cùng, cũng giống như khi lập giao ước ở núi Sinai, một đám mây, dấu chỉ hữu hình của sự hiện diện Thiên Chúa, đã bao phủ ngọn núi, thì ở đây một đám mây che phủ các ông. Rồi cũng giống như ở Sinai, có tiếng nói phát ra tử đám mây. Những lời này gần giống như tiếng vang của những lời đã phán lúc chịu phép rửa ở sông Giođan. Nhưng, lúc xưa tiếng đó nói với Đức Giêsu: "Con là Con Ta yê u dấu, Cha hài lòng về Con" (1,11), còn ngày nay tiếng đó nói với ba môn đệ: Tiếng đó soi sáng các môn đệ cho biết căn tính của Đấng mà Phêrô mới đây đã tuyên xưng là Đấng Thiên Sai (Mêsia): “Đây là Con yêu dấu của Ta”. Tiếng đó xác nhận giáo huấn của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn - phục sinh của Con Người: "Các ngươi hãy vâng nghe lời Người".
J.Hervieux quảng giải: "Giờ đây dường như qua tia chớp loè sáng, họ đã thoáng thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa", và vượt qua khỏi sự chết, Người được Thiên Chúa dành cho một cuộc sống vinh quang. Lẽ nào họ không giữ niềm hy vọng và không tiếp tục theo Thầy trên con đường thập giá?" (L’evangile de Marc", Centurion p.125).
- Bỗng chốc, Maccô kết luận: "Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi ở trên núi xuống Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người đã từ cõi chết sống lại”. Chúng ta lại thấy ở đây một lần nữa "bí mật thiên sai”, mà Maccô rất quí trọng: điều mà ba môn đệ vừa thấy vượt quá sức tưởng tượng quá đỗi, nó làm xáo trộn tận cùng hình ảnh Đấng Thiên Sai của các ông, nên tốt hơn các ông nên giữ im lặng ít lâu. Sau này, dưới ánh sáng của Phục Sinh, các ông sẽ hiểu rõ ý nghĩa. Lúc đó, các ông sẽ có thể làm chứng.
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới”.
(Célébrer, tạp chí C.N.P.L. số 266, trang 26).
Cuộc hành trình này kêu mời chúng ta từ bỏ một số hình ảnh Thiên Chúa. Ông Apraham đã khám phá dung mạo của một Thiên Chúa, không chấp nhận máu của tế vật và không đòi hy lễ nào khác ngoài sự vâng phục toàn tâm con người. Người Kitô hữu còn có thể khám phá một Thiên Chúa không đòi hỏi hy sinh "vượt sức người" (siêu phàm), mà chỉ đòi tin tưởng và phó thác.
Phêrô, Giacôbê và Gioan, cả các ông cũng vậy, phải loại bỏ một thứ hình ảnh Thiên Chúa, để khám phá ra một hình ảnh khác nơi Đức Giêsu Kitô. Loại bỏ thứ quan hệ dựa trên sự sợ hãi, họ phải cảm nghiệm được một Thiên Chúa, Đấng đã không dung tha con ruột mình, và chấp nhận sự mạc khải đau đớn một Đấng Thiên Sai chịu khổ nạn, Đấng ấy sẽ lôi kéo họ đi theo Người.
Và còn hơn nữa, Người còn đề nghị ta khám phá rằng nhân loại là con đường tới Thiên Chúa. Mà không phải một Thiên Chúa không có thân xác, nhưng một Thiên Chúa trong xác thịt hẳn hòi. Một thân xác được mời gọi để biến đổi hình dạng. Đó là con đường do Đức Giêsu vạch ra.
Người Do Thái trông đợi sự biến dạng sẽ xảy ra vào ngày tận thế. Khi trình bày điều đó đã thực hiện nơi Đức Giêsu, Maccô muốn tuyên báo rằng ngày tận thế đã khai mào. Thực vậy, mọi sự chứng tỏ một khởi đầu mới: Một hy vọng đáng nể cho tất cả những gì đang rên xiết "chuyển dạ sinh ra”.
2. “Điều kinh ngạc trong Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình rất phàm nhân”.
(Thư gởi các người Công giáo Pháp, Cerf, trang 49-50).
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Cả cuộc đời của Đức Giêsu, từ lúc sinh ra cho tới ngày chịu. chết và sống lại, luôn tỏ ra quy hướng về Chúa Cha; Người lãnh nhận tất cả mọi sự từ Chúa Cha, và dấn thân hoàn toàn vào công trình cửu độ theo mệnh lệnh của Chúa Cha.
Nhưng điều kinh ngạc không phải chỉ là việc nhập thể của Chúa Con, Đấng đến cư ngụ ở giữa chúng ta để bày tỏ tình thương của Chúa Cha.
Điều kinh ngạc còn là trong Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra quá phàm nhân. Trước hết, người phàm vì Người tỏ mình phàm hơn chính người trần: Chúa đi đến với những người lạc mất trong số người trần, kẻ bé nhỏ và kẻ bị loại trừ, kẻ đau yếu và kẻ tội lỗi. Người phàm, bởi vì Người chia sẻ hết mọi sự của bản tính nhân loại, đau khổ và bạo lực, bất công và chết chóc, chết trên cây thập tự. Hoàn toàn người phàm, đến độ ban tặng cho ta được thông công sự sống của Người. "Lạy Cha, Con muốn rằng, con ở đâu thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con " (Ga 17, 24).
Lòng tin vào Đức Giêsu, Chúa con bao gồm sự bạo dạn dám đón nhận sự sống của chính Thiên Chúa vào sự sống người phàm của ta. Nếu chúng ta trình bày Lời Chúa và các Bí tích cho người khác, ta làm cũng vì mục đích đó: là để chúng ta biết được niềm vui sống và yêu mến như con thảo của Thiên Chúa, theo bước chân của Chúa Con, trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
75.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
SỨ ĐIỆP CỦA TRÌNH THUẬT
Các lời mời gọi bản văn Biến Hình đưa ra có vẻ như dành cho con người hiện đại, nhất là Maccô.
Biết bao ý thức hệ triết học, tôn giáo, chính trị, khoa học v.v. chất chứa trong những khát vọng của chúng nỗi chờ mong một lúc mà nhân loại sẽ vượt lên chính mình và đạt tới một tình trạng trong đó nó sẽ được siêu thăng hóa. Khi la lớn rằng chúng không được thỏa mãn, phải chăng một vài ý thức hệ đã không tuyên bố cùng những khát vọng trên?
Trên bình diện đức tin Kitô giáo, cuộc Biến hình là câu trả lời của Chúa Giêsu cho các khát vọng ấy: con người được tạo dựng để hưởng vinh quang, nghĩa là để được tỏ hiện trong chính mình, bên kia cái mình đã làm, một cuộc sống siêu phàm của hữu thể mình mà không là gì khác ngoài sự sống được chia sẻ với Thiên Chúa khì đảm nhận thân phận hay chết của mình. Định mệnh này có một tính cách khiến lý trí chưng hửng ngạc nhiên. Có thể kinh nghiệm về nó và không hẳn là biết phát biểu ra nó. Chính cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu được nghe và được đi theo khi Người chỉ cho thấy mặc khải sau cùng về con người, mới cho phép phát biểu và tin vào định mệnh như thế.
Mặc dầu cuộc Phục sinh đã xảy ra và mặc dầu bức màn che đã hoàn toàn bị cất khỏi bản tính và con người. Chúa Giêsu khai mở nhân loại mới ấy, Kitô hữu vẫn không thể sống trong ảo tưởng: các thực tại bi thương của cuộc sống không bị tiêu trừ; chúng vẫn còn phần lớn trong một hoàn cảnh gần như hoàn cảnh các sứ đồ lúc cuộc Biến hình xảy ra. Cuộc Phục sinh đã chẳng hủy tiêu các giáo huấn đưa ra trước đó, song chỉ củng cố chúng mà thôi. Các là thánh sử làm tỏ rõ hơn hết các hoàn cảnh mà trong đó người ta tưởng đã hiểu và tuy vậy, vẫn chẳng bao giờ thôi thấy rằng người ta đã chưa hoàn toàn hiểu thấu. Ông trình bày Kitô hữu như những người đã khám phá trong Chúa Giêsu một con người duy nhất đã cho họ một kinh nghiệm quyết định nhưng chẳng chấm dứt bao giờ.
Đời sống môn đồ của Chúa Giêsu được trình bày như thỉnh thoảng có một nhịp mạnh. Núi là biểu tượng của nơi mà, nhờ phép rửa, đã xảy ra cho người ấy cuộc gặp gỡ với hữu thể vinh quang là Chúa Giêsu. Một khi trèo lên trên nó, người ấy đi vào trong một thế giới khác xem ra vừa kỳ diệu vừa lạ lùng, một thế giới biến đổi ý nghĩa đời họ. Nhưng tiếp đó họ phải trở về cuộc sống bình thường: phải tiếp tục trong cùng viễn tượng hấp dẫn của một sự sống vinh quang, nhưng không cùng trong một bầu khí, hoàn cảnh. Thành thử cuộc sống thường nhật này được đánh dấu bằng nhtĩng giai đoạn đưa kẻ ấy đến chỗ nghe con người Chúa Giêsu, những giai đoạn trở thành cho kẻ ấy những lúc "tách riêng" thật sự, vì chúng giúp họ đào sâu, một cách nội tâm hơn và thân tình hơn, lai lịch của Đấng là họ đang song hành với.
Hai yếu tố có tính cách quyết định đối với hiệu quả này. Một là sự rút lui thật sự khỏi cuộc sống thường ngày, dù có ý hay ngẫu nhiên. Bấy giờ là như thể một khung cảnh làm vỡ tung cái bình thường và chuẩn bị cho một cuộc bùng vỡ nội tâm. Đó chẳng phải là một sự rút lui kiểu ngoài giáo nhắm cắt đứt khỏi đời sống hoặc làm cho người ta trở về đó như về lại một cái gì không chịu nổi, nhưng là một kinh nghiệm thiêng liêng đích thực đưa người ta vào lại đời sống và giúp người ta trải qua cuộc sống bằng cách biến đổi cái thường nhật gần gũi. Hai là, trong đời riêng tư, phải kinh nghiệm sự đau khổ và ngay cả sự chết dưới bất cứ mọi hình thức, để đi vào sự hiểu biết mới mẻ ấy hơn.
Tuy nhiên, có một cám dỗ rình chờ Kitô hữu trên con đường ấy, đó là dừng lại ở một trong các giai đoạn, thôi bước và tuyệt đối hóa kinh nghiệm mình như thể nó đã có tính cách dứt khoát, phong thánh cho các viễn quan riêng mà, dầu có hảo ý, vẫn còn có tính cách nhân loại. Trên bất cứ điểm nào, Kitô hữu cũng phải là một con người đang hành trình chứ chẳng phải là một con người đã đến đích. Chỉ có con người Chúa Giêsu mà họ đi theo mới là tuyệt đối.
Sau cùng, bản văn kêu mời Kitô hữu phải hành động với cùng phương pháp sư phạm như Chúa Giêsu. Chẳng có gì lạ khi loài người chỉ khám phá được dần dần mầu nhiệm Người, khi đầu tiên họ lưu ý đến con người trong chính nó, rồi ngạc nhiên về cái ý thức mà Người cho thấy về một sự sống siêu nhiên đang ở trong Người mà Người gọi là Thiên Chúa. Cũng chẳng có gì lạ khi chờ đợi cho loài người đặt những câu hỏi trước lúc trả lời họ, khi một vài kẻ, để sẵn sàng hiểu hơn, đã kinh nghiệm trong cuộc đời họ thế nào là chết cho chính mình và kinh nghiệm được ước vọng vượt quá những giới hạn của họ.
Gilles Becquet, lecture d'evangiles,... année B. (p.186-200)
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Việc Chúa Kitô chịu đau khổ và chịu chết là một mầu nhiệm khó chấp nhận, "là cớ vấp phạm cho người Do thái, là sự điên rồ đối với dân ngoại" (Lc 1,23) Bởi đó Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế con trai duy nhất, dâng làm của lễ toàn thiêu cho Ngài. Việc đòi hỏi ấy thật là mâu thuẫn với lời Chúa hứa cho ông. Nhưng Abraham không thắc mắc, không phản đối mà hoàn toàn tin tưởng. Kết quả: ông được kể là công chính và Isaac con ông vẫn được sống, chứ chẳng bị sát tế (Bài đọc 1)
Sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với ta đã đòi hỏi Chúa làm một điều tương tự như Abraham là "không dung tha Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta" (Rm 8,32). Isaac không bị giết mà Abraham vẫn được kể là công chính (Gc 2,21), còn Chúa Kitô thì đã bị giết, đã chết thực sự, nhưng đã sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha và đã trở thành Đấng "công chính hóa" nhân loại (Bài đọc 2).
Chính là để cho các môn đồ thân tín giữ vững niềm tín thác khi thấy mình đau khổ và chết mà Chúa Kitô đã tỏ phần nào vinh quang của Người trên núi Taborê.
2. Chúa Giêsu đã đem ba môn đồ thân yêu lên núi Biến hình và cũng sẽ đem họ vào vườn Cây Dầu trong cơn hấp hối của Người. Mọi cảnh ngộ dầu là dịp Chúa gởi đến để kêu mời ta tiến sâu trong tình thân ái với Người. Hãy biết đọc các "dấu chỉ thời đại" dưới ánh sáng đức tin, trong tình yêu Chúa nồng nàn.
3. Các môn đồ không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của biến cố Biến hình. Trong đời sống thường nhật, đứng trước những khó khăn, gian truân, vui buồn, được an ủi hay bị bỏ rơi ta thật khó quán triệt ý nghĩa cuộc đời, khó khám phá ra Thiên Chúa tình yêu và công bình. Nhưng hãy kiên tâm, bền chí trong kinh nguyện, trong suy niệm lời Chúa. Trong đời hoạt động và ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim chúng ta.
4. Ngày nay biến cố Biến hình vẫn còn tiếp diễn trong thế giới: Chúa Kitô biến hình trong người nghèo đói, bệnh tật, tù đày bơ vơ không nhà cửa, trong các sứ giả Tin Mừng... "Ai tiếp đón các con là tiếp đón Ta, ai tiếp dón Ta là tiếp đón Đấng dã sai Ta". Mùa Chay giúp ta thay đổi cái nhìn, kiện toàn cách cư xử của ta với tha nhân.
76.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
Biến cố Biến hình của Đức Giêsu trên núi cao được Tin mừng Nhất lãm tường thuật lại và được đọc trong Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A,B,C. Chúa nhật II Mùa Chay, năm B, Giáo hội cho chúng ta đọc Tin mừng theo thánh Marcô. Với những gì Thánh Marcô ghi lại, chúng ta có thể rút ra một số điểm suy niệm sau đây:
Thứ nhất, biến cố biến hình giúp củng cố niềm tin nơi các Tông đồ: Thật vậy, biến cố biến hình xảy ra sau 6 ngày Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn của Ngài. Trong 6 ngày đó, các Tông đồ sống trong cảnh sầu buồn vì các ông nghĩ rằng Đức Giêsu chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn đồng nghĩa với việc thất bại và như thế thì bao nhiêu ước mơ, hoài bảo của họ sẽ tan thành mây khói, chắc chắn các ông không khỏi thất vọng về Thầy. Sầu buồn, thất vọng vì trong tâm trí các ông còn mang tư tưởng trần tục, hy vọng theo Thầy để được làm ông nọ bà kia khi Thầy công thành danh toại. Cũng vì mang tư tưởng lệch lạc như thế nên trước đó Phêrô đã can ngăn Thầy bước vào cuộc khổ nạn và bị Đức Giêsu quở trách một cách nặng nề. Về phần Đức Giêsu, cho dù bị các môn đệ phản đối, Đức Giêsu vẫn giữ lập trường của mình, vì đó là sứ mạng của Ngài được Chúa Cha trao phó. Vì thế, để thuyết phục các ông, hôm nay Ngài đưa ba môn đệ thân tín lên núi cao và biến hình trước mặt các ông. Qua biến cố này, Ngài muốn nói với các tông đồ rằng: phải qua đau khổ mới tới vinh quang, qua khổ nạn mới bước vào phục sinh vinh hiển.
Thứ hai, biến cố biến hình mời gọi các tông đồ và chúng ta “phải vâng nghe Lời Người”: Trong cuộc sống hằng ngày, vâng lời là một đức tính nhân bản. Chúng ta được dạy phải vâng lời người trên như ông bà, cha mẹ, anh chị, thầy cô…Trong đời sống đức tin, chúng ta được dạy phải vâng lời Thiên Chúa và những người thay mặt Ngài. Chúng ta cũng được mời gọi vâng lời Đức Giêsu. Bởi vì, Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu độ trần gian. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Cha đã dạy chúng ta phải vâng nghe lời Đức Giêsu rằng: “Này là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người.” (Mc 14,9). Lời của Đức Giêsu được thể trong toàn bộ cuốn Tin mừng. Vì thế, thực hành theo Tin mừng là chúng ta vâng nghe lời Đức Giêsu. Và đó cũng là cách chúng ta thể hiện lòng yên mến Đức Giêsu. Vì, chính Đức Giêsu đã dạy: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…”(x. Ga 14,21). Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua Giáo huấn chính thức của Hội Thánh, qua Đức Giáo Hoàng, các Đức Giám Mục. Lời của Đức Giêsu được thể hiện qua những lời dạy bảo chính thức của các vị Bề trên, qua ông bà, cha mẹ, anh chị... Vậy chúng ta hãy biết vâng nghe Lời Người. Bài đọc I cho chúng ta tấm gương vâng lời của tổ phụ Abraham. Khi Thiên Chúa đòi ông sát tế Isaac, đứa con duy nhất của mình, để dâng kính Ngài. Mặc dầu, đây là một đòi hỏi phi lý theo cái nhìn của con người và rất mâu thuẫn với lời hứa của Thiên Chúa với ông, nhưng Abraham không hề thắc mắc hay phản đối, trái lại ông hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Điều đó, cho chúng ta thấy ông luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và vâng lời Người. Kết quả cho thấy: Isaac được cứu sống và ông Abraham được gọi là kẻ công chính. Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ cũng đã sống chết vì Lời của Đức Giêsu. Ước mong rằng, mỗi chúng ta cũng cần có tinh thần vâng phục như tổ phụ Abraham và như các Tông đồ xưa.
Thứ ba, biến cố biến hình đem lại niềm vui cho các Tông đồ: Sau khi chứng kiến cuộc biến hình của Đức Giêsu, ba môn đệ cảm thấy hạnh phúc. Bởi vì, biến cố biến hình diễn tả trong chốc lát hạnh phúc Thiên đàng. Vì thế, các môn đệ muốn được ở mãi với Ngài trên núi để tận hưởng hạnh phúc đó. Thánh Phêrô nói với Đức Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia.”(Mc 9,5). Nhưng Đức Giêsu mời gọi các ông phải xuống núi, nghĩa là phải chu toàn nhiệm vụ được giao phó, phải trải qua đau khổ mới có thể được hưởng hạnh phúc trọn vẹn trên Thiên đàng. Ước mong của các tông đồ cũng là ước mong của mỗi người chúng ta hôm nay. Vì thế, trong đời sống đức tin, mỗi người chúng ta phải cố gắng để được ở với Chúa. Được ở với Chúa khi chúng ta sống trong ơn nghĩa với Ngài. Được ở với Chúa khi chúng ta cầu nguyện sốt sắng. Được ở với Chúa khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Được ở với Chúa khi chúng ta đọc và suy gẫm Lời Chúa. Nếu chúng ta cảm nghiệm được niềm vui trong những lúc như thế tức là chúng ta đang nếm trước hạnh phúc Thiên đàng, giống như ba môn đệ cảm nghiệm hạnh phúc trên núi Tabor. Nhưng để được hưởng hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu trên Thiên đàng chúng ta cũng cần phải xuống núi, tức là phải chu toàn bổn phận của mình, phải trải qua đau khổ thì mới tới vinh quang.
Thứ tư, biến cố biến hình nhắc nhở mọi người chúng ta phải biến hình mỗi ngày: Lâu nay, các môn đệ chỉ thấy Đức Giêsu với con người bình thường như những người khác. Nhưng qua cuộc biến hình, các Tông đồ đã thấy dung nhan Thiên Chúa của Đức Giêsu. Ngài không chỉ là con người bình thường nhưng Ngài chính là Thiên Chúa. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta không còn là người “bình thường” nữa mà chúng ta được gọi là kitô hữu, trở nên con cái Thiên Chúa. Kitô hữu tức là có Chúa trong mình. Chúng ta có Chúa trong mình, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nên phải sống như Chúa đã sống. Để qua cuộc sống của chúng ta, mọi người sẽ nhìn thấy Chúa. Chúng ta phải nói được như Thánh Phaolô rằng: “Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20). Nếu lúc nào đó bản chất kitô hữu trong chúng ta bị biến dạng, hãy mạnh dạn biến đổi mình bằng sự sám hối và lãnh nhận bí tích Giao hòa để tiếp tục trở thành người kitô hữu đích thực.
Lạy Chúa Giêsu, xin củng cố đức tin cho chúng con như xưa Chúa đã củng cố đức tin cho các tông đồ để chúng con biết chấp nhận đau khổ trong cuộc sống, nhất là luôn biến đổi bản thân nên giống Đức Giêsu mỗi ngày. Amen.
77.Đức tin và đau khổ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
Giáo Lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “Tin trước hết là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời cũng là tự nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mặc khải: Nhờ bao gồm cả hai điều trên, đức tin Kitô giáo khác với việc tin tưởng một người phàm. Thật là chính đáng và phải đạo khi phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa và tin tuyệt đối điều Người dạy” (số 150). Như vậy, đức tin không phải là một mớ giáo lý mà ta đã học, cũng không phải là một sự chinh phục, mà là một ân ban nhưng không của Thiên Chúa. Nhờ ân ban ấy, con người có được một lối sống tin tưởng, phó thác và chủ động theo Chúa. Lối sống đó là soi mình dưới bóng Chúa, đặt hành vi luân thường đạo lý dưới Lời Chúa qua từng biến cố của cuộc đời. Nghĩa là biết đáp ứng bằng đức tin trong mọi tình huống bằng hành động cụ thể. Tóm lại, Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang.
Bài đọc 1, Sách Sáng Thế kể rằng khi gần trăm tuổi, ông Abraham được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau khổ, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Rõ ràng đức tin của ông Abraham mạnh mẻ đến nỗi giúp ông sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn là đẹp lòng Chúa.
Đến bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài đó là đón lấy đau khổ, chiến đấu với đau sổ. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Chúa Giêsu nói “ngày nào cũng có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34). Như vậy, đau khổ tự nó không phải là xấu, và tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ: biết chấp nhận và sống với đau khổ. Vì thế, khi gặp đau khổ tinh thân thần cũng như thân xác, đừng tuyệt vọng, đừng than thân trách phận, cũng đừng để mất đức tin! Nhưng, trước hết phải sống Lời Chúa hằng ngày, nghĩa là xin vâng và thi hành Lời Chúa ở bất cứ hoàn cảnh nào hay dù đau khổ mấy đi chăng nữa. Anh chị em có công nhận với tôi rằng bệnh hoạn không phải là do Chúa phạt, càng không phải là do tội mình hay ông bà cha mẹ anh chị em mình gây ra nhưng mình bệnh hoạn như thể là một trật thông phần vào đau khổ của Chúa Giêsu một trật để quyền năng Chúa được tỏ hiện nơi ta. Qủa thế, Phúc Âm kể: “Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? " Đức Giê-su trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 1-7).
Cho nên, ngay lúc này, Lời Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng đau khổ bên cạnh đó giúp chúng ta kiên trì giữ vững đức tin để rồi đến một lúc nào đó chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy những điều kỳ diệu và những điều lớn lao mà chúng ta không tưởng tượng được! Đúng như Lời Chúa trong thư Do thái quả quyết “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1). Vì vậy, sống Lời Ngài từng giây trong đời giúp đức tin kiên cường hơn và bền đỗ hơn đồng thời phát huy tính hiệu quả của lòng tin. Cho nên, Thánh Giacôbê xác tín: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách, không thiếu sót điều gì” (Gc 1,2-4).
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy dâng những khó khăn, đau khổ lên cho Chúa trong các giờ kinh lễ của chúng ta hằng ngày. Vì khi cầu nguyện chúng ta chuyển những khó khăn đau khổ ấy cho Chúa. Lập tức ta có được sự trợ giúp của Chúa, có thêm những sức mạnh siêu nhiên giúp chúng ta chịu đựng đớn đau. Cầu nguyện với Chúa trong đau khổ sẽ tạo ra một sức mạnh làm thêm ơn thánh, giúp ta tin rằng khi biết chịu đựng đau khổ vì danh Thiên Chúa, nhất định Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi ơn lành. Vì Lời Chúa xác quyết: “Đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, hãy đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Chúa. Và… Chúa sẽ ban cho bình an vượt lên trên hết mọi hiểu biết. Và bình an ấy sẽ điều khiển cách suy nghĩ và cảm nhận của bạn” (Pl 4,6-7). Vì vậy, dù bất cứ nguyên nhân hay bất cứ điều gì xảy ra, chúng ta phải kiên trì và kiêm tốn cầu nguyện, chắc chắn Chúa làm mọi điều tốt đẹp cho cho chúng ta (Rm 8,28). Amen.
78.Abraham
Trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, có một khuôn mặt nổi bật, đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là khuôn mặt của Abraham.
Thực vậy, vâng lệnh Thiên Chúa, ông dẫn con lên núi để sát tế dâng kính Ngài. Ông chấp nhận hy sinh cả cái viễn tượng tương lai của lời hứa, không chút thắc mắc trước đòi hỏi xem ra tự mâu thuẫn với chính mình của Thiên Chúa, Đấng đã hứa cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển, nhưng lại đòi ông phải hy sinh người con duy nhất, giữa lúc ông và bạn ông đã già cả không còn hy vọng sinh nở được nữa. Abraham đã biểu lộ một niềm tin yêu tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
Quả thực, cử chỉ của Abraham chỉ có thể hiểu nổi khi chúng ta thấy được rằng nơi Abraham còn có một sự lựa chọn quan trọng hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy điều đòi hỏi nơi Abraham mới chỉ là một thử thách của Thiên Chúa đối với ông là người được Thiên Chúa yêu thương. Cử chỉ của Abraham mới chỉ là một hình ảnh để chuẩn bị đón nhận điều Thiên Chúa thực hiện nơi chính mình Ngài. Điều Abraham đã chỉ thực hiện trong ý chí, nghĩa là chấp nhận thực hiện, nhưng trong thực tế đã không thực hiện vì không cần thiết nơi Thiên Chúa, lại đã trở thành thực tế. Đức Kitô người sẽ bị đau khổ và chết trên thập giá, chính là người con yêu dấu của Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa là một người Cha đã yêu thương con người đến độ không dung tha chính con mình, nhưng lại phó thác con mình vì tất cả chúng ta. Đức Kitô đã thực hiện tất cả những gì mà Abraham và Isaac ngày xưa đã tượng trưng.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Nhìn vào đời sống đức tin, chúng ta thấy không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy sốt sắng, không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy được ủi an, không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy Chúa thật gần gũi, trái lại nhiều khi đức tin của chúng ta cũng đã bị thử thách. Vì trung thành với lệnh truyền của Thiên Chúa mà Abraham đã xứng đáng trở thành cha của những người có đức tin. Vì vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp nhận cái chết trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta nguồn suối ơn cứu độ. Với chúng ta cũng thế. Giữa những gian nguy thử thách gặp phải, noi gương bắt chước Abraham, chúng ta hãy vững tin nơi tình thương của Chúa. Đồng thời noi gương bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta dám chấp nhận những hy sinh gian khổ vì đức tin. Bây giờ không còn phải là thời dám can đảm chịu chết vì đạo, mà là thời dám can đảm sống đạo, sống niềm tin của mình. Chính nhờ những hy sinh trong cuộc sống thường ngày, mà đức tin của chúng ta sẽ trở nên kiên vững, và hơn thế nữa, chúng ta sẽ góp được cái phần nhỏ bé của chúng ta vào thập giá Đức Kitô, để nhờ đó mà chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn Chúa cứu độ.
79.Vinh quang
Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều đặt biến cố Chúa Giêsu biến hình vào giữa hai lần loan báo trước về cuộc khổ nạn. Điều này rất quan trọng, bởi vì nó cho chúng ta hiểu rằng: Cuộc biến hình này có liên quan trực tiếp tới biến cố vượt qua và như vậy có nghĩa là vinh quang mà ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến trên đỉnh Taborê hôm nay, báo trước vinh quang phục sinh của Ngài mai sau.
Tuy nhiên, cuộc biến hình này, mới chỉ là sự thay đổi hình dạng bên ngoài, đặc biệt là sự thay đổi màu áo, mà theo thánh Macrô, trở nên trắng tinh, không có thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Còn trong mầu nhiệm phục sinh, Đức Kitô không phải chỉ thay hình đổi dạng, mà Ngài hoàn toàn đổi mới. Thân xác phục sinh của Ngài là thân xác “có thần khí”. Bởi đó mà Ngài có thể đi qua mọi cửa nhà đóng kín, hay có thể bất thần xuất hiện trên đường Emmau, rồi ngay sau đó lại xuất hiện tại Giêrusalem. Chính với thần khí đó, mà hôm nay Đức Kitô hiện diện trong Giáo Hội, trong thế giới và trong tâm hồn mỗi người tín hữu của Ngài.
Nhưng điều đáng cho chúng ta suy niệm, đó là không một sự biến hình nào mà lại không đòi hỏi một sự trả giá. Trong Tin Mừng theo thánh Luca, Ngài đã hai lần nhắc đến quy luật này: Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Ngài. Ở đây, với sự kiện biến hình, Ngài cũng nói với các môn đệ: Có lời chép về Con Người rằng Ngài phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê. Vậy thì đã rõ, mục đích của cuộc biến hình này chính là giáo dục đức tin cho các môn đệ. Cũng như Chúa đã báo trước cho các ông biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết, thì bây giờ Ngài cũng cho các ông thấy trước vinh quang phục sinh của Ngài.
Thật vậy, khác với sự mong đợi của nhiều người và của chính các môn đệ, là Đức Kitô sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, nối nghiệp vương đế của nhà Đavít, Ngài khẳng định rằng Nước của Ngài không thuộc về thế gian này và Ngài đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Cái chết của Ngài là một sự dâng hiến, chứ không phải là một thất bại, đó là một sự hy sinh tự nguyện, để rồi chính Ngài có quyền phục hồi lại được. Đó là lý do tại sao Ngài đã ba lần báo trước về cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài.
Từ đó chúng ta đi đến kết luật đó là đừng bao giờ chờ đợi một cuộc chiến thắng mà không phải trả giá, chờ đợi một sự thành công mà không đòi đổ mồ hôi, nước mắt và gian khổ. Nhưng trái lại, cũng đừng bao giờ bi quan thất vọng mỗi khi gặp phải gian nan thử thách. Chúa mời gọi chúng ta hãy vác thánh giá mình mà đi theo Ngài, nhưng không phải với bộ mặt đưa đám hay với những rên xiết thở than, nhưng với bộ mặt cương quyết rắn rỏi, với thái độ hiên ngang vì tin tưởng vào lời Ngài đã nói: Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian.
80.Đau khổ.
Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn là một điều khó chấp nhận, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi đối với dân ngoại. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất, đó là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, để làm của lễ toàn thiêu dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật là mâu thuẫn với lời Chúa đã phán hứa với ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc, đã không phản đối, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh truyền của Chúa và kết quả: Ông được gọi là kẻ công chính, còn Isaac con ông thì được cứu sống, chứ chẳng bị sát tế.
Hình ảnh của Abraham là biểu tượng cho tình thương của Chúa đối với chúng ta. Thực vậy sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với chúng ta đã đòi Chúa làm một việc tương tự như Abraham, đó là không dung tha con mình, nhưng phó thác con mình cho tất cả chúng ta. Ngày xưa, Isaac không bị giết, mà Abraham vẫn được kể là kẻ công chính. Còn bây giờ, Đức Kitô đã bị giết. Ngài đã chết thực sự, nhưng sau đó Ngài sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại và đã trở thành Đấng công chính hoá loài người.
Tiếp đến là cuộc chuẩn bị gần, như chúng ta thấy qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chính vì muốn để cho các môn đệ thân yêu giữ vững niềm tin khi thấy mình bị đau khổ và chịu chết một cách nhục nhã trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã tỏ lộ phần nào vinh quang của Ngài trên đỉnh Tabor. Nếu lưu ý một chút, chúng ta sẽ thấy ba môn đệ được Chúa đưa lên đỉnh Tabor hôm nay cũng chính là những môn đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn cây dầu trong cơn hấp hối. Qua đó chúng ta thấy, mọi biến cố, dù vui hay buồn, cũng đều là những dịp Chúa gửi đến để kêu mời chúng ta tiến sâu trong tình thân với Ngài.
Do đó, hãy biết đọc các dấu chỉ thời đại, hãy biết nhìn những sự kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin và trong yêu mến Chúa nồng nàn. Các môn đệ lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của việc Chúa biến hình. Trong đời sống thường ngày cũng vậy, đứng trước những khó khăn hay dễ dàng, gian khổ hay vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi, chúng ta khó mà thấu hiểu được ý nghĩa của nó, khó mà khám phá ra được tình thương và sự công bình của Chúa. Thế nhưng, chúng ta hãy kiên tâm bền chí, trong kinh nguyện và trong suy niệm Lời Chúa, trong đời sống và trong hành động, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim của chúng ta. Hãy biết tìm ra thánh ý Chúa được gởi gắm qua những sự kiện hằng ngày, nhất là nơi những đau thương, gian khổ và thập giá vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
81.Chúa Nhật 2 Mùa Chay
Thưa Quý ông bà anh chị em! Năm nào cũng vậy, cứ đúng vào ngày Chúa nhật thứ hai Mùa chay, là Giáo hội cho chúng ta đọc lại câu chuyện Đức Giêsu biến hình trên núi Ta-bor. Sự kiện này xảy ra sau khi Đức Giêsu tiết lộ cho các môn đệ của mình biết về chương trình mà Đấng Kitô con Thiên Chúa, sẽ phải thực hiện để mang lại ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Sự kiện ấy được Thánh Marcô thuật lại như thế này: Cũng như mọi khi, Đức Giêsu vẫn thường lên núi cầu nguyện. Thế nhưng lần này, Người đem theo ba đồ đệ thân tín nhất của mình, đó là Phêrô, Gioan và Giacôbê. Đang khi cầu nguyện thì dung mạo của Người biến đổi khác thường: Khuôn mặt sáng chói như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết, trắng đến độ mà không có một thợ giặt nào trên trần gian này có thể làm được như thế. Đồng thời, bên cạnh Người còn có hai nhân vật nổi tiếng thời Cựu ước là Môisen và Elia. Hai vị này cũng sáng láng vinh hiển giống như vậy. Phêrô và hai môn đệ kia nhìn thấy cảnh tượng này thì lấy làm vui mừng sung sướng: "Lạy Thầy! Nếu chúng con được ở mãi tại nơi này thì tốt quá". Thế nhưng Đức Giêsu đã bác bỏ lời đề nghị ấy; Bởi vì Người còn phải trở xuống núi để hoàn tất con đường mà Người đã khởi sự từ lúc nhập thể đi vào cuộc đời này.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu muốn thực hiện cuộc hiển dung có thể nói là đầy ngoạn mục như thế trước mặt các môn đệ của mình? Đọc lại những đoạn Phúc âm trước đó, chúng ta sẽ nhìn thấy dược hai lý do này. Trước hết là không chỉ riêng gì mười hai môn đệ, mà hầu hết những người Do thái lúc bấy giờ, đều không nhận ra, hay đúng hơn là không muốn nhận ra Đức Giêsu là Con thiên Chúa, là Thiên Chúa thật; Mặc dù họ đã nghe không biết là bao nhiêu những điều hay lẽ phải, đã chứng kiến rất nhiều những phép lạ mà Người đã làm. Chính vì thế mà hôm nay đây, qua sự kiện này, Chúa muốn cho họ, ít ra là những môn đệ của mình, nhìn thấy được sự thật về Người. Người chính là Thiên Chúa thật, đang muốn đưa tay cứu vớt mọi người, chứ không phải là Elia, Giêrêmia hay bất kỳ một vị tiên tri nào khác.
Lý do thứ hai là qua sự kiện này, chúa muốn củng cố niềm tin cho các đồ đệ của mình. Theo Chúa bấy lâu nay, dường như các ông muốn mình đạt được một cái gì đó để làm rạng rỡ gia đình dòng họ. Chính vì thế mà liền sau khi Đức Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn mà Người sắp phải chịu, thì Phêrô như thể là thay mặt cho anh em nhóm mười hai của mình, ngăn cản Chúa Giêsu. Các ông hoàn toàn không muốn Thầy của mình phải bước vào con đường đó; Bởi vì đó là con đường của đau khổ, con đường của thất bại. Và nếu như Chúa Giêsu thất bại, thì cũng có nghĩa là những ước mơ, những hy vọng của họ bị tiêu tan. Hiểu được tâm trạng đó, Chúa Giêsu mang họ lên núi, tỏ cho họ thấy một chút vinh quang để cho họ hiểu được rằng: Muốn đạt tới vinh quang, thì phải đi trên con đường thập giá. Muốn có được hạnh phúc, thì phải bước qua con đường của sự đau khổ. Không muốn bước trên con đường thập giá, ngại ngùng đi trên đường đau khổ, thì Chúa Giêsu đã nói trước: "không thể làm môn đệ Ta được".
Thưa anh chị em! Sống trong kiếp làm người, ai ai cũng đã từng có những niềm vui, có những hạnh phúc bất ngờ; Nhưng rồi cũng không thiếu vắng những nỗi buồn đau xót, những gian nan khổ cực, những điều mà mình phải đón nhận bằng cay đắng xót xa, bằng tủi buồn nhục nhã. Nói khác đi là đau khổ gắn liền với thân phận của con người, nên người ta mới có câu: "Hữu sinh hữu khổ" là như thế. Chúa Giêsu đến trần gian này không phải là để cất đi những đau khổ đó. Và cũng vậy, việc chúng ta sống làm con cái Chúa, cũng chẳng phải là để miễn chuẩn cho mình thoát khỏi những vất vã nhọc nhằn trong cuộc sống hiện tại. Nếu như năm xưa, Chúa đã khích lệ Phêrô và các môn đệ của mình, hãy mạnh dạn bước trên con thập giá để trở thành nhân chứng phúc âm cho Người, thì hôm nay, Người cũng mở ra cho chúng ta một niềm tin vững mạnh, một niềm hy vọng sâu sắc khi chúng ta phải đối diện với những nghịch cảnh, với những gian nan trắc trở trong cuộc sống đời thường. Nghĩa là chúng ta cũng sẽ được vinh hiển sáng láng giống như Chúa khi mình sẵn sàng vác lấy thập giá của cuộc đời mình mà trung thành bước theo Chúa trong đời sống đạo hàng ngày.
Tất cả chúng ta đều biết rằng: Đau khổ tự nó là một điều xấu và không có giá trị gì cả. Tuy nhiên, điều làm cho những đau khổ trở thành ích lợi cho mình chính là cách thức mà chúng ta xử lý nó. Chúng ta chối bỏ trốn tránh nó, nó sẽ trở nên chua chát nặng nề hơn. Còn ngược lại, chúng ta đối diện với nó như thể nó là một phận của đời sống mình, thì nó sẽ trở nên nhẹ nhàng và làm cho mình khiêm tốn và khôn ngoan hơn. Ước mong rằng: Mỗi Thánh lễ mà chúng ta tham dự, đều thật sự là một cuộc lên núi với Chúa, để nhờ đó mà chúng ta có đủ sức mạnh sống trọn vẹn cuộc đời Kitô hữu của mình. Chúng ta nên nhớ rằng: Mỗi người một thập giá và mỗi ngày một thập giá, nhưng không có một thập giá nào nặng hơn đôi vai của chúng ta; Đó là điều mà Chúa đã trả lời với Phaolô khi ngài than vãn về những khốn khó trong cuộc đời của mình: "Ơn Ta đủ cho con". Và thưa anh chị em! Sẵn lòng đón nhận những đắng cay khổ nhọc trong cuộc đời như là một thập giá riêng của mình, đó chính là một trong những phương cách hữu hiệu để chúng ta sống tinh thần của Mùa chay thánh này.
82.Thập Giá, Vinh Quang
1. Biến cố hiển dung trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, hé mở trước vinh quang thật của Chúa, về phương diện nào đó thiết nghĩ để củng cố niềm tin cho các Tông đồ. Bởi 6 ngày trước đây, theo Phúc Âm Mátthêu và Máccô (còn Lc thì 8 ngày), ĐG báo cho các ông biết rằng Người sắp dẫn các ông lên Giêrusalem, ở đó Người sẽ bị đánh đập và bị giết chết, và những ai muốn làm môn đệ Chúa thì cũng phải vác thập giá mình mà theo Chúa, điều này đang làm cho các ông hoang mang, lo sợ. Chính Phêrô ngăn cản Chúa đừng đi vào con đường đau khổ này.
2. Đang lúc các ông trong tâm trạng bất ổn đó, ĐG dẫn các ông lên núi cao, chính nơi đây trước mặt hai nhân vật nổi danh của Cựu Ước: Môisen và Êlia đại diện cho Lề Luật và các tiên tri. Việc này như báo rằng thời Cựu Ước đã hết, thời Đức Giêsu, thời Tân Ước bắt đầu. Chính Chúa Cha xác nhận ĐG là con yêu dấu, và bảo hãy vâng nghe lời Ngài. Trước cảnh vinh quang của Đức Giêsu, Phêrô và các Tông đồ xin được kéo dài điều ấy: Vì vậy, các ông xin làm ba lều (1 cho Chúa, 1 cho Môisen, và 1 cho Elia). Điều này có ý nghĩa gì? Thưa các ông muốn khai mạc thánh đô ngay tại đây, các ông muốn lưu lại trong lễ hội vinh quang, các ông không muốn xuống núi. Nhưng cảnh ấy chỉ được Chúa cho diễn ra cách ngắn ngủi. ĐG và các Tông đồ lại xuống núi, lại tiếp tục công việc vất vả loan truyền Nước Chúa.
3. Phải chăng, chúng ta hôm nay cũng như các Tông đồ xưa, bước theo Chúa để chỉ muốn được những điều thuận lợi, mà khước từ những khó khăn, những hy sinh? Ước vọng của các Tông đồ, hay ước vọng của chúng ta bước theo Chúa để tìm được hạnh phúc thật, đó là điều đúng, chính đáng. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, Đức Kitô đã phải trải qua khổ nạn mới được phục sinh, mới được suy tôn trong vinh quang sao? Người Kitô hữu cũng được mời gọi đi theo con đường ấy, chính ĐG nói: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mc 9,34).
Khi nói tới vác thập giá của mình, ta thường nghĩ: Thầy Giêsu có những đau khổ, và mỗi người ai cũng có cái khổ riêng. Điều đó không sai, nhưng chúng ta nên hiểu đúng hơn, đó là khi bước theo Chúa thì phải chấp nhận những cái khó khăn do việc theo Chúa mang lại: như phải tuân giữ những điều Ngài dạy, nghĩa là chấp nhận những hy sinh, vất vã của việc giữ đạo, sống đạo, từ bỏ con người cũ... Đôi khi còn phải hy sinh cả mạng sống (như thời kỳ cấm cách). Đây là con đường hẹp, con đường thập giá, nhưng là con đường dẫn đến hạnh phúc thật.
4. Muốn đạt tới vinh quang, hẳn phải trải qua con đường thập giá đó cũng là điều dễ hiểu thôi. Chẳng hạn như các bạn trẻ muốn có một nghề nghiệp, một bằng cấp đại học, các bạn cũng biết rằng phải đầu tư, phải hy sinh cho việc học hành như thế nào? Các bậc gia trưởng, hiền mẫu nhìn lại xem, để có một cơ ngơi, một mái ấm gia đình như hôm nay hẳn quý ông bà phải hy sinh, vất vả để xây dựng như thế nào? v.v. Cũng vậy, để được phúc trường sinh, mọi người chúng ta cũng phải hy sinh, cũng phải chịu cực khổ để bước theo Chúa, nghĩa là phải sống đạo, chứ không phải khi lãnh nhận BT Rửa tội là đương nhiên sẽ được phúc Thiên Đàng.
5. Có thể nói thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, ở đâu có Kitô hữu, ở đó có thập giá: trên nóc nhà thờ, trên cổng nhà, trên người, trên mộ, nhưng thập giá được trưng bày như thế không bao giờ quan trọng cho bằng thập giá trong cuộc sống hằng ngày: thập giá khi nỗ lực chu toàn bổn phận, khi quên mình đi để quan tâm tới người khác, khi nói tiếng "không" với những gì đi ngược lại với những giá trị Phúc Âm. Thập giá không là điểm kết của Đức Giêsu, mà qua thập giá Ngài mới đạt đến Phục Sinh vinh hiển. Vì thế những hy sinh, những cố gắng của chúng ta hôm nay làm vì danh Đức Giêsu, là thập giá, là chìa khoá để mở cửa vào Thiên Quốc ngày sau với Ngài.
6. Bầu khí mùa chay rất thuận lợi cho việc chúng ta bước vào con đường thập giá của ĐKT. Thế nhưng hơn 10 ngày của mùa chay năm nay đã qua, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại để xem mình đã bước theo Chúa được đến đâu? Mình giống Chúa được đến đâu? Chúng ta cũng nhớ rằng, chúng ta không chỉ bước theo Chúa trong mùa chay, mà còn bước theo Chúa trong suốt cuộc đời nữa.
7. Vinh quang mà Phêrô, Giacôbê và Gioan được cảm nếm trong khi Chúa biến hình, vinh quang của Đức Kitô Phục sinh cũng sẽ là vinh quang của chúng ta mai ngày, nếu chúng ta trung thành bước theo Chúa, và chấp nhận những khó khăn do việc bước theo Chúa mang lại. Nhưng liệu vinh quang ấy có đủ sức hấp dẫn để giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi cạm bẫy trong cuộc đời để đi trọn con đường mà Chúa mời gọi chúng ta đi vào hay không?
83.Y phục Người trở nên rực rỡ
Sau khi tiên báo mình phải đi vào cuộc thương khó, phải chịu nạn chịu chết, Chúa Giêsu nhận thấy các môn đệ của Ngài băn khoăn không hiểu "tại sao Thầy mình lại phải như thế?" Để an ủi các môn đệ, Chúa Giêsu dẫn các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi và Ngài tỏ cho các ông thấy vinh quang của Ngài để củng cố niềm tin cho các ông. Ở đó Chúa Giêsu biến đổi hình dạng, y phục Người trở nên rực rỡ trắng tinh, làm cho các môn đệ phải một phen kinh hoàng vì sự lạ lùng đang diễn ra trước mắt. Nhưng sự lạ lùng này không làm cho các ông kinh hãi, sợ sệt; ngược lại làm cho các ông thích thú vô cùng và muốn được ở như thế mãi mãi nên thốt lên "Thưa Thầy chúng con ở đây thì thật là hay". Hơn thế nữa, các ông còn muốn định cư luôn ở đó để được chiêm ngắm Chúa mãi, không hề muốn rời xa tình trạng ấy, nên xin dựng ba lều một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Êlia.
Chúa Giêsu biến hình để trở về tình trạng Thiên Chúa của Người. Hình dạng đó làm cho các môn đệ không muốn lìa xa nữa, các ông không còn bận tâm điều gì nữa, chỉ muốn chiêm ngưỡng mãi mãi hình ảnh mà các ông đã thấy nơi Thầy của mình. Chúng ta có thế nói rằng các môn đệ này đã được "lên thiên đàng" khi các ông còn đang sống. Các ông hết sức sung sướng chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa, không muốn xa rời nữa. Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng không còn tha thiết với môt điều gì khác ngoài Chúa. Giờ đây mọi sự trong thế không còn ý nghĩa gì nữa đối với các ông.
Mỗi ngày các môn đệ đều ở với Chúa Giêsu, cùng ăn với Chúa Giêsu, cùng nghe Chúa Giêsu giảng dạy, cùng hoạt động với Chúa Giêsu, có lẻ những bận rộn ấy đã che mắt các ông làm cho các ông không thể nào nhận ra vinh quang của Chúa Giêsu. Hôm nay Chúa Giêsu tách các ông ra khỏi những bận rộn và lo toan của cuộc sống đời thường để tỏ cho các ông thấy vinh quang vốn có của Ngài. Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng. Đó là một thứ hạnh phúc lấp đầy mọi khao khát của con người. Đây cũng là dịp để chúng ta hiểu thêm về hạnh phúc thiên đàng mai sau. Ở đó chúng ta sẽ được hạnh phúc tràn đầy và không còn ước ao một điều gì khác nữa.
Trong cuộc sống thường ngày chúng ta có quá nhiều công việc phải lo, phải nghĩ, nào là cơm áo, gạo tiền, nào là danh vọng quyền thế, nào là những thú vui phù phiếm nhưng không kém phần hấp dẫn, nào là những thói hư tật xấu: bài bạc, rượu bia, quậy hoạn, du côn du đảng, phá làng phá xóm, nào là thói quen nói hành nói xấu người khác, # kiến chúng ta không còn nhớ tới Chúa, không còn giờ để gặp Chúa, không còn nhận ra tiếng nói của Chúa trong lương tâm mình nữa.
Mùa Chay là thời gian thích hợp để chúng ta quay về với Chúa, từ bỏ con người cũ tỗi lỗi xấu xa, để mặc lấy con người mới theo khuôn mẫu Chúa Kitô. Hãy gặp gỡ Chúa nhiều hơn qua các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể và Giải tội, hãy dành thời gian để Chầu Thánh Thể nhiều hơn, cũng như gia tăng các việc lành phúc đức.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận thấy rỏ thực trạng con người của mình hơn để dấn thân theo Chúa hơn. Gặp gỡ Chúa nhiều hơn sẽ kiến lương tâm chúng ta nhạy bén hơn với tiếng nói của Chúa trong tâm hồn chúng ta. Nhờ đó mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa hơn, để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Người.
84.Đức Giêsu biến hình vinh quang
Câu chuyện được viết sau khi Đức Giêsu Phục sinh vinh quang, đã đuợc tin vững vàng, đã được rao giảng rộng rãi và cũng để củng cố đức tin của các tín hữu.
Để hé mở cho biết từ từ về chính mình Đức Giêsu bắt đầu bằng câu hỏi: người ta nói Thầy là ai? Phêrô đã đáp đúng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng mọi người chưa hiểu đúng mặc dù Người đã giải thích bằng "loan báo sự thương khó". Đấng Kitô phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết, ngày thứ ba mới sống lại vinh quang, Nhưng người ta sợ sự thương khó nên sự sống lại vinh quang bị che khuất mắt họ. Đức Giêsu cho ba môn đệ thân tín nhất thấy trước trong chốc lát sự sống lại vinh quang mong các ông hiểu mà tin và giúp người khác tin: Người biến hình vinh quang.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Sáu ngày sau: không phải ngày thứ sáu mà là ngày trước ngày sa bát, là ngày cuối, ngày sống lại.
- Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan di theo mình: Ba môn đệ thân tín nhất, sẽ có mặt trong giờ Đức Giêsu hấp hối. Thân tín, đi theo là điều kiện khởi đầu để thấy sự biến hình vinh quang.
- Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi: Điều kiện tiếp theo là "đi riêng ra một chổ, chỉ mình các ông thôi" với Đức Giêsu. Không còn với ai hết, tách riêng ra khỏi những người khác chưa đủ điều kiện để được thấy.
- Tới một ngọn núi cao: Núi nào? Chỉ một nơi riêng biệt dành cho những việc quan trọng nhất. Trong văn chương Do thái những điều trọng đại thì được xảy ra trên núi. Núi: quan trọng bậc nhất.
- Rồi Người biến hình trước mắt các ông: Thiên tính tiềm ẩn trong Đức Giêsu hiển lộ ra.
- Y phục người trở nên rực rỡ trắng tinh, không thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy: Chưa có ngôn ngử để diển tả đúng thực tế siêu nghiệm nầy, đành phải dùng những từ ngữ có sẳn dù không cân xứng. Con người được nhìn thấy qua y phục.
- Ông Êlia và ông Môsê hiện đến đàm đạo với người: Êlia trước Môsê vì đi ngược từ Đức Giêsu. Lịch sử được tính từ Đức Giêsu vế trước cũng như về sau. Êlia là các tiên tri, Môsê là lề luật. Cả hai là Cựu Ước. Bàn giao Cựu Ước cho Đức Giêsu để Người lập ra Tân Ước.
- Thưa Thầy được ở đây thì tốt lắm: ở đây là hiện tại vinh quang mà các ông thấy. Là cách diễn tả đơn sơ nhất về visio beatifica (phúc kiến) hạnh phúc thiên đàng cũng là chính xác nhất. Ở đây tốt lắm: không thể tốt hơn nữa nên cũng không muốn đi đâu nữa. Hoàn toàn thoả mãn rồi.
- Chúng con xin làm ba lều: Trong cuộc Xuất Ai Cập Hòm bia Thiên Chúa tượng trưng cho sự hiện diện của vinh quang Thiên Chúa ở trong lều.
- Bỗng có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây và tiếng phán từ trong đám mây là văn chương do thái tả sự hiện diện của Thiên Chúa. Đáp lại lời của Phêrô: Thiên Chúa không ở trong lều mà ở trong đám mây: Thiên Chúa ở trên trời. Không cần làm lều.
- Và từ đám mây có tiếng phán: Thiên Chúa ở trên trời, hiện diện trong đám mây. Có tiếng phán mới nhận ra có Thiên Chúa.
- Đây là Con Ta yêu dấu: Đức Giêsu của phép rửa đã biến hình vinh quang. Lời tuyên bố "Con Thiên Chúa" được hiện thực. Con Thiên Chúa đồng bản tính thì cũng có vinh quang như Thiên Chúa. Con yêu dấu "đẹp ý Cha hoàn toàn". Vâng ý Cha trong moi sự.
- Hãy vâng nghe lời Người: Xứng đáng được vâng lời, nghe lời. Là điều kiện cuối cùng để chúng ta được "biến hình" hầu hưởng vinh quang như Đức Giêsu biến hình.
- Không thấy ai nữa chỉ con một mình Đức Giêsu: Môsê, Êlia thuộc thời kỳ quá độ đã bàn giao cho Đức Giêsu, Đấng được Thiên Chúa uỷ nhiệm làm Đấng cứu độ. Đức Giêsu mới cứu độ. Đi theo Người thì được cứu độ. Chỉ Đức Giêsu mà thôi. Ngoài Người không có ai khác.
Khi cho Con xuống thế làm người Thiên Chúa Cha dã vạch ra chương trình cuứ độ. Đức Giêsu phải hoàn thành mọi chi tiết thì mới được Thiên Chúa tôn phong là Đấng Cúư Độ và Chúa. Trên thập giá khi Đức Giêsu tuyên bố "đã hoàn tất" thì Người được Thiên Chúa cho sống lại vinh quang. Người đã mở ra con đường tới sự sống lại vinh quang cho loài người. Đó là con đường làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn đường thập giá mà muốn đường "làm con". Đức Giêsu làm con yêu dấu của Thiên Chúa thì cũng được thông phần vinh quang của Thiên Chúa. Và tiếng Chúa Cha đã căn dặn "hãy nghe lời Người". Là điều kiện Chúa Cha đã đặt ra.
Phương tiện để thực hiện tốt điều kiện của Chúa Cha là đi theo Đức Giêsu trên con đường của Người: Được Đức Giêsu đem đi "theo", đi riêng, lên núi cao, nhất là nghe lời Ngưòi, chỉ một mình Đức Giêsu (không còn Môsê và Êlia, cũng không còn tiếng phán từ đám mây). Tóm lại phải làm sao để nghe lời Đức Giêsu tốt nhất. Có các dòng tu chiêm niệm tập trung học hỏi Kinh Thánh và cầu nguyện. Ngày nay người ta quan tâm tới "thực hành" nhiều hơn nên có những dòng tu hoạt động xã hội nhưng trên căn bản của LỜI. Lời là ý của Thiên Chúa. Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết ý của Thiên Chúa để làm theo và được làm con như Người. Vâng ý Cha là làm con.
Lời Chúa mới biến hình chúng ta được. Lời được thực hành mới có kết quả.
Hãy thực hành Lời Chúa Cha "Hãy nghe Lời Người".
85.Chúa Nhật 2 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Trong cuộc sống đời thường, ai cũng muốn cho mình được sung sướng, hạnh phúc. Thế mà anh chị em nhìn thấy hằng ngày, biết bao nhiêu người luôn tìm sự cực khổ, họ lam lủ suốt ngày, tay lắm chân bùn, vất vả với bao công việc nặng nhọc. Có người không có thì giờ nghĩ ngơi. Trong số đó có cả chúng ta, là những người đang ngồi trong nhà thờ đây. Như vậy tất cả mọi người không biết tìm hạnh phúc, không biết sống sung sướng sao? Hay mọi người bị một thế lực nào ép buộc phải làm như thế? - Thưa chính vì muốn tìm đời sống hạnh phúc, muốn tìm sự sung sướng mà con người phải tìm sự vất vả, cực nhọc như thế. Mới nhìn tưởng chừng như đó là một nghịch lý. Nhưng thực sự đó là một chân lý ngàn đời mà ai cũng đều biết. Muốn có được hạnh phúc thì phải biết chuẩn bị, chuẩn bị từ những đau khổ, từ những vất vả của cuộc sống. Nếu nằm không đó mà chờ thì hạnh phúc sẽ không bao giờ đến được.
Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm! Lời nói của Phêrô thốt lên cách vui sướng, nhưng ông không biết mình đã nói gì, vì Thiên Chúa đã cắt ngang tư tưởng của ông. Chúa Giêsu đã dẫn các ông từ dưới lên núi cao. Ngài cho các ông nhìn thấy và hưởng được một chút hạnh phúc của cuộc sống mai sau. Các ông muốn ở lại trong hạnh phúc đó, hạnh phúc mà các ông không cần phải chuẩn bị, không cần phải tìm kiếm, không cần phải vất vả. Các ông vui sướng, niềm vui sướng đó khiến các ông bật thành tiếng. Nhưng các ông không nói được hết lời, sự vui sướng cũng không còn nữa, các ông lặng thinh trong sự tiếc nuối. Chúa Giêsu lại dẫn các ông trở xuống, không cho ở trên cao nữa, trở về cuộc sống đời thường, cuộc sống của sự chuẩn bị cho chu đáo để đến hạnh phúc bất diệt, hạnh phúc chỉ để cho những người biết chuẩn bị.
Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nhiều lần trong đời sống chúng ta cũng đã thốt lên câu đó. Cũng nhiều lần niềm vui của chúng ta không được trọn vẹn, bị cắt ngang nữa chừng và chúng ta cũng không biết mình đang làm gì. Điều mình muốn , điều mình đang tận hưởng, điều mình đang hài lòng thì bổng nhiên không còn nữa. Hằng ngày lại xuất hiện toàn những nghịch lý của cuộc đời: những điều làm cho mình phải vất vã khó chịu, những điều làm cho thân xác phải khổ nhọc, những điều làm cho mình phải đau đớn. Chúng ta chỉ biết bực mình, than van trách phiền, đôi lúc chúng ta muốn trốn chạy để tìm sự sung sướng hơn. Có khi nào chúng ta tự nghĩ: đây là lúc chúng ta đang đi xuống núi, trở về cuộc sống đời thường, đây là lúc chúng ta đang chuẩn bị cho hạnh phúc của chính mình, niềm hạnh phúc mà không ai có thể lấy đi được. Hay chúng ta vẫn còn đang mơ ước ở trên núi cao, để rồi không biết mình đang nói gì. Vì chúng ta đang muốn chiếm lấy một điều không có thực, muốn chiếm lấy một điều không phải của chính mình, chúng ta muốn chiếm lấy một niềm hạnh phúc, một sự sung sướng mà không cần sự chuẩn bị nào hết. Cũng giống như Phêrô muốn dựng lều ở trên núi, muốn ở luôn lại nơi không phải của mình. Nhưng Thiên Chúa lại đem chúng ta trở về cuộc sống thực tại của con người, một cuộc sống đời thường. Chúng ta có mất mát gì đâu, tại sao lại buồn bực khó chịu, tại sao lại trách móc kêu ca. Nếu chúng ta không biết chuẩn bị, thì làm sao có thể đón nhận hạnh phúc khi Con Người từ cỏi chết sống lại. Chúng ta có chu toàn trách nhiệm mình một cách tốt đẹp, chúng ta có làm tròn bổn phận của mình đối với Chúa chưa? Mọi người nhìn vào đời sống của chúng ta, họ có thể bắt chước được một chút gương tốt nào nơi chúng ta không. Nều chúng ta làm được những điều trên, đó là chúng ta đã vâng lời, nắm tay Chúa Giêsu và đi xuống núi với Ngài để chuẩn bị hưởng hạnh phúc ngay từ những giây phút hiện tại này thật tốt đẹp.
Xin Chúa cho chúng con biết chấp nhận cuộc sống hiện tại với những vui buồn sướng khổ theo Thánh ý Chúa, để biết chuẩn bị cuộc sống mai sau cho xứng đáng.
86.Chúa Nhật 2 Mùa Chay
Khi nói biến hình, người ta nghĩ ngay đến việc thay đổi hình dạng từ trạng thái này sang trạng thái khác. Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại việc biến hình của Chúa Giêsu, nhưng Ngài không biến thành một người khác. Chúa Giêsu biến hình để củng cố niềm tin cho các tông đồ và đồng thời chuẩn bị cho các ông có thể đón nhận việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết nhân vật Tề Thiên Đại Thánh trong phim "Tây Du Ký" với 72 phép thần thông. Ngộ Không có thể thổi phù một cái là lập tức trở thành người khác. Điều này diễn tả quan niệm thông thường của con người: biến hình là trở thành một người khác hay ít ra cũng là mượn hình dạng của ai đó.
Nếu hiểu như thế thì chúng ta luôn biến hình đổi dạng trong từng giây từng phút mà chúng ta không biết. Trước tiên, chúng ta có khuynh hướng muốn biến hình thành người khác. Chẳng hạn, tôi muốn giống ngôi sao ca nhạc, điện ảnh HôngKông, Hàn Quốc, nên tôi ăn mặc y chang họ từ tóc tai, quần áo cho đến đồ trang sức của ngôi sao ấy sử dụng. Chính lúc này tôi không còn là tôi nữa mà là cái bóng của thần tượng đó. Chúa Giêsu mời gọi ta biến hình giống như Ngài, tức là làm cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi được sáng ngời, trở nên đẹp hơn, để người khác nhìn vào cuộc sống tôi sẽ thấy được Thiên Chúa.
Kế đến, biến hình là chúng ta làm cho mình xấu đi. Chẳng hạn, tôi đua đòi ăn chơi, xì ke ma túy, chạy theo thú vui xác thịt. Ai cũng có những ước mơ vươn tới một cái đẹp, cái tốt. Tại sao tôi lại biến mình xấu đi? Chúa Giêsu mong tôi biến đổi nên giống như Thiên Chúa: thánh thiện, đạo đức.
Vậy để biến đổi theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, thiết nghĩ chỉ có CẦU NGUYỆN, vì chính lúc ấy chúng ta gặp được Chúa và Ngài sẽ thay đổi chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện ở mọi nơi, mọi lúc, cố gắng biến đổi đời sống hằng ngày: ai rượu chè, cờ bạc, gain lận hãy dứt khoát với những tính xấu của mình, chăm chỉ làm ăn bằng sức lao động của hai bàn tay mình. Ai nguội lạnh, khô đạo hãy trở về với Chúa. Những ai giận hờn, xích mích nhau hãy làm hòa với nhau. Hãy biến ánh mắt ganh tỵ thành cảm thông, lời nói chua cay thành dịu dàng, lời nói phê bình thành lời xây dựng, con tim hận thù thành yêu thương.
Ước gì từng giây từng phút trong cuộc đời chúng ta là từng giây phút biến đổi theo hướng tốt hơn, trở về với con người thật của mình là hình ảnh Thiên Chúa, để hình ảnh ấy ngày càng rõ nét hơn. Thánh lễ hôm nay chúng ta cầu nguyện cho nhau, xin Chúa cho mỗi người đều được biến đổi thật sự trong Mùa Chay này, để khi tiếp xúc với ta, mọi người phải thốt lên rằng: "Thật là hạnh phúc cho tôi, vì tôi đã gặp được Chúa Kitô nơi anh, nơi chị".
CÂU HỎI GỢI Ý:
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
87.Con đường Chúa và tôi đi
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, chúng ta được thánh sử Maccô trình bày về cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Cuộc biến hình này mạc khải Thiên tính của Chúa Giêsu, đồng thời mạc khải con đường mà Chúa Giêsu phải đi. Đó cũng là con đường mà các môn đệ và tất cả chúng ta cũng phải đi qua.
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày, họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai, hôm nay họ mới nhìn thấy vinh quang của Con Thiên Chúa lần đầu tiên, và họ thật sự là hạnh phúc.
Thật thế, Thiên Chúa là tình yêu. Ngài vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống chúng ta. Thánh Macco kể lại việc Chúa Giêsu cho ba môn đệ hôm nay lên núi cao để hiểu biết về Người hơn. Ngài đưa họ vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống này là tình yêu không ngừng trao ban và nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rời Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: "Đây là Con Ta yêu dấu", Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở uống nữa. Hay hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định đi theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo...? Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta".
Trên núi Tabor, cuộc biến hình của Chúa Giêsu cho chúng ta thêm xác tín " Chúa Giêsu chính là con yêu quý của Thiên Chúa". Người Con này vinh quang rực rỡ nhưng đã chẳng những bằng lòng mà còn vui lòng đi vào con đường khổ nạn và thập giá để mang ơn cứu độ cho mọi người. Người Con này đã hoàn toàn vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa, dù phải trải qua con đường đau thương và khổ giá. Ngài chấp nhận đi con đường khổ giá và vâng phục cho đến chết trên cây thập giá để dẫn đưa nhân loại đi qua con đường thập giá này mà đến bến bờ vinh quang mai ngày. Và ba ông đã thấy vinh quang của Chúa Giêsu, ba ông được biết chương trình của Thiên Chúa, chương trình của Chúa đó là chương trình của tình yêu. Tình yêu này được minh chứng qua sự hy sinh; Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Ngài đã không dung tha cho chính con yêu quý của người nên Thánh Phaolo đã diễn tả: "Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng at, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với con của Ngài sao" (Rm 8, 32). Nếu Thiên Chúa đã ban cho Người Con Duy Nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì chúng ta nữa. Còn phần Chúa Con, Ngài đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: "Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu". Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu Kitô mặc dù là Thiên Chúa nhưng đã mặc lấy xác phàm, trở nên con người sống ở giữa loài người, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ tất cả để đi vào cuộc khổ nạn, nhằm mang ơn cứu rỗi chúng ta. Ngài đã hy sinh tất cả, hy sinh cả mạng sống mình để làm theo ý Chúa Cha. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài từ cõi chết sống lại.
Mầu nhiệm hy tế của Chúa Giêsu được thực hiện một lần cho đến muôn đời. Và hằng ngày hy tế thánh này vẫn được tái diễn nơi Thánh lễ mà linh mục cử hành. Khi tham dự Thánh Lễ là dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gắng sống đổi mới theo hướng tích cực hơn, góp phần làm cho thế giới này được biến đổi mang màu sắc và phẩm chất yêu thương, một tình yêu hiến mạng sống của Chúa Giêsu Kitô dành cho nhân loại.
Rồi đây ba môn đệ sẽ bước với Thầy Giêsu đi vào con đường đau khổ chết trên thập giá. Biến hình chỉ là một hào quang lóe lên ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu đóng đinh vì yêu mến Chúa cha và yêu thương nhân loại tột đỉnh. Chúa Giêsu Kitô đã chấp nhận đi vào con đường đau khổ, bước vào cái chết và tiến đến phục sinh vinh hiển để ban ơn thánh hóa và cứu chuộc con người. Theo dấu chân Chúa Giêsu đã đi qua, Hội thánh vẫn luôn tiếp tục hành trình đó nhằm mang ân sủng cứu độ con người bằng Thánh Lễ và các Bí tích. Do đó, ý thức được tình thương mà Thiên Chúa dành cho, chúng ta hãy tri ân Thiên Chúa và siêng năng đến lãnh nhận ân sủng từ Thánh Lễ và các Bí tích. Để làm được điều này, đòi buộc chúng ta đón nhận bằng tình yêu. Chấp nhận hy sinh thời giờ, công việc, các thú vui, danh lợi...trong cuộc sống.
Tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi, chúng ta thấy Hội thánh và cụ thể là các vị Giáo sĩ, tu sĩ và những người có tâm hồn thành tâm thiện chí. Họ chấp nhận và bước theo Thầy Giêsu, đi con đường Ngài đi. Họ đã sống từ bỏ và đã hy sinh. Họ muốn làm theo ý Chúa và Hội Thánh. Con tim của họ tràn đầy yêu thương vì con tim này được tu luyện, bồi dưỡng bởi tình thương nhân từ của Thiên Chúa. Họ không quản ngại cho đi sức khỏe, thời gian, tuổi thanh xuân. Họ đã sống cho tình Chúa và cho tình người. Họ can đảm cho đi sứ mạng hữu hình và thiêng liêng. Dám sống quên mình cho đàn chiên vì sự sống và ơn cứu độ cho nhân loại. Hơn nữa, noi gương Chúa Giêsu, các vị kể trên đã yêu mến Thiên Chúa hết lòng, sẵn sàng bước theo Chúa Kitô, đi theo con đường Ngài đã đi, sống sứ mạng dấn thân cho sứ vụ. Dù gặp gian nan, thử thách, đau khổ và như con đường thập giá Chúa Giêsu đã đi qua, họ luôn tin vào Chúa Kitô, xác tín rằng mình cũng sẽ được phục sinh vinh hiển với Ngài. Như Chúa Giêsu, Chúa Cha là lẽ sống của Ngài thì chính Chúa Kitô cũng chính là lẽ sống của họ. Chính niềm tin phục sinh ấy giúp họ bắt đầu và bắt đầu lại, giúp họ tiếp tục rồi lại tiếp tục cuộc hành trình sống chúng nhân giữa đời trong sứ vụ của mình.Đồng thời chúng ta cũng nhận thấy họ cũng phải chiến đấu với ba thù. Chúng ta hãy biết ơn các vị Giáo sĩ và tu sĩ là những người mang đức tin và ơn cứu độ cho chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban ơn cho họ trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi với lòng tin, cậy và yêu mến Chúa mãnh liệt.
Mỗi người chúng ta cũng phải đi qua con đường khổ giá để bước vào vinh quang, bước đến tình yêu và sự sống đời đời mà Chúa sẽ ban tặng cho chúng ta.Vì thế, chúng ta hãy vui lòng đi trên con đường mà Chúa Giêsu và các bậc tiền nhân đã đi để được hưởng hạnh phúc với các ngài. Hơn nữa chúng ta tin rằng có Đấng ủng hộ chúng ta là Đấng đã đi trước mở đường cho chúng ta. Do đó, như Chúa Giêsu đã biến hình, chúng ta cũng sẽ được biến hình hằng ngày, biến đổi cả con người cũ kỹ, yêu hèn, tội lỗi của chúng ta nếu chúng ta dám từ bỏ lối sống ích kỷ, chấp nhận cuộc sống yêu thương tha nhân... Ngày nay có thể người ta không thấy Chúa biến hình nhưng họ sẽ cảm nghiệm phần nào khi thấy các người Công Giáo sống vui tươi, chan hòa tình người, tình yêu thương. Họ thấy được những người sống mãnh liệt vào niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô.
Là người Công giáo, chúng ta được tái sinh bởi Bí tích Rửa tội, nghĩa là chúng ta được chết cho con người cũ tội lỗi và sống cho con người phục sinh của Chúa Kitô. Người Công Giáo khi đó được gia nhập công đoàn Hội Thánh, được nuôi dưỡng Mình Máu Chúa và được tha thứ không ngừng để bước đi theo Chúa Giêsu trong Bí tích Giải tội. Mặt khác, chúng ta không ngừng nhận được các hồng ân khác hằng hằng ngày. Chúng ta hãy tri ân Chúa. Chúng ta hãy cám ơn Hội Thánh. Đồng thời chúng ta hãy mạnh dạn bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi, chúng ta chấp nhận vượt qua khó khăn vất vả trong cuộc sống, chúng ta chấp nhận hy sinh hằng ngày để làm sáng danh Chúa, để đi con đường Ngài đi. Chúng ta hãy sống thân mật và gắn bó với Chúa Giêsu. Chúng ta nhận ra con người chúng ta là hồng ân Thiên Chúa ban tặng.
Khi đã biết những sự thật về Chúa và về bản thân, chúng ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Chúa Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn, để can đảm đi theo con đường đau khổ và phục sinh mà Chúa Kitô đã đi trong niềm tin và lòng mến chứa chan.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con nhận ra tình yêu thương mà Chúa dành cho chúng con. Đồng thời xin cho chúng con can đảm bước theo con đường mà Chúa đã đi với lòng tín thác thật sự và lòng yêu mến nồng nàn. Amen.
88.Vinh quang thập giá
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe chúng ta nhận thấy: những gì xảy ra trên đỉnh Taborê hoàn toàn trái ngược hẳn với những gì đã xảy ra trong sa mạc khi Ngài bị cám dỗ.
Cuộc dạo chơi của bốn thày trò hôm nay thật là thú vị, đến nỗi Phêrô đã phài thốt lên: Thưa Thày, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thày, một cho Maisen và một cho Êlia. Từ đó chúng ta khám phá ra rằng: điều mà Satan nhọc hơi cám dỗ Ngài mà không được, thì hôm nay chính Ngài lại tỏ lộ cho ba môn đệ, đó là vinh quang của Con Thiên Chúa. Vinh quang ấy còn được làm chứng bởi hai nhân vật lịch sử của Cựu ước: Maisen và Êlia. Tại sao Ngài từ chối Satan nhưng lại bật mí cho các môn đệ. Tôi xin thưa, chìa khóa của vấn đề được tìm thấy trong chỉ thị của Ngài ngăn cấm các môn đệ không được tiết lộ điều mắt thấy tai nghe cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Satan cám dỗ Ngài tỏ mình là Con Thiên Chúa bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Và Ngài đã từ chối, để rồi Ngài sẽ tỏ lộ ra trong mầu nhiệm khổ nạn và Phục sinh. Bởi vì chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Biến đá trở thành bánh hay nhảy từ trên cao xuống một cách an toàn thì rồi con người cũng có thể làm được. Nhưng sống lại từ cõi chết thì chỉ mình Thiên Chúa mới thực hiện được mà thôi. Bởi vì cho đến ngày hôm nay chưa một ai đã thoát khỏi cái chết, thế nhưng chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết và đó mới là cuộc biểu dương đích thật quyền năng tuyệt đối của Con Thiên Chúa.
Đức Kitô không những đã chẳng màng đến của cải, danh vọng thậm chí cả đến quyền năng có sẵn Ngài cũng chẳng sử dụng và hơn thế nữa Ngài lại còn chấp nhận cho thiên hạ cười chê: là bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi, là kẻ phạm thượng, điên khùng. Do đó mà Ngài đã bị kết án và chết như một phạm nhân giữa những tên trộm cướp. Chỉ nhờ hạ mình thẳm sâu như thế và quên mình tới mức thánh Phaolô đã coi như là một sự tự hủy, mà Ngài đã đạt được danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu, đó là Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chính cái vinh quang mà Ngài sẽ chỉ đạt được trong mầu nhiệm thập giá thì hôm nay Ngài tỏ ra cho ba môn đệ được thấy với mục đích là để các ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là ước mơ rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được chia nhau mỗi người một địa vị. Đồng thời Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản và tuyệt vọng khi thấy Ngài bị bắt bị kết án và bị giết chết trên thập giá. Vì thế, biến cố Taborê gắn liền với biến cố Canvê. Sự biến hình gắn liền với thập giá. Cùng với cuộc khổ nạn và Phục sinh, thì sự biến hình hôm nay sẽ là một điềm báo trước cho vinh quang của Ngài, một khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Với chúng ta cũng vậy, nếu hôm nay chúng ta dám chấp nhận khổ đau, dám vác thập giá mà bước theo Ngài thì trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được tham dự vào vinh quang Phục sinh với Ngài.
89.Tabor với Đức Giêsu
Bộ phim Một Người Chết Đang Bước Đi kể lại câu chuyện của một nữ tu (Sơ Helen Prejean), trong nhiều tháng, bà hộ tống một người đàn ông (Robert) đến chỗ bị hành hình ở Lousiana. Chúng ta hãy ghi chú cách Robert cố gắng thu phục được lòng tin của một trong những người giám sát, đó là một hình ảnh tử tế và nhân hậu của người cha, sơ Helen đã phản ánh lại hình ảnh này như sau:
Không bao giờ Robert thực sự có một người cha. (Trong số 53 năm tuổi đời của anh, cha anh đã sống 27 năm tại một nhà tù). Điều này làm cho tôi nghĩ đến cha tôi. Thật là một trong những cảm giác quí giá nhất trong cuộc đời, khi biết rằng cha bạn tự hào về bạn. Tôi là một môn sinh của cha tôi, là người lưu giữ cho ông cuốn nhật ký cuộc hành trình nghỉ mát của gia đình. Ông luôn luôn có một giọng nói đặc biệt, mỗi khi giới thiệu tôi với các bạn bè và đồng nghiệp của ông: “Đây là Helen, con gái nhỏ của tôi”. Trước sự hiện diện của những người xa lạ, tôi cứ im lặng, nép sát vào người ông, nắm chặt bàn tay ông. Sau đó, tôi sẽ siết chặt bàn tay của ông hơn bao giờ hết, và một lần nữa, có đầy rẫy những câu hỏi và ríu rít nói chuyện với ông. Một đứa trẻ có thể ngây ngất cảm giác an toàn bên một người cha.
Câu chuyện này có thể giúp chúng ta hiểu được một số nét nào đó về cảm nghiệm núi Tabor đối với Đức Giêsu. Trong cuộc đời của Người, có một thời điểm rất khó khăn, một thời điểm không biết chắc chắn và lo sợ về tương lai. Người đã tiến về Giêrusalem, tại đó, Người cảm nhận được rằng cùng một số phận giống như tất cả các ngôn sứ đang chờ đợi Người – một cái chết khủng khiếp. Tự nhiên, Người muốn thoái lui khỏi số phận đó. Để suy niệm và cầu nguyện, Người đã lên núi Tabor.
Chúng ta không biết chính xác điều gì xảy ra trên núi. Nhưng dường như Người có một cảm nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nghe được những lời nói tuyệt vời “Đây là Con Cha yêu dấu”. Trên núi Tabor, Đức Giêsu đã được an ủi và xác nhận. Người biết rằng Cha Người hài lòng về Người, và sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với một tương lai tối tăm và đầy đe dọa. Với Thiên Chúa đứng về phía mình, Người có thể đương đầu với tất cả mọi sự.
Đôi khi, cuộc sống có thể trở nên tối tăm với tất cả chúng ta. Có rất nhiều tiếng nói đối với chúng ta “Chỉ khi nào thành công, hoặc nổi tiếng, thì bạn mới là một người tốt”. Nhưng vẫn có một giọng nói thì thầm trong tâm hồn chúng ta “Con là đứa con trai / con gái yêu dấu của Cha”. Chúng ta cần phải chú ý đến giọng nói này. Chúng ta phải nhận ra rằng mình là những người con yêu dấu của Thiên Chúa, và cố gắng sống cuộc đời của mình nhờ ánh sáng chân lý của Người.
Jean Vanier đã thiết lập nhiều cộng đoàn dành cho người bị bệnh tâm lý. Ông kể lại rằng ở một trong những cộng đoàn đó, có một người đàn ông tên là Pierre, bị mắc bệnh tâm lý. Ngày kia, có người hỏi Pierre “Anh có thích cầu nguyện không?”
Anh trả lời “Có chứ”.
Người kia hỏi “Anh làm gì mỗi khi anh cầu nguyện?”
Pierre trả lời “Tôi lắng nghe”.
“Và Thiên Chúa nói gì với anh?”
Người nói “Hỡi Pierre, con là con trai yêu dấu của Ta”.
90.Đức tin và đau khổ
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Abraham trong bài đọc 1. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Abraham và Sara, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Abraham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của một người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là “Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa lành. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng ngài lại mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau…
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: “Chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ lụy của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị gì không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.
91.Chúa biến hình
Tại sao ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lại được diễm phúc chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình trên đỉnh Taborê. Nhiều nhà chú giải cho rằng vì Chúa muốn củng cố niềm tin còn non yếu nơi các ông.
Thực vậy, mới mấy ngày trước đây khi Ngài loan báo về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Lạy Thầy, không thể như thế được. Và Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô: Hỡi Satan, hãy cút đi, con chỉ làm cản trở đường đi nước bước của Thầy, vì những tư tưởng của con không xuất phát từ Thiên Chúa, mà chỉ xuất phát từ con người.
Sau lời quở trách ấy, thì có lẽ giờ đây các ông đang cần một liều thuốc bồi bổ tinh thần. Từ đó chúng ta đi vào phạm vi đức tin và chúng ta có thể xác quyết: hành trình của đức tin giống như hành trình của một chiếc tàu đi biển. Có lúc được nâng lên cao, có lúc lại bị hạ xuống. Thường nó có những điểm cao và những điểm thấp của nó. Có lúc lên núi thì cũng phải có lúc xuống đồi. Có những lúc bùng sáng, thì cũng có lúc như muốn tàn lụi. Hãy nhìn vào ba vị tông đồ thân tín nhất của Đức Kitô và chúng ta sẽ thấy được như vậy.
Thực thế, đức tin của các ông hôm nay rực sáng như một ánh đuốc trong đêm tối, nhưng có những lúc ngọn lửa ấy như muốn tàn lụi. Đúng thế, chỉ một vài tháng sau, tại vườn cây dầu tại dinh thượng tế, tại đỉnh cao đồi Canvê, các ông người thì chối Chúa, kẻ thì bỏ Chúa mà chạy trốn. Đức tin của chúng ta cũng vậy, có những lúc lên cao và có những lúc xuống thấp… Khi lên cao, chúng ta cảm thấy gần gũi Chúa đến độ chúng ta tưởng rằng mình có thể đụng chạm tới Ngài, chúng ta thấy rằng ơn thánh của Ngài luôn ấp ủ bao bọc và nâng đỡ chúng ta. Trái lại khi xuống thấp, chúng ta cảm thấy như Chúa xa lìa chúng ta, không còn đón nhận những lời chúng ta kêu xin. Chúa không còn gần gũi chúng ta, mà chỉ là một nhân vật xa lạ, một ý niệm trừu tượng, chẳng ăn nhập gì với cuộc sống chúng ta. Vậy thì trong những lúc bị xuống thấp như thế chúng ta phải làm gì?
Tôi xin thưa, hãy noi gương bắt chước tổ phụ Abraham. Niềm tin của ông có phần yếu ớt và bị lu mờ khi Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy sinh đứa con duy nhất là Isaac, đem nó lên núi mà sát tế để dâng kính Ngài. Điều đó làm cho ông đau khổ và bối rối. Thế nhưng ông vẫn một lòng cậy trông và phó thác vào Chúa. Cuối cùng, Chúa đã không để cho ông phải thất vọng. Ngài đã chúc phúc và ban cho ông nhiều hồng ân hơn cả lòng ông mơ ước. Đôi khi Thiên Chúa cũng thử thách đức tin của chúng ta. Tâm hồn chúng ta thì chất đầy những đắng cay, bản thân chúng ta thì khổ đau buồn phiền, thế nhưng hãy tin tưởng và cậy trông vào Chúa như Abraham ngày xưa, bởi vì Ngài sẽ nâng đỡ và phù trợ chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây của thánh Giacôbê tông đồ: Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Ngài đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Ngài.
92.Sống với Chúa
Có những lúc chúng ta phải đương đầu với một tình huống mà khi ấy chúng ta không thể thốt lên lời được. Có lẽ không phải tất cả chúng ta đều đã trải qua kinh nghiệm về những khoảnh khắc như vậy một cách có ý thức. Tuy nhiên, tôi tin rằng nếu chúng ta thường xuyên phản tỉnh về cuộc sống của mình, chúng ta sẽ nhận ra có rất nhiều khoảnh khắc như thế trong cuộc đời của mình. Khả năng nhận ra những khoảnh khắc kinh ngạc và đáng sợ ấy phù thuộc vào tình trạng thanh tĩnh và thinh lặng của tâm hồn chúng ta.
Có những lúc trong cuộc đời, chúng ta sống và làm việc như cái máy, không có chút phản tỉnh nào về cuộc sống của mình. Chúng ta có quá nhiều việc phải làm. Vì thế, sự bận rộn liên lạc này dễ bị Satan lợi dụng để lôi kéo chúng ta ra xa ơn gọi căn bản của mình, là ơn gọi sống trong mối liên hệ gắn bó với Thiên Chúa. Hầu có thể sống gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, chúng ta cần dành thời giờ để phản tỉnh trong sự bình an và thinh lặng của tâm hồn. Sự bận rộn thái quá ngăn cản chúng ta thực hiện việc này.
Chúng ta xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng để nhận ra và xác tín chúng ta cần có những khoảng thời gian thoát ra khỏi sự bận rộn của đời sống thường ngày, và can đảm đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy nghĩ. Các sách Tin Mừng cho chúng ta biết chính Chúa Giêsu cũng thường xuyên làm như vậy. Chúa Giêsu biết rõ việc cầu nguyện giúp mình giữ được sự sáng suốt và gắn bó với Chúa Cha. Chỉ khi nào chúng ta sống trong thinh lặng với Thiên Chúa và phản tỉnh về ý nghĩa sâu xa của cuộc đời mình, lúc đó những việc chúng ta làm trong thế giới này mới có giá trị. Nếu hành động của chúng ta không dựa trên việc chúng ta sống gắn bó với Thiên Chúa thì rồi cuộc đời của chúng ta có lẽ cũng chỉ như “Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”.
Xã hội ngày hôm nay làm cho con người có nguy cơ đánh mất khả năng dừng lại để sống trong thinh lặng và suy nghĩ phản tỉnh. Đó là một nguy cơ làm cho sự liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa, là Đấng đã tạo dựng nên chúng ta, bị buông lỏng và dần dần bị cắt đứt hoàn toàn.
93.Biến hình
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một chuyện thần thoại không? Cách đây ít lâu, trên đài truyền hình thành phố, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
94.Giây phút tột đỉnh
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ tuổi như sau: "Vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình của cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa và nói năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh mì và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình của cô. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nào nói được."
Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta thấu hiểu những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm mà bài Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.
Chỉ trong một vài phút quí báu, họ đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.
Điều đó đưa đến một câu hỏi. Tại sao câu truyện Phúc Âm về cuộc biến hình của Chúa Giêsu lại đặt giữa những bài đọc buồn tẻ ủ rũ của Mùa Chay? Tại sao nó không được đặt giữa những bài đọc vui mừng của Mùa Phục Sinh?
Câu trả lời nằm trong ý nghĩa việc biến hình xảy ra. Nó xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết Ngài phải đi lên Giêsusalem chịu đau khổ và chịu chết.
Khi Phêrô nghe Chúa Giêsu nói về việc này, ông đã kêu lên: "Xin Thiên Chúa thương! Những sự đó sẽ không xảy ra cho Ngài."
Chúa Giêsu liền nói với Phêrô: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
Phêrô, Giacôbê, và Gioan cần có mũi chích tinh thần sau khi cuộc mạc khải khiếp sợ của Chúa Giêsu.
Có thể đấy cũng chính là lý do mà Giáo Hội đặt bài đọc biến hình giữa những bài sầu buồn của Mùa Chay. Giáo Hội cũng muốn cho chúng ta mũi chính tinh thần này trước khi xoay sự chú ý của ta đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Giáo Hội muốn cho chúng ta một sự gì đó để nhìn vào trong những giờ đau khổ của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và cái chết trên thập tự.
Trong mỗi một người chúng ta, cũng có một phần của Adong và một phần của Thiên Chúa.
Như Chúa Giêsu trên Núi Tabor, chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút ngây ngất, khi Thiên Chúa chiếu sáng qua chúng ta gần như làm cho ta bị loà luôn. Trong những giây phút này, chúng ta cảm thấy thật là gần gũi với Thiên Chúa y như là chúng ta cảm thấy chúng ta có thể với tay chạm đến Thiên Chúa.
Và chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút lo buồn, khi phần của Adong vùng vẫy mãnh liệt, đến nỗi phần của Thiên Chúa trong ta bị lung lay và gần chết đi. Chúng ta cảm thấy xa lìa Thiên Chúa, đến nỗi ta hỏi rằng không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay không.
Trong những giây phút ngây ngất chúng ta sung sướng trong lời Thiên Chúa Cha phán với chúng ta những gì mà Thiên Chúa Cha đã phán với Chúa Giêsu: "Đây là Con Ta tuyển chọn." Những lúc lo buồn, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những gì Chúa Giêsu đã cảm nghiệm trong vườn cây dầu: cánh tay Thiên Chúa Cha sẽ nâng đỡ chúng ta.
95.Trên đỉnh Taborê
Sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi:
- Tại sao Chúa Giêsu lại tỏ lộ sự việc lạ lùng ấy cho ba môn đệ thân tín nhất.
Tôi xin trả lời:
- Đó là để soi sáng và củng cố đức tin cho các ông.
Đúng thế, các tông đồ, những người bạn nghĩa thiết của Chúa đã không muốn hiểu và không muốn chấp nhận những lời tiên báo của Chúa về cuộc tử nạn và cái chết của Ngài.
Cách đây mấy hôm, Chúa Giêsu cũng đã nói với các ông:
- Con Người sẽ phải lên Giêrusalem ở đó sẽ bị bắt bớ, bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.
Phêrô đã kéo Ngài ra một chỗ và can ngăn, nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời:
- Hãy cút đi hỡi Satan, ngươi chẳng hiểu gì về những việc của Thiên Chúa, mà chỉ hiểu những công việc của người đời mà thôi.
Có thể những lời nói xa nói gần, nói bóng nói gió của Chúa về cuộc tử nạn đã làm cho niềm tin tưởng của các ông bị chao đảo và mối cậy trông của các ông bị tắt ngấm, để rồi sau cùng đứng trước nỗi thống khổ của thập giá, các ông sẽ trở nên những kẻ bị phá sản, không còn hy vọng, không còn can đảm, không còn nghị lực.
Bởi đó, khi tỏ lộ vinh quang của mình trên đỉnh Taborê, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin tưởng và giúp các ông chiến thắng trong những giờ phút tăm tối. Cũng như chuẩn bị các ông sẵn sàng đón nhận những bắt bớ, những cấm cách sẽ xảy đến sau này.
Đúng thế, nếu đọc tiếp Phúc Am chúng ta sẽ thấy: liền sau đó trong cuộc tử nạn các ông, người thì chối bỏ, người thì chạy trốn. Sở dĩ như vậy là vì các ông chưa hiểu. Một mai, khi đã nghĩ lại và nhất là nhớ đến vinh quang Taborê, các ông sẽ can đảm trong mọi cơn gian nguy thử thách và sẽ hy sinh cho đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu của Đấng đã bị đóng đinh vào thập giá.
Sự việc Chúa Giêsu biến hình đã tạo được một tiếng vang cho đến tận cùng bờ cõi trái đất, nó sẽ đem lại cho chúng ta một bài học, một niềm an ủi trong những giờ phút đen tối.
Thực vậy, khi gặp phải những khổ cực đớn đau, những đắng cay chua xót, chúng ta hãy nghĩ rằng: Nếu chúng ta trung thành với Chúa, chúng ta sẽ được nhìn thấy vinh quang Ngài trong cõi sống ngàn thu. Vinh quang ấy không phải chỉ kéo dài trong thoáng chốc của một kiếp phù du, nhưng sẽ kéo dài mãi mãi, kéo dài đời đời.
Sống trên trần gian, chúng ta giống như những kẻ bị lưu lạc nơi đất khách quê người, chúng ta không bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa, hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Hiện tại chúng ta chỉ nhìn thấy một cách mơ hồ như trên một tấm gương, nhưng rồi chúng ta sẽ hiểu biết Ngài một cách trọn vẹn, sẽ yêu mến Ngài mãi mãi và trái tim nhỏ bé của chúng ta sẽ ngập tràn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc vượt trên những điều chúng ta có thể nghĩ tưởng được.
Vì thế mà thánh Phaolô cũng bảo:
- Những đau khổ đời này thì nhỏ nhoi không thể nào sánh ví được với vinh quang mai hậu.
Nếu chúng ta trung thành yêu mến và phụng sự Chúa, thì phần thưởng bội hậu sẽ được dành để cho chúng ta. Lúc bấy giờ, thân xác của chúng ta, người bạn tâm phúc của linh hồn, cũng sẽ được dự phần vinh quang, cũng sẽ được chia sẻ niềm vui bất tận.
Vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
96.Thiên Chúa về phía …
Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đứng về phía chúng ta. Do đó, gian truân, đau khổ, và cả sự chết cũng không thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu mà chúng ta nhận thấy nơi Đức Kitô.
Maya Angelu, một thi sĩ và tác giả người Mỹ, là một người phụ nữ khôn ngoan và cũng có đời sống thiêng liêng. Chị kể là vào một ngày kia, chị đã được thức tỉnh về mặt tôn giáo. Điều này xảy ra theo một cách thức rất đơn giản. Chị ngoài 20 tuổi, và vừa mới di chuyển đến San Francisco. Chị nói rằng lúc đó, chị là một người tích cực theo thuyết bất khả tri. Điều này không có nghĩa là chị không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa nữa, mà chỉ là dường như Thiên Chúa không còn ở nơi những người sống chung quanh mà chị thường hay giao du với. Thế rồi có một giáo viên giới thiệu với chị một cuốn sách tựa đề là Những Bài Học về Chân Lý. Chị kể rằng vào một ngày kia, người giáo viên đó yêu cầu chị đọc cuốn sách đó cho ông ấy. Tôi lên 24 tuổi có học thức và cũng rất trần tục. Thầy giáo của tôi yêu cầu tôi đọc một phần trang sách chấm dứt bằng câu “Thiên Chúa yêu thương tôi”. Tôi đã đọc đến đây rồi gấp sách lại, nhưng thầy giáo bảo tôi “Cứ đọc lại đi”. Tôi mở sách ra, và đọc một cách mỉa mai “Thiên Chúa yêu thương tôi”. Ông bảo “Đọc nữa đi”. Sau đến 7 lần đọc đi đọc lại tôi bắt đầu cảm thấy rằng câu nói đó có thật, và có thể Thiên Chúa đã thực sự yêu thương tôi. Vâng, Người yêu thương tôi, Maya Angelu.
Đột nhiên, tôi bắt đầu khóc to. Tôi biết rằng nếu Thiên Chúa yêu thương tôi, thì tôi có thể làm được những điều kỳ diệu, tôi có thể làm được những điều vĩ đại, học hỏi, hoàn tất được bất cứ thứ gì. Bởi vì cái gì có thể chống lại tôi, nếu Thiên Chúa ở với tôi, bởi vì bất cứ người nào ở với Thiên Chúa, thì đều tạo được ưu thế.
Đối với Maya Angelu, mặc dù chị vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa, nhưng dường như Người quá xa vời và không có thật. Chỉ đến khi chị tin tưởng rằng Thiên Chúa yêu thương mình, thì Thiên Chúa mới có thật đối với chị. Thế rồi niềm tin đó đem lại năng lực cho chị. Đột nhiên, chị cảm thấy rằng mình có thể làm được tất cả mọi sự, đương đầu với bất cứ thứ gì, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chị và ở với chị. Đức Giêsu vừa mới bắt đầu cuộc hành trình lên Giêrusalem của Người. Cho đến thời điểm này, chủ yếu Người làm việc ở Galilê. Ngay cả ở đó, khu vực mà Người lớn lên. Người đã gặp nhiều sự chống đối từ phía các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng khi lên Giêrusalem, Người cảm nhận được rằng một cái chết khủng khiếp chờ đợi Người tại đó. Tự nhiên, Người thoái lui trước số phận. Dường như Người phải suy niệm và cầu nguyện về điều này, và phải đi lên đỉnh núi Tabor.
Đức Giêsu có một kinh nghiệm tuyệt hảo trên ngọn núi đó. Người lắng nghe những lời nói tuyệt vời này “Con là Con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về Con”. Nói cách khác, Người biết rằng Thiên Chúa yêu thương Người. Lời xác nhận này sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với tương lai, bất kể nó tiếp diễn ra sao. Vấn đề của chúng ta là ngay khi gặp rắc rối, lòng tin của chúng ta bị lung lay. Chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa bỏ rơi mình. Nhưng nếu cầu nguyện, chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi chúng ta, nhưng Người hằng ở với chúng ta trong khi chúng ta gặp gian khổ.
Trong tất cả mọi lúc, đặc biệt trong những lúc khó khăn, chúng ta nên ghi nhớ lời thánh Phaolô “Thiên Chúa đứng về phía chúng ta”. Và khi Thiên Chúa đứng về phía chúng ta, chúng ta có thể đương đầu với bất cứ điều gì.
Cách nhận biết rằng không gì có thể chia cách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, đó là sức mạnh trong những lúc yếu đuối, và niềm hy vọng của chúng ta những khi gặp nghịch cảnh. Khi gặp đau khổ, tất cả điều chúng ta phải làm là phó thác thân mình cho sự chăm sóc của Người. Giống như Đức Giêsu trên núi Tabor, chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được những giây phút hiếm hoi của ánh sáng và niềm vui. Chúng ta được thoáng nhìn thấy đất hứa mà chúng ta đang tiến tới trong lòng tin. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, ngay trên trái đất này. Thiên Chúa cho phép chúng ta nếm được những niềm vui của thế giới sắp đến.
97.Sự hy sinh của Isaac
Câu chuyện Thiên Chúa yêu cầu Abraham hy sinh người con trai Isaac của ông là một câu chuyện lạ. Trên thực tế, đây là một câu chuyện gây sốc. Điều làm cho chúng ta cảm thấy rắc rối nhất là hình ảnh Thiên Chúa tình cờ bắt gặp.
Tuy nhiên, chúng ta phải cố gắng hiểu được ý nghĩa mà câu chuyện muốn chuyển tải. Câu chuyện này dạy cho chúng ta một điều gì đó rất quan trọng, và là một câu chuyện rất hay, đưa ra một hướng trái ngược với điều mà nó hy vọng để lại cho người nghe, bắt đầu bằng cách dường như muốn nói rằng Thiên Chúa chấp nhận sự hy sinh của con người, và thậm chí có khi Người còn đòi hỏi sự hy sinh đó nữa. Nhưng đối tượng của câu chuyện là nhằm chỉ ra một điều trái ngược hẳn lại. Đó là cố gắng chỉ ra cho chúng ta rằng trên thực tế, sự hy sinh của con người trái với ý muốn của Thiên Chúa.
Và câu chuyện đã kể lại về điều này một cách rất thú vị. Dường như yêu cầu của Thiên Chúa đối với Abraham là quá tàn bạo và bất công, đến nỗi làm cho chúng ta muốn kêu lên “Hãy ngưng lại đi! Điều này sai trái. Điều này khủng khiếp!”. Chúng ta phải suy xét lại ý tưởng ông già Abraham bị Thiên Chúa đòi hỏi phải hy sinh người con trai Isaac của ông. Cảm giác khiếp sợ của chúng ta được nâng lên, nhờ gánh nặng của niềm hy vọng đặc biệt mà Isaac đã được mang trên vai – làm trọn lời hứa rằng Abraham sẽ có vô số con cháu.
Mục đích của câu chuyện là khơi gợi lên nỗi khiếp sợ về ý tưởng rằng Thiên Chúa đòi hỏi con người phải hy sinh. Sống giữa những người Canaan vốn là những người thực hành hy tế theo kiểu nhân loại, nên bằng cách này hoặc cách khác, Abraham đã có ý nghĩ rằng Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi ông hành động hy sinh này. Nhưng Thiên Chúa đã chỉ ra cho ông cách thế khác. Câu chuyện này có ý muốn đặt dấu chấm hết cho sự hy sinh của con người đối với Thiên Chúa.
Tại sao Thiên Chúa lại muốn thử Abraham? Để cho cả thế giới biết rằng nếu có người nào đó nói với chúng ta “ Nhân danh Thiên Chúa, tôi phạm tội giết người”, thì chúng ta sẽ biết rằng người đó nói dối. Đó là ý kiến nhất trí của truyền thống Do thái Chính thống. Thật đáng buồn, việc giết người nhân danh Thiên Chúa đã được thực hiện một cách phổ biến qua nhiều thời đại. Ngay cả trong thời đại của chúng ta, vẫn có những kẻ giết người vì niềm tin tôn giáo, và họ nghĩ rằng làm như thế là họ đang tôn vinh Thiên Chúa. Tháng 10 năm 1995, Yigal Amir, một tín đồ Do thái Chính thống, đã bắn chết Yitzhak Rabin. Thỉnh thoảng, những người Palestine mang bom tự sát đánh lại người Israel, giết chết đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô tội, đều là những tín đồ Hồi giáo chính thống. Năm 1994, Paul Hill, kẻ đã giết chết một bác sĩ và người cận vệ của ông bên ngoài một dưỡng đường phụ sản, là một cựu linh mục thuộc Giáo hội Trưởng lão ở Scotland. Đây chỉ là một ví dụ. Thiên Chúa không muốn lấy điều ác đáp trả lại điều ác, lấy đau khổ đáp trả lại đau khổ, lấy mạng đền mạng. Các trang lịch sử nhuộm tràn đầy máu do những người tự cho mình là “kẻ báo thù của Thiên Chúa”. Những vua chúa và nguyên thủ các quốc gia đã giết chết người, đòi hỏi uy quyền và ân sủng của Thiên Chúa cho những hành động đen tối của họ.
Câu chuyện trên chứng tỏ rõ ràng về chiều sâu nơi lòng tin của Abraham.. Ông được chuẩn bị để hy sinh điều quí giá nhất của ông. Lòng tin ngoại hạng của ông đã được trọng thưởng một cách đặc biệt. Không có gì đáng thắc mắc, khi chúng ta gọi ông là “cha của những kẻ tin”.
Câu chuyện trên lên án tư tưởng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách cướp đi một mạng sống. Nhưng Đức Giêsu đề cập đến một điều gì đó mang tính cách thách đố hơn nhiều: đó là tư tưởng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách tự cống hiến chính cuộc đời của mình, để phục vụ Thiên Chúa và người khác. Người đã đưa ra một gương mẫu nơi chính bản thân Người. Thiên Chúa không hề đòi hỏi nơi Đức Giêsu mạng sống của Người. Nhưng Đức Giêsu đã tự hiến thân mình một cách tự do, trong việc phục vụ Thiên Chúa và người khác. “Cống hiến chính cuộc đời của mình” không nhất thiết là phải chịu chết. Điều này có nghĩa là sống vì người khác.
98.Tin để lên núi--Huệ Minh
Có thể nói câu chuyện về việc Abraham sát tế người con yêu của mình là một câu chuyện hấp dẫn. Không chỉ hấp dẫn mà còn gây cho người đọc cảm giác sợ hãi, hồi hộp.
Ta vừa nghe sách Sáng Thế kể lại câu chuyện lâm li đầy bi đát ấy.
Để thử lòng tin của Abraham, Đức Chúa bảo Abraham rằng ông hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ông, và đi đến đất Moria, ở đó ông sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Đức Chúa sẽ chỉ cho ông.
Nghe lời Đức Chúa, ông đã làm những gì Đức Chúa đã dặn.
Thế là hai cha con lên đường. Chuyện gì đến sẽ đến. Đến nơi Đức Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Đau lòng lắm nhưng Abaraham vẫn phải làm đó là giơ tay lấy sao sát tế con của mình để dâng cho Đức Chúa. Thế nhưng, ngay trong giây phút cay nghiệt đó, Đức Chúa đã nói với ông rằng "Ðừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta".
Bỗng lúc ấy, Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con của ông.
Và rồi, thiên thần Chúa gọi Abraham và nói rằng: "Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta".
Trên núi này, núi Moria là núi của niềm tin. Chính nơi đây, Abraham đã bày tỏ niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha của ông.
Núi trong Thánh Kinh, ta thường thấy để biểu thị cho sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Ta thường thấy ông Môsê lên núi để gặp Thiên Chúa, nghe lời Thiên Chúa. Không những thế, núi chính là nơi để con người dâng lên Thiên Chúa của lễ hiến tế như trong trường hợp Abraham hiến tế đứa con yêu của mình. Bàn tiệc hiến tế thường được đặt trên núi. Của lễ toàn thiêu được đặt trên bàn thờ trên núi để hiến tế cho Thiên Chúa.
Núi mà Abraham sát tế con của mình cũng chính là hình ảnh bàn thờ thập tự mà Chúa Giêsu hiến thân mình cho Chúa Cha. Trên núi Sọ, Chúa Giêsu đã hiến dâng lên Thiên Chúa của lễ toàn thiêu chính là cuộc đời của Ngài.
Ngày hôm nay, ta được thấy Chúa Giêsu vén mở cho các môn đệ thân tín được thấy vinh quang của Ngài ở trên núi cao. Chính ở trên núi cao ấy, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ thấy được vinh quang mà Thiên Chúa Cha trao ban cho Ngài.
Và rồi khi xuống núi, Chúa Giêsu căn dặn các ông không nói cho ai biết vinh quang mà Thiên Chúa Cha ban cho Ngài. Ta thấy, chính các môn đệ khi đó cũng chưa hiểu được vinh quang ấy và cũng tự hỏi nhau "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?". Chỉ đến khi đón nhận vinh quang Phục Sinh của Chúa Giêsu thì khi ấy các ông mới hiểu và mới tin.
Thật sự để có niềm tin vào Chúa Phục Sinh như các môn đệ hay hoàn toàn tin tưởng phó thác cuộc đời mình vào tay Chúa như Abraham không phải là chuyện giản đơn. Ngày nay, khi ta đọc lại, ta nghe như thế ta thường hay nghĩ rằng chuyện nhỏ! Thế nhưng, thật sự chuyện không nhỏ chút nào khi ta phải đối diện với những thử thách trong cuộc đời nhất là những thử thách đòi hỏi ta phải từ bỏ một cách triệt để.
Để có một niềm tin như Abraham không phải là chuyện dễ. Nhìn lại cuộc đời ta, đôi khi Chúa gửi đến cho ta những thử thách nho nhỏ không đáng gì một chút so với những thử thách bi đát như Abraham nhưng liệu rằng ta đáp trả như thế nào?
Có một anh bạn hớt tóc thân quen. Hỏi thăm thì mới ba mươi ngoài nhưng anh có 4 cháu! Cuộc sống cơm áo gạo tiền của anh quả thật là chật vật, quả thật là khó khăn. Thế nhưng, khi nhìn đến nhiều mảng đời xung quanh còn có những mảng đời còn vất vả hơn anh nhiều. Khi chia sẻ điều đó, anh vui vẻ nói rằng anh chẳng bao giờ phàn nàn với Chúa cả bởi lẽ Chúa đã thương ban cho anh rất nhiều.
Nói thì dễ nhưng để cảm được tình yêu thương mà Thiên Chúa trao ban trên cuộc đời này không phải là chuyện dễ. Cũng dễ hiểu bởi lẽ ai ai cũng muốn cho cuộc đời mình sung sướng, may mắn và luôn đạt được những ước mơ của mình.
Cũng chẳng có gì để khó hiểu. Ngay cả các môn đệ ngày xưa cũng thế. Được chiêm ngưỡng vinh quang tận mắt, được sống với cái vinh quang đó nhưng rồi khi xuống núi, khi trở về với đời thường các ông cũng đã không tin, không cảm nhận một thầy Chí Thánh đang sống bên đời. Chỉ đến khi Thầy Phục Sinh thì lòng các ông mới bừng cháy ngọn lửa của niềm tin.
Và như thế, để có niềm tin vào Chúa Phục Sinh, có niềm tin vào Thiên Chúa trong đời ta, không có phương cách nào tốt hơn đó chính là đời sống cầu nguyện cũng như tín thác và từ bỏ. Như các môn đệ lên núi, như Abraham lên núi thì càng nhẹ hành trang thì mới có thể lên núi được. Và, của lễ hiến tế không gì tốt hơn đó chính là bản thân ta, cuộc đời ta như chính Isaac.
Nhìn lên núi Thánh, xin Chúa thêm ơn đức tin cho ta để ngày mỗi ngày giúp ta luôn hướng về núi Thánh và can đảm từ bỏ mọi sự bám víu ở đời để ta bước theo Chúa lên trên bàn thờ thập tự và dâng chính bản thân ta là của lễ dâng lên Thiên Chúa Cha.
24/02 Yêu mến thù địch
- Viết bởi Mt 5, 43-48
Yêu mến thù địch.
Thứ Bảy tuần 1 Mùa Chay.
"Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời".
Lời Chúa: Mt 5, 43-48
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương.
Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm như thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm thế ư?
Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Yêu kẻ thù
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Tại sao anh lại bắn tôi khi cả hai chúng ta đều tin
vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất.”
Đó là một câu trong lá thư Đức Thánh Cha Gioan Phaolô định gửi
cho anh Ali Agca, người đã ám sát ngài vào ngày 13-5-1981 tại Rôma.
Nhưng ngài đã đích thân thăm anh trong tù năm 1983, và đã tha thứ cho anh.
Vào Đại Năm Thánh 2000, ngài đã xin Tổng Thống Ý cho anh được ân xá.
Điều đáng nói là anh đã chẳng bao giờ công khai xin ngài tha lỗi.
“Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (c.43).
Thật ra Luật Môsê không dạy ghét kẻ thù,
nhưng ghét kẻ thù của Thiên Chúa là chuyện có trong các thánh vịnh.
“Lạy Chúa kẻ ghét Ngài làm sao con không ghét?...
Con ghét chúng, ghét cay ghét đắng,
chúng trở thành thù địch của chính con” (Tv 139, 21-22).
Đức Giêsu dạy các môn đệ yêu kẻ thù (c. 44),
Nhưng vào sau năm 70, kẻ thù của các môn đệ là ai?
Là quân xâm lược Rôma, là thế giới dân ngoại đang bắt đạo (Mt 10, 22).
Là những người đồng hương thuộc hội đường đang ngược đãi các Kitô hữu.
Là những ai không phải là anh em, nghĩa là những ai không tin Đức Giêsu.
Đức Giêsu mời ta vượt qua khuynh hướng tự nhiên là chỉ yêu kẻ yêu mình.
Tình yêu Kitô vươn đến cả những kẻ ghét và làm hại mình nữa.
Hãy yêu kẻ thù, nhưng yêu lại không phải là một tình cảm tự nhiên.
Yêu là một thái độ của lòng nhân được diễn tả bằng những hành động cụ thể.
Yêu là cầu nguyện cho kẻ bách hại, là chào hỏi và chúc bình an cho họ.
“Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi”,
Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố như thế sau khi hồi phục.
Yêu kẻ thù làm chúng ta được ơn trở nên con cái Cha trên trời (c. 45),
trở nên giống Cha là Đấng ban mặt trời và mưa cho kẻ bất chính.
Trở nên con cái Cha là tiến trình dài một đời,
xuyên qua những hành vi yêu thương vượt trên tự nhiên.
Cha yêu mọi người chẳng trừ ai bằng một tình yêu vô điều kiện.
Chúng ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Cha
nhờ yêu kẻ thù như Cha đã yêu họ (c. 48).
Kẻ thù cũng là anh em tôi, vì họ cũng là con được Cha yêu như tôi.
Chúng ta nên nghĩ đến những kẻ thù của mình, ở rất gần mình,
những người mình không muốn chào hỏi hay nhìn mặt, chỉ muốn nguyền rủa.
Tôi sẽ làm gì để bày tỏ tình yêu tha thứ đối với họ trong Mùa Chay này?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa nói:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.” Amen. (Trích trong PRIER)
Suy Niệm 2: Hoàn thiện như Cha trên trời
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa yêu thương ta biết bao. Vì yêu thương nên Chúa muốn ta là của riêng Chúa. Là dân riêng của Chúa. Là con riêng của Chúa. Cũng vì yêu thương mà Chúa đòi hỏi ta hơn người khác. Ta phải “trổi vượt mọi dân tộc, xẻt về vinh dự, danh tiếng và vinh quang…” Và vì thế ta phải trổi vượt cả về đức độ. Vì ta phải hoàn thiện như Chúa là Cha chúng ta ở trên trời là đấng hoàn thiện. Đó là phải yêu như Chúa.
Ai cũng cảm thấy hạnh phúc khi được yêu thương. Ai cũng cảm thấy đau buồn khi bị ghét bỏ. Nhưng lòng ghen ghét vẫn tồn tại. Và tình yêu vẫn thiếu thốn. Đó là vì chúng ta yêu thương theo cảm tính, theo liên hệ bình thường. Yêu những người dễ yêu. Yêu những ai yêu mình. Đó là cảm tính. Đó là vụ lợi. Đó chưa phải là tình yêu. Vì tình yêu như thế không tùy thuộc vào ta nhưng tùy thuộc vào đối tượng. Đối tượng đó quyết định tình yêu của ta. Như thế chưa phải là tình yêu. Như thế là tình yêu có điều kiện.
Chúa Giêsu dạy ta biết thế nào là tình yêu thực sự. Tình yêu thực sự không phải là cảm tính nhưng là lý trí. Tình yêu thực sự phát xuất từ trái tim mình chứ không bị điều kiện hóa bởi đối tượng. Tôi yêu vì tôi yêu chứ không phải vì đối tượng dễ yêu hay vì đáp lại tình yêu của người khác. Tình yêu như thế cứ bừng nở, dàn trải, tỏa lan, bất chấp đối tượng có đón nhận hay không, có dễ thương hay không, có đáp lại hay không.
Yêu thương đến bao phủ mọi người trong tình yêu. Yêu thương đến hoán cải mọi người nên tình yêu. Vì thế không phân biệt kẻ thân người sơ. Vì thế cầu nguyện cho những ai chưa yêu để họ được biết yêu.
Yêu thương như thế là nên giống Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu cho mặt trời mọc lên soi sáng tất cả mọi người, cho mưa xuống trên tất cả mọi người. Tình yêu như thế sẽ lan tỏa khắp nơi. Ai lấy tay che được mặt trời. Ai có thể ngăn chặn không cho mưa rơi. Hãy là mặt trời bừng sáng bất chấp quanh ta có bóng tối hận thù. Hãy là cơn mưa tràn trề để không một loài cỏ cây hoa lá nào, không một miền nào dù đất thịt hay cát sỏi, cũng đều được mưa nhuần thấm đượm.
Yêu thương như thế là tiến đến con đường hoàn thiện. Là mang trái tim Thiên Chúa bao phủ ấp ủ cả thế giới. Yêu thương như thế là biến đổi thế giới. Vì chẳng có cái ác nào có thể ngăn chặn được tình yêu ấy. Chẳng có chia rẽ hận thù nào có thể cản trở trái tim ấy mở ra.
Suy Niệm 3: Yêu mến thù địch
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy nhưng không tài nào ngủ lại được. Sáng hôm sau, ông nói với người bạn: “Từ nhỏ đến giờ, tôi vốn là người trí dũng, đến nay đã 80 tuổi, tôi chưa hề bị ai hạ nhục, thế mà đêm qua có người đến làm nhục tôi, tôi cảm thấy bứt rứt và cố tìm gặp cho được người đó, nếu không tôi phải chết mất”.
Thế là ngay sáng hôm ấy, ông cùng với người bạn đi tìm kẻ thù. Năm năm trôi qua mà ông vẫn chưa thấy được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hậm hực vì không tìm được kẻ thù, ông ta về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.
Cicéron đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”, vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để rồi tự tiêu diệt chính mình.
Chúa Giêsu không đến để chối bỏ hận thù, nhưng để bày tỏ bộ mặt thật của nó và đánh bại nó. Thù hận là dấu chỉ sự thống trị của Satan theo đúng nghĩa nhất. Chính Satan gieo thù hận trong lòng con người, đặt con người vào thế chống đối và huỷ diệt nhau. Chúa Giêsu đã đánh bại kẻ thù ấy bằng cái chết yêu thương tha thứ của của Ngài.
Chỉ có yêu thương, tha thứ mới là khí giới tiêu diệt được kẻ thù. Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khí giới ấy trong bài Tin mừng hôm nay, đó là: “Hãy yêu mến thù địch và làm ơn cho kẻ ghét ngươi”.
Mỗi người là kẻ thù của chính mình. Mỗi khi chúng ta cưu mang thù hận thì đó là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù và tự tiêu diệt mình. Mỗi khi chúng ta khước từ tha thứ và không thi ân cho những kẻ thù ghét bách hại chúng ta, đó là lúc chúng ta tự giam hãm trong thù hận để tự huỷ hoại mình.
Kẻ thù khủng khiếp nhất, kẻ thù tiếp cận với con người nhất là cõi lòng tích chứa thù hận. Nếu loại bỏ thù hận ra khỏi lòng mình, chúng ta sẽ biến đổi kẻ thù thành bạn hữu, và lúc đó sự bình an và vui sống cũng được tái lập trong tâm hồn chúng ta.
Suy Niệm 4: Yêu thương kẻ thù
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: "Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ".
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.
"Hãy yêu mến anh em mình", mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những "anh em" được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: "Hãy ghét kẻ thù địch" thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh Thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu Ước, bất cứ ai không thuộc về Dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạn, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mạc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: "Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con". Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu: thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa. Thứ hai: Tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà là tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Nhưng tại sao phải yêu thương như vậy? Bởi vì chính chúng ta là con cái của Thiên Chúa và do đó phải noi gương trọn lành của Ngài, Ðấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người lành.
Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.
Suy Niệm 5: Luân lý cởi mở
Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. (Mt. 5, 44)
Bài trích sách Đệ Nhị Luật hôm nay thiết lập bước đầu tiên đến một nền luân lý cởi mở. Thực vậy, sách này chứa đựng nhiều điều răn có tính tôn giáo, nó nhấn mạnh tới mối giây liên lạc giữa Thiên Chúa và dân Do thái: “Ngươi sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa ngươi”. Điều quan trọng ở đây là hai bên liên kết với nhau được hoàn toàn tự do chọn lựa: một bên là Thiên Chúa và một bên là dân Do thái. Và những điều răn cũng do sự chọn lựa tự do này. Giới luật theo sau sự ban ơn cứu thoát và không qua một phương tiện nào khác, vì Thiên Chúa đã cứu thoát họ trước khi họ trung thành, sự trung thành của dân với lề luật cũng không phải là cách nhận biết ơn cứu độ đã có trước. Do đó, đây là nền tảng luân lý và đường lối sống đạo ăn rễ sâu vào kỷ niệm quá khứ: “Ngươi hãy nhớ” là câu nói then chốt của sách Đệ Nhị Luật. “Ngươi nhớ rằng ngươi đã làm nô lệ trong nước Ai cập và Gia-vê Thiên Chúa đã giải thoát ngươi ra khỏi đó”. Khi nhớ đến sự tự do và giao ước, Ít-ra-en sao quên được Đấng đã yêu thương và giải phóng mình? Những lúc họ lầm lạc, bất chính, áp bức, là những lúc họ quên kỷ niệm quá khứ.
Đức Giêsu trong Tin mừng, đã rao giảng một luân lý cởi mở. Còn đối với dân Do thái chỉ biết nên trọn lành ở sự giữ luật khắt khe, nên họ chống đối một kiểu nên trọn lành mới là kiểu của Cha trên trời. Đó là ân sủng, là tình yêu hậu đãi. Đức Kitô dùng hình ảnh mặt trời, mưa tưới. Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho muôn dân không phân biệt ai, đã làm cho mưa xuống làm phì nhiêu cho mọi loài trên trái đất. Thiên Chúa không thiên vị ai. Ngài săn sóc tất cả mọi người do lòng nhân hậu của Ngài ban cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Theo gương Ngài mỗi người Kitô hữu không được phân biệt đối xử, cũng không được đặt rào cản lối với đức yêu người. Họ phải yêu cả kẻ thù mình, không được sống theo tình cảm tự nhiên, dù kẻ thù đó là người mắc nợ với mình. Luân lý cởi mở chính là tình yêu cho không điều kiện, hoàn toàn do ân huệ của Thiên Chúa. Chúng ta phải noi gương Ngài vì Ngài đã ban Con Một Ngài đến thương yêu chúng ta dù chúng ta là kẻ tội lỗi. Kitô hữu phải nhớ Đức Giêsu Kitô, nhớ hồng ân ban đầu của Thiên Chúa đã đoái thương mình để mình cố gắng nhờ ơn Chúa mà diễn tả lòng thương yêu đó trong đời sống mình.
J.G
Suy Niệm 6: Yêu cả kẻ thù
Có nhiều nghịch lý trong Tin Mừng! Một trong những nghịch lý ấy là lời dạy của Đức Giêsu hôm nay. Ngài dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”, có thế, anh em mới trở thành con của Cha trên trời.
Tại sao Đức Giêsu lại dạy như thế? Thưa! Vì chính Ngài đã sống như vậy. Hơn nữa, đây là đặc tính của Thiên Chúa Cha, vì “Người cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất lương”.
Khi Đức Giêsu mời gọi yêu kẻ thù và nên hoàn thiện như Cha trên trời, có nghĩa là Ngài muốn chúng ta phải hành động như Ngài và nên giống Thiên Chúa.
Tuy nhiên, có điều chúng ta phải cẩn trọng để không bị lầm lẫn trong chuyện yêu và thích. Yêu là làm ơn cho họ. Thích là phản ứng tự nhiên. Chính Đức Giêsu đã yêu kẻ thù, tội lỗi và làm ơn cho họ, nhưng Ngài không chấp nhận tội, vì thế, mỗi khi làm ơn, Ngài thường nói: “Hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Mẫu gương của thánh Phanxicô cho ta thấy hai yếu tố hoàn toàn khác nhau: ngài rất gớm người cùi, nhưng lại yêu thương người cùi cách đặc biệt. Lý do: họ là hình ảnh của Thiên Chúa, được dựng nên vì tình yêu.
Mong sao, lời mời gọi của Đức Giêsu: hãy yêu kẻ thù sẽ làm cho mỗi người chúng ta đón nhận và sống trong cuộc đời chứng tá của mình, để chúng ta được trở nên giống Thiên Chúa và hoàn thiện như lời Đức Giêsu mời gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Lạy Chúa Giêsu, lời mời gọi của Chúa hôm nay khó quá! Nhưng xin Chúa ban cho chúng con noi gương Chúa để yêu bằng một tình yêu vô vị lợi và nhân từ. Xin Chúa biến đổi lòng chúng con và những kẻ thù đang tìm cách hại chúng con, để chúng con được nên một trong tình yêu. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tình yêu đến cả kẻ thù
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tình yêu thương đích thực không được đóng khung trong gia đình, họ hàng bạn hữu thân thuộc, nhưng cần phải được mở rộng tới hết mọi người, kể cả thù địch làm hại ta. Đó là giáo lý mới của Chúa Kitô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang dẫn con đến đỉnh cao đời sống Kitô giáo trong tình bác ái yêu thương. Chúa Cha trở thành mẫu mực duy nhất cho loài người chúng con: Ngài luôn quảng đại ban ơn một cách “phung phí”. Con cảm tạ hồng ân Chúa, vì con không bao giờ xứng đáng với ơn lành Chúa ban. Dù con bất xứng yếu hèn và tràn đầy khuyết điểm…, nhưng Chúa vẫn một lòng yêu thương.
Chúa mời gọi con vươn mình tới nguồn thánh thiện của Chúa. Chúa muốn con nên hoàn thiện bằng cách thoát ra khỏi chính mình, vượt ra ngoài tình thương mến hạn hẹp trong gia đình, họ hàng thân thuộc, bạn hữu, để đi đến với tất cả mọi người, để tôn trọng, quý mến và yêu thương họ.
Nhưng Chúa ơi, yêu mến những người thân là dĩ nhiên, nhưng yêu mến những người con không ưa thật là khó! Và quý mến những kẻ làm hại con là một hy sinh quá lớn lao. Xin Chúa giúp con nhận ra rằng Chúa vẫn yêu thương họ và Chúa muốn con cũng thực hiện điều ấy. Xin cho con một trái tim quảng đại, biết hướng mở tới mọi người. Xin cho con biết mở tung cánh cửa tâm hồn để sẵn sàng đón nhận tất cả mọi người. Nhờ đó hằng ngày con vui sướng đọc lời kinh Chúa dạy với đầy đủ ý nghĩa: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời”.
Suy Niệm 8: Sống yêu thương tha thứ theo Tin Mừng
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Khi vua Louis XII được tấn phong ở Reims, ông truyền đem lại danh sách các kẻ thù nghịch của ông,. Khi đọc qua danh sách, ông đánh dấu thập đỏ bên cạnh một số tên, nhất là những người chống đối ông khi ông còn là công tước xứ Orléans. Những người vô phúc không được lòng sủng ái của vua đâm hoảng sợ khi biết rằng không sớm thì muộn họ cũng sẽ bị thanh trừng. Do đó, họ tìm cách lẩn tránh khỏi triều đình. Khi được báo cáo lý do rút lui của những người này, vua Louis XII cười rộ lên và truyền lệnh gọi tất cả họ lại. Cơn sợ hãi của họ càng tăng lên bội phần.
Nhưng nhà vua nói với họ: “Ta ngạc nhiên về sự rút lui bất chợt và về lý do của sự đào thoát này của các người. Ta không hề bao giờ có ý hại các người: Vị vua nước Pháp không can dự gì vào các tranh chấp của công tước xứ Orleans. Hơn nữa, dấu thập đỏ mà ta đánh dấu bên cạnh tên của các người thay vì kích thích ta trả thù các người, thì lại khuyến khích ta khoan dung. Đúng thế, ta phải tha thứ các lỗi lầm mà các người đã làm cho ta, như Đức Giêsu Kitô trên cây thập giá đã xin Cha Người tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người”.
Suy Niệm
Để đạt tới đức ái tuyệt hảo thì Đức Kitô mời gọi chúng ta yêu thương trong mọi tương quan, với cả những người mình không thích, thậm chí với cả kẻ thù: “Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các con, Ðấng ngự trên trời”.
Có lẽ bài học khó nhất là bài học thể hiện lòng yêu thương trọn vẹn nhất trong cuộc đời: Tha thứ và yêu cả kẻ thù. Đó cũng là đỉnh cao của lòng bác ái Kitô giáo mà Chúa Giêsu đã đề nghị: Yêu kẻ ghét mình và làm ơn cho người hại mình. Chính Ngài trên thập giá đã sống đỉnh cao yêu thương này và làm gương cho chúng ta khi Ngài đối xử với những kẻ giết mình bằng lời cầu nguyện với Chúa Cha và cũng là di chúc cho chúng ta: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Lời di chúc này gợi trong lòng chúng ta: Yêu thương tha thứ như Chúa Giêsu, đến độ triệt để khai trừ mọi hành động trả thù và luôn luôn sẵn sàng đối thoại, lập lại sự giao hảo với người ghét mình, với kẻ hại mình. Sẵn sàng chia sẻ và quảng đại làm ơn: “Thi ân xóa bỏ thù hận”, cách hành xử của tôi và bạn tràn ngập yêu thương đó là luật vàng của lòng bác ái.
Như thế là sống theo lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo” (Mt 5,48).
Xin Chúa giúp chúng ta canh tân đời sống yêu thương tha thứ theo Tin Mừng.
Ý lực sống: “Có nhiều cách thức để làm việc bố thí, để giúp ta lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, nhưng không có cách nào cao cả hơn là cách chúng ta tha thứ thật lòng cho người anh em đã xúc phạm đến ta” (Thánh Augustinô).
Suy Niệm 9: Hãy yêu thương kẻ thù
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Để sống hoàn thiện theo gương Thiên Chúa là Cha trên trời, Đức Giêsu dạy các môn đệ không những không được báo thù (Mt 5,38-42), mà còn phải yêu thương kẻ thù nữa.
Trong bài Tin Mừng Đức Giêsu dạy các môn đệ một cách sống cao hơn: “Các ngươi đã nghe dạy hãy yêu thương thân nhân và hãy thù ghét kẻ thù. Còn Ta, Ta bảo các ngươi hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các ngươi”.
Lý do chúng ta phải yêu thương kẻ thù là: ”Các ngươi hãy nên hoàn hảo như Cha các ngươi ngự trên trời là Đấng hoàn hảo”.
2. Tác giả sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau: “Bác ái yêu thương là tu đức liên lỉ: tu miệng lưỡi, tu quả tim, tu lỗ tai, tu con mắt, tu lá gan. Tất cả con người của con cũng vậy, nhưng con phải yêu thương như Chúa Giêsu. Hãy lấy một tờ giấy và bình tĩnh viết lên đó đức tính của người mà con bất bình, con sẽ thấy rằng họ không hoàn toàn xấu như con nghĩ đâu. Con đừng muốn biết quá khứ của anh em, nhưng hãy chỉ muốn biết hiện tại của anh em để khuyến khích nâng đỡ nhau. Sống bổn phận hiện tại không phải là thụ động, nhưng là liên lỉ canh tân, là quyết định chọn hay chối Chúa, là tìm Nước Chúa, là tin vào tình yêu và vào Lời Chúa, là hành động với tất cả hăng say, là thể hiện mến Chúa yêu người ngay trong giây phút này”.
3. Mahatma Gandhi, vị cha già của dân tộc Ấn độ, người đã tranh đấu bất bạo động, đòi người Anh phải trao trả độc lập cho dân tộc ông, đã thực hiện đúng Lời Chúa: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ngược đãi anh em”, chính ông đã phát biểu: “Thế giới đã mệt mỏi vì sự giận ghét hận thù. Tôi cảm thấy không thể nào chất chứa trong lòng sự căm hờn thù ghét đối với bất cứ một tạo vật nào. Nhờ sự huấn luyện lâu năm trong việc tự chủ và cầu nguyện từ hơn 40 năm nay, tôi chấm dứt được sự giận ghét và oán thù đối với bất cứ người nào”.
3. Cicéron, nhà hùng biện nổi tiếng ngày xưa đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”, vì con người tự tạo cho mình kẻ thù để rồi tự tiêu diệt lấy chính mình.
Mỗi người là kẻ thù của chính mình. Mỗi khi chúng ta cưu mang thù hận thì đó là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù tự tiêu diệt mình. Mỗi khi chúng ta khước từ tha thứ và không thi ân cho kẻ thù ghét bách hại chúng ta, đó là lúc chúng ta tự giam hãm trong thù hận để tự hủy hoại mình.
Kẻ thù khủng khiếp nhất, kẻ thù tiếp cận với con người nhất là cõi lòng tích chứa hận thù. Nếu loại bỏ thù hận ra khỏi lòng mình, ta sẽ biến đổi kẻ thù thành bạn hữu, và lúc đó sự bình an và vui sống cũng được tái lập trong tâm hồn chúng ta.
4. Trong đòi hỏi yêu thương kẻ thù, giai đoạn đầu tiên là yêu thương mọi người, không trừ ai. Giai đoạn thứ hai phát xuất từ giai đoạn một: một khi đã yêu thương mọi người không trừ ai, tất phải yêu thương cả kẻ thù nghịch là những người cố ý hay vô tình làm hại ta. Nếu làm được như thế là đã cố gắng trở thành toàn thiện như Cha trên trời toàn thiện.
Mức độ tình yêu đối với tha nhân:
- Yêu người như người yêu mình, là công bằng.
- Yêu người như Chúa yêu mình, là luật bác ái.
- Yêu người như Thiên Chúa Ba Ngôi yêu thương nhau đó là mẫu gương tình yêu hiệp nhất.
5. Thường tình ai cũng yêu những người gần gũi, thân thuộc với mình, còn kẻ thù thì không yêu được, như vậy là hợp lẽ phải và công bằng. Nhưng Thiên Chúa đòi chúng ta tiến xa hơn. Đức Giêsu đòi ta mở rộng tâm hồn, kéo dài tầm nhìn vượt qua phạm vi bạn hữu, gia đình, thân cận, phe nhóm của ta.
Chúa muốn dạy chúng ta không những phải sống theo lẽ phải mà còn vượt trên lẽ phải. Bình thường chúng ta yêu bạn ghét thù, nhưng Chúa dạy chúng ta yêu bạn yêu thù, tức là Chúa dạy chúng ta đối xử với mọi người không có điều kiện nào cả, dù người đó tốt hay xấu, bạn hay thù. Chúa đưa ra ví dụ mặt trời và mưa rơi làm sáng tỏ vấn đề này.
6. Truyện: Vua Louis XII tha thứ.
Khi Louis XII được tấn phong ở Reims, ông truyền đem lại danh sách của tất cả các kẻ thù nghịch ông, nhất là những kẻ chống đối ông khi ông còn là công tước xứ Orléans. Khi đọc qua danh sách, ông đánh dấu thập đỏ bên cạnh một số tên, nhất là tên của những kẻ mà chúng ta vừa nói ở trên. Những người vô phúc không được lòng sủng ái của vua đâm hoảng sợ khi biết rằng không sớm thì muộn họ cũng sẽ bị thanh trừng. Do đó, họ tìm cách lẩn tránh khỏi triều đình. Khi được báo cáo lý do rút lui của những người này, vua Louis XII cười rộ lên và truyền gọi tất cả họ lại. Cơn sợ hãi của họ càng tăng lên bội phần.
Nhưng nhà vua nói với họ: “Ta ngạc nhiên về sự rút lui bất chợt của sự đào thoát này của các ngươi. Ta không hề bao giờ có ý hại các ngươi: Vị Vua nước Pháp không can dự gì vào các tranh chấp của công tước xứ Orléans. Hơn nữa, dấu thập đỏ mà ta đánh dấu bên cạnh tên của các ngươi thay vì kích thích ta trả thù các ngươi, thì lại khuyến khích ta khoan dung. Đúng thế, ta phải tha thứ các lỗi lầm mà các ngươi đã làm cho ta, như Đức Giêsu Kitô trên cây thập giá đã xin Cha Người tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Người”.
Suy Niệm 10: Hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước khuyên tín hữu tuân giữ lề luật và huấn lệnh Chúa. Lý do là: “Người sẽ làm cho ngươi được vinh quang, thanh danh và huy hoàng hơn mọi dân tộc Người đã tạo dựng, để ngươi trở thành dân thánh của Chúa là Thiên Chúa ngươi”
2. Bài Phúc Âm: Chúa dạy môn đệ phải biết sống một cách cao hơn: “Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con”.
Lý do cũng cao hơn: “các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Kitô hữu là con của Chúa Cha nên cũng phải cố gắng có tấm lòng yêu thương bao la như Chúa Cha. “Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương”. Biên giới của tình thương là không biên giới. Chính thiên nhiên cũng nhắc chúng ta cố gắng bắt chước tình thương không biên giới và không phân biệt của Cha trên trời.
2. Chúa Giêsu kể ra ba mức độ đối xử với kẻ không yêu thương mình:
1/ Yêu thương.
2/ Làm ơn.
3/ Cầu nguyện.
Nếu tôi chưa thể yêu thương thì hãy cố gắng lấy ơn để báo oán. Nếu vẫn chưa thể thì ít ra là cầu nguyện cho họ.
3. Người không tôn giáo chủ trương phân biệt rõ rệt bạn và thù và cư xử “ân oán phân minh”. Phật giáo đã nhận ra sự bế tắc của cách đối xử đó: Lấy oán báo oán, oán sẽ chất chồng. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn nữa: hãy yêu thương kẻ thù địch. Chỉ có yêu thương tha thứ mới tiêu diệt được kẻ thù.
4. Con người là kẻ thù của chính mình. Đời nước Tề, có một người nằm mơ thấy có người đem gươm vào nhà ông mắng chửi rồi giận dữ bỏ đi. Ông ta giật mình tỉnh dậy. Nhưng không tài nào ngủ lại được nữa. Sáng hôm sau ông nói với một người bạn: Từ thuở nhỏ đến giờ tôi chưa hề bị ai làm nhục. Thế mà đêm hôm qua có người đến làm nhục tôi. Tôi cảm thấy bứt rứt và cố tìm gặp cho được người đó, bằng không thì tôi phải chết mất.
Thế là sáng hôm ấy, ông cùng người bạn đi tìm kẻ thù đã khiêu khích mình. 5 ngày trôi qua nhưng vẫn chưa tìm được kẻ thù. Tức tối vì bị kẻ thù làm nhục, hậm hực vì không tìm được kẻ thù, ông ta về nhà mất ăn mất ngủ mà chết.
Cicéron diễn giả La Mã đã nói: “Con người là kẻ thù khủng khiếp nhất của chính mình”. Đúng thế, con người tự tạo cho mình kẻ thù rồi tự tiêu diệt chính mình. (Trích món quà Giáng Sinh)
5. Ngày nọ, Đức Giám Mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản địa cư xử thô bạo với kẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị Giám Mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị Giám Mục không cho họ làm gì. Rồi Ngài quay lưng bỏ đi.
Nhiều năm sau. một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn vì chính ngài đã dạy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh Ngài” (Góp Nhặt)
Suy Niệm 11: Phục vụ và yêu thương như Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Kitô hữu là con của Chúa Cha, nên cũng phải cố gắng có tấm lòng yêu thương bao la như Chúa Cha. “Ngài khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương” (Mt 5,45). Biên giới của tình thương là không có biên giới. Chính thiên nhiên cũng nhắc chúng ta cố gắng bắt chước tình thương không biên giới và không phân biệt của Cha trên trời.
Chúa Giêsu kể ra ba mức độ phải đối xử với kẻ không yêu thương mình:
a/ Yêu thương.
b/ Làm ơn.
c/ Cầu nguyện.
Nếu tôi chưa thể yêu thương thì hãy cố gắng lấy ơn để báo oán. Nếu vẫn chưa thể thì ít ra là cầu nguyện cho họ.
Người không tôn giáo chủ trương phân biệt rõ rệt bạn và thù và cư xử “ân oán phân minh”. Phật giáo đã nhận ra sự bế tắc của cách đối xử đó: Lấy oán báo oán, oán sẽ chất chồng.
Philipphê, vua nước Macedonia, khi đang đem quân vây thành Meton, có một tên cung thủ đại tài tên là Asthê đến xin vua cho hắn được sát nhập vào đội tinh binh của nhà vua. Người ấy khoe rằng, tài nghệ cung tên hay lắm, chim bay dầu lẹ đến mức nào, y cũng bắn không sai bao giờ. Vua mỉa mai bảo:
- Được, để bao giờ đánh trận với chim sẻ ta sẽ dùng đến tài ngươi.
Asthé nghe câu nói mỉa mai ấy, lấy làm căm tức vô cùng, liền chạy thẳng vào thành đang bị vây để chờ dịp trả thù.
Một hôm, Asthé đứng trên bờ thành, thấy vua Philipphê đang đi kinh lý các trại đóng binh ở ngoài thành. Asthé liền lấy một cây tên, viết vào mấy chữ: gửi cho con mắt bên phải của vua Philipphê rồi bắn xuống. Tên trúng giữa mắt phải của vua. Nhà vua tức giận vô cùng, truyền cho cận vệ ghi lên mũi tên ấy câu này: “Ta mà lấy được thành này, Asthé sẽ bị xử giảo”, rồi truyền cho quân sĩ bắn tên ấy vào thành.
Sau quả đã xảy ra đúng như vậy.
Vua Philipphê thật đã mua một giá rất đắt cái thú được nói một lời có ý mỉa mai. Nhưng mà Asthé lại mua đắt hơn cái thú trả được thù.
Lòng hiềm thù nhiều khi đưa con người đến chỗ bế tắc. Cái thói muốn châm chích người ta cũng nguy hiểm chẳng kém gì. Đành rằng, nói được những câu thâm trầm khiến cho người ta bị chạm và đau khổ nhiều khi cũng là một cái thú ở trên đời. Thế nhưng, đó không phải là điều mà lúc nào người ta cũng nên làm.
Thường thường người ta có thể tha thứ cho ta một tội ác dễ hơn là tha thứ cho ta một lời nói độc.
Chúng ta không thể quên Lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các con” (Mt 5,44) và “Hãy tha thứ để được Thiên Chúa tha cho” (Lc 6,37).
2. Hãy yêu thương kẻ thù địch. Chỉ có yêu thương tha thứ mới tiêu diệt được kẻ thù.
Hai người cùng bán hàng tại một khu phố. Vì tranh giành khách hàng nên hai người đã trở nên kình địch với nhau.
Một trong hai người này xin trở lại đạo Công Giáo. Một hôm người này đến hỏi cha xứ:
- Thưa Cha, con vẫn ghét kẻ thù địch của con, con không biết làm thế nào để có thể lướt thắng được điều này. Xin Cha giúp ý cho con.
Cha xứ hỏi:
- Kẻ thù của ông là ai?
Sau khi đã nghe biết đầu đuôi câu chuyện, cha xứ góp ý:
- Mỗi lần có khách hàng nào đến cửa tiệm của ông mà ông không có món hàng người đó muốn mua, ông hãy giới thiệu cho người khách đó qua cửa tiệm của người đang kình địch với ông. Ông hãy cứ thử làm như thế xem sao!
Người kia đã về làm như lời cha xứ dạy và kết quả là số khách hàng đến cửa hàng của người không Công giáo mỗi ngày một đông. Nhưng đồng thời người này cũng nhận ra rằng, hàng hóa của ông bán cũng chạy hơn kể từ ngày ông thực hiện lời khuyên của cha xứ.
Thành thực mà nói, ai trong chúng ta, ít nhiều gì cũng có kẻ thù và có lẽ lúc này đây chúng ta cũng đang mang một mối hận thù hay là một sự cay đắng nào đó đối với một người đã xúc phạm đến chúng ta.
Phương thuốc hay nhất để diệt kẻ thù là biến kẻ thù trở thành bạn. Khi đó chúng ta không mất người, nhưng lại còn được thêm bạn.
Tổng thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ có thói quen áp dụng phương pháp bất thường để kết bạn.
Một lần kia ông đã dùng lời hay ý đẹp để nói tốt về những chính trị gia đối lập với mình. Nghe biết thế, một phụ nữ thắc mắc:
- Tại sao ông lại ca ngợi những địch thù của mình như vậy, khi mà lẽ ra ông phải phê bình chỉ trích để làm hạ giá và hủy diệt họ?
Tổng thống Abraham Lincoln đã trả lời người đã hỏi ông về vấn đề này bằng một câu nói:
- Biến thù thành bạn, đó lại không phải là cách tôi tiêu diệt kẻ thù hay sao?
Lạy Chúa Giêsu,
Giữa một thế giới còn tràn ngập hận thù và chia rẽ.
Xin dạy con biết phục vụ và yêu thương như Chúa. Amen.
23/02 Tha thứ
- Viết bởi Mt 5, 20-26
Tha thứ.
Thứ Sáu tuần 1 Mùa Chay. – Thánh Pôlycarpô, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ
“Hãy đi làm hoà với người anh em ngươi trước đã”.
* Thánh Pôlicáp là môn đệ của thánh Gioan và là chứng nhân cuối cùng của thời các Tông Đồ. Người đã chết trên giàn hoả thiêu, giữa hí trường Miếcna, trước mặt dân chúng. Đang lúc đó, người dâng lời tạ ơn Chúa “vì mình đã được xét là xứng đáng được kể vào số các chứng nhân (tử đạo) và được chia sẻ chén đắng của Chúa Kitô”. Hôm đó là ngày 23 tháng 02 năm 155, thánh nhân được tám mươi sáu tuổi.
Lời Chúa: Mt 5, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Nếu các con không công chính hơn các luật sĩ và biệt phái, thì các con chẳng được vào Nước Trời đâu.
Các con đã nghe dạy người xưa rằng: Không được giết người. Ai giết người, sẽ bị luận phạt nơi toà án. Còn Ta, Ta bảo các con: Bất cứ ai phẫn nộ với anh em mình, thì sẽ bị toà án luận phạt. Ai bảo anh em là “ngốc”, thì bị phạt trước công nghị. Ai rủa anh em là “khùng”, thì sẽ bị vạ lửa địa ngục.
Nếu con đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ người anh em đang có điều bất bình với con, thì con hãy để của lễ lại trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em con trước đã, rồi hãy trở lại dâng của lễ. Hãy liệu làm hoà với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa con ra trước mặt quan toà, quan toà lại trao con cho tên lính canh và con sẽ bị tống ngục. Ta bảo thật cho con biết: Con sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng bạc cuối cùng!”
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Làm hòa
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Ngày 5-2-2009, trong một cuộc gặp gỡ thường niên có tính tôn giáo,
Tổng thống Mỹ Barack Obama đã chia sẻ với các tham dự viên:
“Dù chúng ta chọn niềm tin nào, hãy nhớ rằng
chẳng có tôn giáo nào lấy căm thù làm giáo lý chủ yếu cho mình…
Chẳng có Thiên Chúa nào lại dung túng
chuyện cướp đi mạng sống của một người vô tội.”
Trên núi Sinai, ông Môsê đã nhận được giới răn “Ngươi chớ giết người.”
Đức Giêsu cho thấy uy quyền của mình trong việc giải thích giới răn ấy.
“Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”
Ngài đã đẩy giới răn này đi xa hơn nhiều, vào tận trái tim con người:
“Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra tòa” (c. 22).
Tình cảm nóng giận có thể dẫn đến nhiều chuyện không hay.
Nó khiến người ta dùng lời nói mà lăng mạ, làm nhục người khác.
Giận mất khôn, nóng giận thậm chí có thể đưa đến chỗ giết người.
Nhưng Đức Giêsu không muốn loại trừ thứ nóng giận chính đáng,
như ta thấy có nơi Ngài (x. Mc 3,5; Mt 23,17).
Mùa Chay là thời gian dành cho việc làm hòa với người anh em.
Đây là công việc vừa quan trọng, vừa cấp bách.
Quan trọng đến nỗi đòi ta để của lễ lại trước bàn thờ
và đi làm hòa với người anh em đó, rồi mới trở lại dâng của lễ.
Tương quan với Thiên Chúa cần được diễn ra trong bầu khí hòa thuận.
Chúa chỉ nhận lễ vật khi trái tim ta bình yên.
Điều đáng lưu ý là chúng ta phải đi làm hòa
với các anh em đang có điều bất bình với ta,
phải đi bước trước làm hòa dù ta chẳng phải là người gây chuyện.
Nhưng cũng phải làm hòa với cả thù địch của mình (c. 25).
Trên đường bị đưa đến cửa công, cần mau mau dàn xếp cho ổn thỏa.
Cần trả ngay món nợ chưa thanh toán, kẻo bị kết án và tống ngục.
Làm sao thời gian Mùa Chay vừa là thời gian ta làm hòa với Chúa,
vừa là thời gian ta làm hòa với một người đang sống gần bên.
Đó là thời gian người con cả thôi đứng ngoài cổng,
nhưng vào nhà để chung vui với cha và ôm lấy người em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em. Amen.
Suy Niệm 2: Thanh tẩy tâm hồn
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa là tình yêu. Tội lỗi đem đến chết chóc. Thiên Chúa không ngừng mong chờ, thúc giục con người từ bỏ tội lỗi, sống công chính để được sự sống.
Thiên Chúa mong muốn con cái Người công chính hơn người Biệt phái. Nếu người Biệt phái chỉ giữ lề luật theo hình thức, Thiên Chúa mong muốn con cái của Người giữ lề luật bằng tình yêu.
Theo luật thường, ai xúc phạm đến thân xác đồng loại mới bị trừng phạt. Nhưng Chúa dậy ta ai xúc phạm đồng loại chỉ bằng lời nói, thậm chí chỉ trong tư tưởng thôi cũng đã bị trừng phạt rồi.
Như thế Chúa không hài lòng với vẻ hài hòa bên ngoài. Chúa nhìn tận đáy sâu tâm hồn. Chúa đòi hỏi tình yêu thực sự phát xuất từ đáy lòng. Vì thế, không làm ác là chưa đủ. Vì nếu ta chất chứa lòng ghen ghét trong tâm hồn thì mầm mống chiến tranh hận thù vẫn còn đó. Sẽ có lúc bùng nổ. Không làm ác mới chỉ bằng người Biệt phái mà thôi. Chúa muốn con cái Chúa phải công chính hơn người Biệt phái. Phải có tình yêu từ đáy tâm hồn. Phải nghĩ tốt và nói tốt cho người khác.
Và ngạc nhiên chưa, Chúa còn đi một bước nhảy vọt. Buộc ta phải làm hòa với người bất bình với ta. Tại sao thế? Vì Chúa muốn thế giới sạch bóng thù hận ghen ghét để tình yêu thống trị. Dù ta không gây ra chia rẽ bất hòa, ta vẫn có nhiệm vụ hàn gắn chia rẽ bất hòa. Vì ta đã là duyên cớ dù vô tình cho người oán ghét. Vì ta có nhiệm vụ tiếp tay với Chúa làm cho thế giới sống hài hòa.
Chỉ sau khi làm hòa ta mới có thể dâng của lễ. Vì Chúa là tình yêu không thể nhận của lễ khi thế giới còn chia rẽ bất hòa. Vì của lễ ta dâng đẹp lòng Chúa không phải là lễ vật đắt tiền quí giá, nhưng là sự hi sinh kiến tạo hòa bình, xây dựng tình yêu. Điều đó buộc ta không chỉ thanh tẩy mình mà còn phải thanh tẩy cả thế giới. Không chỉ tắm rửa cho bản thân, nhưng con phải lau sạch cả căn nhà. Không chỉ không giận ai mà còn phải làm cho không ai giận mình. Lúc ấy thế giới mới thật sự tươi đẹp.
Nếu thế mùa chay này tôi còn rất nhiều việc phải làm để xứng đáng dâng lễ Chúa Phục Sinh.
Suy Niệm 3: Tha thứ
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Vào thời thế chiến thứ nhất, khi nhận được tin con trai yêu quí của mình tử trận, nữ bá tước Litsi rất đau khổ và hầu như mất cả nghị lực. Tuy nhiên bà vẫn cố gắng lao mình vào việc chăm sóc bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập.
Một ngày nọ, một binh sĩ Đức được chở tới bệnh viện. Dù người lính này thuộc phe đối nghịch nhưng bà vẫn tận tình săn sóc. Khi soạn đồ đạc của anh, bà thấy chiếc ví và đồng hồ của con trai mình trong túi áo người lính. Vừa bàng hoàng, vừa tức giận, bà đã thốt lên: “Đây đúng là kẻ đã giết con tôi”. Nhưng ngay lúc đó một mảnh giấy trong chiếc ví của con bà rơi ra, bà vội nhặt lên đọc; nét chữ quen thuộc đập vào mắt bà: “Mẹ yêu quí, con luôn nhớ đến và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con tử trận, xin mẹ đừng quá đau buồn, hãy can đảm chịu đau khổ và cầu nguyện cho con”. Sau một hồi xúc động, bà cúi xuống tiếp tục săn sóc người lính một cách tận tình. Những giọt nước mắt tha thứ trào ra từ đôi mắt bà.
Trong cuộc sống thường ngày, chắc chắn chúng ta không có dịp để tha thứ cho những xúc phạm nặng, nhưng những phiền lòng nho nhỏ thì không thiếu và do đó chúng ta luôn được mời gọi để tha thứ. Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã ghi lại kinh nghiệm như sau: “Đừng tức tối vì người ta chỉ trích con, hãy cám ơn vì còn bao nhiêu tồi tệ khác nơi con mà người ta chưa nói tới. Chúa nói: nếu ai làm mất lòng con, hãy để của lễ về làm hoà với người ấy trước; còn con, con làm ngược lại: cứ dâng của lễ và phóng thanh cho mọi người biết. Con không khuyết điểm tại sao lại tức tối và tấn công khuyết điểm của người khác.”
Thật ra, tha thứ không phải là điều dễ. Nhưng đó lại là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng: “Nếu ngươi đang dâng của lễ nơi bàn thờ mà sực nhớ anh em đang có điều bất bình với ngươi, hãy đặt cuả lễ trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em trước, rồi hãy đến mà dâng của lễ”. Tha thứ không có nghĩa là một sự cắt đứt, nhưng là bắt đầu lại mối tương quan tốt đẹp với người anh em, theo gương Chúa đã tha thứ và bắt đầu lại mãi với mỗi người chúng ta.
Suy Niệm 4: Sự thánh thiện đích thực
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Chân phước Marchello, một kỹ nghệ gia giàu có người Italia, đã bán hết tất cả gia sản và sang Châu Mỹ La tinh phục vụ những người phong cùi, có kể lại câu chuyện như sau:
Tại một viện bài phung giữa rừng già miền Amazone, có một người đàn bà thoạt nhìn qua ai cũng thấy đáng thương. Từ nhiều năm qua, vì phong cùi, bà bị chồng con bỏ rơi, bà sống đơn độc trong một túp lều gỗ, mặt mũi đã bị đục khoét đến độ không còn hình tượng con người nữa.
Mang đến cho bà vài món quà, chân phước Marchello hỏi bà:
- Bà làm gì suốt ngày? Có ai đến thăm bà không?
Người đàn bà trả lời:
- Tôi sống đơn độc một mình. Tôi không còn làm được gì nữa, tay chân bại liệt, mắt mũi lại chẳng còn trông thấy gì nữa.
Marchello tỏ ra cảm thông trước nỗi khổ của bà, ngài hỏi:
- Vậy chắc bà phải cô đơn buồn chán lắm phải không?
Người đàn bà liền nói:
- Thưa ngài, không. Tôi cô độc thì có, nhưng tôi không hề cảm thấy buồn hoặc bị bỏ rơi, bởi vì tôi cầu nguyện suốt ngày và tôi luôn cảm thấy có Chúa bên cạnh.
Ngạc nhiên về lòng tin của bà, chân phước Marchello hỏi tiếp:
- Thế bà cầu nguyện cho ai?
Người đàn bà như mở to được đôi mắt mù lòa, bà nói:
- Tôi cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, cho các Giám Mục, Linh mục, Tu sĩ. Tôi cầu nguyện cho những người phong cùi bị bỏ rơi, cho các trẻ em mồ côi, cho tất cả những ai giúp đỡ trung tâm này.
Chân phước Marchello ngắt lời bà:
- Bà không cầu nguyện cho bà sao?
Với một nụ cười rạng rỡ, người đàn bà quả quyết:
- Tôi chỉ cầu nguyện cho những người khác mà thôi, bởi vì khi người khác được hạnh phúc, thì tôi cũng được hạnh phúc.
Thái độ sống và cầu nguyện của người đàn bà phong cùi trên đây minh họa cho sự thánh thiện đích thực là người chỉ sống cho người khác, lấy hạnh phúc của người khác làm của mình. Ðể có được thái độ như thế, chắc chắn phải có một đức tin sâu xa, một đức tin luôn đòi hỏi con người nhận ra hình ảnh của Thiên Chúa trong mọi người và yêu thương mọi người. Như vậy, thánh thiện và bác ái cũng là một: thánh thiện mà không có bác ái là thánh thiện giả hình.
Chúa Giêsu đã đến để đem lại cho sự thánh thiện một nội dung đích thực. Ngài đề ra một mẫu mực thánh thiện hoàn toàn khác với quan niệm và thực hành của người Biệt Phái và Luật Sĩ, tức là những nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó. Theo họ, thánh thiện là chu toàn một cách chi li và máy móc những luật lệ đã được quy định mà không màng đến linh hồn của lề luật là lòng bác ái; họ có thể trung thành tuyệt đối với những qui luật về ăn chay và cầu nguyện, nhưng lại sẵn sàng khước từ và loại bỏ tha nhân.
Ðả phá quan niệm và cách thực hành của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, Chúa Giêsu đưa bác ái vào trọng tâm của lề luật; hay đúng hơn, Ngài tóm lại tất cả lề luật thành một luật duy nhất, đó là lòng bác ái. Ai muốn làm môn đệ Ngài, người đó phải vượt qua quan niệm và cách thực hành đạo của những người Biệt Phái và Luật Sĩ, nghĩa là cần phải lấy bác ái làm linh hồn và động lực cho toàn cuộc sống: “Nếu các con không ăn ở công chính hơn những Biệt Phái và Luật Sĩ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”
Quả thật, nếu an bình, hân hoan, hạnh phúc là thể hiện của Nước Trời ngay trong cuộc sống này, thì chúng ta chỉ được vào Nước Trời, nếu chúng ta biết sống cho tha nhân mà thôi. Sống vui và hạnh phúc, phải chăng không là mơ ước của mọi người, nhưng liệu mỗi người có ý thức rằng bí quyết của hạnh phúc và niềm vui ấy chính là sống cho tha nhân không? Kỳ thực, các thánh là những người đạt được niềm vui và hạnh phúc ấy ngay từ cuộc sống này. Người Tây phương đã chẳng nói: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn” đó sao?
Nguyện xin Chúa cho chúng ta luôn biết tìm kiếm và cảm nếm được niềm vui và hạnh phúc đích thực trong yêu thương và phục vụ.
Suy Niệm 5: Anh hãy làm như vậy
Thầy bảo thật cho anh em biết nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
“Anh em đã nghe luật người xưa rằng: Chớ giết người, ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì phải đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải đưa ra trước thượng hội đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt.” (Mt. 5, 20-22)
Mọi người làm thế, anh hãy làm như vậy! hay câu: “Ai sao, tôi vậy”. Đó là một trong câu châm ngôn được rêu rao trong công chúng. Trong thế giới chúng ta đang sống, những phương tiện thông tin không mấy khi loan tin đúng đắn và càng ít tính chất giáo dục. Chúng ta luôn là nạn nhân bị xô đẩy bởi những quảng cáo nhằm đoàn ngũ hóa từ cách hành động đến lối suy nghĩ của chúng ta. Người ta nhấn mạnh chúng ta phải ăn những món ăn này, uống những thứ nước kia, thí dụ họ bảo phải ăn thứ dồi xúc xích này vì mọi người ăn nó, phải uống nước ngọt kia vì mọi người uống nó. Cả đến cách ăn mặc cũng phải mặc quần áo đồng phục, nam nữ như nhau. Chúng là dấu chỉ của phong trào đoàn ngũ hóa, làm mất nhân cách độc đáo của mình và hóa thành đồng loạt. Khuynh hướng này còn dẫn tới cả phương diện luân lý và lối hành xử cá nhân nữa: mọi người làm thế, anh cũng phải thế … như thể người ta đúc khuôn hạnh kiểm bắt mọi người chui vào đó cho đồng đều.
Ngôn sứ Ê-giê-ki-en nhắc nhở chúng ta phải nhớ đến trách nhiệm cá nhân. Chúng ta là những cá nhân nghĩa là chúng ta có những chọn lựa những hành vi xấu tốt theo cá tính mình và bảo đảm về những hậu quả đó. Chúng ta không thể chất những gánh nặng lên vai người khác. “Ta sẽ phán xét mỗi người theo đường lối của họ”. Người công chính sống theo đường công chính của mình, kẻ dữ sẽ chết vì đường hư đốn của nó. Họ sẽ bị xử theo sự lựa chọn cá nhân họ, chứ không theo một thời đại. Trong Tin mừng, Đức Giê-su còn đi xa hơn nữa. Luật cũ cấm giết người, Đức Ki-tô còn cấm chửi, mắng, giận anh em mình và Người còn cấm đến tận căn nguyên sinh ra những hành động xấu nữa: là tấm lòng, là con tim mỗi người.
Ai bất hòa với anh em thì mối giây liên đới với Thiên Chúa cũng bị cắt đứt. Yêu thương anh em là điều kiện cần thiết: Không có lòng mến Chúa thật, nếu lòng mến đó không bám rễ trong lòng hòa thuận với anh em, bất cứ hành vi thờ phượng nào cũng sẽ vô nghĩa và không thể đẹp lòng Thiên Chúa nếu không có hòa bình ngự trị giữa anh em với nhau.
Mùa chay là thời giờ chúng ta tới gần Chúa, nhưng Đức Giê-su nói với chúng ta rằng: “Hãy coi chừng, trước hết, hãy xem xem tâm trạng của con đối với anh em con thế nào”.
G.M
Suy Niệm 6: Tình yêu hóa giải hận thù
Người Công Giáo chúng ta thật hạnh phúc vì được gọi Thiên Chúa là Cha và được Người nhận là con trong ân sủng. Hơn nữa, chúng ta được Con Thiên Chúa đến để cứu chuộc chúng ta bằng chính cái chết trên Thánh Giá. Mặt khác, Ngài tiếp tục thi ân giáng phúc cho chúng ta qua Giáo Hội nơi các Bí tích.
Tuy nhiên, nếu niềm vui, hãnh diện, tự hào vì được đảm bảo bao nhiêu, thì chúng ta phải cẩn trọng bấy nhiêu, vì chính Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn Luật sĩ và Pharisiêu thì anh em không được vào Nước Trời”.
Đức Giêsu đã cắt nghĩa vấn đề này bằng một loạt bài giảng về luận lý từ chương 6 đến chương 8 trong Tin Mừng theo thánh Mátthêu: đừng giận ghét, đừng gian dâm, đừng nóng giận, đừng thề thốt... Về vấn đề giận dữ, thánh Gioan còn nói rõ: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt”. Hơn nữa, Ngài còn nói rõ điều kiện để được Chúa nhận lời là phải tha thứ: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.
Trong cuộc sống hôm nay, biết bao mối thù hận, giận ghét ngay trong gia đình như: mẹ chồng nàng dâu; cha mẹ với con cái; anh chị em trong gia đình với nhau... Hay hàng xóm; nghề nghiệp, bạn bè... Biết bao nhiêu giận hờn chồng chất!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy lấy tình yêu hóa giải hận thù, vì chỉ có tình yêu mới cải tạo được con người; còn bạo lực, oán thù chỉ đem lại chết chóc mà thôi. Nếu có ai đó mà chúng ta không thể thương được thì đừng làm hại họ, nhưng hãy làm ơn cho họ.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho chúng con biết yêu thương anh chị em mình bằng tình thương của Chúa. Yêu đến nỗi đi bước trước và chết cho người mình yêu. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Nội tâm hóa lề luật
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa đòi buộc ta: không những không được giết người bằng gươm đao, súng đạn, mà còn phải diệt trừ mọi mầm mống đưa đến giết người, đó là sự giận hờn, phẫn nộ, thù ghét, xúc phạm đến nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy con nội tâm hóa lề luật: không chỉ cái bên ngoài là xấu, mà cái xấu bắt đầu từ chính lòng con. Chúng con nghĩ xấu về nhau, lăng nhục, cãi vã, tranh chấp, xúc phạm đến anh em, đó là dấu chứng trái tim con còn thiếu yêu thương, chưa biết đón nhận và tha thứ cho người khác.
Con biết Chúa yêu thương loài người chúng con vì mỗi người là hình ảnh của Chúa Cha và là anh em của Chúa. Không có gì đụng chạm tới con người mà lại không đụng chạm tới chính Chúa. Chính khi nhập thể làm người, Chúa đã sống trọn vẹn kiếp người và đã tự đồng hóa với chính những kẻ bé mọn nhất. Vì thế, Chúa dạy con yêu thương anh em. Chúa dạy con chẳng những không được giết người, mà còn không được xúc phạm đến anh em khi nghĩ xấu, nói xấu, giận hờn, phẫn nộ hoặc thù ghét.
Lạy Chúa, Chúa là tình yêu và là tình yêu bao trùm chúng con. Làm sao con có thể đến với Chúa khi lòng còn chất chứa hận thù, ghen ghét? Con chưa phải là người con của Chúa khi còn thiếu vắng yêu thương tha thứ. Xin Chúa cho con biết làm hòa với anh chị em con trước, để con xứng đáng đến trước bàn thờ Chúa dâng lễ. Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng tấm lòng, biết quảng đại, yêu thương và tha thứ.
Chúa đã rộng lượng tha thứ cho con tất cả, xin giúp con cũng biết quảng đại tha thứ cho anh chị em con. Con muốn sống yêu thương mọi người chỉ vì chính Chúa đã quảng đại yêu thương con. Amen.
Ghi nhớ: “Hãy đi làm hòa với người anh em ngươi trước đã”.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu đến kiện toàn luật Cựu ước
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Dưới thời hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của Hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị Hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathide. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng đế nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dù biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.
Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính toà Quellimbourg. Đến phần Phụng vụ Lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và sấp mình dưới chân hoàng đế xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói: “Ba lần ta đã tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi”. Đúng lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi Chúa: “Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Có phải bảy lần chăng”. Chúa đáp: “Ta không nói với con là bảy lần mà là bảy mươi lần bảy”.
Nghe lời đó, hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những hoàng đế tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa (Theo Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A).
Suy Niệm
Chúa Giêsu đến để kiện toàn thái độ và áp dụng tinh thần của luật là dẫn đến tình thương. Cho nên, luật của Đức Kitô hoàn thiện và “trội hơn” Luật cũ - Cựu ước, khi Đức Giêsu đề nghị không chỉ sống... theo luật nhưng sống theo luật với ân sủng và tình yêu, luật vì con người. Chúa Giêsu mời gọi con người không dừng lại ở những việc làm vụ hình thức, mà phải “công chính hơn” tới mức hoàn thiện “như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
Trong tinh thần tiến xa và hoàn thiện luật, sự hoàn thiện đó đã thiết lập luật mới, Chúa Giêsu dạy hãy biến “ách nặng nề, nô lệ” của luật cũ thành “sự tự do vui thỏa” trong Chúa Thánh Thần. Đừng câu nệ ở nơi chữ viết ràng buộc mà cảm nghiệm sâu xa từ trái tim mình là chủ đích của luật Chúa. Chúng ta thấy rõ minh họa đầu tiên qua “mối tương giao huynh đệ”: Thập giới truyền bảo “ngươi không được giết người’? Còn Chúa Giêsu, đi đến cùng đích đòi hỏi của Lề Luật, khi tuyên bố rằng, việc không phạm tội sát nhân thôi chưa đủ, mà còn phải loại bỏ nỗi oán hận và giận hờn khỏi lòng mình nữa: “Các con đã nghe người xưa dạy rằng “Không được giết người… còn Ta, Ta bảo thật bất cứ ai phẫn nộ với anh chị em mình, thì sẽ bị phạt nơi tòa án…” (Mt 5,21-22). Thật thế, trong sự hoàn thiện của luật, không chỉ giết người mới được coi là phạm luật, phải ra toà mà ngay cả thái độ giận dữ, hay buông lời nhục mạ anh em cũng được coi là đã vi phạm luật. Và có ý muốn ngoại tình là đã phạm tội ngoại tình trong tư tưởng rồi (x. Mt 5,27). Thậm chí chưa tích cực giải hòa với một người anh em đã gây căng thẳng, bất bình, cũng coi như là phạm luật, không còn quyền dâng của lễ cho Thiên Chúa nên Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để lễ vật lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Chúa Giêsu đến làm trọn Lề Luật trong tinh thần của luật yêu thương, có chiều kích nội tâm, để xoá bỏ những lối giải thích Lề Luật rắc rối bên ngoài làm cho con người trở nên vụ lợi và hình thức mà Chúa Giêsu đã kết án: “Khốn cho các ngươi giả hình, như mả tô vôi, bên ngoài trắng trẻo mà bên trong thối tha” (Mt 23,13-36).
Chúa Giêsu hoàn thiện luật khi không dừng lại, quanh quẩn ở luật pháp mà vượt qua luật, Ngài dẫn đưa nhân loại đi tới Tin Mừng (Phúc Âm) đem hạnh phúc tình thương cho con người. Chính bài giảng Bát phúc trình bày tính cách vĩnh cửu của luật pháp mà Ngài hoàn thiện.
Xin Chúa thổi tình yêu vào trong cuộc sống chúng ta, để khi tuân giữ mọi giới răn Đạo Chúa, mọi giáo huấn của Giáo hội Chúa Kitô, chúng ta giữ luật Chúa không chỉ vì sợ và tỏ lòng kính tôn, nhưng thực thi với tinh thần của tình yêu như thánh Augustinô nhấn mạnh trọng tâm của luật Chúa là tình yêu: “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm” (Thánh Augustinô).
Ý lực sống: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).
Suy Niệm 9: Hãy làm hòa với nhau
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu đến trần gian không phải để phá bỏ lề luật và các tiên tri, nhưng chỉ đến để hoàn thiện thôi. Vì thế, Ngài sửa đổi tệ tục trong đời sống xã hội, gia đình và tôn giáo, điển hình như thái độ đối với kẻ thù (Mt 5,17-48).
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kêu gọi môn đệ Ngài phải công chính hơn các luật sĩ và biệt phái (nghĩa là đừng bao giờ tự mãn vì đạo đức của mình). Một phương diện cụ thể của đức công chính mới là tương giao: phải coi mọi người là anh em của mình (chữ “anh em” được lặp đi lặp lại nhiều lần nhất trong đoạn này). Trên cơ sở tình huynh đệ ấy, đừng mắng chửi, cũng đừng nuôi giận hờn lâu, hãy cố gắng làm hòa với nhau.
2. “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các luật sĩ...”
Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ cũng như chúng ta phải công chính hơn các luật sĩ và biệt phái. Điều này có nghĩa là chúng ta phải giữ luật, bất cứ luật gì, đều phải trọn vẹn cả hình thức lẫn nội dung, bên ngoài cũng như ý hướng nội tâm: lý do là vì Chúa thấu suốt cả bên ngoài lẫn bên trong con người chúng ta.
Các luật sĩ và biệt phái chỉ chú trong đến hình thức bên ngoài của luật, nhưng chúng ta phải giữ luật từ ý hướng bên trong là căn bản, biểu lộ ra bên ngoài là hình thức.
3. “Chớ giết người, kẻ giết người sẽ bị kết án”.
Luật cũ chỉ đòi hỏi bảo vệ thể xác con người khi áp dụng điều răn thứ năm: chớ giết người. Còn Đức Giêsu lại đi xa hơn, Ngài dạy: phải bảo vệ con người cả thể xác lẫn tinh thần. Luật mới của Chúa vượt trên luật cũ của Cựu ước và vượt trên cả công lý nữa, nghĩa là công lý hay luật pháp chỉ kết án một người phạm tội giết người cụ thể, rõ ràng. Còn Chúa nói đến nguồn gốc của tội là gì và kết án ngay từ trứng nước.
Nói rõ hơn, người xưa chỉ kết tội khi giết người, còn Chúa lên án ngay từ đáy lòng kẻ mắc tội ấy, vì kẻ giết người thì thường bắt đầu từ chỗ ghen ghét, ganh tị, giận dỗi, tức giận, và Chúa cấm ngay từ chỗ tư tưởng đó chứ không chờ cho việc xẩy ra bằng hanh động, Chúa cấm từ trong trứng nước là thế.
4. “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật… hãy đi lam hòa với anh em trước đã”.
Chúa dạy chúng ta phải làm hòa với nhau trước dâng của lễ cho Thiên Chúa. Hòa giải là một danh từ của thời đại, hòa giải là một nhu cầu cần thiết của thời đại, vì thế hòa giải là mục tiêu phải đạt tới của nhiều phe nhóm kình chống nhau, cũng như của các quốc gia trước đây, coi nhau như thù địch.
Trên bình diện tôn giáo cũng thế, các hoạt động đại kết của các Giáo hội Kitô chỉ đạt được, nếu có sự hòa giải chân thành, khiêm tốn, nhìn nhận lỗi lầm của mình, đồng thời cố gắng tỉm hiểu nhau, khám phá những gì giúp liên kết nhau, hơn là đào sâu hố chia rẽ.
Hôm nay Chúa có ý bảo chúng ta hãy tha thứ cho nhau. Tha thứ là điều kiện để được thông hiệp với Thiên Chúa. Vì thế trong phụng vụ Thánh lễ, để xứng đáng cử hành và tham dự, nhất là để hiệp lễ, Hội thánh đòi hỏi chúng ta phải sám hối và tha thứ cho nhau.
5. “Anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi...”.
Việc làm hòa với tha nhân được coi như một món nợ phải đền, và đền cách trọn vẹn đầy đủ đến đồng xu cuối cùng. Chi tiết này cho thấy việc hòa giải là cần thiết và cấp bách, vì nó cần cho sự thông hiệp với Thiên Chúa trong đời sống vĩnh cửu.
Hãy giải quyết với nhau khi còn dọc đường, đừng để khi đến tòa rồi thì đã muộn. Cùng trong một ý tưởng trên, Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta, bao lâu chúng ta còn thời giờ (trong thời đại chúng ta đang sống), hãy lo giao hòa với Chúa, với anh em và lo canh tân đời sống, đừng để khi phải ra trước tòa chung thẩm, chúng ta không còn cơ hội để sửa sai nữa, và chúng ta sẽ phải đền trả nơi luyện tội cho tới khi đủ số ngày (đồng xu cuối cùng).
6. Truyện: Hoàng đế Othon làm hòa với em.
Dưới thời Hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của Hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị Hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathilde. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng để nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dầu biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.
Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, Hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính tòa Quellimbourg. Đến phần Phụng vụ Lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và sấp mình dưới chân Hoàng đế để xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói: “Ba lần ta đã tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi”. Đang lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi Chúa: “Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Có phải 7 lần không”? Chúa đáp: “Ta không nói với con là 7 lần mà là 70 lần 7”.
Nghe lời đó, Hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những Hoàng đế tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A).
Suy Niệm 10: Công chính hơn người biệt phái
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu đề ra lý tưởng sống cho người môn đệ: phải công chính hơn những người biệt phái. Công chính của người biệt phái là lo giữ luật cách chín chắn không sơ sót chút nào, nhưng họ giữ luật một cách máy móc không chút tâm tình. Còn sự công chính của các môn đệ Chúa là giữ mọi khoản luật với tâm tình yêu thương, thương người như anh em và thương Chúa như Cha mình.
Sau đó Chúa Giêsu đưa ra thí dụ về cách giữ một số khoản luật:
Luật “không được giết người”: môn đệ Chúa không chỉ tránh giết người mà phải cố gắng sống với mọi người bằng tình anh em, vì thế không nên phẫn nộ với anh em, không nên chửi rủa anh em.
Luật dâng lễ vật: lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa nhất là cuộc sống đầy lòng yêu thương. Do đó trước khi dâng lễ vật, phải lo hòa giải với người anh em nào có chuyện bất hòa với mình.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Có hai thứ thước để đo mức công chính. Thước đo của người biệt phái là xem mình có giữ luật đàng hoàng hay không; thước đo của người môn đệ Chúa là xem mình có sống trọn tình yêu thương không. Tôi thường dùng thứ thước nào?
2. Cách nói cường điệu của Chúa Giêsu khi giải thích các khoản luật “chớ giết người” cho tôi thấy thêm được rằng giận, mắng và chửi người anh em cũng là một cách giết chết người đó. Giết chết người anh em bởi vì tôi không coi người đó là anh em nên mới nặng lời như thế. trong lòng tôi “người anh em” kể như đã chết rồi, chỉ còn là một người dưng, một kẻ thù.
3. Nếu Chúa đã chọn việc làm hòa trọng hơn của lễ, thì tôi có biết bao của lễ có sẵn hàng ngày chung đụng và nhiều va chạm này. Sao tôi không dâng cho Chúa?
4. ”Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa” (Mt 5,21)
Phần lớn chúng tôi, những người trẻ, không giết người nhưng lại “giết” mình. Tội ấy có đáng xét xử không? Chúng ta ít hỏi mình như thế bởi vì còn đắm say với men rượu, men tình trong những cuộc ăn chơi phóng túng. Kết cuộc là hủy hoại thân xác và tâm hồn, trí não và tương lai của mình cách thảm hại.
Lạy Chúa, xin cho giới trẻ chúng con biết quý trọng sự sống, và giúp nhau vun trồng sự sống, sự sống mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng con. (Hosanna)
Suy Niệm 11: Tha thứ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Lời Chúa trong sách Edêkien rất an ủi chúng ta: Chúa không chấp nhất chuyện quá khứ. Cho dù trong quá khứ ta từng lỗi phạm nhiều, nhưng nếu hôm nay ta quay về, thì Chúa vẫn coi là công chính.
Trong tác phẩm có tựa đề “Quyển Tin Mừng thứ 5”, tác giả, một người Ý, đã tưởng tượng một câu chuyện như sau:
Ngày kia các thánh trên Thiên Đàng không còn chịu nổi sự xúc phạm của con người đối với Thiên Chúa nữa, cho nên các ngài mới họp công nghị để tìm cách chận đứng tội lỗi của loài người. Sau nhiều buổi họp, cuối cùng, các vị thánh mới đồng thanh biểu quyết rằng: việc con Thiên Chúa chịu chết trên Thập Giá vẫn chưa đủ để làm cho con người sáng mắt. Vậy, cần phải dùng đến sức mạnh may ra mới trừng trị và thuyết phục được con người. Các ngài họp thành một đạo binh hùng mạnh và xâm nhập vào trái đất. Chỉ trong nháy mắt, đạo binh các thánh đã chinh phục được toàn bộ thế giới. Các ngài giao việc cai trị trái đất cho một số người công chính còn sót lại giữa loài người. Còn các kẻ tội lỗi thì các ngài tập trung tất cả về một thung lũng lớn. Tại đây, các ngài đã dựng sẵn một giàn hỏa thiêu cực lớn để tiêu diệt tất cả bọn họ. Các ngài tin chắc rằng, sau lần thanh lọc này, dòng giống con người trên mặt đất này sẽ chỉ còn lại những người công chính mà thôi. Khi mọi việc đã sẵn sàng để tiến hành sự hủy diệt, các thánh bỗng nhận thấy ở giữa đám người tội lỗi có một người đang vác Thập Giá đi về phía giàn thiêu. Hắn đang ra hiệu cho những người khác đến giúp đỡ hắn. Nhìn thấy cảnh tượng ấy, các thánh càng bực tức hơn:
- Tại sao người tội lỗi này lại muốn được xử theo hình phạt chỉ dành riêng cho Con Thiên Chúa?
Nghĩ thế, nên các thánh cho điệu kẻ vác Thập Giá đến, trói chân tay hắn lại, rồi giải đến trước mặt thánh Phêrô để xin Ngài xét xử. Vừa nhìn thoáng qua kẻ vác Thập Giá, vị thủ lãnh các tông đồ đã nhận ra đó chính là thầy mình. Các thánh ngỡ ngàng khi nghe thánh Phêrô tiết lộ rằng:
- Con Thiên Chúa đang lẫn lộn giữa những người tội lỗi.
Lúc đó, các ngài mới nhớ lại lời của Chúa Giêsu: “Con người không đến để cứu thoát những người công chính, mà chính là cứu những kẻ tội lỗi” (Mt 9,13).
Trước sự ngỡ ngàng của các thánh, Chúa Giêsu nói: “Ta muốn chết một lần nữa cho các tội nhân. Bởi vì trên trần gian không có người nào có thể cứu thoát kẻ có tội khỏi cơn thịnh nộ của các thánh”.
2. Chúa Giêsu bảo: “Ai giận anh em mình thì bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội đồng. Ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì bị lửa hỏa ngục thiêu đốt”. (Mt 5,21-22)
Những lời này Chúa Giêsu nói theo giọng cường điệu. Sự thật không được hiểu sát nghĩa như thế. Tuy nhiên, việc Chúa phải cường điệu khi dạy ta đừng giận, đừng mắng, đừng chửi cũng đáng ta lưu ý.
Một câu chuyện nhỏ từ Internet: Câu chuyện về túi khoai tây.
Vào một buổi học, thầy giáo chúng tôi mang vào lớp rất nhiều túi nhựa và một bao khoai tây thật to. Thầy chậm rãi giải thích với mọi người rằng, mỗi khi cảm thấy oán giận hoặc không muốn tha thứ lỗi lầm cho ai, hãy viết tên của người đó lên một củ khoai tây rồi cho vào túi nhựa. Chúng tôi thích thú viết tên những người mình không ưa hay ghét hận rồi cho vào túi. Chỉ một lúc sau, chiếc túi nào của chúng tôi cũng đã căng nặng, đầy khoai tây. Thậm chí có người một túi không chứa hết khoai, phải thêm một túi nhỏ kèm theo.
Sau đó, thầy yêu cầu chúng tôi hãy mang bên mình túi khoai tây đó bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào trong thời gian một tuần lễ. Đến lớp thì mang vào chỗ ngồi, về nhà thì mang vào tận giường ngủ, thậm chí khi vui chơi cùng bạn bè cũng phải đem theo.
Chỉ sau một thời gian ngắn, chúng tôi bắt đầu cảm thấy mệt mỏi và phiền toái vì lúc nào cũng có một túi khoai tây nặng nề kè kè bên cạnh. Tình trạng này còn tệ hơn nữa khi những củ khoai tây bắt đầu thối rữa, rỉ nước. Cuối cùng, chúng tôi quyết định xin thầy cho quẳng hết số khoai ấy đi và cảm thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái trong lòng.
Lúc ấy, thầy giáo của chúng tôi mới từ tốn nói: “Các em có thấy không, lòng oán giận hay thù ghét người khác đã làm chúng ta thật nặng nề và khổ sở! Càng oán ghét và không tha thứ cho người khác, ta càng giữ lấy gánh nặng khó chịu ấy mãi trong lòng. Lòng vị tha, sự cảm thông với những lỗi lầm của người khác không chỉ là món quà quý giá để ta trao tặng cho mọi người, mà đó còn là một món quà tốt đẹp mỗi chúng ta dành tặng bản thân mình”.
Mẹ Têrêsa bảo: “Nếu thực sự muốn yêu thương, ta phải học cách tha thứ”.
22/02 Tảng đá Phêrô
- Viết bởi Mt 16, 13-19
Tảng đá Phêrô.
Thứ Năm tuần 1 mùa chay. – LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊRÔ. Lễ kính.
"Con là Ðá, Cha sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".
* Được đặt trong nhà thờ chính toà của giáo phận, toà của một vị giám mục là dấu chỉ quyền dạy dỗ, quyền hiến tế và quyền lãnh đạo của giám mục.
Lễ kính Tông toà thánh Phêrô nhắc chúng ta nhớ lại sứ mạng Chúa Kitô đã trao phó cho vị thủ lãnh các Tông Đồ. Nhờ đặc ân không sai lầm, thánh Phêrô là người bảo đảm đức tin của các anh em trong Tông Đồ đoàn. Lòng tin của thánh Phêrô là đá tảng, trên đó Chúa đã xây Hội Thánh của Người
Lời Chúa: Mt 16, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu đến miền Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?"
Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một trong các tiên tri!"
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1: Trên tảng đá này--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
2: Nền tảng đức tin của thánh Phêrô--TGM Giuse Nguyễn Năng
3: Ngai tòa thánh Phêrô--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
4: Hiểu biết về Chúa Giêsu--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Lập Tông tòa Thánh Phêrô--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
5: Sứ mệnh Chúa giao phó cho Phêrô--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
6: Phêrô, con người trong sáng
7: Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ
8: Kính tông tòa thánh Phêrô
9: Lập tông tòa thánh Phêrô--(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
10: Lòng tin của Phêrô
11: “Abba”
12: Công trình Hội Thánh--giesu.net
13: Lập Tông Tòa thánh Phêrô--Lodi
14: Phê-rô đứng dậy sau vấp ngã--Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
15: Lập Tông Tòa thánh Phêrô--GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
16: Kính Ngai tòa Thánh Phêrô Tông đồ
17: Lập Tông Tòa Thánh Phêrô
1: Trên tảng đá này--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Simon là khuôn mặt nổi bật trong nhóm Mười Hai.
Ông thuộc nhóm những môn đệ đầu tiên theo Ðức Giêsu,
và là một trong ba môn đệ thân tín nhất.
Ông có mặt lúc Chúa hiển dung và trong Vườn Dầu.
Ông thường là phát ngôn viên của cả nhóm (x. Mt 19,27).
Ðức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho ông trước tiên (1Cr 15,5),
và giao cho ông chăn dắt đoàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17).
Simon có bản tính bộc trực, hăng hái.
Vì quá tin vào sức mình, ông đã sa ngã, chối Chúa.
Bất chấp những yếu đuối và giới hạn của Simon,
Ðức Giêsu vẫn chọn ông đứng đầu nhóm Mười Hai,
và làm nền tảng cho Hội Thánh của Ngài.
Ngài đặt cho Simon một tên mới là Phêrô,
tiếng Aram gọi là Kêpha, nghĩa là Tảng Ðá.
Tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho ông.
Phêrô được tuyên bố là người có phúc,
vì ông đã được Cha trên trời cho biết Ðức Giêsu là ai.
Ông đã tin tưởng đón nhận mạc khải ấy.
“Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Ðó là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô.
Nhưng ông không chỉ tuyên xưng đức tin của mình,
ông còn tuyên xưng tình yêu nữa:
“Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Với niềm tin-yêu vào Ðức Giêsu,
Phêrô sẵn sàng chia sẻ sứ mạng Mục Tử của Ngài,
sẵn sàng hiến mình vì đoàn chiên.
Quả thực, Phêrô đã giang tay chịu chết như Thầy Giêsu,
đã theo Thầy và đến nơi mình không muốn đến.
Chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng của Ðức Giêsu.
Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài.
dù ông chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học.
Chỉ mình Ðức Giêsu mới là Nền Tảng (x. 1Pr 2,4-5),
nhưng Phêrô cũng được làm nền cho Hội Thánh.
Chỉ mình Ðức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7),
nhưng Phêrô cũng được trao chìa khóa Nước Trời.
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn,
quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh,
thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa.
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử.
Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu,
mà còn là những chia rẽ, tranh chấp nội bộ,
những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian.
Hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn không ít,
khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin,
khi ơn gọi giảm sút ở nhiều nơi,
khi Ðức Thánh Cha bị công kích?
Ước gì mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến Hội Thánh,
cải tổ và canh tân Hội Thánh
bằng việc canh tân chính bản thân mình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
2: Nền tảng đức tin của thánh Phêrô--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh trên nền tảng đức tin của thánh Phêrô. Ngài được Chúa đặt làm thủ lãnh của Hội Thánh. Hiệp thông cùng Hội Thánh có nghĩa là phải hiệp thông với thánh Phêrô và người kế vị là Đức Thánh Cha.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cùng với thánh Phêrô, con tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế, là Con Chúa Cha hằng sống. Con thấy mình thật có phúc vì được biết Chúa, tin Chúa và đi theo Chúa, thật có phúc vì được sống trong Hội Thánh của Chúa. Con cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa, trải qua hai ngàn năm, Hội Thánh Chúa bước đi giữa muôn ngàn bách hại, cám dỗ, thử thách và đau thương. Có những lúc Hội Thánh tưởng chừng như tiêu tan, hoặc sa lầy hay quỵ ngã. Nhưng cho tới hôm nay, Hội Thánh của Chúa vẫn còn đó giữa lòng thế giới để trở nên dấu chỉ tình thương cứu độ của Chúa. Con tin Chúa vẫn hiện diện và nâng đỡ Hội Thánh như lời Chúa đã hứa. Xin Chúa làm cho Hội Thánh luôn vững tin vào sức mạnh của Chúa.
Con xác tín rằng Chúa là Con Thiên Chúa hằng sống. Chỉ mình Chúa có đủ quyền năng cứu độ thế giới, chỉ có Phúc Âm Chúa là ánh sáng dẫn dắt nhân loại tới hạnh phúc đích thực. Vì thế, xin Chúa giúp con trung thành với Chúa, với Hội Thánh, bằng cách tuân theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha là người thay mặt Chúa trên trần gian. Con đường của Chúa và Hội Thánh thật khác với lối đi của trần gian, nhưng con tín nhiệm vào Chúa và vào giáo huấn của Hội Thánh. Con cầu nguyện xin Chúa ban cho Đức Thánh Cha niềm tin sắt đá, lòng cậy trông vững vàng. Amen.
Ghi nhớ: “Con là Ðá, Cha sẽ trao cho con chìa khóa nước trời”.
3: Ngai tòa thánh Phêrô--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Mộ phần của vị tông đồ trưởng Phêrô ở ngay dưới bàn thờ chính của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Truyền tụng từ xưa vẫn tin như thế, và mới đây đã được xác định nhờ các cuộc điều tra khảo cổ. Ngôi mộ này như một biểu tượng bền vững cho chân lý: Simon Phêrô theo sự ưu tuyển của Thiên Chúa, đã là nền móng của Giáo hội. Tiếng nói của Đấng Cứu Thế vẫn được lắng nghe suốt các thế kỷ, qua lời giáo huấn của các Đức Giáo hoàng.
Ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối: Đức Giáo hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô, đại diện Chúa Kitô ở trần gian hướng dẫn toàn thể Giáo hội toàn cầu. Lễ lập tông tòa thánh Phêrô là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng trong toàn thể Giáo hội. Trước kia, Giáo hội cử hành hai thánh lễ riêng biệt một để kính tòa thánh Phêrô ở Antiokia (trước khi Ngài đến Rôma) và một để kính tòa thánh Phêrô ở Rôma. Hai thánh lễ này đều mang cùng một ý nghĩa, nên ngày nay Giáo hội chỉ cử hành một thánh lễ: “Lập Tông Tòa Thánh Phêrô”.
Có ba bản văn Kinh Thánh là nền tảng về ngai tòa của Thánh Phêrô: “Con là Phêrô, nghĩa là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo hội… Ta sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời…” (Mt 16,13-19). “Con hãy làm cho các anh em của con nên vững mạnh” (Lc 22,31-32). “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,15-19).
Suy niệm
Sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: Thầy là Đấng Kitô - Mêssia, là “Con Thiên Chúa”, Đấng Mêssia (tiếng Hy Lạp Christos - Kitô) nghĩa là Đấng được xức dầu mà các ngôn sứ đã tiên báo; Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là “Con của Thiên Chúa”, ông khẳng định nguồn gốc thần linh của Ngài… Đức Giêsu đã mời gọi Phêrô đứng lên để cùng cộng tác trong công trình xây dựng Giáo hội của Ngài: “Phêrô! con là Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18). Trong ngôn ngữ của Thánh Kinh Cựu ước chỉ có Chúa là Đá Tảng: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi” (Tv 72,3), và sau này trong Tân ước, Đức Giêsu là Thiên Chúa Phục Sinh cũng là nền tảng. (x. 1Pr 2,4-5), nhưng Phêrô cũng được Chúa Giêsu đặt làm đá tảng, là nền cho Giáo hội. Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài. Simon như tên căn cước được đặt bởi cha mẹ, nhưng Chúa Giêsu gọi ông là Đá - Phêrô, sau này biệt danh Phêrô luôn gắn liền với ông và theo Kinh Thánh Tân ước, ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kêphas - Phêrô - nghĩa là đá tảng (x. 1Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14). Trong Kinh Thánh về việc đổi tên và với tên mới, ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Ngài.
Chúa Giêsu trao cho Phêrô chìa khóa, sách Khải huyền nhấn mạnh chỉ mình Đức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7), chìa khóa là hình ảnh rất cổ xưa, dấu chỉ sự chính thống về cai quản (x. Is 22,22). Cho nên, người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà, người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó. Chìa khóa tượng trưng cho quyền hành và trách nhiệm cai quản. Trao chìa khóa theo ngôn ngữ Kinh Thánh tượng trưng cho sự ủy thác trách nhiệm…
Phêrô được trao chìa khóa nước Trời, nghĩa là được tham dự vào quyền bính trách nhiệm của Chúa Giêsu, chính vì thế, Phêrô đại diện Chúa Kitô có quyền giáo huấn, quyền thánh hoá và quản trị Giáo hội, nhằm mục đích là phục vụ dân Chúa. Các Đức Giáo hoàng sau này kế vị thánh Phêrô và là đại diện Chúa Kitô ở trần gian mang trọng trách cùng quyền bính của Phêrô. Thánh Augustinô đã chú giải đoạn Phúc Âm Matthêu (16,13-23) như sau: “Chúc tụng Chúa, Đấng đã đoái thương đặt thánh Phêrô Tông Đồ trên toàn thể Giáo hội. Nền tảng này được tôn kính thật xứng hợp bởi vì đó là phương thế để chúng ta có thể được lên thiên đàng”.
Cho nên, ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối, Đức Giáo hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo hội toàn cầu. Vì thế, ngày lễ hôm nay là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng trong toàn thể Giáo hội. Chúng ta thần phục và lắng nghe giáo huấn của Ngài, cũng như cầu nguyện cho Ngài trong sứ vụ lèo lái con tàu của Giáo hội …
Ý lực sống: “Thánh Phêrô giữ quyền tối thượng để chứng tỏ Giáo hội của Chúa Kitô là duy nhất, và Tòa của ngài là duy nhất. Thiên Chúa là duy nhất. Đức Kitô là duy nhất. Giáo hội là duy nhất. Tòa được Chúa Kitô thiết lập cũng duy nhất” (Thánh Cyprianô vào thế kỷ III).
4: Hiểu biết về Chúa Giêsu--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Tin Mừng cho thấy 3 mức độ hiểu biết về Chúa Giêsu:
1. Mức độ của dân chúng: Nếu chỉ thấy những việc Chúa Giêsu làm và nghe những lời Ngài dạy mà không suy nghĩ thêm thì người ta chỉ biết Ngài là một ngôn sứ thôi.
2. Mức độ của Phêrô: Được ơn Chúa soi sáng, thánh Phêrô hiểu Chúa Giêsu là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng nếu ơn soi sáng của Thiên Chúa không có sự hợp tác là sự “đi theo” của con người thì dù có hiểu biết Chúa Giêsu, con người vẫn có thể phản đối và cản bước Thiên Chúa.
3. Mức độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi người môn đệ: Hiểu biết Chúa Giêsu cộng thêm sự từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.
Tôi hiểu biết Chúa Giêsu tới mức độ nào?
- Coi Ngài là một ngôn sứ. Do đó tôi chỉ liên hệ với Ngài để xin ơn?
- Coi Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là lẽ sống đời tôi, nhưng lại sợ khó, ngại khổ?
- Sẵn sàng bỏ tất cả và vác thập giá đi theo Ngài?
“Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và cho Giáo Hội.
Chúng ta có nhiều cách để khước từ thập giá: khi không tiếp nhận cuộc sống như một ơn ban, khi chỉ bị quay nhìn về các biến cố và con người, khi bán đứng lương tâm vì chút lợi lộc vật chất, khi đóng kín niềm tin trong các buổi phụng vụ mà quên rằng sống đạo là sống niềm tin Kitô trong từng phút giây cuộc sống.
Ngày kia, Hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các nghệ sĩ từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế”. Các nghệ sĩ Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ sĩ Ai cập thì mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng người ta rất nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung điện. Khi thời gian đã hết, Đức vua cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông hết sức khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc nên. Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, Hoàng đế chỉ thấy duy nhất một bức tường đã được đánh bóng đến độ khi Hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt của mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi đó.
Sứ mệnh căn bản của mỗi kitô hữu là hoạ lại dung nhan của Đức Kitô nơi cuộc sống và tâm hồn của mình. Để đạt được điều đó, chúng ta phải đục đẽo, phải loại bỏ tất cả những gì là gồ ghề, thô nháp, những thói hư tật xấu và phải cầu xin để có một đức tin vững mạnh.
Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.
Hằng ngày tôi phải đối mặt với biết bao vấn đề, biết bao chuyện mà Thiên Chúa đòi tôi phải làm chứng cho Ngài. Trước bao vấn đề cần sự can thiệp của tôi: kỷ luật trong lớp học, dàn hoà một cuộc cãi nhau hay một xích mích, giúp đỡ kẻ nghèo... Tôi chỉ biết suy nghĩ tìm hết cách giải quyết này đến cách giải quyết khác. Tất cả chỉ là những lý tưởng, vì chúng chỉ lẩn quẩn trong đầu tôi mà không thể đi tới hành động.
Ông Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng khi chối Chúa ba lần, ông đã không dám dấn thân đến cùng cho niềm tin. Và đức tin không có việc làm là đức tin chết!
Khi xưa Chúa nói với Phêrô: “Anh là Tảng Đá”. Hôm nay nghe lại đoạn Tin Mừng này tôi cảm thấy như Chúa nói với tôi. Mỗi viên đá đều góp phần tạo nên nền móng cho ngôi nhà.
Bé nhỏ, yếu hèn và bất lực, tôi lo sợ viên đá của mình có lúc sẽ vỡ tan. Đó là lúc tôi đánh mất chính mình trong bổn phận hằng ngày.
Thánh Phêrô đã tuyên xưng niềm tin của mình bằng trọn cả tấm lòng của một con người đã từng đi theo Chúa, sống gắn bó với Chúa. Niềm tin được diễn tả bằng trải nghiệm chứ không bằng lời nói suông, bằng con tim cảm mến chứ không bằng trí hiểu. Giờ này nếu Chúa đến hỏi bạn và tôi cũng một câu tương tự, chúng ta sẽ trả lời ra sao?
Lập Tông tòa Thánh Phêrô--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Đức Giêsu nói về ngày Ngài sẽ trở lại vũ trụ để phán xét mọi người. Ngày đó ta quen gọi là ngày cánh chung hay ngày tận thế. Trong bài Tin mừng Đức Giêsu gợi lên hình ảnh của toà phán xét cuối cùng, để dạy chúng ta sống tinh thần tương thân tương ái với hết mọi người. Đó cũng là tinh thần Mùa Chay đích thực mà Giáo hội mời gọi chúng ta.
Trong ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ phân chia loài người thành hai nhóm và Chúa ra ví dụ như người mục tử tách chiên ra khỏi dê. Ban ngày người mục tử có thể chăn dắt chiên và dê lẫn lộn với nhau, nhưng đêm đến ông ta phải tách ra, dê để một nơi và chiên một nơi.
Cũng thế, trong cuộc sống hôm nay, nơi trần gian này, Chúa để người lành kẻ dữ, người công chính và kẻ tội lỗi sống chung lẫn lộn với nhau, nhưng trong ngày tận thế, Chúa sẽ tách ra để người lành được hưởng an vui hạnh phúc, còn người tội lỗi phải vào chốn cực hình muôn đời.
Trong ngày phán xét, Chúa chỉ xét xử dựa trên cách chúng ta cư xử với tha nhân mà thôi. Nếu chúng ta khước từ tha nhân, thì tức là chúng ta khước từ chính Chúa Giêsu, và như vậy Ngài cũng chối bỏ chúng ta trong ngày phán xét. Trái lại, mỗi hành động yêu thương mà chúng ta thực thi cho tha nhân cũng chính là một tiếp đón chúng ta dành cho Ngài và Ngài cũng căn cứ vào đó để tiếp đón chúng ta trong ngày phán xét.
Qua mọi thời, Đức Giêsu vẫn luôn hoà đồng với kẻ khốn cùng, những kẻ ngửa tay xin lòng trắc ẩn của nhân loại. Ngài ở trong các anh em bé mọn nhất, những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bệnh tật lây lất khắp xóm chợ, những người bị suy sụp tinh thần được chia sẻ được yêu thương. Lòng yêu thương kéo sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người, và làm thế giới được tồn tại trong tình yêu như Fyodor Dostoyevky đã cảm nhận: “Lòng trắc ẩn là quy luật chính yếu của sự tồn tại con người”.
Vì thế, chúng ta hiểu vì sao những tấm lòng mang tinh thần bác ái được đứng vào hàng ngũ của những kẻ bên phải trong ngày phán xét chung. Ngày chung cuộc theo Tin mừng, những ai sống trong yêu thương chia sẻ được đón vào Vương quốc vĩnh cửu tình yêu với Đức Kitô.
Lòng yêu thương chân thật phải được thể hiện trong đời sống thực tế chứ không trừu tượng. Bác ái cần hành động chứ không phải lý thuyết suông. Chúa kể ra sáu tình cảnh rất thực tế và là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống chứ không phải chuyện cao xa trừu tượng: đói, khát, khách lạ, đau yếu, trần truồng, tù đầy. Nghĩa là đối tượng chúng ta nhắm đến là những thân phận đang cần chúng ta hơn hết. Điều đặc biệt hơn cả là Đức Giêsu đồng hóa mình trong những thân phận bất hạnh đó. Những tình cảnh của những con người đau khổ kia lại là hiện thân của Đức Giêsu và là cơ hội cho chúng ta gặp Chúa: ”Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính ta vậy” (Vinh Sơn).
Như vậy chúng ta thấy Đức Giêsu đặt trước chúng ta một chân lý tuyệt diệu: là tất cả mọi sự giúp đỡ hay không giúp đỡ, chúng ta làm hay không làm cho anh em mình là làm hay không làm cho chính Ngài.
Chị Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare chủ trương sống tinh thần Tin mừng, chia sẻ một kinh nghiệm sống như sau: coi những kẻ đang đau khổ là hình ảnh Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên Thập giá. Cũng như Chúa Giêsu bị bỏ rơi rất cần người an ủi giúp đỡ, ta cũng hãy giúp đỡ ủi an những kẻ đau khổ ấy.
Truyện: Tìm thấy Chúa trong tha nhân
Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:
- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?
- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên mình có trong sách không. Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không thấy tên ông. Thế nhưng điều đó không làm cho tu sĩ thất vọng. Ông nói với thiên thần:
- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Sau khi vị tu sĩ già qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”.
Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi” (Mỗi ngày một tin vui).
5: Sứ mệnh Chúa giao phó cho Phêrô--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
I. Hôm nay Giáo Hội kính nhớ việc Lập Tông Tòa Thánh Phêrô.
Việc này làm cho chúng ta nhớ đến sứ mệnh Chúa Kitô đã giao phó cho Phêrô. Chúa đã đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội là để củng cố niềm tin của chúng ta đối với vị Chủ Chăn. Phụng Vụ hôm nay làm nổi bật lên đức tin mạnh mẽ của Phêrô. Chính đức tin này đã khiến cho Phêrô trở thành đá tảng để trên đó Chúa xây dựng Giáo Hội của Ngài.
Đàng khác, qua Phêrô Chúa tiếp tục chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Bằng Lời hằng sống Chúa tiếp tục xây dựng sự hiệp nhất giữa các kitô hữu, làm sao cho mọi người đã chịu phép Rửa Tội cùng được tham dự vào việc chia sẻ với nhau một bánh thánh và cùng uống chung với nhau một chén thánh.
Đây cũng chính là sứ mệnh của các vị kế tiếp Phêrô trên ngai tòa giám mục của thành Roma. Bởi vậy mừng lễ hôm nay chúng ta cùng cầu xin Chúa cho đức giáo hoàng nên “nguyên lý và nền tảng hữu hình hợp nhất toàn dân kitô hữu trong một đức tin và cùng một mối hiệp thông”.
II. BÀI HỌC
Dựa vào tâm tình và ý nghĩa của ngày lễ mà chúng ta vừa nói trên, chúng ta thấy:
1. Người kitô hữu là người có phước vì được vinh dự làm con Chúa qua bí tích Rửa tội.
Idaho người Ấn Độ mới trở lại công giáo và đã được chịu phép rửa tội. Lần kia có người vô thần hỏi:
- Anh là người Kitô hữu, vậy anh có biết gì về Đức Kitô không?
Người tân tòng trả lời tôi có biết.
Người vô thần hỏi thêm:
- Đức Kitô sinh vào năm nào?
Người tân tòng trả lời ấp úng. Người vô thần lại hỏi thêm:
- Đức Kitô chết lúc bao nhiêu tuổi?
Người tân tòng cũng trả lời trật lơ. Nghe thế người vô thần mới bảo:
- Như vậy thì anh có biết gì về Chúa Giêsu đâu?
Anh tân tòng thưa:
- Tôi biết ít lắm, nhưng tôi biết chắc điều này, là hai năm trước đây tôi say xỉn, cờ bạc, nằm đường nằm chợ, lười biếng làm việc. Hai năm trước đây, vợ tôi rất ít mỉm cười, con cái sợ sệt khi gặp tôi. Nhưng ngày nay, tôi là người đàn ông tiết độ, chịu khó làm việc, nên đã nuôi sống gia đình, lại còn đủ tiền mua một căn nhà mới. Ngày nay vợ tôi tươi cười, con cái vui vẻ quấn quít tôi. Chính đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Như vậy mà ông bảo tôi không biết rõ Đức Kitô là Chúa Cứu thế sao. Ngài đã chữa thế gian cho khỏi tội, và Ngài đã cứu chính tôi trước.
Hãy nhớ đến ngày lãnh bí tích rửa tội của mình, để cảm tạ Thiên Chúa đã đoái thương nhận chúng ta, nhận chúng ta vào số những người con cái của Chúa và đồng thời hãy ôn lại lời hứa từ bỏ mà chúng ta đã hứa với Chúa trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội để biết sống xứng đáng với ơn Chúa mỗi ngày.
2. Chúa đã trao quyền cai trị Hội Thánh cho Phêrô. Chúng ta hãy tin tưởng vào những việc Chúa làm.... chúng ta hãy tỏ bày lòng kính mến và vâng phục các vị bản quyền bằng cách thực thi mọi giáo huấn của Hội Thánh và góp phần mình vào việc xây dựng Hội Thánh địa phương cũng như hoàn cầu.
3. Và cuối cùng phải tin tưởng vào sự vững bền của Giáo Hội. Trên Phêrô và trên đức tin của ông, Chúa Giêsu xây Hội Thánh của Người, không một quyền lực nào có thể phá nổi, cho đến khi Con Người lại đến. Vậy phải tin tưởng vào sự vững bền của Giáo Hội trong những lúc thịnh vượng cũng như những lúc bị bách hại hay gặp khó khăn.
Trong một bữa cơm thân mật, có người hỏi Đức ông Polgallo:
- Đức ông là người thân cận Đứa Thánh Cha, vậy có điều gì nơi Đức Thánh Cha đánh động Đức ông hơn cả?
- Dĩ nhiên Đức Thánh Cha Phaolô VI là một vị Giáo Hoàng rất thông minh và thánh thiện. Nhưng riêng tôi, điều làm cho tôi cảm kích hơn cả nơi ngài là lòng ngài muốn hy sinh vì yêu Hội thánh. Mỗi khi hòa mình vào đám đông ở Bombay, ở Manila chẳng hạn, hầu như ngài quên tất cả Ngài để cho mọi người lôi kéo. Chúng tôi, những kẻ có nhiệm vụ bảo vệ ngài, phải lắm phen cực nhọc... Nên những lúc thân mật cha con, chúng tôi vẫn thưa với ngài: “Thưa Đức Thánh Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha vất vả quá với muôn ngàn lo âu, thức khuya dậy sớm, lắm phen nguy hiểm đến tính mạng. Đức Thánh Cha để cho đám đông lạ mặt lôi kéo mình như thế, chúng con ngăn cản bảo vệ không nổi. Xin Đức Thánh Cha giữ gìn sứcc khỏe cho”. Nhưng mỗi lần như thế, ngài đều đáp lại với chúng tôi như một điệp khúc nhỏ nhẹ, dịu dàng: “Tất cả vì Hội thánh! Vì Hội thánh!” Nhiều khi chúng tôi mệt lả, ngao ngán, nhưng nhớ đến câu nói của ngài, chúng tôi phải vươn lên theo ngài, không thể bỏ ngài, và cảm phục kính mến ngài hơn!
6: Phêrô, con người trong sáng
Người ta nhớ rằng trong Tin Mừng người được nghe thấy luôn luôn chính là Phêrô. Ngài còn để lại hai bức thư, rất ngắn, trong công vụ tông đồ 14 chương đầu nói về Phêrô. Sau công đồng Giê-ru-sa-lem, Luca không nói về Phêrô nữa, phần còn lại dành cho Phaolô.
Biết Đức Giê-su...
Phaolô là nhà luân lý như trong thư Ngài viết, vì Ngài là biệt phái trung thành. Còn Phêrô trong các bài diễn văn như Luca kể lại, Ngài chỉ nói về Đức Giê-su và về Đức Giê-su Phục Sinh.
Phaolô trong những thư Ngài viết, dù bị chi phối về những bài giảng mà Ngài nghe, Ngài vẫn có những trực giác do ân sủng Ngài lãnh nhận.
Nhưng Phêrô còn những hung hăng, mãnh liệt lại bước nhịp nhàng theo chân Đức Ki-tô, Phêrô một con người trong sáng về đức tin. Bài diễn văn của Ngài đầy vẻ an bình. Theo gương Thầy chí thánh, Ngài không pha loãng chân lý bằng những lời nồng nhiệt bốc khói. Nhưng cũng như Thầy, trái tim Ngài cởi mở đón tiếp tất cả. Đức Giê-su rao giảng Chúa Cha cho người Do Thái. Phêrô cũng rao giảng cho người Do Thái về Đức Giê-su Đấng thiên sai cứu thế, Đấng tế lễ và ngôn sứ, Đấng con Thiên Chúa. Và sứ điệp Ngài cũng nói cho chư dân đã được Ngài gặp gỡ và làm cho trở lại đạo trước Phaolô.
Ngài là lời, là mục tử, là đá góc tường, là vị kế nghiệp của Đức Ki-tô.
Tất cả vì Đức Ki-tô...
Đó là sức mạnh con người tự nhiên! Ngài đã theo Đức Ki-tô trong cuộc đời công khai với tất cả bản năng tự nhiên, còn do dự về Đức Ki-tô và về chính mình, thường hay đòi hỏi cho mình làm xúc phạm đến một người cùng làng quê với mình!
Sau lễ hiện xuống thì thật trong sáng, thật vững chắc, Phêrô đã có đức tin sao? chẳng nhưng tin mà còn biết bằng tai nghe, mắt thấy, tay sờ, và lòng mến được những hương vị ngạt ngào êm dịu trước sự hiện diện của Đức Ki-tô cháy đến từng thớ thịt toàn thân.
Ngài có thể nói với chúng ta như Đức Ki-tô nói: “hãy tin tôi đi, tôi đã thấy, đã nghe Người”. Với thánh Phêrô, chúng ta có thể thêm: “Tôi đã chối Chúa, nhưng Người vẫn yêu tôi”.
J.M
7: Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ, hồ nghi và dằn vặt sau khi Ðức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: "Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô." Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: "... Họ không hiểu rằng theo kinh thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết" (Ga 20:9). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói, "Bình an cho anh em," và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20:21b).
Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. "... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần" (Cv 2:4a) và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho.
Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: "... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em" (Lc 22:32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần -- trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành.
Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô Hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với Dân Ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết: "... Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai... Các ông ấy không đi đúng với chân lý của phúc âm..." (Gl 2:11b, 14a).
Trong đoạn cuối Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô, "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải giang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn" (Ga 21:18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nero, trên Ðồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô Hữu khác.
Lời Trích
Trong Thơ Thứ Nhất, Thánh Phêrô diễn tả ơn gọi của người tín hữu Kitô: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để lãnh nhận niềm hy vọng sống động nhờ Ðức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết..." (1 Pr 1:3a).
8: Kính tông tòa thánh Phêrô
Cuộc tuyên tín của Thánh Phêrô tại địa hạt Philipphê Cêsarê là một bất ngờ lớn. Khi Phêrô được soi sáng để tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Trước lời tuyên xưng tuyệt vời của Phêrô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), Chúa liền hứa: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18). Thánh Phêrô và những đấng kế vị ngài là những người được Chúa chọn để lãnh đạo Hội Thánh Chúa nơi trần gian. Đặc biệt hơn, sức mạnh chống được sự dữ không phải là sức mạnh của cá nhân Thánh Phêrô, nhưng là chính quyền năng của Chúa hoạt động trong con người Phêrô cũng như trong các đấng kế vị ngài.
Lúc nào cũng vậy, Phêrô là con người nhanh mồm nhanh miệng, luôn nhiệt tình mau mắn để đại diện anh em để tỏ bày tâm tư thay cho anh em như khi Chúa Giêsu nói về Bí tích Thánh Thể, nhiều môn đệ đã bỏ đi. Nhưng Phêrô đã tỏ bày thật dễ thương “Bỏ Thầy chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.” Rồi trong đêm Chúa bị bắt Phêrô cũng bộc trực thề thốt: “Con thề sống chết với Thầy.” Nhưng rồi Phêrô đã vấp ngã khi chối Thầy ba lần.
Tưởng chừng là dấu chấm hết cho cuộc đời Phêrô. Những giọt nước mắt ăn năn tuôn chảy trước cái nhìn thân thương của Thầy Giêsu. Phêrô vẫn được Chúa Giêsu tín nhiệm trao trách nhiệm đứng đầu Hội Thánh sau lời tuyên xưng ban đầu: “Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18) bằng lời thân thương: “Phêrô Con có yêu mến Thầy không... Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy.”
Chúa Giêsu gọi Simon là Phêrô, nghĩa là Đá. Điều này diễn tả sự chia sẻ quyền lực của Thiên Chúa cho người đại diện Chúa nơi trần gian là Phêrô và các Đấng kế vị ngài. Chúng ta tin vào sự vững bền của Hội Thánh vì chính Chúa là Đá Tảng đã đặt ngai tòa Phêrô như Đá vững chắc cho ngôi nhà Giáo Hội. Sức mạnh của Đức Giêsu phục sinh là cơ sở cho niềm tin và bình an khi ta sống trong Hội Thánh của Chúa.
Thánh Phêrô đã được Chúa trao cho chìa khóa Nước Trời, có nghĩa là thánh nhân sẽ được tham dự vào quyền bính của Chúa. Chính vì thế, thánh Phêrô cũng như các vị kế nhiệm sẽ đại diện Chúa ở trần gian với quyền giáo huấn, quyền thánh hóa và quyền quản trị để phục vụ Dân Chúa. Do vậy, khi người tín hữu không vâng nghe Đấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là không vâng nghe Đức Giêsu.
Điều này cũng như quyền năng của nối kết hoặc cầm buộc và của tách rời hoặc tháo cởi cũng được trao cho cộng đoàn (Mt 18, 18) và cho các môn đệ khác (Ga 20, 23). Một trong những điểm mà sách Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh nhiều nhất là sự hòa giải và tha thứ hoặc khoan dung. Nó là một trong những nhiệm vụ quan trọng hơn đối với các điều hợp viên của cộng đoàn. Bắt chước thánh Phêrô, họ phải cầm buộc hoặc tháo cởi, đó là, làm theo cách để có sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau, xây dựng tinh thần huynh đệ.
Khi cử hành lễ kính Tông Tòa Thánh Phêrô, phụng vụ muốn cho chúng ta thấy ngai tòa vững chắc mà Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô ”Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18), đồng thời trao cho Thánh Phêrô nhiệm vụ chăn dắt. Do đó ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối, Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo Hội toàn cầu. Vì thế ngày lễ hôm nay là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng trong toàn thể Hội Thánh.
Ngày lễ lập Tông tòa thánh Phêrô cũng nhắc nhở mỗi người cầu nguyện thật nhiều cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Thời đại nào cũng vậy, con thuyền Giáo hội vẫn luôn gặp những sóng gió của thử thách. Đức Giáo Hoàng luôn phải đối đầu với những khó khăn của Hội Thánh. Chính vì thế ngài luôn phải có ơn Chúa, sự soi sáng khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để chu toàn trách nhiệm chăn dắt chiên con chiên mẹ của Chúa.
Mừng Lễ hôm nay, Hội Thánh mời gọi tất cả chúng ta hướng về Đức Giáo Hoàng, đấng kế vị Phêrô. Ngài là vị cha chung của Hội Thánh, có trách nhiệm chăm sóc và hướng dẫn Dân Chúa. Với tấm lòng con thảo, chúng ta hãy yêu mến, vâng lời và siêng năng cầu nguyện cho ngài.
9: Lập tông tòa thánh Phêrô--(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu: ”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời: ”Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 16.18). Giáo Hội hôm nay cử hành lễ kính tông tòa thánh Phêrô và cũng là lễ để tôn vinh Đức Giáo Hoàng, vị kế nhiệm thánh Phêrô dưới trần gian, cai trị, điều khiển Giáo Hội hoàn vũ.
LỄ LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ:
Khi cử hành thánh lễ kính tông tòa thánh Phêrô, phụng vụ muốn cho chúng ta thấy ngai tòa vững chắc mà Chúa Giêsu đã nói với vị thủ lãnh Hội Thánh tiên khởi: ”Phêrô, Con là đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” hay ”Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho những anh em khác vững tin” (Lc 22, 32). Chúa Giêsu đã trao trách nhiệm nặng nề cho Phêrô là chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài. Do đó, ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối: Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo Hội toàn cầu.
Vì thế, thánh lễ lập tông tòa thánh Phêrô là một lời tuyên xưng hết sức quan trọng nhưng lại rất long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng trong toàn thể Hội Thánh. Trước kia, Giáo Hội cử hành hai thánh lễ riêng biệt, một để kính tòa thánh Phêrô ở Antiokia, và một để kính tòa thánh Phêrô ở Roma. Tựu trung hai thánh lễ này đều mang cùng một ý nghĩa, nên ngày nay Giáo Hội chỉ cử hành một thánh lễ là: ”Lập Tông Tòa Thánh Phêrô”.
HÃY CẦU NGUYỆN CHO ĐỨC THÁNH CHA:
Ngày lễ lập tông tòa thánh Phêrô là lời mời gọi toàn thể dân Chúa trên hoàn vũ hãy cầu nguyện thật nhiều, cầu nguyện liên lỉ cho vị Cha chung của Giáo Hội, trước một trọng trách nặng nề mà Chúa và Giáo Hội trao phó cho Ngài. Trước muôn vàn thách đố của một thế giới luôn luôn biến chuyển, Đức Giáo Hoàng luôn phải đối đầu với muôn vàn khó khăn của Hội Thánh, của thế giới. Chính vì vậy, Ngài cần có đầy đủ ơn Chúa và sự soi sáng, khôn ngoan của Chúa Thánh Thầnh để Ngài chu toàn trách nhiệm chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã thiết lập Hội Thánh trên nền đá vững bền là lời tuyên xưng đức tin của thánh tông đồ Phêrô. Xin gìn giữ Hội Thánh khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách gian nan (Lời nguyện nhập lễ, lễ lập tông tòa thánh Phêrô).
10: Lòng tin của Phêrô
"Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." (Mt 16,16)
Suy niệm: Chúng ta nhìn vào đức tin của thánh Phêrô, hầu rút ra bài học cho mình. Phêrô vừa biết Chúa Giêsu thì đã tin vào Ngài, trở nên một trong bốn môn đệ đầu tiên. Ông được nghe lời giảng dạy của Chúa và chứng kiến những phép lạ Chúa làm. Tưởng chừng như lòng tin của ông kiên vững lắm.
Nhưng ta chưng hửng biết bao khi thấy ông tỏ ra yếu tin, ngã lòng, thất đảm, thậm chí chối bỏ đức tin nữa. Các trình thuật về việc Phêrô đi trên mặt nước rồi bị chìm (Mt 14,22-33), chối Chúa ba lần (Mc14,66-72), trốn chạy khi Chúa chịu nạn... cho thấy lòng tin của ông như thế nào! Cuối cùng, sau những lần yếu đuối, Phêrô đã kiên vững trong lòng tin cho đến chết. Gương của Phêrô cho thấy đức tin là một ơn của Chúa, con người khó mà có được lòng tin vững mạnh nếu Chúa không nâng đỡ (Lc 22,31-32). Về phần Chúa, ta thấy Ngài luôn lạc quan, tin tưởng vào Phêrô, dù biết rõ con người của ông.
Mời Bạn: Hẳn bạn không thể tự mãn về lòng tin của mình, dù bạn vẫn giữ đạo tốt, vẫn tin vào Chúa. Bạn cũng chẳng dám cho rằng mình có đức tin "lớn bằng hạt cải" (Lc 17,6). Đức tin của bạn phải trải qua thử thách thì mới là đức tin thật và mạnh mẽ.
Sống Lời Chúa: Khiêm tốn nài xin Chúa nâng đỡ lòng tin yếu kém của bạn, trong sự xác tín rằng đức tin của bạn sẽ được củng cố nhờ cầu nguyện, nhờ Lời Chúa và bí tích Thánh Thể.
Cầu nguyện: Tâm sự với Chúa bằng lời Phúc Âm: "Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con" (Lc 17,5); "Lạy Chúa, con tin, nhưng xin nâng đỡ lòng tin yếu kém của con" (Mc 9,24).
11: “Abba”
Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." (Mt 16,16)
Suy niệm: Ben Hur trong bộ phim cùng tên đã thốt lên: "Tại sao Con Thiên Chúa không muốn làm vua Do Thái hở mẹ? Những điều kỳ diệu Ngài làm khiến con kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Ngài đủ hủy diệt sức mạnh Roma. Thế mà Ngài lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian lao trở thành vô ích? Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của Roma và để vũ khí mà ta khổ công rèn đúc phải rỉ sét ư?"
Anh cũng như nhiều đồng hương đã thất vọng về Đức Giêsu, vì chờ đợi Ngài như Đấng Cứu Thế vinh quang bằng cách trừng phạt quân đội Roma, mang lại phồn vinh cho trần thế qua sức mạnh chinh phục. Ngài quả thật là Con Thiên Chúa hằng sống, là Đức Kitô Cứu Thế như Phêrô tuyên xưng. Thế nhưng, là người Con hiếu thảo với Cha, đời Ngài chỉ canh cánh một điều là làm đẹp ý Cha trong mọi sự. Thế mà ý Cha là sai Con mình đến, không phải để luận phạt, nhưng để cứu thế gian và để thế gian nhờ đó được sống dồi dào.
Mời Bạn: Bạn không tin Thiên Chúa cách chung chung như những tín đồ tốt lành của các tôn giáo khác. Bạn tin và đến với Thiên Chúa qua người Anh Cả Đức Giêsu, Đấng là Thiên-Chúa-thần-linh, nhưng đồng thời cũng là con-người-xương-thịt như bạn. Nhờ sống trong tương quan thân thiết với người Anh Cả Thiên-Chúa-con-người này, bạn gặp được Thiên Chúa và dám mở miệng gọi Thiên Chúa: "Abba!" ("Cha ơi").
Sống Lời Chúa: Xem lại cách tôi sống với Đức Giêsu như thế nào: gắn bó thân thiết như nên "một" với Ngài hay hờ hững qua loa? Và tìm mọi cách để có thể như Ngài sống trong tôi mỗi ngày.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.
12: Công trình Hội Thánh--giesu.net
Đức Giê-su hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15)
Suy niệm: Khi xây nhà, ai cũng thừa biết phải bắt đầu từ nền móng, và là một nền móng được gắn vào đá vững chắc, chứ không ai khờ dại xây nhà hờ hững trên nền cát.
Để xây Hội Thánh, Chúa Ki-tô cũng muốn xác định tính vững chắc của những tảng đá Ngài sẽ dùng để làm nền móng cho Hội Thánh là các tông đồ. Phép thử của Ngài là một câu hỏi. Cần phải biết “Thầy là ai?” để hiểu mục đích mà Thầy nhắm đến khi thiết lập Hội Thánh. Cần phải biết Thầy để biết được giới hạn của mình cũng như để lường trước sức nặng của Hội Thánh mà Thầy sẽ đặt lên vai mình. Qua phép thử này, Chúa Ki-tô cho biết tính vững chắc của Hội Thánh không hệ tại những đầu óc thông thái mà là một niềm xác tín vững vàng vào Đấng mà mình đang đi theo. Với niềm tin vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống thì Hội Thánh có sức đứng vững trước mọi thách thức, chống phá, dù là quyền lực của ác thần Sa-tan.
Mời Bạn: Qua hơn hai mươi thế kỷ, biết bao vương quyền hay thể chế trần gian đã sụp đổ, nhưng Hội Thánh Chúa Ki-tô vẫn kiên vững; sự thật này minh chứng cho một nền móng vững chắc của tòa nhà Hội Thánh. Mời bạn tiếp nối lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” để góp phần xây dựng Nước Chúa ở trần gian nay.
Sống Lời Chúa: Nhiệt thành tham gia vào đời sống của Giáo Hội địa phương, là bạn đang góp phần xây dựng Hội Thánh Chúa Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, chúng con tin rằng Hội Thánh Chúa luôn vững bền. Xin gìn giữ chúng con trong Hội Thánh để chúng con thuộc về Chúa luôn.
13: Lập Tông Tòa thánh Phêrô--Lodi
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Quyển lịch cổ nhất của Rôma (Depositio martyrum) có từ năm 354, xác nhận Thánh Lễ “Ngai Tòa Thánh Phêrô – Chaire de Saint Pierre” được mừng kính ngày 22.02, ngày dân Rôma nhớ đến những người quá cố. Nhưng sau đó, vì các Giáo Hội xứ Gaule không cử hành trọng thể các lễ trong Mùa Chay, nên Thánh Lễ này được dời vào ngày 18.01, trong khi Giáo Hội Rôma vẫn giữ ngày cũ. Ngày lễ cũng khác và chủ đề cũng khác: trong xứ Gaule, người ta mừng lễ “Ngai Tòa thánh Phêrô tại Rôma”; tại Rôma, người ta mừng lễ “Ngai Tòa thánh Phêrô tại Antiochia”. Cuối cùng hai lễ nhập lại làm một và được xác định vào ngày 22.02, dưới một chủ đề: Ngai Tòa Thánh Phêrô.
Tại Rôma, trong đại thánh đường thánh Phêrô, người ta còn giữ được ngai toà (tiếng La Tinh cathedra) của vị giáo hoàng tiên khởi, có nghĩa là ngai toà, theo truyền thống, thánh Phêrô đã sử dụng. Nó là biểu trưng cho uy quyền của Đức Giáo Hoàng như là Thầy dạy, Thượng Tế và mục tử của Hội Thánh toàn cầu.
2. Thông điệp và tính thời sự
Thánh lễ kính Ngai Tòa Thánh Phêrô giúp chúng ta đào sâu sứ vụ của vị Tông Đồ Phêrô và các đấng kế vị trong Hội Thánh, nhờ phong trào đại kết, tìm cách kết hợp mọi Kitô hữu.
a. Ngai Tòa Thánh Phêrô trước tiên nhắc nhớ đến sứ vụ Đức Giêsu trao phó cho Simon-Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,32). Mặc cho thử thách mà đức tin các Tông Đồ phải chịu (Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo), đức tin của thánh Phêrô giữ vai trò nền tảng trong Hội thánh tiên khởi. Thánh Phaolô xác nhận Chúa Giêsu đã hiện ra với Céphas (Phêrô), sau đó cho nhóm Mười Hai (1 Cr 15,5); cũng thế, Phúc Âm thánh Luca xác nhận trong câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmaus: “Nhóm Mười Một và các bạn hữu nói với họ: Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,34)
Phụng Vụ nhấn mạnh việc “đức tin của thánh Tông Đồ Phêrô” là đá tảng, trên đó Chúa đã xây dựng chúng ta. Phúc Âm Thánh lễ soi rọi niềm tin này của thánh Phêrô (Mt 16,13-19), trong lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đấng Mêssias, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu đáp: “Anh là đá, trên đá này Tôi sẽ xây Hội Thánh của Tôi” (c 18). Lời tuyên bố của Đức Giêsu là nguồn gốc sứ vụ cao vời thánh Phêrô thực hiện trong cộng đoàn tiên khởi, và theo truyền thống Công Giáo, là nguồn gốc Tối Thượng Quyền mà tất cả các Đức Giáo Hoàng được lãnh nhận từ thánh Phêrô.
b. Sứ vụ của thánh Phêrô, công bố niềm tin đích thực và chân chính vào Đức Giêsu Kitô, cũng là xác nhận niềm tin của anh em và khuyến khích những người có trách nhiệm trong Hội Thánh (Các kỳ mục hay trưởng lão). Vì thế, trong bài đọc một (1 Pr 5,1-4) thánh Phêrô nhắc nhở các kỳ mục, có nghĩa là những người đứng đầu các cộng đoàn, trách nhiệm của họ: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng vì lòng nhiệt thành... Đừng lấy quyền mà thống trị, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.”
Đoạn Công Vụ Tông Đồ đọc trong Phụng Vụ Giờ Kinh nhắc đến việc những người đã cắt bì tranh luận với Phêrô. Sau khi thánh Tông Đồ “nhắc lại câu chuyện từ đầu và trình bày từng điểm một cho họ, các thính giả bình tĩnh trở lại và ca ngợi Thiên Chúa”. Như thế thánh Phêrô đã củng cố đức tin cho anh em và kết hợp mọi người trong Hội Thánh. Đá góc là Đức Kitô, nhưng Đức Giêsu nói với Phêrô: “Con là đá, có nghĩa là: Ta là đá không thể lay chuyển... còn con, con cũng là đá, con cũng vững vàng nhờ sức mạnh của Ta” (thánh Lêô Cả, Phụng Vụ Giờ Kinh).
14: Phê-rô đứng dậy sau vấp ngã--Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Nếu như Thánh Phaolô có ngày té ngựa để làm lại cuộc đời, thì thánh Phêrô có mẻ cá kỳ diệu nhờ vâng lời để đứng dậy làm lại cuộc đời
Hôm nay lễ lập tông tòa thánh Phê-rô, là dịp chúng ta tưởng nhớ việc Đức Kitô chọn Phêrô làm người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Người ta tưởng rằng đêm tối vườn cây dầu đã tiêu huỷ sự nghiệp của một tông đồ miền duyên hải. Một con người mang đậm tính chất phác, bộc trực và ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng tuyên bố: “anh em có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Thế mà đêm đó, ông đã bỏ chạy tuy đã rút gươm chém đứt một bên tai của người lính. Có lẽ ông đã phản ứng bởi tự nhiên, bởi tự vệ và cũng có thể vì ông nghĩ rằng giờ của Chúa đã đến. Ông sẽ cùng Thầy khôi phục lại nhà Israel. Nhưng ông đã lầm. Chúa Giêsu không những đã không hoan nghênh lại còn oán trách ông là hành động hồ đồ. Dùng gươm sẽ chết vì gươm. Đó không phải là cách Thiên Chúa dùng để thâu nạp muôn dân vào trong Nước của Ngài.
Thất vọng ông đã bỏ chạy trong đêm tối. Đêm tối của đức tin. Đêm tối của tuyệt vọng. Tưởng rằng sau đêm đó người ta sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Ông đã bỏ chạy cao xa, để mặc Thầy bị những con người cuồng nhiệt, nhân danh tôn giáo để giết hại Thầy mình. Nhưng rạng sáng hôm đó, người ta lại thấy ông xuất hiện chen lẫn giữa đám người còn đang cuồng nhiệt đòi giết Thầy mình. Một hành động quá chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí Thánh. Thế mà, ông lại một lần nữa vấp ngã trước sự dữ. Ông đã chối Chúa đến ba lần trong một đêm vì một đứa tớ gái đã vạch mặt chỉ tên là đồng bọn với tử tội Giêsu.
May mắn cho cuộc đời của ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như tiếng lương tâm thức tỉnh lòng ông. Ông lấm lét nhìn lên Chúa và bắt gặp ánh mặt đầy nhân từ, cảm thông của Thầy. Chúa không nói lời nào với ông và ông cũng không còn lời nào để nói. Nhưng qua ánh mắt đầy nhân từ của Chúa, ông tin rằng Chúa biết rõ con người của mình. Chúa biết ông yêu mến Ngài.
Ông đã đứng dậy, bước ra ngoài sự dữ. Dứt bỏ nơi chốn nên cớ cho ông vấp phạm và khóc lóc ăn năn.
Và sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ, Đức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: "Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô." Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó”. Họ về nhà. Đầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói: "Bình an cho anh em," và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20:21b).
Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. "... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần". Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: "... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em" (Lc 22:32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, về những vấn đề cấp bách của Giáo hội.
Thánh Phêrô được chọn làm đại diện của Chúa không phải vì Ngài hoàn hảo, cũng không phải vì Ngài tài trí hơn người, mà điều quan yếu hệ tại ở lòng thánh nhân luôn yêu mến Thầy chí thánh Giêsu. Xin cho chúng ta biết học nơi thánh nhân. Biết chỗi dậy sau những vấp ngã. Biết tin tưởng, phó thác cuộc đời trong tình thương quan phòng của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng ta luôn biết yêu mến Giáo hội, biết kính trọng vâng phục các người đại diện Chúa nơi trần gian, vì các ngài là hiện thân của Chúa đang dẫn dắt chúng ta. Amen.
15: Lập Tông Tòa thánh Phêrô--GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
Mừng kính lễ thiết lập ngai toà của thánh Phêrô, chúng ta không tôn thờ chiếc ghế như dấu chỉ của quyền cai quản Giáo Hội mà Chúa đã trao phó cho thánh Phêrô và những người kế vị ngài là các Đức Giáo hoàng. Nhưng chúng ta được mời gọi tôn vinh một tình yêu sẻ chia của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “Con là đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
Quả thế, Chúa Giêsu đã có lần dạy các môn đệ rằng: “Anh em biết những người được coi là thủ lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người làm lớn thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạnh sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 42-43).
Như thế, khi thiết lập ngai toà thánh Phêrô, Chúa muốn thông chia quyền bính cai trị dân Chúa cho con người, cụ thể là cho thánh Phêrô và các Tông tồ và những người kế vị các ngài là Giáo hoàng và Giám mục. Và những người lãnh nhận nhiệm vụ ấy sẽ phải hành xử theo cung cách của thầy Giêsu: “Thầy ở giữa anh em như người phục vụ” hay “Ta đến để cho chúng được sống dồi dào”.
Như thế, chia sẻ quyền bính cai trị cho con người là Thiên Chúa muốn mời gọi con người đi vào con đường phục vụ trong yêu thương. Và càng phục vụ trong yêu thương như Chúa, chúng ta sẽ tiếp tục làm cho ngai toà tình yêu ấy ngày một triển nở trong xã hội trần thế này. Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ nhìn thấy một thế giới yêu thương trong hiệp thông với nhau và phục vụ lẫn nhau. Và như vậy chúng ta sẽ đẩy lùi sự hận thù và gian trá, loại bỏ sự bất công và ghen ghét trong cuộc sống này.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã yêu thương và chia sẻ quyền bính cai trị dân Chúa trong yêu thương và phục vụ cho chúng con. Xin cho các Đức Giáo hoàng, các Giám mục và tất cả chúng con biết đón nhận hông ân này trong tin yêu và phó thác, để chúng con có thể làm cho nước Chúa được vinh hiển trong cuộc đời này. Amen.
16: Kính Ngai tòa Thánh Phêrô Tông đồ
Hằng năm, vào ngày 22 tháng 2 tại Rôma, trong Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican, Ngai tòa Thánh Phêrô do Berlini xây năm 1656 được thắp nến sáng.
Ngai tòa Thánh Phêrô tại Rôma là chiếc ngai khổng lồ, bên trong dựng chiếc ghế gỗ khảm xà cừ của Thánh Phêrô, được bốn Thánh Tiến sĩ nâng trên tay: Thánh Augustinô, Thánh Ambrôsiô, Thánh Atanasiô và Thánh Gioan Kim Khẩu. Bên trên có một hào quang rực rỡ bằng cẩm thạch giả, chính giữa có hình chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần.
Bên phải Ngai tòa Phêrô là đài kỷ niệm ÐGH Urbanô VIII và hai tượng biểu trưng cho nhân đức Bác Ái và Công Bằng. Bên trái là đài kỷ niệm ÐGH Phaolô III do G. della Porta tạc: phía trên có tượng của ÐGH, bên dưới là hai tượng biểu trưng cho hai nhân đức Cẩn Trọng và Công Bằng. Trên đường sang cánh trái của gian ngang, bên phải là đài kỷ niệm ÐGH Alessanđrô VIII do E. di S. Martino tạc năm 1725, bên trái là bức tranh Thánh Phêrô chữa người bất toại được khảm đá mầu của F. Mancini.
Chữ “Cathedra” có nghĩa là chiếc ghế hay giảng tòa và có nguồn gốc từ chữ “Cathedral”, nơi một vị giám mục có giảng toà để ngài giảng dạy. Một từ khác được dùng cho “Cathedra” là “sedes” từ chữ “See” nghĩa là Tòa nơi một vị giám mục điều hành giáo phận của mình. Như thế từ “Holy See” nghĩa là Tòa Giám mục Rôma, nơi Ðức Giáo Hoàng ngự trị, hay được gọi là Tòa Thánh.
Trong suốt dòng lịch sử, Ngai tòa Thánh Phêrô mang theo hai nghĩa: Ðó là chiếc ghế như một biểu tượng (biểu tượng quyền tối thượng của Thánh Phêrô); trong thời cổ chiếc ghế hay “cathedra” là một biểu tượng quyền giảng dạy và như thế chiếc ghế được coi như một vật thể (ngai tòa của Charles de Bald được Đức Giáo Hoàng Gioan VIII sử dụng và các vị Giáo Hoàng kế nhiệm).
Lễ lập Tông tòa Thánh Phêrô được kỷ niệm hằng năm vào ngày 22 tháng 2. Vào thời kỳ phụng vụ Rôma còn chịu ảnh hưởng của Giáo Hội Gallica, ngày mừng của Phụng Vụ Gallica, là ngày 18 tháng 1, nhưng ngày 22 tháng 2 vẫn được cử hành với tước hiệu “Lễ lập Tông tòa Phêrô tại Antiôkia”. Ðức Giáo Hoàng Phaolô IV đã truyền vào năm 1558 phải mừng cả hai lễ trọng. Bộ luật Chữ Ðỏ năm 1960 chỉ giữ lại ngày 22 tháng 2 là “Ngày lập Tông tòa Phêrô tại Rôma” cho giáo hội toàn cầu.
Hôm nay, chúng ta cũng tưởng nhớ đến việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Sau những ngày sống trong đau khổ, hồ nghi và dằn vặt vì chối Thầy, và nhất là phải chứng kiến cảnh Thầy bị đóng đinh, bị chết và được an táng, thì ngày thứ ba, Phêrô đã được nghe Tin Mừng Phục Sinh. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: “Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô”. Thánh Gioan tường thuật lại: khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ nhanh chân hơn vị tông đồ lớn tuổi kia, đến mộ Thầy trước, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: “... Họ không hiểu rằng theo Kinh Thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết" (x. Ga 20,1-10). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói: “Bình an cho các con,” và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20,21b).
Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. “... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần” và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (x. Cv 2,1-12)
Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: “... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em” (Lc 22,32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần - trước giới thẩm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước Thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. (x. Cv 9,32-42) Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành. (x. Cv 5,12-16)
Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với dân ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết: “... Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai... Các ông ấy không đi đúng với chân lý của Phúc âm...” (Gl 2,11b.14a).
Trong đoạn cuối Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải dang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn” (Ga 21,18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nerô, trên đồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô hữu khác.
Mừng lễ kính Ngai tòa Thánh Phêrô là một dịp Giáo Hội kêu mời các tín hữu hãy cầu nguyện nhiều cho Ðức Giáo Hoàng trước những khó khăn lớn lao mà ngài phải đương đầu trong thế giới hôm nay.
17: Lập Tông Tòa Thánh Phêrô
“Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc …”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?”. Câu hỏi này thật dễ với những người nhạy tin tức như các tông đồ. Các ông đua nhau trả lời: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia, hay một trong các vị tiên tri”. Các câu trả lời cho thấy dân chúng nhìn nhận Đức Giêsu là người được Thiên Chúa sai đến, là một tiên tri, nhưng vẫn chưa nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
Câu hỏi Đức Giêsu là ai, không chỉ là vấn nạn cho những người cùng thời, thắc mắc này cũng mang đến sự hoài nghi ngay giữa các môn đệ thân tín của Đức Giêsu. Khi Người hỏi: “Còn anh em bảo thầy là ai?” Chúa Giêsu đọc thấy được sự im lặng cách bị động từ phía các tông đồ. Các ông không còn tranh nhau nói nữa. Các môn đệ đi theo Đức Giêsu ròng rã gần 3 năm, là những người thân thiết nhất của Ngài, nhưng họ cũng không có câu trả lời xác đáng cho chính mình. Chỉ một mình Phêrô lên tiếng: “Thầy là Đấng Kitô”.
Và Đức Giêsu bảo Phêrô: “Anh thật là có phúc”. Thật là phúc cho Phêrô vì không phải tự ông cảm nghiệm và biết được mầu nhiệm Đấng Kitô đã làm người. Phúc cho ông khi điều ông vừa tuyên xưng được chính Chúa Cha mặc khải cho. Đây là một hồng ân lớn lao dành cho Phêrô. Phêrô không thuộc hàng học giả chuyên nghiên cứu Kinh Thánh như nhóm Pharisêu hay tư tế. Cũng không nằm trong số những bậc trưởng lão đáng kính có tư tưởng cao siêu trong dân. Phêrô chỉ là một anh đánh cá nhà quê ít học, sống bằng nghề chài lưới. Vì thế, việc Phêrô được chọn, được mặc khải là một ơn ban cách đặc biệt.
Chúa đã chọn gọi và trao cho Phêrô sứ vụ xây dựng Hội Thánh của Chúa. Phêrô đã đáp trả bằng hành động tuyên xưng và tin vào Đức Kitô. Vì tin, Phêrô dám bỏ tất cả để theo Thầy. Vì tin, Phêrô dám quay trở lại sau khi chối Thầy. Vì tin, Phêrô đã hiến trọn cuộc sống còn lại ở trần gian vì thập giá của Thầy. Và vì tin, Phêrô dám chết trên cây gỗ như Thầy, nhưng xin treo ngược vì vẫn cảm thấy không xứng đáng với Thầy. Tin nghĩa là yêu. Và yêu tức là tin. Phêrô đã diễn tả niềm tin và tình yêu của mình một cách mạnh mẽ và mãnh liệt nhất để bù lại những yếu đuối và bất xứng của ông.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương thánh Phêrô. Biết dâng trọn những yếu đuối và bất toàn của con trong bàn tay quan phòng của Chúa, để con được Chúa thánh hóa và trở nên công cụ hữu dụng của Chúa. Xin cho con biết tin yêu Chúa trong mọi hành động, trong mỗi giây phút của cuộc đời con. Amen!
21/02 Dấu lạ của Thiên Chúa
- Viết bởi Lc 11, 29-32
Dấu lạ của Thiên Chúa.
Thứ Tư tuần 1 Mùa Chay.
“Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona”.
Lời Chúa: Lc 11, 29-32
Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: “Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona.
Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Ðến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Con người sẽ là một dấu lạ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi đọc chuyện ông Giôna người Galilê, ai cũng nhớ ông đã bị cá nuốt ba ngày.
Sau đó ông lại được cá khạc ra trên đất liền mà vẫn còn sống.
Nhưng điều đáng nhớ hơn là sau kinh nghiệm đó Giôna đã biết vâng phục Chúa.
Ông chấp nhận đi giảng cho dân Ninivê, một dân ngoại ở vùng là Irắc bây giờ.
Thật không ngờ, lời rao giảng của ông đã kéo cả nước vào một cuộc hoán cải,
Từ vua đến dân, thậm chí cả súc vật, đều ăn chay, sám hối việc mình làm.
Thái độ của họ đã làm Đức Chúa đổi ý, không đoán phạt nữa.
Đức Chúa không muốn trừng phạt, Ngài chỉ mong con người sám hối.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nỗi buồn của Đức Giêsu
khi dân chúng đòi dấu lạ, dù họ đã thấy nhiều phép lạ của Ngài.
Dấu lạ ở đây phải hiểu là một điềm báo hoành tráng từ trời
để chứng thực về con người và sứ mạng của Ngài.
Khi bị cám dỗ trong hoang địa, Ngài đã không nhảy xuống từ nóc Đền thờ.
Ngài không muốn mua lòng tin của con người bằng một cử chỉ ngoạn mục.
Bây giờ Ngài cũng dứt khoát từ chối:
“Họ sẽ không được ban một dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna.”
Dấu lạ ông Giôna không phải là chuyện ông bị cá nuốt mà còn sống.
Dấu lạ là chính con người của ông với việc rao giảng của ông.
Dân Ninivê đã sám hối khi nghe Giôna giảng,
nhưng thế hệ đương thời với Đức Giêsu đã từ khước ngài.
Họ là một thế hệ gian ác (c. 29) vì không chịu sám hối.
“Đây còn hơn Giôna, đây còn hơn Salômôn” (cc. 31-32).
Đức Giêsu đã không thành công bằng hai ông này.
dù lời giảng của ngài còn khôn ngoan hơn lời của vua Salômôn
và thuyết phục hơn lời giảng của ngôn sứ Giôna.
Dân Ninivê và nữ hoàng Shêba sẽ kết án thế hệ này vì sự cứng cỏi của họ.
Mùa Chay là thời gian đọc lại những chuyện lạ Chúa đã làm cho đời mình.
Có những chuyện bề ngoài tưởng là chuyện tự nhiên hay ngẫu nhiên.
Chỉ ai biết nhìn mới thấy lạ.
Có khi chúng ta vẫn thèm Chúa làm một cái gì đó thật kinh khủng
để ta mạnh mẽ đổi đời và từ bỏ hoàn toàn nếp sống cũ.
Làm sao để lòng sám hối đến từ việc nhận ra những chuyện nhỏ bé
mà Chúa vẫn làm cho ta mỗi ngày nhiều lần?
Cầu nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.
Suy Niệm 2: Nhạy bén với dấu chỉ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu khen nữ hoàng Saba và dân thành Ni-ni-vê. Họ có những phẩm chất của Tin Mừng.
Nhạy bén. Họ nhạy bén lắng nghe. Từ Sa-ba xa xôi mà nữ hoàng cũng nghe được tiếng tăm Sa-lo-mon. Dù đang phạm tội, dân thành Ni-ni-vê cũng nghe được tiếng Gio-na. Họ nhạy bén đón nhận. Họ lắng nghe chăm chú. Họ đón nhận, Họ để sứ điệp đụng chạm bản thân, thấm nhập tâm hồn. Họ nhạy bén hành động: đón nhận rồi họ hành động tức khắc. Nữ hoàng rong buồm ra đi, dân Ni-ni-vê cải đổi đời sống.
Khiêm nhường. Họ nhạy bén vì họ rất khiêm nhường. Nữ hoàng biết mình kém hiểu biết nên khao khát nghe sự khôn ngoan của Sa-lo-mon; dân Ni-ni-vê biết mình tội lỗi nên đã hối cải theo lời khuyên của Gio-na.
Thành tâm. Khiêm nhường vì thành tâm, khao khát điều tốt. Khi biết điều hay lẽ phải lập tức tuân hành. Những người thời Chúa Giê-su không được như thế.
Người thời Gio-na đã nghe lời ông. Người thời Chúa Giê-su không nghe lời Chúa. Dù Chúa trổi vượt hơn Gio-na về tất cả. Gio-na được Thiên Chúa sai đến. Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa đích thân đến. Gio-na miễn cưỡng đến Ni-ni-vê. Chúa Giê-su tự nguyện xuống trần. Gio-na ở trong bụng cá ba ngày nhưng không chết. Chúa Giê-su chịu vùi chôn trong lòng đất vì đã chết thật. Gio-na không tự mình sống lại. Chúa chiến thắng thần chết và sống lại hiển vinh.
Nữ hoàng Sa-ba ngưỡng mộ sự khôn ngoan của Sa-lo-mon. Người thời Chúa Giê-su không hiểu sự khôn ngoan của Chúa Giê-su. Dù Chúa Giê-su trổi vượt Sa-lo-mon muôn ngàn lần. Sa-lo-mon được Thiên Chúa ban sự khôn ngoan. Chúa Giê-su là Ngôi Lời, là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Sa-lo-mon chỉ là sự khôn ngoan của trần gian. Chúa Giê-su là sự khôn ngoan của Nước Trời. Sự khôn ngoan của thập giá. Sự khôn ngoan của tình yêu. Sự khôn ngoan dẫn ta đến sự sống đời đời.
Mùa Chay là mùa rèn luyện tâm hồn nhạy bén. Để nhận được những tín hiệu Chúa gửi. Để sứ điệp của Chúa thấm sâu vào tâm hồn. Biến thành hành động tức khắc và cụ thể.
Suy Niệm 3: Dấu lạ của Thiên Chúa
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
“Người Do Thái đòi dấu lạ, người Hy Lạp tìm triết lý, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh Thập giá”. Thánh Phaolô, người tự xưng là Do Thái hơn cả người Do Thái đã nêu bật não trạng của dân tộc ngài.
Người Do Thái xưa kia luôn đòi các luật sĩ làm dấu lạ để minh chứng lời mình tuyên bố, và dĩ nhiên họ đời dấu lạ nơi những ai tự xưng mình là tiên tri.
Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi sự chờ đợi này. Trong suốt giai đoạn hoạt động công khai, Ngài không chỉ bị thách đố làm dấu lạ, mà ngay khi giữ chay 40 đêm ngày để chuẩn bị sứ vụ rao giảng Tin mừng, Ngài đã bị cám dỗ thực hiện dấu lạ, như biến đá thành bánh, gieo mình xuống từ thượng đỉnh Đền thờ để minh chứng Ngài là Con Thiên Chúa. Cuộc thách đố này còn kéo dài cả khi Ngài bị đóng đinh Thập giá, lúc ấy Ngài bị thách thức: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi Thập giá”.
Trong bài Tin mừng hôm nay, những luật sĩ và biệt phái đến xin Chúa Giêsu cho họ thấy một dấu lạ không hẳn là những đối thủ của Ngài. Nhưng điều Ngài muốn họ phải tẩy sạch khỏi não trạng là những định kiến, qua đó họ vẽ sẵn một khuôn mặt, một hình ảnh Đấng Cứu Thế và họ đòi buộc Chúa Giêsu phải mang lấy và phải hành động rập theo khuôn mặt ấy. Nhưng ngược lại quan niệm của họ về một Đấng Cứu Thế oai hùng, đánh đuổi ngoại xâm và tái lập một nước Do thái hùng mạnh, Chúa Giêsu muốn minh chứng Ngài là Đấng Cứu Thế qua một dấu lạ nhỏ bé khiêm tốn, yếu đuối: như tiên tri Giôna nằm trong bụng cá, Chúa Giêsu cũng sẽ nằm trong lòng đất ba ngay ba đêm. Nhìn từ bên ngoài, đây là một dấu lạ thua thiệt, dấu hiệu của sự thất bại, nhưng Thiên Chúa đã dùng dấu hiệu đó để áp dụng định luật: nhu thắng cương, nhược thắng cường.
Tìm những dấu lạ, tìm những dấu chỉ thời đại để củng cố niềm tin vào sự hiện diện cứu rỗi của Thiên Chúa trong cuộc sống không phải là một điều sai lầm, nhưng còn là điều mà các Kitô hữu trưởng thành cần phải làm. Tuy nhiên, chúng ta sẽ lạc lối nếu dõi theo vết xe cũ của luật sĩ và biệt phái giữ khư khư những định kiến và bắt buộc Thiên Chúa phải hiện diện theo những khuôn mặt, hình ảnh chúng ta đã vẽ sẵn. Vì thế, chúng ta phải chú tâm tìm những dấu chỉ hiện diện của Thiên Chúa theo ý muốn của Ngài, chứ không phải theo quan niệm của chúng ta, nghĩa là chúng là phải tìm gặp sự hiện diện của Ngài trong thân xác một người bị chết treo trên Thập giá như một tên tử tội và được chôn táng trong mồ như một người bại trận.
Suy Niệm 4: Dấu lạ cả thể
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thế nào là phép lạ? Theo quan niệm thông thường, khi một sự kiện có giá trị tích cực không thể giải thích được thì đó là phép lạ. Những người có niềm tin tôn giáo thì cho rằng phép lạ là một sự can thiệp của Chúa.
Giáo Hội Công Giáo luôn tin có phép lạ, nhưng trong thực tế lại tỏ ra vô cùng thận trọng trong việc nhìn nhận các phép lạ; cụ thể là những gì đã và đang xảy ra tại Trung tâm Thánh Mẫu Lộ Ðức bên Pháp: từ hơn 100 năm nay, đã có trên 2,000 trường hợp khỏi bệnh được nhiều người xem là phép lạ, nhưng cho tới nay, Giáo Hội Công Giáo chỉ chính thức nhìn nhận 65 vụ thực sự là phép lạ theo đúng nghĩa mà thôi.
Thế nào là phép lạ? Thiên Chúa có làm phép lạ không? Ðó là những câu hỏi mà Tin Mừng hôm nay như muốn nêu lên để chúng ta cùng suy nghĩ. Chúa Giêsu đã thực sự làm nhiều phép lạ: Ngài biến nước thành rượu; Ngài nhân bánh và cá ra nhiều để nuôi sống đám đông; Ngài chữa lành bệnh tật; Ngài là cho kẻ chết sống lại. Tất cả những phép lạ Chúa Giêsu thực hiện đều nhằm nói lên sứ mệnh của Ngài và Ngài chính là Ðấng Thiên Chúa sai đến để cứu rỗi nhân loại. Một số người Do Thái đã tin nhận và đi theo Ngài, nhưng phần đông vẫn tỏ ra dửng dưng trước những lời rao giảng của Ngài. Riêng những thành phần lãnh đạo trong dân, như nhóm Biệt Phái, thì chẳng những không tin nhận, mà còn chống đối Ngài ra mặt, họ thách thức nếu Ngài làm một dấu lạ cả thể thì họ mới tin nhận Ngài.
Trước thái độ đó, Chúa Giêsu mượn hình ảnh của tiên tri Giôna để nói về Ngài. Tiên tri Giôna đã đến Ninivê để rao giảng sự sám hối, tất cả các phép lạ của Chúa Giêsu cũng đều nhằm nói lên sứ mệnh của Ngài và kêu gọi sám hối. Tiên tri Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm. Giáo Hội tiên khởi đã xem đây như là một dấu chỉ loan báo chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu. Như vậy, nếu có một dấu lạ cả thể mà Chúa Giêsu thực hiện để đáp lại sự thách thức của những người Biệt Phái, thì dấu lạ đó không gì khác hơn là chính cái chết của Ngài: chết để nên lời, và lời ấy là lời của yêu thương.
Ngày nay, không thiếu những người thách thức Thiên Chúa. Cũng như những người Biệt Phái, họ đòi Thiên Chúa phải làm một dấu lạ cả thể nào đó, họ mới tin nhận Ngài. Nhưng mãi mãi, Thiên Chúa sẽ không bao giờ hành động như thế, Ngài mãi mãi vẫn là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã nhập thể làm người và sống cho đến tận cùng thân phận làm người. Cái chết trên thập giá vốn là tuyệt đỉnh của thân phận làm người, do đó trở thành dấu lạ cả thể nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện, đó là dấu lạ của tình yêu.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục bày tỏ dấu lạ cả thể ấy. Trong trái tim mỗi người, Thiên Chúa đã đặt vào đó sức mạnh vĩ đại nhất là tình yêu. Sức mạnh ấy không ngừng nung nấu con người. Sức mạnh ấy đang được thể hiện qua những nghĩa cử mà chúng ta có thể bắt gặp mỗi ngày. Ðó là phép lạ cả thể nhất Thiên Chúa đang tiếp tục thực hiện trong lịch sử con người. Tình yêu vốn là sức mạnh vĩ đại nhất, nhưng thường lại được bày tỏ qua những cử chỉ nhỏ bé và âm thầm nhất. Một nụ cười thân ái, một cái xiết tay, một lời an ủi, một cử chỉ tử tế, một ánh mắt cảm thông và tha thứ, đó là những cử chỉ nhỏ, nhưng lại là biểu hiện của dấu lạ cả thể nhất là tình yêu.
Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh để nhận ra phép lạ Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện trong cuộc sống của chúng ta. Ước gì chúng ta cũng trở thành dấu lạ ấy cho những người chung quanh.
Suy Niệm 5: Dấu lạ cá voi
Quả thật, ông Gio-na đã là một dấu lạ cho dân thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy. Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của Sa-lô-mon; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-mon nữa. Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na giảng; mà đầy thì còn hơn Gio-na nữa. (Lc. 11, 30-32)
Người Do thái đòi Đức Giê-su làm một dấu lạ. Một đòi hỏi gây cấn luôn có trong đầu óc của họ về Đấng Messia đã được hứa trong Cựu ước: Ngài phải làm những dấu lạ để chứng tỏ sứ mệnh của Ngài. Thực ra nhiều lần Đức Giê-su đã làm phép lạ rồi. Nhưng lần này Người từ chối và từ chối khá quyết liệt, lại còn tố lại họ nữa: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác: chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào ngoài dấu lạ ông Gio-na”. Dấu lạ độc nhất Đức Ki-tô bằng lòng cho họ là dấu lạ an táng Người ba ngày trong lòng đất như Gio-na ở trong bụng quái vật của biển cả ba ngày.
Thái độ thực đáng kinh ngạc của Đức Giê-su đã đánh lạc hướng những người muốn tin Ngài, nếu họ được chứng kiến dấu lạ Ngài làm. Đức Ki-tô chẳng những từ chối đòi dấu lạ của họ mà còn dồn họ vào chân tường. Ngài đưa ra lý lẽ chứng minh họ không tin Ngài. Lý lẽ mà Đức Giê-su cho thấy là: “Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Gio-na giảng …”. Dân Ni-ni-vê không đòi Gio-na làm dấu lạ. Ngôn sứ chỉ rao giảng đã đủ làm họ sám hối trở về. Chính ra dân Do thái phải nghe lời Đức Giê-su như vậy, hơn nữa, lời đầy uy quyền của Ngài đủ để là dấu lạ đến từ Thiên Chúa. Đức Giê-su từ chối yêu sách của họ vì dấu lạ bên ngoài chỉ thỏa mãn tò mò thôi. Chính bên trong con người lời Ngài mới làm cho họ thấy được tiếng vang dội của niềm tin cậy để nhận ra Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, chứ không phải phép lạ hào nhoáng trước mắt.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải đón nhận lời Chúa bằng một đức tin độc nhất vào Đức Giê-su. Chúng ta phải đón nhận cái chết ngược đời của Ngài làm chướng tai gai mắt những kẻ tham sân si. Nhờ đó chúng ta mới có thể đối mặt với những cái chết của chúng ta hàng ngày như thất bại, bệnh tật, buồn tủi đang chôn vùi chúng ta trong bụng thủy quái. Dù phải chết trong hoàn cảnh nào, chúng ta luôn sống tin cậy vào Đấng đã phục sinh và đừng đòi hỏi những phép lạ từ Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki-tô, không muốn biểu diễn quyền phép để tìm kiếm lợi lộc, nhưng chỉ lo cứu độ. Thế là đủ cho chúng ta còn đòi chi nữa!
Suy Niệm 6: Khôn ngoan thật
Ở đời, người ta hay đề cao những kẻ nói hay, hót giỏi, tức là nịnh bợ tốt. Họ cũng hay khen những kẻ biết dùng mánh khóe để lừa thầy phản bạn... Người ta cũng không tiếc đưa ra những lời ca ngợi những người thành đạt, giàu có và có chỗ đứng trong xã hội, bất luận điều đó đến từ đâu!
Sống trong một xã hội như vậy, chúng ta không lạ gì khi có rất nhiều người khẳng định vị trí, vai trò của mình bằng những hành động lưu manh mà không hề áy náy!
Tuy nhiên, những điều mà người đời cho là khôn ngoan trên đây thì lại là dại dột, ngu xuẩn trước mặt Thiên Chúa. Thật vậy, người khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa là người biết sám hối.
Tại sao thế? Thưa! Bởi vì, sám hối là biểu hiện của một tâm hồn khiêm nhường, công chính. Sám hối còn là dấu chỉ của người thuộc về Chúa. Sám hối là điều kiện cần để được cứu độ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các Luật Sĩ và Pharisêu đòi Đức Giêsu phải làm một dấu lạ thì họ mới tin. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không làm và ngược lại, Ngài đã dạy cho họ phải biết sám hối, nếu không thì không thể được cứu độ. Đức Giêsu đã cảnh báo họ, khi đưa ra hình ảnh nữ hoàng phương nam, dân Ninivê sẽ được cứu độ, vì họ đã đi tìm kiếm sự khôn ngoan, biết ăn năn sám hối, còn con cái trong nhà sẽ bị loại vì không biết sám hối.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho mỗi người chúng con biết đi tìm lẽ khôn ngoan là biết ăn năn sám hối chân thành để được cứu độ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Dấu chỉ Thiên Chúa gởi đến
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa gởi đến cho ta. Cần phải biết đón nhận bằng cách thành tâm lắng nghe lời khôn ngoan của Tin Mừng, đồng thời tin vào việc làm và đời sống của Chúa Giêsu để hoán cải.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong tình yêu nhân loại, con thấy không gì đau khổ cho bằng nghi ngờ và từ chối tình yêu của nhau. Và từ đó con hiểu được phần nào Chúa rất khổ tâm vì con lòng chai dạ đá. Chúa yêu thương con và đã hiến trọn cuộc đời của Chúa để biểu lộ tình yêu của Chúa Cha đối với con. Tin Mừng của Chúa, lòng thương xót tha thứ của Chúa, tình yêu Chúa rong ruổi đi tìm những con chiên lạc và bênh vực an ủi những kẻ khổ đau bé nhỏ, cuối cùng là sự hy sinh hiến mạng sống vì người mình yêu. Tất cả đều là lời mời gọi, là dấu chỉ biểu lộ tình yêu Chúa dành cho con. Thế mà lạy Chúa, con chưa nhận ra lời mời gọi của tình yêu. Con vẫn khép lòng và nhắm mắt như những người Do Thái xưa.
Lạy Chúa, đối với những người thực tình yêu mến, tất cả đều có ý nghĩa, mọi biến cố đều là lời mời gọi, mọi sự kiện đều là tiếng nói. Đã bao lần Chúa dùng lời Tin Mừng, lời giáo huấn của Hội Thánh, lời của cha mẹ, con cái, anh chị em, để mời gọi con. Đã bao lần Chúa để xảy đến cho con những biến cố vui buồn sướng khổ để nhắc bảo con. Nhưng con chẳng muốn thấy, chẳng thèm nghe, mà chỉ đổ xô chạy tìm những phép lạ hay những tin giật gân của dư luận. Lạy Chúa, nếu con thiếu tình yêu, thì bao nhiêu dấu lạ cũng chẳng đủ cho con. Xin Chúa ban cho con một tấm lòng thành để con đón nhận Chúa và tin yêu Chúa. Xin Chúa cho con được thật tình yêu Chúa, một tình yêu bén nhậy và tế nhị, để con về với Chúa và tựa sát lòng Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona”.
Suy Niệm 8: Dấu lạ Giôna
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cưỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cưỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận: “Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả”.
Vợ ông bước ra tiếp lời: “Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông”.
Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình.
Suy Niệm
Trong thư gửi giáo hữu Côrintô, thánh Phaolô nhận định: “Người Do Thái đòi hỏi dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan” (1Cr 1,22), người Do Thái đòi hỏi dấu lạ để tin…
Chúa Giêsu chỉ nói dấu lạ Giôna. Trước khi đến Ninivê loan báo sám hối, tiên tri Giôna ở trong bụng cá ba ngày, là hình ảnh báo trước về Ðức Giêsu cũng sẽ đi vào lòng đất ba ngày qua cái chết và Phục Sinh vinh quang để đem lại ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài. Cho nên, dấu lạ Chúa Kitô trong lòng đất là dấu lạ vĩ đại nhất mà ai muốn được cứu độ chỉ cần phải tin vào dấu lạ đó.
Khi nói về dấu lạ Giôna và so sánh với việc Ngài được chôn trong lòng đất, Chúa Kitô cảnh tỉnh về sự cố chấp không tin của người Do Thái. Nếu như xưa kia, dân thành Ninivê đã hối cải khi nghe lời giảng dạy của Giôna. Nữ hoàng Saba từ phương Nam xa xăm nghe biết Salômôn nổi tiếng khôn ngoan vì danh Chúa, nên cất bước đến Giêrusalem lãnh hội. Nay dân Do Thái, đặc biệt là biệt phái và tiến sĩ luật kiêu căng, tự phụ vào sự hiểu biết và đạo đức của mình không chịu lãnh nhận và tin theo giáo huấn của Đấng Cứu Thế - Đấng hơn cả ngôn sứ Giôna, có lời khôn ngoan hơn vua Salômôn đang hiện diện và giảng dạy giữa họ, nên họ chết trong sự cố chấp, cứng tin. Vì thế, trong ngày phán xét dân thành Ninivê và nữ hoàng Saba sẽ tố cáo sự cố chấp, cứng tin của họ.
Ðể được ơn cứu độ, chúng ta phải tin vào Ðức Giêsu, nghe giáo huấn và sám hối như lời dạy: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Thật thế, hãy sống theo Tin Mừng trong từng giây phút của cuộc sống…
Ý lực sống: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118,105).
Suy Niệm 9: Hãy thay đổi chính mình
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Ngày xưa tiên tri Giona đã kêu gọi dân thành Ninivê tội lỗi lo ăn năn sám hối. Mọi người trong thành, từ vua quan đến dân chúng lớn nhỏ, đã đáp lại lời kêu gọi ấy. Chúa thấy lòng thành của họ nên đã tha thứ và không phạt họ.
Còn các luật sĩ và biệt phái đã từng nghe Đức Giêsu giảng dạy và chứng kiến nhiều phép lạ Ngài đã làm, nhưng họ đã không nhận ra thân thế của Ngài là Đấng Cứu Thế. Họ còn đòi Ngài phải làm phép lạ lớn trên trời để họ tin. Khi nhắc lại chuyện Giona, Đức Giêsu cảnh cáo những người Do thái thời Ngài: “Dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân này đã sám hối khi nghe ông Giona rao giảng”. Như thế, Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta sám hối.
2. “Ông Giona đã ở trong bụng cá ba ngày...”
Hồi Đức Giêsu ở Galilê, các luật sĩ đã xin Ngài cho xem điềm lạ trên trời. Nay các biệt phái ở Giudê cũng lại yêu cầu điều đó. Cũng như lần trước, Ngài không cho, vì biết họ chỉ có ý khiêu khích Ngài. Ngài hứa cho họ xem một phép lạ cả thể: đó là việc Ngài chết và sống lại. Nhưng Ngài mượn tích chuyện ông Giona để nói với họ.
Theo tích truyện, ông Giona khi bị ném xuống biển thì có một con cá lớn nuốt ông vào bụng, giữ ba ngày đêm, rồi nhả ông ra trên bãi biển. Câu chuyện này có ý nói đến việc Đức Giêsu sẽ chịu chết, nằm trong mộ ba ngày rồi sẽ sống lại ra khỏi mồ.
3. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dựa vào câu chuyện về điềm lạ Giona để kêu gọi sự sám hối. Đáp lại lời kêu gọi đó, thánh Luca cho chúng ta thấy có ba thái độ:
- Các biệt phái cứng lòng và gian ác, họ đòi một điềm lạ trên trời, vì họ đã không tin vào những phép lạ Đức Giêsu đã làm. Đó là tội từ chối ánh sáng, tội phạm đến Thánh Thần.
- Dân thành Ninivê mau mắn nghe lời và nhiệt tâm sám hối theo lời kêu gọi, nên họ đã được Thiên Chúa thứ tha.
- Nữ hoàng Sêba không những cảm phục những lời lẽ khôn ngoan của vua Salomôn, mà bà ta còn trở thành người rao giảng các lời ấy cho dân nước của mình.
4. Muốn sám hối thì cần phải biết mình, biết mính có tội để sám hối, nhưng trong thực tế, biết mình là một truyện khó vì người ta thường nói: “Bàng quan giả tỉnh, đương cục giả mê”: việc người thì sáng, việc mình thì quáng, chỉ biết người mà lại không biết mình.
Nhân đây chúng ta hãy xem ý kiến của Lm Carôlô như thế nào khi nói: Trong chuyện Giona, hình ảnh dân thành Ninivê tội lỗi lại dễ thương hơn hình ảnh Giona tiên tri. Ông không muốn tuân theo lệnh Chúa. Ông chỉ muốn dân Ninivê bị phạt. Khi dân thành này sám hối và được tha thì ông giận Chúa. Chúa dùng tấm gương của họ để kêu gọi Giona sám hối. Thật lạ lùng: người giảng sám hối lại sám hối sau người nghe giảng. Là những người giảng cho người ta sám hối trong Mùa Chay này, Linh mục tu sĩ chúng ta nghĩ sao về chuyện này?
5. Khi được hỏi làm sao để có thể giúp đỡ cho rất đông người nghèo khó như vậy, Mẹ Têrêsa Calcutta trả lời: “Chúng tôi không phục vụ để thành công, chúng tôi phục vụ để làm chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa Tình yêu”.
Trong niềm tin của người Do thái, câu chuyện tiên tri Giona là một câu chuyện lạ lùng. Ông là một người nước ngoài, nhưng đã đến thành Ninivê để loan báo Lời Thiên Chúa. Dân ở đây tin tưởng ông và hoán cải. Đức Giêsu cũng đã đến, đã làm nhiều phép lạ và kêu gọi dân sám hối, nhưng họ không nghe vì không tin Người đến từ Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã đến trần gian 2000 năm, nhưng ngày nay, còn có rất nhiều người chưa tin Người là Thiên Chúa. Thế giới hôm nay ngập tràn bạo lực, vô cảm và thiếu vắng tình thương. Chúng ta phải làm gì để dấu lạ tình yêu Thiên Chúa được tỏ ra trong trần gian này?
6. Truyện: Hai chữ S và T.
Tại một miền quê ở nước Mỹ vào thời mới lập quốc, có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang đang ăn cắp cừu, dân chúng trong làng đã mở tòa án nhân dân để trừng phạt.
Sau khi nghe báo cáo về tội trạng của họ, mọi người nhất trí trừng phạt bằng cách khắc trên trán tội nhân hai cữ viết tắt ST, có nghĩa là “người ăn cắp cừu”. Người ta đã dùng sắt nung đỏ khắc trên trán họ hai chữ ST rồi thả về. Hai chữ ST thành hai vết sẹo rõ ràng trên trán họ, khiến họ xấu hổ vô cùng. Vì thế, một trong hai người ăn trộm không chịu nổi sự xỉ nhục nên đã trốn sang một vùng khác để sống. Nhưng anh không thể xóa nhòa được hai chữ viết tắt trên trán của mình. Bất cứ người lạ nào gặp anh đều hỏi anh về ý nghĩa của hai chữ ấy. Một lần nữa, không chịu nổi sự nhục nhã, anh lại rời bỏ nơi ấy và lang thang sang miền khác, nhưng đến đâu anh cũng bị người ta hỏi về hai chữ tắt ấy. Cuối cùng mòn mỏi trong cay đắng anh đã bỏ mình nơi đất khách quê người.
Đó là người anh, còn người em thì sao? Anh ta nghĩ rằng: “Nếu anh mình đã bị sự nhục nhã gậm nhấm đến độ phải trốn suốt cả cuộc đời, thì anh lại tự nói với mình, tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn cắp mấy con cừu, tôi phải ở lại đây và tôi phải tạo lại sự tin tưởng nơi những người xung quanh và nơi chính tôi”. Với quyết tâm đó, anh đã ở lại trong xứ sở của mình, và không bao lâu anh đã xây dựng được cho mình một sự nghiệp cũng như danh thơm của một người thanh liêm chính trực.
Nhưng cho dù năm tháng có qua đi, hai chữ ST vẫn còn ghi đậm tên vầng trán của anh. Ngày kia, một người lạ mặt hỏi cụ già trong làng về ý nghĩa hai chữ viết tắt ấy. Cụ già suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Tôi không nhớ rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của người đó, tôi nghĩ rằng chữ viết tắt ấy có nghĩa là “thánh thiện”.
Suy Niệm 10: Sám hối
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Cả hai bài đọc Cựu Ước và Tân Ước đều nhắc tới “dấu chỉ Giôna”:
- Ngày xưa ngôn sứ Giôna đã kêu gọi dân thành Ninivê tội lỗi lo ăn năn sám hối. Mọi người trong thành, từ vua quan đến dân chúng lớn nhỏ, đều đáp lại lời kêu gọi ấy. Chúa thấy lòng thành của họ nên đã tha thứ và không phạt họ.
- Khi nhắc lại chuyện Giôna, Chúa Giêsu cảnh cáo những người do thái thời Ngài: “Dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng; mà đây thì còn có Đấng hơn ông Giôna nữa”.
Như thế, Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta sám hối.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Sám hối gồm 4 điều:
1/ biết mình có tội;
2/ buồn;
3/ tin vào tình thương tha thứ của Chúa;
4/ quay về với tình thương ấy.
Thiếu 1 trong những điều trên thì không phải là sám hối thật.
2. Trong chuyện Giôna, hình ảnh dân thành Ninivê tội lỗi lại dễ thương hơn hình ảnh Giôna ngôn sứ. Ông không muốn tuân theo lệnh Chúa. Ông chỉ muốn dân Ninivê bị phạt. Khi dân thành này sám hối và được tha thì ông giận Chúa. Chúa dùng tấm gương của họ để kêu gọi Giôna sám hối. Thật lạ lùng: người giảng sám hối lại sám hối sau người nghe giảng. Là những người giảng cho người ta sám hối trong Mùa Chay này, Linh mục tu sĩ chúng ta nghĩ sao về chuyện này?
3. Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè phung phá hết tiền của. Cùng đường, chàng ta viết thư thống thiết xin lỗi cha và ngỏ ý xin cha thương xót. Người cha gửi cho cậu bức điện tín, chỉ có một chữ “Về” và kí tên cũng chỉ một chữ “Cha”.
Phúc Âm của Chúa cũng là bức điện tín gửi cho thế giới tội lỗi này, với một chữ viết “Về” và một chữ kí “Cha”. (Góp nhặt)
Suy Niệm 11: Sám hối-làm lại cuộc sống
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta sám hối.
Khi nhắc lại truyện Giona, Chúa Giêsu cảnh cáo những người Do Thái thời của Ngài: “Dân thành Ninivê sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giona giảng, mà đây thì còn có Đấng hơn ông Giona nữa” (Lc 11,32).
a/ Sám hối gồm 4 điều:
1/ Biết mình có tội.
2/ Buồn.
3/ Tin vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
4/ Quay về với tình thương ấy.
Thiếu một trong bốn điều trên đây thì không phải là sám hối thật.
b/ Sám hối là điều làm vui lòng Thiên Chúa vì qua đó con người biết nhận ra tội lỗi của mình. Nhận ra tội lỗi của mình, đó là bước quan trọng nhất trên con đường trở về với Chúa.
Đức Cha Pierre de Corbeille Tổng Giám Mục giáo Phận Seine nước Pháp, một ngày nọ thấy một tội nhân đến quì sụp dưới chân ngài để xin xưng tội. Anh ta tha thiết van nài ngay từ đầu là xin ngài hãy bắt anh nhận một việc đền tội thật nặng.
Sau khi nghe xưng thú, Đức Cha bảo:
- Tất cả tội lỗi của con hết sức nghiêm trọng. Vì vậy theo như ý con mong muốn, ta ra việc đền tội cho con là phải tự đánh đòn mỗi ngày trong 7 năm.
Anh ta ngước mắt lên khóc ròng:
- Thưa Đức cha, như thế vẫn còn quá nhẹ, không đủ đền bù tội lỗi của con, con xin được làm việc ấy vĩnh viễn cho đến chết!
Đức Cha nghe vậy thì chậm rãi bảo anh:
- Vì tấm lòng thành của con, ta quyết định bớt cho con: chỉ còn ba năm phải ăn chay và uống nước lã!
Thế nhưng, anh ta lại đấm ngực thổn thức:
- Thưa không, lạy Đức Cha, việc đền tội như thế chưa cân xứng với tội lỗi con đã phạm. Nói cho cùng con chỉ xứng đáng lãnh nhận cái chết mà thôi!
Cảm động trước lòng ăn năn thống hối của anh ta, Đức Cha Pierre de Corbeille đã đỡ anh ta dậy, nhìn thẳng vào đôi mắt đẫm lệ của anh rồi bảo:
- Này con thân yêu, việc đền tội của con bây giờ chỉ còn là đọc một kinh lạy Cha, chỉ một kinh lạy Cha thôi. Ta tin chắc Thiên Chúa sẽ hài lòng về con!
Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp tình yêu.
2. Quả thực như thế, khi con người phạm tội, họ không còn cách nào khác để sửa lại lương tâm của mình bằng sự sám hối.
Nhận ra tội lỗi của mình, đó là bước quan trọng nhưng nếu chỉ dừng ở đó thì chưa phải là sám hối đúng nghĩa. Sám hối còn phải là làm lại cuộc sống. Có như thế thì sám hối mới có hậu.
Tạp chí kinh tế Viễn Đông mới đây có ghi lại chuyện tự nộp mình rất đáng khâm phục của một tên cướp như sau: Một đêm nọ, vì quá mỏi mệt với cuộc sống chui lủi, tên cướp khét tiếng đã ra đầu thú. Trước thái độ hồ nghi của viên công an trực, tên cướp đã chỉ vào vết sẹo để khẳng định rằng, chính mình là người đã từng bị lực lượng an ninh tầm nã trong mấy tháng qua. Nhân viên công an vẫn tiếp tục nghi ngờ, nhất định không cho anh vào khám, còn kẻ cướp thì dứt khoát không chịu bỏ đi. Phải đợi đến sáng hôm sau, các viên chức công lực mới nhận diện được người mà họ đã truy nã trong mấy tháng qua. Tên cướp cho biết, anh đã kiệt sức vì cuộc chạy trốn, hằng đêm anh không thể ngủ yên khi nghe tiếng chó sủa, ngay cả tiếng gà gáy. Bước vào phòng giam, tên cướp nhìn vào viên công an trực của đêm hôm trước với vẻ đắc thắng.
Mọi người chúng ta đều là tội nhân. Vì thế mà từng người chúng ta cần phải sám hối. Việc sám hối như thế sẽ làm vui lòng Thiên Chúa và thần thánh trên trời. Làm sao chúng ta quên được lời quả quyết của Chúa Giêsu “Cả Thiên Đàng sẽ hân hoan vì một tội nhân hối cải”(Lc 15,7). Chẳng những làm cho Thiên Đàng vui, mà lòng sám hối, sự hoán cải còn là chìa khóa hạnh phúc và an bình cho chính bản thân ta, cho gia đình, xã hội và mọi người chung quanh ta nữa.
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Ðấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. Amen.
20/02 Cầu nguyện
- Viết bởi Mt 6, 7-15
Cầu nguyện.
Thứ Ba tuần 1 Mùa Chay.
“Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này”.
Lời Chúa: Mt 6, 7-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:
“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ đến chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
“Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Biết rõ anh em cần gì
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Mùa Chay là thời gian tăng cường việc cầu nguyện.
Nhưng vấn đề là cầu nguyện như thế nào theo đúng ý của Đức Giêsu.
Ngài đã cảnh báo về một thứ cầu nguyện có tính phô trương, tìm mình.
Ngài mời ta cầu nguyện một cách kín đáo (Mt 6, 6).
Cầu nguyện là gặp Cha, Đấng ở nơi kín ẩn và Đấng thấy ở nơi kín ẩn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng
cầu nguyện không phải là dùng những lời kinh như một thứ ma thuật,
để lèo lái hay cưỡng bách Thiên Chúa phải theo ý mình.
Cầu nguyện là mềm mại để uốn mình theo ý Chúa.
Sức mạnh của cầu nguyện không nằm ở chỗ lắm lời,
vì không phải cứ nói nhiều là được ưng nhậm (c. 7).
Cầu nguyện cũng không phải là thông tin cho Ngài biết về tình trạng của ta,
sợ rằng nếu ta không nói thì Ngài không biết (c. 8).
Thật ra, Thiên Chúa đã biết trước nhu cầu của từng người rồi.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần bày tỏ để có tương quan với Thiên Chúa,
thổ lộ với Ngài cách đơn sơ hồn nhiên như con thơ nói với cha.
Qua kinh Lạy Cha, Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện.
Ngài dạy họ gọi Thiên Chúa là Cha, Abba.
Họ được phép gọi như Ngài đã gọi và chia sẻ chức vị làm Con của Ngài.
Một lời cầu nguyện có tính tập thể: “Lạy Cha chúng con.”
Chính vì Cha là Cha của chúng con nên chúng con là anh chị em với nhau.
“Cha ở trên trời”, vì thế Cha lại thấy hết mọi người và ở bên từng người.
Cha thật siêu việt vì Cha ở trên trời cao thẳm;
nhưng Cha lại thật gần gũi,
vì Cha lo cho từng con chim sẻ, từng bông hoa ngoài đồng,
Cha cho mặt trời mọc lên và mưa rơi xuống trên mặt đất.
Ba lời xin đầu tiên của kinh Lạy Cha hướng đến Thiên Chúa Cha.
Hẳn chúng diễn tả tâm tình chủ yếu của Đức Giêsu trong suốt đời.
Bốn lời xin tiếp theo hướng đến nhu cầu của nhóm môn đệ.
Xin bánh mỗi ngày, xin ơn tha thứ, ơn thắng được cám dỗ và sự dữ.
Có khi lời nguyện của chúng ta quá qui về mình, loay hoay với cái tôi,
với những ước mơ tính toán, những âu lo cho nhu cầu vật chất.
Hãy xin Chúa những điều lớn lao cho Nước Chúa trên trần gian,
còn mọi sự khác nho nhỏ, Ngài sẽ ban thêm cho ta.
Cầu nguyện:
Lạy Cha là Đấng Tạo Hóa nhân từ,
xin cho chúng con thấy sự hiện diện của Cha
trong vũ trụ vô cùng lớn,
trong những hạt tử vô cùng nhỏ,
và trong bộ óc vô cùng phức tạp của con người.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy mầu sắc.
Mầu xanh cỏ non, mầu hồng trái chín,
mầu vàng mặt trời xế chiều.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy âm thanh.
Tiếng suối róc rách, tiếng chim hót véo von,
tiếng gió rì rào qua kẽ lá.
Cha từ ái biết bao
khi ban cho chúng con một thế giới đầy hương thơm.
Hương của đồng lúa mới, của hoa bưởi, hoa cau,
hương thơm của nắng xuân dìu dịu.
Chúng con ca ngợi đôi tay khéo léo của Cha
khi tạo nên sự trong ngần ngời sáng của viên ngọc,
sự lộng lẫy phong phú của muôn loài hoa lan,
sự rực rỡ hài hòa nơi đôi cánh của loài bướm,
và nhất là sự đẹp đẽ cao cả nơi con người.
Dưới lòng đất, trên núi cao,
giữa biển sâu, trong rừng vắng,
chỗ nào chúng con cũng thấy bóng dáng Cha.
Xin cho chúng con
biết chung sống với thiên nhiên này
như một người bạn, một quà tặng Cha ban,
biết giữ gìn ngôi nhà trái đất
để nó khỏi hư hỏng, cạn kiệt,
và biết chia sẻ cho nhau bao tài nguyên còn tiềm ẩn.
Ước gì đến ngày cả trái đất, cả vũ trụ này
và muôn loài Cha đã dựng nên
được cùng với cả nhân loại chúng con
vui hưởng tự do và vinh quang trong Nước Cha. Amen.
Suy Niệm 2: Lạy Cha chúng con
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lời Chúa như mưa với tuyết từ trời sa xuống làm đất đai phì nhiêu, đem no ấm cho mọi người. Chúa Giêsu là Ngôi Lời xuống trần gian dậy cho con người biết thánh ý Thiên Chúa để được hạnh phúc. Nên đã dậy ta cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha.
Với kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta biết cầu nguyện là đến với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Cầu nguyện không phải là ăn xin nhưng là tình thân. Không phải đến cửa quan nhưng là về nhà mình. Là chìm vào đáy lòng, trong thân tình để gặp được Chúa là người Cha vô cùng quyền năng nhưng cũng vô cùng yêu thương nhân hậu.
Với kinh Lạy Cha Chúa Giêsu dạy ta biết sống tâm tình hiếu thảo. Người con hiếu thảo lo việc chung của gia đình của cha mẹ. Trong việc chung của cha mẹ, có phần hạnh phúc của con cái. Chương trình của Chúa dành cho ta là tối ưu. Vì thế tiên vàn phải cầu nguyện cho chương trình của Chúa được thực hiện. Khi Nước Chúa ngự đến ta sẽ được thỏa mãn mọi khát vọng.
Với kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta biết sống tình bác ái huynh đệ. Chúa là Cha nên mọi người là anh em. Con người là bất toàn, là sai lỗi. Ta cần Chúa tha lỗi cho ta thì ta cũng phải sẵn sàng tha lỗi cho anh em. Điều này quan trọng để chứng tỏ đức tin. Vì Chúa vô hình ta không thấy được. Nhưng anh em thì ta phải gặp gỡ sống chung hằng ngày. Chính thái độ của ta đối với anh em nói lên đức tin vào Thiên Chúa là Cha.
Với kinh Lạy Cha Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện không phải là lời đầu môi chót lưỡi nhưng phải thực hành. Tâm tình con thảo phải được thể hiện trong việc chăm lo mở rộng Nước Chúa, Tâm tình huynh đệ phải được thể hiện trong đời sống chan hòa yêu thương. Và nhất là trong sự cảm thông tha thứ. Lời cầu nguyện chỉ chân thực khi có thực hành. Lời cầu nguyện chỉ tha thiết khi ta cố gắng hết sức để thực hiện những ước mơ đó trong hành động.
Suy Niệm 3: Cầu nguyện
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Có một nông dân xứ Ars mỗi ngày trước khi ra đồng cũng như khi đi làm về đều ghé vào nhà thờ giây lát. Trong xứ, nhiều người để ý và kính phục. Một hôm có người hỏi: “Ngày này ông ghé vào nhà thờ làm gì thế”. Người nông dân trả lời: “Tôi bàn chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi”.
Câu trả lời của người nông dân trên đây diễn ta được cái cốt lõi của đời sống Kitô hữu, đó là việc cầu nguyện.
Tác giả tập sách Đường Hy vọng chia sẻ kinh nghiệm: “Hoạt động mà không cầu nguyện là vô ích trước mặt Thiên Chúa, máy móc tự động có thể làm hơn con. Cầu nguyện là nền tảng đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con kết hiệp với Thiên Chúa, như một bóng điện sáng là nhờ kết hiệp với máy phát điện. Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô là phải cầu nguyện.”
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, qua đó Ngài nêu bật thái độ phải có khi cầu nguyện: Trước hết là tinh thần đơn sơ khiêm tốn, gặp gỡ thân tình với Chúa hơn là nói nhiều lời ngoài môi miệng. Giờ cầu nguyện là giờ tâm sự với Chúa, chứ không phải là giờ làm bài, là giờ của con tim, chứ không phải là của khối óc. Thứ đến là tinh thần quảng đại tha thứ cho kẻ xúc phạm đến chúng ta. Đó là điều đương nhiên, vì thân phận của con người là yếu đuối, tội lỗi, và mọi người đều mắc nợ nhau trong đức bác ái của lời nói, việc làm, cách suy nghĩ, cho dù chúng ta vẫn giữ được đức công bằng.
Thật ra, như lời thánh Phaolô: chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thánh Thần chuyển cầu cho chúng ta bằng những tiếng rên khôn ta. Nhờ Bí tích rửa tội, chúng ta đã được kết hiệp với Đức Kitô và được lãnh nhận hồng ân Thánh Thần. Chúng ta hãy cố gắng sống trong Thánh Thần để phát triển đời sống cầu nguyện, nhờ đó canh tân chính mình và môi trường sống.
Suy Niệm 4: Kinh Lạy Cha
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Kinh Lạy Cha là một kinh quan trọng đối với đời sống người Kitô hữu, vì đó là kinh do chính Chúa Giêsu đặt ra, là kinh được Giáo Hội đọc nhiều hơn cả trong các cử hành phụng vụ và các cử hành khác, là kinh tóm gọn tất cả những gì phải làm trong khi cầu nguyện.
Chúng ta cần cầu nguyện với Chúa Cha để sống và hoạt động tông đồ đắc lực, khi cầu nguyện như thế, chúng ta cậy nhờ Chúa Giêsu và nhờ chính lời cầu nguyện của Ngài. Có một điểm Chúa Giêsu căn dặn là trong khi cầu nguyện đừng có thái độ thuyết phục Thiên Chúa theo ý muốn của mình bằng những lời khéo léo dài dòng như những người ngoại giáo đối với các thần minh của họ. Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng làm như thế, bởi vì “Cha các con đã biết rõ các con cần gì, trước khi các con cầu xin”. Nói khác đi, khi cầu nguyện, chúng ta chỉ cần đơn sơ khiêm tốn nhìn nhận mình hèn mọn thiếu thốn, vạch rõ con người của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, rồi vững dạ cậy trông tin tưởng. Thiên Chúa chẳng những sẽ lấp đầy cái trống rỗng của chúng ta, mà còn dằn lắc, còn ban cho chúng ta nhiều ơn hơn chúng ta khấn xin.
Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc Âm Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu đầu tiên nói về Thiên Chúa, Ðấng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi là Cha: Cha chúng con ở trên trời, sau đó chúng ta xin cho Danh Thánh Cha được hiển vinh, nước Cha được lan rộng trên thế gian, nhất là trong tâm hồn con người, và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Trong phần hai, có 4 lời nguyện: xin lương thực hàng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Chúa; xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em; xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hàng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta xa lìa Chúa; xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
Chúng ta hãy dốc quyết không bao giờ bỏ đọc Kinh quan trọng và hiệu nghiệm này trong đời sống cá nhân, gia đình và cộng đoàn chúng ta.
Suy Niệm 5: Tha nợ
“Vậy anh em hãy cầu xin như thế này:
“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời
xin làm cho danh thánh Cha được vinh hiển,
triều đại Cha mau đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày,
Xin tha tội cho chúng con
Như chúng con cũng tha
Cho những người có lỗi với chúng con”. (Mt. 6, 9-12)
Theo các nhà chuyên môn Kinh thánh, trong kinh Lạy Cha, câu “xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” đúng hơn câu “xin tha tội chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”.
Câu đó nói tới thân phận của con người là con nợ không thể trả được đối với Thiên Chúa. Đó là tình trạng của kẻ tội lỗi mà chỉ có hồng ân lạ lùng của Thiên Chúa ân xá cho ta được thôi, còn ta không bao giờ đền bù cho đủ.
Lời cầu nguyện này nhắc nhở chúng ta nhớ tới dụ ngôn tên đầy tớ dã tâm bất nhân. Nợ của chúng ta sẽ được tình yêu Thiên Chúa thương tha thứ nếu chúng ta biết yêu thương tha thứ cho kẻ có nợ chúng ta.
Thánh Gio-an nói: “Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối. Thực vậy, kẻ không yêu anh em mình trông thấy trước mắt thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy” (1Ga. 4, 20). Chúng ta có thể đánh giá khả năng của chúng ta yêu mến Thiên Chúa bằng tình yêu chúng ta yêu người lân cận.
Tội chống lại tình yêu tha nhân có làm hại chúng ta gì không? Có thể chúng ta vẫn thành thật nói rằng chúng tôi yêu người lân cận cho dù họ là gì chăng nữa. Nhưng rất nhiều lần, chúng ta lãnh đạm với họ; chúng ta viện lẽ rằng không nên xen vào những việc của người khác. Có phải chúng ta một phần nào đã giống như Ca-in từ chối trách nhiệm đã giết em mình, đã giết người là anh em mình chăng?
Câu kết thúc bài Tin mừng hôm nay là: “Nếu anh em tha tội cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em …”. Chúng ta kêu xin tình thương, nhưng lại đánh nhau vì hòa bình. Chúng ta cần phải cố gắng tìm hiểu người ta. Người ta muốn được tha thứ, được thông cảm, nhưng chúng ta đã làm gì cho họ?
Tham dự Thánh lễ lúc này là để thông cảm hiểu biết nhau, để chúng ta chân thành nhìn nhận nhau là anh em, đồng bàn với nhau trong bàn tiệc tế lễ hy sinh, bàn tiệc tình yêu của Chúa và của chúng ta.
Suy Niệm 6: Cầu nguyện trong niềm tin
Có một linh mục là giáo sư tín lý và luân lý tại nhiều chủng viện và học viện Công Giáo, khi nói về kinh nghiệm của việc dạy Giáo lý dự tòng cho người lớn tuổi, ngài chia sẻ: “Tôi đã dạy Giáo lý cho rất nhiều bạn trẻ dự tòng, có những bạn chỉ với thời gian rất ngắn, là tôi có thể Rửa Tội cho họ được. Tuy nhiên, có những bạn thì năm này qua năm khác, tôi vẫn không Rửa Tội cho!”.
Khi chúng tôi thắc mắc thì được ngài giải thích rằng: “Rửa Tội được hay không, đối với ngài là họ có biết cầu nguyện trong đức tin không? Nếu họ cầu nguyện sốt sắng và tin tưởng, ấy là lúc chúng ta Rửa Tội cho họ được, vì họ đã gặp được Chúa thực sự. Nếu không biết cầu nguyện, thì chúng ta có dạy hết ngày này, tháng nọ hay năm kia thì họ vẫn chỉ là cái xác không hồn mà thôi!”.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ý nghĩa, giá trị và thái độ cần có khi cầu nguyện.
Trước tiên, cầu nguyện ở những nơi kín đáo, tức là có kinh nghiệm cá nhân với Chúa trước khi chúng ta cầu nguyện nơi tập thể, cộng đoàn.
Thứ hai, cầu nguyện cách chân thành chứ không sáo rỗng, hình thức, giả tạo. Cầu nguyện chân thành tức là một tâm hồn khao khát chân lý và sẵn sàng để cho thánh ý Thiên Chúa được thực hiện nơi mình.
Cuối cùng, cầu nguyện với tinh thần tha thứ. Cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa đối với mình thì cũng phải tha thứ cho anh chị em. Đây là lời cầu nguyện sống động và hấp dẫn nhất.
Trong đời sống đạo của chúng ta vẫn thấy có những người cầu nguyện rất dài, nhưng lòng đạo thì lại quá ngắn! Tại sao vậy? Thưa bởi vì họ như con sáo, cuốn băng! Cầu nguyện mà không biết mình làm gì, chỉ mong sao đọc cho hết, nói cho xong là yên tâm! Trong khi đó, không hề thay đổi lối sống khi sứ điệp Lời Chúa đòi hỏi...
Mong sao, lời kinh Lạy Cha mà Đức Giêsu dạy cho các môn đệ hôm nay cũng là lời kinh của chúng ta. Và khi chúng ta cất lên, mỗi người hãy đọc với trọn niềm tin kính, yêu mến và khao khát thực hành điều Chúa dạy. Có thế, đời sống đạo của chúng ta mới thực sự là có Chúa và có tình thương với anh chị em mình.
Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện của chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu dạy cách cầu nguyện
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy phải cầu nguyện cách chân thành tự đáy lòng, hoàn toàn tin tưởng vào lòng Cha nhân từ rộng lượng, và phải biết cầu xin những điều tốt lành được tóm tắt trong kinh “Lạy Cha”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha của con, thật hạnh phúc biết bao khi con được thưa lên như vậy. Đó là điều quá cao cả con chẳng dám nghĩ tới, nhưng chính Chúa Giêsu, Con Cha, đã dạy con và nâng con lên để con được xưng hô như thế.
Lạy Cha, đối với con, cầu nguyện là điều rất khó, vì con chẳng biết nói gì với Cha. Con cảm thấy dường như Cha quá xa vời trừu tượng. Xin Cha cho con thực sự cảm nhận được rằng Cha luôn hiện diện sống động trong con, hằng muốn đối thoại với con. Lạy Chúa Thánh Thần, xin nâng đỡ sự yếu hèn của con và xin dạy con biết cầu nguyện.
Lạy Cha, Cha biết rõ mọi nhu cầu của con, của gia đình con, trước khi con cầu xin. Cuộc đời con nằm trong tay Cha. Vì thế con xin Cha cho con biết đến với Cha trong tâm tình cậy trông phó thác. Con trao phó cuộc đời con cho Cha. Con tin rằng Cha luôn ban cho con mọi ơn lành, và những điều Cha ban cho con thì tốt đẹp hơn những điều con ước mơ. Con chỉ xin một điều là cho con thật lòng tin tưởng nơi Cha, vui lòng đón nhận Ý Cha, và quảng đại với anh em như Cha hằng quảng đại với con.
Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho Danh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày, xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.
Ghi nhớ: “Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này”.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu dạy cách cầu nguyện
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Người con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi, tình cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy và tự nhủ: Nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi có thể tin Ngài được”.
Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình anh em được Chúa Giêsu mạc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó thác, với anh em trong tình bác ái.
Suy Niệm
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cách cầu nguyện: đừng lảm nhảm nhiều lời vì Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài đã hiểu rõ chúng ta đang cần gì. Ðiều quan trọng là chúng ta phải sống trong tương quan thân tình với Cha và với anh chị em như Ngài dạy lời cầu nguyện Abba - Lạy Cha.
So với kinh Lạy Cha của Luca ghi lại, kinh Lạy Cha của Matthêu chi tiết hơn: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Trong lúc đó, Luca ghi nhận vắn tắt hơn: “Lạy Cha, nguyện cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”. Và câu kết của kinh Lạy Cha theo Matthêu: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ” trong khi Luca trình bày ngắn hơn: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”.
Lời kinh Lạy Cha, đầu tiên “nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến”: Nước Cha đến là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo. Ngài loan báo Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên Chúa (x. Lc 4,43; 8,1; 10,9.11). Vì Cha là tình yêu, khi danh Cha tỏa sáng, là tình yêu Cha trải dài trên trái đất nơi những người con của Cha hiện hữu và ý Cha thể hiện được cả dưới đất cũng như trên trời: Tuân hành thánh ý là nhiệm vụ của Đức Kitô ở trần gian (x. Mt 26,39) là lương thực của Đức Giêsu (x. Ga 4,34).
Bốn lời nguyện tiếp theo, con người trình bày với Cha về các nhu cầu và những sự cần thiết của mình trên đường tiến về quê cha: được nuôi dưỡng, xin được tha thứ - chữa lành tội lỗi và được thắng cuộc chiến đấu với sự dữ bằng sự lành và ân sủng đến từ Thiên Chúa qua Đấng Cứu Thế. Khi xin “cho chúng con” là chúng ta nói lên, trong tình hiệp thông huynh đệ của mình, lòng tin tưởng của con cái được phó thác nơi Cha trên trời.
Với tâm tình con thảo, “Việc cầu nguyện cùng Cha của chúng ta phải làm triển nở trong chúng ta ý muốn nên giống như Ngài và nuôi dưỡng nơi chúng ta một tấm lòng khiêm nhu tin tưởng” (Giáo lý Công giáo, số 2800). Cha luôn dõi mắt theo từng người con mà ban phát, như Chúa Giêsu khẳng định: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10).
Tất cả thức đẩy chúng ta luôn tin tưởng phó thác vào Chúa là Cha hiển vinh như định luật tình thương mà Con Thiên Chúa đã mạc khải: “Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin Người” (Mt 7,11).
Ý lực sống: “Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi” (Tv 89,2).
Suy Niệm 9: Kinh Lạy Cha
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Kitô hữu là tâm tình con thảo với Cha trên trời, là thể hiện niềm tin và phó thác cho sự an bài quan phòng của Thiên Chúa.
Khi mạc khải cho chúng ta một Thiên Chúa Tình yêu, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mặc lấy chính tâm tình phó thác của Ngài. Khi các Tông đồ xin Ngài dạy họ cầu nguyện, Ngài đã dạy họ Kinh Lạy Cha. Đó là trọn tâm tình và cuộc sống vâng phục và phó thác cho Thiên Chúa. Lời cầu xin duy nhất mà Chúa Giêsu không ngừng ngỏ với Thiên Chúa, đó là được xin vâng ý Thiên Chúa.
2. Kinh Lạy Cha là kiểu mẫu cho tất cả việc cầu nguyện. Theo thánh Luca, Kinh Lạy Cha có 5 lời nguyện, trong khi đó ở Phúc âm thánh Matthêu có 7 lời nguyện: 3 lời cầu xin đầu tiên nói về Thiên Chúa và 4 lời cầu xin sau hướng về loài người.
Phần 1, có 3 lời hướng về Chúa là Cha chúng ta ở trên trời, sau đó xin cho danh thánh Cha được vinh hiển, nước Cha trị đến trần gian, nhất là tâm hồn con người và xin cho thánh ý Cha được thực hiện dưới đất cũng như trên trời.
Phần 2 có 4 lời nguyện: xin lương thực hằng ngày, nghĩa là xin cơm bánh nuôi thân xác và của ăn nuôi hồn, tức là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Xin tha thứ các tội xúc phạm đến Thiên Chúa, nhưng để được tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm của anh em. Xin ơn kiên trì để lướt thắng cám dỗ hằng ngày, nhất là trong cơn thử thách sau cùng trước sức tấn công của tà thần muốn đưa chúng ta lìa xa Chúa. Xin ơn thoát khỏi mọi sự dữ để có thể phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân mọi ngày trong đời sống chúng ta.
3. Một vấn nạn cho việc cầu nguyện.
Ngày nay, có một sự phục hồi sự cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người thời nay, nam cũng như nữ đều có khó khăn trong khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức: cầu nguyện là đào nhiệm: đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình lên... cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không hiểu biết chính xác những qui luật chính xác của tự nhiên... cầu nguyện là một sự tha hóa; bạn hãy đảm nhận tầm vóc của con người không Chúa, không Thầy... bạn hãy gạt bỏ những điều mê tín tối tăm (Noel Quesson). Chúng ta nghĩ thế nào?
Vào tháng 05 năm 1998, tại Houston, Texas, một cuộc hội thảo lớn về Y học và Đức tin với sự tham dự của hơn 700 bác sĩ, điều dưỡng, dược sĩ, nha sĩ. Những báo cáo cho thấy là những người có Đức tin và được cầu nguyện cho thì mau lành bệnh gấp 12 lần những người không có Đức tin sau khi được giải phẫu tim. Một cuộc khảo cứu kéo dài 28 năm trên một số người lớn tuổi cho thấy là những người chăm đi lễ nhà thờ để cầu nguyện thì ít bệnh tật từ 25% đến 35% so với những người không có tôn giáo. Những người đi lễ nhà thờ thường xuyên có một hệ thông miễn dịch, dễ đề kháng bệnh tật mạnh hơn mức bình thường (Nguyễn Văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 261).
4. Bày tỏ cho chúng ta Thiên Chúa Tình yêu và mời gọi chúng ta sống phó thác, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta nhìn mọi người bằng cái nhìn yêu thương của Thiên Chúa. Kinh Lạy Cha không chỉ là tâm tình phó thác của chúng ta dâng lên Thiên Chúa, nhưng còn là niềm tin yêu mà chúng ta dành cho anh em.
Chúng ta không đọc “Lạy Cha của con”, mà đọc Lạy Cha chúng con. Như thế lời kinh này không phải chỉ nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với Thiên Chúa, mà còn nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với nhau. Thiên Chúa Là Cha, cho nên tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Kinh Lạy Cha không chỉ tỏ lộ cho chúng ta tình phụ tử, mà còn tỏ lộ cho chúng ta tình huynh đệ.
5. Truyện: Lạy Cha chúng con.
Có một Giám mục kia trên đường đi kinh lý giáo phận, ghé thăm gia đình một bà già, người ta nói bà là tấm gương cho cả làng soi chiếu. Trong khi thăm, vị Giám mục hỏi: “Bà thường hay đọc sách đạo đức nào nhất”? Bà trả lời: “Thưa Đức cha, con không biết đọc, con mù chữ”. Nghe nói thế vị Giám mục lại hỏi: “Bà thường hay cầu nguyện, bà thường hay đọc kinh gì”? Bà trả lời: “Thưa Đức cha, con chỉ biết tràng hạt thôi: kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng, kinh Sáng danh, mỗi ngày con đọc đến 10 lần, nhưng không bao giờ con đọc xong”. Vị Giám mục lại hỏi: “Tại sao thế”?
Bà nói tiếp: “Tại vì khi con bắt đầu đọc “Lạy Cha chúng con”, con không hiểu sao Chúa có thể tốt lành đến mức cho phép một bà già hèn mọn như con được gọi Ngài là Cha, điều đó làm con xúc động và con không thể nào đọc tiếp nữa”. Nghe bà cụ nói thế, Giám mục khuyến khích: “Này bà cụ, đó là lời cầu nguyện giá trị bằng tất cả lời cầu nguyện của chúng tôi, bà cứ tiếp tục và luôn cầu nguyện theo cách đó”.
Suy Niệm 10: Chính Chúa Giêsu dạy cầu nguyện
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại Lời kinh Lạy Cha do chính Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy cầu nguyện như thế này”..., sau đó, Chúa Giêsu liệt kê 7 điều nên xin khi cầu nguyện.
Bài đọc I trích sách Isaia nhấn mạnh đến việc thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Như thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy ta điều quan trọng nhất khi cầu nguyện: cầu nguyện để biết ý Chúa và để có thể thực hiện ý Chúa.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Thường trong khi cầu nguyện ta cố nói cho Chúa biết ý của ta và ta xin Thiên Chúa giúp ta đạt được ý đó. Lời Chúa hôm nay cho biết cách cầu nguyện đó hoàn toàn ngược. Đúng ra cầu nguyện phải là xin cho ta được biết ý Chúa, và xin giúp ta thực hiện ý Ngài. Chúa biết mọi sự, cho nên dù ta không nói thì Ngài cũng đã biết ý ta. Phần ta thì không biết ý Chúa nên phải xin Ngài chỉ cho ta biết.
2. “Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Đừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin”. Chúng ta phải tập cầu nguyện bằng thinh lặng và lắng nghe.
3. Sau khi nghe bài giảng của một nhà truyền giáo, một cô gái giơ tay hỏi: “Thưa Ngài, xin cho biết cách nào vừa sống theo đường lối Chúa vừa vẫn theo đường lối riêng của mình?” Nhà truyền giáo bí không trả lời nổi. Có lẽ đó cũng là câu chúng ta thường tự hỏi. Mà cứ hỏi như thế thì sẽ không bao giờ trả lời được, bởi vì làm thế nào có thể đi đường của Chúa mà vẫn giữ lại con đường ý riêng mình cho được! (Christian Youth)
4. Nhiều người nghĩ rằng sống theo ý Chúa thật là khó. Thực ra điều này thoải mái và dễ chịu như nằm trên một chiếc gối bông, bởi vì ta không thể chọn được thứ gì tốt cho bằng thứ Chúa đã chọn sẵn cho ta, không thể nhắm tới thứ gì hay cho bằng thứ Chúa đã nhắm sẵn cho ta, sống theo ý Chúa thì ta không còn gì phải lo, và không có gì an toàn hơn được. (Gospel Herald).
Suy Niệm 11: Cách cầu nguyện đúng nhất
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy ta cầu nguyện. Cầu nguyện là để biết ý Chúa để có thể thực thi ý Người.
1. Thường khi cầu nguyện ta cố nói cho Chúa biết ý của ta và ta xin Thiên Chúa giúp ta đạt được ý đó.
Một du khách đến cầu nguyện bên cạnh bức tường gọi là “bức tường than khóc”, dưới chân nền Đền thờ xưa kia của thành Jêrusalem. Trước hết du khách cất tiếng kêu xin:
- Lạy Chúa là cha chúng con, xin Chúa làm cho thế giới này không còn nghèo khổ và đói khát nữa.
Nghe du khách cầu nguyện như vậy, người hướng dẫn viên Do Thái khuyến khích:
- Thật là một lời nguyện hay! Ông hãy cầu nguyện thêm một lời nữa đi!
Du khách trở lại bên bức tường và cầu nguyện thêm:
- Lạy Chúa, xin cho giặc giã, chiến tranh không còn trên mặt đất này.
Anh hướng dẫn viên Do Thái lại khuyến khích người du khách thêm một lời nguyện nữa cho hòa bình trên thế giới. Người du khách liền sốt sắng tiếp theo:
- Lạy Chúa, xin cho cuộc tranh chấp hiện nay tại Trung đông được giải quyết tốt đẹp, cho người Ả-Rập và Do Thái được sống chung hòa bình, và cho người Do Thái biết trả lại cho người Ả-Rập tất cả những đất đai họ đang chiếm đóng.
Nghe đến đây, anh hướng dẫn viên Do Thái vội vàng ngắt lời người du khách với một giọng giận dữ: - Xin lỗi ông, ông đang nói chuyện với bức tường đấy!
Nói thế rồi anh ta vội kéo du khách đi nơi khác.
Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Để lời cầu nguyện của bạn được trọn bề hoàn hảo, bạn hãy lấy đức hiền hậu khiêm nhu mà tô điểm ngôi nhà tâm hồn, lấy cuộc đời công chính mà chiếu soi cho rực rỡ, lấy việc lành phúc đức mà tô điểm, đem đức tin và lòng cao thượng như đá quý mà dát vào tường. Trên tất cả, bạn hãy đặt cầu nguyện làm nóc để hoàn tất ngôi nhà. Và như thế, bạn chuẩn bị cho Thiên Chúa một ngôi nhà hoàn hảo. Nơi đây, bạn đón rước Thiên Chúa như trong cung điện vương giả và lộng lẫy”.
2. Lời Chúa hôm nay cho biết cách cầu nguyện như thế không đúng. Đúng ra cầu nguyện phải là xin cho ta được biết ý Chúa và xin Chúa giúp ta thực hiện ý Người. Chúa biết mọi sự, cho nên dù ta không nói thì Người cũng đã biết ý ta. Phần ta thì không biết ý Chúa nên phải xin Người chỉ cho ta biết.
Nhiều người nghĩ rằng, sống theo ý Chúa thật là khó. Thực ra điều này rất thoải mái và dễ chịu như nằm trên một chiếc gối bông, nếu như ta biết nghĩ rằng, ta không thể chọn được thứ gì tốt cho bằng thứ Chúa đã chọn sẵn cho ta, không thể nhắm tới thứ gì hay cho bằng thứ Chúa đã nhắm sẵn cho ta. Sống theo ý Chúa ta không còn gì phải lo và không có gì an toàn hơn được. (Gospel Herald)
Người thanh niên tên là Tony Belade bỗng trở nên quen thuộc với nhiều người, kể từ khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm tiểu bang California bên Hoa Kỳ, dạo mùa hè 1987. Nhiều người đã được chứng kiến buổi đón tiếp Đức Thánh Cha hôm ấy và khó mà quên được hình ảnh vô cùng cảm động khi Đức Giáo Hoàng từ lễ đài cao bước xuống để ôm và hôn một người thanh niên đang hát với tiếng đàn ghi ta của mình. Điều gì đã làm cho cảnh ấy trở nên khác lạ và giây phút ấy trở nên luyến nhớ cho nhiều người? Thưa rằng, bởi vì người thanh niên ấy đã chơi đàn ghi ta bằng những ngón chân của mình!
Tony Belade là hiện thân của niềm hy vọng. Anh đã chào đời không có hai cánh tay, nhưng anh đã biết tận dụng các ngón chân của mình để học đàn ghi ta. Không những thế, anh còn dùng chân vào nhiều công việc khác nữa như: gấp quần áo, vắt một ly nước chanh... Anh đã biết biến sự tàn tật kém may mắn của mình thành một khả năng thuần thục. Ngạc nhiên trước khả năng lạ lùng ấy của anh, nhiều người đã hỏi anh:
- Bí quyết nào đã giúp anh chẳng những chấp nhận mình để sống bình thường, mà còn sử dụng ghi ta một cách tuyệt diệu như thế?
Người thanh niên tàn tật trả lời:
- Tôi đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo Thánh ý Chúa. Tôi đã tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Chúa đã nhận lời tôi”.
Không ai trong chúng ta được chọn lựa sinh ra hoặc không sinh ra. Không ai trong chúng ta được chọn lựa làm đàn ông hay đàn bà. Không ai trong chúng ta được chọn lựa làm người xinh đẹp hay xấu xí, thông minh hay ngu đần, giàu sang hay nghèo hèn... Dưới mắt người đời, mỗi người chúng ta đến trong trần gian này với tất cả một định mệnh. Người ta thường hay nói: Có người sinh ra dưới một ngôi sao tốt, có người sinh ra dưới một ngôi sao xấu, có người may mắn, có người kém may mắn. Thế nhưng, trong ánh mắt tình yêu của Thiên Chúa thì số phận nào cũng là một hồng ân cao cả. Thiên Chúa luôn có một chương trình cho mỗi một con người.
19/02 Thiên đàng của bác ái
- Viết bởi Mt 25, 31-46
Thiên đàng của bác ái.
Thứ Hai tuần 1 Mùa Chay.
“Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.
Lời Chúa: Mt 25, 31-46
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”.
Khi ấy người lành đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?”
Vua đáp lại: “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.
“Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!”
Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?”
Khi ấy Người đáp lại: “Quả thật, Ta bảo cho các ngươi biết, những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”. Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Làm cho chính Ta
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thi hào Tagore trong tập thơ Gitanjali, bài số 50,
có kể chuyện một người ăn xin, tình cờ gặp nhà vua đi trên cỗ xe.
Anh đầy tràn hy vọng khi cỗ xe dừng lại gần anh, và nhà vua bước xuống.
Anh cứ nghĩ nhà vua sẽ cho anh thật nhiều, nhưng ngài lại chìa tay xin anh.
Người hành khất biết lấy gì mà cho, anh chỉ dâng ngài một hạt lúa nhỏ xíu.
Đến lúc chiều về, khi đổ những thứ trong bị ra, anh thấy một hạt vàng rất nhỏ.
Anh khóc vì tiếc mình đã không cho ngài tất cả những gì mình có.
Có khi nào nhà vua giàu có ngửa tay xin một người ăn mày không?
Hơn nữa, có khi nào Đức Kitô ẩn mình dưới dạng một người ăn xin không?
Trên chuyến xe lửa đi về vùng Darjeeling ở chân núi Hy-mã-lạp-sơn, năm 1946,
Chị Têrêsa Calcutta đã nhận được một ơn gọi thứ hai, dù chị đang tu ở dòng Loreto.
“Chính trong chuyến xe lửa đó, tôi đã nghe tiếng gọi bỏ tất cả
và theo Ngài vào khu ổ chuột – phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất.”
Chị đã viết như thế, và chị còn giải thích thêm:
“Thiên Chúa gọi tôi để làm giảm cơn khát của Đức Giêsu
bằng cách phục vụ Ngài nơi người nghèo nhất trong số các người nghèo.”
Chị Têrêsa được ơn gặp Đức Giêsu Kitô đang đói khát, đang ở khu ổ chuột.
Chị đã cho Ngài tất cả và chị không bao giờ phải ân hận về chuyện đó.
Bài Tin Mừng hôm nay hẳn đã chi phối đời của thánh Têrêsa Calcutta.
Bài này cũng hợp với Mùa Chay, mùa chia sẻ, mùa làm việc bác ái.
Hơn nữa bài này vén mở cho ta thấy một lối hiện diện khác của Đức Giêsu.
Ngài không chỉ hiện diện nơi tấm bánh thánh, nơi tâm hồn ta, nơi Giáo hội,
mà Ngài còn ở nơi những người đói, khát, khách lạ, trần truồng, đau yếu, ngồi tù.
Khuôn mặt của Ngài xem ra chẳng có gì cao quý, uy nghi, sáng láng,
nhưng đầy nét đau khổ, nhục nhằn, phiền muộn.
Đức Giêsu ở đây không phải là người ban phát đầy quyền năng,
mà là người ăn xin yếu đuối ngửa tay cần ta giúp đỡ.
“Mỗi lần các ngươi làm cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây,
là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (c. 40).
Ngài gọi những người khốn cùng trong xã hội là anh em nhỏ nhất của Ngài.
Làm cho họ là làm cho chính Ngài, chối từ họ là chối từ chính Ngài.
Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu.
Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tỵ nạn,
nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.
Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Suy Niệm 2: Chia sẻ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Về bổn phận đối với tha nhân, Cựu Ước chỉ đòi hỏi tránh làm điều xấu cho tha nhân. Phải sống công bằng: “Không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình”. “Hãy xét xử công minh cho người đồng bào”. Công bằng là lý tưởng mà mọi xã hội ước mơ. Nhưng cho đến thiên niên kỷ thứ 3 vẫn chỉ là mơ ước. Thực sự những bất công còn quá nhiều và trầm trọng. Nhưng Tân Ước đi đến tích cực hơn. Phải sống bác ái. Phải làm điều tốt. Phải chia sẻ. Chia sẻ đặc biệt quan trọng.
Chia sẻ là một công bằng ở tầm mức cao hơn. Thực vậy, Chúa ban của cải cho mọi người hưởng dùng. Ta không có quyền chiếm hữu quá nhiều trong khi người khác thiếu thốn. Dư thừa là một tội bất công. Chênh lệch trong xã hội là mầm mống bất ổn. Nếu người có quyền không giải quyết nghèo đói, nghèo đói sẽ giải quyết người có quyền.
Hơn thế nữa, chia sẻ là một bổn phận, vì mọi người là anh em của ta. Mỗi người đều có phẩm giá và phải được quyền sống xứng đáng với phẩm giá của mình. Để một người sống không xứng đáng là hạ nhục chính mình. Hơn nữa mọi người là anh em, nên ta có bổn phận giúp đỡ, chia sẻ. Để một người anh em túng thiếu trong khi mình dư dật là một tội lỗi xấu xa. Còn hơn thế nữa, mọi người đều là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa. Để một chi thể đau yếu, chết yểu là giết chết chính thân mình.
Nhưng trên hết, chính Chúa đồng hóa với người nghèo. Ai giúp người nghèo là giúp chính Chúa. Với sự thật này, Chúa nâng cao giá trị việc chia sẻ lên tầm mức đạo đức chính yếu của đạo. Đây là việc quan trọng, không làm sẽ bị tội. Và nâng cao giá trị người chia sẻ, vì khi chia sẻ ta chia sẻ với chính Chúa. Chính Chúa ban cho ta mọi của cải trần gian, thế mà Chúa lại cho ta được vinh dự chia sẻ với Chúa khi Chúa tự nguyện hóa thân trong người nghèo để cần sự trợ giúp của ta. Bổn phận này nâng cao tầm bác ái Kitô giáo. Yêu người không còn phải như yêu chính mình nữa. Mà yêu người phải như yêu Chúa.
Hiểu biết giá trị của chia sẻ như thế ta sẽ mau mắn và rộng rãi chia sẻ với anh em. Yêu mến Chúa thúc đẩy ta chia sẻ với Chúa. Biết chia sẻ là nguồn mạch ơn lành, tại sao ta không có nhiều sáng kiến, tìm ra nhiều dịp và nhiều người để thực hành chia sẻ trong mùa Chay này?
Suy Niệm 3: Thiên đàng của bác ái.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:
- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?
Thiên thần trả lời:
- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng, vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên của mình có trong sách không.
Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không thấy tên ông.
Thế nhưng điều đó không làm vị tu sĩ thất vọng, ông nói với thiên thần:
- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông, thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Tối hôm sau, thiên thần lại hiện ra và mở quyển sổ vàng cho vị tu sĩ xem, lần này ông thấy tên mình dẫn đầu danh sách những người yêu Chúa.
Sau khi vị tu sĩ gia qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1 Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”. Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi”.
Từ khởi đầu, dường như Thiên Chúa đã muốn tạo dựng cho con người một thiên đàng vĩnh cửu trên trần gian này. Trong cơn gió nhẹ của mỗi buổi chiều tà, Thiên Chúa đến truyện vãn với con người, đó là hình ảnh một hạnh phúc vô biên mà con người có thể hưởng nếu ngay từ trần gian này. Thế nhưng khi con người chối từ mối liên lạc với Thiên Chúa và chối bỏ chính mình, con người cũng đánh mât hạnh phúc ấy. Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến để tái lập thiên đàng tại thế ấy cho con người, Ngài nói với con người rằng con người sẽ có được thiên đàng ấy khi nó biết xây dựng sự hài hoà với Thiên Chúa và với con người. Và vì Thiên Chúa tự đồng hoá với con người, nên chính trong sự hài hoà với tha nhân, con người gặp gỡ Thiên Chúa và tìm lại được thiên đàng đã mất.
Có biết bao ý thức hệ và triết thuyết hứa hẹn cho con người một thiên đàng tại thế, nhưng thứ thiên đàng ấy đã khong bao giờ đền, mà thay vào đó chỉ là hoả ngục của hận thù và chết chóc mà thôi. Làm sao có thể xây dựng được thiên đàng khi người ta chối bỏ hay chà đạp tha nhân, làm sao có thiên đàng khi người ta lấy hận thù làm men cho xã hội. Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó là thiên đàng, nhưng ở đâu có tha nhân thì ở đó cũng có Thiên Chúa, bởi vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa. Mỗi gặp gỡ với tha nhân, mỗi nghĩa cử làm cho tha nhân là một bước tiến vào thiên đàng ngay từ cuộc sống này.
Xin cho chúng ta cảm nếm được hạnh phúc đích thực khi phục vụ tha nhân, và xin cho chúng ta luôn ý thức tha nhân chính là nơi chúng ta có thể gặp gỡ Chúa.
Suy Niệm 4: Người bên phải, kẻ bên trái
Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trườc mặt Người và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ Đức Vua mới phán với người đứng bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến thăm đâu?” Để đáp lại Đức Vua sẽ bảo rằng: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, thì các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt. 25, 31-40)
Thánh Mát-thêu trình bày cho chúng ta cảnh phán xét ngày tận thế không mấy ngoạn mục: không động đất, không có mặt trời tối tăm, không có những vì sao tắt sáng. Chỉ mình Đức Giê-su trong vinh quang đến ngự trên ngai, dấu chỉ uy quyền phán xét của Người. Uy quyền của Người bao trùm khắp muôn phương: các thiên thần hầu cận, các dân thiên hạ tập hợp trước dung nhan Người. Người ta nghĩ đến có việc gì xảy ra quyết liệt lắm, sau đó không còn xảy ra như thế nữa. Hành động đầu tiên của Con Người là phân tách khối người đó ra: bên phải là kẻ lành, bên trái là kẻ dữ, ở giữa là khoảng trống. Hành động phân chia này thiết lập nên sự phán xét. Sau đó là những lời giải thích về việc phán xét. Việc phán xét không theo chủng tộc như quan niệm Do thái, nhưng theo đời sống luân lý của mỗi người.
Để thưởng cho các người lành bên phải, Đức Giê-su đã phán rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến hưởng nước trời …”. Để phạt kẻ dữ bên trái, Người phán: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời. Nước trời trước hết là ở gần Thiên Chúa. Còn lửa đời đời là xa lìa Thiên Chúa. Hai nơi đối nghịch nhau đều là đích cuối cùng sau một cuộc sống lâu dài mà Thiên Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi. Con Người chỉ đến phán xét và chấm dứt lịch sử thế giới sau một thời gian Thiên Chúa kiên trì tìm kiếm cứu chuộc loài người.
Những lý do xét xử là những nhu cầu trước mắt: đói, khát, trần truồng, tù đầy, đau yếu. Người lành và người dữ đều ngạc nhiên hỏi: “Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, trần truồng, đau yếu, ngồi tù đâu? Để đáp lại, Chúa đáp: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Vậy được hưởng nước trời hay bị vào lửa đời đời chính là tiếp đón hay từ chối giúp đỡ Đức Giê-su Ki-tô hiện diện trong một kẻ khốn cực, chính là làm hay không làm giúp người lân cận của mình.
Mùa chay thúc bách chúng ta sống Tin mừng hẳn hoi, nghiêm túc. Sống lời Chúa nghiêm túc giúp chúng ta liên đới với mọi người tốt đẹp ở đời này, đó là cửa vào nước trời đời đời.
G.M
Suy Niệm 5: Yêu để được sống
Đạo Công Giáo mà Đức Giêsu sáng lập là một thứ đạo yêu thương. Đạo yêu thương này được khởi đi từ tình yêu của Thiên Chúa đối với công trình tạo dựng và suốt dọc dài lịch sử cứu độ trong thời Cựu Ước nơi dân Israel.
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa cho loài người. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã rao giảng, đã chết để minh chứng tình thương, và đã sống lại để gieo niềm hy vọng. Như vậy, có thể nói rằng: Đạo Công Giáo là “Đạo Yêu Thương”. Ai không yêu thương thì không thuộc về đạo này. Nhưng yêu thương phải đi đến hành động thực tế, chứ không thể yêu trên đầu môi chóp lưỡi!
Hôm nay, bài Tin Mừng đưa chúng ta về viễn cảnh của ngày cánh chung qua giáo huấn của Đức Giêsu.
Hình ảnh mà Đức Giêsu đưa ra chính là một hình ảnh về ngày phán xét, nơi đó, vị thẩm phán công bằng, tối cao ngự đến để xét xử.
Điều kỳ lạ, đó là vị thẩm phấn này không xét xử dựa trên chức nghiệp để thưởng công, mà là ngang qua hành vi về sự cảm thông, lòng nhân ái đối với những người bần cùng của xã hội. Lạ kỳ hơn nữa là kết thúc, vị thẩm phán ấy đồng hóa chính mình với những người được giúp đỡ khi tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm cho những người bé mọn ấy là làm cho chính ta”.
Nhìn ra thế giới hôm nay, chúng ta thấy không ít nếu không muốn nói là nhan nhản những hành vi như: bon chen, lừa lọc, mưu mô quỉ quyệt, chiến tranh, hận thù, khủng bố …
Tất cả những điều đó đi ngược lại quy luật của tình yêu, và tất nhiên, không thể đi vào trong mối tương quan với vị thẩm phán trong bài Tin Mừng hôm nay.
Xin Chúa ban cho mỗi người ý thức được hạnh phúc đích thực của chúng ta ở nơi Chúa, và chỉ có nơi Ngài mới trường tồn vạn kiếp. Vì thế, ngay trong giây phút này, xin cho chúng ta biết sống yêu thương nhau để sau này được hưởng niềm vui, hạnh phúc bên Thiên Chúa tình yêu. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Bác ái
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mỗi người sẽ phải ra hầu tòa Chúa. Ngày phán xét, Thiên Chúa sẽ thẩm xét chúng ta về tình yêu cụ thể đối với anh chị em mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa đã dạy con biết Chúa sẽ phán xét mọi người, dù lành hay dữ. Và chính Chúa sẽ xét xử con tùy theo lòng con yêu mến Chúa cách cụ thể nơi những anh chị em nghèo đói, bệnh tật, cùng quẫn, khổ đau chung quanh con. Không ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh chị em của mình.
Chúa đã cho con thấy khi con giúp đỡ những người nghèo túng, khi con thăm viếng thông cảm với những anh chị em cùng khổ, bệnh tật, già nua, là con làm cho Chúa. Xin cho con đức tin để con nhận ra Chúa nơi các anh chị em ấy. Chúa đến với con trong thân phận nghèo hèn của họ, nhưng con lại vô tâm hoặc cố tình từ chối xua đuổi Chúa hằng ngày. Chúa cho con cuộc sống hiện tại để chuẩn bị cho số phận mai sau. Thế mà nhiều lúc con tự tay đào vực thẳm chôn vùi mình.
Chúa muốn nhắc con nhớ lại những thiếu sót đối với anh chị em. Nhìn lại, con nhận ra những việc làm ích kỷ. Con dễ dàng giúp đỡ anh chị em khi con thấy có lợi cho mình. Xin Chúa dạy con yêu thương anh chị em cách vô vị lợi như Chúa đã làm gương. Chúa yêu chỉ vì muốn ích lợi cho người Chúa yêu.
Xin Chúa thương tha thứ mọi lỗi lầm thiếu sót của con. Xin giúp con tận dụng mùa chay này để sửa đổi đời sống. Và xin Chúa uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”.
Suy Niệm 7: Làm cho chính Ta
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại. Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh đến xin ăn và xin nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: “Hôm nay Ta đã đến với con ba lần và cả ba lần con đều đuổi Ta”.
Ai nghe chuyện này hẳn sẽ chẳng dám đuổi một người nào đó ra khỏi cửa. Vì họ không biết ai đang đứng đó. Và có ai muốn xua đuổi Thiên Chúa?
Suy Niệm
Thiên Chúa quang lâm đến để phán xét công minh. Ngài đón nhận những ai xứng đáng trở nên công dân vương quốc Cánh Chung, Đức Kitô đến phán xử theo lòng nhân ái của mọi người. Hình ảnh đó đã được Tin Mừng Matthêu ghi nhận qua giáo huấn của Đức Kitô (x. Mt 25,31-46): Ngài đến phân rẽ nhân loại thành hai bên tả hữu. Tác giả Cl. Tassin giải thích, “bên phải” và “bên trái” trong thời cổ đại chỉ số phận tốt, xấu của con người” (Phúc Âm Matthêu, Centurion, tr. 264).
Là Thiên Chúa Tình Yêu, Chúa Giêsu sống ban phát, chữa lành cho chúng sinh, ban phát bình an cho dân, ban phát thần lương bằng chính Ngài cho nhân loại. Ngài là Thiên Chúa nhập thể nên cảm nghiệm được những thống khổ, thiếu thốn của con người. Chính vì tình yêu, Ngài trở nên như những kẻ bần cùng, thực sự chịu đau khổ như mọi người phải chịu, Ngài trở nên một với họ. Chính vì lẽ đó, Ngài hé mở bí nhiệm tình yêu này: “Ta đói... khát... ốm đau... là khách lạ”. Chúa Kitô tự đồng hóa với những người túng thiếu, Ngài đói, khát, là khách lạ. Chúa Kitô - Vua chúng ta trần trụi, Vua chúng ta yếu đau, Vua chúng ta bị cầm tù. Cho nên những gì chúng ta làm hay không làm cho những người bần cùng, là làm hay không cho chính Thiên Chúa như Đức Kitô khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
Qua mọi thời, Vua Giêsu vẫn luôn hòa đồng với kẻ khốn cùng, những kẻ ngửa tay xin lòng trắc ẩn của nhân loại. Ngài ở trong các anh em bé mọn nhất, những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bệnh tật lay lắt khắp xóm chợ, những người bị suy sụp tinh thần cần được chia sẻ được yêu thương. Lòng yêu thương kéo sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người, và làm thế giới được tồn tại trong tình yêu như Fyodor Dostoyevky đã cảm nhận: “Lòng trắc ẩn là quy luật chính yếu của sự tồn tại con người”.
Vì thế chúng ta hiểu vì sao những tấm lòng mang tinh thần bác ái được đứng vào hàng ngũ của những kẻ bên phải trong ngày phán xét chung. Ngày chung cuộc theo Tin Mừng, những ai sống trong yêu thương chia sẻ được đón vào vương quốc Vĩnh Cửu tình yêu với Đức Kitô…
Ý lực sống: “Cuộc sống của chúng ta sẽ luôn viên mãn nếu trái tim chúng ta luôn luôn dâng hiến” (Vô danh).
Suy Niệm 8: Giá trị việc lành dữ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu nói về ngày Ngài sẽ trở lại vũ trụ để phán xét mọi người. Ngày đó ta quen gọi là ngày cánh chung hay ngày tận thế. Trong bài Tin Mừng Đức Giêsu gợi lên hình ảnh của tòa phán xét cuối cùng, để dạy chúng ta sống tinh thần tương thân tương ái với hết mọi người. Đó cũng là tinh thần Mùa Chay đích thực mà Giáo hội mời gọi chúng ta.
2. Trong ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ phân chia loài người thành hai nhóm và Chúa ra ví dụ như người mục tử tách chiên ra khỏi dê. Ban ngày người mục tử có thể chăn dắt chiên và dê lẫn lộn với nhau, nhưng đêm đến ông ta phải tách ra, dê để một nơi và chiên một nơi.
Cũng thế, trong cuộc sống hôm nay, nơi trần gian này, Chúa để người lành kẻ dữ, người công chính và kẻ tội lỗi sống chung lẫn lộn với nhau, nhưng trong ngày tận thế, Chúa sẽ tách ra để người lành được hưởng an vui hạnh phúc, còn người tội lỗi phải vào chốn cực hình muôn đời.
3. Trong ngày phán xét, Chúa chỉ xét xử dựa trên cách chúng ta cư xử với tha nhân mà thôi. Nếu chúng ta khước từ tha nhân, thì tức là chúng ta khước từ chính Chúa Giêsu, và như vậy Ngài cũng chối bỏ chúng ta trong ngày phán xét. Trái lại, mỗi hành động yêu thương mà chúng ta thực thi cho tha nhân cũng chính là một tiếp đón chúng ta dành cho Ngài và Ngài cũng căn cứ vào đó để tiếp đón chúng ta trong ngày phán xét.
4. Qua mọi thời, Đức Giêsu vẫn luôn hòa đồng với kẻ khốn cùng, những kẻ ngửa tay xin lòng trắc ẩn của nhân loại. Ngài ở trong các anh em bé mọn nhất, những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bệnh tật lây lất khắp xóm chợ, những người bị suy sụp tinh thần được chia sẻ được yêu thương. Lòng yêu thương kéo sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người, và làm thế giới được tồn tại trong tình yêu như Fyodor Dostoyevky đã cảm nhận: “Lòng trắc ẩn là qui luật chính yếu của sự tồn tại con người”.
Vì thế, chúng ta hiểu vì sao những tấm lòng mang tinh thần bác ái được đứng vào hàng ngũ của những kẻ bên phải trong ngày phán xét chung. Ngày chung cuộc theo Tin Mừng, những ai sống trong yêu thương chia sẻ được dón vào Vương quốc vĩnh cửu tình yêu với Đức Kitô.
5. Lòng yêu thương chân thật phải được thể hiện trong đời sống thực tế chứ không trừu tượng. Bác ái cần hành động chứ không phải lý thuyết xuông. Chúa kể ra sáu tình cảnh rất thực tế và là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống chứ không phải chuyện cao xa trừu tượng: Đói, khát, khách lạ, đau yếu, trần truồng, tù đầy. Nghĩa là đối tượng chúng ta nhắm đến là những thân phận đang cần chúng ta hơn hết. Điều đặc biệt hơn cả là Đức Giêsu đồng hóa mình trong những thân phận bất hạnh đó. Những tình cảnh của những con người đau khổ kia lại là hiện thân của Đức Giêsu và là cơ hội cho chúng ta gặp Chúa: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính ta vậy”(Vinh Sơn).
6. Như vậy chúng ta thấy Đức Giêsu đặt trước chúng ta một chân lý tuyệt diệu: là tất cả mọi sự giúp đỡ hay không giúp đỡ, chúng ta làm hay không làm cho anh em mình là làm hay không làm cho chính Ngài.
Bà Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare chủ trương sống tinh thần Tin Mừng, chia sẻ một kinh nghiệm sống như sau: coi những kẻ đang đau khổ là hình ảnh Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên Thập giá. Cũng như Chúa Giêsu bị bỏ rơi rất cần người an ủi giúp đỡ, ta cũng hãy giúp đỡ ủi an những kẻ đau khổ ấy.
7. Truyện: Tìm thấy Chúa trong tha nhân.
Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:
- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?
- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên mình có trong sách không. Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng nhưng không thấy tên ông. Thế nhưng điều đó không làm cho tu sĩ thất vọng. Ông nói với thiên thần:
- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Sau khi vị tu sĩ già qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”. Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi” (Mỗi ngày một tin vui).
Suy Niệm 9: Cách đối xử với tha nhân
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Bài đọc I trích sách Lêvi dạy cách đối xử với tha nhân, gồm trong hai điều chính:
a/ Công bình: đừng trộm cắp, đừng nói dối, đừng phỉnh gạt, đừng nhục mạ, đừng hà hiếp, đừng giam tiền công phải trả cho thợ, đừng nguyền rủa, đừng gièm pha...
b/ Bác ái: “Hãy yêu thương bạn hữu như chính mình”. Nhìn chung, ta thấy lời dạy của Cựu Ước có tính tiêu cực (“đừng, đừng và đừng”), và chưa được rộng (“Hãy yêu thương bạn hữu như chính mình”)
Lời dạy của Chúa Giêsu tích cực hơn (cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới áo mặc, thăm viếng kẻ đau yếu và ngồi tù), và cũng rộng rãi hơn (hãy đối xử bác ái với bất cứ ai bé mọn). Chúa con bảo Ngài sẽ coi những việc bác ái ta làm cho những kẻ bé mọn như làm cho chính Chúa.
B.... nẩy mầm.
1. Coi tha nhân là chính Chúa. Điều này tương đối dễ nếu ta gặp một người tốt và dễ thương. Còn khi ta gặp một người khó chịu và xấu tính, ta hãy nhớ:
a/ người đó cũng là tác phẩm do Chúa tạo nên;
b/ người đó cũng là giá máu Chúa đã đổ ra để cứu chuộc;
c/ người đó cũng là đối tượng Chúa mời hưởng hạnh phúc muôn đời. Bởi thế nếu không thề yêu thương người đó vì chính người đó thì ít ra hãy phấn đấu yêu thương họ như chính Chúa yêu thương họ.
2. Bà Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare chủ trương sống tinh thần Tin Mừng, chia xẻ một kinh nghiệm sống như sau: coi những kẻ đang đau khổ là hình ảnh Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên Thập giá. Cũng như Chúa Giêsu bị bỏ rơi rất cần người ủi an giúp đỡ, ta cũng hãy giúp đỡ ủi an những kẻ đau khổ ấy.
3. Từ khi chọn con đường nhập thể, Chúa đã muốn chúng ta tìm Ngài trong tha nhân, yêu Ngài qua tha nhân và giúp đỡ Ngài cũng qua tha nhân.
4. Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:
- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?
- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên mình có trong sách không. Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng nhưng không thấy tên ông. Thế nhưng điều đó không làm vị tu sĩ thất vọng. Ông nói với thiên thần
- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Sau khi vị tu sĩ già qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1 Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”. Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi” (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
Suy Niệm 10: Đối xử với tha nhân trong tình yêu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Bài đọc sách Lêvi dạy ta cách đối xử với tha nhân, gồm trong hai điều chính:
a/ Công bình
b/ Bác ái
Nhìn chung ta thấy, lời dạy của Cựu Ước có tính cách tiêu cực, “đừng, đừng và đừng” và chưa được rộng (“hãy yêu thương bạn hữu như chính mình”).
Lời dạy của Chúa Giêsu tích cực hơn và cũng rộng rãi hơn. Chúa còn bảo Ngài sẽ coi những việc bác ái tôi làm cho những kẻ bé mọn như là làm cho chính Chúa.
Bà Chiara Lubich, người sáng lập ra phong trào Focolare chủ trương sống tinh thần Tin Mừng một cách triệt để đã chia sẻ một kinh nghiệm sống như sau: Coi những kẻ đang đau khổ là hình ảnh Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên Thập Giá. Cũng như Chúa Giêsu bị bỏ rơi rất cần người an ủi, giúp đỡ, ta cũng hãy giúp đỡ an ủi những kẻ đau khổ ấy.
Vâng! Từ khi chọn con đường nhập thể, Chúa đã muốn chúng ta tìm Ngài trong tha nhân, yêu Ngài qua tha nhân và giúp đỡ Ngài cũng qua tha nhân.
Chúng ta tự hỏi, tình yêu có một sức mạnh gì không mà Chúa lại luôn đòi hỏi con người phải yêu thương nhau như thế?
Tôi xin mượn một câu chuyện được phổ biến trên mạng Internet để trả lời:
Ngày ấy, tôi dạy mẫu giáo tại một ngôi trường nhỏ nằm gọn trong khuôn viên của một tòa nhà xinh đẹp. Mỗi sáng, cứ đúng 9 giờ, tất cả học sinh tụ tập trong căn phòng lớn, bắt đầu một ngày mới bằng bài thể dục đầu giờ. Hơn 50 đứa trẻ, từ 3-6 tuổi, ngồi san sát trên những chiếc ghế xinh xinh đủ màu đặt trên tấm thảm dầy. Những gương mặt thơ ngây bừng sáng khi chúng háo hức hát vang những bài ca, cùng chia sẻ cho nhau những cảm nhận về mọi điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Một buổi sáng nọ, cô hiệu trưởng gặp toàn thể học sinh trong căn phòng lớn và thông báo:
- Hôm nay, chúng ta sẽ tiến hành một thí nghiệm mới.
Cô giơ cao hai cây trường xuân bé xíu đựng trong hai cái chậu con giống hệt nhau.
- Chúng ta có hai cây con. Trông chúng giống hệt nhau, phải không?
Tất cả bọn trẻ tò mò nhìn vào hai chậu cây rồi đồng thanh đáp:
- Dạ phải.
Cô nói tiếp:
- Chúng ta sẽ nuôi dưỡng hai cây con này với cùng chế độ ánh sáng, cùng chế độ nước tưới nhưng… với sự quan tâm chăm sóc khác nhau. Rồi chúng ta sẽ theo dõi xem, điều gì sẽ xảy ra khi đặt một cây trong nhà bếp cách xa chúng ta, và một cây ngay tại đây, trên lò sưởi này.
Sau khi đặt một cái chậu trên lò sưởi trong bếp, cô hiệu trưởng dắt bọn trẻ vào bếp, đặt cái chậu lên quầy. Sau đó, cô dẫn những đứa trẻ với những đôi mắt mở to vì bỡ ngỡ trở lại căn phòng lớn.
Chúng ta sẽ đối xử với cây như một người bạn. Trong vài tháng tới, mỗi ngày chúng ta đều hát cho cây trường xuân nghe. Chúng ta sẽ nói cho bạn ấy biết bạn ấy xinh đẹp thế nào và chúng ta yêu mến bạn ấy biết bao. Chúng ta sẽ luôn chúc bạn ấy mọi điều tốt đẹp…
Một bé gái giơ tay:
- Nhưng thưa cô, thế còn cây trong bếp thì sao?
Cô hiệu trưởng mỉm cười thích thú:
- Chúng ta sẽ dùng cây ấy làm cây “đối chứng” trong thí nghiệm tuyệt vời của chúng ta. Theo các em, chúng ta sẽ làm gì?
- Chúng ta sẽ không nói chuyện với nó?
- Đúng. Dù chỉ là một lời thì thầm.
- Chúng ta sẽ không gởi cho nó một lời chúc tốt đẹp nào.
- Đúng.
Và chúng ta sẽ xem chuyện gì sẽ xảy ra.
Bốn tuần sau, mắt của tôi cũng mở to ngạc nhiên như bọn trẻ. Cây trường xuân trong nhà bếp yếu ớt, mảnh khảnh và chẳng lớn được tí nào. Còn chậu cây đặt trong phòng lớn, được bao bọc bởi những lời yêu thương êm dịu, được bọn trẻ hát cho nghe mỗi ngày, đã lớn gấp ba lần với những chiếc lá xanh biếc tràn đầy nhựa sống. Để chứng minh kết quả của cuộc thí nghiệm và cũng để lau khô những giọt nước mắt của những đứa trẻ nhạy cảm, lo lắng cho số phận cây thứ hai khỏi cảnh lẻ loi trong bếp, cô hiệu trưởng cho mang nó lên, đặt ở trong phòng lớn, bên cạnh chậu thứ nhất.
Rồi sau đó họ đối xử với cây này y như đã đối xử với cây thứ nhất trước kia.
Ba tuần sau, chậu cây thứ hai đã bắt kịp cây trong chậu thứ nhất. Bốn tuần sau, chúng cùng lớn mạnh như nhau.
Tôi ghi nhớ mãi bài học này, và tự đúc kết cho mình câu kết luận: Không ai, không vật gì lớn lên được nếu không có tình yêu.
Vâng, tình yêu quan trọng như thế, nên Chúa luôn đòi hỏi chúng ta phải yêu thương nhau. “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở trong tình yêu, người đó ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong họ” (1Ga 4,16).
Lạy Chúa,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho chúng con trở thành tình yêu,
tình yêu bao dung và quảng đại
cho trái tim khô cằn của thế giới. Amen.
18/02 Chúa Giêsu chịu cám dỗ
- Viết bởi Mc 1, 12-15
Chúa Giêsu chịu cám dỗ.
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY năm B.
"Chúa chịu Satan cám dỗ và các Thiên Thần hầu hạ Người".
Lời Chúa: Mc 1, 12-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người.
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: "Thời giờ đã mãn, và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY B
Lời Chúa: St 9,8-15; 1Pr 3,18-22; Mc 1,12-15
1. Vào hoang địa--‘Manna’
2. Hãy hối cải--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
3. Vào hoang địa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. “Tội lỗi và tình thương”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
5. Nơi hoang địa--GM. Arthur Tonne
6. Chúa Nhật I Mùa Chay--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
7. Sám hối và tin vào Tin Mừng--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
8. Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
9. Hãy sám hối--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
10. Chỉ vì thương nên Thiên Chúa đơn phương ban ơn cho loài người--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
11. Mùa Chay: Hãy sám hối--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
12. Chiến thắng cám dỗ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
13. Chúa Nhật I Mùa Chay--Lm. Inhaxio Hồ Thông
14. Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
15. Cám dỗ thời nay--Lm. Xuân Hy Vọng
16. Chúa Giêsu chịu satan cám dỗ--Lm. Tôma Aq. Trầm Phúc
17. Chiến thắng lòng tham--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
18. Sự cám dỗ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
19. Sống hai mặt--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
20. Say nắng trong tình yêu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
21. Ba cạm bẫy của ma quỷ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
22. Cạm bẫy--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
23. Sống là chiến đấu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
24. Sám hối thì được cứu rỗi--Anmai, CSsR
25. Tái sinh--Lm. Vũ Đình Tường
26. Chay tịnh và cầu nguyện--AM Trần Bình An
27. Lòng thương cảm sâu xa--Peter Feldmier--Văn Hào, SDB chuyển ngữ
28. Hàng ngày vào hoang địa--AM Trần Bình An
29. Thần lành, thần dữ--Lm. Vũ Đình Tường
30. Ăn chay--Lm. Vũ Đình Tường
31. Thách đấu--Lm. Vũ Đình Tường
32. Cám dỗ trong hoang địa--Lm. Hồng Phúc
33. Đức Giêsu trong hoang địa--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
34. Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Văn Phan
35. Những cám dỗ của Mùa Chay--Lm. Thu Băng, CRM
36. Đọc lại câu chuyện cám dỗ từ sách Sáng Thế--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
37. Sức mạnh để chiến thắng cám dỗ--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
38. Con số 3 trong Mùa Chay--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
39. Món ăn năn--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
40. Biết mình đang đi về đâu--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
41. Cát bụi tuyệt vời--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
42. Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu--Suy niệm Lễ Tro----Lm. Ignatiô Trần Ngà
43. Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Trần Ngà
44. Đức Giêsu chịu cám dỗ trước khi công khai rao giảng Tin Mừng--JKN
45. Sống với chính mình--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
46. Hãy cải thiện và hãy tin--Lm. Mark Link
47. Thiên Chúa đơn phương tỏ tình với con người--Lm. Giuse Lê Danh Tường
48. Câu chuyện hồng thủy--Lm. Anphong Trần Đức Phương
49. Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
50. Đức Giêsu chiến thắng Satan--Lm. FX. Vũ Phan Long
51. Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Alfonso
52. Cám dỗ và thử thách--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
53. Sống là chiến đấu--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
54. Người ở trong hoang địa--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
55. Trung thành với lời giao ước phép Rửa--Lm.Trần Bình Trọng
56. Chống trả tên cám dỗ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
57. Cùng Chúa Giêsu lên Giêrusalem--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
58. Suy niệm Mùa Chay--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
59. Chọn lựa--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
60. Thiên Chúa yêu thương tất cả thụ tạo. chúng ta cũng nên yêu thương như vậy--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ ĐCV Sao Biển
61. Để chiến thắng ma quỷ cám dỗ--Lm. Đan Vinh
62. Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa--LỄ TRO--Jos. Vinc. Ngọc Biển
63. Kiếp người vô thường--LỄ TRO--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
64. Lịch sử Mùa Chay Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
65. Xét tật mình--THỨ TƯ LỄ TRO--JM. Lam Thy ĐVD
66. Tro bụi--Lm. Vinh Sơn
67. Chúa Nhật I Mùa Chay--Giáo phận Nha Trang
68. Chúa Nhật I Mùa Chay--Học viện Piô Giáo hoàng
69. Nhân phẩm là bụi tro--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
70. Tin là chấp nhận đường thập giá--Noel Quesson
71. Chúa Nhật I Mùa Chay--Noel Quesson
72. Ta yêu các ngươi từ lâu rồi. Hãy trở thành dân của Ta--Camille Gagnon
73. Tầm quan trọng cùa một phản ứng tốt--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
74. Chiến đấu để khỏi sa cơn cám dỗ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
75. Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
76. Đức Giêsu chịu Xatan cám dỗ
77. Canh tân đời sống
78. Cải thiện
79. Nơi hoang dã
80. Chiến đấu!
81. Chúa Nhật 1 Mùa Chay
82. Cám dỗ
83. Chúa Nhật I Mùa Chay
84. Chúa Nhật I Mùa Chay
85. Hãy sửa đổi đời sống và tin vào tin mừng
86. Cám dỗ
87. Hoang địa
88. Cuộc chiến
89. Dã thú
90. Cám dỗ
91. Đứa con của kẻ vô thần
92. Yếu tố con người
93. Ngoại trừ tội lỗi
94. Bị cám dỗ bởi việc lành
95. Tái tạo cuộc sống
96. Cầu nguyện để vượt qua cám dỗ--Huệ Minh
1.Vào hoang địa--‘Manna’
Suy Niệm
Mỗi khi bắt đầu mùa Chay,
Hội Thánh lại mời chúng ta vào hoang địa với Đức Giêsu.
Chính Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài đến nơi đó,
ngay sau khi Ngài chịu phép rửa của Gioan
và nhận được Thánh Thần để lên đường đi sứ vụ.
Bốn mươi ngày sống trong cô tịch và cầu nguyện.
Một cuộc tĩnh tâm để định hướng tương lai,
qua đó Đức Giêsu thấy rõ con đường Ngài phải đi,
và qua đó Ngài cũng thấy mình bị Xatan cám dỗ.
Mùa Chay là thời gian trở lại với Chúa
và nhận ra những cám dỗ đang bủa vây tôi,
những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới.
Nếu đời tôi là một chuỗi những chọn lựa,
thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Tôi có tự do để chọn giữa cái tốt và cái xấu.
Giữa những cái tốt, tôi có tự do để chọn cái tốt hơn.
Biết mình đã lạc hướng hay lệch hướng là điều cần thiết.
Con người hôm nay không yếu đuối hơn ngày xưa.
Nhưng có lẽ nó bị cám dỗ nhiều hơn xưa,
vì cuộc sống tiến bộ cho người ta nhiều chọn lựa.
Tôi phải chọn kênh truyền hình, chọn băng video,
chọn một loại vải, một kiểu áo, chọn chỗ giải trí tối nay.
Có những áp lực đè nặng trên chọn lựa của tôi:
áp lực của quảng cáo, khuyến mãi, áp lực của mode, của bạn bè, của dư luận...
Có những mời mọc nhắm vào các giác quan của tôi.
Các giác quan như những cánh của mở của căn nhà trống trải.
Bao kích thích khêu gợi như luồng gió lùa vào nhà.
Thắng được những đòi hỏi vô độ của thân xác
đòi hỏi một sự tự chủ lớn lao.
Thắng được những đam mê mù quáng của con tim
cần có một thái độ anh hùng từ bỏ.
Thắng được sự cứng cỏi, cố chấp của trí tuệ
cần có một lòng khiêm tốn mở ra trước chân lý.
Cuộc đời là một cuộc chiến đấu không ngừng,
vì con người vẫn nghiêng như tháp Pizza.
Cần phải tập nghiêng về điều ngược lại
để tạo lập được sự quân bình trong cuộc sống.
Nói cho cùng, cám dỗ nào cũng khiến con người khép kín,
chỉ nghĩ đến mình và sống cho mình.
Cám dỗ im lặng vì sợ liên lụy.
Cám dỗ giả mù trước sự thật rành rành.
Cám dỗ thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân.
Cám dỗ sống một đời sống tầm thường và buông thả.
Cái cao cả của con người là chiến đấu và chiến thắng.
Chỉ khi nhận Thiên Chúa và tha nhân làm trung tâm,
con người mới thành người trọn vẹn.
Ước gì mỗi Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu
để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của mình.
Nhưng trước hết, chúng ta cần ăn chay và cầu nguyện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất?
Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh những nơi, những con người có thể đưa đến cám dỗ. Theo ý bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở đâu? Với ai?
Cầu Nguyện
Như đoá sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,
xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,
để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực
vào những chuyện tình cảm chóng qua,
nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ thân xác con thanh khiết.
2.Hãy hối cải--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm
Giáo Hội bước vào Mùa Chay cùng với cả thế giới.
Cả thế giới đã sống Mùa Chay của mình từ hơn một năm qua.
Đến nay đã có hơn 110 triệu người bị nhiễm,
và 2,4 triệu người chết vì dịch bệnh Covid.
Cơn dịch bệnh kinh hoàng đã tác động đến toàn bộ cuộc sống
của hầu hết mọi người trên thế giới.
Đời sống tôn giáo cũng chịu ảnh hưởng nặng nề.
Nhà thờ đóng cửa, Thánh lễ Chúa nhật và các bí tích bị ngừng.
Nghi thức tiễn biệt người qua đời cũng làm trong vội vã.
Lo âu, buồn thảm, hoang mang, thất vọng.
Cả người có đức tin mạnh cũng thấy mình bị dao động.
Chúng ta đã và đang sống trong một Mùa Chay dài.
Mùa Chay của năm phụng vụ đi với Mùa Chay cuộc đời.
Điều đó làm cho Mùa Chay năm nay mang nét rất riêng.
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay thật ngắn,
kể lại chuyện Đức Giêsu bị Xatan cám dỗ, thử thách.
Nơi thử thách là hoang địa, vắng người ở, ít sự sống.
Đức Giêsu không tự ý đi vào hoang địa,
Ngài được Thần Khí dẫn vào, đẩy vào nơi vắng vẻ đó.
Có thể nói Thần Khí đưa Đức Giêsu vào một cuộc tĩnh tâm,
kéo dài nhiều ngày, trước khi bắt đầu thi hành sứ vụ.
Hoang địa vừa là nơi gần gũi thân tình với Thiên Chúa,
vừa là nơi diễn ra cuộc chiến ác liệt với Xatan.
Hoang địa là nơi Đức Giêsu chìm sâu trong cầu nguyện,
nhưng cũng là nơi Ngài nghe những mời mọc của Xatan,
trước khi quyết định hướng đi sắp tới của mình.
Khi chịu phép rửa, Đức Giêsu là Người Con mà Cha hài lòng.
Ngài cũng là Đấng Mêsia được Thần Khí ngự xuống.
Còn nơi hoang địa, Xatan cám dỗ Ngài không sống theo ý Cha,
không sống theo Thần Khí, không đi vào con đường hẹp.
Đây là một thử thách thật sự khó khăn.
Đức Giêsu đã vượt qua được cơn thử thách này.
Thế giới hôm nay cũng đang ở trong một cơn thử thách lớn.
Thiên Chúa cho phép những thử thách đau khổ xảy ra
trong đời các Kitô hữu (1 Pr 1,6; 4,12; 1 Cr 10,13; Gc 1,13-15),
đời từng người, và trong cả dòng lịch sử nhân loại.
Chúng ta không hiểu, và cũng khó chấp nhận thử thách,
vì nó quá tàn nhẫn, khiến ta nghĩ đến một Thiên Chúa độc ác,
vì nó đầy ngạo nghễ, khiến ta nghĩ đến một Thiên Chúa bất lực.
Nhưng thử thách dạy chúng ta nhiều điều.
Bất chấp mọi tiến bộ khoa học, kỹ thuật,
một con vi-rút nhỏ bằng một phần bảy mươi ngàn sợi tóc
đã làm náo loạn cả thế giới, và cho thấy con người mong manh.
Nhẫn nại và khiêm tốn cầu xin trong cơn thử thách
là điều phải làm song song với nỗ lực dập tắt dịch bệnh.
Thiên Chúa nói với con người qua những thử thách.
Thái độ của chúng ta là khiêm tốn lắng nghe.
Thử thách đưa đến những hậu quả khủng khiếp,
nhưng chúng ta tin “Thiên Chúa làm cho mọi sự sinh ích lợi
cho những ai yêu mến Ngài” (Rm 8,28).
Thử thách là lời mời gọi khẩn thiết của Thiên Chúa.
Ngài mời chúng ta liên đới với nhau hơn,
cùng nhau chống lại những bệnh dịch mới đe dọa sự sống
hơn là chạy đua vũ trang và gây chiến tranh khắp nơi.
Ngài mời chúng ta lo cho nhau hơn, coi nhau như người nhà,
phá đi những bức tường ngăn cách giữa các quốc gia.
Ngài mời chúng ta sống nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn,
bớt mua sắm, bớt giờ cho internet, thêm giờ cho Chúa.
Ngài mời chúng ta phong tỏa cái xấu, giãn cách với tội lỗi,
tránh xa mọi lây nhiễm bằng thứ khẩu trang nhiều lớp,
và cẩn thận rửa tay mình cho sạch mọi ô nhơ.
Nạn đại dịch là một lời mời, một nhắc nhở
của Người Cha đầy yêu thương dành cho con cái.
Nếu chúng ta đáp lại lời mời đó bằng hoán cải, canh tân,
thì đại họa có thể trở thành cơ hội tuôn trào ân phúc.
Và Mùa Chay này thành thời gian tuyệt vời dẫn đến Phục Sinh.
Lời Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là vị Thượng Tế nhân từ,
chắc Chúa buồn và thương
khi thấy chúng con đang vật vã với cơn thử thách.
Chúa cảm thông với những gì chúng con đang trải qua,
vì chính Chúa đã nếm nỗi đau của cuộc Khổ nạn.
Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
đã khẩn khoản nài xin Cha cất chén đắng,
và cảm thấy bị Cha bỏ rơi khi hấp hối trên thập giá.
Chúa đã chịu thử thách về mọi mặt như chúng con,
nhưng vẫn giữ một niềm trung tín.
Lạy Chúa Giêsu là cây nho thật,
xin cho chúng con chấp nhận sự cắt tỉa của Chúa Cha,
để cành nho chúng con thêm trĩu quả.
Xin cho chúng con đừng mất niềm tin vào Thiên Chúa,
Đấng không để chúng con bị thử thách vượt quá sức mình.
Xin cho chúng con trưởng thành hơn, cứng cáp hơn
qua những thử thách đau thương,
để trở nên như lưỡi gươm thép được tôi luyện
cho cuộc chiến chống lại quyền lực của ác thần. Amen.
3.Vào hoang địa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1. Ta say mê vì các cầu thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện. Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện. Tập luyện để có thể lực dẻo dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý. Những buổi tập rất nghiêm ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc. Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai vượt qua được những buổi tập nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.
Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện, phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.
Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân, không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.
Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ. Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Từ tạo thiên lập địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.
Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng trong cuộc chiến đấu.
Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách. Hoang địa còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa của cuộc đời.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.
Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có quen chấp nhận những điều khó chịu không?
2- Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa? Bạn đã chống trả thế nào?
3- Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để thêm lòng mến Chúa yêu người?
4- Bạn có thường từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa không?
4.“Tội lỗi và tình thương”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Chúng ta đã bước vào Mùa Chay. Đối với người tín hữu, đây là “thời Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2 Cr 6,2). Sống tinh thần Mùa Chay là khiêm tốn nhìn nhận mình còn nhiều tội lỗi, đồng thời nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Nhờ tình thương, chúng ta được canh tân đổi đời và nên giống Chúa Giêsu trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta được mời gọi thực hành những việc đạo đức truyền thống như chay tịnh, hãm mình, hy sinh, cầu nguyện. Thoạt nghĩ đến những thực hành này, chúng ta thường coi đó là những ràng buộc nặng nề, làm giảm tự do ngăn cản ham muốn hưởng thụ của chúng ta. Tuy vậy, những việc đạo đức của Mùa Chay, nếu được thực hiện có ý thức, sẽ giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, sống đẹp lòng Chúa và sống tốt với anh chị em mình.
Bài đọc I trích sách Sáng thế giúp chúng ta rút ra bài học từ một biến cố trong quá khứ. Đây cũng là một kinh nghiệm về lòng từ bi hay thương xót của Thiên Chúa, mặc dù con người tội lỗi phản nghịch. Vào thời xa xưa, đã có lúc nhân loại trở nên xấu xa và đầy tội lỗi. Chúa đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi cả dòng giống con người. Tác giả sách Sáng thế diễn tả với nỗi đau đớn: “Thiên Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất” (St 5,6). Ngài đã muốn dùng cơn Đại hồng thủy để xóa đi loài người và mọi loài thụ tạo, để thiết lập một dòng giống mới, tinh tuyền thánh thiện hơn. Dòng giống này phát sinh từ gia đình ông Nôê, người sống đạo đức và kính sợ Chúa. Bằng con tàu khổng lồ ông đã chuẩn bị theo lệnh truyền của Chúa, gia đình ông và các loại có cây, súc vật, chim trời đã trở thành những nhân tố đầu tiên của cuộc sáng tạo mới sau khi nước hồng thủy rút đi. Nước vừa có sức mạnh hung dữ nhấn chìm mọi tạo vật, vừa có khả năng làm sinh ra một thế hệ mới. Các hiền sĩ Do Thái đều nhìn nhận biến cố này diễn tả thân phận tội lỗi của con người và lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Đoạn sách Sáng thế chúng ta được nghe hôm nay là kế hoạch của Thiên Chúa sau khi nước hồng thủy đã rút đi. Thiên Chúa hứa với ông Nôê và các con ông: từ nay về sau sẽ không bao giờ tái diễn sự hủy diệt tàn khốc như vậy. Lời hứa của Chúa được gọi là giao ước, và được đánh dấu bằng cầu vồng trên các tầng mây. Sau này, thánh Phêrô và các nhà thần học đầu tiên của Giáo Hội đều giải thích Đại hồng thủy là hình bóng của bí tích Thánh tẩy (Bài đọc II). Thánh nhân còn diễn tả: “Lãnh nhận phép Rửa, không phải để được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô”. Nhờ dòng nước tái sinh, con người cũ của chúng ta đã chết đi để nhường chỗ cho con người mới, tức là con người được ân sủng của Chúa nâng đỡ và thánh hóa. Nhờ tình thương của Chúa, nhất là nhờ ơn cứu độ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã ký kết giao ước với con người một giao ước mới. Đây là giao ước được ký kết trong máu của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, để quy tụ muôn dân về một mối, làm thành gia đình của Thiên Chúa có Chúa Giêsu là trưởng tử.
Việc cảm nhận thân phận tội lỗi sẽ dẫn chúng ta tới sự sám hối chân thành để cầu xin ơn tha thứ của Chúa. Những thực hành đạo đức của Mùa Chay sẽ giúp chúng ta lãnh nhận ơn tha tội, được trở nên con người mới. Chúa nhật đầu tiên này của Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng vào sa mạc với Chúa Giêsu để tìm lại chính mình. Bởi lẽ, giữa biết bao bon chen giành giật của cuộc sống, nhiều khi chúng ta trở thành vong bản, tức là đánh mất bản thân, sống trong lầm lạc, không có định hướng và tương lai. Khi diễn tả Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” trong sa mạc, Thánh Máccô giúp chúng ta liên tưởng tới khung cảnh vườn địa đàng thuở ban sơ, ở đó, mối tương quan Thiên Chúa – Con người và Tạo vật rất hài hòa êm đẹp, niềm vui và hạnh phúc luôn tràn trề viên mãn. Nếu biết sống tinh thần sa mạc giữa lòng đời, chúng ta sẽ được gặp Chúa, được tâm sự với Ngài và được Ngài hướng dẫn, giúp chúng ta bước theo đường ngay nẻo chính. Thực hành tốt những việc đạo đức của Mùa Chay (cầu nguyện, chay tịnh và bác ái) chính là sống tinh thần sa mạc, nhờ đó, chúng ta trở nên giống Chúa Giêsu, để cùng với Người đem phần rỗi cho anh chị em. Tinh thần sa mạc giúp ta có sức mạnh để chiến thắng cám dỗ đang bủa vây xung quanh chúng ta.
“Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Đó là lời rao giảng mở đầu trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Hai ngàn năm đã qua, lời kêu gọi này vẫn mang tính cấp bách. Bởi lẽ con người khước từ lời Chúa, chuộc sống gian dối hơn là sự thật; thích chiều theo lối sống thế gian hơn là hy sinh để nên trọn lành. Nhờ sám hối, chúng ta được hòa giải với Chúa và với anh chị em, để cùng nhau tiến bước trên con đường về nhà Cha, Đấng luôn yêu thương và chúc phúc cho chúng ta.
5.Nơi hoang địa--GM. Arthur Tonne
Richar Miller là một học sinh cấp ba vào thập niên đầu của thế kỷ 20. Chàng là một thanh niên hay chống đối, coi thường quyền bính. Chàng yêu say đắm một cô gái lối xóm tên là Muriel Mc. Comber. Cha nàng sợ lối sống lập dị của Richar nên cố gắng dập tắt mối tình lãng mạn ấy.
Thất vọng, Richar lui tới một quán rượu, chàng gặp một phụ nữ tên Belle. Theo ngôn ngữ thời ấy người ta gọi là “Flirt” (gái giang hồ). Một người đàn bà đùa dỡn với tình yêu không đứng đắn. Richar uống rượu và đánh lộn với một thương gia và bị tống cổ ra khỏi quán rượu. Cha của Richar hiểu và thông cảm với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại quân bình. Nhờ một tin mật, Richar được biết Muriel thực sự yêu chàng. Chàng quyết định hối cải và đợi nàng.
Đó là cốt truyện một vở hài kịch Eugne - O’neil viết vào năm 1933 tựa đề “Ah Wilderness “ (Nơi hoang tàn) vở kịch được trình diễn rộng rãi vì nó phát hoạ một hoàn cảnh chung, rất nhân bản trong đời sống hàng ngày, nó vẽ nên phần nào cảnh hoang dại mà chúng ta đang sống.
Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Đức Giêsu đã ở trong sa mạc, nơi hoang dã 40 ngày đêm. Đó là lý do cho 40 ngày mùa chay. Sa mạc là nơi trú ẩn của thần dữ. Thú dữ, tượng trưng cho sự dữ mà Đức Kitô đã đến chế ngự. Tại sao chúng ta đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay. Có gì liên hệ giữa nơi hoang dã Chúa Giêsu đã sống trong Mùa chay đầu, với bạn và tôi trong Mùa chay này. Đơn giản thôi, chúng ta đang sống trong một nơi “hoang dã” một thế giới ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa hơn sự tàn bạo của con người thời đại - sát nhân không gớm tay cướp giật, đốt nhà, ngược đãi trẻ em. Có con thú dữ nào giết hại hàng triệu người mỗi năm? việc phá thai làm đúng như thế đó. Thú dữ hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huỷ không những sự sống thể xác, mà còn đặc biệt sự sống tinh thần của những người gần chúng ta và thân yêu của chúng ta nữa; Xin kể một vài con thú xấu xa đó: người quảng cáo ma tuý, người xuất bản sách báo đồi truỵ, những tác giả chuyện phim và chương trình truyền hình.
Không có cách nào để kiềm chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn này sao? Dạ có, phương cách của Đức Giêsu có nhiều sự dữ Chúa Kitô đến cứu chữa. Lý do chính Chúa vào nơi hoang địa là để chiến thắng những sự dữ này bằng đền tội và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng sự dữ trong thế giới ngày nay. Chỉ bằng lời cầu nguyện xin Chúa giúp, bằng sự hy sinh để tỏ lòng mến Chúa. Chúng ta có thế kiềm chế, thuần hoá những thú dữ ở giữa chúng ta. Chúng ta cũng có thể kiềm chế những thú tính trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Thời gian bắt đầu việc này là mùa chay. Trong tinh thần chúng ta hãy cùng sống với Đức Giêsu trong “hoang địa” ngày nay. Với Người, chúng ta thống hối và cầu nguyện. Như thế, cũng như người đã chiến thắng sự dữ trong thời của Người, chúng ta cũng sẽ chiến thắng sự dữ trong hoang địa hiện đại của chúng ta. Xin Chúa chúc lành bạn.
6.Chúa Nhật I Mùa Chay--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
“Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ”
1. Hoang địa
Tại sao Thần Khí đưa Đức Giê-su vào sa mạc hay hoang địa, chứ không phải là nơi nào khác? Đó là vì, trong bối cảnh lịch sử cứu độ và nhất là khởi đi từ kinh nghiệm Xuất Hành và hành trình tiến về Đất Hứa của Israen, hoang địa là nơi Thiên Chúa dẫn con người vào để gặp gỡ Ngài. Và để gặp gỡ Ngài, con người phải bỏ lại tất cả phương tiện, công việc, những lo lắng, những ràng buộc, những ngẫu tượng hay thần tượng như tiền bạc, danh vọng, lạc thú, để được tự do và bình tâm. Như xưa kia, Dân Chúa đã phải bỏ lại “Ai Cập” và tất cả những gì thuộc về “Ai Cập” ở đàng sau. Nhưng như chúng ta đều biết, điều này không dễ dàng, vì họ bỏ ra đi, nhưng trong lòng còn đầy quyến luyến.
Vì thế, hoang địa còn là nơi của thử thách, nhất là thử thách về lòng tin. Thật vậy, hoang địa là nơi không nhiều lương thực hay nước uống, để con người chỉ sống bằng của ăn, của uống, như là ơn Chúa ban từng ngày, giống như em bé được mẹ nuôi nấng từng ngày. Đó cũng chính là trường hợp của chúng ta trong thời gian tĩnh tâm, hay cách chúng ta sống bốn mươi ngày của Mùa Chay. Ngoài ra, hoang địa còn là nơi không có đường đi, để chỉ nhận Lời Chúa là:
Ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường cho con đi.
(Tv 119, 105)
Trong biến cố chịu phép rửa, Đức Giê-su được nhìn nhận là Con Thiên Chúa; nhưng điều này không miễn cho Người khỏi chịu thử thách trong hoang địa, do chính Thần Khí dẫn đưa. Đức Giê-su Ki-tô, dù là Con Thiên Chúa, vẫn để cho mình được dẫn đi chịu thử thách, dù mang thân phận Thiên Chúa, Người vẫn muốn chia sẻ thân phận đầy thử thách của loài người chúng ta. Trong khi đó, loài người chúng ta lại ham muốn thân phận thần linh của Ngài, khi tin và làm theo lời của Ma Quỉ: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (St 3, 4-5)
Ngài chịu thử thách để cảm thông với thân phận và số phận đầy thử thách của loài người và từng người chúng ta, và nhất là để chia sẻ chiến thắng thử thách cho chúng ta; bởi vì cả loài người và từng người chúng ta, không ai đứng vững được trước thử thách. Hình ảnh Đức Giê-su sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người, diễn tả và loan báo chiến thắng của Đức Giê-su đối với thú tính, Xa tan, sự dữ và sự chết.
Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.
(c. 12-13)
2. “Chịu Xa tan cám dỗ”
Sau khi chịu phép rửa, “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ.” “Cám dỗ”, trong tiếng Hi lạp, còn có nghĩa là “thử thách”. Tương tự như trong tiếng Anh hay tiếng Pháp, động từ to tempt hay tenter vừa có nghĩa là “cám dỗ” vừa có nghĩa là “thử thách”; tùy theo chủ thể hay nội dung mà chúng ta hiểu đó là cám dỗ hay thử thách.
* Thiên Chúa thử thách con người (chứ không thể cám dỗ!); còn Xa tan thì cám dỗ. Và con người cũng thử thách Thiên Chúa nữa; như Đức Giê-su nói với Xa tan trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Mt 4, 7); và như Dân Chúa trong sa mạc, thử thách Đức Chúa tới mười lần (x. Ds 14, 22).
* Và khi cám dỗ liên quan đến lòng tin, chứ không phải là các vấn đề luân lí (trộm cắp, giết người…) hay dục vọng, thì nên dịch là thử thách. Trong trường hợp của Đức Giê-su, Xatan “cám dỗ” Ngài về lòng tin mà Đức Giê-su đặt để nơi Thiên Chúa, chứ không phải là hay không thể là vấn đề luân lí hay giới tính (x. Mt 4, 1-11). Tương tự như Dân Chúa trong sa mạc, họ chịu thử thách về lòng tin. Bởi vì, theo sáng Sáng Thể (x. St 3) mặc khải cho chúng ta về tội nguyên tổ, thái độ nội tâm nghi ngờ Thiên Chúa, không tin Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ngay trong lòng của mình, mới là gốc của mọi tội, tội luân lí hay dục vọng.
Thiên Chúa “thử thách” con người, không chỉ qua những biến cố cuộc đời, nhưng qua chính thân phận và ơn gọi làm người, nhưng với mục đích khác hẳn. Giống như những thử thách trong sư phạm huấn luyện, đó chính là để cho chúng ta lớn lên trong tương quan tình yêu và nhưng không với Chúa. Còn Ma Quỉ, và những người hành động theo Ma Quỉ, ý thức hay không ý thức, thử thách người khác nhằm mục đích lên án; theo nghĩa này “thử thách” được gọi là “thử” hay “giăng bẫy”, như những người Pha-ri-sêu và luật sĩ hay làm để hại Đức Giê-su. Và ở mọi thời, nhất là thời nay, người ta hay làm hại nhau theo kiểu này[1].
Ngoài ra, loài người chúng ta cũng “chuyên môn” thử thách Chúa và thử thách nhau; trong trường hợp này, thử thách có nghĩa là: không tin, nên thử cho biết. Nhưng vì đã không tin, nên loài người chúng ta sẽ thử thách Chúa và thử thách nhau không cùng (rõ nhất là trường hợp của người ghen tương). Bởi lẽ, tin không phải đến từ biết, vì người ta không biết hết về Chúa và về nhau, nhưng đến từ quyết định tự do của con tim; tin là quà tặng của con tim (điều này được minh họa thật rõ trong tình yêu nam nữ).
Công trình của Thiên Chúa là con người tin vào Đấng Ngài sai đến (x. Ga 6, 29 theo bản văn Hi-lạp). Tin là cả một công trình; chính vì thế, công trình của ma quỉ cũng phải là làm cho con người không tin, nghi ngờ; và không tin vào Thiên Chúa, sẽ tất yếu tin vào những điều khác, thuộc về ma quỉ và sự chết. Không tin nơi Thiên Chúa, thì người ta sẽ thuộc về sự chết, làm việc sự chết, bởi vì sự chết là mạnh nhất, có khả năng xí xóa tất cả, giải quyết mọi vấn đề, và nhất là làm cho mọi người “huề cả làng”.
3. “Sau khi ông Gio-an bị nộp”
“Sau khi ông Gioan bị nộp”, điều này có nghĩa là bị bắt, bị giam và bị giết một cách bất công. Đó là kế hoạch của con người phát xuất từ lòng ghen ghét đi đôi với bạo lực, không chấp nhận những gì thuộc sự thật và ánh sáng. Nhưng đồng thời đó cũng là, một cách mầu nhiệm, “kế hoạch của Thiên Chúa”, như Thiên Chúa đã hành động trong lịch sử cứu độ, và vẫn còn hành động như thế; Ngài nương theo hành trình của sự dữ và tội lỗi để thực hiện kế hoạch của mình. Thật vậy, sự kiện Gioan bị nộp (in divine passive) lại loan báo mầu nhiệm Thương Khó của Đức Giê-su, như lời truyền phép trên bánh trong Thánh Lễ: “Anh em hãy nhận lấy mà ăn. Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em”.
Và ngay sau khi Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến những kinh nghiệm “bị nộp’ nho nhỏ hằng ngày của chúng ta: đó là những lúc chúng ta bị coi thường, không được tôn trọng, bị hiểu lầm, bị phân biệt; và những kinh nghiệm “bị nộp” lớn hơn: bị ghét, bị loại trừ, bị bách hại. Nhưng đó lại là là những cơ hội tốt, Chúa mời gọi để chúng ta công bố Tin Mừng của Thiên Chúa, làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, bày tỏ lòng thương xót và bao dung của Thiên Chúa: “Người ta sẽ nộp anh em…, nhưng đó là cơ hội làm chứng cho họ được biết” (Mc 13, 9). Hay đúng hơn, đó là những cơ hội để cho Đức Kitô đến công bố Tin Mừng của Ngài ngay trong những khó khăn và thử thách của chúng ta.
------------
[1][1] Trong tòa án Thượng Hội Đồng, câu hỏi của vị Thượng Tế: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26, 63), cũng là một hành động giăng bẫy. Trước đó, Đức Giê-su luôn phá bẫy người ta giăng ra, nhưng lần này, Ngài để cho mình bị mắc bẫy và bị kết án: “Hắn nói phạm thượng… Hắn đáng chết” (c. 65-66). Đó thực sự là cái bẫy chết người, vì mang dáng vẻ bề ngoài “đi tìm sự thật”, hơn nữa còn đưa cả “Thiên Chúa Hằng Sống” vào làm “mồi” giăng bẫy! Biến Thiên Chúa thành “mồi giăng bẫy”, với ý đồ giết chết, đó mới là phạm thượng! Giống như Con Rắn nói với bà E-và: “Có thật Thiên Chúa bảo…” (St 3, 1). Vậy thì ai phạm thượng? Loài người chúng ta, ngang qua hình ảnh Vị Thượng Tế cao quí, hay Đức Giê-su trong cuộc Thương Khó? Giăng bẫy kiểu này, chính là hành động đặc trưng của Satan. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Cho bọn ác nhân mắc bẫy chính chúng gài, còn con đây thì được thoát khỏi” (Tv 141, 10; sách Các Giờ Kinh Phụng Vụ loại bỏ lời này; lời loan báo mầu nhiệm Vượt Qua!)
7.Sám hối và tin vào Tin Mừng--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Sám hối và tin vào Tin Mừng có thể diễn tả cụ thể như câu ca dao: “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần”. Hay câu: “Có công mài sắt, có ngày nên kim”. Muốn được ăn bát cơm dẻo thơm, nhà nông phải chịu biết bao nhiêu đắng cay, đổ ra bao nhiêu công sức gian khổ, muốn được cây kim xinh đẹp, người công nhân phải gò lưng mài dũa cây sắt han rỉ bao nhiêu ngày tháng!
Muốn tin được Tin Mừng, chúng ta phải sám hối với tâm hồn cay đắng, xót xa: “Họ phải thú nhận tội lỗi và ông Gioan làm phép rửa cho họ trong giòng sông Giócđan” (Mc. 1,5). Thú tội là việc làm cay đắng, xót xa, không còn lên mặt tự phụ và kiêu ngạo, chỉ còn khiêm tốn chôn mình dưới giòng sông, nơi sâu thẳm nhất, để chuẩn bị đón rước Tin Mừng Đấng Cứu Thế.
Ông Noe cũng phải thanh tẩy trong Đại hồng thủy sau một thời gian dầy công sám hối. Ông và cả gia đình sám hối bằng việc làm, bằng bao nhiêu ngày tháng gian khổ băng rừng đốn cây, chẻ gỗ đóng tầu. Một công việc to lớn kỳ dị bị chê cười, nhạo báng như một lũ điên không giống ai. Mặc cho thế gian nguyền rủa khinh bỉ, Noe tin vào Lời Chúa sống đức nghĩa vẹn toàn giữa những người đồng thời đầy tội ác. Noe hằng đi đứng rập theo ý Thiên Chúa (St. 6, 9), nên ông sẵn sàng chịu muôn ngàn đắng cay, muôn ngàn hy sinh để chiến thắng mọi thử thách cam go. Noe và gia đình đã thực sự sám hối bằng đức tin có việc làm, chứ không chỉ đau đớn hối hận. Nhờ đó, cả gia đình ông và bao nhiêu muôn chim cầm thú đã được cứu sống. Thiên Chúa đã ký kết với ông một giao ước mới. Ông là cha một dòng dõi mới, một dân tộc mới.
Noe và dòng dõi ông là hình bóng tạm thời của Đức Giêsu là đầu một dân tộc mới, một dân tộc trường tồn muôn đời, là dân Chúa, là Giáo hội Chúa Kitô.
Bài Tin Mừng và bài đọc 2 cho thấy rõ chân lý hiển nhiên đó. Đức Giêsu, dầu là Thiên Chúa, đã đến chịu phép rửa sám hối của ông Gioan, Người cũng phải khiêm tốn chôn mình dưới sông Giócđan. Hơn nữa, Người còn phải chịu rửa bằng Thánh Thần và lửa (Mt. 3, 11); “Thánh Thần đã thúc đẩy Người vào hoang địa, ở đó lâu ngày, chịu satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú”. Hoang địa là nơi phải sống khắc khổ, thiếu thốn, nghèo khổ, nhưng trong lành, và thanh thoát mọi tham lam phàm tục. Sống nghèo khó thì lại được chúc phúc: Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì nước Trời là của họ. Sống trong khóc lóc đắng cay thì lại được Thiên Chúa an ủi (Mt. 5, 3-5).
Satan là tướng quỷ dữ, gieo rắc chống lại Thiên Chúa, lôi kéo vào tội lỗi, vào cực hình. Phép rửa bằng Thánh Thần sẽ giúp chiến thắng Satan đem ta trở về Thiên Chúa, hướng dẫn ta vào con đường thánh thiện vinh phúc muôn thuở.
Sống giữa dã thú là sống giữa loài hung dữ, dã man, tàn ác, bằng phép rửa Thánh Thần sẽ thanh luyện ta sạch mọi dã man, gian tà, tội ác trở nên hiền hòa khả ái, nhân từ, yêu thương, an lành.
Đức Giêsu đã chịu phép rửa bằng Thánh Thần, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, trở nên Con chí ái của Đức Chúa Cha, mọi sự vâng theo thánh ý Cha như Người đã cầu nguyện: “Một theo ý Cha, đừng theo ý con”. Và Đức Chúa Cha đã hoàn toàn hài lòng về Người. Người không còn một chút bẩn nhơ bụi trần, hoàn toàn siêu thoát mọi tham lam, cho nên chiến thắng và tiêu diệt tướng quỷ dễ dàng. Người sống giữa những quân thù như dã thú mà vẫn vô cùng dịu dàng nhân ái, không ai nghe thấy tiếng Người dức lác, Người không bẻ gẫy cây sậy đã dập, không nỡ tắt tim đèn còn khói.
Thánh Phêrô còn nói: “Đức Kitô đã chịu chết vì tội chúng ta, Đấng công chính đã chết cho kẻ bất chính. Thân xác Người bị giết chết, nhưng nhờ Thánh Thần Người được phục sinh … Nhờ sự phục sinh của Đức Kitô, Người đã tiêu diệt sự chết cho chúng ta được hưởng sự sống đời đời”.
“Đức Kitô đã chịu chết”, đó chính là phép rửa bằng lửa. Lửa bừng lên trong trái tim Người vì yêu thương chúng ta. Người đã nói: “Không có tình yêu cao quý nào bằng tình yêu chết cho người mình yêu”. Lửa tình yêu mà Đức Giêsu đã thực hiện như Người nói: “Thầy đem lửa đến trần gian, Thầy ước mong lửa ấy bừng lên. Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc. 12, 49-50).
Đức Giêsu đã khắc khoải sám hối thay cho nhân loại qua chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa. Người đã hoàn tất. Các Tông đồ cũng đã chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần (Lễ Hiện Xuống). Thánh Thần đã thúc đẩy các ông đem lửa tình yêu của Đức Giêsu bừng cháy lên, tỏa sáng khắp thế gian, hoang địa và đã chiếu tỏa trên chúng ta, thúc đẩy chúng ta sám hối và tin vào Tin mừng. Để chúng ta cũng được chịu phép rửa bằng Thánh Thần và lửa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng kiên tâm sám hối và tin vào Tin mừng, cho chúng con được thanh tẩy, để sống trong Thánh Thần và trong lửa tình yêu của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
8.Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật thứ nhất mùa chay. Giáo Hội giúp chúng ta cảm nhận tình yêu Thiên Chúa với chúng ta qua việc nhìn ngắm Đức Giêsu sống thân phận con người.
I. Cám dỗ nơi con người và nơi Đức Giêsu
Đức Giêsu mà cũng bị cám dỗ sao?
Ngài chấp nhận sống với dã thú sao?
Là người, nghĩa là, với thể xác và tinh thần, con người luôn có thể bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều này.
Cám dỗ là khuynh chiều đòi thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác và của tinh thần, không muốn đáp trả tiếng gọi từ trên. Chẳng hạn người ta nhận thấy nơi mình những đòi hỏi của thân xác về tính dục hay khuynh hướng muốn mình giầu hơn người khác, hoặc những đòi hỏi của tinh thần muốn mình trổi trang hơn người khác...
Khuynh chiều đi tìm và dừng lại nơi danh lợi tiền bạc địa vị, không muốn vươn lên điều tốt hơn nhưng dừng lại ở cái tầm thường, đó là những cám dỗ thường xảy ra trong đời mỗi người.
Muốn trổi trang, không là tội, nhưng còn là điều tốt. Chỉ xấu, chỉ là tội, khi mình coi mình là nhất, đòi mình trên người khác hoặc trên Thiên Chúa, và xúc phạm người khác.
Không ai thoát cám dỗ, nhưng con người tự do trước cám dỗ, con người có thể không thuận theo cám dỗ. "Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?". "Ơn Ta đủ cho con" (2Cor.12, 8-9).
Chúa không hứa cho chúng ta khỏi bị cám dỗ, nhưng Chúa hứa sẽ giải phóng chúng ta, nếu chúng ta bám vào Ngài: "cứ xin thì được, tìm sẽ gặp, gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mt.7,7).
Thiên Chúa là tinh thần, Ngài mời gọi con người vươn lên Ngài qua những giá trị tinh thần con người thấy được qua lý trí.
II. Phép rửa khởi đầu đời sống mới
Dù chúng ta có thuộc về thế gian và ma qủy trong những chọn lựa ở qúa khứ, thì bây giờ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở lại, để chúng ta khởi đầu một đời sống mới, hầu chúng ta sống hạnh phúc.
Đức Giêsu đã chịu phép rửa ở sông Yordan (Mc.1, 9), và Ngài cũng đã chịu một phép rửa rất đặc biệt (Lc.12, 50). Mỗi người chúng ta cũng đã chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa (Mt.28, 19), chính phép rửa này đã làm chúng ta thành một thụ tạo mới.
Phép rửa đã làm chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa, chúng ta là tạo vật mới, được được Thiên Chúa cứu chuộc qua Đức Giêsu Kitô. Nhận phép rửa nhân danh Đức Giêsu, là dìm mình trong cái chết của Ngài và sống lại trong sự sống của Ngài.
Với phép rửa, Thiên Chúa ghi ấn tín trong tâm hồn chúng ta, dấu chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
III. Giao ước biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa
Con người là gì mà Thiên Chúa phải ký kết giao ước với! Chẳng lẽ người nặn bình gốm lại phải ký kết với bình gốm?
Thiên Chúa ký kết giao ước với con người, để không bao giờ tiêu diệt con người nữa! Ôi tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật tuyệt vời biết bao. Những gì Thiên Chúa đã nói, thì Ngài trung thành thực hiện, không bao giờ thất tín. Ngài vẫn trung thành dù con người có bất trung phản bội.
Tình thương của Thiên Chúa đối với con người, được thể hiện trong suốt dòng lịch sử. Lịch sử ghi dấu con người phản bội, nhưng lịch sử lại ghi dấu tình thương nhân từ tha thứ cho con người. Lịch sử, là lịch sử Thiên Chúa cứu độ con người.
Lịch sử đánh dấu những giao ước Thiên Chúa thực hiện đối với con người. Lịch sử cũng cho thấy Thiên Chúa điều khiển dòng lịch sử, can thiệp vào lịch sử dân Do thái để cứu dân, và qua đó cứu độ tất cả loài người.
Biến cố Đức Giêsu Kitô, là biến cố đỉnh cao cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Cũng với chính Đức Giêsu, con người tìm được con đường để nên thánh, con người được bảo đảm mình được yêu thương và sẽ là thánh, được thuộc trọn về Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài bị cám dỗ, Ngài vượt qua, "Ngài là đường, là sự thật và là sự sống". Ngài là thầy, và không có Ngài, không có ai là thầy đích thực. Nếu có ai trên trần gian này là thầy, là người đó được tham gia "chức thầy" của Đức Giêsu.
Chúa Giêsu là mẫu mực, là thầy dạy của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được theo gương Ngài, được hoàn toàn tin tưởng và phó thác tất cả cho Ngài.
9.Hãy sám hối--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Yêsu: “Thời điểm đã đến, Nước Trời đã gần bên, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
1. Đã đến thời: đây là thời ân sủng, đây là ngày cứu độ
Ngày xưa thời Noah, Thiên Chúa đã dủ lòng thương xót cứu một số nhỏ tám người khỏi chết vì nước lụt. Và rồi qua biến cố đó, Thiên Chúa đã hứa sẽ không bao giờ hủy diệt loài người bằng nước lụt như vậy nữa. Thiên Chúa đã lập giao ước với loài người và với mọi sinh vật. Cầu vồng là dấu chỉ của giao ước giữa Thiên Chúa cùng Noah và mọi sinh vật. Cầu vồng là dấu chỉ nhắc nhớ để Thiên Chúa không hủy diệt con người cho dù con người có phạm tội. Cầu vồng là dấu chỉ và bảo đảm tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Thời điểm hiện tại, hôm nay, còn có điều quý hơn cầu vồng rất nhiều. Đó là lý do Đức Yêsu nói: “thời đã đến.” Ngày xưa cầu vồng là dấu chỉ và bằng chứng Thiên Chúa không hủy diệt con người ngay cả khi người ta phạm tội, thì hôm nay “có điều gì đó” bảo đảm Thiên Chúa không chỉ không hủy diệt con người, nhưng còn cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người nữa. Thánh Phaolô diễn tả thời điểm này bằng câu: “Đây là ngày giải phóng, đây là thời cứu độ.” Cái gì rất quý đã xuất hiện; và “điều quý” đó cho thấy Nước Thiên Chúa đang tới.
Đức Yêsu xuất hiện như dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Qua Đức Yêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa không chỉ không hủy diệt con người khi con người phạm tội đáng chết, nhưng còn nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa. Đức Yêsu là dấu chỉ và là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Đức Yêsu là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở giữa con người: Nước Trời đang đến gần. Hãy trở lại với Thiên Chúa, vì Nước Trời đang đến gần, vì Thiên Chúa đang yêu thương con người.
2. Hãy sám hối
Đức Yêsu trước khi đi rao giảng, Ngài đã tới sông Yordan cúi đầu nhận phép rửa thống hối từ tay Yoan Tẩy Giả. Đức Yêsu sám hối không phải vì tội lỗi của Ngài, nhưng Ngài là Đấng gánh tội trần gian, nên Ngài đại diện con người cúi đầu sám hối trước Thiên Chúa. Sám hối là nhận biết mình lỗi lầm, sai phạm, xúc phạm đến Thiên Chúa và anh chị em, để trở lại với Thiên Chúa và với anh chị em, để xin lỗi Thiên Chúa và anh chị em mình, để bắt đầu một đời sống mới.
Tội là lỗi đức công bình, vi phạm quyền lợi của người khác, xúc phạm đến ngôi vị khác, dù đó là Thiên Chúa hay con người. Thiên Chúa tạo dựng nên con người, nên theo công bằng, con người phải tôn kính Thiên Chúa như Đấng tạo dựng. Con người phải tùy thuộc Thiên Chúa như Đấng tạo dựng nên mình, đó là công bình. Nếu con người muốn độc lập với Thiên Chúa, là phủ nhận quyền tạo dựng của Thiên Chúa, là bất công với Thiên Chúa. Mười giới răn Thiên Chúa, là những giới hạn cho con người biết mình đã vi phạm quyền lợi của ngôi vị khác, dù của Thiên Chúa hay của con người. Chẳng hạn, cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng mình, thì mình phải có thái độ tôn kính các ngài; không tôn kính các ngài, là không tròn đạo hiếu, là lỗi đức công bình đối với cha mẹ. Mỗi người đều được quyền sống hạnh phúc như Thiên Chúa muốn, nếu ai không nói sự thật, lường gạt người khác và làm tổn thương người ta, là xúc phạm đến họ. Không ai được quyền bắt người khác nói điều họ không muốn; mỗi người cũng được quyền tự do làm theo điều mình muốn mà không xúc phạm đến quyền lợi của người khác.
Sám hối, là nhận ra sự thật về chính mình; nhận ra và thú nhận mình đã xúc phạm đến Thiên Chúa và con người, muốn bắt đầu lại cuộc sống mới, hoàn trả lại cho Thiên Chúa và cho tha nhân điều những ngôi vị đó có quyền được, đó là sám hối. Không thể coi là sám hối nếu không thấy mình thực có lỗi; nếu cứ xin lỗi mà không thật sự thấy mình có lỗi, e rằng đó không là hành vi khiêm tốn thật sự. Đức Yêsu chịu phép rửa sám hối, vì Ngài gánh tội trần gian; Ngài thấy Ngài cần sám hối vì Ngài đại diện tất cả con người.
3. Tin vào Tin Mừng
Nước Thiên Chúa đã gần, là cách nói để chỉ Thiên Chúa đang hiện diện, cần con người đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, để Thiên Chúa hiện diện nơi lòng mình, và qua mình để Thiên Chúa hiện diện trong môi trường mình sống, với những người mình tiếp xúc. Thiên Chúa vẫn hiện diện ở khắp mọi nơi và ở mọi thời điểm, qua thiên nhiên và mọi tạo vật như dấu chỉ của Ngài. Tuy nhiên, qua Đức Yêsu, Thiên Chúa hiện diện với con người một cách rất đặc biệt. Chính Đức Yêsu cũng ý thức điều này ở những giây phút cuối đời Ngài: “ai thấy thầy là thấy Cha.”
Sám hối, trở lại với Thiên Chúa và con người, là điều kiện cần để con người có thể đón nhận Tin Mừng là chính Đức Yêsu Kitô. Đón nhận Đức Yêsu, cũng là đón nhận lời rao giảng của Ngài, là để Ngài giáo huấn hầu trở nên con Thiên Chúa, để có thể sống hạnh phúc không chỉ đời sau nhưng ngay hiện tại. Đức Yêsu là đường, là sự thật, và là sự sống. Đức Yêsu như người mẫu, sống theo Ngài con người sẽ tìm được bình an và hạnh phúc thật sự.
Đức Yêsu là Tin Mừng cho con người không chỉ từ khi Ngài sống lại, nhưng Ngài là Tin Mừng cho con người ngay từ biến cố nhập thể. Đức Yêsu là Tin Mừng Thiên Chúa ban cho con người; điều này con người vẫn phải tin chứ không thể chứng minh như một chân lý toán học. Những lý chứng về Đức Yêsu chỉ có tính gợi ý và soi sáng. Mỗi người đều phải tin và phó thác cho Thiên Chúa khi tin Đức Yêsu là Thiên Chúa nhập thể và là Tin Mừng cho tất cả con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đâu là điểm yếu của bạn, dễ làm bạn xúc phạm Thiên Chúa và con người nhất?
2. Bạn có cảm thấy tâm tình sám hối, muốn bắt đầu một đời sống mới trong Thiên Chúa không? Xin chia sẻ điều này.
10.Chỉ vì thương nên Thiên Chúa đơn phương ban ơn cho loài người--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Chỉ vì thương nên Thiên Chúa đơn phương ban ơn cho loài người (Mc 1,15)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Mùa Chay là "lúc thuận tiện" để lãnh nhận ơn Chúa, là "thời cứu độ". Nhưng để có thể lãnh nhận ơn Chúa, chúng ta phải "sám hối và tin vào Tin Mừng".
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa và xin Ngài giúp chúng ta thực hiện lời Ngài.
II. Gợi ý sám hối
· Chúng ta cứ sa đi ngã lại mãi trong tội. Phải chăng vì chúng ta chưa thực lòng sám hối?
· Chúng ta có biết rằng phạm tội là để mình bị trói buộc trong xiềng xích của Satan không?
· Chúng ta có ý thức rằng phạm tội là phụ bạc với tình yêu của Đức Giêsu, Đấng đã chịu chết vì tội chúng ta không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: St 9,8-15
Sau cơn hồng thuỷ (theo St 7,12 thì kéo dài 40 ngày), Thiên Chúa lập giao ước với Nôê.
· Nội dung giao ước: sẽ không còn xảy ra một tai họa nào tương tự như thế nữa cho loài người.
· Kẻ được hưởng giao ước: "mọi xác phàm", tức tất cả các sinh vật.
· Điều kiện: đây là một giao ước đơn phương. Chỉ một mình Thiên Chúa cam kết với loài người; loài người không bị buộc điều gì cả.
· Dấu chỉ giao ước này: cầu vòng trên trời.
2. Đáp ca: Tv 24
Tv 24 là lời cầu nguyện của một người công chính: ông bày tỏ niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa; ông xin Chúa cho biết đường lối của Ngài.
Tv này áp dụng rất đúng cho Nôê: Ông là người công chính được Chúa cứu khỏi nạn hồng thuỷ và dẫn đưa ông tới một thế giới mới.
Tv này cũng có thể dùng làm lời cầu nguyện cho các tín hữu bước vào Mùa Chay: cũng như Nôê, họ bước vào thời gian thử thách 40 ngày; nếu họ theo đường lối Chúa thì họ sẽ tới được một thế giới mới và lập giao ước mới với Chúa.
3. Tin Mừng: Mc 1,12-15
Đoạn Tin Mừng này có 2 ý lớn:
a/ Đức Giêsu ăn chay: Ngài ăn chay 40 ngày (như thời gian xảy ra cơn lụt). Trong thời gian đó Ngài tìm hiểu đường lối Thiên Chúa (như Tv 24), và sau đó Ngài bắt đầu sứ vụ công khai.
b/ Đức Giêsu loan báo Tin Mừng: "Thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".
4. Bài đọc II: 1 Pr 3,18-22
Thánh Phêrô nhắc lại chuyện Hồng thuỷ xưa và coi đó là hình bóng của phép rửa tội: Ngày xưa Thiên Chúa nhân từ đã cứu sống Nôê và gia đình; ngày nay phép rửa cũng cứu thoát con người như vậy nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Quà và ơn
Sứ điệp thứ nhất mà Phụng vụ Lời Chúa Mùa Chay gởi đến chúng ta là: Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta.
Người ta thường tặng quà vào những dịp nào? Những dịp tặng quà là Tết, đám cưới, sinh nhật v.v. Thường thì ai tặng quà cho ai? Người tặng quà thường là người có liên hệ tình nghĩa thế nào đó với người được tặng, chẳng hạn cấp dưới đối với cấp trên, học trò đối với thầy cô, người chịu ơn đền đáp cho người thi ơn. Vì thế có thể nói "quà" thường là thứ "có qua có lại".
Khi "có qua" mà không "có lại" thì gọi là "ơn" (Tiếng hy lạp Charis luôn bao hàm tính cách miễn phí). Các bài đọc hôm nay kể đến 2 ơn mà Thiên Chúa ban cho loài người:
· Ơn ban sự sống (xem phần giải thích bài đọc I): vì loài người tội lỗi nên bị phạt phải chịu nạn hồng thuỷ. Nhưng Thiên Chúa đã cứu sống gia đình ông Nôe. Sau khi cơn hồng thuỷ kết thúc, Thiên Chúa lập giao ước rằng từ nay sẽ không bao giờ Ngài cho xảy ra một đại họa như thế nữa. Đây là một giao ước đơn phương: Thiên Chúa không buộc loài người làm gì cả, chỉ một mình Ngài hứa và cam kết giữ lời hứa ấy. Sau này loài người lại tiếp tục phạm tội nhưng Thiên Chúa vẫn trung thành với lới cam kết đơn phương ấy.
· Ơn ban sự sống mới qua bí tích Rửa tội (Xem phần giải thích Bài đọc 2): chúng ta đâu có công gì để được ơn này, nhưng Thiên Chúa đã ban chỉ vì yêu thương chúng ta.
Khi nhận quà thì ta mừng, khi nhận ơn thì ta cảm động. Vậy, Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, chúng ta có mừng không? Và còn hơn quà nữa, Thiên Chúa luôn ban ơn cho chúng ta, chúng ta có cảm động không?
* 2. Ý nghĩa Mùa Chay
a/ Một thời gian cầu nguyện: Ngày xưa, Môsê đã ở trên núi Sinai 40 ngày, ngôn sứ Êlia cũng ở trên núi Horép 40 ngày. Trong thời gian đó, các ngài đã cầu nguyện và đã gặp được Thiên Chúa. Trong thời gian 40 ngày Mùa Chay, việc đầu tiên chúng ta phải để ý làm là cầu nguyện như các ngài.
b/ Một thời gian chiến đấu: Ngày xưa ông Nôê ở trong tàu 40 ngày chiến đấu với phong ba bão táp của cơn hồng thuỷ; Đức Giêsu sống trong sa mạc 40 ngày chiến đấu với những cơn cám dỗ của Satan. Noi gương các Ngài, chúng ta cũng hãy chiến đấu với những khuynh hướng xấu, những thói quen tội lỗi và những cám dỗ trong Mùa Chay này.
c/ Một thời gian sám hối và đón nhận Tin Mừng: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã mời gọi "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Sám hối là từ bỏ con đường sai lạc cũ để quay về con đường chính. Trong Mùa Chay, chúng ta cũng quan tâm hơn đến việc lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa.
* 3. Chiếc cầu vồng
Hình ảnh chiếc cầu vồng của bài đọc I vừa đẹp vừa gợi rất nhiều ý cho chúng ta suy gẫm trong Mùa Chay:
· Chiếc cầu vồng là một đường cong bắt đầu từ đất, vươn lên trời cao, rồi lại trở xuống mặt đất. Chính vì thế mà Thiên Chúa dùng nó làm dấu chỉ giao ước giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với loài người.
· Sau cơn mưa, trời lại sáng và chiếc cầu vồng xuất hiện rực rỡ. Như thế, chiếc cầu vồng còn là dấu chỉ giao ước được tái lập, trở lại tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu.
· Cầu vồng mang 7 sắc rất đẹp. Nó còn là dấu chỉ tương giao tốt đẹp giữa Thiên Chúa với con người.
Phải chăng mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa cũng rất tốt đẹp hồi thuở ban đầu, nhưng rồi do tội lỗi, chúng ta như rơi vào cơn bão lụt. Nhưng Thiên Chúa muốn cứu thoát chúng ta. Ngài kêu mời chúng ta tái lập liên hệ thân thương với Ngài trong Mùa Chay này, để rồi tình nghĩa giữa chúng ta với Ngài lại tươi đẹp như trước?
* 4. Thiên đàng đánh mất và thiên đàng gặp lại
Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào sa mạc.
Trong phòng triển lãm tưởng tượng của chúng ta hôm nay, có bày bức tranh tứ bình, gồm hai cặp tranh đôi một đối xứng. Hai bức đầu, một bên vẽ cảnh sa mạc hoang vắng, Chúa đang bị Satan thử thách. Một bên vẽ cảnh bình yên thanh thản. Chúa đang ngồi giữa bầy dã thú đã trở nên hiền như chiên cừu. Hai bức sau, bên phải vẽ cảnh vườn địa đàng tươi đẹp. Ađam Eva trẻ trung đầy sức sống vui hưởng những ngày hạnh phúc giữa một thiên nhiên hài hòa hoa thơm quả ngọt. Bên trái, vẫn là Ađam, Eva, nhưng khuôn mặt hốc hác, trán nhăn nheo ướt đẫm mồ hôi, dáng hao gầy mòn mỏi vì mệt nhọc và già yếu, giữa một thiên nhiên khô cằn gai góc.
Đó là thân phận con người sau khi sa ngã. Con người không còn thể sống hài hòa với Thiên Chúa, với thiên nhiên, với đồng loại và với chính mình.
Nhưng Đức Giêsu đã đến để đảo ngược tình thế. Ngài sống giữa sa mạc, một thiên nhiên thù nghịch. Ngài bị thử thách gay go. Nhưng rồi Ngài đã thắng nghịch cảnh và quỉ dữ: Ngài sống yên bình hài hòa giữa một vũ tụ đã được cảm hóa.
Chỉ bằng một câu ngắn, Marcô đã vẽ nên bức tranh tứ bình đó: "Ngài ở trong hoang địa bốn mươi này, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và các Thiên sứ hầu hạ Ngài".
Công trình tạo dựng thứ nhất của Thiên Chúa đã bị loài người phá hỏng. Chúa đến để tái tạo lại, làm công trình tạo dựng thứ hai. "Thời kỳ đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi. Anh em phải sám hối và tin vào Tin mừng".
Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, bắt đầu sứ vụ, Thần Khí Chúa đã ngự trên Ngài. Thần Khí ấy, cũng như trong ngày đầu cuộc tạo dựng, đang bay là là trên những vùng đất khô cằn khắc nghiệt, và hoang mạc đang dần dần trở nên xanh tươi, trổ hoa thơm quả ngọt.
Vậy ra thiên đàng mà Ađam và Eva đã đánh mất vẫn còn đó, phía trước mỗi người. Nếu chúng ta biết "sám hối" và tin vào Tin mừng Đức Kitô" chúng ta sẽ gặp lại thiên đường đã mất.
Mùa Chay 40 ngày thinh lặng sa mạc, hãy để lòng chúng ta lắng xuống để bị cám dỗ, bị lôi cuốn bởi lòng cậy trông hy vọng tìm lại thiên đường đã mất, nhờ Đức Kitô, Con Chúa, Chúa chúng ta.
5. Dã thú và thiên thần
Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay là một hình ảnh rất lạ: "Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người"
Câu này gồm 2 phần mang hai sắc thái khác hẳn nhau nhưng có liên hệ nhân quả với nhau:
· Phần đầu là một cảnh khó khăn "Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ": Đức Giêsu bị Satan cám dỗ, như ngày xưa hai nguyên tổ Ađam Evà trong vườn Địa Đàng, và như dân Do Thái trong sa mạc. Nhưng Ngài chiến đấu với những cám dỗ đó và đã chiến thắng.
· Phần sau là một cảnh thoải mái "sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người": (1) Trước khi hai nguyên tổ phạm tội, các ngài đã sống an hòa giữa các dã thú (xem St 2,19-20); Sau này khi mơ tới ngày tìm lại địa đàng đã mất, ngôn sứ Isaia cũng tưởng tượng cảnh con người và dã thú sống chung hòa thuận với nhau (xem Is 11,6-8: "Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng... Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang..."; (2) Còn về hình ảnh các thiên sứ hầu hạ, Tv 91,9-12 hiểu rằng đó là ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho người nào biết nương tựa nơi Ngài ("Vì ngươi đã chọn Giavê làm nơi ẩn náu, Đấng Tối cao làm chốn dung thân... nên Người ra lệnh cho các thiên thần gìn giữ ngươi trên mọi lối ngươi đi..."
Vì Đức Giêsu đã chịu cám dỗ và chiến thắng chúng nên Ngài được hưởng sự an vui như đang sống trong vườn địa đàng và được Thiên Chúa đặc biệt che chở giữ gìn. Phần thưởng của Đức Giêsu khuyến khích chúng ta can đảm chiến đấu với các cám dỗ.
6. Cạm bẫy
Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông làm áo da thú.
Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.
Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.
Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.
*
Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mù quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.
Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trên giòng đời.
Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: "Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ" (Mc.1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đời, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: "Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ".
Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.
Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ, chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.
Nếu thế giới đầy hình ảnh vẫn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.
Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: "Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình". Vì chưng có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
*
Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
7. Đổi mới
Một hôm nhà vua đang đi dạo trên đường phố thì gặp một người ăn mày ngửa tay xin tiền. Nhà vua không cho tiền nhưng mời anh đến thăm hoàng cung. Khi vào tới hoàng cung rồi, người ăn mày vô cùng bối rối vì thấy quần áo rách rưới của mình quá tương phản với những y phục lộng lẫy của những người trong triều. Biết thế, nhà vua tặng cho anh một bộ quần áo mới.
Ít lâu sau nhà vua lại dạo phố, lại gặp người ăn mày này và ngạc nhiên khi thấy anh lại mặc bộ quần áo rách rưới trước kia. Tìm hiểu lý do thì nhà vua biết được rằng sở dĩ anh không mặc quần áo mới vì nếu như thế thì anh không thể tiếp tục sống bằng nghề cũ là ăn xin được nữa. Anh đã quá quen sinh sống bằng nghề ăn xin rồi, đến nỗi nay không biết phải làm gì nếu không tiếp tục ăn xin.
Câu chuyện trên muốn nói rằng thay đổi áo quần thì dễ nhưng thay đổi cách sống rất khó; thay đổi bên ngoài thì nhanh nhưng thay đổi bên trong rất chậm; và nhất là rất khó thay đổi thói quen.
Mùa Chay kêu mời chúng ta đổi mới, không chỉ đổi mới bên ngoài mà phải đổi mới tận bên trong con người mình, đặc biệt là thay đổi những thói quen xấu đã ăn rễ rất sâu trong con người chúng ta.
8. Mùa Chay và Mùa Xuân
Mùa Xuân là mùa đổi mới: cỏ cây hoa lá đâm chồi, nẩy lộc và ra hoa. Nhưng muốn có thế thì trước đó chúng phải chịu đựng một mùa thu ảm đạm, lá rụng, cành xơ xác... rồi một mùa đông trơ trụi, lạnh giá.
Mùa Chay đến đúng vào Mùa Xuân và cũng chính là Mùa Xuân của tâm hồn, có thể biến chúng ta thành những con người mới.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng sợ hãi chấp nhận để cho những chiếc lá thói quen cũ phải rụng đi
Xin giúp con đừng sợ hãi phải đối diện với cảnh nghèo nàn trơ trụi của tâm hồn
Bởi vì có như thế thì Chúa mới có thể đổi mới con thành con người mới, xứng đáng là môn đệ tốt của Chúa.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trong suốt mùa chay, Hội thánh mời gọi chúng ta cùng với Đức Giêsu trải qua hai kinh nghiệm là: gặp gỡ Thiên Chúa và đấu tranh với sự dữ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / nhờ Mùa Chay này biết sám hối thành thật / mạnh dạn đổi mới suy nghĩ và hành động / để việc truyền giáo cho thế giới được kết quả tốt đẹp hơn.
2. Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới / biết thành thật sám hối và sửa sai những lỗi lầm / để có thể sớm đem lại cho người dân ám no, tự do, và hạnh phúc thật.
3. Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang ngụp lặn trong những đam mê tiền của, xác thịt, danh vọng / được nghe lời kêu gọi sám hối để quay về với đời sống công chính và lương thiện.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta, nhất là những người còn đang rối rắm, bỏ mùa Phục Sinh / biết mau mắn trở về để sống xứng đáng với công ơn cứu chuộc của Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa xin giúp chúng con trong Mùa Chay này, biết cố gắng siêng năng cầu nguyện và đi dự lễ, để được nhiều ơn Chúa mà vượt qua mọi cơn cám dỗ. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt chú ý tới lời cầu xin cuối cùng, thể hiện ước muốn của chúng ta trong Mùa Chay này: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ".
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giúp chúng con chiến đấu và chiến thắng mọi cám dỗ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an...
VII. Giải tán
Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay. Đây là lúc thuận tiện để chúng ta sám hối và sống theo Tin Mừng. Và cũng vì thế cho nên đây cũng là thời gian cứu độ. Chúng ta hãy sống thời gian này một cách hết sức quảng đại. Chúc anh chị em được bình an.
11.Mùa Chay: Hãy sám hối--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Chúng ta bước vào Mùa Chay thánh. Đây là thời gian mà thánh Phaolô gọi là thời gian thuận tiện, ngày cứu độ (2Cr 6,2b). Mùa chay là thời gian thuận lợi để chúng ta rà xét lại con người của chúng ta để biết chúng ta đang như thế nào, có đi đúng con đường Chúa đã chỉ cho không, mà nếu chúng ta đã đi lệch khỏi con đường Chúa chỉ dạy thì phải ăn năn sám hối trở về con đường lành. Sám hối là trở về với Chúa.
I. SÁM HỐI THEO THÁNH KINH
Ngay từ đầu, con người đã phạm tội, nhưng Thiên Chúa luôn kêu mời họ. Lời đáp trả tiếng mời gọi của Thiên Chúa sẽ đòi họ phải biến cải, rồi trong suốt cuộc sống phải có thái độ sám hối. Do đó, hoán cải và sám hối chiếm một địa vị đáng kể trong mạc khải Thánh kinh.
Từ ngữ thông dụng nhất là động từ sub diễn đạt ý tưởng thay đổi hướng đi, trở về. Trên bình diện tôn giáo, nó biểu thị việc người ta từ bỏ những gì xấu và quay về Thiên Chúa. Ngày nay người ta hay dùng danh từ metanoia chỉ sự thống hối, ăn năn, trở về với Chúa.
1. Trong Cựu ước
a) Thực hành trong cuộc sống
Người dân hiểu rằng mình đã ký giao ước với Thiên Chúa và giao ước đã bị vi phạm do tội lỗi của dân, cần phải nối lại giao ước ấy. Để nối lại giao ước ấy người ta đã khẩn nài Thiên Chúa tha thứ bằng cách thực hành những việc khổ chế và những phụng vụ sám hối: chay tịnh (Tl 20,26; 1V 21,8tt), xé áo mình ra và mặc áo nhặm (1V 20,31t; Is 22,12; x. Ga 3,5-8), nằm trên tro (Is 58,5; Sm 12,16). Trong các buổi cử hành phụng vụ, người ta rên siết và than khóc như trong đám tang (Tl 2,4; Gl 1,13).
b) Sứ điệp hoán cải của các ngôn sứ
Các ngôn sứ đã tuyên sấm lời Chúa cho dân giúp họ nhận ra sự phản bội của mình mà sám hối, quay trở về với Thiên Chúa.
Trước tiên, ngôn sứ Nathan đã được sai đến cùng vua Đavít cảnh cáo về tội ngoại tình. Đavít đã được hướng dẫn thú nhận tội lỗi mình (2Sm 12,13), đoạn đền tội theo qui luật và sau cùng chịu Thiên Chúa sửa phạt (Sm 12,13-23).
Tuy nhiên sứ điệp sám hối của các ngôn sứ, nhất là từ thế kỷ thứ 8 nhắm tới toàn thể dân chúng, Israel đã vi phạm giao ước, “đã bỏ Giavê và khinh rẻ Đấng thánh của Israel” (Is 1,4). Giavê có quyền bỏ họ nếu họ không hoán cải. Thế nên, việc kêu gọi sám hối sẽ là một khía cạnh cốt yếu trong cuộc rao giảng của các ngôn sứ.
Amos, ngôn sứ của sự công chính, không chỉ hài lòng với việc tố cáo tội lỗi của người đương thời mà còn phải sự lành chứ không phải sự dữ, phải “chê ghét sự dữ và yêu mến sự lành” (Am 5,14 t). Điều đó bao hàm việc chỉnh đốn hạnh kiểm và thực thi nghiêm chỉnh sự công chính, chỉ có sự quay đổi như vậy mới có thể được Thiên Chúa dủ lòng thương xót “nhóm còn lại của Giuse” (Am 5,15t)
Cũng thế, Osée đòi buộc phải thực sự dứt bỏ tội lỗi và đặc biệt là dứt bỏ sự sùng bái ngẫu tượng. Ông loan báo: Thiên Chúa sẽ ban lại ân huệ của Ngài và sẽ nguôi giận (Os 14,2-9).
Isaia tố cáo mọi tội lỗi nơi dân Giuđa: vi phạm công bình, làm sai lạc phụng tự, bám víu vào chính trị loài người vv... Chỉ có việc hoán cải chân thực mới mang lại sự cứu rỗi, vì nơi nào không qui phục thánh ý của Thiên Chúa, thì phụng tự chẳng có giá trị gì cả (Is 1,11-15; x. Am 5,21-25). Isaia bị phản đối, nhưng ông cũng có thể xác quyết một điều là: ”Nhóm còn lại sẽ trở về... với Thiên Chúa hùng mạnh” (Is 10,21). Dân tộc sau cũng được hưởng ơn cứu rỗi sẽ toàn những người hối cải mà thôi.
Việc nhấn mạnh đến những tâm tình bên trong phải dâng tiến Thiên Chúa đã chóng trở thành một đề tài thông dụng trong giáo huấn của các ngôn sứ.
Mika rao giảng công chính, hiền từ và khiêm nhường (Mk 6,8).
Xophonia lặp lại khiêm nhường và thành thật (Xp 2,3; 3,12t).
Nhưng Giêrêmia theo đường hướng tư tưởng của Osée, đã quảng diễn rộng rãi chủ đề hoán cải. Sở dĩ ngôn sứ loan báo các tai họa đe dọa Giuđa, chính vì để mỗi người từ bỏ con đường bất chính trở về và để Giavê có thể tha thứ họ (Gr 36,3).
Ezechiel, trung thành với truyền thống ngôn sứ, đặt trọng tâm sứ điệp của ông vào việc cần phải hoán cải trong lúc thực hiện những lời đe dọa của Thiên Chúa, “Hãy vứt xa tội lỗi của các ngươi đã vấp phạm, hãy tạo cho mình một quả tim mới và một tinh thần mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi phải chết? Ta có muốn cho ai phải chết đâu! Hãy hoán cải và các ngươi sẽ được sống” (Ed 18, 31t).
Vậy từ Amos đến Ezechiel, giáo thuyết về hoán cải vẫn được nghiên cứu sâu xa, song song với mức độ hiểu biết về tội lỗi. Vào cuối thời lưu đầy, sứ điệp an ủi ghi nhận Israel đã hoán cải hữu hiệu, được cứu độ. Và sau Israel, đến lượt chư dân cũng sẽ hoán cải: từ bỏ các ngẫu tượng, họ đều quay về với Thiên Chúa hằng sống (Ed 45,14t; Gr 16,19tt).
2. Trong Tân ước
a) Gioan Tẩy giả
Đây là ngôn sứ bản lề giữa Cựu ước và Tân ước. Sứ điệp hoán cải của các ngôn sứ hội tụ lại với tất cả vẻ tinh tuyền của nó trong lời giáo huấn ông, vị ngôn sứ cuối cùng. Luca đã tóm lược sứ mệnh người như sau: “Người sẽ dẫn dắt nhiều con cái Israel về với Chúa, Thiên Chúa họ” (Lc 1,16t). Sứ điệp của người được đúc kết trong câu: ”Hãy hoán cải vì Nước Trời đã gần kề” (Mt 3,2).
Gioan khuyên mọi người phải tự nhận là kẻ có tội, phải sinh hoa trái xứng với lòng thống hối (Mt 3,8), chấp nhận một nếp sống mới thích hợp với tình trạng mình (Lc 3,10-14). Để đánh dấu cuộc hoán cải này, Gioan trao ban một phép rửa bằng nước để chuẩn bị các hối nhân nhận lãnh phép rửa bằng lửa và bằng Thánh Thần mà Đấng Messia sẽ ban (Mt 3,11tt).
b) Đức Giêsu
Ngài cũng là một đại ngôn sứ trong Tân ước. Mở đầu việc rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Ngài cũng dùng lời mời gọi hoán cải mà ông Gioan Tẩy giả đã rao giảng trước: ”Hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc âm” (Mc 1,15; Mt 4,17), Ngài đã đến chính là để kêu gọi tội nhân hoán cải (Lc 5, 32) Đó chính là một khía cạnh cốt yếu của Tin Mừng Nước Trời.
Nhưng sứ điệp hoán cải gặp nhiều chống đối từ việc dính bén của cải (Mc 10,21-25) cho tới tính kiêu căng của Pharisêu (Lc 18,9). Quả thật, tính ngoan cố hiện tại của Israel là dấu chỉ sự cứng lòng (Mt 13,15tt; x. Is 6,10). Nếu không thay đổi nếp sống, thì các kẻ nghe lời Đức Giêsu mà vẫn còn cố chấp trong tội lỗi sẽ bị hủy diệt (Lc 13, 1-5).
Khi đòi hỏi hoán cải, Đức Giêsu không có ý nhằm tới phụng vụ sám hối với hình thức bên ngoài, mà chính là sự thay đổi con tim khiến ta lại trở nên như trẻ nhỏ (Mt 18,3tt), tìm kiếm Nước Thiên Chúa (Mt 6,33) nghĩa là chỉnh đốn lại cuộc sống của mình theo Luật mới.
c) Các Tông đồ
Lúc sinh thời, Đức Giêsu đã sai các sứ đồ đi rao giảng sám hối và loan truyền Tin Mừng Nước Thiên Chúa (Mc 6,12). Sau khi sống lại, Ngài đã nhắc lại cho họ sứ mệnh ấy: Nhân danh Người, các ngài sẽ đi rao giảng sự thống hối cho chư dân để họ được tha tội (Lc 24,47), vì tội lỗi sẽ được tha thứ cho những ai được các ngài tha thứ (Ga 20,23). Sách Công vụ tông đồ và các thư cho ta thấy mệnh lệnh này được chu toàn thế nào. Tuy nhiên, tùy trường hợp là Do thái hay lương dân, mà việc hoán cải này mặc hình thái khác biệt nhau.
d) Hội thánh Công giáo
Hành vi hoán cải mà phép rửa niêm ấn được hoàn tất cách dứt khoát một lần mà thôi. Không thể lặp lại ơn sủng ấy lần nào nữa (Dt 6,6). Thế nhưng những người đã chịu phép rửa vẫn có thể sa ngã phạm tội: cộng đoàn sơ khai ngay từ lúc đầu đã có kinh nghiệm về điều đó. Trong trường hợp này, dù sao chăng nữa sự ăn năn cũng vẫn cần thiết nếu người ta muốn tham dự vào ơn cứu rỗi, ví dụ Phêrô đã kêu gọi nhà ma thuật Simon hoán cải (cvtđ 8,22), Giacôbê hối thúc các Kitô hữu nhiệt thành lo dẫn đưa những người tội lỗi ra khỏi sự lầm lạc của họ (Gc 5,19t). Phaolô vui mừng vì các tín hữu Corintô đã ăn năn (2Cr 7,9t). Sau cùng, trong sứ điệp gửi bảy Giáo hội mà sách Khải huyền nói tới, thấy hiện rõ những lời mời gọi ăn năn, những lời mời gọi cho thấy đã có những người sa ngã không còn sốt mến như xưa (Kh 2,5; 16,21t).
3. Sám hối là điều cần thiết
Trong Cựu ước và Tân ước, chúng ta thấy Thiên Chúa luôn luôn kêu gọi con người hãy bỏ con đường tội lỗi mà trở về với Ngài. Lòng sám hối được biểu lộ ra qua những dòng nước mắt ăn năn. Điếu này rất tốt đẹp, hữu ích và làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Truyện: nước mắt sám hối
Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy.
Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: ”Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: ”Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: ”Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”.
(D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 304)
II. NHU CẦU PHẢI SÁM HỐI
Ta hãy đọc một đoạn Phúc âm theo thánh Luca nói về dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,44-47). Trong bài Phúc âm này, ta thấy Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về con chiên lạc. Con chiên bị thất lạc hoặc tự ý riêng mà bị thất lạc hoặc người khác làm cho bị lạc, cả hai cần được tìm về trong đàn. Nếu con chiên lạc mà được tìm thấy thì chủ vui mừng biết bao! Người chủ phải tổ chức tiệc ăn mừng. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu cũng kêu gọi những người đã lạc đường hãy ăn năn trở lại; và Thiên Chúa vui mừng biết bao khi có người tội lỗi ăn năn trở lại (Lc 15,4-7).
Trong mùa Chay, ta hay nghe cái từ ngữ Sám hối. Sám hối có nghĩa là trở về, trở về nơi mình đã xuất phát. Nói trở về là nói mình đang ở xa. Xa nhà, nay tôi trở về. Khoảng cách không gian cho ta cảm tưởng rõ ràng một sự cách biệt.
Khi định nghĩa trở về trong ý nghĩa thiêng liêng, ta thấy khó hơn. Thí dụ, nói tôi trở về với Chúa. Cái khoảng cách giữa tôi và Chúa không biết ngắn hay dài. Lấy gì để mà đo. Nếu xét rằng tôi không phạm tội nặng, tôi vẫn đi lễ, thì dường như tôi không xa Chúa. Tôi không cần đặt vấn đề trở về.
Đọc dụ ngôn con chiên lạc, ta thấy ngay là con chiên đó xa đàn. Hình ảnh Chúa đi tìm làm ta thấy con chiên này cần trở về. So sánh mình với người khác, ta thấy có người bỏ nhà thờ, có người có đời sống tội lỗi công khai. Như thế, họ cần trở về hơn mình. Tuy nhiên, đọc kỹ đoạn Phúc âm trên, ta thấy sự trở về có thể là cần thiết cho những con chiên không bỏ đàn đi, không bỏ nhà thờ, vẫn ở trong nhà thờ.
Do đó, chúng ta đừng nghĩ rằng: chỉ những người không tin Chúa hay đã bỏ Chúa mới cần trở về; còn chúng ta là những Kitô hữu đích danh, hằng ngày vẫn đi lễ, xưng tội, rước lễ, làm các việc lành phúc đức thì chẳng cần phải trở về vì chúng ta đang ở trong đạo, trong Giáo hội mà!
Nhưng rất có thể chúng ta đã trở nên vô đạo hoặc tệ hơn nữa là vô thần lúc nào không biết; tuy mang danh là Kitô hữu mà đời sống còn tệ hơn người vô đạo. Người ngoại đạo tuy ở ngoài đạo, ngoài Giáo hội mà lòng họ vẫn liên kết với đạo, vẫn có lòng tin, vẫn muốn sống vươn lên trong tâm tình ước muốn:
Lạy Chúa, con là người ngoại đạo
Nhưng tin có Chúa ngự trên cao.
Cũng như bây giờ, có người ở trong nhà thờ mà lòng trí họ đang ở ngoài nhà thờ, trong khi đó có nhiều người đang ở ngoài nhà thờ mà lòng trí họ đang ở trong nhà thờ.
Vì vậy trong mùa Chay này ta thử xét lại, tuy mình là Kitô hữu đấy mà có thực sự gắn bó và ở trong Giáo hội không. Tuy là con cái Chúa đấy mà có sống trong ân tình của Chúa không hay là ta đã xa Chúa? Nếu thành thực xét mình thì không ai dám nói mình là người sống thánh thiện, sống khăng khít với Chúa, chỉ có những người Pharisêu và Luật sĩ thì mới dám nói như vậy (x. Lc 16,15). Vì thế, chúng ta phải rà xét lại cuộc sống của chúng ta xem như thế nào, sống xa Chúa bao nhiêu và quyết tâm trở về. Sự trở về đòi ta phải thành thực và can đảm nhìn nhận những lỗi lẫm của mình để xin Chúa ban ơn tha thứ.
Truyện: ông Mahatma Gandhi
Mahatma Gandhi có kể về cuộc đời ông như sau: Hồi tôi 15 tuổi, tôi mắc một tật rất xấu, là tội ăn trộm. Khi đó tôi mắc nợ người bạn một số tiền khá lớn, thế rồi tôi đã về lấy của cha tôi một vòng đeo tay bằng vàng để bán lấy số tiền trả nợ.
Nhưng sau đó, tôi luôn luôn bị lương tâm cắn rứt, không cho tôi được giây phút bình an. Tôi không thể sống trong tình trạng này nữa. Tôi nhất quyết phải đến thú tội với ba tôi càng sớm càng tốt. Nhưng khi đến trước người, vì xấu hổ và sợ hãi nên tôi không thể thốt ra lời. Sau đó tôi liền nghĩ ra một cách thú tội bằng giấy mực. Tôi đã cầm tờ giấy đó đến trước mặt cha tôi, toàn thân tôi run rẩy và trao tờ giấy đó cho cha tôi. Ông đã đọc tờ thú lỗi của tôi, sau đó ông nhắm mắt lại trong giây lát và đã xé tờ giấy thành nhiều mảnh, rồi nói với tôi: ”Biết mình là điều rất tốt”, và đến ôm chầm lấy tôi trong vòng tay tràn đầy yêu thương, tha thứ của người. Từ giây phút đó tôi hiểu và thương mến cha tôi hơn.
Muốn sám hối, điều kiện cần là phải biết mình, có biết mình có tội, có biết mình mắc lỗi lầm thì mới có thể sám hối được; nếu không có tội thì làm gì phải thống hối? Những người Luật sĩ và Pharisêu là những người không biết mình, họ luôn tự hào là những người đạo đức thánh thiện thì làm gì phải sám hối, làm gì phải quay trở lại? Những lời kêu mời của Chúa Giêsu chẳng có tác dụng gì đối với họ, trái lại càng làm cho họ thêm thù ghét.
Truyện: thủ tướng Bốphốp nhận lỗi
Theo một bản tin của hãng thông tấn Amsa truyền đi, thì vị thủ tướng của nước Úc là Bốphốp đã bị cảnh sát công lộ phạt 100 Úc kim vì đi xe hơi mà không đeo giây an toàn. Sự kiện xẩy ra sau khi đài truyền hình số 9 của Úc trình chiếu cảnh thủ tướng đang ngồi trong chiếc công xa chở ông đến thành phố Besthen mà không thắt dây an toàn. Theo dõi hình ảnh ấy, nhiều khán thính giả đã gọi dây nói đến sở cảnh sát của tiểu bang Besthen để phản đối việc thủ tướng của họ không giữ luật giao thông. Cũng ngày hôm đó, giám đốc sở cảnh sát bang Uyheslen đã nhận được một cú điện thoại của thủ tướng Hốp, người được xem là có quyền lực cao nhất tại Úc, đã nhìn nhận lỗi lầm vì không giữ đúng luật giao thông, và ông đã xin được xử lý như tất cả mọi người công dân khác. Kết quả là sở cảnh sát của tiểu bang đã phạt ông 100 Úc kim.
(Hạt giống âm thầm (bản ronéo), tr 320)
III. THIÊN CHÚA GIẦU LÒNG THA THỨ
1. Trong Cựu ước
Lịch sử dân Israel xưa là lịch sử của một dân phản bội và của lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa. Dân Chúa luôn phản bội giao ước nhưng Thiên Chúa không thất vọng, Người luôn kêu mời họ trở lại để sống trong ân tình của Người. Chúng ta hãy nhìn qua cách cư xử của dân.
a) Trong sa mạc
Sau phép lạ lớn lao làm cho dân vượt qua Biển Đỏ khô chân, dân Chúa tiếp tục cuộc hành trình đi về đất hứa. Trong sa mạc, dân Chúa luôn càm ràm và phản đối ông Maisen như trường hợp ở Meriba và ở Massa. Có lần Thiên Chúa đã cho rắn lửa bò ra cắn chết nhieu người. Dân chúng hồi tâm, nhờ ông Maisen can thiệp với Chúa. Chúa nhận lời và bảo ông Maisen đúc con rắn bằng đồng treo trên cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn lên con rắn sẽ được khỏi.
b) Nơi đất hứa
Thiên Chúa đã giải phóng dân Ngài khỏi ách nô lệ của Ai cập, đem họ vào đất hứa chảy sữa cùng mật, phân phát cho dân Ngài phần đất của dân ngoại làm cơ nghiệp. Thiên Chúa chỉ đòi buộc dân Ngài phải trung thành, không được thờ các thần của dân ngoại. Nhưng dân Chúa đã bất trung với giao ước mà cha ông họ đã ký kết với Thiên Chúa, nên Ngài để cho dân ngoại đến giầy xéo đất nước và bắt họ đi lưu đầy. Vua Nabuchodonosor bắt họ đi lưu đầy ở Babylon từ năm 721 đến năm 538 họ mới được trở về với chỉ dụ của vua Cyrô (2V 17,6), cuộc lưu đầy kéo dài 83 năm.
c) Cảnh cáo và khuyên răn
Khi dân Chúa đã trở về quê hương sau thời gian lưu đầy, trùng tu lại đền thờ Giêrusalem, dân vui mừng vì được giải phóng, lo việc thờ phượng Chúa. Nhưng chứng nào tật ấy, dân lại bất trung, đi vào vết xe cũ, Thiên Chúa sai nhiều tiên tri đến cảnh cáo và khuyên răn như thời còn bị lưu đầy:
“Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, không còn được chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa. Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới” (Ed 18, 30b-31).
d) Thiên Chúa tha thứ
Tuy con người phản bội, Thiên Chúa vẫn luôn tha thứ. Câu chuyện sau đây sẽ chứng minh điều đó:
Thiên Chúa xúi ngôn sứ Osée đi kiếm một con điếm về làm vợ. Lẽ thường thì không ai làm như vậy. Thanh niên họ có chơi thì chơi với gái điếm, còn khi lấy vợ thì phải tìm đến con gái nhà lành chứ! Đàng này ông Osée nghe lời Chúa đi lấy một cô gái điếm về làm vợ. Hai người thương yêu nhau thắm thiết. Bà ta sinh ra cho ông được ba đứa con và đặt cho mỗi đứa một tên kỳ quặc, nếu dịch ra tiếng Việt thì có nghĩa như là “Nguyễn-văn-Chúa-không-thương-mày-nữa”.
Ngày tháng trôi qua, nhớ lại cảnh sống xưa, bà ta bỏ ông để đi theo cái nghề cũ. Chúng ta thử xem ông ta có đủ can đảm mà tha thứ và còn đi rước bà ta về, lại còn yêu thương như trước không? Khó quá!
Thiên Chúa lại xúi ông Osée đem tiền đem bạc đi để chuộc bà ta về. Ông ta đã làm như vậy. Khi đã trở về, ông ta lại tiếp tục yêu thương vợ như cũ.
Đây là câu chuyện có thật trong Thánh kinh và cũng là hình ảnh nói lên Thiên Chúa yêu thương và tha thứ cho chúng ta mặc dầu chúng ta phản bội Ngài. Xin lỗi ông bà anh chị em, tôi có thể nói rằng: trước mặt Thiên Chúa chúng ta đều là gái điếm cả, vì gái điếm thì theo hết người này tới người khác, còn chúng ta thì theo hết thần này đến thần khác: thần tình ái, thần sắc dục, thần tiền của, thần danh vọng, thần cờ bạc, và không biết bao nhiêu thần khác nữa.
2. Trong Tân ước
Chúng ta là dân Israel mới, tiếp nối dân Israel cũ, chúng ta lại đi vào con đường cũ: bất trung, phản bội. Chúa Giêsu đã chịu chết chuộc tội cho chúng ta và đã lấy máu đổ ra trên thập giá để ký kết giao ước vĩnh cửu với loài người. Chúa luôn trung thành với lời hứa, nhưng con người lại phản bội. Tuy thế, Ngài vẫn thương yêu và tha thứ, kêu gọi con cái hãy trở về trong tình thương của Ngài.
Thánh Luca đã kể ra ba dụ ngôn; con chiên lạc, đồng tiền đánh mất và nhất là câu chuyện đứa con phung phá (Lc 15, 11-32) đã chứng tỏ: tuy người con đã từ bỏ cha mà đi hoang nhưng người cha vẫn nóng lòng chờ đợi con trở về:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Nhớ ai hết đứng lại ngồi không yên.
(ca dao)
Khi người con hối hận trở về, người cha vội sai gia nhân mặc áo mới cho cậu, xỏ giầy vào chân, xỏ nhẫn vào tay, giết con bò đã vỗ béo ăn mừng. Tại sao lại có sẵn áo mới, giầy mới và bê đã vỗ béo? Điều đó chứng tỏ người cha hy vọng cậu con trai sẽ trở về nên đã chuẩn bị sẵn sàng những thứ đó. Người cha không thất vọng về người con. Cũng thế, Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta, Ngài vẫn luôn giang cánh tay ra chờ đón.
3. Chúa Giêsu, nguồn ơn tha thứ
Thiên Chúa là người Cha giầu lòng thương xót sẵn sàng tha thứ cho những sự bội bạc của con cái như trong dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15). Ta hãy đặt mình vào tình trạng của đứa con trong bước đường cùng và hãy tự nhủ mình: ”Thôi, ta đứng lên, đi về cùng Cha và thưa với Ngài: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như người làm công cho cha vậy” (Lc 15, 18-19).
Đức hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận trong bài giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô 2 và giáo triều Roma đã trình bầy đề tài “các khuyết điểm của Chúa Giêsu” để nói lên lòng thương yêu tha thứ của Ngài.
a) Đức Giêsu không có trí nhớ tốt
Trên thập giá, trong lúc hấp hối. Đức Giêsu nghe tên trộm bên phải nói: ”Thưa ông Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi ông vào nước của ông” (Lc 23,42). Giả sử đó là tôi, thì có lẽ tôi đã trả lời: ”Tôi sẽ không quên anh nhưng anh phải đền bù các tội ác của mình ít là khoảng 20 năm trong luyện ngục”. Trái lại, Chúa trả lời anh ta: ”Ngày hôm nay, ngươi sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Điều tương tự cũng xẩy ra với người đàn bà tội lỗi đã xức dầu thơm cho chân Chúa: Chúa Giêsu chẳng hỏi gì về quá khứ xấu xa của bà nhưng chỉ nói: ”...tội của con tuy nhiều, nhưng chúng đều được tha hết vì con đã yêu nhiều” (Lc 7,47).
Cũng tương tự như đứa con hoang đàng (Lc 15)
Chúa Giêsu không có một trí nhớ như trí nhớ của tôi, không những Ngài tha thứ, và tha thứ cho mỗi người, nhưng Ngài còn quên là Ngài đã tha thứ.
b) Chúa Giêsu đi thi toán chắc rớt
Giả sử Chúa Giêsu đi thi toán, chắc Ngài bị đánh rớt. Dụ ngôn người mục tử nhân lành chứng tỏ điều đó. Một người mục tử có một trăm con chiên. Một con chiên bị lạc và không chần chờ gì, ông ta đi tìm chiên ấy, bỏ 99 con chiên khác nơi hoang địa. Khi tìm được chiên lạc, ông vác lên vai (x. Lc 15,4-7)
Đối với Chúa Giêsu, 1 có giá trị bằng 99... và có lẽ còn hơn thế nữa! Có ai chấp nhận được điều đó không? Nhưng lòng thương xót của Ngài trải rộng từ đới này sang đời khác...
c) Chúa Giêsu chả biết gì về Triết học
Ngài không hiểu gì về Luận lý học khi đưa ra dụ ngôn: một người đàn bà có 10 đồng bạc, rủi rớt mất một đồng, bèn thắp đèn mà tìm. Khi bà tìm được thì hớn hở gọi hàng xóm láng giềng: ”Bà con ơi, hãy chia vui với tôi vì tôi đã tìm thấy đồng bạc bị mất” (Lc 15, 8-10)
Thật chẳng hợp lý tí nào khi mời hàng xóm như vậy vì bà phải chi phí còn hơn đồng bạc tìm được. Nhưng, đó lại là chính cách Chúa đã dùng để chỉ sự vui mừng của Thiên Chúa khi một người ăn năn trở lại.
Ở đây chúng ta có thể nói như Blaise Pascal: ”Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không biết được”.
d) Chúa Giêsu không biết tài chính và kinh tế
Ngài chả có ý tưởng gì về kinh tế và tài chính. Trong dụ ngôn những kẻ làm vườn nho, ông chủ trả cùng một số tiền cho những kẻ làm đầu tắt mặt tối từ sáng tinh mơ cho đến chiều tối, và những kẻ gần chiều mới bắt tay vào việc. Không biết Ngài có tính toán sai không? Không! Ngài chú ý làm như vậy vì Ngài không thương chúng ta vì công trạng của chúng ta. Tình yêu của Ngài là hoàn toàn miễn phí và vượt xa trí hiểu của chúng ta. Ngài đã có những “khuyết điểm” vì Ngài yêu thương chúng ta. Tình yêu thực sự không có tính toán so đo, không biên giới, không điều kiện, không ngăn cách và không nhớ những sai phạm (x. Mt 20, 1-16)
e) Chúa Giêsu là một người phiêu lưu
Chúa Giêsu là người mua lấy rủi ro về phần mình. Người ta muốn chiêu dụ nhiều người theo mình thì hứa cho thật nhiều những điều tốt lành, trong khi Ngài lại hứa những gian lao thử thách, bắt bớ và giam cầm cho những kẻ theo Ngài. Trong 2000 năm qua, chúng ta đã chứng kiến bao rủi ro, thiệt thòi cho những kẻ muốn theo Ngài, nhưng số người theo Ngài càng đông, họ dám hy sinh cả mạng sống cho Ngài (x. Mt 820; Lc 9-23)
Để kết luận chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa Giêsu có những khuyết điểm như thế - Vì Ngài là Tình yêu (cf 1Ga 4,16). Tình yêu đích thực không lý luận, không đo lường, không dựng lên những hàng rào, không so đo tính toán, không đặt điều kiện.
(Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận, Chứng nhân hy vọng, tr 39-44)
IV. THỰC HÀNH SÁM HỐI
1. Hãy can đảm trở về
Lời Chúa trong đầu Mùa Chay cũng nhắc nhở cho mọi người chúng ta, là những con cái yêu thương của Ngài: ”Anh em hãy sám hối và tin vào Phúc âm” (Mc 4,15). Sám hối ở đây theo ngôn sứ Giêrêmia là thay đổi hướng đi, thực tình quay về với Thiên Chúa của Giao ước và dấn bước vào một cuộc sống mới.
Trong sứ điệp gửi giới trẻ thế giới mùa Chay năm 2001, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã lấy đề tài: ”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình vác thập gía hằng ngày mà theo” (Lc 9,23). Theo ý ngài, Chúa Giêsu đã chọn con đường thập giá để tới vinh quang. Ngài đã vạch cho chúng ta con đường phải đi theo. Chỉ có một con đường duy nhất do Chúa đã đi, người môn đệ phải theo con đường đó mà không được vạch ra một con đường nào khác. Nếu chẳng may đã đi trệch đường thì phải có can đảm trở lại, không ngại khó khăn.
Nhà chí sĩ Phan bội Châu đã nói: ”Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”. Đôi khi chúng ta thấy chưa có kết quả sau bao cố gắng, nhưng không sao, hãy bắt đầu lại, Chúa không đòi chúng ta phải thu được kết quả trước mắt, Ngài chỉ đòi chúng ta cố gắng, cố gắng không ngừng. Theo tôi nghĩ: cố gắng là đã thành công rồi, vì không cố gắng là lùi. Bao lâu còn cố gắng là còn tiến.
Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của một danh nhân? Mới nghe thì có vẻ không đúng, nhưng suy cho kỹ thì nó nói cho chúng ta biết rằng: không một cố gắng nào mà vô ích, mỗi cố gắng tuy ít ỏi nhưng đều góp vào thành công chung:
“Một ngàn việc tiến,
Chín trăm chín mươi chín việc lùi:
Đó là TIẾN BỘ”.
(Henri Frédéric Amiel)
Truyện: phải biết bắt đầu lại
Một thanh niên thấy cuộc sống mình bê bối, muốn sám hối ăn năn, đến gặp một vị Linh mục và nói:
- Thưa cha, hôm nay con đến xin cha giúp con, con bê bối lắm nhưng con không biết bắt đầu từ đâu cả: Mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội thánh, bảy mối tội đầu con đều phạm hết. Con nản quá! Bạn bè khuyên con, con trả lời rằng: Thôi đã lỡ phạm tội thì phạm cho hết mọi tội, xuống lót đáy hỏa ngục luôn. Nằm dưới đáy có lẽ đỡ nóng, hơn là nằm hơ hơ trên ngọn lửa, nóng lắm! Nói thì nói thế cho vui, chớ con không yên tâm chút nào.
Vị Linh mục cười và nói:
- Cha lại thích mấy con cá bự, cá nhỏ ăn hoài chán rồi.
Cả hai cha con cười xòa.
Vị Linh mục nói tiếp:
- Cha kể cho con một câu chuyện nhé: Một người con trai kia thất nghiệp, trở về nhà buồn bã. Nguời cha an ủi: Thôi con ạ, nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông thì nhì sĩ; con trở lại với miếng ruộng của gia đình đi. Sáng mai con ra làm cỏ năm sào ruộng để mùa tới chúng ta sẽ xạ lúa. Người con nghe lời, sơm mai vác cuốc ra đồng. Nhưng khi nhìn thấy đám ruộng mênh mông chỉ có cỏ với cỏ, anh ngán ngẩm, tìm một gốc cây nằm ngủ.
Người cha biết sự việc, không la rầy, ôn tồn nói với con:
- Mỗi ngày con làm cho cha 20 mét vuông thôi, con làm được không?
- Dạ, ít vậy thì được.
Và cứ như thế, chẳng bao lâu đám ruộng đã sạch cỏ.
Tâm hồn con bây giờ cũng như đám ruộng kia, đầy cỏ dại, nhưng con hãy bắt đầu đi rồi con sẽ thấy kết quả. Rồi đây con sẽ còn sa ngã, nhưng cái quan trọng là luôn biết bắt đầu lại. Tội con Chúa đã tha rồi, Chúa chỉ đòi hỏi con cố gắng mà thôi.
Mười năm sau đó, vào một buổi sáng đẹp trời, một tu sĩ bước vào nhà xứ và cúi đầu chào Linh mục, rồi nói:
- Cha còn nhớ con nữa không? Con là người cha đã chỉ cho cách làm cỏ cách đây khoảng mười năm.
Câu chuyện trên đây nhắc cho chúng ta: biết mình lạc đường cần trờ về, đó là điều tốt nhưng thực hiện cuộc trở về thì khó, vì chúng ta bị cám dỗ tháo lui. Chính Đức Giêsu cũng bị cám dỗ để đi xa con đường sứ mạng cứu thế của Ngài như ta đã suy niệm trong bài Tin mừng Chúa nhật thứ nhất Mùa chay (x. Lc 4,1-13).
Cám dỗ cũng cần thiết vì nó có lợi cho ta, nhờ đó mới biết lòng trung thành của ta đối với Chúa và làm cho chúng ta càng thêm công trạng như lời Sách Thánh nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân đức” (Hc 2,5).
2. Đừng bao giờ trì hoãn
Có những người chi biết sống với quá khứ để luyến tiếc, có những người chỉ biết hướng về tương lai để hành động, nhưng nhiều người lại quên hiện tại. Hiện tại là hậu quả của quá khứ và nguyên nhân của tương lai. Tương lai nằm trong hiện tại. Muốn có một tương lai sáng sủa thì phải được chuẩn bị trong hiện tại.
Một lỗi lầm thông tường của tuổi trẻ là hay xem thường NGÀY NAY. Người bạn trẻ hay nghĩ rằng những công việc to lớn, những cái gì đáng làm đều thuộc ở NGÀY MAI. Còn NGÀY NAY là tầm thường, là không đáng kể nên họ không muốn bắt tay làm gì cả.
Thực tế hơn, nhà văn hào Anh J. Ruskin cho khắc vào phiến đá hai chữ: ”TO DAY” (Ngày nay) và đặt nó trên bàn viết để mỗi ngày ông ta có việc chiêm nghiệm về bổn phận của mình là làm xong những công việc của NGÀY NAY. Một thi nhân Hy lạp thời xưa cũng đã viết “CARPE DIEM” để khuyên chúng ta hãy biết dùng một cách đầy đủ ngày hôm nay.
(Phạm cao Tùng, Tôi có thể nói thẳng với anh, in lần 3, tr 106)
Kinh nghiệm cho hay: chúng ta có những chương trình qui mô, những dự tính tốt đẹp cần thực hiện, nhưng chúng ta lại rùi rắng, không muốn bắt tay vào việc ngay. Người ta thường nói: những gì có thể làm được hôm nay thì đừng để đến ngày mai theo phương châm “carpe diem”. Muốn sửa đổi con người của mình, muốn làm thánh thì hãy bắt tay vào việc, chớ bao giờ trì hoãn kẻo bỏ lỡ cơ hội.
Truyện: kế hoạch trì hoãn
Ngày kia Satan hỏi các đồ đệ:
- Làm thế nào để chiếm đoạt được các linh hồn?
Quỉ thứ nhất nói:
- Tôi sẽ rỉ tai: không có Chúa đâu.
Satan bảo:
- Họ đâu có tin, nhìn vào vũ trụ, không thể nào chối là không có Thiên Chúa được.
Qủi nhỏ thứ hai bảo:
- Tôi sẽ rỉ tai: chết là hết, chết là hết.
Sa tan bảo:
- Không được, vì sự sống đời đời đã được khắc ghi vào chính giữa trái tim con người.
Thế là cả bọn cùng trầm ngâm suy nghĩ.
Bỗng một con qủa đen đủi đứng lên nói:
- Tôi có cách: tôi sẽ nhắc đi nhắc lại cho mọi người biết: Chúa có thật và chết chưa phải là hết. Tôi bảo họ phải sám hối ăn năn và trở về với Chúa. Nhưng tôi sẽ rỉ tai họ: gấp gì, còn chán thì giờ! Để gần chết rồi lại ăn năn, thế là được hưởng cả đời này lẫn đời sau, phải không nào?
Qủi vương đập bàn cười ha hả:
- Tuyệt, thật tuyệt, theo kế hoạch này, chúng ta sẽ thành công.
KẾT LUẬN
Chúng ta đã bước vào Mùa Chay thánh, thời gian thuận tiện, thời gian cứu độ, Chúa luôn yêu thương chúng ta, luôn kêu gọi chúng ta trở về, sẵn sàng tha thư mọi lỗi lầm. Đừng ai hồ nghi về tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, hãy đứng dậy trở về cùng Chúa, đừng sợ quá muộn vì trơ về trong tình yêu thì không bao giờ quá muộn.
Truyện: trở về trong tình yêu
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm sống, một phụ nữ đã kể lại như sau:
Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu nữ, một lần kia cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là “Ảo ảnh cuộc đời”. Phim đó kể lại chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh khi làm khổ người mẹ đang hết lòng yêu thương và hy sinh cho cô. Qua nhiều biến cố thăng trầm, cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết, cô gái trở về thống hối tiếc thương.
Về nhà, hôm ấy gia đình tôi bàn tán về ý nghĩa của câu chuỵện trong phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình to tiếng: ”Bấy giờ mới trở về ăn năn thống hối làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi”.
Tôi thấy mẹ tôi định trả lời, nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói: ”Không có sự trở về nào là trễ trong tình thương con ạ”.
Ngày đó, thú thật tôi không hiểu gì nhiều về câu trả lời của cha tôi. Nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm ý nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn luôn sẵn sàng thương yêu tha thứ cho con cái tôi.
(Thiên Phúc, Tình yêu mạnh hơn sự chết. tr11-12)
Tình yêu thương cao cả vô vị lợi đó, chính là hình ảnh lu mờ của Thiên Chúa dành cho con người. Khi chúng ta sống ngay lành, thánh thiện, chúng ta không giúp ích gì hay tăng thêm một chút gì cho Chúa, nhưng khi chúng ta lầm lỗi, chính lúc chúng ta làm phiền lòng Người chỉ vì Chúa yêu thương chúng ta, những lúc đó Chúa luôn mong mỏi chúng ta trở về.
Vậy trong cuộc đời làm con Chúa, đừng bao giờ ngã lòng thất vọng, vì với tình thương thì không bao giờ quá muộn, chỉ cần chúng ta mở rộng cõi lòng để yêu thương, để hoán cải và ước ao nên trọn lành.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy niệm lời ngôn sứ Ezechiel: ”Hãy trở lại, hãy từ bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, không còn được chướng ngại nào làm các ngươi phạm tội nữa. Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới. Hỡi nhà Israel, tại sao các ngươi lại muốn chết? Quả thật. Ta không thích gì về cái chết của kẻ phải chết – sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa thượng. Vậy, hãy TRỞ LẠI và hãy sống” (Ed 18,30b-32).
12.Chiến thắng cám dỗ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa nhật thứ nhất Mùa chay, Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng Satan. Năm A và C, đọc Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, kể lại sự kiện này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba lần Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Năm nay năm B, đọc Tin Mừng của thánh Marcô, kể lại rất vắn tắt, chỉ cho biết: “Thần khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ”. Tuy thánh Marcô không trực tiếp cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan, đã xua đuổi nó, nhưng suốt sách Tin Mừng, thánh Marcô sẽ cho thấy Chúa Giêsu đi tới đâu thì Satan bị đánh bại đến đấy. Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.
Đời người được ví như một đấu trường, ở đó con người phải luôn chiến đấu: chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với nhiều thứ, nhất là chiến đấu với chính mình. Tại sao vậy? Bởi vì mang thân phận con người, ai ai cũng bị giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: một cái kéo con người lên và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều nội tại trong con người, khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường, đôi khi rất cam go làm con người đau khổ.
Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn bản của ý chí con người. Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm điều thiện, chứ không ai muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một chuyện, còn có làm điều tốt hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không hiểu nổi việc tôi làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”. Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình, phải hao tổn năng lực của mình.
Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong nội tâm, nhưng kể từ khi nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỉ tăng cường làm cho mạnh lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất vả. Còn muốn đi xuống thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả, không cố gắng nữa là tự động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác rất nhiều. Và cái lực hấp dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của ma quỉ.
Đúng vậy, đàng sau bối cảnh chiến trường mà con người phải chiến đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà Kinh thánh gọi là kẻ thù, ấy là satan. Satan là quỉ, nó là “xếp xòng” của loài quỉ. Satan hay quỉ trước kia là các thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên Chúanên bị tống cổ ra khỏi thiên đàng và bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất thế, Satan và bè lũ trở nên những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy phá để làm cho người ta hư hỏng theo chúng. Chúng đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người. Chúng đã du nhập vào trần gian đủ thứ gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và những lối sống lố bịch, nham nhở, nhăng nhít… Tất nhiên có người sẽ nói: có thấy Satan hay quỉ nào công khai làm những chuyện đó đâu? Đúng thế, ngày nay chúng ta ít được chứng kiến những vụ quỉ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Ngày nay rất ít trường hợp Satan hiện nguyên hình trực tiếp tác oai tác quái nữa, nhưng gián tiếp điều khiển trong bóng tối. Đó là một sức mạnh vô hình luôn tác động trong tâm trí chúng ta: lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi. Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng là cám dỗ. Chúng không kiêng nể ai hay buông tha ai. Vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của chúng.
Theo nghĩa thông thường chúng ta quen hiểu, cám dỗ là dịp phạm tội. Bị cám dỗ là khi chúng ta thấy mình hướng chiều về một điều ưa thích thuộc phạm vi cấm đoán. Chẳng hạn: một vẻ quyến rũ từ bên ngoài lôi cuốn, một sự xôn xao, rạo rực, thèm khát từ bên trong thúc đẩy; một âm mưu hay thủ đoạn bày vẽ ra trong trí khôn thúc đẩy chúng ta hành động; một sự nhắm mắt làm liều, một hành động nổi loạn của toàn thân từ chối ép mình trong trật tự… Đó là những phát hiện của cơn cám dỗ. Như vậy, bị cám dỗ, bất cứ là cám dỗ về phương diện gì, không phải là tội. Khi chúng ta bị cám dỗ thì chỉ có nghĩa là chúng ta bị thử thách thôi. Và chỉ khi nào chúng ta bị thua chước cám dỗ thì mới có tội.
Đành rằng ma quỉ cám dỗ chúng ta. Nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỉ và xác thịt. Đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỉ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám dỗ hay không? Nói khác đi, ma quỉ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta có nhu cầu, ham thích, đam mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm chủ được những nhu cầu thể chất ấy chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những cám dỗ, và không để cho khuynh hướng xấu làm chủ mình. Từ ngày có trí khôn cho đến giờ, ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần đã bị vấp ngã. Đó chính là thân phận của con người yếu hèn và bất toàn. Không bao giờ vấp ngã, đó là chuyện khác thường, đặc biệt, vô cùng tạ ơn Chúa. Còn hay bị vấp ngã, đó là chuyện bình thường. Và điều quan trọng là chúng ta phải ăn năn sám hối ngay.
13.Chúa Nhật I Mùa Chay--Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Chay năm B nêu bật Phép Rửa, tức là cuộc vượt qua từ cõi chết để bước vào cõi sống.
St 9: 8-15
Đoạn trích sách Sáng Thế gợi lên hình bóng của Phép Rửa qua việc một nhân loại mới được cứu thoát khỏi trận Hồng Thủy. Thiên Chúa lập giao ước với nhân loại mới này qua ông Nô-ê.
1Pr 3: 18-22
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô muốn những người lãnh nhận Phép Rửa hiểu rằng việc vượt qua nước là dấu chỉ việc họ tham dự vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô và đó cũng là dấn thân vào giao ước với Thiên Chúa.
Mc 1: 12-15
Tin Mừng Mác-cô tường thuật rất ngắn gọn cuộc thử thách mà Đức Giê-su đã kinh qua trong hoang địa: Ngài chiến thắng các chước cám dỗ, tức thế lực của sự Ác.
BÀI ĐỌC I (St 9: 8-15)
Chữ “Ước”, để chỉ hai phần của bộ Kinh Thánh: “Cựu Ước và Tân Ước”, được dịch từ nguyên ngữ Hy-lạp sang tiếng La-tin: “Testamentum”, có nghĩa là “Giao Ước”. Vì thế, “Cựu Ước và Tân Ước” phải được hiểu trọn nghĩa là “Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới”.
Quả thật, chữ “Giao Ước” tóm gọn tinh thần của toàn bộ Kinh Thánh, nghĩa là, những quan hệ giữa Thiên Chúa và con người chạy xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Ấy vậy, có một chỗ đứt đoạn giữa công việc của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và thi ân, và cách hành xử của con người, tội nhân. Nhưng chỗ đứt đoạn này về phương diện lịch sử được lòng xót thương của Thiên Chúa chắp lại: sau vài án phạt điển hình, Thiên Chúa tha thứ và tái lập giao ước với nhân loại.
1. Giao Ước với ông Nô-ê
Đây là Giao Ước mà Thiên Chúa đã thiết lập sau trận Hồng Thủy như án phạt của Thiên Chúa trên khắp toàn cõi địa cầu. Giao Ước với hai ông bà nguyên tổ, A-đam và E-và, được thiết lập cách mặc nhiên; Giao Ước với ông Nô-ê được thiết lập cách minh nhiên. Qua ông Nô-ê và hậu duệ của ông, Thiên Chúa giao ước với toàn thể nhân loại.
Chiều kích hoàn vũ của Giao Ước với ông Nô-ê này càng đáng chú ý hơn khi so sánh với những giao ước sau này. Thật vậy, Giao Ước với tổ phụ Áp-ra-ham cũng như Giao Ước với ông Mô-sê bị thu hẹp, chỉ còn liên quan đến một dân tộc được tuyển chọn giữa muôn dân (thực ra, dân Chúa chọn này có sứ mạng chuẩn bị ơn cứu độ cho hết mọi người).
Mặt khác, sau trận Hồng Thủy, Thiên Chúa ban cho cuộc sáng tạo một khởi điểm mới, một nhân loại mới lại bắt đầu. Ông Nô-ê là một người công chính, như A-đam trước đây đã là người công chính khi xuất ra từ bàn tay của Đấng Tạo Hóa. Vì thế, đây đích thật là một công trình sáng tạo mới.
2. Ơn cứu độ phổ quát dưới dấu chỉ của nước
Tác giả soạn thảo chuyện tích trận Hồng Thủy này dựa trên những truyền thống xưa và những dữ kiện huyền thoại. Phải nói có hai chuyện tích về trận Hồng Thủy được đan quyện vào nhau. Một chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít không biết đến đề tài Giao Ước và một chuyện tích khác muộn thời hơn thuộc truyền thống tư tế (có lẽ trong thời kỳ lưu đày hay sau đó ít lâu) nêu bật đề tài Giao Ước.
Bài Đọc I được trích từ chuyện tích thuộc truyền thống tư tế này, trong đó chúng ta gặp thấy đề tài Giao Ước. Tác giả của chuyện tích này khoác cho chuyện tích xưa thuộc truyền thống Gia-vít một quan niệm thần học. Khi phân biệt giáo huấn của Thiên Chúa trong chuyện tích thuộc truyền thống Gia-vít, tác giả tư tế đã đọc thấy dấu chỉ của ơn cứu độ được dâng hiến cho hết mọi người, ở đó nước sẽ đóng một vai trò quan trọng. Nếu toàn thể nhân loại đã bị trừng phạt, thì cũng chính toàn thể nhân loại sẽ được cứu, vì lòng xót thương của Thiên Chúa còn lớn hơn cả tội lỗi nữa. Ơn cứu độ sẽ được thực hiện dưới dấu chỉ của nước, biểu tượng của cuộc tái sinh. Thánh Phê-rô, trong thư mà chúng ta đọc vào Chúa Nhật này, gợi lên chuyện tích này là hình bóng Phép Rửa.
3. Giao ước với tất cả mọi sinh vật
Giao Ước của Thiên Chúa trải rộng cho hết mọi sinh vật. Cử chỉ này là một hành vi sáng tạo trong các chuyện tích về nguồn gốc nhân loại (St 1-11). Ông Nô-ê, A-đam mới, cũng như những sinh vật đều đã được cứu thoát, từ nay được bảo tồn. Thiên Chúa không từ bỏ bất cứ gì từ cuộc sáng tạo ban đầu.
Chúng ta có thể nhấn mạnh thêm rằng đại họa Hồng Thủy đã đến hồi kết thúc, nước phía trên đã được phân rẽ khỏi nước phía dưới, và đất trồi lên, như trong cuộc sáng tạo đầu tiên. Mọi sự lại bắt đầu. Như vậy, Phép Rửa có ý nghĩa của một cuộc vượt qua từ cõi chết bước vào cõi sống.
4. Cầu vồng
Dân Hy-lạp xem cầu vồng là khăn quàng của nữ thần Iris, sứ giả của các thần linh. Dân Do thái đặt trọng tâm trên vấn đề về những mối quan hệ giữa trời và đất, vì thế thấy ở đây một dấu chỉ của việc Thiên Chúa giao hòa với nhân loại. Chiếc cầu vồng nối liền trời với đất biểu thị chiều kích phổ quát của Giao Ước, một lời giải thích mang đậm nét thi ca về lời hứa của Thiên Chúa. Từ nay, Thiên Chúa “gác cây cung lên mây”, tức là không còn dùng khí cụ tiêu diệt nữa. Việc cầu vòng xuất hiện trên không trung loan báo điềm lành: cơn mưa đã tạnh.
BÀI ĐỌC II (1Pr 3: 18-22)
Đoạn trích thư này vang dội Bài Đọc I, nhắc lại trận Hồng Thủy và Giao Ước mà Thiên Chúa thiết lập với ông Nô-ê. Qua đó, thánh Phê-rô nêu bật hình bóng Phép Rửa.
1. Hoàn cảnh
Thư thứ nhất của thánh Phê-rô này được viết ở Rô-ma vào những năm 60-64 (thánh nhân được phúc tử đạo vào năm 64). Thư được gửi đến cho tất cả Ki-tô hữu bị phân tán khắp miền Tiểu Á vì bị quấy nhiễu hay bị bách hại. Vị lãnh đạo Giáo Hội quan tâm đến đoàn chiên của mình. Trong thư, thánh nhân nhắc nhớ những chân lý cốt yếu của đức tin.
Bức thư này đã được một cộng tác viên của thánh Phê-rô là ông Xin-va-nô biên soạn: “Nhờ tay anh Xin-va-nô mà tôi coi là một người anh em trung tín, tôi viết ít lời để khuyên nhủ anh em…” (5: 12). Ông này cũng là người bạn đồng hành thân tín của thánh Phao-lô. Có lẽ vì thế mà những dấu ấn của thánh Phao-lô được gặp thấy ở nhiều đoạn trong thư này; như trong đoạn trích hôm nay, chúng ta ghi nhận “chết vì tội lỗi chúng ta”, hay việc đối lập giữa “thân xác và thần khí”, hoặc “Phép Rửa” đồng nghĩa với việc “tham dự vào cuộc Phục Sinh của Đức Ki tô”.
Thánh Phê-rô ngỏ lời với những người Ki-tô hữu đang phải hứng chịu những lời chế nhạo và vu khống của dân ngoại. Thánh Tông Đồ khuyên họ hãy can đảm theo gương Đức Ki-tô, Người đã chịu đau khổ dù vô tội. Từ đó, thánh nhân gợi lên ơn Cứu Độ và những ân phúc của nó đối với những người đã qua đời cũng như những người đang sống.
2. Đối với những người đã qua đời
Đây là một đoạn văn đặc thù trong các bản văn Tân Ước gợi lên Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông. Việc Đức Ki-tô xuống ngục tổ tông muốn nói lên rằng việc cứu độ những tội nhân không chỉ có giá trị đối với những ai đã qua đời sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô, nhưng cũng có hiệu lực trở về trước nữa. Đức Ki-tô đã đến “loan báo Tin Mừng” cho các vong nhân, và đặc biệt hơn nữa, cho những vong nhân bị quên lãng và bị nguyền rủa, thậm chí vào thời ông Nô-ê, ông là người công chính duy nhất (3: 19-20). Những vong nhân này xuất hiện trong truyền thống Do thái (và đặc biệt trong văn chương khải huyền) như những kẻ nổi loạn. Chắc chắn đó là lý do mà thánh Phê-rô viện dẫn họ để ca ngợi quyền năng Cứu Độ và lòng xót thương vô lượng hải hà của Thiên Chúa.
Mặt khác, việc Đức Giê-su xuống cõi âm ty nêu bật giá trị của việc Ngài lên trời trong vinh quang. Đấng xuống cõi âm ty chính là “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền”. Vinh quang tuyệt mức tương ứng với sự khiêm hạ tột cùng của Con Thiên Chúa, Đấng đã dự phần vào cõi hư vô của sự chết.
3. Đối với những người đang sống
Đối với những ai hiện đang sống (và đối với những ai sinh ra sau này), biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki tô dâng hiến ơn cứu độ dưới dấu chỉ Phép Rửa. Thánh Tông Đồ nhấn mạnh không cốt “được tẩy sạch vết nhơ thể xác” như trong các nghi thức thanh tẩy của lương dân, nhưng nhất là “cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô”.
Cùng với những bản văn của thánh Phao-lô, bản văn này làm chứng rằng vào những năm 60, thần học Phép Rửa đã được bày tỏ và khẳng định rất rõ nét.
TIN MỪNG (Mc 1: 12-15)
Đoạn trích Tin Mừng Mác-cô hôm nay gồm có hai phần: phần thứ nhất (1: 12-13) tường thuật việc Đức Giê-su chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai của Ngài; phần thứ hai (1: 14-15) tường thuật việc Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài.
1. Đức Giê-su chuẩn bị cần thiết cho sứ vụ công khai (1: 12-13)
Tin Mừng Mác-cô thuật lại cuộc thử thách của Đức Giê-su trong hoang địa. Dù bài trình thuật của thánh Mác-cô rất giản dị so với thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca, nhưng những điều cốt yếu đều được nói ở đây: Thánh Thần thúc đẩy; bốn mươi ngày trong hoang địa, chịu Xa-tan cám dỗ; Đức Giê-su chiến thắng thế lực sự Dữ. Trong phần thứ nhất này, thiết tưởng phải phân biệt hai khía cạnh: rút vào hoang địa và chịu Sa-tan thử thách.
A. Rút vào hoang địa (1: 12)
Ngay sau khi chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả và trước khi bắt đầu sứ vụ của mình, Đức Giê-su rút vào hoang địa để chuẩn bị sứ vụ của mình trong chiêm niệm, cầu nguyện và chay tịnh. Trước khi khởi sự cuộc đời của một nhà giảng thuyết lưu động, khiêm hạ và hoàn toàn tuân phục mọi hướng dẫn của Chúa Cha, Đức Giê-su sống trong sự mật thiết với Cha Ngài và trang bị cho mình sức mạnh Thánh Thần.
Về phương diện nhân loại, Đức Giê-su chắc hẳn đã kinh qua nỗi sợ hãi và xao xuyến, bởi lẽ Ngài đã gánh lấy thân phận yếu hèn của chúng ta. Ngài đặt mình vào trong sự liên đới với những âu lo của chúng ta. Ngài tăng cường lời cầu nguyện của mình bằng chay tịnh như cách thức huấn luyện mình để “làm chủ bản thân mình”, đồng thời như một hành vi “phụ thuộc vào Thiên Chúa”.
Trong cuộc đời của mình, vào những giây phút mang tính quyết định, Đức Giê-su nhiều lần rút vào nơi cô tịch để cầu nguyện. Ngài đã cầu nguyện thâu đêm trước khi chọn các Tông Đồ của mình (Lc 6: 12). Ngài đã cầu nguyện lâu giờ trước khi hỏi các môn đệ Ngài là ai và đón nhận lời tuyên xưng đức tin của thánh Phê-rô (Lc 9: 18). Ngài cũng đã thức suốt đêm cầu nguyện (Ga 6: 15) trước khi công bố rằng bánh mà Ngài ban chính là Mình Ngài làm của ăn để nuôi sống chúng ta (Ga 6: 51).
B. Chịu Xa-tan thử thách (1: 13)
Tại sao Đức Giê-su phải chịu Xa-tan thử thách? Xin được đưa ra ba lý do để soi sáng vấn đề này.
a. Chấp nhận thân phận con người
Việc Đức Giê-su chịu ma quỷ cám dỗ theo tiến trình hợp lý về ơn gọi của Ngài: Ngài đã đồng hóa mình với nhân loại tội lỗi bằng cách chấp nhận phép rửa sám hối bởi Gioan Tẩy Giả. Ngài đã đi cho đến tận cùng của sự đồng hóa này khi chấp nhận chịu những cơn cám dỗ như số phận của con cái A-đam và E-và. Qua kinh nghiệm của mình, Ngài chỉ cho chúng ta thấy làm thế nào chiến thắng những chước cám dỗ. Và chính nhờ mẫu gương của Ngài, chúng ta, được ơn phù trợ của Thánh Thần như Ngài, có thể lập lại lời khẩn cầu mà Ngài đã dạy: “Lạy Cha… xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ…” (Mt 6: 13).
b. Kinh qua những cơn cám dỗ của Dân Chúa
Nếu Đức Giê-su là một A-đam mới, một A-đam khải hoàn, thì Ngài cũng là một Mô-sê mới. Đức Giê-su đã muốn đồng hóa mình với dân Ngài bằng cách sống lại những cơn cám dỗ của họ trong hoang địa. Ngài đã trải qua cuộc lưu đày ở Ai-cập khi vừa mới chào đời. Ngài cũng đã kinh qua những chước cám dỗ trong hoang địa. Bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của Ngài nhắc nhớ không chỉ bốn mươi ngày chay tịnh và cầu nguyện của ông Mô-sê trên núi Xi-nai, trước khi đón nhận những lời Giao Ước, nhưng cũng bốn mươi năm truân chuyên mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa.
c. Khúc dạo đầu cho cuộc chiến thắng tối hậu
Cuộc đời của Đức Giê-su đầy những dấu chỉ. Cuộc thử thách trong hoang địa là một trong những dấu chỉ lớn lao. Đây là khúc dạo đầu cho một cuộc chiến vĩ đại chống lại quyền lực sự Dữ. Về phía mình, Xa-tan đã tiên cảm rằng Đức Giê-su là một đối thủ đáng gờm; vì thế nó sẽ tăng gấp bội nổ lực của mình, sẽ gây ra những phản bội và bỏ rơi, và bên ngoài có vẽ chiến thắng vào ngày thứ sáu Thương Khó của Ngài. Nhưng cuối cùng, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài đã chiến thắng trên mọi quyền lực của sự ác.
2. Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ công khai của Ngài (1: 14-15)
Phần thứ hai cũng gồm có hai khía cạnh: Khung cảnh (1: 14) và sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 15):
A- Khung cảnh (1: 14)
Sau khi nghe tin “ông Gioan bị nộp”, Đức Giê-su biết rằng sứ vụ của Ngài bắt đầu. Thông tin này cho chúng ta biết rằng Chúa Giê-su khởi đầu sứ vụ công khai của Ngài khi vị Tiền Hô chấm dứt sự vụ của thánh nhân. Như vậy, có một mối quan hệ mật thiết giữa sứ vụ của vị Tiền Hô và sứ vụ của Đấng mà vị Tiền Hô có sứ mạng dọn đường. Trong Tin Mừng Mác-cô, động từ “bị nộp” nêu bật cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Đức Giê-su. Động tự này xuất hiện ở đây cho thấy số phận của thánh Gioan báo trước số phận của Đức Giê-su.
– “Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê”: Đức Giê-su đã đến bờ sông Gio-đan để chịu phép rửa của thánh Gioan Tẩy Giả; sau đó, Ngài đi vào hoang địa Giu-đê để chịu những chước cám dỗ; giờ đây, Ngài trở về miền Ga-li-lê để khởi đầu sứ vụ của mình. Nói chung, miền Ga-li-lê thuận tiện cho sứ vụ của Đức Giê-su hơn miền Giu-đê. Miền Ga-li-lê là ngã tư quốc tế, là nơi giao thương giữa các dân tộc chung quanh, là nơi người Do thái không chỉ sống chung với lương dân nhưng còn là nơi giao tiếp với muôn dân, nên từ xưa miền này được ngôn sứ I-sai-a gọi là “miền đất ngoại bang” (Is 8: 23). Vì thế, khi coi miền Ga-li-lê là địa bàn hoạt động chính của Đức Giê-su, thánh Mác-cô muốn nhấn mạnh sứ điệp phổ quát của Đức Giê-su.
– “Rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa”: Diễn ngữ: “Tin Mừng của Thiên Chúa” muốn nói rằng Tin Mừng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giê-su là hiện thân của Tin Mừng này. Vì thế, Tin Mừng xuất phát từ Thiên Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô; nói cách khác, Đức Giê-su Ki-tô chính là Tin Mừng của Thiên Chúa.
B- Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 15):
Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su được tóm kết ở đây: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
– “Thời kỳ đã mãn”: Các ngôn sứ chia thời gian làm hai thời kỳ: thời hiện tại và thời sẽ đến. Thời sẽ đến là thời điểm quyết định dứt khoát của Thiên Chúa, mọi sự đều tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7: 22; Ed 7: 12; 9: 1; Ac 4: 18; Kh 1: 3; 1Pr 1: 1). Với động từ: “đã mãn”, Chúa Giê-su loan báo thời hiện nay đến hồi chấm dứt và một thời đại mới, thời đại cuối cùng, thời cánh chung đã tới. Đó là thời Thiên Chúa ấn định để thực hiện và thành tựu các lời hứa và các sấm ngôn của Ngài.
– “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”: Kể từ ngày thoát khỏi cảnh lưu đày Ba-by-lon, dân Do thái đặt tất cả mọi hy vọng vào việc Thiên Chúa đích thân ngự đến và thiết lập Vương Quyền của Ngài trên mọi dân tộc (Mk 4: 7; So 3: 15b; Dcr 14: 9; vân vân). Ở đây, Đức Giê-su khẳng định rằng với sự hiện diện của Ngài, “Triều Đại Thiên Chúa” đã đến và đang có mặt ở đây. Như thế, Triều Đại Thiên Chúa đã đến rồi, đến trong con người của Đức Giê-su.
– “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”: Triều Đại Thiên Chúa đòi hỏi thay đổi đời sống, như thánh Gioan Tẩy Giả đã nói rõ ra: “chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội” (1: 4). Trong lời rao giảng của mình, Đức Giê-su mời gọi “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”, nghĩa là “Hãy sám hối tức là tin vào Tin Mừng”. Lòng sám hối phải được bày tỏ ra qua việc tin vào Tin Mừng, mà tin vào Tin Mừng đồng nghĩa với việc tin vào Đức Giê-su, Đấng là hiện thân Tin Mừng của Thiên Chúa. Đó cũng là lời rao giảng đầu tiên của các Tông Đồ: “Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ được ân huệ là Chúa Thánh Thần” (Cv 2: 38). Đó cũng là lời rao giảng của thánh Phao-lô như ở Ê-phê-xô: “Tôi kêu nài những người Do thái và Hy-lạp trở lại với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giê-su” (Cv 20: 21).
14.Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
Sau những ngày đón Tết vui Xuân, chúng ta lại bước vào một hành trình mới, hành trình của Mùa Chay. Liệu rằng những thú vui, những đồ ăn thức uống và những vướng bận của cuộc sống hiện tại có làm khó, gây cản trở trên hành trình của chúng ta trong Mùa Chay Thánh năm nay hay không? Khởi đầu Mùa Chay bằng việc được xức tro, chắc hẳn nhiều người trong chúng ta cũng đã phần nào ý thức hơn về chính thân phận yếu đuối, mỏng giòn, tội lỗi của mình; đồng thời qua tro bụi, giúp chúng ta cần xác tín hơn, đây là thời gian của ơn thánh Chúa, mà lúc này hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải có nhiều ơn sủng của Chúa để nhờ đó mà đủ sức thi hành thánh ý Chúa, cùng thực thi những việc lành phúc đức hầu giúp chúng ta trở nên những người được Chúa chúc phúc. ACE rất thân mến, trong hành trình Mùa Chay năm nay, chúng ta đã có quyết tâm và hành động như thế nào để trở nên người hạnh phúc, hay nói khác hơn là để trở nên người được Chúa chúc phúc? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay như đã khai mở, linh ứng và soi sáng cho chúng ta cần có những tinh thần, thái độ sống và quyết tâm như thế nào.
Tin mừng theo Thánh Marcô cho chúng ta mẫu gương, thái độ và cách sống của Chúa Giêsu; để khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng cách công khai, Chúa đã chọn một cách sống để kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha qua việc cầu nguyện và ăn chay, để từ đây, sứ vụ của Chúa Giêsu phải thực sự là sứ vụ của Đấng được sai đến để thi hành thánh ý của Thiên Chúa Cha. Bốn mươi ngày Chúa chọn để đi vào trong sa mạc cũng chính là thời gian mà Chúa Giêsu hòa mình với mọi người chúng ta trong kiếp nhân sinh; giờ đây, Ngài lại đi vào con đường mà năm xưa dân Chúa đã đi trong sa mạc 40 năm để tiến về đất hứa, đây cũng là hành trình mà tổ phụ Êlia đã mất 40 ngày đã tiến về núi thánh Horep của Thiên Chúa, và đây cũng chính là hành trình mà trong bài đọc một ông Nôe đã cùng với con cháu mình cũng như mọi sinh vật đã ở trong tàu 40 đêm ngày để thoát cơn đại hồng thủy. Như vậy, hành trình của Chúa Giêsu thật là một hành trình nối kết giữa Thiên Chúa và con người, giữa cựu ước và tân ước, giữa những tội ác, tai ương và ơn tha thứ, cứu sống, chữa lành. Chúng ta đã khởi đầu lại các công việc thường nhật trong năm mới Tân Sửu này sau khi chọn đến với Chúa trong những Thánh Lễ đầu xuân, chúng ta cũng đến với anh chị em và những người thân quen để nối kết nhau hơn; đây thực sự là một truyền thống tốt đẹp, mong ước rằng sẽ giúp chúng ta có đủ sức để hăng say dấn thân, tiến bước trên hành trình mới.
Trên hành trình cuộc sống hiện nay, chắc hẳn không ai mà không phải lo lắng vì đại dịch vẫn đang diễn tiến rất phức tạp; thế nhưng, chúng ta đã có những lời hứa ban ơn thánh và sức mạnh của Chúa cho chúng ta. Thánh vịnh 24 trong bài đáp ca đã xác tín và mời gọi: “Tất cả đường nẻo Chúa là ân sủng và trung thành dành cho những ai giữ minh ước và điều răn Chúa”. Thật vậy, Chúa luôn trung tín và yêu thương chúng ta, dẫu cho con người thất tín, bất trung và ngay cả khi con người loại Chúa ra khỏi cuộc sống của mình. Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta không phải chỉ bằng những lời hứa, nhưng bằng những gương sáng, qua cách sống cụ thể. Chúa Giêsu đã chấp nhận Thánh ý của Chúa Cha để nên giống chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi hầu làm điểm tựa vững chắc và ban ơn cứu sống chúng ta. Điều còn lại là tùy thuộc vào mỗi người chúng ta với những quyết tâm, cách sống trên hành trình đức tin và sứ vụ ơn gọi của mỗi người.
Ý thức được thân phận yếu đuối, tội lỗi của kiếp người, Thánh Phêrô trong bài đọc hai đã mời gọi và nêu gương cho chúng ta phương thế để sống đúng căn tín là người con của Chúa, người môn đệ của Chúa Giêsu đó là: Trước hết, hãy tin vào ơn Chúa và biết nhận ra những dấu chỉ Chúa ban như ông Noê. Thứ đến, hãy bám víu vào Chúa Giêsu, như Noê đã bám trụ vào con tàu mà được sống. Vì Đức Kitô Giêsu đã vì yêu thương mà chết cho tội của chúng ta và Ngài đã Phục sinh, cho nên, những ai tin, bám víu vào Ngài, sống kết hiệp với Ngài trong niềm tin yêu thì sẽ được cứu sống.
Ðược Thần Khí Chúa thúc đẩy, trước khi thi hành sứ vụ, Chúa Giêsu đã vào sa mạc để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ; khởi đầu Mùa Chay Thánh, chúng ta cũng được chính Thần Khí của Chúa qua Lời Ngài, qua mẫu gương, cách sống của Chúa Giêsu trao ban. Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con ý thức hơn về ơn thánh và hạnh phúc đích thực của chúng con là ở nơi Chúa qua những việc đạo đức, lành thánh, hầu loại bớt những tính hư nết xấu cùng yếu đuối, tội lỗi. Amen.
15.Cám dỗ thời nay--Lm. Xuân Hy Vọng
Nhiều người trong chúng ta có thể đã hỏi ít nhất một lần trong đời rằng: Đức Giê-su vào hoang địa, chịu cám dỗ để làm gì? Ngài là Ngôi Lời, là Thiên Chúa, thì chắc chắn sẽ chiến thắng mọi cơn xúi giục, lôi kéo, cám dỗ của ma quỷ, điều này không đúng sao? Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Nước Trời cách công khai, biến cố Đức Giê-su chịu cám dỗ có ý nghĩa gì? Hơn hết, cuộc chiến chống lại cám dỗ của Ngài có cần thiết và hệ trọng đối với chúng ta, đặc biệt trong đời sống đạo của mỗi người chúng ta chăng?
Đây chỉ là một số câu hỏi, thiết nghĩ chúng ta đôi lần cũng tự đặt ra cho mình, cũng như cho những ai có trách nhiệm giảng dạy, đào tạo và đồng hành thiêng liêng. Tuy nhiên, ở đây, chúng ta không cố gắng tìm lời giải đáp cho tất cả mọi nghi vấn, câu hỏi mà chúng ta đặt ra. Cho bằng, chúng ta cùng đặt bản thân mình vào các bài đọc hôm nay, nhất là đoạn Tin Mừng ngắn ngủi này, hy vọng chúng ta sẽ tìm thấy, sẽ khám phá điều gì Chúa muốn nói với chúng ta trong Mùa Chay Thánh này: “Khi ấy, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giê-su vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài” (Mc 1, 12-13).
Như chúng ta biết, sau khi Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, thì Ngài được Thần Khí thúc đẩy đưa vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ, nơi đó Ngài ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày (x. Mt 3, 16 - 4, 2; Lc 3, 21- 4, 2). Như thế, đây không đơn giản là cuộc chiến chống lại cơn cám dỗ đơn thuần, mà đúng hơn, qua biến cố này, Đức Giê-su để lại tấm gương quý giá, và bộc lộ khả năng thần thiêng nơi con người, bởi lẽ con người được Thiên Chúa dựng nên giống Ngài và theo hình ảnh Ngài (Imago Dei). Thật sự, con người đã sa ngã, phạm tội, không giữ lời hứa với Thiên Chúa (x. hình ảnh A-đam và E-và ăn trái cấm), nhưng tiềm ẩn trong con người vẫn không mất đi tính thần thiêng, cũng chẳng mất đi khả năng chống lại cơn cám dỗ của ma quỷ. Thánh Sử Mác-cô không kể chi tiết Đức Giê-su đã chịu cơn cám dỗ ra sao, và Ngài đã chiến đấu với những cơn cám dỗ thế nào; nhưng Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu và Lu-ca cho chúng ta thấy rõ ba loại cám dỗ chính liên quan đến vật chất (tiền bạc), quyền lực và danh vọng (x. Mt 4, 2-11; Lc 4, 2-13). Đức Giê-su đã dùng Lời Chúa, dùng việc ăn chay cầu nguyện và sự tín thác kiên vững của Ngài mà chống lại sự xúi giục của ma quỷ. Đây chính là cách chúng ta soi vào, noi gương Ngài mỗi khi bị cám dỗ, hoặc có những xu hướng lệch lạc, khiến chúng ta xa rời Thiên Chúa, hoặc đối nghịch với giáo lý Giáo Hội.
Giữa thời đại này, có quá nhiều kiểu cám dỗ, vô vàn loại hình lôi kéo chúng ta bỏ đàng công chính, sống buông thả theo lối ‘đến đâu hay đến đấy’. Một trong nhiều thứ cám dỗ mà chúng ta cảm nhận rõ rệt ngày nay, đó là: ‘chẳng sao đâu, anh (chị) vẫn còn nhiều thời gian/thời giờ mà!’, ‘để sau cũng được mà! Chứ vội vàng (xưng tội, ăn năn sám hối…) làm chi!’, ‘hôm nào tiện thì làm (ví dụ: chần chừ đi xưng tội, phạm hết tội nhẹ đến tội trọng, nhưng dự định gộp một lần rồi xưng tội) luôn một thể’, đặc biệt khi sống làm việc ở xứ người, vừa không biết ngôn ngữ vừa biếng nhác, chưa trưởng thành trong đời sống đạo. Ngoài ra, một loại cám dỗ khác cũng khá phổ biến thời nay, đó là: ‘hành vi/hành động sai/xấu nhưng nếu chẳng ai bắt được tận tay, thì xem như bình thường’, ví dụ: ăn cắp vặt, ăn trộm vặt, nếu không ai thấy thì hành vi sai trái ấy vẫn coi như chẳng có gì nghiêm trọng cả. Như chúng ta biết hành vi sai trái, tội lỗi ở bản chất nó thì cho dù khi thực hiện có ai bắt được hay có ai thấy hay không, hành vi đó vẫn sai trái, tội lỗi. Hơn thế, một thứ cám dỗ khác như thể ‘vàng thật vàng thau lẫn lộn’, ấy là: hành động sai ngay tại bản chất của nó, nhưng nếu nhiều người làm thì nó lại trở nên bình thường như ‘bình chân như vại’! Một hành vi xấu xa ở bản chất của nó, thì cho dù nhiều hay ít người làm đi chăng nữa, nó vẫn là hành vi sai trái. Tuy ba kiểu cám dỗ thời đại này tinh vi, và hầu như phải chiến đấu nội tâm, nhưng ở mức độ nào đó, chúng vẫn liên quan đến tiền-tài-tình hoặc tiền tài-quyền lực-danh vọng-sắc dục.
Với tấm gương kiên định chống lại cám dỗ của Đức Giê-su, và trong niềm tín thác “Chúa Ki-tô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta, Ngài là Đấng công chính thay cho kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa” (1Pr 3, 18), thì chúng ta vượt thắng mọi cơn cám dỗ. Nhờ vào lòng nhân từ Chúa, gia đình ông No-ê (gồm tám người) được cứu khỏi lụt đại hồng thuỷ (x. St 8-9) và Ngài đã ký kết giao ước với ông qua dấu chỉ ‘chiếc cầu vòng’ (‘cái mống’ hoặc ‘cây cung trên trời’ như một số bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt sử dụng), rằng: Thiên Chúa sẽ không trừng phạt như vậy nữa; thay vào đó, Ngài khoan dung, nhân từ, nhẫn nại, chờ đợi con người. Ngài thanh tẩy và ban cho con người một lương tâm ngay thẳng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa hằng sống (x. 1Pr 3, 21-22). Nhờ đó, chúng ta thêm mạnh sức, chống chọi với mọi cám dỗ, mọi xúi giục, mọi lôi kéo của ma quỷ, hòng tách rời chúng ta xa lìa Thiên Chúa. Với đời sống cầu nguyện liên lỉ bền bỉ, ăn chay hãm mình đền tội, và tận tâm làm việc bác ái yêu thương trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta sẽ luôn cảm nghiệm Chúa nâng đỡ, và đồng hành qua Giáo Hội; chúng ta sẽ được thông phần vào mầu nhiệm Thương Khó-Tử Nạn-Phục Sinh của Đức Ki-tô.
Giờ đây, chúng ta thành tâm dâng lời nguyện cầu:
Chúa đã chiến thắng cám dỗ thế nào
Xin cho chúng con chẳng nao lòng vậy
Kiên vững chống lại ma quỷ xấu thay
An chay, cầu nguyện, tháng ngày yêu thương. Amen!
16.Chúa Giêsu chịu satan cám dỗ--Lm. Tôma Aq. Trầm Phúc
Chúng ta bước vào Mùa Chay với Chúa Giêsu, vì “sau khi chịu phép rửa, Thần Khí đẩy Ngài vào hoang địa, Ngài ở đó suốt 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú…” Thánh sử Maccô không nói đến việc Chúa Giêsu ăn chay, nhưng các thánh sử khác đều nói đến điều đó. Ngài khai mạc cuộc đời công khai của Ngài bằng những ngày chay tịnh và chiến đấu chống ma quỷ. Thánh Maccô cũng không nói đến Chúa chịu cám dỗ như thế nào. Đối với thánh Maccô, cám dỗ không phải chỉ là một giai đoạn mà suốt cả cuộc đời Chúa Giêsu. Cuộc đời của Ngài là một cuộc chiến liên lỉ chống lại Satan cho đến ngày chiến thắng cuối cùng là phục sinh.
Chúa Giêsu dẫn chúng ta vào cuộc chiến triền miên của Ngài, vì chúng ta sẽ phải chống lại ma quỷ đến cùng, cho đến ngày chúng ta toàn thắng trong Chúa.
Mùa chay chính là lúc khai mạc một thời điểm quan trọng, thời chiến đấu, vì “ma quỷ luôn như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé”. Nó là kẻ thù số một của loài người. Ngay từ buổi đầu ma quỷ đã cám dỗ Ađam và Evà, và đã khuất phục tổ tông chúng ta, biến chúng ta thành nô lệ của nó. Chúa Giêsu đến để triệt hạ kẻ thù nguy hiểm đó, giải thoát chúng ta, đưa chúng ta trở về với Cha chúng ta là nguồn mọi hạnh phúc và bình an. Ngài bắt đầu cuộc giải phóng của Ngài bằng một thời gian sa mạc, thời gian cầu nguyện thân mật với Cha Ngài.
Bốn mươi ngày là một thời gian dài. Con số 40, của người Do Thái chỉ là con số tượng trưng chỉ một thời gian dài vô định. Con số nầy được sử dụng nhiều lần trong Kinh thánh. Môsê lên núi Khoreb với Chúa bốn mươi đêm ngày. Dân Do Thái phải sống trong sa mạc suốt bốn mươi năm, tiên tri Êlia đi trong sa mạc bốn mươi ngày để đến điểm hẹn của Chúa là núi Khoreb…
Một thời gian dài như thế để làm gì? Đối với người Do Thái chay tịnh là để cầu nguyện và đền tội. Chúa Giêsu cũng vào sa mạc là để sống với Cha Ngài. Mối liên hệ nầy là sức sống của Ngài. Ngài với Cha Ngài là một như Ngài đã nói, Ngài luôn làm theo ý Cha, dìm mình trong thánh ý của Cha. Vì thế, trước khi bước vào rao giảng Tin Mừng, Ngài cảm thấy cần được sống với Cha trong tình yêu của Cha. Trước khi thuộc về loài người, Ngài thuộc về Chúa Cha.
Bước vào Mùa Chay là bước vào sa mạc với Chúa. Chúng ta cũng đi vào con đường cầu nguyện. Tâm hồn không cầu nguyện như một mảnh đất khô, làm sao bông hoa nhơn đức có thể mọc lên và trổ hoa được? Chúng ta chỉ là tro bụi làm sao có thể sinh hoa trái nếu không có mưa ơn thánh?
Chúng ta thường hay lấy lý do không có thì giờ hay bị ngăn trở nhiều bề, không thể cầu nguyện. Buông bỏ mọi sự để vào sa mạc của tâm hồn để gặp Cha trên trời, không phải là xa xỉ mà là sức mạnh. Một chiếc xe chạy mãi cũng phải dừng lại đổ xăng. Linh hồn chúng ta cũng cần nhiên liệu để đi tới. Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa đã cho chúng ta thấy nhu cầu đến với Chúa Cha. Hãy theo Ngài vào sa mạc để cho lòng mình lắng xuống, để cảm thấy sự bình an lan tỏa vào tâm hồn, vượt lên trên mọi lo lắng để vươn cao. Chúa mời gọi chúng ta: “Hỡi những ai lao nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bồi dưỡng cho”. Hãy vào sa mạc với Ta…
Chúa Giêsu vào sa mạc cũng để chịu ma quỷ cám dỗ. Ngài bắt đầu bước vào cuộc chiến công khai với ma quỷ, và cuộc chiến nầy sẽ kéo dài suốt cuộc đời trần thế của Ngài cho đến giây phút trao phó linh hồn trong tay Chúa Cha. Và Ngài đã toàn thắng.
Chúng ta đang xung vào trận mỗi ngày. Ma quỷ không mệt mỏi, nhưng chúng ta mệt mỏi. Lắm khi chúng ta cũng bại trận, nhưng Chúa không để chúng ta thất bại mãi đâu. Ngài luôn trợ lực. Ngài là thuẫn đỡ khiên che, Ngài là nơi chúng ta nương ẩn, là thành lũy bảo vệ. Bám vào Ngài, chúng ta sẽ chiến thắng. Thánh Phaolô đã lao vào cuộc chiến với tất cả nghị lực của ngài. Có lúc ngài phải la lên: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết nầy”? Ngài bám sát vào Chúa Kitô đến nỗi đối với ngài sống là Chúa Kitô và thập giá của Người: “ Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô”. “Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh đối với tôi, và tôi đối với thế gian”. Chúng ta không thể chiến thắng ma quỷ nếu không có thập giá, cũng không thể có sự thánh thiện mà không có chiến đấu. Thánh Phaolô đã kiên trì chống lại mọi cám dỗ và bắt thân thể ngài phải cực nhọc và phục tùng. Ngài đóng đinh tính xác thịt với những dục vọng của nó vào thập giá. Cuộc chiến cam go và dai dẳng, nhưng hiệu quả sẽ huy hoàng. Con đường thập giá dẫn đến phục sinh.
Mùa Chay mang một màu sắc không mấy vui tươi, nhưng nó cho chúng ta cơ hội để rèn luyện tâm hồn xứng đáng đón nhận tình yêu của Đấng đã yêu chúng ta và đã liều mạng cứu chúng ta. Hãy cùng với Chúa Giêsu đi vào cuộc chiến chống lại tất cả những gì là xấu xa nhơ nhớp để sống một cuộc đời thanh trong tươi đẹp hơn. Nếu tất cả những người tin Chúa đều cương quyết bước vào cuộc chiến chống lại sự dữ thì thế giới của chúng ta đã tươi đẹp hơn rồi.
Sau khi cầu nguyện và chay tịnh, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Thánh Maccô chỉ nói ngắn gọn bao nhiêu đó nhưng chính đó là cả chương trình dài hạn của Chúa Giêsu mà đây mới chỉ là khởi đầu. Ngài tiếp nối sứ vụ của Gioan Tẩy Giả và của các tiên tri, tức là liếp tục chương trình của Chúa Cha và Ngài sẽ đưa đến chung cuộc là cứu vớt nhân loại, đưa nhân loại trở về nguồn sung mãn là Tình yêu của Chúa Cha: “Thời đã mãn, hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng chính là Ngài, là Con Thiên Chúa đến khai mở thời cứu độ.
“Thời đã mãn” tức là Nước Thiên Chúa đã được khánh thành nơi Chúa Giêsu., chương trình cứu độ của Chúa Cha đã được thực hiện. Muốn cho Nước Thiên Chúa được hoàn thành, chúng ta phải đi vào con đường sám hối, nghĩa là thay đổi nảo trạng và cuộc sống để phù hợp với ý định của Chúa. Sám hối, thay đổi não trạng không là một việc dễ dàng. Con người không thích bị xáo trộn, chỉ thích ngủ yên trong những thói quen của mình, nhất là những thói quen xấu. Chúa Giêsu đã dám liều thân cho chúng ta, không lẽ chúng ta lại để cho những công trình của Ngài ra vô hiệu. Hãy đứng dậy, chúng ta hãy đi, đi vào cuộc chiến để dành lại hạnh phúc mà ma quỷ đã tướt đoạt của chúng ta. Mùa Chay chỉ có ý nghĩa khi chúng ta dám dấn thân với Chúa vào công cuộc đổi mới cuộc sống để “nên trọn lành như cha trên trời”.
Chúa Giêsu vẫn còn ở giữa chúng ta cho đến khi chương trình của Ngài được hoàn tất. Ngài vẫn thiết tha mời gọi. Ngài vẫn tiếp tục nâng đỡ chúng ta, nuôi dưỡng ý chí và mọi khả năng của chúng ta bằng chính bản thân Ngài. Ngài dám cho chúng ta ăn lấy Ngài. Chúng ta không thể từ chối hồng ân cao cả đó. Ăn lấy Ngài để cùng Ngài cứu vớt anh em chúng ta, những người chưa được hạnh phúc biết Ngài, những anh em đau khổ hồn xác, những người bị thiệt thòi trong cuộc sống. Nước Thiên Chúa đến trong trần gian hôm nay qua tình yêu của chúng ta, qua những cố gắng hằng ngày, qua niềm tin chân thành của chúng ta.
17.Chiến thắng lòng tham--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Thông thường con người chúng ta thường hay ghen ghét, bất hoà, tranh chấp và có khi giết hại lẫn nhau vì những điều gì?
Thưa, về danh vọng và tiền tài. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn tất cả những nề nếp gia phong vì danh vọng và đồng tiền. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái. Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ, anh em bạn hữu chém giết nhau cũng chỉ vì đồng tiền, bát gạo, và người ta cũng có thể chà đạp nhau, bất kể là thân hay quen, là bạn hữu xa gần chỉ vì một ngai vàng là địa vị, là quyền lực trong xã hội.
Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình mà hoá dại. Có những người vì quyền lực mà đánh mất tính người. Nhưng có lẽ, cái cám dỗ lớn nhất của con người qua mọi thời đại chính là đồng tiền, vì có tiền là có tất cả.
Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự, phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa thầy trò cũng không bằng ma lực của đồng tiền, như cha ông ta đã từng nói: "Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi". Thật vậy, có biết bao kẻ đã bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ vì thế dân gian mới có câu: "Ông tiền, ông Phật, ông Tiên - Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn".
Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng đến mê vàng. Sáng sớm thay áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chạy đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như thế?
Anh ta trả lời:
- Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa. Trước mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột nên họ lao mình vào lửa, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, miễn sao vơ vét, vun quén về cho đầy túi tham của mình.
Bài phúc âm hôm nay, thánh Marco nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Vậy ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chuá Giêsu quay lưng lại với Chuá Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu, Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Những cám dỗ mà ma qủy tuy đã thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra một con mồi để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại... Đó là những mối tội đầu đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và những người chung quanh.
Ở khởi đầu mùa chay khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma qủy cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của sự dữ, của ma qủy luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin vào tình yêu của Chuá. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà cầu xin ơn Chuá bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời sống sao cho phù hợp với tin mừng của Chuá. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của mình nên thánh thiện tinh tuyền như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Lạy Chuá, Chuá đã dựng nên con giống hình ảnh Chuá. Xin cho con biết gìn giữ phẩm giá con người của mình bằng việc tránh xa những thói hư tật xấu, luôn nói không với tội lỗi và luôn giữ lòng trong sạch để xứng đáng nhìn xem Thiên Chuá. Amen.
18.Sự cám dỗ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nhiều người hôm nay không tin ma quỷ, không tin sự cám dỗ của ma quỷ. Họ cho rằng tội là do mình tự ý phạm. Họ tin vào sự ý thức của con người. Họ không nghĩ đến sự yếu đuối của con người là do ngã lòng chiều theo cám dỗ. Chính do sự mất cảnh giác của cám dỗ nên con người dễ mất mắc sai lầm theo chủ quan, dễ hành động theo bản năng mà không hề kiểm soát hành vi của mình. Đó cũng là điều tệ hại dẫn con người đến mất ý thức về tội. Vì lấy mình làm trung tâm nên luôn cho mình là đúng, luôn biện minh cho hành vi sai trái của mình.
Khi con người mất ý thức về tội là lúc ma quỷ chiến thắng. Nó luôn tìm cách chứng minh không hề có sự hiện của nó. Nó chỉ tác động dưới những hình thức đẹp đẽ, tốt lành để hướng con người hành động theo ý mình. Và điều tệ hại là hành động theo ý mình thì luôn sai lầm vì thích chiều theo bản năng, chiều theo sự dễ dãi mà không cần đến lề luật.
Có một nô bộc da đen hộ tống ông chủ da trắng đi săn vịt trời. Anh ta là một ky-tô hữu. Nhân dịp nói chuyện về vấn đề tôn giáo, ông chủ hỏi người ở da đen:
“Ta chẳng hiểu tại sao mày thường xuyên nói đến tội, đến chống trả cám dỗ, nói đến Ma-quỉ. Ta chẳng phải chống trả Ma-quỉ bao giờ, mà ta vẫn sống tịnh, chẳng bao giờ bị quấy phá hoặc tấn công chi cả”
Người ở da đen trả lời lại: “Tôi xin phép được giải thích việc này. Chúng ta đang đi săn vịt. Những con nào bị ông bắn và chết liền khi rơi xuống, thì tôi để yên đó. Nhưng con nào chỉ bị thương khi rơi xuống và tìm cách chạy trốn, thì tôi dùng sào này mà phang cho chết hoặc không nhúc nhích được mới thôi”.
Ông ví như vịt đã bị Ma-quỉ bắn chết rồi, nên nó để yên ông; còn tôi ví như con vịt mới bị thương và đang tìm cách trốn thoát, do đó Ma quỉ đang giơ sào và tìm mọi cách đập tôi cho thật chết mới thôi.
Ma quý cám dỗ là sự thật. Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ con người đi nghịch lại với đường lối Thiên Chúa. Chúa Giê-su cũng từng bị cám dỗ. Ma quỷ đã bủa vây Chúa Giê-su bằng nhiều lời hứa đường mật, nhưng luôn theo một chủ đích là từ bỏ Chúa Cha để hành động theo ý mình. Quả thực, trên đời chẳng có gì cho không. Ai cho chúng ta điều gì thì thường họ cũng muốn đòi lại chúng ta một điều nào đó, huống hồ là ma quỷ, nó sẽ không bao giờ cho không chúng ta.
Năm xưa trong vườn địa đàng ma quỷ đã chiến thắng Adam-Eva, khi hai ông bà quay lưng lại với Thiên Chúa. Ma quỷ cũng chiến thắng dân Chúa chọn trên hành trình đất hứa khi thờ bò vàng để tìm kiếm miếng ăn. Nhưng ma quỷ đã hoàn toàn thất bại trước Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giê-su đã nhắc ma quỷ phải tuân phục Thiên Chúa. Ngài cũng nhắc ma quỷ cuộc sống này cái ăn cái mặc đáng quý nhưng thực thi ý Chúa còn quý hơn nữa.
Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta quay lưng lại với Thiên Chúa. Sám hối vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.
Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để chúng ta vực dậy sau những lần vấp ngã, và canh tân đời sống theo tin mừng. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với lề luật của Chúa. Amen.
19.Sống hai mặt--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta nói: “Tri nhân tri diện bất tri tâm”, nghĩa là: Biết mặt thôi chứ không dễ gì biết được lòng nhau. Sống bên nhau gọi tên nhau thì dễ mà đi vào lòng nhau lại càng khó biết bao! Không biết có phải vì cuộc sống “thật thà thì thua thiệt” khiến con người luôn tìm cách che đậy sự thật hay chỉ là thói đời thích sống hai mặt theo kiểu “đi với Chùa mặc áo cà sa - đi với ma mặc áo giấy”?
Dẫu sao thì biết mặt nhưng rất khó biết lòng như ai đó đã nói:
“Biết mặt khó biết được lòng
Đôi khi quanh quẩn một vòng bon chen”.
Đôi khi xoáy giữa sang hèn
Lòng người thay trắng đổi đen bất ngờ
Cũng như “đồng tiền có hai mặt” thì hình như con người cũng thích sống theo kiểu hai mặt. Họ nói một đàng làm một nẻo. Họ bên ngoài thân thiện nhưng đầy toan tính thủ đoạn hại người. Điều đáng tiếc là nhiều người Công Giáo chúng ta cũng sống như vậy! Một mặt họ mang danh ky-tô giáo, họ đi lễ, họ đọc kinh, họ tham gia đoàn hội, nhưng ở giữa dòng đời thì họ lại bộc lộ một khuôn mặt trâng tráo, gian ngoa, luôn lường gạt và gây chia rẽ hận thù... Họ mang danh Công giáo nhưng không bộc lộ đặc tính người Công giáo là yêu thương, họ sẵn sàng vu khống đổ vạ cáo gian anh em. Họ là con Chúa nhưng lại sống như thể con cái của ma quỷ chuyên phỉnh lừa, dối gian, điêu ngoa...
Đây là lối sống mà Chúa đã từng nặng lời là bọn Pha-ri-sêu giả hình. Bên ngoài thì đọc kinh nhưng chẳng tích đức đời sau. Điều mà Chúa muốn nơi con cái của Chúa phải biểu lộ dung nhan là con cái sự sáng khi sống công bình, bác ái và yêu thương. Hãy làm cho phẩm giá làm con Chúa được thể hiện trên khuôn mặt hiền từ và bao dung. Hãy tỏ lộ dung nhan giống hình ảnh Chúa nơi cuộc sống không lệ thuộc đam mê tội lỗi, nhưng luôn sống trong tự do đích thực.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
20.Say nắng trong tình yêu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một Status ‘Say nắng’ viết thề này:
“Số phận đã cho chúng ta vô tình lướt qua nhau nhưng lại không trao cho chúng ta quyền được yêu nhau. Em không trách anh, cơn say nắng của em. Vì tất cả là do lỗi của em dại khờ. Em sẽ nhớ đến anh, người đã làm cho em say nắng và chao đảo mọi thứ vì cơn say nắng đó. Chúc anh luôn vui và hạnh phúc. Chúc cho em sớm thoát khỏi mê cung do mình tự dựng nên.
Ai trong đời cũng từng có vài lần say nắng, rồi thời gian sẽ chữa lành vết thương. Ai cũng có một hiện tại đáng trân trọng, đừng để chút ngọt ngào giữa dòng đời cám dỗ. Vợ anh tốt, và chồng em cũng vậy. Chúng ta không thể có lỗi với họ. Say nắng thôi anh nhé! Tình yêu đích thực hay say nắng chỉ là cơn say nắng”
Lần đầu tiên tôi được nghe từ “say nắng” từ một cô gái kể chuyện chồng bị “say nắng”. Cô ta nghĩ rằng chồng cô khi tiếp xúc bên ngoài phải gặp nhiều người thì cũng có thể “say nắng” ai đó là chuyện bình thường. Nhưng rồi không phải vậy, chồng cô đã phản bội cô thật, chứ không chỉ là say nắng một chút rồi sẽ tỉnh lại để về với vợ con.
Hóa ra “say nắng” là căn bệnh của những người đã có gia đình nhưng lại đem lòng tương tư một ai đó. Tìm cách làm quen, nhắn tin, hẹn hò ăn tối, nghe nhạc... Dù có thể chưa đi tới sự phản bội nhưng nó cũng đủ làm cho người “say nắng” bỏ bê gia đình để đi tìm niềm vui riêng.
Vốn dĩ tình yêu là "mù quáng". Bởi vậy khi yêu, ai cũng có thể trở nên "ngu muội". Vì khi trong tim mình, trong mắt mình chỉ cần người mình yêu là đủ thì người ta dễ quên cả lối về. Khi yêu người ta không sống bằng lý trí mà là bằng con tim chỉ lao vào vòng tay của nhau và vượt qua mọi rào cản của đạo lý.
Xem ra trung thành tuyệt đối với tình yêu thật khó. Bởi vì hằng ngày ta phải tiếp xúc với bao nhiêu người rất đẹp, rất dễ thương, rất chiều chuộng khiến ta dễ bị say nắng. Nếu không hồi tỉnh và một lúc nào đó cơn say sẽ dẫn ta vào con đường lạc lối lúc nào chẳng hay.
Trong tương quan với Thiên Chúa càng khiến con người dễ “say nắng” bởi những cám dỗ trần gian. Có biết bao cám dỗ bởi tiền, bởi tình, và bởi quyền khiến ta say nắng chỉ nghĩ và tơ tưởng về nó. Có khi cơn say khiến ta quên cả luật Chúa để lao vào cơn say của danh lợi thú. Cơn say nào rồi cũng tỉnh nhưng hậu quả của nó đôi khi khiến ta mất hết tất cả: danh dự, gia đình và của cải. Khi tỉnh ngộ đôi khi đã quá muộn màng.
Trong năm 2017, dư luận như sôi lên sau khi một người phụ nữ ở Bình Dương khai nhận đã giết rồi chặt xác chồng thành nhiều mảnh. Đấy là một câu chuyện thực sự rùng rợn, nếu xét về tình tiết và hành động, nhưng xét cho cùng, thì với bất cứ lý do gì, đấy là một kết cục rất buồn, với sự tan nát của một gia đình, với cái chết của một người, và người kia đối diện với tù tội và tòa án lương tâm. Người phụ nữ này dám làm điều ác cũng từ cơn say tình dẫn đến chuyện gì cũng dám làm.
Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta “say nắng” mà bỏ nhà thờ, bỏ bê bổn phận với gia đình. Sám hối vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.
Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để chúng ta biết chế ngự cơn say của mình, dẫu biết rằng cám dỗ vẫn luôn có nhưng quan yếu là dám từ khước để sống trung thành với Chúa. Xin cho các gia đình trẻ đang khi phải bươn trải với cuộc sống mưu sinh nhưng luôn biết chế ngự cơn say của mình, để đừng vì “say nắng” ai đó mà phá vỡ hạnh phúc gia đình. Xin cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với lề luật của Chúa. Amen.
21.Ba cạm bẫy của ma quỷ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta nói rằng cư dân miền Bắc Cực có cách bẫy chó sói rất độc đáo. Họ mài những con dao thật bén, rồi đem nhúng dao đó vào máu súc vật cho đến khi lưỡi dao bọc toàn máu. Đêm đến, họ đem dao đó cắm ngoài đồng. Chó sói thính hơi nghe mùi máu, chạy đến liếm lưỡi dao tới tấp. Đến khi chính lưỡi nó bị dao cắt đứt, máu chảy ra, nó vẫn mải mê cắm đầu liếm mà không biết mình đang liếm máu mình cho tới lúc kiệt sức ngã lăn ra chết.
Con sói vì khát máu mà chết. Con người chúng ta đôi khi cũng khát tiền, khát tình, khát danh vọng, quyền lực mà chết. Quả đúng là “mật ngọt chết ruồi”. Danh lợi thú luôn là cạm bẫy của ma quỷ vây bắt linh hồn con người. Con người chúng ta đôi khi cũng vì những hào nhoáng bên ngoài mà vướng vào cạm bẫy của ma quỷ. Con người chúng ta đôi khi cũng đang bị chết dần mòn trong những đam mê cuồng si của mình. Bài phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy sự chọn lựa dứt khoát của Chúa Giê-su trước những cạm bẫy của ma quỷ. Ngài không lập lờ nước đôi. Ngài cũng không tìm thoả hiệp với ma quỷ. Ngài luôn chọn lựa Chúa và ý Chúa Cha để sẵn lòng loại bỏ những gì nghịch với ý định của Thiên Chúa Cha. Ngài đã chiến thắng cám dỗ nhờ tình yêu trung tín với Chúa Cha. Ngài đã tín thác hoàn toàn vào Chúa Cha đến nỗi “lương thực của Ngài chính là thi hành ý muốn Chúa Cha.
Kính thưa, Quý OBACE
Ba cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng cũng là ba cám dỗ mà ma qủy vẫn tiếp tục gieo vào tâm hồn con người hôm nay.
Cám dỗ thứ nhất đó chính là của cải và cơm bánh hằng ngày. Cha ông ta vẫn nói:
“Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ mang phần cho ta”
Đó chính là sự công bằng đích thực. Có làm có hửơng. Có những ngày tháng lặn lội ngược xuôi bôn ba nơi chốn chợ hay dầm mưa dãi nắng nơi nương đồng mới có ngày nhàn hạ hưởng dùng hoa trái mình làm nên. Nhiều người đã không ý thức điều đó. Vì thói tham lam và lười biếng họ muốn “ngồi nhà mát ăn bát vàng”. Họ đang tâm làm giầu bằng thủ đoạn, bằng lừa gạt. Họ vì tiền mà đánh mất tình bạn. Họ vì miếng cơm manh áo mà đánh mất lương tri. Họ muốn biến đá thành bánh mà chẳng cần lao động cực nhọc. Lòng tham đã khiến họ quên đi phẩm giá cao đẹp của loài người là hình ảnh của Thiên Chúa, thế nên cần phải tìm kiếm những gì cao siêu hơn là những miếng bánh mau hư nát và cũng chẳng bao giờ thoả mãn lòng tham con người.
Cám dỗ thứ hai chính là tính đòi hỏi người khác phục vụ cho những đam mê sở thích của mình. Đó là lối sống hưởng thụ và thác loạn. Ngày nay người ta vẫn sợ các cậu ấm cô chiêu. Con của những người giầu có và quyền thế. Từ nhỏ đã được cha mẹ cưng phụng, chiều chuộng nên chỉ biết đua đòi, phóng khoáng. Sống ngông cuồng đến độ bất tuân phục lề luật. Sống hành xử theo ý mình, cho dù đó là những trò mạo hiểm gây hại cho bản thân và cho đồng loại như: xì kè, ma túy, mại dâm, đua xe, lạng lách... Đó chính là con đường mà ma qủy đã gieo vào lòng người: “cứ gieo mình xuống đi.... và mọi sự sẽ có các thiên sứ lo liệu...”. Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở họ: “chớ thử thách Thiên Chúa”. Thiên Chúa là Đấng công thẳng. Mọi việc con người làm hôm nay đều phải trả lẽ trước mặt Chúa trong ngày sau nơi toà phán xét chí công của Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba chính là lòng tự mãn, kiêu căng của con người. Ma qủy luôn cám dỗ con người “coi trời bằng vung”. Họ hành động như thể không có Thiên Chúa. Họ sống theo ý mình, tệ hại nhất chính là sự nuông chiều theo những đam mê sở thích của mình. Ma qủy luôn làm cho con người cảm thấy thoả thích trong những vinh hoa phú qúy trần gian. Nó dẫn con người đi trong những đam mê bất chính, những hưởng thụ lầm lạc. Con người vì kiêu căng muốn hưởng thụ tất cả nên dễ dàng bỏ Chúa, bỏ lề luật để tôn thờ những con bò mộng, lợn vàng là danh lợi thú trần gian. Tôn thờ những tạo vật thấp hèn nên con người cũng có những lối hành xử đê tiện và thấp hèn.
Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng ba cám dỗ đó trên nền tảng căn tính của con người. Con người là hình ảnh Thiên Chúa và vượt xa muôn loài thụ tạo nên chẳng có vật gì đáng cho con người phải bán rẻ lương tâm để tôn thờ. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên con người, mới đáng để con người phải cúi mình tôn thờ. Thế nên, chỉ khi con người sống tôn thờ Thiên Chúa, con người mới sống đúng phẩm giá của mình hơn, vì “nhân linh ư vạn vật”. Chỉ khi con người thoát ra khỏi sự ràng buộc khỏi những tham sân si, con người mới sống an bình hơn.
Ước gì Mùa chay sẽ giúp chúng ta tìm lại đúng phẩm gía cao đẹp của chính mình. Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng sự dữ nâng đỡ và giúp chúng ta chiến thắng những cám dỗ đang đeo đuổi và ràng buộc tâm hồn chúng ta. Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết thanh luyện chính mình để mỗi ngày nên hoàn thiện như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Amen.
22.Cạm bẫy--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ lông áo da thú.
Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.
Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình đang liếm máu của chính mình.
Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi lăn ra mà chết.
***
Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận ra những cám dỗ đang rình rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mùa quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc, kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy.
Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trôi trên giòng đời.
Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (Mc 1,13). Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đồi, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: “Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải là một giấc mơ”.
Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.
Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ chúng ta càng phải biết chay tịnh cõi lòng.
Nếu thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng phải biết giữ gìn con mắt.
Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: “Mọi người đều nghĩ đến chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”. Vì chưng, có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
***
Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.
23.Sống là chiến đấu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một buổi chiều, cha bề trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ: - Hôm nay con đã làm gì?
- Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha, ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều hâu, thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.
- Con nói gì thế? Cha bề trên cười hỏi lại, những việc như thế làm gì có trong tu viện này?
- Thưa cha bề trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai con mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ những hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi từng bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo riết để nhục dục không xâm nhập và luôn lành mạnh.
Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì sống là chiến đấu. Đời là một cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù ẩn núp ngay trong bản thân mình chứ không ở đâu xa. Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế cũng không thoát khỏi cuộc chiến đấu này. Ngài đã quyết liệt chiến đấu và chiến thắng vẻ vang. Tin Mừng hôm nay đã kể lại, lúc khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách –tương tự như Ađam khi xưa ở vườn Eden- Địa đàng, hay dân Do Thái 40 năm trong sa mạc để chịu thử thách. Nhưng Ađam khi xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo lời xúi giục của Satan đội lốt con rắn, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa, đã ăn trái cấm, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả khốc hại muôn đời cho con cháu loài người. Bốn mươi năm trong sa mạc cũng là thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. họ cũng đã sa ngã trước thử thách: bao lần phản loạn, chống đối ông Môsê, kêu trách Thiên Chúa, muốn quay trở lại Ai Cập với kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.
Còn Chúa Giêsu trong sa mạc 40 đêm ngày đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Thánh Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép, danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng Satan phải chịu rút lui, nhường chỗ cho các thiên thần đến phục vụ Ngài. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Chúa trong Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Anh chị em thân mến,
Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu đã chứng tỏ: con người có thể thắng được những chước mê hoặc dụ dỗ của Satan, nếu biết dựa vào sức mạnh của Chúa. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa, chúng ta không theo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh. Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa phục vụ đời sống thể xác hay vật chất của chúng ta. Chúng ta không coi Thiên Chúa như một sức mạnh phù phép để làm những việc phi thường, để biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không lòn cúi, quy lụy Satan để được làm chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ tể vũ trụ, là Chúa của chúng ta.
Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng ta. Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả ý nghĩa của sa mạc rất đúng khi ông viết: “Thiên Chúa phán: Ta sẽ dẫn người yêu của Ta vào sa mạc, để ở đó Ta thủ thỉ với nàng” (Hs 2,16). Sa mạc là nơi sống gần gũi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy bịt tai trước những tiếng ồn ào bên ngoài, những lời xúi giục, dụ dỗ của Satan. Ngày nay và hằng ngày vẫn luôn có những tiếng xúi giục như vậy. Đừng tưởng chỉ có tiếng nói bên ngoài, tiếng của Satan có thể nói lên ngay trong tâm hồn chúng ta. Nó xúi giục chúng ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống theo Tin Mừng sẽ thiệt thòi lắm! Sống như người ta, làm như người đời, dễ biết bao, lợi biết mấy! Nhưng nghe theo những tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là từ bỏ Chúa, là lựa chọn không đi theo Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận khốn khổ của Ađam khi xưa, của dân Do Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước thử thách. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc, lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm sức mạnh, để chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Thử thách và sa mạc là để thanh luyện tâm hồn, để chuẩn bị cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, trong tương quan với Chúa và với anh chị em. Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu sống lại lộ trình 40 năm dân Israel đã trải qua trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, với một nỗ lực thanh luyện bản thân, ý thức tình trạng nghèo khó và bấp bênh của cuộc sống và khám phá ra sự can thiệp quan phòng của Chúa. Ngài mời gọi người tín hữu hãy mở đôi mắt để nhìn thấy nhu cầu cấp bách nhất của anh em chúng ta. Bằng cách ấy, Mùa Chay cũng trở thành mùa liên đới với những con người và với những dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới đang sống trong hoàn cảnh bấp bênh, tạm bợ, không cửa không nhà”. Đức Thánh Cha còn nói: “Hãy đón nhận lời mời gọi hoán cải của Đức Kitô để gắn bó bền chặt hơn với Thiên Chúa, Đấng Thánh và giàu lòng thương xót, cách riêng trong Mùa Chay, mùa ân sủng này. Ước gì Mùa Chay sẽ giúp cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa mà mở tâm hồn ra tiếp rước tất cả những người đang sống túng thiếu”… “Chính lúc tỏ ra cởi mở và quảng đại mà Kitô hữu, với tính cách riêng rẽ hoặc tập thể, có thể phục vụ Đức Kitô hiện diện trong người nghèo và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã đi trước chúng ta trên con đường này. Sự hiện diện của Ngài là một sức mạnh và là một khích lệ: Ngài cho ta được tự do và trở thành những chứng nhân của tình yêu thương”.
24.Sám hối thì được cứu rỗi--Anmai, CSsR
Mở đầu những trang Thánh Kinh, chúng ta thấy trình thuật Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài muôn vật. Đỉnh điểm của công trình tạo dựng của Thiên Chúa đó là Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh của Ngài. Không chỉ dựng nên giống hình ảnh mình mà thôi, Thiên Chúa còn cho con người được ơn, được quyền sử dụng tất cả những tạo vật mà Chúa đã dựng nên ấy. Thiên Chúa một mực yêu thương con người ngay từ những ngày đầu tạo thiên lập địa nhưng con người, con người mãi quay lưng lại với Thiên Chúa.
Cũng ngay những chương đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy Thiên Chúa ban đầu cảm thấy vui khi tạo dựng con người. Thế nhưng, chẳng được bao lâu, con người cứ mãi hận thù, ganh tỵ, chém giết lẫn nhau như Ca-in đã giết A-ben em mình. Không chỉ có như vậy mà lòng con người cũng bắt đầu thay đổi. Lòng con người không được như trước nữa mà lòng con người đã trở nên chai đá trước tình yêu của Thiên Chúa. Sách Sáng Thế đã ghi lại: "Đức Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. Đức Chúa phán: "Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng."(St 6, 5-7)
Giận thì giận mà thương thì thương. Thiên Chúa thấy Nôê là người công chính nên Ngài đã thương và Ngài đã bày tỏ tình thương của Ngài với Nô-ê và gia đình của ông.
Như sách Sáng Thế đã thuật lại, chúng ta thấy Thiên Chúa giận thì có giận đấy nhưng mà Ngài không nỡ bỏ con người. Ngài vẫn chờ đợi sự hoán cải, sự hối lỗi của con người.
Nhìn vào Thiên Chúa và con người, cách hành xử của Thiên Chúa và con người chúng ta thấy rất ư là buồn cười. Con người thì cứ mãi miết đi trong tăm tối, đi trong tội lỗi còn Thiên Chúa thì cứ mãi biểu lộ tình thương, sự tha thứ của mình. Một trong những người cảm nhận được lượng từ bi lân tuất, tình yêu thương hải hà của Thiên Chúa đó chính là vua Đa-vít. Vua Đa-vít hơn một lần đã dâng lời chúc tụng Chúa, chúc tụng về tình thương bao la của Thiên Chúa:
Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
Chúa phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Mô-sê biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. (Tv 103, 1-13)
Thiên Chúa là Cha hay thương xót, chạnh lòng thương và chờ đợi con người đáp trả.
Trở về với trường hợp của Nô-ê. Thiên Chúa giận, Ngài đã quyết định số phận mọi xác phàm và rồi Ngài bảo Nô-ê chuẩn bị cho quyết định ấy. Nô-ê tin tưởng vào lời của Thiên Chúa và ông đã thực hiện những gì Thiên Chúa bảo ông làm. Nếu như ông không tin tưởng và không kiên nhẫn chờ đợi trong trong 150 ngày thì số phận của ông cũng như những người kia. Thiên Chúa không những cứu sống cho đại gia đình của Nô-ê mà Thiên Chúa còn chúc phúc cho đại gia đình ấy nữa.
Để được sống, được hưởng chúc như ông Nô-ê không đơn giản như chúng ta nghĩ. Phải thật kiên nhẫn, phải thật tin tưởng, phải thật tín thác cuộc đời mình trong tay Chúa. Đâu có đơn giản để sống 150 ngày lênh đênh trên sóng nước? Phải chiến đấu, phải đối diện với biết bao nhiêu gian nan khốn khó của cuộc đời thì gia đình của Nô-ê mới được đi vào trong vinh quang với Thiên Chúa.
Trong thư của mình, Thánh Phêrô nhắc nhở mỗi người chúng ta về ơn cứu độ, về sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu. Ngài viết: "Chính Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi - Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương - hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh" (1 Pr 3, 18-19). Đức Kitô muốn vào vinh quang phục sinh với Cha của Ngài, Ngài cũng phải trải qua nhiều đau khổ và nhất là phải đón nhận cái chết và cái chết tủi nhục trên thập giá. Chúng ta thừa biết rằng, cuộc đời của Chúa Giêsu, từ khi sinh ra cho đến khi chịu chết, Ngài phải chấp nhận biết bao nhiêu đau khổ.
Để thi hành sứ vụ rao giảng công khai của mình về Nước Trời, Chúa Giêsu đã phải đối diện với biết bao nhiêu đau khổ, biết bao nhiêu là thử thách.
Để bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã vào hoang địa để chịu sự cám dỗ của ma quỷ. Không đơn giản để vượt qua những cám dỗ đó dẫu đó là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng mang trong mình phận của một con người yếu đuối, mỏng dòn, cũng biết cảm thương, cũng biết giận, biết hờn... Chúa Giêsu cũng có trong mình cảm nghĩ về sự đau khổ, về sự thử thách mà chúng ta đã từng được nghe Thánh Kinh thuật lại. Chúa Giêsu cầu xin với Chúa Cha là cất khỏi Ngài chén đắng mà Chúa Cha trao ban nhưng xin đừng theo ý của Ngài nhưng là theo ý Cha. Với tâm tình đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng quá vất vả, quá khó khăn khi đối diện với ma quỷ, với cám dỗ. Thế nhưng, chung cuộc, kết cục của cơn cám dỗ mà ma quỷ đưa ra đó Chúa đã thắng.
Tại sao Chúa đã thắng được những cơn cám dỗ của ma quỷ? Chúa đã sống kết hợp mật thiết với Cha, Chúa đã cầu xin Chúa Cha ban ơn cho mình và đặc biệt Chúa Giêsu đã hoàn toàn tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong tay của Cha. Hơn một lần chúng ta nghe Chúa Giêsu thỏ thẻ với Cha: "Lạy Cha! Nếu có thể được xin Cha cấy cho con khỏi chén này nhưng xin theo ý Cha chứ đừng theo ý con". Qua câu thỏ thẻ ấy, chúng ta thấy tâm tình của Chúa Giêsu như thế nào. Chúa Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, Ngài phải đón nhận những cơn cám dỗ của cuộc đời nhưng Ngài đã thắng.
Bước vào Mùa Chay Tịnh, chúng ta bước vào hoang địa với Chúa Giêsu để sống thời gian đặc biệt: Thời gian sám hối.
Đừng như một số người suy nghĩ về cuộc đời họ thường nói là "kệ nó! tới đâu thì tới!" hay là "sao cũng được!". Nếu nghĩ như thế, nếu nói như thế thì chẳng còn gì phải bàn, phải bận tâm nữa. Cuộc đời con người mau qua chóng tàn, nay còn mai mất. Mất và tàn ấy không phải là chuyện của chúng ta mà là của Thiên Chúa. Và nếu như người khôn ngoan thật thì luôn luôn hướng đến ngày mau qua chóng tàn ấy để cân chỉnh cuộc đời của mình cho tốt hơn.
Chúa luôn luôn chờ đợi, Chúa luôn luôn bao dung tha thứ. Phần chúng ta là ăn năn sám hối, sửa đổi cuộc đời.
Mùa Chay là mùa thuận tiện, mùa cơ hội để chúng ta hồi tâm quay về với Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Nguyện xin Chúa là Cha giàu lòng thương xót thương mở rộng vòng tay ra để ôm chầm chúng ta là những con người tội lỗi biết quay về với Chúa.
25.Tái sinh--Lm. Vũ Đình Tường
Tái sinh trong Đức Kitô là mục đích cuối cùng của mùa chay. Hàng năm Giáo Hội mời gọi Kitô hữu tái sinh trong Đức Kitô, học biết về tình yêu Chúa nhiều hơn, trở nên giống Đức Kitô hơn trong lối sống, cách cư xử, cách yêu thương, cách tha thứ và nhất là xin cho được con tim biết nhạy cảm trước đau khổ của đồng loại. Hiểu biết về Đức Kitô nhiều hơn chính là hiểu biết về đời sống của chính mình, hiểu rõ hơn mục đích của cuộc sống nơi dương thế. Hiểu biết í nghĩa cuộc sống nơi dương thế chính là hiểu rõ hơn mầu nhiệm tình yêu Chúa tiềm ẩn trong tâm hồn ta. Để khám phá ra tình yêu Chúa trong ta cần dùng đến chìa khoá được đề nghị thực hiện trong mùa chay. Chìa khoá đó bao gồm cầu nguyện, ăn chay và bác ái. Giáo Hội ước mong trong hy vọng Kitô hữu thực thi ba điều trên suốt mùa chay thánh sẽ trở thành thói quen tốt lành, tập quán đạo đức được thực hiện thường xuyên trong cuộc sống. Đây không phải là điều mới lạ mà chính là những gì ta tuyên hứa khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, sống yêu Chúa, mến tha nhân, từ bỏ ma quỷ và những quyến rũ bất chính của chúng.
Cầu nguyện đẩy xa cám dỗ, dẫn ta đến gần Chúa, chặt đứt liên hệ với sa đoạ, liên kết mật thiết hơn với Chúa và giúp hiểu rõ hơn về con người mình. Cầu nguyện hàng ngày giúp tâm hồn trong sáng, con tim thanh thản nên có thể nhìn rõ hơn đời sống nội tâm; ăn chay giúp kiềm chế tính mê, tật xấu nghiện ngập để thay đổi trở nên tốt hơn, công chính hơn trong cả lời nói lẫn hành động; bác ái giúp nhận ra giá trị, nhu cầu cuộc sống của mình và của anh chị em. Giúp ta yêu thương họ nhiều hơn bởi chính mình cũng là thành phần trong cộng đồng nhân loại được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Ngài. Kết hợp cả ba điều trên: cầu nguyện, chay tịnh và bác ái giúp ta nhận biết tình yêu Đức Kitô. Tình yêu chân thật đến từ Đức Kitô, điều mà trí tuệ không đủ khả năng phán đoán, xác định hay chối bỏ bởi tình yêu đó vượt trên những gì con người có thể dùng để so sánh, cân nhắc. Nhận biết tình yêu Chúa chỉ có một đường lối duy nhất đó là niềm tin, ngoài niềm tin ra, rất khó có thể nhận ra tình yêu Chúa bởi niềm tin vào Đức Kitô khởi đầu bằng yêu mến Ngài và tình yêu đó phát sinh niềm tin nhờ tác động của Thánh Thần.
Phúc Âm cho biết Đức Kitô được Thánh Thần dẫn vào sa mạc. Điều này cho biết Đức Kitô chay tịnh 40 đêm ngày không phải chỉ mình Ngài mà có Thánh Thần Chúa cùng đồng hành với Ngài. Vì thế chúng ta tin chắc là khi chúng ta thực hiện cuộc sống chay tịnh Thánh Thần Chúa cũng hiện diện với chúng ta. Nói cách khác chay tịnh là lời mời gọi Thánh Thần Chúa vào trong tâm hồn ta. Chúng ta mở tấm lòng ra đón nhận Thánh Thần Chúa để đón nhận chỉ bảo, hướng dẫn, soi sáng giúp ta làm điều lành, điều ngay thẳng, điều công chính bởi Thánh Thần là nguồn tình yêu và kho tàng khôn ngoan không cạn của Thiên Chúa. Thánh Mathew thuật lại chính ma quỷ cũng nhận ra sự hiện diện của Thánh Thần khi chúng nói Thánh Thần Chúa luôn nâng đỡ để Ngài khỏi vấp ngã (Mt 4, 6)
Nơi đâu có Đức Kitô hiện diện nơi đó có Thánh Thần Chúa hiện diện. Đôi khi Phúc Âm ghi lại rõ ràng sự kiện này, khi khác Phúc Âm không ghi rõ nhưng giúp ta nhận biết có sự hiện diện của Thánh Thần Chúa tiềm ẩn đâu đó vì Thánh Thần luôn cùng đồng hành với Đức Kitô.
Mùa chay mời gọi chúng ta đi vào vùng sa mạc đức tin. Mùa chay mời gọi chúng ta đi qua kinh nghiệm chính Đức Kitô đã trải qua. Mùa chay mời gọi chúng ta học cùng Đức Kitô khi gặp cơn cám dỗ đừng cậy vào sức riêng mình nhưng tin tưởng vào sức mạnh Lời Chúa trong Phúc Âm. Mùa chay mời gọi chúng ta xét mình từ bỏ lối sống bê tha, đổi mới, bắt đầu cuộc sống mới, cuộc sống tin yêu phó thác đời mình cho Chúa để nhận rõ hình ảnh Chúa trong ta. Đổi mới là làm cho cái tôi trong tôi nhỏ lại; làm cho tha nhân lớn lên trong tôi.
26.Chay tịnh và cầu nguyện--AM Trần Bình An
Tháng Ba năm 1976, người ta chở Má từ nơi quản thúc tại gia ở Cây Vông đến nhà biệt giam Nha Trang… Má bị đưa vào ở trong một căn phòng giam nhỏ không cửa sổ, ngột ngạt, dưới chân tường chỉ có một lỗ nhỏ để thông hơi. Má thường nằm xuống đất để mũi gần đó và thở. Vài tuần sau Bảy cũng bị bắt đưa vào phòng biệt giam, cách Má bức tường ngăn. Ban đầu hai phòng hoàn toàn cách biệt, nhưng về sau người ta cho đục một cửa sổ nhỏ giữa bức tường ngăn cách, và có lệnh cấm Má và Bảy không được liên lạc với nhau qua nơi này…
Một ngày nọ qua cửa sổ, Má bảo Bảy:“Má và Bảy không biết sống chết ra sao. Má có thể ra đi bất cứ lúc nào! Má xin Bảy cho Má một ân huệ được không?” “Má cứ tự nhiên, con có thể làm gì để giúp Má?” Bảy đáp. “Má muốn tĩnh tâm ba mươi ngày, nhờ Bảy giảng cho Má.” “Má nói sao? con giảng tĩnh tâm cho Má? Con làm gì có đủ khả năng giảng cho Má. Chính Má giảng cho con chứ?” Bảy ngạc nhiên vô cùng và tưởng chừng mình nghe lầm nên hỏi lại. “Bảy cứ làm theo ý Má đi. Vì đây là ân huệ Má xin.” Má ôn tồn và nhỏ nhẹ bảo… “Má nói vậy thì con xin khiêm tốn vâng lời Má.” Bảy đáp lại. Thế là mỗi ngày Bảy giảng cho Má ba bài, bắt đầu từ lúc Chúa Giêsu sinh ra, sống cuộc đời ẩn dật và công khai rao giảng Tin Mừng, đối đáp lại những bắt bẻ của người Do Thái, dạy dỗ, kể dụ ngôn và làm phép lạ, đến lúc bị bắt, chất vấn, sỉ nhục, đánh đập, con đường khổ nạn và chết trên thập giá, rồi vinh hiển sống lại và hiện ra cho các tông đồ nhiều lần, trước khi về trời gởi Thánh Thần xuống. Mỗi bài giảng kéo dài từ hai mươi đến ba mươi phút, sáng trưa chiều. Sau đó Bảy còn kéo thêm được bài thứ tư vào buổi tối trước khi ngủ. Cứ vào những giờ giấc cố định Bảy đến bên cửa sổ, phía bên kia Má đã đứng chực đó từ lúc nào rồi. Má chăm chú lắng nghe các bài giảng, sau mỗi bài Má đều góp ý rồi cả hai cùng hát thánh ca có khi bằng tiếng Việt, hoặc La Tinh và Má dâng lời cầu nguyện kết thúc. Mỗi ngày lúc ba giờ chiều là giờ tử nạn của Chúa Giêsu, Má dâng thánh lễ với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay với mẫu bánh nhỏ được bẻ vụn ra. Bên kia bức tường của phòng giam Bảy cũng làm như thế… Cuộc tĩnh tâm linh thao theo phương pháp thánh Ignatiô Loyola của Má kéo dài đúng một tháng… (Nguyễn Hồng Phúc, Câu chuyện của Má và Bảy)
ĐGM Fx Nguyễn Văn Thuận (Má) đã mời Lm Giuse Nguyễn Quang Thạnh (Bảy) giảng cấm phòng cho ngài, để chuẩn bị cuộc lữ hành gian lao ròng rã 13 năm. Ngài noi gương Thầy Giêsu vào sa mạc 40 ngày đêm, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, chay tịnh cầu nguyện, chuẩn bị đi gieo Tin Mừng.
Hoang địa
Sau khi vào hoang địa 40 ngày đêm chay tịnh, Đức Giêsu vẫn còn luôn ra nơi hoang vắng để cầu nguyện trong suốt thời công khai rao giảng. Hiện nay, trong cuộc sống ồn ào, xô bồ hiếm khi được thực sự hưởng những giây phút im lặng. Có lẽ vì người ta đâm ra sợ hãi sự thinh lặng, tránh né nỗi cô đơn, không dám đối diện chính mình, nên luôn thích sống trong không gian ô nhiễm tiếng ồn. Tuy nhiên tĩnh lặng lại rất cần thiết cho tâm hồn thư giãn, tái lập quân bình. Cũng như một bản nhạc luôn cần có những dấu lặng thiết yếu, để thay đổi, chuyển sang giai điệu, tiết tấu, hòa âm, lời ca, ý nhạc mới.
Trong Thánh Lễ, có những khoảng lặng quan trọng trước kinh Cáo Mình, sau khi nghe Lời Chúa và Hiệp lễ. Đó là những giây phút nhìn lại mình, suy niệm Tin Mừng và tâm tình cùng Thánh Thể. Tất cả sự thinh lặng đó tựa như không gian thông thoáng, tĩnh mịch của hoang địa, bỏ qua, quên đi những vướng mắc, bận tâm đến thân xác, thế gian, cám dỗ phù phiếm, để có thể gần gũi, cầu nguyện, tâm sự với Chúa.
Ngoài ra, ai cũng có thể tận dụng những giây phút trước khi ngủ, hay khi vừa thức dậy để vào hoang mạc tâm hồn. Xét mình, ăn năn, sám hối và tâm tình với Chúa hằng ngày.
Chay tịnh
Theo nghĩa phổ thông, chay tịnh là giữ mình sạch sẽ, thanh khiết qua việc kiêng ăn thịt động vật, chỉ dùng rau quả cùng các sản phẩm thực vật, và nhất là qua việc giữ tâm hồn yên tĩnh, vô ưu, không vương vấn tham, sân si, lục dục, thất tình. Theo Kitô giáo, chay tịnh tuy cũng có sắc thái tương tự, nhưng kèm thêm ý nghĩa tích cực hơn nữa, là hy sinh, hãm mình, ăn năn, sám hối, xả kỷ vị tha, yêu thương và phục vụ tha nhân, hòa giải, bác ái từ thiện.
Chay tịnh là thoát ra khỏi sự chế ngự, kiềm hãm của thân xác, của bản năng, của cái tôi nhỏ mọn, vị kỷ, để hướng thượng, nâng hồn lên với Thiên Chúa, để hướng ngoại với tha nhân. Đó là hành vi bày tỏ lòng khiêm cung, niềm hy vọng và tình yêu trước Thiên Chúa và tha nhân.
Chay tịnh để hướng về Chúa với một thái độ lệ thuộc, phó thác hoàn toàn, trước khi khởi đầu một nhiệm vụ khó khăn, hay nài xin tha thứ tội lỗi đã vấp phạm, để mở lòng đón nhận ánh sáng Thiên Chúa, xin ơn cần thiết hầu hoàn thành sứ vụ.”Đaniel đừng sợ, bởi ngay từ hôm đầu, khi ngươi đem hết lòng tìm hiểu và ăn chay hãm mình trước nhan Thiên Chúa của ngươi, thì Thiên Chúa đã nghe những lời ngươi nói, và chính vì những lời ấy mà ta đến.” (Đn 10, 12)
Cầu nguyện
Khi giữ chay tịnh thật sự thì mới có thể thành tâm cầu nguyện, như Thánh Phêrô khuyên nhủ. “Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu nguyện được.” (1Pr 4, 7) Mặc dù đã tràn đầy Chúa Thánh Thần khi vào hoang mạc, Đức Giêsu vẫn siêng năng cầu nguyện sớm tối, hầu nhận được hồng ân, Thánh Ý từ Thiên Chúa Cha.
Người dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện khiêm tốn, kín đáo và chân thành. “Khi cầu nguyện hãy vào trong phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.” (Mt 6, 6) Hơn nữa, Người còn ban cho các môn đệ Kinh Lạy Cha, một mẫu mực hoàn chỉnh để cầu nguyện.
“Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện.” (Đường Hy Vọng, số 120)
Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn chúng con vào hoang mạc hằng ngày, qua những phút thinh lặng, cô đơn, để hãm mình, hy sinh và cầu nguyện với Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria, suốt cuộc đời Mẹ là chuyến lữ hành âm thầm, chay tịnh và cầu nguyện, luôn kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, Con Mẹ, để lắng nghe và thực hành Thánh Ý Chúa. Kính xin Mẹ chỉ dạy, hướng dẫn, giúp đỡ chúng con noi gương Mẹ hy sinh hãm mình và cầu nguyện với Chúa luôn. Amen.
27.Lòng thương cảm sâu xa--Peter Feldmier--Văn Hào, SDB chuyển ngữ
Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1 P3, 19)
Sự thương hại mang dáng dấp giống như lòng thương xót, nhưng thật sự hoàn toàn khác nhau. Nhiều phật tử còn coi sự thương hại như là kẻ thù của lòng xót thương chân thật. Sự thương hại nhìn từ bên ngoài, dễ khiến chúng ta ngộ nhận, dễ bị đồng hòa với những rung cảm sâu tận từ con tim. Sự thương hại xảy ra khi nhìn thấy một người bị đau khổ, nhưng chúng ta chỉ đứng ngoài cuộc để bàng quan nhìn vào những khổ đau đó như một người hoàn toàn xa lạ. Nhiều khi chúng ta còn thốt lên “ Cám ơn Chúa, rất may là tôi không gặp những bất hạnh giống như thế’’.
Nhưng sự thương xót chân thật thì trái ngược lại. Nó đặt nền tảng trên tình yêu chân thành. Nó lôi kéo chúng ta đến với những người đau khổ, đồng hành với họ, cảm thương họ, và chia sẻ với họ về những thống khổ họ đang gánh chịu. Tín hữu phật giáo diễn tả sự thương xót đó bằng thuật ngữ Karuna, có nghĩa là “ Mang chở nơi mình một con tim biết rung động”. Trong Tân ước, chúng ta cũng gặp hạn từ Splanknizomai, nghĩa là “ Cảm thấu đến tận ruột gan” trước nỗi khổ đau của kẻ khác. Sự thương xót mời gọi chúng ta đi vào chiều sâu, biết cảm thông và biết sẻ chia một cách sâu xa trong chính trạng huống thực sự của cuộc sống con người.
Sự đồng cảm đó là một sợi dây vô hình gắn kết con người lại với nhau. Ví dụ khi chúng ta đang gặp đau khổ, tâm hồn bị bầm dập và tan nát, có một ai đó đã quảng đại, sẻ chia và thông sự vào chính đời sống chúng ta một cách cụ thể. Hoặc ngược lại, có bao giờ chúng ta đã trải nghiệm việc đồng cảm và chia sẻ thực sự với những đớn đau của người khác? Làm sao chúng ta có thể xem nỗi khổ của người khác như là nỗi đau của chính mình để thực sự biết thương cảm một cách sâu xa.
Tin mừng hôm nay kể lại biến cố Đức Giêsu lui vào hoang địa và ở đó 40 ngày, trước khi khởi sự sứ vụ rao giảng công khai. Marcô diễn tả sự kiện này chỉ với 2 câu giản đơn “ Thần khí đẩy Ngài vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Ngài.” Nhìn nơi Đức Giêsu, Đấng được Thần khí đưa vào sa mạc, chịu sự tấn công của Satan, và sống giữa loài dã thú, giữa những con vật khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất, chúng ta cảm nhận ra đó là một thân phận rất bi thương trong kiếp người. Cuộc sống của Ngài 40 ngày trong sa mạc đã không còn là cuộc sống của chính Ngài nữa.
Bài đọc hai hôm nay trích trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô tông đồ gửi đến các Kitô hữu mới được lãnh nhận phép rửa. Trong đoạn văn này, thánh nhân diễn tả cái chết của Đức Kitô như là phương cách chuộc tội cho con người, và cơn đại hồng thủy năm xưa là một hình ảnh tiên báo (bài đọc 1). Trận lụt phác vẽ trước hình ảnh của bí tích rửa tội, và chính qua giếng rửa tội chúng ta được cứu chuộc. Thánh Phêrô còn nói thẳng thừng một điều xem ra rất khó hiểu: Ngài đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1P 3,14), tức là những con người trước đây đã phạm tội vì bất tuân phục. Tôi không có ý cắt nghĩa bản văn theo nghĩa đen của từng câu từng chữ, giống như chúng ta vẫn thường tuyên tín trong kinh Tin Kính, “sau khi chết, Người xuống ngục tổ tông đem các thánh lên thiên đàng”, hoặc cũng phản ánh một điều mà Đức Giêsu đã nói trong bài giảng trên núi. Tôi muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Con người Chịu- Đóng-Đinh, Đấng đã đem sự hiện diện cứu độ của Ngài đến những vùng tối tăm nhất của phận kiếp con người. Sheol hay cõi “lâm bô” như được nói đến trong cựu ước, được trình bày như là một thế giới mênh mông ngập trong nước, nơi không còn hy vọng, nơi không có sự sống và không có cả Thiên Chúa. Đức Giêsu đã sẻ chia kinh nghiệm của chính Ngài. Với tình yêu giải thoát, Ngài đã đi vào thế giới con người, xuống tận vực thẳm ngập sâu trong tối tăm của kiếp sống làm người.
Vào Chúa nhật thứ nhất mùa chay, chúng ta được mời gọi để cử hành suốt thời gian này để đi vào sự thương cảm với anh chị em đồng loại. Tức là chúng ta phải tiến sâu vào thân phận con người để nhìn ra những khổ đau, những bầm dập và cay đắng, hầu biết diễn bày lòng thương xót sâu xa, và để con tim chúng ta luôn biết rung động. Ba hình thái theo truyền thống của mùa chay là cầu nguyện, chay tịnh và bố thí sẽ giúp chúng ta bắt đầu mùa chay thật ý nghĩa. Chúng ta cầu nguyện để thông hiệp sâu xa hơn với Đấng đã đem chúng ta vào hiện hữu, và lôi kéo chúng ta đến với tình yêu vô tận của Ngài. Chúng ta thực hành việc chay tịnh để cảm thông với 2 triệu người trên thế giới đang đói, đang khát vì chẳng có cái gì để ăn. Chúng ta giang rộng đôi tay bố thí để giải thoát chúng ta khỏi sự keo kiệt ích kỷ, hầu chúng ta được liên đới chặt chẽ hơn với những người đang cần đến chúng ta.
Mùa chay là thời gian đặc biệt để giúp chúng ta ý thức, đồng thời khơi dậy nơi chúng ta lòng thương cảm sâu xa. Đây là thời kỳ mà Giáo hội gọi mời chúng ta phải tiến sâu hơn, đi vào sự chia sẻ đồng phận trong kiếp người, với những ai đang gặp khổ đau, để với một tình yêu chân thành, chúng ta biết sống chan hòa, và con tim chúng ta biết rung động trước những khổ đau của anh chị em mình.
28.Hàng ngày vào hoang địa--AM Trần Bình An
Hôm nay Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào hoang địa, nơi tứ bề yên tĩnh, vắng vẻ, hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt, ngày nóng đêm lạnh, môi trường chẳng thân thiện, chỉ có dư giả nắng và gió, cùng thú dữ tình rập đe dọa.
Chúa vẫn thường hay đi ngược dòng đời thực dụng, thay vì mời gọi chúng ta nghỉ dưỡng tại bãi biển nắng ấm, hay lên cao nguyên mát mẻ, lại muốn chúng ta đồng hành với Người đến chỗ khô chồi, cằn cỗi, cùng hứa hẹn bao nguy hiểm bất ngờ. Nhưng đấy lại là yêu cầu chính đáng để chúng ta có thể trở nên môn đệ chân truyền của Người.
Chính trong hoang mạc cô đơn, thoát ra khỏi môi trường quen thuộc, khỏi đám đông xô bồ, con người mới có dịp đối diện với chính bản thân, mới có cơ hội nhìn lại, tự kiểm, xét mình. Đây là giờ phút phản tỉnh, một bước dừng trong cuộc sống hối hả, tất bật mưu sinh, quay cuồng với dục vọng, ham muốn, hay say sưa chức tước bổng lộc, tựa như một dấu lặng trong bản nhạc, để thăng hoa cuộc sống thêm ý nghĩa.
Đồng thời, nơi đây mỗi người còn phải đối mặt với các cuộc chiến trường kỳ và ác liệt, phải chiến đấu với môi trường nghiệt ngã, chiến đấu với bản năng sinh tồn, chiến đấu với cám dỗ xác thịt, chiến đấu với đam mê, dục vọng, do ma quỷ ra sức khêu gợi, dụ giỗ. Dẫu vậy, đây cũng là cơ hội may mắn, nếu thành tâm tìm đến nương tựa bên Người Cha Nhân Lành, để được nâng đỡ, an ủi và chúc phúc.
Tiếc thay, mang tiếng xét mình, nhưng ta lại kiêu căng, tự phụ, cứ nhiệt thành xét tội người khác, đổ vấy bao lỗi lầm, tội lỗi lên đầu thiên hạ, còn mình chẳng thấy có chút tỳ vết gì. Mang tiếng ăn năn sám hối, nhưng lòng ta vẫn tôn thờ cái tôi vĩ đại, cứ mãi manh nha, toan tính dối gian, đắn đo bao lẽ hơn thiệt. Tưởng chừng mau mắn tìm đến Thánh Ý, hóa ra toàn là đi tìm tà ý!..
Từ xa xưa, ngôn sứ Giô en đã tha thiết kêu gọi dân Israel trở về với Chúa, cũng không ngần ngại lật tẩy cái thói đạo đức giả hình: “ Đây là sấm ngôn của Đức Chúa: Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng! Hãy trở về cùng Đức Chúa, là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Ngài từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương... (Ge 2, 12-13)
Có lẽ chẳng cần đi đâu xa xôi, mà vẫn có thể vào hoang địa. Hằng ngày cứ sốt sắng dành chút thời gian với Chúa Giêsu, ngay trong căn phòng vắng lặng, trước giấc ngủ khuya, hay sáng sớm tinh mơ vừa tỉnh giấc, để kiểm điểm, sám hối và tin vào Tin Mừng. Tiếng Chúa chắc chắn sẽ vang vọng trong tâm hồn, mỗi khi thành tâm chạy đến cùng Ngài.
“Thinh lặng bên ngoài, nhất là thinh lặng bên trong là bầu khí của cuộc sống nội tâm.” (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV, số 86)
“Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để giúp đời nội tâm tiến lên. Lâu nay con để dành mấy phút?” (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV, số 98)
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin dẫn dắt con vào hoang địa, để con biết ăn năm, sám hối, thanh tẩy, hầu nhận biết được Thánh Ý nhiệm mầu trong cuộc sống của con.
Lạy Mẹ chí thánh, xưa kia Mẹ đã đồng hành cùng Chúa trong suốt 33 năm, xin nhắc con hằng ngày vào hoang địa, để con chừa bỏ tội lỗi yếu đuối, mà nhận lấy bao hồng ân Chúa luôn sẵn lòng thương ban. Amen.
29.Thần lành, thần dữ--Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc đời rao giảng nơi trần thế của Đức Kitô cho thấy sự khác biệt rõ ràng giữa thần lành và thần dữ. Thần lành hướng dẫn Đức Kitô vào hoang địa chuẩn bị cho cuộc đời rao giảng công khai. Trái lại thần dữ rình rập tìm cơ hội cám dỗ Đức Kitô nơi hoang địa. Còn một thần nữa Kinh Thánh không nhắc đến đó chính là thần khí của Đức Giêsu. Kinh Thánh dường như không phân biệt sự khác biệt giữa Thần Khí Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Kitô nhưng thường dùng chung, hoán đổi cho nhau.
Trong bài giảng đầu tiên nơi hội đường, người ta đưa cho Đức Kitô sách thánh, Ngài mở ra đúng đoạn tiên tri Isaiah nói về Ngài.
Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi (Lc 4,18)
Sách tiên tri Isaiah chương 62,1-2 tiên đoán về cuộc đời rao giảng của Đức Kitô trong đó nhấn mạnh đến việc
Ngài đến để mang Tin Mừng đến cho người nghèo khó, giải thoát kẻ bị giam cầm, cho người mù sáng mắt, giải thoát kẻ bị đoạ đầy và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Sứ mạng của Đức Kitô được hiểu một là ích lợi về phần xác và hai là ích lợi phần tâm linh. Đức Kitô mang thân phận con người như chúng ta nên con tim Ngài cũng có cảm giác như chúng ta cảm nghiệm. Con tim Ngài cũng biết đau khổ, sợ sệt khi đối đầu với thập giá. Con tim Ngài cũng quằn quại, dằn vặt trước bất công của xã hội, đè nén, chèn ép con người dành cho nhau. Con tim Ngài cũng thấm cảnh con người hành hạ con người, mệt mỏi khó khăn của kẻ tìm công việc. Con tim Ngài cũng biết chán nản, biết mệt mỏi khi phải mong chờ. Những lúc như thế Ngài thường tìm nơi thanh vắng tâm sự cùng Chúa Cha. Con tim Ngài cũng rung động khi ban phát tình yêu và vui mừng đón nhận yêu thương và những lúc như thế Ngài trở về hoang địa tâm hồn, tìm nơi thanh tịnh cảm tạ Chúa Cha. Vì thế để hiểu tâm tình của Đức Kitô chúng ta cũng cần có con tim biết cảm thông của Ngài. Để biết được tâm tình của Thiên Chúa Cha chúng ta cần biết tâm tình của Đức Kitô. Để trở thành môn đệ trung tín của Đức Kitô chúng ta cần tìm nơi thanh vắng tâm sự cùng Đức Kitô.
Về phương diện tâm linh Đức Kitô công bố năm hồng ân của Thiên Chúa và kêu gọi con người thống hối và tin vào Tin Mừng Mc 1,15.
Hành trình thống hối gặp khó khăn, chống đối mãnh liệt từ thần dữ vì thống hối chính là từ bỏ đường lối sống của thần dữ để trở thành con cái sự sáng. Thần dữ coi việc từ bỏ này là hành động phản bội lại chúng và chúng sẽ tìm mọi cách để cám dỗ và nếu cần phải tiêu diệt kẻ phản bội chúng sẽ không ngần ngại. Vì thế hành trình thống hối luôn gặp khó khăn, nội chiến trong tâm hồn xảy ra. Bao nhiêu tư tưởng ma quỷ đưa ra khiến ta ngập ngừng, tìm cơ hội kéo dài thời gian quyết định mong ta dùng giằng trước ngã ba hầu mệt mỏi, buông xuôi theo con đường ma quỷ muốn ta đi theo. Quyết tâm đầu tiên trong hành trình thống hối là tiến vào sa mạc, nơi thanh vắng, chỗ không người đề tâm hồn được an nghỉ. Chính nơi đó ta nghe tiếng mời gọi của Thiên Chúa rõ ràng hơn, mạch lạc hơn, trong sáng hơn bởi thế sa mạc tâm hồn là nơi ta tìm được tiếng Thiên Chúa và tình yêu Chúa.
Đức Kitô không cần thống hối, không cần vào sa mạc nhưng Ngài tự nguyện vào sa mạc để chỉ cho con người con đường thống hối, con đường sa mạc. Chính nơi đó Ngài gặp Chúa Cha nhưng vừa bước chân ra khỏi samạc ma quỷ đã chờ sẵn để cám dỗ. Đức Kitô dùng Lời Chúa đáp trả chúng và chúng đã thua. Chúng ta cũng cần học hỏi Lời Chúa để đáp trả ma quỉ khi chúng đến cám dỗ. Thống hối thật cần đi chung với Lời Chúa, không có lời Chúa đi kèm không có thống hối thật sự vì tự chúng ta không đủ sức chống lại cám dỗ của ma quỉ.
Có sự khác biệt giữa thần khi của Đức Giêsu trần thế và thần khi của Đức Kitô Phục Sinh. Thần khi nơi trần thế của Đức Giêsu nhấn mạnh đến con tim yêu thương của Thiên Chúa; Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh nhấn mạnh đến việc làm cho vinh quang Thiên Chúa rạng rỡ hơn. Vì thế khi nhắc đến Đức Kitô Phục Sinh là nhắc đến vinh quang, khải hoàn, chiến thắng và triều thiên vinh hiển nơi thiên quốc. Nhắc đến thần khí Đức Giêsu trần thế là nhắc đến tâm tình yêu thương, tha thứ và bác ái, từ bi, nhẫn nại.
30.Ăn chay--Lm. Vũ Đình Tường
Có người ăn chay nhưng không hãm mình.
Có người hãm mình nhưng không ăn chay.
Có người vừa ăn chay vừa hãm mình.
Có người không chay cũng chẳng hãm.
Ăn chay và hãm mình thuộc về tâm hồn, nội tâm. Thực tâm đến mức nào chỉ mình mình biết, mình mình hay. Ăn chay hãm mình thật phải là việc làm tự nguyện, thành tâm và làm với lòng mến. Ăn chay thực cần đi đôi với hãm mình. Thiếu hãm mình không thể nào là ăn chay vì bản chất của chay tịnh là tự chế, tự chủ. Tuy nhiên không phải tất cả các tự chế, tự chủ đều là ăn chay. Do vậy người ta có thể hãm mình nhưng không cần ăn chay. Ăn chay thiếu hãm mình là ngoài mặt ăn chay nhưng tâm nghĩ mặn.
Nói đến ăn chay chúng ta nghĩ đến việc kiêng ăn, kiêng uống. Sự việc không đơn giản thế. Ăn chay là việc làm tự nguyện, tự chủ và làm với lòng yêu mến Thiên Chúa. Điều răn quan trọng nhất Chúa Giêsu dậy là: Mến Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình. Toàn thể con người từ trong ra ngoài đều thể hiện lòng mến và việc làm đi đôi với yêu tha nhân. Ngoài việc kiêng ăn, bớt uống và hạn chế hút sách chúng ta cần kềm hãm các giác quan khác trong con người.
Hãm mắt nhìn sự việc xấu.
Hãm tai nghe điều tệ hại.
Hãm miệng nói điều chua ngoa, gian xảo.
Hãm chân đi đến những nơi tồi bại.
Hãm tay làm những việc bất công.
Hãm óc nghĩ đến những tư tưởng gian tà.
Hãm cảm nhận những cảm xúc bất chính.
Hãm chiều theo đòi hỏi của thân xác.
Hãm không cho cái tôi làm chủ.
Ăn chay chính là làm chủ con người anh em. Mọi tư tưởng lời nói, việc làm và ngay cả cảm xúc đều bị kềm hãm. Trước đây anh em nghe theo chúng giờ đây bắt chúng phải lắng nghe lời anh em. Chúng phải làm theo mệnh lệnh của anh em. Chúng phải là công cụ phục vụ anh em để điều răn Chúa dậy được thể hiện trong cuộc sống của anh em đó là mến Chúa và yêu tha nhân.
Như thế ăn chay có giới hạn nhưng hãm mình thì vô hạn vì lúc nào con người cũng cần làm chủ đời mình.
31.Thách đấu--Lm. Vũ Đình Tường
Thách đấu là một hình thức khiêu chiến. Một bên muốn đánh, bên kia muốn hoà. Để diễn tả một cách ôn hoà, văn vẻ hơn chính là câu nói,
Cây muốn lặng nhưng gió chẳng ngừng.
Kẻ thách đấu thường là kẻ hiếu chiến. Vì hiếu chiến nên mới thách thức, thích bạo động. Hiếu chiến đến từ tính kiêu ngạo. Tự cho mình hơn người. Tự nhận tài giỏi và tự tin là sẽ chiến thắng vinh quang.
Trong tu đức thách đấu luôn khởi nguồn từ ma quỉ vì bản chất hiếu chiến, hung hăng, thích bạo động của chúng. Đó là những hình thức khác nhau của các cơn cám dỗ, chước cám dỗ phát sinh bởi bản tính tính kiêu ngạo của ma quỉ. Bản chất của chúng là tự kiêu, cao ngạo, kiêu căng nên không từ cơ hội nào, không chừa ai, lớn bé, già trẻ chúng đều trêu ghẹo tìm cách cám dỗ.
Ma quỉ cám dỗ con người dưới nhiều hình thức, đa dạng. Chúng không thách thức con người một cách vô í thức mà có chủ trương, thủ đoạn của từng lần cám dỗ. Thủ đoạn của chúng là nghiên cứu con người đó mạnh yếu phần nào. Đâu là yếu điểm, đâu là nhược điểm của con người đó. Chúng lợi dụng cả người thân, bạn đường, người ta tin tưởng, tình bạn để lung lạc mong đạt cơn cám dỗ. Rất nhiều trường hợp lạc đường, sai lối do bạn bè quyến rũ, rủ rê, dẫn vào cuộc đời ăn chơi trác táng, sa đọa. Không phải người đó cố tình gây tai ương cho mình mà chính là động lực ngầm của ma quỉ thúc đẩy, bày mưu, gài bẫy.
Yếu điểm chính là các điểm trọng yếu của người đó. Bởi là điểm trọng yếu nên ma quỉ thường tránh không muốn đụng chạm đến. Chúng không ngu dại gì húc đầu vào tường đá, bể sọ chết. Như thế ma quỉ thường tấn công, triệt để, khai thác nhược điểm của người đó bởi vì nhược điểm là điểm dễ tấn công và kết quả thành công cao hơn nhiều. Như thế ma quỉ vừa kiêu ngạo, vừa ranh mãnh. Chúng lại có nhiều thời gian và cơ hội để tấn công một người. Vì thế ta không lấy làm lạ một người trước đây đạo đức, sau này gặp lại, lại trở thành sa đọa. Từ tình trạng đạo đức, tốt lành, thánh thiện biến sang tình trạng khô khan, nguội lạnh, biếng nhác.
Trái lại cũng nhiều trường hợp trước đây coi thường đạo nghĩa, sống buông thả. Một thời gian sau thay đổi biến thành đạo đức sốt sắng, tốt lành. Tình trạng này có được vì người đó may mắn sau những lần thua các cơn cám dỗ nhận biết nhược điểm của mình. Khiêm nhường nhận biết mình tài hèn, sức mọn không đồng nghĩa với nhu nhược mà là hiểu rõ con người mình hơn. Biết mình, biết người là bước đầu của thành công. Bởi biết mình yếu đuối nên không tự cậy sức riêng mà phó thác trong tay Chúa, phó dâng cuộc đời cho Chúa và cậy trông vào sức mạnh của lời cầu nguyện và ân sủng của các bí tích thánh, giúp họ sống trên con đường lành thánh. Một cách để nhận biết ta thuộc về Chúa hay thuộc về ma quỉ chính là nhìn vào các cơn cám dỗ. Từ chối cám dỗ là dấu hiệu cho biết ta còn thuộc về Chúa. Sa chước cám dỗ là dấu chỉ cho thấy ta đang bị ma quỉ cầm giữ, trói buộc.
Phúc âm thánh Marcô hôm nay cho biết không ai tránh khỏi chước cám dỗ. Kẻ chiến thắng chước cám dỗ là kẻ biết tự lượng sức mình. Lượng sức bằng cách vừa chống lại chước cám dỗ vừa dựa vào sức mạnh Lời Chúa tăng sức. Như thế sau mỗi chiến thắng chước cám dỗ người đó luôn sống trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì nhờ sức mạnh Lời Chúa mà có được chiến thắng, tránh khỏi sa chước cám dỗ. Đây là một kinh nghiệm quí báu cho các Kitô hữu tin cậy vào Chúa. Bài học quí trọng này cho biết sức mạnh của ta đến từ Chúa. Ta tự tin lần cám dỗ kế tiếp ta cũng sẽ chiến thắng vì có sức mạnh Lời Chúa hỗ trợ. Kinh nghiệm sống đạo này một ngày một giầu mạnh và gắn bó ta mật thiết hơn với Chúa. Điều này rất cần vì ma quỉ không dễ đầu hàng, từ bỏ cám dỗ. Thua keo này chúng rình rập, tìm cơ hội bày keo kế tiếp. Thua nữa, chúng lại bày kế khác vì bản tính hung hăng kiêu ngạo trong chúng luôn thúc đẩy chúng tấn công ta. Càng thua, chúng càng bực dọc, càng trở nên hung bạo đến điên cuồng. Cơn cám dỗ, lời thách đấu của kẻ điên nằm ngoài giải thích hợp lí, lí lẽ bình thường. Kinh nghiệm bị cám dỗ thường xuyên cho biết ma quỉ đang thua đặm, càng thua chúng càng hung hăng. Chúng càng hung hăng ta càng cần trông cậy vào Chúa nhiều hơn.
Các thánh khi còn sống tại thế cầu nguyện hàng ngày, cầu nguyện liên tục là vì các ngài luôn phải tranh đấu, triền miên chống lại các cơn cám dỗ.
Sống thánh thiện chính là gắn bó đời ta với Lời Chúa. Chúng ta xin ơn biết lắng nghe Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi lúc.
32.Cám dỗ trong hoang địa--Lm. Hồng Phúc
Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Tất cả lời Chúa hôm nay gồm tóm trong câu Chúa tuyên bố trong bài Phúc âm: “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
Trước hết, thời giờ đã mãn, Nước Trời sắp đến. Mùa Chay là mùa hy vọng, mùa tình thương. Thánh Phaolô, trong Thư gửi Giáo đoàn Roma, đã nói lên một câu khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng: “Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa đã dồn mọi người hết thảy vào đàng bất tuân (tội lỗi), ngõ hầu Người dủ lòng thương hết mọi người” (Rom 11, 32).
Thánh Phêrô, trong bài đọc hôm nay có tính cách như một bài giáo huấn cho tân tòng sắp chịu phép rửa tội, cũng nói lên ơn cứu chuộc tràn đầy rằng: “Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta… thay cho chúng ta là kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa.” Ám chỉ phép rửa tội, Thánh Tông đồ nhắc lại sự tích ông Noe xưa, vâng lời Chúa đóng một chiếc tàu giữa tiếng bàn tán, dị nghị, chế riễu, nhưng nhờ đó mà gia đình ông được cứu sống. Thì ngày nay, nhờ phép rửa tội chúng ta cũng được cứu thoát, nhờ công nghiệp Chúa Kitô phục sinh. Ngài đã thắng sự chết và tội lỗi để ban cho chúng ta sự sống của chính Thiên Chúa. Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa cũng tràn đầy.
Trong ba tường thuật của Phúc Âm nhất lãm về việc Chúa bị ma quỉ cám dỗ, Phúc Âm của Marcô ngắn gọn và chỉ có ý đưa dẫn đến sứ vụ Tông đồ của Chúa. Ngài chỉ viết: “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu sata cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài”.
Hoang địa hay sa mạc là chốn thinh không, là nơi không có tiếng nói ngoài tiếng gió vi vu hay tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng nói và có nhiều thứ tiếng nói sẽ vọng lên. Tiếng nói của chính lương tâm mình, tiếng nói của dĩ vãng, của một đoạn đời đã qua, một khoảng đời sắp tới. Nhất là tiếng nói của Chúa, vì “Người thích nói trong im lặng”. Vì thế, ngày xưa bao nhiêu vị Thánh đã vào trong hoang địa Thebes bên Ai cập để sống đời khổ tu, hoặc như Thánh Hiêrônimô xa lánh sự ồn ào thành phố Lamã để vào trong sa mạc gần Nagiarét suy niệm Thánh Kinh.
Nhưng hoang địa cũng là nơi thần bí, như lời Chúa phán: “Khi tà thần ra khỏi người nào, thì nó đi dong dài những nơi khô cháy tìm chỗ nghỉ ngơi…”. Trong chốn thinh không im lặng, ma quỉ thường hay hoạt động, quấy phá. Ma quỉ đã hiện ra nhiều lần dưới nhiều hình quái ghê sợ để buộc Thánh Antôn bỏ cuộc nhưng ngài đã xua đuổi và trở nên tổ phụ đời sống tu trì. Về đêm, trong im lặng, ma quỉ quấy phá Thánh Vianney trong 35 năm.
Sở dĩ như vậy vì trước đây, Marcô nói, “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó bốn mươi đêm ngày, chịu satan cám dỗ”. Vị Thánh Sử không nói đến diễn tiến của cuộc cám dỗ nhưng chúng ta cũng hiểu được qua các cuộc đương đầu với ma quỉ trong khi Ngài ra giảng đạo. Marcô còn thêm một chi tiết: Ngài sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài. Phải chăng Marcô muốn ám chỉ quang cảnh an bình mà Chúa Giêsu, vị Adam mới, đã sống. Ngài đã toàn thắng con rắn hoả ngục dữ tợn muốn cám dỗ Ngài bỏ cuộc, và mở cửa trời cho chúng ta vào hưởng hạnh phúc với các Thiên Thần.
Sau cùng, lời rao giảng của Chúa Giêsu gồm tóm trong hai điểm: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Ta phải ăn năn sám hối tội lỗi. Đó là phần tiêu cực của mọi cuộc trở lại. Nhưng không phải chỉ có thế, có biết bao nhiêu đạo giáo còn đòi hỏi sự hảm mình phạt xác hơn chúng ta. Nhưng điều tích cực là TIN vào Chúa Kitô, chỉ có Chúa mới có thể cứu vãn chúng ta. Đức tin và sám hối là hai yếu tố của mọi cuộc trở lại.
Charles de Foucaul đến gặp một vị linh mục quen là cha Huvelin và tâm sự: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi như mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người về từ sa mạc đó và nói: Anh hãy quì xuống xưng tội đi đã. Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, đời của vị sĩ quan ấy đã hoàn toàn đổi mới. “Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Người”.
“Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.
33.Đức Giêsu trong hoang địa--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,12-15) gồm hai phần: Đức Giêsu ở trong hoang địa (cc.12-13) và Đức Giêsu khai mạc công việc rao giảng (cc.14-15). Vì chúng ta mới suy niệm cc.14-15 trong Chúa Nhật III Thường Niên, nên hôm nay, bài suy niệm này sẽ chỉ tập trung vào phần nói về sự kiện Đức Giêsu ở trong hoang địa. Và những gì sắp được trình bày trong bài suy niệm này sẽ chỉ là một trong những cách hiểu có thể có về sự kiện ấy theo cách diễn tả của tác giả Mc.
Câu chuyện xảy ra ngay sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (cc.12-13).
Thần Khí, sức mạnh của Thiên Chúa, “đẩy” Đức Giêsu vào hoang địa. “Đẩy” ở đây là một ẩn dụ chỉ sự thúc đẩy thần linh mà Đức Giêsu trải nghiệm; đó là sự thúc đẩy bên trong, mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được. Sức mạnh của Thần Khí tràn ngập nơi Đức Giêsu và đặt Người, một cách chắc chắn, vào trong “hoang địa”. Và vì là tác động thần linh của chính Thiên Chúa, sự thúc đẩy và đặt để đó hẳn nhiên sẽ phù hợp với chương trình của Thiên Chúa về Đức Giêsu. Chương trình đó đã từng được tác giả Mc trình bày ngay từ những dòng đầu tiên của cuốn sách như một con đường (1,2). “Hoang địa” mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào, vì thế, là nơi chốn mà ở đó Người phải thực hiện cuộc hành trình của Người.
Về bản chất, hoang địa này khác hẳn hoang địa của ông Gioan Tẩy Giả. Trong trường hợp của ông Gioan, đó là một nơi chốn địa dư, gần sông Giorđan, không dân cư và tách biệt hẳn xã hội con người; nhưng khi ông Gioan ở đó thì xảy đến hàng loạt những hoạt động do sự xuất hiện của các thành phần xã hội từ bên ngoài kéo đến: ông giảng dạy, ông làm phép rửa và người ta lãnh ơn tha thứ… Còn hoang địa mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào thì không được xác định rõ ràng. Đức Giêsu đi vào trong hoang địa này bởi tác động của Thần Khí, ở lại đó trong một giai đoạn dài và thuần nhất (40 ngày), chịu cám dỗ, sống giữa các loài dã thú và được các thiên sứ phục vụ. Tác giả không kể bất cứ hoạt động nào của Người, kể cả việc cầu nguyện và ăn chay. Trong hoang địa này, bên cạnh Đức Giêsu, có sự hiện diện của ba loại “cư dân”: Satan, các loài dã thú và các thiên sứ. Tính chất và sự hiện diện đồng thời của ba loại “cư dân” này quanh Đức Giêsu khiến cho hoang địa này không còn mang tính chất địa dư – lịch sử nữa, mà là một hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng – thần học.
Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên Chúa, đang thực hiện cuộc hành trình của Người, đang đi trên con đường của Người (x.1,2). Đỉnh điểm của cuộc xuất hành của Người sẽ là biến cố tử nạn – phục sinh. Xưa, hoang địa là nơi chốn của cuộc xuất hành của dân Israel đi về đất hứa. Nay, “hoang địa” cũng là nơi chốn diễn ra cuộc hành trình hướng đến biến cố tử nạn – phục sinh của Đức Giêsu. Sự kiện Người sẽ ở trong hoang địa bốn mươi ngày (c.13) củng cố cho cách hiểu này. Mà nếu thế thì “hoang địa” nói đây chính là cái xã hội – tôn giáo Do Thái, trong đó Đức Giêsu sống và hoạt động cho đến khi Người bước vào cuộc tử nạn – phục sinh của Người. Chính Thần Khí đẩy Người đi vào trong cái xã hội – tôn giáo đó.
Nhưng hoang địa, tự bản chất, là hình ảnh của một nơi chốn tách biệt khỏi xã hội. Trong trường hợp của Đức Giêsu, sự tách biệt này, vì thế, phải được hiểu theo nghĩa của sự tách biệt về các nguyên tắc và giá trị. Đức Giêsu ở trong “hoang địa”, tức là Người tuyệt đối không chia sẻ các giá trị giả dối và sai lầm của cái xã hội – tôn giáo Do Thái và không chấp nhận những nguyên tắc và giá trị đó. Có một sự cắt đứt, một sự đoạn tục, một sự tách lìa giữa Đức Giêsu với các nguyên tắc và giá trị đó. Tính chất của ẩn dụ “hoang địa” cho phép chúng ta hiểu như thế.
Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng đang được Thần Khí đẩy vào “hoang địa” để thực hiện cuộc xuất hành của chính mình và của cộng đoàn mình. Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ không phải là một hoang địa theo nghĩa nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân Israel xưa thực hiện cuộc hành trình đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Đó là nơi xảy đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất hành đưa chúng ta vào trong đất hứa là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa đó, là chính môi trường sống và làm việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.
Nhưng “hoang địa” mà Thần Khí đang đẩy chúng ta vào cũng có nghĩa là một chốn tách biệt, như xưa đã xảy ra với Đức Giêsu. Trong ý nghĩa sự “đi vào hoang địa” là biểu tượng cho một sự tách biệt, một sự giữ khoảng cách đối với những nguyên lý và giá trị sai lầm đang chi phối xã hội, thì việc Đức Giêsu vào hoang địa, như chúng ta đã nói, là việc Người không chấp nhận hành xử theo các nguyên lý và giá trị sai lầm của xã hội và tôn giáo Do Thái đương thời. Đối với chúng ta cũng vậy. Thần Khí đang đẩy chúng ta vào hoang địa, cách riêng là trong Mùa Chay thánh này, tức là Thần Khí thúc đẩy chúng ta không thỏa hiệp và không sống theo những nguyên lý và giá trị tầm thường thế gian, ngay trong những môi trường xã hội và môi trường làm việc hiện tại của chúng ta: những ý thức hệ sai lạc, những giá trị ảo của chủ nghĩa hưởng thụ, hay những não trạng duy vật và duy khoái lạc…
Đức Giêsu đã làm theo sự thúc đẩy của Thần Khí. “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (c.13).
Trong Cựu Ước, con số “bốn mươi” thường được dùng để chỉ một giai đoạn trong đó diễn ra một tình trạng thuần nhất nào đó như thời hòa bình hay thời của một triều đại… Thí dụ trong Tl 3,11; 5,31; 8,28; 13,1; 2V 8,17; 12,2 chẳng hạn. Một điều chắc chắn là con số bốn mươi luôn ám chỉ đến bốn mươi năm con cái Israel đi trong hoang địa, tức là giai đoạn họ đi từ chốn nô lệ Ai Cập về đất hứa (x. Ds 14,33.34; 33,38; Đnl 1,3; 2,7; 29,4; Gs 14,17; Tv 95,10; Am 2,10; 5,25…). Vì thế, chi tiết “Đức Giêsu ở trong hoang địa bốn mươi ngày” rõ ràng mang giá trị biểu tượng, chỉ về cuộc xuất hành của Người, tức là cuộc hành trình đưa Người đi đến đỉnh điểm là cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
Trong “hoang địa”, Đức Giêsu chịu Satan cám dỗ suốt bốn mươi ngày. “Satan” là một hạn từ Hípri. Thoạt kỳ thủy, hạn từ này về căn bản có nghĩa là một kẻ chống đối hay một đối thủ chuyên cáo tội trong các vụ án (x. Tv 109,6; 1Mcb 1,36). Từ đó nó có nghĩa chỉ về một thành viên của triều đình thiên thai, chuyên cáo tội con người trước mặt Thiên Chúa (x. G 1,6-12; 2,1-7). Vào thời Đức Giêsu, người ta không còn nghĩ Satan là một thành viên của triều đình thiên thai nữa, nhưng có thể hiểu như là một tinh thần thù nghịch của con người, luôn tìm cách đẩy con người đến chỗ sai lạc và luôn muốn tàn phá công trình của Thiên Chúa. Trong cái xã hội Do Thái được ẩn dụ trong bài Tin Mừng bằng hình ảnh “hoang địa”, thì Satan, trong vai kẻ cám dỗ Đức Giêsu, chính là những thế lực/nhân vật liên tục tìm cách làm cho Đức Giêsu phản bội lại chương trình của Thiên Chúa về Người. Trong Mc 8,33 Đức Giêsu sẽ gọi Phêrô là Satan vì ông ta ngăn cản Đức Giêsu thực hiện chương trình của Thiên Chúa và muốn Người đi theo “tư tưởng của loài người”. Trong cuộc đời hoạt động công khai của Người trước khi đi vào cuộc tử nạn – phục sinh, giữa “hoang địa” là xã hội và tôn giáo Do Thái, Đức Giêsu sẽ phải liên tục đối diện với những thế lực/nhân vật như thế. Bài Tin Mừng hôm nay gọi là “Người chịu Satan cám dỗ”.
Loại “cư dân” thứ hai trong “hoang địa” mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến, là các loài dã thú: Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú”. Thông thường, các loài dã thú được hình dung trong đặc điểm hung dữ của chúng: chúng tấn công và thậm chí ăn thịt con người. Vì thế, trong các sách ngôn sứ, ẩn dụ dã thú thường được dùng để nói về tai ương, ví dụ trong Is 18,6; 56,9; Gr 7,33; 12,9; 16,4; Ed 32,4; 34,5. Nhưng rõ ràng đó không phải là trường hợp của Mc 1,13. Có một bản văn ngôn sứ nói về tình trạng tốt lành của việc sống chung với dã thú, là bản văn Is 11,6-9. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận cách hiểu ẩn dụ “hoang địa” ở đây ám chỉ xã hội Do Thái đương thời và “các loài dã thú” là một thành phần trong đó, thì cũng rõ ràng là không thể hiểu Mc 1,13 dựa theo Is 11,6-9 được.
Trong số các bản văn Cựu Ước sử dụng ẩn dụ dã thú, đáng chú ý là Đn 7. Trong đó, các dã thú là ẩn dụ chỉ những quyền lực chính trị kinh khủng của các đế quốc ngoại giáo. Hiểu như là một thành phần trong khung cảnh xã hội Do Thái (“hoang địa”), theo nghĩa tương tự như trong Đn 7, các loài dã thú ở đây là ẩn dụ của những thế lực và ảnh hưởng chính trị khác nhau của các phong trào và các ý thức hệ khác nhau. Đó là những thứ quyền lực chính trị – xã hội – tôn giáo áp bức, hay ít là gây sức ép, trên những con người đang sống trong xã hội đó. Chúng tác động trên con người, từ bên ngoài; và chúng sẽ thi thố sức mạnh của mình, ít là về mặt thể lý, để đẩy Đức Giêsu đến cái chết thảm thương trên thập giá sau này. Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” tức là chấp nhận làm đối tượng mà các thứ quyền lực ấy nhắm đến và không ngừng tìm cách tác động, gây ảnh hưởng.
Loại “cư dân” thứ ba trong “hoang địa” mà Mc 1,13 nói đến là các “thiên sứ” (aggelos). Trong Tin Mừng Mc, lần đầu tiên “thiên sứ” được nói đến, chính là ở 1,2. Và hình ảnh của aggelos đó được thể hiện một cách cụ thể – lịch sử nơi Gioan Tẩy Giả (1,4). Như thế, trong Mc, “aggelos” vẫn có thể là con người chứ không nhất thiết phải là hữu thể thiêng liêng. Nếu chúng ta chấp nhận cách giải thích phía trên về ba hình ảnh “hoang địa”, “Satan” và “dã thú”, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận cách giải thích, theo đó, ẩn dụ “các thiên sứ” ở đây ám chỉ một nhóm người nào đó trong cuộc đời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Nhóm này có chức năng cộng tác với Đức Giêsu, kể cả việc phục vụ Người. Vậy, có thể hiểu “các thiên sứ” ở c.13 là hình ảnh ẩn dụ của những con người gắn bó với Đức Giêsu, giúp đỡ Người khi Người thi hành sứ vụ và cộng tác với Người trong công cuộc của Người. Đức Giêsu chấp nhận sự phục vụ của các thiên sứ trong hoang địa có nghĩa là người chấp nhận sự phục vụ, giúp đỡ và cộng tác của những con người đó trong khi Người thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Tóm lại, trong phần đầu bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Mc đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú và sâu sắc. Tất nhiên, cách giải thích vừa được trình bày vẫn chỉ là một trong những cách hiểu về những hình ảnh được tác giả Mc sử dụng. Nhưng dù sao, trong khung cảnh của phụng vụ Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay, cách hiểu này gợi ý cho chúng ta nhiều suy tư thiết nghĩ là rất đáng chú ý, liên quan đến cuộc sống và việc thi hành sứ mạng của các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy để cho chính Chúa Giêsu (như được khắc họa trong bài Tin Mừng hôm nay) nói với chúng ta về những gì chúng ta phải sống cách đặc biệt trong Mùa Chay thánh này.
“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
34.Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Văn Phan
Không còn gì nghi ngờ nữa. Hôm nay Mùa Chay đã 'nói trúng tim đen của chúng ta' rồi đấy, và làm rung động tận chốn thâm cung tâm hồn chúng ta. Mùa Chay kêu gọi chúng ta từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa. Chay tịnh, cầu nguyện, bố thí xưa nay là những việc làm chính yếu của Mùa Chay. Đó là những khí cụ chúng ta được khuyên dùng để dễ dàng tiến lại gần bên Thiên Chúa hơn, trong khi vẫn phải hành trình tiếp tục suốt đời. Đối với một số người, thì Mùa Chay đồng nghĩa với bỏ rượu, bỏ thuốc lá, trong khi những người khác lại thấy Mùa Chay là thời gian đi nhà thờ hằng ngày... Cho dù chúng ta thực hiện kiểu chay tịnh cách nào, thì động cơ thúc đẩy chúng ta mới là quan trọng. Nếu chúng ta ăn chay hay ăn kiêng chỉ vì muốn có thân hình thon thả, hay chúng ta làm phúc bố thí chỉ vì muốn được nể vì trong cộng đồng, thì những nỗ lực của chúng ta cũng hơi uổng công vì chúng ta đã nhận được phần thưởng rồi và vẫn chưa đến gần Chúa hơn là bao.
Khi khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Chúa Giêsu đã đi vào hoang địa suốt 40 ngày đêm - cũng vì thế mà ngày nay chúng ta tổ chức hẳn một Mùa Chay Thánh. Giáo Hội muốn mọi người hãy sống lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu là thiết lập mối tương quan sâu đậm và tình nghĩa thân thiết hơn giữa Thiên Chúa với chúng ta. Hành trình của chúng ta là một hành trình vào sa mạc nội tâm nơi đó mình ta đối diện với Thiên Chúa trong tinh thần chân thực. Hoang mạc tâm hồn sẽ giúp chúng ta nhìn lại bản thân xem chúng ta thực sự là ai, chúng ta làm gì với những nén bạc Chúa trao, đồng thời sẽ giúp chúng ta ý thức hơn về tình trạng tội lỗi của chính mình. Nhờ đó dần dần chúng ta sẽ đau lòng mà nhận ra mình cần thay đổi và canh tân cách tranh đấu với sự dữ bằng cách cầu nguyện chay tỉnh và đền tội. Việc chúng ta đền bù tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhận thức được rằng những mặt thiêng liêng của cuộc sống còn quan trọng hơn những khía cạnh vật chất của nó. Một khi chúng ta ý thức được những lỗi lầm của bản thân, chúng ta mới nhận ra nhu cầu cần thay đổi điều này điều khác.
Nếu chẳng may chúng ta nằm trong số những người chuyên chụp mũ cái xấu lên đầu mọi người. Thì nay đi vào hoang mạc chính là cơ hội để chúng ta nhìn kỹ lại cố tật ngồi lê đôi mách, nói hành nói tỏi, đổ vạ cáo gian của chúng ta. Chỉ cần hứa từ nay sẽ giữ mồm kín miệng là đã có một phương thuốc hữu ích rồi.
Chúng ta có thể dốc lòng làm vui lòng những người mà chúng ta thường hay xung khắc hay ít ra là chúng ta không có cảm tình. Bỏ rượu chè cờ bạc có làm cho chúng ta mất mát gì đâu nếu như những thứ đó chỉ tổ là những nguyên nhân gây xào xáo làm cho gia đình mất hạnh phúc...? Cầu nguyện hằng ngày rất quan trọng cho tất cả chúng ta vì đó là mối giây liên lạc sinh tử giữa chúng ta với Thiên Chúa. Ngay như mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Kitô cũng không thể thành tựu nếu không thực hành cầu nguyện. Chúng ta phải dành ưu tiên số một cho việc cầu nguyện, một phương thế cũng cố đức tin đức cậy và đức mến, nghĩa là cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tăng cường niềm tin tưởng cậy trông và đem chúng ta đến gần gũi Thiên Chúa hơn.
Mùa Chay là thời gian dành cho chúng ta tìm đến tâm linh, kêu mời chúng ta nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong mọi phương diện của cuộc sống và từng bước thực hành đương đầu với những xấu xa của tội lỗi và ích kỷ bên trong chúng ta.
Mùa Chay là mùa kêu gọi chúng ta thay đổi hành vi thái cử vì những thói hư tật xấu cố hữu trong chúng ta lâu nay làm thui chột sức tăng trưởng của chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là thời gian chúng ta cần trân trọng đón nhận ân sủng, nếu chúng ta có ý muốn Mùa Chay trở nên một kinh nghiệm thanh luyện đời sống thiêng liêng. Cần nói "không " với bản thân và nói "có " với Thiên Chúa là tất cả những gì phải làm trong cuộc phấn đấu nơi hoang mạc Mùa Chay này.
35.Những cám dỗ của Mùa Chay--Lm. Thu Băng, CRM
Mùa Chay bắt đầu vào thứ 4 Lễ Tro, là ngày bắt đầu của một chu kỳ Phục Sinh, một chu kỳ đầy sức sống hạnh phúc. Mùa Chay còn được gọi là mùa "Chữa bệnh" hơn là mùa "đền tội". Mùa Chay theo thể lý, người ta sẽ hãm mình, hãm các đam mê thể xác, bớt ăn uống theo sở thích... Đó là một hình thức tìm lại sự quân bình cho thân thể (Chữa bệnh phần xác).
Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng tìm cách hãm dẹp những tính mê nết xấu (như thích vui chơi đàng điếm, ham mê rượu chè, thú cờ bạc...), hãm dẹp những tư tưởng bất chính (trả thù, ghen ghét, hằn học, gian lận, biếng nhác...), để tìm lại một tâm hồn thảnh thơi an bình (Chữa bệnh phần hồn).
Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng không quên gia tăng lòng đạo hạnh qua việc chu toàn bổn phận tinh thần: Đọc thêm kinh sách, cầu nguyện, tham dự các giờ Thánh Lễ, Phụng vụ chung, hành hương kính viếng nơi thánh, dành thêm thì giờ làm việc thiện, giúp đỡ mọi người, bố thí cho người nghèo....
Trong Mùa Chay ta bắt chước Chúa, lắng đọng tâm hồn như đi vào rừng vắng để dễ cầu nguyện, xây dựng đời nội tâm thêm mạnh mẽ, để có đủ sức chiến đấu với mọi cám dỗ trong đời. Chúa Kitô trước khi thi hành sứ mệnh tông đồ, Ngài vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi và cầu nguyện, đồng thời qủi đến cám dỗ Ngài.
Việc ma qủi cám dỗ Chúa thực là một việc thánh, vì Ngài đã kể những cách cám dỗ nơi chính mình cho chúng ta có kinh nghiệm. Các cám dỗ đem đến cho Ngài cũng không phải là loại cám dỗ thường tình của người đời: Hóa phép cho đá thành bánh - Nhẩy từ trên nóc đền thờ xuống mà không chết. Chỉ có một cái cám dỗ giống loài người là ham danh vọng: Quì xuống tôn thờ ma qủi để đoạt được quyền uy thế phiệt. Ma quỷ đoán Ngài phải là một nhân vật rất thánh, thánh khác thường, vì nó thấy Ngài cầu nguyện và suy nghĩ bằng những năng lực phi thường (khác lối suy nghĩ và cầu nguyện của loài người), để tìm cách chinh phục các linh hồn, nên nó dùng phương pháp cám dỗ cũng khác thường như vậy.
Những cám dỗ này chắc cũng không phải xẩy ra một lúc, mà suốt 40 đêm ngày suy nghĩ và ma quỷ đã đến đưa phương thế giúp Ngài giải quyết.
1. Đưa đá cho Chúa, ma quỷ giải quyết rằng Ngài có thể dùng quyền năng phi thường của mình mà biến hóa vật chất nên của quí giá làm lòa mắt người trần, đánh mạnh vào lòng ham thích vủa cải sang trọng, để lôi kéo họ theo mình. Vì nhân loại thường dùng quyền thế, chức vị danh vọng để sai khiến nhau.
2. Cho Ngài xem thấy tất cả thế gian, ma qủy giải quyết rằng việc cai trị cả nhân loại không khó gì, chỉ cần qùy xuống xin hắn, thì hắn cho đủ quyền cai quản đó. Vì nhân loại dễ dàng chấp nhận quy phục gian tà để có quyền gây thanh thế trên người khác. Chúa dạy phải công chính hóa đời mình và chỉ phục quyền Đấng có quyền thật.
3. Trong cám dỗ thứ ba chúng giải quyết: Cứ nhảy xuống mà không việc gì, sẽ làm cho dân chúng thấy rùng rợn mà theo, vì phép tắc của Ngài không ai có thể vượt được. Vì nhân loại vẫn hay dùng lối bùa phép này để dọa nạt người khác, nhưng Chúa dạy không lừa dối, gạt gẫm người ta.
Trên đường theo Chúa, giữ đạo, đôi khi chúng con thấy mình khó thắng các cám dỗ quá. Xin Chúa thêm sức mạnh để chúng con có thể thực hiện điều Chúa dạy cách bền chí.
36.Đọc lại câu chuyện cám dỗ từ sách Sáng Thế--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan.
Đọc lại câu chuyện Sáng Thế (St 3, 1-7): Cám dỗ và sa ngã.
Rắn là vật tinh ranh hơn mọi dã thú (3,1a). Rắn là loài có hình thù và cách di chuyển đặc biệt; nó khôn khéo và nguy hiểm làm người ta sợ và ghê tởm. Nhiều tôn giáo (cụ thể tại Canaan) coi rắn như thần và nó có vai trò trong việc ma thuật và biểu tượng sự sinh sản phong phú. Ở đây, rắn biểu tượng cho sự độc ác và khôn khéo, tìm cách phá hoại hạnh phúc con người bằng cách phá đổ mối thân thiện giữa con người với Thiên Chúa. Sách Khôn Ngoan ví rắn là quỷ dữ (Satan): “Chính vì quỷ dữ ganh tỵ, mà cái chết xâm nhập thế gian” (St 2,24); Khải Huyền gọi là Satan, ma quỷ (Kh 12,9); (1Ga 3,8).
Rắn quỷ quyệt đưa ra một câu hỏi bâng quơ: “Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?” (3,1b). Quả là một câu hỏi khôn khéo và nguy hiểm vì có hai nghĩa:
Không được ăn tất cả, chỉ một số nào đó thôi.
Không được ăn cây nào cả.
Rõ ràng, lời này có ý xuyên tạc hoàn toàn ý Thiên Chúa, và như thế có tác dụng lôi kéo người nữ vào câu chuyện.
Người nữ phản kháng: Quả cây trong vườn chúng tôi được ăn. Nhưng về quả cây ở giữa vườn thì Thiên Chúa đã phán: các ngươi không được ăn, không được rờ đến kẻo phải chết (3,2). Việc đầu tiên là người nữ thấy cần phải đính chính để bênh vực Chúa, và nói quá đi (không được đụng tới) như thể xác định một lệnh truyền nghiêm nhặt để giữ mình.
Con rắn ngọt ngào dụ dỗ: Chẳng chết chóc gì đâu! quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó, mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như những Thiên Chúa biết cả tốt xấu. (3,4-5). Hết sức khôn khéo, rắn không xúi giục ăn trái cấm, nhưng tạo nên trong lòng con người sự nghi ngờ Lời Chúa. Nó quả quyết mình biết Chúa hơn người nữ và thuyết phục bà bớt tin tưởng để phán đoán rằng, biết đâu Thiên Chúa cấm vì sợ con người sẽ bằng mình. Các ngươi sẽ như Êlohim (giống Êlohim) là những kẻ biết thiện ác. Biết không nguyên bằng trí thức nhưng còn là kinh nghiệm; biết là làm chủ được sức mạnh thần bí. Rắn gợi cho con người nghĩ là họ có thể mở rộng cuộc sống vượt qua những giới hạn mà Chúa đã đặt, để họ có quyền định đoạt tốt xấu cho mình nghĩa là định mệnh cuộc đời mình, và như thế là đồng nghĩa với sự từ chối lệ thuộc Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, tức là kiêu ngạo muốn tách mình ra khỏi Thiên Chúa.
Người đàn bà đã nhìn: quả là cây ăn phải ngon. Mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy, để được tinh khôn (3,6). Rắn không nói gì thêm. Cần đi vào yên lặng để những lời cám dỗ trên được lắng sâu vào trí óc và cõi lòng. Nó tác động từ giác quan, đi vào trí khôn tạo lòng muốn. Người nữ ngắm nghía trái cây thấy ngon (giác quan - cảm giác), mát mắt (thẩm mỹ) và đáng thèm khát để được Khôn Ngoan, thông minh như Chúa, nên giống Chúa.
Và bà đã hái lấy quả mà ăn, và bà cũng trao cho chồng ở bên bà đưa cho chồng. (3,6). Người bị dụ dỗ trở hành kẻ dụ dỗ. Nàng chia cho chồng với ước mơ hão huyền là chồng được thông minh như Thiên Chúa.
Tại sao trong tình trạng sáng suốt và quân bình ban đầu, con người có thể bị sa ngã? Xét cho cùng, dầu sao họ cũng chỉ là thụ tạo bất toàn, với thân phận mỏng manh. Điều quan trọng đó là họ luôn có tự do để phán đoán và quyết định.
Và ông đã ăn (3,6). Lời Thánh Kinh thật vắn gọn diễn tả sự yếu đuối, nhu nhược của Ađam và ông đã sa ngã.
Mắt hai người mở ra (3,7). Đúng như lời rắn nói, bây giờ họ thấy một cái gì mới, nhưng cách khác hẳn họ tưởng: thay vì trở nên thần linh biết thiện ác, họ biết mình trần truồng. Tất nhiên, trước khi phạm tội, họ trần truồng nhưng coi đó là tự nhiên và không xấu hổ. Bây giờ sự vô tội đã mất, xấu hổ là dấu chỉ của ý thức tội lỗi họ có; tội đã gây nên trong thẳm sâu con người sự đổ vỡ: thế quân bình và hòa hợp giữa tinh thần và thể xác đã mất, con người không còn làm chủ được mình nữa, và vì thế cảm thấy xấu hổ trước mặt nhau.
Sau khi sa ngã, hai người lẫn trốn Thiên Chúa. Họ đi trốn chứng tỏ lương tâm hối hận vì đã không vâng lời. Tội phá vỡ sự hài hòa với chính mình. Để chạy tội, con người như đổ lỗi cho Chúa: người đàn bà mà Chúa đã đã đặt bên tôi, chính y thị đã hái nơi cây ấy cho tôi, nên tôi đã ăn (3,12). Người đàn ông đỗ lỗi cho Chúa: chung quy chỉ vì Chúa cho tôi người đàn bà ở với tôi.
Người nữ đổ tội cho rắn: Con rắn dụ dỗ tôi nên tôi đã ăn (3,13). Cả hai câu nói trên tỏ lộ mối rạn nứt giữa người với nhau. Sự liên đới trong tội bị phủ nhận, người ta đổ trách nhiệm cho nhau. Sự đồng phạm không liên kết con người trước mặt Chúa, nhưng làm họ ra lẻ loi. Tội bắt đầu gây chia rẽ và phá vỡ mối tương quan hài hòa giữa người với nhau.
Ý nghĩa “con rắn” và “trái cấm”
Tại sao Kinh Thánh chọn loài “rắn” làm hiện thân cho Satan? Còn “trái cấm” có ý nghĩa hiện sinh gì trong cuộc sống không?
a. Con rắn
Trước tiên, hình ảnh “rắn” rất quen thuộc trong Cựu Ước. Cái tên “Satan” (Quỉ Vương) có sẵn trong các tôn giáo cổ xưa, nhưng Do Thái là tôn giáo đầu tiên cho rắn đội lốt Satan đến cám dỗ con người ăn trái cây “biết lành biết dữ”. Rắn cũng xuất hiện lần nữa khi Môisen và Aaron ném gậy xuống đất hòa thành rắn để Pharao cho dân Chúa đi tự do. Trong sa mạc, Môisen đúc rắn đồng treo lên cây cao, hễ ai bị rắn cắn nhìn vào đó sẽ được khỏi. Có thể hiểu “bị rắn cắn” theo nghĩa rộng như là một sự chùn chân, chán nản, không muốn tiếp tục cuộc hành trình qua sa mạc. Trong 40 năm lưu lạc trong sa mạc, dân Do Thái có lẽ đã tiếp xúc, đụng độ hoặc muốn đồng hóa với các bộ lạc thờ rắn sống trong vùng, và Môisen phải đúc rắn đồng riêng cho dân Do Thái để họ lên tinh thần mà tiếp tục cuộc hành trình về đất hứa. Ngày nay, các nhà khảo cổ đã tìm thấy được một số rắn đồng tại vùng mỏ đồng sa mạc Araba.
Ngoài Kinh Thánh ra cũng có nhiều chuyện thần thoại khác về rắn đã được lưu hành trước đó rất lâu. Chuyện thần thoại Gilgamesh ở xứ Sumeria, kể lại vua Utnaphistim và vợ ông ta đã tìm được một loài cây trường sinh, nhưng trước khi có dịp ăn quả trường sinh thì có một con rắn đã đánh cắp cây quý khỏi tay nhà vua, và từ đó không ai có thể sống đời đời nữa. Điển tích về rắn cướp lấy cơ hội trường sinh bất tử ảnh hưởng ít nhiều vào sự tích Satan hóa thân con rắn đến cám dỗ Evà, từ đó loài người mất đi cơ hội sống đời đời. Phải đợi đến thời Kitô giáo, “trái cấm” được thay thế bằng “Mình và Máu” của Chiên Thiên Chúa. Cũng như thế, Evà , người nữ đem trái cấm đến cho Ađam ăn, sẽ được thay thế bằng Đức Trinh Nữ Maria, người “chưa hề biết đến một người nam”. Ngoài ra, cuộc chiến giữa rắn tiền sử và thần Marduk nói lên nhu cầu hy sinh đổ máu của “thần thánh” để loài người được sống. Khái niệm thần thánh trở thành của lễ hiến tế để đem lại sự sống cho nhân loại có lẽ không xa lạ cho lắm đối với hậu cảnh văn hóa và tôn giáo của Cựu Ước và Tân Ước. Tư tưởng “máu đào tử đạo là hạt giống đức tin” có lẽ cũng mang ảnh hưởng phần nào của khái niệm trên đây.
Với quan niệm của người Á Đông xem rồng như là vật linh thiêng, thì dân tộc Trung Đông cũng tôn thờ rắn vậy. Rắn đại diện cho sự khôn ngoan, nhanh nhẹn và cả sự nguy hiểm, trả thù độc địa nếu cần. Dân tộc xứ Syria xem rắn như một thần phù trợ. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại các đền thờ, các tạc hình “đầu rắn” vì họ tin thần rắn sẽ cắn chết những kẻ xâm lăng và bảo vệ dân chúng khỏi hiểm nguy bệnh tật. Khi thấy rắn lột da nhưng vẫn sống, người ta tin rắn có bí quyết trường sinh bất tử. Người Hy Lạp có thần Asklepios chữa bệnh mang dấu hiệu hình rắn mà ngày nay vẫn thấy tại các tiệm thuốc tây, văn phòng bác sĩ, hoặc nhà thương. Người Việt tin là rắn có trí nhớ và khả năng trả thù như trong chuyện Nguyễn Trãi giết cả một tổ rắn hổ mang và sau này bị rắn trở lại báo oán (tru di tam tộc).
b. Trái cấm
Vì sự tinh ranh của rắn, Satan đội lốt rắn để đem “trái cấm” đến dụ dỗ con người. Nhưng “trái cấm” có ý nghĩa gì không? Cũng như các ngụ ngôn Đức Giêsu dùng để giảng dạy trong Tân Ước, ngôn ngữ huyền thoại của sách Sáng Thế không phải là loại ngôn ngữ cứng rắn của siêu hình học. Muốn hiểu ý nghĩa sâu sắc của nó chúng ta cần phải đặt mình vào trong bối cảnh và ngữ cảnh của câu chuyện.
Vì thế, ở đây chúng ta hãy giải thích “trái cấm” qua lăng kính hiện sinh. Nếu xét theo kinh nghiệm trưởng thành của mỗi người, chúng ta có thể diễn đạt ý nghĩa của “trái cấm” qua ba giai đoạn sau đây.
Trước tiên, “vườn địa đàng” đại diện cho tuổi còn bé thơ, sống trong vô tư và trần truồng, mọi miếng ăn thức uống đều lệ thuộc vào cha mẹ, chỉ biết chơi đùa với thú vật, mỗi buổi chiều tà cha mẹ dẫn đi chơi hay ngồi nghỉ dưới bóng mát của hàng cây.
Giai đoạn “Ađam và Evà bị cám dỗ” nói lên những khủng hoảng thường gặp phải trong tuổi dậy thì. Đây là cái tuổi thích mạo hiểm và tự do, hay chống đối lại bề trên nhưng không màng đến hậu quả xấu. Ở giai đoạn này, tính tình thì rất nông nổi và bồng bột, dễ bị quyến rũ và sa ngã về tính dục và tình cảm.
Cuối cùng, giai đoạn “sống ngoài vườn địa đàng” nói lên sự trưởng thành, đầy đủ nghị lực và trách nhiệm để tự lập. Đàn ông tự kiếm sống với mồ hôi nước mắt của chính mình, đàn bà mang nặng đẻ đau, nhưng cả hai sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả để tạo dựng mái ấm gia đình riêng cho họ. Vườn địa đàng có thiên thần “cầm gươm đứng gác cửa” ngăn chận không cho con người trốn chạy trách nhiệm hay trở về với tổ ấm của cha mẹ, nhưng phải đương đầu với thực tại đau khổ và biết giá trị của sự chọn lựa. Nói cách khác, “trái cấm” đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong đời người. Khi lớn lên không tránh khỏi những sai lầm hay sa ngã, nhưng chỉ qua đó, con người mới làm chủ vận mệnh và chịu trách nhiệm cho sự chọn lựa của mình. Đó có thể là lý do tại sao “trái cấm” được gọi là trái của “cây biết lành biết dữ”. (x. Nội san chia sẽ, số 52, tháng 12, năm 2006, trang 79-82).
Chiến thắng cám dỗ theo gương Chúa Giêsu
Trong hành trình về đất Hứa, dân Israel đi trong sa mạc một thời gian dài và đã gặp nhiều cám dỗ: cám dỗ trở lại Ai cập để có bánh ăn; cám dỗ thờ tượng con bê vàng; cám dỗ thử thách Thiên Chúa.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã quả quyết: “Trên đời này không ai mà không bị cám dỗ”. Con người “già cái lợi cái răng, nhưng ba cái lăng nhăng không già”.
Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan bằng Lời Chúa và đời sống chay tịnh cầu nguyện, luôn tín thác vào Chúa Cha.
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi. Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma quỉ đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
-Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
-Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
-Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
Dường như suốt cả cuộc đời, Chúa Giêsu luôn bị Satan tấn công: “ Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỹ bỏ đi, chờ đợi thời cơ ”. (Lc 4,13). Nhất là vào những giây phút cuối đời của Người. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với khổ nạn và cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nổi mồ hôi đổ ra như máu. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “ Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha ”. (Mt 26, 39b); “ Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha ”. (Mt 26, 42b).
Chủ yếu cám dỗ của ma quỷ là làm sao tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa Cha. Mỗi người ở mỗi hoàn cảnh đều có thể bị nó cám dỗ để chia cắt tình yêu của mình với Chúa. Dựa vào sức mình, vào khả năng của mình… mà không biết cậy dựa vào tình yêu Chúa thì chúng ta đang bị rơi vào tròng của ma quỷ.
Mùa Chay là thời gian đặc biệt để xét mình, để sám hối canh tân bản thân, nhờ đó mà sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày.
Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có kể lại một câu chuyện về mẹ của ngài trong một diễn văn nhân lễ mở tay mừng tân chức như sau: "Cách đây khá lâu có hai linh mục đến thăm mẹ già của tôi tại Úc châu và hỏi bà: "Bà cố có muốn Đức Cha Thuận làm hồng y không?" Bà cụ (nay đã 98 tuổi) trả lời: "Không! Tôi dâng con tôi cho Chúa là để tế lễ Người, như thế là đủ! Tôi chẳng cần con tôi làm hồng y đâu" - "Nhưng lên hồng y sẽ làm vinh danh Chúa hơn!" - "Thế hai cha không làm vinh danh Chúa à?". Mới đây, sau khi Đức Cha Thuận được tấn phong hồng y thực thụ, một trong hai linh mục hôm nọ cùng một vị khác lại gặp bà cụ và hỏi: "Nay Đức Cha Thuận đã lên hồng y rồi, bà cố có vui không?" - "Dạ vui chớ!" - "Sao hôm nọ, bà cố đã trả lời là không muốn con bà làm hồng y!" - "Nay tôi vui vì đó là ơn Chúa cho. Có chức quyền to ở trần đời dễ làm bậy lắm! Còn chức quyền to trong Giáo Hội thì phải lo mà chu toàn theo ý Chúa" - "Vậy bây giờ Đức Cha đã lên hồng y, bà cố cầu nguyện gì cho đức Hồng y?" - "Tôi chỉ cầu nguyện cho con tôi sống đẹp lòng Chúa!" - "Thế thôi à?" - "Vâng, sống đẹp lòng Chúa, đó là điều duy nhất tôi luôn cầu nguyện cho con tôi!".
37.Sức mạnh để chiến thắng cám dỗ--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trước khi bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa. Sau bốn mươi đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Người cảm thấy đói. Satan xuất hiện, mon men lại gần để cám dỗ. Chúa đã chiến thắng Satan bằng sức mạnh Thánh Thần và Lời Thiên Chúa.
1. Ba cơn cám dỗ
– Cơn cám dỗ thứ nhất phát xuất từ cái đói. Ma quỷ gợi ý cho Chúa Giêsu “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi” (Mt 4,3). Cơn cám dỗ về bánh nói lên ước muốn căn bản nhất là bản năng sinh tồn của con người. Thân xác với những khát khao thèm muốn luôn đòi hỏi phải được nuôi nấng, chiều chuộng và vỗ về.
– Trong cơn cám dỗ thứ hai, ma quỷ đưa Chúa Giêsu lên thượng đỉnh đền thờ và nói: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống coi! Bởi đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (Mt 4,5). Ma quỷ dùng Tv 91,11 để gợi ý cho Chúa Giêsu nhảy từ nóc đền thờ xuống, xem Thiên Chúa có biểu lộ quyền năng của Người hay không. Cám dỗ thách đố Thiên Chúa biểu lộ quyền năng để tìm vinh quang cá nhân. Đó là bản năng đối kháng lại những giới hạn của cuộc sống nhân sinh. Con người thường muốn quên đi những điều kiện sinh sống giới hạn của mình. Họ muốn cất cánh bay lên cõi thần tiên bằng men rượu, ma túy, lạc thú…
– Trong cơn cám dỗ thứ ba, ma quỷ đem Chúa Giêsu lên một ngọn núi cao và chỉ cho Người thấy các nước thiên hạ và các thứ phú quý, rồi nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những cái ấy, nếu ông sấp mình thờ lạy tôi…” (Mt 4,9). Một cơn cám dỗ đã hằng theo đuổi dân Israel, chẳng những trong thời gian hành trình sa mạc mà cả khi định cư trên đất Palestina. Đó là thờ lạy các tà thần mong được giàu sang, quyền thế, có khả năng thống trị các quốc gia khác. Bản năng thống trị, cái “ý chí quyền lực” nằm sẵn trong mỗi một con người. Người ta thường muốn cai trị và sai khiến những người yếu hơn mình. Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, lạc thú, vật chất, tiện nghi, sắc dục.
Ba cơn cám dỗ của Chúa Giêsu đều đã bắt đầu bằng chữ “nếu”. Chúng khởi sự bằng một lý luận với những lý do có vẻ chính đáng, hợp lý và đáng ao ước để tấn công vào những đòi hỏi của bản năng con người Giêsu.
Tuy là ba cơn cám dỗ, nhưng vẫn chỉ là một. Bởi trọng tâm của vấn đề chính là gieo rắc sự khủng hoảng của niềm tin. Chúa Giêsu bị cám dỗ nghi ngờ về căn tính Con Thiên Chúa của chính mình. Cả ba Phúc âm Mátthêu, Máccô, Luca đều mô tả cơn cám dỗ ngay sau khi Chúa chịu phép Rửa ở sông Giođan, và có tiếng từ trời phán “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3.17). Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu quay lưng lại với sứ mạng đã nhận từ nơi Chúa Cha (GLTC #394).
Cơn cám dỗ Chúa Giêsu cũng giống như cơn cám dỗ của Ađam và Eva trong bài đọc một (St 2,7-9;3,1-7). Ma qủy gieo sự nghi ngờ và mất niềm tin nơi những kẻ được gọi là con cái Thiên Chúa. Qua bản năng ăn uống thèm khát của thể xác, nó khơi dậy bản năng phản kháng bất tuân lệnh Chúa và sau cùng, con người sa ngã ở “ý chí quyền lực”, bản năng đòi bá chủ và thống trị vì muốn ngang hàng với Thiên Chúa.
Thụ tạo đầu tiên trong hàng các thiên thần đối diện với cám dỗ là Lucifer. Không vượt qua được cơn cám dỗ, Lucifer đã trở thành Satan.
Thụ tạo đầu tiên trong con người là Ađam và Evà cũng đã nếm mùi cám dỗ. Và hai Nguyên Tổ này cũng đã gục ngã thảm thương trước cám dỗ.
Như vậy cám dỗ là một cái gì hết sức mạnh mẽ, hết sức lôi cuốn, và rất khó chống cự.
Chúa Giêsu sau khi đã trải qua những cám dỗ và thắng các cám dỗ cũng thấy được điều này, nên Người đã dạy các môn đệ không được coi thường bằng cách dựa vào sức lực, tài trí, và khả năng của riêng mình. Người dạy phải cầu nguyện và xin ơn Chúa Thánh Thần: “Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con khỏi sự dữ”.
2. Sức mạnh nào giúp vượt thắng cám dỗ?
Cả ba Phúc Âm đều đề cập đến một chi tiết rất thú vị, đó là Chúa Giêsu không đi vào hoang địa một mình, nhưng mà Người đi cùng với Chúa Thánh Thần.
– “Bấy giờ Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ” (Mt 4,1)
– “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
– “Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, từ sông Giođan trở về. Suốt bốn mươi ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ” (Lc 4,1-2).
Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và Lời của Thiên Chúa để đối đáp với ma quỷ và đã chiến thắng.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của Satan, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta.
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; LGTC #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với các thánh trên trời.
Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
3. Cầu khẩn và kêu xin Chúa Thánh Thần bằng cách nào?
– Khi thằng quỷ dâm ô xúi tôi mở những emails lạ, dụ dỗ tôi tò mò đi vào những websites của Trư Bát Giới… Tôi phải mau mắn và thành tâm xin Chúa Thánh Thần soi lòng mở trí để tôi nhận ra rằng: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục (Mt 5,28-29).
– Khi thằng quỷ gian dối xúi tôi nói dóc, nói xạo, nói quanh co, nói sai sự thật, lừa bịp thiên hạ … tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần ban ơn khôn ngoan để tôi có thể nhớ lời của Chúa Giêsu phán dạy tôi rằng: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không.’ Thêm thắt điều gì là do ác quỷ mà ra!” (Mt 5,37).
– Khi thằng quỷ kiêu căng, ngạo mạn xúi tôi phê bình chỉ trích người này, xét đoán người kia, lên án người nọ … thì tôi phải lập tức xin Chúa Thánh Thần giúp tôi nhớ rằng: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án” (Lc 6,37).
– Khi bị thằng quỷ dâm ô xúi tôi ly dị, bỏ chồng, phụ vợ, làm giấy ly dị giả … tôi phải cầu xin với Chúa Thánh Thần ngay để Ngài giúp cho tôi hiểu rằng “[Tôi và người bạn đời của tôi] không còn là hai [nữa], nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,8-9).
– Khi thằng quỷ kiêu căng xúi tôi khoe khoang, tự kiêu tự đại … thì tôi xin Chúa Thánh Thần nhắc nhở cho tôi rằng: “Kiêu hãnh đi liền với ô nhục … kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào” (Cn 11,2; 16,18).
– Khi thằng quỷ giận hờn xúi tôi giận người này, ghét người kia, thù người nọ … thì tôi phải cần đến sự trợ lực của Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng để tôi hiểu rằng: “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt (Mt 5,22).
– Khi thằng quỷ dâm dục xúi bẩy tôi đi ngoại tình, ăn chơi trác táng, quan hệ bừa bãi … tôi phải van nài Chúa Thánh Thần, xin Ngài nhắc nhở cho tôi nhớ rằng: “Thân xác [của con] là Đền Thờ của [Ta đấy nhé! Chớ có làm cho nó ra ô uế!]” (1 Cr 6,19).
Sau khi chịu phép Rửa tội để trở nên một Kitô hữu, chúng ta dấn thân vào đời với nhiều thử thách của niềm tin, phải chịu nhiều cám dỗ của phận người lữ thứ. Nếu chúng ta tin rằng “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta” (Tt 3,6) thì hãy vững tâm và tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ không bao giờ xa rời chúng ta đâu! Điều quan trọng là chúng ta có thánh tâm để cầu xin và nhờ cậy Ngài, hay là không thôi!
Hãy tin tưởng và trông cậy vào Chúa Thánh Thần. Bảy hồng ân của Chúa Thánh Thần luôn trao ban cho người: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn nhận thức, ơn chỉ bảo, ơn dũng mạnh, ơn thánh thiện và ơn kính sợ Thiên Chúa.
Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Ngài, nhờ đó “Hoa trái của Thần Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5,22-23) sẽ tràn đầy trong tâm hồn và đời sống của chúng ta.
Việc gặp gỡ Chúa Thánh Thần rất dễ dàng. Chỉ cần hồi tâm lại, ý thức Ngài đang hiện diện ngay trong bản thân mình, và muốn được tan hòa vào trong Ngài. Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Ngài sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Ngài sẽ ban thêm sức mạnh. Ngài sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Ngài sẽ đổ tràn vào hồn chúng ta nguồn sống mới giúp chúng ta chiến thắng mọi cám dỗ và hăng hái lên đường.
38.Con số 3 trong Mùa Chay--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Mỗi năm, vào đầu Mùa Chay, tôi đặc biệt nhớ tới con số 3 vì nó hiện diện ở ngay ngày thứ tư đầu Mùa Chay và ở ngày Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay.Thứ tư Lễ Tro, trong Phúc âm Thánh Matthêu (Mt 6,1-6.16-18), Chúa dạy 3 điều cần phải làm ba việc này:
Thứ nhất: Bố thí: làm việc lành, việc phước thiện, để nâng đỡ tha nhân, như thăm viếng người bệnh, người già, giúp công, giúp của cho những người cùng túng, lâm nạn, những người cô thân, cô thế và tàn tật…
Thứ hai: cầu nguyện: có thời giờ sống bên Chúa, thưa chuyện với Chúa, lắng nghe tiếng Người, đọc sách báo linh đạo, suy niệm về Ơn lành Cứu Ðộ và về những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu tại Giêrusalem, về cuộc tử nạn và phục sinh của Người. Cầu nguyện để phát triển đời sống nội tâm, trong thinh lặng, với tâm tình cảm tạ và kính mến.
Thứ ba: Ăn chay: hãm dẹp các vọng động, giảm bớt tiêu pha và hưởng thụ, như bớt ăn, bớt uống, bớt coi điện ảnh, ngưng hút thuốc, bỏ ăn quà vặt, không chơi bài bạc và không chè chén say sưa…
3 điều trên đây có liên hệ mật thiết với nhau, như nhân với quả, như hoa với trái. Ví dụ: ta chỉ có thể có tiền và có thời giờ để giúp đỡ tha nhân, nếu ta đã tự hãm mình, dẹp bớt các nhu cầu và bỏ đi lòng vị kỷ. Hơn nữa, sự cầu nguyện và lòng kính mến Chúa sẽ thúc đẩy ta biết mở rộng lòng ra, biết cảm thông với những người đang gặp đau khổ về vật chất và tâm linh.
Vậy, nếu thực sự chúng ta kính mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân, thì chúng ta chú trọng thực hành 3 việc là ăn chay, cầu nguyện và bố thí, một cách vui vẻ, âm thầm và kín đáo, như Chúa Giêsu dạy: “tay trái không biết việc tay phải làm”. Khi cầu nguyện, ăn chay và làm việc từ thiện, bác ái, chúng ta không tìm tiếng khen của người khác, mà chỉ muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa là Cha của chúng ta mà thôi.
Trong Phúc âm Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay (Lc, 4,1-13) ta gặp lại con số 3 một lần nữa: Đức Giêsu bị Satan dụ dỗ về 3 điểm, tức là 3 ước muốn mãnh liệt nhất của cái tôi giả tạo: thụ-hưởng, danh-vọng và quyền-lực. Đó là 3 điều dụ dỗ rất mực tế nhị và độc hại, đã từng làm cho loài người điên đảo, phạm những điều ngang ngược, phi nhân, phi nghĩa. Đức Giêsu đã dùng thần lực của Thánh Kinh mà khử trừ 3 dụ dỗ thâm hiểm đó của Satan. (Lm. Giuse Nguyễn Văn Tịnh, FD).
Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta sống 3 thực hành quen thuộc của Mùa chay: “Ăn chay, cầu nguyện và bố thí, như lời rao giảng của Chúa Giêsu (x. Mt 6,1-18), là điều kiện giúp chúng ta hoán cải và thể hiện sự hoán cải. Nẻo đường khó nghèo và bỏ mình (ăn chay), quan tâm và yêu thương chăm sóc người nghèo (bố thí), và như trẻ thơ trò chuyện với Chúa Cha (cầu nguyện) làm cho chúng ta có thể sống đức tin chân thành, đức cậy sống động và đức ái tích cực.” (Sứ điệp Mùa chay 2021, dẫn nhập).
Hàng năm, Phúc Âm Chúa Nhật I Mùa Chay đều nói về cám dỗ. Chúa Giêsu vào hoang địa. Sau 40 đêm ngày ăn chay và cầu nguyện, Satan xuất hiện và cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan. Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta phải biết chống cự lại những cơn cám dỗ. Muốn chống lại, phải có 3 phương thế để có thể chiến thắng.
1. Lời Chúa.
Ma qủy cám dỗ Chúa Giêsu từ những điều thường nhất là cơm bánh hàng ngày. Chúa nhịn ăn 40 đêm ngày, đói thì cần ăn, đó là điều rất đổi bình thường.Ma qủy lợi dụng điều đó để cám dỗ, sau đó mới cám dỗ những những điều mạnh hơn là thử thách Thiên Chúa và chống lại Ngài. Chúa Giêsu dùng Lời Chúa để chiến thắng.
Gương của Chúa Giêsu được Tin Mừng Thánh Luca kể rõ: mỗi lần ma qủy đưa ra một chước cám dỗ thì Chúa Giêsu lại lấy một lời của Kinh Thánh mà đẩy lui chước cám dỗ ấy:
* Có lời chép rằng: người ta không sống bằng cơm bánh mà còn bằng lời của Thiên Chúa nữa.(Lc 4,5)
* Có lời chép rằng:ngươi phải thờ lạy Chuá là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người.(Lc 4,8)
* Có lời chép rằng: ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi.(Lc 4, 11).
“Sau khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ”. Satan tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại tiếp tục tấn công. Có lần, Satan dùng miệng lưỡi của Phêrô để cám dỗ Chúa đừng lên Giêrusalem chịu khổ nạn. Chúa quay lại quát nạt: “Satan, hãy lui ra đằng sau, đừng gây cớ cho Ta vấp phạm”. Thời cơ ma quỷ chờ đợi chính là lúc Chúa Giêsu trải qua cuộc Khổ Nạn. Trong vườn Giêtsêmani, khi đối diện với cái chết đang cận kề, Chúa Giêsu không khỏi sợ hãi đến nỗi “mồ hôi đổ ra như máu”. Người đã thân thưa cùng Chúa Cha đến hai lần: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26, 39b); “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42b). Cao điểm là khi Chúa bị treo trên thập giá, Satan dùng miệng lưỡi kẻ qua người lại để cám dỗ Chúa xuống khỏi thập giá: “Ông Kitô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi để chúng ta thấy và tin”. Trong suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã phải chiến đấu chống lại nhiều cơn cám dỗ. Người thực sự là Thiên Chúa nhưng đồng thời Người cũng hoàn toàn là con người nên “Người cũng phải chịu trăm chiều thử thách y như ta” (Dt 4,15). Chúa Giêsu đã chiến thắng tất cả. Không một cám dỗ, không một thách thức nào có thể khiến Người lùi bước.
Lời Chúa là sức mạnh tâm linh, là lẽ sống thần linh và là lời ban sự sống. Đọc và suy gẫm Thánh Kinh sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chiến thắng tội lỗi.
2. Ăn Chay
Ăn chay giúp con người chế ngự bản thân.Tội lỗi của con người là do không biết chế ngự bản thân. Ăn chay giúp chúng ta biết thanh luyện con người mình, chế ngự bản thân, hãm dẹp dục vọng. Ăn chay đi đôi với sự hãm mình. Nếu không có động lực nào thúc đẩy thì con người rất ngại ăn chay hãm mình. Nhưng khi có động lực là tình yêu, con người có thể hy sinh dễ dàng. Hãm mình hy sinh không còn là gánh nặng, trái lại còn trở nên nhẹ nhàng cho những ai đang yêu Chúa và yêu người. 40 ngày Mùa Chay nhắc nhớ về 40 ngày đêm chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, nhắc lại 40 năm dân Do thái lưu đày trong sa mạc chuẩn bị về Đất hứa. Mùa Chay là mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng, giúp chúng ta trở nên người thiện chiến, biết chế ngự và làm chủ bản thân.
3. Cầu Nguyện.
Cầu nguyện là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi vào hoang địa, khi bị ma quỷ cám dỗ, Chúa Giêsu cần đến sự nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Người đã dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần và đã chiến thắng cám dỗ.
Khi chúng ta lâm vào những cuộc thử thách, phải đối diện với những mưu chước của ma quỷ, rất cần ơn Chúa Thánh Thần trợ lực. Chúa Giêsu mà còn cần đến Chúa Thánh Thần nữa, thì huống hồ là chúng ta!
Cần phải cầu nguyện (Lc 22,40; Cv 2,42; GLGH #2612,2742). Nhờ cầu nguyện, Chúa Giêsu đã không cô đơn một mình, nhưng “được Thánh Thần hướng dẫn” (Mt 4,1). Nhờ cầu nguyện, chúng ta được liên kết với sức mạnh của Thánh Thần và với Các Thánh trên trời.Vai trò của Chúa Thánh Thần thật quan trọng trong đời sống của chúng ta. Những lúc bị cám dỗ, những khi sống trong cô đơn, buồn chán và thất vọng…hãy cậy trông và khẩn cầu với Chúa Thánh Thần xin ơn phù trợ. Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy các con mọi điều” (Ga 14,26).
Chúng ta đang sống trong một xã hội có quá nhiều cám dỗ. Một xã hội đầy dẫy các tệ nạn và có nhiều lối sống buông thả. Đó là môi trường là cơ hội thuận tiện cho ma quỷ ẩn núp và tấn công. Cám dỗ ngày càng nhiều và ngày càng tinh vi dưới muôn hình dáng vẻ. Vì thế, lời dặn dò của Chúa Giêsu ngày càng khẩn thiết: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Cơn cám dỗ độc hại nhất mà con người cần phải luôn tỉnh thức canh phòng và trường kỳ chiến đấu bằng mọi cách, chính là lòng ích kỷ, quan niệm sống hẹp hòi, thiển cận của chính mình, chỉ biết có mình mà quên kẻ khác, chỉ biết thu vén lợi ích cho riêng mình mà quên quyền lợi kẻ khác.
Để tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta cần sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, thực thi những việc đạo đức của Mùa Chay. Chúa Giêsu đã từng căn dặn các Tông Đồ: “Hãy tỉnh thức”. Tỉnh thức để nhận ra mưu mô của ma quỷ, tỉnh thức trước những lôi cuốn của thế gian, tỉnh thức trước những yếu đuối của con người xác thịt.
Ghi nhớ con số 3 của Mùa Chay để thực hành sám hối, canh tân bản thân dưới ánh sáng Lời Chúa và ăn chay cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu, nhờ đó mỗi người chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa hàng ngày.
39.Món ăn năn--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Có một món ăn các nhà hàng nhiều sao không quen thết đãi, nhưng những quán ăn tôn giáo lại xem như đặc sản của mình. Món ăn ấy người đời không quen thưởng thức, nhưng kẻ có đạo lại tìm đến ăn như một thứ lương thực sớm tối. Món ăn ấy không có trong thực đơn của những đầu bếp trứ danh nhưng luôn gặp thấy trên bàn ăn của Giáo Hội lữ hành. Món ăn ấy đơn giản lắm nhưng lại là món ăn có đầy đủ mọi hương vị chua cay mặn chát ngọt bùi của quá khứ hiện tại tương lai. Món ăn chữa bệnh nhưng đồng thời cũng là món ăn bổ dưỡng tâm linh.
Món ấy là món gì? Thưa đó là món “ăn năn sám hối”, một món ăn màu tím truyền thống của Mùa Chay.
Đó không phải là món ăn mới nhưng luôn có diệu cảm mới dành cho những ai biết ăn đúng cách. Đó không phải là món ăn lạ, nhưng luôn là những phép lạ tâm linh dành cho những ai biết ăn đúng liều lượng. Đó không phải là món ăn đặc sản chỉ thết đãi trong thời gian cao điểm như Mùa Vọng Mùa Chay, mà là món quanh năm ngày tháng mở cửa cho hết mọi người bất kể giàu nghèo lớn bé. Đó không phải là món ăn cầu kỳ trong các nhà hàng quý tộc, mà thực ra là một nhịp cầu vô cùng kỳ diệu dẫn ta ra khỏi tình trạng tối tăm và dẫn ta bước tới đời sống thánh ân. (1)
1. Ăn năn sám hối
Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu. Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, ai cũng nhận mình là thân phận bụi đất. Nghi thức xức tro thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối ăn năn, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của đời người. Lần lượt mỗi người, từ cụ ông cụ bà đến trẻ nhỏ bước lên để thừa tác viên rắc tro trên đầu. Nghi thức và cử chỉ ấy giúp con người ý thức thân phận mong manh và giới hạn của mình. “Hãy nhớ ngươi được tạo dựng từ bụi tro, và sẽ trở về với bụi tro”. Đó là lời Thiên Chúa đã phán với Ađam Evà. Đó là lời Chúa nói với từng người khi lên xức tro.
Ý thức thân phận giới hạn mong mong của mình, để làm gì? Thưa là để biết rằng tôi không sống mãi trong cuộc đời này, sớm muộn gì cũng đến lúc tôi trở về với Chúa, và tôi sẽ phải trả lời trước mặt Chúa về cuộc đời của mình. Con người có sinh có tử, có hợp có tan, có khởi đầu sẽ có kết thúc. Nghĩ về sự chết để mà sống sao cho “đẹp” đời trần thế. Làm sao để tôi sống cuộc đời này cách ý thức hơn, với tinh thần trách nhiệm hơn, để khi đến trước mặt Chúa tôi có thể đến trong niềm vui, chứ không phải trong sự sợ hãi!
Vì thế, cử chỉ xức tro còn hàm chứa một lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”; hãy nhìn nhận những tội lỗi thiếu sót, những bất tất trong cuộc đời của mình, hãy tỏ lòng ăn năn sám hối và hãy cố gắng để sửa đổi những gì còn thiếu sót đó để sống hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn.
2. Năm bước ăn năn (2)
Mùa Chay là mùa đặc biệt dành cho sự trở về của người biết ăn năm sám hối. Sự trở về này gồm nhiều giai đoạn, phần lớn xảy ra trong nội tâm. Ăn năm sám hối bắt đầu từ nội tâm, từ cõi lòng.
- Bước đầu tiên của hành trình ăn năn sám hối là ý thức tội lỗi. Trong thâm sâu của cõi lòng, trong nội tâm, chúng ta thấy mình có tội, nhận ra tội lỗi của mình. Chúng ta phán xét chính mình, nhận điều xấu mình đã làm, hay cái tâm địa xấu xa của mình. Đối với nhiều người, bước đầu tiên này đã là khó. Nhiều người trong thời đại hôm nay dù đã làm bao nhiêu điều xấu, vẫn không thấy mình có tội. Họ đã đánh mất ý thức tội lỗi, và đó là nguy cơ lớn nhất của nhân loại ngày nay.
- Bước thứ hai là sự hối hận, đau buồn, ray rứt trong lòng vì những điều xấu mình đã làm. Sự đau buồn này là một liều thuốc đắng, chữa lành cho vết thương tội lỗi. Sự ăn năn phản tỉnh của một con người sau khi đã lỡ làm điều ác, sẽ làm cho người đó trở nên tốt hơn, sâu sắc hơn.
- Bước thứ ba là sự gặp gỡ Thiên Chúa trong nội tâm, là một sự gặp gỡ trong tin yêu. Khi đã lỡ phạm tội, nhiều người rất hối hận, vì yêu Chúa. Càng yêu Chúa, chúng ta càng hối hận, càng hối hận chúng ta càng yêu Chúa. Chúng ta gặp gỡ Chúa, thú nhận tội lỗi với Chúa và xin Chúa tha thứ. Chắc chắn Chúa tha thứ và ban lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an. Giai đoạn này Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được Tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
- Bước thứ tư là quyết tâm thú nhận tội lỗi của mình, không những với Chúa, mà còn với Giáo Hội. Giai đoạn này, cần phải lướt thắng sự ngại ngùng trong việc xưng tội, nói ra sự thật và tất cả sự thật với cha giải tội là đại diện cho Chúa và cho Hội Thánh. Giai đoạn này cũng rất cần thiết, vì nó biểu lộ sự chân thực của lòng thống hối, tránh cho chúng ta ảo tưởng và sự chủ quan.
- Bước thứ năm là thực sự sửa đổi đời sống. Sống khác đi, không sống như cũ nữa, không làm điều ác nữa; dứt khoát với tình trạng tội lỗi mà mình đang mắc phải. Giai đoạn này rất khó và đòi hỏi sự hy sinh, sự chiến đấu với chính mình, và sự chiến thắng, làm chủ được chính mình. Chính vì thế mà cần rất nhiều ơn Chúa, cần sự giúp đỡ của những anh chị em đồng đạo với mình.
Để có thể canh tân đổi mới đời sống cách hữu hiệu và bền bỉ, phải cầu nguyện rất nhiều như lời Chúa dạy. Cầu nguyện âm thầm kín đáo trong lòng, chứ đọc kinh bên ngoài thôi chưa đủ. Rồi phải ăn chay, nghĩa là phải nhịn, không chỉ nhịn ăn mà thôi, có khi còn phải nhịn nói, nhịn thỏa mãn sở thích của mình, kiềm hãm tình cảm nóng giận. Và cuối cùng hãy tập làm việc lành, tập giúp đỡ những người nghèo khổ hơn mình.
3. Chuyện kể ăn năn
Thánh Kinh kể nhiều câu chuyện ăn năn sám hối rất cảm động.
- Vua Đavít phạm tội ngoại tình với Bát Seva, vợ của tướng Urigia. Sau khi phạm tội vua Đavít cố tình che đậy tội lỗi của mình. Nhà vua sai chồng bà đang ở ngoài mặt trận về nhà với vợ, để mai mốt bà có sinh con, thì thiên hạ sẽ cho rằng đó là con của vị tướng. Tuy nhiên tướng Urigia nhất định không chịu về nhà vì ông là một tướng lãnh chuyên nghiệp, muốn sống chết với binh sĩ ngoài mặt trận. Giấu giếm bằng cách này không được, vua Đavít lại toan che đậy tội lỗi của mình bằng cách lập kế cho giết vị tướng là chồng bà ngoài trận địa để vua có thể cưới bà.Đến đây Thiên Chúa sai ngôn sứ Nathan đến để làm thức tỉnh lương tâm của nhà vua. Được thức tỉnh lương tâm, vua Đavít liền ăn năn sám hối, vội trở về với Chúa. Nhà vua thốt lên: Tôi đã đắc tội với Thiên Chúa (2 Sm12,13). Vua tỏ lòng ăn năn sám hối cho tội lỗi đã phạm được bầy tỏ trong Thánh vịnh 51 mà truyền thống cho rằng vua Đavid là tác giả.
- Câu chuyện người phụ nữ tội lỗi được trong Phúc âm. Tội lỗi đã đọa đầy chị ra ngoài vòng xã hội. Cuối cùng chị đến xin Chúa Giêsu ban cho chị đời sống mới và một tình yêu đổi mới. Chị ta chứng tỏ cho Chúa thấy biểu hiệu của tình yêu bằng cách rửa chân Chúa bằng nước mắt và dùng tóc lau chân Chúa và sức dầu thơm cho Chúa. Do đó tội lỗi của chị đã được tha thứ nhiều vì yêu nhiều (Lc 7,47). Hành vi của Chị biểu lộ tâm tình ăn năm sám hối. Để có được tâm tình sám hối, người ta phải tỏ lòng khiêm tốn, chấp nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình. Người biết sám hối là người ý thức về sự yếu hèn và tội lỗi của mình. Người đàn bà tội lỗi khi nhận thức được mình là kẻ có tội, đã ăn năn sám hối bằng những giọt nước mắt. Chỉ khi nào người ta ý thức được về tội lỗi của mình, người ta mới cảm thấy nhu cầu cần Chúa. Còn người Pharisêu tự coi mình là công chính nên mới không cảm thấy cần sám hối.
- Khi còn thuộc nhóm Pharisiêu, Phaolô kiêu ngạo, cứng lòng và bách hại các tín hữu. Nhờ ăn năm sám hối, ngài đổi mới hoàn toàn, ngài có được kinh nghiệm sống trong tình yêu lòng nhân từ và tha thứ của Đấng đã quật ngã mình khỏi lưng ngựa.Thánh Phaolô yêu Chúa trên hết mọi sự và đã trở thành Tông đồ dân ngoại.
- Thánh Phêrô chối Chúa. Chúa thức tỉnh ký ức của Phêrô bằng tiếng gà gáy và ánh mắt tha thứ nhân từ. Nhờ ăn năn sám hối bằng những giọt nước mắt hối hận “ Phêrô ra ngoài khóc lóc thảm thiết”(Lc 22,62), Phêrô đã nên vị lãnh đạo chăm sóc đàn chiên của Chúa.
Câu chuyện về những người tội lỗi có lòng ăn năn sám hối và được tha thứ như vua Đavít, như người đàn bà tội lỗi và như thánh Phaolô hay như thánh Phêrô nói lên lòng thương xót thứ tha của Chúa. Tâm tình ăn năn sám hối ở đây khác với mặc cảm tội lỗi. Được tha thứ rồi, ta không cần mang mặc cảm tội lỗi. Mang mặc cảm tội lỗi có thể khiến ta nghi ngờ lòng thương xót tha thứ của Chúa. Tuy nhiên ta nên duy trì tâm tình sám hối vì sống trong tâm tình sám hối sẽ giúp ta sống gần bên Chúa mãi.
Để có thể sám hối, cần phải có ơn biết kính sợ Chúa. Không phải sợ mà không dám đến gần Chúa, nhưng sợ làm điều mất lòng Chúa như sách Huấn ca dạy: Kính sợ Chúa là bước đầu của khôn ngoan (Hc1,14). Ơn biết kính sợ Chúa là cần thiết để được hưởng nhờ ơn cứu độ.
4. Muốn ăn năn phải hãm mình
Xã hội càng duy vật và giàu có, người ta càng có khuynh hướng quên đi một số quy luật cơ bản của đời sống tinh thần. Quy luật xem ra bị lãng quên nhiều nhất chính là ăn năn sám hối, để rèn luyện ý chí hầu có thể làm chủ bản thân. Trong mọi cuộc đấu tranh, sự đấu tranh với bản thân là gay go hơn cả. Chính vì thế có một số người, sau khi đã đấu tranh thất bại với bản thân thì hoàn toàn nản chí, không còn muốn đấu tranh với chính mình nữa và thường xuyên chiều theo con người hư đốn của mình. Có những người khác, vì không bao giờ đấu tranh với chính mình, nên chỉ dành thời giờ và sức lực để đấu tranh chống tha nhân và ức hiếp người yếu thế.
Mùa Chay là mùa ăn năm sám hối. Mục đích của việc ăn năn sám hối là hãm mình. Hãm con người mình lại, hãm bớt dục vọng, hãm bớt đam mê, hãm bớt thói hư tật xấu, hãm bớt sự tham lam của cải, hãm bớt sự hung hăng gây chiến, hãm bớt lòng tự cao tự đại, hãm bớt cả những sở thích thường nhật. Sự hãm bớt như thế có một tác dụng rất lớn, nếu được thực hành thường xuyên sẽ tạo cho ta một nội lực một sức mạnh giúp ta làm chủ bản thân khi cần thiết. Đức tính tự chủ dễ nảy sinh và phát triển nơi những con người quen hãm mình. Và chính đức tính ấy làm cho con người thực sự tự do, làm chủ bản thân, không nô lệ chính mình vào bất cứ điều gì. Thoạt nghĩ tới thì sự hãm mình có vẻ là một sự gò bó, giới hạn, cắt xén, làm cho con người không còn được tự do thoải mái. Chính vì thế mà nhiều người trong xã hội hôm nay, kể cả những người có đạo, thậm chí cả những người sống đời tu trì, không thích hãm mình, và hầu như không còn hãm mình nữa. Đó là lý do của sự xuống dốc về đạo đức trong gia đình và ngoài xã hội. (3)
Giáo Hội biết rõ cứ sự thường người ta không thích hãm mình, nên thường dạy hy sinh đi đôi với sự hãm mình. Hy sinh là tự nguyện chết đi, là thông phần với cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu, kết hợp với hiến tế thập giá của Ngài. Hy sinh làm những điều mình không thích quả thật là từ bỏ chính mình để bước theo Chúa. Hy sinh là liều mất sự sống, thì sẽ được sống, là đánh mất bản thân, thì sẽ gặp lại bản thân. Hy sinh là chết đi để được vui sống muôn đời. Hy sinh là đi con đường thập giá dẫn tới vinh quang Phục Sinh. Nếu không có động lực nào thúc đẩy thì con người rất ngại hy sinh hãm mình. Nhưng khi có động lực là tình yêu, con người có thể hy sinh dễ dàng. Hãm mình hy sinh không còn là gánh nặng, trái lại còn trở nên nhẹ nhàng cho những ai đang yêu Chúa và yêu những người khác. Chính vì thế mà hãm mình hy sinh thường đi chung với cầu nguyện. Có cầu nguyện, tiếp xúc với Chúa, gặp gỡ Chúa, cảm nghiệm tình yêu của Chúa, chúng ta sẽ sẵn sàng hy sinh nhiều thứ, và dễ dàng làm chủ bản thân mình. Đời sống cầu nguyện thường được nuôi dưỡng bằng những hy sinh nho nhỏ trong đời sống thực tế mỗi ngày.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để cầu nguyện, để ăn năn sám hối để hy sinh hãm mình, nhờ đó mà canh tân bản thân mình ngày mỗi hoàn thiện hơn.
5. Mùa Chay linh thiêng
Mùa Chay linh thiêng lại về với đời sống tín hữu Công Giáo. Mùa chay là thời gian 40 ngày dọn lòng mừng lễ Phục Sinh, trải dài từ Lễ Tro cho đến Tuần Thánh, lặp lại thời gian 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu năm xưa khi chuẩn bị bước vào đời công khai rao giảng Tin Mừng (Mt 4,2). Con số 40 còn lặp lại nhiều biến cố khác trong lịch sử cứu độ như 40 ngày của Êlia trên núi Horeb dọn mình thực thi sứ vụ Chúa trao (1 V 19,8), như 40 ngày của Môsê trên núi Sinai chuẩn bị đón nhận thập điều Chúa dạy (Xh 34,28), và như 40 năm dân Chúa lưu lạc trong hoang địa dọn lòng đặt chân vào đất hứa. Mùa Chay như vậy là thời điểm thuận lợi để sống mầu nhiệm Tử Nạn của Chúa Kitô thông qua việc chay tịnh để sẵn sàng mừng lễ Phục Sinh. Nhưng Mùa Chay không chỉ là việc chay tịnh, cho dẫu khởi đầu và kết thúc Mùa Chay được diễn ra bằng việc buộc ăn chay và kiêng thịt thứ tư Lễ Tro và thứ sáu Tuần Thánh. Mùa Chay còn là mùa xuân tâm hồn với những sinh hoạt đổi mới đời sống đức tin.
Cầu nguyện, canh tân, chia sẻ: đó là ba sinh hoạt mỗi người chúng ta cố gắng thực hiện trong Mùa Chay năm nay, cũng là ba chiều kích với Chúa, với mình, với tha nhân dệt nên nhịp sống Giáo Hội.
Mùa Chay là thời gian đặc biệt như lời Thánh Phaolô nói: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.
Mùa Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân Chúa gia tăng sức lực thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. “Giữa biển cả thờ ơ” của xã hội hôm nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái, nhất định Giáo Hội sẽ “trở nên những hòn đảo lòng thương xót”. (4)
____________
(1) Làm Nụ Hoa Trắng. ĐGM Vũ Duy Thống.
(2) Bài giảng lễ Tro 2007, ĐTGM Bùi Văn Đọc.
(3) ĐTGM Bùi Văn Đọc.
(4) Sứ Điệp Mùa Chay 2015.
40.Biết mình đang đi về đâu--Suy niệm Lễ Tro--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro” và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.
Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.
Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.
Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo: "Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau" (Nguyễn Du).
Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:
”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.
Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi” (Ca dao).
“Bèo dạt, mây trôi đành với phận” (Chu Mạnh Trinh)
Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?
Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:
“Phù hoa nối tiếp phù hoa,
chi chi chăng nữa cũng là phù hoa” (Gv 1,2).
Có gì bền vững đâu. Thánh Vịnh ví von đời người như hoa cỏ:
“Đời sống con người giống như hoa cỏ.
Như bông hoa nở trên cánh đồng.
Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi.
Nơi nó mọc không còn mang vết tích” (TV 102).
Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.
Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6,1-6).
Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.
Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ĐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ĐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư.
Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Đâu là bậc thang giá trị đời anh?
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa” bằng cách “ Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.
Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn” và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa.Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.
Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “ phù vân, bèo bọt” vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.
Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.
Với tình yêu Chúa Kitô, ta không còn là bèo bọt, là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5,22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, ta sống một Mùa Chay thánh thiện.
41.Cát bụi tuyệt vời--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý, Mùa Chay lại về, tôi thích nghe bài ca “Cát Bụi”:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy.
Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi.
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.
Ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.
Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày.
Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hoá kiếp thân tôi.
Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Khi dùng hình ảnh hạt bụi để nói về thân phận con người, Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lấy nguồn cảm hứng trong Sách Sáng Thế: Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng Adam, sau khi Adam phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi (x St 1,26-3,24).
Nghĩ cho cùng, tất cả mọi người cũng chỉ là những hạt bụi hoá thân thành kiếp nhân sinh, sớm muộn cũng sẽ tàn lụi với thời gian. Do đó nỗi khắc khoải ngàn đời của con người là tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu, ý nghĩa của đau khổ, ý nghĩa của giải thoát, ý nghĩa của cuộc sống.
Vấn nạn mà con người chưa tìm được câu trả lời:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi?
Hạt bụi nào hoá kiếp thân bạn?
Và Hạt bụi nào hoá kiếp thân xác chúng ta?
Một vòng quay, một trăm năm, một kiếp người có là mấy! “Chợt một chiều tóc trắng như vôi”. Không phải là trắng như bông, như mây hay như tuyết mà là như vôi đổ xuống huyệt mồ. Trịnh Công Sơn không bi quan, ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao, sự sống cao quý biết dường nào, nhưng nó cũng như “đoá hoa vô thường”. Đó là một thực tế,nhìn nhận và đối diện với nó cách can đảm để có thể đưa tới một cuộc sống tốt đẹp hữu ích và có ý nghĩa.
Mùa Chay muốn nhắc nhở chúng ta quay về với sự thật của thân phận con người “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai rồi sẽ trở về bụi tro…”.Phụng vụ Giáo Hội muốn diễn tả rằng: cuộc đời này mong manh vắn vỏi, bởi thế nó rất hệ trọng. Số phận đời đời của mỗi người được quyết định trong thời gian tạm bợ này. Người theo Đạo Phật thì tin ở sự đầu thai kiếp sau, luân hồi nghiệp báo. Nhưng người Kitô hữu thì không, vĩnh cữu được gieo mầm trong hiện tại, đừng để thời gian trôi qua cách phung phí, đời người chỉ có một lần, được mất chỉ có một cơ hội.
Thân phận mỏng dòn mà Phụng vụ Mùa Chay nhắc cho chúng ta đừng quên,không phải chỉ có liên quan đến phần xác hay chết của phận người mà còn cả về mặt tinh thần cũng mong manh yếu đuối.Thánh Phaolô đã diễn tả kinh nghiệm đó trong thư Roma “Điều tôi muốn làm thì tôi lại không làm, nhưng điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm….Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn tôi lại cứ làm … Tôi khám phá ra luật này là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.Theo con người nội tâm tôi vui thích vì luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tôi…tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết này?” (Rm 7,15.19.21-24). Tiếng kêu của Phaolô cho thấy ngài đang muốn trở về với chính mình. Khát khao tìm về một thủa bình yên đã mất. Từ xa xưa, con người là Adam đã ăn trái cấm để mong trở nên thần thánh. Đó là cuộc nổi loạn nơi chính mình không muốn chấp nhận mình là mình. Nguyên tổ bị con rắn cám dỗ trở nên thần linh chứ không phải là cám dỗ nhan sắc, giàu có. Đó cũng chính là cám dỗ Lucifer đã đi qua. Lucifer muốn trở thành Thiên Chúa để có quyền trên mọi tiêu chuẩn tốt xấu. Đây là ước mơ vượt quá bản chất con người. Tội là một hành trình đưa con người đi khác con đường của Thiên Chúa. Vượt qua giới hạn của mình để làm thần thánh. Trong con người có một cuộc phân ly như Phaolô đã kêu lên: “Điều tôi muốn làm tôi không làm. Điều không muốn tôi lại làm”. Trong dân gian có câu đố về con muỗi rất thú vị: Vì mày tao phải đánh tao. Vì tao, tao phải đánh tao, đánh mày. Vui mừng khi giết được con muỗi cắn mình, nhưng máu của mình hay máu con muỗi? Phaolô thốt lên: “Tôi là người khốn nạn”. Ngài vỡ oà trong tiếng kêu: ‘Ai giải thoát tôi khỏi cái xác chết này?”. Thánh nhân reo vui niềm hạnh phúc: “Tạ ơn Chúa, nhờ Đức Kitô”. Không có ơn sủng đời sống sẽ nhiều bất hạnh. Có ơn sủng Chúa Kitô, con người sẽ đong đầy niềm vui hạnh phúc.
Ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của mình, về khuynh hướng xấu, sự bất lực nơi bản thân để mỗi người nổ lực giải thoát khỏi sự thống trị khắc nghiệt của tội lỗi và đó là khởi đầu cho ơn hoán cải và ơn cứu độ. Đó là lối đi của ơn sủng.
Mùa Chay mời chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu. Sa mạc là nơi hoang vu trơ trọi, mênh mông. Ở đó người ta mất hết mọi điểm tựa, không còn chi để “chia trí,lo ra”. Chẳng hạn như ngoại cảnh ồn ào, các hoạt động, các thú vui, các quan hệ xã hội; chỉ còn ta với ta và buộc ta phải quay về với mình trong sự đơn độc của chính mình. Trong sự quay về đó ta có cơ may nhìn thấy những điều cốt yếu nhất khi đối diện với chính lòng mình.
Con người chúng ta thường sống hời hợt bên ngoài, tan loãng ra trong trăm thứ linh tinh hay phụ thuộc khác. Mùa Chay mời gọi chúng ta đi vào sa mạc, nghĩa là tạo một sự trống vắng nào đó, một sự thinh lặng của các giác quan, của trí khôn và của cỏi lòng, một sự rút lui vào trong tâm khảm mình để có thể phân định đâu là cái chính cái phụ, đâu là cái cùng đích và cái phương tiện. Đây chính là lúc hồi tâm.
Biềt mình mỏng dòn, nhưng con người theo Phụng vụ Mùa Chay lại không phải là con người mềm yếu, uỷ mị, ngã nghiêng theo mọi lời mời mọc cám dỗ. Con người Mùa Chay là con người dũng cảm chiến đấu. Như Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời hoạt động công khai, Chúa vào sa mạc và tuyên chiến với Satan tức là với mọi mãnh lực của sự ác một cách không khoan nhượng. Và Ngài đã chiến thắng.
Người Kitô hữu là người biết nói không, là người dám bơi ngược dòng “ Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Người Kitô hữu không cố ý sống lập dị, khác người, song đứng trước điều xấu,dù là khi cả xã hội đều làm điều xấu đó, họ vẫn không được ngã theo. Họ phải can đảm từ chối một cơ hội làm giàu bất chính, một liên minh bất công, một mối quan hệ tội lỗi….Dĩ nhiên điều đó không dễ chút nào. Nhưng đã là môn đệ Đức Giêsu, họ không có chọn lựa nào khác.
Con người theo Phụng vụ Mùa Chay biết mình tự thân chỉ là cát bụi, nhưng là “cát bụi tuyệt vời”. Nó vẫn tuyệt vời ngay khi trở về với cát bụi trong một chiều “lá úa trên cao rụng đầy”, chứ không phải chỉ tuyệt vời khi “vươn hình hài lớn dậy” mà thôi.
Đức tin dạy cho chúng ta biết rằng “Hạt bụi” là chúng ta, được tình yêu Thiên Chúa gọi vào hiện hữu và chia sẽ sự sống bất diệt của Người. Kiếp người cho dù có đau thương, có bi đát, đôi lúc tưởng chừng bóng tối lấn lướt ánh sáng. Nhưng cuối cùng, sự sống, chân lý, tình thương vẫn mạnh hơn tất cả.
Ước chi mỗi gia đình và cộng đoàn Kitô hữu biết tận dụng thời gian Mùa Chay này, để gạt bỏ một bên những điều gì gây lo ra cho tâm trí và tăng trưởng trong những điều nuôi dưỡng tâm hồn, hầu yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Tôi đặc biệt nghĩ tới một sự dấn thân lớn hơn cho việc cầu nguyện, lectio divina, chạy đến bí tích hòa giải và tham dự tích cực vào bí tích Thánh Thể, đặc biệt Thánh lễ ngày Chúa nhật. Với thái độ bên trong ấy, chúng ta hãy đi vào tinh thần sám hối của Mùa Chay. Nguyện xin Đức Trinh nữ Maria, “Nguồn hoan lạc của chúng ta,” đồng hành và trợ giúp chúng ta trong nỗ lực giải thoát tâm hồn khỏi nô lệ tội lỗi, biến nó thành “nhà tạm sống động của Thiên Chúa.” (Sứ điệp Mùa Chay 2009).
Ước gì mỗi người Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của bản thân; luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa, sống Mùa Chay thánh thiện để đón nhận nhiều Ơn Phúc Chúa ban.
42.Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu--Suy niệm Lễ Tro----Lm. Ignatiô Trần Ngà
Cá thì dễ ươn, thây ma dễ thối, con người dễ hư.
Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối.
Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi nhà vua sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả chồng bà là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II Samuen 11)
Rồi ngay cả con vua Đa-vít là Salômôn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng quá mê đắm xác thịt, có đến bảy trăm thê thất và ba trăm hầu thiếp, đã xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I Vua 11, 1-13).
Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối: hư thối vì tham nhũng, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…
Cá thì dễ ươn, thây ma thì mau thối, con người thì rất dễ hư!
Triết gia Platon diễn tả thân phận con người "như cỗ xe có hai ngựa kéo." Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau.
Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của người. Người than thở: "Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét …thật khốn thân tôi!”
Thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.
Thân phận con người cũng như thân phận chiếc thuyền bơi ngược dòng nước, nếu không vững tay lái, không mạnh tay chèo thì vô vàn đam mê, dục vọng và tham muốn thấp hèn như những dòng nước ngược chảy xiết sẽ dìm chúng ta vào trong dòng xoáy của chúng và xô đẩy chúng ta xuống vực thẳm.
Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su
Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người sẽ bị suy thoái và không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.
Khi làm người, Chúa Giê-su cũng mang thân phận con người có xác thịt hoàn toàn y như chúng ta. Người cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Người cũng đã từng chịu, có khác là Người đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Người luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15).
Ý chí chúng ta thì bạc nhược. Xác thịt lại ươn hèn. Đam mê tội lỗi thì mạnh như vũ bão cuồng phong… nên tự sức mình, chúng ta không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ.
Vậy trong mùa chay nầy, chúng ta hãy vào sa mạc tâm hồn mà chiến đấu cùng Chúa Giê-su. Hãy luôn kết hiệp với Chúa Giê-su và dùng Lời Người như khí giới thần diệu chống lại ác thần.
Ước gì mỗi người thường xuyên rước lấy Mình Máu thánh Chúa Giê-su để kết hiệp mật thiết với Người hơn. Và một khi có Người ở với chúng ta, ở trong chúng ta, cùng chiến đấu với chúng ta thì chúng ta mới có thể chiến thắng được tội lỗi và trung thành đi theo đường lối Thiên Chúa đến cùng, như Người đã từng chiến thắng vẻ vang.
43.Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Trần Ngà
Người Eskimo nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy da chúng làm y phục.
Người ta dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh. Họ lặp lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu lớn như quả xoài.
Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói sẽ phát hiện rất nhanh mùi máu tươi và sẽ chạy đến liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi bị cứa đứt nhiều đường, máu từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của mình mà không hay biết. Càng liếm hăng, lưỡi càng bị cứa sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.
Cám dỗ trong đời người
Có thể nói: con người là con vật phải đương đầu với nhiều cơn cám dỗ nhất. Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống (rượu, bia), của thuốc lá, ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của tiền bạc, của địa vị, công danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.
Người ta bị thu hút, bị lôi cuốn vào các cơn cám dỗ như con sói tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như những con thiêu thân lao vào lửa và hậu quả là con người trở nên mềm yếu, bạc nhược, bị lôi cuốn vào dòng thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng phăng giữa dòng nước lũ hung tàn.
Không rõ con sói một khi biết có lưỡi dao bén ẩn dấu trong cục máu đông có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa không, nhưng đối với nhiều người thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc thú có ẩn dấu lưỡi dao thần chết thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó đến cùng rồi mượn lời thơ Xuân Diệu để tự biện minh rằng: "thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm" (Xuân Diệu)
Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như chúng ta.
"Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa... nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. (Philip 2, 6-7)
Vì trở nên người phàm như chúng ta, "Chúa Giêsu đã từng chịu thử thách về mọi phương diện như chúng ta' (Do-thái 4,15).
Qua đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thánh sử Mác-cô cho biết Chúa Giêsu đã vào hoang địa bốn mươi ngày và Người đã thực sự bị Xa-tan cám dỗ. (Mác-cô 1, 12-13)
Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm bề về mọi phương diện như chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ thua cuộc, không bao giờ sa chước cám dỗ. Người đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và luôn trung thành đi theo đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.
Cùng chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giêsu.
Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị chế ngự bởi một đứa bé cỏn con khi người ta xỏ mũi được chúng. Con người dù có hùng mạnh đến đâu, nhưng một khi bị "xỏ mũi" bởi các đam mê tội lỗi, thì cũng phải ngoan ngoãn lội xuống bùn, sa xuống vực vì sức kéo của những đam mê và dục vọng xấu xa đen tối.
Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm riêng. Nơi người nầy là lỗ miệng tham ăn tham uống, nơi người khác là bệnh háo sắc hay thói tham danh hám lợi, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, hận thù, ghen ghét, kiêu căng...
Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở thích của cá; cũng vậy ma quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp "khẩu vị" của từng người và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng ta.
Trong mùa chay, Chúa Giêsu và Giáo Hội kêu mời chúng ta đi vào cõi thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà soát tâm tư mình, xét xem những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi phối đời ta mạnh nhất (đó là những tử huyệt cần canh phòng che chắn). Chính những đam mê và xu hướng đó là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết; và cũng chính những động cơ đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm giá cũng như giá trị cao đẹp của đời ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu cùng chiến đấu với chúng con trong mặt trận nguy khó nầy và ban ơn giúp sức để chúng con không bao giờ lùi bước trước bất kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và những đam mê xấu xa đồng thời lập được nhiều chiến công vẻ vang như Chúa.
44.Đức Giêsu chịu cám dỗ trước khi công khai rao giảng Tin Mừng--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao trước khi Đức Giêsu bước ra đời để loan báo Tin Mừng, Thánh Thần lại đẩy Ngài vào hoang địa để Ngài chịu cám dỗ? Việc đó có cần thiết hay ích lợi cho Ngài hoặc cho ai không? Mục đích của Thánh Thần là gì?
2. Bị cám dỗ là điều tốt hay xấu? Cám dỗ hay thử thách có cần thiết cho việc nên thánh của ta không? Tại sao? Trước mặt Thiên Chúa, một người giả như chưa hề phạm tội vì chưa bị cám dỗ bao giờ có thánh thiện hơn người đã từng phạm tội vì tuy đã chống trả mãnh liệt nhưng lại thất bại không?
3. Không nhờ cám dỗ, không nhờ thử thách, ta có thể xác định sự thánh thiện hay đạo đức của mình hay của một ai không? Tại sao?
4. Cám dỗ hay thử thách là cần thiết, vậy có nên tự tìm cho mình những dịp để “được” cám dỗ không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu chịu thử thách trước khi ra đi loan báo Tin Mừng
Cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc sống để chúng ta có thể chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa. Thật vậy, làm sao ta có thể biết tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân, tinh thần siêu thoát, lòng đạo đức của ta cao hay thấp và ở mức độ nào, nếu ta không được thử thách? Tương tự như nếu không dùng lửa hay a-xít để thử, làm sao ta có thể biết được những đồ trang sức của ta là vàng thật hay vàng giả, là nguyên chất hay bị pha tạp? và nếu bị pha tạp thì pha tạp ở mức độ nào? Để biết rõ một người trước khi dùng người đó, nhất là vào những chức vụ quan trọng, giám đốc nhân sự của các công ty thường thử tay nghề, thử lương tâm, thử bản lãnh, thử mức độ đáng tín nhiệm của người đó bằng nhiều phương cách khác nhau. Ông có thể dàn dựng khéo léo những cơn cám dỗ. Nhờ những thử thách đó, chẳng những viên giám đốc công ty biết rõ người mình muốn tuyển chọn, mà chính bản thân người được thử thách ấy cũng biết rõ tài đức của mình hơn. Những người đã qua được thử thách một cách thành công chắc chắn sẽ cảm thấy tự tin hơn và dễ đạt được thành quả tối ưu trong công việc của mình. Như vậy, thiết tưởng việc thử thách để biết bản lãnh về tài và đức của mình hay của người là một việc cần thiết và hết sức dễ hiểu.
Quan niệm như thế, ta thấy việc “Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào hoang địa” để “chịu Xa-tan cám dỗ” trong “bốn mươi ngày” trước khi Ngài khai mạc công việc rao giảng Tin Mừng, là một việc dường như tất yếu phải có. Qua thử thách đó, Đức Giêsu có dịp tỏ ra cho Thiên Chúa và mọi người thấy bản lãnh của Ngài để có thể đảm trách công việc loan báo Tin Mừng và cứu chuộc nhân loại.
2. Thử thách và cám dỗ rất cần thiết trong đời sống chúng ta
Trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức về tình trạng yếu kém, tội lỗi, đầy khiếm khuyết trong con người hiện tại hay “con người cũ” – vốn “bị tội lỗi thống trị” (Rm 6,6) – của chúng ta. Từ đó, ta mới quyết tâm “cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa” (Ep 4,22; x. Cl 3,9) để “mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa hầu thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24).
Nhiều khi chúng ta ý thức và tự xưng rằng mình tội lỗi, dù rất thật lòng, nhưng ý thức về tình trạng tội lỗi ấy nhiều khi hết sức mơ hồ. Chúng ta không biết mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào, tội lỗi ở chỗ nào… Chính vì thế, chúng ta không biết đường nào mà sửa mình, để rồi cuối cùng, chúng ta chẳng sửa đổi gì cả, nghĩa là “mèo vẫn hoàn mèo”. May thay, nhờ có những cám dỗ xảy đến trong đời sống mà ta biết được mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào.
Cũng có nhiều khi ta tưởng mình đạo đức, thánh thiện, vì ta cảm thấy mình rất ít khi lỗi luật của Chúa hay của Giáo Hội. Ta có cảm tưởng ta rất tốt với bạn bè, với những người chung quanh ta, vì ta thấy mình cư xử rất lịch thiệp với họ, không hề đụng chạm tới quyền lợi họ, hay không hề cư xử bất công với họ… Ta cũng giống như Phê-rô và các tông đồ xưa, nghĩ mình là người luôn luôn trung thành với Đức Giêsu bất kỳ trong hoàn cảnh nào: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Khi nói như thế, các ông rất thành thật, không một chút dối trá. Nhưng các ông không thể ngờ được phản ứng của các ông sau này khi Đức Giêsu bị bắt: “Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết” (Mt 26,56), còn Phê-rô, người tỏ ra sẵn sàng sống chết với Thầy mình nhất thì “gà chưa kịp gáy ông đã chối Thầy tới ba lần” (Mt 26,75).
Nhiều khi thứ đạo đức hay trong sạch của ta tương tự như độ trong của một ly nước múc từ dưới bùn lên, nhưng đã được để lắng trong nhiều ngày. Phần trên của ly nước cũng trong vắt không kém gì một ly nước suối. Nhưng khi quậy lên thì nước trong ly đục ngầu đang khi ly nước suối có quậy đến đâu cũng vẫn tiếp tục trong vắt. Nếu không quậy lên, người ta có cảm tưởng nước ở trong cả hai ly tốt như nhau. Nếu không quậy lên, làm sao biết được ly nào là trong thật sự? Cũng vậy, nếu không có cám dỗ, làm sao biết được ai đạo đức sâu xa, ai đạo đức chỉ ở bề mặt?
3. Chỉ biết mình đạo đức hay không qua những cám dỗ thử thách
Nguyễn Công Trứ viết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Thật vậy, nếu cuộc đời của mọi người đều an bình, thuận buồm xuôi gió cả, thì người có bản lãnh sẽ hành xử chẳng khác gì người không bản lãnh. Nếu các đồ vàng bạc không được thử bằng lửa hay a-xít thì chẳng sao phân biệt được vàng thật hay vàng giả. Cũng vậy, chính trong cơn hoạn nạn ta mới biết được ai là bạn tốt, bạn thật của ta: “Friend in need, friend indeed” (Bạn bè trong cơn hoạn nạn mới là bạn thật). Tương tự, chỉ khi gặp những biến cố, những hoàn cảnh khó khăn, ta mới biết được ta có đạo đức hay không. Muốn biết đạo đức của ta ở mức độ nào, ta cần phải tự xét xem phản ứng của ta thế nào…
– khi quyền lợi của ta bị va chạm một cách bất công: lúc đó ta nổi sùng lên và chửi rủa loạn xạ? hay ta bình tĩnh xét xem nguyên nhân tại đâu, suy nghĩ xem có thể giải quyết cách nào cho đẹp nhất, khôn ngoan nhất, bác ái nhất?
– khi có một quyền lợi nào đó không thể phân chia xảy đến giữa ta và người bạn của ta: lúc đó ta quyết dành quyền lợi ấy về cho mình? hay biết nhường cho bạn? Epictète đưa ra hình ảnh hai con chó có vẻ quấn quít và yêu thương nhau lắm. Nhưng khi có ai quăng cho chúng một cái xương, thì chúng quay ra cắn nhau sứt đầu chảy máu. Như vậy có thật là chúng yêu thương nhau không? Làm sao biết được chúng có yêu thương nhau thật sự không nếu không có miếng xương để thử?
– khi đứng trước một người gặp nguy khốn đang cần cứu giúp, nhưng nếu cứu giúp thì ta sẽ phải hy sinh rất nhiều: lúc đó ta sẽ cứu giúp người ấy bất chấp phải hy sinh? hay sẽ nhường việc cứu giúp ấy cho người khác?
– khi đứng trước những bất công trước mắt mà việc lên tiếng của ta có thể chặn đứng hay giảm bớt phần nào, nhưng nếu lên tiếng thì ta sẽ bị sách nhiễu, công việc của ta sẽ bị cản trở: lúc đó ta sẽ coi sự đau khổ của đồng loại quan trọng hơn sự thoải mái cá nhân ta? hay ngược lại?
– khi mà nồi cơm của ta và gia đình ta bị đe dọa nếu ta làm theo lương tâm, và làm theo lương tâm sẽ cứu được biết bao nồi cơm của những gia đình khác: lúc đó ta sẽ coi những nồi cơm của vô số gia đình kia quan trọng hơn nồi cơm của gia đình mình? hay ngược lại?
– khi có hai người giàu và nghèo đến với ta một lúc, người giàu đem lại nhiều lợi lộc cho ta, còn người nghèo đến để nhờ ta một việc khá khó khăn: lúc đó ta sẽ đối xử với hai người một cách niềm nở như nhau? hay ta sẽ đối xử một cách phân biệt hết sức rõ rệt?
– v.v…
Rất nhiều người tưởng mình tốt lành thánh thiện chỉ vì thấy mình chưa hề phạm một lỗi nào quá đáng, rồi dựa trên sự vô tội của mình họ chê bai người khác đã phạm lỗi này tội kia. Thật ra họ chỉ là người chưa phạm tội vì chưa phải ở trong những hoàn cảnh khó khăn, nhiều cám dỗ, chứ không phải họ là những người khó có thể phạm tội. Rất có thể khi gặp những hoàn cảnh khó khăn, những cơn thử thách, họ còn phạm tội nặng nề hơn những người đã từng bị họ chê trách, mặc dù hoàn cảnh khó khăn hay sự thử thách của họ chẳng nặng nề bằng những người kia. Sự thánh thiện đạo đức phải dựa trên khả năng không phạm tội khi bị cám dỗ, chứ không chỉ đơn thuần dựa trên tình trạng vô tội trong hiện tại chỉ vì chưa gặp cám dỗ.
Nhiều người tự hào khoe mình bản lãnh lắm, hoặc được mọi người coi là đã tiến rất xa trên con đường nhân đức chỉ vì tu hành đã lâu năm, hay vì được nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo Hội, v.v… Nhưng khi gặp những thách đố, khi phải đối đầu với những cám dỗ chưa từng gặp, họ mới nhận ra bản lãnh của mình còn non kém, hay đường nhân đức của mình mới chỉ ở giai đoạn đầu.
Như đã nói trên, cám dỗ và thử thách rất cần thiết cho việc nên thánh của ta. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta nên tự tìm cho mình những cám dỗ. Trái lại, sự khôn ngoan đòi buộc ta phải tránh xa các dịp tội, những điều kiện hay cơ hội khiến ta có thể phạm tội. Câu “dĩ đào vi thượng sách” là một phương cách rất hay trong việc tu đức hay nên thánh. Và cũng nên nhớ lời khuyên của Phao-lô: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12). Nhưng khi những cám dỗ tình cờ xảy đến ngoài ý muốn của ta, ta nên sẵn sàng đón nhận, và hãy chiến đấu một cách dũng cảm, quảng đại. Rồi dù thắng hay bại, ta cũng hãy coi chúng như những hồng ân Chúa ban để giúp ta hiểu rõ mình hơn, khiêm nhường hơn, giúp ta xác định đúng hơn mình đang ở vị trí nào trên con đường nên thánh.
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi con thầm tự hào về mình, tưởng mình đã đạo đức hay thánh thiện lắm rồi. Nhưng lắm khi chỉ cần gặp những cơn cám dỗ hơi bất thường một chút, con đã ngã gục. Con cám ơn Cha đã gửi những cám dỗ ấy đến để con ý thức về bản lãnh của con một cách chính xác hơn, nhờ đó con khiêm nhường hơn, và biết cảm thông với những yếu đuối của đồng loại hơn.
45.Sống với chính mình--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
“Tôi lạc quan giữa đám đông, nhưng khi một mình thì lại không
Cố tỏ ra là mình ổn, nhưng sâu bên trong nước mắt là bể rộng”.
Đây là những lời mở đầu trong đoạn rap của ca khúc “Người lạ ơi” một thời được bao bạn trẻ yêu thích. Lần đầu tiên tôi nghe ca khúc này, tôi rất ấn tượng với những lời trên đây. Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đã diễn tả tuyệt vời tâm trạng của phần đông chúng ta. Chúng ta hay cảm thấy rất ổn khi sống với đám đông. Nhưng khi trở về với chính mình, chúng ta lại thấy vô cùng bất ổn. Có cái gì đó khiến ta luôn không hài lòng với chính bản thân mình.
Mười hai năm học phổ thông, và đôi khi là cả bốn năm đại học, chúng ta đã được nhồi nhét đủ thứ kiến thức. Những kiến thức ấy khiến chúng ta có khả năng làm việc và hòa nhập với cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, không một thầy cô giáo nào dạy chúng ta học sống với chính mình. Không có ai gần gũi mình cho bằng chính bản thân mình, thế mà chúng ta luôn lãng quên điều đó. Chúng ta học sống với tha nhân, với bạn bè, với cộng đồng. Chúng ta được dạy để tranh đoạt, để làm cho mình thành công trong mọi lãnh vực. Có một nhận xét rất sâu sắc của một tác giả mà tôi không thể nhớ được tên của ông. Đại khái ông nói rằng nền giáo dục vô thần của chúng ta đã tước đoạt đi của các em một cái gì đó thiêng liêng. Thay vì nở hoa thì tâm hồn các trẻ em lại mọc lên những gai cùng góc. Tôi thấy thật chí lý. Con em của chúng ta đã bị nhồi sọ và đánh mất đi cái phần Thần Linh, cái làm cho con người thực sự là con người.
Chúa Nhật thứ nhất mùa chay năm B, Chúa Giê-su dạy ta cách sống với chính mình. Ngài được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để ăn chay và chịu Satan cám dỗ 40 đêm ngày. Thánh Marcô chỉ mô tả vắn gọn rằng Chúa sống chung với dã thú và được các Thiên Thần hầu hạ Người (Mc 1,12). Có một chi tiết mà cả ba Tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều nhắc đến đó là Chúa được Thánh Thần dẫn vào hoang địa. Đây là chi tiết rất quan trọng. Con người chúng ta thường lãng quên Thánh Thần. Chúng ta để cho bao thứ hướng dẫn và thúc đẩy chúng ta. Điều đó khiến con người chúng ta cứ loay hoay không biết đâu là bến bờ. Chúa được Thánh Thần đưa vào hoang địa. Suốt 40 ngày, Chúa ở đó trong thinh lặng cô tịch. Hoang địa là vùng đất không có người ở. Nhưng lại có dã thú đến sống chung với Chúa. Và cả các Thiên Thần hầu hạ Chúa. Có một cái gì đó thật đẹp đã xảy ra. Khi con người để cho Thần Linh hướng dẫn, con người sẽ sống hòa hợp với mọi tạo vật. Ngay cả dã thú cũng trở thành bạn. Không có chiến tranh và thù hận mà chỉ có tình yêu thương ngự trị. Ma quỷ cũng phải bị khuất phục một cách dễ dàng.
Giữa cuộc sống xô bồ hôm nay, con người đã dần lãng quên Thiên Chúa. Cũng như thời Nôe, tội lỗi đã lan tràn (St 9,8-15). Điều đó khiến Thiên Chúa phải thanh lọc. Ngài chọn Nôe để làm mới lại tương quan với con người. Ngài nhắc lại giao ước từ ngàn xưa với con người để tái tạo một nhân loại mới. Nhưng rồi con người lại sa ngã và cứ đi sai đường lối Chúa. Chúa đã sai chính Con Một của mình đến để nhắc lại một lần cho tất cả rằng con người chỉ có thể hạnh phúc khi trở về với Chúa. Trước khi công bố sứ điệp Tin Mừng, hôm nay Chúa vào hoang địa để sống thân mật với Chúa Cha. Chúa dạy ta một bài học vô cùng quan trọng. Trước khi đi vào hội nhập với cuộc sống xã hội, con người cần phải hòa hợp với Tạo Hóa. Khi con người hòa hợp với Tạo Hóa, con người sẽ thông suốt để hòa hợp với bản thân và với muôn loài muôn vật.
“Người lạ ơi xin giúp tôi mượn bờ vai, người lạ ơi xin giúp tôi mượn niềm vui…”. Nhạc sĩ Châu Đăng Khoa đã kêu gọi người lạ đến trợ giúp mình. Nhưng chẳng người lạ nào làm được. Người lạ có đến thì rồi cũng sẽ bỏ đi để lại ta một mình. Hôm nay tôi muốn chỉ cho các bạn người lạ đó không ai khác mà chính là Thiên Chúa, Đấng đang hiện diện kín ẩn trong chính cung lòng của các bạn. Đấng đó hằng yêu thương bạn. Đấng đó luôn chờ đợi bạn. Bạn đã lãng quên Ngài. Tôi muốn mời bạn trong mùa chay thánh này, hãy quay trở lại với chính bản thân mình. Hãy tự tạo ra sa mạc của cuộc đời mình. Trong thinh lặng nội tâm, bạn sẽ tìm được sự thanh thản và bình yên. Hãy trân trọng và yêu thương bản thân mình. Đừng tự đầy đọa chính mình. Học sống với chính mình là bước nền tảng đầu tiên và quan trọng nhất của con người. Đừng lãng quên điều đó.
Lạy Chúa, xin giúp con kết nối lại với Chúa để con không bao giờ lạc lõng cô đơn giữa cuộc đời này. Amen.
46.Hãy cải thiện và hãy tin--Lm. Mark Link
Chủ đề: "Chúng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, và xin Đức Giêsu cứu giúp để từ bỏ tội lỗi đó"
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Trong Những Con Đường Xấu Xa” (Down These Mean Streets). Tác phẩm mô tả việc ông cải tà qui chánh từ một người bị kết án tù, một người nghiện ma tuý, và cố tình giết người để rồi trở thành một Kitô hữu gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trên giường trong phòng giam của mình. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm cùng giường với một tù nhân khác mà người ta gọi là “thằng ròm”. Vì thế anh chờ đợi. Sau khi đoán chắc rằng “thằng ròm” đã ngủ, anh leo ra khỏi giường và quì xuống nền bê tông lạnh ngắt để cầu nguyện. Anh kể lại: “Tôi bầy tỏ với Chúa những gì có trong trái tim tôi… Tôi nói với Ngài những lời mộc mạc… chứ không phải những lời hoa mỹ… Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng của tôi,… Tôi cảm thấy dường như tôi có thể khóc được… Đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm”.
Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói nho nhỏ đáp: “Amen”. Đó là tiếng của “thằng ròm”. Piri nói: “Thế là hắn nằm sấp xuống, đầu úp trên đôi tay khoanh lại, còn tôi vẫn quì yên lặng. Một lúc thật lâu không ai nói với ai. Rồi “Thằng Ròm” nói nhỏ: “Tôi cũng tin Chúa!”. Hai người bạn trẻ nói chuyện với nhau một lúc lâu. Rồi Piri leo lên giường ngủ. Anh nói: “chúc Chico ngủ ngon nhé. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.
***
Câu chuyện này là một hình ảnh rất đẹp, minh hoạ những gì Đức Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay khi Ngài bảo: “Hãy cải thiện đời sống và hãy tin vào Phúc Âm”. Giáo huấn của Đức Giêsu gồm hai điều: trước hết là “cải thiện” đời sống của chúng ta. Sau đó là “tin vào Phúc Âm”, chúng ta hãy bắt đầu với điểm thứ nhất: cải thiện đời sống.
“Cải thiện” hay “cải tà qui chánh” nghĩa là nhìn nhận những gì xấu, không tốt đẹp trong đời sống của chúng ta, và sau đó là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với tội lỗi trong đời sống của ta, rồi cương quyết không tái phạm nữa. Như thế có nghĩa là bắt chước Piri Thomas nhìn nhận tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời sống của anh và quyết định làm một điều gì tốt đẹp để sửa lại chuyện đó.
Tất cả chúng ta đều có thể có những kinh nghiệm tương tự như Piri Thomas. Chúng ta cũng ý thức về những khuynh hướng xấu thỉnh thoảng làm hỗn loạn đời sống chúng ta. Chẳng hạn chúng ta ý thức về tính ích kỷ khiến chúng ta đặt quyền lợi của mình lên trên nhu cầu của tha nhân. Chúng ta ý thức về tính cao ngạo khiến chúng ta không muốn nhìn nhận những sai trái của mình. Chúng ta ý thức về tính lười biếng khiến chúng ta ngại giúp đỡ tha nhân. “Cải thiện” nghĩa là đối diện với những khuynh hướng xấu trong đời sống chúng ta và làm một cái gì để sửa đổi những khuynh hướng đó.
Điều này dẫn chúng ta đến điểm thứ hai trong giáo huấn của Đức Giêsu. Ngòai việc cải thiện đời sống ra, Đức Giêsu còn yêu cầu chúng ta “tin vào Phúc Âm”. Nghĩa là tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và Ngài đến để cứu chúng ta. Nghĩa là tìm kiếm Đức Giêsu đặc biệt trong Bí Tích Hoà Giải, và nhận nơi Ngài sự tha thứ và chữa lành. Nghĩa là làm những gì Piri đã làm sau khi nhìn ra những gì xấu xa trong cuộc sống của anh. Anh đã quay về với Thiên Chúa để cầu cứu. Anh tin vào “Tin Mừng” cho biết rằng Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đến thế giới này để cứu chuộc những người tội lỗi như anh. Chính vì thế, câu chuyện của Piri Thomas là hình ảnh rất đẹp minh hoạ hai điểm trong giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Điểm thứ nhất là “cải thiện” đời sống. Điểm thứ hai là “Tin vào Tin Mừng” tin rằng Đức Giêsu đến để cứu giúp chúng ta.
Cách đây ít lâu, tác giả Kilian Mc Donnell đã thực hiện một cuộc thăm dò sâu sắc về những cuộc trở lại. Cuộc thăm dò ấy đã đáp ứng câu hỏi này: Tại sao có một vài nhà rao giảng Tin Mừng lại rất thành công trong việc làm cho thính giả hối cải như thế? Theo Mc Donnell, có một điều là họ theo giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Họ làm cho quần chúng nhìn nhận rằng mình là những kẻ tội lỗi, và họ giúp quần chúng quay về với Đức Kitô để được cứu độ. Ông nói: “Nhiều người không nhìn nhận Đức Kitô vì họ không nhìn nhận rằng chính họ là những kẻ tội lỗi. Nếu tôi không phải là người tội lỗi thì tôi đâu cần đến Đức Kitô”
Mc. Donnell kết luận: “Không ai mừng kính những mầu nhiệm của Đức Kitô một cách vui mừng, nếu trước tiên người đó không buồn rầu nhìn nhận rằng mình là kẻ có tội”. Bài Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta thực hiện hai điểm quan trọng ấy. Nó mời gọi chúng ta nhìn nhận mình là những kẻ có tội, và quay về với Đức Giêsu để được cứu độ.
Điều đó khiến chúng ta đi đến một nhận xét quyết định. Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta như thể dẫn chúng ta vào mùa chay một cách tốt đẹp. Qua các thế kỷ, các Kitô hữu đều nhận thấy mùa chay là thời gian Thiên Chúa ban ân sủng cách đặc biệt, nhất là để giúp ta cải thiện đời sống
Nếu chúng ta muốn tìm một phương thế đặc biệt để sống tinh thần mùa chay năm nay, thì không có phương thế nào tốt hơn là coi mùa chay như một cơ hội thuận tiện để tái khám phá ra quyền năng của Bí tích hoà giải và sự bình an này, chúng ta thực hiện những gì mà Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta làm, chúng ta hãy nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và nhận Ngài làm cứu Chúa của ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy nghĩ về một đoạn như thư của thánh Phaolô nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và nhận Đức Giêsu làm Cứu Chúa của mình. Thánh Phaolô viết:
“Tôi không hiểu những gì tôi làm, vì tôi không làm những gì tôi muốn làm, mà lại làm những gì tôi không muốn làm,…vì ngay cả khi tôi muốn làm điều tốt thì tôi cũng không làm được. Tôi không làm điều tốt tôi muốn làm mà lại làm điều xấu tôi không muốn làm… Thật tôi là người vô phúc biết bao. Ai sẽ cứu tôi khỏi cái thân xác đang dẫn tôi tới cái chết này?….. Tạ ơn Thiên Chúa… người đó là Đức Giêsu Kitô!” (Rm 7: 15-25)
47.Thiên Chúa đơn phương tỏ tình với con người--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Thiên, địa, nhân hay Trời, đất, và con người mang một mối dây liên kết kỳ diệu. Một khi Thiên thời địa lợi nhân hòa thì mọi sự hanh thông. Con người được đặt để giữa trời và đất: đầu đội trời, chân đạp đất. Ông Trời đã tác tạo nên con người và làm mọi sự cho con người. Ông Trời cũng dựng nên đất để đất phục vụ con người. Trời và đất luôn nặng tình với con người. Mùa Chay về, chúng ta cùng ngồi lại ngẫm về tình Trời với người. Trong Chúa nhật thứ nhất này, Sách Thánh bộc lộ một cuộc tình đơn phương của Thiên Chúa với con người.
Đơn phương tỏ tình
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Sáng Thế (St 9, 8-15) là trình thuật về việc Thiên Chúa ký kết với ông Noe sau trận Đại Hồng Thủy. Gọi là ký kết, nhưng thực ra chỉ có một mình Thiên Chúa đơn phương kết ước với ông Noe cũng như với toàn thể sinh vật trên mặt đất. Ông Noe đã chẳng nói gì, chẳng thề hứa gì với Chúa. Còn Thiên Chúa thì hứa bảo vệ ông cũng như mọi loài: “Ðây Ta ký kết giao ước của Ta với các ngươi và con cháu các ngươi, với tất cả sinh vật đang sống với các ngươi…: nước lụt không còn tiêu diệt mọi loài nữa, cũng không khi nào còn lụt tàn phá trái đất nữa”.
Không những Chúa đã tự đưa ra lời hứa mà còn đặt để một dấu chỉ để không quên lời kết ước: “Ta sẽ đặt trên trời một cái mống, và nó sẽ là dấu chỉ giao ước giữa Ta với trái đất. Khi Ta quy tụ mây lại trên trời, mống sẽ xuất hiện trên mây, và Ta sẽ nhớ lại giao ước đã ký kết giữa Ta với các ngươi và mọi sinh vật”.
Từ ngày con người phạm tội, muốn ngoi lên bằng Trời thì con người đã trở nên sa đọa. Nó không còn được sống trong cảnh thái bình của vườn Địa Đàng nữa. Con người lang thang vô định và ngày càng trở nên tồi tệ, tội lỗi lan tràn khắp mặt đất. Lụt Hồng thủy là phương thế để Chúa Cả trời đất dùng mà tẩy xóa tội lỗi của con người. Nhưng cho dù thế nào, Thiên Chúa vẫn giữ lại dòng giống loài người, giữ lại gia đình ông Noe. Với số sót ấy, Thiên Chúa gầy dựng lại dân của Ngài.
Cho dù con người đã chống lại Ngài, nhưng Thiên Chúa đã không tận diệt con người. Ngài vẫn âm thầm, lẽo đẽo đi theo con người, tìm cách giúp đỡ con người. Ta chỉ có thể cắt nghĩa hành vi ấy là vì tình yêu. Chỉ có thể là vì yêu con người thì Chúa mới làm như vậy. Mà quả thực, Thiên Chúa đã mặc khải rất rõ cho con người trong Tin mừng Gioan “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Với việc ký kết với ông Noel, Thiên Chúa đã tỏ tình với con người; Với hình ảnh cầu vồng làm dấu chỉ để hằng nhắc lại lời kết ước, Thiên Chúa đã đặt nơi con người nguồn hy vọng lớn lao; Việc con người im lặng trong nghi lễ kết ước càng làm cho Thiên Chúa hiện lên với hình ảnh đơn độc, hình ảnh của một người tình đơn phương đang bị người mình yêu ngó lơ.
Hiện thực hóa lời hứa
Dọc theo chiều dài của Cựu Ước là hành trình Thiên Chúa tìm đến với con người. Bước sang Tân Ước, với sự hiện diện của chính Thiên Chúa trong thân phận một con người, chúng ta được chiêm ngắm hiện thực của tất cả những lời hứa của Chúa trong Cựu Ước.
Bài Tin mừng theo thánh Marco trong Chúa nhật này (Mc 1, 12-15) là trình thuật về việc Chúa Giêsu ở trong sa mạc 40 ngày.
Hình ảnh sa mạc với con số 40 gợi lại khung cảnh dân Do thái đi trong sa mạc suốt 40 năm. Chính 40 năm trong sa mạc là thời gian dân cảm nếm lòng trung thành và sự yêu thương dìu dắt của Thiên Chúa đối với họ. Nhưng cũng nơi ấy đã chứng kiến biết bao lần dân sa ngã trước cám dỗ, bao lần rời bỏ Thiên Chúa, bao lần phản bội Đấng hằng yêu họ hết lòng.
Trước khi công khai rao giảng về Trời, Đức Giêsu đã ở trong sa mạc 40 ngày. Ngài đã cảm nếm mọi cung bậc tình cảm của con người trong sa mạc 40 năm xưa kia với sự khắt khe của thiếu thốn, sự cám dỗ của ma quỷ, sự rình rập của thú dữ. Nhưng với sự xuất hiện của các thiên thần đến hầu hạ Ngài ở cuối trình thuật đã khiến ta gợi nhớ đến một khung cảnh khác. Nó không còn là sự ô nhục của cảnh xa ngã và phản bội, nhưng là cảnh thái bình mà tiên tri Isaia đã tiên báo về khung cảnh ngày cứu độ: “Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.” (Is 11,6).
Ngày mà Thiên Chúa công khai ngỏ lời với con người qua chính Ngôi Lời làm người, Thánh Marco đặt để Đức Giêsu trong một khung cảnh cô đơn thực sự. Chúa Giêsu đã đơn thân một mình trong sa mạc. Một Thiên Chúa xuống thế làm người để ngỏ lời với con người, để tỏ tình với con người. Nhưng ngày ngỏ lời lần đầu công khai ấy sao cô đơn vắng lặng một tình yêu đơn phương.
Ngẫm
Hỏi tại sao Thiên Chúa yêu con người. Khi hỏi như vậy dường như tôi đã xúc phạm đến chính Ngài. Làm sao tôi có thể hiểu được tại sao Thiên Chúa yêu con người. Nếu như tôi cố tình tìm câu trả lời thì chính khi tôi trả lời là tôi đã khuôn đúc tình yêu của Ngài vào một cái khuôn cứng nhắc của lý trí. Tình yêu không phải là những phạm trù của lý trí. Nó là những rung cảm của những thớ thịt nóng bỏng của một trái tim đang sống. Khi lý giải tình yêu là tôi không còn coi tình yêu ấy mang đầy sức sống.
Thánh Gioan tông đồ là người được mô tả đã gục đầu vào ngực Chúa trong bữa Ăn cuối cùng; Là người được gọi là “Người môn đệ Chúa yêu”; Và cũng là người môn đệ duy nhất được nhắc đến dưới chân cây Thập tự. Ngài đã cảm nhận tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình, một Thiên chúa trong hiện thân là chính Đức Giêsu. Chính ngài đã chốt hạ cho chúng ta câu trả lời tại sao Thiên Chúa lại yêu con người. Câu trả lời đơn giản là: Bởi “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,16).
Lạy Chúa, khi dừng lại suy tư con nhận biết Chúa đã yêu con. Chúa đã yêu con từ ngàn đời xa trước. Nhưng vì quá đam mê trần thế, vì quá ham vui thế gian nên trái tim con thường xuyên loạn nhịp rời xa nhịp đập với trái tim Ngài. Xin Chúa hãy ôm ghì lấy con, cho con được cảm nếm tình yêu của Ngài, để trái tim con luôn hòa cùng nhịp đập với tình yêu nồng nàn trong trái tim Tình Yêu viên mãn.
48.Câu chuyện hồng thủy--Lm. Anphong Trần Đức Phương
Mùa Chay Thánh bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro cho đến Chúa Nhật Lễ Lá; mở đầu Tuần Thánh, và tiếp theo là Chúa Nhật Đại Lễ Phục Sinh.
Trong Chúa Nhật I Mùa Chay (Năm B), Bài Đọc I (Sáng thế 9, 8-15) nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy. Thánh Phêrô cũng nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy trong Bài Đọc II (1 Phêrô 3, 18-22). Đại Hồng Thủy đã tiêu diệt tất cả nhân loại và mọi sinh vật "trừ 8 người trong gia đình ông Noe và một số sinh vật được đưa lên tàu".
Câu chuyện Đại Hồng Thủy nhắc nhở chúng ta đến hậu quả khủng khiếp của tội lỗi. Nhưng con người chúng ta luôn bị cám dỗ lôi cuốn phạm tội. Bài Phúc Âm (Matcô 1, 12-15) cũng ghi lại việc chính Chúa Giêsu cũng để cho ma qủy cám dỗ, sau khi đã ăn chay 40 ngày.
Cám dỗ là một thử thách suốt cuộc đời chúng ta. Nhưng bị cám dỗ chưa hẳn là đã phạm tội. Có rất nhiều thứ cám dỗ khác nhau, nhưng tất cả đều do khuynh hướng con người chúng là 'ham danh, ham lợi, ham lạc thú!'. Mọi người đếu bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng ham muốn được ca tụng, được giầu có, và thỏa mãn các thú vui. Ngay cả các vị Thánh tu hành trong sa mạc cũng bị cám dỗ, nhiều khi rất mạnh mẽ, cả trong tuổi già (như Thánh Antôn Viên Phú; Lễ kính ngày 17-1 hàng năm). Nhưng chúng ta có thể thắng cám dỗ, nếu có ơn Chúa giúp đỡ qua việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình, và xa tránh dịp tội.
Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, khi chúng ta lên chịu xức tro, chúng ta đã nghe ca đoàn hát: "Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro..." (Bài "Hỡi Người Hãy Nhớ" của Kim Long) để nhắc nhở chúng ta đã được dựng nên do "bụi tro, và khi chết, thân xác chúng ta cũng sẽ trở về 'tro bụi'. Suy nghĩ như vậy không phải để chúng ta 'bi quan yếm thế'; nhưng chỉ để chúng ta nhớ đến cuộc đời của chúng ta trên trần thế này ngắn ngủi, mỗi ngày qua đi là một ngày chúng ta đi đến gần nấm mộ của chúng ta hơn, và sau khi chết thân xác chúng ta sẽ trở thành tro bụi. Tuy nhiên, chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa, có linh hồn bất tử. Chết chỉ là 'thể phách, hồn là tinh anh" và 'sống gửi thác về', 'sinh qúy tử quy'. Chúng ta sẽ được về với Chúa là Cha chúng ta trên nước Hằng Sống, miễn là chúng ta luôn biết cố gắng thắng cám dỗ để sống xứng đáng những con người đã "được dựng nên theo hình ảnh Chúa!' (Sáng thế 1, 26).
Mùa Chay chính là "thời gian thuận tiện" (2 Corintô 6,2) để chúng ta 'làm các việc lành phúc đức'. Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta dùng nhiều thời giờ hơn để sống đức tin của chúng ta, thánh hóa bản thân và gia đình chúng ta. Có những việc Giáo hội nhắc nhở chúng ta phải làm nhiều hơn trong Múa Chay, đó là: Cầu nguyện, ăn năn sám hối lỗi lầm quá khứ qua việc xét mình xưng tội; làm việc đền tội qua những hy sinh hãm mình (ăn chay và kiêng thịt); làm việc từ thiện (thường gọi là 'làm phúc bố thí'), giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, đau khổ trên thế giới. Những việc này chúng ta vẫn làm hàng ngày, và từng giây phút cuộc đời, nhưng vào Mùa Chay, chúng ta cố gắng nhiều hơn để giúp đổi mới con người chúng ta, gia đình chúng ta và chuẩn bị những ngày kỷ niệm việc Chúa đã chịu chết để chuộc tội chúng ta, nhưng Ngài đã Sống Lại và Lên Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho chúng ta.
Xin hiệp ý cầu nguyện chung, để mỗi người chúng ta sống tốt đẹp mùa Chay Thánh này, được dồi dào ơn thánh Chúa để canh tân con người chúng ta, gia đình chúng ta và chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn trong thế giới hôm nay.
49.Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Hoang địa: Trường đào luyện công dân Nước Trời.
Anh chị em thân mến,
Một xã hội trọng học vị, bằng cấp, thường ưu tiên tuyển dụng cán bộ, chuyên viên, các ứng viên xuất thân từ những đại học danh tiếng, có bằng cấp.
Quan niệm xã hội đã tác động mạnh mẽ trong nếp suy nghĩ của chúng ta. Các bậc làm cha mẹ cố gắng tối đa tìm trường danh tiếng cho con theo học: du học Mỹ, Úc, Âu Châu... hy vọng một tương lai rực rỡ chào đón sau khi mãn trường.
Đầu tư cho con học tập là một chọn lựa đúng đắn, có tầm nhìn chiến lược hoàn hảo: “Để lại cho con một rương vàng, không bằng để lại cho nó một cuốn sách” (Danh ngôn).
Tuy nhiên, việc đào tạo phải toàn diện: trí dục, đức dục, thể dục, thiêng liêng, cùng thực hiện đồng bộ, mới dám chắc việc đầu tư của chúng ta không vô ích.
Thật đáng buồn tình trạng giáo dục tại Việt Nam: quá chú trọng đến kỹ thuật, thời lượng là một cực hình, xem nhẹ hoặc không còn giờ cho các việc đào tạo khác, nhất là vấn đề tôn giáo... đó là những lỗ hổng tạo tiêu cực, bất ổn, bạo lực trong gia đình, nơi học đường, ngoài xã hội.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy cách thức tìm kiếm Nước Trời, nhờ chăm chỉ học trong trường “Hoang địa” Chúa thiết lập huấn luyện dân Người.
Ngôi trường này huấn luyện đời sống thiêng liêng, dạy kiên nhẫn vượt thắng thử thách gian truân, dạy tinh thần hiền lành cậy trông tín thác vào Chúa, vì tại nơi đó nếu lãng quên huấn lệnh Ngài, con người sẽ gục ngã và thất bại thảm thương.
Hoang địa, ngôi trường độc đáo, nơi hoang vu không cây cối vườn tược, nhà cửa, không người thân hàng xóm láng giềng, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào phục vụ sự sống. Hoang địa chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thử thách chất chồng, bắt con người phải chiến đấu để tồn tại.
Hoang địa hay thánh giá giúp con người trưởng thành toàn diện, nhất là đời sống thiêng liêng. Ai không chấp nhận con đường đào luyện này sẽ không thể là công dân Nước Trời: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta” (Mt 16, 24).
Vậy trường “Hoang địa” dạy chúng ta những gì?
Thứ nhất dạy vượt thắng thiên nhiên: Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt. Sa mạc chỉ toàn cát đá, đêm lạnh thấu xương, ngày nóng như thiêu, hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói, chịu khát, chịu nóng, chịu lạnh và mọi thiếu thốn. Dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa, chống lại Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác.
Thứ hai dạy cách thắng ma quỷ: Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông Gióp cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự. Nhờ tin vào Thiên Chúa, ông đã thắng được ma quỷ. Đức Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ bày ra nhờ Người vững lòng tin vào Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông Gióp vững lòng tin nên luôn đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã chiến thắng mọi cơn cám dỗ.
Thứ ba dạy từ bỏ ý riêng: Nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Cha, Người đã từ bỏ con đường rộng để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để chọn con đường nghèo hèn, từ bỏ con đường riêng tư, đi vào con đường Cha đã định, Người đã toàn thắng mọi thử thách, cám dỗ.
Thế nhưng, hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách, nó còn là nơi gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau 40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp gỡ Cha, đã tìm được ý Cha và đã kết hiệp mật thiết với Cha, đến độ, từ nay Ngài thuộc trọn về Cha. Thánh ý Cha đã trở thành lương thực đời sống Người. Giê-su hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để thánh ý Cha được nên trọn. Vì thế, Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào hoang địa cuộc đời.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do, không chịu nô lệ vật chất.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn thử thách.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt thòi.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở nên “Con yêu dấu” của Chúa.
Nếu chúng ta chuyên tâm rèn luyện trong trường “Hoang địa” Giê-su, tâm hồn sẽ trở nên vững mạnh, có khả năng chống lại được những cám dỗ, nhanh nhẹn dấn thân vào những việc đạo đức, không ngại khó, ngại khổ và nhất là, quen từ bỏ ý riêng, thực thi ý Chúa, chúng ta sẽ trở nên Con hiếu thảo của Cha trên trời.
Xin Chúa chúc lành cho cộng đoàn chúng ta trong mùa chay thánh này. Amen.
50.Đức Giêsu chiến thắng Satan--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Đây là phân đoạn cuối của Lời tựa (1,1-15), kể lại những hoạt động đầu tiên của Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa.
2.- Bố cục
Bản văn này gồm hai đơn vị:
1) Cám dỗ trong sa mạc (1,12-13);
2) “Bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c.14a),
b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15).
3.- Vài điểm chú giải
- Thần Khí đẩy Người (12): Động từ Hy Lạp ekballô, “quăng ra; đuổi; kéo ra”, thuộc thì “hiện tại lịch sử” (historic present), một thì tiêu biểu của TM Máccô. Trong tác phẩm, động từ này luôn luôn hàm ý sức mạnh, có khi là một sức mạnh áp đảo (đuổi ma quỷ: 1,34; 3,15.22.23; 6,13; 7,26; 9,18.28.38; 16,9.17. Về người: 1,43; 5,40; 11,15; 12,8). Các Tin Mừng Nhất Lãm khác dùng những động từ nhẹ nhàng hơn (Mt: anagesthai, “được dẫn”; Lc: agesthai, “được dẫn”). Ý nghĩa: chính Thánh Thần đã là sức mạnh làm cho Đức Giêsu đi vào hoang địa.
- bốn mươi ngày (13): Trong Mt và Lc, giữa những câu trao đổi giữa Đức Giêsu và Satan, trích từ sách Xh và Ds, chúng ta hiểu đây là một quy chiếu về biến cố Xuất Hành. Còn trong Mc, có thể con số “40” này là một âm vang của cuộc thử thách 40 ngày mà Môsê (Xh 34,28) và ngôn sứ Êlia (1 V 19,1-8) đã trải qua.
- hoang địa (sa mạc): Sa mạc có ảnh hưởng dọc theo lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn cảnh: (1) Thời gian ở trong hoang địa trước tiên được trình bày như thời kỳ sống lý tưởng của Dân được Thiên Chúa tuyển chọn; khi ấy, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong phú và họ sống lý tưởng này ở mức hoàn hảo. (2) Nhưng đây cũng là thời thử thách, thậm chí thời trừng phạt, dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Hoang địa vừa là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện (các nhân vật lớn của dân Chúa đến đây để làm cho các chương trình của mình được chín muồi, hoặc để tái phục hồi lòng nhiệt thành), vừa là nơi thử thách. Ở đây, hoang địa là nơi đáng sợ bởi vì có các dã thú cư ngụ. Tác giả không quan tâm xác định một địa điểm theo địa lý.
- Satan (Hp. Sâtân, “kẻ tố cáo, kẻ chống đối” (HL. satanas; x. Mc 3,23.26; 4,15; 8,33): Tên này tương tự với diabolos, “ác thần”, “quỷ”, kẻ điều hành những sức mạnh xấu xa, đối thủ của Thiên Chúa, kẻ thù của loài người.
- cám dỗ (HL. peirazomai, “bị thử thách”, “bị cám dỗ”): Ở đây động từ này hàm ẩn một ý đồ gian ác. Hành động cám dỗ được mô tả như là xảy ra suốt thời gian 40 ngày. Mặc dù tác giả Mc không mô tả chi tiết hơn việc quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là cuộc cám dỗ có một lý do Kitô học, tức được nhắm vào việc thi hành nhiệm vụ Mêsia. Người đã thắng Satan như một báo trước; Người sẽ thắng nó vĩnh viễn (x. 2 Tx 2,3-12; Kh 19,19t; 20,2.10).
- sống giữa loài dã thú và có các thiên thần hầu hạ: Hoang địa Giuđê là nơi cư trú của nhiều loại dã thú; sự kết nối giữa các thiên thần hầu hạ (diêkonoun: thì vị-hoàn [imperfect] để mô tả một việc phục dịch kéo dài suốt thời gian ở trong hoang địa) và sự che chở khỏi các thú dữ khiến có thể coi Tv 91,11-13 là một bối cảnh. Với hoạt cảnh này, tác giả cho hiểu là với Đức Giêsu, thời cánh chung đã bắt đầu: Đức Giêsu là Ađam mới, có thể đưa ta trở lại Địa đàng.
- Sau khi ông Gioan bị nộp (14): Gioan Tẩy Giả lại được giới thiệu là Tiền Hô của Đức Giêsu. Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai sau hoạt động của Gioan. Chi tiết này thuộc về lược đồ lịch sử cứu độ hơn là lịch sử trần thế: Đức Giêsu không thể bắt đầu được trước khi vị Tiền Hô ra khỏi sân khấu. Kết thúc tàn bạo Gioan phải chịu cũng gợi ý xa xa về số phận của Đức Giêsu. Động từ HL paradothênai (thái bị động) khiến ta phải thấy ở đây có bàn tay của Thiên Chúa làm việc (áp dụng cho Đức Giêsu: 9,31; 10,33; 14,41).
- Tin Mừng của Thiên Chúa: Công thức với thuộc-cách này vừa có nghĩa là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là một “Tin Mừng”, nghĩa là tin về một sự kiện có thật, chứ không phải là một suy diễn, một giả thiết, một lý thuyết, thậm chí một lệnh truyền. Do có mạo từ xác định, đây chính là Tin Mừng tuyệt hảo, mà người ta không thể thêm vào một tin nào hay hơn, tốt hơn, mừng hơn.
- Thời kỳ đã mãn: “Thời kỳ” (kairos [thời gian đã định, lúc] ≠ chronos [khoảng thời gian]) là thời điểm quyết liệt Thiên Chúa đã định, mọi sự tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7,22; Ed 7,12; 9,1; Ac 4,18; Kh 1,3; 1 Pr 1,1). Trong TM Lc, có những quy chiếu về thời kỳ này (Lc 12,56; 19,44).
- Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhận biết như là Chúa Tể và Vua của Israel (x. Is 43,15; 52,7); và người ta chờ đợi Người tỏ mình ra công khai như là Đức Vua và Chúa Tể duy nhất và thống trị tất cả mọi sự thật rõ ràng (x. Mk 4,7; Xp 3,15; Dcr 14,9). Đức Giêsu không nói: “Triều Đại Thiên Chúa mà anh em vẫn chờ đợi đang hiện diện trong mức viên mãn”; nhưng: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Đó là đặc điểm của thời kỳ hoàn tất này, thời kỳ đầy ân sủng và thời kỳ quyết liệt, thời kỳ này bây giờ đã bắt đầu. Như thế, trung tâm của sứ điệp của Đức Giêsu là: “Thiên Chúa là Chúa Tể; vị Chúa Tể này đã gần kề”. Người là vị Chúa Tể có quyền quyết định và lo lắng cho chúng ta. Đó là Tin Mừng tuyệt hảo. “Đến gần” có nghĩa là: khi đến lúc đã định, Triều Đại Thiên Chúa đã đến và kể từ nay bắt đầu tỏ rõ ra: một sự giằng co giữa hiện tại và tương lai. Đây là một sự kiện hiện tại và một sự kiện của thời cuối cùng.
- Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Lời này cũng có nghĩa là “Hãy sám hối là tin vào Tin Mừng”, tức bằng cách (diễn tả qua việc) tin vào Tin Mừng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cám dỗ trong sa mạc (12-13)
Kể từ Giáo Hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi bức tranh mô tả Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một đối trưng của Ađam trong vườn. Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa sống hài hoà với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho thấy đó là hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không phạm tội. Một hoang địa biến thành địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9; 32, 14-20; 65,25).
Không như dân Israel ngày xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong hoang địa. Thông thường, sự cô độc này hẳn là dấu chứng tỏ một người điên hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Tác giả Mc đã nói vắn tắt về Satan khiến các học giả đi đến nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong phần Tin Mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể Mc nhắm cho độc giả nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt đầu.
* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng.
+ Kết luận
Không giống như TM Mt (4,1-11) và Lc (4,1-13), TM Mc không giải thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về thế nào là bị cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thế nào là bị thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào Lời Chúa thì đứng vững; nếu không tin tưởng vào Lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với Thiên Chúa, do đó, dã thú sống hoà bình với Người, còn các thiên thần thì hầu hạ Người.
Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào Lời Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu chọn Đức Kitô và xin chịu phép rửa tội, thì chia sẻ số phận của Đức Kitô; người ấy sẽ bị Satan cám dỗ. Tuy nhiên, người ấy cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô và các thiên thần của Người.
2. Vì Tin Mừng Đức Giêsu mang đến là Tin Mừng tuyệt hảo, Tin Mừng này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin Mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn cứu độ.
3. Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu Ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng, tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ là thời kỳ chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và có một thái độ thích hợp: “sám hối và tin vào Tin Mừng”, tức là biết chọn lựa.
4. Thiên Chúa là Chúa Tể chứ không phải là nô lệ của chúng ta; chúng ta không thể coi Người như ngang vai; chúng ta không thể áp đặt cho Người bất cứ chuyện gì. Người có tất cả mọi quyền bính và sức mạnh; Người quyết định và quy định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa Tể chân thật duy nhất, chúng ta được tự do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa Tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta. Mọi chúa tể và quyền lực khác được trả về đúng chiều kích của họ.
5. Thiên Chúa là Chúa Tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ tể của Người có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi người ta có thể nghĩ rằng Thiên Chúa và Triều Đại Người không hiện hữu. Để có thể nhận ra quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần nơi lối cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa đến gần chúng ta như thế nào với Triều Đại của Người và các hoa trái của Triều Đại Người.
51.Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Mt 1: 12-15: Bước vào Mùa Chay là thời gian hồi tâm, lúc dừng lại để nhận ra những cám dỗ, cạm bẫy đang bủa vây, là lúc trở về với Chúa để định hướng cho tương lai.
Suy niệm
Bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta bước vào 40 ngày Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Mùa Chay lấy ý hướng từ việc khi bắt đầu cuộc rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã được Thánh Thần dẫn dắt vào hoang địa. Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày để được tập luyện trước cuộc chiến đấu thiêng liêng, hầu vượt thắng sự cám dỗ của ma quỷ khi thi hành sứ vụ cứu độ Chúa Cha trao cho.
Con số 40 này tương ứng với thời gian ông Noê đã chiến đấu 40 ngày trước phong ba bão táp của trận Đại hồng Thủy thời Cựu ước, nhằm thanh tẩy hết những con người tội lỗi. Vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã tái lập cho trái đất này trở lại tình trạng tốt đẹp thuở ban đầu. Với hình ảnh chiếc cầu vồng, một đường cong bắt đầu từ đất, vươn lên trời cao, rồi lại trở xuống mặt đất làm dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với loài người. Quả thật, sau cơn mưa trời lại sáng, trong sự âm u ảm đạm ấy, Thiên Chúa cứu vớt nhân loại khỏi sự chết. Ngài đơn phương ký kết với loài người giao ước, và hứa sẽ không bao giờ cho nạn hồng thủy tiêu diệt loài người nữa. Nhờ đó, cho dẫu tội lỗi của thế gian có thế nào đi nữa, con người chúng ta không được thất vọng, nhưng hãy tin tưởng Thiên Chúa tha thứ và cứu vớt.
Mùa Chay Thánh là một hành trình nhắc nhở chúng ta hãy sám hối và trở về để đón nhận Tin mừng. Chúa Giêsu là Đấng mà Chúa Cha sai đến để tái lập lại giao ước cứu độ của Thiên Chúa. Người đã được chính Thánh Thần liền đưa vào hoang địa, nơi tập luyện sống khắc khổ, nơi con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa trong thinh lặng và cầu nguyện. Bước vào Mùa Chay là thời gian hồi tâm, lúc dừng lại để nhận ra những cám dỗ, cạm bẫy đang bủa vây, là lúc trở về với Chúa để định hướng cho tương lai.
Xã hội càng tiến bộ và văn minh không có nghĩa là con người không phải chạm trán với cám dỗ. Cám dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mù quáng, đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm bẫy. Cám dỗ cho người sống đời thường cũng như với người sống đời tu, cho người già và trẻ nhỏ, cho thanh niên lẫn thiếu nữ. Cám dỗ của ma quỷ không trừ ra một ai. Vì thế mà thánh Phêrô Tông đồ khuyên bảo: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).
Một vị tu sĩ đạo đức nọ có lần được thấy ma quỷ ngồi khắp ở mỗi góc tu viện, cả ở nhà nguyện nữa. Khi ngài bước ra phố thì thấy rằng chỉ có một tên quỷ đi cám dỗ mà thôi. Lấy làm lạ, vị tu sĩ mới hỏi bậc thầy về tu đức của mình thì được vị ấy trả lời: “Sở dĩ chỉ một tên quỷ cũng đủ cám dỗ các linh hồn ở ngoài phố, vì người ta dễ lơ là, tìm kiếm táy máy, ngó nghiêng ngó dọc, không cố gắng chống lại, thậm chí ma quỷ chưa cám dỗ thì người ta đã tự đưa mình sa ngã vào cám dỗ hay tìm kiếm thú vui, buông mình ầu ơ dí dầu nơi những cám dỗ. Và với những tâm hồn lành thánh thì không phải tránh xa được ma quỷ đâu, thậm chí cả một đạo binh ma quỷ đang rình rập tìm dịp”. Cũng như ông bà ta có câu: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”.
Vâng, như cây mai biểu tượng của mùa Xuân, để có những cành cây trổ bông báo hiệu Xuân về, trước đó nó đã chịu cảnh tuốt trụi lá cũ, lá già, tưới nước hạn chế, cành cây xơ xác, đã vậy cây còn chịu cảnh cắt tỉa để được đổi mới, hầu cây có thể đâm chồi, nẩy lộc và ra hoa rực rỡ. Vậy, Mùa Chay cũng là dịp để chuẩn bị cho mùa Xuân Phục Sinh, biến chúng ta thành những con người mới. Chúng ta hãy tập sống khiêm nhường và nhận ra sự yếu hèn của mình trước sự tấn công của ma quỷ để luôn trông cậy vào Chúa. Siêng năng cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn vì Ngài không ngừng ban cho ta bảy Hồng ân: “Khôn ngoan, thông hiểu, lo liệu, sức mạnh, suy biết, đạo đức, kính sợ Chúa Trời”. Để rồi, khi noi gương Chúa Giêsu, sống theo sự dẫn dắt của Thánh Thần, chúng ta sẽ gặt hái được những hoa trái nhân đức của Thần Khí là “bác ái, hoan lạc, bình an, đại lượng, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.” (Gl 5,22)
Lạy Chúa, xin cho con tập quen chấp nhận những điều khó chịu xảy đến với mình và tập sống thiếu thốn một chút, để nhận ra ơn Chúa luôn đủ cho con. Amen.
52.Cám dỗ và thử thách--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mc 1: 12-15: Chúng ta hãy khiêm tốn phó thác nơi Chúa trong mọi cơn thử thách và cám dỗ vì Người sẽ gìn giữ và nâng đỡ những ai biết khiêm tốn.
Ma quỷ là loại cám dỗ xảo quyệt nhất. Thánh Thomas cho biết: “ma quỷ rất tinh khôn khi cám dỗ chúng ta. Nó hành động như một vị tướng tài ba khi sắp tấn công một thành kiên cố. Nó tìm các nơi yếu thế để tấn công, nên ma quỷ cũng tấn công chúng ta vào chỗ nào yếu nhất. Nó cám dỗ những tội nào chúng ta dễ phạm nhất… xem ra nó không “gợi ý” điều gì xấu, nhưng là điều có vẻ rất tốt lành. Nó làm cho chúng ta không hướng tới mục đích chính, và điều đó sẽ dễ dụ dỗ chúng ta phạm tội, nó chuyển hướng chúng ta một cách rất tinh vi”.
Có câu chuyện kể rằng: "sau khi bị Thiên Chúa trừng phạt, tướng quỷ Luxiphe rất tức giận, lửa căm thù sôi sục trong lòng hắn nên đã tìm cách để cám dỗ các tín hữu. Một hôm, hắn cho rằng phải lấy vợ gấp để có nhiều con gái gả cho loài người, nhờ đó sẽ kéo nhiều người xuống hỏa ngục.
Luxiphe kiếm được cô nàng Bất Chính và lấy làm vợ. Rồi họ sinh được bảy cô con gái.
- cô thứ nhất tên là Kiêu Ngạo được gả cho những nhà cầm quyền,
- cô thứ hai tên là Hà Tiện được gả cho những người giàu có,
- cô thứ ba tên là Giả Dối được gả cho những người nghèo khó,
- cô thứ tư tên là Ghen Tương được gả cho những nghệ sĩ,
- cô thứ năm tên là Giả Hình được hắn đặt vào các cộng đoàn tu trì,
- cô thứ sáu tên là Háo Danh được hắn cho làm bạn với các phụ nữ,
- cô thứ bảy tên là Dâm Ô nhưng không được gả cho người nào vì hắn muốn cô này sẵn sàng ở với tất cả mọi người.
Mỗi ông chồng đều thích thú với cô vợ của mình, và họ cũng biết mình có họ hàng bà con với các chị em khác. Luxiphe khôn khéo như thế đó! Luxiphe đã chống lại Thiên Chúa và nó cũng đang cám dỗ chúng ta chống lại Thiên Chúa. Nó rất khôn ngoan và xảo quyệt, nên với các mưu chước của Luxiphe, chúng ta cần lưu ý những điểm sau đây:
1. Tránh cho xa
Có một người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi tìm một người tài xế chở bà mẹ già đi dạo mát mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó. Người nhà giầu nói: "tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy ra trong khi các ông đưa mẹ tôi đi dạo mát. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi muốn xem các ông lái sát bên vực thẳm bao nhiêu mà không bị rơi xuống”.
- Người tài xế thứ nhất tự nhủ: "cái đó thì dễ ợt". Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù xuống đường, cách vực thẳm một tấc.
- Người thứ hai thầm bảo: "mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc". Ông này cũng lái vèo xuống đường và chỉ cách vực thẳm có nửa tấc.
- Trong khi đó, người thứ ba chậm rãi lái cách vực thẳm những một mét.
Hai người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người nhà giầu lại nói với bác tài xế thứ ba: "tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái quá sát vực thẳm vì sẽ dễ bị cám dỗ lôi cuốn”.
2. Khi gặp cơn cám dỗ, hãy chống trả ngay
Chúng ta phải đặc biệt cảnh giác chống lại với những cám dỗ lúc ban đầu, vì kẻ thù dễ bị khuất phục hơn nếu nó bị khước từ không cho vào tâm trí và khi gõ cửa nó đã bị chặn ngay từ ngưỡng cửa. Quả thế phải chống trả ngay từ đầu, vì sự trì trệ sẽ khiến qủy thần thêm mạnh mẽ.” Lúc đầu, chỉ một ý nghĩ trong đầu, sau đó sự tưởng tượng mạnh mẽ, tiếp theo là khoái lạc, vui sướng xấu xa, và thỏa thuận. Do đó, vì nó không bị chống trả ngay từ đầu, Satan ra vào tự do. Và càng chậm trễ chống trả, chúng ta càng yếu sức trong khi kẻ thù lại càng tăng sức mạnh.
3. Ba cấp của cơn cám dỗ
Cấp thứ nhất là gợi ý: chỉ mới có gợi ý thôi, nên chưa có tội phúc gì cả.
Cấp thứ hai là vui thích: lâu hay mau, tuy chưa bằng lòng hoàn toàn, nhưng đã có sự vui thích và ý tưởng đã xâm nhập vào tâm trí, nên phần nào đã có tội.
Cấp thứ ba là ưng thuận hoàn toàn: khi cám dỗ tiến tới cấp độ này thì luôn luôn có tội, vì cám dỗ đã đi tới phần sâu thẳm nhất của linh hồn.
4. Lợi ích của Cám Dỗ
"Cám Dỗ" trong tiếng Anh là to Tempt, tiếng Hy Lạp là Peirazein. Trong tiếng Anh luôn luôn có nghĩa xấu, là dỗ dành, dụ dỗ người ta làm điều xấu. Trái lại trong tiếng Hy Lạp Peirazein chỉ có nghĩa là thử thách (to test), do đó, chúng ta không nên quá lo lắng khi bị cám dỗ.
Cám dỗ cũng có thể đưa chúng ta tới sự sống nếu ta không sa ngã, nghĩa là ta thắng được cám dỗ. Hơn nữa đây còn là dịp để chúng ta tỏ lòng trung thành với Chúa. Khi bị cám dỗ, ai chọn cái xấu tức là sa ngã đầu hàng cám dỗ, còn ai cương quyết chọn cái tốt tức là chiến thắng, khi đó cám dỗ chẳng những không làm hại được người đó mà càng làm cho người đó thêm công nghiệp. Do đó, chúng ta không nên thất vọng khi bị cám dỗ, nhưng hãy mau mắn cầu xin Chúa để Người trợ giúp chúng ta.
Chúng ta hãy khiêm tốn phó thác nơi Chúa trong mọi cơn thử thách và cám dỗ vì Người sẽ gìn giữ và nâng đỡ những ai biết khiêm tốn. Như vậy, sự tiến bộ của một người được đo lường bằng những cám dỗ và thử thách, vì đó là cơ hội để lập công và tu tập nhân đức. Khi không gặp khó khăn, người ta ít hăng say và đạo đức, nhưng khi gặp nghịch cảnh, nếu kiên nhẫn chịu đựng, họ sẽ tiến bước mạnh mẽ trên con đường theo Chúa.
Tôi xin kể một số điều cần biết có liên quan đến cơn cám dỗ nhờ đó chúng ta sẽ cảnh giác trước những cám dỗ của Satan. Tuy nhiên còn một điều tối quan trọng là mỗi khi lâm cơn cám dỗ, chúng ta phải chạy ngay đến với Chúa Giêsu, chính Người cũng đã bị ma quỉ cám dỗ nhưng Người đã chiến thắng vẻ vang. Chúa đã chiến thắng vẻ vang, chắc chắn Chúa cũng giúp chúng ta chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ. Amen.
53.Sống là chiến đấu--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Mc 1: 12-15: Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng ta.
Một buổi chiều, Cha Bề Trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ:
- Hôm nay con đã làm gì?
- "Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu mà nguyên sức con không thể nào làm nỗi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha, ngày nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều hâu, thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân".
- Con nói gì thế? Cha Bề Trên cười hỏi lại, những việc như thế làm gì có trong tu viện này?
- Thưa Cha Bề Trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai con mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ những hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi từng bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo riết để nhục dục không xâm nhập vào và luôn lành mạnh.
Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì sống là chiến đấu . Đời là một cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù ẩn núp ngay trong bản thân mình chứ không ở đâu xa. Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế cũng không thoát khỏi cuộc chiến đấu này. Ngài đã quyết liệt chiến đấu và chiến thắng vẻ vang. Tin Mừng hôm nay đã kể lại, lúc khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã được Chúa Thánh thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách - tương tự như Ađam khi xưa ở vườn Eden - Địa đàng, hay dân Do Thái 40 năm trong sa mạc để chịu thử thách. Nhưng Ađam khi xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo lời xúi dục của Satan đội lốt con rắn, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa, đã ăn trái cấm, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả khốc hại muôn đời cho con cháu loài người. Bốn mươi năm trong sa mạc cũng là thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. Họ cũng đã sa ngã trước thử thách: bao lần phản loạn, chống đối ông Môsê, kêu trách Thiên Chúa, muốn quay trở lại Ai cập với kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.
Còn Chúa Giêsu trong sa mạc 40 đêm ngày đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Thánh Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép, danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng Satan phải chịu rút lui, nhường chỗ cho các thiên thần đến phục vụ Ngài. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Chúa trong Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Anh chị em thân mến,
Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu, nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu đã chứng tỏ: con người có thể thắng được những chước mê hoặc dụ dỗ của Satan, nếu biết dựa vào sức mạnh của Chúa. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa, chúng ta không theo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh. Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa phục vụ đời sống thể xác hay vật chất của chúng ta. Chúng ta không coi Thiên Chúa như một sức mạnh phù phép để làm những việc phi thường, để biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không lòn cúi, quỵ lụy Satan để được làm Chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ tể vũ trụ, là Chúa của chúng ta.
Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng ta. Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa Tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả ý nghĩa của sa mạc rất đúng khi ông viết: "Thiên Chúa phán: Ta sẽ dẫn người yêu của Ta vào sa mạc, để ở đó Ta thủ thỉ với nàng" (Hs 2,16). Sa mạc là nơi sống gần gủi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy bịt tai trước những tiếng ồn ào bên ngoài, những lời xúi giục, dụ dỗ của Satan. Ngày nay và hằng ngày vẫn luôn có những tiếng xúi giục như vậy. Đừng tưởng chỉ có tiếng nói bên ngoài, tiếng của Satan có thể nói lên ở ngay trong tâm hồn chúng ta. Nó xúi giục chúng ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống theo Tin Mừng sẽ thiệt thòi lắm ! Sống như người ta, làm như người đời, dễ biết bao, lợi biết mấy ! Nhưng nghe theo những tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là từ bỏ Chúa, là lựa chọn không đi theo Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận khốn khổ của Ađam khi xưa, của dân Do Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước thử thách. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc, lấy lời Chúa làm lẽ sống, làm sức mạnh, để chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Thử thách và sa mạc là để thanh luyện tâm hồn, để chuẩn bị cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, trong tương quan với Chúa và với anh em. Trong sứ điệp Mùa Chay năm nay (1997), Đức Thánh Cha đã nói: "Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu sống lại lộ trình 40 năm dân Israel đã trải qua trong sa mạc trên đường về Đất Hứa, với một nổ lực thanh luyện bản thân, ý thức tình trạng nghèo khó và bấp bênh của cuộc sống và khám phá ra sự can thiệp quan phòng của Chúa. Ngài mời gọi người tín hữu hãy mở đôi mắt để nhìn thấy những nhu cầu cấp bách nhất của anh em chúng ta. Bằng cách ấy, Mùa Chay cũng trở thành mùa liên đới với những con người và với những dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới đang sống trong hoàn cảnh bấp bênh, tạm bợ, không cửa không nhà". Đức Thánh Cha còn nói: "Hãy đón nhận lời mời gọi hoán cải của Đức Kitô để gắn bó bền chặt hơn với Thiên Chúa, Đấng Thánh và giàu lòng thương xót, cách riêng trong Mùa Chay, mùa ân sủng này. Ước gì Mùa Chay sẽ giúp cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa mà mở tâm hồn ra tiếp rước tất cả những người đang sống túng thiếu"… "Chính lúc tỏ ra cởi mở và quảng đại mà kitô hữu, với tính cách riêng rẻ hoặc tập thể, có thể phục vụ Đức Kitô hiện diện trong người nghèo và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Đức Kitô đã đi trước chúng ta trên con đường này. Sự hiện diện của Ngài là một sức mạnh và là một khích lệ: Ngài cho ta được tự do và trở thành những chứng nhân của tình yêu thương".
54.Người ở trong hoang địa--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Tin Mừng của Chúa nhật nầy gồm hai đoạn nối tiếp nhau, nói đến hai sự kiện ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: vào hoang địa (1,12-13) và rao giảng sứ điệp đầu tiên (1,14-15). Chúa Giêsu tiếp tục gắn bó với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Người được Chúa Thánh Thần đẩy vào hoang địa (1,12), và sau đó, Người bắt đầu rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (1,14-15). Marcô chỉ mô tả tình trạng của Chúa Giêsu trong hoang địa, không nói gì đến chuyện cám dỗ và phản ứng của Người. Rất ngắn, chỉ trong hai câu (x. Mt 4,1-11; Lc 4,1-13). Trong hoang địa, Người đã sống giữa mọi tương quan: với Thiên Chúa, con người, thiên thần, Satan, dã thú và thiên nhiên.
Hoang địa được hiểu là một nơi xa chỗ con người sinh sống (6,35-36; 8,4). Là nơi trú ẩn của những dã thú và Satan (1,13). Chúng tượng trưng cho những sức mạnh thù nghịch và nguy hiểm cho sự sống của con người (Ezk 14,21; Kh 6,8). Ở đây, hoang địa gắn liền với một thời gian: bốn mươi ngày. Con số gợi nhớ bốn mươi năm thử thách của dân Israel (Dnl 8,2). Sống trong hoang địa bốn mươi ngày, Chúa Giêsu liên đới với con người trong việc bị cám dỗ, để Người có thể giúp những ai bị cám dỗ (Dth 2,18; 4,15). Nhưng dân Israel đã không bị cám dỗ triền miên suốt bốn mươi năm, họ còn kinh nghiệm nhiều điều khác hơn thế trong hoang địa.
Hoang địa là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa giải thoát dân tộc nầy khỏi nô lệ Ai cập, Người liền đưa họ vào hoang địa để lập quốc, giao ước và để nói những lời yêu thương (Os 11,1). Nên thời gian trong hoang địa cũng là thời gian của tình yêu ban đầu. Sau nầy, mỗi khi thấy dân chạy theo ngẫu thần, Thiên Chúa muốn dẫn dân vào lại hoang địa để làm lại kinh nghiệm tình yêu của thưở ban sơ (Os 2,14; Giê 2,2). Bởi đó, Chúa Giêsu không bị cám dỗ suốt bốn mươi ngày. Người sống trong hoang địa để kéo dài kinh nghiệm tình yêu với Thiên Chúa, đã khởi đầu từ biến cố chịu phép rửa, và để từ nơi Người sẽ phát xuất một dân mới sống theo Tin Mừng mà Người sẽ rao giảng (1,14-15).
Hoang địa luôn là nơi thuận lợi để gặp gỡ Thiên Chúa. Nơi nào có các thiên thần hiện diện, nơi đó có Thiên Chúa (8,38). Việc các ngài hầu hạ Chúa Giêsu cho thấy Chúa Cha lo lắng cho Người chừng nào (1,13). Chúa Giêsu ở giữa dã thú, mà không bị chúng làm hại. Người bị cám dỗ, mà không bị thua cuộc. Như thế, hoang địa ấy đã trở thành thiên đàng (x. Is 11,6-8; 65,25; Os 2,18; Gióp 5,22), và Chúa Giêsu đã trở thành một Ađam mới, luôn tín trung với Thiên Chúa. Kinh nghiệm sống trong hoang địa đã làm Chúa Giêsu lớn lên và mạnh mẽ trong tinh thần (Lc 1,80). Từ đó, Người thường lui tới hoang địa để cầu nguyện và cũng dạy các môn đệ của Người làm như thế (1,35.45; 6,31).
“Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Tin Mừng nầy là Tin Mừng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu và Tin Mừng gắn liền với nhau như là một. Có hai cách sám hối và tin vào Tin Mừng rất cụ thể: vác thánh giá và từ bỏ bản thân vì Chúa Giêsu và Tin mừng (8,34-35), bỏ mọi sự và đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu và Tin Mừng (10,29). (Xin xem thêm giải thích đoạn 1,14-15 ở Chúa Nhật III Thường Niên B).
Tiếng kêu từ hoang địa là tiếng gọi của tình yêu. Mời gọi tin và trở về với tình yêu ban đầu (x. 1,3-4).
55.Trung thành với lời giao ước phép Rửa--Lm.Trần Bình Trọng
Theo Thánh kinh, thì mỗi thoả thuận giữa Thiên Chúa và loài người được gọi là một giao ước. Thiên Chúa khởi sự cái giao ước bằng việc bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài người đáp trả cái tình yêu đó. Cái giao ước đầu tiên được ghi lại trong Thánh kinh là giao ước giữaThiên Chúa và ông No-e. Còn cái giao ước quan trọng nhất trong thời Cựu Ước là giao ước trên núi Si-nai.
Trong thời Cựu Ước, qua các tiên tri, Thiên Chúa luôn nhắc nhở cho dân phải trung thành với lời giao ước. Tuy nhiên dân riêng Chúa không mấy khi giữ lời giao ước. Họ thường bất trung, phản bội. Sau cùng Thiên Chúa làm một giao ước vĩnh cửu với nhân loại qua chính Con Một Người. Và giao ước đó được ký kết, không phải bằng máu hiến tế của chiên cừu trong Cưu Ước, nhưng bằng máu Con Thiên Chúa, đổ ra để chuộc tội nhân loại.
Trong bài trích thư thứ nhất của Thánh Phê-rô tông đồ, Thánh nhân cho thấy có sự song hàng giữa giao ước Chúa kí kết với ông No-e và giao ước Chúa thiết lập trong Bí tích Rửa tội. Theo Thánh Phê-rô thì cái việc gia đình ông Noe được cứu thoát khỏi nạn lụt đại hồng thuỷ, là cái dấu báo hiệu " cũng được cứu thoát qua nước rửa tội" Hôm nay Giáo hội muốn nhắc nhở cho ta một biến cố đã xẩy ra cho mỗi người khi còn ở tuổi măng sữa: đó là Bí Tích Rửa Tội. Bí tích Rửa tội là một biến cố vĩ đại, bất kể khi rửa tội, ta còn nhỏ bé như thế nào. Các nhà tâm lý học thường nhấn mạnh đến những gì ta có kinh nghiệm, bất kể lúc còn nhỏ tuổi thế nào đi nữa, đều có ảnh hưỏng đến đời sống hiện tại. Hoặc ta chịu phép Rửa tội khi còn ở tuổi măng sữa, hay khi đã lớn, ta phải tìm cho ra cái ý nghĩa và sống ý nghĩa đó. Bài Trích Sách Sáng Thế hôm nay ghi lại sau khi Chúa cứu gia đình ông Noe khỏi nước lụt hồng thuỷ, thì Chúa cho cái cầu vồng xuất hiện như là một biểu hiệu của lòng nhân từ hay thương xót của Chúa. Cái cầu vồng là biểu hiệu của giao ước giữa Thiên Chúa và ông No-e có nghĩa là bão táp đã qua đi và nước lụt đã rút xuống. Bí Tích Rửa tội cũng là một giao ước giữa Thiên Chúa với loài người. Trong Bí tích Rửa tội, Thiên Chúa ban tình yêu và lòng thương xót, còn người chịu phép rửa tội hứa giữ lòng trung tín, lo tròn bổn phận làm con.
Theo truyền thống cổ xưa, thì Giáo hội luôn nhấn mạnh việc rửa tội người dự tòng trong mùa chay. Ngay từ đầu, Giáo hội đòi hỏi người dự tòng phải dùng suốt mùa chay để học đạo, sửa soạn cho việc rửa tội trong đêm thánh vọng phục sinh. Ngày nay giáo hội khuyến khích ta giữ cái truyền thống tinh thần mùa chay, cái thời gian ăn năn sám hối và đền tội. Cũng vào cuối mùa chay, Giáo hội mời gọi ta ôn lại lời hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma quỉ và tội lỗi và những lời hứa hão huyền của ma quỉ.
Giáo hội thiết lập mùa chay kéo dài 40 ngày để ghi nhớ 40 ngày Chúa Giê-su ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc, cũng để giúp ta từ bỏ tội lỗi, cải tạo đời sống và thực thi đức tin. Để sửa soạn cho cái giao ước trên núi Si-nai, Mai sen cũng ăn chay 40 ngày... Elia, vị tiên tri vĩ đại cũng ăn chay 40 ngày trong cuộc hành trình lên núi Horeb. Gio-an tiền hô cũng ăn chay 40 ngày trước khi được gọi để sửa soạn cho việc Chúa đến bằng cách kêu gọi dân chúng chịp phép rửa thống hói. Trong đêm thánh vọng Phục sinh, ta sẽ lặp lại lời hứa khi chịu phép rửa tội. Để cho cái việc ôn lại lời hưá khi chịu phép rửa tội khỏi trở thành trống rỗng, ta cần sống tinh thần mùa chay: đó là tinh thần ăn năn sám hối.
56.Chống trả tên cám dỗ--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Mùa Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng với những việc tốt lành theo truyền thống là ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Hôm nay Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay Thánh. Phúc âm trình bày cho chúng ta một cuộc chiến đấu làm theo ý Chúa Cha hay là theo ý của Satan. Quả thật, trước khi sứ vụ cứu thế khai mào, Chúa Giêsu đã vào hoang địa, ăn chay, cầu nguyện bốn mươi đêm ngày và ở đó chịu Satan cám dỗ.
Satan lợi dụng thời gian này để tấn công và cám dỗ Chúa đi khác đường lối của Chúa Cha, đây cũng là cám dỗ bất tuân giống như con rắn xưa đã cám dỗ Ađam. Satan muốn Chúa Giêsu là một con người hoàn toàn thuộc về thế gian, thế giới mà hắn làm chủ. Vì là con người, Chúa Giêsu đã dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần để chiến đấu. Người đã chiến thắng, ma quỷ đã phải rút lui, và các các thiên sứ đến hầu hạ Người (x. Mc 1,13).
Bước vào Mùa Chay Thánh, chúng ta phải ý thức rằng, những quỉ kế mà ma quỉ dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, cũng là những cách chúng cám dỗ chúng ta ngày hôm nay.
Satan là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Có người không tin có Satan, họ cho rằng, Satan là một sản phẩm do trí tưởng tượng của con người hoặc là sự dữ trừu tượng pha trộn trong con người và thế giới. Không!
Kinh thánh nói nhiều lần về Satan như một hữu thể cụ thể và có thực. Hắn là một thiên thần sa ngã. Chúa Giêsu khẳng định khi nói: "Hắn là kẻ nói dối và là cha của sự dối trá" (Ga 8,44). Thánh Phêrô ví ma quỉ như con sử tử gầm thét: "Đối thủ của anh em là ma quỉ như sư tử rống, nó lượn rình tìm sao nuốt được một ai" (1Pr 5,8). Và Chân phước Phaolô VI, Giáo hoàng dạy chúng ta: "Ma quỉ là kẻ thù số một, nó cám dỗ rất tinh vi. Chúng ta biết rằng nhân vật tối tăm và phá rối này thực sự tồn tại và tiếp tục hành động".
Nó làm thế nào? Thưa, nó nói dối, lừa dối chúng ta. Baudelaire viết: "Chiến thắng lớn nhất của ma quỉ là làm cho chúng ta tin rằng ma quỉ không hiện hữu". Nó nói dối chúng ta thế nào? Hắn trình bày hành động xấu như thể là tốt, hắn thúc giục chúng ta làm điều xấu, hắn gợi lên những lý do để biện minh cho tội lỗi của chúng ta. Sau khi lừa dối chúng ta rồi, hắn làm cho chúng ta lo lắng và buồn bã. Hỏi chúng ta có bao giờ cảm thấy điều đó không?
Chúa Giêsu đã bị cám dỗ bất tuân lệnh truyền của Chúa Cha, Người đã chống trả quyết liệt và đã vâng phục cho đến chết; sự bất tuân ấy được diễn tả như thế nào? Nội dung của sự cám dỗ ấy là gì? Chúa Giêsu là con người hoàn toàn như chúng ta, giống chúng ta mọi đàng, nên những thử thách mà Người phải đương đầu, những cám dỗ Người phải chịu, cũng là những thử thách, những cám dỗ của nhân loại hôm nay. Cám dỗ ấy là cám dỗ về vật chất tư lợi, uy quyền danh vọng, và về hưởng thụ thỏa mãn các đam mê trần tục.
Tiền bạc và của cải vật chất là một cám dỗ lớn, mãnh liệt, không trừ một ai, từ em bé mới có trí khôn cho đến người già sắp lìa cõi thế, từ người buôn bán giữa chợ cho đến vị bậc vị vọng ở nơi nhà thờ. Tự bản chất, tiền bạc không xấu; xã hội phải làm ra của cải thì mới tồn tại và phát triển được; con người phải có tiền bạc tối thiểu mới có thể sống. Nhưng tiền là một người đầy tớ tốt, và là một ông chủ xấu. Biết sử dùng và làm chủ tiền bạc, chúng ta có thể làm rất nhiều việc, kể cả những việc ích Nước lợi Dân. Trái lại, khi nô lệ tiền bạc, để tiền bạc làm chủ, nó sẽ hủy hoại tất cả những giá trị đạo đức, từ tình nghĩa gia đình, vợ chồng, cho mẹ con cái, cho đến những giá trì về công bằng xã hội, về đạo đức và tôn giáo.
Danh vọng là một cám dỗ cũng mạnh không kém. Con người ngày hôm nay có khuynh hướng lẫn lộn danh dự với danh vọng. Thực ra danh dự thì ai cũng cần; có danh dự thì mới có thể sống vui, sống xứng đáng là con người. Mất hết danh dự, con người nhiều khi không còn thiết sống nữa. Nhưng danh vọng thì khác; danh vọng thường phát xuất từ một địa vị cao, hoặc một đời sống giầu có, hoặc từ sự thành công được nhiều người biết đến và khen ngợi. Người ham mê danh vọng là người thích được người khác vỗ tay đề cao, thích được nổi bật giữa đám đông. Có người ham mê danh vọng đến mức sẵn sàng hy sinh hạnh phúc gia đình, hy sinh cả những giá trị đạo đức, chạy theo danh vọng nhiều khi là thả mồi bắt bóng và dẫn tới những sụp đổ bi đát nhất.
Cám dỗ thứ ba là quyền lực. Ở bất cứ quốc gia nào, thời đại nào, cám dỗ về quyền lực vẫn là một cám dỗ đáng sợ nhất. Thường khi đã có tiền và danh vọng, điều mà người ta ao ước là có quyền trên những người khác, điều khiển người khác. Các tranh chấp về quyền hành làm nảy sinh những biến động xã hội rất tai hại, có khi còn phát sinh giặc giã chiến tranh và gieo rắc đau khổ tan tóc trên nhiều người. Có những người đang nắm quyền cố gắng giữ chặt quyền bính bằng mọi giá, kể cả những thủ đoạn bất chính và phi nhân.
Chúa Giêsu đã chiến thắng mọi cám dỗ của Satan; nên Người được các thánh Giáo phụ gọi là Ađam mới, sinh ra một nhân loại mới, sống bằng sự sống và tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta hãy nhớ mình là con người mới được tái sinh nhờ Phép rửa, được kêu mời sống ơn gọi đó. Chúng ta hãy khẩn cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ đã đập vỡ đầu con rắn độc ác, giúp chúng ta vượt qua những cám dỗ mỗi ngày. Amen.
57.Cùng Chúa Giêsu lên Giêrusalem--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Tro khai mạc Mùa Chay Thánh, đánh dấu 40 ngày (không kể ngày Chúa nhật) chuẩn bị đến lễ Phục Sinh.
40 ngày Chay Thánh
Trong Kinh Thánh, con số 40 ngày là một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Do thái kéo dài 40 năm. Ông Môisen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24, 18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (x. Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (x. 1V 19, 8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3, 4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).
Như vậy, 40 ngày chay thánh gợi cho chúng ta nhớ lại 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Do Thái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuận tiện thích hợp cho các kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.
40 ngày Chúa Giêsu trải qua trong hoang địa
Sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
Với những lời trên cho thấy, trước khi khai mào sứ vụ cứu thế, Chúa Giêsu đương đầu “giáp lá cà” với Satan trong 40 ngày cô tịch, một khoảng thời gian đầy thử thách. Nhưng Chúa Giêsu đã đã chiến thắng khi vạch trần Tên Cám Dỗ, đem lại cho chúng niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng để chiến thắng trong cuộc sống đầy những cám dỗ hàng ngày bủa vây quanh chúng ta.
Satan là kẻ thù lớn nhất của chúng ta. Nó đã cám dỗ Chúa Giêsu đi khác đường lối của Chúa Cha, giống như con rắn xưa đã cám dỗ Ađam và Evà. Chúa Giêsu đã bị cám dỗ bất tuân lệnh truyền của Chúa Cha, Người đã chống trả quyết liệt và đã vâng phục cho đến chết. Chúa Giêsu đã dựa vào Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần để chiến đấu. Người đã chiến thắng, ma quỷ đã phải rút lui, và các các thiên sứ đến hầu hạ Người (x. Mc 1,13). Những quỉ kế mà Satan dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, cũng là những cách hắn dùng để cám dỗ chúng ta ngày hôm nay. Noi gương Chúa Giêsu chúng ta sống triệt để Lời Chúa dạy.
Theo Chúa lên Giêrusalem
Chủ đề sứ điệp Mùa Chay năm 2021 này là: “Này chúng ta lên Giêrusalem” (Mt 20,18). Mùa Chay: Thời gian làm tươi mới Niềm tin, Hy vọng và Tình yêu.
Bước vào Mùa Chay 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta cùng lên Giêrusalem với Chúa trong niềm tin, yêu, và hy vọng mới. Đức Thánh Cha viết: “Mỗi giây phút của cuộc đời đều là thời gian để chúng ta tin tưởng, hy vọng và yêu thương. Lời kêu gọi sống Mùa Chay như hành trình hoán cải, cầu nguyện và làm phúc, giúp cho niềm tin đến từ Chúa Kitô hằng sống, niềm hy vọng được cảm hứng do hơi thở của Chúa Thánh Thần và tình yêu chảy tràn từ trái tim nhân hậu của Chúa Cha được sống động trở lại nơi cộng đồng và cá nhân mỗi người chúng ta” (Trích sứ điệp Mùa Chay 2021).
Vậy chúng ta bước vào Mùa Chay với một thái độ như thế nào? Chúng ta chuẩn bị ra làm sao để cho việc cử hành Mầu Nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta đạt được nhiều ý nghĩa và sinh ích lợi cho đời sống chúng ta? Nói khác đi, chúng ta lên Giêrusalem với Chúa bằng tâm tình nào, vui hay buồn, hy vọng hay thất vọng, yêu thương hay hận thù?
Hướng về lễ Phục Sinh, cuộc chiến thắng chung kết của Chúa Giêsu chống lại Ma Quỷ, chống lại tội lỗi và chống lại sự chết là ý nghĩa Chúa Nhật thứ I Mùa Chay. Chúng ta nhất quyết bước theo Chúa Giêsu trên con đường dẫn đến sự sống, theo Chúa tiến qua hoang địa của lòng ta. Nơi đây, ta có thể lắng nghe tiếng Thiên Chúa và cũng nghe thấy cả tiếng nói của Tên Cám Dỗ.
Nơi hoang địa, giúp chúng ta chống lại những điều trần tục, giúp chúng ta đi tới những chọn lựa can đảm phù hợp với Tin Mừng và củng cố tình liên đới với anh chị em chúng ta.
Theo Chúa Giêsu vào hoang địa. Chúng ta có Chúa Giêsu, Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ðúng hơn, Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay này.
Chúng ta cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse trợ giúp, để chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa Giêsu và sửa chữa những khuyết điểm để đương đầu với những cám dỗ hằng ngày tấn công chúng ta.
58.Suy niệm Mùa Chay--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG
KHAI MẠC MÙA CHAY THÁNH
(Mt 6, 1-6; 16-18)
Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).
Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: "Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van" (Joel 2,12).
Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất: chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai: Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.
- Ăn chay
- Cầu nguyện
- Và bố thí
Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.
Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.
Trước hết phải khiêm nhường
Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: "Tự nhịn bất kỳ thức ăn nào". Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, "hạ mình" trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối như tác giả Thánh vịnh nói: "Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” (Tv 34, 13).
Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: "Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Đức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Đức Chúa" (x. Tl 20, 26); "Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất; Vua trả lời: "Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: "Biết đâu Đức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống!" (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha: " Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van". (Dn 9, 3). Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: " Chúng nói: "Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?"... Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? " (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.
Đừng phô trương
Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: "Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy… khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người " (Mt 6, 1-6).
Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: "Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng" (1Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.
Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.
Thực hành bác ái
Xem ra con người ngày càng ích kỷ, đến nỗi Đức Thánh Cha gọi đó là sự “thờ ơ toàn cầu hóa”. Xóa bỏ sự thờ ơ là điều Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh trong sứ điệp Mùa Chay năm nay. Ngài viết: “Mong mỏi lớn lao của tôi là tất cả nơi nào có sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ ơ”. Ngài viết tiếp: “Dửng dưng với đồng loại và với Thiên Chúa cũng là một sự cám dỗ đối với Kitô hữu chúng ta” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
Đức Thánh Cha dựa trên ba trích đoạn Kinh thánh và đề nghị mỗi tín hữu, mỗi giáo xứ và giáo hội suy niệm để canh tân.
- Giáo hội
Giáo hội và mỗi tín hữu cần tái khám phá “trong cùng một thân thể, không có chỗ cho sự dửng dưng, thứ thường hay chế ngự trong tim chúng ta” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
- Các giáo xứ và các cộng đoàn
Câu hỏi nêu lên trong sách Sáng thế “Em ngươi đâu?” là một khởi điểm. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Tất cả những gì chúng ta đang nói về Giáo hội hoàn vũ bây giờ phải được áp dụng trong đời sống cộng đoàn và giáo xứ. Mỗi người tự hỏi mình có phải là những chi thể của Chúa Kitô không? Ngài nhắn nhủ: “mỗi cộng đoàn tín hữu phải đi ra và hòa mình vào cuộc sống của xã hội, đặc biệt nơi những người nghèo và những vùng ngoại biên xa xôi. Tự bản chất Giáo hội là truyền giáo; Giáo hội không tự đóng mình lại nhưng đi đến mọi miền đất nước và mọi dân tộc” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
- Mỗi tín hữu
Đức Thánh Cha nhận xét: “Là những cá nhân, chúng ta bị cám dỗ bởi sự dửng dưng. Nhìn thấy những tin tức ngập tràn những hình ảnh đau khổ nơi nhân loại, chúng ta cảm thấy bất lực trong việc giúp đỡ họ. Chúng ta có thể làm gì để tránh cảm giác bất lực này?” (x. Sứ điệp Mùa Chay 2015).
Để sống đức ái trọn vẹn, mọi thành phần dân Chúa cần thực hành theo 3 phương thức mà Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay. Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.
59.Chọn lựa--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Mc 1: 12-15: Sống thân phận con người là sống phấn đấu, chọn lựa. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã không được miễn chuẩn cho quy luật đó
Sống thân phận con người là sống phấn đấu, chọn lựa. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, cũng đã không được miễn chuẩn cho quy luật đó: Người đã bị Satan cám dỗ. Tuy nhiên, Người đã chiến thắng Satan và trở lại với tình trạng của con người trước khi sa ngã: sống hài hòa với dã thú và được các thiên thần phục vụ. Chính vì thế, Người là khuôn mẫu cho cuộc chiến đấu đức tin của chúng ta, đặc biệt trong mùa Chay thánh này.
I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Mc 1,12-15
Không giống như Tin mừng Matthêu (4,1-11) và Luca (4,1-13), Tin mừng Maccô không giải thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào lời Chúa thì đứng vững ; nếu không tin tưởng vào lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với Thiên Chúa, do đó, đã sống hòa bình với dã thú, và được các thiên thần hầu hạ.
Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào lời Chúa.
* Cám dỗ trong sa mạc.
Không như dân Israel ngày xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong hoang địa. Thông thường, sự cô độc này hẳn là dấu chứng tỏ một người điên hoặc bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Tác giả Maccô đã nói vắn tắt về Satan khiến các học giả đi đến nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong phần Tin mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể Maccô nhắm làm cho độc giả nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt đầu.
* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê.
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của Đức Giêsu, Maccô tóm tắt hoạt động của Người bằng các câu 14-15. Biến cố Gioan Tẩy giả bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, bắt đầu công trình của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin mừng của Thiên Chúa: Tin mừng đến từ Thiên Chúa và Tin mừng nói về Thiên Chúa. Đây là Tin mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và tin tưởng. Chúng ta được mời gọi "hoán cải và tin vào Tin mừng": thật ra "hoán cải" là "tin vào Tin mừng" và "tin vào Tin mừng" thì đương nhiên phải "hoán cải", rời bỏ nếp sống cũ để bước theo Đức Kitô.
II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Kể từ Giáo hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi bức tranh mô tả Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một đối trưng[1] của Ađam trong vườn. Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa sống hài hòa với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho thấy đó hẳn là hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không phạm tội. Một hoang địa biến thành địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9 ; 32,14-20 ; 65,25).
III. Gợi ý bài giảng
1. Đức Giêsu là Ađam mới.
Bản văn Maccô không kể lại các "chước cám dỗ" Satan đã bày ra cho Đức Giêsu như hai Tin mừng Matthêu và Luca, mà chỉ nói vắn tắt là "Người chịu Satan cám dỗ" và lại thêm chi tiết "sống giữa dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ". Khi viết như thế, một đàng Maccô cũng cho hiểu là Đức Giêsu đã chiến thắng ma quỷ, nhưng còn cho thấy Người như là Ađam mới sống hài hòa với dã thú tại vườn Địa đàng và với thế giới của Thiên Chúa. Tất cả những điều này xảy ra trong suốt 40 ngày chứ không chỉ khi kết thúc ngày thứ bốn mươi. Với Đức Giêsu thời cánh chung đã bắt đầu như các bản văn Is 11,60 và 65,25 đã từng loan báo. Như thế, các tín hữu có thể tin tưởng vào Đức Giêsu theo lời Chúa Cha đã khẳng định: "Con là Con yêu dấu của Cha" (Mc 1,11), và tuyên xưng niềm tin rằng Người là Con Thiên Chúa (x. 15,39). Đồng thời họ có thể coi Người như là gương mẫu cho mình. Khi đã chọn Đức Kitô và xin chịu phép Rửa tội, Kitô hữu cũng chia sẻ số phận của Đức Kitô ; Satan sẽ tấn công tất cả những ai thuộc về Đức Kitô, như đã từng tấn công, đã từng cám dỗ chính Đức Kitô. Tuy nhiên, người ấy cũng sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô, vì Đức Kitô đang thực thi nhiệm vụ của Người với quyền năng, Người chế ngự kẻ mạnh (3,27) và loan báo Tin mừng về triều đại Thiên Chúa. Vì Tin mừng Đức Giêsu mang đến là Tin mừng tuyệt hảo, Tin mừng này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin mừng này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn cứu độ.
2. Thái độ phải có để được tham dự vào triều đại Thiên Chúa.
"Thời kỳ đã mãn": Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng, tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ là thời kỳ chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và có một thái độ thích hợp: "sám hối và tin vào Tin mừng", tức là biết chọn lựa.
"Triều đại Thiên Chúa" có nghĩa là lúc Thiên Chúa bung mở quyền làm chủ của Người ra. Thiên Chúa là Chúa tể chứ không phải là nô lệ của chúng ta ; chúng ta không thể coi Ngài như ngang vai ; chúng ta không thể áp đặt cho Ngài bất cứ chuyện gì. Ngài có tất cả mọi quyền bính và sức mạnh ; Ngài quyết định và qui định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa tể chân thật duy nhất, chúng ta được tự do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta. Mọi chúa tể và quyền lực khác được trả về đúng chiều kích của họ.
Thiên Chúa là Chúa tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ tể của Ngài có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi người ta có thể nghĩ rằng Thiên Chúa và triều đại Ngài không hiện hữu. Để có thể nhận ra quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần nơi lối cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa đến gần chúng ta như thế nào với triều đại của Ngài và các hoa trái của triều đại Ngài.
IV. Lời cầu chung:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, mở đầu mùa Chay, Họi thánh để ra cho chúng ta một Giêsu như Ađam mới, đã thắng được ma quỷ, trở lại sống tư cách con người đúng như Thiên Chúa muốn và ra đi loan báo Tin mừng, mời gọi hoán cải và tin vào Tin mừng. Tin tưởng rằng Đức Giêsu luôn trợ giúp chúng ta trong nỗ lực sống đời Kitô hữu, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện
1. Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai Thiên Chúa phái đến để cứu độ nhân loại. Chúng ta cầu nguyện cho toàn thể Họi thánh, chủ chăn và đoàn chiên, biết tin tưởng vào Đức Kitô và làm chứng về Người trước toàn thể nhân loại.
2. "Triều đại Thiên Chúa đã đến gần". Qua việc Đức Giêsu đi loan báo Tin mừng cứu độ, Thiên Chúa đang bày tỏ quyền làm chủ của Ngài ra, bằng việc rao giảng sứ điệp tình yêu và xua trừ ảnh hưởng của ma quỷ. Chúng ta cầu nguyện cho các nhà truyền giáo luôn xác tín vào sứ mạng được ký thác cho mình, để luôn hăng say và quảng đại dấn thân.
3. "Hãy sám hối và tin vào Tin mừng". Chúng ta cùng cầu nguyện cho toàn thể các tín hữu biết gắn bó với Tin mừng là chính Đức Giêsu, để sống sự hoán cải chân thành, và ra sức sửa đổi đời sống để ngày càng hiểu biết và tin yêu Đức Giêsu hơn.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, vào đầu mùa Chay thánh, Chúa đã được giới thiệu như là điển hình cho chúng con bắt chước, và như Đấng dẫn đường đầy uy quyền. Xin ban Thánh Thần uốn nắn lòng dạ chúng con và giúp chúng con ngoan ngoãn bước theo Chúa, là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
60.Thiên Chúa yêu thương tất cả thụ tạo. chúng ta cũng nên yêu thương như vậy--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ ĐCV Sao Biển
Hôm nay là Chúa nhật I Mùa Chay, khoảng thời gian 40 ngày để chúng ta chuẩn bị tâm trí và thân xác cho Lễ Phục sinh, bằng cách chú tâm vào việc cầu nguyện, ăn chay, bố thí và phục vụ tha nhân. Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về mối tương quan tình yêu của Thiên Chúa với tất cả thụ tạo.
Trong bài đọc I, chúng ta được nghe về giao ước mà Thiên Chúa thiết lập với tất cả thụ tạo đang sống, con người cùng với các loài vật khác. Đây là giao ước Noê vì ông là đối tác chính. Theo bối cảnh của trình thuật Kinh thánh, trái đất và gần như tất cả mọi loài sinh sống ở đó đều đã bị lũ lụt tàn phá. Một cách ẩn dụ, nước lũ hủy diệt đã tẩy sạch sự hư hỏng và tội lỗi của trái đất, một sự gột rửa mà bài đọc thứ hai giải thích là giống như những gì được rửa sạch trong nước của phép rửa. Sau trận hồng thủy, Thiên Chúa khẳng định mối tương quan của Ngài với các thụ tạo đang sống qua việc sử dụng ngôn ngữ giao ước mang tính pháp lý để thể hiện sự cam kết của Ngài đối với sự sống còn của tạo thành. Mối quan tâm đặc biệt đến sự sống của cả con người và các loài vật khác là trọng tâm của giao ước Noê và nó được ghi nhớ bằng cầu vồng trên đám mây. Khởi đầu Mùa Chay là thời điểm tuyệt vời để cùng suy ngẫm về những hàm ý của trang Kinh thánh này. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho thụ tạo được tái lập trong giao ước này và nó nên ảnh hưởng đến chúng ta trong việc thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm đối với tất cả thụ tạo.
Bài Tin mừng cũng nêu bật mối liên hệ của Thiên Chúa với thụ tạo, mặc dù có thể bỏ qua chi tiết này vì có một số yếu tố quan trọng khác trong bài Tin mừng ngày hôm nay. Phù hợp với Chúa nhật I Mùa Chay, chúng ta được nghe về 40 ngày thử thách của Đức Giêsu trong hoang địa. Máccô không mô tả bản chất của những cám dỗ như được mở rộng trong các Tin mừng Matthêu và Luca. Thời gian trải nghiệm trong hoang địa của Đức Giêsu trở thành khuôn mẫu cho 40 ngày của Mùa Chay, vì con số này mang ý nghĩa trong suốt truyền thống Kinh thánh như là thời gian của cầu nguyện, thử thách và thông thường là biến đổi.
Máccô miêu tả Đức Giêsu bị Satan cám dỗ, được các thiên thần phục vụ và ở giữa các loài muông thú. Hiển nhiên, có thể bị bỏ sót khi cho rằng mỗi thành phần Satan, ma quỷ, dã thú trên đây không phải là con người. Học giả Tân ước, Richard Bauckham cho rằng Đức Giêsu đã đi vào hoang địa để gặp gỡ những hữu thể của thế giới không phải con người nhằm thiết lập ở đó một mối tương quan trước khi rao giảng cho thế giới loài người. Trong cuộc chạm trán với Satan, Đức Giêsu thiết lập quyền lực và khả năng của mình vượt trên những cám dỗ mà Ngài có thể phải đối mặt ở ngoài hoang địa. Mối tương quan của Đức Giêsu với các thiên thần thì được minh định là tích cực và hiệu quả, vì các ngài nâng đỡ Đức Giêsu. Việc Đức Giêsu sống cùng với bầy dã thú có thể báo hiệu rằng Ngài đã thiết lập một mối tương quan hài hòa với mọi thụ tạo, ngay cả những loài thường bị coi là nguy hiểm. Bauckham lưu ý tầm quan trọng của mối tương quan hòa bình này như một dấu chỉ của thời thiên sai. Chẳng hạn, trong sách ngôn sứ Isaia, một vị vua thiên sai trong tương lai sẽ mang lại thời kỳ hòa bình giữa loài người và các loài vật khác (Is 11,6-9). Qua việc miêu tả Đức Giêsu ở cùng với các loài dã thú, Máccô cho thấy rằng Đức Giêsu có một mối tương quan với tất cả các thụ tạo và rằng chính Ngài là Đấng Thiên sai được trông đợi.
Khi bắt đầu cuộc hành trình Mùa , các bài đọc hôm nay thôi thúc chúng ta lưu tâm và hòa hợp với tất cả loài thụ tạo cũng như những cách thế mà chúng ta hỗ trợ hoặc gây hại cho các thụ tạo. Là Đấng Tạo hóa, Thiên Chúa bày tỏ tình yêu thương và sự tác động đối với mọi sinh vật, và đây là điều chúng ta cũng nên noi gương bắt chước. Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhớ chúng ta, “Tất cả chúng ta đều có thể cộng tác như những khi cụ của Thiên Chúa cho việc chăm sóc thụ tạo” (“Laudato Si’,”số 14).
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/01/21/first-sunday-lent-gospel-reflection-catholic-scripture-239719
61.Để chiến thắng ma quỷ cám dỗ--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Sau khi được tấn phong làm Đấng Thiên Sai (Mê-si-a), Đức Giê-su đã được Thánh Thần hướng dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ thử thách cám dỗ và Người đã dùng vú khí Lời Chúa để chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ. Đến khi Gio-an Tẩy Giả bị bắt, thì Đức Giê-su mới bắt đầu thi hành sứ mạng Thiên Sai, bằng việc Người đi khắp miền Ga-li-lê để kêu gọi người ta ăn năn sám hối tội lỗi và tin vào Tin Mừng Nước Thiên Chúa do Người sắp thiết lập.
CHÚ THÍCH:
- C 12-13: + Thần Khí liền đẩy Người: Khi chịu phép Rửa của Gio-an Tẩy Giả, Đức Giê-su đã được Thánh Thần lấy hình chim câu đậu xuống trên mình, để xức dầu thiêng liêng tấn phong làm Đấng Thiên Sai. Từ đây Người luôn theo sự hướng dẫn của Thánh Thần để hành động mà việc đầu tiên là vào trong sa mạc ăn chay cầu nguyện và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. + Vào hoang địa (sa mạc): Khi giải thoát con cháu Gia-cóp khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập, Đức Chúa đã đưa họ “vào sa mạc” 40 năm, để ký một giao ước công nhận họ là dân riêng của Người, thanh luyện họ khỏi tội tôn thờ tà thần. Đây cũng là thời gian thử thách lòng trung tín của họ đối với Người. Đến thời các ngôn sứ, Hô-sê đã diễn tả đúng ý nghĩa của sa mạc khi ông trình bày Đức Chúa yêu thương dân Ít-ra-en giống như một người chồng yêu vợ, đã dẫn đưa dân này vào sa mạc để sống thân mật với Người (x. Hs 2,16). + Đức Giê-su “vào sa mạc”: Sau khi được công nhận là Con Yêu Dấu luôn làm đẹp lòng Chúa Cha và được đầy Thần Khí, Đức Giê-su đã được Thần Khí thúc đẩy vào sa mạc, để sống thân tình với Chúa Cha bằng việc cầu nguyện và ăn chay suốt 40 ngày. Đây cũng là thời gian Người chịu ma quỉ thử thách. Nhờ luôn chọn làm theo lời Chúa Cha, Đức Giê-su đã chiến thắng Xa-tan cám dỗ, và chứng minh lòng trung thành với sứ mạng Thiên Sai được Cha trao phó. + Bốn mươi ngày: Con số 40 tượng trưng cho một thời gian dài. Chẳng hạn: Trong Đại Hồng Thủy, ông No-e đã mở cửa sổ tàu sau khi nước rút được 40 ngày (x. St 8,6); Trong cuộc Xuất Hành, Mô-sê đã lên núi tiếp xúc với Đức Chúa suốt 40 ngày đêm (x. Xh 34,28); Dân Ít-ra-en phải lưu lạc trong sa mạc suốt 40 năm trường (x. Ds 14,34); Vua Đa-vít đã cai trị trong thời gian 40 năm (x 2 Sm 5,4); Ngôn sứ Ê-li-a đã chạy trốn lên núi Khô-rếp mất 40 ngày đêm (x. 1V 19,8); Đức Giê-su đã vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 ngày (x. Mc 1,13). + Xa-tan: Xa-tan nghĩa là “kẻ thù”, “kẻ chống đối”, hay còn được gọi là “ma quỉ” hay Di-a-bo-los nghĩa là “kẻ kiện cáo”, “kẻ vu khống”. Đây là nhân vật vô hình có hai hoạt động là: nhập vào một người để bắt họ nói hay làm theo ý của nó và cám dỗ, xúi giục họ phạm tội chống lại Thiên Chúa. + Cám dỗ: Cơn cám dỗ của ma quỉ gồm 3 giai đoạn như sau: Một là gợi lên trong đầu người ta một hình ảnh hợp với nhu cầu của họ. Hai là làm cho người ta vui thích với hình ảnh ấy hoặc ước muốn làm điều xấu xa. Ba là người bị cám dỗ sẽ quyết định chiều theo hay không theo sự xúi giục của ma quỉ. Quyết định làm theo ma quỉ là đã phạm tội. Đối với Đức Giê-su, Xa-tan chỉ có thể cám dỗ ở giai đoạn thứ nhất, nghĩa là gợi lên trong tâm trí Người một tư tưởng hay một hình ảnh phù hợp với nhu cầu. + Sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người: Đức Giê-su đã chiến thắng cơn thử thách cám dỗ của Xa-tan. Dấu chỉ cụ thể của cuộc chiến thắng ấy là Người đã được Thiên Chúa che chở để sống hòa hợp với dã thú và còn được các thiên thần đến hầu hạ phục vụ (x. Tv 91,11-13). Đây là quang cảnh của thời Thiên Sai: một thời kỳ thái bình và đầy tình yêu thương huynh đệ, trong đó mọi loài vật sẽ sống hòa hợp với nhau và sẽ không có chỗ cho sự ganh ghét hận thù nhau (x. Is 11,6-9; 65,25).
- C 14-15: + Sau khi Gio-an bị nộp: Việc Gio-an bị bắt nói lên sứ mạng của ông là tiền sứ hay tiền hô của Đấng Thiên Sai đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ Đức Giê-su thực hiện ơn cứu độ. + Ga-li-lê: Ga-li-lê là miền Bắc nước Do Thái, nơi đây có nhiều dân ngoại sống lẫn lộn với dân Do Thái. Đức Giê-su đã bỏ miền Giu-đê đến Ga-li-lê để bắt đầu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. + Lời rao giảng của Đức Giê-su: được tóm kết trong 3 tư tưởng sau: Một là: Thời kỳ đã mãn: Các ngôn sứ chia thời gian làm hai thời kỳ là thời hiện tại và thời cánh chung. Giờ đây Đức Giê-su loan báo thời kỳ hiện tại đã kết thúc để bắt đầu một thời kỳ mới cánh chung, trong đó Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ. Hai là: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Cựu Ước nói đến Vương Quyền của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en là dân riêng của Người (x. Is 43,15; Tv 47,3). Từ đó, dân Ít-ra-en luôn trông chờ Thiên Chúa sẽ sớm thiết lập Vương Quyền của Người. Giờ đây, Đức Giê-su đã khẳng định rằng: Nơi Người, Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần. Ba là: Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Sám hối hay Mê-ta-noi-a, một từ Hy lạp có nghĩa là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Ở đây, Sám Hối chính là thay đổi hướng đi, triệt để từ bỏ tội lỗi để quay về với Giao Ước, và bước vào một đời sống mới. Ngoài ta còn phải tin vào Tin Mừng Đức Giê-su rao giảng nữa.
CÂU HỎI: 1) Trong cuộc sống công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã hành động theo sự thôi thúc hướng dẫn của ai? 2) Thời kỳ Xuất Hành. Đức Chúa đã hạ lệnh cho Mô-sê đưa dân Do thái vượt qua biển Đỏ vào trong sa mạc suốt thời gian 40 năm để làm chi? Còn Đức Giê-su được Thần Khí thúc đẩy vào sa mạc làm gì? 3) Đức Giê-su đã dùng phương thế thiêng liêng nào để chiến thắng các cám dỗ của ma quỷ? 4) Hãy kể một số sự kiện trong Thánh Kinh có liên quan đến con số 40? 5) Xa-tan là ai? 6) Ma quỷ thường cám dỗ người ta qua mấy giai đoạn? 7) Sau khi chiến thắng ma quỷ, Đức Giê-su đã làm gì để mặc khải các đặc điểm về thời Thiên Sai mà Người muốn thiết lập? 8) Đức Giê-su bắt đầu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa từ lúc nào? 9) Ga-li-lê là miền đất có đặc điểm thế nào? 10) Nội dung những lời rao giảng của Đức Giê-su được tóm gọn trong ba điều chính yếu nào? 11) Sám hối nghĩa là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sống là chiến đấu không ngừng:
Vào một buổi tối, cha bề trên đã hỏi một tu sĩ trong dòng như sau:
- Hôm nay từ sáng đến giờ thầy làm gì?
Tu sĩ trả lời rằng:
– Hôm nay cũng như mọi ngày, con bận bịu với công việc mà nguyên sức con sẽ không thể làm nổi, nếu không được Chúa trợ giúp. Mỗi ngày con đều phải trông chừng hai con chim ưng, kềm giữ hai con nai, kiểm soát hai con diều hâu, điều khiển một con cá sấu, trừng trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.
Cha bề trên cười hỏi lại:
– Con nói gì lạ thế? Những con vật mà con vừa nói trong tu viện của chúng ta làm gì có?
– Thưa cha bề trên, thật đúng như vậy: Hai con chim ưng chính là hai con mắt của con, con phải giữ chúng luôn trong sáng, không để chúng tự do thu nhận những hình ảnh xấu vào đầu. Hai con nai tức là đôi chân của con, con phải luôn trông chừng chúng trong từng bước đi, để chúng luôn đi trong nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai bàn tay con, con phải luôn bắt chúng làm việc hữu ích. Còn cá sấu là cái lưỡi trong miệng con, con phải kiềm chế để nó khỏi thốt ra những lời lẽ thâm độc hại người. Con gấu chính là trái tim con, con phải coi chừng để nó khỏi mắc thói ích kỷ và thích phô trương công đức để tìm tiếng khen. Còn bệnh nhân chính là thân xác con, con phải canh phòng để cho xác thịt khỏi trỗi dậy và luôn khỏe mạnh.
Cuộc sống của chúng ta luôn phải chiến đấu với ba kẻ thù nguy hiểm là ma quỷ, thế gian và xác thịt. Trong ba kẻ thù đó thì nguy hiểm nhất lại chính là xác thịt mình, vì nó ở ngay trong lòng mình. Mùa chay là thời kỳ chúng ta hãm mình đền tội và tập sống tinh thần nghèo khó của Chúa Giê-su. Trong thời gian này luật dạy chúng ta ăn chay hai ngày đầu và cuối Mùa Chay là Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sau Tuần Thánh. Khi ăn chay, chúng ta giảm ăn và tránh ăn những món ngon, để cộng tác với ơn Chúa làm chủ bản thân, tập sống tiết độ như kinh Cải Tội Bảy Mối đã dạy: “Kiêng bớt chớ mê ăn uống”. Ăn chay là hãm mình đền tội và để có điều kiện chia sẻ cơm áo cho những kẻ nghèo đói và tích cực góp phần phục vụ các việc công ích với Hội Thánh.
2) Bị cám dỗ hay không là tùy sự cầu nguyện, ăn chay và làm việc nhiều ít:
Một hôm Thánh Ephrem nằm mơ thấy một thành phố kia rất đông người qua lại, nhưng ở cổng thành, ngài chỉ thấy có một tên quỉ đang ngồi ngáp ngủ. Rồi ngài lại thấy mình có mặt tại một khu rừng vắng chỉ có một vị ẩn sĩ đang sống, nhưng chung quanh vị này lại có cả một bầy quỉ rất đông đang tìm đủ cách tấn công vị tu sĩ. Bấy giờ thánh nhân liền la mắng lũ quỷ như sau: “Lũ quỷ các ngươi thật không biết xấu hổ khi kéo cả bầy đến tấn công một người. Còn trong thành phố kia có rất đông người thì các ngươi lại chỉ bố trí có một tên đứng không và còn ngáp đứng ngáp ngồi nghĩa là làm sao?”
Tên quỷ đầu đàn liền trả lời như sau: “Thành phố tuy đông người nhưng chẳng cần lũ quỷ chúng ta phải ra tay cám dỗ mà chúng vẫn phạm hết tội này đến tội khác, nên chỉ cần một tên đứng canh là đủ. Còn tại khu rừng vắng này dù chỉ có một tên tu sĩ, nhưng hắn ta lại rất kiên cường chiến đấu. Đến nay sau nhiều ngày tấn công cám dỗ mà chúng ta vẫn chưa cám dỗ được hắn ta phạm tội, vì hắn luôn ăn chay cầu nguyện, năng đọc Kinh Thánh và chăm chỉ làm việc”.
Thánh Phêrô dạy các tín hữu như sau: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự” (1 Pr 5,8-9).
3) Một mẫu gương thực lòng sám hối:
Piri Tômát (Piri Thomas), từ một tên tội phạm đang thi hành án trong nhà tù, một con nghiện ma túy đã từng nhúng tay vào tội ác giết người... cuối cùng đã sám hối trở thành một tín hữu đạo đức thánh thiện đầy lòng nhân ái như sau: Một đêm nọ, Pi-ri đang nằm trong một phòng giam đặc biệt, cùng chung giường với một tên tội phạm biệt hiệu là “Thằng Ròm”, đột nhiên anh suy nghĩ về tình trạng tội lỗi của mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt phải trỗi dậy cầu nguyện với Chúa. Nhưng lúc đó anh lại đang nằm chung giường với một bạn tù là “Thằng Ròm”. Do đó, chờ cho “Thằng Ròm” ngủ say, anh mới từ từ bò ra khỏi giường, quì gối xuống nền nhà bằng bê-tông lạnh ngắt. Rồi anh say sưa nói với Chúa như đứa con thưa chuyện với cha mình.
Về sau anh đã thuật lại tiến trình trở lại của anh như sau: “Khi ấy tôi bày tỏ với Chúa những gì chất chứa trong lòng tôi. Tôi thưa với Ngài bằng những lời đơn sơ mộc mạc. Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những lầm lỗi thiếu sót của tôi, những hy vọng và thất vọng. Lúc đó tôi cảm thấy xúc động đến nỗi suýt bật khóc, một sự xúc động mà trước đây chưa bao giờ tôi cảm thấy. Khi kết thúc lời cầu nguyện, bỗng tôi nghe thấy có tiếng đáp: “Amen”. Thì ra đó là tiếng của “Thằng Ròm”. Lúc đó hắn đang nằm sấp trên giường, trán tựa trên hai cánh tay khép lại. Sau một lúc lâu im lặng, rồi “Thằng Ròm” nói nhỏ với tôi: “Này Pi-ri, tớ cũng tin Chúa!” Rồi tôi leo lên giường và hai đứa chúng tôi tiếp tục nói chuyện về niềm tin từ hồi còn thơ ấu của mình. Trước khi ngủ tiếp, tôi đã nói với “Thằng Ròm”: “Chúc Chi-co ngủ ngon nhé! Tớ nghĩ rằng: Thiên Chúa vẫn luôn ở với chúng ta. Chỉ có chúng ta là không muốn ở với Ngài mà thôi!”
4) Bé ăn cắp một quả trứng, lớn ăn cắp cả con bò:
Một tên cướp nhà băng kia đã dùng súng giết chết một viên cảnh sát và sau đó hắn bị bắt và bị tòa kết án tử hình. Bây giờ hắn đang bị cột vào chiếc ghế điện trong nhà tù Sing Sing chờ tới giờ thi hành án. Trên đầu hắn có đeo một chiếc vòng bằng kim loại cột nhiều thanh sắt. Khi cho dòng điện mạnh chạy qua là hắn sẽ lập tức bị chết ngay. Người thi hành án hỏi tử tội xem có muốn nhắn gửi điều gì trước khi chết không? Bấy giờ hắn mới tâm sự với giọng điệu đầy hối hận muộn màng như sau: ”Tất cả tội lỗi lớn lao của tôi hôm nay chỉ bắt đầu từ việc ăn cắp một đồng năm xu trong túi áo của mẹ tôi hồi còn nhỏ. Rồi khi đi học tôi tiếp tục ăn cắp các vật dụng của chúng bạn như bút vở, nhặt được đồ đánh rơi không trả cho người bị mất, đi xe buýt hay xe lửa trốn không mua vé. Rồi khi lớn khôn tôi bắt đầu sa vào các thói hư chơi bời hút xách bài bạc. Do thua cá độ một món tiền lớn, tôi và hai thằng bạn thân rủ nhau đi cướp giật túi xách người đi đường, rồi lên kế hoạch cướp nhà băng. Một ngày kia khi thực hiện việc cướp này và bị cảnh sát truy đuổi, tôi đã dùng súng bắn chết một viên cảnh sát và bị tòa kết án tử hình. Như vậy, tội cướp của giết người dẫn đến cái chết của tôi hôm nay chỉ bắt đầu từ việc ăn cắp một đồng bạc năm xu” (A. Tonne).
Tin Mừng hôm nay cho thấy khi cám dỗ Đức Giê-su, ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật tương tự. Nó không xúi Người tôn thờ nó ngay, mà yêu cầu Người hãy biến những viên đá cuội trở thành bánh mì mà ăn, nhằm thỏa mãn nhu cầu cơm áo vật chất thường ngày. Rồi tiếp đến nó xúi Người nhảy từ nóc đền thờ xuống để được khen, thỏa mãn các ước muốn về danh vọng chức quyền trần gian. Cuối cùng nó xúi Người sấp mình thờ lạy nó, để được nó ban cho của cải giàu sang. Đối với loài người chúng ta cũng thế: “Bé ăn cắp một quả trứng, lớn ăn cắp cả con bò”. Do đó, chúng ta đừng coi thường những lỗi nhỏ, vì từ một lỗi nhỏ hôm nay sẽ biến thành tội ác chối bỏ Thiên Chúa và làm hại tha nhân sau này.
5) Lòng tham lam tiền bạc làm mờ mắt linh hồn:
Ngày xưa, có người ở nước Tề có lòng say mê vàng bạc. Một hôm đi chợ, khi tới gần cửa hàng bán vàng bạc, anh nhìn thấy một thỏi vàng để trong quầy, liền chạy tới đập bể tủ kính chộp lấy thỏi vàng mang đi. Khi bị nhân viên cửa hàng đuổi theo bắt lại và bị hạch hỏi: “Tại sao ở giữa chốn đông người ban ngày ban mặt mà anh lại dám công khai cướp vàng là làm sao?”
Anh ta liền thú nhận: “Khi nhìn thấy thỏi vàng, thì tôi không còn thấy bất cứ người nào khác, mà chỉ thấy thỏi vàng trong quầy cần lấy bằng được với bất cứ giá nào!”
Đồng tiền liền khúc ruột nên nhiều người sẵn sàng lao vào lửa, bất chấp mọi khó khăn, không từ bất cứ thủ đoạn nào, miễn sao chiếm đoạt được nó mới thôi.
3. THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện trên, bạn thấy vị tu sĩ đã chiến thắng ma quỷ cám dỗ nhờ dùng các phương thế nào? 2) Bạn sẽ làm gì cụ thể để tu sửa thói hư tật xấu quan trọng nhất của bạn trong mùa chay này?
4. SUY NIỆM:
Tin Mừng hôm nay đã ghi lại lời Đức Giê-su rao giảng: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Ăn năn sám hối (Mê-ta-noi-a) nghĩa là “cải thiện đời sống”, “cải tà qui chánh”. Là nhìn nhận những điều xấu xa tội lỗi trong đời sống của mình và quyết tâm trừ khử. Nói cách khác: Sám hối là nhận ra thân phận tội nhân của mình và thực lòng hoán cải, bằng cách làm những việc tốt trái ngược với các thói hư như kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” đã dạy.
1) Mọi người đều phải chịu ma quỷ cám dỗ:
Đức Giê-su là Đấng Thánh vô tội, nhưng mang thân phận loài người giống như chúng ta, nên Người muốn chịu ma quỷ cám dỗ để nêu gương chống trả cho chúng ta. Qua việc bị ma quỷ cám dỗ, Chúa muốn dạy chúng ta rằng: Mọi người ai cũng đều phải trải qua các cơn cám dỗ của ma quỷ, và càng thánh thiện người ta lại càng bị cám dỗ nặng hơn để chứng tỏ lòng mến Chúa nhiều hơn. Thánh Grê-gô-ri-ô khi đã bước sang tuổi 90 đã chia sẻ kinh nghiệm như sau: "Ở tuổi này mà tôi vẫn thường xuyên bị ma quỷ cám dỗ giống như lúc tôi đang còn trong tuổi đôi mươi! "
Đức Cha Ti-a-mer Toth cũng nói: "Ma quỉ đã dám đụng đến cả thủ lãnh Giê-su... thì chắc chắn chúng cũng sẽ không buông tha cho các đồ đệ của Người là chúng ta".
2) Phương diện tích cực của cơn cám dỗ:
a) "Lửa thử vàng - Gian nan thử đức":
Sống trên đời, chúng ta không thể tránh được các cơn cám dỗ của ma quỷ. Tuy nhiên cám dỗ cũng có mặt tích cực của nó là giúp củng cố đức tin của chúng ta hầu mang lại lợi ích cho tâm hồn. Cám dỗ giống như phương thế tập luyện giúp chúng ta nên người lính thiện chiến, một lực sĩ mạnh mẽ của Thiên Chúa, có khả năng chiến đấu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ.
Ta có thể ví cám dỗ giống như một mũi chích ngừa bệnh để bạch huyết cầu của chúng ta có dịp chiến thắng những vi trùng yếu, tiết ra kháng thể giúp chúng ta miễn dịch và sẽ dễ dàng chiến thắng các vi trùng mạnh hơn về sau.
b) “Ơn Thầy đủ cho con”:
Cần ý thức rằng: Chúa luôn ban đủ ơn để giúp ta chiến thắng ma quỷ cám dỗ, miễn là luôn có Chúa ở trong lòng ta. Thánh nữ Ca-ta-ri-na một hôm bị một cơn cám dỗ rất nặng. Sau đó được Chúa Giê-su hiện ra an ủi. Vừa gặp Chúa, thánh nữ liền hỏi: “Lạy Chúa. Khi con bị cám dỗ thì Chúa ở đâu?”. Người trả lời: “Ta ở ngay trong lòng con đó”. Về phần thánh Phao-lô Tông đồ có lần đã xin Chúa cất khỏi cơn cám dỗ của ma quỷ luôn quấy rầy, giống như một cái dằm đâm vào cơ thể làm cho đau đớn. Ngài còn bị một thủ hạ của Xa-tan đến vả mặt rất khó chịu và nhiều lần ngài xin Chúa giúp thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Chúa đã an ủi Phao-lô như sau: “Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối”. Về sau Phao-lô còn viết như sau: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,9).
c) Về các loại cám dỗ của ma quỷ: Có nhiều loại cám dỗ nhưng quan trọng nhất là cám dỗ của ma quỷ về lòng tham tiền bạc. Thực vậy, tình cảm gia đình cũng có thể bị đảo lộn vì bị đồng tiền chi phối: Cha mẹ có thể từ bỏ con cái, con cái có thể bỏ rơi cha mẹ; Vợ có thể tố cáo chồng, chồng có thể ruồng rẫy vợ; Anh em bạn bè có thể chém giết nhau vì tranh chấp của cải như một căn nhà, mảnh vườn hay thùng quà người thân gửi về… Thật đúng như người ta thường nói về giá trị của đồng tiền: "Còn tiền còn bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi" hoặc như câu tục ngữ: "Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên - Ba ông đứng lại, ông tiền cao hơn".
3) Vào mùa chay là bước vào sa mạc lòng mình:
Dù đang sống cuộc sống đời thường hằng ngày nhưng chúng ta vẫn có thể sống tinh thần Mùa Chay bằng cách:
a) Kiên cường chống trả mọi cơn cám dỗ của ma quỷ, luôn vững tin vào Chúa dù gặp bao thử thách gian nan.
b) Bỏ ý riêng để luôn tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực thi theo ý Chúa Cha, dù phải chịu đau khổ, bị thiệt thòi, như Đức Giê-su đã cầu nguyện với Chúa Cha: ”Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha.” (Lc 22,42 b).
c) Sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, thiếu thốn gặp phải trong cuộc sống: Dù bị đói nghèo nhưng tâm hồn vẫn tự do, không chịu khuất phục làm nô lệ cho của cải vật chất.
d) Giữ tâm hồn luôn bình an nhờ năng cầu nguyện với Chúa Cha: Nhờ đó chúng ta sẽ trở nên “Con yêu dấu” luôn làm vui lòng Cha như Đức Giê-su.
Nếu trong Mùa Chay chúng ta quyết tâm vào sa mạc để thanh luyện bản thân, thì tâm hồn chúng ta sẽ nên vững mạnh; Sẽ có khả năng chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ; Sẽ quyết tâm dấn thân phục vụ Chúa và tha nhân không quản ngại bất cứ khó khăn gian khổ nào; Sẽ tập thành thói quen bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa hầu nên con thảo của Chúa Cha noi gương Đức Giê-su.
4) Các phương thế giúp chúng ta chiến thắng ma quỷ cám dỗ:
a) Năng ăn chay và cầu nguyện: Nhờ ăn chay cầu nguyện suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su đã được tăng sức mạnh để đương đầu và chiến thắng ma quỷ cám dỗ. Hội Thánh dạy chúng ta hãy cầu nguyện và ăn chay để hãm mình đền tội trong Mùa Chay như phương thế hữu hiệu gia tăng nội lực thiêng liêng hầu giúp ta đủ sức chống trả và chiến thắng các cơn cám dỗ của ma quỷ.
b) Năng học sống Lời Chúa: Lời Chúa như thanh gươm hai bên đều là lưỡi sắc bén để giúp chúng ta chống lại ma quỷ. Noi gương Đức Giê-su khi bị ma quỷ cám dỗ, đã sử dụng Lời Chúa làm phương thế chống trả và đã chiến thắng ma quỷ. Ba câu Lời Chúa ấy như sau: “Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4); “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của Ngươi” (Mt 4,7); “Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi” (Mt 4,10).
c) Tham dự các buổi tĩnh tâm và năng lãnh nhận các phép bí tích: Dự tĩnh tâm để được nghe biết cách chống trả các cơn cám dỗ của ma quỷ. Xét mình xưng tội và dọn mình rước lễ sốt sắng, để luôn có Chúa ở cùng. Cầu xin Chúa giúp trừ khử các thói hư bằng việc quyết tâm tập các nhân đức đối lập theo kinh Cải Tội Bảy Mối đã dạy. Nhờ ơn Chúa giúp và nhờ nỗ lực phấn đấu của bản thân, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng ma quỷ cám dỗ và sẽ ngày một nên hoàn thiện hơn.
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp chúng con ý thức rằng: Xưa Chúa đã vào sa mạc để gặp gỡ và sống thân tình với Chúa Cha. Mùa Chay chính là thời kỳ thuận tiện để chúng con vào sa mạc với Chúa. Xin cho chúng con mỗi ngày dành ra ít phút thinh lặng để tâm sự với Chúa Cha, cho chúng con biết lắng nghe lời Chúa dạy trong giờ kinh tối gia đình, và các buổi Tĩnh Tâm Mùa Chay tại nhà thờ. Nhờ Thần Khí Chúa thôi thúc, chúng con quyết tâm thực thi ăn chay hãm mình đền tội trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con biết chu toàn các việc bổn phận hằng ngày đối với Chúa và tha nhân, biết chủ động đi bước trước làm hòa với những ai đang bất bình với con... để mỗi ngày con được Thần Khí thanh luyện và được biến đổi nên người mới trong Mùa Phục Sinh sắp tới.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
62.Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa--LỄ TRO--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay được kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo. Tuy nhiên, có điều là: Mùa Chay đã diễn ra hằng năm, nhưng tại sao đời sống đạo của chúng ta vẫn chỉ dừng lại nhiều ở góc độ bên ngoài mà đời sống tâm linh không có gì thay đổi lắm! Nguyên nhân tại đâu và việc chúng ta ý thức về nó như thế nào? Đâu là điều Chúa và Giáo Hội muốn nơi người tín hữu mỗi khi Mùa Chay về? Nhân ngày thứ Tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.
Xức Tro
Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi” (St 18, 27).
Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.
Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi” (Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Đức Chúa sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro” (Gn 3, 6).
Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự trai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi” (Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).
Tro còn nói đến một điềm gở, mà cụ thể là cái chết của mỗi người và nhân loại. Vì thế, tiên tri Giêrêmia đã mô tả như: “Thung lũng tử thi và tro thiêu xác” (x. Gr 31, 40). Nói như thánh Phaolô: “Mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết” (1 Cr 15, 31). Vì thế, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng, không thể trần chừ. Chuẩn bị tức là sống theo tinh thần của Chúa.
Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.
Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?
Ăn Chay
Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người, để dâng cho Người một phân nửa của cải (x. Ds 29,7; Cv 13,2), (x. Tl 20,26; Gđt 8,6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12,16-22; Er 8,21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23,27; Hc 34,26; Đn 10,2); hỗ trợ việc để trừ quỉ... (x. Mt 17,21).
Ăn chay còn thể hiện tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58,6-7), để thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4, 4).
Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay
Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.
Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ rột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay. Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt. Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì chót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa... Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, thì hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”. Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều...
Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa về ý thức nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bửu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng thì toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7,1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ, chẳng khác gì “gậy ông đập xuống lại dần lưng ông”. Nói cách khác, chúng ta là con đẻ của nhóm hình thức vụ luật. Thiết nghĩ, ăn chay như vậy, hẳn chúng ta chẳng khác gì những Pharisêu! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Đấng thấu suốt mọi điều kín nhiệm là Đức Giêsu đã quả trách họ cách nặng nề: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7, 6). Ăn chay kiểu như thế quả thật vô nghĩa vì đã đánh mất đi ý nghĩa thánh thiêng của ngày Thánh, ngày dành cho Thiên Chúa và vì ơn cứu độ của mình và tha nhân.
Việc ăn chay của Kitô giáo phải gắn liền cuộc đời, lời nói và hành vi của mình với Đức Kitô, nếu không, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, như chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành danh hài hay con hề trên sân khấu. Thánh Phaolô đã cẩn trọng nhắc nhở những kẻ như trên trong thời của Ngài, khi nói: “Anh em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Kitô và mất hết ân sủng” (Gl 5,4) khi chỉ lo giữ luật mà không có đức mến và đức ái đi kèm.
Người Công Giáo ăn chay, ngoài việc liên đới với Thiên Chúa, chúng ta còn gắn liền với các mối tương quan nơi tha nhân. Vì thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta dành ra một chút hy sinh về của cải vật chất mà lẽ ra chúng ta được hưởng để chia sẻ cho người túng nghèo, lo truyền giáo, giúp đỡ các bệnh nhân... Nói cách khác, việc ăn chay phải nhằm xây dựng Nước Trời ở trần gian này, nghĩa là phải biến việc ăn chay thành một phong cách sống nhằm xây dựng xã hội hay Giáo Hội ngày càng tốt đẹp hơn, công lý và tình thương hơn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo " (Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Chúa đi... Bây giờ là cơ hội thuận tiện" (2 Cr 5, 20 - 6, 2).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con hiểu rằng: muốn được phục sinh với Chúa, chúng con phải qua con đường thập giá. Phải chiến đấu và tập luyện các nhân đức cách sốt sắng, để thêm lòng yêu mến Chúa và liên đới với tha nhân. Amen.
63.Kiếp người vô thường--LỄ TRO--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mùa xuân luôn gợi lên trong ta những hình ảnh đẹp. Đẹp về ánh nắng xuân. Đẹp về những nụ hoa. Đẹp về cây nẩy lộc đâm chồi...; Đặc biệt sắc màu và hương thơm của trăm hoa đã hoà vào nhịp sống tất bật của con người, từ vùng ngoại ô thôn dã đến chốn phồn hoa đô thị, tạo nên một không khí vui tươi, một quang cảnh ấm áp và thiêng liêng của ngày xuân. Muôn hoa làm đẹp cho đời, muôn hoa xoa dịu buồn đau, muôn hoa khích lệ tinh thần, muôn hoa chia sẻ mừng vui… Nhưng đáng tiếc, những nụ hoa và cả mùa xuân đều mong manh, sớm nở chiều tàn. Tất cả dường như đều đi theo định luật của vạn vật là vô thường. Chẳng có gì bền vững với thời gian. Chẳng có gì vĩnh cửu nhưng luôn chịu cảnh phù vân mong manh.
Những điều vô thường này chúng ta có thể thấy qua vạn vật và cả qua những cảnh huống cuộc đời:
Hoa đẹp....... Hoa thơm... Hoa vẫn tàn
Tình nặng.....Tình sâu... Tình vẫn tan
Rượu đắng.... Rượu cay... Rượu vẫn hết
Người hứa.... Người thề... Người vẫn quên
Trăng lên......trăng tròn... trăng lại khuyết
Tuyết rơi......tuyết phủ... tuyết lại tan
Hoa nở.......hoa rơi..... hoa lại tàn
Tình đẹp......tình sâu..... tình lại tan!
Người đẹp…... người xấu…... rồi cũng chết
Người giàu …..người nghèo….rồi cũng hết (ST)
Tình yêu đôi lứa là tình thề non hẹn biển. Một cái tình tưởng chừng như trường cửu nhưng vẫn cứ mong manh. Trong tình yêu nó vẫn có mầm chia ly. Nó vẫn làm cho bao người vỡ mộng để rồi ôm hận sầu đông.
Đò tình anh đã sang sông
Sao không ngoảnh lại nhìn hàng lệ rơi
Hoa kia sớm nở chiều tàn
Tình ta cũng vỡ theo chiều hoàng hôn.
Cảnh đời là cảnh vô thường. Những lời thề non hẹn biển cũng đi vào lãng quên. Cuộc đời con người cũng vô thường như vạn vật. Có hiện hữu hữu rồi cũng có từ giã. Có sum họp rồi cũng chia ly. Xem ra cuộc đời thật mong manh. Mong manh như nụ hoa sớm nở chiều tàn. Đây là phi lý của cuộc đời khiến người ta mong được có kiếp sau, với mong ước được là cây thông để tự do tự tại, tự vui thú trần gian.
Kiếp này, ta ở nơi đây
kiếp sau xin được làm cây thông buồn
mặc giông tố
mặc mưa tuôn
mặc cho thế thái quay cuồng xung quanh
Thông reo, reo giữa ngàn xanh
vui cùng gió mát trăng thanh địa đàng.
Hôm nay, ngày lễ tro như muốn nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của kiếp người. Thân phận tro bụi rồi cũng trở về bụi tro. Kiếm tìm công danh sự nghiệp rồi cũng có ngày buông tay để trở về với bụi đất. Vun quén của cải trần gian rồi cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Quá mải miết tìm kiếm danh lợi thú để rồi cũng có ngày nuối tiếc vì mình quá bận tâm với của phù vân. Cuộc đời thật vắn nhưng con người lại chẳng an hưởng hiện tại mà lao công vất vả tìm kiếm những thứ chẳng trường tồn.
Khi nhìn nhận sự mong manh của kiếp người sẽ giúp chúng ta biết sống thanh thoát với cõi trần. Đừng vì danh lợi thú mà làm điều sai trái. Trái với đạo đức. Trái với lương tâm. Đừng tưởng rằng mình trường sinh nên lao đầu vào đại hội trần thế chỉ để bon chen, vui chơi, trụy lạc; Đừng gieo vào cuộc đời những ngang trái, bất công và tội lỗi.
Khi nhìn nhận thân phận mỏng dòn của kiếp người cũng mời gọi chúng ta hãy đấm ngực ăn năn về những lạc lối của kiếp người. Hãy nhớ rằng “mọi sự là phù vân”, hãy ăn năn trước khi quá muộn, hãy sám hối và sửa lại hướng đi trước khi trở về với bụi đất. Lời bài hát của cha Kim Long như vẫn tha thiết nhắc nhở chúng ta: “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro”.
Ước gì mỗi khi chúng ta cúi mình nhận lãnh những hạt tro không chỉ là hành vi sám hối, mà còn là dịp để nhìn nhận thân phận tro bụi của mình. Một thân phận thật mỏng giòn nên hãy biết sống cho trọn ý nghĩa của kiếp người. Một thân phân mong manh sớm nở chiều tàn như loài hoa nên hãy sống có ý nghĩa với giây phút hiện tại. Xin Chúa giúp chúng ta biết sám hối về những lạc lối của mình và hoàn thiện mình thay vì chỉ mải miết chạy theo thế trần. Amen.
64.Lịch sử Mùa Chay Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng vụ của Giáo hội Công Giáo cũng có chu kỳ xoay vòng luân chuyển.
Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi, Mùa Thường niên tiếp nối, chúng ta chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Đêm Vọng Phục Sinh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu? Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào? Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay không trở nên nhàm chán và có ý nghĩa?
Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu?
Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo và thực hành đạo, các kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Dothái giữ ngày Sabát, hay lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy các kitô hữu tiên khởi họp nhau thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức tuyên xưng đức tin. Nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Năm Mươi, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Dothái nhưng lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn: khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ. Mãi đến thế kỷ thứ IV, trong Giáo hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như: liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt Qua của người Dothái không? Tại các Giáo đoàn thuộc Tiểu Á, họ vẫn giữ nghi lễ chiên vượt qua. Riêng Giáo đoàn Antiokia lại ấn định lễ Phục Sinh vào ngày chúa nhật sau lễ Vượt Qua của người Dothái, trong khi đó, các kitô hữu tại Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển rời lễ Phục Sinh vào dịp phân xuân.
Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo, vì lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin, trước lễ Phục Sinh, có một thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay “40 ngày”, tưởng nhớ 40 Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.
Việc thực hành Mùa Chay đã có từ thời thì đầu Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi tới thế kỷ thứ II, thời thánh Irênê, giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ hai đến ba ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến. Sang kỷ thứ III tại Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết một tuần. Những dấu tích của Mùa Chay hay “40 ngày” được tìm thấy ở thế kỷ thứ IV, trong lễ qui của Công Đồng Nicêa. Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp các tân tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa Tội và Đêm Vọng Phục Sinh.
Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bẩy và Chúa nhật. Sang thế kỷ thứ V, tại Aicập người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gô-lơ, người ta ăn chay ngày thứ Bẩy và thứ Sáu tuần trong Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bẩy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Giờ ăn chay được qui định tùy theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn. Vì mùa chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ thứ VII, người ta đã lùi về trước mùa chay mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bẩy tuần trước khi bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày ăn chay. Đồng thời, ba Chúa nhật trước Mùa chay, Chúa nhật bẩy tuần, Chúa nhật sáu tuần và Chúa nhật năm tuần, là gồm tóm thời gian chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh, cách lễ Phục Sinh chín tuần. Việc giữ chay ngày càng đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối. Nhưng đến thế kỷ thứ VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh tật được ăn chứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 giờ tức 9 chín giờ sáng, tiếp theo được ăn “bữa ăn nhẹ” vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII việc ăn chay giảm dần và các nhà thần học cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chay, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài làm ăn với những thực đơn sao cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.
Từ năm 1949, Giáo hội Công giáo qui định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết: ngày thứ tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng “ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi”, nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Trong phụng vụ của Giáo hội Chính Thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài năm tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tin Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ bốn, được ấn định là ngày kiêng thịt và ăn chay trong toàn Giáo hội. Chúa nhật thứ năm được gọi là Chúa nhật Hòa giải, mỗi người hòa giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.
Cảm tưởng chung là một bầu không khí “vui và buồn”. Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.
Niềm vui ầm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hòa tấu Allêluia trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Chúa nhật lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục Sinh của Ngài.
Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh?
Từ “Mùa Chay” là một từ tương phản với từ gốc latinh là “quadragesima” có nghĩa là 40. Trong Kinh thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Dothái kéo dài 40 năm. Ông Môi-Sen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (Xh 24,18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (1V 19,8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (Gn 3,4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (Mt 4,2).
Như vậy Mùa chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Dothái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuân tiện thích hợp cho các Kitô-hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.
Mùa chay mang lại cho chúng ta điều gì?
Phần lớn người kitô hữu không thực hành việc ăn chay, nguyện ngắm, nên Mùa Chay không có ảnh hưởng tới đời sống của họ là bao? Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm. Đại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiên ăn, kiêng uống giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.
Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại đa số người kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống nhưng họ vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro. Đây là một nghi thức giầu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phần yếu hèn, mỏng giòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết. Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứ độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hòa với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hỗi, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hòa và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.
Trong đời sống người kitô hữu, nhiều khi lắng nghe lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi. Thư thánh Phaolô nói với chúng ta: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ” (2 Cr 6,2). Đây là thời gian khẩn trương trong năm phụng vụ, thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu Nhiệm Phục Sinh. Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh.
65.Xét tật mình--THỨ TƯ LỄ TRO--JM. Lam Thy ĐVD
I.- CHUYỆN BÊN TA: Khoảng đầu thế kỷ XX, trên “Đông Dương tạp chí” có mở mục “Xét tật mình” do chính chủ báo – học giả Nguyễn Văn Vĩnh – phụ trách. Mục này chuyên nêu ra những thói hư tật xấu, những hủ tục của người Việt Nam, nhằm mục đích xây dựng một nếp sống văn minh theo trào lưu đổi mới của đất nước, trước làn gió mới từ phương Tây đưa lại. Ảnh hưởng của phong trào khá mạnh, có sự tham gia của “Nam Phong tạp chí”, “Tân Văn”. “Đăng cổ tùng báo” và sau này, “Phong Hoá”, “Ngày Nay” (Tự Lực Văn Đoàn) cũng nhập cuộc.
Xã hội Việt Nam chuyển mình thấy rõ. Quả thực, muốn tiếp thu cái mới, cái tốt đẹp, thì trước hết phải biết “nhìn lại mình” mà “xét tật mình”, mạnh dạn từ bỏ những thứ đã lỗi thời ngăn cản bước tiến hoá của dân tộc. Tất nhiên khi “nhìn lại mình” sẽ thấy rõ cả ưu và khuyết điểm. Mạnh dạn sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm, dung hoà hai nền văn hoá Đông Tây, ấy mới là “đổi mới”. Với đích điểm canh tân, không thể chấp nhận thái độ “bảo thủ” giữ nguyên cái cũ, nhưng cũng không thể một sớm một chiều đổi mới cái rụp theo trào lưu “cấp tiến”. Ấy cũng bởi vì “dục tốc bất đạt” (muốn nhanh thì không thành công).
II.- CHUYỆN BÊN TÂY: Trong “TẢN MẠN VỀ SỐNG ĐẠO CHÚA GIỮA ĐỜI” của Đức Giám mục Phao-lô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh (xuất bản năm 2003), có bài “Bảo thủ và cấp tiến” (trang 21-23) kể một câu chuyện xảy ra ở … bên Tây, vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Ngày 30-6-1988, ĐGM Lefèbre – người sáng lập Huynh đoàn Linh Mục Thánh Pi-ô X (tháng 11-1970) – đã tự ý truyền chức giám mục cho bốn linh mục của Huynh đoàn mà không có phép của Toà Thánh. Lý do:
Thứ nhất, Huynh đoàn vốn chủ trương chống lại “tinh thần của Va-ti-ca-nô II và các cải cách do Công Đồng ấy khởi xướng…”, và “chúng tôi cảm thấy tuyệt đối cần thiết phải có những thẩm quyền Giáo Hội ủng hộ các lo lắng của chúng tôi và giúp chúng tôi dự phóng chống lại tinh thần của Va-ti-ca-nô II và tinh thần của At-xi-di” (Thư ĐGM Lefèbre gửi Thánh GH Gio-an Phao-lô II ngày 02-6-1988).
Thứ hai, Không những chỉ chống lại Công đồng Vat. II, mà giám mục Lefèbre còn chống lại cả Toà Thánh đương thời nữa. Trong thư ngày 29-8-1988 gửi 4 giám mục nói trên, ông viết: “ngai Toà Thánh Phê-rô và những vị thế thẩm quyền của Rô-ma hiện nay do những người phản-Chúa-Kitô chiếm giữ” đang bách hại Huynh đoàn, vì “Rô-ma đi theo chủ nghĩa duy tân và phóng khoáng ấy đang đeo đuổi việc huỷ diệt Nước Chúa chúng ta, như (biến cố) At-xi-di và việc thừa nhận các luận đề phóng khoáng của Vat. II về tự do tôn giáo chứng tỏ”. Giám mục Lefèbre nhấn mạnh: “Xác tín rằng chỉ hoàn thành Thánh ý Chúa, qua thư này, tôi đến xin các cha nhận chịu lấy ơn thánh của chức giám mục Công Giáo như tôi đã truyền ban cho linh mục khác trong những hoàn cảnh khác… Tôi sẽ ban cho các cha ơn thánh đó vì tin rằng Ngai Toà Thánh Phê-rô không lâu nữa sẽ được chiếm giữ bởi một đấng kế vị Thanh Phê-rô hoàn toàn là Công Giáo”.
Cuối bài viết, đức GM Phao-lô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh nhận định: “Quả là ‘bảo hoàng hơn vua’! Một Ki-tô hữu muốn bảo vệ đức tin tinh tuyền hơn Đức Giáo Hoàng! Có những người Công Giáo tưởng mình là tín đồ đạo Công Giáo chính tông hơn cả Đức Giáo Hoàng khi muốn bảo thủ quan điểm của mình hơn là ‘khiêm tốn và vâng lời đầy đủ đối với Đấng thay mặt Chúa Ki-tô’ (thư của Thánh GH Gio-an Phao-lô II gửi giám mục Lefèbre, ngày 9-6-1988)”.
III.- CHUYỆN TRONG NHÀ: Cũng không thiếu những chứng liệu cho thấy, nhiều khi tôi cứ chỉ lo chăm chăm nhìn người để xét đoán, để phê phán, trách móc, mà quên đi “xét tật mình”. Khi đọc kinh cáo mình, mỗi lần cúi đầu đấm ngực, miệng thì lớn tiếng “lỗi tại tôi” nhưng sao tôi lại cứ ngó nghiêng sang người bên cạnh, và hình như chỉ thấy “lỗi tại anh, tại chị, tại … ai ai ấy!” Cọng rác nơi mắt người thì nhìn thấy rất rõ, nhưng cái xà tổ chảng chắn ngay mắt mình thì lại không thấy. Rồi thì … mau mắn đem Lời Chúa ra nhắc khéo anh em, để quên đi cái khó là tự nhắc nhở mình hãy sống Lời Chúa. Vậy đó! “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.” (Mt 23, 4). Phê bình người thì rất sốt sắng, nhưng tự phê bình thì … hãy đợi đấy!
Cách đây không lâu, ở Việt Nam đã rộ lên tin tức về hiện tượng “Đức Mẹ khóc” tại nhà thờ Đức Bà Saigon. Rồi thì rủ nhau đi xem, đi ngắm, làm cho dư luận càng thêm xôn xao. Ôi chao! Cứ cho là Đức Mẹ khóc thực sự đi, rồi hãy tự đặt câu hỏi: “Tại sao Mẹ khóc? Phải chăng vì con cái hư hỏng, tội lỗi?” Chuyện trong gia đình, sao không đóng cửa lại, “nhìn lại mình’’ mà ăn năn, hối cải cho Mẹ bớt đau buồn, bớt khóc; lại đi hô hoán lên cho mọi người xa gần biết Mẹ mình khóc như thế? Tập trung để cầu nguyện ư? Đức Mẹ ở khắp mọi nơi, sao không cầu nguyện nơi kín đáo (Mt 6, 5-6) mà lại cứ phải ra ngã ba ngã tư đường làm chi vậy? Quả nhiên, “nhìn lại mình” khó thật! Nhìn lại mình đã khó, làm sao mà “xét tật mình” cho được. Chẳng thế mà Thánh I-nha-xi-ô đã phải thốt lên: “Lột trần chính con người của mình để gặp gỡ Thiên Chúa và giải thoát mình khỏi những quyến luyến lệch lạc, là xét mình”. Ngài còn nói: “Thà bỏ việc nguyện ngắm, còn hơn là bỏ việc xét mình” (xc “Những bài linh thao” – chủ đề Thánh I-nha-xi-ô khuyên hướng dẫn viên đưa vào bất cứ cuộc tĩnh tâm nào – Thanhlinh.net).
Ai cũng thấy là nói với tha nhân, khuyên tha nhân “sống Lời Chúa” dễ hơn gấp trăm ngàn lần tự mình “sống Lời Chúa”. Đức Ki-tô đâu có khuyên là “hãy mang theo thật nhiều của cải – thậm chí cả danh vọng nữa – mà theo Thầy”, nhưng Người dậy “Hãy từ bỏ tất cả, vác thánh giá mình mà theo Thầy”. Vác thánh giá hẳn nhiên không dễ chịu bằng “vai mang bị bạc kè kè”, giống y chang những ông kinh sư, luật sĩ Pha-ri-sêu "ưa dạo quanh, súng sính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ." (Mc 12, 38-40). Mà một khi đã “Vai mang bị bạc kè kè” thì “Nói lếu nói láo chúng nghe rầm rầm” (ca dao VN) liền. Cũng vì thế, nên Người Thầy chí thánh mới khuyên: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 2-3).
IV.- XÉT TẬT MÌNH: Mùa Chay là mùa toàn Giáo Hội thực hiện đời sống chay tịnh (thanh tẩy + sám hối), chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa Phục Sinh. Trong tiếng La-tinh, Mùa Chay thánh được gọi là "Quadragesima" (bốn mươi), tức là thời kỳ gồm 40 ngày, kéo dài từ Thứ Tư Lễ Tro đến hết Thứ Năm Tuần Thánh (Thánh lễ Tiệc Ly). Thời gian 40 ngày là để nhớ lại thời gian ngôn sứ Mô-sê dẫn dân Do-thái ra khỏi đất Ai-cập, băng qua Biển Đỏ, lưu lạc trong sa mạc 40 năm (1280-1240) và trở lại vùng Đất Hứa. Đó cũng là thời gian 40 đêm ngày Mô-sê cầu nguyện trên núi Si-nai và được Đức Chúa trao cho Thập Điều (10 điều khoản giao ước – Xh 24, 18; 34, 28), hoặc để kỷ niệm thành Ni-ni-vê sám hối và được tha thứ khỏi án phạt ("Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ." – Gn 3, 1-10). Rồi 40 ngày còn để nhớ lại cuộc hành trình 40 ngày trong sa mạc của tiên tri Ê-li-a, lúc ông trốn khỏi cơn thịnh nộ của Hoàng hậu I-de-ven, để tiến về Núi của Thiên Chúa, nơi đây Chúa mạc khải và trao cho ông sứ vụ mới (1V 19, 8). Và quan trọng nhất là sự kiện Đức Giê-su được Chúa Thánh Thần dẫn vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (Mt 4, 1-11).
Như vậy Mùa Chay là mùa Phụng vụ Giáo Hội mời gọi tất cả các tín hữu hãy “xét tật mình” mà ăn năn trở lại. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa tâm linh, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thích hợp cho các Ki-tô hữu noi gương Đức Ki-tô, dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và đây cũng là dịp người tín hữu được liên kết mật thiết hơn với các mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh vinh hiển của Đức Giê-su Ki-tô. Cũng vì thế, nên ngày mở đầu Mùa Chay, Giáo Hội cho tiến hành nghi thức Xức Tro và kêu gọi tín hữu ăn chay, thực hiện việc “sám hối ăn năn” như Lời truyền dạy của Đức Giê-su (“Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em.” – Cv 3, 19). Với nghi thức xức tro và ăn chay, người Ki-tô hữu có cơ hội nhìn nhận mình là kẻ có tội, xin Thiên Chúa tha thứ, đồng thời diễn tả uớc muốn thành thực trở lại cùng Người. Nói cách cụ thể, đây là dịp thuận tiện để người tín hữu bắt đầu đi trên con đường khổ hạnh cho đến "Tam Nhật Vượt Qua", trung tâm điểm của Năm Phụng Vụ. Nghi thức Xức Tro nhắc nhở người tín hữu “Ngươi là bụi tro, và sẽ trở về với tro bụi" (St 3, 19), vì thế “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1, 15).
Theo Thánh Kinh, tro được dùng làm biểu tượng của sự hối tiếc, ăn năn. Một số nhân vật trong Thánh Kinh đã phủ bụi tro lên người để bày tỏ lòng sám hối về những tội lỗi và sai lầm của mình. Ông Gióp đã thưa với Chúa: “trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn.” (G 42, 6); ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã kêu gọi dân It-ra-en thể hiện sự ăn năn: “Thiếu nữ dân tôi ơi, quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi.” (Gr 6, 26); Tiên tri Đa-ni-en cũng bày tỏ lòng thành khẩn của mình với Đức Chúa: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van.” (Đn 9, 3); vua Ni-ni-vê bày tỏ lòng ăn năn sám hối bằng cách ngồi trên tro (Gn 3, 6). Chính Chúa Giê-su cũng dùng hình ảnh “mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối” để nhắc nhở các thành (Kho-ra-din và Bết-sai-đa) đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối (Mt 11, 21; Lc 10, 13).
Ngoài ra, theo truyền thống xa xưa của Giáo Hội, tất cả mọi tín hữu, trong ngày thứ tư lễ Tro, đều phải giữ chay và kiêng thịt. Việc ăn chay có một giá trị lớn trong đời sống Đạo của người Ki-tô hữu, là một đòi hỏi của tinh thần, nhắm đến tương quan mật thiết với Thiên Chúa (được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đấng Cứu Tinh Giê-su Ki-tô – Rm 8, 29; Pl 3,10). Thật vậy, những khiá cạnh bên ngoài của việc ăn chay, dù quan trọng, nhưng chưa nói lên đầy đủ ý nghĩa của việc thực hành nầy. Điều quan trọng hàm chứa bên trong mới thực sự là chiều kích tối hậu: Đó là ao uớc chân thành muốn được thanh tẩy nội tâm, muốn sẵn sàng vâng nghe thánh ý Thiên Chúa và sống tình liên đới với anh chị em, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.
Tìm hiểu ý nghĩa và mục đích việc ăn chay trong Thánh Kinh thấy rất đa dạng: Các tín hữu ăn chay với mục đích thờ phượng Thiên Chúa, để được Người nhậm lời khi cầu nguyện, đồng thời để khu trừ ma quỉ, để tỏ lòng ăn năn, sám hối và đi kèm với than khóc để bày tỏ sự buồn bã, hối hận, thương tiếc, lo sợ; đồng thời để đền vì tội lỗi đã phạm, cầu xin Thiên Chúa tha tội. Thánh Gio-an Tẩy Giả thi vào hoang địa mặc áo lông cừu, ăn châu chấu và mật ong rừng, để tự nguyện làm “Tiếng hô trong sa mạc” loan báo Tin Mừng. Đức Giê-su Thiên Chúa thì ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc, chịu để Xa-tan cám dỗ, hầu chuẩn bị sứ mạng Chúa Cha đã trao phó: rao giảng và thực hiện Tin Mừng Cứu Độ.
Thật không thể ngờ cách đây hơn 25 thế kỷ, ngôn sứ I-sai-a đã có một quan niệm hoàn toàn mới về ăn chay: Ăn chay với mục đích đầy tính nhân đạo là thực hiện công bằng và bác ái (Is 58, 6-7). Ngài lên án cách ăn chay chuộng hình thức bề ngoài mà thực chất bên trong chỉ lo kiếm lợi cho mình, áp bức kẻ khác, ăn chay để đôi co cãi vã, hoặc đánh lộn tàn bạo (“Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng ĐỨC CHÚA?” – Is 58, 3-5).
Cách ăn chay của ngài khác hẳn một trời một vực: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục” (Is 58, 6-7). Ăn chay đúng nghĩa – theo ngôn sứ I-sai-a – chính là thực hiện công bằng xã hội, là tỏ tình yêu thương với người chung quanh bằng những hành động cụ thể. Ăn chay còn thể hiện những khao khát hòa bình: Thiên hạ "sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.” (Is 2, 4).
Ăn chay phải là: “Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương” (Ge 2, 12-13). Xé áo chính là hình thức ăn chay của bọn đạo đức giả như Lời dạy của Đức Giê-su: "Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm,18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” (Mt 6, 16-18).
Vâng, Mùa Chay chính là mùa nhìn lại chính mình, xét tật mình để có thể trở về với Thiên Chúa. Nhìn lại mình để hiểu rằng mình được dựng nên từ tro bụi đất cát, thì một mai cũng sẽ trở về với đất cát bụi tro mà thôi. Hiểu được như thế, hiểu được “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì”, thì đừng lo tích trữ của cải vật chất mà hãy lo đầu tư vào ngân hàng Nước Trời. Xét tật mình để thấy rằng mình tội lỗi ngập đầu, cần phải biết ăn năn sám hối, hoán cải cuộc đời, nói cách khác là phải biết từ bỏ tất cả thế gian, từ bỏ chính mình để trở về với Thiên Chúa. Cách tốt nhất để trở về với Đấng Từ Bi Nhân Hậu chỉ có thể là “Đừng xé áo (ăn chay hình thức), nhưng hãy xé lòng (thực tâm sám hối)”.
Vì thế, cần phải có một suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề ăn chay: Thứ nhất, ăn chay là nhằm mục đích hãm mình ép xác để đền vì những tội lỗi xúc phạm đến Chúa và tha nhân (sám hối). Thứ hai, về mặt vật chất, nếu cố gắng giảm bớt chi tiêu phung phí, rồi đem khoản cắt giảm được ấy làm công việc bác ái, thì việc ăn chay mới thực sự có ích. Thứ ba, không giới hạn việc ăn chay trong 2 ngày luật buộc, mà nên thực hiện bất cứ khi nào có dịp, thậm chí trong suốt cả Mùa Chay, suốt cả cuộc đời trần thế. Tóm lại, việc ăn chay cốt ở cái TRÍ (hiểu rõ việc mình làm nhằm mục đích gì) và cái TÂM (đức bác ái), không cần câu nệ ở hình thức (“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” – 1Cr 13, 3).
Trong Sứ điệp Mùa Chay 2015 (phần kết), ĐTC Phan-xi-cô viết: “Vì thế, anh chị em thân mến, tôi muốn cùng với anh chị em cầu xin Chúa Ki-tô trong mùa Chay này: "Fac cor nostrum secundum cor tuum”, xin làm cho trái tim chúng con được nên giống Trái Tim Chúa” (Lời cầu trong Kinh cầu Thánh Tâm Chúa Giê-su). Như thế chúng ta sẽ có một con tim mạnh mẽ và từ bi, tỉnh thức và quảng đại, không để nó khép kín vào mình, không rơi vào vực thẳm của nạn hoàn cầu hóa sự dửng dưng.” Người Ki-tô hữu cần nhận chân việc “xét tật mình” chính là để nhìn cho rõ con người thật của mình, không khép kín trong tính vị kỷ để “rơi vào vực thẳm của nạn hoàn cầu hóa sự dửng dưng”, mà là mở rộng trái tím ra với Chúa và với tất cả anh em.
Vâng, hãy thực sự nhìn lại mình, xét tật mình, mà ăn năn sám hối những điều sai phạm đã mắc phải (đối với Thiên Chúa và với anh em), quyết tâm đổi mới con người của mình trong “mùa chay cuộc đời”. Chỉ có như vậy mới xứng đáng là con Thiên Chúa và là bạn của Trưởng Tử Giê-su (Ki-tô hữu). Cũng bởi vì: “Mùa Chay là một mùa canh tân đối với Giáo hội, các cộng đoàn và mỗi tín hữu. Nhưng trên hết mùa Chay là một mùa ân thánh (2Cr 6, 2). Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta điều gì mà trước đó Ngài không ban cho chúng ta.” (Mở đầu sứ điệp Mùa Chay 2015). Ước được như vậy.
Ngày nay Giáo Hội Công Giáo chỉ buộc các tín hữu ăn chay mỗi năm 2 lần mà thôi. Điều ấy thật hữu lý vì ăn chay phải mang tính tự nguyện chứ không thể ép buộc. Phải tin chắc rằng Chúa muốn người tín hữu ăn chay nhiều hơn, thậm chí ăn chay trong suốt cả lộ trình trần thế, bằng cách ăn năn sám hối vì tội lỗi đã mắc phạm, đồng thời thực hành đúng Lời Chúa dạy: “Gặp anh em đói thì cho ăn, khát thì cho uống, anh em là khách lạ thì tiếp rước tử tế, anh em trần truồng thì cho mặc, đau yếu thì tới viếng thăm, bị tù đày thì hỏi han chia sẻ” (Mt 25, 35-37).
Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa ban Thần Khí soi sáng và thêm sức cho chúng con để chúng con dám mạnh dạn XÉ LÒNG CHỚ KHÔNG XÉ ÁO khi bước vào Mùa Chay Thánh. “Lạy Chúa, ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay hãm mình, để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ Thứ Tư Lễ Tro).
66.Tro bụi--Lm. Vinh Sơn
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.
- Thưa cha, cha biết đây là gì không?
- Nó giống như cát.
- Cha có biết tại sao con mang nó vào đây không?
- Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.
- Đây là tội của con. Tội con không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào con có thể được tha thứ tất cả?
- Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha... bắt đầu bằng tâm tình sám hối qua việc xức tro.... Tại sao phải xức tro và tro có ý nghĩa như thế nào?
Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng con người đầu tiên là nguyên tổ Ađam (x. St 2, 7) và sau khi nguyên tổ phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa đã phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3, 19), thân phận con người thật mỏng dòn rồi sẽ thoáng mất đi, nhà thơ Miên Du xác tín khi dẫn vào bài thơ Rồi Mai Đây:
“Rồi mai đây, ta đi về cát bụi,
Đời bâng khuâng, chỉ một thoáng ngậm ngùi.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn dù không là người Kitô hữu, có lẽ ông lấy nguồn cảm hứng từ Kinh Thánh khi dùng hình ảnh "hạt bụi" để nói về thân phận con người được cát bụi hóa kiếp thành con người rồi sẽ trở về với bụi đất:
“Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi…
… Ôi cát bụi phận nầy,
vết mực nào xóa bỏ không hay”
(Trịnh Công Sơn, Cát Bụi)
Bụi thường được dùng kết hợp đồng hóa với tro, bản Kinh Thánh Bảy Mươi nhiều lần các học giả dùng từ “bụi” để nói và đồng hóa “tro”. Trong Kinh Thánh tro bụi là biểu tượng tội lỗi, sự mỏng dòn của con người, sự khiêm tốn, nỗi đau khổ và cả sự thống hối ăn năn khi con người đã lỡ vấp phạm.
Trái tim và tấm lòng của người tội lỗi được ví như là bụi tro, sách Khôn Ngoan có nói rằng: “Con tim của anh là tro bụi, hy vọng của anh hèn hơn đất, cuộc đời của anh tệ hơn bùn” (Kn 15, 10), không gì tệ hơn bùn đất, tro bụi, con người tội lỗi được ví như tro bụi. Cho nên người tội lỗi sẽ bị tiêu hủy thành bụi đất như Ngôn sứ Edêkien loan báo Sấm ngôn: “Vì ngươi chồng chất tội…. Ta cho phát ra một ngọn lửa thiêu rụi ngươi; Ta biến ngươi thành tro bụi trên mặt đất…” (Ed 28, 18).
Tro bụi biểu hiện sự khiêm tốn bé nhỏ, Tổ Phụ Abraraham nhìn nhận mình trước Thiên Chúa: “con chỉ là thân tro bụi….” (St 18, 2).
Tro bụi được sử dụng để nói nên sự thống hối: Sau khi nghe tiên tri Giona loan báo sự trừng phạt của Thiên Chúa xuống thành Nivive do tội lỗi, Vua và toàn Dân xức tro để tỏ lòng thống hối vì lỗi lầm mà mình đã phạm, xin Thiên Chúa xót thương (x. Gn 3, 6). Dù là người vẹn toàn giữa thử thách, Gíop cũng biểu lộ lòng thống hối: “trên tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn (G 42, 6). Tro bụi với sự biểu hiện lòng hối tiếc khi phạm tội (x. Gdt 4, 11-15; Ed 27, 30).
Tro bụi nói lên sự buồn phiền đau khổ: bị người đời khinh chê, Thamar đã xức tro trên đầu (x. G 42, 6; Gn 3, 6; Mt 11, 21); theo sách Étte, người Do Thái xức tro khi lo sợ trước cái chết đe dọa (Et 6, 1-4).
Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng Thứ Tư Lễ Tro - ngày được gọi là ngày “Bụi Tro” bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán. Nghi thức xức tro trong ngày đầu Mùa Chay đã bắt đầu vào thời Đức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590-604). Nghi thức xức tro được đưa vào phụng vụ Tây Phương vào thế kỷ 10, và được phổ biến rộng rãi trong Giáo Hội tại Công Đồng Benevento năm 1091. Với tất cả ý nghĩa của tro bụi trong Thánh Kinh, việc lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết: trở về với tro bụi và sự ăn năn, ý thức thân phận mỏng dòn như bụi đất, sám hối vì những lầm lỗi mà mình phạm.
Khi xức tro lên trán người tín hữu, Thừa tác viên kêu gọi sự sám hối của người muốn nhận lãnh tro và khiêm tốn nhìn nhận mình thấp hèn: "Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất" (St 3,19), hay Thừa tác viên dùng lời kêu gọi ý thức mình tội lỗi, sám hối và canh tân đổi mới theo Tin Mừng với lời mà Chúa Giêsu đã kêu gọi: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15).
Con người dù trong thân phận thấp hèn yếu đuối như tro bụi, nhưng qua cử chỉ khiêm tốn nhận tro với Dấu Thánh Giá được ghi trên trán, dấu tượng trưng cho ấn tín thánh mà người Tín Hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Dấu giải phóng khỏi tội, qua dấu đó, người tín hữu được liệt vào con cái của Thiên Chúa (x. Rm. 6, 3-18). Đó là dấu chỉ con người trở về với bụi đất. Nhưng trong bụi đất, nhờ Đức Kitô qua cái chết và phục sinh với thập giá, con người sẽ tham dự vào vinh quanh với Ngài.
Cho nên việc lãnh tro cũng được coi như là dấu chỉ của sự trở về trong vinh quang khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa đã được diễn tả trong Sách Khải Huyền, vinh quang với Chiên chiến thắng là Đức Kitô khải hoàn, như Enzo Bianchi đã suy niệm về Tro bụi: “Vâng, đón nhận tro chúng ta ý thức rằng: Lửa tình yêu Thiên Chúa đã thiêu rụi tội lỗi, đốt cháy bởi lòng thương xót của Ngài… hay nhìn tro, mang ý nghĩa tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Pascale: “một ngày chúng ta sẽ là tro bụi, nhưng được dành để Phục sinh” (Donner sens au temps, Bayard (2004).
Cho nên, thật là ý nghĩa trong ngày thứ tư đầu mùa chay, khi lãnh nhận tro, chúng ta nhớ lại lời dạy của ĐTC Gioan Phaolo II: "Việc đặt tro rõ ràng và một cách nhấn mạnh đến thân phận thụ tạo, nhìn nhận mình hoàn toàn lệ thuộc vào Tạo Hóa. Hành động khiêm tốn lãnh nhận tro thánh trên trán… ngược lại hoàn toàn với cử chỉ kiêu ngạo của Adam và Eva, bởi sự bất tuân phục, đã phá hủy mọi quan hệ tình bạn hữu với Thiên Chúa tạo hóa" (Thứ tư Lễ Tro 1998).
Xức tro nhận mình yếu đuối, sám hối lỗi lầm, nhưng cũng tuyên tín rằng sẽ được tìm thấy, gắn liền lại tình yêu, tình bạn hữu với Tạo Hóa bởi dấu thánh giá…
Vâng, với tro bụi, chúng ta nhìn nhận thân phận bất toàn, sám hối lầm lỗi, tro bụi với Dấu Thập Giá - trở nên dấu vinh quang.
67.Chúa Nhật I Mùa Chay--Giáo phận Nha Trang
"Chúa Giêsu chịu Satan cám dỗ và các thiên thần hầu hạ Người"
I. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay có hai ý tưởng chính:
- Chúa Giêsu chịu cám dỗ để nêu lên lòng trung tín của Người đối với sứ mệnh Chúa Cha trao phó.
- Chúa Giêsu khởi sự Tin Mừng bằng việc rao giảng để nói lên mệnh của Người ở trần gian.
II. SUY NIỆM:
1/ "Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa":
+ Thánh Thần thúc đẩy: Sự kiện này xảy ra sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan. Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã nhận Thánh Thần dưới hình chim bồ câu. Thánh Thần chỉ sức mạnh, Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và chịu sự cám dỗ: Điều này nói lên việc Chúa Giêsu đã chiến đấu với ma quỉ bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
+ Hoang địa: Theo nghĩa Thánh Kinh thường dùng là nơi sống thần linh với Thiên Chúa, đồng thời cũng là nơi thử thách để thấy rõ lòng người có trung tín hay không (Ga 18, 2 - 3). Ở đây Mc muốn nói lên ý nghĩa thứ hai này hơn là nghĩa thứ nhất: Cuộc thử thách Chúa Giêsu chịu là cuộc thử thách về lòng trung tín đối với Cha Người trong thân phận tôi tớ nhân loại mà Người đã đảm nhận.
+ Và Người ở đó suốt 40 đêm ngày: Người Do thái có thói quen ăn chay ban ngày, rồi ăn uống về đêm. Ở đây nói 40 đêm ngày để chỉ ý tưởng ăn chay liên tục cả đêm lẫn ngày.
+ Chịu Satan cám dỗ: Satan là tên Kinh Thánh gắn cho các lực lượng thù nghịch với Thiên Chúa mà mỗi người đều gặp phải trong thế gian. Nhận lấy thân phận con người, Chúa Giêsu cũng gặp phải sự cám dỗ của Satan. Nhưng cần phân biệt ba giai đoạn của một cơn cám dỗ:
+ Gợi lên một hình ảnh.
+ Làm cho thích thú hoặc hướng chiều về sự ác.
+ Sau cùng là ưng thuận.
Satan chỉ có thể làm được nơi Chúa Giêsu giai đoạn thứ nhất: gợi một hình ảnh hoặc một vật ở giác quan hoặc ở trí tưởng tượng. Ở đây Mc không ghi lại sự diễn tiến cơn cám dỗ của Chúa như Mt và Lc (Mt 4, 1 - 11 ; Lc 4, 1 - 13).
+ Sống chung với dã thú: Nói lên tình trạng an ninh, thái bình trong một thế giới mới trong tương lai do Chúa Giêsu thiết lập, trong đó con người được giao hoà lại với toàn thể tạo vật. Thế giới này đã được các tiên tri loan báo (Is 11, 6 - 7 ; 65, 25...)
+ Và các Thiên thần hầu hạ Người: Việc các Thiên thần hầu hạ Chúa Giêsu muốn nói lên rằng trong thế giới mới mà Chúa Giêsu đến để thiết lập cho nhân loại do sứ mệnh Thiên Sai của Người, con người được giao hoà lại với tạo vật (sống chung với dã thú) và giao hoà lại với Thiên Chúa (có các thiên thần hầu cận). Đó là Nước thiên đàng.
2/ "Sau khi Gioan bị bắt":
Việc Gioan bị bắt nói lên sứ mạng Tiền sứ của ông được chấm dứt chuyển sang thời Chúa Giêsu, thời thực hiện ơn cứu chuộc, thời Thiên sai, thời thực hiện những gì Gioan đã dọn đường.
3/ "Chúa Giêsu sang xứ Galilê rao giảng Tin Mừng":
Sau khi sứ mạng của Gioan chấm dứt, Chúa Giêsu khởi sự sứ mạng Thiên sai của Người bằng việc rao giảng Tin Mừng của Nước Thiên Chúa.
Nội dung của Chúa Giêsu rao giảng:
+ Thời giờ đã mãn: Thời giờ Thiên Chúa dự liệu từ đời đời để Nước Người trị đến thì nay đã đến. Hay nói cách khác, thời gian chuẩn bị cho việc Chúa Cứu Thế đến cứu rỗi nhân loại nay đã hết. Gioan Tiền hô là vị tiên tri cuối cùng của thời Cựu ước.
+ Nước Thiên Chúa đã đến gần: Kiểu nói "đã đến gần" ở đây diễn tả một hành động đã xẩy ra nhưng hiệu quả chưa hoàn tất. Nước Thiên Chúa được hiểu là Thiên đàng (Nước ở trên trời) và Giáo Hội ở trần gian được Chúa Giêsu thiết lập ở dưới đất để làm nơi Thiên Chúa ngự trị. Nước này đã gần đến vì Chúa Giêsu sắp bắt đầu rao giảng để dọn lòng con người thực hiện những điều kiện để vào Nước đó.
+ Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng:
Sám hối: Là hối tiếc lỗi lầm để làm biến đổi cuộc sống, ghét bỏ con người cũ đầy tội lỗi của mình để biến đổi thành con người mới, con người thuộc về Tin Mừng của Thiên Chúa. " hãy sám hối " mang ý nghĩa mời gọi và chất vấn, đòi hỏi người nghe phải có thái độ lựa chọn để quyết định cho số phận của mình.
+ Tin vào Tin Mừng: Tin Mừng có nghĩa là tin vui từ trời đem xuống làm cho con người biết được thánh ý của Thiên Chúa, tin đó chính là đức Giêsu Kitô. Tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, đã đến thế gian để cứu chuộc nhân loại.
Chú ý: Chúa Giêsu khởi sự rao giảng giống như Gioan Tiền hô: Thời giờ đã đến, hãy thống hối (Mc 1, 4). Nhưng Chúa Giêsu đã đi xa hơn, Người đòi hỏi phải tin vào Tin Mừng, tức là tin vào Người.
III. ÁP DỤNG ;
A) Áp dụng theo Tin Mừng:
Khởi đầu mùa chay, Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng này để nhắc nhủ chúng ta rằng: Muốn tham dự vào Nước Trời, cần phải ăn năn thống hối và phải tin mạnh mẽ vào Chúa Giêsu và quyết tâm thực hành những điều Người dạy.
Chúa Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy: Chúa Giêsu sống và chiến đấu do sức mạnh của Chúa Thánh Thần chúng ta muốn sống trung thành với Chúa và chiến đấu với những cám dỗ hằng ngày do ma quỉ gây ra, chúng ta cần khiêm nhường cầu xin và sống theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta qua tiếng lương tâm chân chính, qua những trung gian là Giáo Hội, là bề trên, là những gương sáng...
Chúa Giêsu đã chịu cám dỗ và chiến thắng cám dỗ. Nhờ đó Chúa đã làm gương và dạy ta những bài học chiến đấu cách can đảm với những cơn cám dỗ do những lôi cuốn của trần gian làm cho ta xa Chúa và xa lý tưởng hiến dâng cuộc đời...
B) Áp dụng thực hành:
Nhìn vào Chúa Giêsu để noi gương bắt trước:
1/ Chúa Giêsu đã mang tất cả những điều kiện hiện sinh của con người. Chịu cám dỗ nhưng Người vẫn sống trong tình trạng an ninh thái bình " sống chung với dã thú và được các thiên thần hầu hạ ". Nếu chúng ta bám chặt vào Chúa và mang trong cuộc sống tất cả tinh thần của Chúa Giêsu thì dù có trải qua thân phận, hoàn cảnh bi đát nào chăng nữa, thì chúng ta cũng luôn chiến thắng và bình an trong tâm hồn.
2/ Chúa Giêsu vào hoang địa: là nơi tiếp xúc và sống thân tình với Thiên Chúa Cha. Điều này cho chúng ta thấy rằng: Những yếu tố như tĩnh tâm, thinh lặng cầu nguyện, khổ chế... đều là những điều kiện giúp chúng ta dễ dàng tiếp xúc với Thiên Chúa. Dễ dàng nghĩ thấy và nhận ra đường lối Chúa muốn ta đi. Mùa Chay là bầu khí thuận tiện để ta làm việc đó.
3/ Chúa Giêsu chịu cảnh cám dỗ để dạy chúng ta rằng cám dỗ là thử thách để tôi luyện lòng trung tín của ta đối với Chúa. Cám dỗ có lợi cho ta vì:
+ Lập công phúc khi chiến thắng cám dỗ.
+ Sống khiêm nhường và nhận ra sự bất lực của mình để trông cậy vào Chúa.
+ Thúc đẩy cầu nguyện: Vì trong khi bị cám dỗ, Chúa ban nhiều ơn hơn để giúp chúng ta biết cầu nguyện.
+ Sau cám dỗ có an ủi vì "Gieo trong đau thương, gặt trong vui mừng" (Is 125, 5).
68.Chúa Nhật I Mùa Chay--Học viện Piô Giáo hoàng
CHIẾN THẮNG Ở SA MẠC – CHIẾN ĐẤU TẠI GALILÊ
Tin mừng Mc 1: 12-15: Chúa Giêsu chịu cám dỗ để nêu lên lòng trung tín của Người đối với sứ mệnh Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu khởi sự Tin Mừng bằng việc rao giảng để nói lên mệnh của Người ở trần gian.
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Trình thuật kép này (Chúa Giêsu chịu cám dỗ- Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin Mừng) là kết luận của Bài tựa Tin Mừng Mc. Phải hiểu điều ấy ra sao?
2. Đâu là văn thể của trình thuật? Thần thoại? Khải huyền? Lịch sử? Thần học –lịch sử?
3. Các yếu tố chính của trình thuật được xếp đặt quanh yếu tố chủ chốt nào?
4. Trong ngôn ngữ biểu tượng của Mc, "dã thú" và "thiên thần" có ý nghĩa gì?
5. Dựa vào đâu để biết trình thuật có nền tảng lịch sử?
6. Trình thuật có thể đưa ra sứ điệp nào cho con người thời nay?
(Xin lưu ý: các tiểu đề trong bài này là của dịch giả)
Với vẻ vắn gọn của trình thuật, Mc đã nhắm trình bày Chúa Giêsu như là một con người đã từng đương đầu với hoàn cảnh bi đát chung của nhân loại hay không? Để biết được ý hướng Mc về điểm này, cần tìm hiểu ý nghĩa của ngôn ngữ biểu tượng ông dùng khi nói đến thiên thần và dã thú, cùng khảo sát xem tại sao Chúa Giêsu, vừa được loan báo báo , bởi Gioan Tẩy giả và được xác nhận trong phép rửa như Đấng Messia, lại phải chịu thử thách như thế.
Ít nhất, có một điểm khá rõ rệt là thánh sử không nhắm mục đích thỏa mãn mọi hiếu kỳ của độc giả ông, vì ông không tường thuật ngay cả cuộc cám dỗ. Điều này đã khiến các nhàchú giải đặt ra câu hỏi như sau: phải chăng Mc đã loại bỏ phần này của trình thuật, vốn có trong Mt và Lc, hay Mt và Lc đã tán rộng yếu tố căn bản mà họ có chung với thánh sử thứ hai? Đặt vấn đề như vậy, ý hướng Mc, theo các nhà chú giải ấy sẽ lộ ra dễ dàng; nhưng điều quan trọng vẫn là ông đã đưa ra bản văn như hiện thấy và chính vào cái hình thức dứt khoát này mà ta phải chú ý hơn cả.
Giai thoại cám dỗ, trong sách bài đọc hiện tại, được một câu nói về việc rao giảng của Chúa Giêsu đi kèm theo. Sự chắp nối này có thể làm vài người ngạc nhiên, vì giọng văn có vẻ thay đổi. Xin độc giả hãy xem đó như một lời mời gọi đừng lướt nhanh qua các câu vốn có một tầm mức và ý nghĩa rất hiện thực này.
I. VĂN MẠCH CỦA TRÌNH THUẬT
Nếu rảo qua văn mạch trực tiếp của hai trình thuật "cám dỗ" và "Chúa Giêsu rao giảng" hôm nay, ta sẽ thấy chúng là kết luận của Bài tựa Mc gán cho Tin mừng của ông, và chính đấy là điểm làm cho ý nghĩa của chúng được sáng tỏ.
Cuộc cám dỗ là thành phần của bài nhập đề cho "Tin mừng Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa" (1,1). Nó rõ ràng gắn liền với phép rửa nhờ chi tiết "Thần khí", Đấng can thiệp trong cả hai trường hợp. Thành thử phải hiểu nó trong tương quan với việc ban Thần khí biểu lộ nơi kẻ mà Gioan Tẩy giả đã loan báo như là "Đấng quyền thế hơn". Sở dĩ Chúa Giêsu được mặc khải trong phép rứa như là kẻ Thần khí chiếm lấy, chính là để tỏ ra "mạnh mẽ" trước Satan. Thành thử mục đích của trình thuật là phải cho thấy Người chiến thắng, để Tin mừng không chỉ được loan báo nhưng còn tỏ ra là đang được thể hiện. Đấy là điều được xác nhận trong giai thoại tiếp theo
giai thoại cho thấy sức mạnh của Chúa Giêsu bộc phát thành hành động trong việc xua trừ ma quỷ (1,23). Tin mừng là sự tỏ mình cụ thể của Đấng thánh Thiên Chúa, Đấng chiến thắng sự dữ, Satan.
Còn bản tóm tắt hoạt động rao giảng của Chúa Giêsu thì xuất hiện như một suy tư rút ra từ những kết luận từ những điều được đề cập trong hai giai thoại trước là phép rửa và Cám dỗ: nếu Nước Thiên Chúa (Triều đại Thiên Chúa) đã bắt đầu hoạt động trong giai đoạn mời và dứt khoát của nó, và Nước ấy là mạnh nhất, thì phải công nhận và tin vào Tin Mừng. Các câu này hai lần nhấn mạnh đến Tin mừng vì kêu mời hối cải; chúng lặp lại, dưới hình thức đóng khung, điều đã được nói ở nơi các câu 1 và 4. Thành thử rõ ràng chúng nằm đúng trong văn mạch, không thể chối cãi, và ta nên lấy làm hối tiếc là, trong một vài bản dịch, chúng xem ra quá bị tách rời với những gì đi , về phép rửa cũng như về cơn cám dỗ Chúa Giêsu chịu, các độc giả Tin Mừng đã biết Chúa Giêsu là ai, quyền lực Người thế nào và một thời đại mới đã bắt đầu với Người ra sao, thì ta hiểu được Tin mừng đó sẽ gây nên những gì cho con người, khi nó bắt đầu được loan báo cho họ. Mỗi một chi tiết của bản văn đều đáng giải thích để làm nổi bật tất cả ý nghĩa của giai đoạn này.
Trước hết là những chi tiết thời gian và không gian mở đầu cho lời kêu gọi Chúa Giêsu tung ra. Để hiểu tất cả tầm quan trọng của các chi tiết này, phải tìm xem đâu là ý nghĩa thần học chúng có thể chứa đựng. Lời Chúa Giêsu kêu gọi sắp đánh dấu khởi điểm cho một thời đại mới. Thời gian đi trước là Cưu ước mà tâm điểm là Gioan Tẩy giả, với những yếu tố phải nói là riêng biệt của ông. Thật vậy, Gioan không còn ngỏ lời, như các ngôn sứ tiền bối, cho một dân tộc, nhưng cho những cá nhân là thêm vào lời mình một phép rửa; sau cùng, ông loan báo một người mà trên đó Thần khí sẽ đậu lên. Suốt một thời gian ngắn, Chúa Giêsu đã đồng hành với ông, nhưng phép rửa Người chịu đã dẫn một trật tự cũ đến chỗ hoàn hảo của nó, thành thử đã đến lúc mặc khải thời đại mới đang bắt đầu: thời đại của "Triều đại, cánh chung trong con người Chúa Giêsu. Từ ngữ "Triều đại này xem ra đáng chuộng hơn từ ngữ "Vương quốc" (nước) là tiếng đúng ra chỉ thực tại phát xuất từ triều đại đó. Bảo rằng Chúa Giêsu đến trong một vùng khác và rằng việc này trùng hợp với việc tống giam Gioan Tẩy giả, ấy là gợi lên những tương đồng dị biệt giữa lối sống và lời rao giảng của hai con người tương ứng với hai thời đại. Cả hai đều loan báo một biến cố đảo lộn sắp xảy ra; cả hai cùng rao giảng sự hối cải. Nhưng, ngoài việc đã làm những điều trên với một sắc thái riêng, Chúa Giêsu còn mang đến nhiều yếu tố mới. Gioan đã nói ở thì tương lai: "người sẽ thanh tẩy các ngươi" (c.8), Chúa Giêsu nói ở thì hiện tại: "Nước Thiên Chúa đã gần đến" (c 15); hơn nữa, Người yêu cầu hãy "Tin vào Tin mừng". Thành ra không còn vấn đề chuẩn bị cho một biến cố, nhưng là tiếp đón nó vì nó đã ở đấy rồi.
Còn về vùng đất mới nơi xảy ra cuộc tấn công đầu tiên nhằm giải phóng con ngươi khỏi đau khổ, sự ác và cái chết, làm sao lại không thấy có ý nghĩa đối với Kitô hữu? Theo truyền thống mà Mc tùy thuộc, chẳng phải là ở tại Galilê mà Chúa Giêsu đã hẹn tái ngộ với các môn đồ để cho thấy mình vẫn sống sau Phục sinh sao (16,7)? Đối với thánh sử, vùng đất này có một ý nghĩa thần học. Ông coi nó là nơi mà cuộc sống Chúa Giêsu đạt tới một cao điểm. Đó là nơi đã bắt đầu việc rao giảng Nước Trời" (cc. 14-15), nơi mà các môn đồ đầu tiên được kêu gọi (1,17), nơi dân chúng từ khắp chốn tuôn đến (3,7-8), nơi mà sự thống nhất đất nước sẽ được tái lập (7,31). Rồi nó tạm thời xuống giá vì cái chết Gtêrusalem. Nhưng sau đó một thời đại mới sẽ bắt đầu trên dân Galilê, nghĩa là trên mọi nơi mà Tin mừng Thiên Chúa sẽ vang dội. Thành ra thánh sử, đầy niềm xác tín như vậy khi đọc lại lịch sử quá khứ, muốn làm nổi bật điều này là Tin Mừng đó, trong thực tế, dã bắt đầu vang dội từ thời gian sống tại thế của Chúa Giêsu khi, lần đầu tiên, Người khởi sự tại Galilê sứ vụ của Người. Vì vậy ông thêm câu "rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa" (c.14) và đặt trong những chữ này tất cả nội dung toàn vẹn của đức tin Kitô giáo.
Nhưng Tin Mừng này đã bắt đầu như thế nào? Thời buổi đã mãn và Nước thiên Chúa đã kề bên", bản văn nói. Các từ ngữ này chất chứa nhiều ý niệm chính xác và nhiều mầu nhiệm. Nhiều ý niệm chính xác vì nước Thiên Chúa" là một yếu tố cốt yếu của Cựu ước nói lên quyền tối thượng của Thiên Chúa trong việc hiện diện giữa lịch sử con người là ta thu hút tất cả niềm hy vọng của lịch sử đó. Ban đầu, nỗi mong chờ được quy hướng về việc xuất hiện của một người con Đavít, từ thời lưu đày là của một tôi tớ chưa mang ơn cứu rối và niềm vui Is 61, 11 và, sau cùng trong giai đoạn gần nhất là của một "Con người", hữu thể thiên giới, sự nhân cách hóa của thế giới con người được thông ban chính các ân huệ thần linh, và là Đấng sẽ xét xử mọi vương quốc trần thế (Đn 7,13-l4) khi thời buổi đã mãn. Niềm hy vọng này càng trở thành mãnh liệt hơn khi dân phải đương đầu với những nghịch cảnh và khốn khó đủ loại. Nhưng nó đã mang hình thức sự mong chờ một biến cố khả giác, có tính cách đảo lộn bên ngoài.
Chính Gioan, theo lời Mt và Lc, cũng tỏ ra chia sẻ quan niệm này (Mt 3, 12 ss). Thế mà đó chính là chỗ nổi bật khía cạnh mầu nhiệm của nước Chúa Giêsu nói. Người không trình bày nó như trên; Người bảo nó "đã tới rồi" và tuy thế "vẫn còn sẽ đến". Thật vậy, đấy chính là ý nghĩa của thành ngữ "đã gần bên" (hay đang đến gần"), một động từ hy lạp ở thì parfait, nghĩa là ở một thì diễn tả một hành động đã xảy ra song hiệu quả còn tồn tại. Thành thử đây là một thực tại mọi, tự phô bày một cách chẳng ai ngờ. Không hẳn là vô hình hay nội tâm, đặc điểm của thực tại này là đang xuất hiện. Nó xem ra nhắm chính Chúa Giêsu nhắm bản thân của Người, vốn đang khởi sự mặc khải một điều gì đó về thần tính ở trong Người, về tình yêu vô biên đang xuất hiện dưới hình thức dấu chỉ qua các hành vi và lời Người nói. Thành ra Nước Trời đã có đó với Người. Nhưng để sinh công hiệu, nó cần phải được tiếp đón.
Mầu nhiệm Nước Trời nằm trong thái độ của con người đứng trước việc nó xuất hiện. Nó là hồng ân ban nhưng không cho con người dầu-con người chẳng đáng. Nhưng nó chỉ trở nên hữu hiệu nếu đtíợc tiếp đón và, do đó, tất cả đều tuỳ thuộc con người. Nó được trao ban chứ không được áp đặt. Muốn tiếp nhận nó thì phải cưỡng bức chính mình (như Mt 11,12 có nói), phải chấp nhận chiến đấu vì chính mình, phải cởi mở ra với một thực tại vượt quá tất cả những gì mà con người có thể đạt tới tự sức riêng.
Chính so với thực tại này mà tất cả mọi thành ngữ khác như "thời buổi đã mãn", "hãy hối cải" mới có được ý nghĩa.
"Thời buổi đã mãn là thành ngữ lấy lại một trong những tiếng mà các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên đã áp dụng (x Gl 4,4; Ep 1,10) vào việc Chúa Giêsu thực hiện ơn cứu độ trong cuộc khổ nạn vinh hiển của Người. Khi đưa từ ngữ này về lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu, thánh sử muốn nói lên, như khi dùng chữ "Tin mừng của Thiên Chúa", cái suy tư của Kitô hữu về tính cách thời sự của các sự kiện và cử chỉ Chúa Giêsu. Ông lấy lại, để khai triển, ý nghĩa của thời sau cùng" là Cựu ước đã chờ mong, hay nói cách khác của "việc Thiên Chúa giá lâm" để chia sẻ cách dư tràn các điều thiện hảo của Ngài cho nhân loại. Như vậy lịch sử có hai chiều kích ; một thuộc thời gian thực tế mà con người có thể ghi dấu bằng dụng cụ hay bằng tâm lý, và một thuộc thời gian thần học, thời gian được sống khi đón nhận Nước Trời, nghĩa là khi mặc cho hoạt động nhỏ bé nhất của nó một giá trị vĩnh cửu. Thời gian này không thuộc về niên biểu: bất cứ lúc nào nó cũng gần gũi con người. Để đi vào đó, chỉ cần đón nhận Nước Trời. Nhưng đi vào đó là đi vào trong một biến chuyển, bởi vì Nước Trời là một thực tại không ngừng đến là chẳng phải được đón nhận một lần là xong nhưng cứ luôn mãi. Nó là một thực tại đang triển nở, một lịch sử phải hoàn thành cách tự do chứ không là một cái gì đóng kín, chỉ nhận một lần là xong xuôi. Chúa Giêsu không ngừng đến. Cái xuất hiện bên ngoài, chính là các dấu chỉ, các lời kêu gọi của thế giới thời mới mà Người mang tới, những đau khổ, tội ác và sự chết vẫn không biến mất đi. Thành thử thời đại "cuối cùng" đã đến nhưng nó chỉ mới bắt đầu và những kẻ đi vào đó bằng đức tin thì vẫn luôn hướng về sự hoàn thành dứt khoát của nó. Tin, chính là tung mình vào cuộc mạo hiểm đó vậy.
Đứng trước thực tại này, ta có thể hiểu ý nghĩa lời rao giảng hãy hối cải. Động từ Hy lạp dịch ra như thế chẳng có nghĩa là "hối tiếc lỗi lầm" những tiên vàn là "thay đổi tất cả não trạng". Đây là lời mời gọi chọn một thái độ trước cái tin chưa từng nghe: trong Chúa Giêsu tỏ hiện một quyền năng siêu phàm, quyền năng của chính Thiên Chúa, một quyền năng phục vụ con người bất cứ mọi lúc. Nói cách khác, một địa hạt được mở ra cho con người, để họ đi vào một sự sống cao hơn. Họ phải làm gì trước cái đang trình bày cho họ như một biến cố hiện thực ấy? Họ hãy hối cải! Thật vậy, "hãy hối cải chính là lời của những người đầu tiên rao giảng tin vui "Chúa Giêsu phục sinh" (x.Cv 2,38; 3,19...). Sở dĩ họ kêu gọi hối cải, chính là vì họ loan báo trước tiên một biến cố có tính cách chất vấn, mời gọi.
"Hãy tin vào Tin mừng''. Đây là tất cả chương trình được thảo theo cách nói Kitô giáo, của những chiến dịch Chúa Giêsu tung ra tại Galilê. Người kêu gọi hãy tin vào cái tin này là: Thiên Chúa ở đây, bây giờ, với Người, để đưa nhân loại vào một thực tại có sức đánh đổ đau khổ. Sự ác và cái chết mà họ không ngừng vấp phải. Con người được kêu mời tin tưởng hơn hết vào sự sống, là quyền năng đang hoạt động trong thế gian nhưng không bị giam hãm trong thế gian, mà còn vượt lên trên nó và đang hiện diện trong biến cố Giêsu. Tóm lại, đây là một lời kêu gọi hãy tin vào Chúa Giêsu. Đang liên kết và hiệp thông với một vị cao cả hơn loài người mà Người gọi là Thiên Chúa.
IV. NỀN TẢNG LỊCH SỬ CỦA TRÌNH THUẬT
Như ta đã thấy, trình thuật Cám dỗ, được Mc thu gọn thật đơn giản, và bản toát yếu dẫn vào giai đoạn tiếp theo đều phản ảnh một suy tư của cộng đoàn Kitô giáo. Phải chăng vì thế mà chúng thiếu nền tảng lịch sử?
1. Nếu cuộc cám dỗ Chúa Giêsu chịu xảy ra lúc người ở "trong sa mạc", thì không ai khác chứng kiến được ngoài người. Thành thử để sự kiện được biết, Người đã cần phải nói cho hay. Trong trường hợp này, các thánh sử có thói quen chỉ rõ bằng cách đặt giáo huấn trên miệng Chúa Giêsu. Vậy mà ở đây chẳng có gì như thế. Trình thuật ở ngôi thứ ba, thành thử người ta bắt buộc phải tìm trong Tin mừng xem chỗ nào xuất hiện một lời tâm sự của Chúa Giêsu liên quan đến chướng ngại mà sứ mệnh Người phải chịu do sa tan. Và tự nhiên, quang cảnh Xêdarê hiện ra trong trí (8,27-34). Chắc chắn chính nhân cơ hội điều chỉnh những quan niệm quá ư nhân loại của các sứ đồ về sứ mệnh Messia của Người, mà Chúa Kitô đã mặc khải được tính cách chiếu đấu của sứ mệnh đó hầu may ra giáo huấn Người ít nhất được giữ lại. Và vẫn biết sau đó, trong ánh sáng dứt khoát của Phục sinh, giai thoại cám dỗ đã mặc ý nghĩa một cuộc chiến đấu điển hình mở đầu cho mọi cuộc chiến đấu khác Chúa Giêsu đã phải trải qua cho đến lúc lìa đời. Nhưng chỗ đứng của nó ở nơi này có lẽ đã chẳng được truyền thống bịa đặt. Chắc chắn nó bắt nguồn từ một sự kiện Chúa Giêsu đã sống. Ngoài ra kể cũng lạ nếu cộng đoàn sơ khai, vốn xác tín vào quyền năng của Chúa mình, lại sáng tác một câu chuyện cho thấy Người phải khổ sở với thân phận chung của nhân loại.
Có nhiều lý do bắt ta phải nhận là sự kiện đã có. Vì Chúa Kitô đến thiết lập trong bản thân Người một Israel mới, nên ta hiểu được là theo gương của Israel cũ sau khi vượt qua biển đỏ. Người cũng nếm biết thử thách của sa mạc và cơn cám dỗ sau khi chịu rửa xong. Sự kiện có tính cách biểu tượng thật, nhưng chỉ bộc lộ tất cả ý nghĩa nếu nó đã thực sự xảy ra.
Nó nằm trong đường hướng của một ý thức hy sinh của Chúa Giêsu về sứ mệnh mình. Thường thường nơi mỗi còn người sắp bước vào một cuộc đời chiến đấu, thì trước lúc đó, bao giờ họ cũng cảm thấy phải thử sức mình đã. Tại sao Chúa Giêsu lại không tuân theo định luật nhân loại này? Ngược lại, ta có thể nghĩ rằng Người đã ám chỉ điều đó trong dụ ngôn của Người về kẻ mạnh (3,27).
Sau hết, nếu nhìn lại bối cảnh lịch sử của việc Chúa Giêsu xin Gioan làm phép rửa và ý thức một cách dứt khoát sứ mệnh Người sẽ như thế nào, thì ta sẽ có thể hiểu được cám dỗ của Chúa Giêsu. Thật vậy, dầu đã tiêm nhiễm những trào lưu nào chăng nữa não trạng bình dân vào quan niệm Đấng Messia như là kẻ đến biểu dương một quyền lực trực tiếp có tính cách chính trị và xã hội. Thành thử Chúa Giêsu thấy mình bị bắt buộc phải từ khước nhtĩng ngụy tạo về sứ mệnh mà chung quanh sẽ không ngừng khiêu khích Người.
Trên bình diện lịch sử tính, chẳng có gì lạ lùng nếu ta đi xa hơn nữa và đặt câu hỏi xem trong cụ thể, cuộc cám dỗ Chúa Giêsu trải qua đã xảy ra như thế nào. Kitô hữu mọi thời đã không lầm lẫn khi đặt vấn đề như vậy. Câu trả lời của Tin mừng không nằm trên bình diện tâm lý, nhưng trên bình diện xác quyết thần học: Chúa Giêsu tỏ mình như tôi tớ, nghĩa là như kẻ liên đới với nhân tính mà Người đã nhận, kể cả việc có thể ở trong tình trạng thử thách chung của mọi người. Bối cảnh của những lời người tâm sự và việc chống trả Satan cho thấy rằng cuộc thử thách, luôn luôn có trong người và như vậy ngay từ đầu sứ mệnh người, là sự chống đối mà Tin mừng Người mang trong bản thân, đã gặp Phải. Thành thử cám dỗ hẳn là cám dỗ dùng các phương tiện để tránh thất bại ấy, hay đơn giản hẳn, để từ chối sứ mệnh ấy; tựu trung là tách khỏi Đấng Người vẫn gọi là Thiên Chúa Cha. Thế mà Tin mừng bảo: dù đã ở trong những điều kiện cám dỗ như vậy, Chúa Giêsu vẫn không siêu lòng, khiến cho thử thách của Người chẳng những trở thành một gương mẫu cho nhân loại, mà còn là một biến cố mà hiệu lực tính là có thực và bao gồm các cơn cám dỗ của hết thảy mọi người.
2. Còn bản toát lược về thời đầu sứ vụ Chúa Giêsu tại Galilê, thì mặc dầu phản ảnh những cách nói ("hãy tin nào Tin mừng"...) của Kitô giáo và rõ ràng có lối trình bày theo hình thức lược đồ, vẫn không kém cho thấy nền tảng lịch sử trên đó nó đã dựa vào.
Vẫn biết chi tiết Gioan Tẩy giả "bị nộp" (nghĩa là bị tù) và chi tiết về Galilê được Mc nêu lên với một ý nghĩa biểu tượng. Nhưng chúng vẫn đưa ta tới những sự kiện rất chắc chắn, có tính làm sáng tỏ nhờ so sánh với các Tin mừng khác.
Thật vậy, giữa lúc Chúa Giêsu chịu rửa và chịu cám dỗ với lúc Gioan Tẩy giả bị tống ngục có một thời gian. Chính Tin mừng thứ 4 cung cấp nhiều tin tức về thời kỳ này (Ga 4,1-2): Chúa Giêsu, cho đến lúc đó, hãy còn được liên kết với vị Tẩy giả đồng thời thành công hơn ông. Việc ông này bị bỏ tù do đó có thể hiểu như là sự kiện bắt buộc vị ngôn sứ đi ra khỏi thời kỳ sửa soạn và bắt đầu một cách công khai những cuộc chiến đấu tiên khởi của Người. Có thể hiểu như thế trong bối cảnh lịch sử của nó cái câu nói "thời buổi đã mãn...''.
V. SỨ ĐIỆP BẢN VĂN
Hai đoạn văn tí xíu này của Tin mting Mc như vậy xem ra có một tầm mức nghịch với tính cách vắn gọn của chúng. Chúng chất vấn độc giả về một điểm nằm trong chuỗi những lời kêu gọi đã được đưa ra qua trình thuật Phép rửa, một điểm liên hệ với Tin mừng, nghĩa là với cái đặc biệt nhất của đức tin Kitô giáo.
Trước hết, đối tượng của đức tin là nhìn thấy trong Chúa Giêsu con người theo chương trình của Thiên Chúa, là tin rằng vào một lúc nào đó của lịch sử, trong một nơi xác định, đã hiện hữu một con người từng giao tranh với những quyền lực của sự ác và đã chiến thắng chúng. Do đó là tin rằng mỗi một phần tử của nhân loại, mà Chúa Giêsu liên đới và bao hàm trong Người, có thể đi qua lỗ hổng mà người đã mở để đạt tới một đời sống cao hơn.
Đối tượng của đức tin nhắm vào cái tin hạnh phúc đó. Tin, chính là thừa nhận Chúa Giêsu không chỉ là kẻ mạnh nhất trong loài người, nhưng đặc biệt là con người mang lấy trong mình chính mãnh lực thần linh, để chiến thắng một cách chắc chắn, an toàn và tự do.
Nhận ra trong mình khả năng đi đến một đời sống cao hơn, nghĩa là đến tự do đích thực, và nhận biết Chúa Giêsu là Đấng vừa kêu mời vượt qua ngưỡng cửa đó vừa cho phép mỗi con người trở nên hữu hiệu, đó là nét riêng biệt thứ hai của đức tin Kitô giáo.
Dầu thái độ này có biểu lộ một cách nào đi nữa, thì cái con người phải đương đầu trong cuộc chiến đấu nội tâm với những mãnh lực thù nghịch đang hoạt động trong thế giới, có thể nhận ra trong tình thế bi thảm là tình thế của mình đây, một lời mời gọi hãy "vượt lên" và tin rằng sự "thắng vượt" này có thể có một nơi nào đó trong thế giới. Lúc ấy Nước Trời gần với họ.
Nhưng, và đây là nét đặc biệt thứ ba của đức tin Kitô giáo, kẻ đón nhận Tin mừng ấy của Thiên Chúa, cái Tin mừng về chính Chúa Giêsu và về Lời mà sứ mệnh Người đã khiến Người công bố ra, thì bắt đầu được sống một kinh nghiệm mới đánh dấu bằng một niềm hy vọng đặc biệt.Kinh nghiệm này thay đổi một cái gì đó trong thái độ của kẻ ấy, nhưng nó vẫn luôn luôn trên đường chuyển thành, vẫn luôn là cuộc mạo hiểm không ngừng tái diễn và quy hướng về sự thực hiện trọn vẹn trên kia thế gian.
Nói cách khác, niềm hy vọng của Kitô hữu vừa không ngừng thúc đẩy họ tham gia cuộc chiến đấu cho một thế giới tốt đẹp hơn, vừa giúp họ thắng vượt cơn cám dỗ muốn giam hãm mãi lý do hiện hữu của mình trong thế giới hiện tại.
Gilles Becquet, Lecture d'évangiles…année B. Trang 168-181
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa Giêsu, Con thiên Chúa, đã mang lấy tất cả điều kiện hiện sinh của con người: vui sướng, đau khổ, chết chóc, tủi nhục... , tình trạng bị tách ra khỏi nguồn sống, tình trạng phóng thể, nhưng vẫn luôn luôn nối kết mình với Thiên Chúa. Chính nhờ đó mà Người đã vượt thắng Satan, đã vượt lên tội lỗi, vượt lên mọi phóng thể và trở lại với yếu tính của mình; trở lại với Thiên Chúa, với tình trạng thanh bình hạnh phúc, được sống lại trong mảnh vườn tình yêu của Thiên Chúa và của vũ trụ mà Mc, mượn tư tưởng Is 11.8-9, đã diễn tả qua câu: "Người sống chung với các dã thú và được các thiên thần hầu hạ". Nếu ta luôn bám vào Thiên Chúa, đặt Ngài như cùng đích đời mình, thì dù phải trải qua thân phận, hoàn cảnh bi đát nào chăng nữa, ta cũng luôn chiến thắng và được bình an trong nơi sâu thẳm. Và chiến thắng cùng bình an này sẽ chiếu tỏa chung quanh ta. Hãy xem cuộc đời các thánh.
2. Những yếu tố: thinh lặng, khổ chế, cầu nguyện, được nói lên qua hình ảnh sa mạc, đều là những điều kiện giúp con người dễ dàng tiếp xúc với Thiên Chúa, dễ dàng nghe thấy và nhận ra đường lối Ngài muốn ta đi. Các tổ phụ, tiên tri, sứ đồ, thánh nhân, và nhất là chính Chúa Giêsu đều đã trải qua sa mạc ấy đời sống Kitô hữu cũng phải vậy. Mỗi ngày, ta phải rút vào sa mạc của lòng mình, tạm lại gác mọi ưu tư, lo lắng, hoạt động, để gặp gỡ Thiên Chúa, múc lấy nguồn lực nơi Ngài, thanh lọc lại ý hướng, hầu có thể thi hành sứ vụ cách hữu hiệu và đúng ý Thiên Chúa hơn giữa trần gian.
3. "Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên. Hãy hối cải và tin vào Tin mừng". Với Chúa Giêsu, bắt đầu một thời đại mới. Nước Trời, nước hạnh phúc đã đến với và trong Ngài. Nhưng Nước ấy chỉ đến cho mỗi người chúng ta khi chúng ta ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng", khi ta biết biến đổi đời sống, biết loại trừ những tư tưởng ích kỷ, vụ lợi. Ơn cứu độ đã được Chúa Kitô mưu cầu sẵn cho ta, nhưng chính ta phải sẵn sàng tiếp nhận bằng những thái độ thích hợp như Chúa đòi hỏi. Thiên đàng chỉ được ban cho những ai muốn chọn lấy.
69.Nhân phẩm là bụi tro--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Bụi tro, bụi đất nhỏ li ti không có gía trị sức nặng kí lô nào đáng kể.
Bụi tro, bụi đất bay vất vưởng trong không khí gây ô nhiễm làm ngột ngạt khó thở có hại cho sức khoẻ.
Bụi tro, buị đất người ta quét vun lại rồi quăng vất ra góc vườn ngoài đồng ruộng cho sạch sẽ lối đi.
Nhưng theo kinh thánh thuật lại con người được Thiên Chúa tạo thành từ bụi đất.
Hằng năm vào ngày thứ Tư lễ Tro, ngày bắt đầu mùa chay 40 ngày, theo tập tục nếp sống đức tin của đạo Công Giáo, mọi người tín hữu Chúa Kitô đến trước bàn thờ cúi đầu xin lãnh nhận bỏ tro trên đỉnh đầu, trên trán. Dấu chỉ này nói lên lòng ăn năn thống hối xin Chúa ban ơn tha thứ những tội lỗi đã vấp phạm.
Dấu chỉ này cũng nói lên tâm tình từ nay xin từ bỏ cung cách nếp sống kiêu ngạo tự khoe mình, lấy mình làm trung tâm điểm.
Dấu chỉ khiêm cung lãnh nhận được rắc tro bụi trên đầu nói lên lòng kính trọng chân nhận mình là con cháu của Ông Bà nguyên tổ Adong và Eva, người được tạo dựng nên từ bụi đất.
Là tro bụi con người không có thể làm được tất cả. Con người là một tạo vật có khả năng giới hạn sống trên mặt đất. Đời sống con người như dòng sông, dòng điện trôi qua đi mau. Họ không thể kéo giữ lại những gì đã xảy ra ngay cả những gì cho là hay đẹp nhất. Tất cả tuần tự trôi qua đi như cát trôi dạt ngoài biển khơi, như bụi tro bay lưu lạc trong không khí.
Tâm tình lòng tin tưởng nhớ mình được tạo thành từ bụi tro nhắc nhớ mình là một tạo vật mỏng dòn. Nhưng mang trong mình hơi thở mầm sự sống của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh thần thánh Thiên Chúa khắc ghi vào nơi mỗi con người.
Vì thế con người có gía trị hơn tro bụi nhiều. Hơi thở hình ảnh của Thiên Chúa nơi mỗi người là sự sống, là ơn kêu gọi, những khả năng, cơ hội tiềm tàng trong thân xác, trong tâm trí chờ được phát triển bung nở vươn ra.
Ngày xưa bên bờ sông Jordan dân chúng xắp hàng đến xin Thánh Gioan làm phép rửa để tỏ lòng ăn năn thống hối trở về với Thiên Chúa.
Ngày thứ Tư lễ Tro, người tín hữu Chúa Kităô cũng sắp hàng đến xin nhận lãnh bụi tro rắc trên đầu tỏ lòng ăn năn thống hối.
Trong Thánh lễ Misa người tín hữu cũng thứ tự xắp hàng với hai bàn tay trắng lên tiếp nhận tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kito cho tâm hồn đức tin của mình.
Điều này nhắc nhớ Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa xuống trần gian làm người từ tro bụi, đã trở nên Bí tích Thánh Thể cho con người.
Tấm bánh Thánh Thánh nhắc nhớ đến tấm bánh ngày xưa Thiên Thần đã mang đến cho Thánh Tiên Tri Elia trong sa mạc hoang vắng. Tấm bánh này cũng được nướng trong lò lửa có tro bụi. Như thế trong tro bụi tấm bánh đã được nung nướng thành, mà Thiên Thần mang đến cho Eilia trong lúc đói lả mệt nhọc giữa đường đi.
Trong tro bụi Chúa Giêsu cũng đã nằm, ngài chính là bánh sự sống. Ngài đã chia sẻ thân phận nếp sống tro bụi của con người. Ngài đã sinh xuống trần gian làm người nơi hang chuồng xúc vật ở Bethlehem. Ngài đã đi bộ đó đây trên khắp nẻo đường quê hương đất nước Do Thái, dính bụi đất dọc đường, và sau cùng vác thập gía chịu khổ hình đến nơi chịu chết vì tro bụi dơ bẩn tội lỗi của con người.
Bụi tro đất làm nên thân xác hình hài con người có giá trị tốt. Vì được Thiên Chúa chúc phúc thánh hóa cùng ban hình ảnh hơi thở sự sống của Ngài cho con người.
Bụi tro đất làm nên con người có gía trị cao qúi mang lại sự sống. Vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã chia sẻ thân phận đời sống tro bụi làm người với con người. Và Ngài đã trở nên bánh sự sống đức tin cho con người.
Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và được kêu gọi cùng sống lại với Chúa Kito phục sinh.
70.Tin là chấp nhận đường thập giá--Noel Quesson
“Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng”
Vào đầu thế kỷ 20, một văn sĩ người Anh đã kể lại trong cuốn tiểu thuyết “Bầu trời và Thập giá” của ông, truyện một người thù ghét thập giá. Thấy thập giá ở đâu là anh ta tìm cách phá huỷ. Gặp một bức vẽ có hình thập giá là anh xé bỏ. Vợ anh mang một thập giá nhỏ bằng vàng, anh cũng lừa giật được và ném đi. Anh bảo: “Thập giá là biểu tượng sự độc ác dã man đối nghịch với niềm vui và cuộc sống".
Lòng căm ghét thập giá ăn sâu và tâm tư anh, đến mức thấy bóng thập giá là anh như điên dại. Không chịu nổi, có lần anh leo lên tận tháp chuông nhà thờ để phá huỷ cây thập giá trên đó. Lần khác, anh đập tan cái ban công nhà vì ở đó anh thấy nhiều chỗ có hình thập giá… Anh nhìn đâu cũng thấy thập giá. cuối cùng anh nổi giận đốt luôn căn nhà của mình và bị chết cháy.
Câu chuyện cốt đi tới một kết luận: Kể từ cái chết của Chúa Giêsu, thập giá đã nên biểu tượng của chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu. Dẹp bỏ thập giá là chối bỏ tình yêu, nâng cao hận thù và đưa thế giới tới chết chóc, diệt vong.
Thập giá là biểu tượng niềm tin Kitô hữu và cũng là một thử thách lớn lao cho niềm tin mỗi người. ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, con người không nhìn ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà chỉ thấy vô lý khó chịu: “Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá đi” (Mt 27, 40). Thử thách này còn theo dõi mỗi người chúng ta, còn tác động trên cả Giáo hội. Người ta vẫn tiềm tàng ý định đưa Chúa xuống khỏi thập giá, muốn Thiên Chúa biểu lộ quyền năng thống trị, chứ không dấu ẩn, vì “Nhập thể” là hình thức “Yếu đuối” (1 Cr, 1, 25). Một Thiên Chúa quyền uy là thông thường, là hợp lý, thích hợp với mọi tôn giáo…. Nhưng không phải Thiên Chúa chịu đóng đinh. Thật khác xa với chủ trương của Thánh Phaolô Tông đồ: “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, còn chúng ta rao giảng Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh, đó là gương xấu cho người Do Thái và là điên rồ trước mặt dân ngoại “ (1 Cr. 1, 22-23)
Chúa cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, nói thế cũng có nghĩa là Chúa cứu chuộc bằng tình yêu. Và Chúa đòi hỏi chúng ta đi vào con đường Thập giá như Chúa, nghĩa là sẵn sàng hy sinh, chịu đau khổ để biểu lộ tình yêu đối với Chúa và đối với anh em (Mt 16, 24-25).
Đó là con đường tốt nhất và duy nhất. đôi lúc ta ngại đón nhận thập giá, thì đó là thử thách lớn cho niềm tin Kitô hũư của ta “Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
71.Chúa Nhật I Mùa Chay--Noel Quesson
Đức Giêsu vừa chịu phép rửa.
Thực vậy, cần phải lưu ý mối liên hệ giữa cảnh cám dỗ và cảnh chịu phép rửa. Ba Tin Mừng nhất lãm đều đã đặt hai cảnh trên gần kề nhau.
"Vừa lên khỏi nước. Đức Giêsu liền thấy các tầng trời mở tung ra, và thấy Thần khí tựa như chim bồ câu ngự xuống trên mình Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về Con" (Mc 1,10)
Trong ngôn ngữ thông thường, từ "Cám dỗ" thường bị giảm nghĩa và mang vẻ ấu trĩ. Đối với trẻ nhỏ, "bị cám dỗ" nghĩa là "thèm làm một điều gì mà cha mẹ cấm đoán": như ăn mứt, ăn kẹo... lấy cắp tiền... Đối với người lớn, vì được huấn luyện trong khung giáo dục cấm ky, nên "bị cám dỗ" quen hiểu là "thèm làm những việc tình dục bị cấm đoán". Trong Tin Mừng cám dỗ mang vẻ quan trọng khác hẳn thế ! Cám dỗ cơ bản nhắm tới thái độ "tin " hay "không tin" nơi Thiên Chúa. Cơn cám dỗ đích thực liên hệ tới "Phép rửa": đó là một cám dỗ của "những con cái Thiên Chúa". Đức Giêsu sẽ yêu cầu ta chiến thắng cơn cám dỗ này, bằng cách cầu nguyện mỗi ngày: "Xin Chúa đừng để cho con lâm cơn thử thách... tin Chúa để chúng con đừng thua cơn cám dỗ…"
Người Do Thái, thính giả đầu tiên của Đức Giêsu... và những Kitô hữu tiên khởi, vào lúc mà Mác-cô viết trình thuật cám dỗ này... cũng như chúng ta hôm nay, đều phải thú nhận rằng, chúng ta đã vỡ mộng về Thiên Chúa l Đáng lẽ ra Người phải tỏ mình ra một ít nữa, phải tỏ ra Người là ai ! Cơn "cám dỗ" này căn bản, và thường xuyên: chúng ta có khuynh hướng coi thường ông Giêsu, Con Thiên Chúa này, mà tư cách Mê-si-a không được hiển nhiên, nhất là vào lúc Người chết trên thập giá. Thực sự, chính chúng ta, người "tín hữu" lại thử thách Thiên Chúa, bằng cách yêu cầu Người thể hiện khác với điều Người đã chọn để hiện diện: một Thiên Chúa kín ân... Cơn thử thách tiêu biểu trong Kinh thánh đó là yêu cầu Chúa làm phép lạ": xin Người ra khỏi nơi kín ẩn ! "Trong hoang địa, cha ông các người đã từng cám dỗ Ta và khiêu khích ta..Trong suốt bốn mươi năm, thế hệ này đã làm ta thất vọng (Tv 94,9). Biết bao lần, họ đã thách thức ta trong hoang địa... và một lần nữa, họ lại thử thách Thiên Chúa (Tv 77, 40-41). Đó cũng là cớn cám dỗ thường xuyên của những người đồng thời với Đức Giêsu: "Một nhóm Pha-ri-sêu kéo đến và bắt đầu tranh luận với Đức Giêsu. Để thử người, họ xin Người một dấu lạ từ trời" (Mc 8,11).
Vậy hãy tỏ ra ông là Con Thiên Chúa đi ! Chính ông vừa mới được công bố là Người con đó, nhờ các tầng trời mở ra và qua việc Thánh Thần đáp xuống mây? "Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá xem coi !" (Mt 27,40). Cơn cám dỗ của các tín hữu, cơn cám dỗ của Giáo Hội, đó là làm cho Đức Giêsu xuống khỏi thập giá: biểu lộ một Thiên Chúa quyền năng hơn, một Thiên Chúa hiển nhiên, một Thiên Chúa thống trị, một Thiên Chúa không còn "kín ẩn" nữa, một Thiên Chúa không còn "nhập thể" và trở nên "yếu đuối" nữa (1 Cr 1,25), một Thiên Chúa hợp với suy luận, hợp với lý trí nhiều hơn. Thiên Chúa quen thuộc của mọi tôn giáo... chớ không phải một Thiên Chúa bị đóng đinh ! "Trong khi những người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ (1 Cr 22-23).
Ngay sau khi dược tuyên bố là: "Con Thiên Chúa" lúc chịu phép rửa, Đức Giêsu được Thánh Thần thúc đẩy vào hoang địa.
Động từ được dịch ở đây là "thúc đẩy" nhưng trong bản văn Hy Lạp còn có nghĩa mạnh hơn nhiều. Mác-cô đã viết: "Đức Giêsu đã bị Thánh Thần xua đuổi vào hoang địa". Ong cũng dùng từ này để chỉ Đức Giêsu "Xua đuổi quỷ".
Thật vậy trong Kinh thánh Thần khí Thiên Chúa thường xuất hiện như một thứ "sức mạnh", Cơn giông bão thổi tới , mãnh liệt như sấm sét không thể cản nổi". Cơn cám dỗ Đức Giêsu chịu đựng, hẳn là rất quan trọng, cần thiết trong cuộc đời của Người, nên chính Thần Khí Thiên Chúa mới dẫn Người vào trong hoang địa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con đừng sợ cám dỗ: Vì cám dỗ là điều không thể tránh được, là cần thiết và hữu ích cho mọi người. Giao chiến thiêng liêng là một yếu tố cần thiết của đời sống tín hữu. Người của Xa-tan cũng là một thành phần của trần đời chúng ta. Xa-tan không ngừng khơi gợi cho ta biến Thiên Chúa thành cái gì khác với Người. Khác với những gì Người đã mạc khải về Người trong Đức Giêsu Kitô... biến Thiên Chúa thành một Đấng có thể giải quyết mọi vấn đề của ta với "quyền lực" của Người.
Nếu Đức Giêsu đã nhượng bộ cơn cám dỗ đó, nếu Người đã nghe theo lời yêu cầu của ta, nếu Người đã thuận theo lời đề nghị của Xa-tan, thì Người đã tỏ lộ cho ta một Thiên Chúa giả tạo.
Nhưng Thần Khí Thiên Chúa đích thực, thuộc Thiên Chúa duy nhất chân thật, đã thúc đẩy Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, thoát - khỏi những quảng cáo rầm rộ, xa hẳn đám đông, tránh những thành công ồn ào trước mắt... để bước vào hoang địa ! Thiên Chúa duy nhất đích thực, chính là Thiên Chúa "kín ẩn". Thánh Vịnh đã nói: Chúa còn giấu ẩn đến bao giờ nữa?" (Tv 88,47). Tôi chiêm ngưỡng Thiên Chúa "trong hoang địa"... Đức Giêsu cô độc...
Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày.
Thật là một thời gian dài!
Nếu chúng ta đã làm quen đôi phút với Kinh thánh, từ điều biết rằng người Phương Đông cổ rất thích những con số... Những con số không có nghĩa toán học như chúng ta ngày nay thường gán cho chúng: Chúng thường có giá trị "tượng trưng". Chẳng hạn, theo ước định, con số "40" chỉ "thời gian của một thế hệ con người": và như thế, con số này ám chỉ "một thời kỳ khá dài mà ta không rõ độ dài chính xác". Từ "Mùa chay" là một biến thể của từ "Bốn mươi ngày chay tịnh", nói gọn là "Bốn mươi". Một người Do Thái, hiểu biết Kinh thánh, mỗi khi nghe nói đến tiếng "Bốn mươi" đều nghĩ ngay đến cuộc xuất hành, đến cuộc giải phóng, đến thời gian hành trình trong hoang địa kéo dài "Bốn mươi năm". Môsê đã ở lại miền núi "Bốn mươi ngày" (Xh 34,28). Ngôn sứ Ê-li-a đã bước đi trong hoang địa "Bốn mươi ngày" (I V 19,8).
Trong Mùa chay này, chúng ta có đủ khả năng "hành trình" 40 ngày không?
Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ.
Máccô không nói đến "chay tịnh" như Mát-thêu và Luca đã bàn. Ong cũng không nói cơn cám dỗ đã xảy ra vào gian đoạn cuối của khoảng thời gian bốn mươi ngày...mà trong suốt thời gian Đức Giêsu ở trong hoang địa...Người chịu.Xa-tan cám dỗ trong bốn mươi ngày". Người còn chịu trong suốt cuộc đời trần gian... đặc biệt trong lúc người bắt đầu thi hành sứ vụ của "Con Thiên Chúa".
Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu đã ở "một mình" trong hoang địa. Không có một người nào khác đã chứng kiến những cơn cám dỗ của Người, cơn cám dỗ khiến Người "Làm Người Con" theo quan niệm trần gian, theo quan điểm của Xa-tan. Vì thế, chắc một ngày nào đó, chính Đức Giêsu đã tâm sự kể lại biến cố đó cho các bạn hữu Người. Nhiều giáo phụ của Giáo Hội nghĩ rằng, đó là dịp "Phêrô tuyên tín ở Xê-da-rê", chính lúc Phêrô nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và lúc Đức Giêsu loan báo thập giá, Con Người sẽ bị đóng đinh... cũng chính lúc đó Đức Giêsu đã găp cơn cám dỗ do Phêrô bịa ra và Người buộc phải lập lại với ông: "Đồ quỉ sứ Xa-tan? xéo đi, lui ra đàng sau (Mc 8,27-33).
Chúng ta có lý để nghĩ ra rằng, trong trường hợp đó Đức Giêsu đã "thú nhận" với các tông đồ, Người thường bị cám dỗ "thể hiện những dấu hiệu của Đấng Cứu độ cách lạ thường" , không còn giữ vai trò của Thiên Chúa nhập thể trong sự yếu đuối của xác thịt"... tự rơi vào bẫy mà Xa-tan không ngừng giăng bủa (và ngay cả môn đệ của Người cũng như Giáo Hội vẫn còn thử thách Người như vậy !) Xui khiến Người "thể 'hiện uy quyền", biểu lộ thiên tính của Người. Thỏa mãn những mong muốn chính trị của dân chúng.
Người sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.
Kiểu nói trên là cách nói của Kinh thánh, vẫn có vẻ khó hiểu, con phải tìm hiểu ý nghĩa. Khác với Mát-thêu và Luca, Máccô không nói rõ ra rằng, Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ của Người. Nhưng ông nói về tình trạng đó qua hai kiểu nói trên: "loài dã thú" và "các thiên sứ ". Đó là một kiểu nói tượng trưng cổ truyền: như Ađam xưa kia ở trong vườn địa đàng, sống cùng với dã thú (St 2,19) niềm hy vọng cứu độ cũng mong chờ cảnh "thanh bình địa đàng" đó trở lại: "Bấy giờ sói ở với chiên, beo nằm bên cạnh dê con... Bé con còn bú giỡn bên hang hổ, trẻ con hôi sữa thọc tay vào hang mãng xà" (Is 11, l-9). Vâng, trong khi con người đầu tiên là Ađam đã sa ngã trước cơn cám dỗ "làm Thiên Chúa", "trở nên như Thiên Chúa"... thì chính Đức Giêsu đã chiến thắng cơn cám dỗ đó: nhờ vậy, cuộc hòa giải vĩ đại đuợc thực hiện, và khởi sự nếp chung sống hòa bình giữa con người với tạo vật. Khi con người từ chối "thống trị", từ chối hình ảnh của một "Thiên Chúa nào đó", khi con người chấp nhận "sự bất lực" của mình, khi con người đống bằng "đức tin"... thì chỉ lúc đó con người mới tìm lại được quang cảnh địa đàng, mới làm người theo ý Thiên Chúa ! Chỉ lúc đó con người mới lại sống hiệp thống an bình với anh em mình, với vũ trụ với "dã thú" và "Thiên sứ ", với "đất" với "trời"... Chỉ lúc đó con người mới thực sự là "con" Thiên Chúa, theo như lòng Người mong ước, Đấng 'không thống trị, không áp đặt ai, vì Người là tình yêu cho đến độ từ bỏ mình, chết trên thập giá vì chúng ta.
Sau khi ông Gioan bị bắt giam, Đức Giêsu đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, Người nói: "Thời kỳ đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi"
Đó là khởi sự một công cuộc sáng tạo mới, một lịch sử mới của loài người. Xa-tan đã bị đánh bại. Đức Giêsu đã chiến thắng nó. Không phải Xa-tan là 'Thiên Chúa. Không phải kẻ "thống trị" là Thiên Chúa ! Không phải kẻ thù nghịch" là Thiên Chúa? Vì Thiên Chúa đích thực chính là Tình Yêu... Và đó là trước Thiên Chúa duy nhất đích thực. Đó là Tin Mừng.
Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng.
Cuộc giao chiến "đức tin" không bao giờ chấm dứt.
Xa-tan vẫn tiếp tục đề nghị với ta chấp nhận ý kiến của nó về Thiên Chúa. Đức Giêsu mời gọi ta không nên thuận theo ý đó: cần phải luôn khước từ một hình ảnh giả tạo nào đó về Thiên Chúa, để nhờ đức tin, ta mở lòng hướng về Thiên Chúa đích thực. "Lạy Chúa, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
72.Ta yêu các ngươi từ lâu rồi. Hãy trở thành dân của Ta--Camille Gagnon
Mùa Chay, một thời gian yêu mến.
Lễ tro vừa rồi, chúng ta đã mang một bộ mặt mùa chay hơi buồn bã, nghiêm khắc và nghiêm túc, như phải có. Thứ tư lễ tro không phải là một ngày hội hóa trang. Nó nhắc nhở chúng ta nhớ đến tội lỗi và sự mỏng dòn của chúng ta. Chúng ta là tro bụi, những gì chúng ta làm được đều bấp bênh; chúng ta có một con tim nặng trĩu vì những ích kỷ và thiếu tế nhị, thậm chí phản bội nữa. Hàng năm người ta cử hành lễ thánh Valentin, lễ tình yêu trước hoặc sau ngày thứ tư lễ tro. Tình yêu càng khó kéo dài thì người ta lại càng ham thích ca ngợi chúc mừng nó! Tuy nhiên, nghĩ cho kỹ, bắt đầu mùa chay bằng lễ thánh Valentin không phải là điều vô ích. Điều quan trọng là hiểu được đề tài và sự năng động của khẩu hiệu được nêu ra cho mùa chay này: “Ta yêu các ngươi từ lâu rồi”.
Đúng vậy! Mùa chay là thời gian để nghe nói về tình yêu. Một mùa chay tình yêu xem ra mới mẻ, nhưng lại mang một ý nghĩa sâu sắc. Chúng ta hãy nhớ lại ngôn sứ Ôsê đã đặt lời than thở này nơi miệng Đức Giavê để khơi lại tình yêu của dân Ngài: “Ôi! Ta sẽ dẫn ngươi vào nơi thanh vắng và sẽ quyến rũ ngươi”. Chẳng phải đây là lời yêu thương tốt đẹp cho mùa chay sao: “Ta sẽ quyến rũ ngươi?”. Phải Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta từ lâu rồi. Ngài muốn nhắc lại điều đó để ta nhớ và để cho nó trở thành nơi chúng ta như một bài ru con được nhiều người biết đến: “Ta đã yêu con từ lâu và Ta sẽ không bao giờ quên con”.
Trong mùa chay này, Thiên Chúa sẽ nhắc lại với chúng ta điều đó bằng rất nhiều cách. Một trong những cách đó là nói với chúng ta hôm nay Tin Mừng này: chúng ta là dân của Ngài.
Hãy trở thành dân của Ta. Gần đây một người bạn của tôi được nhận quốc tịch Canada với niềm tự hào lớn đến độ làm tôi phải ngạc nhiên. Sự kiện đó đã khiến tôi suy nghĩ lại xem: Một xứ sở, một dân tộc là những gì; Có những quyền được nhìn nhận và được bảo vệ và có thể thực thi những quyền này quan trọng đến mức nào; Nhu cầu cảm thấy được liên kết với những người khác mạnh làm sao; Được chia sẻ cùng một cuộc sống xã hội gây phấn khởi dường nào.
Từ kỷ niệm này, chúng ta hãy cố gắng suy nghĩ lại về quốc tịch “Thiên quốc”của chúng ta: Chúng ta là một dân tộc thánh, là công dân nước trời, dân của Thiên Chúa.
Dân tộc của giao ước. Nền tảng của một quốc gia trước hết là người ta chấp nhận sống chung với nhau, tuân theo những qui luật chung. Một quốc gia được xây dựng trên những thỏa thuận của các thành phần xã hội.
Trong câu chuyện đại hồng thủy và cầu vồng vào thời gọi là của Nôê. Thiên Chúa bày tỏ sự đồng ý liên kết lịch sử của chúng ta với lịch sử của Ngài, dùng sức mạnh của Ngài để hỗ trợ và cứu độ chúng ta. Lịch sử Thánh Kinh tương đương với một hiệp ước hoặc với hiến pháp trong một quốc gia. Nó đặt nền tảng cho dân Chúa: “Này đây Ta ký kết một giao ước với các ngươi, với hết thảy con cháu các ngươi, và hết thảy các vật sống động…” Trong những lời này, có một hiệp đồng, một giao ước.
Nghĩa vụ công dân. Thiên Chúa lập một hiệp ước với chúng ta. Nhưng một hiệp ước đòi hỏi sự tương hỗ. Hai bên cùng ký vào đó. Một công dân mới tuyên thệ. Một Kitô hữu ký vào bản hiệp ước đó nhờ phép rửa. Thánh Phaolô nhắc lại rõ ràng: Phép rửa là một sự cam kết chứ không phải là một việc tẩy rửa những vết nhơ bên ngoài. Ta hãy nghe ngài nói: “Chịu phép rửa, không phải là được tẩy sạch những vết nhơ bên ngoài, nhưng là cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm ngay thẳng”. Ta hãy hiểu rõ ý nghĩa của những từ quan trọng này: Cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm ngay thẳng.
Sau khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu vào hoang địa.
Tin Mừng thánh Marcô nhấn mạnh rằng, sau khi chịu phép rửa Chúa Giêsu đã vào hoang địa. Và ở đó, các thiên thần phục vụ Ngài. Ta có thể thấy rằng, sau khi đã cam kết với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vào sa mạc để bày tỏ tình yêu của mình đối với Cha, đã được quyến rũ bởi dự án của Chúa Cha chứ không phải bởi dự án của ma quỷ. Vậy nên, không lạ gì khi kết thúc mùa chay của mình, Ngài đã nói: “Triều đại Thiên Chúa đã đến, hãy tin vào Tin Mừng”.
Vào đầu mùa chay này, chúng ta hãy xác tín rằng chúng ta là dân Thiên Chúa. Triều đại của Ngài đang ở giữa chúng ta.
73.Tầm quan trọng cùa một phản ứng tốt--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Điều mà trong ngôn ngữ thông thường chúng ta gọi là “cám dỗ” thực ra trên bình diện tôn giáo lại là một thực tại rất phức tạp. Vì tính cách phức tạp đó chúng ta không thể nhận ra cách dễ dàng Chúa Giêsu đã muốn bị cám dỗ về sự gì và cách nào. Có nhiều yếu tố trong cách thức thông thường để hiểu sự cám dỗ
- cái gợi lên lòng ước muốn;
- động lực thúc đẩy có căn nguyên nội tâm hay từ bên ngoài, lôi cuốn vào một hành động;
- phát hiện bằng một cuộc thử thách, những đức tính hay là những nết xấu của một người nào;
- xúi giục phạm tội, hoặc bằng sự kích thích các thú vui xác thịt, hoặc bằng cách lường gạt, thúc đẩy làm điều xấu nguỵ trang với những bề ngoài của sự tốt lành (một sự tốt lành giới hạn nào đó).
Con người đầy dục vọng, chúng ta luôn luôn sẵn sàng thức dậy. Tội nguyên tổ đã làm rối loạn sự diễn tiến của các dục vọng đó, thành thử các dục vọng ấy ngày nay lan tràn đến cả những việc xấu cũng như những việc tốt. Khi một việc xấu đề nghị với chúng ta một ước muốn, thì đó là một sự cám dỗ. Nhưng đến chừng nào việc xấu ấy còn ở ngoài chúng ta và đến khi nào nó vào hẳn bên trong chúng ta? Nhiều sự dơ bẩn có thể làm hoen ố một con người song vẫn không làm thiệt hại gì. Để so sánh, tục ngữ có câu: “Nước đổ đầu vịt” là thế. Trái lại, sự rấy lên của lòng ước muốn một điều xấu xa, có thể khuấy rối hay gây ra một tâm trạng mù mờ nửa phạm tội nửa không. Tình trạng đó người ta cho là chưa hẳn có tội, nhưng làm lo ngại. Chúng ta không nói đến sự ưng thuận tất nhiên dẫn đến tội rồi.
Trong giới hạn nào, chúng ta có thể suy tư về sự cám dỗ của Chúa Giêsu?
Mà đây là một sự kiện. Chúa Giêsu muốn biết sự cám dỗ. Người ở trong sa mạc 40 ngày, chịu satan cám dỗ. Người để cho ma quỷ đề nghị với nhân tính của Người, những gì mà nơi chúng ta, gợi lên lòng kiêu ngạo, tính xác thịt và máu tham lam. Chúa Giêsu có bị thử thách bởi sự quyến rũ nào vào sự tội không? Sự thánh thiện tuyệt đối của Chúa Giêsu bắt buộc ta trả lời ngay là không. Nhưng Người muốn thử chịu sự nung đốt của những cái thường làm cho các dục vọng của chúng ta cuống quýt. Người muốn dìm thứ vàng ròng của sự thánh thiện Người vào trong lò lửa, ở đó sự yếu đuối của chúng ta tan chảy như chì và nhất là Người muốn cho chúng ta thấy phải phản ứng thế nào?
Chúa Giêsu đã phản ứng như người ta phản ứng khi bị bỏng, nghĩa là bằng phản ứng tự vệ và đề phòng. Người không có bàn cãi với sự cám dỗ. Người đã nhận ra nó tức khắc, và tức khắc người đuổi nó đi, không tranh luận. Đó là bài học thực hành chính yếu mà chúng ta có thể rút tỉa từ câu chuyện Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc. Đâu là phương cách tốt nhất để nhận ra và đẩy lùi cơn cám dỗ? Phương cách tốt nhất, đó là hãy duy trì nơi mình một ý chí tích cực trung thành với Thiên Chúa. Chúa Giêsu phản ứng bằng bản năng và phản ứng, tại sao vậy? Vì Người là một con người hoàn toàn bị thu hút bởi Con Thiên Chúa. Cũng là người thật như chúng ta, nhưng Người còn là Con Thiên Chúa. Người chống cự lại sự dữ với sự mãnh liệt, và sức mạnh của Thiên Chúa. Người phản ứng lại như thế, vì Người là con ngừơi và là Thiên Chúa. Nếu chúng ta đem gương Chúa Giêsu vào trình độ chúng ta, Chúa dạy chúng ta rằng, chúng ta phải chống cự lại cơn cám dỗ tuỳ theo sức loài người chúng ta nếu chúng ta mang Chúa trong mình cách sâu đậm, chúng ta sẽ phản ứng chống lại cơn cám dỗ với sự sáng suốt và nghị lực mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Điều này không có nghĩa là chúng ta được ơn không thể bị sa ngã, trái lại là khác, song qua sự việc trên Chúa dạy chúng ta bằng những danh từ nào, chúng ta phải dùng để đặt vấn đề sự cám dỗ. Cuối cùng, chỉ còn lại cho chúng ta việc chính yếu phải lo, đó là lòng trung thành với Chúa, chuyện không chiều theo chước cám dỗ tất nhiên sẽ đến
Chúng ta chỉ còn phải lo cầu xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta hãy cầu xin để Người hằng gìn giữ chúng ta khỏi những cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản bội của sự yếu đuối của chính chúng ta và khi mặc dầu vậy, Chúa vẫn cho phép cơn cám dỗ kéo đến, chúng ta hãy kêu xin Người ban cho chúng ta đủ sáng suốt và sức mạnh để chống lại sự dữ.
74.Chiến đấu để khỏi sa cơn cám dỗ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
Sau ba ngày Tết, hôm nay chúng ta bước vào Chúa Nhật thứ 1 Mùa Chay. Mùa chay kéo dài 40 ngày. Con số 40 tượng trưng cho một cuộc khởi đầu mới: lụt đại hồng thủy 40 đêm ngày; 40 năm dân Do Thái đăng trình trong sa mạc để tiến về Đất Hứa; 40 ngày 40 đêm ngôn sứ Elia đi bộ về núi Hôrép để lãnh nhận sứ mạng tái lập giao ước. Và Chúa Giêsu làm cuộc hành trình cá nhân 40 đêm ngày trong hoang địa để sau đó bắt đầu một cuộc xuất hành mới dẫn dân mới về Đất Hứa là Quê Trời. Bốn mươi ngày cũng là hình ảnh của cuộc đời mỗi người chúng ta. Thật vậy, như Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, sau khi chịu phép rửa, liền được Thần khí đẩy vào sa mạc chịu Satan cám dỗ, chúng ta cũng vậy, sau phép rửa tội liền bắt đầu chiến đấu với các cám dỗ.
Chúa Giêsu là Chúa cũng không thoát khỏi cơn cám dỗ nhưng Ngài đã chiến đấu và chiến thắng cơn cám dỗ nhờ Ngài liên lỉ lựa chọn giữa ý Cha và ý Người. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe hôm nay, thánh sử Mác-cô nói về việc Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách lôi kéo Chúa Giêsu quay lưng lại với Chúa Cha; khước từ sống vâng phục thánh ý Chúa để được thoả mãn cơn khát – đói và thèm muốn xác thịt và tinh thần của mình. Cụ thể, qủy đã hướng mở cho Chúa một tương lai đầy hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ, kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại bởi Người Con duy nhất của Thiên Chúa là Ðức Giêsu, Ngài không những đã khước từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma quỷ nhận ra rằng không có gì cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy phục Thiên Chúa, vì “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4).
Tuy ma quỷ đã thất bại với Chúa Giêsu, nhưng nó vẫn dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước hết nó gieo vào lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là đưa ra phương tiện để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ, là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù ghen ghét, tự cao tự đại... Ðó là những mối tội đã gây nên biết bao đau khổ cho chính mình và cho những người xung quanh. Chẳng hạn, ngày 28/1 vừa qua một vụ cướp của giết người gây chấn động thành phố Hồ Chí Minh đó là tên Nguyễn Công Bảo 15 tuổi giết nghệ sĩ cải lương Đỗ Linh để cướp tài sản. Đau đớn thay cho xã hội nay đó là kẻ giết người chưa đến tuổi thành niên!
Hôm nay khởi đầu Mùa Chay, chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma quỷ cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và sức mạnh của ma quỷ luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối và tin vào tình yêu của Chúa. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà cầu xin ơn Chúa bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời sống sao cho phù hợp với Tin Mừng của Chúa. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của mình nên thánh thiện như Cha trên trời là Ðấng hoàn thiện. Vì thế, trong bài đọc 2, Thánh Phêrô khẳng định: “Khi chúng ta Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền”.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết luôn cầu xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi sa chước cám dỗ. Biết cầu xin để Người hằng gìn giữ chúng ta khỏi những cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản bội của sự yếu đuối của chính chúng ta và xin Người ban cho chúng ta đủ sáng suốt và sức mạnh để chống lại và khỏi sa chước cám dỗ. Amen.
75.Chúa Nhật 1 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
Hằng năm, vào Chúa nhật I Mùa Chay, chúng ta được nghe Tin mừng kể lại câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ.
Năm A, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Mathêu. Năm C, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Luca. Cả hai tác giả tường thuật câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ khá dài và đầy đủ các chi tiết về ba phương diện: danh, lợi, thú. Còn năm B, Giáo hội cho chúng ta nghe Tin mừng theo Thánh Marcô, tác giả tường thuật câu chuyện này chỉ vỏn vẹn có hai câu như chúng ta vừa nghe: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Sa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.” (Mc 1,12-13).
Như vậy, cả ba Tin mừng đều tường thuật câu chuyện Đức Giêsu bị Ma quỷ cám dỗ và Ngài đã chiến thắng. Nhưng nhiều người thắc mắc tại sao Đức Giêsu cũng bị cám dỗ? Thưa, vì Ngài có hai bản tính: Bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Với bản tính loài người, Ngài cũng mang trong mình thân phận con người, vẫn phải chấp nhận những gì thuộc về con người ngoại trừ tội lỗi. Nên Ngài vẫn bị cám dỗ. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu từ bỏ sứ mạng Chúa Cha trao phó để theo đường lối của thế gian. Nhưng đứng trước cơn cám dỗ của Ma quỷ, Ngài đã cương quyết chống lại và Ngài đã chiến thắng. Không những Ngài chiến thắng cơn cám dỗ của Ma quỷ mà Ngài còn có quyền trên Ma quỷ nên đã nhiều lần Ngài đã xua trừ Ma quỷ ra khỏi con người.
Với bản tính loài người, mỗi chúng ta cũng bị Ma quỷ cám dỗ. Nhưng cơn cám dỗ của Ma quỷ sẽ không làm hại được chúng ta khi chúng ta không ưng thuận, hay nói cách khác Ma quỷ không thể làm hại chúng ta khi chúng ta không chiều theo cơn cám dỗ của chúng. Thông thường, cơn cám dỗ xảy đến bằng ba giai đoạn: Thứ nhất, Ma quỷ gợi lên nơi tâm trí chúng ta một tư tưởng xấu như: hình ảnh đồi trụy, lòng tham của cải, tiền bạc, vi phạm những điều luật cấm…; Thứ hai, Ma quỷ xúi giục chúng ta thích thú hoặc hướng chiều về những điều vừa kể trên; Thứ ba, nếu chúng ta ưng thuận là sa chước cám dỗ của chúng, còn nếu chúng ta chống trả thì chúng ta thắng được chước cám dỗ của Ma quỷ. Ngày xưa, Ma quỷ cám dỗ Evà ăn trái cấm. Evà đã ưng thuận nên hái trái cấm mà ăn. Evà đã phạm tội. Ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu bỏ ý định của Chúa Cha. Đức Giêsu đã cương quyết chống lại. Đức Giêsu chiến thắng. Cứ như thế, Ma quỷ vẫn tiếp tục cám dỗ con người, có những người thắng được chước cám dỗ như Đức Giêsu, nhưng cũng có vô số những người thua chước cám dỗ của Ma quỷ như Evà.
Ngày hôm nay, Ma quỷ vẫn cám dỗ chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau về các phương diện danh, lợi, thú. Thông thường ma quỷ không cám dỗ chúng ta phạm tội trọng ngay nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm tội cách tiệm tiến từ tội nhẹ đến tội nặng. Có một câu chuyện vui dân gian kể rằng: Có một người nọ bị quỷ hiện lên chận đường. Quỷ bắt anh ta phải làm một trong ba điều sau đây: một là uống rượu thật say; hai là đốt nhà của mình; ba là giết chết vợ mình. Quá hoảng sợ, người đàn ông đành chọn uống rượu thật say vì anh ta cho đó là việc làm đỡ nguy hại nhất. Nào ngờ, khi say rượu, anh ta mất hết lý trí, nổi lửa đốt nhà mình. Bà vợ ra can ngăn, anh ta điên tiết giết luôn vợ mình. Rốt cuộc là anh ta đã làm cả ba việc mà tên quỷ đã đề ra. (Sưu tầm)
Trong cuộc sống thường ngày, Ma quỷ cũng dùng những chiêu thức trên đây để cám dỗ con người và có rất nhiều người đã sa ngã phạm tội. Chẳng hạn, về tội lỗi đức công bằng: Mới bắt đầu, Ma quỷ cám dỗ con người phạm các tội nhẹ như ăn cắp vặt, dần dần chúng cám dỗ con người ăn trộm những thứ giá trị hơn, rồi tham ô tham nhũng, trở thành kẻ cướp lúc nào không hay. Về tội dâm ô: Lúc đầu, Ma quỷ cám dỗ con người bằng những tư tưởng xấu, xem hình ảnh xấu, rồi đến xem phim đen, quan hệ bất chính, cuối cùng là phá thai, giết người.
Chính vì thế, phải luôn đề phòng với chước cám dỗ của Ma quỷ. Thánh Phêrô đã lưu ý chúng ta rằng: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì Ma qủi, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự”(1 Pr 5,8-9a). Hãy sống tiết độ trong lời nói. Hãy sống tiết độ trong việc làm. Hãy sống tiết độ trong ăn uống. Tiết độ bằng cách ăn chay hãm mình. Ăn chay theo luật Giáo hội. Ăn chay luân lý là nhịn ăn, nhịn nói, nhịn những thú vui chơi không lành mạnh, nhịn đi tới những nơi, gặp gỡ những người có thể làm cho chúng ta sa ngã phạm tội.
Hãy tỉnh thức trước những mưu chước cám dỗ mà Ma quỷ bày đặt ra. Ma quỷ không hiện hình một cách công khai để cám dỗ con người, nhưng chúng bày ra những chước cám dỗ như những cái bẫy giăng sẵn mà chúng ta khó nhận ra để làm hại chúng ta.
Vì vậy, Thánh Phêrô bảo chúng ta hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự. Đứng vững trong đức tin mà chống cự bằng cách siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giao hòa và Thánh Thể. Đức Giêsu đã từng mời gọi các Tông đồ rằng: “Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ.”(Mc 14,38). Chính Ngài đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha, trong đó có câu: “Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.” (Mt 6,13).
Xin cho tất cả mọi người chúng ta biết noi gương Đức Giêsu luôn cương quyết chiến đấu và chiến thắng các chước cám dỗ của Ma quỷ. Amen.
76.Đức Giêsu chịu Xatan cám dỗ
Sau khi chịu phép Rửa, Đức Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đi vào hoang địa, ở đó Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ nhưng Ngài đã chiến thắng. Chúa Giêsu đi vào hoang địa là ý muốn của Thiên Chúa, có Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Chúa Giêsu không bao giờ hành động một mình mà luôn có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng hiện diện trong hoạt động của Chúa Giêsu.
Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ? Đây là dịp cho chúng ta thấy thêm ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm nhập thể nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu vốn là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người và tệ hơn nữa là làm một người nghèo cô thế cô thân, không có một ngôi nhà đàng hoàng ấm cúng để sinh ra, rồi lại phải sớm chạy nạn trốn sang Aicập để tránh hoạ sát thân.
Khi hoà nhập vào dòng người tội lỗi đang bước xuống dòng sông Gioa-đan để chịu thanh tẩy mình bởi phép rửa của Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã tự đồng hoá mình với những con người tội lỗi trong thế gian dù Ngài chẳng có tội tình gì.
Hôm nay Chúa Giêsu chịu cám dỗ là Ngài đứng trong thân phận con người để cùng với con người Ngài cũng chịu cám dỗ để đồng thân phận với con người tro bụi, mỏng dòn yếu đuối, dễ thay đổi, dễ sa ngã. Nhưng có một điều khác là con người chúng ta thì dễ sa ngã truớc cám dỗ; còn Chúa Giêsu đã mở môt con đướng mới: đó là Ngài đã chiến thắng cám dỗ nghĩa là chiến thắng ma quỷ.
Ma quỷ vốn là tên cám dỗ đã có mặt trong lịch sử, đã gieo mầm tội lỗi nơi con người và nó vẫn còn họat động mạnh mẽ trong nhân loại nhưng nay tên cám dỗ đã bị Chúa Giêsu đánh gục, và trong tương lai nó vẫn còn tiếp tục thất bại dài dài.
Chiêm ngưỡng hành động của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta hay dâng lên Chúa tâm tình vui mừng và lời cảm tạ vì tình thương lớn lao Chúa đã dành cho nhân loại tội lỗi chúng ta. Trong thân phận con người Chúa Giêsu đã không ngừng đi sâu vào mầu nhiệm nhập thể mỗi ngày một triệt để hơn, để cảm thông, để yêu thương, để mở đường cho con người đi về cùng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chiến thắng tên cám dỗ, bước theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải hạ tên cám dỗ như Thầy của mình.
Ngoài tâm tình tạ ơn, chúng ta còn phải học nơi Chúa bài học chiến thắng những cám dỗ của ma quỷ. Trong đời sống con người, chúng ta phải đối diện với vô vàn những cám dỗ lúc nào cũng vây quanh chúng ta với nhiều hình thúc khác nhau có khi còn rất tinh vi, có khi cám dỗ được nguỵ trang kín đáo bằng một việc xem ra hoàn toàn tốt đẹp kiến chúng ta không thể nhận ra được đó là một cám dỗ của ma quỷ. Những cám dỗ đó có thể là miếng ăn, tấm áo, có thể là danh vọng quyền lực hay là tiền bạc, cũng có thể là một thứ tình cảm nào đó....Cám dỗ thì vô vàn vì đó là việc làm của ma quỷ mà, nó phải ra sức làm việc để lôi kéo con người về phía nó, để những ai nghe theo chúng thì sẽ dần dần xa lìa Thiên Chúa và thuộc trọn quyền của ma quỷ.
Chúng ta phải làm gì đây? Phải đề cao cảnh giác, phải nghe Lời Chúa và Hội Thánh dạy trong Mùa Chay là hãy thường xuyên chay tịnh, hãm mình ép xác, nhìn nhận thân phận mòng giòn yếu đuối, dễ sa ngã, dễ phạm tội của chúng ta; làm thế không phải để mạc cảm nhưng để ý thức rõ về mình để bám chặt vào Chúa hơn. Siêng năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giải tội và Thánh Thể, làm các việc lành phúc đức, đem Lời Chúa thực hành trong đời sống để múc lấy sức mạnh từ trên cao hầu chiến thắng mưu mô của tên cám dỗ.
77.Canh tân đời sống
Lần kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố thủ đô, thì có một người ăn mày đến và xin nhà vua chút ít tiền. Nhà vua không hề cho anh ta một đồng nào cả. Thay vào đó, nhà vua mời anh ta đến lâu đài thăm viếng ông. Người ăn mày nhận lời mời của nhà vua. Đến ngày hẹn, người ăn mày tìm đường tới cung điện và được gặp nhà vua. nhưng anh ta bỗng nhận ra bộ quần áo rách rưới của mình, và cảm thấy xấu hổ. Đây là một biểu tượng hùng hồn về tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống của anh. Vốn là một người đặc biệt, nhà vua đón tiếp anh ta một cách nồng hậu, tỏ lòng thương xót, và ban cho anh ta một bộ quần áo mới, cùng với những thứ khác. Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn mày vẫn lê lết trên đường phố trong bộ quần áo rách nát của mình. Tại sao anh ta lại bỏ bộ quần áo mới? Bởi vì anh biết rằng khi mặc bộ quần áo đó, có nghĩa là anh ta phải sống một cuộc sống mới, phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn mày. Nhưng anh chưa được chuẩn bị để làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới không hấp dẫn đối với anh ta. Nó rất hấp dẫn. Nhưng chỉ vì anh ta đã quá quen thuộc với lề thói cũ, đến nỗi không thay đổi được.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình tuỳ thuộc vào những thói quen đã có từ nửa trước cuộc đời. Điều đó sẽ đem lại sự thoải mái cho người nào có những thói quen xấu.
Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào đó trong tâm hồn của tất cả chúng ta. Hình ảnh Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc gây xúc động cho chúng ta. Nhưng cũng bắt chúng ta phải nhìn vào cuộc sống của mình. Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình. Nhưng những nỗ lực của chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa và kiên nhẫn.
Nếu muốn thay đổi những khía cạnh bên ngoài cuộc sống, thì trước hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư tưởng bên trong của chúng ta. Sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói quen mới thay thế vào những thói quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết làm chủ bản thân, và tự bắt mình phải thực hiện những gì cần thiết. Thông qua sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta có thể hoàn tất được sự thay đổi tâm hồn theo lời mời gọi của mùa chay.
Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện luôn luôn phù hợp, nhưng những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa chay. Đây là thời gian của ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội lớn cho mọi người. Đây là một thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là thời kỳ của niềm vui lớn lao, tương tự như mùa xuân. Trong khi chúng ta nỗ lực tiến tới mùa Phục Sinh, thì mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.
Nói tóm lại, chúng ta phải quay trở về với sức mạnh của tình yêu. Sống tử tế, hành động theo lẽ phải, và bước đi một cách khiêm tốn cùng với Thiên Chúa. Hãy dẹp bỏ chiếc áo rách của tội lỗi, để mặc lấy tấm áo mới của ân sủng và sự sống.
78.Cải thiện
Có một chàng thanh niên, vừa nghiện ma tuý, lại can tội giết người, nên bị kết án chung thân. Đêm kia anh đang nằm trên giường tại phòng giam, thì đột nhiên anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Đợi cho người bạn nằm cùng giường ngủ yên, anh mới quỳ xuống cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tỏ bày cùng Chúa những gì chất chứa trong trái tim con. Anh nói với Ngài bằng những lời lẽ đơn sơ mộc mạc tất cả những gì anh muốn, từ những hy vọng đến những thất bại, từ những vui mừng đến những khổ đau. Sau khi anh cầu nguyện xong, người bạn tưởng chừng như đã ngủ buột miệng kêu lên: Amen. Và người bạn nói tiêp: Tôi cũng tin Chúa. Tôi nghĩ rằng Ngài luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài mà thôi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào lời Chúa truyền dạy: Hãy sám hối, nghĩa là hãy cải thiện đời sống, thành tâm thú nhận những gì xấu, không tốt, không đẹp trong đời sống chúng ta, rồi sau đó là từ bỏ chúng, quay lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với những tội lỗi trong đời sống, rồi cương quyết uốn nắn sửa đổi.
Hẳn rằng có những lúc chúng ta cũng đã ý thức về những hỗn loạn xảy ra trong tâm hồn và trong cuộc sống chúng ta. Chẳng hạn về tính ích kỷ, luôn đặt nhu cầu của chúng ta trên quyền lợi của người khác. Chẳng hạn về tính kiêu căng, không muốn nhìn nhận những sai lỗi của mình. Chẳng hạn về sự lười biếng, không muốn giúp đỡ một ai.
Kinh nghiệm cho thấy: Những nhà truyền giáo thành công nhất trong việc làm cho người khác hối cải, đều là những người thực hiện theo đoạn Tin Mừng hôm nay. Họ làm cho người khác nhìn nhận rằng mình chỉ là những kẻ tội lỗi, rồi từ đó giúp họ quay trở về cùng Đức Kitô mà làm lại cuộc đời. Bởi vì nếu không phải là người tội lỗi, thì cần chi đến Đức Kitô.
Từ khởi điểm này, hôm nay chúng ta cùng nhau bước vào mùa Chay, là thời gian đặc biệt Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn sủng và giúp chúng ta cải thiện đời sống. Nếu như mùa Chay trở về, chúng ta biết cố gắng cải thiện đời sống, uốn nắn lấy một thói hư tật xấu mà thôi, thì có lẽ lúc này chúng ta đã trở nên một con người khác, đạo đức hơn, thánh thiện hơn, yêu thương hơn.
79.Nơi hoang dã
Có một vở kịch mang tựa đề là nơi hoang dã, kể lại câu chuyện như sau: Chàng thanh niên yêu say đắm cô gái hàng xóm. Thế nhưng cha nàng không ưng vì cuộc sống có phần bê bối của chàng. Ông ra sức dập tắt mối tình của chàng. Thất vọng, chàng đâm ra rượu chè bê bối. Ngày kia, sau khi đã uống rượu, chàng gây lộn và đánh nhau với một người trong quán, nên bị chủ quán tống cổ ra ngoài đường. Cha chàng rất hiểu và cảm thông với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại thế quân bình. Sau khi biết được cô gái hàng xóm cũng yêu chàng, thế là chàng quyết định hối cải và làm lại cuộc đời.
Vở kịch được trình diễn một cách rộng rãi và đã thu hút được nhiều người đến xem vì nó đưa ra một hoàn cảnh chung, vừa nhân bản, lại vừa gần gũi với cuộc sống hằng ngày. Nó vẽ lên phần nào cảnh hoang dã mà chúng ta đang sống.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Thực vậy, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào sa mạc, nơi hoang dã để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ suốt 40 đêm ngày. Theo Kinh Thánh, sa mạc hay nơi hoang dã đã là nơi trú ẩn của thần dữ, của thử thách.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta đang sống trong một nơi hoang dã, một thế giới tràn ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì hung dữ hoặc xấu xa cho bằng sự tàn bạo của con người thời đại. Giết người không gớm tay. Ngược đãi trẻ em cộng với những hành động gian tham, trộm cướp bất công. Có con thú dữ nào giết hại hằng triệu người mỗi năm? Thế nhưng, việc phá thai của con người thời nay còn vượt hơn con số đó rất nhiều.
Thú dữ mang hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huy không những sự sống thể xác, mà hơn nữa, còn đặc biệt phá huỷ sự sống tinh thần của chính chúng ta và của những người thân yêu. Chẳng hạn như những phim ảnh và sách báo đồi truỵ. Vậy liệu có phương cách nào để kềm chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn hay không?
Tôi xin thưa rằng có, đó là phương cách của Chúa Giêsu. Bởi vì chính Ngài đã đến để cứu chữa những gì đã hư đi. Cũng vì thế mà Ngài đã vào hoang địa để chiến thắng sự dữ bằng việc hãm mình và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng được sự dữ trong thế giới ngày hôm nay.
Đúng thế, chỉ bằng việc cầu nguyện và hy sinh, chúng ta mới có thể thuần hoá được những con thú tiềm ẩn trong cõi lòng chúng ta. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy cầu nguyện và chấp nhận những hy sinh hãm mình, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ chiến thắng được những cám dỗ suốt dọc cuộc đời chúng ta.
80.Chiến đấu!
Sống là một cuộc chiến đấu trường kỳ và cam go. Và cuộc chiến đấu cam go nhất của con người là cuộc chiến đấu đối với bản thân mình. Kẻ thù không ở đâu xa, kẻ thù đó đang ấn núp ngay trong bản thân mình. Bởi vậy, khi làm người, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi nguyên lý này. Ngài đã chiến đấu quyết liệt và chiến thắng vẻ vang.
Khởi đầu Chúa nhật thứ nhất mùa Chay, hôm nay, thánh sử Macco trình bày việc Chúa Giêsu đã chiến đấu với sự dữ. Cuộc chiến đấu này không mấy dễ dàng. Tuy nhiên, Ngài đã can đảm chiến đấu và đã chiến thắng. Bởi lẽ, mang thân phận con người, Chúa Giêsu không tránh khỏi cám dỗ của ma quỷ, của sự dữ. Macco trình bày một bức tranh thời Tân Ước có đôi nét giống thời Cựu Ước. Trong bức tranh đó, nhân vật nổi bật là chính Chúa Giêsu, Ngài được ví như Ađam mới, khác xa Ađam cũ. Ađam xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo xúi giục của ma quỷ đội lốt con rắn, đã bất tuân không vâng lệnh Thiên Chúa, vì không muốn làm người mà muốn làm Thiên Chúa, chối bỏ tình thương Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả thảm hại muôn đời cho con cháu loài người. Bên cạnh đó, dân Do Thái đi trong Samạc bốn mươi năm cũng đã sa ngã. Đó là thời gian thử thách lâu dài đối với họ. Họ cũng đã sa ngã trước thử thách, bao lần phản loạn, chống đối Môisen, kêu trách Thiên Chúa; bao lần họ bị cám dỗ muốn trở lại Ai Cập làm kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa. Tất cả đã sa ngã trước thử thách.
Ngược lại, còn Chúa Giêsu khi khởi đầu bước vào đời sống công khai, Ngài được Chúa Thánh Thần đưa vào Samạc để chịu thử thách. Sống trong sa mạc bốn mươi đêm ngày, Chúa Giêsu đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Matthêu và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép và danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu đã dùng Lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối cùng ma quỷ phải rút lui. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng chính là Lời Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Phần chúng ta, là những người Công Giáo, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Lời Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến thắng của Chúa Giêsu đã cho chúng ta bài học kinh nghiệm là con người chúng ta có thể chiến thắng các thế lực sự dữ và các cám dỗ của ma quỷ nếu chúng ta một lòng biết cậy dựa vào sức mạnh chủa Thiên Chúa. Bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa, nhưng ngược lại chúng ta hoàn toàn vâng phục sống theo thánh ý Chúa quan phòng an bày cho cuộc đời của mình. Chúng ta cũng không nên sống đạo Công Giáo, theo đạo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh tầm thường hằng ngày, hay chỉ vì lợi lộc vật chất, theo kiểu theo đạo được vợ, theo đạo được đất, được ruộng... Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa và Giáo Hội lo phục vụ chúng ta, phục vụ theo ý muốn ích kỷ của chúng ta. Chúng ta cũng không coi Thiên Chúa như những tên phù thuỷ chuyên làm phép lạ làm những việc phi thường, hay những nhà ảo thuật đại tài biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không coi trọng danh dự, uy quyền, thế giá; không luồn cúi ma quỷ, sự dữ, tiền của để được làm Chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ Tể vũ trụ, là Chúa của muôn loài, là Chúa của lòng ta.
Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay giúp chúng ta hãy đi vào cõi lòng mình, nơi đó chúng ta sẽ nhận ra nhiều thứ xấu xa của kiếp người, đủ thứ cám dỗ của ma quỷ, đủ thứ mời mọc hấp dẫn của sự dữ. Chúng ta hãy để Lời Chúa soi dẫn chúng ta. Lời Chúa sẽ giúp chúng ta phân định việc tốt xấu, việc từ bỏ và những việc nên làm. Lời Chúa là sức mạnh giúp chúng ta can đảm đứng về phía Thiên Chúa, khước từ sự cám dỗ của ma quỷ và sự dữ. Lời Chúa giúp chúng ta nhận ra chân lý, Sự Thật và Tình yêu để chúng ta bước di. Lời Chúa giúp cho chúng ta dám sống cho những đòi hỏi của Tin mừng, dám sống cho anh chị em tha nhân. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn Chúa là lý tưởng và lẽ sống cho cuộc đời mình. Chúng ta chọn Chúa là sức mạnh để can đảm chiến đấu chống trả lội lỗi, các thế lực sự dữ và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Ngoài ra, thử thách còn là để thanh luyện tâm hồn mình. Chúng ta hãy tiếp tục dùng Mùa chay mà Giáo Hội mời gọi để trở về với lòng mình, sám hối và quyết tâm can đảm đứng về phía Thiên Chúa. Ước mong Mùa Chay này sẽ giúp cho chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, trở về với Thiên Chúa, sống lại mối tình mà Thiên Chúa yêu thương dành cho chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng biết mạnh dạn đến với anh em để sống yêu thương và phục vụ họ.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là chủ của chúng con. Xin cho chúng con biết khiêm tốn chấp nhận giới hạn của mình để chúng con biết cậy dựa vào sức mạnh của Chúa trong cuộc chiến đấu với ba thù là thế gian, ma quỷ và xác thịt yếu đuối của chúng con. Xin Chúa trở thành sức mạnh duy nhất của niềm tin đang hướng về Chúa của chúng con để chúng con luôn chiến đấu và chiến thắng như Chúa Giêsu yêu mến của chúng con. Amen.
81.Chúa Nhật 1 Mùa Chay
Bước vào Mùa Chay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta phải an năn sám hối, sống lại kinh nghiệm 40 năm sa mạc của người Do Thái, sống 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa, 40 ngày ăn chay và chịu ma quỷ cám dỗ, để nêu cao lòng trung tín của Người với Thiên Chúa Cha.
Ma quỷ không nhằm xúi giục Chúa Giêsu vào tội tham ăn, ham mê của cải, danh lợi ở trần gian nhưng nó muốn cám dỗ Chúa Giêsu quên đi sứ mạng cứu thế của mình: từ chối con đường thập giá mà Cha đã trao phó. Đó là cơn cám dỗ Messia. Tại sao Chúa Giêsu phải chịu cám dỗ? Vì Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cách chống trả cám dỗ. Và hôm nay ma quỷ cũng cám dỗ ta cách khéo léo, tinh vi với mọi hình thức khác nhau, không trừ một cơ hội nào. trong xã hội hưởng thụ ngày nay, con người luôn bị cám dỗ giữa việc xem tivi với việc đọc kinh hôm, kinh mai; giữa vui chơi giải trí và đi lễ; giữa ăn xài phung phí với giúp đỡ người nghèo; giữa gian dối và thành thật, giữa việc học hành và trốn học, quay cóp. Chúng ta bị cám dỗ làm ngơ trước những đau khổ của người khác, im lặng trước những bất công vì sợ liên lụy, làm ngơ trước sự thật, thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân, sống buông thả và đeo đuổi những ước vọng, lợi lộc bằng đủ mọi âm mưu mạo hiểm, khiến chúng ta không còn nhận ra Chúa nơi người ăn xin trước cửa nhà, trong khu xóm. Và còn biết bao cám dỗ mời mọc khác, chúng ta chỉ nghĩ đến mình và lo cho mình.
Ma quỷ không làm cho chúng ta bỏ Chúa, nhưng làm lệch hướng đi của chúng ta, khiến chúng ta có những suy nghĩ sai lạc về Thiên Chúa, bắt Thiên Chúa phục vụ cho những lợi ích riêng của mình; nó làm cho chúng ta cảm thấy chán nản, lười biếng, thờ ơ các việc bổn phận, việc đạo đức, làm cho lòng mến Chúa trong chúng ta phai mờ đi.
Cám dỗ là một thực tế chúng ta không thể nào lẫn tránh được. Vì thế, chúng ta phải luôn sám hối và nhìn lại cách sống của mình để chiến đấu với cám dỗ. Nhưng bằng cách nào? Hãy nhìn Chúa Giêsu, một mẫu gương tuyệt vời, Ngài đã chiến thắng ma quỷ bằng việc ăn chay, cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa để làm theo thánh ý Cha. Phần chúng ta, cũng phải siêng năng cầu nguyện, lắng nghe tiếng Chúa qua việc tham dự thánh lễ cách sốt sắng, đọc kinh trong gia đình, biết hy sinh hãm mình làm việc bác ái. Chính những lúc thuận tiện này chúng ta gặp gỡ Chúa để Ngài ban sức mạnh cho ta. Xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho ta vượt thắng các cám dỗ, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết trông cậy vào Chúa, nhờ đó chúng ta mới có thể đứng vững trước những cám dỗ của ma quỷ, của thế gian, của xác thịt.
CÂU HỎI GỢI Ý:
Khoa học càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất?
Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh những nơi, những người có thể đưa đến cám dỗ. Theo bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở đâu? Với ai?
82.Cám dỗ
1. Dân gian ta có câu: "Lửa thử vàng, gian nan thử sức". Dùng lửa để thử vàng, là một phương cách có từ xưa để xem vàng thật hay giả, có gian nan mới biết ai có khả năng, bản lĩnh để vượt qua. Thiết nghĩ con đường theo Chúa mà hoàn toàn thuận lợi, dễ dàng thì đạt hạnh phúc Nước Trời không có giá trị gì, bởi ai cũng như ai! Nhưng thực tế trong đời sống đạo, những thử thách, những cám dỗ luôn tồn tại. Chúng ta đừng bi quan, mà hãy xem nhũng lúc như thế là lúc toi luyện lòng thành của chúng ta đối với Thiên Chúa.
2. Kẻ thù của Thiên Chúa cám dỗ không trừ một ai, trong bài Tin Mừng theo Thánh Mác-cô chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu trong thân phận Thiên Chúa làm người, vào hoang mạc để cầu nguyện 40 đêm ngày, cũng chính thời gian ấy, Ngài bị cám dỗ. Máccô trình bày sơ qua thôi, còn Luca và Mátthêu trình bày rõ 3 cơn cám dỗ mà Đức Giêsu phải chịu: Đá biến thành bánh; nhảy xuống từ trên cao để Thiên Chúa ra tay nâng đỡ; và thờ lạy ma quỷ để nó "ban cho" tất cả! Nói chung, là ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu để Ngài bỏ đường lối của Thiên Chúa, con đường khiêm hạ và đau khổ để chọn con đường dễ dãi trong công việc cứu chuộc loài người. Làm sao Ngài đã thắng được cám dỗ? Thưa nhờ cầu nguyện gắn bó cùng Cha, dưới sự nâng đỡ của Thánh Thần. Đó cũng là bài học quý báu cho mỗi người chúng ta.
3. Cám dỗ là một điều gắn liền với con người, có thể nói từ khi con người xuất hiện là có cám dỗ, để lôi kéo con người ra khỏi tình thương của Thiên Chúa, và nó sẽ còn tồn tại với con người ở trần gian này. Hẳn ai trong chúng ta cũng rõ Adong, Evà bị cám dỗ và thánh Gióp trong Cựu Ước đã bị ma quỷ xin phép Thiên Chúa cám dỗ để xem lòng trung thành của ông đối với Thiên Chúa. Nhưng Adong, Evà đã bị thất bại vì nghe lời ma quỷ, còn thánh Gióp thì kiên trì trong thử thách, quyết trung thành với Thiên Chúa vì thế ma quỷ đã chào thua!
Ngày nay chúng ta thấy nhiều người quỵ ngã trước cám dỗ, kể cả các Kitô hữu. Thực ra, không phải con người yếu đuối hơn thời xưa. Nhưng sống trong một xã hội càng văn minh, tiến bộ người ta dễ bị lôi cuốn vào nhu cầu hưởng thụ, dễ dãi:
- Chọn loại băng dĩa nào đây? Loại lành mạnh hay là những loại "tươi mát" nhằm thoả mãn dục vọng?
- Chọn loại giải trí nào đây? Cờ bạc, đá gà, hay tìm đến những loại giải trí, môn thể thao hữu ích?
- Chọn ưu tiên đi đâu đây vào ngày Chúa Nhật? Đi lễ nhà thờ hay đi chơi, đi du lịch? v.v..
Ngày nay người ta đề cao tự do, nhưng rồi lèo lái để làm cả những việc sai trái, xem thường cả luân thường đạo lý: Tự do luyến ái trước hôn nhân, tự do sống với người khác như vợ như chồng của mình, tự do châm biếm đả kích người khác v.v...
4. Đối với người Kitô hữu, về phương diện nào đó, cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc sống. Từ xưa, người ta biết dùng lửa để thử vàng thật giả, người ta biết đáng giá lòng người, sức người qua thử thách. Vì thế bước đường theo Chúa cám dỗ không hẳn luôn là có hại, mà là phương thế để toi luyện lòng người. Ta vẫn nghe câu nói:"bạn trong lúc khó khăn mới là bạn tốt". Trong đời sống thiêng liêng, giữa muôn vàn thử thách, nếu chúng ta vẫn trung thành với lời Thiên Chúa dạy, vẫn chọn Người là trên hết, thì chúng ta mới là người con thảo của Người, là người bạn thân của Đức Giêsu. Các thánh, nhất là các thánh tử đạo đã minh chứng cho chúng ta rất rõ điều này, chúng ta vẫn có thể thực hiện điều này trong cuộc sống chứng nhân giữa đời thường.
5. Đức Giêsu, Ngài không những nêu gương mà còn chỉ rất rõ con đường để chúng ta khỏi rơi vào cạm bẫy của ma quỷ, như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Ngài đã dạy: "Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng". Như thế nhìn nhận lỗi lầm của chúng ta (ăn năn, vì chúng ta để mình rơi vào cám dỗ của ma qủy) chưa đủ, mà còn phải thay đổi nếp sống cũ bằng cách tin vào Đức Giêsu và tích cực thực hiện những điều Người dạy.
Cụ thể trong Mùa Chay này, nhờ ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta ra sức thực hiện: ăn chay (đền tội); cầu nguyện (gia tăng sự gắng bó với Thiên Chúa); và thực thi bác ái (gia tăng tình liên đới với tha nhân). Đây là những phương thế hữu hiệu để khỏi rơi vào chước cám dỗ và dẫn đưa chúng ta đến con đường trọn lành. Amen.
83.Chúa Nhật I Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Nếu chúng ta có đi ngang qua bến phà Mỹ Thuận cách đây khoảng mười năm, chúng ta sẽ thấy công trình Cầu mỗi ngày một hoàn chỉnh thêm. Mọi người đều vui mừng chờ ngày được đặt chân vượt qua chiếc cầu để sang sông mà không phải chờ đợi từng chuyến phà để vượt giòng nước chảy như cắt nữa. Nhưng tôi suy nghĩ một điều: rồi đây sẽ có một số người không biết phải làm gì khi chiếc cầu đã được thông thương. Trong số đó có những người bán hàng rong hằng ngày, những người có những hàng quán cố định để phục vụ cho người đi lại qua bến phà. Chắc chắn giờ đây họ phải ngồi lại, suy tính để tìm một giải pháp thích hợp cho cuộc sống mới. Ngày giờ sẽ đến và họ không thể làm gì khác hơn là phải thay đỗi cuộc sống. Tôi thiết nghĩ: không ai ngoan cố đến nỗi, vẫn cứ bám lấy cuộc sống cũ, vẫn cứ thi hành nghề nghiệp cũ của mình, cho dù thời thế có thay đỗi thế nào đi nữa. Nếu như thế thì họ đã chọn con đường tự đào hố để chôn chính mình. Không ai muốn như thế bao giờ. Trái lại ngay từ bây giờ, và có lẽ đã từ lâu, họ đã chuẩn bị để từ bỏ nếp sống cũ, bước vào đời sống mới tốt đẹ hơn. Đó là sự khôn ngoan thông thường của cuộc sống.
"Thời kỳ đã mãn, nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy ăn năn sấm hối và tin vào Tin Mừng." Lời Chúa đã kêu gọi đân Do Thái cách đây hơn 2000 năm. Kêu gọi họ ăn năn sấm hối, quây trở về với Chúa, bỏ nếp sống cũ mà thi hành đời sống mới tốt đẹp hơn. Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi suông, nhưng Ngài đã làm gương, đã vào sa mạc yên tĩnh, để nhìn lại đời sống đã qua và tìm hướng đi tốt cho những ngày sắp tới. Ngài đã làm hết mọi cách, những gì có thể làm được, không bao giờ Ngài từ chối, cho dù phải hy sinh đến cả mạng sống. Nhưng Ngài cũng hoàn toàn tôn trọng sự tự do của con người. Mọi sự Ngài đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ cần con người biết nghe theo và hành động nữa thì tất cả mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhưng đã trải qua 2000 năm lịch sử, mặc dù có rất nhiều người đã thay đỗi cuộc sống. Đồng thời cũng có rất nhiều người vẫn cứ liều mình bám vào đời sống chẵng mấy tốt đẹp, mặc dù họ vẫn biết đó là con đường tự tiêu diệt chính mình. Họ vẫn cứ bám lấy và không chịu thay đỗi.
Hôm nay chúng ta đã bước vào mùa chay. Thiên Chúa kêu gọi mỗi người ăn năn sám hối, vì nước trời đã gần đến. Không phải nước trời đến cho chúng ta nhìn thấy. Nhưng nước trời đến bất chợt đối với từng người trong chúng ta. Ai trong chúng ta cũng biết điều đó và biết rất rỏ. Vậy mà lời kêu mời nầy đã vang động bên tai chúng ta không biết bao lâu và cũng không biết bao nhiêu lần. Thế mà dường như chúng ta chẵng cần biết đến làm gì, vì nó làm cho chúng ta cảm thấy khó chịu khi phải nghe những lời như thế. Đôi khi nó còn làm cho mình quen quá hóa ra nhàm chán và không cần để ý đến. Vậy chúng ta cũng giống như những người ở bến phà Mỹ thuận, biết làm ăn không được mà vẫn cứ cố lì không chịu tìm cách để thay đỗi cuộc sống cho thích hợp. Chúng ta cứ suy nghĩ xem: Đã bao nhiêu mùa chay đã qua trong đời sống của mình rồi, chúng ta đã nghe bao nhiêu lần lời kêu gọi ăn năn sám hối. Chúng ta cũng nghe không biết bao nhiêu lần lời thông báo nước trời đã gần đến. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng: đó chỉ là lời nói cho người khác, chứ không phải nói cho chính mình. Thử nhìn lại cuộc sống của mình xem, chúng ta đã thực hiện như thế nào đối với lời mời gọi đó. Nếu đới sống chúng ta vẫn cứ bình thường như từ trước đến nay, không có gì đỗi mới cũng không có gì tiến bộ, đó là mình chưa ăn năn sám hối, chưa biết thay đỗi cuộc sống cho tốt đẹp. Nhưng mà, tôi có gì đâu để sám hối, tôi có làm gì xấu đâu để mà thay đỗi, ông nọ bà kia mới cần thay đỗi, mới cần sám hối. Đó là những lời chúng ta thường tự nói với chính mình như thế. Nhưng đó cũng là một cách làm cho con người của mình trở nên chai lì khô cứng không thể thay đỗi được. Như vậy làm sao chúng ta có thể chuẩn bị sẵn sàng, để đón nước Thiên Chúa đã gần đến. Nếu giờ nầy bất ngờ Chúa kêu gọi, mỗi người sẽ trả lời ra sao về sự chuẩn bị của mình.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe lời Chúa và biết nhìn thấy chính mình thật sự, để biết đỗi mới đời sống cho xứng đáng bước vào Nước Trời.
84.Chúa Nhật I Mùa Chay
Theo chu kỳ của phụng vụ, Mùa Chay bao giờ cũng bắt đầu bằng thứ tư Lễ Tro. Và hôm nay, chúng ta chính thức bước vào Chúa nhật thứ nhất của Mùa Chay. Ai trong chúng ta chẳng biết rằng Mùa Chay là mùa của sám hối và hoán cải. Nói cách khác, mùa chay là một hành trình của hoán cải. Hành trình đó được khởi đi từ trong sa mạc. Sa mạc là mảnh đất mênh mông đầy những thế lực thù nghịch. Sa mạc là nơi hoang vu, không nhà cửa, không người thân, không bạn bè, không lương thực, và còn nhiều cái không khác nữa. Vì thế một người khi bước vào trong sa mạc là bước vào 1 cuộc chiến đấu và đối diện với những cái không đó. Khó khăn! Thử thách! Cô đơn! Nhưng bên cạnh đó, sa mạc cũng còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa nữa.
Hôm nay thánh Marcô nói rằng Chúa Giêsu vào trong sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Người ở trong hoang địa 40 đêm ngày sống giữa loài dã thú. Thời gian 40 đêm ngày không phài là dài lắm. Nhưng với một người đang chịu thử thách, phải đối diện với những khó khăn, phải sống trong cô cơn thì đó là khỏang thời gian không phải là ngắn. Theo ngôn ngữ của Kinh Thánh: số 40 là con số hàm chứa nhiều ý nghĩa: là con số tượng trưng sửa soạn cho một cuộc khởi đầu mới. Nó gọi về những giai đoạn và cột mốc quan trọng trong lịch sử cứu độ: nước Đại hồng thuỷ đã tràn ngập mặt đất 40 ngày và 40 đêm, trước khi Thên Chúa lập giao ước với ông Noe và dòng dõi. Trong suốt 40 ngày và 40 đêm là khoảng thời gian ông Môsê chuẩn bị trên núi Sinai lãnh nhận lề luật của Giao ước trước khi truyền lại cho dân. Trong suốt 40 năm, đám con cháu và dòng dõi của tổ phụ Abraham và Giacóp được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập đã dong duỗi hành trình trong sa mạc trước khi tiến vào đất Hứa. Cũng trong khoảng thời gian 40 đêm ngày, ngôn sứ Elia đã đi bộ về núi Hôrép, núi của Thiên Chúa để lãnh nhận sứ mạng tái lập Giao ước.
Chúa Giêsu đã trải qua một gai đoạn đầy cam go và thử thách trong sa mạc. Và chính vì phải sống trong giai đoạn như thế, nên trong nội tâm của Chúa Giêsu lập tức xuất hiện một cám dỗ muốn tìm một thoải mái, dễ chịu. Một cám dỗ rất người và rất đời thường! Thế nhưng Chúa Giêsu của chúng ta đã vượt qua. Người đã thắng được cái nóng cái, cái lạnh, cái đói, cái khát và đã hoàn tòan làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác. Có lẽ anh chị em và các bạn nói rằng: Tại vì Đức Giêsu là Chúa mà nên Người dễ dàng vượt qua những cám dỗ đó, đồng thời chế ngự được những đòi hỏi của xác thân. Nhưng xin anh chị em đừng quên. Xin đừng quên rằng ngoài bản tính là Thiên Chúa, thì ở bên cạnh và bên trong một Thiên Chúa đó vẫn còn có đó một Giêsu rất người. Người vẫn có những nhu cầu và những đòi hỏi của thân xác giống như chúng ta. Bằng chứng là sau cơn cám dỗ đó, Người cảm thấy đói. Hơn nữa, ỏ trong vuờn Giêtsêmani, khi đứng trước khổ hình thập giá, Người đã khiếp sợ. Sợ đến chảy mồ hôi, nặng như những giọt máu rơi xuống đất. Và cũng chính trong giây phút hoảng sợ đó, chính người đã phải thốt lên một lời rất thê thảm nhưng rất đẹp: " Abba! Cha ơi! Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều cha muốn" Ở đời ai dại gì lại tìm cho mình đau khổ, mất mát thiệt thòi mà không thích tìm sự tiện nghi thoải mái và dễ chịu. Vì đó là nhu cầu của thân xác.
Và để có được sự tiên nghi, thoải mái và dễ chịu thì phải có tiền, phải có quyền. Bởi lẽ, người ta thường nghĩ rằng khi tôi có tiền thì tôi sẽ có tất cả. Khi tôi có quyền thì tôi tha hồ mà tự tung tự tác, tha hồ tác quai tác quái. Thế cho nên những cám dỗ mà Chúa Giêsu trải qua hôm nay, mặc dù thánh Marco không nói chi tiết cho bằng thánh Matthêu và thánh Luca, nhưng tôi tưởng rằng đấy là những cơn cám dỗ của tiền bạc, của quyền lợi, của kỷ thuật(khuyng hướng của thời đại hôm nay, người ta muốn thay thế và chối bỏ quyền của Thiên Chúa bằng Kỷ Thuật trị (Technocracy), mà người ta quen gọi là những cám dỗ của danh, lợi, thú, thì lúc nào cũng vẫn là những cám dỗ rất lớn và rất mạnh của mọi thời và cho mọi người.
Và chính vì nhu cầu căn bản mà lại rất lớn đó mà người ta tìm đủ cách để đáp ứng cho bằng được bằng nhiều cách, bằng nhiều con đường khác nhau. kể cả bằng những con đường phi nhân nhất, tàn bạo nhất, mất đạo đức nhất.
Kính thưa ông bà, anh chị em và các bạn, hôm nay, trong sa mạc, Chúa Giêsu đã vượt qua được những cám dỗ là những đòi hỏi của thân xác. Hình ảnh sa mạc ngày xưa của Chúa Giêsu gọi về những sa mạc hôm nay trong đó luôn luôn có những cám dỗ bủa vây chúng ta.
Những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới.
Cám dỗ của chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu.
Cám dỗ muốn tách mình ra khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Cám dỗ của sự khước từ Thiên Chúa và thay thế bằng thần Mamon và con người muốn làm trung tâm của thế giới.
Cám dỗ của khép kín, chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình.
Cám dỗ của im lặng vì sợ liên luỵ
Cám dỗ giả mù trước thật hiển nhiên.
Cám dỗ của thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân.
Cám dỗ muốn sống một đời tầm thường và buông thả
Cám dỗ của hưởng thụ và tiện nghi.
Cám dỗ của tiền
Cám dỗ của quyền
Cám dỗ của thế gian......
Và cám dỗ nào cũng rất tinh vi.
Vậy làm sao để ta nhận diện đâu là những cám dỗ đó. Và bằng cách nào để ta vượt qua?
Kính thưa ông bà anh, chị em và các bạn!
Hôm nay khi thuật lại việc Chúa Giêsu đi vào trong sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ, có một chi tiết không thể bỏ qua. Chi tiết này đáng lý tôi phải nói đầu tiên trong bài chia sẻ này, nhưng tôi cố ý nói sau cùng. Chi tiết đó là: Thánh Marco bắt đầu câu chuyện Tin Mừng bằng cách nói rằng: Thánh Thần liền đẩy Người vào trong sa mạc. Hay lắm! Cho nên tất cả 40 ngày trong sa mạc, trong chay tịnh và những cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã trải qua và Người đã chiến thắng là nằm trong tác động của Thánh Thần. Tác động của Thánh Thần chính là điều mà người công giáo vẫn quen gọi bằng một cụm từ khác thay thế: đời sống thiêng liêng, đời sống thuộc linh- thuộc về Chúa Thánh Thần.
Thế cho nên, thưa ông bà, anh chị em và các bạn! Trong Chúa nhật thứ nhất của Mùa Chay này, tôi nghĩ lời chúa nói với chúng ta không gì khác hơn là một lời mời gọi chúng ta: Hãy lấy lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu. Đó là kinh nghiệm lắng nghe tác động của Thánh Thần. Đó là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta khi đối diện với những cám dỗ của đời thường, chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua. Và Thánh thần nói với chúng ta khi nào và ở đâu, nếu không phải là trong sa mạc và trong thinh lặng.
Cuối cùng! Ước gì chúng ta hãy buông mình để cho Thánh Thần tác động. Và một khi chúng mình được Thánh Thần tác động, tâm hồn ta sẽ được đổi mới, được bình an, thanh thoát và nhẹ nhàng. Nếu được như thế, chúng ta sẽ cảm nhận bên cạnh mùa sám hối và hoán cải, mùa chay còn là "Mùa Xuân Thánh Thiện". Amen.
85.Hãy sửa đổi đời sống và tin vào tin mừng
Một đôi vợ chồng đã sống với nhau 25 năm và xem ra họ là một cặp xứng đôi vừa lứa hoan hỷ long phụng. Hai vợ chồng có việc làm tốt. Họ cùng nhau đi nhà thờ mỗi Chúa Nhật và cầu nguyện mỗi tối trước ngày họ về hưu. Song giữa họ có một vấn đề xem ra khó mà vượt qua, đó là cứ mỗi lần nói chuyện là một lần họ cãi nhau. Cuối cùng, bà vợ như đã ứ tới cổ, đương nhiên vì đạo giáo họ không thể ly dị, nên bà mới nghĩ ra một cách. Vào buổi tối kia khi hai người bắt đầu buổi cầu nguyện chung thì bà nói với ông chồng, "Tôi và ông không thể tiếp tục sống mà cứ cãi cọ với nhau như thế này mãi được, chúng mình phải chấm dứt tình trạng này ngay. Nhân đây là ngày đầu tiên của mùa Chay, tại sao tôi và ông không cầu xin Chúa làm ơn thay đổi cách sống này. Vợ chồng mình hãy cầu xin Chúa gọi một người trong chúng ta về với Ngài".
Với lối ý kiến như thế ai cũng thấy điều bà vợ nói là sai với tinh thần của mùa Chay, bởi vì điều thiết yếu của mùa Chay là hồi tâm để canh tân thay đổi chiều hướng ý tưởng cũ của cuộc sống để đời sống tương lai tốt lành hơn. Chúng ta nghe Chúa gọi ta đi một hướng, còn ma quỉ thì quyến rũ ta về lối khác; câu hỏi là "ta theo ai", sự quyết định lệ thuộc vào ta hoàn toàn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nghe Chúa Cha gọi Ngài theo một hướng sau khi chịu phép rửa và rồi ma quỉ quyến rũ Ngài theo hướng khác. Chúa Giêsu ở một mình nơi hoang địa, sau bốn mươi ngày dài ăn chay thì sức Ngài yếu đi và là dịp may cho Satan cám dỗ bởi khi ấy Ngài rất đói. Ngay lập tức những hình ảnh cám dỗ thoả mãn tính xác thịt theo đuổi Ngài. "Tại sao không biến những hòn đá kia thành bánh? Ta có thể làm điều đó và hơn nữa khỏi phải đói!" Sau những ngày một mình trong hoang địa làm Ngài cảm thấy cô đơn. "Tại sao Ta không làm cái gì đó kỳ lạ để mọi người chú ý? Chẳng hạn nhảy từ ghềnh đá cao này xuống dưới vực sâu mà không bị thương tổn? Chà chà, người ta sẽ nhìn thấy và kéo đến đông biết chừng nào, khi ấy Ta hết cô đơn!" Bốn mươi ngày Ngài tự xét đã nhìn thấy những ý tưởng về công cuộc truyền bá của Ngài. "Tại sao Ta không là một anh hùng dũng sĩ như người ta mong chờ nơi Đấng Thiên Sai? Ta sẽ đầy quyền hành và giàu có. Ta có thể làm điều ấy và sẽ không còn nỗi sợ bất an nữa!" Những quyền lực hung mãnh trên sa mạc thế giới cho chúng ta biết rằng đơn hành trên sa mạc mà thiếu các dự bị thiết yếu thì chỉ có hai cách chọn: một là cố tự bảo vệ cho đến khi trợ giúp tới, hai là để cho sự sợ hãi chiếm lĩnh. Một chuyên gia thám hiểm sa mạc đã viết: "Chỉ có người đã tự chuẩn bị cho mình đầy đủ mới có thể sống sót qua sa mạc". Chúa Giêsu đã không hoảng sợ khi mình Ngài đi qua hoang mạc và Ngài cũng chẳng lo âu khi đối mặt với sức mạnh cám dỗ ghê gớm của ma quỉ. Ngài đã tự chuẩn bị cho mình cách hoàn hảo nhất, như Thánh Kinh đã cho ta biết "Ngài đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày". Theo truyền thống của Cựu Ước, ăn chay là một cử chỉ tôn giáo cao cả với ý muốn tăng thêm sức mạnh ý chí qua cầu nguyện và chiêm ngắm. Như thế, bằng cách tự thanh luyện tâm hồn mình qua ăn chay cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chọn lựa cách hành động luân lý rõ ràng với chủ ý theo tiếng gọi và chiều hướng trong công cuộc truyền bá Tin Mừng của Ngài. Ngài đã nói, "Hãy xéo đi Satan! Vì có lời Thánh Kinh đã viết: Ngươi chỉ tùng phục một Thiên Chúa mà thôi, và chỉ tôn thờ một mình Ngài" (Mt 4,10).
Đời sống là những chuỗi dài của núi cao và thung lũng. Chẳng ai trong chúng ta có thể trốn tránh hết những kinh nghiệm hoang mạc, đó là những giờ phút ta cảm thấy tâm hồn bơ vơ trống vắng, lạnh lẽo cô đơn. Chắc chắn rằng, vào những giờ phút đó, cầu nguyện là điều cần thiết nhất cho chúng ta.
Mặc dầu chúng ta có sợ hãi trong cô đơn lẻ loi và thất bại trong cuộc tìm kiếm để thoát cảnh lạnh giá của cuộc sống, nhưng chúng ta đừng thất đảm. Chúng ta cần cầu nguyện, cần phải thôi nói với chính mình để có thể nghe được tiếng của Chúa là Cha nói trong tâm hồn chúng ta. Trong hoang mạc của đời sống vô nghĩa xem ra mọi cái đều trở nên tiêu tan, vô mục đích, vô ý nghĩa, nó tựa như một trò đùa ghê tởm bao bọc chúng ta bởi quyền lực bên ngoài mà chúng ta không hiểu nổi. Chỉ có một lối thoát, một lối tìm ra ý nghĩa xác thực và cùng đích của cuộc sống của chúng ta; chỉ có một con đường để tìm ra ta là ai và ta phải làm gì, đó là lắng nghe và lắng nghe tiếng Chúa Kitô trong tâm hồn ta. Có thể sẽ phải trải qua bốn mươi ngày đêm hoặc sẽ lâu hơn thế nữa để Tin Mừng của Chúa thấu nhập tâm hồn, nhưng điều quan trọng cần thiết là ta phải tiếp tục lắng nghe không nản lòng. Khi ta ngừng nghe tiếng Chúa thì là lúc ta thiếu chuẩn bị để xua đuổi sự nguy hiểm của thất đảm, nỗi trống rỗng sẽ bao bọc và là dịp thuận tiện để ma quỉ tiến vào đánh giết chúng ta.
Cơn cám dỗ có thể là ước muốn một mình ra đi, ta có thể đi qua ánh sáng không cần Chúa. Nó là sự cám dỗ khi nói rằng chúng ta có thể tự tìm ra câu trả lời "tại sao" cho cuộc sống; và nó là sự cám dỗ làm chúng ta tự hình thành những "thần tượng" nhỏ bé trong tâm hồn chúng ta. Ta phải tự nói với chính mình rằng, "Tôi cần Thiên Chúa nói cho tôi biết tôi là ai, tại sao tôi như vầy và tôi sẽ đi về đâu? Tôi cần Thiên Chúa dẫn đưa tôi ra khỏi sự trống rỗng đến ánh sáng tạo dựng của Ngài và Ngài nói cho tôi biết sự toàn hảo của tôi nằm ở đâu? Hãy tránh xa ta đồ quỉ dữ Satan, vì ngay từ đầu Thiên Chúa là Đấng tạo dựng trời đất, tất cả... Ta chỉ tôn thờ một mình Ngài".
Gặp gỡ và theo Chúa Kitô trong việc tìm kiếm Nước Chúa trước tiên là một sự thay đổi tính chất cuộc sống của chúng ta, nó không đơn giản chỉ là tăng thêm cái gì đó vào đời sống; song đúng hơn là một tính chất mới mẻ nảy sinh trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết là chúng ta đón nhận nguyên cuộc sống mới, một quà tặng từ Quyền Năng của tương lai đó chính là Thiên Chúa Cha của chúng ta. Mỗi giây phút ta sống không chỉ là cái gì nối tiếp từ quá khứ song là một sự tạo dựng mới. Mỗi hơi ta thở không chỉ là hoạt động sinh lý tự nhiên nhưng là hành động đón nhận từng món quà từ chính sự sống. Món quà của sự sống mới này, chúng ta có được từ cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Kitô, vĩnh viễn bất tận ngay cả sự chết cũng không làm gì được.
Đó chính là sự thành quả hy vọng, công chính được thoả mãn, tình yêu được tràn đầy, chân lý sẽ toàn thắng.
86.Cám dỗ
Để bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại trường hợp vượt ngục rất đặc biệt của một tù nhân. Đúng thế, ông ta bị nhốt trong một ngọn tháp thật cao và trong phòng thì lại không có một phương tiện nào để có thể leo xuống. Vậy ông ta đã làm gì?
Để vượt ngục, mỗi ngày ông ta chỉ nhổ có hai sợi tóc và xe lại với nhau. Sau một thời gian, ông ta đã làm được một sợi dây bằng tóc khá dài. Ông ta thả sợi dây tóc ấy xuống qua cửa sổ nhà tù. Ở dưới, một người bạn thân đã chờ sẵn. Người bạn này đã buộc một sợi chỉ dài vào đầu sợi dây tóc. Rồi cuối sợi chỉ, người ấy lại buộc thêm một sợi dây vải dài. Cuối sợi dây vải, người ấy buộc một dây thừng nhỏ và cuối sợi dây thừng nhỏ, người bạn ấy buộc một dây thừng to. Sau đó, tù nhân ở trên ngọn tháp cao bắt đầu kéo lên. Hết sợi dây tóc, thì nắm lấy sợi dây chỉ. Hết sợi dây chỉ thì nắm lấy sợi dây vải. Hết sợi dây vải, thì nắm lấy dây thừng nhỏ. Hết dây thừng nhỏ thì nắm lấy dây thừng lớn và ông ta đã dùng dây thừng lớn này để mà vượt ngục cách an toàn trong một đêm trời tối.
Kể lại câu chuyện này, tôi thấy đó cũng chính là đường lối ma quỉ vốn thường dùng để cám dỗ chúng ta. Thực vậy, rất ít khi ma quỉ cám đỗ chúng ta phạm tội trọng ngay từ lúc đầu. Nếu làm thế, ma quỉ sẽ khiến cho chúng ta sợ hãi. Nó cứ từ từ mà tiến. Lúc đầu nó chỉ cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ, rồi sau đó một lỗi lớn hơn và cuối cùng nó mới dẫn chúng ta đến tội trọng.
Chẳng hạn một anh chàng ghiền sì ke. Đâu có phải chỉ trong một sớm một chều mà đã ghiền như dân chuyên nghiệp. Lúc đầu nó cám dỗ anh ta lân la với những người bạn xấu, rủ rê anh làm thử một điếu cho biết mùi đời. Sau một điếu, rồi hai điếu, rồi ba điếu, để cuối cùng trở thành dân ghiền lúc nào cũng không hay biết. Chợt tỉnh và hối tiếc thì cũng đã quá muộn: Trót vì tay đã nhúng chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
Ma quỉ cũng cứ từ từ mà tiến. Nó không bao giờ cám dỗ chúng ta làm hai điều xấu cùng một lúc. Trai lại, sau khi cám dỗ chúng ta làm điều này, nó vẫn còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta lài điều kia. Từ cám dỗ này, nó đưa chúng ta đến cám dỗ khác và những cám dỗ khác nữa. Cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta phạm tội trọng.
Chẳng hạn nó cám dỗ một người rơi vào vòng cờ bạc. Sau khi đã mê cờ bạc, thì về nhà sẽ đánh vợ chửi con, làm cho gia đình bị tan nát. Và nếu gia đình nghèo, không có tiền để tiếp tục cuộc chơi, thì sẽ sinh ra gian tham và trộm cắp.
Suy nghĩ về trường hợp của Chúa Giêsu, chúng ta thấy ma quỉ cũng áp dụng một chiến thuật như thế. Nó không cám dỗ Ngài quì xuống thờ lạy Satan ngay lúc đầu. Trái lại, cám dỗ thứ nhất nó bảo Ngài làm phép lạ khiến những hòn đá trở nên bánh, để khơi dậy những ước muốn về của cải vật chất. Cám đỗ thứ hai nó bảo Ngài gieo mình xuống khỏi nóc đền thờ, để khơi dậy những ước muốn về quyền hành. Và sau cùng nó mới bảo Ngài quì xuống thờ lạy nó, để khơi dậy sự chối bỏ Thiên Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, nó không cám dỗ chúng ta ăn cắp một món tiền lờn, khi chưa đưa chúng ta vào thói quen ăn cắp lặt vặt, như tục ngữ đã bảo: Bé không vin, cả gẫy ngành. Bé ăn cắp một trái trứng, thì lớn lên sẽ ăn cắp một con bò.
Bởi đó, đừng khinh thường những sai lỗi nhỏ mọn. Rất có thể vì những sai lỗi nhỏ mọn hôm nay mà ngay mai chúng ta sẽ quay phản bội cùng Chúa.
87.Hoang địa
Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa, Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày và chịu Satan cám dỗ. Hoang địa hay sa mạc là một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Vậy thì nó có ý nghĩa gì?
Trước hết, hoang địa hay sa mạc là nơi thử thách. Thực vậy, đọc lại Cựu ước, chúng ta thấy dân Do Thái, trên đường trở về miền đất hứa, đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm. Trong thời gian này, trước những gian nan thử thách, họ đã bị cám dỗ rời bỏ Chúa để chạy theo những thần tượng ngoại lai. Và rất nhiều lần họ đã bị khuất phục, đã chịu thua để rồi quỳ gối thờ lạy con bò vàng, như chúng ta đã thấy.
Còn Chúa Giêsu thì khác, chính tại hoang địa, ngài đã bị Satan cám dỗ, nhưng cả ba lần Ngài đều chiến thắng. Sự chiến thắng của Ngài là một bài học, là một mẫu gương cho chúng ta suy nghĩ và bắt chước. Hãy khiêm nhường, hãy tin tưởng vào quyền năng Chúa và hãy sám hối ăn năn để chúng ta cũng sẽ vượt qua được những cám dỗ mà chúng ta gặp phải.
Charles de Foucauld đã tâm sự với cha Huvelin như sau: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi đã mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người từ sa mạc trở về và nói: Anh hãy quỳ gối xuống và xưng thú tội lỗi đã. Charles de Foucauld đã vâng lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, cuộc đời của vị sĩ quan bê tha tội lỗi này đã hoàn toàn đổi mới. Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa, thì tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Ngài. Không phải chỉ là nơi thử thách, hoang địa hay sa mạc còn là nơi để chúng ta sống thân tình với Chúa.
Thực vậy, suốt bốn mươi năm trong sa mạc, dân Do Thái đã được Thiên Chúa thương, thực hiện biết bao nhiêu việc kỳ diệu, chẳng hạn hướng dẫn họ bằng áng mây cột lửa, đưa họ qua biển đỏ, trao ban cho họ mười điều răn làm giao ước, nuôi sống họ bằng manna bởi trời, chữa họ khỏi hiểm họa rắn độc… Thế nhưng, dân Do Thái rất nhiều lần đã không hiểu được tình thương tuyệt vời ấy, để rồi đã quay lưng chống lại Chúa.
Còn Chúa Giêsu hôm nay, Ngài vào hoang địa để sống gắn bó mật thiết với Chúa Cha trong tâm tình cầu nguyện và chay tịnh. Còn chúng ta thì sao, Thiên Chúa thường nói với chúng ta trong thinh lặng và chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Đồng thời chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới tâm sự kết hiệp với Ngài. Bởi đó, giữa dòng đời huyên náo, chúng ta hãy biết dành lấy những khoảnh khắc thinh lặng để vào sa mạc, để vào hoang địa, bằng cách sống tâm tình cầu nguyện để kín múc được nguồn sinh lực, nhờ đó chúng ta sẽ vượt qua được những cám dỗ và thử thách của cuộc đời.
88.Cuộc chiến
Sau khi Chúa Giêsu được Chúa Cha công bố là “Con yêu quý” thì “Thần Khí dẫn Người vào trong hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người”.
Thật là một đoạn văn lạ lùng! Tại sao đoạn này được đọc cho chúng ta nghe trong Chúa Nhật đầu Mùa Chay? Phải chăng vì nó nói đến thời gian bốn mươi ngày của Chúa Giêsu? Có lẽ đó là một lý do nhưng còn có những ý nghĩa khác nữa.
Trong chương hai của sách Sáng Thế, trình thuật sáng tạo bắt đầu trong nơi hoang vắng và Ađam kiểm soát các loài thú vật. Hoang địa là nơi dân Israel đã bị thử thách và bị cám dỗ sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập và được tự do. Hoang địa cũng là nơi các loài thú dữ đe dọa những người lữ khách. Nó cũng được xem là nơi các quyền lực của thần dữ thống trị được biểu tượng qua các loài thú dữ. Hoang địa là nơi Satan, kẻ thù của Thiên Chúa, ngự trị.
Với cái nhìn như thế đoạn Tin Mừng lạ lùng hôm nay trở nên đầy ý nghĩa. Thần khí đưa Chúa Giêsu vào hoang địa: Chúa Giêsu đến không phải để sống một cuộc đời dễ dãi nhưng là một cuộc sống chiến đấu với tất cả những gì là sự dữ. Chính nơi mà dân Israel đã chịu thất bại thảm thương trong cuộc thử thách thì Chúa Giêsu sẽ chiến thắng. Cũng giống như Ađam trong vườn địa đàng xưa, Chúa Giêsu là Ađam mới cũng kiểm soát các thú dữ, tức là kiểm soát được sự dữ. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa chiến đấu với sự dữ, chiến thắng sự dữ và sáng tạo một cái mới.
Chúng ta cần rút ra bài học áp dụng khi đọc bài Tin Mừng này trong Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Cũng giống như Chúa Giêsu, sau khi chịu bí tích Rửa tội chúng ta vào trong “hoang địa’ của thế gian này, nơi chúng ta phải đương đầu với cám dỗ và sự dữ. Vấn đề là chúng ta đương đầu với hoang địa của chúng ta như thế nào? Chúng ta có vượt qua thử thách như Chúa Giêsu hay chịu thất bại như dân Israel ngày xưa? Chúng ta có đủ sức mạnh để loại bỏ mọi cám dỗ của Satan, kẻ muốn chúng ta chống lại Thiên Chúa, và trung thành với bổn phận mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta hay không? Chúng ta chế ngự và kiểm soát các thú dữ, tức là các đam mê, các dục vọng và thói quen xấu của chúng ta như thế nào?
Trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi này tôi có thể xác định được căn tính của tôi chưa? Tôi có hành động giống như ma quỷ, kẻ chống lại kế hoạch của Thiên Chúa, bởi vì tôi nghĩ là tôi biết rõ hơn không? Hay tôi giống như một con thú dữ, không nhận biết Thiên Chúa và cứ đi theo con đường bạo lực của mình? Hoặc tôi giống như các thiên thần, những vị trợ giúp Chúa Giêsu, để trung thành phụng sự Thiên Chúa và nhận ra vai trò của Chúa Giêsu trong kế hoạch của Thiên Chúa? Mặt khác, đoạn Tin Mừng này còn nhắc nhở cho chúng ta nhiều điều khác nữa đó là Satan luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta, nó chống lại Thiên Chúa và lôi kéo chúng ta theo nó. Các thú dữ, tức là những đam mê của chúng ta cũng làm cho chúng ta không lưu tâm gì đến Thiên Chúa nữa. Mặt khác, chúng ta cũng có các thiên thần luôn trợ giúp chúng ta trong việc phụng sự Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ đến nhiều vấn đề, đặc biệt là trong Mùa Chay này. Chúng ta hãy sống như Chúa Giêsu, can đảm, mạnh mẽ để sẵn sàng dâng hiến bản thân cho việc phụng sự Thiên Chúa và tha nhân.
89.Dã thú
Một ngày nọ, lạc đà con nói chuyện với lạc đà mẹ như sau, “Mom! Tại sao bàn chân của mẹ con mình lại có 3 ngón chân to tổ chảng vậy?” Lạc đà mẹ trả lời, “Để chúng mình băng qua sa mạc cát mềm mà không bị lún chứ làm sao!” “Và tại sao chúng mình có bộ lông mi dài lượt thượt và nặng nề quá vậy?” “Để cát khỏi rơi vào mắt trên những hành trình dài trong sa mạc đó con!” “Và Mom, tại saochúng mình lại phải mang những cái bướu quá bự trên lưng vậy?” Bây giờ thì lạc đà mẹ không còn kiên nhẫn nổi để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của thằng con nữa, nhưng cũng cố trả lời, “Chúng nó giúp chúng mình dự trữ những chất béo cho những cuộc du hành dài, nhờ đó mà mẹ con mình không cần nước trong một thời gian rất lâu ở sa mạc!” “Đúng vậy, con biết rồi!” lạc đà con nói, “Chúng mình có ngón chân bự để không bị lún dưới cát, lông mi dài để tránh cát bụi khỏi rơi vào mắt, và những cái bướu trên lưng để chứa nước. Vậy thì, Mom! Tại sao chúng ta lại ở đây, trong cái sở thú của Toronto này?
Đời sống văn minh hiện đại làm cho chúng ta có cảm giác giống như con lạc đà trong sở thú. Chúa ban cho ta khối óc để suy nghĩ, nhưng bây giờ đã có máy computer nghĩ hộ chúng ta rồi! Chúa ban cho ta con tim để yêu thương tha nhân, nhưng đã có những cơ quan từ thiện làm việc bác ái rồi! Đôi khi chúng ta cần đi vào trong “sa mạc” để khám phá lại chúng ta thực sự là ai? Mùa chay mời gọi chúng ta đi vào trong cái cảm nghiệm của loại “sa mạc” này.
Sa mạc hay hoang địa là nơi sinh trưởng của dân Thiên Chúa. Dân Do Thái, là những bộ lạc tản mác tha phương đã trốn thoát khỏi đất Ai cập trở về miền Đất Hứa như một quốc gia dưới quyền lực của Thiên Chúa. Chính ở trong sa mạc mà họ đã trở thành dân Thiên Chúa với lời giao ước. Trong dòng lịch sử, khi nào tình yêu và lòng trung thành của họ đối với Thiên Chúa trở nên lạnh nhạt, thì các tiên tri đề nghị họ trở về sa mạc để khám phá lại cái căn tính của mình là ai, giúp họ ý thức về ơn gọi và sứ mệnh của mình, làm thức tỉnh đức tin và củng cố sự liên hệ đã giao ước giữa họ với Thiên Chúa. Những đại tiên tri như Elijah và Gioan Tẩy giả là những vị tiên tri của sa mạc: họ sống trong sa mạc, ăn thức ăn sa mạc, và chấp nhận một lối sống đơn sơ và khắc nghiệt trong sa mạc. Sa mạc là trường đại học nơi Thiên Chúa dạy dỗ dân Ngài.
Lời Chúa hôm nay trích từ Phúc âm của thánh Máccô. Sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa, và Ngài ở đó suốt 40 đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú; và các thiên thần hầu hạ Ngài”. Phúc âm của Matthêu và Luca diễn tả quỷ dữ cám dỗ và thách thức Chúa Giêsu dùng quyền lực phục vụ cho nhu cầu riêng tư của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã khước từ và nói, “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Ngài mà thôi”. Còn Phúc âm của Máccô, thay vì diễn tả những chi tiết của sự cám dỗ, chỉ nói vắn tắt trong câu: “Sống chung với dã thú”. Dã thú là những con thú nào?
Theo các nhà tu đức thì những con dã thú đó không phải là những con dã thú ở bên ngoài chúng ta, nhưng ở trong lòng ta. Chúng là những con dã thú của bẩy mối tội đầu như kiêu ngạo, hà tiện, ghen tuông, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh.
Những quyền lực này đè nặng trên chúng ta khi chúng ta quyết định làm bất cứ việc gì. Đời người giống như cuộc sống giữa sa mạc với đầy những “dã thú”. Chúng ta bị vây hãm xung quanh bởi một bên là những hoàn cảnh khó khăn, còn một bên là những cám dỗ mời gọi. Chúng ta cần sức mạnh để chống lại những thù nghịch, những gì đang tạo ra cho chúng ta một cảm giác an bình giả tạo. Hôm nay chúng ta thử đối diện với “những con dã thú” mà chúng ta thường xuyên phải chiến đấu trong đời sống tâm linh.
1. Sự ngã lòng.
Nếu ví cuộc đời giống như sa mạc, nơi hoang địa với nhiều dã thú, khó khăn và chông gai, thì chúng ta cảm thấy phải chiến đấu thường xuyên và liên tục. Cuộc đời chất đầy những gánh nặng và đòi hỏi. Không bao giờ giải quyết hết các chuyện rắc rối. Lúc nào cũng có vấn đề. Nhưng chúng ta phải lưu ý rằng trong khi Chúa Giêsu sống với các dã thú thì Thánh Kinh nói rằng “các thiên thần hầu hạ Ngài”. Nói cách khác, Chúa Giêsu không cô đơn, một mình. Ngài đã chiến đấu với dã thú bằng sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài có sức mạnh, tràn đầy sức mạnh. Sức mạnh của Thiên Chúa hướng dẫn: “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa”. Chính Chúa Thánh Thần và các lực lượng thiên thần cũng sẽ hướng dẫn và gia tăng sức mạnh cho chúng ta chiến đấu kiên trì với những khó khăn và cám dỗ trong cuộc đời.
Selma Lagerloeff trong huyền thoại “The Flanme”, đã kể câu chuyện về chàng hiệp sĩ, sau cuộc chiến thành công vào Thánh Địa, anh đã làm một lời thề hứa. Anh thắp lên một cây nến lấy từ ngọn lửa thánh tại ngôi mộ của Chúa Giêsu, và mang nó trở về quê quán của anh ở tỉnh Florence, nước Ý Đại Lợi mà vẫn còn cháy sáng. Quyết định này đã biến đổi anh trở thành một con người mới. Nó biến đổi anh từ một người lính hiếu chiến thích đánh nhau trở thành một con người yêu chuộng hòa bình.
Trên đường trở về nhà chàng hiệp sĩ đã bị bọn cướp bóc lột, anh đã không rút gươm ra chống cự. Anh đã hứa cho chúng bất cứ những gì anh có miễn là chúng không dập tắt ngọn nến cháy của anh. Bọn cướp đã tước đoạt áo giáp, thanh gươm, con ngựa yêu quý và tiền bạc của anh. Chúng chỉ để lại cho anh một con ngựa già. Sau khi đã trải qua tất cả các kinh nghiệm của sự nguy khốn, anh đã cưỡi con ngựa già về đến Florence. Để bảo vệ ngọn lửa không bị tắt bởi những cơn gió trong sa mạc, anh đã phải ngồi quay lưng lại với con ngựa, và dùng thân mình để che chở cho ngọn lửa.
Khi những tên đểu cáng trong thị xã trông thấy anh cưỡi ngựa ngược như vậy, chúng nghĩ anh là một tên điên khùng, và ra sức đùa nghịch để dập tắt ngọn lửa. Nhưng anh đã làm tất cả sức mình để có thể giữ ngọn lửa cháy sáng. Và sau cùng, anh đã mang nó về đến nhà thờ chính tòa, và dùng nó để thắp lên tất cả những cây nến trên bàn thờ của nhà thờ chính tòa Florence. Khi người đốt đèn ở nhà thờ hỏi anh đã phải làm gì để giữ ngọn lửa khỏi tắt, anh trả lời, “Ngọn lửa nhỏ bé này sẽ đòi hỏi tất cả sự chú tâm của anh; nó sẽ không cho phép anh nghĩ về bất cứ điều gì khác. Và anh sẽ không có thể cảm thấy an toàn một giây phút nào cả. Anh phải luôn luôn chiến đấu. Bất kể là ngọn lửa có thể đã bảo vệ anh tránh khỏi biết bao nhiêu nguy hiểm, anh phải luôn tỉnh thức để ngăn ngừa ngọn lửa không bị đánh cắp mất khỏi anh”.
2. Sợ hãi
Nỗi sợ hãi lớn nhất cho người bộ hành trong sa mạc là mất phương hướng, không biết đường đi. Cái nhìn của họ trở nên mờ ảo. Họ nhìn ánh nắng chói chan trước mắt như là những ao hồ mông mênh ngập nước. Ao giác làm cho con người trở nên nghi ngờ, mất niềm tin, và sau cùng dẫn đến hoang mang sợ hãi. Chỉ có đức tin và lòng trông cậy phó thác mới chiến thắng được sợ hãi. Tin rằng Thiên Chúa luôn yêu thương ta và muốn điều tốt đẹp nhất cho ta. Tin vào một Thiên Chúa luôn ở bên ta, đi với ta cho dù gian nguy. Tin rằng quỷ dữ không có quyền lực gì trên ta, nó chỉ có quyền vì ta ban cho nó mà thôi. Nó không thể bắt chúng ta làm điều gì được, ngoài sự cám dỗ cho chính chúng ta phạm tội. Chúng ta có tự do để từ chối, có sức mạnh để chống trả.
“Đừng sợ!” là sứ điệp nhắc đến trên 300 lần trong Phúc âm. Khi Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước đến với các môn đệ, các ông hoảng sợ, Ngài nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” Thiên thần Gabriel đã nói với Đức Maria: “Hỡi Maria, xin đừng sợ!” Thiên thần cũng đã nói với Giuse: “Đừng sợ đón Maria vợ ông về”. Vào ngày sống lại, Chúa Giêsu cũng đã hiện ra với các tông đồ và nói: “Sao anh em lại hoảng sợ… Chính Thầy đây mà!”
3. Sự tiêu cực
Đây chính là thái độ khiến chúng ta không thể thành công khi làm bất cứ việc gì, hay bất cứ việc gì chúng ta đang làm cũng sẽ đi sai lệch. Gần đây tôi lắng nghe một cuốn băng cát-sét do một nhà giảng thuyết nổi tiếng tên là Zig Ziglar. Ziglar nói rằng điều ngăn ngừa chúng ta khỏi niềm hy vọng và sự tích cực về cuộc đời chính là thái độ của chúng ta. Thái độ tiêu cực có tính cách truyền nhiễm giống như cơn bệnh nhiễm trùng. Chúng ta càng tiêu cực bao nhiêu thì tình huống càng trở nên thống khổ và hỗn loạn bấy nhiêu. Thái độ tích cực lúc khởi sự của một ngày, hay của bất cứ công việc gì sẽ định hình cho tất cả phần còn lại của trọn cả một ngày hay sự thành công của công việc sẽ kéo dài về sau.
Frederick Ebright đã chia sẻ kinh nghiệm đối với thái độ tâm lý của mình như sau: “Khi tôi cảm thấy thật buồn, tôi viết một lá thư cho người bạn nói với người ấy tất cả những chuyện rắc rối của tôi. Tôi không gửi lá thư đó đi. Nhưng tôi bắt đầu viết lá thư thứ hai gửi cho cùng một người, trong đó tôi cẩn thận bỏ đi bất cứ điều nào đã đề cập đến những điều không may, và thay vào mỗi rủi ro đó một chút tin vui. Vào lúc lá thư này được viết ra, một phép lạ đã xảy ra: tôi thực sự cảm thấy tốt hơn. Và vì một lá thư vui tươi luôn luôn phát sinh ra một sự đáp trả phấn khởi, tôi đã hoàn tất một mục đích lưỡng tiện”.
Mùa chay là thời gian để cảm nghiệm về sa mạc hay hoang địa. Chúng ta không cần phải có lạc đà đi vào sa mạc, nhưng chúng ta có thể tạo ra một khoảng không gian hoang địa cho chúng ta ngay giữa những xô bồ ồn ào của cuộc sống. Hằng ngày chúng ta có thể tìm ra một chỗ, dành ra một chút thời gian một mình với Thiên Chúa. Nơi yên tĩnh chúng ta sẽ biết mình là ai, biết những điểm mạnh và điểm yếu, biết “thiên thần” xung quanh cùng “những con dã thú”, lắng nghe tiếng Chúa gọi và lời cám dỗ của Satan, khám phá lại chúng ta là ai trước mặt Thiên Chúa.
90.Cám dỗ
Buổi chiều ngày cuối tháng 10 thường được người Mỹ và các nước có ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, có nghĩa là ngày mừng lễ các thánh. Có lẽ đã là điều còn rơi rớt lại của những ngày lễ ngoại giáo bắt nguồn từ thời của những người Santies trước Công Nguyên mà ngày lễ vọng các thánh mang một màu sắc ảm đạm ma quái. Trong các cửa tiệm, trưng bày những mặt nạ quái dị, những hình nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần chết, những màng nhện trắng xóa giăng ra khắp nơi, các đồ chơi của trẻ em cũng được khoác lên những nét ma quái, kinh dị, trên màn ảnh truyền hình cũng như tại các rạp chiếu bóng, đa số các phim trình chiếu đều mang nội dung quái đản, kinh dị.
Buổi tối ngày Halloween, thanh niên thiếu nữ thường cải trang thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau nghe những chuyện ma quái. Phải chăng mỗi năm, người ta muốn dành một ngày để nhắc nhớ đến sự hiện hữu và tác quái của thần dữ? Nhưng ngày nay người ta còn ý thức được tội lỗi và sự tác động của thần dữ, tức là ma quỷ hay không? Thi sĩ Bô-đơ-le của Pháp đã có lần nói: “Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục được con người rằng chúng không hề hiện hữu”. Với những khám phá mới trong ngành tâm lý học cũng như bệnh lý học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám mà Thánh Kinh nói đến đều chỉ là những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay con người có thể tìm ra nguyên nhân.
Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự hào là đã loại trừ được ma quỷ ra khỏi cuộc sống. Rất tiếc con người ngày nay ít được chứng kiến những vụ quỷ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Tuy nhiên, dù muốn dù không, tất cả đều không thể từ chối có một sức mạnh luôn tác động trong tâm trí con người, lôi kéo con người đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi, mãi mãi câu nói của thánh Phaolô vẫn đúng trong kinh nghiệm của mỗi người: “Điều thiện tôi muốn làm thì tôi không làm, điều ác tôi không muốn làm thì tôi lại làm”. Có một sức mạnh vô hình nào đó luôn lôi kéo, xúi giục con người vào tội ác, sức mạnh vô hình đó chính là Satan, là ma quỷ, và chiến thuật hay phương thế ma quỷ sử dụng để lôi kéo, xúi giục chúng ta phạm tội là cám dỗ.
Ma quỷ thường cám dỗ chúng ta thế nào? Ma quỷ rất khôn khéo, quỷ quyệt và kiên nhẫn, vì chúng là các thiên thần sa ngã. Chúng áp dụng nhiều chiến thuật và nhiều cách thế khác nhau, tùy tuổi tác, tính tình, tùy hoàn cảnh để xúi giục chúng ta nghe theo chúng mà phạm tội. Rất ít khi ma quỷ cám dỗ chúng ta phạm tội ngay từ đầu, vì làm thế chúng ta sẽ sợ hãi không dám phạm, nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ trước, rồi mới dẫn chúng ta đến chỗ phạm tội trọng. Đàng khác, không bao giờ ma quỷ cám dỗ chúng ta làm hai điều một trật, để chúng còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta phạm tội kia, nghĩa là chúng cám dỗ thế nào để từ cơn cám dỗ này đưa đến một cơn cám dỗ khác, rồi một cơn cám dỗ khác nữa, và cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng ta sa ngã và phạm tội.
Về chiến thuật cám dỗ của ma quỷ, người ta thường kể câu chuyện sau: ma quỷ khôn khéo như một phạm nhân bị giam trên một cái tháp rất cao, không thể nào trèo xuống được, vậy mà anh ta đã thoát thân được bằng một cách rất tài tình: mỗi ngày anh nhổ hai sợi tóc và xe lại với nhau, sau một thời gian anh đã có một sợi dây tóc dài, anh thả xuống qua cửa sổ, bên dưới, người bạn của anh buộc một sợi dây lụa rất nhẹ vào đầu sợi dây tóc, cuối sợi dây lụa lại buộc một sợi dây gai, cuối sợi dây gai lại buộc một sợi dây thừng nhỏ, cuối sợi dây thừng nhỏ là một sợi dây thừng lớn, bằng sợi dây thừng này, phạm nhân đã tụt xuống đất trốn thoát được. Đó chính là đường lối cám dỗ mà ma quỷ áp dụng, chúng ta giam các dục vọng của chúng ta, nhưng ma quỷ giúp các dục vọng đó vượt ngục dần dần. Trong thực tế chúng ta không thấy rõ thứ tự hay tiến trình tuần tự như thế, nhưng nói chung, tất cả các cám dỗ phạm tội đều như vậy.
Chúng ta phải xử trí ra sao khi bị cám dỗ? Đành rằng ma quỷ cám dỗ chúng ta, nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỷ và xác thịt, đó là ba kẻ thù ghê gớm. Ma quỷ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình, đồng ý của chúng ta hay không? Tức là chúng ta có chấp nhận hay ngả theo những chước cám dỗ hay không, đó là chính ý chí của chúng ta. Vậy, trước hết, chúng ta phải đề phòng và xa tránh các dịp nguy hiểm, các cơ hội, các lý do, các hoàn cảnh, những người, những vật… có thể đưa đẩy chúng ta đến chỗ phạm tội. Rồi, nếu bị cám dỗ, chúng ta phải mau lẹ chống trả ngay từ đầu, chống trả cách cương quyết, đừng chần chừ, trì hoãn, và nhất là phải cầu nguyện nhiều để xin Chúa ban ơn trợ giúp. Nếu chẳng may thất bại, nghĩa là sa chước cám dỗ, phạm tội, chúng ta phải lập tức đứng dậy ngay, nghĩa là hối hận, ăn năn, xưng tội, xin Chúa tha thứ và cố gắng hơn nữa để khỏi tái phạm.
Chúng ta chẳng ai thoát khỏi cám dỗ, chỉ khác nhau ở chỗ có sa chước cám dỗ hay không, vì vậy, trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải luôn cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi ác thần, xin giúp chúng con khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta phải luôn cầu xin Chúa như thế, nhất là khi gặp chước cám dỗ.
91.Đứa con của kẻ vô thần
Vào tháng 5 năm 1980, tuần báo Time có đăng tải câu truyện nổi tiếng mang tựa đề "Đứa Con Của Kẻ Vô Thần Tìm Thấy Thiên Chúa". Đứa con đó là William Murray. Khi Murray đi học, mẹ cậu là bà Madalyn Murray tại Baltimore, Maryland, đã ra toà kiện chống việc cầu nguyện và đọc Thánh Kinh trong các trường học công cộng. Vụ án này đã được đến tận Toà Án Tối Cao Pháp Viện, và kết quả là mọi hình thức cầu nguyện và đọc Thánh Kinh tại các trường học công cộng của toàn quốc Hoa Kỳ phải chấm dứt.
Sau này khi lớn lên, Murray còn tiếp tục thành lập các cuộc vận động chống đối Thiên Chúa bằng việc cho xuất bản những tạp chí vô thần.
Thế nhưng, Murray đã được ơn trở lại. Một đêm vào trước Lễ Giáng Sinh, William Murray nằm mơ một giấc mộng tỏ tường về Thánh Kinh. Giấc mơ này đã thức tỉnh ông. Cảm nghiệm của giấc mơ này thật xúc động, đến nỗi ông đã chỗi dậy ra khỏi giường và lái xe đến một tiệm sách tại San Francisco. Ông viết: "Tôi đã tìm thấy cuốn Thánh Kinh. Tôi lái xe về nhà và đọc Phúc Âm theo Thánh Luca. Tại đây, tôi đã tìm thấy... Đức Giêsu Kitô." Từ đêm hôm đó, cuộc sống của Murray được biến đổi.
Sau khi trở lại, ông viết một bức thư cho tờ báo Baltimore Sun. Ông xin lỗi với toàn thể dân chúng về việc ông đến Toà Tối Cao Pháp Viện xin cấm việc cầu nguyện và đọc Kinh Thánh tại các trường học Hoa Kỳ. Ông nói trong bức thư: "Trong khi suy xét lại cuộc đời 33 năm sống ngoài đức tin, tôi chỉ còn biết cầu xin, với sự phù giúp của Chúa, cho tôi được hoàn chỉnh lại những lầm lỗi và điều xấu xa mà tôi đã gây ra do sự thiếu lòng tin của tôi."
Câu chuyện này là một bài quảng diễn sống động những gì Chúa Giêsu có ý nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Thời giờ đã gần đến. Nước Thiên Chúa đã gần kề. Hãy thống hối, và tin vào Tin Mừng."
Đấy chính là những gì William Murray đã làm. Ông đã sám hối về tội 33 năm làm một kẻ vô thần, không tin vào Phúc Âm và không biết đặt Chúa Giêsu Kitô làm trung tâm điểm đời sống.
Những gì Murray đã làm chính là những gì mà bài Phúc Âm hôm nay kêu mời chúng ta phải thực hiện trong Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay này.
Nó kêu mời chúng ta thống hối đời sống mà đã không đặt Chúa Giêsu làm trung tâm điểm. Nó kêu mời chúng ta tái khám phá ra cuốn sách mà đã chưa luôn chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của ta.
Nói một cách đơn giản hơn, bài Phúc Âm hôm nay kêu mời chúng ta hãy làm cho Mùa Chay là thời kỳ phúc lành đặc biệt của riêng từng cá nhân.
Có bao nhiêu Kitô hữu, thì có bấy nhiêu phương thức để đáp trả lại. Tuy nhiên, xin chỉ xét hai cách thức sau đây:
Phương thức đầu tiên là tìm cuốn Kinh Thánh và đọc Phúc Âm theo Thánh Luca từ đầu cho đến hết trong Mùa Chay này. Anh chị em có thể làm việc này bằng cách đọc một đoạn mỗi tối.
Phương thức thứ hai để đáp trả lại cách cụ thể là lãnh nhận Bí Tích Hoà Giải vào lúc nào đó trong Mùa Chay. Vì trong khi lãnh nhận bí tích này, chúng ta thực thi chính xác những gì Chúa Giêsu kêu mời chúng ta làm trong các bài đọc hôm nay. Chúng ta bày tỏ cách cụ thể lòng thống hối và lòng tin tưởng của ta vào Phúc Âm.
Đấy chính là bày tỏ lòng sám hối về tội lỗi và biểu lộ lòng tin tưởng của ta rằng, Chúa Giêsu Kitô ao ước tha thứ cho chúng ta và nâng đỡ chúng ta khởi đầu một đời sống mới.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng để nhìn thấy chính chúng con như Ngài thấy chúng con vậy. Trên hết mọi sự, xin ban cho chúng con ơn can đảm để biển đổi chính chúng con như chính Ngài muốn chúng con biến đổi.
92.Yếu tố con người
Khi mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập dòng nữ thừa sai bác ái, khởi sự công cuộc phục vụ những người hấp hối tại thành phố Calcutta bên An độ, thì vấn đề lớn nhất gặp phải đó là tìm cho ra nơi chốn để chăm sóc họ. Chính quyền địa phương chỉ có thể dành cho công việc xã hội này khu nhà trọ của khách hành hương tại đền thờ kính thần Kali, mà lúc bấy giờ đang là nơi chứa chấp bọn trộm cắp và xì ke.
Thế rồi một nguồn tin bất lợi được tung ra:
- Người đàn bà ngoại quốc này có ý đồ lôi kéo những người nghèo An độ theo Công giáo.
Trước nguồn tin này, một nhóm người đã kéo đến tòa thị chính để phản đối, còn một nhóm khác thì đến trụ sở cảnh sát để yêu cầu trục xuất người đàn bà đó.
Viên cảnh sát trưởng hứa sẽ giải quyết vụ này. Đích thân ông tới xem xét ngôi nhà. Ông thấy mẹ Têrêxa đang chăm sóc một bệnh nhân có những vết thương, vì lâu ngày không được chạy chữa, nên xông ra mùi hôi thối chịu không nổi. Thế mà vị nữ tu này vẫn nghiêng mình cặm cụi rửa ráy, lau chùi và băng bó như cho chính mình vậy.
Trở về trụ sở, ông gặp lại những người biểu tình và nói:
- Tôi hứa sẽ trục xuất người đàn bà ngoại quốc này ra khỏi khu vực đền thờ kính thần Kali, nhưng trước khi hành động, tôi chỉ xin mỗi người hãy đem theo mẹ hoặc chị em tới chăm sóc cho những người hấp hối đáng thương kia, thay thế cho người mà tôi được yêu cầu để trục xuất.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào phần kết của đoạn Tin mừng hôm nay, qua đó Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta:
- Hãy sám hối và tin vào Phúc Am.
Thế nhưng chúng ta phải sám hối như thế nào?
Nói tới sám hối là chúng ta nghĩ ngay tới việc ăn năn những lầm lỗi mình đã phạm để rồi quay trở về cùng Chúa.
Tuy nhiên quay trở về cùng Chúa mà thôi chưa đủ, tâm tình sám hối còn đòi hỏi chúng ta phải quay trở về cùng anh em. Hòa giải với Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải hòa giải với người khác, vì tất cả chúng ta đều là anh em, con cùng một cha, sống trong cùng một gia đình, đó là cộng đồng nhân loại.
Thực vậy, trong toàn thể các tạo vật thì con người được Thiên Chúa đặc biệt chú ý đến…Bởi vì con người luôn mang trong tâm hồn mình một khát vọng sâu thẳm.
Với tư cách là thụ tạo, vì được dựng nên cho Thiên Chúa, nên con người sẽ luôn thao thức cho tới khi được an nghỉ nơi Ngài. Đằng khác, vì được dựng nên do cùng một nguồn gốc, con người không thể khước từ đồng loại của mình.
Chính vì thế mà việc sám hối đòi chúng ta vừa hòa giải với Chúa, lại vừa hòa giải với anh em. Vừa trở về cùng Chúa lại vừa trở về với anh em đồng loại.
Mẹ Têrêxa thành Calcutta chăm sóc cho những người hấp hối cũng chỉ làm một công việc bình thường, đó là sống trung thực ơn sám hối toàn diện nói trên.
Hãy hòa giải cùng Chúa và hòa giải cùng người khác. Hãy trở về với Chúa và hãy trở về với anh em mình. Đó chính là sứ điệp chúng ta cần phải làm ngay trong mùa chay này.
93.Ngoại trừ tội lỗi
Janet Frame là một tiểu thuyết gia người New Zealand. Trong suốt những năm đầu đời, bà đã phải chịu đựng những chứng bệnh về tâm lý, và vừa mới thoát khỏi cảnh bị ép buộc phải phẫu thuật thùy não. Cuối cùng, bà vào một bệnh viện ở Anh để điều trị. Tại đó, bà may mắn gặp được một bác sĩ rất hiểu biết, đã giúp đỡ bà phục hồi. Bằng cách nào vị bác sĩ đó khác hẳn với nhiều bác sĩ khác mà bà đã từng gặp? Bà nói:
“Tôi rất dễ chịu vì biết rằng bác sĩ của tôi là một người không e ngại thừa nhận và bày tỏ tư tưởng kỳ lạ rằng nói cho cùng, ông ấy cũng là con người, và ông không thể làm gì được hơn, và khi giả vờ như mình là thần thánh, thì cũng không thể thay thế được điều đó.
Trong bệnh viện đó, việc quản lý bao gồm những vị bác sĩ mà chính họ cũng bị cản trở do không đủ tư cách pháp lý. Những bác sĩ này có thể dễ dàng liên hệ với các bệnh nhân của họ”.
Chúng ta không thể học hỏi được lòng thương xót, khi không biết thế nào là đau khổ. Chúng ta không thực sự hiểu được lòng thương xót là gì, hoặc không thể an ủi một người nào đó đang chịu đau khổ, trừ phi chúng ta đã từng đau khổ. Chúng ta không thể lau khô những giọt nước mắt của người khác, trừ phi chúng ta đã từng khóc lóc. Chúng ta không thể giúp đỡ những người lầm đường lạc lối tìm được con đường của họ, trừ phi chúng ta đã từng bước đi trong tăm tối. Khi đã từng chịu đau khổ, chúng ta mới có thể trở thành một con người mở đường cho người khác.
Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu đã bị cám dỗ. Bức thư gửi tín hữu Do thái nói rằng Đức Giêsu đã trở nên “hoàn toàn giống như anh em Người về mọi phương diện”. Nơi Người, chúng ta có một vị thượng tế có thể cùng với chúng ta cảm nhận được sự yếu đuối của chúng ta; bởi vì Người đã từng bị cám dỗ bằng mọi cách giống như chúng ta, mặc dù Người không phạm tội. Đức Giêsu có thể đồng hóa với chúng ta. Người giống như chúng ta trong tất cả mọi sự và mọi cách, ngoại trừ tội lỗi. Người đã bị cám dỗ giống như chúng ta. Người không được miễn khỏi bị khổ sở, đau đớn, thất vọng… Người đã nếm thử thành công, thất bại, và cả cái chết. Người không khước từ bất cứ niềm vui nào của chúng ta, Người chỉ khước từ tội lỗi mà thôi. Đây là mầu nhiệm sâu xa nhất về tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giêsu hoàn toàn là con người, nhưng điều đó không có nghĩa là Người chỉ là người mà thôi. Sự kiện Người không phạm tội không có ý nói rằng Người thiếu bất cứ tính cách nào của nhân loại. Tội lỗi không phải là một yếu tố thuộc về bản chất con người. Trái lại. Tội lỗi là sự sa ngã nơi bản tính nhân loại. Ngoài ra, Người còn chia sẻ sự yếu đuối và chước cám dỗ của chúng ta nữa. Bởi vì chính Người đã từng bị cám dỗ, nên Người thấu hiểu chúng ta, và có thể giúp đỡ chúng ta. Do đó, chúng ta có thể tin tưởng đến gần Người, trong sự nhận biết rằng chúng ta sẽ được Người thương xót, và được đón nhận ân sủng trong những lúc chúng ta cần.
94.Bị cám dỗ bởi việc lành
Những côn trùng và ruồi bị hương thơm của chất ngọt quyến rũ. Nhiều lần, chúng phát hiện rằng theo sau hương thơm của chất ngọt, có thể dẫn chúng đến một cuộc sống bị giam hãm hoặc tệ hại hơn. Do không thể kháng cự lại hương thơm, chúng bò vào bên trong một bông hoa, chỉ để đắm mình trong phấn hoa, để rồi chúng không thể trở ra được nữa.
Có thể bạn nghĩ rằng điều này không bao giờ xảy ra với con người chúng ta. Chúng ta quá tinh khôn để không bị sa ngã vào điều đó. Sự kiện đáng buồn là chúng ta lại vẫn cho phép điều đó xảy ra. Giống như những con ong, chúng ta cũng bị hương thơm của chất ngọt quyến rũ.
Ý nghĩa phổ biến của chước cám dỗ là lôi kéo con người làm điều sai trái. Khi nghĩ đến chước cám dỗ, ngay tức khắc chúng ta nghĩ đến những điều xấu xa. Tuy nhiên, không chỉ có sự dữ mới có thể đưa chúng ta đi lạc đường. Những việc tốt đẹp vẫn có thể cám dỗ chúng ta một cách đầy hiệu quả. Trên thực tế, tất cả những chước cám dỗ đều đến dưới chiêu bài là việc tốt đẹp. Và sức mạnh của một chước cám dỗ tỉ lệ với sức quyến rũ của mục đích.
Không phải chỉ khi nào đường đi khó khăn và rải đầy chướng ngại vật, chúng ta mới không tiếp cận được mục đích, nhưng khi đường đi dễ dàng và trải đầy những nét quyến rũ, chúng ta cũng vẫn bị như vậy. Trong trường hợp thứ hai, chúng ta bị cám dỗ coi con đường đó như trò đùa. Chúng ta tự cho phép mình đi sai đường, sao cho trước khi nhận ra điều đó, chúng ta đã quên mất mục đích, và lãng phí sức mạnh của mình. Những vinh hoa trần thế làm mất đi sự quyến rũ của hạnh phúc thiên đàng. Trong Tin Mừng, không thiếu những ví dụ về điều này.
Một dịp kia, Đức Giêsu kêu gọi một người giàu có trở thành môn đệ của Người, nhưng người đó đã từ chối. Không phải sự dữ đã làm cho anh ta từ chối – anh ta không làm điều gì xấu xa cả. Nhưng anh ta từ chối chỉ vì một điều gì đó tốt đẹp – sự giàu có.
Khi Đức Giêsu đi vào nhà của Marta và Maria, Marta quá bận rộn, nên không thể lắng nghe Người nói được. Không phải do điều gì đó xấu xa đã làm cho bà không nghe được lời Người, mà là một việc làm tốt đẹp, thậm chí đáng khen nữa – những công việc bày tỏ lòng hiếu khách. Đức Giêsu kể một câu chuyện về những người khách từ chối lời mời đến dự tiệc. Khi từ chối, họ không hành động do những động cơ xấu xa, nhưng do những động cơ tốt đẹp. Người thì muốn đi thăm mảnh đất mà họ mới tậu được. Người khác lại muốn thử con bò mới mua. Người thứ ba thì vừa mới cưới vợ. Tuy nhiên, mặc dù những nguyên nhân của họ đều tốt hảo cả, thì hậu quả vẫn như thể họ là những người tồi tệ – họ đã để cho bữa tiệc trôi qua.
Trong dụ ngôn về người gieo hạt, Đức Giêsu nói rằng một số hạt bị chết ngạt do gai góc. Những “bụi gai” này bao gồm cái gì vậy? “Những lo lắng và quan tâm đến thế gian này, và sự quyến rũ của giàu sang”. Một lần nữa, những điều này không phải tự chúng xấu xa. Từ tất cả những điều này, chúng ta phải suy ra điều gì? Đó là chúng ta có thể có nhiều điều đáng e sợ từ việc tốt cũng như việc xấu. Sau hết, khi nhận thấy một điều nào đó rõ ràng là xấu, thì chúng ta phải cự tuyệt nhiều hơn là bị điều đó lôi cuốn. Do đó, điều này đặt ra nhiều nguy hiểm hơn. “Khi dát vàng vào đôi cánh chim, thì nó sẽ không bao giờ bay được”. Những điều cám dỗ chúng ta từ bỏ mục đích của mình không phải lúc nào cũng luôn luôn xấu xa. Thông thường, đó lại là điều tốt đẹp. Vì thế, thật khó mà kháng cự lại được. Những sự chọn lựa đau thương nhất thường ở giữa điều tốt và điều xấu. Quỉ dữ không xuất hiện giống như một nhân vật đáng ghê tởm. Nhưng nó xuất hiện như một nhân vật hấp dẫn, đáng mến, dễ thương, thậm chí là một người bạn nữa. Nó xuất hiện để đem lại ý thích tốt đẹp nhất trong tâm hồn bạn – như khi nó dâng bánh và tất cả các nước trên thế giới cho Đức Giêsu. Chúng ta cần có sự khôn ngoan và sức mạnh, để có thể kháng cự lại những chước cám dỗ, đặc biệt đối với những cám dỗ đến dưới chiêu bài tốt đẹp.
95.Tái tạo cuộc sống
Lần kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố thủ đô, thì có một người ăn xin đến, anh ta liền hỏi xin vị vua chút ít tiền. Vị vua không hề cho người đó một đồng nào cả. Thay vào đó, vua mời anh ta đến lâu đài thăm viếng ông. Người ăn xin nhận lời mời của nhà vua.
Đến ngày hẹn, người ăn xin tìm đường đi đến cung điện, và được đưa đến gặp nhà vua, anh ta bỗng nhận ra quần áo rách rưới của mình, và cảm thấy xấu hổ. Đây là một biểu tượng hùng hồn về tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống của anh.
Vốn là một loại người đặc biệt, nhà vua đón tiếp anh ta một cách nồng nàn, tỏ lòng thương xót anh, và ban cho anh ta một bộ quần áo mới, cùng với những thứ khác. Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn xin vẫn lê lết trên đường phố xin ăn trong bộ quần áo rách nát của anh ta.
Tại sao anh ta lại bỏ bộ quần áo mới? Bởi vì anh biết rằng khi mặc bộ quần áo đó, có nghĩa là anh phải sống một cuộc sống mới. Điều đó có nghĩa là anh phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn xin. Nhưng anh chưa được chuẩn bị để làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới không hấp dẫn đối với anh. Nó rất hấp dẫn. Chỉ vì anh biết rằng một sự thay đổi trong cuộc sống sẽ cần phải từ từ, gây đau xót và không chắc chắn. Nói cách khác, anh quá quen thuộc với thói quen cũ, đến nỗi không thay đổi được.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống của chúng ta. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình, tùy thuộc vào những thói quen đã có từ nửa đầu cuộc đời mình. Điều đó sẽ đem lại sự thoải mái cho người nào có những thói quen xấu.
Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào đó trong tâm hồn của tất cả chúng ta. Hình ảnh Đức Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc gây xúc động cho chúng ta. Nhưng cũng bắt buộc chúng ta phải nhìn vào cuộc sống của mình. Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình. Nhưng những nỗ lực của chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa. Nếu muốn mặc một cái áo mới, thì chúng ta phải vứt bỏ cái áo cũ. Việc mặc cái áo mới sẽ lôi kéo theo một lối sống mới.
Nếu mong muốn thay đổi những khía cạnh bên ngoài cuộc sống, thì trước hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư tưởng bên trong của chúng ta. Sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói quen mới thay thế vào những thói quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết làm chủ bản thân, và tự bắt mình phải thực hiện những gì cần thiết. Trước hết, thông qua sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta có thể hoàn tất được sự thay đổi tâm hồn theo lời mời gọi của mùa chay.
Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện luôn luôn phù hợp, nhưng những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa chay. Đây là thời gian của ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội lớn cho mọi người. Đó là “Mùa xuân thánh thiện” của Giáo hội. Trong suốt mùa chay, những người dự tòng được chuẩn bị nhận lãnh phép Rửa tội, để được tái sinh trong Đức Kitô. Đây là một thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là thời kỳ của niềm vui lớn lao, tương tự như mùa xuân vậy. Trong khi chúng ta nỗ lực tiến tới Mùa Phục Sinh, thì mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.
Vậy chúng ta phải làm gì? Nói tóm lại, chúng ta phải quay trở về với sức mạnh của tình yêu. Sống tử tế, hành động theo lẽ phải, và bước đi một cách khiêm tốn cùng với Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta dẹp bỏ được những mảnh rách của tội lỗi, để Người có thể mặc cho chúng ta chiếc áo mới của sự sống.
96.Cầu nguyện để vượt qua cám dỗ--Huệ Minh
Ngày còn bé, chẳng được đi đâu xa, chỉ quanh quẩn ở Sài Gòn và vài vùng lân cận. Chính vì thế, chẳng biết được đường đèo trắc trở là gì? Chỉ nghe ai đi về kể hay chỉ xem trên màn hình của TV.
Lớn lên một chút, có dịp đi hành hương La Vang để thăm Mẹ. Chính nhờ chuyến đi La Vang đó mà tận mắt thấy được nhiều đoạn đường quanh co và nguy hiểm. Có lẽ trắc trở nhất chính là đoạn đường đèo Hải Vân.
Khi đi qua đường đèo Hải Vân, đâu đó hai bên đường người ta lập những miếu thờ để thờ những nạn nhân không may mắn. Tai nạn xảy ra có thể bất cẩn từ phía người lái nhưng cũng có khi bất cẩn từ người thợ máy, kỹ thuật xe để làm cho chiếc xe không đủ an toàn khi leo đèo và nhất là khi xuống đèo. Chính vì sự chểnh mảng, thờ ơ hay cẩu thả đã để lại những tai nạn khôn lường và đáng tiếc.
Trên con đường đèo, dọc theo đường đèo, ta thấy rất nhiều bảng cảnh báo, nhiều bảng chú ý để cảnh báo người lưu thông nhằm tránh gây tai nạn đáng tiếc. Với mức độ nguy hiểm như vậy, dĩ nhiên những ai đi trên đèo đều hết sức cẩn thận, tỉnh cáo và đề cao cảnh giác đến mức tối đa.
Khi đi hành hương chung với nhau, với những người tâm linh theo đạo Công Giáo chắc có lẽ có thói quen lần chuỗi, cầu nguyện để cho mọi chuyện tốt đẹp khi lên đèo và tạ ơn Chúa và Mẹ sau khi đổ đèo được an toàn.
Thường là như vậy, khi bước lên xe, khi đi qua những đoạn đường nguy hiểm người ta thường đọc kinh cầu nguyện, xin ơn bình an. Cũng thế, ta thấy rằng khi cuộc sống của ta đứng trước bờ vực của sự nguy hiểm ta cũng ra sức cầu nguyện và xin ơn.
Con người là như vậy để rồi ta thấy chính Chúa Giêsu cũng như thế khi gặp những khó thăn, thử thách của cuộc đời.
Chúa Giêsu bước vào hoang địa để chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú. Nhưng, ta để ý, chính Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và rồi sau khi vào rồi thì có các Thiên Thần hầu hạ người.
Vấn đề lớn, vấn đề chính yếu đó chính là Thần Khí Chúa thúc đẩy, Thần Khí Chúa tác động và dĩ nhiên có ơn của Chúa Thánh Thần ở với Chúa Giêsu. Cùng theo đó, các Thiên Thần hầu hạ Chúa và điều đặc biệt hơn cả phát xuất tự nơi Chúa Giêsu đó chính là việc Chúa Giêsu đã ăn chay và cầu nguyện.
Giữa những thử thách của cuộc đời, chỉ có cầu nguyện và cầu nguyện thì khi đó ta kết hợp mật thiết với Chúa và khi đó ta mới vượt qua những cơn cám dỗ mà thôi. Chuyện dễ hiểu bởi lẽ trong ta luôn luôn có sự giằng co của con người xác thịt và con người Thần Linh.
Bản thân mỗi người Kitô hữu, khi lãnh bí tích Rửa Tội ắt hẳn được Thiên Chúa ghi dấu ấn trong đời và có Chúa ở cùng. Cạnh đó, mỗi người đều có một vị thiên thần bản mệnh đi theo mình để giúp mình, định hướng sống cho mình và giúp cho mình vượt qua những cơn gian nan thử thách trong cuộc đời.
Trải qua dòng chảy của lịch sử cứu độ, ta thấy cầu nguyện, ăn chay, hãm mình hết sức cần thiết cho đời sống tâm linh của mỗi người chúng ta. Như hơi thở của cuộc sống, cầu nguyện cũng như thế. Thân xác ta, nếu ta không khổ chế, ta không hãm mình thì ta sẽ dễ hưởng thụ để chu cấp những đòi hỏi cho thân xác này.
Cũng dễ hiểu vì lẽ con người là con người phàm xác thịt để rồi cứ bị giằng co của thân xác, đặc biệt với quyềm, danh, tình... Những thứ đó dường như nó giằng co, nó không chế con người. Nếu như con người không biết mình là ai, không biết được giới hạn của mình sẽ dễ đi vào con đường của hưởng thụ. Từ hưởng thụ đó, con người sẽ dễ buông mình để đi theo những cám dỗ của nó.
Lời thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa cất lên thật hay:
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường đi của Chúa;
xin dạy bảo con về lối bước của Ngài.
Xin hướng dẫn con trong chân lý và dạy bảo con,
vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ con.
Và như vậy, ta cứ mãi mãi chạy đến Chúa, xin Chúa hướng dẫn cuộc đời ta để ta luôn luôn kết hợp mật thiết với Chúa. Có như thế, ta mới có thể vượt qua những cơn cám dỗ bên đời ta.
17/02 Tin mừng của lòng thương xót.
- Viết bởi Lc 5, 27-32
Tin mừng của lòng thương xót.
Thứ Bảy sau lễ Tro.
“Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
Lời Chúa: Lc 5, 27-32
Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: “Hãy đi theo Ta”. Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài.
Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: “Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?” Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Kêu gọi người tội lỗi sám hối
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Việc Thầy Giêsu kêu gọi anh Lêvi làm môn đệ
phải được coi là một cuộc cách mạng lớn vào thời bấy giờ.
Chẳng ai gọi một người thu thuế bị xã hội khinh miệt vào nhóm của mình.
Làm thế là hạ giá chính Thầy và cả nhóm môn đệ.
Đức Giêsu đã vượt qua những biên giới ngăn cách rạch ròi
giữa tội lỗi và công chính, giữa thanh sạch và ô nhơ.
Người Do Thái thường không giao tiếp với các người thu thuế,
họ bị coi là tội nhân vì làm việc cho dân ngoại, vì dễ ích kỷ tham lam.
Đức Giêsu chẳng sợ mời anh Lêvi đi theo mình: “Anh hãy theo tôi.”
Ngài không nhìn anh bằng ánh mắt khác với các môn đệ kia.
Chỉ một lời mời của ngài đủ lấp đi mọi hố sâu ngăn cách.
Lêvi đã quảng đại đáp lại bằng hành động: bỏ tất cả, đứng dậy, đi theo.
Đối với người Do Thái, bữa ăn có tính thiêng liêng.
Đó là lúc người ta thông hiệp với nhau, nên một trong tình bạn.
và cùng chia sẻ với nhau một thứ đồ ăn, thức uống.
Chính vì thế ăn uống với người tội lỗi là điều không được phép,
vì điều ấy sẽ khiến mình bị ô nhơ.
Đức Giêsu có vẻ không sợ chuyện này,
khi ngài nhận lời ăn tiệc chia tay do anh Lêvi khoản đãi.
Bữa tiệc thật là lớn, có đông đủ bạn bè đồng nghiệp của anh.
Trong số khách mời có cả các môn đệ.
Đức Giêsu dám đến nhà người tội lỗi và ăn với họ.
Hẳn là ngài rất vui và tự nhiên, chẳng có gì phải e dè, xa cách.
Chỉ có những người Pharisêu là khó chịu và lẩm bẩm đặt câu hỏi tại sao.
Đức Giêsu sẽ cho họ thấy những lý do.
Vì những người thu thuế và tội nhân là những người đau yếu (c. 31).
Những người đau yếu mới cần đến thầy thuốc Giêsu.
Vì mục tiêu của đời Đức Giêsu là kêu gọi người tội lỗi sám hối (c. 32),
nên ngài phải đến với họ, gần gũi và chia sẻ, mời gọi và yêu thương.
Đức Giêsu cho họ thấy trái tim thật sự của Thiên Chúa.
Không như người Pharisêu nghĩ, trái tim ấy có chỗ cho tội nhân.
Đức Giêsu cũng dành chỗ cho anh Lêvi trong nhóm môn đệ.
Đức Giêsu giúp chúng ta biết cách mời người khác hoán cải.
Đến với họ, nhìn họ bằng cái nhìn mới, và vui vẻ làm bạn với họ.
Trước khi làm cho người khác hoán cải,
chính chúng ta phải hoán cải nơi cái nhìn của mình về người khác.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
Suy Niệm 2: Tin mừng của lòng thương xót
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hôm qua, I-sai-a đã chỉ cho ta cách ăn chay đẹp lòng Chúa là sống tình bác ái với tha nhân. Hôm nay I-sai-a còn đi xa hơn khi cho thấy tình yêu thương có sức biến đổi thế giới, sửa chữa và tái thiết thế giới bị hủy hoại, đem lại sự sống đã suy tàn. Ngài nói: “Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe dọa và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thỏa lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối.. Nhờ ngươi người ta sẽ tái thiết những tàn tích cổ xưa, ngươi sẽ dựng lại những nền móng của các thế hệ trước, người ta sẽ gọi ngươi là người sửa lại những lỗ hổng, là kẻ tu bổ phố phường cho người ta cư ngụ”.
Điều đó hoàn toàn ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Đặc biệt với việc Chúa đến bàn thu thuế và kêu gọi Matthêu. Việc kêu gọi Mat-thêu nói lên tình yêu thương của Chúa. Vì lòng thương xót nên Chúa hạ mình xuống nơi nhơ uế này. Vì lòng thương xót nên Người đưa mắt nhìn Mat-thêu. Không nhìn với ánh mắt khinh miệt. Nhưng nhìn với tình yêu thương tin tưởng. Và thật lạ lùng với lòng thương xót, Chúa kêu gọi Mat-thêu, một người tội lỗi, làm tông đồ của Chúa.
Lòng thương xót đã biến đổi Matthêu. Từ một người tội lỗi thành một người thánh thiện. Từ một người phản đạo thành một tông đồ nhiệt thành. Từ một người theo đuổi tiền bạc thành một người tha thiết với các linh hồn. Từ một người ham mê tiền bạc thành một người siêu thoát dứt bỏ. Việc đổi đời, dứt bỏ được tiền bạc khiến ông vui mừng đến nỗi mở tiệc ăn mừng. Quả thật tình yêu có sức biến đổi con người.
Thế giới hôm nay như sau một trận chiến để lại biết bao người mang thương tích, biết bao hoang tàn đổ vỡ. Cần có lòng thương xót để chữa lành vết thương, tái thiết thế giới. Chính trong bản thân ta đang có đổ vỡ, có nhiều vết thương. Xin lòng thương xót của Chúa đến băng bó và chữa lành ta.
Suy Niệm 3: Tin mừng của lòng thương xót
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Vua thánh Louis IX của Pháp nổi tiếng là khôn ngoan, ứng biến tài tình.
Có một nông dân nọ được mùa củ cải. Để đánh dấu thành công, ông chọn củ cải lớn nhất trong vụ mùa và đem dâng kính Đức vua. Ông đến cung điện và xếp vào hàng những người ngày ngày đến dâng tặng vật cho đức vua. Ai cũng mang đến một lễ vật cao quí và cũng chuẩn bị xin vua một đặc ân.
Người nông dân nghèo trái lại chỉ có một tâm tình duy nhất, là nói lên niềm vui được trung mùa của mình. Mọi người không ngờ rằng đây là tặng vật đã làm vua hài lòng nhất.
Nhà vua sai các cận vệ đem đến một cái cân và truyền lệnh hãy cân số lượng vào bằng củ cải này và trao cho người nông dân. Hành động này của vua đã khơi dậy lòng ham muốn của các đình thần. Một tuần sau, một nịnh thần giầu có lựa con ngựa đẹp nhất đem tặng vua với hy vọng được tưởng thưởng. Thế nhưng, khi đón nhận con ngựa, nhà vua cám ơn và truyền cho các cận vệ: “Các khanh hãy mang tặng người này một củ cải, đó là phần thưởng dành cho những người suốt ngày chỉ biết nói những lời xua nịnh và chờ chực đặc ân”.
Giai đoạn trên đây có thể gợi lại cho chúng ta thái độ của Chúa Giêsu đối với những kẻ bé mọn, nghèo hèn, đĩ điếm, thu thuế, nói chung những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Ngài kết thân với họ, đồng bàn với họ, và tuyên bố họ là những người vào Nước Trời trước những kẻ tự xưng là công chính. Những con người nghèo khổ ấy là một thể hiện cụ thể của mối phúc đầu tiên mà Chúa Giêsu đã công bố trong Bài giảng trên núi: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”. Tin mừng được loan bao cho những người nghèo, hay đúng hơn chỉ người nghèo mới có thể mở rộng tâm hồn để đón nhận Tin mừng.
Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng thương xót: chỉ khi nào con người nhận thức được thân phận nghèo hèn tội lỗi cảu mình, con người mới thấy được tình thương bao dung hải hà của Chúa. Thánh Phaolô đã nói: “Nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng càng dồi dào”. Tin mừng của Chúa Giêsu là Tin mừng của lòng tin tưởng phó thác: có thấy được nỗi bất toàn của mình, con người mới cảm nhận được sức mạnh nâng đỡ của Chúa. Tin mừng của Chúa là Tin mừng của an bình, hạnh phúc: có dốc cạn những ham muốn ích kỷ và những sức mạnh của danh vọng, có trở nên thực sự trống rỗng, thanh thoát, con người mới có thể được Thiên Chúa lấp đầy và tìm được hạnh phúc bình an đích thực.
Giữa những bôn ba tìm kiếm của cuộc sống, xin cho chúng ta luôn đặt Chúa vào chỗ nhất. Cho dù phải đánh mất tất cả, xin cho chúng ta luôn tin rằng chúng ta đang có tất cả và được Chúa làm gia nghiệp duy nhất.
Suy Niệm 4: Trở về
Sau đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi ở trạm thu thuế. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi!” Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Người. Ông Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những người khác cùng ăn với các Ngài. (Lc. 5, 27-29)
Đức Giê-su đến không phải để kêu gọi người công chính. Nhưng để kêu gọi những người tội lỗi. Những người đáng phải quan tâm là những người nghèo khó, khốn khổ, đói khát, tội lỗi, và tất cả những kẻ bị xã hội coi là hạng bất hảo (pas bons). Những người ấy được Chúa muốn biến đổi, muốn cứu chuộc. Đó là những kẻ Người phó dâng đời sống, niềm vui và bình an của Người cho họ. Họ được Người kêu gọi trở về.
Ước mong chúng ta được vào nhóm các người “bất hảo” ấy để được Đức Giê-su mời gọi đến với Người. Chúng ta không luôn luôn dễ dàng nhận mình vào hạng xấu đó đâu. Chỉ cần thấy chúng ta liếc nhìn những người sống chung quanh chúng ta, là chúng ta nghĩ mình chẳng hề xấu như thế, cho nên chúng ta không cần ăn chay trở lại.
Thực ra cũng đúng. Chúng ta khá can đảm, và là người tín hữu khá tốt. Chắc có nhiều kẻ xấu hơn chúng ta! Nhưng nghĩ mình không cần ăn năn trở lại thì đã tự đặt mình ra rìa, và là kẻ tự cao tự đại quá xá rồi.
Cứ nhìn ông Lê-vi đã làm, chúng ta có thể có một chút hiểu biết về thế nào là trở về, rồi ra đi bỏ hết cả tài sản. Ông đã bỏ hết như Tin mừng nói. Ông đã bỏ chức vị. Ông đổi mới cái nhìn, đổi mới phán đoán, đổi mới những tập quán thói quen của đời sống. Và ông đã bắt đầu sống trở về tận nguồn gốc theo Đức Ki-tô mời gọi.
Nếu muốn được trở về, phải sống tận nguồn gốc là Tin mừng để thấy phải từ bỏ mọi hòa hoãn, mọi nửa vời và đi đến tột đỉnh chí thiện và chí ái, lúc đó chúng ta mới thấy sáng tỏ sự cần thiết phải sám hối trở về biết chừng nào. Ai nghĩ ngược lại thì chỉ là kẻ tự phụ, lừa dối mình.
Suy Niệm 5: Từ bỏ... và đi theo để làm lại cuộc đời
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta vẫn thấy đây đó có những người đạo đức tốt lành xuất hiện như một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta noi theo! Tuy nhiên, trong số đó, không thiếu những thành phần ăn chơi trác táng một thời; đầu trộm đuôi cướp khét tiếng; hay cũng không thiếu những vị trước đó buôn gian bán lận, sống bằng nghề nhàn hạ khi cho vay nặng lãi trên xương máu của anh chị em mình...
Tại sao họ lại có một sự thay đổi đến lạ thường như vậy? Thưa! Bởi vì họ đã biết dừng lại, nhận thấy mình đi sai đường và nhận ra tình thương của Thiên Chúa, nên họ thay thái độ để đổi cuộc đời trong ân sủng của Người.
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy một Mátthêu ăn trên ngồi trước, hà hiếp, bóc lột, phản dân, hại nước khi sống bằng nghề thu thuế cho đế quốc! Nhưng hôm nay, trên chiếc ghế đã gắn liền cuộc đời ông với cái nghề đáng nguyền rủa; trên chiếc bàn đã là bệ kê cho ông chắp bút để ghi những con số nhơ nhớp, bẩn thỉu nhằm thu lại những đồng tiền khốn cùng nơi anh chị em đồng loại của ông. Nhưng chính một thứ tội không thể tha, một con người đáng khinh bỉ, thì hôm nay, tấm lòng nhân hậu của Đức Giêsu ngang qua ánh mắt cảm thông, trìu mến và lời mời gọi đầy yêu thương: "Anh hãy theo tôi!", đã đảo lộn tất cả. Vì thế, như cá gặp nước, Mátthêu đã sẵn sàng đứng dạy, từ bỏ nơi chốn tội lỗi, và dứt khoát quay lưng lại với cái nghề ám muội để đi theo và làm môn đệ cho Đức Giêsu.
Từ khi bước theo Thầy Chí Thánh, ông đã trở thành người đầy kinh nghiệm về Thiên Chúa tình thương, và luôn mang trong mình tâm tư, nguyện ước của Thầy. Sau này, ông đã viết lại một con người vĩ đại đã cải hóa cuộc đời ông nơi những trang Tin Mừng đầy sống động.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối như Mátthêu và có lòng nhân từ như Đức Giêsu. Đồng thời tránh xa và không được lưu trữ thái độ coi thường, khinh bỉ, cố chấp như những người Pharisêu trong tâm trí của mình, bởi vì trên đời này có ai là vô tội đâu? Tự nhận mình là người xứng đáng và coi khinh kẻ khác là dấu hiệu của một tâm hồn trống rỗng, kiêu ngạo, thích đi theo và làm môn đệ cho ma quỷ chứ không phải là môn sinh của Thầy Giêsu.
Thật vậy, nếu là học trò của Đức Giêsu, chúng ta phải hiểu và thấm câu nói của Thầy mình: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” vì “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết khiêm tốn, lắng nghe lời mời gọi của Chúa, để sẵn sàng đi theo và làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con biết yêu thương và nâng dạy những người tội lỗi như Chúa khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Kêu gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu luôn mở rộng trái tim để đón nhận tất cả mọi người, đặc biệt Ngài yêu thương và đón nhận các tội nhân trở về với Chúa. Là tội nhân, tôi đã sẵn sàng trở về với Chúa chưa?
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm phục Chúa đã tự mình đi đến với tội nhân trước, gặp gỡ và sống thân tình với họ. Điều quan trọng là chính Chúa đã đến và gọi đích danh từng người. Chúa quan tâm tới hết mọi người, nhất là thành phần vô danh trong xã hội, bị xã hội lên án, ruồng bỏ hoặc coi thường. Chúa đã gọi ông Lê-vi. Hôm nay Chúa cũng đi tìm và gọi con.
Lạy Chúa, ông Lê-vi đã đứng dậy, nghĩa là ông đã dứt khoát từ bỏ đường lối cũ. Hôm nay, Chúa cũng kêu mời con giã từ nếp sống ươn lười, tội lỗi. Xin ánh sáng Tin Mừng của Chúa soi chiếu tâm hồn con, để con nhận ra con người thật của mình, một con người mang nhiều yếu đuối và khuyết điểm.
Ông Lê-vi đã đi theo Chúa, nghĩa là hoàn toàn phó thác, cậy nhờ Chúa, sống với Chúa và vì Chúa. Xin sức mạnh của Chúa Quyền Năng tác động nơi con, để con đủ nghị lực đi theo Chúa, dám can đảm sống điều Chúa truyền dạy. Tự sức mình, con không thể thực hiện được những điều ấy. Nhưng với ơn Chúa, con sẽ làm được.
Lạy Chúa, ông Lê-vi đã mở tiệc mời Chúa. Nhưng ngày nay, chính Chúa đã mở tiệc mời con tham dự. Con được tham dự Bàn Tiệc Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Chúa tự nguyện đứng lên phục vụ con. Chúa tự hiến chính mình để trở thành lương thực nuôi sống con. Nay con nhận ra tình Chúa yêu thương con và con quyết tâm đứng dậy trở về với Chúa.
Lạy Chúa, xin đón nhận con. Amen.
Ghi nhớ: “Ta không đến kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế Lêvi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:
- Đúng, anh ta nhập đạo thật.
- Sao anh biết?
- Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với quy cách ta đặt, không thiếu nữa.
Người nào tiếp nhận Đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.
Suy Niệm
Khi nghe tiếng gọi của Đức Kitô, người thu thuế Lêvi đã bỏ tất cả để cất bước theo Ngài, bỏ cả một nghề nghiệp đang hốt bạc của người thu thuế, bỏ cả một quá khứ tội lỗi để Chúa Kitô thánh hiến trở thành môn đệ Ngài…
Người thuế vụ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị anh em đồng bào mình khinh miệt do các anh ăn chặn của dân, hơn nữa lại là tay sai cho đế quốc Rôma để bóc lột dân mình... Họ là hình ảnh của những gì xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đáng khinh miệt nhất mà dân chúng coi đồng hạng với các kẻ cắp và các phụ nữ ngoại tình.
Hơn nữa, những người Pharisiêu cho rằng: một người Do Thái ngoan đạo, không được giao du với những người bị coi là tội lỗi…
Thế nhưng Đức Kitô đã ngồi cùng bàn với phường thu thuế, tiếp xúc với bọn đĩ điếm, kẻ tội lỗi (x. Mt 9,10-13; Mc 2,15-17; Lc 5,8; 7,36-50; 15,1-2; 19,7). Họ là người bệnh, người mang vết thương, Đức Giêsu đến chữa lành cho họ. Ngài sẵn sàng đồng bàn, nghĩa là cùng chia sẻ gánh nặng tội lỗi. Ngài mang nó lên thập giá và tiêu diệt nó nhờ cuộc phục sinh vinh hiển của Ngài (x. 1Cr 15,25-26). Ngài đã trở nên như tội nhân để đưa tội nhân vào sự cứu chuộc khi Ngài đã chết treo trên thập giá với thân phận của một tội nhân, đồng hạng với tội nhân để cứu chuộc tội nhân. Sứ mạng của Ngài là để cứu độ tất cả, chữa lành những người bất hạnh, trong đó có cả những tội nhân. Trên thập giá, Ngài xin ơn tha thứ những kẻ đóng đinh Ngài (x. Lc 23,34).
Chúng ta có bao nhiêu vết thương lòng, bao nhiêu khiếm khuyết bất toàn, bao nhiêu những yếu đuối tội lỗi, hãy chỉ cho Đức Kitô, để Ngài - vị thầy thuốc băng bó, chữa lành, và làm công chính, lúc đó chúng ta cảm nghiệm tại sao thánh Phaolô chia sẻ: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nếu không có Ngài - vị thầy thuốc đến từ Thiên Chúa, chúng ta sẽ chết trong bệnh tật là tội lỗi, trong vết thương yếu đuối và khiếm khuyết của chính chúng ta như người Pharisiêu tự phụ công chính không cần ân sủng nên vẫn sống trong sự tội lỗi (x. Ga 9,41).
Ý lực sống:
“Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18,23).
Suy Niệm 8: Đức Giêsu kêu gọi ông Lêvi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Phụng vụ hôm nay chọn bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu gọi ông Lêvi, để trình bầy cho chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, để khích lệ chúng ta là kẻ có tội biết trông cậy vào Thiên Chúa tình thương.
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu thực hiện điều đó. Cứu một người thu thuế tội lỗi là Lêvi, còn gọi ông làm môn đệ, và còn ngồi ăn cùng bàn với những người tội lỗi khác. Ngài tuyên bố: ”Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn”.
2. Nghề thu thuế thời Đức Giêsu.
Một trong những tội bị người dân ghét nhất từ cổ chí kim là “cõng rắn cắn gà nhà”, hay là “nối giáo cho giặc”, vì họ cộng tác với ngoại bang làm khổ anh em đồng bào của mình. Là nhân viên thuế vụ, Lêvi làm việc cho Rôma đang cai trị dân Do thái, sưu cao thuế nặng, ức hiếp dân lành và làm giầu trên mồ hôi nước mắt của dân.
Người Do thái thời ấy coi kẻ thu thuế là vừa phản đạo vừa phản quốc và coi họ đứng ngang hàng với gái điếm, phải bị loại trừ bằng vạ tuyệt thông cách ly. Không ai thèm chơi với họ. Họ chỉ chơi với quân xâm lược La mã và những tín đồ cặn bã của các Hội đường. Lêvi biết tất cả những điều ấy nhưng ông vẫn bất chấp, vì đổi lại ông được chức vụ rất hấp dẫn, đem lại của cải giầu sang.
3. “Tôi đến kêu gọi người tội lỗi”.
Ai cũng biết, một bệnh viện mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì không còn là bệnh viện; người khỏe mạnh thì không cần đến bác sĩ. Cũng thế, Đức Giêsu không còn là Đấng Cứu Thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những người tự phụ cho mình là người công chính không cần đến Thiên Chúa.
Luật Do thái coi ai tiếp xúc với kẻ thu thuế là đồng lõa với tội lỗi, nhưng Đức Giêsu đã vượt lên tất cả. Chúa cứ gọi ông. Ngài không nhìn quá khứ của Lêvi, nhưng nhìn ông bắt đầu từ lúc ông và Ngài gặp nhau, còn quá khứ của ông thì Ngài đã quên hết rồi.
Người Do thái coi người thu thuế là hạng tay sai cho đế quốc, hạng người mang tiếng là ăn bẩn, tội lỗi. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, luật sĩ, tư tế luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa lại nói với họ: ”Ta đến không để gọi những người công chính, mà là gọi những người tội lỗi” và “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần”.
4. Lòng thương xót của Thiên Chúa.
Việc kêu gọi Lêvi nói lên tình yêu thương của Chúa. Vì lòng thương xót nên Chúa hạ mình xuống nơi nhơ uế này. Vì lòng thương xót nên Ngài đưa mắt nhìn Lêvi. Không nhìn với ánh mắt khinh miệt, nhưng nhìn với tình yêu thương tin tưởng. Và thật lạ lùng với lòng thương xót Chúa kêu gọi Lêvi, một người tội lỗi, làm Tông đồ của Chúa.
Lòng thương xót đã biến đổi Lêvi. Từ một người tội lỗi thành một người thánh thiện. Từ một người phản đạo thành một tông đồ nhiệt thành. Từ một người theo đuổi tiền bạc thành một người tha thiết với các linh hồn. Từ một người ham mê tiền bạc thành một người siêu thoát dứt bỏ. Việc đổi đời, dứt bỏ được tiền bạc khiến ông vui mừng đến nỗi mở tiệc ăn mừng. Quả thật tình yêu có sức biến đổi con người.
5. Một phút hồi tâm.
Câu chuyện ơn gọi của Lêvi lại một lần nữa khẳng định, Đức Giêsu gọi ai thì Ngài không quan trọng đến thời điểm nào, lý lịch ra sao mà trên hết tất cả là Ngài nhìn thấy nơi ta có dám sẵn sàng bỏ hết tất cả để theo Chúa không?
Ngày hôm nay, nếu bạn đang ngồi nơi bàn giấy quyền cao lương hậu, đang vui thích với công việc đầy lợi nhuận... nếu Chúa gọi bạn theo ơn gọi tu trì, bạn có dám bỏ lại để theo Ngài không. Khi phải lựa chọn giữa một bên là đức tin và lề luật Công giáo và một bên là danh lợi vật chất, bạn có dám chọn Chúa không?
Ngày hôm nay, Chúa cũng đang mời gọi bạn làm Tông đồ cho Chúa. Thế nhưng, bạn có đáp lại lời mời gọi của Chúa cách thành tâm, thiện chí hay không, dám từ bỏ không, hay còn đang vướng víu bởi những của cải vật chất làm cho tâm hồn trở nên nặng trĩu trước lời kêu gọi?
6. Truyện: Cải tà qui chính.
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Hãy xuống những con đường tồi tàn này”. Tác phẩm thuật lại viêc ông cải tà qui chính từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tai hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm chung với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chicô ngủ đã, anh mới quì gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng: ”Tôi bầy tỏ với Chuá những gì có trong trái tim tôi... Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng... Tôi cảm thấy dường như có thể khóc được... đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được”.
Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp lại: ”Amen”. Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri: ”Tôi cũng tin Chúa”. Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng chia sẻ quyết tâm sám hối trở về. Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu, nhưng trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói: ”Chúc Chicô ngủ ngon nhé! Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi”.
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu kêu gọi người tội lỗi Lê-vi
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A.- Phân tích (Hạt giống...)
Bài đọc I trích sách Isaia tiếp tục nói về kiểu ăn chay đẹp lòng Thiên Chúa, đó là chấm dứt những việc làm bất công, rộng tay cứu giúp những người đói khổ, tôn trọng ngày hưu lễ.
Bài trích Phúc Âm cho thấy Chúa Giêsu thực hiện điều đó: cứu một người thu thuế tội lỗi là Lêvi, còn gọi ông làm môn đệ, và còn ngồi ăn cùng bàn với những người tội lỗi khác. Ngài tuyên bố “Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Tôi muốn sống cảnh tượng của Lêvi:
- Tôi là người tội lỗi
- Tôi đang “ngồi” yên tại “bàn” tội lỗi của tôi.
- Chúa đang “đi ngang” qua, Ngài “trông thấy” tôi rồi, Ngài “nói với” tôi: Hãy đi theo Ta.
- Tôi “bỏ mọi sự” - Tôi “đứng dậy” - Tôi “theo Người”.
2. Nhà truyền giáo giảng đạo giữa rừng già Phi châu, dưới ánh trăng đêm và trong hoang lạnh của núi rừng. Ngài kể về đời sống và các phép lạ của Chúa Giêsu, cuối cùng là cái chết trên thánh giá. Ngồi trước bục giảng là viên tù trưởng. Ông chăm chú nghe lời nhà truyền giáo. Khi ngài tả việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá, vị tù trưởng bổng đứng phắt dậy nói: ”Ngừng lại! Hãy đem Ngài xuống khỏi thánh giá! Tôi mới là người đáng phải đóng đinh trên đó, chứ không phải Ngài!” Vị tù trưởng nghĩ rằng mình mới là tội nhân, còn Chúa Giêsu vô tội. (Góp nhặt)
Suy Niệm 10: Thầy thuốc Giêsu chữa bệnh nhân Lê-vi
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong tất cả những người sống ở Palestine, thì những người làm nghề thu thuế là những kẻ bị khinh miệt hơn hết. Người Do Thái liệt những người thu thuế vào chung với những tên trộm cướp, sát nhân.
Những người thu thuế bị người Do Thái coi khinh cũng phải bởi vì họ thường lạm dụng quyền hành của mình để sách nhiễu làm khổ dân chúng. Tại sao thế? Thưa, vì hệ thống thuế má đã tạo ra nhiều cơ hội cho những lạm dụng như thế.
Người Rôma thường cho đấu thầu việc thu thuế. Họ ấn định một mức thuế nào đó cho một vùng. Họ bán quyền thu thuế cho ai trả giá cao nhất, miễn là cuối năm người đó nộp đủ số tiền ấn định là được. Ngoài ra thì người thầu được quyền giữ lại bất kỳ món tiền nào họ thu thêm được từ dân chúng. Đây là điểm dễ sinh ra những lạm dụng nhất.
2. Vậy mà Chúa Giêsu đã chọn một người bị xã hội khinh rẻ như thế làm môn đệ Ngài.
Chúa Giêsu không phải không biết điều đó. Thế nhưng, cái nhìn của Chúa trên con người này thật khác xa với cái nhìn thông thường của dân chúng. Trước mặt Chúa, Lêvi là một con người bệnh hoạn đang cần đến Thầy thuốc và Chúa Giêsu chính là thầy thuốc mà con người này cần đến. Chính cách đối xử bao dung của Chúa đã làm cho Lêvi được khoẻ mạnh lại và hơn nữa còn làm cho ông trở thành một dụng cụ đắc lực trong tay của Chúa sau này.
Sự bao dung thường đem lại những thành quả tốt đẹp, nhiều khi con người chúng ta không lường được.
Ngày 17/7/1990, cả thế giới thương tiếc vì sự ra đi của bà Peggy Mann. Bà đã an bình ra đi để lại bao luyến nhớ cho gia đình cũng như cho nhiều người trên toàn thế giới. Lý do vì bà là một người đã có những cống hiến và những hoạt động không biết mệt mỏi cho việc chống ma túy. Bà đã mang lại rất nhiều lợi ích cho nhiều người. Trước khi nhắm mắt từ giã cõi đời, nhìn thấy bên giường có chồng và con gái thân yêu, bà đã thầm nói với người con gái: “Mẹ mãn nguyện, con gái của mẹ, về những bài mẹ viết để chống lại ma túy”. Kéo ông đến gần hơn, bà nói rất rõ bằng một giọng xúc động: “Em yêu anh biết bao!” Đó là câu nói cuối cùng của bà.
Sau khi bà Peggy nằm xuống, con gái bà là cô Jenifer Mann đã kể lại câu chuyện sau đây, một mặt như bổ sung vào công trình của mẹ một phương pháp nữa trong nỗ lực đẩy lùi tệ nạn nghiện ngập ma túy, và mặt khác cũng để cho mọi người biết, nguyên nhân nào đã thúc đẩy và tạo quyết tâm cho bà, để bà nỗ lực làm việc không biết mệt mỏi chống lại với ma túy để bảo vệ gia đình.
Cô nói “Khi mẹ tôi biết tôi dùng ma túy, bà rất khổ tâm nhưng chưa vội nói gì. Từ hôm ấy, bà bắt đầu đọc các sách báo nói về ma túy để tìm hiểu tính chất độc hại và các hậu quả mà ma túy gây ra. Bà đọc một cách cặn kẽ, chính xác và đầy đủ. Hai tuần sau, mẹ tôi gọi tôi lại và nói:
- Mẹ biết là con không muốn mẹ giảng giải dài dòng về tác hại của ma túy. Thôi thì từ nay mỗi tối, khi nghe đồng hồ đổ “binh binh” báo hiệu giờ đi ngủ, mẹ sẽ nói cho con biết một điều rất ngắn về ma túy thôi.
Tôi không phản đối gì. Đêm đầu, khi đồng hồ đổ “binh binh”, mẹ tôi nói: “Con có biết không, chỉ hút 3 điếu thuốc có ma túy là làm hại phổi bằng 20 điếu thuốc lá bình thường không?”. Đêm thứ hai: “binh binh” “Con có biết là hút ma túy liên tục thì hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể bị hủy hoại không?”. Đêm thứ ba “binh binh”, “Con có biết ma túy có hại đến đời sống tính dục, làm phụ nữ có thể sinh ra quái thai không?” Tất cả những điều mẹ tôi nói đều rất chính xác và có những số liệu chứng minh rõ ràng. Bà nói với tôi bằng một giọng thật bình tĩnh và tràn đầy yêu thương với mong ước cho tôi hiểu tác hại khôn lường của ma túy và can đảm đứng lên làm lại cuộc đời.
Một đêm, tôi ngồi trên giường, hai tay ôm đầu suy nghĩ. Lòng tôi dâng tràn tình yêu dành cho mẹ, Tôi khóc và chạy sang phòng bà. Hình như đêm đêm bà đều chờ đợi tôi như vậy. Tôi ngã vào vòng tay mẹ tôi trong dòng nước mắt và lời nói nghẹn ngào, tôi thì thầm trên ngực bà: “Con nhất định từ bỏ ma túy”. Hai tay bà nâng mặt tôi lên và nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi thấy nụ cười rạng rỡ, ánh mắt vui mừng của mẹ và cả hai hàng nước mắt đầm đìa trên má. Bà ôm chặt tôi vào lòng và khẽ nói vào tai tôi: “Ôi! Con yêu.... con yêu”. Và từ giây phút đó cuộc đời tôi hoàn toàn đổi khác.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ lòng bao dung của Chúa. Xin cho chúng con một quả tim rộng lớn bao dung, để chúng con cũng biết tha thứ và cảm thông với mọi người. Amen.
16/02 Ý nghĩa của việc ăn chay
- Viết bởi Mt 9, 14-15
Ý nghĩa của việc ăn chay.
Thứ Sáu sau lễ Tro.
“Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Lời Chúa: Mt 9, 14-15
Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: “Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?”
Chúa Giêsu nói với họ: “Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chàng rể bị đem đi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Có một sự khác biệt về lối sống giữa Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu.
Gioan sống khổ hạnh nơi hoang địa, ông lôi kéo người ta đến với ông.
Ông dọa tội nhân về cơn thịnh nộ mà Thiên Chúa sắp giáng xuống.
Còn Đức Giêsu thì đến với những kẻ tội lỗi, bị xã hội loại trừ,
ăn uống vui vẻ với họ vì Nước Trời đã đến rồi (Mt 11, 18-19).
Sau khi Gioan đã bị tống ngục (4, 12)
các môn đệ của ông vẫn tiếp tục hoạt động (11, 2-6).
Chắc họ khó chịu khi thấy các môn đệ của Thầy Giêsu không ăn chay,
không có vẻ khắc khổ, nhiệm nhặt như họ hay như người Pharisêu,
nên họ hỏi thẳng Thầy về chuyện này (c. 14).
Thầy Giêsu trả lời họ bằng một câu hỏi khác (c.15):
“Khách dự tiệc cưới có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ sao?”
Dĩ nhiên là không rồi!
Câu nói của Thầy Giêsu cho thấy bầu khí Thầy-trò trong nhóm
là bầu khí vui tươi ấm áp, bầu khí của một tiệc cưới.
Thầy là chàng rể, còn trò là khách dự tiệc.
Thời gian Thầy ở với các môn đệ là thời gian hạnh phúc cho họ.
Trong Cựu Ước, hình ảnh chàng rể để chỉ Thiên Chúa (Is 62, 4-5),
Đấng kết duyên cầm sắt với dân Ítraen (Hs 2, 21-22).
Còn ở đây Đức Kitô kín đáo nhận mình là chàng rể.
Chàng rể là nhân vật chủ yếu của tiệc cưới.
Tiệc cưới ấy chính là Nước Trời được ngài khai mở (Mt 22, 1-14; 25, 1-13).
“Nhưng sẽ đến ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ…” (c.15).
Đây không phải là một lời tiên báo rõ ràng về cuộc khổ nạn,
nhưng là một ám chỉ đến cái chết bất ngờ sắp xảy ra.
Chàng rể Giêsu chẳng ở luôn với các môn đệ (Mt 26, 11).
Có ngày họ sẽ không còn thấy Thầy nữa, “bấy giờ họ mới ăn chay.”
Ăn chay đối với Kitô hữu là thái độ chuẩn bị ngày Thầy trở lại.
Ăn chay làm ta nhẹ nhàng để chờ ngày gặp Chúa diện đối diện.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường việc ăn chay.
Ngài đã ăn chay bốn mươi ngày trước khi bắt đầu sứ vụ (Mt 4, 2).
Hội thánh sơ khai cũng gắn liền cầu nguyện với ăn chay (Cv 13, 2-3)
Thánh Phaolô vẫn ăn chay, dù vất vả với tông vụ (2 Cr 6,5; 11, 27).
Để rước lễ, chúng ta phải kiêng ăn uống khoảng một giờ.
Ngày thứ sáu vẫn là ngày kiêng thịt theo luật chung của Hội thánh.
Ước gì việc ăn chay làm ta gặp Chúa, gặp anh em và gặp lại chính mình.
Cầu nguyện;
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã có kinh nghiệm về cái đói,
sau khi ăn chay bốn mươi ngày trong hoang địa.
Sau khi được dân chúng tung hô lúc vào thành Giêrusalem,
Chúa cũng đói đến mức phải tìm trái nơi cây vả.
Chúa đã xin nước uống nơi người phụ nữ Samari,
và Chúa đã nếm cái khát của người bị mất máu trên thập giá.
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa có thân xác như chúng con,
nên Chúa đã bênh các môn đệ khi họ bứt lúa mà ăn vì đói,
Chúa đã làm phép lạ bánh hóa nhiều vì sợ người ta xỉu dọc đường,
Chúa đã bảo nhà ông trưởng hội đường cho cô bé mới hồi sinh được ăn.
Đói khát là chuyện bình thường của thân xác con người,
và Chúa chẳng bao giờ coi thường những nhu cầu chính đáng của nó.
Nhưng xin nhắc chúng con nhớ rằng
con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, mà còn nhờ Lời Chúa,
con người không chỉ đói khát thức ăn vật chất
mà còn khao khát những giá trị tinh thần của Nước Trời.
Xin dạy chúng con chia sẻ cho những Ladarô đang nằm ngoài cổng,
và đừng khép cửa lòng như ông nhà giàu xây thêm kho.
Xin cho chúng con hiểu được giá trị của một ly nước lạnh được trao đi,
một tấm bánh giữa đêm khuya cho người bạn mượn,
và chút vụn bánh rơi xuống từ bàn ăn đủ nuôi một người.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là người đói khát vẫn ngửa tay xin chúng con mỗi ngày
mà chúng con không hay.
Xin giúp chúng con bắt chước Chúa trong bữa tiệc cuối cùng
dám bẻ ra và trao đi tấm bánh đời mình để phục vụ tha nhân.
Ước gì mai này chúng con được đồng bàn với Chúa
và với mọi người thành tâm thiện chí trong Nước Trời. Amen.
Suy Niệm 2: Chay tịnh
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chay tịnh là một thực hành tôn giáo có từ lâu đời. Nhưng nhiều khi biến thành hình thức. Đánh mất ý nghĩa thực sự. Thực ra chay tịnh là để hãm dẹp xác thịt. Kềm chế dục vọng. Loại trừ tính hư tật xấu. Từ bỏ cái tôi. Để Thiên Chúa ngự trị. Khi có Thiên Chúa ngự trị ta đạt đến đích điểm của đạo rồi. Khi đó đạo trở thành niềm vui. Chỉ khi ta phạm tội, lạc mất Thiên Chúa, ta mới phải ăn chay. Như Chúa Giê-su dạy: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Vì thế từ xa xưa các tiên tri đã quyết liệt đả phá thói ăn chay hình thức. “Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vài thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa?”
Tệ hơn nữa ăn chay trở thành giả hình. Và nhất là trở thành phản chứng. Vì khi ăn chay vẫn còn lo kiếm lợi nhuận bằng áp bức tha nhân. Vẫn còn chia rẽ bất hoà, thậm chí hành hung người khác: “Này ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn”.
Chúa cho biết cách ăn chay đẹp lòng Chúa là quan tâm đến người nghèo khổ. Chia sẻ vật chất với người túng nghèo. Giải phóng kẻ bị tù tội. “Cách ăn chay mà ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?”
Ăn chay là để kết hợp với Chúa. Vì thế ăn chay phải quan tâm phục vụ tha nhân. Vì Chúa ở trong tha nhân. Đặc biệt những người anh em nghèo khổ bất hạnh. Vì thế ăn chay là phải hãm dẹp bản thân. Bớt chi tiêu. Để giúp người nghèo. Khi đó ta gặp được Chúa. Khi đó ăn chay đạt tới ý nghĩa đích thực.
Suy Niệm 3: Ý nghĩa của việc ăn chay
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Bên Trung Quốc có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc cho gọi ông đến và hỏi: “Nhà người có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?” Nhà điêu khắc trả lời: “Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, việc gì xảy ra là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi”.
Công trình giữ chay của các tín hữu trong mùa chay mỗi năm được gán cho nhiều ý nghĩa: nào là chay tịnh để kềm hãm một nhu cầu mạnh mẽ nhất trong con người, đó là ăn uống để sinh tồn, nhờ đó có thể tiến mạnh hơn trên con đường tu thân tích đức; nào là ăn chay để kinh nghiệm được sự đói khát, nhờ đó có thể cảm thông và chia sẽ với những anh em túng thiếu, nghèo khổ đang cần đến sự trợ giúp của mình; nào là ăn uống kham khổ để tiết kiệm được một số tiền hầu đóng góp vào các chương trình bác ái, từ thiện. Ăn chay để tìm được ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người không chỉ lo làm lụng để cung phụng cho thân xác và đời sống vật chất, nhưng còn cố gắng hướng lên những mục đích tối thượng thiêng liêng. Tất cả những ý nghĩa đó của việc ăn chay có những yếu tố rất tích cực, đáng suy nghĩ và thực hành. Nhưng còn một ý nghĩ khác rất quan trọng, đó là ăn chay để tập trung tư tưởng, nhờ đó khám phá hình ảnh nòng cốt của chính mình và cuả tha nhân: đó là hình ảnh Thiên Chúa tiềm ẩn nơi mỗi người.
Xin cho công việc chay tịnh chúng ta thực hiện trong mùa chay này giúp chúng ta đi vào chiều sâu để khám phá hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta và trong lòng mọi người, ngõ hầu cuộc sống đức tin chúng ta là một công trình ngày càng tỏ lộ và chúng ta có khả năng yêu mến hình ảnh Thiên Chúa nơi người khác.
Suy Niệm 4: Thái độ dứt khoát.
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Phanxicô được mệnh danh là người nghèo của Thiên Chúa, đã làm một cuộc đoạn tuyệt với tất cả những gì thuộc về thế gian để nên giống Chúa Giêsu trong mọi sự.
Trên bước đường theo Ngài, Chúa Giêsu không chấp nhận bất cứ thỏa hiệp nào nơi người môn đệ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình”. Nếu chính bản thân mà còn phải từ bỏ, thì huống chi những gì thuộc về thế gian. Thái độ dứt khoát này được Chúa Giêsu làm nổi bật trong cách xử thế của Ngài đối với một số những luật lệ Cựu ước. Trong khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả và những người Biệt phái tuân giữ một số ngày chay tịnh, thì Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài tự miễn chước. Hành động như thế, Chúa Giêsu muốn nói lên sự độc lập của Ngài và của các môn đệ đối với một số truyền thống cũ. Chúa Giêsu đã minh định thái độ của Ngài khi tuyên bố về sự hiện diện của Tân lang. Ngài chính là Tân lang, là Ðấng Cứu Thế mà con người mong đợi.
Theo truyền thống Do thái giáo, việc giữ chay được liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay có nghĩa là nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế. Căn cứ trên ý nghĩa và mục đích của việc giữ chay như thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Ðấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Ðó là thái độ hợp thời và hợp lý: họ đang sống bên Chúa Giêsu: thái độ của họ không phải là thái độ buồn sầu, khóc lóc. Thời của Ðấng Cứu Thế không phải là thời của tang chế, ủ dột, mà là thời của hân hoan.
Làm môn đệ Chúa Giêsu, sống với Chúa Giêsu, thái độ của người theo Chúa phải là sống tất cả cho Ngài và vì Ngài. Ðưa ra dụ ngôn chiếc áo và bình rượu, Chúa Giêsu muốn nói rằng thái độ của người môn đệ phải là thái độ dứt khoát tận căn, một thái độ không pha lẫn Tin Mừng với tinh thần thế tục.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét lại tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu. Mang danh hiệu của Ngài, làm môn đệ của Ngài có nghĩa là phải sống trọn cho Ngài. Nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Suy Niệm 5: Tại sao phải ăn chay?
Bấy giờ các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: “ Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể đã bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay”. (Mt. 9, 14-15)
Giáo hội mời gọi chúng ta ăn chay suốt cả mùa chay. Nói đúng nghĩa ăn chay là nhịn ăn uống. Người ta có thể tưởng rằng Giáo hội có lý nhắc nhở một điều quan trọng cho chúng ta cần ăn chay vì ăn quá nhiều như ở Mỹ làm mình phì nộn và nhồi tọng đủ thứ trong khi bao nhiêu người trên thế giới thiếu ăn mỗi ngày. Nhưng không phải vì những lý do đó mà Giáo hội khuyến khích ăn chay. Giáo hội có nhiều lý do khác.
Giáo hội đánh giá rằng ăn chay là cách tốt nhất để chúng ta mở lòng hướng về Thiên Chúa và tiếp rước Ngài. Giáo hội tin tưởng rằng trong khi thiếu ăn uống, tự nhiên chúng ta thấy mình là tạo vật yếu đuối cần phải nương tựa vào Đấng gìn giữ, bảo đảm sự hiện hữu của muôn loài. Ăn chay nhất thiết làm cho chúng ta cảm nghiệm ngay trong xác thịt mình thấy rằng đời sống chúng ta và bản chất chúng ta đều bởi Thiên Chúa ban.
Giáo hội khuyến khích ăn chay vì lý do thứ hai: ăn chay là phương thế tốt nhất để chuẩn bị chúng ta mong đợi Đức Ki-tô lại đến. Tất cả chúng ta đều biết tại sao nhiều người ăn mất ngon khi gặp cơn bối rối hay gặp cảnh chia ly. Sau một cơn cãi lộn, người ta không còn muốn ăn uống. Khi mất chồng, vợ bỏ ăn nhiều ngày. Ăn chay còn biểu lộ chúng ta hoàn toàn liên kết với Đức Ki-tô mà chúng ta yêu mến. Chúng ta ăn chay như thể là tưởng nhớ Đức Ki-tô và ra sức trông mong Người.
Đó là ý nghĩa của lời Chúa trong Tin mừng hôm nay. Đức Giê-su đã ở với chúng ta, nhưng chúng ta không hoàn toàn kết hợp với Người. Người đã đến giữa chúng ta, nhưng một ngày kia, Người lại đến trong vinh quang. Trong khi ăn chay, chúng ta tỏ hết lòng thiện chí được thấy Người lại đến để chúng ta hợp nhất với Người trọn vẹn cho đến muôn đời.
J.Y.G
Suy Niệm 6: Giữ chay đúng nghĩa
Tại Giáo phận Taytay – Philippines, có một thầy ẩn sĩ tu rừng. Thày từ bỏ thế giới náo động, nhộn nhịp bên ngoài để vào rừng sâu ăn chay, cầu nguyện và sống thân tình với Thiên Chúa.
Thi thoảng, mỗi dịp lễ lớn, thày thường đi bộ trên đôi chân trần, không giày, không dép, đi hàng chục kilômét để về nhà thờ chính tòa hiệp thông cùng Giáo Hội. Trông thấy thày, ai cũng thấy toát ra một vẻ hồn nhiên, thánh thiện, thanh thoát, vui tươi và bình an.
Có lẽ vì nơi thày có được vẻ đẹp của Tin Mừng và đời sống chay tịnh cũng như cầu nguyện thường xuyên, nên nhìn mọi người, mọi vật dưới con mắt của Chúa!
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy thường xuyên nhắc tới việc ăn chay, chẳng hạn như: vua Đavít ăn chay để cầu nguyện cho con khỏi ốm; từ triều đình đến thường dân thành Ninivê đã đáp lại lời mời gọi của tiên tri Giona nên ăn chay và sám hối để thoát khỏi tai họa...
Sang thời Tân Ước, Gioan Tẩy Giả cũng ăn chay và sống khổ hạnh trong sa mạc để chuẩn bị loan báo Đức Giêsu; đến khi Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đã khởi đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng bằng việc chay tịnh và cầu nguyện 40 ngày trong hoang địa sau khi chịu phép Thánh Tẩy; không những thế, Ngài thường xuyên nhắc các môn đệ phải ăn chay, cầu nguyện và Ngài còn cảnh báo các ông, nếu muốn trừ được quỷ thì phải ăn chay và cầu nguyện.
Như vậy, vấn đề chay tịnh là vấn đề quan trọng trong Kinh Thánh.
Tuy nhiên, hôm nay, khi các môn đệ của Gioan đến hỏi Đức Giêsu về việc: "Tại sao chúng tôi và các người Pharisêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?", nhân cơ hội này, Đức Giêsu mặc khải cho biết ý nghĩa đích thực của việc ăn chay.
Ăn chay là để chờ đón Chúa đến, nhưng Ngài đang ở giữa họ thì không có lý do gì để ăn chay nữa. Nếu ăn chay lúc này là mâu thuẫn, chẳng khác gì vải mới vá áo cũ, hay rượu mới đổ vào bầu da cũ vậy!
Ý nghĩa chính yếu của việc giữ chay chính là đền tội, hãm dẹp những khuynh hướng xấu xa, đê tiện, tội lỗi, từ bỏ cái tôi ích kỷ, kiêu ngạo, sống liên đới, yêu thương, tha thứ, giúp đỡ người nghèo..., nhất là tin vào Tin Mừng.
Xin Chúa giúp sức, để mỗi người chúng ta sống tinh thần của Mùa Chay thật sốt sắng và ý nghĩa, ngõ hầu chúng ta hưởng trọn vẹn niềm vui phục sinh. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tân Lang của tiệc cưới Nước Trời
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Việc chay tịnh phải là hành vi đức tin hướng về Đấng sẽ lại đến, và là việc con người đi tìm Đấng mình yêu thương.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Tân Lang của tiệc cưới Nước Trời. Chúa đem lại cho con niềm vui được kết hiệp với Chúa. Ngày xưa Chúa đã muốn dân riêng Chúa giữ chay để nuôi dưỡng lòng khát vọng mong chờ Chúa. Họ ăn chay để sám hối, để trở về, để nhận biết Chúa khi Chúa đến cư ngụ giữa loài người. Các môn đệ đã được diễm phúc bước đi theo Chúa. Dù không ăn chay như bao người khác, nhưng các ngài đã không ngừng trở về, không ngừng khát mong được Chúa tỏ mình ra. Con thấy các ngài có một trái tim đang yêu đi tìm kiếm Đấng mình yêu thương. Và các ngài bước đi theo Chúa trong niềm tin.
Trong khi ấy, Chúa đang hiện diện giữa dân, nhưng bao người chẳng đón nhận Chúa. Họ vẫn giữ chay tịnh nghiêm ngặt, nhưng lại chẳng tin Chúa. Việc họ giữ chay trở nên vô nghĩa, bị lạc hướng. Còn con, con vẫn giữ chay kiêng thịt, nhưng con chưa gặp Chúa, chưa nhận ra và bước đi theo Chúa trong từng phút giây cuộc sống. Giờ đây, khi hồi tâm, con đã nhận ra biết bao ngăn trở - như những sợi xích ràng buộc - không cho con sống thân tình với Chúa. Chúa ơi, xin cho con biết sống mùa chay trong thái độ biết tích cực cộng tác với ơn Chúa, để bỏ đi những ngăn trở, những ràng buộc đang trói cột con. Xin cho con cởi bỏ con người cũ với những đam mê lệch lạc, như tính chấp nhất, như lòng ích kỷ, như ý riêng xấu. Xin cho con không ngừng khát mong kiếm tìm Chúa và bước đi theo sự hướng dẫn của Chúa. Xin ban cho con niềm vui được kết hợp mật thiết với Chúa.
Lạy Chúa, xin thương cứu giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Khi tân lang ra đi, bấy giờ họ mới ăn chay”.
Suy Niệm 8: Ðức Giêsu chính là Tân Lang
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cha Ira Gillett, nhà truyền giáo ở miền Tây Phi Châu, kể rằng: những người dân bản địa thường đi bộ những đoạn đường dài, qua bệnh viện nhà nước để đến bệnh viện của các nhà truyền giáo chữa trị. Khi được hỏi tại sao mà phải vất vả như thế, trong khi ở bệnh viện nhà nước cũng có những y sĩ giỏi, họ đáp: “Các y sĩ có thể tài năng như nhau, nhưng bàn tay khác nhau!”. Thật thế, khác ở tấm lòng…
Suy Niệm
Đám cưới ở Do Thái là một dịp yến tiệc linh đình, kéo dài cả tuần, nhà cửa đôi tân hôn mở rộng để tiếp khách. Mọi người không phân biệt giàu sang đều được mời tham dự yến tiệc vui mừng…
Trong khi đó việc giữ chay theo truyền thống Do Thái giáo, liên kết chặt chẽ với việc chờ đợi Ðấng Cứu Thế. Ăn chay nói lên niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế… Khi chuẩn bị đón Chúa Cứu Thế, mọi người chay tịnh, như cách sống và lời rao giảng của Gioan Tẩy giả đón Chúa Cứu Thế. Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, Ngài đến như tân lang trong tiệc cưới - tiệc cứu độ tình yêu, đem niềm vui đời đời cho chúng ta…
Khi tự xưng mình là tân lang, nghĩa là môn đệ của Ngài, là bè bạn đang dự tiệc cưới với tân lang là Chúa Kitô đang hiện diện, có nghĩa là Đấng Thiên Sai đã đến rồi, nên các phù rể không ăn chay để chờ đợi nhưng đang sống trong niềm vui. Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng: Ngài chính là Ðấng Cứu Thế - tân lang, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần phải trông đợi nữa. Vì thời của Ðấng Cứu Thế - tân lang là thời của hân hoan, của niềm vui, không phải là thời của khóc lóc, tang chế, ủ dột…
Khi các môn đệ Chúa Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và biệt phái, Ngài đã bênh vực các môn đệ - những người đang sống trong thời đại Cứu Thế: Ðức Giêsu chính là Tân Lang mang Tin Mừng - niềm vui Ơn Cứu Ðộ nên phải biết sống vui tươi, tin tưởng. Ủ rũ, sầu khổ là không hợp thời và không đúng lúc.
Hơn nữa, người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, cho nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. Mt 6,16; Lc 18,12).
Với Đức Kitô, dân Ngài trong Giáo hội như đang dự tiệc cưới nước Trời, sống hoàn toàn trong tinh thần mới: tinh thần của Chúa Cứu Thế - Đức Tân Lang Tân ước là tất cả Tin Mừng mà Ngài rao giảng như thứ rượu mới duy nhất không thể thay thế hoặc pha trộn trong bầu da cũ…
Ý lực sống: “Anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa. Tôi nhắc lại: Hãy vui lên” (Pl 4,4).
Suy Niệm 9: Nói về việc ăn chay
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng kể lại một phần cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và những người biệt phái về vần đề ăn chay, chúng ta thấy nhân cuộc tranh luận này, Đức Giêsu đã bộc lộ cho mọi người biết về bản thân và sứ mạng của Ngài.
Luật cũ chỉ buộc người Do thái ăn chay mỗi năm một lần vào ngày đền tội (Lc 16,19-31). Ngoài ra thời Đức Giêsu, người ta còn giữ chay tự nguyện vào những ngày chay chung, vì lý do như để cầu mùa. Hơn nữa, còn có những ngày chay do cá nhân giữ vì lòng đạo đức, như nhóm biệt phái ăn chay mỗi tuần hai lần vào ngày thứ hai và thứ năm (x.Mc 2,18; Lc 18,12).
Hôm nay, rất có thể bữa tiệc của Lêvi (Matthêu) khoản đãi Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài đã được tổ chức trùng vào ngày những người đạo đức và nhóm biệt phái ăn chay, nên các môn đệ của Gioan đã đến chất vấn Ngài.
2. “Tại sao môn đệ ông lại không ăn chay”?
Đức Giêsu và các môn đệ được mời dự tiệc, có lẽ trùng vào ngày thứ hai hay thứ năm, ngày mà những người đạo đức thường ăn chay. Điều này làm cho các môn đệ Gioan, biệt phái và những người đạo đức thắc mắc.
Câu trả lời của Chúa vừa là một dụ ngôn vừa là một ám ngôn, Chúa đem trường hợp tiệc cưới ra để so sánh; chúng ta biết tiệc cưới nơi người Do thái thường kéo dài cả tuần lễ, như vậy, dĩ nhiên trong những ngày ấy, những người được mời dự tiệc không ăn chay. Rồi tự coi mình là chàng rể. Chúng ta biết trong Cựu ước, Thiên Chúa tự ví mình là chàng rể và Israel là nàng dâu. Như thế, khi tự nhận cho mình một hình ảnh mà Cựu Ước vẫn dùng để nói về Thiên Chúa thì Đức Giêsu đã đi rất xa trong tiến trình tự mạc khải chính mình, Ngài cho biết Ngài là Thiên Chúa đã đến giữa loài người.
3. Để cho dễ hiểu, chúng tôi xin trích lời giải nghĩa của cha Phạm Văn Phượng OP: Vậy là Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu xúc tích, Ngài vượt trên vấn đề được đặt ra để mạc khải xâu xa về bản thân và sứ mạng của Ngài: Sao lại bắt các môn đệ của tôi ăn chay giống như các anh? Họ đang dự tiệc cưới mà. Chính tôi là chàng rể đây, chàng rể mà Israel vẫn trông chờ, bao lâu tôi còn ở với họ thì họ đâu cần ăn chay, các anh ăn chay là để chờ đón Đấng Messia, còn các môn đệ của tôi đã nhận ra tôi là Đấng Messia. Vậy thì nếu họ cũng ăn chay để đón chờ Đấng Messia như các anh thì thật là phi lý, cũng giống như người đang dự tiệc cưới mà ăn chay vậy, nếu các anh muốn thấy họ ăn chay, thì chờ tới ngày chàng rể bị giết, họ sẽ ăn chay để than khóc.
4. Qua việc chất vấn của các môn đệ Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu đã nhân cơ hội này, dạy chúng ta những bài học:
- Đừng học đòi những người bắt bẻ môn đệ Đức Giêsu về việc ăn chay bởi vì họ xét đoán người khác, bắt người khác làm theo ý của mình, bắt người khác phải giống như họ, tạo ra một khuôn mẫu để bắt người khác phải chiều theo ý mình.
- Muốn trở thành môn đệ Đức Giêsu, ta phải thay đổi cách sống cũ, từ suy nghĩ đến hành động, để mặc lấy cách suy nghĩ, cách hành động, cách sống mới cho phù hợp với Tin Mừng.
- Vải vá áo, rượu trong bình là hình ảnh diễn tả đời sống của tôi. Chúa muốn tôi bước theo Chúa thì cần phải thay đổi cách sống cho phù hợp với Tin Mừng. Thay đổi tư tưởng, lời nói và hành động. Thay đổi để trở nên giống như Đức Giêsu, hiền lành, khiêm nhường, yêu thương phục vụ, khoan dung tha thứ...
5. Chay tịnh là việc cần phải thực hiện cách tích cực trong Mùa Chay, vì thế qua bài Tin Mừng hôm nay, Phụng vụ nhắc nhủ chúng ta về việc ăn chay và ý nghĩa của việc ăn chay; là để đền tội và được kết hợp với Chúa ở đời này và sống với Chúa đời sau.
Cố gắng đừng ăn chay hình thức nhất là để khoe khoang; người biệt phái và các môn đệ của Gioan ăn chay là để lôi kéo sự thán phục của thiên hạ. Vì thế, không đúng với ý nghĩa của việc ăn chay, cho nên Đức Giêsu nhiều lần đã khiển trách họ (x. MT 6,16; Lc 18,12).
6. Truyện: Cái giá treo chuông.
Bên Trung quốc, có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đề khen ngợi và cho đó là kỳ công của bậc thần thánh. Ngày nọ, vị công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc này cho gọi đến và hỏi:
- Nhà ngươi có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?
Nhà điêu khắc trả lời:
- Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, mọi sự được tốt đẹp là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt, để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi.
Việc giữ chay của chúng ta trong mỗi Mùa Chay cũng phải hiểu theo ý nghĩa đó.
Suy Niệm 10: Ăn chay đẹp lòng Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Bài đọc I trích sách Isaia nói về những kiểu ăn chay không đẹp lòng Thiên Chúa, đó là: ăn chay hãm mình bề ngoài nhưng trong lòng vẫn ích kỷ, bất công, chèn ép tha nhân. Kiểu ăn chay Chúa muốn là “Mở trói ác ôn, bật tung thừng ách, thả tự do cho người bị hành hạ, đập tan mọi thứ gông cùm, bẻ bánh chia cho người đói, cho kẻ vô gia cư trọ nhà, che thân cho người mình trần”.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy ta quy chiếu toàn thể cuộc sống về Ngài là chàng rễ của thời Tân Ước: vui mừng vì được sống với Ngài; khi phải xa Ngài vì tội lỗi thì ăn chay sám hối để mong được trở lại với tình Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Những cách ăn chay mà ngôn sứ Isaia khuyến khích cũng đáng cho chúng ta lưu ý:
- xoá bỏ những hình thức bất công, chèn ép: tôi có đang cố ý hay vô tình bất công, chèn ép ai đó không?
- chia xẻ và giúp đỡ cụ thể những người đau khổ: tôi có cơ hội làm những việc này không?
2. Bài Tin Mừng mời tôi suy nghĩ xem tôi đang còn sống trong tình thân với Chúa không. Nếu như, một cách nào đó, “chàng rễ đã bị đem đi” khỏi tâm hồn tôi, thì tôi phải ăn chay sám hối để được trở lại với tình Ngài.
3. “Hoả ngục chính là tha nhân” (Jean Paul Sartre). Nếu tôi đang là hoả ngục cho anh chị em tôi, tôi phải sửa đổi chính bản thân tôi. Nếu trong cộng đoàn của tôi, có ai đó đang là hoả ngục cho tôi, tôi hãy cố gắng cùng với Chúa sửa đổi người đó.
Suy Niệm 11: Chay tịnh là để được sống thân tình với Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Vâng, ngay từ thời tiên tri Isaia mà chúng ta cũng đã thấy những hình thức ăn chay thật đáng cho chúng ta suy nghĩ.
- Chay tịnh không phải chỉ là kiêng khem những của ăn vật chất, hay bớt đi một phần ăn trong một bữa, mà là xoá bỏ đi những bất công, những chèn ép, áp bức nhau trong cuộc sống: chúng ta có đang cố ý hay vô tình bất công, chèn ép ai đó không?
- Chay tịnh còn là biết chia sẻ và giúp đỡ cụ thể những người đang đau khổ. Nếu có cơ hội làm những việc này, chúng ta có làm không?
2. Rồi qua bài Tin Mừng, Chúa còn đưa ra một hình thức chay tịnh độc đáo hơn. Chay tịnh là để được sống trong thân tình với Chúa và qua việc được sống thân tình với Chúa, con người biết sống với nhau như anh em nhiều hơn.
Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, người ta đọc được câu chuyện sau đây:
Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.
Ngày ngày, các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều cho mỗi người.
Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi. Một người thì lại ốm o, buồn phiền.
Cả hai người được đưa đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, để xem họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không.
Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã Suy Niệm về những gì.
Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp:
- Trong suốt năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội tôi đã phạm. Từng giây, từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.
Đến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau:
- Suốt một năm qua, từng giây, từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi, vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa.
- Ngoài việc làm cho con người được gần gũi với Thiên Chúa, chay tịnh còn giúp con người làm chủ được mình. Và đây cũng là điều hết sức quan trọng. Làm chủ được mình thì con người sẽ tránh được rất nhiều lầm lỗi và sa lầy trong cuộc sống. Hầu như mọi thứ tội ác đều ít nhiều bắt nguồn từ sự không làm chủ được cuộc đời của mình mà ra.
Bên Trung Quốc, có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công của bậc thần thánh. Ngày nọ, vị công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc này cho gọi ông đến và hỏi:
- Nhà ngươi có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?
Nhà điêu khắc trả lời:
- Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, mọi sự được tốt đẹp là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt, để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi.
Việc giữ chay của chúng ta trong mỗi Mùa Chay cũng phải hiểu theo ý nghĩa đó.
* Chay tịnh là để kềm hãm một trong những nhu cầu mạnh mẽ nhất của con người, đó là nhu cầu ăn uống để sinh tồn, để nhờ đó mà chúng ta có thể tiến mạnh hơn trên con đường tu thân tích đức.
* Chay tịnh còn giúp cho chúng ta nhận diện được sự đói khát như thế nào, để nhờ đó chúng ta có thể cảm thông và chia sẻ được với những anh em túng thiếu, nghèo khổ đang cần đến sự trợ giúp với lòng bác ái chân thành của chúng ta.
Nhờ ăn chay như thế mà chúng ta khám phá ra được hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta cũng như trong mọi người, để cuộc sống đức tin chúng ta ngày càng có chiều sâu, giúp chúng ta cảm nhận được một cách rõ ràng hơn tình yêu thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của chúng ta cũng như những người khác, để từ đó con người có thể sống yêu thương nhau nhiều hơn như lòng Chúa mong ước.
Lạy Chúa Giêsu, tiên tri Êlia kiên cường đến thế mà cũng đã có lúc mệt lả đuối sức trên đường lên núi Horeb, huống chi chúng con là những kẻ yếu hèn. Xin Chúa giúp chúng con sống Mùa Chay năm nay một cách nghiêm túc, để nhờ đó chúng con được hân hoan tiến bước theo Chúa trên hành trình đến dự tiệc vui Nước Trời. Amen.