Dân Chúa Âu Châu

CN T 6 TNThờ cha kính mẹ.

CHÚA NHẬT TUẦN 6 THƯỜNG NIÊN năm B.

MỒNG HAI TẾT GIÁP THÌN. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.

" Ngươi hãy thờ cha kính mẹ".

 

Lời Chúa: Mt 15, 1-6

Bấy giờ có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến gặp Đức Giê-su và nói rằng: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa? “

Người trả lời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: “Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa”.

Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.

 

Lời Chúa: Lc 1,67-75

Khi ấy, Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa, như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta; để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

 

 

2. Cầu cho cha mẹ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

3. Thờ cha kính mẹ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

4. Hiếu kính cha mẹ thật lòng--TGM Giuse Nguyễn Năng

5. Mừng Xuân với những liên hệ--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

6. Cầu cho ông bà tổ tiên--Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên

7. Ấm áp nghĩa tình--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

8. Kính nhớ Tổ tiên--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

9. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ Mt 15,1-6--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

10. Kính Nhớ Ông Bà Tổ Tiên--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

11. Thảo kính cha mẹ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

12. Báo hiếu tổ tiên--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

13. Hiếu kính cha mẹ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

14. Bụi chuối sau hè--Lm Giuse Đinh Lập Liễm

15. Đền đáp công ơn của tổ tiên--Lm Giuse Đinh Tất Quý

16. Ngày Xuân xây dựng tình thân gia đình--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

17. Đáp nghĩa Đền ơn--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

18. Làm Con Phải Lấy Chữ Hiếu Làm Đầu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

19. “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ”--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc

20. Lòng hiếu thảo với tiên nhân--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

21. Thảo kính cha mẹ Mt 15, 1-6--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

22. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ Mt 15, 1-6--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

23. Kính nhớ tổ tiên Lc 1, 67-75--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

24. Thảo kính mẹ cha Mt 15, 1-6--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

25. Hiếu thảo với cha mẹ Mt 15, 1-6--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

26. Xuân Đẹp Ngời Đạo Hiếu Mt 15, 1-6--J. B. Nguyễn Quốc Tuấn

27. Uống Nước Nhớ Nguồn- Trích Logos B

28. Về Với Gia Đình- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

29. Từ đạo Hiếu đến đạo Chúa--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

30. Kính nhớ tổ tiên--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

31. Cần có một tấm lòng--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

32. Kính nhớ tổ tiên--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

33. Biết ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

34. Kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

35. Sống Chữ Hiếu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

36. Tri Ân Ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

37. Kính nhớ Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

38. Sống thảo hiếu--Lm. Tạ Duy Tuyền

39. Đốt Hương Trầm Nhớ Quê- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

40. Hiếu Hôm Nay Phúc Ngày Mai--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

41. Ông bà tổ tiên--Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến

42. Nguyện Xin Thiên Chúa Xót Thương Cả Tổ Tiên- Trầm Thiên Thu

43. Uống nước nhớ nguồn--Trầm Thiên Thu

44. Không có hiếu là vứt đi--Jos. Vinc. Ngọc Biển

45. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên

46. Mt 15,1-6--Hãy hiếu kính ông bà cha mẹ--Lm Đan Vinh

47. Suy niệm Lời Chúa

48. Suy Niệm Lời Chúa Mt 15, 1-6

49. Suy niệm Lời Chúa

50. Hiếu kính Cha Mẹ

 

 

2.Cầu cho cha mẹ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm

Đã có lúc người ta cho rằng theo đạo Công giáo là bỏ ông bà,

nhất là khi Hội thánh chưa cho phép bày tỏ lòng hiếu thảo

bằng cử chỉ vái lạy tổ tiên đã khuất.

Ở đất nước ta, thờ cúng tổ tiên là chuyện quan trọng,

đến độ người ta có thể nói đến đạo thờ ông bà, đạo hiếu.

Ai không giữ đạo hiếu thật đáng khinh.

Nhiều người tin khi chết thì con người đi về thế giới bên kia,

và thế giới bên kia cũng không khác lắm với thế giới bên này,

người chết cũng có những nhu cầu vật chất cần thỏa mãn.

Tết là thời gian mời ông bà đã khuất về ăn Tết với con cháu.

Như thế ông bà và con cháu được gần nhau, thông hiệp với nhau.

Đạo Công giáo tin có thế giới bên kia,

nhưng không quan niệm thế giới ấy một cách vật chất.

Người chết không cần ăn uống, không cần xài tiền vàng mã,

nhưng lại rất cần lời cầu nguyện để sớm hưởng nhan Chúa.

Thảo kính cha mẹ là điều răn đặc biệt trong 10 điều răn,

vì không cấm làm một điều xấu, nhưng buộc làm một điều tốt.

Các sách Cựu Ước đều coi trọng mệnh lệnh này (Xh 20,12; Đnl 5,16).

Thậm chí một người con có thể bị xử tử bằng cách ném đá

nếu không vâng lời hay nguyền rủa cha mẹ (Xh 21,17; Lv 20,9; Đnl 21,21).

Còn ai hiếu thảo sẽ được Chúa cho sống thọ trên đất hứa (Xh 20,12).

Thảo kính cha mẹ là kính trọng và yêu mến kẻ đã sinh dưỡng mình,

Thăm viếng khi khỏe mạnh, chăm sóc khi yếu đau, hầu hạ khi cao tuổi.

Thảo kính cha mẹ cũng là làm cho cha mẹ được vinh danh.

Nhờ con cháu mà “danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44,14).

Có thể nói Đức Giêsu đã giữ điều răn này một cách nghiêm chỉnh.

Khi nghe Ngài giảng, có người đã kêu lên để ca ngợi Mẹ Ngài:

“Phúc cho người đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm” (Lc 11,27).

Bà Êlisabét đã ca ngợi Mẹ Maria là có phúc hơn mọi phụ nữ,

vì Người Con mà Mẹ đang cưu mang là Đấng có phúc tuyệt vời (Lc 1,42).

Đức Giêsu hằng vâng phục cha mẹ khi lớn lên ở Nadarét (Lc 2,51),

Và lo liệu cho Mẹ Ngài trước khi nhắm mắt (Ga 19,25-27).

Mồng Hai Tết, Giáo Hội mời ta nhớ lại nguồn cội tổ tiên đã xa ta,

và cũng nhớ đến nguồn cội đang ở gần ta với lòng biết ơn.

Đạo thờ ông bà, dù khác, nhưng cũng rất gần với đức tin Công giáo.

Thảo kính cha mẹ là “lời”, là “điều răn”của Thiên Chúa (Mt 15,3.6).

Không ai được phép bỏ qua hay coi nhẹ.

Qua tổ tiên, Thiên Chúa tạo dựng nên con người chúng ta.

Qua ông bà cha mẹ, Thiên Chúa cho chúng ta nên người thành toàn.

Tri ân tổ tiên là tri ân chính T. Chúa, Nguồn Cội của mọi nguồn cội.

Sách Nhị Thập Tứ Hiếu kể lại 24 gương hiếu thảo đối với mẹ cha.

Lão Lai tuy đã già vẫn nhảy múa như con nít để giúp vui cho cha mẹ.

Lục Tích là đứa bé ăn cắp quýt ở bữa tiệc để đem về, vì biết mẹ thích.

Ngô Mãnh, tám tuổi, cởi trần cho muỗi đốt mình để khỏi đốt cha mẹ.

Diễm Tử có cha mẹ già, thèm sữa hươu, nên ông khoác bộ da hươu,

giả làm hươu con vào rừng, để đến gần hươu mẹ vắt sữa.

nên suýt nữa bị các thợ săn nhắm bắn.

Nếu không hiếu thảo đến mức cao như các gương trên đây

thì ít là hôm nay ta biết ngước lên trời cầu nguyện cho cha mẹ:

“Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,

Cầu cho cha mẹ sống đời với con”

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm

sống dưới mái nhà ở Nadarét,

Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành,

Sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.

Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ

trong việc hình thành nhân cách của Chúa.

Chúa đã học nơi thánh Giuse

sự lao động miệt mài,

sự mau mắn thi hành Thánh Ý Thiên Chúa,

sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.

Chúa đã học nơi mẹ Maria

sự tế nhị và phục vụ,

sự buông mình sống trong lòng tin phó thác

và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.

Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh con người tốt,

biết yêu thương tha thứ,

biết cầu nguyện và phục vụ.

Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo Hội chúng con thánh thiện hơn,

nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan

và tràn đầy ơn Chúa.

 

3.Thờ cha kính mẹ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm:

Giáo Hội dành Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.

Người Công Giáo thường bị coi là bỏ rơi việc thờ cúng ông bà tổ tiên,

như thế họ có thể bị coi là bất hiếu.

Thật ra thảo kính cha mẹ là điều răn thứ bốn Thiên Chúa đòi chúng ta phải giữ.

Cha Đắc Lộ trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày (1651) cho rằng

thảo kính cha mẹ gồm bốn phần, đó là yêu mến, kính sợ, chịu lụy và giúp đỡ.

Cha còn ghi nhận một tập tục đặc biệt vào thời đó.

Ngày Mồng Một Tết, người dân và cả những quan lớn,

sau khi theo vua chúa đi tế Nam Giao về,

“ai nấy về nhà mà lạy cha mẹ ông bà ông vải.”

Vào năm 1625, các thừa sai cho phép cúng giỗ các vị đã khuất.

Trong các gia đình, ngoài bàn thờ kính Chúa, còn có “bàn thờ” tổ tiên

Chỉ có hai điều không được phép,

đó là đốt vàng mã và tin tổ tiên về ăn đồ cúng.

Thật ra, người Công Giáo nhớ đến người quá cố

không qua những nghi lễ giỗ chạp hàng năm,

cho bằng qua việc cầu nguyện và dâng lễ hàng ngày.

Nhà Vua tế Trời ở đàn Nam Giao, nhà sư thờ Phật tại Chùa,

các bậc chức sắc trong làng xã thờ Thành Hoàng tại đình làng,

còn việc cầu nguyện, cúng giỗ tổ tiên được cử hành tại gia đình,

nơi người sống và người đã qua đời vẫn thông hiệp với nhau chặt chẽ.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu bênh vực quyền lợi của cha mẹ.

Ngài đòi người ta phải giữ điều răn thứ tư của Thiên Chúa.

Thảo kính cha mẹ hàm chứa việc săn sóc và phụng dưỡng cha mẹ.

Cụ thể người con phải giúp cha mẹ về mặt tài chánh.

Đức Giêsu phản đối một truyền thống được bày đặt bởi người Pharisêu,

đó là khi một người con lấy số tiền lẽ ra dành để nuôi cha mẹ

mà dâng cúng cho đền thờ làm lễ phẩm

thì anh ta khỏi phải dùng tiền đó mà nuôi cha mẹ nữa (cc. 5-6).

Đối với Đức Giêsu, làm thế là nhân danh một truyền thống con người

mà “vi phạm điều răn của Thiên Chúa”và “hủy bỏ lời của Thiên Chúa” (cc. 3.6).

Khi suy nghĩ về tương quan giữa cha mẹ và con cái,

chúng ta cần tự hỏi:

Làm sao để có sự cảm thông giữa những thế hệ?

Làm sao để con cái biết vâng phục và tôn kính cha mẹ?

Làm sao để cha mẹ biết giáo dục con cái bằng khuyên răn và sửa dạy?

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,

Chúa đã thành một người chín chắn

và trưởng thành,

sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.

Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ

trong việc hình thành nhân cách của Chúa.

Chúa đã học nơi thánh Giuse

sự lao động miệt mài,

sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,

sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.

Chúa đã học nơi Mẹ Maria

sự tế nhị và phục vụ,

sự buông mình sống trong lòng tin phó thác

và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.

Xin nhìn đến gia đình chúng con,

xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,

biết yêu thương tha thứ,

biết cầu nguyện và phục vụ.

Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,

Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,

nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan

và tràn đầy ơn Chúa.

 

4.Hiếu kính cha mẹ thật lòng--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta phải hiếu kính cha mẹ thật lòng. Đó là giới răn quan trọng, không được vịn cớ nào đó để coi thường hay bỏ rơi cha mẹ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày đầu năm, con nhớ về cội nguồn của đời sống con. Chính Chúa đã nhờ cha mẹ để tác tạo nên con, nuôi dưỡng và giáo dục con để con được như ngày hôm nay. Công lao của tổ tiên, ông bà, cha mẹ đổ dồn lên tấm thân con. Con mang nặng trên vai món nợ công ơn và tình thương bao la ấy. Và qua đó con nhận ra tình thương Chúa dành cho con thật vô bờ bến. Con cảm tạ Chúa. Khi con biết ơn ông bà cha mẹ, chính là lúc con bày tỏ lòng biết ơn Chúa. Con bất hiếu với các ngài chính là con vô ơn đối với Chúa.

Chính vì vậy, Chúa dạy con phải sống hiếu thảo, thờ cha kính mẹ cho phải đạo làm con. Nhưng lạy Chúa, trong thực tế, con thiếu sót rất nhiều. Cũng như các biệt phái và luật sĩ ngày xưa, con vẫn lớn tiếng tuyên bố lòng hiếu thảo, nhưng lại vịn đủ mọi lý lẽ để bỏ rơi hoặc khinh thường cha mẹ. Con vịn cớ bận rộn, vất vả, con cái, con nại đến những bổn phận đạo đức, xã hội, học hành, để rồi bỏ mặc cha mẹ con sống thiếu thốn, cô đơn tủi nhục. Lạy Chúa, thậm chí có những lúc con đã có những lời nói việc làm khinh thường hoặc xúc phạm đến ông bà cha mẹ con.

Con xin Chúa tha thứ cho con, xin Chúa dạy con biết noi gương vâng phục và hiếu thảo của Chúa Giêsu. Xin giúp con biết đem lại niềm vui và an ủi cho các bậc sinh thành. Xin ban cho con sống xứng đáng với công ơn các ngài dành cho con. Xin Chúa tuôn đổ muôn phúc lành hồn xác trên các ngài. Và xin cho những vị đã an nghỉ được Chúa ban phúc trường sinh bên Chúa. Amen.

Ghi nhớ: “ Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử.”

 

5.Mừng Xuân với những liên hệ--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Dịp Tết, ta thường gửi thiệp chúc Tết, thăm viếng và tặng quà cho nhau. Những sinh hoạt ngày Tết như thế là những sinh hoạt của các mối liên hệ. Nếu không có những liên hệ, ngày Tết sẽ mất đi ý nghĩa của nó. Tết là của người khác chứ không phải của riêng mình. Vì thế, đối với trẻ em, Tết là những ngày hội vui. Nhưng đối với người trưởng thành, Tết là một trách nhiệm:

Người ta sống được ở đời là nhờ những liên hệ. Không ai có thể sống một mình. Ta cần có cha mẹ để có mặt ở đời. Ta cần có thầy cô để khai thông trí hoá. Ta cần có bạn bè để chia vui sẻ buồn. Ta cần người nông dân để có lúa gạo, rau trái. Ta cần có thợ may để có quần áo. Ta cần người quét đường để đường phố được sạch sẽ. Có thể nói tất cả những gì ta có được: từ sự sống đến kiến thức, từ cơm ăn áo mặc đến xe cộ, thuốc men, tất cả đều nhờ người khác.

Những mối liên hệ giống như những con đường chuyên chở đến cho ta những chất liệu nuôi dưỡng cuộc sống. Những mối liên hệ là những mạch máu đem máu đỏ đến tận những tế bào bé nhỏ nhất trong thân thể ta. Những mối liên hệ chính là chiếc tay vịn giúp ta leo lên những bậc thang làm người và thành đạt.

Đời ta có nhiều liên hệ. Có những liên hệ chiều rộng giúp cho cuộc đời thêm tươi đẹp phong phú. Có những liên hệ chiều sâu tạo thành bản chất cuộc đời. Gia đình với ông bà cha mẹ tổ tiên nằm trong mối liên hệ chiều sâu của đời ta. Không có ông bà cha mẹ tổ tiên, ta không có mặt ở đời. Ông bà cha mẹ là những hạt giống chịu vùi chôn dưới những lớp đất vất vả nhọc nhằn để cho cây đời ta được mọc lên xanh tươi. Ông bà cha mẹ đã tự nguyện quên bản thân mình, chịu mục nát như lớp phân bón cho cây đời chúng ta đơm bông kết trái. Ta là điểm tới của một quá trình phấn đấu gian nan dài đằng đẵng của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời sống ta như một bông hoa thì những bông hoa ấy đã được tưới bằng những giọt mồ hôi và cả những giọt nước mắt của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời ta như một toà nhà cao tầng thì ông bà cha mẹ chính là lớp nền móng chịu vùi chôn dưới lòng đất, còng lưng gánh chịu mọi sức nặng cho toà nhà đứng vững, phô trương vẻ đẹp với đời. Hạt mầm hiện hữu vì bông hoa sắp nở. Nền móng có mặt vì ngôi nhà sắp xây. Trọn một đời ông bà cha mẹ đều dành cho hạnh phúc của con cháu.

Đời sống mỗi người, vì thế, đều có một lịch sử rất dầy và rất sâu. Bề dầy ấy không chỉ đo bằng những trang sách của cuốn gia phả, nhưng còn đo bằng những trang đời của bao thế hệ tổ tiên. Độ sâu ấy không chỉ đo bằng những cố gắng của bản thân, mà còn đo bằng bề sâu ân nghĩa của biết bao hi sinh vất vả của ông bà cha mẹ.

Ngày Tết là ngày của những mối liên hệ. Mùng Một Tết, chúng ta đã sống mối liên hệ với Chúa, nguồn gốc và cứu cánh của đời ta. Mùng hai Tết, Giáo hội muốn chúng ta sống mối liên hệ với ông bà cha mẹ, những người thay mặt Chúa, trực tiếp ban sự sống cho ta.

Sự sống là món quà quý nhất nên mối liên hệ với người ban sự sống cũng là mối liên hệ sâu nhất.

Tục lệ lập bàn thờ và kính nhớ tổ tiên trong ngày Tết là một nét văn hoá rất cao của người Việt Nam. Hình ảnh của ông bà cha mẹ trong nhà không chỉ nói lên sự sum họp của một gia đình đầm ấm, hình ảnh ấy còn nhắc ta về lòng biết ơn, cho ta nhìn thấy bề sâu bề dầy của lịch sử đời mình. Và vì thế giúp ta ý thức về trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đối với bản thân, và đối với những thế hệ kế tiếp.

Muốn xây một căn nhà thật cao thật đẹp, trước hết phải xây dựng nền móng vững chắc. Muốn xã hội tiến nhanh tiến mạnh, phải xây dựng gia đìnhh vững chắc. Thờ kính tổ tiên, nhớ ông bà chính là nền tảng giúp xã hội tiến bộ vững mạnh.

Nếu những mối liên hệ là những con đường chuyển tải sự sống thì những liên hệ chiều sâu chính là những xa lộ huyết mạch. Nếu những mối liên hệ là những mạch máu nuôi dưỡng sự sống thì mối liên hệ chiều sâu chính là những động mạch chủ. Sửa chữa, củng cố và tăng cường những liên hệ gia đình chính là phát triển sự sống, phát triển xã hội.

Chính trong ý hướng đó mà Giáo hội muốn ta sống tình gia đình, lòng biết ơn ông bà cha mẹ trong ngày mùng Hai Tết.

 

6.Cầu cho ông bà tổ tiên--Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
“Mừng tết đến, gia đình vui sum họp. Đón Xuân về, con cháu sống bình an”

Hôm nay, cùng với toàn thể Hội Thánh Việt Nam, chúng ta cùng quy tụ về đây để hiệp dâng thánh lễ để kính nhớ Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ.

Trong lịch sử truyền giáo của Giáo Hội, việc thờ kính Tổ Tiên Ông Bà Cha Mẹ đã có lúc trở thành một cản trở trong công cuộc truyền giáo, khiến cho những anh chị em không cùng tôn giáo khó có thể đón nhận chúng ta. Sở dĩ như vậy, vì đã có những hiểu lầm trong cách thức bày tỏ lòng hiếu kính với Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ. Người ta cho rằng, theo Đạo đồng nghĩa với việc từ bỏ bàn thờ Tổ Tiên Ông Bà. Cho đến ngày hôm nay, vẫn còn không ít người hiểu như vậy. Tuy nhiên, sự thật lại hoàn toàn khác. Người Công Giáo không những không bỏ bàn thờ Tổ Tiên mà còn thực thi nghĩa vụ này một cách chu đáo nữa là đàng khác.

Trước tiên, việc thờ kính Tổ Tiên Ông Bà là một trong mười điều răn của Chúa: Thứ Bốn: Thảo kính cha mẹ. Tiếp đến, người Công Giáo dành một tháng trong năm là tháng 11 (còn được gọi là tháng các linh hồn) để cầu nguyện cho những người đã qua đời, trong đó có Tổ Tiên, Ông Bà của chúng ta. Không những thế, trong thánh lễ hàng ngày, Giáo Hội hằng cầu khẩn cho Tổ Tiên Ông Bà qua lời Kinh Nguyện Thánh Thể. Đặc biệt hơn nữa, Giáo Hội còn dành một trong ba ngày Tết, là những thời khắc thiêng liêng nhất trong năm để kính nhớ Tổ Tiên Ông Bà như ngày hôm nay đây.

Vậy thì làm sao có thể nói: Đi Đạo là từ bỏ Tổ Tiên Ông Bà được! Vậy đâu là lý do khiến chúng ta phải hiếu kính với Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ?

Ca dao xưa có câu: “Cây có gốc mới trổ cành xanh ngọn/ Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu. Con người nguồn gốc từ đâu/ Có cha, có mẹ rồi sau có mình.” Nói như vậy, thì bổn phận thảo kính ông bà, cha mẹ không phải chỉ là nghĩa vụ của người Công Giáo, mà là của tất cả những ai mang thân phận con người, đều phải có nghĩa vụ thảo kính đối với những đấng bậc đã sinh thành dưỡng dục nên mình.

Quả thật, khi nói đến công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, chúng ta chẳng thể nào diễn tả hết. Câu ca dao mà có lẽ chúng ta đã thuộc làm lòng từ những ngày chập chững cắp sách tới trường rằng: “Công Cha như núi Thái Sơn/ nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra” đã phần nào nói lên công đức cao dày của tình Cha-nghĩa Mẹ.

Các ngài đáng được trân trọng, không chỉ vì các ngài là những người đã sinh thành, dưỡng dục mà chúng ta còn nhớ ơn các ngài bởi các công trình các ngài đã xây dựng và để lại cho ta (gầy dựng giang sơn, khai phá ruộng vườn, xây dựng nhà cửa, kiến thiết đường xá, nhà thờ…)

Hơn thế nữa, đối với người Công Giáo, ta còn biết ơn các ngài, bởi các ngài đã có công đón nhận Đức Tin, sống Đức Tin và truyền lại gia sản Đức Tin đó cho ta. Nhờ đó, ta được trở nên con cái Chúa, được làm người cách đầy đủ trọn vẹn và được hưởng sự sống đời đời.

Lời Chúa trong Bài đọc thứ nhất trích trong sách Đức Huấn Ca hôm nay cũng dùng những lời thật đẹp để ca ngợi công đức của các bậc sinh thành: “Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con… Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen”.

Nhưng chúng ta phải tôn kính như thế nào? Sách Giáo Lý Công Giáo dạy rằng: Chúng ta phải tôn kính các ngài cả khi các ngài còn sống, cũng như lúc các ngài đã qua đời.

Lúc các ngài còn sống, phải thảo hiếu bằng việc tôn kính và vâng lời các ngài. Vì như lời trong thư của Thánh Phaolô Tông Đồ gửi tín hữu Êphêsô: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).

Khi các ngài đã về già, phải chăm nom, săn sóc, phụng dưỡng và giúp đỡ các ngài về moị mặt. Ca dao tục ngữ xưa đã có rất nhiều câu để ca ngợi những người con hiếu thảo: “Mẹ già ở trốn lều tranh/ Sớm thăm, tối viếng mới đành dạ con”; “Đói lòng ăn hột chà là/ Phần cơm cho mẹ, mẹ già yếu răng”. Tuy nhiên, trong thực tế cuộc sống, cũng có không ít người con không những chưa làm tròn chữ Hiếu mà người xưa đã từng lên án: “Mẹ già hết gạo treo niêu/ Còn anh, khăn đỏ, khăn điều vắt vai”.

Hỡi những người làm con, Thảo kính Cha Mẹ được hãy làm ngay khi các ngài còn sống, kẻo khi các ngài đã khuất bóng, sẽ không còn cơ hội để phụng dưỡng các ngài nữa. Như thế, để khỏi phải ngậm ngùi mà nói rằng: “Sống thì con chẳng cho ăn/ Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi”

Sau cùng, việc tôn kính Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ không chỉ là một nghĩa vụ Hiếu thảo, mà còn là hình bóng việc tôn kính – hiếu thảo với Cha trên trời là chính Thiên Chúa. Bởi vì, nếu không biết thảo Hiếu với Ông Bà, Cha Mẹ là những người chúng ta gặp gỡ hàng ngày, thì làm sao có thể Thảo Hiếu với T. Chúa là Đấng chúng ta chưa hề thấy bao giờ?

***

Để nói về công ơn cha mẹ, người xưa có câu: “Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ/ Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha… Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc/ Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con!”

Với những người cha mẹ còn sống, xin được nói lên lời chúc mừng tuổi mới, chúc thọ dài lâu để ông bà cha mẹ sống lâu với con cháu, thấy cảnh con cháu đông đúc và yêu thương, thành nhân và thành công.

Với những người cha mẹ đã khuất bóng, xin được đốt lên nén hương trầm, đặt lên phần mộ một bó hoa để ghi nhớ công ơn sinh thành và dưỡng dục.

Lạy Chúa, trong ngày đầu năm mới này, chúng con xin dâng lên Chúa, Chúa của mùa Xuân hương hồn của cha mẹ chúng con. Xin Ngài đón nhận và cho cha mẹ chúng con an nghỉ trong tình thương của Chúa. Amen.

 

7.Ấm áp nghĩa tình--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Ngày đầu Năm Mới, chúng ta được mời gọi sống truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bởi lẽ tất cả những gì ta nhận được hôm nay đều do ông bà cha mẹ để lại, cho nên đạo hiếu nhắc nhở chúng ta bổn phận: “Uống nước nhớ nguồn”. Mùa Xuân là dịp khơi gợi lại trong chúng ta nguồn sống ấy. Mùa xuân cũng là cơ hội để con cháu bày tỏ lòng hiếu kính, biết ơn với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục ta nên người. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta sống lại truyền thống ấy với một chiều kích sâu xa hơn trong tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại, hay giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn tình thảo hiếu với ông bà, cha mẹ thì cũng đồng thời ta đáp trả lời mời gọi của Tin mừng trong thái độ yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.

Cùng quy tụ bên gia đình trong bữa cơm ấm áp nghĩa tình ngày đầu năm, chúng ta không khỏi không nhắc đến những kỷ niệm thân thương của ông bà, cha mẹ khi các ngài còn hiện diện với chúng ta. Nhiều gia đình còn xum họp bên nhau quanh nấm mồ của những người đã khuất, cùng thắp lên nén hương gói trọn bao lời cầu nguyện trong yêu thương luyến nhớ. Ngày mùng Hai tết không chỉ nhắc chúng ta tưởng nhớ đến những người đã khuất, mà còn nhắc ta bổn phận làm con đối với ông bà cha mẹ, những bậc sinh thành dưỡng dục đang còn sống. Đây là cơ hội quý báu để chúng ta bày tỏ lòng hiếu thảo với những người còn sống, đồng thời cũng để nói lên lời tạ lỗi với mẹ cha.

Lần giở lại những trang Tin Mừng, chúng ta gặp lời của Thiên Chúa trong sách Huấn ca: “Của dâng cho Cha sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi” (Hc 3, 14-15). Theo đó, lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ sẽ làm cho ta trở nên công chính và bản thân ta, cuộc đời của ta có ý nghĩa và giá trị hơn trước mặt người đời. Sau bổn phận đối với Thiên Chúa thì thái độ thảo hiếu đối với cha mẹ được coi là yếu tố căn bản của nhân vị trong tương quan với tha nhân. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, khi người ta đề cao chủ nghĩa duy vật thì các giá trị đạo đức xuống cấp. Chúng ta không thể không đau lòng khi thấy trong nhiều gia đình con cái đối xử tệ bạc với cha mẹ. Khi cha mẹ già yếu, họ không thương tiếc đẩy cha mẹ vào các viện dưỡng lão mà không một lời thăm hỏi, trong khi họ có đủ điều kiện để phụng dưỡng cha mẹ. Chúng ta không thể không đau lòng khi có người bỏ bê cha mẹ già đau ốm, hầu mong cha mẹ chết sớm đi để rảnh nợ. Trong nhiều gia đình, con cái còn đùn đẩy trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ cho nhau… Như những người Pharisêu và Kinh sư trong Tin mừng hôm nay, một số những người trẻ sẵn sàng quay lưng lại với truyền thống, với các chuẩn mực đạo đức xã hội mà coi thường giá trị nền tảng của gia đình, không tuân giữ luật Chúa “thảo kính Cha mẹ”. Mỗi chúng ta, hơn một lần trong cuộc đời, cũng đã có lúc làm cha mẹ buồn lòng, gây cho cha mẹ những khổ đau phiền lụy và cả những hao tổn về tinh thần.

Chúng ta không khỏi ngậm ngùi ân hận khi nghĩ lại bao lầm lỗi, xúc phạm gây bao khổ đau cho ông bà cha mẹ hôm nào. Những gì của quá khứ đang sống lại trong chúng ta như đang mời gọi ta tìm cách đền đáp công ơn cha mẹ, thảo hiếu với ông bà. Chúng ta không khỏi xúc động khi nghĩ lại bao yêu thương, hy sinh mà các ngài đã dành cho mình: “Cha thời sinh ta, mẹ thời nuôi ta. Cái ơn sâu nghĩa nặng cao vời ấy tựa Thái Sơn, làm sao ta báo đáp”. Chúng ta, kẻ làm con ít khi thực sự cảm nhận được hạnh phúc có cha có mẹ, hạnh phúc được sống trong tình yêu nồng ấm của mẹ cha, thường khi các ngài đã về với Chúa, chúng ta mới cảm nhận sâu xa tình yêu của các ngài, mới thèm được cha thương, mẹ chiều, mới ngậm ngùi hiểu ra cái lẽ: ngọn roi cha dạy làm xót lòng cha, làm đau lòng mẹ hơn là làm con đau đớn; mới hiểu ra rằng tất cả những gì cha mẹ làm cho ta cũng chỉ vì mong con nên thân nên người, mong con hạnh phúc. Những gì chúng ta có được hôm nay đều ghi đậm dấu ấn của mẹ cha; sự thành đạt, niềm hạnh phúc của chúng ta hôm nay có sự đánh đổi những hy sinh vất vả của cha mẹ. Cha mẹ đã phải hao gầy, cằn khô theo năm tháng bởi bao lo lắng, hy sinh, bao vất vả đắng cay, bao giọt lệ chảy ngược vào lòng để chúng ta khôn lớn, nên người. Lòng cha mẹ quá quảng đại, bao dung, không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, chấp nhận mọi khổ đau để đời chúng ta được thành đạt, hạnh phúc.

Nhớ về công ơn cha mẹ, luôn là lời mời chúng ta hướng về nguồn cội của sự sống, của tình yêu, của mọi ân phúc trong đời là chính Chúa để chúng ta tỏ lòng yêu mến, biết ơn trước hết với Chúa là nguồn cội mọi ân phúc và với mẹ cha là những người sinh thành dưỡng dục ta nên người. Tạ ơn Chúa đã thương cho chúng ta được sinh ra và lớn lên trong mái ấm gia đình có ông bà, có cha mẹ, có những người thân bên cạnh để yêu thương, nâng đỡ dạy dỗ, bảo ban để chúng ta không ngừng lớn lên trong thân xác và nhân bản, về trí tuệ và tình yêu, nhất là được giáo dục trong lòng tin yêu Chúa.

 

8.Kính nhớ Tổ tiên--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
(Hc 44,1.10-15 Ep 6,1-4 Lc 1,67-75)

A. Hạt giống...

1. Bài đọc I trích sách Huấn ca, nội dung là ca ngợi công đức của tổ tiên: các ngài là những người nhân đức, đã tạo dựng cơ nghiệp và truyền lại cho con cháu; các thế hệ con cháu sẽ ghi nhớ ký ức về các ngài, giữ gìn thanh danh các ngài và truyền tụng sự khôn ngoan của các ngài.

2. Bài đọc II trích thư Êphêxô ghi những lời khuyên cụ thể cho những kẻ làm con cháu:

- Phải vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa.

- Hãy tôn kính cha mẹ.

3. Bài Tin Mừng trích bài ca Benedictus của ông Dacaria nói về di sản của tổ tiên là thừa hưởng Lời Thiên Chúa hứa sẽ “giải phóng ta khỏi địch thù”. Lời hứa này nhằm mục đích “cho ta chẳng còn sợ hãi”, “để ta sống thánh thiện công chính trên nhan Ngài và phụng thờ Ngài suốt cả đời ta”.

B.... nẩy mầm.

1. Việc tôn kính ông bà tổ tiên nhắc chúng ta:

- nhớ đến công ơn của các ngài - ta phải cố gắng sống xứng đáng để đền đáp những công ơn ấy.

- nhớ đến tâm nguyện của các ngài muốn chúng ta là những con người tốt, những kitô hữu tốt, những tu sĩ Linh mục tốt - ta phải cố gắng hoàn thành những tâm nguyện ấy.

- nhớ rằng cuộc đời cũng như một sân khấu, người này bước lên diễn xong vai tuồng của mình thì bước xuống cho người sau bước lên. - Ta phải diễn thật đạt vai tuồng của mình, để khỏi phụ lòng những người đi trước và khỏi xấu hổ cho người đi sau.

2. Một góa phụ vất vả làm lụng trong nhà máy để nuôi bốn đứa con, giờ nằm hấp hối trên giường.

Đứng xung quanh bà bây giờ là con cái lớn khôn. Anh trai cả khóc và nói với bà: “Mẹ ạ, mẹ thật tốt và hết lòng yêu thương chúng con. Chúng con muốn cám ơn mẹ. Chúng con thật hãnh diện về mẹ”.

Bà nhướng đôi mắt và hỏi: “Tại sao các con đợi cho đến bây giờ mới nói điều đó? Trước đây các con chẳng bao giờ nói như vậy”.

Rồi bà nhắm mắt từ biệt. (Góp nhặt)

 

9.Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15,1-6)--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Luật của Chúa

Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.

Chữ hiếu của người Á đông

a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.

b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu Lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biệt để nhớ đến ông bà tổ tiên.

c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao quý đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện ngục.

Sự tử như sự sinh

Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.

Truyện: Đôi đũa thứ năm

Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô Phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát.

Cha Hậu ngạc nhiên hỏi: “Bát đũa này dành cho ai?”

Bác trả lời: “Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất, nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.

Giáo hội Việt Nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao quý. Vì thế, Giáo hội Việt Nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì

Người ta có cố có ông,

Như cây có cội, như sông có nguồn (Ca dao)

Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai được quên công ơn lớn lao đó:

Ai mà phụ nghĩa quên công,

Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (Ca dao)

Một Phong trào vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn: “Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:

- Phúc cho anh chị khi hiểu rằng: tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.

- Phúc cho anh chị khi nhớ rằng: tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu: “Trẻ khôn ra, già lú lại”.

- Phúc cho anh chị, nếu biết rằng: mắt tôi không còn sáng được như xưa.

- Phúc cho anh chị, nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.

- Phúc cho anh chị, nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.

- Phúc cho anh chị, nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.

- Phúc cho anh chị, nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.

- Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.

Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:

Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,

Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.

Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.

Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên:

- Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài, vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.

- Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.

Ơn ai một chút chớ quên,

Phiền ai một chút để bên cạnh lòng (Ca dao)

 

10.Kính Nhớ Ông Bà Tổ Tiên--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
I. Ý NGHĨA BA NGÀY TẾT

Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng xum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc tiền bối.

Giáo hội Việt nam cùng đồng hành với dân tộc cũng muốn đề cao ba ngày Tết để giúp giáo dân thánh hóa ngày Tết với ý chỉ:

* Mùng một: cầu bình an cho năm mới.

* Mùng hai: kính nhớ ông bà tổ tiên.

* Mùng ba: thánh hoá công việc làm ăn.

Hôm nay mùng hai Tết, Giáo hội muốn cho giáo dân tỏ lòng hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên bằng cách dâng thánh lễ đặc biệt để cầu cho các ngài còn sống hay đã qua đời, tuy đã khuất nhưng còn luôn ở bên cạnh chúng ta.

II. ĐẠO HIẾU CỦA TA

1. Luật của Chúa.

Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.

2. Chữ hiếu của người Á đông.

a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.

b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biết để nhớ đến ông bà tổ tiên.

c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao qúi đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện ngục.

3. Sự tử như sự sinh.

Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.

Truyện: Đôi đũa thứ năm.

Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát. Cha Piô Ngô Phúc Hậu ngạc nhiên hỏi: ”Bát đũa này dành cho ai”? Bác trả lời: ”Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.

III. Ý NGHĨA NGÀY MÙNG HAI TẾT

Giáo Hội Việt nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao qúi. Vì thế, Giáo hội Việt nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì

Người ta có cố có ông,

Như cây có cội, như sông có nguồn. (ca dao)

Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai đuợc quên công ơn lớn lao đó:

Ai mà phụ nghĩa quên công,

Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (ca dao)

Truyện: Con kiện mẹ.

Tại bang New Jersey bên Hoa kỳ, một bà mẹ 78 tuổi bị đứa con trai kiện vì bà không trả tiền công cho chàng đã sửa chiếc xe vận tải của bà.

Bà đã đệ đơn tố ngược lại con mình, với đề nghị là chàng phải bị đánh đòn vì lúc chàng còn nhỏ, bà đã không áp dụng câu: “Thương con cho roi cho vọt”.

Trả lời đơn người con trai kiện mình, bà đã viết: “Nguyên cáo mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một người mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, một nhà tâm lý để cố vấn khuyên bảo… Tất cả những dịch vụ trên nguyên cáo đã không trả tiền công cho bị cáo”.

Bà mẹ viết tiếp: “Như một người mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh con tôi, những roi vọt cần thiết cho nó mà tôi đã không dành cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con, thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”. (R. D. Warhreit, Ánh sáng hy vọng, tr 226)

Ngược lại câu truyện cười ra nước mắt trên đây, một PHONG TRÀO vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn: “Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:

Phúc cho anh chị khi hiểu rằng tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.

Phúc cho anh chị khi nhớ rằng tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu: “Trẻ khôn ra, già lú lại”.

Phúc cho anh chị nếu biết rằng mắt tôi không còn sáng được như xưa.

Phúc cho anh chị nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.

Phúc cho anh chị nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.

Phúc cho anh chị nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.

Phúc cho anh chị nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.

Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.

KẾT LUẬN

Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:

Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,

Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.

Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.

Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên

1. Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.

2. Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.

Ơn ai một chút chớ quên,

Phiền ai một chút để bên cạnh lòng. (Ca dao)

 

11.Thảo kính cha mẹ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay, Mồng Hai Tết Quý Tỵ, chúng ta họp nhau đây để ca tụng Chúa là Chúa mùa xuân và để tưởng nhớ đến các bậc tiền nhân. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta tỏ lòng hiếu thảo đối với công đức sinh thành của các ngài.

Đạo Hiếu, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam. Nó được thể hiện rõ nét trong mỗi dịp Tết cổ truyền. Những ngày vui tươi đầu xuân là thời điểm thuận tiện để con cháu bầy tỏ lòng biết ơn, hiếu kính đối với các đấng bậc đã có công sinh thành dưỡng dục mình cả về thể xác lẫn tâm linh.

Người Kitô hữu chúng ta ý thức được đạo Hiếu mang một chiều kích sâu xa hơn trong mối tương quan giữa Thiên Chúa với nhân loại và giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn vẹn chữ Hiếu cũng đồng thời chúng ta đáp trả lời mời gọi của Tin Mừng trong tinh thần yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.

I. ĐẠO HIẾU TRONG DÂN GIAN

Truyền thống cha ông chúng ta rất coi trọng chữ Hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ thời xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:

Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu

Hơn nữa, việc thảo kính cha mẹ, xét về mặt tự nhiên, cũng là hợp với lẽ công bằng, bởi vì cha mẹ là người đã có công sinh thành, dưỡng dục giúp ta khôn lớn thành người.

Vậy Đạo Hiếu là gì? Phân tích từ chữ Hán chúng ta thấy chữ “Hiếu” là chữ viết tắt của chữ “Lão” ở trên (lược bớt phần dưới) và chữ “Tử” ở dưới. “Hiếu” tức là mối quan hệ cha trên, con dưới; suy rộng ra là đạo nghĩa của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.

“Hiếu” là thiên kinh địa nghĩa, là gốc của mọi đức tính. Ca dao tục ngữ đã nói nhiều, ngay trong bài học vỡ lòng, trong “Luân lý giáo khoa thư” các em đã hiểu:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho trọn chữ Hiếu mới là đạo con.

Thế đó, thật nhẹ nhàng, nhưng từng lời ru của người mẹ Việt nam đung đưa bên chiếc nôi của đứa con nhỏ, ngày qua ngày đã dần đi sâu vào trái tim, làm nên dòng máu thắm đỏ của những người con, tạo nên trong tâm thức của từng người dân Việt một tâm tình thảo hiếu, biết ơn sâu sắc đối với các bậc sinh thành.

Các cụ ngày xưa cho là HIẾU đứng đầu trăm nết:

”Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,

Thời suy ra trăm nết đều nên”.

Do đó, đối với cái nhìn tự nhiên của mọi người, bất hiếu là một trong những tội lớn nhất và cũng bị nhiều người kết án nhiều nhất. Bộ luật Hồng Đức ban hành thời Lê Thánh Tông cũng ghép tội bất hiếu vào trọng tội. Không chỉ con trai, con dâu không thờ cha mẹ chồng cũng bị coi là phạm tội “thất xuất” (Nhất Thanh, Đất lề quê thói, tr 326).

Chính vì thế, vào những ngày Tết, giỗ chạp…trong các gia đình Việt nam, con cái dù có đi làm ăn đâu xa, thì ba ngày Tết cũng cố gắng về nhà để tết cha, tết mẹ. Nếu cha mẹ không còn, thì cũng về để thắp nén hương cầu nguyện cho ông bà cha mẹ. Cùng chung cảm thức đó của dân tộc, Giáo hội Việt nam đã dành ngày mồng Hai Tết này để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Rồi từ đạo hiếu đối với cha mẹ, Giáo hội muốn từng người chúng ta tỏ lòng hiếu kính với người Cha trên trời, Đấng sáng tạo và làm chủ tể mọi loài.

Tình yêu của cha mẹ đối với con cái là một tình yêu rất tự nhiên và cao quí. Trong các tình yêu, có lẽ chỉ có tình cha, tình mẹ là bền bỉ, là kiên vững nhất. Tình cha mẹ dành cho con cái mãi mãi như sông ngòi biển khơi. Nhưng:

Biển Đông còn lúc đầy vơi,

Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng.

Cha mẹ đã đánh đổi cả cuộc đời mình, chỉ mong cho con cái thành người. Niềm vui, niềm hạnh phúc và tự hào của cha mẹ là nhìn thấy sự thành công của con cái. Cho dù có phải vì con mà vất vả lao đao, cha mẹ vẫn không sờn lòng. Cho dù có vì con cái mà cha mẹ phải hao gầy, cha mẹ vẫn vui khi nhìn thấy con cái lớn khôn mỗi ngày. Chính nhờ ơn cha nghĩa mẹ cao dầy như thế, thì người con khi đã lớn khôn, thành tài, cần phải dặn lòng:

Trải bao gian khổ không sờn,

Muôn đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền

II. ĐẠO HIẾU THEO THÁNH KINH VÀ GIÁO HỘI

1. Đạo hiếu theo Thánh Kinh

Đối với người Kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại Bản Thập Giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “Thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó cho thấy việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi Kitô hữu.

Đạo hiếu đối với ông bà cha mẹ được khởi đi từ việc thấu hiểu và đáp trả xứng hợp công ơn của các ngài là những cánh tay nối dài của Thiên Chúa ở dưới thế, đã hy sinh, nâng đỡ ta trên đường trọn lành: “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con” (Hc 7,27-28).

Biểu lộ của lòng hiếu thảo qua sự chú tâm lắng nghe lời chỉ bảo của cha mẹ trong sự tuân phục, khiêm kính: “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn dụ của cha, và đừng ruồng rẫy giáo huấn của mẹ… Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con” (Cn 6,20-22) và “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách (Cn 13,1).

Tân ước đề cao đạo hiếu qua mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã chu toàn bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt ba mươi năm sống cùng Thánh Gia (Lc 2,51-52). Trong thời gian thi hành sứ vụ, lòng hiếu thảo được Ngài đề cập như một trong những chuẩn mực nền tảng của luật Thiên Chúa: “Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử”.

Trong thư gửi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô khuyên bảo: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3).

Thư gửi cho Timôthêô cũng xác quyết bổn phận sống đạo hiếu là đòi buộc của đức tin: “Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1Tm 5,8).

2. Đạo Hiếu theo giáo huấn của Giáo hội

Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (MV só 48).

Giáo lý Hội thánh Công giáp nêu lên vai trò của cha mẹ và bổn phận đáp trả của chúng ta: “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa” (GLHTCG, số 2197).

III. ĐẠO HIẾU VỚI NGƯỜI KITÔ HỮU

Qua tinh thần hiếu thảo mà con cái phải có đối với cha mẹ theo tình cảm tự nhiên, chúng ta còn có luật Chúa đòi buộc con cái phải thảo kính cha mẹ, đồng thời với những lời giáo huấn của Giáo hội, hôm nay, Mồng Hai Tết Quý Tỵ, chúng ta hãy củng cố và đổi mới lòng hiếu thảo của chúng ta đối với ông bà cha mẹ. Chữ Hiếu được thể hiện qua những món quà chúng ta dâng tặng cha mẹ được nồng ấp vào đó cả một tình con hiếu thảo.

Đây cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ bên gia đình. Ai cũng mong đón nhận những giờ phút linh thiêng nhất của ngày đầu năm bên cha mẹ ông bà.

Thế nhưng, chữ hiếu không thể dừng lại nơi những ngày Tết mới bộc lộ ra mà còn phải dàn trải trong suốt tháng năm sống bên cha mẹ. Hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Nếu những ai có cha mẹ còn trẻ hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta có một thành trì vững chắc để tựa nương. Nếu những ai cha mẹ đã già nua thì đừng xem thường và coi họ như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời khiêm tốn, lịch sự, đừng cáu gắt với tuổi già. Hãy ôn tồn với các ngài vì chính họ đã từng kiên nhẫn với tuổi thơ chúng ta. Chính các ngài đã chẳng quản mưa nắng, thức khuya dậy sớm vì tuổi thơ chúng ta. Xin đừng ai phụ nghĩa mẹ cha. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì:

Nếu mình hiếu với mẹ cha

Chắc con cũng hiếu với ta khác gì.

Nếu mình ăn ở vô nghì

Đừng mong con hiếu làm gì uổng công.

Truyện: Quà tặng của cha

Có một chằng trai sắp thi tốt nghiệp đại học. Trước đó anh đã nói với cha về ước nguyện có chiếc xe thể thao xinh đẹp và mong rằng nó sẽ là quà tặng của cha nhân ngày tốt nghệp.

Người cha nghe xong im lặng, không có ý kiến gì.

Sau ngày chàng trai tốt nghiệp, người cha đã gọi anh vào phòng, nói rằng ông rất yêu thương và hãnh diện có được đứa con như anh. Sau đó ông trao cho anh một hộp quà được gói cẩn thận. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và nhìn thấy đó là một quyển sách thể loại “rèn nhân cách” được đóng gáy và bọc bìa da rất đẹp. Chàng trai nhíu mày, “với tất cả tài sản mà cha mình đã có… và món quà tặng cho con tốt nghiệp đại học chỉ là một quyển sách tầm thường này hay sao?”.

Chán nản và buồn phiền với ý nghĩ đó, chàng trai không nói lời nào với cha mình, rời khỏi phòng, để lại quyển sách trên bàn. Sau đó anh bỏ nhà ra đi…

Trong một thời gian dài, chàng trai không liên hệ với cha mình. Cho đến một ngày anh nhận được tin cha mình đã qua đời và để lại toàn bộ tài sản cho anh ta.

Khi anh về đến căn nhà cũ xưa, sự buồn phiền và hối hận tràn ngập trong lòng chàng trai khi anh nhớ đến sự cư xử lạnh nhạt mà anh đã có với cha trước đây. Anh tìm đọc những giấy tờ quan trọng của cha mình và nhìn thấy cuốn sách “rèn nhân cách” vẫn còn nguyên vẹn trên bàn như ngày anh từ bỏ nó. Chàng trai mở cuốn sách ra, lật từng trang và thấy một bao thư được ép chặt trong đó. Anh đã nhẹ nhàng mở bao thư ra, và bỗng dưng nước mắt anh tuôn trào khi nhận ra đó chính là một chìa khóa xe hơi và tờ hóa đơn của chính chiếc xe mà anh ta yêu thích ngày trước. Tờ hóa đơn ghi đúng ngày anh ta tốt nghiệp với dòng chữ đã thanh toán đầy đủ…

Trong cuộc sống của chúng ta không ai mà không mắc những sai lầm. Có những sai lầm thì sau đó được sửa chữa và trở nên bình thường. Nhưng có những sai lầm sau khi khắc phục rồi nó vẫn còn để lại “một vết sẹo” mà khó có thể phai mờ được.

Có thể nói, “vết sẹo” mà chúng ta đã gây ra đối với đấng sinh thành là đáng trách nhất. Vết sẹo đó sẽ mãi mãi ở bên chúng ta khiến chúng ta luôn bị nhức nhối lương tâm mỗi khi nhớ đến nó. Như trong câu chuyện trên, chàng trai sau khi thức tỉnh đã vô cùng ân hận, nhưng người cha đã không còn nữa để anh ta làm một cái gì đó, dù chỉ là một lời xin lỗi...

Qua những ý tưởng trình bầy trên đây chúng ta thấy, về mặt tự nhiên, việc hiếu thảo là bổn phận tự nhiên và là dấu chỉ của một người trưởng thành. Đồng thời, khi sống hiếu thảo cũng là lúc chúng ta chu toàn giới luật Thiên Chúa và nhờ đó được Ngài chúc phúc.

Tuy nhiên, trong niềm tin, chúng ta biết rằng tất cả chúng ta: cha mẹ và con cái, đều nhận được sự sống nơi Thiên Chúa. Do đó trong ngày đầu năm kính nhớ ông bà tổ tiên, chúng ta cũng cần lưu ý đến bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa, Đấng ban cho chúng ta sự sống và hết lòng yêu thương chúng ta, như Ngài phán qua miệng tiên tri Isaia: “Mẹ nào lại quên con đẻ của mình, cạn lòng thương đối với con dạ nó đã mang? Cho dù chúng quên được nữa, thì phần Ta, Ta sẽ không hề quên ngươi! Này, Ta đã khắc ghi ngươi trên bàn tay Ta” (Is 49,15-16a).

Sau cùng, chúng ta đã được nghe Lời Chúa trong ngày đầu năm này, chớ gì từng người chúng ta một lần nữa ý thức hơn về những hồng ân Thiên Chúa ban cho mình trong một năm qua, để hết lòng cảm tạ tri ân Ngài.

Đồng thời, đây cũng là cơ hội thuận tiện nhắc nhở chúng ta về bổn phận đối với ông bà cha mẹ, những bậc sinh thành chúng ta. Việc thảo kính này, không chỉ là một ít lễ vật, một lời cầu chúc trong ngày đầu năm, nhưng được kéo dài trong suốt cuộc sống mỗi ngày của chúng ta.

 

12.Báo hiếu tổ tiên--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
“Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).

Truyện mở đầu: nắng chiều.

Đây là vở kịch được trình diễn tại nhà hát thành phố Hồ chí Minh trong liên hoan sân khấu quần chúng năm 1994.

Nội dung: đứa con trai đạt được danh vọng cao trong xã hội, về đưa mẹ từ nhà quê lên ở chung cho có mẹ và con. Nhưng tính tình người già không phù hợp với vợ chồng trẻ, anh đã đưa mẹ vào viện dưỡng lão và luôn chu cấp đầy đủ.

Người mẹ luôn chỉ nhận được những gói quà và món tiền chu cấp, chứ không gặp được mặt con...

Vậy mà anh vẫn vô tình, vẫn thản nhiên mỉm cười nhìn cuộc đời trôi đi một cách an bình. Anh không hề biết, đi bên sự thờ ơ của anh, là nỗi cồn cào, xót đau, chờ đợi của mẹ.

Nỗi đau khổ làm trĩu nặng thêm trái tim héo úa của mẹ. Sức lực không còn nên mẹ không đợi được anh... chút NẮNG CHIỀU ít ỏi còn lại đã tắt. (Tuổi trẻ Chủ nhật, số 4 / 94 (535), tr 18)

Ai xem vở kịch này chắc cũng cảm động đến rỏ nước mắt và thấy rõ sự thờ ơ và vô tình của con cái trước sự cô đơn của cha mẹ. Thực sự cha mẹ không chỉ cần thỏa mãn những nhu cầu vật chất mà còn cần tình nghĩa, cần sự săn sóc của con cái. Chỉ có tình mẫu tử mới làm cho cha mẹ được ấm lòng. Khi về già, cha mẹ sợ nhất là cảnh cô đơn.

Khi cha mẹ còn sống mà con cái không phụng dưỡng thì khi cha mẹ chết rồi thì chỉ còn biết phàn nàn hối hận:

Mẹ già như chuối chín cây,

Gió rung mẹ rụng con rầy mồ côi. (ca dao)

I. GIỚI RĂN CỦA CHÚA.

Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải chỉ là một cảm tình hay là một qui định của xã hội mà là một điều răn của Chúa dạy: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. Thiên Chúa đã nâng điều răn thứ bốn lên ngang hàng với các điều răn khác ; điều đó chứng tỏ con cái phải hiếu kính đối với cha mẹ đến mức nào.

Bên Đông phương người ta đề cao chữ HIẾU và nâng lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.

Mẹ cha vất vả nuôi mình

Từ khi trứng nước công trình biết bao.

Làm con phải nhớ công lao,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. (ca dao)

II. CÔNG ƠN CHA MẸ.

Không ai có thể phủ nhận được công ơn cha mẹ trong việc sinh thành và dưỡng dục con cái, người ta đã ví:

Công cha như núi Thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

1. Công ơn sinh thành.

Thiến Chúa đã dựng nên con người, nhưng không trực tiếp mà phải qua trung gian cha mẹ. Đầu tiên Thiên Chúa dựng nên ông Adam và bà Evà, rồi từ đó con cháu nối tiếp:

Người ta có cha có mẹ

Không ai ở chỗ nẻ chui lên. (tục ngữ)

Không ai còn lạ với câu ca dao:

Người ta có cố có ông,

Như cây có cội như sông có nguồn

2. Công ơn nuôi dưỡng.

Bình thường không ai sinh con rồi đem vất đi vì đó là hòn máu mủ của cha mẹ nên phải nâng niu nuôi dưỡng cho chóng lớn khôn mặc dầu phải vất vả khó nhọc:

Cha tôi hai buổi đi làm,

Dãi dầu mưa nắng khổ kham đủ bề.

Sớm chiều cực nhọc chẳng nề,

Mong sao con trẻ đặng bề ấm no. (ca dao)

Truyện: công việc của người mẹ.

Người ta nghiên cứu một gia đình có hai con, trung bình một năm phải rửa:

18.000 dao, nĩa và thìa ăn.

13.000 đĩa

6.000 tách

3.000 nồi.

Nếu một phụ nữ đặt thức ăn lên bàn, ăn xong lại dọn đi rửa, rồi lại đặt vào chạn, thì trong một năm người đó phải mang tổng cộng 5 tấn, và mỗi năm phải đi lại trên quãng đường 2000 km để mua hàng.

3. Công ơn dạy dỗ.

Sinh ra không phải chỉ nuôi ăn cho béo như con vật mà còn phải dạy dỗ để con nên thân nên người. Nếu không dạy dỗ thì người ta nói:

Dưỡng tử bất giáo như dưỡng lư (Nuôi con mà không dạy thì như nuôi lừa)

Vì thế ca dao mới nói:

Nuôi con chẳng dạy chẳng răn,

Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.

Cha mẹ có nhiệm vụ dạy dỗ con cái vì dù sao cha mẹ cũng có kinh nghiệm hơn con cái.

Truyện: con không hơn cha.

Một mục sư nói với đứa con 15 tuổi của ông:

- Từ 15-20 tuổi: cha cho con có quyền tin tưởng là con hơn cha.

- Từ 20-25 tuổi: con thông minh bằng cha.

- Nhưng từ 25-30 tuổi: thì cha bắt buộc con phải nhìn nhận là cha thông minh hơn con một một cách tuyệt đối.

Người ta cũng nói: người 70 phải học với người 71.

Giáo dục cần thiết và qúi giá biết bao!

Algarotti nói: “Một nền giáo dục tốt là gia tài giầu sang người cha có thể trối lại cho con mình”.

III. THỰC HÀNH CHỮ HIẾU.

Trong ngày mồng hai Tết năm nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với cha mẹ.

Vậy thảo kính cha mẹ là gì?

Thảo kính cha mẹ là yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (theo sách giáo lý Tân định).

Chúng ta hãy đặc biệt nói đến việc giúp đỡ cha mẹ.

1. Khi cha mẹ còn sống.

Khi cha mẹ còn sống nếu con cái chỉ tỏ lòng yêu mến và biết ơn thì chưa đủ, còn phải thực hiện bằng việc làm là giúp đỡ cha mẹ, nhất là khi các ngài đã về già. Con cái hay bỏ mặc cha mẹ như trong câu truyện “Nắng chiều” ở trên.

Truyện: con tính tiền với mẹ.

Mỗi lần giúp việc, bà mẹ thường thưởng tiền cho em bé. Một hôm mẹ em bị bệnh, em phải giúp mẹ và thay mẹ trong nhiều công việc. Sau một thời gian giúp việc, không thấy mẹ tính tiền thù lao, nên em viết một hóa đơn ghi những công việc chưa được nhận tiền thưởng, gồm:

- xách nước: 2 đồng USD

- nấu cơm: 3 đồng.

- giặt quần áo: 5 đồng.

Tất cả các cái tính chung trong một tuần lễ là 80 đồng, rồi đưa cho mẹ.

Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em 80 đồng kèm theo một tờ hoá đơn khác, trong đó ghi: công sinh thành, nuôi dưỡng, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau... x 10 năm: chưa có mục nào được thanh toán.

Đứa bé vội vàng xin lỗi mẹ. (Góp nhặt 4, tr 79)

Chúng ta có hiểu công ơn trời bể của cha mẹ không?

Mẹ nuôi con như trời như bể,

Con nuôi mẹ con kể từng ngày?

2. Khi cha mẹ đã qua đời.

Người ta thường nói: “Cách mặt xa lòng”. Điều đó rất đúng trong đời sống thực tế hằng ngày bởi vì xa nhau thì mối tình dễ bị nhạt nhòa, dễ bị quên lãng. Nếu cha mẹ còn sống mà chúng ta còn ít nhớ đến thì làm sao ta có thể nhớ đến hằng ngày? Chỉ có ngày giỗ chạp mới giúp chúng ta nhớ đến công ơn cha mẹ.

Hôm nay, ngày mồng hai Tết dành riêng để kính nhớ cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta hâm lại lòng yêu mến của chúng ta đối với các ngài, đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.

Ai mà phụ nghĩa quên công

Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. (ca dao)

 

13.Hiếu kính cha mẹ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay Mồng Hai Tết Kỷ Sửu. Hội thánh Việt nam muốn dùng ngày này cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà cha mẹ với mục đích nhắc nhở và khuyến khích con cháu hãy tỏ lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Nhân ngày đầu năm, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về giới răn thứ bốn của Chúa và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, nhất là trong dịp đầu năm này.

I. LỜI CHÚA DẠY.

1. Điều răn thứ bốn.

Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.

Vậy hiếu kính cha mẹ là gì? Theo giáo lý Công giáo, hiếu kính cha mẹ là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (Theo cuốn Giáo lý Tân định). Hôm nay Giáo hội Việt nam muốn chúng ta hãy tỏ lòng hiếu kính đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ trong cuộc sống, nhất là trong dịp Tết nguyên đán này.

2. Sách Huấn ca dạy.

Sách Huấn ca đã đề cập đến lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Theo tác giả# Ben Sira, lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đem lại nhiều lợi ích:

– Được đền bù tội lỗi.

– Được con cái cháu chắt thảo hiếu lại.

– Sẽ được Chúa nhận lời.

3. Gương Chúa Giêsu.

Thánh Luca cho chúng ta biết Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về lòng hiếu thảo đối với thánh Giuse và Đức Maria tại Nazareth, mặc dù chỉ bằng một câu rất vắn tắt: “Rồi Ngài theo cha mẹ trở về Nazareth và vâng lời các Ngài”(Lc 2, 51)

4. Lời khuyên của thánh Phaolô.

Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô khuyên bảo con cái: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”(Ep 6, 1-3).

II. CHỮ HIẾU NGÀY XƯA.

Theo truyền thống Đông phương, chữ Hiếu được đề cao trong đời sống gia đình và ngoài xã hội, vì xã hội này chịu ảnh hưởng sâu xa nền luân lý Khổng Mạnh. Đức Khổng Tử đã dạy môn sinh của mình phải phụng dưỡng cha mẹ, quạt nồng ấp lạnh, tối sớm chăm nom:

Tử viết: “Phụ mẫu tại bất viễn du,

Du tất hữu phương”.

Đức Khổng Tử nói: cha mẹ còn sống không nên đi chơi xa, và đi đâu thì phải cho biết có nơi có chốn.

Ngài còn đặt ra nhiều phong tục rất tỉ mỉ và phiền toái để tỏ lòng hiếu với cha me như việc ma chay, tang chế, kiêng kỵ… Ngày nay nhiều điều không còn phù hợp nữa.

Theo tục lệ ngày Tết, con cháu dù ở nơi xa xôi cũng phải về họp mặt cùng ông bà cha mẹ vì ngày này được coi là linh thiêng. Ai vắng mặt không có lý do chính đáng bị coi như là bất hiếu.

III. CHỮ HIẾU NGÀY NAY.

Xưa nay, chữ Hiếu rất quan trọng đối với người Việt nam. Theo học thuyết Khổng Mạnh, chữ Hiếu là nhân đức làm đầu của đạo con cái. Và trong các tội phạm đến cha mẹ thì bất hiếu là tội lớn nhất. Người Việt nam đã tôn phong chữ Hiếu lên thật cao, thành một đạo khi người ta nói:

Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho trọn chữ Hiếu mới là ĐẠO CON.

Hai từ ngữ THỜ và KÍNH là hai từ dùng trong những việc làm của tôn giáo. Thờ kính cha mẹ là có hiếu với cha mẹ, và người ta nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đạo làm con. Do đó, chúng ta phải ý thức rằng thảo kính cha mẹ không còn là những tình cảm chủ quan tùy tiện, cũng không phải chỉ là lẽ công bằng mà là một ĐẠO. Mà lỗi đạo là phạm tội chứ không phải chỉ là một sự sơ sót.

Theo điều răn thứ bốn thì con cái phải thảo hiếu cha mẹ, nhưng ngày nay người ta coi thường điều răn này, có người cho là lỗi thời trong thời đại tiến bộ, văn minh và dân chủ này. Con cái đến tuổi khôn là đã muốn sống độc lập đối với cha mẹ, không cần sự hướng dẫn bảo ban của các ngài. Người ta quên rằng:

“Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” (Tục ngữ)

Cha mẹ có tuổi thì già yếu thật, nhưng kinh nghiệm và khôn ngoan thì nhiều hơn tuổi trẻ. Vì thế người ta mới nói:

“Người 70 còn phải học người 71″(Tục ngữ)

Ngày nay, cha mẹ già trở nên gánh nặng cho con cái, không muốn nuôi dưỡng cha mẹ trong tuổi già. Để bớt gánh nặng, con cái chỉ việc gửi cha mẹ đến viện dưỡng lão, nếu tốt thì ít lâu gửi cho một số tiền, hay một món quà. Do đó, cha mẹ phải sống cô đơn. Thực ra cha mẹ cần tình thương hơn là tiền bạc, sự viếng thăm cần hơn của cải.

Công ơn cha mẹ như trời như bể,

Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.

Truyện: Tờ hóa đơn.

Có một bà mẹ nọ, vì muốn khuyến khích đứa con nhỏ của mình chăm lo việc nhà, nhất là những công việc nhỏ nhặt, nên hầu như lúc nào bà cũng thưởng cho nó một món tiền nhiều ít tùy theo công việc nặng nhẹ.

Lần kia, suốt cả một tuần, bà mẹ đau liệt giường. Thế là em nhỏ phải giúp mẹ trong nhiều công việc, nhưng không thấy mẹ tính thù lao. Cuối tuần, em nhỏ viết một cái hóa đơn ghi những công tác chưa được nhận tiền thưởng gồm: xách nước 2 đồng, nấu cơm 3 đồng, giặt quần áo 5 đồng… Tất cả các thứ tính chung trong một tuần lễ là 80 đồng. Xong, em rón rén bước vào phòng, dúi tờ hóa đơn vào tay bà mẹ.

Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em bé 80 đồng kèm theo một tờ hóa đơn khác, trong đó ghi: công sinh, công nuôi dưỡng, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau bệnh… x 10 năm: chưa có mục nào được thanh toán cả.!

Cầm tờ hóa đơn trong tay, em nhỏ chợt hiểu, vội chạy vào xin lỗi mẹ.

Lại còn cách xưng hô với cha mẹ!

“Cha mẹ” hai từ ấy linh thiêng và cao quí dường nào. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta cố ý hay vô tình quên đi ý nghĩa cao quí đó. Không ít bạn đã gọi các bậc sinh thành của mình bằng từ “ông già, bà già, ổng, bả”… thậm chí còn có bạn gọi là “ông bô, bà bô”.

Phần lớn những ngôn từ này thường phát ra từ miệng của phái nam. Tuy nhiên ở phái nữ cũng không kém. Chúng ta hãy nghe một bạn nữ nói: “Ông già mình chịu khó lắm. Suốt đời chỉ lo cho mình ăn học không à”! Nghe xong, thấy có điều chẳng xuôi. Có cái gì đó mâu thuẫn giữa lời nói và tấm lòng của người con ấy.

Thật tội nghiệp! Nếu cha mẹ còn trẻ măng đã bị “lão hóa” bởi chính cái miệng của đứa con mình rứt ruột sinh ra.

IV. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA.

Truyền thống của cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em theo tinh thần “Hiếu đễ”. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:

Tu đâu cho bằng tu nhà,

Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu. (Ca dao)

Mặt khác, đối với người Kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “Thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó cho thấy, việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi người Kitô hữu.

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã lặp lại giới răn này và khẳng định đó chính là ý muốn từ ban đầu của Thiên Chúa và con người không có quyền thay đổi, Ngài nói: “Thiên Chúa dạy: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”.

Truyện: Ý kiến của tù trưởng.

Trong quyển tiểu thuyết nhan đề “Cội rễ”, tác giả E. Heili viết như sau:

Ở một bô lạc bên Phi châu, người thanh niên khi đến tuổi trưởng thành sẽ được gọi là “chiến sĩ”. Tuy nhiên, muốn được mang danh hiệu này, anh phải trải qua một cuộc sát hạch, thường là thả vào rừng sâu một thời gian.

Năm ấy, có ba thanh niên đến tuổi trưởng thành và rất muốn được gọi là “chiến sĩ”. Ba chàng đã đến trình diện vị tù trưởng. Vị tù trưởng chúc mừng và hỏi người thứ nhất: “Trong một tháng qua, anh đã làm được những gì”? Người thanh niên thưa: “Tôi đã giết được một con hổ dữ”.

Tù trưởng khen “tốt” rồi bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ hai: “Trong tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có giết được con hổ dữ nào không”? Người thanh niên đáp: “Thưa ngài, hổ dữ thì tôi không giết được, nhưng tôi cũng đã chém được một con trăn to”.

Tù trưởng khen “tốt”, bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ ba: “Một tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có chém được một con hổ dữ hay một con trăn nào không”? Người thanh niên đáp: “Thưa ngài, hổ hay trăn thì tôi không chém được”. Tù trưởng hỏi tiếp: “Thế anh làm được gì”? Anh đáp: “Thưa tôi kiếm được một tảng mật ong to”. Tù trưởng hỏi: “Ngươi kiếm mật ong để làm gì”? Người thanh niên đáp: “Thưa ngài, tôi có mẹ già, mà nhà tôi lại nghèo, nên tôi kiếm mật ong để cho mẹ tôi bồi dưỡng”.

Nghe xong, vị tù trưởng rút con dao ra trao cho anh và nói: “Ta phong anh làm chiến sĩ, bởi là người thì phải biết sống hiếu thảo với cha mẹ”.

Hôm nay Giáo hội Việt nam kính nhớ ông bà tổ tiên nhân dịp đầu năm. Kính nhớ các tiền nhân chính là thể hiện tinh thần đạo hiếu của dân tộc Việt nam “Uống nước nhớ nguồn”, “Aên quả nhớ kẻ trồng cây”. Các ngài đã tận tụy nuôi dưỡng, giáo dục chúng ta nên người, đặc biệt là giúp chúng ta biết Chúa là Đấng đáng tôn thờ và yêu mến. Công ơn của tổ tiên ông bà cha mẹ đòi hỏi chúng ta phải báo hiếu bằng cách cầu nguyện cho các ngài trong ngày đầu Xu6n này, đồng thời tiếp tục những gì các ngài đã làm: hãy tận tâm săn sóc dạy dỗ con cháu chúng ta nên người

Để khích lệ chúng ta tỏ lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại một câu rất hay trong sách Huấn ca: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”.

 

14.Bụi chuối sau hè--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Nếu như trong văn học Việt nam cây tre được ví von như người cha thì hình tượng cây chuối cũng được khắc họa như người mẹ. Người ta thường ca ngợi cây tre nhưng ít ai nói về cây chuối và ít ai biết được trong hình ảnh đó là những những ý tưởng phong phú. Hình ảnh ấy đã đi vào văn thơ mộc mạc, dân dã bao nhiêu thì cũng gần gũi thân thương trong những bài hát, bài thơ bấy nhiêu.

Người ta vịnh cây chuối như sau:

Không rực rỡ như hồng, lan, cúc, huệ

Không dịu dàng như Tulip, Lily

Hương chẳng thơm, sắc cũng chẳng tươi gì

Mà nghiêng ngã khi cây vừa trổ nụ

Chứa đựng trong lòng một dòng nhựa chát

Để một đời xanh ngát những đứa con

Hiến dâng xong xác cũng chẳng còn

Nhường lại chỗ cho đàn con khôn lớn.

I. TẢN MẠN VỀ CÂY CHUỐI

1. Nơi trồng cây chuối

Đi đâu về những vùng quê Việt nam, chúng ta đều bắt gặp hình ảnh cây chuối thân mềm với những tàn lá xanh mướt tỏa ra che rợp từ vườn tược đến núi đồi. Cây chuối là loại cây dễ tính, nó phù hợp với nhiều loại đất, khí hậu của nhiều châu lục, đồng thời cây chuối lại rất ưa nước, dễ trồng, phát triển nhanh cho nên người ta mới nói: “Trẻ trồng na, già trồng chuối”, lại cho sản lượng cao, hầu hết cây chuối thường được trồng cạnh ao hồ của mọi nhà ở nông thôn.

Trồng cây cho hài hòa theo phong thủy thì người ta có câu:Trước cau sau chuối”, có nghĩa là đàng trước nhà nên trồng cây cau thân thẳng đứng cho khỏi cản gió nam mát mẻ (vì nhà thường quay về hướng nam) và không che khuất nhà cửa; còn cây chuối thì lá to, mọc um tùm nên trồng ở đàng sau nhà cho khỏi che khuất nhà và có thể cản gió may lạnh giá vào mùa đông.

Cũng vì những lý do đó mà cây chuối cũng đi vào thi ca, nhạc họa, đời sống văn hóa của người Việt nam với vẻ đẹp dân dã, giản dị của làng quê.

2. Các loại chuối

Chuối trồng được tạo thành do kết quả của sự lai tự nhiên giữa hai loài chuối hoang dại ở Đông Nam Á là chuối hột và chuối rừng. Ngày nay, người ta ước lượng có đến 200-300 giống chuối được trồng trên thế giới.

Hầu hết chuối ăn quả đều thuộc loài Musa paradisiaca L. với 11 thứ khác nhau bởi hình dạng quả, mầu sắc và vị của thịt quả, phân thành hai nhóm:

- Nhóm chuối tiêu (chuối già) có đến 5 giống mà phổ biến là chuối lùn cao và lùn thấp là giống chuối điển hình có bột chuyển hết thành đường, dễ tiêu hóa, có quả cong, vỏ dầy thường trồng ở đồng bằng sông Hồng và sông Chu.

- Nhóm chuối tây (chuối sứ) có quả to và ngắn hơn chuối tiêu, vỏ cũng mỏng hơn. Có thể luộc, có thể chiên, dùng làm rau (nõn thân già, hoa chuối) ít chát hơn là chuối tiêu.

3. Công dụng của chuối

Hầu như tất cả cây chuối đều cống hiến cho con người. Các bà nội trợ thường băm nhỏ thân chuối làm cám cho heo ăn, hay khi ăn các loại bún ta sẽ cảm thấy kém phần ngon miệng nếu như không có rau ăn kèm, lõi non của thân và bắp chuối bào mỏng. Lá chuối tươi dùng để gói bánh, gói giò và là một loại bao bì thân thuộc với môi trường; ngoài ra lá chuối khô cũng được dùng để gói những chiếc bánh gai.

Ta cũng có thể bắt gặp hình ảnh những sợ dây cột của các cô bán hoa, đó chính là bẹ chuối, chúng được xé phơi khô để làm những sợi dây cột như thế đấy.

Đặc biệt hơn nữa, chuối là một thức ăn bổ dưỡng nhất trong các thứ quả cũng như có tác dụng chữa bệnh, đến nỗi người ta nói đùa rằng: “Nếu mỗi bữa có một quả chuối tráng miệng thì bác sĩ không có tiền bỏ túi”. Ít loại hoa quả nào có nhiều tác dụng như thế.

Còn một phần nữa mà ta không thể bỏ qua chính là phần củ chuối, củ chuối vốn chỉ dùng để nhân giống, để nảy mầm thành cây con, thế nhưng người ta có thể dùng củ chuối mà làm món “rựa mận” thịt chó thì ngon tuyệt vời. Đôi khi gặp cảnh đói kém thì nó lại là lương thực cứu sống cho con người qua lúc ngặt nghèo.

Thế mới biết cây chuối đã góp phần quan trọng như thế nào đối với đời sống của người Việt nam chúng ta.

4. Ý nghĩa tượng trưng của cây chuối

- Nét đẹp có ý nghĩa thứ nhất là những trái chuối trong nải mọc sát bên nhau nói lên biểu tượng tính đoàn kết các thành viên trong gia đình cũng như trong xã hội.

Cây chuối còn biểu trưng cho sự hình thành của thế hệ trẻ. Và những quả chuối lớn dần trên buồng cũng biểu lộ cho sức vươn mạnh của con người.

Những bẹ chuối lá xanh to quấn tròn nhau mang ý nghĩa cho sự đùm bọc trong ngoài của dân tộc.

 

- Nét đẹp thứ hai của cây chuối là sự hy sinh dâng hiến: Khi ăn một quả chuối, chúng ta ít khi suy nghĩ về nó, chúng ta chỉ thấy nó ngon miệng thôi. Thực ra, cây chuối là cả một cuộc vận hành, nhưng phía cuối con đường là sự tàn lụi, sự hy sinh cao cả.

II. SUY TƯ VỀ CÂY CHUỐI

Nhìn vào bụi chuối xanh tươi, ngắm nhìn những buồng chuối chín mọng nặng trĩu, thưởng thức những quả chuối chín mọng thơm mát, ít ai nghĩ đến ý nghĩa của cây chuối. Chúng ta hãy ngắm nhìn những bụi chuối trĩu nặng buồng quả chín thơm, và chúng ta cùng suy tư về một vài điều.

Cuộc đời cây chuối thật ngắn ngủi. Vừa xuất hiện với tư cách mầm non đã vội vã trưởng thành rồi sinh con, rồi lại vội vàng biến mất. Vì thế người ta mới nói: “Trẻ trồng na, già trồng chuối”.

Từ khi là mầm chồi đến khi trưởng thành, cây chuối phát triển, cố gắng để sống… rồi trổ buồng, kết trái đợi đến khi trái chuối “những đứa con mình” thì cây chuối cũng chết tàn lụi. Như thế, cuộc đời của mỗi cây chuối chỉ sống có một lần, sinh con một lần. Sau khi cho cuộc đời trái thơm, trái ngọt thì cây chuối đã biến mất.

Không cây chuối nào có thể sinh được hai ba buồng một cách tự nhiên. Mỗi cây chuối chỉ có một buồng chuối, mặc dầu có buồng chuối dài tới 3 mét và có tới 120 nải ở Quảng Nam.

Khi cho cuộc đời được hoa trái của mình thì cây chuối đành tàn lụi đi để nhường chỗ cho những cây khác, là con cháu, đàn em của mình lớn lên. Có hay chăng cây chuối khi có được buồng chuối chín, rồi thì nhường lại tất cả những gì mình có cho thế hệ sau, còn bản thân mình lụi tàn và biến mất lúc nào không ai hay, mà cũng chẳng có cuộc cạnh tranh nào cho bằng là nhường chỗ cho những thế hệ sau. Chính cây chuối có một cái đạo gọi là đạo nhường bước để cây sau tiếp tục lớn lên.

Truyện: Cuộc đời cây chuối

Có một em bé hỏi bố rằng:

- Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiêu buồng?

Bố tôi trả lời:

- Chỉ một buồng duy nhất.

Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng cho vài buồng quả.

Bố nói thêm:

- Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.

Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gẫy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng cuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.

Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhật của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.

Hóa ra lâu nay hằng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh cao cả đến thế.

Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mầm sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là một bài học quí báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt (Theo Internet).

III. BÀI HỌC TỪ CÂY CHUỐI

Cuộc đời của cây chuối là dâng hiến cho đời những trái ngon ngọt qua bao hy sinh vất vả rồi âm thầm tàn lụi đi trong quên lãng để nhường chỗ cho đàn con cháu, cho những thế hệ mai sau.

Cuộc đời của cha mẹ cũng giống như cuộc đời của cây chuối : cuộc đời dâng hiến. Chúng ta hãy nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời để cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chín thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.

Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao qua ca từ như bài Lòng Mẹ của nhạc sĩ Y Vân:

Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào

Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào

Lời ru man man như đồng lúa chiều rì rào

Tiếng ru êm đềm trăng tà soi bóng mẹ yêu.

Còn rất nhiều bài ca và thơ văn của nhiều tác giả ca tụng tình yêu hy sinh của người mẹ, bài nào cũng chan chứa tình mẹ con, được ví như non cao biển cả mà không lời nói hay ngòi bút nào có thể diễn tả hết. Chúng ta hãy đọc một đoạn thơ của một tác giả khác:

Công cha như núi ngất trời

Nghĩa mẹ như nước ngời ngời Biển Đông.

Núi cao biển rộng mênh mông

Công cha nghĩa mẹ ghi lòng con ơi.

Thật đúng khi so sánh tình yêu và công ơn của cha mẹ với núi cao, biển rộng. Còn gì có thể cao hơn “núi ngất trời”, còn gì có thể rộng hơn “biển mênh mông”? Cha mẹ tần tảo nuôi nấng con, không mong các con đền đáp, mà chỉ trông sao các con khôn lớn nên người. Được thấy con hạnh phúc là cha mẹ hạnh phúc lắm rồi. Tôi còn nhớ một câu chuyện Trung Hoa kể về gương một cậu bé chăm sóc cha: trời nắng, cậu đứng bên cạnh quạt cho cha; trời lạnh, cậu nằm vào chăn trước để khi cha nằm được ấm ngay.

Một chữ “Hiếu” thôi tưởng chừng thật đơn giản nhưng có biết bao người đã lãng quên nó. Mồ hôi cha đã thấm xuống từng mảnh đất, bóng dáng mẹ đã cùng mưa gió bôn ba mọi nẻo. Mỗi mùa xuân sang, con cái rộn ràng đem biếu tặng cha mẹ những món quà đắt tiền, nhưng đó có phải là thứ mà cha mẹ cần đến không? Là những người con, chúng ta có thể làm được điều gì đem lại hạnh phúc cho cha mẹ thì hãy cố gắng làm ngay khi cha mẹ còn ở trên đời với ta. Xin gửi trọn tâm tình qua đoạn danh ngôn đạo đức tới các người con trong gia đình:

Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ,

Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha.

Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ,

Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha.

Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn,

Mang cả tấm thân gầy cha mẹ chở đời con,

Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc,

Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con!

 

15.Đền đáp công ơn của tổ tiên--Lm Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến

Hôm nay là ngày mồng hai tết. Giáo Hội Mẹ của chúng ta muốn chúng ta dùng ngày đầu năm đặc biệt này để nhớ đến công ơn của tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng ta.

I. Công ơn của Tổ tiên Ông Bà cha mẹ thật không sao mà kể cho hết, như trời như biển. Công cha chẳng khác gì núi Thái - Nghĩa mẹ chẳng khác gì như nước trong nguồn.

Ngày xưa Đức Phật đã dạy các đệ tử: “Trên đời này có hai người mà ta không thể trả hết ơn được là cha và mẹ ta. Dù có cõng cha mẹ trên vai suốt cả trăm năm cuộc đời, hay có tán xương lóc thịt để làm thức ăn cho cha mẹ cả trăm ngàn kiếp, cũng chưa đáp đền được công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, vì công ơn cha mẹ to lớn lắm” (Kinh Vu Lan).

+ Có rất nhiều câu chuyện cảm động về những lo lắng của cha mẹ dành cho con cái. Nhưng câu chuyện về Mạnh Tử là một trong những câu truyện hay nhất. Thầy Mạnh Tử lúc còn nhỏ đã may mắn có được một người mẹ hết lòng lo lắng dạy dỗ cho mình. Truyện kể rằng hồi đó nhà Thầy Mạnh Tử ở gần nghĩa địa. Mẹ thầy Mạnh Tử thấy con bắt chước người ta đào bới rồi lăn ra khóc. Bà liền dời nhà đến gần chợ. Tại đây bà lại thấy con bắt chước người ta sống nghịch ngợm và gian dối. Bà cho đây không phải là chỗ thích hợp cho con của bà. Bà lại dời nhà đi nơi khác. Lần này thì chuyển nhà của bà đến ở gần trường học. Ở đây Mạnh Tử thấy các bạn trẻ cùng lứa tuổi đua nhau tập lễ phép và học chữ nghĩa thì cậu cũng bắt chước. Bà mẹ thấy như vậy mừng quá và bà quyết định ở lại đây luôn.

+ Tin Mừng không nói cho chúng ta nhiều về việc Thánh Giuse và Đức Mẹ đã lo lắng cho Chúa Giêsu như thế nào, nhưng chắc chắn Chúa Giêsu đã được Thánh Giuse và Đức Mẹ giáo dục thật kỹ. Điều này quả không ai còn có thể hoài nghi.

II. Nếu công ơn của tổ tiên Ông Bà Cha mẹ lớn lao như thế thì con cái phải làm gì để đền đáp?

Trong bức tâm thư gửi các gia đình nhân dịp năm quốc tế gia đình năm 1994 số 18 Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô đã viết như sau: “Hãy thảo kính cha mẹ bởi vì theo một nghĩa nào đó, các vị ấy đối ngươi là những người đại diện của Chúa, những người đã ban tặng sự sống cho ngươi, đã đưa ngươi vào cõi sống nhân linh, vào trong một dòng dõi, một quốc gia, một nền văn hóa. Sau Thiên Chúa các vị ấy là những ân nhân đầu tiên của ngươi. Nếu chỉ một mình Thiên Chúa là đấng tốt lành, nếu chỉ mình Ngài là Đấng thiện hảo, thì cha mẹ ngươi cũng được thông phần một cách độc nhất vô nhị vào chính sự tốt lành tối thượng ấy. Bởi đó ngươi hãy thảo kính Cha mẹ ngươi”.

Nhưng bằng cách nào kính thưa anh chị em?

Có nhiều cách nhưng tôi chỉ xin được đề cập một vài cách cụ thể này:

a- Trước hết là phải biết ơn ông bà cha mẹ tổ tiên mình

Biết ơn là một trong những giá trị nền tảng cao quí nhất của cuộc sống làm người và đồng thời nó cũng là biểu hiện rõ rệt nhất của một con người biết sống với tư cách làm người của mình.

Trong Cựu Ước Thiên Chúa đã dùng cả một giới răn để nói về vấn đề này. Đó là giới răn thứ tư. “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi”

Ngược lại vô ơn là thái độ đáng lên án. Đức Cha Bùi Tuần trong cuốn “Nói với chính mình” có viết những lời rất nặng như sau: “Người ta cho con chó một cái gì nó còn ngoáy ngoáy cái đuôi để tỏ lòng biết ơn. Con người mà không có lòng biết ơn thì không bằng con chó” Hơi nặng một chút nhưng thật là thấm thía.

Dân gian có một câu truyện đã được truyền lại từ đời này qua đời kia như thế này. Có một đôi vợ chồng kia làm ăn khá giả nhưng lại cư xử rất keo kiệt với những người trong gia đình. Trong nhà có một ông bố già. Vì già - đã trên 80 tuổi - cho nên mắt đã mờ, sức đã yếu tay chân không còn được khoẻ mạnh như hồi còn trẻ. Chính vì vậy mà mỗi khi ăn uống ông thường đánh rơi ly chén xuống đất làm bể rất nhiều ly chén. Người con dâu thấy như vậy nên cứ cằn nhằn hoài với chồng. Người cha tuy mắt đã mờ nhưng tai còn rất thính. Ông rất buồn nhưng không thế làm cách nào khác hơn. Ngồi ăn mà không cầm được nước mắt. Rồi một hôm khi chị ta xúi chồng đẽo cho cha một cái chén bằng gỗ để tiện cho việc ăn uống.

Câu truyện tưởng như thế là suôn sẻ nhưng thật không ngờ là một ngày kia khi hai vợ chồng có việc phải đi xa trở về. Khi vào trong nhà thì nghe thấy có tiếng gì như những tiếng đục đẽo vọng ra từ ở một góc nhà. Hai vợ chồng lại gần thì thấy đứa con trai cưng của mình đang cầm một cái chén bằng gỗ đã được đẽo gần xong. Bà mẹ tò mò hỏi thì đứa con ngây thơ trả lời:

- Con làm cái chén này để mai sau ba má có chén mà dùng giống như chén ba má đẽo cho ông nội đang dùng vậy đó.

Kính thưa anh chị em. Không biết anh chị em có còn nhớ không chứ riêng tôi, tôi rất nhớ câu ngạn ngữ đã có từ bao thế hệ như thế này: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó - Vâng sóng trước đổ đâu thì sóng sau sẽ đổ ở đó” anh chị em.

Đó là điều thứ nhất.

b - Điều thứ hai là phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ.

+ Cách hiếu thảo tốt nhất là vâng lời cha mẹ trong những điều hợp lẽ nhất là khi còn trẻ.

Tin Mừng tóm gọn cả cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu ở Nazareth bằng những lời như thế này: ”Ngài vâng lời và chịu lụy hai ông bà”

Tại tiệc cưới Cana vì Đức Mẹ mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ.

+ Tiếp đến là hãy biết làm vui lòng cha mẹ.

Đời nhà Hán bên Trung hoa có một người nổi tiếng là có lòng hiếu thảo với cha với mẹ. Đó là Bá Du. Hồi còn nhỏ mỗi khi làm điều gì sai quấy mà bị mẹ đánh thì Bá Du luôn tươi cười vui vẻ nhận lỗi, không bao giờ dám cãi. Nhưng một ngày nọ sau khi bị mẹ sửa phạt bằng roi thì Bá Du oà lên khóc. Thấy thế bà mẹ thắc mắc hỏi:

- Bao nhiêu lần mẹ đánh con để dạy con mà con không khóc thế thì tại sao lần này con lại khóc?

Bá Du lễ phép trả lời:

- Thưa mẹ, những lần trước mẹ đánh con đau lắm thế nhưng con không khóc vì con thấy sức của mẹ còn mạnh. Lần này mẹ đánh con, tuy không đau bằng những lần trước nhưng con lại khóc vì con thấy sức mẹ không còn khoẻ như xưa…mẹ đã già yếu. Con khóc vì thương mẹ chứ không phải vì giận hờn.

+ Cuối cùng nếu có thể được thì phải lo phụng dưỡng cho cha mẹ để cha mẹ được sống an vui khi tuổi đã xế chiều.

Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.

Một hôm, ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến thụ giáo bậc hiền triết.

Đi được nửa đường, ông gặp một Vị lão tăng. Vị lão tăng khuyên Dương Phủ: “Gặp được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật”.

Dương Phủ hỏi vặn lại: “Phật ở đâu?”. Vị lão tăng giải thích: “Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy”.

Dương Phủ nghe lời quay về. Đi dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Đức Phật mà vị lão tăng đã mô tả. Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.

Thứ nhất thì tu tại gia

Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.

Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.

Một trong những hình ảnh đẹp nhất về cuộc đời của Chúa Giêsu là cảnh Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ cho thánh Gioan ở dưới chân cây Thập giá. Trước khi nhắm mắt Chúa còn cẩn thận gửi gắm người mẹ của mình cho người môn đệ yêu quí nhất để Gioan thay cho Chúa mà lo cho Đức Mẹ. Thật hiếm có một việc làm nào đẹp như thế.

Xin Chúa thánh hoá tất cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các ngài... Và xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.

 

16.Ngày Xuân xây dựng tình thân gia đình--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già tay bị run, thường hay làm bể cái chén kiểu đắt tiền khi ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt mang về một chiếc gáo dừa rồi gọt dũa làm thành một cái chén gáo dừa cho bố anh ta dùng. Đứa con trai thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh ta trả lời con rằng: Để ông nội con dùng khỏi bị bể nếu ăn cơm có bị run tay làm rơi xuống đất.

Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: “Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này bố già dùng nếu bố có bị run tay giống như ông nội bây giờ!”.

THẢO LUẬN: 1) Về lối sống hiếu thảo với ông bà tổ tiên, bạn có đồng ý với câu người xưa nói: “Sóng trước vố đâu, sóng sau vỗ đó” hay không? Tại sao? 2) Bạn sẽ làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà trong dịp Tết và trong thời gian sắp tới?

1) Ngày Xuân xây dựng tình thân gia đình

Hôm nay, ngày Mồng Hai Tết là dịp để các tín hữu chúng ta thực hành bổn phận hiếu thảo với ông bà tổ tiên, cụ thể là các bậc sinh thành là cha mẹ. Sự hiếu thảo được thể hiện qua những lời nói, thái độ cử chỉ và hành động với cha mẹ, cụ thể là món quà chúng ta dâng tặng cha mẹ đượm tình thảo hiếu với các ngài.

Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được chờ đón những giờ phút thiêng liêng của ngày đầu năm bên cha mẹ ông bà và anh chị em con cháu.

2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ

Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải được thể hiện trong suốt những ngày tháng dài sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.

Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ.

Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta lá chắn che chở suốt đời mình. Nếu cha mẹ già yếu, con cháu phải tránh coi thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài.

Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, bú mớm dọn dẹp vệ sinh khi ta còn thơ bé.

Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết.

3) Làm gì trong những ngày này?

Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì: “Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

“Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”. Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.

Dịp Xuân Mới, bạn sẽ biếu quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà còn sống và những đấng bề trên đã qua đời?

LỜI CẦU:

Lạy Thiên Chúa Cha là Chúa tể của Mùa Xuân đất trời. Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay. Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết trân trọng giây phút xum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.- Amen.

 

17.Đáp nghĩa Đền ơn--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 2021
Theo tập tục vẫn có từ đời cha Đắc Lộ, để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh đã chỉ định Ngày Mồng Một Tết, là Ngày cầu cho thế giới được hòa bình, cho quốc thái dân an, cho gia đình ấm êm hạnh phúc. Hôm nay Ngày Mồng Hai Tết, ngày kính nhớ tổ tiên ông bà, cha mẹ, theo tinh thần của Đạo Hiếu, hướng chúng ta về với cội nguồn là những đấng cộng tác với Thiên Chúa để sinh thành, dưỡng dục chúng ta thành người.

Ý tưởng của Lời ca nhập lễ: “Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân. Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi”. Lời nguyện tiến lễ mới đẹp làm sao: “Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận mà tuôn đổ hồng ân xuống trên tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để chúng con cũng được thừa hưởng phúc ấm của các ngài”.

Chúa truyền phải thảo cha kính mẹ

Thụ ơn ắt phải báo đền, mẹ cha là hình ảnh của Thiên Chúa: ngoài việc sinh thành, dưỡng dục, các ngài còn là người đại diện Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa tình thương hằng bao bọc, che chở và nuôi dưỡng chúng ta nên người. Chính trong bậc sống gia đình, cha mẹ được Thiên Chúa mời gọi để cộng tác vào chương trình tạo dựng của Ngài, để cho ra đời những người con, mang hình ảnh Chúa, và tô điểm thêm cho trái đất nhiều người ca ngợi và kính sợ Chúa. Vì thế, bổn phận của cháu con, ngoài việc phụng dưỡng, giúp đỡ cha mẹ khi già yếu, còn phải hằng ngày cầu nguyện cho cha mẹ: luôn sống xứng bậc mình, sẵn sàng hy sinh để nuôi dưỡng và giáo dục cho tròn bổn phận mình. Thiên Chúa dạy chúng ta: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Mc.7, 8-13). Phụng dưỡng mẹ cha theo đúng lời Chúa truyền dạy, chớ dựa vào: “truyền thống của cha ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 13, 6).

Ơn phúc đến từ việc tôn kính mẹ cha

Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi đã khuất bóng. Việc “đền ơn đáp nghĩa” là một nghĩa vụ thiêng liêng và cũng là bổn phận của kẻ làm con. Ai thực hành Lời Chúa dạy sẽ được Chúa ban dư tràn phúc lành.

Ước muốn sống lâu, sống hạnh phúc trên địa cầu này là lời cầu chúc trên cửa miệng của chúng ta trong ngày đầu năm mới, bởi ai cũng mơ sống hạnh phúc, khang an và trường thọ. Chúa dạy: “Ai thảo kính cha sẽ được sống lâu dài” (Hc 3,6). Thánh Phaolô Tông đồ khuyên chúng ta “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).

Ngoài việc sống vui sống hạnh phúc, kẻ tôn kính mẹ cha còn được tha thứ tội lỗi: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm” (Hc 3,2). Được nhận lời khi cầu xin: “Ai hiếu thảo với cha mẹ, khi cầu xin họ sẽ được lắng nghe” (Hc 3,5b). Được con cái báo đền: “Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái” (Hc 3,5a). Vì “Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đấy”. Người bất hiếu với cha mẹ sẽ bị con cái đối xử tàn tệ hơn. Người có hiếu với cha mẹ cũng sẽ được con cái đối xử tốt đẹp. Được ơn lành tích trữ trong kho tàng: “Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,4).

Phận làm con cho tròn chữ Hiều

Thật phù hợp với đạo lý dân tộc Việt Nam, chiếc bánh chưng, một sản phẩm cổ truyền, một chứng tích của đạo lý, chúng ta làm để ăn ngày Tết nhắc nhớ chúng ta mang nặng nghĩa mẹ tình cha. Bởi Lang Liêu, vị hoàng tử thứ mười tám, con người hiền lành, hiếu thảo đã dâng lên vua cha thứ bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dầy tượng trưng cho trời, nhân bánh tựa công ơn sinh thành của cha mẹ; với ý nghĩa xem công cha nghĩa mẹ to lớn như trời cao đất rộng, che chở cho con cái sống an vui giữa đời.

Vì cha nên mới có mình,

Mẹ cha đối đáp công trình biết bao

Ơn này sánh với trời cao

Trong lòng con dám lúc nào lãng quên

Ngày Tết, cầm bánh chưng lên ăn, làm chúng ta nhớ đến tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo như: thăm viếng, chúc tết, giúp đỡ là một lẽ, chúng ta còn phải xin lễ cầu nguyện cho những người đã khuất. Tất cả đều là những nghĩa cử cần thiết, không thể thiếu được.

“Cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ có tông: có cha có mẹ, có ông có bà”. Ai trong chúng ta cũng đều thuộc nằm lòng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu đối với mẹ cha.

Tôn kính

Công cha nghĩa mẹ cao dày,

Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.

Nuôi con khó nhọc đến giờ,

Trưởng thành con phải biết kính thờ song thân.”

Phụng dưỡng

Còn nữa, phận làm con đối với cha mẹ:

“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc

Xem cháo cơm thay thế mọi bề

Ra vào thăm hỏi từng khi

Người đà vô sự ta thì an tâm.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)

Vâng lời

Dạy sao cho được con hiền

Để cho cha mẹ khỏi phiền về con

Một niềm phép tắc nết na

Biết sống biết kính mới là khôn ngoan

Có một số người, không biết sống đạo gì mà lại đối xử nhất trọng nhất khinh. Bởi vì đối với người Việt Nam, tương quan với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một người mà “lấy” cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả họ hàng bên mình.

Trong tác phẩm “Gia Huấn Ca” Nguyễn Trãi đã đề cao đạo đức, và chữ hiếu được nhấn mạnh rất rõ:

“Dù nội ngoại bên nào cũng vậy,

Đừng tranh dành bên ấy, bên này,

Cù lao đội đức cao dày,

Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)

Khi cha mẹ qua đời

Con cái tỏ lòng hiếu kính bằng cách lo an táng chu đáo, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Không những cầu nguyện cho cha mẹ, con cái còn xin cha mẹ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa, như khi còn sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho mình.

Hội Thánh Công giáo nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc.

Thực hành chữ hiếu

Trong ngày Mồng Hai Tết năm nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ các ngài khi còn sống và đã qua đời. Đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.

Ai mà phụ nghĩa quên công

Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. (Ca dao)

Xin Chúa trả công bội hậu đời này và đời sau cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài. Amen.

 

18.Làm Con Phải Lấy Chữ Hiếu Làm Đầu 2023--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Theo tập tục vẫn có từ đời cha Đắc Lộ, để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh đã chỉ định Ngày Mồng Một Tết, là Ngày cầu cho thế giới được hòa bình, quốc thái dân an, gia đình ấm êm hạnh phúc.

Hôm nay Ngày Mồng Hai Tết, ngày kính nhớ tổ tiên ông bà, cha mẹ, những người đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh thành, dưỡng dục chúng ta thành người.

Thứ bốn thảo kính cha mẹ

Thiên Chúa dạy chúng ta: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Mc.7, 8-13). Ý tưởng của Lời ca nhập lễ nhắc nhớ chúng ta: “Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân…”. Lời nguyện tiến lễ mới đẹp làm sao: “Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận mà tuôn đổ hồng ân xuống trên tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để chúng con cũng được thừa hưởng phúc ấm của các ngài”.

Việc “đền ơn đáp nghĩa” là một nghĩa vụ thiêng liêng và cũng là bổn phận của kẻ làm con. Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi đã khuất bóng.

Ước muốn sống lâu, sống hạnh phúc trên địa cầu này là lời cầu chúc trên cửa miệng của chúng ta trong ngày đầu năm mới, bởi ai cũng mơ sống hạnh phúc, khang an và trường thọ. Chúa dạy: “Ai thảo kính cha sẽ được sống lâu dài” (Hc 3,6). Thánh Phaolô Tông đồ khuyên chúng ta “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).

Ngoài việc sống vui sống hạnh phúc, kẻ tôn kính mẹ cha còn được tha thứ tội lỗi: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm” (Hc 3,2). Được nhận lời khi cầu xin: “Ai hiếu thảo với cha mẹ, khi cầu xin họ sẽ được lắng nghe” (Hc 3,5b). Được con cái báo đền: “Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái” (Hc 3,5a). Vì “Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đấy”. Người bất hiếu với cha mẹ sẽ bị con cái đối xử tàn tệ hơn. Người có hiếu với cha mẹ cũng sẽ được con cái đối xử tốt đẹp. Được ơn lành tích trữ trong kho tàng: “Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,4).

Triết lý chữ hiếu qua chiếc bánh chưng xanh

Thật phù hợp với đạo lý dân tộc Việt Nam, chiếc bánh chưng, một sản phẩm cổ truyền, một chứng tích của đạo lý, chúng ta làm để ăn ngày Tết nhắc nhớ chúng ta mang nặng nghĩa mẹ tình cha.

Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.

Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh dầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh dầy là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ. Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân. Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.

Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ VI là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy Thần Đèn bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.

Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi.

Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Lèo chỉ có bánh Dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7.

Ngày Tết, cầm bánh chưng lên ăn, làm chúng ta nhớ đến tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo như: thăm viếng, chúc tết, giúp đỡ là một lẽ, chúng ta còn phải xin lễ cầu nguyện cho những người đã khuất. Tất cả đều là những nghĩa cử cần thiết, không thể thiếu được. Chỉ gói gọn trong chiếc bánh chưng xanh thôi là cả một Đạo Hiếu đáng ghi nhớ. Nó đã thoát khỏi đơn thuần là vật chất, móm ăn bình thường nhưng chứa đựng một triết lý sâu sắc đạo làm người.

Làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu

Từ lâu nhân loại đã luôn ca tụng về những tấm gương hiếu hạnh. Có thể thấy, dù ở thời đại nào, con người vẫn đề cao sự hiếu kính và báo đáp công ơn nuôi dưỡng của các đấng sinh thành.

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh núi Thái Sơn cao vời vợi và nước trong nguồn vô tận kia được đem ra so sánh với “công cha, nghĩa mẹ”.

Mỗi lần nhắc tới ơn cha nghĩa mẹ, thì y như rằng ta có lớn, có già lụm cụm cũng vẫn là trẻ con trước mắt mẹ cha, rồi nước mắt ngắn dài, cha thương mẹ xót. Thương vì cái ơn quá lớn chưa có đền đáp được bao nhiêu, xót vì có lúc nghịch ngợm, và có khi đã từng là… nghịch tử, cãi cha mắng mẹ! Người ta nói xã hội xuống cấp về đạo đức, lòng người trở nên vô cảm, lạnh lùng, nhưng nếu quả tình họ vô cảm, lạnh lùng với cả cha mẹ mình thì… chẳng còn gì để nói.

Làm con phải lấy chữ hiếu làm đầu, nếu không mọi việc làm tốt đều vô nghĩa. Thờ không phải chỉ lúc chết mới cúng giỗ linh đình mà phải thương, kính ngay từ thuở người còn sống. Kính vì ơn nghĩa sinh thành, dưỡng dục ví tựa “Thái sơn”, tựa “nước trong nguồn chảy ra”. Đỗ Trung Quân thì khẳng khái ví quê hương như là mẹ. Và mỗi người chỉ một, nên phải nhớ, nhớ để “lớn thành người”.

Tôn kính

Công cha nghĩa mẹ cao dày,

Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.

Nuôi con khó nhọc đến giờ,

Trưởng thành con phải biết kính thờ song thân.”

Phụng dưỡng

Còn nữa, phận làm con đối với cha mẹ:

“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc

Xem cháo cơm thay thế mọi bề

Ra vào thăm hỏi từng khi

Người đà vô sự ta thì an tâm.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)

Vâng lời

Dạy sao cho được con hiền

Để cho cha mẹ khỏi phiền về con

Một niềm phép tắc nết na

Biết sống biết kính mới là khôn ngoan

Có một số người, không biết sống đạo gì mà lại đối xử nhất trọng nhất khinh. Bởi vì đối với người Việt Nam, tương quan với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một người mà “lấy” cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả họ hàng bên mình.

Trong tác phẩm “Gia Huấn Ca” Nguyễn Trãi đã đề cao đạo đức, và chữ hiếu được nhấn mạnh rất rõ:

“Dù nội ngoại bên nào cũng vậy,

Đừng tranh dành bên ấy, bên này,

Cù lao đội đức cao dày,

Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)

Khi cha mẹ qua đời

Con cái tỏ lòng hiếu kính bằng cách lo an táng chu đáo, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Không những cầu nguyện cho cha mẹ, con cái còn xin cha mẹ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa, như khi còn sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho mình.

Hội Thánh Công giáo nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc.

Trong ngày Mồng Hai Tết năm nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ các ngài khi còn sống và đã qua đời. Đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.

Xin Chúa trả công bội hậu đời này và đời sau cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen.

 

19. “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ”--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Các môn đệ đã không rửa tay trước khi dùng bữa, nhưng người ta lại đi chất vấn vị Thầy của họ, là Đức Giê-su: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”(c. 2)

Như thế, các môn đệ làm điều không đúng dưới mắt của những người tuân giữ và bảo vệ Truyền Thống, nhưng người nghe lời than trách, lại là vị Thầy. Điều này có nghĩa là lời giảng của Thầy, cung cách hành xử của Thầy và chính bản thân của Thầy có vấn đề!

Đối với người Do Thái, rửa tay trước bữa ăn không phải là vấn đề vệ sinh, nhưng là một nghi thức thanh tẩy. Bởi vì, lương thực là ân huệ Thiên Chúa ban, nên phải chuẩn bị mình đển đón nhận. Hiểu như thế, nghi thức thanh tẩy này thật là có ý nghĩa trên bình diện thiêng liêng và cũng là một nghi thức tôn giáo nên bảo tồn. Và thật ra, chính chúng ta cũng làm như thế: trước bữa ăn, chúng ta làm dấu Thánh Giá, đọc lời nguyện xin Chúa chúc lành; khởi đầu Thánh Lễ, chúng ta xin Chúa thanh tẩy để trở nên xứng đáng lãnh nhận Lời và Mình của Đức Ki-tô như là lương thực; và theo Phụng Vụ Thánh Lễ, linh mục phải rửa tay trước khi cử hành nghi thức truyền phép, đồng thời đọc thầm: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm xin Ngài thanh tẩy”» (x. Tv 51, 4).

Như thế, những người Pha-ri-sêu và Luật Sĩ thật có lí, khi lưu ý Đức Giê-su rằng, các môn đệ của Ngài đã không rửa tay trước bữa ăn. Cũng tương tự như các nhà chuyên môn về phụng vụ của chúng ta, hay những người yêu thích phụng vụ vẫn thường lưu ý hay góp ý người này người kia đã làm sai hoặc không làm một qui định chữ đỏ nào đó trong Sách Lễ Roma. Tuy nhiên, Đức Giê-su lại bênh vực các môn đệ của mình. Vậy, đâu là vấn đề của những người Pha-ri-sêu và Luật sĩ? Và phải chăng, vấn đề của họ cũng có thể là vấn đề của chúng ta?

Nghi thức thanh tẩy dù có ý nghĩa và quan trọng, nhưng cũng chỉ là một cách diễn tả của con tim, là một lời mời gọi hướng tới một thái độ nội tâm. Thật vậy, giữ nghi thức và giữ thật đúng qui định nói lên điều gì hay sẽ đem lại hoa trái nào, khi mà trong lòng trống rỗng, hay có những tâm tình hay cảm nghĩ bất xứng hay không phù hợp? Như Đức Giê-su đã nói trong Bài Giảng Trên Núi: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Sai lầm là ở chỗ, người ta bị xét đoán là thanh sạch hay nhơ uế tùy theo việc giữ hay không giữ nghi thức rửa tay hay những nghi thức khác ; như thế, nghi thức trở thành tiêu chuẩn xét đoán về tương quan giữa con người và Thiên Chúa, và do đó, giữa con người với nhau, bởi vì người ta sẽ cư xử đặc biệt với những « người nhơ uế », những « người tội lỗi ».

Đối với Đức Giê-su, điều làm cho người ta trở nên thanh sạch hay nhơ uế không phải là điều ở bên ngoài, nhưng là điều trong nội tâm. Trước đó, Đức Giê-su đã trích lời Kinh Thánh này: « Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân » (Mt 15, 8-9). Và trong các Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (5, 8).

Ước gì chúng ta có được một con tim biết sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa ; vì đó là con đường duy nhất làm cho con tim của chúng ta trở nên gần gũi với Thiên Chúa, làm cho các việc làm, các thực hành đạo đức của chúng ta trở nên đáng yêu dưới mắt Chúa. Nhưng ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất lực trong nỗ lực điều khiển con tim, trong việc làm chủ những diễn biến nội tâm, và nhất là những diễn biến ở những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn. Chỉ có Thiên Chúa, ngang qua Lời và Mình của Đức Giê-su, mới có thể làm cho con tim của chúng ta nên thanh sạch, mới có thể tái tạo và làm cho con tim của chúng ta nên mới. Xác tín này làm cho chúng ta bình an và khiêm tốn.

Truyền thống và Lời Chúa

Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa được nghe công bố, Đức Giêsu nói hai lần về cùng một điều, đó là tương quan giữa truyền thống và Lời Chúa. Lần thứ nhất về chuyện rửa tay trước khi dùng bữa: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”(c. 3)

Lần thứ hai, nghiêm trọng hơn, vì liên quan đến luật thảo kính cha mẹ của Mười Điều Răn: “Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.”(c. 6b)

Trong câu nói này, Đức Giêsu coi giới răn như là lời Thiên Chúa. Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su còn thêm: “Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!” (Mc 7, 13) Truyền thống là một giá trị qui chiếu quan trọng, hơn nữa là một ơn huệ, bởi vì đó là một cách sống giới răn của Chúa, sống Lời Chúa của một cộng đoàn trong một thời gian và nơi chốn đặc thù. Nhưng với thời gian, các việc thực hành tốt đẹp này trở thành máy móc, nghĩa là nghi thức tự động tạo ra sự thanh sạch, trở thành quan trọng hơn so với chính Lời Thiên Chúa, trở thành ngẫu tượng.

Chúng ta cũng có rất nhiều truyền thống ở mọi cấp độ: Giáo Hội, Dòng tu, tu hội, dân tộc, cộng đoàn, nhóm… Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhận định lại toàn bộ dưới ánh sáng của Lời Chúa ban sự sống và diễn tả lòng thương xót.

Giới răn “Thờ cha kính mẹ”

Tại sao, giới răn “thờ cha kính mẹ” mang tầm mức Lời Chúa, vượt trên mọi lề luật, thói quen, tập quán phát xuất từ Truyền Thống?

Bởi vì, năng động sống « uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu », thuộc về nhân tính, vốn được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, đạo hiếu từ ngàn xưa của Dân Tộc Việt Nam đã phát xuất và chất chứa Lời Thiên Chúa. Ngoài ra, giới răn này không chỉ có nền tảng nhân bản, nhưng còn có nền tảng thiêng liêng nữa. Bởi vì:

“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn con người đến việc tin nhận Thiên Chúa. Thực vậy, tổ tiên ông bà và cha mẹ sinh ra chúng ta, nhưng các vị không phải là nguồn sự sống; hơn nữa, sự sống rất nhiệm mầu và chỉ có thể đến từ Thiên Chúa mà thôi, như chúng ta vẫn nói: cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Nhất là trong việc giáo dục đức tin ngày nay, giáo dục lòng biết ơn là con đường tốt nhất dẫn người trẻ đến kinh nghiệm tin nhận Thiên Chúa: biết ơn, biết ơn đối với cha mẹ, đối với cuộc đời, đối với Giáo Hội, và đối với chính Thiên Chúa, cội nguồn và điểm tới của mọi sự.

“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn đến hiểu biết khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, một khuôn mặt rất dễ bị bóp méo bởi những hệ thống tư tưởng, khuynh hướng tuyệt đối hóa những điểm tùy phụ và bởi chính luật lệ. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và “Đấng Hay Thường Xót”; và khuôn mặt này được phản ánh tốt nhất nơi cha mẹ. Đức Giê-su cũng đã khởi đi từ tình yêu của cha mẹ, để giúp chúng ta hiểu đúng về Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7, 11).

Và cuối cùng, một thái độ “thờ cha kính mẹ” sẽ khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới làm thỏa mãn niềm hi vọng gia đình tái đoàn tụ mãi mãi bên nhau trong tình yêu thương mà thôi.

 

20.Lòng hiếu thảo với tiên nhân--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Sách khải huyền có viết: “ Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi”(Kh 14, 13). Lời Kinh thánh giúp ta hiểu rõ của những người đi trước đã nhắm mắt lìa đời trong ân nghĩa Chúa. Niềm tin Kitô giáo dậy nhân loại, dậy mỗi người Kitô hữu rằng bổn phận của người còn sống có bổn phận và nghĩa vụ đối với những người đã khuất, đặc biệt đối với các bậc tiền nhân, tiên tổ, ông bà, cha mẹ. Đây cũng là điều răn thứ bốn trong mười thập giới của Đạo công giáo. Riêng đối với người Việt Nam vấn đề đạo hiếu có một tầm quan trọng đối với cá nhân, gia đình và họ hàng thân tộc.

NGƯỜI VIỆT NAM MANG NẶNG CHỮ HIẾU:

Đối với người Việt Nam chữ hiếu luôn đứng đầu trong mọi đức tính sẵn có của con người. Người Việt Nam vốn lấy đạo đức làm căn ban cho cuộc sống, cho bản thân, cho gia đình và cho dòng tộc của mình. Con cái thảo hiếu với cha mẹ lúc còn sống, khi cha mẹ đã khuất, người con hiếu thảo là người con luôn tưởng nhớ tới cha mẹ bằng việc cầu nguyện, xin lễ cho những người thân đã mất. Người Việt thường có bàn thờ gia tiên để tôn kính tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời. Sự hiếu thảo của con cái được thể hiện bằng nhiều cách như khi cha mẹ còn sống, con cái kính trọng, nuôi dưỡng, vâng phục cha mẹ và khi các vị đã mất, con cái cháu chắt lại tưởng nhớ tới các bậc tiền nhân trong những ngày giỗ, ngày kỵ, này tết nơi gia đình, nơi dòng tộc của mình. Người Việt Nam cũng không chỉ đóng khung trong gia tộc, gia đình mà họ còn đi xa hơn biết ơn cả đối với những người đã hy sinh để xây dựng quê hương, bảo vệ đất nước.

Tấm lòng tốt, sự biết ơn là một nét độc đáo trong nền văn hóa và đạo đức của người Việt Nam. Chính vì thế, người Kitô hữu Việt Nam đã cảm nghiệm sâu xa giới luật thứ bốn của đạo công giáo và hài hòa với truyền thống tôn kính, tưởng nhớ, ghi ơn những người đã có công với đất nước, quê hương, dân tộc.

NIỀM TIN KITÔ GIÁO:

Người Kitô hữu thể hiện chữ hiếu Kitô giáo bằng nhiều cách:khi cha mẹ còn sống, con cái chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, khi cha mẹ đã khuất lòng hiếu thảo được thể hiện bằng việc cầu nguyện, dâng lễ, làm việc lành dành riêng cho cha mẹ đã qua đời. Việc chăm sóc mồ mả, nhớ ngày giỗ, ngày kỵ, hương nhang, nến đèn cho người chết cũng là một cách biểu tỏ lòng biết ơn đối với những kẻ đã khuất, đã chết. Xưa có quan niệm theo Chúa, theo đạo công giáo là bỏ tổ tiên, bỏ ông bà cha mẹ, quan niệm ấy đã lỗi thời vì xưa kia đã có ngộ nhận như thế. Nay, người công giáo là người nhận mọi người là anh em. Theo Chúa, theo đạo, người Kitô hữu như được dọn trước để mở rộng vòng tay đón nhận mọi người. Người Kitô hữu không chỉ đóng khung trong gia đình, gia tộc, họ hàng của mình mà họ còn có nhiều tổ tiên, ông bà, cha mẹ vì đạo Chúa bao gồm tất cả mọi người không loại trừ bất cứ ai. Trong tình yêu của Chúa mọi người đều là anh em với nhau. Đức ái Kitô giáo không phân biệt, không loại trừ bất cứ người nào.

Ngày mồng hai tết, Giáo Hội Việt Nam dành ngày này để kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ, đây là một việc làm thật đáng trân trọng và hữu ích vì trong những ngày tết, mọi người đều vui vẻ, hạnh phúc sum vầy, êm ấm để ăn tết, tưởng nhớ, dâng lễ và cầu nguyện cho những bậc tiền nhân là một nghĩa cử cao đẹp và là một nhắc nhớ cho mọi người hãy sống hiếu thảo, hãy thực hành giới luật thứ bốn của thập giới Kitô giáo. Sống đạo hiếu là nét son văn hóa và nét nổi bật đức tin của người Kitô hữu Việt Nam.

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa dậy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay, nhân dịp đầu năm mới, chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).

 

21.Thảo kính cha mẹ (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Mỗi năm vào ngày mồng hai tết, Giáo Hội luôn dành một ngày để con cái cháu chắt có dịp báo hiếu tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, Giáo Hội giúp mỗi người còn được diễm phúc sống dưới trần gian này hiểu được thế nào là công lao của ông bà tổ tiên. Có tổ tiên, có ông bà mới có cha mẹ rồi mới có chúng ta: đây là một điều hiển nhiên ai cũng phải hiểu và cảm nghiệm một cách sâu sắc công ơn trời biển của tổ tiên ông bà, của cha mẹ vv…” Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra “, ca dao Việt Nam quả có lý khi đề cập tới nghĩa vụ của con cái đối với mẹ cha. Do đó, hôm nay, mọi người dâng thánh lễ này cầu nguyện cho các bậc sinh thành rất hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam chúng ta, đồng thời cũng rất thực tế với dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu.

CUỘC TRANH LUẬN GIỮA CÁC NGƯỜI PHARISÊU, CÁC KINH SƯ VÀ CHÚA GIÊSU: Trong đoạn Tin Mừng thánh Matthêu xoay quanh cuộc tranh luận của Đức Giêsu với các người Pharisêu, các Kinh sư về bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Đối với các người Pharisêu, các kinh sư họ cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là vừa đủ rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Người Pharisêu và Kinh sư giới hạn bổn phận con cái dựa trên hoàn toàn vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho nghĩa vụ đạo đức. Đối với Đức Giêsu, Ngài nhắc nhở cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi thế hệ, mọi người chúng ta rằng: “ Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Ngay trong điều răn thứ bổn của thập giới cũng viết: “ Thảo kính cha mẹ “. Như thế rõ ràng Thiên Chúa dạy con người phải thảo hiếu với mẹ cha không chỉ dừng ở của cải vật chất nhưng phải hiếu thảo bằng cả tấm lòng yêu thương, tôn kính, mến yêu đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ tức là đụng đến nhân phẩm, đụng đến quyền làm người của cha mẹ, thì phải bị xử tử. Chính vì thế, lập trường của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với người Pharisêu và các Kinh sư. Chúa Giêsu mở ra một giá trị mới, một đạo hoàn toàn dựa trên tình thương.

VẤN ĐỀ HIẾU THẢO BỊ LUNG LAY: Nếu lược qua các nơi, các nước chúng ta như nhận ra được cái yếu của nhiều gia đình. Bởi vì đời sống của nhiều gia đình hiện nay đang vấp phải khủng hoảng về đức tin, về đạo lý, Nhiều con cái chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Ngày nay có nhiều gia đình con cái đối với cha mẹ không ra làm sao cả. Nên, giá trị đạo đức bị đảo lộn, con cái coi vật chất là trên hết, có nhiều đứa con đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con. Ở nhiều nước văn minh có nhiều gia đình con cái sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão đầy đủ tiện nghi nhưng lại thiếu thái độ”thờ cha kính mẹ ” theo ý của Thiên Chúa là ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Các Giám mục Việt Nam trong năm 2007 và 2008 đã ra hai thư mục vụ nói về gia đình. Điều này nói lên sự quan trọng của nền tảng gia đình. Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2008 viết về gia đình Nagiarét: “ Các Ngài là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nagiarét mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta”. Gia đình thánh gia là gia đình gương mẫu cho mọi gia đình bởi vì Chúa luôn hiếu thảo đối với thánh Giuse và mẹ Maria.

ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG: Cha mẹ là người sinh ra chúng ta, chúng ta phải hết lòng tôn kính, yêu thương cha mẹ. Ai cũng có cha có mẹ. Cha mẹ sinh ra chúng ta, cha mẹ nuôi dưỡng chúng ta, chúng ta phải hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Chúa nói: ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, lúc qua đời phải xin lễ, cầu nguyện cho cha mẹ.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng Chúa cũng có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa đã hiếu thảo với cha mẹ, xin cho chúng con luôn biết báo đáp mẹ cha. Amen.

 

22.Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Giáo Hội Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết mỗi năm để cầu nguyện cho tổ tiên và ông bà cha mẹ đúng như đoạn Sách Cách ngôn 6, 29-23abc viết trong ca nhập lễ:

” Con ơi giữ lấy lời cha,

Chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm.

Đèn soi trong chốn tối tăm,

Ấy là chính những lời răn, lệnh truyền.

Nhớ cầu cho bậc tổ tiên,

Khắc ghi công đức một niềm tri ân“.

Vâng, Giáo Hội là người Mẹ luôn âu yếm, nâng niu đoàn con và dạy dỗ con cái hãy sống điều răn Chúa phán truyền: “ Hãy thảo kính cha mẹ ” (Điều răn thứ 4 của Thập Giới Đạo Công Giáo).

Từ ngàn xưa nhân loại luôn ghi nhớ công ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ. Bởi vì, nước có nguồn, sông có cội, con người phải có tổ tông. Tổ tiên sinh ra ông bà nội ngoại và rồi nội ngoại sinh ra con cái, sinh ra chúng ta. Công ơn tổ tiên, công ơn ông bà, ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ luôn luôn phải được đền đáp cho cân xứng. Chỉ cần đọc lại kinh tiền tụng lễ mồng hai tết, chúng ta sẽ thấy Giáo Hội chủ tâm tới những Đấng Bậc sinh thành, dưỡng dục như thế nào: “ Quả thực, khi ngẫm xem muôn loài trong vũ trụ, tự nhiên chúng con thấy vạn sự đều có cội rễ căn nguyên: chim có tổ…. Nhưng phải nhờ ơn Cha mạc khải, chúng con mới nhận biết Cha là nguyên lý sáng tạo muôn loài, là Cha chung của tất cả chúng con. Cha đã ban sự sống cho tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để các ngài truyền lại cho con cháu. Cha cũng đã ban cho các ngài ơn huệ dư đầy, để chúng con được thừa hưởng mà nhận biết, tôn thờ và phụng sự Chúa “. Do đó, con người phải có hiếu đễ, lúc cha mẹ còn sống phải thăm nom, chăm sóc, khi cha mẹ khuất bóng, phải cầu nguyện, lo ngày giỗ ngày chạp vv…Đó là ơn nghĩa con cái phải đáp trả báo đền. Thánh vịnh 111, 1-2 viết rất rõ: “ Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. TRên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc “. Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo đoàn Êphêxô: “ Kẻ làm con, hãy vânbg lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này “. Thánh Matthêu còn nhấn mạnh hơn: “ Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử “.

Vâng, đạo hiếu vẫn là đạo mà mọi nước, mọi dân tộc trên thế giới này đều khuyên nhủ con người thực hiện. Còn sống phụng dưỡng cha mẹ, không được làm phật lòng cha mẹ để cho cha mẹ buồn. Khi qua đời phải hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”. Bởi vì như Sách Khải Huyền viết: ”Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả. Giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi“.

Những ngày đầu năm mới trong khi mọi người ăn uống, sum vầy, Giáo Hội luôn khuyên dạy chúng ta hãy nhớ tới công ơn của tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Chính là các bậc tiên tổ, bậc cha ông mà chúng ta mới có ngày hôm nay…

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,

Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.

Hôm nay nhân dịp đầu năm mới … Nhâm Thìn

Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.

Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen (lời nguyện nhập lễ, lễ mồng hai tết).

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Tại sao ngày mồng hai tết, Giáo Hội lại dành để cầu cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?

2. Tổ tiên là ai?

3. Ông bà là ai?

4. Tại sao chúng ta lại phải trả ơn cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?

 

23.Kính nhớ tổ tiên (Lc 1, 67-75)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Truyền thống Dân tộc Việt Nam chúng ta luôn đề cao chữ hiếu. Bởi vì, dù có đi đạo hay không, người Việt Nam từ ngàn xưa đã biết thờ Cha kính Mẹ. Như thế, quả rất thích hợp với điều răn thứ tư trong mười điều răn của Thiên Chúa. Ngày mồng hai tết bao giờ, Giáo Hội cũng dành riêng để kính nhớ ông bà cha mẹ, tổ tiên. Đây là nét son của Giáo Hội.

Vâng, ngay từ khi khởi đầu công cuộc truyền giáo ở đất nước chúng ta, Cha Alexandre de Rhodes đã luôn quan tâm và dạy dỗ con người hãy trung thành, hiếu thảo với Thiên Chúa, với Vua và với Cha mẹ. Đây là giáo lý nói về tam phụ. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, dựng nên con người. Nên, con người phải biết ơn Thiên Chúa, trung thành với Ngài. Cha mẹ thừa lệnh Thiên Chúa sinh ra chúng ta, do đó, chúng ta phải hiếu thảo và trung thành với Cha mẹ. Con người có đất nước, có tổ quốc. Đứng đầu nước là Vua, nên con người phải trung với Vua vv…Đây là đạo lý của con người. Tuy nhiên, lúc đó vì chưa hiểu rõ các địa phương, các đất nước. Giáo Hội đã có những thông tư nghịch lại với nghi lễ Trung Hoa. Nên, một thời gian dài đã có những hiểu lầm và nghi kỵ đối với đạo Công giáo.

Ngày nay, với Công Đồng Vatỉcanô II, Giáo Hội đã có cái nhìn phù hợp với hoàn cảnh, truyền thống của các đất nước, các địa phương. Nên, mọi Kitô hữu đều cảm thấy thoải mái hơn với việc tôn kính tổ tiên vv…Giới răn bốn trong thập giới đã viết: “ Hãy tháo kính Cha mẹ “. Điều này rất phù hợp với các đoạn Sách Thánh như Cn 6, 20, 23abc: “ Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn, lệnh truyền. Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân “. Hoặc Sách Khải Huyền 14, 13 viết: “ Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi, vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi “.

Người công giáo Việt Nam bao giờ cũng có lòng biết ơn và kính nhớ ông bà tổ tiên cha mẹ. Hầu như nhà nào cũng có bàn thờ ông bà tổ tiên với những hoa nến, nhang hương tỏa hương thơm ngát, nghi ngút khói bay…Thật đúng như lời Sách Đức Huấn Ca viết: “ Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên, mả đẹp, và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài, và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen “. Thánh Augustinô cũng viết một đoạn đáng ghi nhớ: “ Các ngài thấy, các thế hệ loài người trên mặt đất cũng giống như những chiếc lá trên cành cây, luôn luôn xanh tươi. Trái đất này cũng mang những con người, như cây mang những chiếc lá. Trái đất đầy dẫy những con người kế tiếp nhau, người này chào đời, trong khi người kia vẫy tay giã biệt. Cây không bao giờ cởi bỏ bộ áo màu xanh của mình, nhưng hãy nhìn xuống gốc cây: các ngài đang đạp trên một tấm thảm dầy những chiếc lá khô mục “. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã khuyên nhủ: “ Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ…”.

Thảo kính cha mẹ, tôn kính tổ tiên là truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam. Cài bông hồng đỏ trên áo để chứng tỏ cha mẹ còn sống. Đó là cách biểu lộ tình thương đối với cha mẹ, do đó, phụng dưỡng cha mẹ, an ủi cha mẹ là tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Cài bông hồng trắng trên áo để tưởng nhớ cha mẹ đã khuất. Con người nhớ để cầu nguyện, dâng lời kinh, tạ lễ cầu cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã mất là cách tỏ lòng tôn kính, thảo hiếu đối với các bậc sinh thành…

Xin Chúa cho chúng con luôn biết hiếu thảo với ông bà tổ tiên cha mẹ và quyết tâm nối tiếp sự nghiệp của các ngài, để luôn luôn làm rạng rỡ dòng họ và làm rực sáng gia phong.

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,

Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.

Hôm nay nhân dịp đầu năm mới,

Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.

Xin Chúa trả công bội hậu

Cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,

Và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

1. Tại sao lại phải hiếu thảo đối với Ông bà cha mẹ và tổ tiên?

2. Chúa dạy sao về hiếu thảo?

3. Cài bông hồng đỏ trên áo có nghĩa gì?

4. Cài bông hồng trắng trên áo có ý nghĩa gì?

 

24.Thảo kính mẹ cha (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Hôm nay Hội Thánh dành riêng ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Giáo Hội quả thực là người Mẹ rất khôn ngoan dậy con cái đủ điều. Thảo kính cha mẹ và các bậc tổ tiên là việc làm vừa phù hợp với tập tục, truyền thống hiếu thảo của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với điều răn thứ tư trong thập giới của Chúa, đồng thời thực hiện lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 hôm nay.

CUỘC TRANH LUẬN CỦA PHARISIÊU VỚI CHÚA GIÊSU: Đọc Tin Mừng hôm nay chúng ta nửa khóc nửa cười với các ông Pharisiêu và kinh sư bề ngoài xem ra đạo mạo, đạo đức nhưng bên trong lại toàn dao găm. Họ sống cái vỏ bên ngoài chứ thực ra họ chẳng sống cái lõi của Tin Mừng là bác ái yêu thương. Cuộc tranh luận của nhóm Pharisiêu và các kinh sư xoay quanh vấn đề rửa tay trước bữa ăn để rồi họ muốn tránh điều căn bản nhất là thảo kính cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Kinh sư và Pharisiêu giới hạn việc làm con trong bổn phận thuần túy thế tục, vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho ý nghĩa tôn giáo, ý nghĩa đạo đức. Đức Giêsu nhắc lại, nói lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người muôn thời: “ Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15, 4). Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, nghĩa vụ đối với cha mẹ không chỉ dừng lại ở vật chất, nhưng còn đi tới cả nghĩa vụ tinh thần, thái độ đối với cha mẹ, đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử.

CUỘC SỐNG HÔM NAY VÀ MUÔN THỜI ĐỐI VỚI LỜI DẬY CỦA CHÚA GIÊSU: Ông bà cha mẹ, tổ tiên là những người có công sinh ra, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các Ngài tận tụy dậy dỗ chúng ta sống đời sống làm người, đặc biệt nhờ các Ngài mà chúng ta được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tiền nhân, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển. Ca dao Việt Nam đã viết: “ Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Chữ hiếu đối với chúng ta rất có giá trị hợp với đạo lý làm người. Hiếu là yêu thương. Chúa là tình yêu. Do đó, đạo công giáo chúng ta là đạo yêu thương. Chính vì thế, mà tục ngữ ca dao đã viết rất dí dỏm, nửa khóc, nửa mếu vì nếu khi cha mẹ ông bà còn sống mà chẳng cho ăn, chẳng chăm sóc: vật chất cũng như tinh thần sẽ mang cái tội tầy trời: “ Khi sống mà chẳng cho ăn, đến khi thác xuống làm ma tế ruồi “. Cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi đang vấn nạn chúng ta hay đang hạch xét chúng ta về chữ hiếu, về nền tảng của gia dình. Các giá trị của đời sống gia đình hình như bị lung lay khá nhiều, nếu nói được là đang bị giao động đến tận gốc rễ, đến tận cuộc sống của nhiều người, của nhiều gia đình. Ngày nay, có nhiều người định mức cuộc sống bằng việc làm ra vật chất, làm ra của cải. Người ta định mức số tiền, của cải làm ra được bao nhiêu. Người trẻ không thích cha mẹ sống lâu, người già sống thọ. Muốn tiến thân người trẻ phải loại trừ người già vv…Nhiều nước trên thế giới, con cái đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão cho xong, vì viện dưỡng lão nhiều tiện nghi vật chất, nhưng lại thiếu thái độ cần thiết nhất là ‘ thờ cha, kính mẹ “. Chính vì thế, con người ngày nay cũng na ná như Pharisiêu và kinh sư tưởng rằng mình biện minh được cho thái độ bất hiếu của mình cũng như nhóm Pharisiêu và kinh sư xưa đã nhân danh lời của tiền nhân để lại. Lời của Đức Giêsu nhắc lại trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 không cho phép ai được biện hộ cho thái độ bất kính, bất hiếu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên, ngay cả khi họ nại ra lý do tôn giáo nữa.

Ngày đầu xuân Giáo Hội nhắc lại cho mỗi người, mọi người sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Ngày đầu xuân mới, chúng ta nhớ đến các Ngài. Chúng ta xin lễ, cầu nguyện cho các Ngài, xin Chúa là Đấng từ bi thương xót xóa hết lỗi lầm các Ngài đã trót phạm và mau đưa các Ngài về hưởng nhan thánh Chúa mãi mãi, muôn đời.

Lạy Chúa, xin thương ban thiên đàng cho tất cả những người đã nuôi nấng, lo lắng và giáo dục chúng con. Amen.

 

25.Hiếu thảo với cha mẹ (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Truyền thống dân tộc Việt Nam quả rất cao quí khi ông bà tổ tiên, cha mẹ luôn được mọi người kính yêu, hiếu thảo. Tuy nhiên, Hội Thánh Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết để con cái cháu chắt tưởng nhớ tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Giáo Hội luôn cho con cái hiểu rằng việc hiếu thảo có giá trị rất cao và là một trong những điều Chúa dạy. Bởi vì, trong mười điều răn của Chúa, giới răn thứ bốn: “ Hãy thảo kính cha mẹ ” là một giới răn được xếp trong mười điều Chúa dạy bảo. Chính vì thế, hôm nay, con cái của Chúa dâng thánh lễ này để cầu nguyện cho ông bà tổ tiên, cha mẹ là một điều thích hợp, phải lẽ đồng thời cũng rất hợp với lời dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 15, 1-6.

Ngược lại với quan niệm, suy nghĩ của dân Do Thái, đặc biệt là các Kinh sư, Pharisêu về vấn đề báo hiếu, Chúa Giêsu luôn đề cao việc hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên, cha mẹ, các bậc sinh thành, dưỡng dục. Kinh sư và Pharisêu cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là đủ rồi, là tròn bổn phận và trách nhiệm rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Họ giới hạn bổn phận và nghĩa vụ dựa trên vật chất, và họ gán cho nó tính chất đạo đức. Đối với Chúa Giêsu, Ngài nói cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi người biết rằng: “ Phải thảo kính cha mẹ…” theo đúng giới răn thứ bốn trong thập giới của Thiên Chúa đã trao cho ông Môsê: “ Thảo kính cha mẹ “. Chúa nói: “ Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Chúa Giêsu mở ra cho thế giới, cho con người, cho mỗi người một chân trời mới về nghĩa vụ và bổn phận đối với các bậc sinh thành. Vật chất cần thật nhưng tấm lòng, con tim, tinh thần còn có giá trị cao vời hơn. Thật vậy, xưa cũng như nay, vấn đề hiếu thảo đối với các bậc sinh thành luôn được đặt ra với nhiều quan niệm và suy nghĩ khác nhau. Ngày nay, tại nhiều đất nước, việc truyền bá tự do luôn được đề cao, nhiều nơi xem sự tự do là chính mà quên đi giá trị đạo đức. Do đó, giá trị truyền thống hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ bị coi nhẹ. Nhiều nước, luật pháp bảo vệ tự do quá đáng: cha mẹ không được nói nặng tới con cái, chứ chưa nói tới quát nạt, to tiếng hay đánh sửa dạy. Nhiều nước, con cái tới 18 tuổi được luật pháp bảo hộ theo ý của mình. Cha mẹ luôn phải dè chừng với con cái. Nên, giá trị đạo đức bị lung lay: con cái muốn làm gì thì làm. Luân lý bị coi nhẹ. Cha mẹ được xem như gánh nặng đối với con cái. Con cái thích tự lập, ở riêng. Người già đã có nhà xã hội, nhà dưỡng lão vv…Việc hiếu thảo đối với cha mẹ được xem nhẹ. Cha mẹ già thường cảm thấy cô đơn, buồn tủi. Có người đã nói cay chua, mỉa mai: “ Ước gì mình được con cái chăm sóc như con chó mà con mình đang nuôi “. Đó là sự thực nhưng sự thực thật cay đắng và mỉa mai. Thiết tưởng, mọi gia đình phải nhìn vào mẫu của gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu để noi gương bắt chước. Chúa là Chúa nhưng làm người, Ngài luôn vâng lời, tuân phục và sống thảo hiếu với cha mẹ của mình.

Dân tộc Việt Nam luôn còn giữ được truyền thống thảo hiếu và giáo dân Việt Nam còn biết lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa. Do đó, nghĩa vụ, bổn phận đối với các bậc sinh thành, tổ tiên luôn được trân trọng giữ gìn.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng mến cho chúng con để chúng con luôn biết thảo hiếu với tổ tiên, cha mẹ: sống thì thăm hỏi, giúp đỡ, nuôi dưỡng, khi các Ngài khuất bóng thì biết xin lễ, cầu nguyện và làm những việc phúc đức dâng cho cha mẹ, tổ tiên. Amen.

 

26.Xuân Đẹp Ngời Đạo Hiếu (Mt 15, 1-6)--J. B. Nguyễn Quốc Tuấn
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.

“Biển cả mênh mông đong sao đầy tình mẹ

Gió trời lồng lộng ngăn không nổi công cha” (Danh ngôn đạo đức)

Đạo hiếu, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nó được thể hiện rõ nét trong mỗi dịp Tết cổ truyền. Những ngày vui tươi đầu xuân cũng là thời điểm thuận tiện để con cháu bày tỏ lòng biết ơn, hiếu kính đối với các đấng bậc đã có công sinh thành dưỡng dục mình cả về thể lý và tâm linh. Người Kitô hữu ý thức Đạo hiếu mang một chiều kích sâu xa hơn trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại và giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn chữ Hiếu cũng đồng thời ta đáp trả lời mời gọi của Tin Mừng trong thái độ yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.

1. Đạo hiếu theo Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội

Tiếp sau bổn phận của con người đối với Thiên Chúa được nêu lên trong Thập giới (mười điều răn), Kinh Thánh đã coi thái độ hiếu thảo với cha mẹ là nền tảng thứ nhất và quan trọng nhất trong những tương quan giữa con người với con người (Is 49, 15; 63, 16…).

“Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).

Đạo hiếu đối với bề trên được khởi đi từ việc thấu hiểu và đáp trả xứng hợp công ơn của các ngài là những cánh tay nối dài của Thiên Chúa ở dưới thế, đã hy sinh, nâng đỡ ta trên đường trọn lành. “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con” (Hc 7, 27-28). “Hỡi những người con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20).

Biểu lộ của lòng hiếu thảo thể hiện qua sự chú tâm lắng nghe lời chỉ bảo của cha mẹ trong sự vâng phục, khiêm kính. “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn hụ của cha, và đừng ruồng rẫy giáo huấn của mẹ… Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm, và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con” (Cn 6, 20-22). “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách” (Cn 13, 1).

Lòng hiếu thảo là một hành vi nhân linh đặc biệt quan trọng có giá trị kiện toàn bản thân ta nên công chính thánh thiện hơn mỗi ngày. “…Vì của dâng cho cha sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi…” (Hc 3, 14-15).

Tân ước đề cao Đạo hiếu qua mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã chu toàn trọn hảo bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt ba mươi năm sống cùng Thánh Gia (Lc 2, 51-52). Trong thời gian thi hành sứ vụ, lòng hiếu thảo được Ngài đề cập như một trong những chuẩn mực nền tảng của luật Thiên Chúa. “Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử”.

Thư 1Tm 5, 8 xác quyết bổn phận sống đạo hiếu là đòi buộc của đức tin: “Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1Tm 5, 8).

Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (MV, số 48).

Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nêu lên vai trò của cha mẹ và bổn phận đáp trả của chúng ta: “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa” (GLHTCG, số 2197).

2. Niềm vui chưa trọn vẹn

Trong ngày đầu xuân, thật hạnh phúc khi chúng ta được đoàn tụ trong bầu khí yêu thương của gia tộc để bày tỏ đạo hiếu với tổ tiên. Nhưng niềm vui của chúng ta chưa thể trọn vẹn được, khi vẫn còn đó bao cụ già neo đơn, bao bậc làm cha, làm mẹ phải đau xót khốn cùng vì bị con cái hắt hủi, bỏ rơi giữa ngày đời tàn hơi, xế bóng…

Chúng ta vui sao được trước thực trạng xã hội, trong đó, một bộ phận đông đảo những người trẻ đang chạy theo lối sống tự do mất định hướng, cố tình ngoảnh mặt trước các chuẩn mực truyền thống và quan niệm sự vâng phục các đấng bậc sinh thành như một thứ bó buộc tiêu cực đối với họ.

Nếp sống đề cao tính cố kết gia tộc trong bản sắc văn hóa của các làng xã Việt Nam dường như đang bị phai nhạt dần. Các cặp vợ chồng trẻ mới thành hôn có xu hướng thích “ra riêng” (gia đình độc lập) hầu có thể thoát ra ngoài “chiếc vòng kim cô” của đại gia đình nhiều thế hệ. Điều này đang có nguy cơ dẫn tới việc các thế hệ sau ngày càng có biểu hiện xem nhẹ vai trò của những người đi trước. Và hậu quả là, họ cố tình “bỏ ngoài tai” những giáo huấn vốn được kết tinh từ kinh nghiệm sống của ông bà, cha mẹ, thầy cô.

Ngày Tết là thời điểm thật thuận tiện để những người con, người cháu cháu chúng ta tự vấn lại bổn phận và thái độ sống cần thiết đối với các bậc tiền nhân. Năm cũ qua đi, có biết bao lần ta đã làm phiền lòng những người đã phải vật lộn một nắng hai sương, lam lũ giữa dòng đời cay đắy với bao nhiêu mồ hôi nước mắt chỉ vì mong muốn, dìu dắt ta nên người. Biết bao lần ta đã vi phạm trầm trọng chuẩn mực đạo hiếu chỉ vì muốn được tự do sống theo ý riêng mình…

Năm mới, ta hãy sống sao cho đẹp Chữ Hiếu.

3. Sống đẹp Chữ Hiếu

Nhiều giáo xứ đang phát huy truyền thống tốt đẹp, đó là tổ chức long trọng thánh lễ kính nhớ tổ tiên tại nghĩa trang giáo xứ vào ngày Mồng Hai Tết. Trong ngày này, con cháu, dâu rể… dù ở phương xa phải bận bịu trăm công nghìn việc, vẫn cố gắng sắp xếp quy tụ về bên phần mộ gia tộc, cùng nhau thắp lên nén hương lòng kính hiếu và chung lời nguyện xin cho người quá cố được sớm an nghỉ trong Chúa. Thật là nghĩa cử đẹp đẽ, nói lên Đức ái Kitô giáo được biểu lộ qua đạo hiếu.

Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm sẽ cháy mãi và bừng lên nơi tâm hồn của những người con hiền, cháu thảo như một lời tri ân đáp trả nồng nhiệt công ơn của các đấng bậc đã sinh thành, dưỡng dục ta.

Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm cho tổ tiên sẽ lan tỏa trong đời bạn, đời tôi để chúng ta luôn sống xứng với truyền thống Đức tin rạng ngời của tiền nhân.

Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.

Ước mong nén hương lòng đầu năm trước người quá cố đang và sẽ thức tỉnh những ai có biểu hiện xem thường chuẩn mực đạo hiếu.

Và nguyện ước cho nén hương lòng đầu năm trước tổ tiên là tất cả tâm thành của ta hướng về Chúa, cảm tạ Ngài đã ban cho ta có được tổ tiên ông bà cha mẹ. Nhờ sống trọn, sống đẹp Đạo Hiếu, chúng ta góp phần tôn vinh Thiên Chúa, tôn vinh Đạo Trời.

 

27.Uống Nước Nhớ Nguồn- Trích Logos B
Có một câu chuyện về tình mẹ rất đẹp được kể lại trong “Sự Tích Cây Vú Sữa” như sau:

Ngày xưa, ở vùng Lái Thiêu (thuộc tỉnh Sông Bé) có hai mẹ con sống đơn chiếc bên nhau. Thương con trai mồ côi bố, người mẹ hết sức cưng chiều con. Vì quá nuông chiều, cậu bé trở nên nghịch phá và ham chơi.

Một ngày kia, vì phá phách, bị mẹ quở mắng, cậu bé bỏ nhà ra đi. Cậu đi lang thang hết ngày này sang ngày khác, ai cho cái gì thì ăn cái ấy.

Một hôm, cậu quyết tâm trở về với mẹ. Sau bao ngày lặn lội, cậu cũng về tới nhà. Cảnh vật còn nguyên, nhưng mẹ cậu thì không còn nữa. Cậu bé đâu có biết rằng mẹ cậu vì mong mãi con không về đã sinh bệnh rồi chết, hóa thành một cây xanh.

Cậu bé gọi hoài, gọi mãi không thấy mẹ. Cậu chỉ biết ôm lấy cây xanh mà khóc. Bỗng cây xanh run rẩy và rơi xuống một trái to, da căng mịn và xanh óng ánh.

Vừa đói, vừa mệt, cậu bé đưa quả lên rồi cắn một miếng, dòng sữa trắng trong quả trào ra, như dòng sữa mẹ thật thơm ngon.

Vỏ cây xù xì như bàn tay lam lũ của mẹ, lá cây một mặt xanh bóng, một mặt đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Mẹ không còn nữa, nhưng mẹ vẫn đứng đó để nuôi con bằng dòng sữa mẹ ngọt ngào.

Từ đó, người ta gọi cây xanh ấy là cây vú sữa, để tưởng nhớ đến tình mẹ thiêng liêng và cao cả.

Không lời nào có thể diễn tả hết tình mẹ tình cha, không bút mực nào có thể tát cạn được công cha nghĩa mẹ. Trong những ngày lễ tết hay giỗ chạp, người ta cũng không quên nhắc đến nguồn cội gốc rễ là những bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, những đấng đã sinh thành, dưỡng dục và chăm lo cho đời sống con cái, cháu chắt nên người. Đó là truyền thống đạo đức rất đáng trân trọng của người Việt Nam. Và truyền thống đạo đức ấy của dân tộc không đi ngược lại với niềm tin Kitô giáo. Trái lại, “lương giáo” đều có chung một chữ hiếu. Tuy hai con đường, nhưng chỉ là một chữ hiếu.

Chữ hiếu trong đạo nghĩa dân tộc

Chữ hiếu luôn được người Việt Nam coi trọng và đặt lên hàng đầu. Chữ hiếu được biểu lộ qua lòng hiếu thảo của con cái, cháu chắt luôn nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của tổ tiên, ông bà cha mẹ. Tổ tiên, ông bà cha mẹ được coi là nguồn gốc của sự giàu sang phú quý và luôn là mối dây linh thiêng, huyền nhiệm liên kết tất cả mọi con cháu lại thành một giòng tộc.

Trong đạo gia tộc, chữ hiếu được diễn tả và thực thi bằng nhiều cách: khi ông bà cha mẹ còn sống, con cháu sẽ vây quanh để biểu lộ sự tôn kính, vâng phục, phụng dưỡng hết lòng ; khi các ngài khuất bóng, con cháu luôn nhớ đến trong những ngày giỗ kỵ, lễ tết, qua việc nhắc nhở nhau tụ họp lại để kính nhớ. Theo tập tục, con cháu sẽ lập bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ với đèn nhang, hoa quả đầy ắp.

Lòng biết ơn đối với các bậc tiền nhân, lão thành, những người có công trạng được thể hiện bằng việc tưởng nhớ, ghi công trên bia, mộ. Đó chính là nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam, rất đáng được giữ gìn và phát huy.

Chữ hiếu trong đạo Kitô

Giáo Hội dành riêng ngày Mùng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì thế, ca nhập lễ của ngày lễ hôm nay trích lời sách Châm ngôn:

“Con ơi giữ lấy lời cha

Chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm

Đèn soi trong chốn tối tăm

Ấy là chính những lời răn, lệnh truyền

Nhớ cầu cho bậc tổ tiên

Khắc ghi công đức một niềm tri ân” (Cn 6, 20. 23abc)

Như thế, qua lời khuyên nhủ của sách Châm ngôn, việc kính nhớ và cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ không những là một đạo hiếu, mà còn là một lệnh truyền của Thiên Chúa. Chính điều răn thứ bốn trong mười điều răn dạy: “Hãy thảo kính cha mẹ”.

Trong Mầu Nhiệm Nhập Thể, Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, Ngài không chọn cho mình một con đường siêu việt từ trời xuống trần gian làm người cách trực tiếp và minh nhiên, nhưng Ngài đã chọn cho mình người mẹ, người cha và đã đồng hành với người thế qua con đường gia đình bình thường như tất cả mọi người chúng ta. Ngài cũng sống trong một tổ ấm yêu thương và nhất là đã nêu gương mẫu về tinh thần vâng phục của người con đối với cha mẹ dưới mái nhà Nagiarét (Lc 3, 51).

Lòng tôn kính, hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ xuất phát từ sự biết ơn đối với các ngài, những người đã sinh thành, dưỡng dục chúng ta lớn lên về vóc dáng, về sự khôn ngoan và nhất là về ân sủng trước mặt Thiên Chúa, như lời sách Huấn Ca dạy: “Hãy hết lòng tôn kính cha con và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục. Công ơn ấy con lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7, 27–28).

Lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ còn đòi buộc chúng ta phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với ông bà cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần. Khi các ngài khỏe mạnh, cũng như lúc già cả yếu đau và ngay cả khi qua đời, chúng ta vẫn một lòng biết ơn, phụng dưỡng và cầu nguyện cho các ngài.

Tóm lại, chúng ta là người theo “đạo Chúa”, chúng ta càng phải giữ “đạo hiếu” đối với tổ tiên ông bà. Chữ hiếu tô đậm thêm tình con thảo đối với gia đình và với Thiên Chúa. Dù là hai con đường, nhưng cũng chỉ là một chữ hiếu làm đầu. Hiếu thảo với ông bà cha mẹ sẽ giúp ta hiếu thảo hơn với Thiên Chúa.

Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo, nhưng ông để hết tâm trí phụng dưỡng song thân.

Một hôm, nghe nói có ông Võ Tế là bậc đại sĩ rất giỏi giang, Dương Phủ từ biệt cha mẹ để đến thụ giáo cùng ông Võ Tế.

Dọc đường, Dương Phủ gặp một vị sư già chỉ cho biết: “Gặp được Võ Tế chẳng bằng gặp được Phật”. Dương Phủ bèn hỏi: “Phật ở đâu?” Vị sư già giải thích: “Cứ trở về gặp người nào mặc chiếc áo choàng, chân đi dép như thế này, thì chính là Phật đấy!”.

Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Đi dọc đường ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà, người mẹ khoác mền, chân đi dép ra đón con. Bấy giờ, Dương Phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Đức Phật mà vị sư già đã mô tả.

Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra cha mẹ trong nhà chính là Phật, ông càng hết tâm phụng dưỡng cha mẹ hơn.

Đúng như lời ca dao:

Thứ nhất là tu tại gia,

Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa,

Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.

Hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ, những người còn sống cũng như đã qua đời. Lòng hiếu thảo luôn luôn là bông hoa đẹp làm vui lòng ông bà cha mẹ và làm đẹp lòng Thiên Chúa.

 

28.Về Với Gia Đình- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Những ngày giáp Tết, dọc dài Quốc lộ I, xe cộ nối đuôi nhau tấp nập ngược xuôi Nam Bắc. Ai cũng hối hả, nôn nao mong sớm về với gia đình.

Tết là dịp mọi người về sum họp mái ấm tình thương. Con cháu sum vầy bên cha mẹ và anh chị em hòa hợp bên nhau. Anh chị em công nhân đi chuyến xe cuối năm chấp nhận bị nhồi nhét miễn là về đến nhà.

“Ngày đầu xuân bao người đi xa, cũng về với gia đình”. Về với mẹ cha nguồn cội gia đình hay về nhà tự thắp nén hương bày tỏ tấm lòng thành của con cháu với ông bà tổ tiên.

Tết là lễ hội của gia đình. Nhà cha mẹ trở nên ấm cúng thân thương. Con cháu quy tụ về vui mừng nói cười rộn rã. Con cháu thắp nén hương trước bàn thờ tiên tổ với tâm tình thành kính tri ân rồi thì thầm với các ngài những điều nguyện ước. Quây quần quanh ông bà cha mẹ để chúc thọ tỏ lòng thảo kính và đón nhận lời giáo huấn đầu năm.Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Nhiều giáo xứ tổ chức Thánh lễ tại nghĩa trang để cầu nguyện cho những người thân yêu đã an nghĩ. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình. Đạo lý ngày Tết tuyệt đẹp: “Uống nước nhớ nguồn”, con cháu tỏ lòng biết ơn đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên.

Người Việt rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự.Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên.Tôn kính tổ tiên là cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân,ông bà cha mẹ. Lúc các ngài còn sống,con cháu phải kính mến phụng dưỡng,vâng lời chiều ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm.Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt giàu tình trọng nghĩa.

Mỗi người Việt đều có một đạo rất gần gũi. Đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu.

Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Việt Nam. Hiếu là gốc của Đức. Người ta có một trăm nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu.Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung,cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.

Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống,thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh,bằng thờ cúng giỗ chạp.Đó là nhiệm vụ thiêng liêng,là phẩm chất tối cao của con người.

Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt từ Nam chí Bắc, dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh nhưng với ý niệm “Cây có cội,nước có nguồn”, đều coi trọng gia lễ.

Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:

Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn.

Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu.

Người ta có gốc từ đâu.

Có cha có mẹ rồi sau có mình.

Biết ơn là sống tâm tình tri ân tình cha nghĩa mẹ. Cha mẹ đã hy sinh cả đời mưa nắng cho con. Cha mẹ đã sống vì hạnh phúc của con. Lòng hiếu thảo hơn mọi lễ vật mà con cái dâng cho các ngài.

Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn.Biết ơn trời đất,biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ.Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao,dục báo chi đức,hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng,vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn đức cha mẹ như trời biển: “Công cha như núi thái sơn,nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng, của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.

Gia đình Việt Nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng.Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông.Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một ….đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương,Đỗ Trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm.Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình.

Gia đình là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất.Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội.Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.

Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa.

Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của lòng hiếu thảo.

Sách Giảng Viên dạy: “Thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa,tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”.

Sách Huấn ca dạy: “Hỡi các con hãy nghe cha đây.Hãy xử sự sao để được độ sinh.Vì Chúa đặt vinh quang cha trên con cái,quyền lợi mẹ, Ngài củng cố nơi đàn con.

Kẻ tôn kính cha thì bù đắp lỗi lầm và trọng kính mẹ khác gì tích trữ kho tàng.Kẻ tôn kính cha sẽ hoan lạc nơi con cái, khi khẩn nguyện, sẽ được nhậm lời.Kẻ tôn vinh cha sẽ được trường thọ, người an ủi mẹ sẽ được công nơi Chúa.Kẻ kính sợ Chúa sẽ tôn kính cha,nó sẽ phục vụ các bậc sinh thành như chủ của mình.

Hãy thảo kính cha con bằng lời nói việc làm, ngõ hầu mọi phúc lành đổ xuống trên con, vì chúc lành của cha làm cho rễ chắc, còn chúc dữ của mẹ thì nhổ cả cây.

Con đừng vênh vang về việc cha con bị nhục,vì vẻ vang gì cho con, cái nhục của cha con!

Quả thế, người ta chỉ được vẻ vang lúc cha mình được tôn kính, và con cái phải ô nhục khi mẹ mình bị khinh bỉ.

Con ơi! Hãy săn sóc cha con lúc tuổi già. Sinh thời người, chớ làm người sầu tủi. Trí khôn người có suy giảm, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.Vì lòng hiếu thảo đối với cha sẽ không bị quên lãng, nó sẽ đền bù tội lỗi cho con.

Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan, như sương muối biến ta lúc đẹp trời.Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, Kẻ khinh rể mẹ, chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3,1-16).

Thiên Chúa muốn con cái phải hết lòng tôn kính và thảo hiếu, đặc biệt nhấn mạnh đến công ơn sinh thành của người mẹ: “Hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ họ, con đã sinh ra. Làm sao con báo đền được điều họ cho con?” (Hc 7,27-28).

Sách Tôbia cũng dạy rằng: “Hãy thảo kính mẹ con. Đừng bỏ người ngày nào trong suốt đời người. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi phiền lòng người cả. Hỡi con, con hãy nhớ là người đã phải trải qua bao nỗi gian lao hiểm nguy vì con khi con còn trong lòng dạ người” (Tob 4,3-4).

Thánh Phaolô khẳng định, hiếu thảo là việc làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Con cái hãy vâng phục cha mẹ trong mọi sự, vì là điều đẹp lòng Thiên Chúa” (Col 3,20).

Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Là Ngôi Hai Thiên Chúa và với thân phận con người, trong vai trò làm con, Ngài đã thực hành đạo hiếu qua đời sống vâng phục cha mẹ của mình. Thánh Kinh ghi lại rằng sau khi hoàn tất công việc của Thiên Chúa tại đền thờ Giêrusalem: “Ngài theo ông bà trở về Nazareth, và vâng phục các ngài” (Lc 2,51).

Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Ngài, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu.Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Ngài chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa,yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ.Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Ngài.Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc. Nếu một người con không thảo kính cha mẹ, người đó không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa. Bởi lẽ, người ấy đã không giữ luật Thiên Chúa. Giới luật Thứ Tư còn được gọi là giới răn hiếu thảo: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ.”. Mỗi Kitô hữu đều biết hiểu và thực hành giới răn này.

Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt Nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin Mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo. Tin Mừng là ánh sáng các dân tộc (LG), là ánh sáng trần gian (Ga 8,12). Tin Mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau.

Phụng vụ Giáo hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.

Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo; dạy yêu thương nhau “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”; dạy sống chan hoà, bình dị “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”.Tin Mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt Nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ.

Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc.Tin Mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.

Dưới ánh sáng đức tin, Đạo Hiếu không chỉ là một hành động luân lý, đạo đức xã hội mà còn là một giới luật được Thiên Chúa truyền dạy, một giới răn chỉ đứng sau ba giới răn dành riêng cho Thiên Chúa. Người Công Giáo thảo hiếu, kính trọng cha mẹ không chỉ theo ảnh hưởng của văn hóa, xã hội, tâm lý, mà còn đặt trên niềm tin tôn giáo. Thảo kính cha mẹ là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa.

Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.

Hôm nay nhân dịp đầu năm mới Mậu Tuất.

Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.

Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen( Lời nguyện nhập lễ, Mồng Hai Tết ).

 

29.Từ đạo Hiếu đến đạo Chúa--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày Tết Việt nam luôn có một ý nghĩa gia đình rất sâu đậm. Dù đi đâu xa người ta vẫn cố gắng về quê ăn Tết. Ngày xuân gia đình đoàn tụ, con cái chúc tuổi cha mẹ, học trò chúc tuổi thầy cô, kẻ dưới chúc tuổi người trên, bà con bạn bè thăm viếng nhau. Ngày Tết mọi người được liên kết trong niềm vui yêu thương chia sẻ. Ngày Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình.

Người Việt nam rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự, với cung cách ứng xử theo mỗi bậc người. Theo đó người Việt nam có nét đặc trưng trong cách thức chào hỏi, xưng hô giao tiếp mà những ngôn ngữ của các dân tộc khác dù văn minh cũng không có được. Linh mục F. Buzomi, dòng Tên, nhà truyền giáo đã đặt chân lên đất Việt nam khá sớm vào ngày 18. 1. 1615, có nhận xét chí lý: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục, nó đã giúp rất nhiều vào công việc truyền giáo” (Nguyễn Hồng “Lịch sử truyền giáo ở Việt nam”, Sài gòn 1959, tr. 55).

Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên. Tôn kính tổ tiên là một cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân, ông bà cha mẹ. Lúc ông bà cha mẹ còn sống, con cháu phải kính mến, phụng dưỡng các ngài thì lòng phải vui, vâng lời chiều ý các ngài, ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm. Khi tam giáo (Phật, Khổng, Lão) chưa du nhập Việt Nam thì người Việt đã biết kính thờ tổ tiên, trọng kính cha mẹ, thương yêu anh, chị, em và hầu như mọi gia đình đều lập bài vị ông bà, cha mẹ để thờ cúng. Những ngày giỗ kị thì thắp nhang, dâng hoa quả, cơm nước đặt trên bàn thờ để mong ông bà, cha mẹ (những người đã khuất) về hưởng. Nhà nghèo nhất cũng có chén cơm trắng với quả trứng luộc dâng lên với tất cả lòng thành. Tuy người đã khuất không hưởng được, nhưng lễ nghi ấy lại cần thiết để giáo hóa con cái để sau này chúng cũng nhớ đến ông bà, cha mẹ như vậy. Người Việt vốn hiền hoà, tình cảm, lại chung sống cộng đồng với nhau, suốt đời quanh quẩn bên luỹ tre làng; cho nên dù sống, dù chết, họ vẫn gần gũi bên nhau, ấm áp tình người. Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt Nam giàu tình trọng nghĩa.

Mỗi người Việt nam đều có một đạo rất gần gũi, đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu. Trong mỗi gia đình người Việt, dù sang hay hèn cũng dành một nơi trang trọng nhất để đặt bàn thờ gia tiên. Ông bà cha mẹ dù có khuất đi nhưng vẫn luôn hiện diện gần gũi với con cháu. Những ngày đầu tháng, ngày rằm, ngày tết, gia đình làm mâm cơm cúng ông bà. Tấm lòng của con cháu tỏ bày lòng hiếu kính biết ơn. Mỗi khi trong gia đình có việc gì quan trọng như dựng vợ gả chồng cho con cái, hoặc con cái thi cử đỗ đạt… cha mẹ đều dẫn con cái đến trước bàn thờ gia tiên để trình diện với các ngài, bày tỏ mọi việc để các ngài chứng giám. (x. Gia đình Việt nam, mảnh đất phì nhiêu cho hạt giống Tin mừng, Thời sự thần học số 32 tháng 06/03).

Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Á châu trong đó có Việt nam. Hiếu là gốc của đức. Người ta có 100 nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu. Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung, cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.

Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống, thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh, bằng thờ cúng tổ tiên. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là phẩm chất tối cao của con người.

Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt nam từ nam chí bắc dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh, nhưng với ý niệm “Cây có cội, nước có nguồn” đều coi trọng gia lễ.

Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:

Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn.

Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu.

Người ta có gốc từ đâu.

Có cha có mẹ rồi sau có mình.

Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn. Biết ơn trời đất, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ. Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao, dục báo chi đức, hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng, vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn đức cha mẹ như trời biển “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình Việt nam. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng, của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.

Gia đình Việt nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Người Việt quan niệm “một mẹ già bằng ba hàng dậu”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng. Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông. Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một…. đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương, Đỗ trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm. Ngày Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình. Con cháu quy tụ chúc Tết với cử chỉ thành kính chắp tay chào lạy, dâng quà lễ mừng thọ.

Gia đình Việt nam là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội. Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.

Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa. Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của nó. Sách Giảng Viên dạy: “thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa, tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”. Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Chúa Giêsu đã lên án bọn người lấy cớ để tiền của dâng cúng vào đền thờ mà trốn tránh bổn phận giúp đỡ cha mẹ. Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Người, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Người. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu. Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Người chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa, yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Người. Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc.

Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt nam có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo, Tin mừng là ánh sáng các dân tộc (LG), là ánh sáng trần gian (Ga 8, 12). Tin mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau. Phụng vụ Giáo hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.

Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo;dạy yêu thương nhau “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”;dạy sống chan hoà, bình dị “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”. Tin mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ. (Quốc Văn, OP).

Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã đề cao vai trò gia đình, lòng thảo hiếu của con cái “chủng viện thứ nhất, đệ tử viện thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình công giáo. Không vị giám đốc tài ba, chuyên môn đến đâu có thể thay thế cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội thánh và xã hội nhân loại cũng rung rinh sụp đổ. Đức Gioan XXIII biên thư cho cha mẹ ngày ngài được ngũ tuần: “Thưa thầy mẹ, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi con được ngồi trên chân thầy mẹ” (ĐHV 505).

Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc. Tin mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.

 

30.Kính nhớ tổ tiên--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày Mồng Một tết chúng ta dâng lên Thiên Chúa tâm tình tạ ơn và những ước nguyện cho ngày đầu năm mới, hôm nay ngày Mồng hai, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn và thảo kình đối với ông bà tổ tiên những người còn sống cũng như đã qua đời. Tuy nhiên với thời buổi người ta đặt lợi nhuận kinh tế lên hàng đầu, thì hình như bổn phận thảo hiếu đối với tổ tiên nơi nhiều người, nhiều gia đình cũng đang bị tính toán thiệt hơn. Nhiều câu chuyện xảy ra trong năm qua đã kiến cho cộng đồng bức xúc, vì có những đứa con giàu có nhưng đùn đẩy không ai muốn đón bố về chăm sóc, nên họ đã để bố của mình năm ở vỉa hè trong lúc sắp chết, có người con thì kiện mẹ ra tòa để đòi mấy trăm triệu tiền công chăm sóc trong mấy năm trời. Đọc và nghe những mẩu tin như thế thật đau lòng khi thấy tình nghĩa đạo lý trong gia đình đã xuống cấp trầm trọng.

Những ngày cuối năm gặp nhau câu hỏi đầu tiên có lẽ là câu: Năm nay có về quê ăn tết không? Ai đã từng phải đón cái tết xa quê thì mới thấm thía thế nào là nỗi nhớ nhà trong những ngày này. Nỗi nhớ nhà của ngày tết nó thôi thúc mọi người bằng mọi giá phải trở về với cha mẹ với tổ tiên để thắp một nén nhang trước bàn thờ tổ tiên, để được ngả đầu vào bờ vai cha mẹ, để ăn một bữa cơm đầu năm, dù là bữa cơm thật đạm bạc, nhưng trong bữa cơm ấy nó chứa đựng bao nỗi vất vả của cha, bao sự chờ đợi lo lắng của mẹ, bao tình yêu thương để chia sẻ. Sau một năm bận rộn vất vả chỉ có những ngày này trở về với gia đình, người ta mới cảm thấy thư thái bình an, vì không có nơi nào an toàn cho bằng trái tim của người mẹ, và không nơi nào vững chắc cho bằng bờ vai của cha. Vì thế những người không còn cha không còn mẹ sẽ thấm thía đến tận cùng sự trống vắng thiếu thốn trong ngày tết này, sẽ cảm nhận sự đau đớn sự buồn bã, lạc lõng khi mình đi không ai nhớ, về không ai mong.

Nhớ ơn cha mẹ, ông bà trong dịp đầu năm là giúp chúng ta trở về cội nguồn, với dòng tộc, giúp mỗi người sống đúng với con người của mình và sống trọn bổn phận với cha mẹ tổ tiên. Biết ơn mẹ cha là nhớ đến công sinh thành dưỡng dục. Các ngài đã trải qua bao gian lao vất vả, mang nặng đẻ đau, bao tháng ngày bú mớm chăm sóc, kể làm sao hết những gọt mồ hôi của cha, những sư lo lắng của mẹ khi chúng ta đau ốm, bao nhiêu hy sinh vất vả nắng mưa sớm hôm để cho ta được bằng người. Kể làm sao hết sự hy sinh thầm lặng nhịn ăn nhịn mặc để cho con không thua kém bạn bè, để cho con được đến trường thì mỗi ngày cha mẹ lại phài vất vả nhiều hơn.

Việc thảo hiếu với tổ tiên ông bà không chỉ là bổn phận của đạo hiếu, đạo làm người, của lòng biết ơn, mà nó còn là giới răn và đòi buộc của đạo Chúa. Tuy nhiên người ta sẽ không thể chu toàn được đạo Chúa nếu không chu toàn đạo làm con và đạo làm người. Sách Huấn Ca dạy chúng ta sống sao để làm rạng danh cha mẹ tổ tiên, và đừng bao giờ quên công đức của các ngài, và vì các ngài chính là gia tài quý giá nhất mà người ta không thể tìm kiếm hoặc mua ở đâu được, và chính chúng ta đang được hưởng phúc đức và dòng máu các ngài để lại cho chúng ta.

Ngày xưa các thày tiến sĩ Do Thái đã đưa ra một thứ luật, mà sau này Chúa Giêsu đã cực lực phản đối sự trốn tránh trách nhiệm của luật ấy. Luật dạy rằng: Ai nguyền rủa và đối xử tệ bạc với cha mẹ thì bị xử tử. Còn các ông lại nói: Ai nói với cha mẹ rằng: của phụng dưỡng cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Các ông dựa vào truyền thống của các ông để chối bỏ luật Thiên Chúa và Thiên Chúa không chấp nhận một của lễ được dâng lên do sư bất hiếu, trốn tránh trách nhiệm như thế. Sách Khôn Ngoan còn nhấn mạnh: Của dâng cho cha sẽ không bị quên lãng, của biếu cho mẹ sẽ đền bù được tội lỗi. Như thế, có thể nói việc thảo hiếu với cha mẹ được Thiên Chúa đón nhận như việc thảo hiếu đối với Ngài vậy.

Thánh Phaolô còn khuyên rằng: Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tình thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo, và ai tôn kính thảo hiếu cha mẹ thì được trường thọ trên mặt đất. Thế nhưng ngày nay đang diễn ra bao cảnh trái ngang: Con cái hất hủi coi thường, chửi mắng đánh đập cha mẹ là đấng sinh ra mình, đùn đẩy trách nhiệm báo dưỡng vì sợ phiền phức tốn kém, sợ bẩn nhà, nhiều người đối xử với cha mẹ như đầy tớ. Dịp tết này, hãy điều chỉnh lại cách sống thảo hiếu của mình với cha mẹ để còn làm gương cho con cái, vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy, chúng ta bắc cầu tới đâu, con cái sẽ đi tới đó. Hôm nay chúng ta đối xử với cha mẹ thế nào, thì ngày mai con cái chúng ta cũng sẽ đối xử với chúng ta y như vậy.

Trong Năm Gia đình Sống và Loan Báo Tin Mừng, trong sư mới mẻ của đất trời mùa xuân, Giáo Hội mời gọi chúng ta làm mới lại tương quan trong gia đình. Sự đổi mới phải bắt đầu từ mỗi thành viên của gia đình, nhưng trước hết vẫn là cha me. Người cha người mẹ hãy nỗ lực vươn lên, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho con cái, mọi thành viên trong gia đình cố gắng canh tân, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho cả gia đình.

Hãy bắt đầu từ nơi người cha, người chồng: các ông hãy là mùa xuân cho gia đình bằng một đời sống đạo hạnh, hãy vì vợ, vì tương lai gia đình mà đem niềm vui về cho gia đình, hãy dẹp bỏ những đám mây u ám trong gia đình là những cuộc nhậu nhẹt rượu chè, bài bạc, chửi bới đánh đập vợ con…, đừng biến gia đình thành địa ngục cho nhau. Đừng để con cái sơ hãi, mặc cảm với bạn bè về cha của mình, vì con cái không chỉ cần tình thương, mà nó còn cần danh dự phẩm giá của cha mẹ để có thể tự hào hãnh diện với bạn bè. Cuộc sống đạo đức thành thật của người cha sẽ là tia nắng ấm mùa xuân cho gia đình, hãy trở nên người chồng người cha có trách nhiệm với gia đình, nuôi sống gia đình bằng mồ hôi lương thiện, bằng nỗ lực của chính mình. Hãy là một người cha cương nghị. trở nên hàng rào bảo vệ gìn giữ con cái trên con đường lương thiện và là trụ cột vững chắc cho gia đình những khi sóng gió. Hãy biết chia sẻ trách nhiệm với vợ mình và hết lòng chăm lo cho cha mẹ khi các ngài luống tuổi.

Phúc đức tại mẫu, các bà vợ, người mẹ hãy có một cuộc sống đạo hạnh dịu hiền bao dung, hãy trở thành cành mai cành đào tô điểm cho gia đình thêm tươi thắm bằng sự dịu dàng khả ái, bằng đời sống nết na đạo đức. Người mẹ là người có trái tim nhạy bén, hãy thông cảm và chia sẻ những lo toan với chồng và hãy bao dung tận tụy với con cái. Người mẹ hãy trở nên mùa xuân cho gia đình bằng sự cần mẫn, hãy làm cho gia đình trở nên ấm cúng sạch sẽ ngăn nắp gọn gàng, làm cho những bữa cơm thêm thân mật, cho gia đình đầy ắp tiếng cười. Hãy dùng trái tim nhạy cảm của một người vợ, người mẹ để làm cho gia đình thực sự trở thành một tổ ấm, là nơi cư ngụ tốt nhất cho chồng con sau những ngày mệt mỏi với công việc, thông cảm với chồng, chia sẻ với những khó khăn của con cái bằng sự nhẫn nại dịu hiền.

Còn những người làm con hãy trở thành mùa xuân cho gia đình, cho cha mẹ, khi biết tôn kính mến yêu vâng lời các ngài, đừng để cha mẹ phải đau khổ hơn nữa vì sư lêu lổng ngỗ nghịch của mình, đừng để cho tệ nạn ăn chơi, nghiện hút cá độ làm tan nát gia đình. Hãy làm vơi đi sư nhọc nhằn của cha mẹ, đem lại sư hãnh diện cho cha mẹ, bằng việc chăm chỉ rèn luyện học hành, bằng tư cách đạo đức tốt. Hãy trở nên một thanh thiếu niên Công giáo tốt nơi gia đình nơi công ty xí nghiệp trường học, hãy thảo hiếu và biết ơn cha mẹ và làm cho tình anh em trong gia đình thêm mặn mà hạnh phúc vui tươi hơn. Nếu cha mẹ già yếu, hãy kiên nhẫn yêu thương kính trọng và chăm sóc cho các ngài, vì chúng ta sẽ không thể tìm được cha mẹ nữa một khi các ngài đã không còn.

Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình noi gương gia đình Thánh Gia xây dựng gia đình êm ấm thuận hòa con cái thảo hiếu, chúc cho mọi người biết chu toàn bổn phận của mình như lời Chúa dạy hôm nay, và hãy dành cho nhau tình yêu thương, hãy yêu thương nhau hết lòng và hãy làm tất cả những gì tốt đẹp cho nhau, để khi cha mẹ hay người thân có mất đi, chúng ta không phải hối tiếc vì chưa làm gì cho họ. Amen.

 

31.Cần có một tấm lòng--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong tác phẩm “Để gió cuốn đi” nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đặt một câu hỏi: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em có biết không?” Nhạc sĩ đã trả lời: “Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi”. Có người thắc mắc tại sao lại cần có một tấm lòng để gió cuốn đi như vậy? Có lẽ, nhạc sĩ họ Trịnh này muốn dùng hình ảnh “gió cuốn đi” không phải là một cơn bão xóa sổ một ngôi làng, nhưng đây là một cơn gió mát giữa trưa hè oi bức, một ngọn gió thu lúc buổi sớm, mang theo hương cau, mùi lúa mới, làm nhẹ lòng người, khiến lòng con người cảm thấy thanh thản và yêu cuộc sống hơn. Như thế, theo Trịnh Công Sơn, tấm lòng chân thành là điều cần thiết giúp lòng người có thể gặp nhau và làm vui lòng nhau.

Thiên Chúa khi dựng nên con người, Ngài ban cho con người có một dáng vẻ bên ngoài và một thế giới bên trong được gọi bằng ngôn ngữ bình dân đó là lòng người. Thế nhưng, không phải lúc nào dáng vẻ bên ngoài của một người cũng đồng nhất với cái lòng bên trong. Có nhiều lúc, bên ngoài có vẻ thành thật nhưng cái lòng lại gian dối, bên ngoài có vẻ tươi cười vui vẻ, nhưng lòng lại đau thắt. Ngược lại, có những lúc trong lòng rất yêu rất thương, nhưng bên ngoài lại tỏ ra giận dỗi. Thông thường, người ta thường lấy cái vẻ bên ngoài, để che đây cái lòng bên trong. Nhưng khi có một tấm lòng thành, lòng thật, thì sự thành thật sẽ thể hiện ra bên ngoài qua ánh mắt, cử chỉ lời nói. Khi có một người tấm lòng thành, người khác sẽ dễ dàng cảm nhận được điều đó qua các cử chỉ bên ngoài.

Thiên Chúa là Đấng thấu suốt cả bên ngoài lẫn trong lòng của mỗi người. Ngài thấu tỏ từ ý nghĩ, lời nói và tấm lòng của con người, cho dù con người chưa tỏ lộ ra bên ngoài. Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta đến với Chúa và sống với Chúa, bằng một tấm lòng thành thật chứ không chỉ là những hình thức bên ngoài. Chúa muốn chúng ta làm việc tốt với một tấm lòng tốt, không tính toán, không gian dối, Chúa cũng muốn chúng ta đối xử với nhau bằng tấm lòng chân thành, không hình thức, không chiến thuật. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho thấy, những người Biệt Phái đã sống và thực hành đạo chỉ có hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng bên trong, họ đến với Chúa bằng áo quần lượt thượt và nghi lễ dài dòng, nhưng lại không có tấm lòng. Những người Biệt Phái trách Chúa Giêsu và các môn đệ không rửa tay trước khi ăn theo tập tục của tiền nhân. Việc rửa tay của người Do Thái không phải là việc giữ vệ sinh như ngày nay, nhưng là một nghi lễ thanh tẩy. Tuy nhiên, do trở thành thói quen, người Do Thái không còn biết mình rửa tay trước khi ăn để làm gì. Chúa Giêsu đã trách họ, vì họ chỉ còn hình thức mà không có nội dung, giữ các tập tục, hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng. Chúa muốn đưa họ trở về với ý nghĩa đích thực của tập tục này, đó là việc thanh tẩy bên ngoài, rửa tay rửa bình, nhắc cho mỗi người phải không ngừng tẩy rửa lòng mình khỏi mọi thói quen xấu từ bên ngoài và thanh tẩy những vết nhơ tính xấu và tội lỗi từ bên trong. Chúa Giêsu đã trích lời tiên tri Isaia cảnh cáo lối sống giả dối của họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta”. Hơn nữa, Chúa còn cảnh cáo lối sống hai lòng hai dạ của họ: Thay vì những Biệt Phái và Luật Sĩ phải có bổn phận dạy cho dân chúng Lời và Ý của Chúa thì họ lại không làm như vậy. Họ đã khéo đánh tráo vào công việc và lời nói của mình, thay vì nói Lời của Chúa, họ lại nói lời của họ; thay vì làm việc làm của Chúa, họ lại làm việc theo ý riêng cá nhân và dạy người khác làm. Họ đã đánh tráo cả vị trí của Thiên Chúa để thay thế mình vào chỗ của Thiên Chúa.

Điểm thứ hai Chúa trách các Biệt Phái về lòng gian của họ. Họ đã bẻ quẹo Lời Chúa để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Luật Chúa đòi mọi người phải thờ cha kính mẹ, hết lòng thảo hiếu phụng dưỡng các Ngài nhất là khi tuổi già sức yếu. Tuy nhiên, các Luật Sĩ lại mượn Thiên Chúa để bẻ quẹo luật Chúa, khi họ dạy người khác rằng: Ai tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì không phải nuôi dưỡng phụng kính cha mẹ nữa. Như thế, có nhiều kẻ không muốn phụng dưỡng cha mẹ, kẻ ấy chỉ cần tuyên bố sẽ dâng hết tài sản cho Chúa. Chắc chắn Chúa không chấp nhận của lễ dâng cho Ngài từ một kẻ bất hiếu như thế. Chúa cũng không muốn một cái lòng gian dối, quanh co, luồn lách trách nhiệm như vậy. Chúa mong muốn, trước hết mỗi người phải có một tấm lòng thành đối với cha mẹ và lòng trung đối với Thiên Chúa, không thể bỏ qua bên nào, cũng không thể chỉ chọn một trong hai. Đồng thời, Chúa cũng không chấp nhận con người tìm cách thay thế luật Chúa bằng những tập tục gian dối của mình, hoặc chỉ chú trọng đến tập tục truyền thống mà làm lu mờ luật Chúa. (Dựa theo ý bài chia sẻ của Đức Cha Giuse ngày thường huấn 06/2/2018)

Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận thảo hiếu với ông bà tổ tiên. Việc nhớ đến ông bà tổ tiên cũng phải đặt trên một tấm lòng thành. Lời Chúa hôm nay soi rọi cho Chữ Hiếu của người Việt Nam, việc hiếu thảo phải được thể hiện một cách đặc biệt qua các dịp lễ tết, bằng việc trân trọng gìn giữ nét đẹp truyền thống của gia đình. Kế đến, là việc thảo kính vâng lời và làm vui lòng các bậc sinh thành và tiền nhân.

Bài đọc một khuyên chúng ta: “Hãy ca tụng công đức của các bậc tiền nhân vì bao công lao khó nhọc và phúc ấm các ngài để lại cho con cháu”. Hãy gìn giữ và làm phát huy những giá trị tốt đẹp, là tài sản quý giá mà cha ông để lại. Gần đây, có một vài tiến sĩ đề nghị bỏ cái tết cổ truyền, với lý do là nghỉ tết nhiều, sẽ ảnh hưởng đến kinh tế. Nói như thế chứng tỏ, những nhà tiến sĩ này đã quên các giá trị đạo đức gia đình, truyền thống và văn hóa dân tộc, để chỉ nghĩ đến tiền (kinh tế). Ngày tết không đơn thuần là ngày nghỉ, vì ngày tết còn là ngày mỗi người có thể đụng chạm đến hồn dân tộc và cảm nhận được văn hóa lâu đời của một dân tộc, là dịp để mọi người sống, cảm nhận và vun đắp cho truyền thống gia đình. Vì vậy, không có ngày nào trong năm mà mỗi người cảm thấy thiêng liêng, quan trọng như đêm ba mươi và sáng mồng một tết. Cũng vì sự thiêng liêng quan trọng này, mà cha mẹ ở nhà mong con cháu về xum họp, mọi người đi xa đều mong về đến nhà, để xum họp với ông bà, mẹ cha và nhất là để thắp cho ông bà, tổ tiên một nén hương, thể hiện tấm lòng thảo hiếu biết ơn. Như thế, có bài học biết ơn nào hay hơn bài học thực tế này trong ngày tết; có tình cảm nào thiêng liêng, ấm cúng cho bằng tình cảm của gia đình xum họp trong ngày đầu năm. Chính trong dịp xum họp đầu năm này, mà các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình được lưu truyền cho con cháu. Cha mẹ, ông bà hạnh phúc vì con cháu thành đạt, xum họp đông đủ, con cháu tự hào, trân trọng, duy trì và làm phát huy truyền thống gia đình. Tuy nhiên, lòng thảo hiếu biết ơn, tình cảm gia đình, cuộc xum họp ngày xuân chỉ thực sự trở nên có ý nghĩa, khi mỗi người trở về với mẹ cha và gia đình bằng một tấm lòng thành. Thiếu tấm lòng thành, sự thảo hiếu chỉ còn là hình thức, thiếu tấm lòng, ngày xum họp gia đình, anh em chỉ còn là một màn kịch, bằng mặt mà không bằng lòng. Có nhiều gia đình ngày tết cha mẹ anh em gặp nhau mà không mừng, gần nhau mà không quý, còn có sự hiện diện của cha mẹ, anh em mà không biết trân trọng.

Thư Ephêsô dạy chúng ta duy trì bầu khí ấm cúng, truyền thống của gia đình mọi ngày trong đời sống bằng cách: “Hãy vâng lời và thảo hiếu cha mẹ, để ngươi cũng được trường thọ trêm mặt đất này”. Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho, thảo hiếu cha mẹ trước hết bằng sự tôn kính và vâng lời các ngài, vì các Ngài thay mặt Chúa, cộng tác với Chúa để sinh thành, nuôi dưỡng dạy dỗ và yêu thương chúng ta. Vì vậy, đạo làm con là phải biết vâng nghe lời dạy của mẹ cha, vì các ngài luôn muốn điều tốt và làm điều tốt cho ta. Ta yêu mến kính trọng các ngài, đừng hắt hủi khinh dể khi các ngài tuổi cao sức yếu, vì các ngài đã một đời hi sinh vất vả cho ta ngày hôm nay và vì các ngài hết mực yêu thương không tiếc gì với ta. Nay cha mẹ tuổi cao, ta có bổn phận phải làm cho tuổi già của các ngài được an vui hạnh phúc. Đừng khi nào tỏ ra bội nghĩa vong ân, hỗn láo hay cử xử tệ bạc với cha mẹ vì đó là điều đáng bị nguyền rủa và bị Thiên Chúa kết án.

Lời Chúa ngày tết hôm nay nhắc cho những người đang lơ là với cha mẹ và gia đình, cần biết điều chỉnh lại lòng mình. Gạt bỏ những gì là ấm ức tức tối, bất hòa bất đồng, những gì là bằng mặt mà không bằng lòng, để vun đắp lại tình nghĩa gia đình và tình cảm mẹ cha anh em. Vì, các thứ khác trên đời này có thể mua bằng tiền, nhưng cha mẹ, anh em và hạnh phúc gia đình không thể mua bằng tiền, mà phải đổi bằng hy sinh có khi là của cải, kể cả công danh sự nghiệp mới có được thứ hạnh phúc ấy - hạnh phúc gia đình. Amen.

 

32.Kính nhớ tổ tiên--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Một vài năm gần đây, vào dịp cuối năm, trên mạng có nhiều đoạn clip để nhắc cho mọi người trở về xum họp gia đình trong dịp tết. Có những đoạn film rất xúc động với hình ảnh cha mẹ già, ngày ngày đợi con đi làm ăn xa trở về đoàn tụ. Cũng có nhiều lời kêu gọi: Cha mẹ ngày càng già, hãy trở về xum họp với mẹ cha trong ngày tết. Ngày tết là ngày của gia đình, ngày xum họp không chỉ với mẹ cha, anh em để bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn, nhưng người Việt Nam còn tin rằng: Ngày tết cả ông bà tổ tiên, những người đã khuất cũng trở về gia đình xum họp với con cháu. Ngày nay, xã hội có xu hướng tổ chức những tụ điểm vui chơi vào đêm giao thừa và mồng một, để kéo mọi người ra đường đón tết. Việc làm này có lẽ đi ngược lại với truyền thống Việt Nam, đêm ba mươi và mồng một, mọi người luôn gắn liền với gia đình. Không biết có phải vì sự thay đổi này dẫn đến sự lỏng lẻo trong tương quan các gia đình? Bên cạnh đó, có những người đã trốn tết bằng cách đi du lịch vào đúng ngày ba mươi mồng một, với lý do cả năm bận rộn, tranh thủ những ngày tết để đi nghỉ ngơi.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa có đăng một đoạn nhận xét rằng: Ngày tết bỏ nhà đi du lịch không ở với mẹ cha là bất hiếu. Đoạn nhận xét này đã có phản ứng mạnh từ nhiều thành phần. Có người ủng hộ, có người phản đối. Người phản đối cho rằng, nhu cầu nghỉ ngơi là cần thiết, đưa cả gia đình đi chơi cũng là điều hay… Dù đồng tình với nhận xet trên hay không đồng tình, người ta cũng thấy rằng, mối tương quan gia đình ngày nay đang bị rạn nứt, tình cảm gia đình bị lỏng lẻo, các giá trì văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình đang bị mai một.

Giáo Hội công Giáo Việt Nam đã đón nhận những tập tục và những giá trị văn hóa tốt đẹp của truyền thống để đưa vào phụng vụ ngày tết. Giáo hội dạy giúp chúng ta duy trì và phát triển những giá trị tốt đẹp về gia đình trong truyền thống văn hóa cho phù hợp với Tin Mừng. Ngày Mồng một tết, chúng ta hướng về Thiên Chúa là cội nguồn của vũ trụ và sự sống, để tạ ơn tôn vinh Chúa, cũng như xin ơn bình an cho năm mới. Hôm nay mồng hai tết, Giáo hội hướng chúng ta về cội nguôn của gia đình để kính nhớ tổ tiên ông bà và các đấng sinh thành dưỡng dục, đồng thời làm sáng tỏ và vun đắp cho các giá trị tốt đẹp của đời sống mỗi gia đình.

Bài đọc sách Huấn Ca mời gọi chúng ta giữ gìn nề nếp truyền thống tốt đẹp của gia đình qua lời văn rất hay: Chúng ta hãy ca tụng các vị danh nhân cũng là cha ông chúng ta qua các thế hệ, công đức các ngài không chìm vào quên lãng, dòng dõi các ngài là lũ cháu đàn con. Đọc những lời dạy của Kinh Thánh trong bầu khí ngày tết, mời gọi chúng ta luôn sống tâm tình biết ơn đối với ông bà cha mẹ. Các ngài là những người đã dày công sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người hôm nay. Kể sao hết được sự vất vả của người cha dầm mưa dãi nắng, lo cơm, kiếm gạo về cho gia đình, nuôi cho con khôn lớn; nói sao cho vừa với sự hy sinh đêm ngày để lo cho con học hành bằng anh bằng chị. Diễn tả sao hết sự vất vả tần tảo của người mẹ, thân cò lăn lội, mang nặng đẻ đau, lo cho con từng li từng tí, từng ngày từng giờ. Cho dù con còn nhỏ hay khôn lớn, thì trong mắt mẹ cha, nó vẫn luôn là đứa bé cần được yêu thương chăm sóc. Cho dù vất vả truân chuyên trăm bề, mẹ cha không bao giờ kể lể, tính toán với con cái, các ngài luôn dành cho con lòng bao dung độ lượng. Cho dù con cái ngỗ nghịch phá phách, làm đau lòng mẹ cha, bất hiếu bất kính với cha mẹ, cha mẹ vẫn sãn lòng để yêu thương tha thứ và ôm con vào lòng. Vì tất cả những công lao hy sinh vất vả ấy, phận làm con không bao giờ được phép quên và cũng không bao giờ được vô ơn bạc hiếu với các ngài.

Cha mẹ không mong đợi gì nhiều nơi con cái, các ngài chỉ mong muốn được nhìn thấy con cháu lớn khôn, thành nhân, thành đạt. Niềm vui của cha mẹ ông bà là được nhìn thấy con cái cháu chắt xum vầy, thấy con cháu yêu thương nâng đỡ lẫn nhau. Không gì đau khổ bất hạnh cho bậc cha mẹ, khi thấy các con kèn cựa, cãi vã, giận hờn lẫn nhau. Ngày tết là ngày của xum họp gia đình, các bậc ông bà tuổi cao sức yếu không mong đồng quà tấm bánh, nhưng chỉ mong được gặp con cháu xum họp và lấy niềm vui tiếng cười của con cháu, làm niềm vui và hạnh phúc cho tuổi gìa của mình. Chính vì thế, ngày tết đừng để cha mẹ mòn mỏi đợi chờ, cũng đừng gây đau khổ cho cha mẹ bằng những chuyện anh em bất hòa, nhưng hãy lấy tình yêu thương tha thứ để cư xử với nhau, đó là cách đem đế hạnh phúc an vui cho ông bà cha mẹ.

Thánh Phaolô trong thư Ephesô khuyên dạy: ‘‘Các kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất. Cha mẹ chính là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và sinh thành, đưa chúng ta vào đời. Con cái là hoa trái tình yêu của cha mẹ. Mỗi chúng ta được cưu mang trong tình yêu, nuôi dưỡng không chỉ bằng sữa hoặc cơm bánh, nhưng được lớn lên trong tình yêu. Vì thế, việc tôn kính vâng lời trong yêu mến, chính là thái độ đền đáp tình yêu thương cha mẹ đã dành cho chúng ta. Khi tôn kính vâng lời cha mẹ, là chúng ta tôn kính vâng lời Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã cậy nhờ cha mẹ để sinh thành và dưỡng dục chúng ta. Trái lại bất kính và không vâng lời, không chỉ là bất hiếu, làm tổn thương đến tình yêu của cha mẹ, mà còn là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.

Ngày nay, con cái dường như được học hành nhiều hơn thế hệ cha mẹ ngày xưa, hiểu biết nhiều về khoa học và công nghệ nhiều hơn các ngài, nhưng lại cư xử rất tệ với cha mẹ, khinh chê, bất kính bất hiếu với cha mẹ. Các ngôi nhà của các gia đình, sang trọng, đẹp đẽ, có đầy đủ tiện nghi, nhưng dường như không có chỗ cho cha mẹ. Họ sợ cha mẹ già bôi bẩn ra nhà, sợ hôi nhà, không cho ông bà gần con cháu, vì sợ bẩn, sợ hôi, họ hắt hủi khinh dể cha mẹ già, chỉ mong ông bà ra khỏi nhà.

Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay cảnh báo về thái độ bất hiếu bất kính nhân danh bất cứ lý do gì, kể cả nhân danh việc đạo đức. Những người Do Thái ngày xưa đã nhân danh Thiên Chúa để từ chối bổn phận nuôi dưỡng chăm sóc cho cha mẹ. Họ tự đặt ra một truyền thống cho rằng: Những người tuyên bố dâng cúng của cải cho Thiên Chúa, thì không phải phụng dưỡng cha mẹ nữa. Chúa Giêsu đã phản đối và chỉ trích truyền thống vô đạo đức này và lặp lại giáo huấn của Thiên Chúa: Ngươi phải thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử. Khi nhấn mạnh bổn phận thờ cha kính mẹ, có thể nói Chúa Giêsu nâng bổn phận của con cái thảo hiếu với ông bà cha mẹ, trở thành một đạo, đó là đạo hiếu, đạo làm người. Ai không chu toàn được bổn phận đạo hiếu, đạo làm người, thì cũng không thể chu toàn đạo với Thiên Chúa. Cũng vậy, chỉ những ai chu toàn đạo hiếu với cha mẹ trần gian thì mới có thể biết và chu toàn bổn phận thảo hiếu với Thiên Chúa là Cha trên trời.

Thưa quý OBACE, tôn kính thảo hiếu, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ là điều giáo hội dạy, là đạo lý của người Việt chúng ta. Tuy nhiên, trong cuộc sống xã hội, chúng ta vẫn còn thấy nhiều cảnh trái tai gai mắt, khi con cháu đối xử tệ bạc với ông bà, bất hiếu bất kính và hành hung đánh đập ông bà cha mẹ, là những Đấng bậc sinh thanh dưỡng dục mình. Chúng ta vẫn thấy những gia đình đông con, nhưng con cháu đùn đẩy bổn phận phụng dưỡng cha mẹ già, họ tính toán thiệt hơn với ông bà cha mẹ từng đồng. Ngày xưa cha mẹ đã hết sức kiên nhẫn để yêu thương dậy dỗ chúng ta nên người, không hề tính toán thiệt hơn, nhưng đến nay dường như con cái lại không kiên nhẫn yêu thương khi cha mẹ tuổi cao sức yếu, khi trí khôn trí nhớ các ngài giảm sút.

Cử hành ngày Tết kính nhớ tổ tiên hôm nay, nhắc mỗi chúng ta biết ơn ông bà cha mẹ của mình và cũng xét lại bổn phận và lòng thảo hiếu của mỗi chúng ta đối với các ngài. Nếu chưa chu toàn vuông tròn, thì hãy tận dụng thời gian này, để đền đáp công ơn cha mẹ, vì các ngài không còn ở với chúng ta lâu nữa. Đồng thời mỗi người cũng cần vun đắp cho gia đình mình bằng tình yêu, sự quảng đại và tha thứ, để gia đình thực sự đầm ấm yên vui không chỉ trong những ngày tết mà là suốt đời.

Cầu chúc cho mọi gia đình được được an vui thuận hòa, con cháu ngoan hiền, gia đình êm ấm và là dấu chỉ lòng thương xót Chúa cho xã hội hôm nay Amen.

 

33.Biết ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE, tết là ngày xum họp gia đình, là dịp mọi người dù đi làm ăn nơi phương xa thì cũng thu xếp để kịp về nhà vào những ngày này để quây quần bên nhau. Có dịp đi dọc quốc lộ trong những ngày vừa qua có thể thấy được sự khao khát trong ánh mắt của anh chị em công nhân chờ đón những chuyến xe cuối năm đề trở về nhà. Chính vì khao khát bằng mọi giá phải có mặt ở nhà dịp tết mà nhiều khi họ chấp nhận bị nhồi nhét trên những chiếc xe chật chội, cũ kỹ. Trở về nhà trong dịp đầu năm là về với gia đình, về với mẹ cha, dù nhiều người cha mẹ, ông bà đã không còn, nhưng họ vẫn muốn trở về ngôi nhà tổ, nơi ông bà cha mẹ đã từng sinh sống để thắp lên một nén nhang, để bày tỏ tấm lòng thành của con cháu biết ơn mẹ cha.

Giáo Hội đã dành ngày mồng hai tết để dạy chúng ta biết ơn các bậc sinh thành, dưỡng dục; nhắc chúng ta nhớ đến các bậc tổ tiên, những người đã khuất và bày tỏ lòng hiếu kính đối với ông bà cha mẹ là những người còn đang sống. Đã từ lâu, do cách sống và giải thích sai của người có đạo, khiến nhiều người ngoại đạo nghĩ rằng: người Công giáo là những người bất hiếu, không thờ cúng ông bà tổ tiên. Chúng ta nghĩ gì khi người ngoại trách chúng ta như thế? Và, chúng ta cần phải sửa lại cách sống thế nào để giải thích cho mọi người về giáo lý của đạo chúng ta?

Người Công giáo có được “thờ cúng ông bà tổ tiên” hay không? Tức là, cúng giỗ ông bà có được phép hay không? Thưa - thờ cúng ông bà là bổn phận thảo hiếu buộc tất cả mọi người có đạo cũng như không có đạo phải chu toàn. Việc thờ cúng ông bà hoàn toàn khác với việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ cúng công bà là đòi buộc của đạo làm con, đạo làm người. Vì đạo làm người, đạo hiếu, đạo làm con là đạo đức căn bản trong đời sống nhân bản của con người. Ai không chu toàn bổn phận đạo hiếu, đạo làm người, thì không thể chu toàn đạo nào khác được. Vì thế, việc thờ cúng ông bà, việc tổ chức cúng giỗ tổ tiên là việc bổn phận phải làm của mọi người, còn cách thức làm như thế nào thì tùy thuộc vào tập tục văn hóa của mỗi vùng, mỗi gia đình.

Đối với người Công Giáo, việc thờ cúng tổ tiên và chu toàn đạo hiếu, đạo làm con còn là đòi buộc của giới răn thứ bốn: Thảo kính cha mẹ. Trong mười giới răn của đạo Chúa, ba giới răn đầu là những đòi buộc về những bổn phận đối với Thiên Chúa, còn bảy giới răn sau là những đòi buộc trong tương quan đời sống con người thì giới răn thứ bốn đứng đầu trong bảy giới răn này. Điều đó cho thấy bổn phận thảo kính cha mẹ là bổn phận đầu tiên của con người. Cũng như các giới răn khác, khi xúc phạm đến giới răn thứ bốn này, thì cũng là một trọng tội trước mặt Thiên Chúa và là sự xúc phạm trực tiếp đến chính Thiên Chúa.

Chính vì thế, ngày mồng hai tết hôm nay, các bài đọc nhắc cho chúng ta về những đạo lý và bổn phận căn bản của con người, đó là thảo hiếu, biết ơn ông bà cha mẹ, những người còn sống và đã qua đời. Bài đọc một sách Huấn Ca nhắc nhở rằng: Chúng ta hãy ca tụng các bậc tiền nhân, có những người đã ra đi mà không được con cháu nhớ đến nữa, nhưng có những người vẫn còn lưu danh cho hậu thế vì công phúc của họ đã để lại. Người Việt nam nói rằng: Cha mẹ hiền lành để đức cho con, và nhiều người vẫn tin rằng, họ đang được hưởng phúc lộc của ông bà. Như thế, trong chúng ta ngồi đây, ai cũng được thừa hưởng phúc lộc từ nơi cha mẹ ông bà của mình, ai cũng đang mang trong mình một món nợ ân tình của mẹ cha.

Kể sao hết được những món nợ ân tình ấy. Trước hết, chúng ta đang mang trong mình dòng máu và sự sống của cha mẹ. Thiên Chúa đã cho cha mẹ chúng ta cộng tác với Ngài trong việc sinh ra chúng ta, trao tặng chúng ta sự sống. Vì món quà sự sống mà mỗi người đang có là từ Thiên Chúa được trao qua mẹ cha nên ơn sinh thành là ơn trời biển mà phận con cái không sao có thể đáp đền mẹ cha cho cân xứng. Kế đến là sự dưỡng dục và tình yêu thương cha mẹ dành cho con cái. Chính vì tình yêu thương, vì lo cho con cái có cơm ăn áo mặc mà cha mẹ phải lặn lội, vất vả sớm hôm. Kể sao hết những nỗi nhọc nhằn, những giọt mồ hôi vất vả người cha phải chịu. Đong sao hết những tháng ngày vất vả của mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và cả một đời yêu thương con. Những lúc con ốm con đau, những khi con đói vì khát sữa, những đêm con quấy vì mọc răng, biết lẫy, là những đêm mẹ cha mất ngủ. Để nuôi con khôn lớn nên người bằng anh bằng em, thì người mẹ đã phải tần tảo một nắng hai sương, thân cò lặn lội sớm hôm ; người cha phải còng lưng vất vả lo cho con có cái áo, quyển vở đến trường, và bao nhiêu nỗi nhọc nhằn khác nữa.

Vì thế, trong thư gửi cộng đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô khuyên nhủ mọi người: Hỡi những bậc làm con, hãy vâng phục cha mẹ trong Chúa, hãy thảo kính cha mẹ, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa: để ngươi được phần phúc và sống lâu trên địa cầu. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa chúc lành và ban ơn cho những ai biết thảo hiếu với cha mẹ ông bà mình. Yêu mến và kính trọng cha mẹ ông bà bằng việc vâng nghe những lời dạy bảo, vì cha mẹ là người thương chúng ta nhất và có kinh nghiệm nhiều hơn chúng ta, nên lời dạy bảo của các ngài là những lời dạy bảo khôn ngoan. Hãy yêu mến thảo hiếu ông bà cha mẹ khi các ngài về già, khi sức khỏe và trí khôn của các ngài giảm sút. Hãy kính trọng, thông cảm, phục vụ và chăm sóc các ngài, vì khi xưa chúng ta còn bé, cha mẹ cũng đã thông cảm, đã ân cần săn sóc chúng ta từng miếng ăn, giấc ngủ như vậy. Khi cha mẹ qua đời, hãy nhớ đến cha mẹ bằng việc đọc kinh cầu nguyện, dâng lễ cho các ngài, vì khi xưa các ngài cũng đã đêm ngày cầu nguyện và âm thầm hy sinh cho chúng ta. Đừng bao giờ tỏ ra vô lễ, bất hiếu với mẹ cha, đừng bao giờ để tuổi già của mẹ cha phải buồn tủi vì những lời nói hay cử chỉ coi thường, xúc phạm.

Cuối cùng, mỗi người hãy sống thảo hiếu hết lòng, đừng nại vào bất cứ lý do gì để từ chối mẹ cha, từ chối bổn phận phụng dưỡng các ngài, để các ngài có thể hưởng một tuổi già hạnh phúc. Mỗi người chỉ có một mẹ một cha mà thôi, đừng để tuổi già của các ngài phải rơi nước mắt vì tủi nhục, vì con cháu bỏ bê, đùn đẩy cho nhau. Những người Do Thái ngày xưa đưa ra một điều luật vô trách nhiệm đối với cha mẹ và đã bị Chúa Giêsu cảnh cáo. Họ đã bỏ giới răn của Thiên Chúa để tuân giữ những tục lệ của nhau. Trong khi Chúa đòi phải thảo kính cha mẹ, thì những thầy luật sĩ lại dạy rằng: Nếu ai tuyên bố với cha mẹ rằng những của tôi có để giúp cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Chúa Giêsu đã không chấp nhận thứ tục lệ ấy, vì nó đi ngược lại với đạo làm người, đi ngược lại giới răn Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng không chấp nhận một của lễ dâng tiến bất hiếu như thế.

Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày của gia đình, là ngày đoàn tụ, ngày trở về với cội nguồn của gia đình là ông bà cha mẹ. Song ngày nay, dường như nét đẹp văn hóa này đang bị mai một bởi cuộc sống kinh tế và lối sống thực dụng. Nhiều gia đình đã vì đồng tiền, tấc đất, mà anh em đánh lộn, chửi bới, mất tình mất nghĩa, không nhìn mặt nhau. Cha mẹ và con cái chỉ vì phân chia chút tài sản mà đi đến giận hờn, hỗn láo. Có nhiều gia đình ngày tết mà cũng không thể tổ chúc được bữa cơm chung xum họp ông bà cha mẹ con cháu. Nhiều cảnh con cái bất hiếu, chửi bới, khinh thường cha mẹ đang xảy ra mà chúng ta có thể chứng kiến. Tất cả những điều ấy đang làm tổn thương các gia đình và làm đổ vỡ các tổ ấm. Nguy hiểm hơn nữa là nó đang tạo ra những gương xấu cho các thế hệ trẻ sau này.

Các bậc làm cha mẹ hãy cố gắng vun đắp cho gia đình mình thực sự trở thành một tổ ấm yêu thương, là nơi mọi thành viên có thể cảm nhận được sự nâng đỡ và cảm thông, chia sẻ. Đừng vì mải mê lo tìm kiếm cơm áo gạo tiền mà quên tìm hạnh phúc cho gia đình. Đừng biến gia đình mình trở thành một nhà trọ sáng đi tối về. Đừng để cho khó khăn cuộc sống cướp đi tiếng cười, tiếng nói trong gia đình. Nhất là các bậc làm cha mẹ đừng để cho rượu chè, cờ bạc, số đề, say sưa làm cho gia đình mình tan nát, làm cho con cái hoảng sợ; Trái lại, hãy dùng tình yêu thương, lòng đạo đức để vun đắp hạnh phúc và sự ấm cúng cho gia đình.

Còn các bậc làm con, hãy hết lòng yêu mến, kính trọng cha mẹ mình. Đừng để cha mẹ đã khổ sở nhọc nhằn vì cơm áo, lại phải khóc thầm khóc vụng vì ta. Hãy góp phần làm cho gia đình thêm hạnh phúc bằng việc siêng năng học tập và làm việc để chia sẻ gánh nặng với cha mẹ. Hãy trở thành nhưng người con ngoan và đạo đức để làm yên lòng mẹ cha, để cho tuổi già các ngài được vui trọn vẹn.

Xin Chúa, Đức Maria ban cho các gia đình mỗi ngày một thêm ấm cúng, thuận hòa, hạnh phúc hơn. Amen.

 

34.Kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày xưa, với nền văn hóa nông nghiệp, có nhiều thời gian nông nhàn, việc nghỉ tết, ăn tết, vui xuân kéo dài cả tháng. Ngày nay xã hội công nghiệp, mọi sự đều phải rút ngắn thời gian, vì thế những ngày nghỉ tết, vui tết cũng bị rút ngắn lại. Cùng với sự rút ngắn thời gian, các giá trị văn hóa, tập tục truyền thống ngày tết cũng bị đơn giản lại hoặc bị bào mòn. Ví dụ: Trước đây ngày ba mươi và mồng một tết hầu như không ai ra khỏi nhà, mọi người dành trọn vẹn cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và gia đình. Đêm ba mươi cùng với việc tạ ơn trời, người Việt nam còn mời tổ tiên về ăn tết. Vì vậy đêm ba mươi, mọi người đều phải quy tụ trước bàn thờ tổ tiên để đón ông bà. Ngày mồng một, nén nhang, hoa trái, bánh kẹo đầu tiên được dâng lên tạ ơn trời, kế đến là cúng ông bà với lòng biết ơn để xin trời đất, ông bà phù hộ. Sau đó trọn ngày mồng một dành để chúc tuổi ông bà nội ngoại hai bên. Từ mồng hai trở đi sẽ là ngày đi chúc tuổi chú bác cô dì, họ hàng.

Ngày nay, các sự kiện được tổ chức vào đêm ba mươi để kéo mọi người ra khỏi nhà, cướp mất giờ phút linh thiêng giao thừa bên gia đình. Có nhiều người còn “trốn tết” bằng những cuộc du lịch dài ngày ngay từ ngày mồng một; những cuộc thăm viếng ông bà cha mẹ, họ hàng chỉ còn là thủ tục phải làm cho qua lần. Cứ như thế, tương quan gia đình ngày càng lỏng lẻo, liên hệ họ hàng ngày càng mờ nhạt, dẫn đến tình cảm và bổn phận thảo hiếu cũng bị vơi cạn, lâu dần các giá trị đạo đức cũng bị bào mòn. Có lẽ vì thế, thỉnh thoảng trên mạng lại loan truyền những đoạn clip con cái bạo hành cha mẹ, bất hiếu đuổi cha mẹ ra đường, đùn đẩy trách nhiệm chăm lo cho cha mẹ.

Ngày mồng một chúng ta được mời gọi hướng tâm hồn lên Chúa với tâm tình tạ ơn và phó dâng năm mới cho Chúa, cầu xin cho gia đình được an vui. Bước qua mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta bổn phận kính nhớ và bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người còn sống và những người đã qua đời.

Sách Huấn ca dạy chúng ta bày tỏ lòng biết ơn bằng việc học hỏi thực hành những điều cha ông truyền dạy và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp các ngài để lại: Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi các vị danh nhân cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ. Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Như thế, lòng biết ơn đối với tiền nhân là tiếp nối truyền thống đạo đức của cha ông mà các ngài đã dày công xây dựng, vun đắp cho gia đình và dòng họ. Là hậu sinh, chúng ta được mời gọi lưu giữ và bảo vệ thanh danh cho gia đình và dòng họ, giữ gìn nếp sống đạo hạnh mà cha ông đã tạo lập nên. Trong xã hội hiện đại, gia đình nào duy trì và vun đắp được những giá trị đạo đức truyền thống, như việc thảo hiếu, lễ phép, kính trên nhường dưới, trên thuận dười hòa, gia đình xum họp, con cháu thảo hiền, gia đình dòng họ đó sẽ êm ấm hạnh phúc. Cũng theo sách Huấn Ca: Khi các gia đình sống thư thế là chúng ta thể hiện lòng biết ơn đối với tiền nhân cách tốt đẹp nhất và cũng là cách chúng ta làm vẻ vang tổ tiên của gia đình hơn là xây các mồ mả cho to cho đẹp.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phản đối lối sống bất hiếu vô ơn đối với cha mẹ của những người Do Thái. Những người Biệt phái đến trách Chúa Giêsu vi phạm truyền thống của tiền nhân khi không thanh tẩy chén bát, đồ dùng trước khi dùng bữa. Chúa Giêsu chỉ cho những người này thấy giá trị truyền thống đích thực, không phải là các tập tục rửa tay, rửa bình, nhưng là phải chu toàn bổn phận thảo hiếu với ông bà cha mẹ. Chính việc thảo hiếu, tôn kính, biết ơn ông bà cha mẹ mới là giá trị truyền thống tốt đẹp và hơn nữa đó còn là giới răn lề luật của Thiên Chúa. Các luật sĩ và biệt phái đã đưa ra một điều luật thay thế bổn phận thảo hiếu là: Khi một người tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì được miễn mọi bổn phận phụng dưỡng báo hiếu, thờ cha kính mẹ. Việc dâng tặng lại cho nhà Chúa hoa trái và thành quả lao động của mình là điều tốt, đáng khuyến khích, nhưng Thiên Chúa không chấp nhận lễ dâng với sự vô ơn bất hiếu với cha mẹ như thế.

Chúa Giêsu đã phản đối điều luật này vì nó vi phạm trầm trọng đến giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Hãy thảo kính cha mẹ. Theo quan điểm của Chúa Giêsu, không có bất cứ thứ gì có thể đánh đổi hoặc thay thế được giới răn này của Thiên Chúa. Vì cha mẹ chính là những người được Thiên Chúa cho cộng tác với Chúa để sinh ra chúng ta. Cũng qua cha mẹ, Thiên Chúa tiếp tục yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ chúng ta. Vì thế, tất cả mọi người đều có bổn phận hiếu thảo, thờ cha kính mẹ, ai không chu toàn bổn phận này thì cũng là lỗi giới răn Thiên Chúa.

Qua thư Ephêsô, thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta bổn phận đối với cha mẹ: Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất kèm theo lời hứa: Để ngươi được hưởng thọ trên mặt đất này. Vâng lời cha mẹ không chỉ thể hiện sự thảo hiếu ngoan hiền đối với cha mẹ, mà vì cha mẹ là những người luôn yêu thương ta, hy sinh cả cuộc đời cho ta, chỉ dạy ta những điều tốt lành. Cha mẹ nhiều kinh nghiệm hơn ta và luôn muốn điều tốt cho ta. Nghe lời cha mẹ, chúng ta sẽ học được sự khôn ngoan và trưởng thành.

Mỗi người chúng ta mắc nợ cha mẹ về công sinh thành dưỡng dục. Kể sao hết công cha nghĩa mẹ vì chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nhiều năm dài nuôi ta khôn lớn; đong sao hết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, sức lực các ngài đã phải hao mòn vì con cái; đếm sao được biết bao đêm mất ngủ, biết bao ngày lo toan khi ta đau yếu bệnh tật vv. Phận làm con, khi khôn lớn, ta có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng gia đình với cha mẹ, chia sẻ với các ngài những lo toan của cuộc sống kinh tế gia đình, để các ngài bớt phần vất vả. Khi cha mẹ lớn tuổi, chúng ta phải chăm sóc, yêu thương, kính trọng và phục vụ các ngài. Khi các ngài yếu đau, trí nhớ giảm sút, con cái phải hết sức kiên nhẫn và lễ phép với cha mẹ, vì khi ta còn nhỏ, các ngài cũng đã hết sức kiên nhẫn và quảng đại với chúng ta. Cha mẹ đã đổ biết bao nước mắt vì chúng ta, khi cha mẹ về già, chúng ta phải đem niềm vui đến cho các ngài đừng để các ngài phải đổ thêm những giọt nước mắt khổ đau buồn tủi nữa.

Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày đoàn viên xum họp gia đình, ông bà, cha mẹ, con cháu quây quân bên nhau. Gia đình nào cũng mong ước có một bầu khí ngày tết xum vầy như thế. Tuy nhiên, không phải tất cả các ông bà, cha mẹ đều có được niềm vui hạnh phúc trọn vẹn bên con cháu. Thời nay, con người trọng tiền hơn trọng tình. Vì thế, nhiều người con đã rất thiết sót bổn phận với cha mẹ, bổn phận thảo hiếu phụng dưỡng cha mẹ được tính toán theo giá đất, được quy ra thành tiền. Có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ không phải vì biết ơn, mà vì ngóng trông phần hơn, khi chia tài sản của cha mẹ. Khi cha mẹ nghèo khó, hết tiền, hết của, con cái đùn đầy nhau trách nhiệm trông coi, nuôi dưỡng. Có những người con đem cha mẹ mình quăng ra đường hoặc hắt hủi cha mẹ như con ăn đầy tớ trong nhà.

Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc lại bổn phận kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ, để mỗi người rà soát lại xem mình đang chu toàn bổn phận thảo hiếu cách vuông tròn chưa. Chắc chắn cha mẹ sẽ không sống mãi với chúng ta, vì thế ai còn cha mẹ hãy làm cho cha mẹ cảm thấy an vui hạnh phúc trong tuổi già. Những ai đã không chu toàn hoặc đã từng đối xử tê bạc với cha mẹ, cần điều chỉnh lại thái độ của mình với cha mẹ.

Ngày hôm nay cũng nhắc cho chúng ta nhớ đến các bậc đã qua đời bằng việc chu toàn việc đọc kinh, cầu nguyện, xin lễ và nhắc cho con cháu cầu nguyện thường xuyên cho ông bà. Nhắc cho con cháu biết ơn ông bà cách riêng các dịp giỗ chạp; chăm sóc cho bàn thờ tổ tiên trong gia đình, đừng để tắt hương lạnh khói vì sự vô ơn hay vô tình của mình. Hôm nay ta chu toàn bổn phận thảo hiếu, biết kính trong cha mẹ ông bà, sau này con cái cũng theo gương đó mà kính trọng biết ơn ta.

Xin Chúa ban niềm vui và bình an xuống trên tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng con, vì các ngài dã một đời hy sinh vất vả vì chúng con. Xin Chúa ban cho các gia đình được anh phúc trên thuận dưới hòa, con cháu thảo hiền Amen.

 

35.Sống Chữ Hiếu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện.

Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: ” Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao? “. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện “.

Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.

Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: ” Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền?”.

Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…

Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:

Đói lòng ăn hột chà là

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng

Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.

Con đi khắp vạn nẻo đường

Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền

Người con yêu quý nhất trên đời

Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu

Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:

Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy

Núi rất cao và biển rất tuyệt vời

Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở

Và trái tim nhân ái làm người

Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.

Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ

Phong sắc hồng hào tâm thể khang an

Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng

Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ

Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể

Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây

Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây

Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay

Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.

Xin Chúa làm chủ thời gian xin ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen

 

36.Tri Ân Ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đạo truyền thống Việt Nam được coi là đạo hiếu. Cốt tuỷ của Đạo hiếu là Đức Hiếu thảo được thể hiện qua hai điều: Tôn kính cha mẹ lúc còn sống và thờ kính cha mẹ, ông bà khi các ngài qua đời.

Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:

“Công cha nghĩa mẹ cao vời

Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.

Nên người con phải xót xa

Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao

Đội ơn chín chữ cù lao

Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.

Bởi đó khi cha mẹ về già, con cái phụng dưỡng cha mẹ với của ngon vật lạ, sáng viếng tối thăm:

“Muốn cho gần mẹ gần cha

Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền.”

Suốt dọc dài lịch sử, cha ông đã để lại rất nhiều mẫu gương sáng ngời về đạo hiếu. Lòng hiếu thuận ấy sâu đậm đến nỗi khóc thương mẹ mà mù cả đôi mắt như chuyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.

Chuyện kể rằng:

Lục Vân Tiên đang trên đường đi thi, nghe tin mẹ mất, quá thương xót mẹ, chàng khóc lóc thảm thiết. Chàng đã bỏ thi - bỏ dở cả con đường công danh sự nghiệp sáng lạn đang ở phía trước, quay về quê để chịu tang mẹ. Trên đường về khóc thương mẹ đến thành bệnh mà mù mắt. Mắt đã mù nhưng nỗi sầu vẫn chưa nguôi ngoai:

Ôi thôi! Con mắt đã mang lấy sầu

Mịt mù nào thấy gì đâu.

Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã nêu bật chữ Hiếu nơi Lục Vân Tiên để rồi răn bảo người đời:

Hỡi ai lẳng lặng mà nghe

Dữ răn việc trước, lành dè thân sau

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình

Vào những ngày đầu Năm Mới, Giáo hội Việt Nam dành trọn ngày Mồng Hai Tết để con cái dâng thánh lễ đặc biệt cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Đây là dịp để con cái tri ân công ơn trời bể của cha mẹ. Cuộc đời chúng ta được dệt nên từ những giọt mồ hôi lao công vất vả của ông bà cha mẹ. Các ngài đã hy sinh một nắng hai sương cho cuộc đời ta tươi vui, hạnh phúc. Công ơn của các ngài thật lớn lao, lớn lao đến nỗi ca dao cũng từng nói:

“Công cha như núi Thái Sơn.

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha.

Cho tròn Chữ Hiếu mới là Đạo con”

Lời ca dao thật đơn sơ, mộc mạc nhưng biểu lộ một giá trị bất hủ của Đạo hiếu trong lòng người Việt Nam. Điểm nổi bật của lòng hiếu nghĩa là lòng biết ơn và sống báo đáp công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Hiếu nghĩa khi còn ở với cha mẹ thì vâng lời kính yêu các ngài. Hiếu nghĩa khi ở xa thì luôn biết thăm hỏi, dành đồng quà tấm bánh cho các ngài. Hiếu nghĩa cả khi các ngài qua đời thì cầu kinh dâng lễ.

Hôm nay trong ngày mừng xuân là dịp con cái quây quần bên cha mẹ ông bà để tỏ lòng tri ân. Thật hạnh phúc trong ngày xuân chúng ta được cha mẹ ông bà chúc lành cho ngày xuân của chúng ta. Thật hân hoan khi ngày xuân được sum họp bên nhau trong tình nghĩa ruột thịt. Đúng như thánh vịnh nói:

“Anh em sum họp một nhà

Bao là tốt đẹp, bao là tốt tươi”.

Xin Chúa là Chúa của mùa xuân, là cùng đích của mọi vạn vật chúc lành cho ngày sum họp của các gia đình luôn nồng nàn mến thương. Xin cho chúng ta luôn biết trân trọng mái ấm gia đình, vì chẳng ở đâu có người yêu thương, lo lắng cho ta bằng những người thân trong gia đình. Hãy trân trọng gia đình bằng việc sống có trách nhiệm với bổn phận của mình. Đừng vì thói lười biếng, trốn tránh trách nhiệm của mình mà mang lại những nỗi đau cho người thân. Xin đừng bao giờ vui xuân mà bán hết gia tài, gây nên đau khổ cho gia đình chỉ vì đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái, …

Xin cho ngày xuân luôn thắt chặt tình ruột thịt để cùng nhau xây dựng gia đình trong yêu thương nồng ấm và mỗi ngày an khang thịnh vượng hơn. Amen.

 

37.Kính nhớ Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày tết là dịp để chúng ta đoàn tụ với gia đình. Ai cũng mong được về cùng chung với gia đình bên mân cơm. Cùng dâng cho nhau ly rượu chúc mừng năm mới. Bữa cơm tết với gia đình thật ấm cúng, thật đáng quý biết bao. Vì ở giữa cuộc đời bon chen, không ở đâu bình yên bằng gia đình. Không ở đâu có tình yêu chân thật bằng cha mẹ con cái yêu thương nhau. Gia đình là tổ ấm, là điểm tựa của mỗi người, dù đi đâu thì gia đình vẫn luôn sẵn sàng là bến đỗ để ta trở về.

Thế nhưng, để hiểu điều này đôi khi phải chờ đến khi rời xa gia đình, lúc ấy chúng ta mới nuối tiếc về mái ấm gia đình mà chúng ta đã từng làm lơ hay hững hờ:

Khi rời xa mới biết ý nghĩa của gia đình

Mới biết niềm vui trong từng cử chỉ

Mới biết hạnh phúc phải đâu nào xa xỉ

Vì chỉ một nụ cười cũng đủ ấm con tim…(Kim Liên)

Có những người khi xa gia đình mới cảm thấy thương cha thương mẹ. Họ mới cảm nhận được “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Xa cha, nhớ mẹ, họ chỉ mong cho các ngài bình yên hạnh phúc trong lời kinh nguyện mà thôi:

Giữ mãi gia đình trong một góc riêng

Để nhớ để mong để âm thầm cầu nguyện:

- Xin nỗi buồn đừng hằn trên mặt mẹ

Và nụ cười đừng chia cách môi cha… (Kim Liên)

Khi rời xa khỏi vòng tay nồng ấm của cha mẹ, người ta mới thấy hụt hẫng, bâng khuâng. Tuy trong đời họ có tiền, có địa vị nhưng lại thiếu một tình yêu ôm ấp bảo ban. Thế nên, có những người thầm ước được trở về tuổi thơ, để nơi đó họ được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ cha:

Thời gian thấm thoắt trôi đi,

Tìm đâu một vé trở về tuổi thơ?

Một thời lém lỉnh ngây ngô,

Sống trong đùm bọc bến bờ yêu thương. (ST)

Tuổi thơ ai cũng hạnh phúc. Cái hạnh phúc là được ở trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Cái hạnh phúc nồng ấm khi được cha mẹ “Nâng như nâng trứng – Hứng như hứng hoa”. Cái hạnh phúc được làm nũng, được ăn vạ và được mẹ vỗ về. Đó cũng là món nợ ân tình mà những người làm con phải trả cho các bậc sinh thành đến suốt cuộc đời.

Con nợ mẹ cha những ngày vui bất tận

Rong ruổi suốt cuộc đời không định hướng tương lai

Con nợ những chiếc hôn còn nóng hổi vành môi

Trong cơn điên loạn giữa bạc tiền mến mộ

Nợ ân nghĩa mẹ cha đòi hỏi chúng ta phải trả cho suốt cuộc đời. Nếu các ngài đang trong tuổi già lầm lũi cô đơn thì hãy chăm nom, săn sóc, phụng dưỡng tuổi già. Nếu các ngài là những cha mẹ trẻ đang bươn chải một nắng hai sương thì phận làm con, hãy chia sẻ gánh nặng với các ngài trong khả năng của mình. Và nếu các ngài đã qua đời thì xin dành cho các ngài những nén hương với lời nguyện cầu tha thiết cho các ngài sớm hưởng phúc thiên đàng bên Chúa.

Một nén hương nồng nàn lặng lẽ

Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương

Dù bao năm dù có hóa vô thường

Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất.

Nhưng dù muốn dù không khi nói đến tình nghĩa mẹ cha, ai cũng cảm thấy mình còn thiếu sót, còn nhiều lỗi lầm với mẹ cha. Có những người đã từng cãi lời mẹ cha. Có những người đã từng quên lãng mẹ cha để mải miết đi tìm danh vọng. Có những người còn bất hiếu với mẹ cha qua những việc làm thất đức, đáng xấu hổ với “liệt tổ, liệt tông”. Đó là lý do khiến bao người khi nghĩ đến mẹ cha lại cảm thấy nuối tiếc về thời gian bên cha mẹ, nuối tiếc vì những việc làm đã gây đau khổ cho cha mẹ. Thế nên, có ai đó nói rằng:

Bài học đầu đời thật vất vả mẹ cha ơi!

Xin cho con im lặng để mắt con cay

Xin cho con lạnh lùng để con không bật khóc

Xin cho con góp nhặt để còn chút lương tâm

Xin cho con chuộc lỗi dù biết đã muộn màng.

Hôm nay Mồng Hai Tết, ngày cầu cho ông bà cha mẹ. Ai cũng phải nợ ân, nợ nghĩa ông bà cha mẹ. Hãy dùng thời gian hôm nay để nói lên lòng hiếu kính của chúng ta với các ngài. Hãy dâng cho các ngài lời nguyện cầu với lòng biết ơn mong sao các ngài luôn hạnh phúc bên đàn con cháu. Chúng ta hãy dành thời gian hôm nay để sum vầy bên các ngài quanh cầu chuyện đầu năm. Cùng chúc mừng các ngài vạn sự cát tường.

Xin cầu chúc cho các gia đình một ngày ngập tràn niềm vui sum vầy bên những người thân yêu nhất. Cầu chúc cho mọi nhà rộn ràng tiếng cười vui bên mâm cơm gia đình. Xin Chúa chúc lành cho ngày sum họp hôm nay được trọn niềm trong Chúa và bên nhau. Amen.

 

38.Sống thảo hiếu--Lm. Tạ Duy Tuyền
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng sum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh thành.

Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:

“Công cha nghĩa mẹ cao vời

Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.

Nên người con phải xót xa

Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao

Đội ơn chín chữ cù lao

Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.

Khi nhận ra công cha nghĩa mẹ, thì đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta:

“Ơn ai một chút chớ quên,

Phiền ai một chút để bên cạnh lòng”

Thế nên,

Ai mà phụ nghĩa quên công,

Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm

Lòng hiếu thảo quả là một tấm lòng thơm tho, đáng yêu. Lòng hiếu thảo làm cho con người thêm thanh cao, giá trị. Bởi được người đời kính trọng, yêu thương những ai có hiếu với mẹ cha.

Thế nhưng, giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn nơi các bậc cha mẹ vì thiếu tình thương của con. Ở đâu đó, trong nhiều mái gia đình, ông bà cha mẹ lại là gánh nặng cho con cái. Ở đâu đó, vẫn còn những tiếng nghẹn ngào của những bậc sinh thành bị bỏ rơi ngay giữa đàn con cháu của mình.

Thiết tưởng, ngày đầu xuân chúng ta cùng lắng đọng tâm hồn để nghe lời bộc bạch chân thành từ lá thư của một người cha viết cho con.

Lá thư ấy viết rằng:

Con thân mến,

Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu giùm cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vun vãi… Nếu như bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc… Xin con hãy bao dung!

Con hãy nhớ những ngày giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé.

Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ… mà hãy lắng nghe!

Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào trong giấc ngủ… và bố mẹ đã làm vì con.

Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ.

Con hãy nhớ… lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm.

Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững như xưa nữa… hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập tềnh con trẻ những bước đi đầu đời.

Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng… bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi.

Con đừng oán giận và buồn khổ… vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con.

Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều…

Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con.

Thương con thật nhiều

Là người Ki-Tô, chúng ta cũng được mời gọi sống giới răn: “hãy thảo hiếu cha mẹ”. Đây là lệnh truyền chứ không phải lời khuyên. Lời khuyên thì có thể không làm nhưng lệnh truyền thì buộc phải thi hành.

“Phải thờ cha kính mẹ” còn là lễ dâng đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại, Kinh Thánh còn ví kẻ khinh rẻ cha mẹ là chọc giận Thiên Chúa: ”Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai khinh rẻ mẹ, là chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3, 16). “Phải thờ cha kính mẹ” đó là điều răn duy nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).

“Phải thờ cha kính mẹ” còn phải được thể hiện qua những lời khuyên nhủ thật chân tình trong sách Huấn Ca: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dễ người” (Hc 3, 12-16).

Người ta nói: ”Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó". Việc thất đức mình làm cho tiền nhân cũng có thể tái diễn ngay chính cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta không muốn con bất hiếu với mình thì chính chúng ta hôm nay cũng phài làm gương sáng về hiếu thuận với mẹ cha. Nếu chúng ta muốn con cái đối xử tốt với mình thì hôm nay chúng ta cũng phải ân cần săn sóc mẹ cha.

Nguyện xin Chúa Xuân chúc lành cho buổi họp mặt gia đình hôm nay. Xin Chúa Xuân cư ngụ đến từng gia đình, mang ơn lành đến cho muôn nhà để mọi người được hưởng nếm những giây phút bình yên nhất bên gia đình và người thân. Amen.

 

39.Đốt Hương Trầm Nhớ Quê- Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày Tết, cùng với đất trời giao hòa, con người dường như cũng gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp với gió xuân nhè nhẹ của ngày Tết, người đi xa lại thêm nhớ về nhà, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Trong cái khối đất trời hoà quyện, người người muốn tìm và gặp nhau như muốn giữ lại một chút kỷ niệm thân thuơng của những ngày tháng năm xưa:

“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm

Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”

‘Nhớ quê’, quê nào đây? Có phải khu vườn xưa xanh um bóng lá? Có phải mảnh ruộng đồng lúa mạ đơm bông? Có phải mái nhà tranh hay nóc ngói đơn sơ mà nay ta cách biệt? Nếu chỉ thế thì đâu phải đợi vào đêm, trong giờ phút cô vắng ta mới chạnh lòng vương vấn tâm tư trong những lời thơ mơn man, trải dài xa vắng?

“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm…”

Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”

Trong làn khói hương nghi ngút, trong mùi trầm ngào ngạt, lòng con người như muốn bay về cội nguồn, mong tìm về quê hương thời tuổi trẻ, nơi chứa đựng cõi trời ấu thơ, nơi gắn bó đời mình với biết bao kỷ niệm thân thương, mà mỗi bước đi xa là một khúc ruột bị chặt lìa, một thứ ‘đoạn trường tân thanh’ muôn đời, miên viễn.

Như thế, nhớ quê ở đây là nhớ về cội nguồn, nhớ về nguồn gốc tổ tiên: “vì chim có tổ, nước có nguồn, con người có cha mẹ sinh ra”. Nhớ quê ở đây là một cái nhớ ở trong tiềm thức của mỗi người, nhớ về tình yêu của cha, của mẹ, của anh chị em trong nhà.

Xa quê chạnh nhớ quê nghèo

Mẹ cha vất vả gieo neo ruộng đồng

Nuôi con ăn học hết lòng

Con luôn thấu hiểu tấm lòng bao la.

Trong chữ “Quê” có nguồn cuội. Có hình bóng của những con người “bán lưng cho trời – bán mặt cho đất” chỉ mong sao con lớn khôn thành người.

Thương con không quảng nắng mưa

Thức khuya dậy sớm, mưa giông không màng

Gian lao khổ cực nào than

Cho con no đủ, hiên ngang với đời

Khi hồi tưởng về quê nhà ta mới thấy thấp thoáng bao kỷ niệm về gia đình, nơi đó chan hòa tiếng cười và đầy ắp yêu thương. Hồi tưởng về quê nhà ta mới thấy sự trưởng thành của ta được xây đắp bằng tình yêu hy sinh vất vả của mẹ cha.

Cuộc đời bao nỗi đắng cay

Nhìn về cha mẹ, lệ cay nghẹn ngào

Hôm nay nước mắt tuôn trào

Nhớ ơn cha mẹ, cả đời cưu mang

Hồi tưởng về quê nhà, ta mới thấy mình phải có bổn phận “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, ta mới thấy làm sao đáp đền công ơn trời bể mà cha mẹ đã dành cho ta.

Con đây chẳng nói nên lời

Nghẹn ngào nước mắt, lòng này khắc ghi

Lạy cha lạy mẹ con quỳ

Công ơn trời biển, đời đời không quên.

Khởi đầu năm mới, chúng ta tưởng nhớ đến các bậc tổ tiên, những người có công đức sinh thành dưỡng dục chúng ta. Chúng ta đâu biết rằng để mình có ngày hôm nay, cha mẹ chúng ta phải đánh đổi cuộc đời như thế nào? Vì danh dự của con, vì muốn cho con có tiền đến trường đến lớp, vì muốn cho con bằng chúng bằng bạn, cha mẹ nào cũng sẵn sàng đánh đổi cuộc đời mình vì hạnh phúc đàn con.

Do đó, uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây. Có được niềm vui đón xuân hôm nay, chúng ta cũng cần tỏ lòng hiếu kính, biết ơn đối với các bậc tổ tiên đã khuất và đối với ông bà cha mẹ những người còn đang sống và còn đang hao mòn vì chúng ta.

Chính Chúa Giê-su cũng luôn sống hiếu thảo với cha mẹ của mình. Phúc âm nói Ngài hằng vâng phục cha mẹ mình. Và dưới cây thập giá Ngài còn mời gọi thánh Gioan thay mặt Ngài đón Mẹ về nhà của mình để sống trọn chức hiếu.

Vì thế, trong bầu khí mừng xuân Mậu Tuất và nhớ về cội nguồn. Chúng ta cùng hiệp dâng thánh lễ hôm nay để cầu nguyện cho ông bà cha mẹ của những ai đã qua đời và cầu bình an cho các bậc sinh thành vẫn đang còn hiện diện với chúng ta và với tấm lòng thảo hiểu chúng ta hãy cùng nhau ước nguyện:

Mỗi đêm con thắp đèn trời

Cầu cho cha mẹ sống đời với con.

 

40.Hiếu Hôm Nay Phúc Ngày Mai--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống con người luôn có cho có nhận. Ta cho đi tình yêu thương, sự thiện hảo thì ta cũng nhận lại được lòng tri ân và cảm tạ. Ta cho đi sự phục vụ quảng đại thì ta cũng nhận lại được sự chia sẻ yêu thương của anh em. Thế nên, dòng chảy cuộc đời luôn đòi ta phải tạo phúc cho đời, biết sống chia sẻ yêu thương thì con sóng yêu thương mới mangphù sa yêu thương về lại cho ta.

Có câu chuyện kể rằng:

Tại làng kia, trong một gia đình nọ có ông cụ già sống với con trai, nàng dâu và hai đứa cháu nội lên 8 và 6 tuổi. Cụ già, mắt mờ, tai gần như điếc và hai đầu gối thường rung chạm vào nhau. Không trách gì mỗi lần ngồi vào bàn cơm với con cháu cụ thường ăn uống vụng về, con trai và con dâu rất lấy làm khó chịu và xấu hổ, nên sau cùng họ quyết định cho cụ ngồi ăn một mình trong góc nhà gần lò sưởi. Nàng dâu chỉ cho cụ một muôi cháo trong cái chén bằng sành cũ kỹ. Cụ già chỉ biết tủi thân mắt đẫm lệ nhìn con cháu vui vẻ trên bàn cơm.

Rồi một hôm vì quá yếu, hai tay run rẩy không cầm nổi chén cháo trên tay nên đánh rớt xuống sàn nhà vỡ tan từng mảnh. Nàng dâu không tiếc lời xỉ vả, lại còn nỡ lòng mua cho cụ một cái chén bằng nhựa chỉ đáng mấy xu mà thôi. Cụ già chỉ biết tủi thân an phận thở dài nhưng không một lời ca thán. Rồi một bữa nọ, hai đứa cháu nội ra cười chơi nhặt những mảnh sảnh từ chén cơm mẻ của ông nội đã trượt tay đánh vỡ. Suốt buổi hai anh em hý hoáy tìm cách dính những mảnh sành lại với nhau. Ba má em tìm chúng quanh nhà, sau cùng mới thấy hai anh em ngồi chơi ngoài góc vườn. Thấy vậy ba em hỏi:

– Con muốn làm gì với những mảnh sành đó?

Không chút do dự, đứa em thản nhiên đáp:

– Con muốn gắn những mảnh sành này lại thành cái bát, để sau này khi ba má về già như ông nội, ba má sẽ dùng chén này mà ăn.

Câu trả lời ngây thơ phát xuất từ miệng một đứa trẻ vô tội đã trở nên như tiếng sét đánh ngang tai cho cha mẹ nó. Họ đứng lặng nhìn nhau không nói một lời. Họ đã tự hiểu được hành động vô ơn bất hiếu của mình đối với người cha già đã từng nhịn đắng nuốt cay từ lâu vì những yếu đuối của tuổi già. Từ ngày đó, cụ già lại được đưa vào ngồi chung với con cái trong bữa cơm và không còn phải nghe những lời xỉ vả mỗi lần vụng về khi ăn uống nữa. Trái lại còn được chăm sóc rất chu đáo.

Hôm nay ngày Mồng Hai Tết Giáo hội mời gọi chúng ta hãy dành trọn ngày này để tỏ lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Vì trong đời một người, không ai có công lao với mình bằng cha mẹ. Và càng không có ai dám hy sinh một đời vì chúng ta ngoài cha mẹ. Ơn sinh thành, công dưỡng dục của cha mẹ thật lớn lao đến nỗi việc hiếu kính tổ tiên đã trở thành đạo của cả dân tộc Việt Nam:

“Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”.

Chân tu hiểu là sống đúng với lương tri con người. Không vì tình mà quên nghĩa. Không vì tiền mà vong ân. Người chân tu phải biết sống ân nghĩa với cha với mẹ. Sống tốt với gia đình. Sống đẹp lòng mẹ cha. Đó là nền tảng đạo đức để sau này tung cánh vào đời, trở thành kẻ có ích cho người, cho đời. “Tu thân tích đức, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

Lòng hiếu thảo, đạo làm con ấy được Thiên Chúa quy định trong giới răn thứ tư: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi”. Đây là giới răn duy nhất trong 10 giới răn nhận được lời chúc phúc nếu tuân giữ một cách trọn vẹn sẽ được sống lâu trên mặt đất. “Hãy thảo kính cha mẹ ngươi thì ngươi sẽ được sống lâu trên mặt đất”.

Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu.

Đây là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:

Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy

Núi rất cao và biển rất tuyệt vời

Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở

Và trái tim nhân ái làm người

Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên đã khuất mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.

Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ

Phong sắc hồng hào tâm thể khang an

Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng

Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ

Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể

Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây

Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây

Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay

Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.

Xin Chúa là chủ thời gian ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen

 

41.Ông bà tổ tiên--Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến
(Hc 44, 1.10-15; Ep 6, 1-4.18-23; Mt 15, 1-6)

Trong mồng một tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta -trước hết- dâng lời tạ ơn Chúa, cầu bình an, thì trong ngày mồng hai tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Mừng lễ hôm nay là dịp nhắc nhở chúng ta nhớ đến nguồn cội của mình và công ơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ chúng ta...

Người Á Đông nói chung, đặc biệt người VN nói riêng rất đề cao chữ HIẾU và nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU.

“Mẹ cha vất vả nuôi mình//Từ khi trứng nước công trình biết bao./ Làm con phải nhớ công lao,/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Kẻ làm con phải “Dĩ hiếu vi tiên” nghĩa là lấy hiếu làm đầu. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.

Bởi vậy, từ thuở mới cắp sách tới trường, bài học đầu tiên của ta là: Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Sự hiện diện của mỗi người trên cõi đời này không phải là một sự xuất hiện ngẫu nhiên, nhưng là mắt xích của cả một công trình vĩ đại, một chuỗi dài những liên hệ yêu thương từ Adam đến các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và giờ đây là chúng ta,… Người ta thường nói: “Con người có cố có ông,/ Như cây có cội như sông có nguồn”. Người ta có cha có mẹ/ Không ai ở chỗ nẻ chui lên (Tục ngữ).

Trong đời sống người Kitô hữu, chữ Hiếu càng được quý trọng hơn. Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải chỉ là một cảm tình tự nhiên hay là một qui định xã hội mà còn là một điều răn Chúa dạy trong 10 điều Chúa truyền qua ông Môsê: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. 10 điều răn được khắc vào 2 bia đá; và nếu để ý một chút ta sẽ thấy không phải là mỗi bên 5 điều nhưng một bên 3, một bên 7; bia đá thứ nhất gồm 3 điều ghi lại bổn phận của con người đối với Thiên Chúa; bia đá thứ hai 7 điều ghi lại bổn phận giữa con người với nhau; và như thế ta mới thấy điều răn mà ta gọi là thứ tư lại là điều răn thứ nhất trong đạo làm người.

Các bài đọc Lời Chúa thánh lễ hôm nay, có chung chủ đề là chữ Hiếu.

Bài đọc thứ nhất trích sách Huấn ca nhắc chúng ta không chỉ biết ơn mà còn tôn vinh những bậc vĩ nhân và các tổ phụ chúng ta qua các thời đại.

Bài đọc 2, thánh Phaolô nói với chúng ta qua thư gửi tín hữu Ephêso: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).

Đúng ra, Phaolô đã viết lại lời Chúa trong sách Xuất Hành: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12).

Bài tin mừng, Chúa Giêsu cũng nhắc lại lời trong sách Xuất Hành và Lêvi: “Ngươi phải thờ cha kính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử”. Đặc biệt, Chúa Giêsu khiển trách những luật sĩ và biệt phái về việc áp dụng sai luật Chúa. Đối với họ, lễ vật gọi là ‘Coban’, tức là những gì họ dâng cho Chúa rồi thì họ không còn bổn phận giúp cha mẹ nữa.

Ngày hôm nay cũng còn có những người con như thế: đưa cha mẹ vào trại dưỡng lão, đóng tiền cho người ta nuôi; hay cho cha mẹ tiền, quà rồi cho đó là thảo hiếu, nhưng không hề về thăm hay hỏi han cha mẹ mạnh khỏe ra sao? Đau yếu thế nào?

Chúa Giêsu không chỉ nhắc nhở con người về đạo làm con mà chính Ngài từ muôn thuở đã luôn là Người Con đẹp lòng Chúa Cha. Hơn nữa, khi nhập thể làm người, Ngài cũng luôn thảo kính, vâng phục Đức Maria và thánh Giuse.

Theo truyền thống tốt lành của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, ngày mồng hai tết là ngày con cháu kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Hôm qua, ngày mồng một tết, trước hết ta thờ kính Chúa, tạ ơn Ngài và xin Ngài ban bình an; hôm nay, ngày mồng 2 tết, ta thảo kính OBTT, cha mẹ chúng ta. Trong ngày mồng hai Tết này chúng ta hãy nhìn lại lòng thảo kính của chúng ta đối với cha mẹ.

Vậy thảo kính cha mẹ là gì?

Thảo kính cha mẹ (theo sách giáo lý Tân định) là yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi [các ngài] còn sống và [cũng như] đã qua đời.

1. Khi cha mẹ còn sống.

Khi cha mẹ còn sống nếu con cái chỉ tỏ lòng yêu mến và biết ơn thì chưa đủ, còn phải thực hiện bằng việc làm là giúp đỡ cha mẹ, nhất là khi các ngài đã về già. Nuôi cha mẹ già không phải là dễ. “Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày”; bởi vậy, người ta nói: “Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ”.

Tiếc thay, rất nhiều người -dù đã đang nuôi con- đã có kinh nghiệm vất vả vì con nhưng lại quên ơn nghĩa sinh thành. Họ coi việc chăm sóc cha mẹ già là một gánh nặng nên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Tục ngữ VN có câu: “Sống không cho ăn, chết thì làm văn tế ruồi” là lời nhắc nhớ con cháu phải cần kíp chăm sóc cha mẹ bao nhiêu có thể khi các ngài còn sống với ta trong cõi đời này. Ngày hôm nay, có những người con tuy vui tết, nhưng vẫn cứ ân hận vì mình đã không lo chu toàn bổn phận chữ hiếu với cha mẹ mình, bây giờ cha mẹ không còn nữa; trái lại, ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy có những người con trước khi đi làm đã tranh thủ đút cháo và sếp giường chiếu cho cha mẹ; có những người con dìu dắt cha mẹ già lọm khọm bước lên bực cấp nhà thờ để dự lễ. Hình ảnh này làm cho tất cả chúng ta cảm động và thấy mình cần có trách nhiệm hơn nữa đối với song thân sinh thành dưỡng dục mình. Hơn nữa: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Nếu ta không trọng cha mẹ ta, khi ta về già, sao con cháu có thể trọng ta được!

2. Khi cha mẹ đã qua đời.

Người ta thường nói: “Cách mặt xa lòng”. Điều đó rất đúng trong đời sống thực tế hằng ngày bởi vì xa nhau thì mối tình dễ bị nhạt nhòa, dễ bị quên lãng. Nếu ông bà cha mẹ còn sống mà ta còn ít nhớ đến thì làm sao ta có thể nhớ đến các ngài hằng ngày khi các ngài đã qua đời? Thật ra, các ngài qua đời/khuất núi nhưng vẫn hiện diện [Chứ không phải trở về hư vô]. Giữa âm và dương thật gần gũi. “Người chết nối linh thiêng vào đời” là vậy.

Bởi thế, mỗi dịp giỗ chạp, đặc biệt là tháng 11 và mồng 2 tết là dịp thuận tiện để chúng ta hâm lại lòng yêu mến của chúng ta đối với các ngài: “Ai mà phụ nghĩa quên công/ Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”.

Hôm rồi, lễ an táng 1 bà cụ Anna Nguyễn Thị Đẫm [bà Tộ], một cha già nhắc tôi: đối với cha mẹ và ân nhân, các cha phải nhớ: “Sống thì phải tết, chết thì phải lễ”. Lời cha già nhắc tôi cũng là lời nhắc tất cả chúng ta vì ai trong chúng ta ra đời cũng có cha có mẹ.

Vậy, mồng Hai Tết hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về bổn phận hiếu thảo với các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ. Hãy chăm sóc, phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống; Hãy dâng một nén hương, một lời nguyện cầu lên Thiên Chúa để cầu nguyện cho linh hồn tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, để ngày Xuân của chúng ta không chỉ là mùa xuân của ân nghĩa đối với nhau mà còn là mùa xuân của lòng báo hiếu với người đã khuất. Amen.

 

42.Nguyện Xin Thiên Chúa Xót Thương Cả Tổ Tiên--Trầm Thiên Thu
Có lẽ chẳng ai lại không biết câu ca dao này: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra; Một lòng thờ mẹ, kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Câu ca dao bình dị mà thâm thúy với cách so sánh cụ thể. Ân nghĩa là món nợ về lòng hiếu thảo mà cả đời chúng ta cũng không thể nào trả được, nhưng đó là thứ cần mắc nợ nhau suốt đời: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8).

Chắc chắn ai cũng có một gia đình, dù là “ông kia, bà nọ” thì cũng vẫn xuất thân từ một gia đình – dù gia đình giàu hay nghèo, to hay nhỏ. Có điều tất yếu là người ta có thể tự chọn nhiều thứ, nhưng không ai có thể tự chọn cha mẹ – tất nhiên kể cả ông bà, tổ tiên. Chắc hẳn không ngẫu nhiên mà người ta gọi gia đình là Tổ Ấm hoặc Mái Ấm. Dấu hiệu đầu tiên của hạnh phúc gia đình là tình yêu gia đình, chính “ngọn lửa” tình yêu làm cho gia đình ấm áp.

Dù là Thiên Chúa, nhưng khi Đức Giêsu giáng sinh làm người, Ngài cũng sinh trưởng trong một gia đình. Điều đó chứng tỏ gia đình rất quan trọng. Hai tiếng “gia đình” đơn giản lắm, nhưng cũng phức tạp lắm. Louisa May Alcott (1832-1888, Hoa Kỳ) nhận xét: “Khả năng tìm được cái đẹp trong những điều nhỏ bé nhất khiến gia đình trở nên hạnh phúc và cuộc đời trở nên đáng yêu” (The power of finding beauty in the humblest things makes home happy and life lovely). Thomas Fuller (1608-1661, Anh quốc) đề nghị: “Lòng nhân đức bắt đầu từ gia đình nhưng không nên kết thúc ở đó” (Charity begins at home but should not end there). Bộ ba Cha-Mẹ-Con là chiếc kiềng ba chân yêu thương để chống đỡ gia đình: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng” (Ca dao).

Ngày lễ, tết, và những dịp đặc biệt, nhớ tới công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và tiền nhân là điều cần thiết. Trên đời này, không có công ơn nào to lớn bằng công ơn cha mẹ, đặc biệt là người mẹ. Chữ Hiếu (mệnh danh là Đạo Hiếu) không thể nào bù đắp chín Đức Cù Lao (*). Cứ tính đơn giản theo nghĩa đen thì cũng thấy không cân xứng: Một chữ không thể so với chín chữ. Con cái chỉ có một chữ mà vẫn không giữ trọn!

Kinh Thi có đề cập đức cù lao của cha mẹ: “Cù lao vu dã” – nhọc nhằn vất vả nơi đồng nội; và “bi ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao” – thương thay cha mẹ nhọc nhằn sinh ta.

Dịp đầu Xuân, thời gian đẹp nhất trong năm – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, sách Huấn Ca mời gọi: “Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Tại sao? Lý do minh nhiên: “Họ là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44:10-15).

Chúa Giêsu đã nêu gương về đạo Hiếu để chúng ta noi theo. Sau ba ngày lo việc của Chúa Cha, Cậu Hai Giêsu ở lại Đền Thờ khiến Cô Maria và Chú Giuse lo sốt vó, tìm kiếm xuôi ngược suốt ba ngày. Khi gặp cha mẹ, Cậu Hai Giêsu mau mắn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51).

Ai cũng có cha mẹ, dù cha mẹ có thế nào thì cũng vẫn là người sinh thành dưỡng dục mình. Ai sống có hiếu thì được Chúa chúc lành: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128:1-2).

Con cái có hiếu thì cha mẹ an tâm, gia đình hạnh phúc: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:3-4). Chắc hẳn ai cũng mong ước như vậy, vấn đề là phải thể hiện cụ thể, đừng nói suông. Tác giả Thánh Vịnh cầu chúc: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6). Nguyện chúc mọi gia đình vui hưởng thái bình như Thánh Gia – hôm nay và mãi mãi, đặc biệt trong những ngày Xuân đoàn tụ này.

Thánh Phaolô nhắc nhở những người con về Đạo Hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Và nhắc nhở những người làm cha mẹ: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4). Bổn phận và trách nhiệm với nhau là điều cần thiết: Con cái đối với cha mẹ, và cha mẹ đối với con cái.

Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì là hành động. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh” (Ep 6:18-19). Cầu nguyện là việc làm phải liên tục, bất kể thời gian hoặc địa điểm. Thật vậy, cầu nguyện có thể thực hiện ngay tại bàn tiệc, khi đang nói chuyện với người khác, khi chạy xe,… thậm chí ngay khi chúng ta ở giữa một đám đông ồn ào náo nhiệt. Đừng chỉ cầu nguyện khi vào nhà thờ hoặc ở nơi tĩnh lặng, vì cầu nguyện rất dễ: Hướng tâm hồn lên với Chúa, gặp Chúa, có khi không cần nói gì cả. Cầu nguyện liên lỉ là “thói quen” của người sống tâm linh theo tinh thần của Đức Kitô.

Người cha, người mẹ và người con đều sống tâm linh như vậy thì chắc chắn gia đình hạnh phúc, là Tổ Ấm thực sự, ấm trong tình yêu của Thiên Chúa, nóng hổi ngọn lửa thương xót của Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc” (Tv 112:1-2). Niềm hạnh phúc thánh đức thật tuyệt vời!

Thiên Chúa phù trì liên vạn đại

Thánh Gia bảo giám mãi thiên thu

Nước có quốc pháp, nhà có gia phong. Truyền thống là điều nên duy trì – nếu đó là truyền thống tốt đẹp và hợp lòng người. Đừng bao giờ câu nệ!

Trình thuật Mt 15:1-6 cho biết: Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và hỏi Ngài: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”. Ngài trả lời bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”. Ngài biết chẳng ai trả lời được nên Ngài lý luận: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa”. Họ chỉ có nước “ngậm tăm”, im như thóc thối, câm như hến.

Có khi chúng ta cũng như bọn Pharisêu đấy, đầu toàn là “đậu hũ” mà bày đặt lý luận để bắt bẻ người khác. Dốt mà chảnh là thế đấy! Không chỉ vậy, chúng ta lấy lý do “vì, bởi, tại,…” mà biện hộ cho mình. Thật nguy hiểm! Thiết tưởng đôi khi chúng ta phải tự xét lại về các động thái của mình, đừng tưởng những gì chúng ta đưa ra đều là vì Chúa, có thể chính chúng ta “chơi ép” Chúa, “điều khiển” Chúa, rồi lại tự tôn bằng các biện hộ đó là Ý Chúa. Ôi, lạy Thiên Chúa!

Ngày Xuân, dịp Tết, nếu còn cha mẹ, thật hạnh phúc cho bạn, nhưng hãy “động não” một chút: Khi bạn đang uống ly nước giải khát, hãy nghĩ xem cha mẹ thường uống gì. Khi bạn mặc những bộ quần áo đắt tiền hàng hiệu, xin hãy nghĩ xem cha mẹ bạn thường mặc ra sao. Khi bạn thoải mái chi tiêu, hãy nghĩ đến những thứ cha mẹ bạn thường dùng thế nào. Cha mẹ đã vì chúng ta mà bỏ bao công sức, đổ bao hạt mồ hôi, đều chỉ vì mong cho bạn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những thứ bạn đang dùng đều là do công sức cha mẹ tạo ra. Xin hãy yêu quý cha mẹ và cố gắng giữ trọn chữ hiếu cho xứng đáng là người con. Hãy hành động ngay khi cha mẹ còn sống, cụ thể là ngay trong dịp Tết này, biết đâu bạn không còn kịp nữa đâu!

Tết đến bình an nhờ Thiên Chúa

Xuân về hạnh phúc với Thánh Gia

Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con có ông bà, cha mẹ, xin thương chúc lành cho họ; xin giúp chúng con biết giữ trọn Ân Nghĩa với Chúa và với ông bà, cha mẹ của chúng con. Xin tình yêu Thánh Gia luôn tràn đầy trong mọi gia đình. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

(*) Cù Lao là siêng năng, cần mẫn, nhọc nhằn. Chín đức cù lao gồm: [1] SINH: Cha mẹ đẻ ra, [2] CÚC: Nâng đỡ, [3] PHỦ: Vỗ về, vuốt ve, [4] SÚC: Cho ăn, bú mớm; [5] TRƯỞNG: Nuôi dưỡng thể xác; [6] DỤC: Giáo dưỡng tinh thần; [7] CỐ: Trông nom, nhìn ngắm; [8] PHỤC: Quấn quít, săn sóc không ngơi; [9] PHÚC: Bồng ẵm, gìn giữ, lo cho con đầy đủ, bảo vệ con khỏi bị ăn hiếp.

 

43.Uống nước nhớ nguồn--Trầm Thiên Thu
Mồng Hai Tết là ngày cầu cho tiền nhân, những người đã “ra đi” trước chúng ta, mang tính cách cầu hồn. Tuy nhiên, dù cầu nguyện cho những người đã khuất bóng, nhưng lại vẫn liên quan chuyện hiếu nghĩa – tức là liên quan những người thân còn sống với chúng ta dịp Xuân này. Hãy nghe Thánh Phaolô nói: “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin” (1 Tm 5:8). Cách so sánh thật “mạnh” khiến chúng ta phải “giật mình”.

Nói đến hiếu nghĩa, nhiều người ngoại giáo thường nghĩ rằng đạo Công giáo không cho thờ kính tổ tiên. Đúng và sai. Đúng vì “không ai được thờ kính (tôn thờ) bất kỳ thụ tạo nào” (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39), kể cả tổ tiên, nhưng họ nghĩ sai vì Công giáo không chỉ “cho phép” (được) mà còn “bắt buộc” (phải) kính nhớ tổ tiên, các thân nhân và người có công trạng. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Uống nước nhớ nguồn”. Như vậy, đừng vội “kết án” Công giáo khi chưa hiểu rõ!

Cổ thư nói về đạo hiếu rất hay, tất nhiên cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo: “Hiếu hữu tam: Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ thứ năng dưỡng”. Nghĩa là “Đạo hiếu có ba điều: Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, hai là không làm nhục cha mẹ, ba là có thể phụng dưỡng cha mẹ”.

Liên quan đạo hiếu vào dịp Tết, chúng ta nhớ tới chuyện An Tiêm: Vào đời Hùng Vương, ở một vùng quê cách xa kinh đô Phong Châu, có một cậu bé mồ côi thường theo người lớn đi săn thú và đánh cá. Năm tám tuổi, cậu được lên kinh đô gặp vua Hùng. Thấy cậu thông minh, nhà vua nhận làm con nuôi và đặt tên là Mai An Tiêm.

Vua Hùng cưới vợ cho An Tiêm và cho cả hai vợ chồng đi phá rừng, làm rẫy trồng trọt. Chỉ ít lâu sau, An Tiêm đã dựng được nhà cửa và gặt được nhiều thóc lúa chứa đầy kho. Thấy thế, bọn người ghen tị tâu nịnh với vua vì cho rằng An Tiêm coi thường ơn vua. Vua Hùng giận lắm, không cần tìm hiểu thực hư ra sao, và đày hai vợ chồng ra hoang đảo.

Cây ngay không sợ chết đứng, vì “người công chính được Chúa độ trì” (Tv 37:17). Ở hoang đảo, có con chim trắng bay tới làm rơi hạt đen xuống bãi cát trắng. An Tiêm đem trồng thử hạt này. Chúng mọc thành những dây bò lan trên mặt cát. Cây có nhiều trái màu xanh thẫm to bằng đầu người. An Tiêm hái một trái đem về cho cả nhà ăn thấy ruột đỏ mà ngọt, lại có nhiều nước. Loại trái “xanh vỏ, đỏ lòng” đó chính là trái dưa hấu.

Bài học về chữ hiếu: Dù bị Phụ vương đày ra hoang đảo, nhưng An Tiêm vẫn giữ trọn đạo hiếu với cha, không hề trách hờn ai. Về sau, vua Hùng hối hận và phục chức cho An Tiêm.

Và chắc hẳn nhiều người (tuổi trung niên trở lên) còn nhớ sách “Nhị Thập Tứ Hiếu”, tác phẩm văn học của tác giả Quách Cư Nghiệp, kể lại gương hiếu thảo của 24 người con đời nhà Nguyên (Trung Hoa). Chính tác giả cũng là người con chí hiếu.

Sách Huấn Ca dạy: “Hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Đồng thời xác nhận: “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44:10-14). Do đó, nhân dân sẽ “kể lại đức khôn ngoan của họ và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen họ” (Hc 44:15).

Thánh Vịnh ca tụng những thành quả của gia đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Tuy nhiên, phúc lộc đó không phải ai cũng có được: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Đúng nhu Chúa Giêsu đã nói chắc: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).

Thánh Phaolô phân tích lý do mà con cái phải tuân giữ đạo hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Tuy nhiên, không phải là làm lớn thì có thể làm láo, là cha mẹ thì có thể độc đoán, muốn làm gì thì làm, mà cũng phải tuân giữ nghiêm luật và thể hiện tình yêu thương đúng nghĩa: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4).

Cuộc sống đời thường và tâm linh đều có những điều phức tạp, cần phải biết kết hợp và cân bằng. Thánh Phaolô nói: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng, tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói” (Ep 6:18-20).

Về đạo hiếu, sách Huấn Ca nhắc nhở những người con: “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7:27-28).

Và Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (Hiến chế Gaudium et Spes – Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay, số 48).

Hãy ghi nhớ và noi theo tấm gương tột đỉnh: Dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng khi mặc xác phàm và làm con trong một gia đình, Chúa Giêsu đã chu toàn bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt 30 năm (x. Lc 2:51-52).

Không chỉ vậy, Chúa Giêsu còn có phong cách hoàn toàn không giống ai khác. (Mt 15:1-6)

Một hôm, có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” (Mt 15:2). Đúng là lũ người xấu bụng, chuyên thọc gậy bánh xe, thích phá rối, ưa gài bẫy, chuyên gia sử dụng loại phần mềm về “dấu trừ” và “dấu chia”, chứ không rành (hoặc không thích) sử dụng “dấu cộng” và “dấu nhân”.

Chọc vào ổ kiến lửa thì sẽ “đỏ người”, chọc tổ ong vò vẽ thì “sáng mắt” ngay thôi. Họ vừa hỏi xong, Chúa Giêsu liền trả lời một hơi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15:4-6).

Tất nhiên là họ chỉ có nước ngậm bồ hòn và im như thóc thối. Ai bảo ngu dốt mà lại chảnh, dám vênh váo “ta đây”, muốn chứng tỏ mình là “ngon” lắm! Thùng càng rỗng càng kêu to, kêu càng to càng mau… xẹp. Phải thế mới đáng đời bè lũ Pha-ri-sêu hèn nhát!

Lạy Thiên Chúa, chúng con chúc tụng Ngài là Chúa Tể càn khôn! Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn. Chúng con xin tán dương Ba Ngôi Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết một lòng hướng về Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới; và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Đường Chân Lý của Ngài.

Xin Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con luôn, để mai đây chúng con cũng được hợp đoàn và chung lời với các ngài mà ca tụng Thiên Chúa muôn đời. Nguyện xin Chúa thương cho mọi người đã hoàn tất đường lữ hành trần gian được niềm vui Xuân Trường Sinh nơi Thiên Quốc.

Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người và cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

 

44.Không có hiếu là vứt đi--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tôn kính tổ tiên và hiếu nghĩa với ông bà cha mẹ là truyền thống và gia sản tốt đẹp của cha ông ta từ bao đời nay.

Đây là nghĩa cử cao quý mà bất cứ ai, đã sinh ra làm người thì khi đến tuổi khôn đều phải được dạy cho biết gia sản quý báu của dân tộc, đồng thời mỗi người phải coi đây là bổn phận, nghĩa vụ trong lòng mến chứ không chỉ đơn thuần là tình cảm tự nhiên.

Ngược lại, nếu ai sống một cuộc đời bất hiếu, thì có thể kể hạng người đó vào số những người vô giáo dục, hay không phải là con người đúng nghĩa!

Hôm nay, Giáo Hội dành riêng ngày mồng hai tết cổ truyền của dân tộc để mời gọi con cái mình hướng về cội nguồn để cầu nguyện cho các bậc sinh thành, và noi gương sáng của các ngài để lại, hầu có thể làm sáng danh Thiên Chúa, rạng rỡ gia phong và vẻ vang dân tộc… đây chính là: “Của lễ làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Cl 3,20).

1. Đạo hiếu ngày xưa

Ngày xưa, cha ông ta rất coi trọng chữ hiếu. Chữ hiếu được đưa lên hàng đầu vì: ”Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết, thời suy ra trăm nết đều nên”.

Vì thế, khi đánh giá một người nào, các cụ ta thường hay xem họ có hiếu nghĩa với ông bà, cha mẹ, sống có tình nghĩa với anh chị em trong gia đình và làng xóm không?

Còn khi chọn ai đó làm quan, nhà vua thường dựa trên quy luật: “Tướng – Hàm –Hiếu”. Tức là phải có tướng mạo, học hành giỏi giang và có hiếu với bậc sinh thành. Tuy nhiên, hiếu nghĩa quyết định người đó đậu hay không.

Khi người xưa coi trọng chữ hiếu như vậy, các bậc tiền bối của chúng ta coi chữ hiếu là căn cốt, là bản lề, là cột trụ trong việc hình thành nhân cách cũng như nền tảng xây dựng xã hội và nghề nghiệp.

Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất, bởi lẽ: “Người ta có cha có mẹ, không ai ở chỗ nẻ chui lên”, nên: “Người ta có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn”.

Vì thế, người thời xưa, sáng ngày mồng một, con cháu quy tụ về nhà tổ để làm lễ gia tiên với người đã khuất, sau đó đến phần bày tỏ hiếu nghĩa với người còn sống.

2. Đạo hiếu ngày nay

Trên đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta khi nói và sống chữ hiếu. Còn ngày nay thì sao?

Nếu ngày xưa, nhà nhà, người người coi lễ giáo gia phong, tôn ty trật tự, hiếu nghĩa thảo hiền là điều quan trọng không thể thiếu trong các mối tương quan, thì ngày nay, có khi: “Mò kim đáy biển”.

Vì thế, trong những ngày giáp tết vừa qua, trên các trang mạng xã hội có đăng tải những tấm hình gây nhiều chú ý, bức xúc kèm theo những lời kết án gắt gao, đó là: hình ảnh một bà cụ già trạc 90 tuổi, bị nhốt dưới bếp và khóa trái cửa, cụ đẩy cửa và nhìn hé ra ngoài, bên dưới là lời nói: “Con ơi, mở cửa cho mẹ, mẹ không lên phòng khách đâu!!!”. Rồi hình ảnh khác, một bà cụ ngồi vệ đường với bát cơm trộn. Cụ vừa ăn vừa khóc! Bên dưới có lời bình: “Cuộc đời vất vả nuôi con, cầu mong con lớn, nhờ con về già! Vậy mà khi tuổi xế tà, sức lực cạn kiệt thân già ốm đau. Con cái thì lại ganh nhau, chăm được ba bữa càu nhàu rên la. Mẹ già cay đắng lệ xa, bát cơm chan lệ như là chan canh”. Ôi đọc mà đau nhói con tim, tê tái tâm hồn!

Rồi nhìn chung quanh, có khi không chừng, ngay cả trong nhà thờ này, vẫn còn đó những đứa con bất hiếu, vô giáo dục khi đối xử với thậm tệ với cha mẹ!

Vì thế, vẫn thấy đây đó nhiều bậc cha mẹ phải bỏ nhà ra đi hay bị đuổi ra khỏi nhà vì cảnh con dâu quá láo, con trai phụ bạc, các cháu hỗn hào… Ôi thật đau xót biết chừng nào!!!

Những hạng người bất hiếu trên, có lẽ họ quên mất một quy luật tất yếu, đó là: “Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”.

Có một câu chuyện kể rằng: một hôm, anh con trai mua một cái sọt, rồi nhốt cha già trong đó và mang vào rừng bỏ đói cho chết. Thấy vậy, con trai anh tuy còn nhỏ, nhưng đã ý thức và đau xót nên nói với cha mình rằng: “Ba đem ông vào rừng rồi sau đó mang sọt về cho con nhé”. Người cha liền hỏi: “Mang về làm gì?” Người con đáp: “Để sau này có cái mà nhốt cha!”. Đây quả là quy luật tất yếu dành cho kẻ bất hiếu.

3. Đạo hiếu trong truyền thống Công Giáo

Đối với người Công Giáo, đạo hiếu không chỉ là một bổn phận phải có đối với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, mà còn là đòi hỏi, là lệnh truyền, là giới răn của chính Thiên Chúa.

Trong thập giới, Thiên Chúa dành ra giới răn thứ tư để truyền phải giữ, đó là: “Thảo kính cha mẹ”. Giới răn này chỉ đứng sau những giới răn tôn thờ Thiên Chúa. Như vậy, ngoài bổn phận với Thiên Chúa, người Công Giáo phải trung thành tuân giữ lòng hiếu nghĩa với tổ tiên.

Khi hiếu kính với tổ tiên, chúng ta sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và tha thứ lỗi lầm, vì: “Ai tôn thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,3-4). Thánh Phaolô thêm: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1-3); vì: “Ai vâng lời cha mẹ trong mọi sự sẽ đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20) và sẽ được Thiên Chúa sẽ nhận lời người hiếu nghĩa cầu xin (x. Hc 3,8).

Còn với Đức Giêsu, ngài nhắc lại và kèm theo cảnh báo: “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15,4).

4. Thi hành việc hiếu nghĩa

Như những gì đã chia sẻ ở trên, chúng ta thấy chữ hiếu đối với người Công Giáo thật là quan trọng, nó kéo theo việc được chúc lành hay chúc dữ tùy vào thái độ của chúng ta.

Thiết nghĩ, ngay trong giây phút này, mỗi người hãy làm mới lại tinh thần hiếu nghĩa đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ.

Trước tiên, chúng ta hãy cầu nguyện, kết hợp với những hy sinh để cầu cho linh hồn các bậc tổ tiên đã ra đi, đồng thời cầu nguyện cho những bậc còn sống được bình an. Hãy nhớ nằm lòng câu ca dao sau: “Cây có gốc mới nở ngành sinh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu. Người ta có gốc từ đâu! Có cha có mẹ rồi sau có mình”.

Thứ đến, hãy vui vẻ lễ phép, chăm lo cơm cháo, đồng quà tấm bánh, nhất là lo thuốc thang khi các ngài ốm đau bênh tật. Sống yêu thương, kính trọng như lời Kinh Thánh dạy: “Con ơi, hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi con” (Hc 3,12-14).

Cuối cùng, nếu ai đã hỗn sược, lếu láo với bậc sinh thành, ngay lập tức, sau thánh lễ này, hãy xin lỗi các ngài và quyết tâm sửa sai. Nên nhớ rằng, đây là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình hay không.

Ước gì, trong dịp tết năm nay, nhất là trong ngày cầu cho tổ tiên, cũng như hằng ngày trong đời sống, mỗi người chúng ta phải thực sự là tấm gương cho con cháu về lòng hiếu nghĩa với các bậc tổ tiên, để như một quy luật tất yếu, con cái sẽ noi gương và báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của chúng ta hôm nay và ngày mai. Amen.

 

45.Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Nhân ngày tết, theo truyền thống dân tộc VN, chúng ta luôn tỏ lòng biết ơn và hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Người công giáo Việt Nam ngay từ thưở ban đầu, tuy không theo những nghi thức nơi dân ngoại, nhưng luôn kính viếng các phần mộ cha ông, và dâng lễ cầu nguyện cho các Ngài. Sau nhiều cố gắng HĐGMVN trước 1975 cũng đã được Tòa Thánh chấp thuận những khẩn cầu để có thể thiết lập bàn thờ tổ tiên trong gia đình, để hằng ngày có thể hiệp thông với các ngài trong cầu nguyện.

Thực sự, ngay từ thời Cựu Ước, tương quan với tổ tiên không chỉ là tương quan nghi lễ, mà còn là tương quan gắn liền với Giao Ước của Thiên Chúa. Theo đó “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con” “Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước” nhờ đó mà “Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại”.

Đến thời Tân Ước, tương quan đó được đẩy lên mức cao tuyệt đối, vì thánh Phaolô đặt tương quan ấy “theo tinh thần của Chúa” mà thánh sử Luca gói trọn trong lời “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” và trước khi từ giã cõi đời, Chúa đã trối Mẹ mình cho người môn đệ Ngài yêu để thay Ngài chăm sóc Mẹ, và Hội Thánh đã nhận lời trối của Chúa để luôn có lòng đón nhận Mẹ Ngài như là mẹ của mình. Thật ra phải nói rằng theo tinh thần của Chúa, thì đời sống đặt nền tảng trên đức hiếu thảo không chỉ với Chúa Cha mà cả với cha mẹ trần gian nữa. Và đức hiếu thảo này chính là nền tảng cho sự thánh thiện của Dân mới.

Thánh Phaolô nhìn vào đức Hiếu Thảo của Chúa là một tương quan 2 chiều: Cha mẹ - con cái. Về phần con cái thì phải “tôn kính cha mẹ” như là “điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”. Về phần cha-mẹ “đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.”.

Bài Tin Mừng cho thấy người làm cha là Giacaria đã nhìn thấy nơi người con của mình là Gioan tiền hô, có một sứ mạng mà Thiên Chúa trao cho, sứ mạng làm cho mọi người nhận biết “Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người” theo “lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta”. Sứ mạng gắn liền với Giao Ước. Mỗi người cha, người mẹ, người con đều phải “phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời”.

Tương quan hai chiều này suốt theo dòng lịch sử luôn bị khủng hoảng, nhiều khi rất khủng khiếp: cha mẹ-con cái nhiều khi trở thành thù hận, thậm chí chém giết như thấy trên các báo ngày nay. Vì thế muốn giữ được tương quan theo tinh thần của Chúa thánh Tông Đồ khuyên chúng ta “Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh”, nghĩa là cho mọi người được Thánh Thần nâng đỡ để chu toàn giới răn này.

Và tôi mượn lời của Thánh Tông Đồ “Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin.”

 

46.Mt 15,1-6--Hãy hiếu kính ông bà cha mẹ--Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Thiên Chúa đã dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: Ai nói với cha với mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15,4-6).

2. CÂU CHUYỆN:

Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già nên tay thường bị run, và có lần đã làm bể bát chén kiểu đắt tiền khi đang ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt một chiếc gáo dừa mang về gọt dũa làm thành một cái chén bằng gáo dừa để bố anh ta dùng. Đứa con trai của anh ta thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh trả lời con rằng: Để ông nội con dùng chén này ăn cơm nếu có run tay làm rơi cũng không bị bể.

Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: “Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này khi bố già dùng sẽ không bị bể nếu bị run tay giống như ông nội bây giờ!”.

3. THẢO LUẬN: Bạn sẽ làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà trong dịp Tết và trong thời gian sắp tới?

4. SUY NIỆM:

1) Bổn phận thảo kính cha mẹ:

Ba ngày Tết, sau ngày Mùng Một dành Tạ Ơn Chúa xin ơn bình an năm mới, thì ngày Mùng Hai dành để Kính nhớ Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ. Có lẽ không ai trong chúng ta lại không biết câu thơ đã trở thành câu ca dao và bài hát bất tử về đạo làm con: “Uống nước nhớ nguồn. Làm con phải hiểu. Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”. Hay: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”…

Và chắc không ai trong chúng ta lại không biết nhạc phẩm Lòng mẹ của cố nhạc sĩ Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình…”

Với người Ki-tô hữu, ai cũng nằm lòng Mười Điều Răn, trong đó, ba điều răn đầu tiên dành cho Chúa, ngay sau đó, điều răn thứ tư dành cho cha mẹ. “Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ”. Người Công Giáo có tháng 11, tháng cầu cho các tín hữu đã qua đời, cũng là dịp đặc biệt nhớ về ông bà cha mẹ đã an nghỉ. Hằng ngày, người Công Giáo tham dự Thánh Lễ luôn kính nhớ nguyện cầu cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt là các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ…” (Kinh Nguyện Thánh Thể).

Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được đón giờ phút thiêng liêng ngày đầu xuân bên cha mẹ, ông bà và con cháu.

2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ:

Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải thể hiện trong suốt thời gian sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.

Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta cha mẹ là lá chắn che chở suốt đời mình.

Nếu cha mẹ già yếu, con cháu không được xem thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài. Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, cho bú mớm và lau dọn vệ sinh khi ta còn thơ bé.

Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết.

3) Làm gì trong những ngày này?:

Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì như câu ca dao người xưa dạy:

“Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

“Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”. Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.

Dịp Xuân Mới, bạn sẽ mua biếu quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ ông bà còn sống và những đấng bề trên đã qua đời?

5. LỜI CẦU:

Lạy Thiên Chúa là Chúa của Mùa Xuân đất trời.

Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay.

Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha.

Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết trân trọng giây phút xum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.

Xin cho chúng con một Năm Mới an lành và hạnh phúc trong bàn tay quan phòng của Cha.- Amen.

 

47.Suy niệm Lời Chúa
Câu chuyện

Dù ai buôn bán nơi đâu

Nhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về

Vào dịp Tết Nguyên đán, người dân ở phương xa về quê sum họp gia đình và dành thời gian để thăm viếng thân nhân, cúng bái tổ tiên, thờ phượng đất trời. Vì Tết là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn”.

Biết ơn trời, nhớ nguồn gốc tổ tiên thật là một tục lệ tốt đẹp và mang đầy nét nhân văn của lòng biết ơn được văn hóa Việt Nam trân trọng và được chính Chúa Kitô đánh giá cao (x. Lc 17,11-19).

Ngày mùng hai tết, người Trung Quốc (gồm cả Đài Loan) có một truyền thống rất tốt đẹp là: Tất cả những người con gái đã xuất giá (lấy chồng) đều cùng với chồng và con trở về nhà cha mẹ ruột của mình, để cùng ăn cơm, cùng vui Tết, cùng chúc tuổi cha mẹ, đó cũng là một cách báo hiếu của con gái đã lấy chồng.

Suy niệm

Mùng hai tết, tuy không khí ngày tết vẫn rộn ràng vui tươi của ngày xuân, những người Công giáo Việt Nam đến nhà thờ và viếng nghĩa trang với tâm trạng bồi hồi xúc động, vì hôm nay kính nhớ tổ tiên, những người con dâng thánh lễ với tấm lòng hiếu thảo cầu nguyện cho gia tiên và hồi tưởng về tổ tiên, ông bà cha mẹ và những người thân đã qua đời. Những ánh nến lung linh soi hồi ức của người con về những kỷ niệm đẹp với ông bà cha mẹ và người thân khi họ còn sống bên cạnh, những nén hương thơm tựa như lời cầu nguyện chân thành dành cho người đã khuất bay tới trời cao như Thánh Vịnh có nói: “Ước chi lời con nguyện, tựa hương trầm bay tỏa trước Thánh Nhan” (Tv 141,2), những bông hoa muôn sắc dâng tiến như tâm tình biết ơn đẹp mãi không phai và luôn thắm như hoa xuân.

Nhớ về tổ tiên, chúng ta làm sống lại tâm tình của sách Huấn ca về sự nghiệp của tổ tiên luôn sống động mãi: “Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ. Thân xác họ được chôn cất bình an, tên tuổi họ sẽ sống đời này qua đời nọ. Sự khôn ngoan của họ cộng đoàn truyền tụng, và công hội thuật lại lời ngợi khen họ” (Hc 44,12-15).

Thảo hiếu với cha mẹ còn sống và kính nhớ ông bà tổ tiên đã khuất bằng lời cầu nguyện trong ngày mùng hai Tết, chúng ta sống tâm tình của thánh Phaolô về chữ hiếu trong gia đình luôn làm phần phúc cho người con thảo mà ngài đã viết khuyên nhủ cộng đoàn tín hữu Êphêsô: “Hãy thảo kính cha mẹ ngươi, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa để ngươi được phần phúc và sống lâu dài trên địa cầu” (Ep 6,1-2).

Hôm nay ngày cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, chúng ta càng thêm xác tín: “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại”, tin vào lời Thầy Giêsu đã phán dạy: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ, cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời” (Ga 11,25-26). Được sống muôn đời là sống trong mùa xuân vĩnh cửu với Chúa trên thiên đàng.

Cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ là hành động của niềm tin vào Đấng Phục Sinh - Chúa Xuân vĩnh cửu sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc thật trường tồn. Kính nhớ ông bà tổ tiên còn là “đạo làm người” trong tư cách con người, biểu hiện lòng biết ơn các đấng sinh thành dưỡng dục.

Ngày xuân nhớ đến gia tiên, với cây nến, nén hương trong tay chúng ta tin rằng: Mừng xuân hôm nay nói về mùa xuân Thiên quốc: Tất cả đều trổ bông với một sức sống mới: Con người cũng sẽ phục sinh, nở hoa khi theo bước chân của Đức Kitô, như thánh Phaolô đã tuyên xưng: “Chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Ðức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Ðức Giêsu” (1Tx 4,14). Tất cả sẽ cùng Đức Kitô đi vào trong Giáo hội Chiến Thắng - Mùa Xuân Cứu Độ.

Ý lực sống

“Người kính mẹ khác nào kẻ tích trữ kho tàng…

Kẻ kính cha sẽ được trường thọ” (Hc 3,4.6).

 

48.Suy Niệm Lời Chúa Mt 15, 1-6
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng trên cho thấy, cuộc đụng độ giữa Chúa Giêsu và những người lãnh đạo Do Thái. Trọng tâm chính của lần này, không phải là cuộc chạm trán trực tiếp có tính cách cá nhân giữa Chúa Giêsu và các rapbi nữa, nhưng là sự đụng độ giữa hai quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa, hai hình thức giữ luật. Các luật sĩ thắc mắc: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân?…” Chúa Giêsu trả lời họ cũng bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”

Theo người Do Thái, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được ghi trong luật. Luật gồm hai phần: Luật thành văn là luật Chúa chứa đựng trong Kinh Thánh, và luật truyền khẩu được các kinh sư triển khai qua nhiều thế hệ, và được xem như là truyền thống của tổ tiên. Luật này có tính cách bắt buộc tuân giữ, nếu không muốn nói là hơn cả luật thành văn. Đối với người Do Thái, tất cả những luật truyền thống là lệnh truyền của Chúa, thực thi những điều luật truyền thống là làm vừa lòng Chúa, là trở nên một người công chính. Tuân giữ luật Chúa là tuân thủ những luật lệ, những nguyên tắc và những lễ nghi bề ngoài, nghiêm ngặt phần hình thức như “rửa tay trước khi ăn”, “dâng lễ phẩm cho Chúa thay thế sự hiếu kính cha mẹ”.

Đối với Chúa Giêsu, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được thể hiện lớn nhất bằng luật yêu thương. Ngài xem giữ luật là một cảm nghiệm sống ở trong lòng, một biểu hiện liên đới, nhân từ, vượt trên hình thức, là tấm lòng trong sạch và đời sống yêu thương.

Hôm nay, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Pharisêu và các kinh sư cách trực tiếp. Nhưng Ngài lấy một ví dụ về việc thực hành luật truyền khẩu để cho họ thấy, chẳng những đây không phải là luật Chúa mà còn có thể đi ngược lại Luật Chúa. Luật Thiên Chúa đã đặt ra là phải “hiếu thảo với cha mẹ của mình”. Nhưng những người Do Thái lại nói: “Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi”. Những người Do Thái này, đã dùng nghi lễ bề ngoài, để thoái thác một bổn phận căn bản là hiếu kính cha mẹ. Họ đã lấy quy ước của các kinh sư để xóa bỏ đi điều răn của Thiên Chúa.

Quý vị và các bạn thân mến,

Hôm nay ngày mùng hai Tết, Giáo Hội Việt Nam dành để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa về lòng hiếu thảo, biết ơn tổ tiên – ông bà – cha mẹ. Trong 10 điều răn Chúa truyền dạy, sau ba điều dành cho Thiên Chúa thì đến điều thứ tư dành cho ông bà, cha mẹ. Thánh Phaolô đã làm cho điều răn thứ tư này mạnh mẽ hơn khi nói: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này (Ephêsô 6, 1-3)”.

Vâng, thảo kính cha mẹ không phải là chuyện gởi những món quà to, nhưng lỡi tết nặng, nhưng thảo kính cha mẹ là về bên các ngài trong những ngày nghỉ, thăm hỏi, chăm sóc, hiện diện, an ủi, đỡ đần và yêu thương. Thảo kính cha mẹ không phải là chuyện khoe thành tích, cũng chẳng là chuyện dâng cúng ít nhiều, nhưng là biết vâng nghe nhưng lời dạy dỗ bảo ban; biết kính trên nhường dưới; biết ghi lòng tạc dạ đền đáp công ơn:

Công cha như núi ngất trời,

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.

Núi cao biển rộng mênh mông,

Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!

Lời Chúa hôm nay mạnh dạn nhắc nhở, không thể có một sự thỏa hiệp nào giữa hai quan niệm luật hình thức và luật yêu thương; không thể san bằng nghi thức bên ngoài với lệnh truyền của Chúa. Những kinh sư đã lẫn lộn mọi luật lệ của Chúa với những nguyên tắc bên ngoài, và họ đã biến những nguyên tắc ấy thành một thứ luật mà họ coi là điều Thiên Chúa đòi hỏi cho riêng họ.

Thảo kính cha mẹ là điều Thiên Chúa muốn, Giáo Hội nhắc nhở, đạo làm người mong khắc ghi:

Đố ai đếm được lá rừng,

Đố ai đếm được mấy từng trời cao,

Đố ai đếm những vì sao,

Đố ai đếm được, công lao mẹ thầy.

Lạy Chúa,

Xin chúc lành cho cha mẹ của chúng con.

Xin ban muôn ơn lành hồn xác cho các ngài.

Xin chúc phúc cho những người con thảo hiếu như Chúa đã hứa.

 

49.Suy niệm Lời Chúa
Giáo hội dành ngày mùng hai tết để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là để nhớ đến công ơn của các ngài. Giáo hội nhớ đến và cầu nguyện cho các ngài là bởi vì, tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những người có công sinh thành, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các ngài tận tụy dậy dỗ mình sống đời sống làm người, và đặc biệt nhờ các ngài mà mình được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển.

“Công cha như núi Thái Sơn.

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Quả thật, truyền thống cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Chính vì vậy mà để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ của mình như thế nào. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:

“Tu đâu cho bằng tu nhà,

thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu”.

Và hơn nữa, đối với người kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau.

Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng nhắc: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo”.

Và đặc biệt trong bài Tin mừng, Đức Giêsu nhắc lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người mọi thời rằng: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”. Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, việc hiếu thảo đối với cha mẹ là điều hết sức quan trọng và là bổn phận hàng đầu của mỗi người kitô hữu.

Như thế, việc thảo kính cha mẹ không còn tùy thuộc vào ý thích cá nhân, nhưng đó là thánh ý của Thiên Chúa, đó là lệnh truyền của Thiên Chúa, và đó là đòi buộc của Thiên Chúa.

Ngày đầu xuân Giáo hội nhắc lại sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Thế nhưng, ta phải có những thái độ nào, phải có những cách hành xử như thế nào, để đạo “thờ cha, kính mẹ” cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa? Đó có phải chỉ là cấp tiền nuôi dưỡng cha mẹ? Hay đó có phải chỉ là đến ngày, đến tháng vào xin một thánh lễ cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên là xong?

Trong sách xưa có một bài về đạo hiếu rất hay và cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo:

“Hiếu hữu tam:

Đại hiếu tôn thân

Kỳ thứ phất nhục

Kỳ thứ năng dưỡng”

Tạm dịch là:

Đạo hiếu có ba điều:

Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ

Hai là không làm nhục cha mẹ mình

Ba là có thể nuôi dưỡng cha mẹ mình.

Vậy, thế nào là tôn vinh cha mẹ? Thế nào là không làm nhục cha mẹ? Và thế nào là dưỡng nuôi cha mẹ mình?

1. Tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và con người

Theo quan niệm của Kitô giáo, thì sự tôn vinh cha mẹ ở cấp độ cao nhất đó là sự tôn vinh cha mẹ, làm rạng rỡ cha mẹ ở trước mặt Thiên Chúa. Niềm vinh dự lớn lao của cha mẹ đó là được tôn vinh trước mặt Thiên Chúa. Thành ra, người có hiếu lớn nhất đó là người sống ngay lành, làm điều tốt trước mặt Thiên Chúa: sống theo thánh ý Chúa, sống theo luật Chúa đó là tốt nhất. Do đó khi sống đạo tốt, đó là mình thể hiện cái hiếu lớn nhất đối với cha mẹ.

Mặt khác, tôn vinh cha mẹ không chỉ trước mặt Thiên Chúa mà còn là tôn vinh, làm rạng danh cha mẹ trước mặt người đời. Mình không thể nói là có hiếu với cha mẹ khi mà đời sống của mình bê bối đủ điều. Mình không thể nói là có hiếu nếu mình cứ sống một cuộc sống mua gian bán lận, một cuộc sống thiếu yêu thương bác ái đối với người khác, một cuộc sống muốn loại trừ những người khác. Do đó, cái hiếu đối với cha mẹ, đó còn là việc thể hiện một đời sống tốt trước mặt người đời. Bởi vì khi mình sống tốt trước mặt người đời là mình đang làm rạng danh, đang tôn vinh cha mẹ mình.

Hơn thế nữa, cái hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, không chỉ là tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và tôn vinh cha mẹ trước mặt người đời, nhưng còn là thể hiện cái hiếu qua việc tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình. Tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình đó là khi mình biết vâng lời cha mẹ, tôn kính cha mẹ. Do đó, mình không thể nói là có hiếu trong khi mình cứ luôn cãi lời cha mẹ, không biết tôn kính cha mẹ.

2. Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ

Trước hết chúng ta xét đến tương quan với Thiên Chúa, đó là đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa. Nghĩa là, khi xa lánh tội lỗi, không làm điều xấu đó là mình thể hiện cái hiếu đối với cha mẹ. Chúng ta không thể là người có hiếu nếu cứ sống trong tình trạng lầm lạc, trong những đam mê, những thú vui tội lỗi. Khi chúng ta phạm tội đó là mình đang làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, và như thế thì không thể nói là mình đang sống trọn chữ hiếu với cha mẹ được. Và chúng ta không chỉ đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa mà còn không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời. Mình đừng để cho người đời vì mình mà chửi cha mẹ mình. Con cái đi làm điều bậy bạ để rồi cha mẹ phải lãnh lấy hậu quả, bị người đời coi thường, khi đó chúng ta không thể là người sống có hiếu được.

3. Và cái hiếu thứ ba đó là có thể nuôi dưỡng cha mẹ

Nuôi dưỡng hay chu cấp cho cha mẹ ở đây không chỉ là về những nhu cầu vật chất nhưng là còn về tinh thần.

Trước mặt Thiên Chúa, mình cầu nguyện cho cha mẹ đó là nuôi dưỡng cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống hay đã qua đời, lời cầu nguyện của chúng ta cho cha mẹ thể hiện lòng hiếu thảo đối với cha mẹ.

Trước mặt người đời, người có hiếu là người có thể phụng dưỡng cho cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần, đem lại niềm vui, đem lại niềm hạnh phúc cho cha mẹ.

Như vậy, cái hiếu lớn nhất của mỗi người đó là tôn vinh cha mẹ, làm rạng danh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời và trước mặt chính mình.

Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời.

Cái hiếu thứ ba đó là nuôi dưỡng cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời.

Làm được như thế đó là mình sống trọn lòng hiếu thảo đối với cha mẹ như lòng Chúa mong muốn.

Lắng nghe lời Chúa trong ngày đầu năm này, ước gì mỗi người một lần nữa ý thức hơn về những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình qua ông bà cha mẹ, để hết lòng tri ân và cảm tạ các ngài. Đồng thời, đây cũng là cơ hội thuận tiện để mình duyệt xét lại lòng thảo hiếu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Việc thảo kính này, không chỉ là dâng một ít quà hay một lời cầu chúc trong ngày đầu năm, nhưng lòng thảo hiếu này, cần được kéo dài trong suốt cuộc đời mỗi người.

Xin Chúa cho mỗi người có được lòng mến yêu, có được một tinh thần thảo hiếu, để chúng ta có thể luôn biết thể hiện lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ.

 

50.Hiếu kính Cha Mẹ
Có một chàng trai sắp thi tốt nghiệp đại học. Trước đó, anh đã nói với cha về ước muốn có chiếc xe thể thao xinh đẹp và mong rằng nó sẽ là quà tặng của cha nhân ngày tốt nghiệp.

Người cha nghe xong im lặng, không có ý kiến gì.

Sau ngày chàng trai tốt nghiệp, người cha đã gọi anh vào phòng, nói rằng ông rất yêu thương và hãnh diện có được đứa con như anh. Sau đó, ông trao cho anh một hộp quà được gói cẩn thận. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và nhìn thấy đó là một quyển sách thể loại “rèn nhân cách” được đóng gáy và bọc bìa da rất đẹp. Chàng trai nhíu mày, “với tất cả tài sản mà cha mình đã có… và món quà tặng cho con tốt nghiệp đại học chỉ là một quyển sách tầm thường này hay sao?”.

Chán nản và buồn phiền với ý nghĩ đó, chàng trai không nói lời nào với cha mình, rời khỏi phòng, để lại quyển sách trên bàn. Sau đó anh bỏ nhà ra đi…

Trong một thời gian dài, chàng trai không liên hệ với cha mình. Cho đến một ngày anh nhận được tin cha mình đã qua đời và để lại toàn bộ tài sản cho anh ta.

Khi anh về đến căn nhà cũ xưa, sự buồn phiền và hối hận tràn ngập trong lòng chàng trai khi anh nhớ đến sự cư xử lạnh nhạt mà anh đã có với cha trước đây. Anh tìm đọc những giấy tờ quan trọng của cha mình và nhìn thấy cuốn sách “rèn nhân cách” vẫn còn nguyên vẹn trên bàn như ngày anh từ bỏ nó. Chàng trai mở cuốn sách ra, lật từng trang và thấy một bao thư được ép chặt trong đó. Anh đã nhẹ nhàng mở bao thư ra, và bỗng dưng nước mắt anh tuôn trào khi nhận ra đó chính là một chìa khóa xe hơi và tờ hóa đơn của chính chiếc xe mà anh ta yêu thích ngày trước. Tờ hóa đơn ghi đúng ngày anh ta tốt nghiệp với dòng chữ đã thanh toán đầy đủ…

Trong cuộc sống của chúng ta, không ai mà không mắc những sai lầm. Có những sai lầm thì sau đó được sửa chữa và trở nên bình thường. Nhưng có những sai lầm sau khi khắc phục rồi, nó vẫn còn để lại “một vết sẹo” mà khó có thể phai mờ được.

Có thể nói, “vết sẹo” mà chúng ta đã gây ra đối với đấng sinh thành, là đáng trách nhất. Vết sẹo đó sẽ mãi mãi ở bên chúng ta, khiến chúng ta luôn bị nhức nhối lương tâm mỗi khi nhớ đến nó. Như trong câu chuyện trên, chàng trai sau khi thức tỉnh, đã vô cùng ân hận, nhưng người cha đã không còn nữa để anh ta làm một cái gì đó, dù chỉ là một lời xin lỗi…

Ngày Tết là dịp để chúng ta về đoàn tụ bên các đấng sinh thành để xin lỗi, để cầu chúc các đấng an khang trường thọ.

Ngày Tết là dịp để con cái nhìn nhận tình thương của cha mẹ là tình thương không thể thiếu cho con bước đi trong cuộc đời.

Dầu rằng, Tình Cha, Tình Mẹ có khác nhau nhưng nhờ Ơn Cha, nhờ Nghĩa Mẹ mà con cái mới đứng vững trước những sóng gió cuộc đời.

Thực vậy, tình cảm của người cha không bao giờ như người mẹ.

Tình thương của cha luôn giấu kín trong lòng, đôi khi còn tỏ ra nghiêm nghị, cứng rằn mỗi khi dạy con. Cha giống như một thân cây vững chắc, bám rễ thật sâu dưới lòng đất để hút nhựa nuôi dưỡng cành lá, hoa, quả.

Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ mềm lòng, cha phải giữ kỷ cương, mẹ chín bỏ làm người, cha phải cầm cân nảy mực. Cuộc sống đòi buộc cha lăn lộn với đời để kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình.

Cha thường xuyên phải xa gia đình, xa con cái, nên tình cảm đôi khi cũng lạt hơn mẹ.

Cha còn thẳng tay trừng phạt những đứa con thiếu ý chí vươn lên, lười biếng, vô dụng.

Cha luôn đòi đứa con phải tự bước đi trên đôi chân của mình, cho dù có té ngã, vẫn phải một mình đứng dậy. Đó chính là một tình thương mà chỉ có người cha mới rèn nên cho con tính đoan trang, tính mực thước và nghị lực khi bước vào đời vốn dĩ luôn ngập tràn những khó khăn.

Nhưng đáng tiếc, chỉ khi nào mất cha, người con mới cảm thấy mất núi Thái Sơn, mất đi cái nóc cột trụ gia đình.

Mất cha, người con mới ngậm ngùi nói rằng:

Còn cha, gót đỏ như son

Mất cha, gót mẹ, gót con đen sì.

Hay:

Thương cha lam lũ một đời,

Tìm trong xa vắng những lời xa xưa.

Bồng bềnh gió đẩy mây đưa,

Bơ vơ con đứng, bóng mưa ngập lòng. (Nguyễn Ánh Hồng)

Vâng, đời của những người làm con sẽ trở nên trống vắng lạc lõng vô cùng nếu như một ngày kia cha mẹ vĩnh viễn ra đi, bỏ lại thân xác trong nấm mồ cô đơn lạnh lẽo. Lúc đó, lòng con lại dâng trào một nỗi buồn mênh mông sâu lắng:

Thấy bơ vơ lạc lõng dấy trong lòng

Khi chợt nhớ mẹ già không còn nữa.

Bởi vì:

Mẹ ơi, trên vạn nẻo đường

Con đi, mới hiểu tình thương mẹ hiền.

Đời con xuôi ngược bao miền

Nhưng tình của mẹ là nguồn yêu thương.

Bởi thế, đạo làm con luôn mời gọi chúng ta hãy thờ cha kính mẹ, để mai này, chúng ta khỏi phải xót xa mà nói rằng:

Tình thương xuôi chảy một miền

Nhưng con nào biết giữ niềm kính yêu

Con nay hầu mẹ tuổi chiều

Nuôi cha dưỡng mẹ, ít nhiều kể công.

Và với lòng hiếu kính đang trào dâng trong ngày Mồng Hai Tết, có lẽ ai trong chúng ta cũng thầm mong ước cho cha mẹ mãi mãi ở cùng chúng ta:

“Ngày đêm khấn nguyện cầu Trời

Cầu cho cha mẹ sống đời với con”.

Cầu cho cha mẹ sống đời với con, đó là tâm nguyện của tất cả những người con dành cho cha mẹ. Bởi lẽ không có một tình con người nào sâu đậm, gắn bó, chân thành bằng tình cha mẹ yêu con, và càng không có một tình yêu nào trên trái đất này có thể thay thể được tình phụ mẫu yêu con, mà bài cầu cho cha mẹ của Linh mục Nguyễn Duy đã lột tả.

“Này chúng con sinh vào đời nhờ có tay của mẹ cha. Là Thái Sơn cao xa cao xa, là Biển Đông bao la bao la, như một rừng hoa ngát hương cả bốn mùa. Ôi tình mẹ cha nói lên tình Chúa. Đời chúng con yên vui hân hoan, nhờ mẹ cha gian nan lo toan, trong giọt mồ hôi có chung cả máu hồng, luôn dạy lòng con biết câu mặn nồng.

Rồi lớn lên, con vào đời, gặp biết bao nhiêu người thương. Dù có ai hy sinh cho con. Dù được ai cho mâm cơm ngon, đi gần về xa, thấy đâu một mái nhà, như nhà mẹ cha thiết tha từ ấy. Rồi lớn lên, con xây non cao, vượt biển khơi bay lên trăng sao. Khi về nhà xưa với cha và với mẹ, vẫn là trẻ thơ bé như ngày nào”

Vâng, lời ca như muốn mời gọi chúng ta hãy sống trọn tình con thảo ngay từ hôm nay. Hãy sống ngoan hiền bên những người cha mẹ đang còn trẻ để hưởng nếm giây phút ngọt ngào mà ai đó nói rằng: là chùm khế ngọt cho con trèo hái mỗi ngày.

Hãy sống thảo hiếu, quan tâm chăm sóc các đấng sinh thành khi đã còng lưng vì một đời lam lũ cho đoàn con.

Vâng, hãy tạ ơn Chúa đi, hãy sống cho trọn vẹn đạo làm con, trọn nghĩa tình với cha mẹ mình, vì cha mẹ là món quà thiêng liêng và quí giá nhất, tình cha mẹ là cái gì rất cao siêu lành thánh, mà lại thật thân mật gần gũi, được Chúa dành cho chúng ta.

Nguyện xin Chúa chúc lành và trả công cho các bậc sinh thành và ước gì những ngừơi con hôm nay đang vinh dự được chúc mừng tuổi mới của cha mẹ, thì cũng biết sống hiếu thảo để đền đáp ân nghĩa cù lao chín chữ mà cha ông ta đã từng khuyên răn rằng:

Công cha như núi ngất trời

Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông

Núi cao biển rộng mênh mông

Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.

Amen.

+++++++++

Note: Chín chữ cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sanh dưỡng con cái.

Chín chữ cù lao gồm:

1. Sinh: Sanh đẻ.

2. Cúc: Nâng đỡ.

3. Dục: Dạy dỗ.

4. Phủ: Vuốt ve triều mến.

5. Xúc: Cho bú sữa.

6. Trưởng: Nuôi cho khôn lớn.

7. Cố: Trông nom.

8. Phục: Ôm ấp.

9. Phúc: Bảo vệ.

 

************************************

 

Chúa Giêsu chữa người phong cùi.

12/02 – CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN năm B.

"Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch".

 

Lời Chúa: Mc 1, 40-45

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch".

Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch.

Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh".

Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.

 

CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN B

Lời Chúa: Lv 13,1-2.44-46; 1Cr 10,31 – 11,1; Mc 1,40-45

 

MỤC LỤC

1. Muốn và có thể--‘Manna’--Lm Nguyễn Cao Siêu SJ.

2. Chạnh lòng thương--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.

3. Bệnh phong tâm hồn--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

4. “Người chạm vào anh”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

5. Hãy loan báo tin vui--GM. Arthur Tonne

6. Người cùi--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

7. "Sạch" và "dơ"--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

8. Người anh em phung hủi--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

9. Đức Giêsu, Đấng chữa lành mọi bệnh tật--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

10. Lạc quan vui sống--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

11. Người mắc bệnh phong--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

12. Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông

13. “Người chạnh lòng thương”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

14. Hủi ngoài da, hủi tâm hồn--Anmai, CSsR

15. Phong cùi--Lm. Giuse Trần Việt Hùng

16. Rất cần sự cảm thông--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

17. “Hãy sống đẹp cho nhau”--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

18. Một vị Thiên Chúa vượt trên lề luật, phong tục--An Phong, OP.

19. Niềm vui tròn đầy--John W. Martens--Lm GB. Văn Hào chuyển ngữ

20. Giơ tay đụng vào--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

21. Niềm hy vọng--Trầm Thiên Thu

22. Ước vọng--Trầm Thiên Thu

23. Ước muốn--Trầm Thiên Thu

24. Hãy cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ

25. Hãy đem đến cho xã hội chút tình người--Lm Nguyễn Hữu Thy

26. Tôi muốn anh được sạch--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

27. Người mắc bệnh phong hủi--Lm. Anphongsô

28. Chữa người phong cùi--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’--Radio Veritas Asia

29. Người bị loại trừ--‘Niềm Vui Chia Sẻ’

30. Bệnh phong cùi--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc

31. Lòng thương xót vượt qua tất cả--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P

32. Ai là người đồng thời với người phong cùi?--‘Mở Ra Những Kho Tàng’

33. Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Trần Bình Trọng

34. Một lời cầu nguyện đẹp--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

35. Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR

36. Niềm vui tăng--Lm. Vũ Đình Tường

37. Chia sẻ niềm vui--Lm. Vũ Đình Tường

38. Giêsu: Đấng chữa lành mọi bệnh tật con người--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê

39. Tìm kiếm lương thực nuôi hồn--Lm. Ignatiô Trần Ngà

40. Cứu chữa khỏi bệnh phong hủi trong tâm hồn--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Trần Ngà

41. Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi--Noel Quesson

42. Hãy được lành!--Lm. Mark Link, SJ.

43. Mùa tình yêu--Lm Giuse Đỗ Vân Lực

44. Đức Giêsu chữa người bị phong cùi--JKN

45. Tình thương và bác ái--Lm. Thu Băng

46. Tình thương--Lm. Nguyễn Hữu An

47. Đức Giêsu chữa một người phong hủi--Lm. FX. Vũ Phan Long

48. Hữu hạn và Toàn năng--Lm. Giuse Lê Danh Tường

49. Vâng phục, tín thác và tri ân--Alphonse Marie Trần Bình An

50. Tôi muốn, anh sạch đi!--Alphonse Marie Trần Bình An

51. Chứng phong hủi biến khỏi anh--Lm. Trầm Phúc

52. Chúa thương chữa người bệnh cùi--Hiếu Nguyễn sưu tầm--thanhlinh.net

53. Tại sao người được chữa lành không giữ lời Đức Giêsu căn dặn?--Lm. Giuse Lê Minh Thông

54. Đối với Thiên Chúa, không ai là người bị bỏ rơi--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest

55. Người phong cùi được sạch--William Barclay

56. Chữa người phung hủi--Jacques Hervieux

57. Chúa Nhật 6 Thường Niên--Noel Quesson

58. Tội lỗi còn hơn phong cùi nữa--Yvon Daigneau

59. Thiên Chúa giàu lòng thương xót--Đaminh Phạm Thanh Cao, OP.

60. Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành

61. Bệnh tật là thông phần đau khổ với Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn

62. Vị lương y

63. Phong cùi

64. Phong cùi

65. Bệnh "cùi" tâm hồn và thân xác

66. Chúa Nhật 6 Thường Niên

67. Chúa Nhật 6 Thường Niên

68. Lạy Ngài, nếu Ngài muốn thì Ngài có thể

69. Được lành sạch để hòa nhập lại cộng đoàn

70. Đức Giêsu, Đấng cứu chữa người bất hạnh

71. Niềm tin vào Lòng Thương Xót

72. Loan báo Tin Mừng

73. “Vì loài người chúng tôi”

74. Cử chỉ

75. Lời của Thiên Chúa có sức chữa lành

76. Lạc quan

77. Lòng từ ái

78. Phong cùi

79. Phong cùi

80. Tông đồ người phong

81. Hàn Mặc Tử

82. Sự chấp nhận

83. Chúa Nhật 6 Thường Niên

84. Hãy làm lại lần nữa

85. “Tôi muốn, anh sạch đi!”

86. Hãy sẻ chia nỗi đau của người đồng loại--Huệ Minh

87. Niềm vui của chàng phung cùi, niềm vui của chúng ta--Huệ Minh

 

1.Muốn và có thể--‘Manna’--Lm Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm

Mẹ Têrêxa lập quỹ giúp người phong ở Calcutta.

Những thùng quyên tiền của Mẹ mang dòng chữ:

“Hãy chạm đến một người phong bằng lòng trắc ẩn của bạn”.

Chạm đến người phong là điều xưa nay ai cũng sợ.

Theo luật Cựu Ước, người phong phải mặc rách, xõa tóc, che râu.

Đi đâu người ấy cũng phải la to: “Ô uế! ô uế!” (Lv 13,45-46).

Bị cách ly với mọi người,

bị coi như mắc trọng tội, đau đớn cả xác lẫn hồn,

người phong sống mà như chết.

Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay khá đặc biệt.

Anh tự ý đến gặp Đức Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài.

Lời van xin của anh thật là một lời xin mẫu mực.

“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Nếu Ngài muốn: anh mời gọi lòng thương xót của Ngài.

Anh để cho Ngài tự do chữa hay không tùy ý.

Dù rất muốn khỏi bệnh,

nhưng anh lại phó thác số phận mình cho ý Ngài muốn.

Ngài có thể: anh tin tưởng vào quyền năng của Ngài.

Anh không nói như người cha của đứa con bị động kinh:

“Nếu Thầy có thể làm được gì...” (Mc 9,22).

Đối với anh, chắc chắn Ngài có thể chữa anh lành bệnh.

Chỉ cần Ngài muốn là đủ rồi.

Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ, phó thác của anh

đã đụng rất mạnh đến chỗ sâu nhất trong lòng Đức Giêsu.

Không cưỡng lại được sự tin cậy đó, Ngài nói: “Tôi muốn.”

Phép lạ phát sinh từ lòng tin của người phong

và từ ý muốn đầy quyền năng của Đức Giêsu.

Nhưng Ngài không chỉ muốn, mà còn đụng vào anh.

Ngài không kinh tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế.

Bàn tay Ngài đụng vào da thịt anh với các vết thương.

Ngài không bị ô uế, nhưng Ngài làm cho anh hết ô uế.

Chính lòng thương đã khiến Ngài mạnh dạn đụng vào anh,

như chính anh đã mạnh dạn đến với Ngài bằng lòng tin.

Đức Giêsu vừa tự do với Lề Luật, vừa lệ thuộc Lề Luật.

Ngài bảo anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ.

Chúng ta cần nếm niềm vui của người phong được lành.

Anh hạnh phúc vì được sạch, được làm người bình thường,

được chung sống với cộng đoàn, được hiệp thông với Thiên Chúa.

Anh lấy lại phẩm giá, ra khỏi những mặc cảm.

Niềm vui quá lớn khiến anh đi loan báo khắp nơi.

Người phong sau khi được khỏi đã có thể vào thành.

Còn Đức Giêsu lại phải ở ngoài thành, nơi hoang vắng.

Từ khi ông Hansen tìm ra vi trùng bệnh phong năm 1871,

người phong đã có được niềm hy vọng chữa lành.

Họ không còn bị trục xuất ra đảo xa hay bị bách hại.

Nhưng để cho họ được sống như mọi người vẫn là điều khó.

Cũng có những người bị ta xa tránh như người phong:

những cô gái lỡ lầm, những người mắc bệnh sida hay nghiện ngập,

những người có tiền án hay thuộc giai cấp cùng đinh...

Hãy đến gần họ và để họ đến gần mình,

vì nói cho cùng, ít nhiều chúng ta đều là người phong.

Gợi Ý Chia Sẻ

Khi cầu nguyện để xin ơn, thường chúng ta ít để cho Chúa được tự do. Chúng ta như muốn bắt Chúa phải làm theo ý mình. Lời cầu xin của người phong có nhắc nhở bạn điều gì đó không?

Cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Bạn có lần nào đụng chạm hay tiếp xúc với một người bị bỏ rơi, bị coi là ô uế không? Bạn có phải trả giá về hành động này không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày đón nhận những người khác là điều vượt quá sức con,

vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày con không thể nào kính trọng kẻ khác được,

vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,

có những ngày mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói,

vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.

Lạy Chúa là Thiên Chúa của con trong những ngày khó khăn đó,

xin hãy nhắc cho con nhớ rằng

tất cả chúng con đều là con cái Chúa

và đừng để con quên Lời Chúa nói:

“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho chính Ta”.

 

2.Chạnh lòng thương--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm.

Đây là quy chế người mắc bệnh phong theo sách Lêvi (13, 45-46).

Người ấy phải mặc quần áo rách,

để tóc bù xù, che môi trên, phải vừa đi vừa kêu lên:

“Ô uế! ô uế!” để người ta biết mà tránh xa.

Người phong phải ở một mình, phải ở một chỗ bên ngoài trại…

Như thế từ xa xưa, người ta đã biết đến sự dễ lây lan của bệnh phong

và ảnh hưởng nguy hiểm trên thân xác do chứng bệnh này.

Để được chứng nhận là đã khỏi bệnh,

người phong phải trình tư tế,

phải qua một quá trình phức tạp để thanh tẩy trong tám ngày,

và phải dâng những con vật bị sát tế để làm lễ xá tội (Lêvi 14).

Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã không giữ Luật Môsê.

Anh dám lại gần Đức Giêsu,

dám tin ngài có khả năng làm anh được sạch,

mặc dù theo truyền thống Kinh Thánh,

chỉ Thiên Chúa mới làm được chuyện đó.

Đức Giêsu vì thương anh, nên cũng đã làm điều không được phép.

Ngài dám đưa bàn tay ra và đụng đến anh,

đụng đến da thịt nhơ uế của anh, đến chính phận người hẩm hiu của anh,

dù chỉ một lời của ngài thôi cũng đủ làm anh khỏi bệnh.

Cái đụng của bàn tay Đức Giêsu đã không làm ngài bị ô uế.

Trái lại, nó đã đem lại sự thanh sạch cho anh bị phong.

Để làm phép lạ chữa bệnh rất lừng lẫy này, Đức Giêsu đã phải trả giá.

Người phong khi được khỏi, đã không tránh được chuyện rêu rao.

Vì thế người ta đổ xô nhau tới khiến ngài phải ở ngoài thành.

Khi người khỏi bệnh vào được thành thì Đức Giêsu lại phải ở hoang địa!

Thái độ chạnh lòng thương và đụng đến người phong của Đức Giêsu

đã gợi hứng cho nhiều tâm hồn noi gương bắt chước.

Tại nhiều trại phong ở Việt Nam,

ta thấy bóng dáng của các nữ tu.

Họ ở trại phong Bến Sắn, Di Linh, Quy Hòa, Văn Môn…

Nhiều nữ tu đã hiến dâng tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong,

đụng đến những vết thương tàn phế nơi thân xác họ.

Các chủng sinh Miền Bắc cũng đã quen tiếp xúc với người phong,

ở lại với họ, săn sóc và chia sẻ thân phận của họ.

Giáo hội Công Giáo sung sướng được phục vụ người phong ở khắp nơi,

và coi đây như một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo Hội.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu thương mến,

xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa

đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con

bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con

để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,

để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được

Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,

không phải bằng lời nói suông,

nhưng bằng cuộc sống chứng tá,

và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

 

3.Bệnh phong tâm hồn--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thời xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: “Ô uế, ô uế”, cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.

Một lần nữa, Đức Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương yêu đã khiến Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái.

Khi chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.

Nhưng điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt. Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.

Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.

Chúng ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta.

Phần ta, hãy biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt, khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.

Lạy Đức Giêsu, xin cứu độ chúng con. Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ

1- Cha Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá về hành động này không?

2- Có bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào? Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?

3- Bạn đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ bao giờ chưa?

4- Bệnh phong tâm hồn là gì?

 

4.“Người chạm vào anh”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Xuất phát từ một chủ để chung là bệnh phong cùi, bài đọc trích sách Lêvi và bài Tin Mừng Thánh Mác-cô hôm nay nêu lên sự khác biệt giữa giáo huấn của Cựu ước và giáo huấn của Tân ước. Xưa cũng như nay, bệnh cùi là một trong những chứng bệnh nan y. Bệnh nhân không chỉ đau đớn về thể xác, mà còn đau đớn về tinh thần, vì bị mọi người khiếp sợ và xa lánh. Sách Lêvi quy định rõ: những ai bị bệnh này phải trùm đầu, phải sống xa khu dân cư và nếu gặp ai, phải hô lớn tiếng để cho người ta biết mà tránh (Bài đọc I). Nếu những người phong cùi bị kết án là “ô uế” thì quyền năng của Con Thiên Chúa đã làm cho người ấy nên thanh sạch. Qua việc giơ tay chạm vào người bệnh nhân, Chúa Giêsu đã vượt qua mọi định kiến của truyền thống cũng như của quan niệm tôn giáo.

Thánh Mác-cô đã dùng động từ “chạm vào” để diễn tả việc Chúa Giêsu chữa lành người cùi. Chạm tới là chia sẻ, là động viên. Đây vừa là một cử chỉ thân thương gần gũi, vừa là một hành động phục hồi người cùi, từ chỗ bị xa lánh, được tái hoà nhập vào cộng đồng. Cử chỉ “chạm tới” của Chúa Giêsu giúp ta liên hệ tới mầu nhiệm nhập thể. Qua mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã cúi mình xuống để gặp gỡ con người. Ngôi Hai đã khiêm hạ rời bỏ địa vị cao sang để làm người hoàn toàn như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Qua mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa trở nên gần gũi con người, chạm tới nỗi đau của họ để chữa lành và giúp họ phục hồi. Chúa Giêsu đã tiếp xúc trực tiếp với những người đau khổ bệnh tật, đồng thời Người truyền cho họ sức mạnh và tình thương. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa chạm tay vào chiếc quan tài của người đã chết, làm cho người thanh niên sống lại và cầm tay trao cho người mẹ đang đau khổ (x. Lc 7,11-18). Sứ mạng thiên sai của Chúa là đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc, giúp họ hòa nhập với cộng đồng xã hội và hướng tới phần thưởng đời đời Thiên Chúa dành cho người công chính.

Trong truyền thống Thánh Kinh, bệnh cùi không đơn giản là bệnh tật thể xác, nhưng còn là sự ô uế đối với phụng vụ và đối với cộng đoàn. Họ không được tham dự các buổi hội họp tôn giáo, cũng không được sống chung với những người khác. Vì vậy, tác giả Mác-cô, thay vì nói được chữa lành, thì nói: anh được sạch. Điều đó có nghĩa anh không còn bị coi là ô uế nữa, nhưng đã được thanh sạch nhờ được Chúa chạm tới. Anh cũng được tái hoà nhập vào đời sống cộng đồng như những người bình thường khác. Sau khi chữa cho anh được sạch, Chúa Giêsu bảo anh đi gặp các tư tế để được xác nhận mình không còn bị nhơ uế nữa. Với việc đi trình diện các tư tế, anh được những người có trách nhiệm trong tôn giáo công nhận là thanh sạch. Anh được quyền tham dự các nghi lễ ở Đền thờ và Hội đường. Anh cũng sẽ có một tương lai như biết bao người khác và không bị mọi người xa lánh phân biệt, nhưng trở thành một công dân bình thường. Chúa Giêsu đến trần gian để mời gọi con người hãy đón nhận nhau trong tình huynh đệ, không phân biệt nhơ uế hay thanh sạch, tội lỗi hay thánh thiện, giàu hay nghèo, vì tất cả là đều là anh chị em với nhau.

Thánh Máccô cũng nhấn mạnh đến một hành động của người phong cùi, đó là “đến gặp Chúa Giêsu”. Đối với anh, đến gặp Chúa Giêsu là một hành động bạo dạn và được thúc đẩy bởi lòng tin. Bởi lẽ, như đã nói ở trên, những người phong cùi không chỉ bị cấm tiếp xúc với người khác, mà còn phải hô lớn tiếng “ô uế! ô uế!” mỗi khi gặp người đi ngang qua. Để đến được với Chúa Giêsu, người cùi cũng phải vượt qua mọi quan niệm khắt khe, mọi rào cản của phong tục tập quán. Lòng tin mạnh mẽ đã giúp anh đến với Chúa Giêsu, vì anh tin rằng Người là Đấng quyền năng có thể làm được mọi sự. Thay vì hô lên “ô uế”, người này lại xin Chúa chữa mình được khỏi bệnh và trở nên thanh sạch.

Hành động “đến gặp Chúa Giêsu” của người cùi là mời gọi thôi thúc chúng ta hãy mạnh dạn đến với Chúa. Có nhiều người vì lý do này hay lý do khác ngại ngùng không muốn đến với Chúa và như thế, càng ngày họ càng xao lãng Đức tin. Hãy dến với Chúa, dù còn nhiều khiếm khuyết bất xứng. Chúa Giêsu vẫn đang chờ đợi chúng ta đến với Người để ban ơn phúc và dẫn dắt chỉ lối cho chúng ta trên đường đời. Người phong cùi là có một quyết định quan trọng là đến với Chúa, và quyết định này đã thay đổi cuộc đời, đem lại cho anh một tương lai. Chúng ta cũng vậy, nếu dứt khoát trút bỏ những yếu hèn tội lỗi để về với Chúa, chúng ta sẽ được Người chạm tới và ban sức mạnh.

Người phong cùi, một khi được chữa lành đã trở thành người loan báo Tin Mừng. Anh muốn hét to lên niềm vui được khỏi bệnh. Anh như người đã chết mà được cứu sống, đã bị loại trừ khỏi xã hội mà nay được tái hòa nhập vào cộng đồng những người thân. Anh muốn nói cho mọi người biết Đức Giêsu là vị Ngôn sứ, là Đấng Thiên sai và là Thiên Chúa quyền năng. Noi gương người phong cùi, mỗi chúng ta, một khi đã lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, cũng hãy là những chứng nhân của lòng thương xót Chúa. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta “hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa”. Thánh nhân cũng cảnh báo chúng ta đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai, nhưng hãy nên gương sáng trong mọi hoàn cảnh. Thánh nhân cũng tự hào vì được trở nên giống Chúa Giêsu và mời gọi mọi người hãy làm như mình (Bài đọc II).

Trong những ngày đầu xuân Tân Sửu, theo truyền thống, chúng ta sum họp gia đình, bạn bè để cầu chúc cho nhau những điều tốt lành. Tuy vậy, nếu có những người vui niềm vui sum họp, thì vẫn còn những người đang tìm một mái ấm hoặc đang khao khát tình thương. Qua việc Chúa chữa người phong cùi, chúng ta nhận được bài giáo huấn quan tâm chia sẻ với những người bất hạnh. Những cử chỉ bác ái khi tết đến xuân về là một trong những nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam, nhất là khi những chia sẻ ấy được thực hiện trong tinh thần bác ái Kitô giáo. Khi quảng đại chia sẻ tinh thần vật chất cho những người kém may mắn, mùa xuân sẽ đẹp hơn, nắng xuân sẽ ấm áp hơn, bởi lẽ tình Chúa tình người đang được nhân rộng nơi cuộc sống hôm nay.

 

5.Hãy loan báo tin vui--GM. Arthur Tonne
Người cha của một gia đình ở Idaho mới trở thành Kitô hữu. Ông nói về Chúa Kitô mỗi lần có dịp. Ngày kia, người láng giềng vô thần thử ông với một câu hỏi: “Thực sự anh có biết gì về Đức Kitô không?”. Người đạo mới trả lời: “Có, tôi biết”. Người vô thần hỏi: “Người sinh ra bao giờ?”. Người đạo mới không biết chắc. Tới câu hỏi khác: “Người chết lúc Người bao nhiêu tuổi?”. Một lần nữa, người đạo mới của Đức Kitô không trả lời được. Quả thực câu trả lời của ông quá yếu không xác thực đối với các câu hỏi của người lối xóm. Cuối cùng người vô thần la lên “Coi, anh chẳng biết gì về Đức Kitô, phải không?”. Người đạo mới trả lời quả quyết: “Tôi biết ít lắm. Nhưng tôi biết điều này: hai năm trước đây, tôi nằm đường, nằm chợ, tôi say sưa, tôi mắc nợ ngập đầu. Hai năm trước đây vợ tôi ít khi mỉm cười. Thấy bóng tôi các con tôi sợ hãi. Nhưng ngày nay, tôi là một người đàn ông tiết độ. Tôi sạch nợ và còn đủ tiền để mua một căn nhà mới. Ngày nay, vợ tôi thường tươi cười, các con tôi chạy lại đón chào tôi. Chúa Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Đó là điều tôi biết”.

Rất giống người phong cùi trong Tin Mừng hôm nay. Anh không biết nhiều về Đức Kitô; nhưng anh biết một điều Đức Kitô đã chữa lành bệnh. Anh ra đi và loan truyền tin ấy. Mặc dù Đức Giêsu đã bảo anh: “Đừng nói với ai cả”.

Người phong cùi khỏi bệnh nói với mọi người. Đó là ý tưởng của ngày hôm nay. Bạn và tôi phải nói cho mọi người những gì mà Đức Giêsu đã làm cho mỗi người chúng ta. Cử chỉ Chúa làm cho người phong cùi cảm động và đáng chú ý: “Người giang tay đụng tới anh… và bỗng nhiên bệnh cùi biến mất”. Đức Giêsu còn giang tay và đụng tới bạn và tôi bằng nhiều cách.

Ví dụ: Đức Kitô đụng vào chúng ta bằng bí tích Rửa Tội, và làm chúng ta nên anh chị em của Người. Người đụng vào chúng ta với dầu Thêm Sức để ban cho chúng ta Thánh Linh Người đã hứa. Trong phép Giải Tội, Đức Kitô đụng tới chúng ta và chữa chúng ta khỏi phong cùi tội lỗi. Khi rước lễ, phép lạ hơn mọi phép lạ, Đức Giêsu không chỉ đụng tới chúng ta, mà còn đến và sống trong tâm hồn chúng ta. Khi Xức Dầu Bệnh Nhân, Người đụng tới thân thể yếu liệt và linh hồn run sợ của chúng ta, Người chữa lành tất cả. Người giang tay cho bạn là cô dâu, là chú rể để thánh hóa sự kết hợp hôn phối của bạn.

Đức Giêsu đặt tay trên tôi trong nghi lễ truyền chức để ban cho tôi quyền làm cho bạn nhiều việc Người đã làm. Chúng ta, người công giáo, như người phong cùi khỏi bệnh phải nói cho người khác những gì mà Đức Kitô đã làm cho chúng ta.

Chúng ta có thể dùng những lời của Đức Trinh Nữ Maria trong bài ca tán tụng Magnificat: “Chúa là Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi muôn việc lớn lao”.

Việc của tôi, một linh mục là nói lên những gì Đức Kitô đã làm cho chúng ta. Bạn là cha, là mẹ phải nói cho con em bạn những gì Đức Kitô đã làm cho bạn và cho chúng. Bạn là giáo lý viên cũng làm như vậy. Tất cả chúng ta phải nói cho những người tin cũng như không tin bằng lời nói, bằng sách báo công giáo, những gì Thầy Chí Thánh đã làm cho chúng ta. Đặc biệt, những gì Người làm trong và qua Thánh Lễ: “Người đổ máu ra cho mọi người”.

Có thể chúng ta không biết nhiều về Đức Kitô. Nhưng chúng ta biết Người đã làm một sự thay đổi lớn - chúng ta được tốt hơn.

Xin Chúa chúc lành cho bạn.

 

6.Người cùi--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Trong chuyến đi từ Sàigòn đến Quy Nhơn năm 1960, tôi giữ mãi một kỷ niệm, không phải kỷ niệm thăm bến cảng, tháp chàm Chiêm Thành hay tường thành Đế đô Quang Trung, nhưng là một làng cùi. Đi đầu đoàn là Giám Mục, Linh mục rồi đến chủng sinh, phải vượt qua mấy ngọn đồi hoang vắng mới đến làng cùi. Bước tới cổng làng, mọi người đều xúm quanh một ngôi mộ của một người cùi nổi tiếng: thi sĩ thời danh Hàn Mặc Tử. Một người cùi đã biến những rung cảm trong sầu khổ thành những vần thơ tuyệt diệu, óng mượt như tơ vàng, nhẹ nhàng như hơi thở, run run như giây đàn. Từ cổng làng vào đến trại, ai nấy đều im lặng, một thứ im lặng rờn rợn sởn gai ốc, vì những ý nghĩ đen tối ghê tởm về bệnh cùi đang lởn vởn trong đầu óc.

Họ đó, người cùi đó. Đó là những dì phước mặc áo trắng đi đầu hàng những người cùi ra đón phái đoàn. Họ vui vẻ, tươi cười, không một chút lo ngại, không một chút mặc cảm tủi hổ về thân phận của mình.

Chúng tôi bỡ ngỡ, ngó qua ngó lại. Một đám trẻ cùi đang xích lại gần chúng tôi. Chúng tôi ái ngại nhìn chúng từ đầu đến chân. Con những người cùi đó. Họ ở trong những căn nhà xây nho nhỏ, sạch sẽ dưới những hàng dừa mát rợi. Nhưng tội nghiệp biết bao! Họ cụt tai, rụng mũi, đục mắt, mất răng, xún lợi, hở hàm, trông như những chiếc đầu lâu cải mả. Chân tay họ như không còn ngón nào. Họ bị sống xa xã hội như bị lưu đầy trong hoang địa rừng rú. Chỉ có mươi bà phước đang sống lăn lộn với họ. Đó là nguồn ủi an duy nhất của họ ngoài niềm tin ra.

Lạy Chúa Giêsu, chỉ một mình Người đã thấu nỗi lòng sầu thảm của người cùi. Người đã đến với họ, thương yêu an ủi họ, tiếp đón họ và cứu chữa họ lành mạnh cả thể xác tâm hồn. Người đã quý mến họ hơn tất cả châu báu thế gian … vì họ là quý tử của nước Trời.

Thế gian xưa cũng như nay, Do thái cũng như Hy lạp, phương Đông cũng như phương Tây đều ghê tởm xua đuổi họ. Nhưng chỗ nào có tiền của, có bụi vàng, có địa vị, có thú vui, thế gian xô nhau đến luồn cúi, lăn lộn, đào bới, moi móc đến bỏ mạng. Thế gian quý vật chất hơn quý người.

May thay, Hội thánh Chúa luôn luôn theo chân Đấng Cứu Thế phục vụ con người, dù đó là ai, nghèo đói, bệnh tật, khốn cùng, da vàng hay da đen, tự do hay nô lệ đều được con cái Hội thánh Chúa, như cha Đamiêng, Đức Giám mục Catxe (Cassaigne) đã phục vụ người cùi cho đến hơi thở cuối cùng. Hàng trăm hàng ngàn tu sĩ đã săn sóc người cùi như anh em một nhà.

Còn chúng ta, chúng ta được phúc là những người lành mạnh, được sống chung với gia đình, sống chung với nhau, được tự do đi đây đó, sao không biết cảm tạ Thiên Chúa? Sao không biết sống hòa thuận ấm cúng thương yêu nhau? Sao không biết giúp đỡ nhau, đưa Tin mừng cho những người nghèo khổ, an ủi kẻ đau yếu, tật nguyền?

Xin cho chúng ta biết luôn tạ ơn Chúa trong việc thương giúp những người bé mọn khổ đau.

 

7."Sạch" và "dơ"--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Trong cuộc sống chung với mọi người, chúng ta nhận thấy có một số người bị người khác khinh bỉ lánh xa; có khi chính chúng ta cũng bị xa lánh như thế. Tại sao? Lời Chúa hôm nay sẽ dạy rõ cho chúng ta về vấn đề này. Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa và xin Chúa giúp chúng ta sống theo lời Ngài dạy.

II. Gợi ý sám hối

- Tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhơ uế, không xứng đáng đến với Chúa. Chúng ta hãy thành tâm sám hối tội lỗi và xin Chúa tẩy sạch tâm hồn chúng ta.

- Nhiều lần chúng ta tự làm nhơ uế đầu óc mình bằng những sách báo, phim ảnh đồi truỵ và những câu chuyện khiếm nhã.

- Chúng ta cũng làm nhơ uế trái tim mình do cách sống ích kỷ và giận hờn ganh ghét.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Lv 13, 1-2. 45-46)

Đoạn này là một phần của sách Lêvi được các chuyên viên gọi là "Luật về sự tinh sạch". Đoạn này đề cập riêng về bệnh cùi. Nhưng quan niệm về "bệnh cùi" không giống với quan niệm ngày nay:

- Tất cả những hiện tượng về da liễu (ung nhọt, da đổi màu hoặc bóng láng) đều bị gọi là "cùi". Người ta còn nghĩ rằng bệnh cùi rất lây, cho nên sách Lêvi buộc những người mắc bệnh ấy phải ở riêng.

- Hơn nữa, người ta còn nghĩ bệnh này có liên hệ đến tôn giáo: trong quan niệm chung rằng bệnh tật là hình phạt của tội lỗi, và bệnh cùi là thứ bệnh nặng nhất, người thời đó cho kẻ mắc bệnh cùi đã phạm tội rất nặng. Do đó người bắt đầu bị cùi phải đến trình diện với tư tế, và sau này "nếu" khỏi bệnh thì cũng phải được tư tế xác nhận. Thực ra, đó chỉ là một chữ "nếu" to tướng, vì người ta đều coi cùi là một chứng nan y không thể nào khỏi, trừ khi chính Thiên Chúa ra tay cứu chữa.

Vì vậy, người nào cứu chữa được bệnh cùi, như Êlisê và Đức Giêsu, thì chứng tỏ người ấy có uy quyền đặc biệt do Thiên Chúa ban.

2. Đáp ca (Tv 31)

Ca tụng sự tha thứ của Thiên Chúa và hạnh phúc của người được tha thứ.

3. Tin Mừng (Mc 1, 40-45)

Như đã nói trong phần giải thích bài đọc I, người Do Thái coi bệnh cùi là a/ chứng nan y chỉ có Thiên Chúa mới chữa khỏi; b/ chứng bệnh rất hay lây; c/ có liên hệ đến tội lỗi.

Người cùi trong bài Tin Mừng này nói với Đức Giêsu "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch". Điều này chứng tỏ anh tin rằng Đức Giêsu là người của Thiên Chúa.

Đức Giêsu đưa tay đặt trên người ấy: chứng tỏ Ngài không sợ lây bệnh, nhất là Ngài không ghê tởm kẻ mắc bệnh cùi.

Ngài chữa bệnh một cách rất nhanh chóng và dễ dàng: chứng tỏ Ngài có uy quyền đặc biệt của Thiên Chúa.

4. Bài đọc II (1 Cr 10, 31--11, 1)

Đoạn thư này tuy không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cũng chung một vấn đề, đó là "sạch và dơ". Người Do Thái thời thánh Phaolô cũng còn phân biệt những thức ăn "sạch" và thức ăn "dơ". Thánh Phaolô đả phá sự phân biệt đó. Điều quan trọng không phải là cân nhắc thức ăn nào sạch hay dơ, mà là dù khi ăn, dù khi uống, dù khi làm bất cứ việc gì khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Thứ bệnh "cùi" nguy hiểm hơn

Những kiến thức y khoa ngày nay giúp chúng ta không còn quá sợ bệnh cùi Hansen nữa.

Nhưng chúng ta phải cảnh giác với một thứ bệnh cùi đặc biệt với những nét mà bài Tin Mừng hôm nay mô tả: Đó là một thứ tội thực sự làm cho tâm hồn con người ra nhơ uế, lại có sức truyền nhiễm rất mạnh, và do đó đáng bị mọi người xa lánh.

Tội "cùi" ấy là gì? Là tội có những ý nghĩ xấu và tội loan truyền những ý nghĩ xấu ấy.

Ebba de Pauli trong quyển "Vị ẩn sĩ" đã mô tả một người cùi như thế: Đó là một bà trung lưu và có thể nói là "đạo đức". Bà không phải bận bịu với việc sinh nhai, bà có nhiều giờ để đi nhà thờ đọc kinh dự lễ, và vẫn còn nhiều giờ để tìm nói chuyện với người này người nọ. Nhưng bà không hiểu tại sao người ta cứ muốn xa lánh bà. Một nhóm người đang trò chuyện với nhau vui vẻ nhưng khi vừa thấy bóng dáng bà thì mọi người đều im bặt. Có người vừa thấy bà xa xa thì đã lẫn đi nơi khác. Bà đến hỏi ý kiến với Vị Ẩn Sĩ. Sau khi hỏi bà một số chi tiết, Vị Ẩn Sĩ kết luận:

- Sở dĩ người ta xa lánh bà vì họ coi bà là một con rắn độc!

- Nhưng sao họ coi tôi là rắn độc?

- Vì trong đầu óc bà đầy những ý tưởng độc hại, như nghĩ xấu về người khác, hằn học, đố kỵ, bi quan... Nghe bà nói, người ta cảm thấy tâm hồn mình chùn xuống, cuộc sống mình buồn thảm hơn.

- Vậy xin ngài chỉ cho tôi phải làm sao.

Vị Ẩn Sĩ khuyên bà thay đổi cách suy nghĩ và cách giao tiếp: từ nay hãy nuôi trong đầu mình những ý tưởng tốt lành; khi nói chuyện với người khác, hãy chia xẻ những ý nghĩ tốt lành ấy, rồi mọi sự sẽ khá hơn.

Bà này làm theo. Và kết quả đúng như Vị Ẩn Sĩ tiên báo.

* 2. Những "con hủi"

Hoàn cảnh đáng thương của người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay không phải vì anh mắc một chứng bệnh ô uế và hay lây, vì thực ra nếu xét theo y khoa bây giờ thì bệnh anh không đến nỗi như thế. Anh đáng thương vì người ta nghĩ anh như thế nên ghê tởm và xa lánh anh.

Có nhiều người tuy không "cùi" nhưng vẫn bị coi là "con hủi" do bị mọi người khinh tởm tránh xa.

Nhưng Đức Giêsu thì không. Ngài rất thương và rất gần gũi với những "con hủi" ấy, chẳng hạn những người thu thuế, đĩ điếm, trộm cắp v. v.

* 3. Nỗi khổ bị xua đuổi

Bệnh cùi là một bệnh khủng khiếp. Tuy nhiên nó không khủng khiếp bằng nỗi khổ bị xua đuổi. Có thể nói, đau khổ lớn nhất của con là bị người khác xua đuổi, vì sự xua đuổi khiến người ta cảm thấy cô đơn, thấy mình không còn phẩm giá gì nữa, thậm chí nó còn khiến người ta nổi loạn.

Trẻ con mà bị cha mẹ xua đuổi thì kể như chết. Người lớn thì sợ bị xua đuổi còn hơn phải chịu tất cả mọi đau khổ khác dồn lại. Vết thương làm người tàn tật đau đớn nhất không phải là chứng bệnh thể xác hay tinh thần người đó đang mắc phải, mà là bị người khác xa lánh.

Người cùi đến với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng này là một người bị xua đuổi. Vì cùi, anh không được sống chung với người khác trong xã hội. Anh phải tránh không để cho người khác chạm tới mình. Hơn nữa vì người ta coi người cùi là kẻ tội lỗi bị Chúa phạt, nên anh còn thêm mặc cảm mình bị chính Thiên Chúa xua đuổi nữa.

Điểm hay trong chuyện này không phải là việc Đức Giêsu chữa anh này khỏi bệnh cùi, mà là cách Ngài đối xử với anh. Khi thấy anh đến gần mình, Ngài không xua đuổi, nhưng để anh đến. Chẳng những thế Ngài còn giơ tay đụng vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng vào anh như thế, Đức Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên có thể nói, trước khi chữa bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của anh.

Khi ta xua đuổi ai thì ta cũng coi người đó là cùi mặc dù có lẽ ta không ý thức rõ như thế. Ta có thể xua đuổi người khác bằng nhiều cách tuy nhỏ nhưng tế nhị, như giọng nói thế nào đó, một cách nhìn thế nào đó v. v. Đó là những mũi kim đâm rất nhỏ nhưng gây đau đớn rất lâu. (Viết theo Flor Mc Carthy)

* 4. Bệnh phong cùi

Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở đôi chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng. Người ta nói với mẹ cậu: "Thằng Glenn của chị sắp thành kẻ tàn phế suốt đời đấy".

Thế mà hai năm sau với niềm tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa. Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.

Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khoa của cậu là chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.

Thi đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này.

*

Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch.

Đối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên "ô uế" để mọi người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng quyền năng của Đức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin: "Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch" (Mc. 1, 40).

Thấy lòng tin của anh, Đức Giêsu động lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh" (Mc. 1, 41). Chạm đến người phong cùi, Đức Giêsu đã phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Đức Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.

M. Carré có nói: "Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông". Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách, chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy người phong cùi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Người.

Vì thế Đức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là cho anh lành sạch cả thể xác lẫn tâm hồn. G. Bossis viết: "Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ".

Bí quyết trở nên hùng cường của nước Mỹ được in trên đồng tiền của họ, đó là câu: "In God we trust" (Chúng tôi tin vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salêsiô nói: "Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa".

*

Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi Người; tất cả nơi Người.

Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi bệnh tật xác hồn chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

* 5. Chạm vào

Nhiều người chúng ta sợ chạm vào người khác.

Thà cho người ăn mày một vài xu, nhưng đừng để người ấy chạm tới mình.

Đức Giêsu thì khác. Ngài không đứng xa, không ngại chạm vào.

Ngài chạm vào những người cùi, những người tội lỗi, những người bệnh tật, và cả những người chết.

Những cái chạm thân ái làm cho lòng người đang lạnh giá được ấm lại và những cõi lòng buồn sầu được vui mừng sung sướng.

Lạy Chúa, xin cho con một trái tim ấm áp và một đôi tay dịu dàng. (Flor Mc Carthy)

* 6. Chúa chạm vào

Người phong cùi nói với Đức Giêsu: "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Đức Giêsu chạnh lòng thương đưa tay đụng vào anh và bảo "Tôi muốn, anh hãy được sạch"

Mẫu đối thoại ngắn này gợi cho tôi nhiều ý tưởng:

+ Xét về mặt thiêng liêng thì ai cũng đều "cùi" vì ai cũng có tội.

+ "Nếu Ngài muốn": Đức Giêsu có muốn cho chúng ta hết "cùi" thiêng liêng không? Dĩ nhiên là muốn, rất muốn, vì Đức Giêsu đến trần gian là để rửa sách tội lỗi cho loài người. Bởi vậy Ngài đã trả lời cho người cùi: "Tôi muốn"

+ Người cùi trong bài Tin Mừng được sạch nhờ Đức Giêsu đụng tay vào anh. Chúng ta ngày nay không chỉ được Đức Giêsu đụng tay vào, mà còn được rước Chúa vào trong cơ thể chúng ta mỗi khi chúng ta rước lễ.

7. Ý nghĩa việc làm của Đức Giêsu

Các sách Tin Mừng trình bày Đức Giêsu luôn làm hai việc: chữa bệnh và rao giảng Tin Mừng. Hai việc này không riêng rẻ nhưng song song nhau và hỗ trợ cho nhau. Nói cách khác, Đức Giêsu không rao giảng suông, mà vừa rao giảng vừa chữa bệnh. Việc chữa bệnh hỗ trợ cho việc rao giảng. Ta cũng có thể nói: chữa bệnh là một cách rao giảng Tin Mừng.

Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay chẳng những được chữa bệnh mà còn được đón nhận Tin Mừng. Chẳng những thế, sau khi khỏi bệnh, chính anh lại trở thành kẻ loan báo Tin Mừng: "Đi khỏi nơi đó, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó... và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người".

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã không ngại đụng chạm đến người cùi để chữa lành và tỏ lòng yêu thương họ. Chúng ta xin Đức Giêsu thương chữa lành cho mọi bệnh tật phần hồn và phần xác cho chúng ta:

1. Trong Hội thánh có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng là sống trong tình trạng tội nặng / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ sớm chạy đến tòa cáo giải để được lành sạch.

2. Trên thế giới có đủ các thứ bệnh tật cả phần xác lẫn phần hồn / Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền biết quan tâm để mọi người dân được chữa bệnh cả phần xác lẫn phần hồn.

3. Ngày nay ở khắp nơi có nhiều người mắc những bệnh hiểm nghèo không thể chữa được như ung thư, sida / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ luôn được nhiều người yêu thương và ủi an.

4. Trong xứ đạo chúng ta có nhiều người mắc bệnh cùi thiêng liêng mà không ý thức và không muốn chữa lành / Chúng ta cầu xin Chúa cho họ gặp dịp để ăn năn sám hối và chạy đến với Chúa để được chữa lành.

Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa luôn luôn muốn chữa lành mọi bệnh tật phần hồn phần xác cho chúng con, Xin cho chúng con biết tin tưởng và tìm đến với Chúa, để Chúa chữa lành cho chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Như những đứa con bệnh hoạn tật nguyền vì những chứng bệnh phần hồn, phần xác, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh sau đây: "Lạy Cha chúng con ở trên trời..."

- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ làm cho tâm hồn chúng con ra nhơ uế, và sự dữ tách chúng con ra khỏi nếp sống cộng đoàn yêu thương, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an..."

VII. Giải tán

Nhờ linh dược của Thánh Thể, mọi bệnh tật nhơ uế trong tâm hồn chúng ta đã được sạch. Chúng ta hãy ra về và giúp cho anh chị em chúng ta cũng được lành sạch như vậy.

 

8.Người anh em phung hủi--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP

Bệnh phung hủi là một chứng bệnh ghê sợ nhất và cũng khó chữa. Hiện nay trên thế giới có chừng 15 triệu nạn nhân. Ở Việt nam chúng ta cũng chẳng thiếu gì người bị phung hủi. Hiện nay có 21 trại phong cùi. Một trong những trại phung nổi tiếng mà thi sĩ Hàn mạc Tử đã phải ở đó và ngôi mộ của thi sĩ cũng còn ở gần đó: trại phung Qui hòa thuộc tỉnh Bình định.

Đối với xã hội Do thái thời Chúa Giêsu, người phung hủi bị coi như là người có tội bị Thiên Chúa phạt, nên họ bị kỳ thị triệt để, bị loại ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, phải sống riêng rẽ ở nơi hẻo lánh, xa mọi người, sống cô đơn, không được tham dự các lễ nghi. Họ sống mà như đã chết. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa khỏi, mới cứu sống được.

Ngoài bệnh phung cùi thể xác, còn một thứ bệnh khác là bệnh phung cùi thiêng liêng. Khi phạm tội trọng là người ta đã trở nên phung cùi trước mặt Chúa. Họ sống mà như đã chết. Chỉ có Thiên Chúa mới làm cho linh hồn họ khỏi bệnh cùi. Hãy đến với toà cáo giải.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: Lv 13,1-2.45-46

Sách Lêvi trong Kinh thánh dùng hai chương nói về căn bệnh này, không phải về phương diện thể lý cho bằng cách đối xử với nạn nhân trong cộng đoàn. Sách Luật không đề cập đến cách điều trị, vì đó không phải là mục tiêu mà trước tiên nhắm đến phương thế khám phá những triệu chứng, để trục xuất người mắc bệnh ra khỏi cộng đoàn.

Luật Maisen đòi buộc người mắc bệnh phung cùi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và khi gặp người nào lành sạch thì phải hô lên: ”Ô uế, ô uế”. Vì là người bị cho là ô uế, tội lỗi nên phải sống riêng rẽ, sống bên ngoài trại.

+ Bài đọc 2: 1Cr 10,31-11,1

Đây là phần kết luận của đoạn kết về vấn đề ăn thịt cúng. Tuy thánh Phaolô không đề cập đến bệnh cùi, nhưng cùng chung một vấn đề là “sạch và dơ”. Người Do thái luôn chú trọng đến đồ ăn sạch và dơ, họ nhất quyết phải lánh xa những đồ ăn dơ. Nhưng thánh Phaolô đã đả phá quan niệm ấy, ngài cho rằng những gì Thiên Chúa đã dựng nên cho con người thì đều sạch cả, nó chỉ trở nên dơ do lòng người mà ra. Vì thế Ngài kết luận: đừng chú trọng phân biệt đồ ăn sạch hay dơ mà điều cần nhất là khi ăn khi uống, dù khi bất cứ làm việc gì khác thì đều phải có ý làm cho sáng danh Chúa.

+ Bài Tin mừng: Mc 1, 40-45

Cả ba sách Phúc âm nhất lãm đều nhắc đến việc Đức Giêsu chữa lành người phung hủi, ở đây có lẽ là một trong những phép lạ đầu tiên của Đức Giêsu. Đó là một trong những dấu chỉ rõ ràng nhất cho thấy thời Thiên sai đã đến. Đối với người Do thái, bệnh phung cùi là bệnh nan y chỉ có Thiên Chúa mới chữa khỏi. Chứng bệnh này rất hay lây và có liên hệ đến tội lỗi. Người phung hủi là người bị loại ra khỏi đời sống xã hội Do thái: khi chữa lành, Đức Giêsu đã phục hồi phẩm giá cho anh và cáo giác việc cấm đoán anh ta cho đến lúc đó.

Việc chữa bệnh này còn nói lên lòng thương xót của Chúa đối với nạn nhân; đồng thời đả phá những luật lệ cấm kỵ làm thương tổn đến phẩm giá con người. Phép lạ này cũng nói lên sứ mạng cứu thế của Ngài.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

Đừng trở thành người phung cùi

I. BỆNH PHUNG HỦI THỜI ĐỨC GIÊSU

1. Luật Do thái về bệnh phung cùi

Theo luật Do thái, những ai mắc bệnh cùi không được sống trà trộn trong dân chúng vì bệnh này là bệnh nan y và hay lây. Vì vậy số phận của họ đã khổ vì bệnh hoạn lại còn khốn nạn hơn vì tình trạng cô đơn.

Căn bệnh đáng sợ nhất đối với người Do thái ngày xưa chính là bệnh cùi. Nó như cơn đại dịch truyền nhiễm gieo rắc biết bao khiếp sợ cho những nạn nhân của nó vì hồi đó không có hy vọng cứu chữa. Số phận của người bệnh cùi thực sự rất đáng thương. Ngay khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh, người bệnh bị cách ly khỏi mọi đời sống xã hội và ép buộc phải trốn tránh xã hội. Điều này có nghĩa là người bệnh phải thốt ra lời từ biệt gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả cuộc sống nghề nghiệp và tất cả mọi người thân thương quen biết. Một lần vĩnh biệt như là đã chết. Tâm trạng âu lo hoảng loạn và nỗi đau lòng khổ tâm vì bị loại trừ hoàn toàn ra khỏi cộng đồng xã hội, phải nói thật là có sức tàn phá khủng khiếp. Hơn nữa, người bệnh bị mang danh là người tội lỗi bị Thiên Chúa phạt.

2. Đau đớn thể xác

Có những triệu chứng để xem biết ai đã mắc chứng bệnh này. Nó có thể bắt đầu bằng những mụn nhỏ và lở loét, những chỗ ung lở thì có mùi tanh hôi. Ở trên mặt thì lông mày rụng hết, mặt lộ ra, thanh quản bị lở, giọng nói trở nên khàn đặc, hơi thở khò khè... Trung bình bệnh này phát triển trong 9 năm, cuối cùng điên loạn, hôn mê và chết.

Cũng có thể bắt đầu bằng tình trạng mất cảm giác ở một vài phần thân thể, dây thần kinh bị nhiễm trùng, gân cốt co lại làm cho hai bàn tay trông giống như móng thú vật. Tiếp theo là tay chân bị lở loét, ngón tay ngón chân rụng dần cho đến khi cả hai bàn tay bàn chân rớt hẳn ra. Trường hợp này có thể kéo dài từ 20 đến 30 năm. Đó là cái chết tiệm tiến kinh khủng làm cho con người chết từng phần một.

3. Đau khổ tinh thần

Đau khổ tinh thần còn lớn hơn đau khổ về thể xác. Theo sách Lêvi, người phung cùi phải sống tách biệt khỏi gia đình và bạn hữu, bị coi như đã chết. Và sách còn cho biết thêm:”Người mắc bệnh phung hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên:”Ô uế, ô uế”. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế, nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là là một nơi bên ngoài trại

(Lv 13, 45-46). Nếu gặp người mạnh khỏe ngoài đường, họ phải hô hoán lên cho người ta biết là mình mắc bệnh, như là dấu hiệu đề phòng cho người khác. Ngoài ra, người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì phong cùi bị coi là nhơ bẩn và còn bị coi là bị Chúa phạt.

Thời trung cổ, người nào mắc bệnh phung cùi thì thầy cả mặc áo lễ, cầm thánh giá đưa người bệnh vào nhà thờ và cử hành lễ an táng.

Đọc những vần thơ của thi sĩ Hàn mặc Tử, người thi sĩ thời danh mắc bệnh cùi cách đây không lâu ở trại cùi Qui hoà, biểu lộ những rung cảm trong cảnh sầu khổ ta mới hiểu được nỗi đau đớn trong cảnh cô đơn thất vọng của người bị bệnh cùi như thế nào.

Đọc chuyện cha Đa-miêng, vị tông đồ người hủi, ta mới thấy xúc động và cảm phục. Khi Đức giám mục ở đảo Hawai giới thiệu cha Đa-miêng với dân cùi ở đảo là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Đa-miêng rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức Cha giải thích cho cha Đa-miêng là họ không thể hiểu nổi một người ở phương xa, không bà con huyết thống gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của họ nên mới đến sờ thử vào con người cha, xem có thực sự mắc bệnh cùi không. Rồi họ nói với nhau:”Không”. Dần dần cha Đa-miêng hoà đồng được với họ, và không còn cảm thấy như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.

II. ĐỨC GIÊSU CHỮA BỆNH PHUNG CÙI

Người Do thái rất sợ người phung cùi vì họ là người ô uế phải tránh xa. Không ai được phép chào hỏi một người phung ở ngoài đường, không được đến gần 2 mét. Nếu người phung hủi đứng đầu gió thì người ở cuối gió phải cách xa 45 mét. Ngay cả một quả trứng, các rabbi Do thái cũng không ăn nếu bán ở đường phố có người phung hủi đi qua.

Vì có những sự kỳ thị và cấm kỵ quá mức như vậy, chúng ta cần xem thái độ của người phung và của Đức Giêsu trong phép lạ chữa bệnh này.

1. Thái độ của người phung cùi

Theo nguyên tắc, người mắc mệnh phung không được đến gần người lành. Đây là một cấm kỵ. Nhưng người phung hủi đây bỏ mọi mặc cảm đến với một lòng tin tưởng: anh chắc chắn nếu Chúa muốn Ngài có thể chữa lành. Nếu không tin, anh đã không dám làm thế vì không một người phung hủi nào dám đến gần một vị bác sĩ vì biết sẽ bị ném đá đuổi đi. Nhưng nguời này đã đến với Đức Giêsu. Anh hoàn toàn tin tưởng Ngài sẵn sàng tiếp đón một người bị mọi người xua đuổi. Lòng tin tưởng đã khiến anh liều mình bị ném đá khi đến gần Đức Giêsu vì đã vi phạm luật.

Anh còn đến với Chúa với tấm lòng khiêm cung khi anh ta nói:”Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được lành”. Nói như thế, anh ta dường như muốn nói với Đức Giêsu rằng:”Tôi biết mình chẳng ra gì, mọi người xa lánh, khinh dể tôi, tôi biết tôi không có quyền gì kêu cầu Ngài, chỉ mong Ngài đoái thương đến cảnh cùng khốn của tôi”. Chính lòng khiêm nhường nhận biết sự bất xứng và nhu cầu của mình, người bệnh tìm đến với Đức Giêsu.

2. Thái độ của Đức Giêsu

Tin mừng cho chúng ta thấy Đức Giêsu rất xúc động cảm thông khi gặp thấy người cùi. Thấy người phung cùi tiến đến, Chúa bầy tỏ lòng thương xót ngay. Dầu luật pháp không cho phép đụng đến người phung hủi, chỉ đến gần 2 mét đã bị ô uế rồi, thế mà Đức Giêsu giơ tay ra đụng đến anh ta. Đối với Đức Giêsu, trong cuộc sống chỉ có một bó buộc duy nhất là luật yêu thương. Đây là lần duy nhất trong số những người tiếp xúc giữa Chúa và người bệnh mà Ngài tỏ ra động lòng trắc ẩn rõ ràng nhất. Điều này nói lên một điều gì đó sâu xa nơi Con Người đang-ra-tay-chữa-lành kia, như là dấu chỉ của lòng thương xót, đồng thời giúp chúng ta nhìn sâu vào trong lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn quan tâm săn sóc mọi thứ bệnh tật phần xác cũng như phần hồn.

III. BỆNH PHUNG HỦI THIÊNG LIÊNG

Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thế xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi, cũng khiến người ta bị cô lập hoá về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân.

Để được thoát khỏi cảnh tuyệt vọng, người phung cùi đã tìm đến Chúa để xin được chữa lành. Người cùi đã không để cho thất vọng chi phối. Anh ta đã đến kêu cầu Chúa. Cái điều mà tội nhân cần có là đức tin và lòng trông cậy của người cùi vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Để có thể nại đến quyền năng và lòng thương xót của Chúa, người ta phải nhận mình có bệnh và có tội. Người không nhận mình là có bệnh và có tội, thì không tìm đến thầy thuốc. Họ là những người vô phương cứu chữa.

Khi phạm tội trọng, đó là lúc linh hồn bị bệnh phong cùi, linh hôn còn sống mà đã như chết trước mặt Chúa, chỉ có phép giải tội mới làm cho linh hồn được khỏi bệnh phong, mới làm cho linh hồn được trong sạch và được sống lại. Thiên Chúa không trực tiếp chữa bệnh phong linh hồn nhưng Ngài nhờ tay Linh mục để sửa chữa và làm cho sống lại.

Truyện: Pho tượng biết hát.

Nơi đồng Memnon, chỗ thành Thèbes cũ, người ta đựng lên hai tượng đá mạnh mẽ, cao độ 20 thước, tượng hai ông vua, khắc trong một thứ đá bở, ngồi đó từ 20 thế kỷ trước Chúa giáng sinh. Chính vua Pharao Amenhotep III đã dựng hai tượng ấy. Một trong” hai cây cột Memnon này”(người đời xưa gọi hai tượng ấy là cột trụ) nứt ra hồi động đất năm 27 trước Chúa giáng sinh. Vừa khi mặt trời mới mọc soi bức tượng, tượng đã ra nóng và bắt đầu rên siết, bắt đầu kêu la cách lạ kỳ, đó là bức tượng Memnon “hát”.

Trong linh hồn ta cũng vậy, sự sống bắt đầu hát, bắt đầu rên siết, bắt đầu reo vui và khoái chí sau khi xưng tội cho tử tế, chính là lúc mức ánh sáng mặt trời đầu hết, lúc sự yêu mến hay thiêu đốt của Chúa Giêsu, đổ xuống chan chứa trong linh hồn ta khi Thầy Cả ban phép giải tội. Chúa Giêsu vào ở lại trong linh hồn ta tràn trề sự vui, và tiếp theo sau Chúa Giêsu một mãnh lực như đồng như sắt chỗi dậy: đó là ý muốn quyết định bắt đầu một cuộc đời mới mẻ, đẹp hơn và thanh sạch hơn. Phải làm thử đã thì mới nghiệm biết phép lạ Chúa làm trong linh hồn ở tòa giải tội. Bởi vì sự dựng nên thế giới là điều ít cao siêu hơn là sự linh hồn chết được sống lại (GM Toth – Phêrô Thông, Tôn giáo với thanh niên, 1949, tr 235).

IV. THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI NẠN NHÂN ĐAU KHỔ

Đứng trước những nạn nhân phong cùi đau khổ này, chúng ta phải có một quyết tâm không bao giờ tự làm cho mình thành người cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình một pháo đài ích kỷ, lập dị... Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử...chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi.

Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.

Thái độ tiếp theo của chúng ta là phải yêu thương và tôn trọng người đau khổ, nhất là những người phong cùi về thể xác cũng như linh hồn. Xử đối tốt với người đau khổ là món quà quí giá chúng ta tặng cho họ, không gì làm cho họ sung sướng hơn. Người ta thường nói:

- Của cho không qúi bằng cách cho.

- Lời chào cao hơn mâm cỗ.

- Vật khinh nhưng hình trọng.

(Tục ngữ)

Chúa Giêsu luôn tiếp đón mọi người một cách lịch sự và yêu thương, không bao giờ Ngài có thái độ cứng rắn hay khinh miệt người đau khổ và tội lỗi. Có biết bao gương tốt đẹp của Chúa Giêsu đã được ghi trong sách Tin Mừng, tất cả đều nói lên tình thương và tôn trọng mọi người, không phân biệt sang hèn hay màu da ngôn ngữ, kẻ lành hay người dữ.

Truyện: Léon Tolstoi và người hành khất.

Một hôm Tolstoi, một đại văn hào người Nga, đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá trong một công viên gần nhà, thì bỗng có người đàn ông lớn tuổi, áo quần nhếch nhác, đến gần và giơ chiếc mũ cũ rách ra trước mặt nhà văn để xin giúp đỡ. Nhà văn liền thò tay vào túi áo định lấy tiền cho người ăn xin, nhưng tìm hết túi áo này sang túi áo khác mà không kiếm thấy đồng nào. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói với sự hối tiếc như sau: “Này người anh em, xin thứ lỗi cho tôi. Vì hôm nay tôi rất tiếc đã để quên ví tiền ở nhà rồi! ” Bấy giờ, người ăn xin thay vì buồn giận, thì đã mỉm cười và nói: “Tôi thật không biết phải cảm ơn ông thế nào cho xứng. Vì hôm nay ông đã cho tôi một món quà qúi báu hơn tiền bạc. Đó là ông đã không những không khinh dể tôi, mà còn tôn trọng tôi khi gọi tôi là “Người anh em”.

 

9.Đức Giêsu, Đấng chữa lành mọi bệnh tật--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Một khi đã tin vào Đức Giêsu nhờ lời rao giảng, các tín hữu tiên khởi tiếp tục tìm hiểu về Đức Giêsu qua những gì các tông đồ kể lại, và phần lớn những điều này được ghi lại nơi các sách Tin Mừng. Niềm tin vào Đức Giêsu làm thay đổi cuộc đời tín hữu, khi họ nhận ra Thiên Chúa hằng yêu thương họ, một cách rất đặc biệt qua Đức Giêsu.

1) Tội còn khủng khiếp hơn bệnh phong cùi nhiều

Ngày nay với tiến bộ của y khoa, người ta đã chế ngự được bệnh phong. Bệnh phong ngày nay cũng chỉ là một bệnh như bao bệnh khác. Ngày nay người ta hay có thái độ xa cách đối với những người mắc bệnh hư miễn nhiễm (HIV, AIDS) như ngày xưa người ta đã có đối với những người mắc bệnh phong cùi. Kitô hữu tuy phải khôn ngoan để không bị lây nhiễm, nhưng không được có thái độ thiếu bác ái trong cách cư xử đối với những người anh chị em bị mắc những bệnh này.

Ngày xưa khi chưa khắc phục được bệnh phong cùi, thì bệnh này là một nỗi kinh hoàng cho những người bị nhiễm và cho cả những thân nhân của người bệnh nữa. Vì là bệnh truyền nhiễm nên người ta đã phải có biện pháp để bảo vệ những người khác cho khỏi bị lây nhiễm, nghĩa là, bảo vệ xã hội khỏi bị tiêu diệt, vì thế thậm chí đôi khi người ta áp dụng những biện pháp rất khắc nghiệt. Người bệnh phải sống tách biệt với người khác, kể cả những người thân thuộc như vợ chồng con cái. Dù rất yêu nhau, họ cũng phải sống xa cách, và không được phép lại gần nhau; điều này áp dụng không chỉ với hai người nam nữ yêu nhau, nhưng cả đối với người mẹ và người con còn thơ dại.

Mọi tật bệnh và đặc biệt bệnh phong cùi, theo quan điểm của người Do Thái, là hậu quả của tội. Qua cái gì cụ thể hữu hình là bệnh, người ta thấy nơi tội một cái gì tương tự như bệnh phong cùi gây cho con người. Tội là thái độ hận thù ghen ghét anh chị em mình và không sống như con Thiên Chúa. Tội làm người ta xa nhau, làm người ta bị cô lập với cộng đoàn, làm người ta mất bình an mất vui và không được hạnh phúc.

2) Đức Giêsu- dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện

Nếu đặt mình vào trường hợp và tâm trạng của anh bị bệnh phong được Đức Giêsu chữa lành hôm nay, người ta sẽ thấy anh ta mong ước được khỏi bệnh “khủng khiếp” này đến độ nào. Ao ước này đặc biệt rất mãnh liệt nếu anh ta có vợ và con thơ yêu dấu. Ai có thể giúp anh ta được? Đức Giêsu xuất hiện như niềm hy vọng của anh ta. Anh ta đã qùy xuống nài xin Đức Giêsu! “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi!”

Làm sao anh ta có thể tin Đức Giêsu như vậy? Qua cách sống, lời giảng dạy, và những dấu lạ Đức Giêsu làm, người ta tin vào Đức Giêsu hơn. Xưa tiên tri Elisa cũng đã chữa viên quan Naaman của Syria, một người bị bệnh cùi chỉ bằng lời truyền cho ông đi tắm bảy lần ở sông Yordan (2V.5, 1-27); bây giờ, nếu Thiên Chúa muốn, nếu vị tiên tri Giêsu này muốn, thì Ngài cũng có thể làm như tiên tri Elisa đã làm chứ. Đức tin của người bệnh phong cùi này phản ảnh đức tin của con người thời đó đối với Đức Giêsu; hơn nữa, qua anh ta người ta nhận ra Thiên Chúa đang tác động nơi anh ta, làm anh ta tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu.

Đức Giêsu đã xúc động và thương anh ta thật sự. Ngài đọc được nỗi khổ của người bị bệnh phong cùi này. Ngài thấy được khao khát của anh ta qua việc anh qùy gối trước Ngài để nài xin ân huệ được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã đưa tay ra, chạm vào anh và nói: “dĩ nhiên là tôi muốn, anh hãy lành đi.” Đức Giêsu thương anh ta, và qua anh ta, thương tất cả con người đang đau khổ bệnh tật. Đức Giêsu thương con người, Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa không muốn con người khổ não, Ngài muốn con người bình an và hạnh phúc. Đức Giêsu là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện để yêu thương, để chữa lành và nối kết con người lại với nhau và với Thiên Chúa.

3) Đức Giêsu không chỉ là một con người

Tại sao Đức Giêsu không chữa tất cả những người bị bệnh phong cùi thời đó? Tại sao Đức Giêsu không chữa lành tất cả mọi bệnh tật của con người? Tại sao Đức Giêsu không biến đổi tất cả để làm con người đừng thù ghét nhau nữa nhưng luôn yêu thương và giúp đỡ nhau? Đức Giêsu là một người như tất cả mọi người, nên Ngài không thể làm được điều đó. Nếu Ngài làm được điều đó, người ta sẽ nói Ngài không là người thật vì Ngài không chia sẻ nỗi bất lực trước nỗi khổ của con người. Ngài là người, Ngài bất lực và thậm chỉ không biết cả tương lai nữa. Những gì con người không biết và không làm được, mà Ngài biết và làm được, thì đó là ơn huệ và là dấu chỉ Thiên Chúa ban để giúp con người nhận biết chân tướng của Ngài mà thôi.

Đức Giêsu chữa người bị bệnh phong cùi không bằng cách như tiên tri Elisa đã làm đối với Naaman, viên quan của Syria, nhưng bằng một lời: “tôi muốn chứ, anh khỏi đi.” Cách chữa bệnh bằng lời của Đức Giêsu, cho người ta biết hơn về chân tính của Ngài. Ngài có uy quyền, trổi vượt hơn cả các tiên tri trước, kể cả Môsê. Thời Môsê, mấy người chống đối ông bị phạt mắc bệnh phong cùi; những người này đã hoảng sợ và xin ông Môsê cầu khẩn Thiên Chúa tha thứ cho họ; ông Môsê đã xin Chúa, và Chúa đã cho họ được khỏi. Đức Giêsu đã không chữa người bị bệnh này như vậy; Ngài làm như thể Ngài có quyền chữa bệnh vậy, và cách nói của Ngài làm người ta hiểu như thể quyền đó từ Ngài mà ra.

Qua cách trình bày của Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu là người rất đặc biệt. Ngài thương yêu con người, rung động trước nỗi khổ của con người, Ngài yêu thương và chữa lành con người, giúp họ trở lại với cộng đoàn con người, trở lại với người thân yêu và nhận ra Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương họ. Đức Giêsu còn là một người trổi vượt hơn những người khác, hơn các tiên tri nổi tiếng ngày xưa là Elisa và Môsê. Như thể tự Ngài, Ngài có quyền chữa lành bệnh tật. Ngài là người, và hơn là một con người. Ngài là Đấng “từ trên.”

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Với cách hành xử của Đức Giêsu hôm nay, bạn được đánh động ở điểm nào? Xin chia sẻ?

2. Thánh Phaolô viết: “vậy dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr. 10, 31). Bạn có thể làm được điều này không? bằng cách nào?

 

10.Lạc quan vui sống--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Cho đến thời Chúa Giêsu, luật lệ Do thái vẫn rất khắc khe đối với những người phong cùi. Những luật lệ này đã có từ thời ông Mô-sê được ghi lại trong chương 13 sách Lê-vi, quy định rất tỉ mỉ và rõ ràng những trường hợp người bị cùi và cách đối xử với những người ấy. Nghĩa là khi có những triệu chứng bệnh ngoài da, người bệnh phải đến gặp tư tế để khám nghiệm. Nếu là phong cùi thì tư tế sẽ tuyên bố người đó không thanh sạch. Từ đó họ không được ở chung với người lành, không được ở trong làng, nhưng phải sống biệt lập trong hoang địa, không được tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Họ không được tới gần người lành, cũng không được để người lành tới gần. Họ phải mặc áo rách, để tóc bù xù, và khi thấy người lành thì phải hô to: "dơ, dơ" để người ta biết mà tránh xa. Nếu họ đụng tới người lành hay người lành đụng tới họ thì người ấy trở thành dơ bẩn và bị khai trừ trong thời gian luật định.

Như vậy, khi đã mắc bệnh cùi là mặc nhiên bị đẩy vào một cái chết dần mòn khủng khiếp. Chẳng những thế, kẻ mắc bệnh cùi còn bị xã hội nguyền rủa và xa lánh. Thân xác tiêu hao, tinh thần băng hoại, đời sống người bệnh không còn gì khác hơn là những tháng ngày rên siết đau thương trong khốn cùng tuyệt vọng.

Hiểu rõ số phận người cùi như vậy, chúng ta sẽ hiểu được trường hợp người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Một người cùi đến gần Chúa Giêsu và Chúa đã chữa cho người ấy được lành sạch. Như thế, người cùi này đã vượt qua các hàng rào mà luật đặt cho người cùi. Và chính Chúa Giêsu cũng đã vượt qua hàng rào luật định khi Ngài chạm tới người cùi. Nghĩa là với lòng tin mạnh mẽ người cùi đón đường và đến gần Chúa. Còn Chúa, thay vì xa lánh như luật cấm, Ngài giơ tay chạm đến người bệnh. Việc Ngài chạm tới người cùi không làm cho Ngài ra dơ bẩn mà lại làm cho người cùi được lành sạch. Ngài không phạm luật nhưng Ngài làm cho luật nên hoàn hảo.

Thái độ của người cùi này đáng cho chúng ta suy nghĩ. Dù với tâm trạng e dè sợ sệt, anh vẫn tin tưởng kêu xin. Lời cầu xin ấy không phải là một hoài nghi, nhưng diễn tả một niềm tin hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa Giêsu giữa cảnh cùng đường tuyệt vọng. Trước thái độ tin tưởng khiêm tốn của anh, Chúa Giêsu rất hài lòng, Ngài dặt nhẹ tay trên vai anh và chữa anh lành bệnh bằng một lời đầy âu yếm: "Tôi muốn, anh hãy được sạch".

Đặt tay hay đụng chạm đến người cùi là một cử chỉ mà lề luật không cho phép và cấm ngặt, vì nó sẽ làm cho con người ra dơ bẩn. Và với quyền năng của mình, không cần đụng chạm vào người cùi, Chúa Giêsu vẫn có thể chữa lành anh ta. Thế nhưng, tình yêu dâng hiến sẽ nhận được tình yêu đáp trả. Tâm tình tin yêu của người cùi đã được Chúa Giêsu đáp trả bằng cử chỉ yêu thương của Ngài.

Câu truyện người cùi trên đây tuy ngắn gọn, nhưng diễn tả được đậm nét nguyên tắc sống của người Kitô hữu: không bi quan về cuộc sống. Không bao giờ mất tin tưởng, dầu cuộc đời xem ra như chẳng còn lối thoát. Và nhất là không bao giờ được quên tình yêu thương săn sóc của Cha trên trời. Bởi vì chẳng có gì ngăn cản con người tìm đến với tình yêu Thiên Chúa. Dù cho cuộc sống có tăm tối u buồn, quanh ta chẳng còn người cảm thông, thì vẫn còn Chúa Giêsu, Ngài luôn chờ đón và sẵn sàng đáp lời chúng ta. Và chúng ta hãy đến với Ngài để học nơi Ngài cách đáp trả.

Chúng ta đừng bao giờ tự làm cho mình thành người mắc bệnh cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình pháo đài ích kỷ, lập dị... có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử... chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi. Hoặc chúng ta từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ chỉ vì họ không cùng tín ngưỡng hay không đồng tư tưởng với chúng ta. Nếu sống như vậy là chúng ta tự làm cho mình mắc bệnh cùi và làm cho anh em trở thành người cùi.

Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.

Lạc quan vui sống là đặc tính cơ bản của người Kitô hữu. Chúng ta cần phải lạc quan vì nhận thức được phẩm giá làm người và làm con Chúa của mình. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng mình luôn được Thiên Chúa yêu thương săn sóc. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng đàng sau mọi gian nan thử thách của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ. Mỗi ngày có những đau khổ, nhưng cũng lại có niềm vui. Người Kitô chúng ta luôn biết vươn mình trên đau khổ để đón nhận niềm vui được trao ban từ tấm lòng, từ bàn tay, từ nụ cười của Thiên Chúa yêu thương. Một cuộc sống như thế phải là điều bình thường cho những ai biết đặt trọn niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa. Một cuộc sống như thế không những chỉ là nguồn vui cho riêng mình mà còn mang hạnh phúc đến cho gia đình, cho xã hội nữa.

 

11.Người mắc bệnh phong--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Có một hòn đảo nằm chơi vơi giữa biển Thái Bình Dương mênh mông, trên đảo chỉ toàn là những người phong: cụt tay, đứt chân, mắt đui, mày lở, răng rụng…Một hôm, đức giám mục phụ trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các linh mục ở Âu châu hãy tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một linh mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khỏe mạnh đã hăng hái đáp lời, đó là cha Đa-Miêng, sau này được tặng thêm biệt danh “Tông đồ người phong”.

Khi đặt chân đến hòn đảo này, cha Đa-Miêng đã được tiếp đón và giới thiệu như sau: chiều hôm đó, trong ngôi nhà thờ rất đông người phong, đức giám mục đứng trên bàn thờ quay xuống giới thiệu với mọi người: “Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng các con, yêu thương săn sóc các con, thì đây cha Đa-Miêng, một linh mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết, các con có sung sướng không?”. Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng cạnh đức giám mục chẳng hiểu họ nói gì. Rồi họ từ từ bước lên cung thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Đa-Miêng thấy họ đến gần mình thì sởn tóc gáy và nổi da gà, trông họ như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây? Họ tiến đến bên cha, người thì sờ vào mặt, người thì sờ vào tay, người thì sờ vào áo cha…Cha hỏi đức giám mục: “Thưa đức cha, họ làm gì vậy?”. Đức cha trả lời: “Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, trẻ trung, đẹp trai, không bệnh tật như họ, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này, họ không tin mắt mình nên họ đến sờ mó vào người cha, xem cha có bị phong như họ không, và họ nói với nhau: “Không, cha đẹp quá, cha không bệnh tật gì cả, cha thương chúng ta quá”.

Sống với những người phong ở đây được một thời gian, dần dần cha Đa-Miêng hòa đồng được với họ, nói tiếng của họ, cha không còn cảm thấy tởm gớm họ như những ngày đầu mới đến, nói đúng hơn, cha đã quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ, nên chẳng còn thấy ghê sợ gớm tởm nữa. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh phong, thân mình lở loét, nhức nhối, mặt mày sần sùi, đen đủi, trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha và kể lại sự hy sinh vĩ đại của cha. Thân mẫu của cha, mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình bà cũng chẳng nhận ra nổi đứa con yêu, bà hỏi đứa cháu: “Hình ai đây mà trông ghê sợ vậy?”, cô cháu trả lời: “Một người phong bên đảo Môlôkai của cha Đa-Miêng đấy”. Qua mắt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với người phong trên hòn đảo này cho đến chết, tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.

Phong, hủi hay cùi cũng là một thứ bệnh. Đã có lần nào anh chị em gặp một người phong cỡ nặng chưa? mời anh chị em vào trại phong Di Linh, Quy Hòa, Bến Sắn...anh chị em sẽ thấy một người phong nặng, không còn hình tượng gì là con người nữa, tứ chi rụng hết, mặt mũi sần sùi, thân mình lở loét. Có người đến đây không chịu nổi sự dơ bẩn đã té xỉu vì hôi thối nặng mùi. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng sợ mắc phải chứng bệnh như thế, chúng ta sẽ tránh xa và gìn giữ vệ sinh cẩn thận kẻo mắc thứ bệnh này.

Cũng vậy, bệnh phong đối với xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị kể là dơ bẩn, một loại không thánh nữa, bị cô lập riêng ra một nơi, không được ở chung với dân làng, ngay cả cha mẹ thân nhân cũng không được chứa người đó trong nhà. Một người phong thời Chúa Giêsu là một nạn nhân thật sự bị ruồng bỏ, đi đâu người đó cũng phải lắc chuông hoặc kêu lên “dơ, dơ” để mọi người biết mà tránh xa.. Đau khổ nhất là bị cộng đồng Do Thái giáo gạt ra ngoài như một loại dứt phép thông công, cho nên, người mắc bệnh phong hết sức đau khổ về tinh thần cũng như thể xác, về của ăn họ chỉ sống nhờ của bố thí.

Nhưng trong câu chuyện Tin Mừng kể lại, chúng ta thấy người phong này đã đi vào xóm làng, chạy theo Chúa Giêsu và xin Ngài cứu chữa. Làm như thế là người này đã vi phạm luật lệ thời đó và có thể bị ném đá chết. Nhưng niềm tin vào Chúa đã khiến anh không sợ hãi để liều mình như thế. Thực vậy, anh đến với Chúa với một niềm tin tuyệt đối, anh khiêm nhường quỳ xuống van xin: “Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Chúng ta hãy để ý câu anh nói “Nếu Ngài muốn”, anh nói như thế không phải là anh hồ nghi gì quyền năng của Chúa, mà ngược lại, anh hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Nói rõ hơn, anh biết rằng Chúa có thể và Chúa có quyền làm cho anh khỏi bệnh, nhưng điều đó còn tùy ý Chúa, tùy lòng thương xót của Chúa. Đây cũng là gương mẫu nhắc nhở chúng ta mỗi khi cầu xin Chúa điều gì: xin vâng, xin tùy ý Chúa, xin tùy lòng thương xót của Chúa.

Đàng khác, người Do Thái hết sức khinh bỉ những người phong, đến nỗi bất cứ ai giao tiếp cách nào với họ, như nói chuyện với họ thôi, cũng bị kể là dơ bẩn và không nên thánh được. Thế mà Chúa Giêsu đã nói chuyện và đụng chạm đến người phong này để chữa lành anh ta thì đủ nói lên lòng thương xót của Chúa như thế nào. Có những phép lạ Chúa chỉ phán một lời hay chỉ làm một cử chỉ nào đó, ở đây Chúa dùng cả hai: Chúa vừa nói “Tôi muốn, anh sạch đi” vừa cầm tay bệnh nhân để nói lên tình thương của Ngài đối với anh ta.

Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: những người phong là những người đáng thương, chúng ta đừng bao giờ sợ hãi mà xa tránh, nhưng hãy thật lòng thăm hỏi và cố gắng chia sẻ, giúp đỡ tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của chúng ta.

 

12.Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên năm B có chung một chủ đề: sự thanh sạch và sự ô uế.

Lv 13: 1-2, 44-46

Đoạn trích sách Lê-vi cho thấy nỗi đau khổ mà người bị bệnh phong hủi phải gánh chịu như thế nào. Người phong hủi đau đớn không chỉ về phần xác nhưng cả phần hồn nữa, vì bệnh ấy bị coi là hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành bệnh phong hủi mà thôi.

1Cr 10: 31-11: 1

Trong đoạn trích thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô cho thấy sự tự do của người Ki-tô hữu vượt lên trên vấn đề thanh sạch và ô uế như những lệnh cấm thức ăn. Bởi lẽ Chúa Ki-tô đến để giải thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ.

Mc 1: 40-45

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su không ngại chạm đến người phong hủi để chữa lành anh ta. Ngài cũng đối xử những tội nhân như vậy. Ngài đến để thanh tẩy chúng ta khỏi tội lỗi.

BÀI ĐỌC I (Lv 13: 1-2, 44-46).

Sách Lê-vi là quyển sách thứ ba trong năm cuốn sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh được gọi là Ngũ Thư hay sách Luật (To-ra). Theo truyền thống, Ngũ Thư nhận được nguồn gợi hứng lên đến tận ông Mô-sê.

Sách Lê-vi là bộ luật Tư Tế hay Lê-vi, được gọi như vậy vì những tư tế đều thuộc chi tộc Lê-vi. Xưa kia, chi tộc Lê-vi chỉ định các tư tế phục vụ những đền thánh khác nhau, khi phụng tự được tập trung vào một nơi, họ phục vụ Đền Thánh Giê-ru-sa-lem. Sau nầy, có một sự phân chia giữa các tư tế chuyên lo phụng sự Đền Thánh và các thầy Lê vi đảm nhận những công việc thứ yếu, như chúng ta gặp thấy trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân lành (Lc 10: 31-32).

1. Nỗi khốn cùng về phương diện xã hội:

Bộ luật tư tế nầy dành chương 13 cho “luật thanh sạch”. Tất cả những ai mắc phải những triệu chứng phong hủi, bao gồm cả các chứng bệnh ngoài da, đều là những người ô uế, vì thế phải bị cách ly ra khỏi thành phố, làng mạc và không được tiếp xúc với bất kỳ ai.

Cách ăn mặc cũng như kiểu tóc là dấu hiệu đẳng cấp xã hội. Vì thế, kẻ bị khai trừ cũng phải ăn mặc rách rưới, đầu tóc bù xù, phải che mặt và kêu lớn tiếng: “Ô uế! Ô uế!” để mọi người biết sự hiện diện của mình mà tránh.

2. Nỗi khốn cùng về phương diện tinh thần:

Khái niệm về thanh sạch và ô uế chung cho tất cả mọi tôn giáo cổ xưa. Khái niệm nầy liên kết chặc chẻ với ý tưởng thánh thiêng. Dân Ít-ra-en cốt yếu là một cộng đoàn thánh, một cộng đoàn phụng tự, vì thế, những ai ô uế không được tham dự lễ tế, bị loại ra khỏi đời sống phụng vụ.

Bệnh phong hủi gợi ra không những sự ghê tởm về mặt thể lý, nhưng còn một hậu ý luân lý được nối kết vào đây: bệnh phong hủi là dấu chỉ của tội lỗi. Về phương diện tinh thần, bệnh phong hủi được xem như hình phạt do tội lỗi gây nên. Vì thế, chỉ những tư tế mới có thẩm quyền áp dụng những quy định đối với người phong hủi: “Nếu trên da thịt người nào có những triệu chứng bệnh phong cùi, thì phải đem người ấy đến với thầy tư tế”.

Những người phong hủi bị coi là “đồ ô uế”, “đồ bỏ đi”, “kẻ bị khai trừ”, những người mà Cựu Ước thường gọi họ “ai thấy cũng che mặt không nhìn”. Vì thế, “Người Tôi Trung của Đức Chúa” được mô tả như một người phong hủi, vì Ngài gánh tội và đền tội cho muôn người (x. Is 53: 3).

Đó là thân phận bi thương cùng cực của những người phong hủi được mô tả trong đoạn trích sách Lê-vi này. Họ đau đớn không chỉ về mặt thể xác: bệnh phong hủi ăn sâu trên da thịt mình; nhưng cả về mặt xã hội: vì là chứng bệnh truyền nhiễm, họ bị loại ra ngoài đời sống xã hội; lẫn về mặt tinh thần: vì được coi là những người tội lỗi, bị khai trừ khỏi đời sống phụng vụ và không được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa.

BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 31-11: 1)

Đoạn trích thư thánh Phao-lô nầy làm chứng cho một cuộc cách mạng. Thánh nhân ngầm nhắc nhở các Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái rằng không có bất kỳ phân biệt nào giữa thức ăn thanh sạch hay thức ăn ô uế. Điều cốt yếu là tạ ơn Thiên Chúa, vì mọi thức ăn đều do Thiên Chúa ban để con người hưởng dùng. Thêm nữa, không có hành động nào là vô tình. Tất cả những gì chúng ta làm là để tôn vinh Thiên Chúa.

1. Vấn đề ăn thịt cúng:

Sách Lê-vi đưa ra nhiều lệnh cấm về thức ăn mà dân Ít-ra-en phải tuân giữ. Vào thời thánh Phao-lô, những người Ki-tô hữu gốc Do thái đã từ bỏ luật Mô-sê và không còn bận lòng về vấn đề này nữa. Tuy nhiên có một vấn đề khác được đặt ra cho họ, nhưng cũng cho những người Ki-tô hữu gốc lương dân: người ta có được phép ăn thịt mà lương dân dâng cúng cho các thần linh của họ không?

2. Giải pháp của thánh Phao-lô:

Đoạn trích nầy là lời kết của một đoạn văn dài, đồng thời cũng là bản tóm tắt. Những ám chỉ ở đây cần được soi sáng.

“Anh em đừng làm gương xấu cho bất kỳ ai”. Quả thật, người Ki-tô hữu hoàn toàn tự do dùng bất cứ thức ăn nào, vì thế họ có thể gây nên gương xấu. Thế nên cần phải thận trọng khi ăn khi uống.

Để hiểu được câu trả lời của thánh Phao-lô về vấn đề này, chúng ta biết rằng thánh nhân thường đẩy cuộc tranh luận lên cao và tinh thần hóa những mối quan tâm. Trong thư thứ nhất gởi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô diễn tả tư tưởng của mình rất rõ ràng: “Thật vậy, tất cả những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ” (1Tm 4: 4).

Ngay ở 1Cr 10: 25-30 trước đoạn trích hôm nay, thánh nhân triển khai lời dạy của mình một cách tế nhị như sau: nếu có người ngoại giáo nào mời anh em, thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần đặt vấn đề lương tâm. Nhưng nếu có người báo trước cho anh em: “Đây là của cúng”, thì anh em đừng ăn, không phải anh em không được phép ăn, nhưng để tránh gây gương xấu cho người đó trên con đường hiểu biết Ki-tô giáo. Đối với người Do thái không cải đạo cũng vậy, hãy cẩn trọng đừng gây gương xấu cho người ấy. Nói cách khác, phải “thích nghi vào mọi hoàn cảnh” với mối quan tâm duy nhất, đó là “cứu độ người khác”. Đây là luật vàng của Đức Ái.

TIN MỪNG (Mc 1: 40-45)

Thánh Mác-cô tiếp tục kể cho chúng ta sứ vụ rao giảng của Đức Giê-su khắp miền Ga-li-lê và nhấn mạnh những “dấu chỉ” kèm theo, đặc biệt việc chữa lành bệnh hoạn tật nguyền. Trong đoạn văn nầy, Chúa Giê-su chữa lành một người phong hủi.

Bài Đọc I đã mô tả cho chúng ta hoàn cảnh bi thương cùng cực mà người phong hủi phải chịu dưới Luật Mô-sê. Trong đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giê-su vừa vượt qua Lề Luật vừa tuân thủ Lề Luật. Cuộc gặp gỡ của Ngài với người phong hủi bày tỏ sự đồng cảm sâu xa của Ngài, đồng thời cũng cho thấy quyền năng siêu việt ở nơi Ngài.

1. Vượt qua Lề Luật:

Trước hoàn cảnh đáng thương của một người phong hủi bị xem là đồ ô uế và bị cách ly khỏi xã hội và tôn giáo, không ai dám đến gần, Đức Giê-su “chạnh lòng thương”. Đây là diễn ngữ mà Tân Ước thường dành riêng cho Đức Giê-su để diễn tả sự đồng cảm tận đáy lòng đến mức Ngài phải ra tay hành động, không thể khoanh tay đứng nhìn, như Đức Giê-su “chạnh lòng thương” một bà góa có người con trai một qua đời (Lc 7: 13) hay Đức Giê-su “chạnh lòng thương” hai người mù tại Giê-ri-cô (Mt 20: 34).

Thật ra, nhiều lần Ngài để lộ mối quan tâm của Ngài đối với những người phong hủi và xem việc chữa lành phong hủi như một trong những dấu chỉ của thời Thiên Sai. Với những môn đệ được Gioan Tẩy giả sai đến, Ngài nói: “Các ngươi cứ về thuật lại cho Gioan Tẩy Giả những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người phong hủi được sạch…” (Lc 7: 22; Mt 11: 5). Với các môn đệ Ngài sai đi truyền giáo, Ngài vạch ra như một chương trình hành động: “Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh…” (Mt 10: 8). Một ngày kia, Đức Giê-su chữa lành một nhóm mười người phong hủi (Lc 17: 11-9).

Đức Giê-su không ngại vượt lên trên các tập tục và các quy định của Lề Luật khi giơ tay chạm đến người phong hủi. Đức Giê-su biết và Ngài sẽ nói thẳng ra: điều làm cho con người ra ô uế không đến từ bên ngoài, nhưng từ bên trong, tức là những tư tưởng gian tà ở trong lòng của con người. Đó mới thật sự làm cho con người ra ô uế (Mt 15: 17-20).

2. Tuân thủ Lề Luật:

Đồng thời, Đức Giê-su cho thấy Ngài trung thành tuân thủ Lề Luật khi bảo người phong hủi: “Hãy trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm bằng chứng cho người ta”. Quả thật, chỉ vị tư tế mới có thể cho phép anh ta gia nhập trở lại đời sống cộng đoàn sau khi chứng thực anh khỏi bệnh và chu toàn “nghi thức thanh tẩy” như luật định.

Ngoài ra, Đức Giê-su còn cảnh báo anh cách nghiêm khắc: “Coi chừng không được nói gì cho ai cả”. Chúng ta lại gặp thấy ở nơi Đức Giê-su cùng một thái độ như trước đây: tránh sự cuồng nhiệt của đám đông làm phương hại đến sứ mạng của Ngài. Tuy nhiên, vì người phong hủi đã không tuân giữ lệnh im lặng nầy, nên “Đức Giê-su không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành”. Làm thế nào anh ta có thể kiềm chế niềm vui được tái sinh mà anh vừa mới lãnh nhận từ Ngài được chứ?

3. Bệnh phong hủi của tâm hồn:

Thật ra, Đức Giê-su đối xử người phong hủi như thế nào, thì Ngài cũng đối xử những người tội lỗi cũng như vậy. Ngài không ngần ngại giao tiếp với họ. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy Ngài để cho một phụ nữ tai tiếng đụng chạm đến mình (Lc 7: 38), và thậm chí Ngài còn đồng bàn với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi (Lc 15: 1-3). Như vậy, Ngài bảo đảm với chúng ta: Ngài không ghê tởm tội lỗi của chúng ta, Ngài không muốn khai trừ chúng ta, ngược lại Ngài công bố: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mt 9: 12; Mc 2: 17).

 

13.“Người chạnh lòng thương”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Người mắc bệnh phong

Bài Tin Mừng của Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta hình dung ra một người mắc bệnh phong và để cho những cảm xúc tự nhiên của chúng ta xuất hiện (ghê người, không muốn nhìn hay tiếp cận, cảm giác buồn nôn…). Chắc chắn trong chúng ta, đã có những người nhìn thấy và hơn nữa đi thăm hỏi những người phong; nếu không, chúng ta có lẽ đã có lần nhìn thấy người bệnh phong trong phim ảnh, chẳng hạn trong phim Ben Hur.

a. Đau khổ thể lý

Bệnh phong là một những thứ bệnh khủng khiếp nhất mà loài người chúng ta mắc phải: da thịt người mắc bệnh lở loét; khi bị nặng, vết thương sẽ lõm vào da thịt; tình trạng mất cảm giác sẽ xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể; sau đó các bắp thịt tiêu đi; nếu ở giai đoạn bị nặng, các ngón tay và ngón chân sẽ rụng dần.

Chúng ta hãy cảm thông và cầu nguyện cho những người bệnh phong, và nếu có thể, chúng ta hãy giúp đỡ san sẻ. Bởi vì chính chúng ta là những người được nâng đỡ trước tiên khi chúng ta nghĩ tới những người cùng khổ. Thật vậy, khi liên đối với người cùng khổ, chúng ta sẽ tương đối hóa những nỗi khổ của chúng ta, chúng ta thấy nhẹ nhàng hơn, chúng ta có thể ra khỏi mình để hướng về những người bất hạnh hơn; và năng động này sẽ làm cho chúng ta bình an hơn để đảm nhận thân phận của mình trong niềm hi vọng.

b. Đau khổ tinh thần

Chúng ta vừa nói đến sự đau đớn tột cùng trong thân xác; nhưng người bệnh phong còn chịu một sự đau khổ còn lớn hơn nữa là bị cách ly khỏi môi trường sống bình thường, khỏi nhà của mình, khỏi những người thân yêu, và có khi còn bị bỏ rơi luôn, không được ai nhìn nhận nữa, như Lề Luật, trong bài đọc thứ nhất, trích sách Lê-vi, truyền lệnh:

Người mắc bệnh phong phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.

(Lv 13, 46)

Như thế, người bị bệnh vừa đau khổ trong thân xác và vừa đau khổ về tinh thần, vì thiếu tình thương và sự liên đới.

c. Đau khổ thiêng liêng

Vẫn chưa hết, theo quan niệm của Do thái giáo, bệnh phong hủi là hình phạt tiêu biểu nhất của Thiên Chúa đối với người có tội, như sách Lê-vi nói:

Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: Ô uế! Ô uế!

(Lv 13, 45)

Tội vô hình có trong tâm hồn, Chúa cho nó hiện hình ra bên ngoài và nó xấu xa ghê tởm như là bệnh cùi. Theo quan niệm này, chúng ta có thể giả sử rằng, nếu tất cả mọi tội chúng ta đã phạm trong thầm kín mà lộ ra bên ngoài khiến người ta nhìn thấy được, có lẽ chúng ta cũng không khác người phong cùi bao nhiêu, và có khi còn ghê hơn ! Và điều này hoàn toàn đúng, vì hậu quả của tội nằm ngay trong hành vi phạm tội, không cần phải Chúa phạt; tội, dù bé dù to, luôn để lại dấu vết nhơ uế trong tâm hồn, và làm đổ vỡ ngay trong lòng chúng ta các mối tương quan: với chính tôi, với người khác, với cộng đồng và với chính Chúa. Vì thế chúng ta cũng là những người mắc bệnh phong đầy người, nhưng vô hình.

***

Như vậy, nỗi đau của người bị bệnh có tới ba chiều kích: đau khổ trong thân xác, đau khổ trong tinh thần, và đau khổ vì cảm thức bị Thiên Chúa trừng phạt, và nhiều khi vì những tội gì cũng chẳng rõ hay vì những những tội chẳng đáng bị phạt như thế.

Thật ra, chúng ta cũng đã từng có kinh nghiệm tương tự: khi chúng ta bị đau, chúng ta rất nhạy cảm với sự hiện diện chăm sóc và yêu thương của người thân, và vì người thân không thể lúc nào cũng ở bên cạnh và chăm sóc chúng ta, chúng ta thường có cảm thức bị bỏ rơi, bị quên lãng, nhưng thực ra không phải như vậy; hơn nữa, chúng ta còn có thể tự hỏi: Tại sao tôi lại ra nông nỗi này? Đây có phải là một hình phạt của Chúa không? Tôi đã làm gì để bị như thế này?

2. “Người chạnh lòng thương”

Tuy nhiên, Lời Chúa trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ngừng đặt câu hỏi: tại sao lại bệnh tật, tại sao lại đủ mọi khổ đau, phải chăng là hình phạt? Bởi vì, càng đặt câu hỏi, chúng ta sẽ càng bị dồn vào ngõ bí và tự làm khổ mình. Hơn nữa, ma quỉ sẽ thờ cơ gieo vào lòng trí chúng ta nọc độc quên ơn và nghi ngờ, từ đó hình ảnh một hình ảnh lệch lạc về Thiên Chúa (x. St 3, 1-7).

Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy đảm nhận thân phận sinh lão bệnh tử của con người và số phận thăng trầm và đôi khi đầy tai họa của riêng mình, bằng cách thả mình vào tình thương và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, được thể hiện nơi Đức Ki-tô. Thật vậy, Ngài chạnh lòng thương người bệnh phong và chữa anh lành bệnh, một cách vô điều kiện; anh chỉ cần bày tỏ lòng ước ao thôi:

Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.

(c. 40)

Với nỗi đau khổ tột cùng như thế, nhưng người bệnh vẫn không đánh mất đi lòng ước ao, và lòng ước ao của anh thật lớn lao. Thật vậy, anh đã vượt qua mọi rào cản luật lệ để vào thành, chạy đến, sấp mặt xuống và kêu xin:

* “Nếu ngài muốn”: lòng ước ao là như thế, một đằng hướng tới ơn huệ, nhưng đàng khác luôn tôn trọng tự do của Đấng ban ơn huệ.

* “Ngài có thể”: lời này diễn tả lòng tín thác nơi quyền năng chữa lành của Đấng ban ơn.

* “Làm cho tôi được sạch”: lòng ước ao hướng tới không chỉ ơn chữa lành thể xác, nhưng còn hướng tới ơn được nên “thanh sạch” trong tâm hồn.

Để đáp lại lời kêu cầu của người bệnh, Đức Giê-su đã đụng vào anh trước khi nói: “Tôi muốn anh sạch đi”. Đụng vào người cùi, thì theo luật, người ta sẽ bị ô uế cả trong thân xác lẫn tâm hồn. Như thế, Đức Giê-su đã chia sẻ nỗi đau, căn bệnh “ba chiều kích” của anh. Ngài đã mang lấy thân phận con người ở mức độ thấp nhất, cùng khổ nhất, cùng tận nhất về mọi phương diện, trước khi ban lời chữa lành: “Tôi muốn, anh sạch đi”. Và lời chữa lành của Đức Giê-su có sức mạnh giống như lời sáng tạo: “lập tức, bệnh phong biến khỏi anh”.

Chúa cũng nói với chúng ta lời chữa lành như thế, chúng ta hãy lắng nghe và cảm nghiệm hiệu quả tức thì nơi thân xác, tâm hồn, cuộc đời của chúng ta hôm nay, ngày mai và mãi mãi. Bởi vì, chúng ta, có thể nói, là những người phong hủi vô hình. Vậy, chúng ta hãy can đảm nhìn vào những “vết hủi” nơi con người chúng ta, không phải để lên án hay tuyệt vọng, nhưng để diễn tả lòng ước ao như người bệnh trong bài Tin Mừng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”, và để cảm nếm lòng thương xót bao la vô hạn của Chúa, và lòng mến lớn lao đối với Chúa sẽ phát sinh từ kinh nghiệm này, như đã phát sinh nơi người phụ nữ tội lỗi (x. Lc 7, 36-50).

3. “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta”

Trước khi nói lời chữa lành: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”, Đức Giê-su đã chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào người bệnh. Phép lạ chữa bệnh này mang lại cho chúng ta niềm hi vọng thật bao la cho loài người và từng người tật nguyền chúng ta. Bởi vì, như chúng ta nói ở trên, đụng vào người cùi, theo luật là bị ô uế cả trong thân xác lẫn tâm hồn. Đó chính là cách Đức Giê-su chạnh lòng thương và chữa lành chúng ta, là cách Người bày tỏ sự cảm thông và tình thương của Thiên Chúa đối với loài người đau khổ của chúng ta, với nỗi đau khổ của mỗi người chúng ta: Người không lấy đi đau khổ, nhưng mang vào mình đau khổ của loài người của chúng ta (Mt 8, 7 và Rm 8, 3; 2Cr 5, 21; Gl 3, 12).

Thật vậy, Đức Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể, thay vì cất hết đi mọi bệnh tật của cả loài người, Ngài lại mang hết vào mình và đưa lên Thập Giá, như lời ngôn sứ Isaia đã nói:

“Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta”

(Mt 8, 17)

Trên Thập Giá, Con Thiên Chúa để cho mình bị hành hạ, thân thể của Ngài bị nát tan còn hơn cả người mắc bệnh phong. Nhưng ở nơi Ngài, đau khổ và sự chết không phải là dấu chấm hết, thân phận con người không phải đường cùng, nhưng là đối tượng của tình thương và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, và là con đường dẫn đến sáng tạo mới, đến sự sống mới, không còn bệnh tật, đau khổ, than khóc và chết chóc. Chính khi Đức Giê-su mang thương tích và bị loại trừ trên Thập Giá, là lúc tình yêu Thiên Chúa trở nên rạng người nhất, và cũng là lúc Ngài được tôn vinh, được nhận biết, được hiển linh. Như thế, trước khi đáp lời loài người đau khổ, Thiên Chúa nơi Đức Giê-su, nhận lấy đau khổ của con người làm của mình.

***

Và bài Tin Mừng hôm nay đã loan báo trước vinh quang lớn lao này của Đức Giê-su rồi. Thật vậy, chính khi “Ngài phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành”, nghĩa là bị loại trừ, lại là lúc, “dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người”, nghĩa là Ngài được tôn vinh và được nhận biết.

 

14.Hủi ngoài da, hủi tâm hồn--Anmai, CSsR
"Ai mua trăng, tôi bán trăng cho

Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ

Ai mua trăng, tôi bán trăng cho

Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò" (thơ Hàn Mạc Tử)

"Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa

Lầu ông Hoàng đó thuở nào trăng

Hàn Mặc Tử đã qua

Ánh trăng treo nghiêng nghiêng, bờ cát dài thêm hoang vắng

Tiếng chim kêu đau thương, như nức nở dưới trời sương

Lá rơi rơi đâu đây sao cứ ngỡ bước chân người tìm về giữa đêm buồn

Đường lên dốc đá nhớ xưa hai người đã một lần đến

Tình yêu vừa chớm xót thương cho chàng cuộc sống phế nhân

Tiếc thay cho thân trai, một nửa đời chưa qua hết

Trách thay cho tơ duyên chưa thắm nồng đã vội tan

Hồn ngất ngây điên cuồng cho trời đất cũng tang thương, mà khổ đau niềm riêng.

Hàn Mặc Tử xuôi về quê cũ, dấu thân nơi nhà hoang

Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc, tủi cho nhau mà thôi

Tình đã lỡ xin một câu hứa, kiếp sau ta trọn đôi

Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.

Tìm vào cô đơn đất Quy Nhơn gầy đón chân chàng đến

Người xưa nào biết, chốn xưa ngập đường pháo cưới kết hoa

Chốn hoang liêu tiêu sơ Hàn âm thầm ôm trăng vỡ

Khóc thương thân bơ vơ, cho đến một buổi chiều kia

Trơì đất như điên cuồng khi hồn phách vút lên cao

Mặc Tử nay còn đâu?

Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ

Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi chăng..."

Đó là bài ca về thi nhân Hàn Mạc Tử, do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác do nguồn cảm hứng từ những áng thơ bất hủ và chuyện tình thương tâm của nhà thơ nàỵ.

Ít nhiều gì chúng ta hơn một lần nghe nói về chàng thi sĩ tài hoa vắn số này. Thơ của chàng rất hay nhưng cung mệnh đời của chàng quá vắn. Chàng nằm xuống để rồi không biết bao nhiêu người đã nuối tiếc cho con người “tài hoa bạc mệnh này”.

Hàn Mặc Tử đã sống đạo, chết đạo và sáng tác thơ Đạo một cách tha thiết khiến nhiều người cho Tử là một “nhà thơ tôn giáo”, nhưng thực sự Tử đã vượt hẳn lên cái mục đích “truyền bá đức tin” của những thừa sai và giáo đồ trong giai đoạn tiên khởi ở Việt Nam. Thơ của Hàn Mạc Tử là một sự cảm nghiệm độc đáo! Đọc thơ Tử, người ta bèn thấy nguồn đạo trong thơ Tử không hạn hẹp với ý nghĩa một tôn giáo mà là một cái gì thuộc về hoàn vũ.

Bài Thánh Nữ Đồng trinh trứ danh của Hàn Mạc Tử đã diễn đạt lại ý tứ của kinh Kinh Mừng quen thuộc của người Công giáo với một giọng vô cùng thành khẩn:

… Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,

Giầu nhân đức, giầu muôn hộc từ bi,

Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy

Cơn lậm lụy vừa trải qua dưới thế

Tôi cảm động rưng hai hàng lệ

…Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn phước,

Cho tình tôi nguyên vẹn tựa trăng rằm.

Nhà thơ Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, cũng như không biết bao nhiêu người mang trong mình chứng bệnh phong khắc nghiệt này rất đau khổ. Chưa nói đến chuyện người ta phải cách ly, thì những người bệnh phong này phải tự tìm cách cách ly với những người lành sạch. Nguyễn Trọng Trí chưa cần đợi người ta xua đuổi, cách ly, đã tìm đến ngôi nhà hoang để dấu mình trong những ngày cuối đời khi mang trong mình chứng bệnh quái ác này.

Hàn Mặc Tử, cũng như bao thi nhân vĩ đại có điểm độc đáo phi thường là đau khổ không dìm sâu họ xuống bùn đen mà đưa họ lên cao lên cao gần Thượng Đế

Ở Hàn Mặc Tử, thể xác đau đớn ê chề nhưng linh hồn thì thăng hoa trong sáng nhờ đôi cánh của tôn giáo được chắp vào trí tưởng của thi nhân.

Hàn Mặc Tử trong tận cùng đau khổ của thế gian đã tự ví mình: khi xưa ta là chim phượng hoàng, Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất"; ý tứ mình "cao cường hơn ngọn núi"; hồn mình "chơi vơi trong khí hậu chín tầng mây"

Chắc có lẽ không cần phải nói nhiều, ai trong chúng ta cũng biết tác hại của bệnh phong là như thế nào. Chẳng ai trong chúng ta muốn cho mình bị chứng bệnh ấy. Những bệnh nhân phong rất tội nghiệp, chân tay của họ không lành lặn như những người bình thường. Họ làm việc gì cũng khó cả vì chân tay của họ cứ teo dần teo dần. Nghiệt một cái là bệnh phong thuộc dạng lây lan để rồi từ ngàn xưa người ta vẫn thường kỳ thị những ai mang chứng bệnh này. Người ta sợ đến độ phải cách ly những ai mang bệnh phong để giữ gìn cho những người sạch không nhiễm bệnh.

Phải đọc kỹ đoạn sách Lê-vi nói về bệnh phong chúng ta sẽ rõ quy định như thế nào về những người bệnh phong. Môsê và Aharon được Đức Chúa phán rất rõ ràng về chứng bệnh này. Có hai loại phong: phong hủi và phong hủi kinh niên.

Người bệnh phong hủi là: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế A-ha-ron hoặc với một trong các tư tế, con của A-ha-ron. Tư tế sẽ khám vết thương trên da thịt nó: nếu lông ở vết thương đã chuyển sang màu trắng và vết thương xem ra lõm vào da thịt, thì đó là vết thương phong hủi; sau khi khám, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. Nếu là đốm trắng trên da thịt, mà xem ra không lõm vào da, và lông không chuyển sang màu trắng, thì tư tế sẽ cô lập người mắc vết thương trong vòng bảy ngày. Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám nó: nếu chính mắt tư tế thấy là vết thương vẫn y nguyên, không lan ra trên da, thì tư tế sẽ lại cô lập nó trong vòng bảy ngày nữa. Đến ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám nó: nếu vết thương đã mờ đi và không lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch: đó là lác; nó sẽ giặt áo và sẽ ra thanh sạch. Nhưng nếu lác cứ lan ra trên da, sau khi người ấy đã được tư tế khám để được tuyên bố là thanh sạch, thì nó phải được tư tế tái khám. Tư tế sẽ khám: nếu lác đã lan ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là bệnh phong hủi.” (Lv 13, 2-8).

Còn người bị phong hủi kinh niên là: “Khi trên người nào có vết thương phong hủi, thì phải đưa nó đến với tư tế. Tư tế sẽ khám: nếu ở trên da có nhọt trắng, và nhọt ấy làm cho lông chuyển sang màu trắng, và trong nhọt có thịt đỏ lòm sùi ra, thì đó là bệnh phong hủi kinh niên ở da thịt nó. Tư tế sẽ tuyên bố nó là ô uế; tư tế sẽ không cô lập nó, vì nó là ô uế. Nhưng nếu phong hủi ấy cứ loang ra trên da và phủ tất cả da của người bệnh, từ đầu đến chân, bất kỳ đâu đâu mắt tư tế nhìn thấy, thì tư tế sẽ khám: nếu phong hủi phủ tất cả da, thì tư tế sẽ tuyên bố người bệnh là thanh sạch: nó đã chuyển tất cả ra màu trắng, nó thanh sạch. Nhưng ngày nào thấy người ấy có chỗ thịt đỏ lòm, thì nó sẽ ra ô uế; tư tế sẽ khám chỗ thịt đỏ lòm và sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; thịt đỏ lòm là ô uế: đó là bệnh phong hủi. Hoặc khi thịt đỏ lòm lại chuyển sang màu trắng, thì nó sẽ đến với tư tế; tư tế sẽ khám nó: nếu vết thương đã chuyển sang màu trắng, tư tế sẽ tuyên bố vết thương là thanh sạch: người ấy thanh sạch.” (Lv 13, 9-17).

Sách Lê-vi quy định rất rõ ràng về người nào mắc chứng bệnh này cũng như quy định khi nào người mắc bệnh này được lành sạch.

Ngày hôm nay, khoa học tiến bộ nên số người bị phong cùi đã giảm hẳn vì người ta đã tìm cách khống chế căn bệnh mang tính di truyền này. Thế nhưng, chưa phải căn bệnh này đã chấm dứt. Đâu đó vẫn còn những trại phong quy tụ bệnh nhân lại để nuôi dưỡng, để chăm sóc, để nâng đỡ họ trong những ngày cuối đời. Chúng ta vẫn nghe đâu đó những trại phong Quả Cảm, Thanh Bình, Bến Sắn, Phước Tân, … Ai nào đó một lần đến và tiếp xúc trực tiếp với người bị bệnh phong cùi sẽ thấy họ thiệt thòi, họ đau khổ như thế nào.

Bệnh nào cũng vậy chứ không riêng gì bệnh phong cùi. Ai đã mang trong mình mầm bệnh thì đều mong được chữa lành. Với người bệnh cùi, được chữa lành quả là điều vô cùng hạnh phúc vì họ được hội nhập với cộng đồng, không còn bị cách ly, không còn bị miệt thị, không còn bị phân biệt đối xử nữa.

Người hạnh phúc mà chúng ta vừa được nghe thánh Máccô thuật lại trong trang Tin mừng hôm nay đó không ai khác là anh chàng bị phong hủi. Anh ta nghe tiếng tăm đồn đãi về Chúa Giêsu và tìm đến với Chúa Giêsu để xin Ngài chữa cho anh được lành bệnh. Anh tin vào Chúa Giêsu và anh lành bệnh. Chúa cũng truyền cho anh đi trình diện cho các vị tư tế theo luật Môsê truyền dạy.

Quan niệm của người Do Thái rất buồn cười, cách riêng là những người Biệt Phái và Pharisêu. Họ cho rằng tất cả những ai bệnh hoạn tật nguyền là do người đó phạm tội nên bị trừng phạt. Họ không cho những người bệnh hoạn tật nguyền là những người kém may mắn hơn họ nhưng họ kết luận rằng vì những người đó phạm tội trong tâm hồn nên mới bị bệnh như vậy. Chẳng hiểu họ dựa vào đâu, chứng cứ nào để kết luận điều ấy.

Chúng ta còn nhớ cái anh què được Chúa chữa lành vác chõng mà về. Với người Do Thái, anh què chính là do tội lỗi của anh chứ người ta không công nhận đó là những khiếm khuyết về thể xác của con người.

Những người Do Thái trong đó có Pharisêu, Biệt Phái và cả chúng ta nữa, đều có cái nhìn, quan niệm khác với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn bên trong tâm hồn còn chúng ta, chúng ta vẫn mang trong mình thói quen nhìn bề ngoài.

Thật ra, bệnh ngoài da cũng sợ nhưng sợ hơn là bệnh trong tâm hồn. Có những người bề ngoài trông rất sạch sẽ, thơm tho nhưng bên trong lại quá ư là phong hủi. Mà cũng lạ ! Những người mang chứng phong trong tâm hồn thì lại sơn phết cho mình cái mã bên ngoài cực kỳ đẹp. Chúng ta còn nhớ, hơn một lần Chúa nói với Pharisêu và Biệt Phái là “Đồ thứ mồ mả tô vôi ! Bên ngoài trông đẹp nhưng bên trong là một dúm xương khô !”.

Thế đấy ! Nhiều người bên trong mang chứng bệnh phong hủi kinh khủng nhưng bên ngoài vẫn cố che đậy và đi khinh chê những người bệnh ngoài da.

Như Hàn Mạc Tử, anh mang trong mình chứng bệnh phong hủi, chứ tâm hồn anh quá đẹp, qúa thơ mộng. Anh đã để lại cho đời nhiều bài thơ bất hủ. Hàn Mạc Tử chắc có lẽ là người con yêu của Đức Mẹ nên Hàn Mạc Tử có những bài thơ về Đức Mẹ thật tuyệt vời. Bề ngoài thì anh bệnh nhưng trong tâm của anh thật sạch.

Chuyện cần, đó là chữa tâm hồn, chữa lòng mình cho sạch chứ không phải là chuyện bên ngoài. Chưa chắc bệnh ngoài da là xấu, bệnh trong lòng xấu mới là điều đáng sợ. Đừng đánh giá bề ngoài vì bề ngoài đôi khi là bóng bẩy nhưng bên trong thối hoắc. Đôi khi bên ngoài nó sần sùi, nham nhám chút nhưng bên trong cả là một tâm hồn cao thượng, một tâm hồn trong sạch. Những người phong cùi bề ngoài đấy nhưng trong lòng họ còn sạch hơn những người sạch bên ngoài mà bên trong thì hôi thối.

Hôm nay, Chúa chữa chàng thanh niên bị phung hủi nghĩa là Chúa đã giải thoát được cho anh cả chứng bệnh ngoài da và chứng bệnh tâm hồn vì như đã nói người Do Thái cho rằng anh bệnh hoạn tâm hồn nên anh mới bị ngoài da. Chúng ta, may mắn hơn anh ta là chúng ta không bị phong hủi ngoài da, nhưng chắc hẳn trong tâm hồn mỗi người chúng ta còn lợn cợn điều gì đó trong tâm hồn và chúng ta chạy đến Chúa để xin Chúa chữa cho chúng ta những cái lợn cợn trong tâm hồn để tâm hồn để chúng ta được thanh sạch hơn, được thơm tho hơn để đón mời Chúa đến và ngự lại trong lòng chúng ta.

 

15.Phong cùi--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Cùi hủi là một con bệnh đáng ghê sợ nhất. Nhiều ngàn năm trước, bệnh phong cùi đã xuất hiện nơi thân xác của con người. Đây là một bệnh truyền nhiễm và ô uế. Theo luật của dân Do-thái, ngay từ thời Môisen đã có những hướng dẫn riêng dành cho những người bị bệnh phong cùi. Những người mắc chứng bệnh phong cùi phải ở riêng, mặc áo rách, để đầu trần, lấy tay che miệng và la cho mọi người biết để đừng ai đến gần. Thật là khổ sổ và đau lòng! Con vi trùng cùi hủi quái ác đã ăn cướp mất nhân phẩm của con người. Thân phận của những người phong cùi thật đáng thương, họ bị tách lìa khỏi gia đình, cộng đoàn và mọi sinh hoạt chung. Họ bị bỏ rơi và bị người đời khinh bỉ, xem họ như là những thân xác đáng ghê tởm mà mọi người cần xa tránh. Người xưa chưa có cách phòng bệnh và trị bệnh nên những ai bị mắc phong cùi thì như lãnh một bản án chung thân.

Nỗi đau thân xác khôn lường, mà nỗi đau của tâm hồn lại càng khốc liệt. Những người phong cùi phải xa tránh mọi người và tự lo cho cuộc sống mình. Họ bị tước mất tư cách làm người và mất cả nhân phẩm. Họ khổ đau quằn quại khi thân xác bị lở loét, cùi cụt và hôi thối. Mọi người không đến gần, ngay cả những người thân thiết trong gia đình cũng không được chung đụng. Chúng ta không thể tưởng tượng được nỗi sầu khổ và mặc cảm lấn chiếm tâm hồn họ. Họ bị rơi xuống đáy vực thẳm của kiếp nhân sinh. Lê lết sầu muộn từng ngày nơi hoang vắng cô quạnh. Đau khổ hơn nữa là khi đối diện với những ánh mắt khinh thị và kinh hãi. Chúng ta nhớ rằng khả năng khoa học y tế của con người thời đó đành bó tay với cùi hủi. Ngày nay vẫn còn nhiều người bị nhiễm chứng bệnh phong cùi nhưng nhờ có thuốc thang ngăn ngừa, họ cũng được giảm bớt đau khổ phần nào. Với cuộc sống xã hội đương thời, những người phong cùi cho dù được sự thăm viếng, chia sẻ, thông cảm và ủi an nhưng họ vẫn còn phải chịu nhiều sự tủi nhục và sầu khổ.

Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng tin mừng giải thoát. Chúa có uy quyền chữa lành cả thân xác và tâm hồn. Hai ngàn năm trước, với khả năng của con người, sự chữa lành của cả hai nhu cầu vật chất và tâm linh đều rơi vào ngõ cụt. Cộng thêm sự phân chia giai cấp và cách đối xử bất công trong xã hội không có lối thoát. Chúa Giêsu đã xuất hiện trong bối cảnh xã hội mà nhiều người bị loại trừ. Sự thực hành đời sống tôn giáo và xã hội thiếu tình yêu thương bác ái. Những người bệnh hoạn tật nguyền, phong bại, phong cùi và qủy ám là những thứ bệnh quái ác hoành hành khắp nơi. Tất cả những ai chạy đến với Chúa đều được xót thương chữa lành. Cả những bệnh cùi hủi trong tâm hồn, Chúa Giêsu đã tẩy sạch và tha thứ.

Tâm trạng bị bỏ rơi và chối từ làm cho con người cảm thấy cô đơn sầu khổ. Không chỉ bệnh cùi mà cả những chứng bệnh thời đại. Những người già cả ốm đau bị con cái bỏ rơi. Những trẻ thành niên bị chối từ khỏi gia đình, không được yêu thương và chấp nhận. Những trẻ em sơ sinh bị bỏ rơi vì bị cha mẹ coi như một món nợ. Những người tàn tật và què quặt không được tiếp nhận vào những đại tiệc của xã hội. Những khách lạ hiền lương bị chối từ nơi ẩn trú. Những người vô gia cư và vô nghề nghiệp không có nơi nương tựa và bị coi như là những kẻ ăn bám xã hội. Những người mắc những chứng bệnh thời đại Si-đa cũng bị xô đẩy vào đường cùng phải sống trong cô đơn và loại bỏ. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người sống cần có tình yêu, tình người và sự chấp nhận.

Còn biết bao những khinh miệt khác đối với những con người không sống theo kỷ luật bị coi như những tội phạm của xã hội. Những nhóm người gây khủng bố, gian tham, cướp của giết người, buôn bán nô lệ, thuốc phiện, buôn bán tình dục phụ nữ trẻ em, những bà tú, ma cô và nhà độc tài gian ác…Chúng ta cũng nên nhớ rằng không phải tất cả các tù nhân đều là tội phạm cả đâu. Có nhiều người bị nhốt tù vì công lý, vì bất đồng chính kiến, vì niềm tin, vì lương tâm và vì nhiều lý do khác tùy theo từng chế độ. Xã hội có muôn mặt và muôn cách sống. Chúng ta khó có thể phân biệt trắng đen, lành dữ, xấu tốt và phải trái, khi dựa vào những phán đoán của con người. Tất cả các tệ trạng của con người xã hội đều là những căn bệnh cần phải được chữa trị. Con người phải đi tìm đúng nguồn cội quyền lực để xin ơn chữa lành cả xác lẫn hồn. Chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu là nguồn mạch mọi ân sủng chữa lành.

Bệnh nào cũng cần thuốc chữa. Con người có cả ngàn thứ bệnh khác nhau cả về thể xác lẫn tinh thần. Mỗi một thứ bệnh cần có những liều lượng thuốc chữa trị riêng. Chúa Giêsu có toàn quyền trên cả vũ trụ hữu hình và vô hình. Ngài có quyền sáng tạo, chữa trị, đổi mới và hoàn thành. Câu truyện phúc âm, người bệnh cùi đến van xin Chúa chữa lành, Chúa đã giơ tay đặt trên người đó và nói: Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh. Chúa chỉ cần muốn là mọi sự thực hiện theo ý của Ngài. Bệnh cùi được chữa lành ngay tức khắc. Chúng ta nhớ câu truyện của ông Saulô, đang khi đi bách hại người Kitô hữu, một luồng ánh sáng đánh ngã ngựa và Chúa Giêsu đã biến đổi ông thành Phaolô, một tông đồ nhiệt thành rao giảng tin mừng cho dân ngoại. Chúa có thể biến đổi tất cả theo ý muốn của Chúa.

Thánh Phaolô sau khi đã trở lại với Chúa Kitô, ngài đã không ngừng loan báo tin mừng. Trong mọi sự như ăn, như uống hay làm bất cứ việc gì, Phaolô khuyên dậy chúng ta hãy làm mọi sự cho sáng danh Chúa. Phaolô đã hoàn toàn thuộc về Chúa. Đôi khi tôi tự hỏi tại sao Chúa không đánh ngã thêm nhiều người nữa để họ tiếp tục mở rộng Nước Chúa? Biết rằng tư tưởng của Chúa vượt hẳn trên tư tưởng loài người và đường lối của Chúa cao siêu hơn đường lối của con người. Chúa muốn chính mỗi người chúng ta làm nhân chứng cho Chúa. Chúa muốn cứu độ mỗi người bằng chính sự sám hối và trở về của họ. Chúa ban cho con người có tự do để chọn lựa thái độ. Chúng ta hãy đến quỳ gối van xin: Nếu Chúa muốn, Chúa có thể khiến con nên sạch. Đặt niềm tin vào Chúa Kitô và qua Giáo Hội, Chúa đã ban các ân điển qua các Bí Tích, Á Bí Tích, các kinh nguyện và sự thực hành sống đạo sốt mến. Từng bước phát triển đời sống đạo qua các Bí Tích chúng ta lãnh nhận, chúng ta sẽ tìm thấy nguồn ơn sủng của sự chữa lành.

Bệnh phong cùi cũng như tội lỗi của con người thật ghê gớm. Ai cũng sợ hãi những chứng bệnh cùi hủi, bệnh siđa, bệnh ung thư hay một số bệnh chết người. Khoa học y tế có phát triển vượt bực nhưng con người vẫn còn cảm thấy bất lực hoặc chào thua trước những con bệnh hiểm nghèo này. Một thực tại sống mà chúng ta không thể chối từ. Sinh, lão, bệnh và tử là lẽ thường ở đời. Điều quan trọng là chúng ta hãy đón nhận thân phận làm người với tất cả những biến chứng của nó. Hãy tôn trọng nhân phẩm, đối xử và đón nhận mọi người như là con người, cùng chung một Cha trên trời. Chúng ta đừng khinh khi loại trừ, ghét bỏ ruồng rẫy và đóng cửa gài then trước những mảnh đời cùng khổ.

Lạy Chúa, đã nhiều lần chúng con ngã bệnh và phạm tội làm nhơ nhuốc tấm linh hồn, xin Chúa giơ tay chữa lành và rửa sạch những vết nhơ bụi trần. Xin cho chúng con biết chia sẻ lòng nhân ái với những người bất hạnh, biết giơ tay đón tiếp những kẻ cùng khốn và biết chấp nhận mọi người như là anh chị em, để chúng con tìm được nguồn ủi an và chữa lành đích thực của Chúa cả trong tâm hồn lẫn thể xác. Chúng con chỉ biết dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân. Chúng con đã được lãnh nhận dư tràn ơn sủng của Chúa trong suốt đời sống. Chúng con cầu xin Chúa.

 

16.Rất cần sự cảm thông--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bệnh phong cùi đã có từ bao đời nay. Bệnh này thường bị coi là căn bệnh nguy hiểm và cần phải né tránh bởi con người sợ bị lây nhiễm. Người Do Thái thời xưa rất sợ bệnh phong cùi, một căn bệnh nan y bất trị thường gặp lúc bấy giờ. Căn bệnh đáng sợ này có thể tấn công các đầu dây thần kinh của người bệnh, làm cho cơ thể bị thương tổn và biến dạng vĩnh viễn. Vào thời đó, người ta không biết cách chữa căn bệnh này. Người bệnh bị cách ly và bắt buộc phải cảnh báo người khác về căn bệnh của mình (x. Lv 13, 1-2. 44-46).

Giới lãnh đạo Do Thái giáo đã đặt thêm luật về bệnh phong cùi, khiến cho cuộc sống của người bệnh gặp khó khăn một cách không cần thiết. Chẳng hạn, luật lệ của giới ráp-bi cấm bất kỳ ai đến gần người phong cù, phải ở xa họ khoảng khoảng 2m. Nhưng nếu đang có gió, không ai được đến gần trong vòng khoảng 45m. Sách Lêvi đưa ra điều luật là người phong cùi phải sống "phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại"(x. Lv 13, 44-46). Tuy nhiên, một số chuyên gia luật Do Thái giải thích rằng điều luật này có nghĩa là những người phong cùi không được sống trong các thành có tường thành. Vì vậy, khi thấy một người phong cùi trong thành, một ráp-bi sẽ ném đá vào người đó và nói: “Hãy trở về chỗ ngươi ở, đừng làm ô uế người khác”.

Về mặt tôn giáo, bệnh phong cùi làm cho người ta trở nên ô uế, tội lỗi. Người Việt Nam chúng ta cũng na ná tương tự như người Do Thái, ai bị bệnh thì phải xa nhà xa cả người thân, địa phương xa lánh người gần người xa, khiến người bệnh cay đắng cực long.

Thời Chúa Giêsu, bệnh phong cùi vẫn bị liệt vào loại bị cấm tiếp xúc, người bị bện phải tránh xa và phải làm hiệu để người khác tránh xa mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu lại hoàn toàn khác, bởi vì Người đến để yêu thương và cứu giúp mọi người, nên Người đã chữa lành cho người mắc bệnh phong cùi như trong Tin Mừng Marcô 1, 40-45 thuật lại hôm nay.

Người ta coi người cùi là hạng người ô uế, kẻ nào chạm tới người cùi cũng bị lây ô uế. Nhưng Chúa Giêsu đã dám đưa tay chạm tới người cùi này. Chúa Giêsu cũng đánh đổ được huyền thoại của người đương thời với Chúa về bệnh phong cùi. Thật thế, trong quan niệm của người Do Thái lúc đó, bệnh tật còn là một hình phạt trực tiếp của Thiên Chúa đối vớ tội lỗi con người. Người mắc bệnh phong cùi là người đã từng mắc tội ác khủng khiếp đến độ đã bị Thiên Chúa trừng phạt nặng nề. Thế nên, khi bị đẩy ra bên lề xã hội, người phong cùi không những chịu đớn đau trong thân xác, mà còn phải gánh chịu sự tủi nhục do người đồng loại gây ra. Khi chữa lành người phong cùi. Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người và chính tình yêu là sức mạnh chữa trị bệnh tật của con người.

Ngày nay bệnh cùi không còn là một chứng nan y bất trị. Nhưng vẫn còn nhiều loại "Người cùi" kiểu khác bị người ta ghê tởm tránh xa, chẳng hạn những người dơ dáy, hôi hám, những người mang cá tính bị người khác ghét bỏ, những người lỡ mang tai tiếng khiến người ta không dám tiếp xúc, họ bị liệt ra bên ngoài xã hội, thiếu sự cảm thông và tình liên đới cộng đồng.

Con người ta, sinh, lão, bệnh, tử là lẽ thường tình. Bệnh tật là điều phải có trong kiếp sống làm người. Ai cũng có bệnh, không nhẹ thì nặng, chẳng ai thoát khỏi căn bệnh ở đời. Vì thế, chúng ta phải liên đới, hiệp thông và trợ giúp lẫn nhau với tình yêu thương, đặc biệt với những ai mắc bệnh hiểm nghèo.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vì yêu mà vượt qua ranh giới giữa Thiên Chúa với con người, giữa người khỏe với kẻ bệnh tật để chữa lành họ. Xin trợ giúp chúng con làm được những điều Chúa muốn. Amen.

 

17.“Hãy sống đẹp cho nhau”--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống hôm nay rất cần cái đẹp. Cái đẹp cho bản thân như ăn ngon mặc đẹp. Cái đẹp cho tha nhân như một cử chỉ đẹp, một phong cách đẹp, một lời nói làm đẹp lòng người. Nhà văn Tolstoy đã kể lại một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời ông như sau: Một hôm, ông đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá công viên, từ xa có một người quần áo rách nát tả tơi đến gần và ngả mũ xin ông giúp đỡ. Thấy cảnh cơ cực, nhà văn liền thò tay vào túi định lấy tiền giúp cho người hành khất. Thế nhưng, ông đưa tay tìm hết túi này đến túi kia cũng không kiếm được một đồng nào trong túi. Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói trong sự hối tiếc: “Này người anh em! Xin thứ lỗi cho tôi. Rất tiếc là hôm nay tôi không mang theo một đồng nào trong túi”. Nghe lời nói chân tình đó, người ăn xin không buồn mà còn nở nụ cười rạng rỡ trên môi và nói: “Không đâu thưa ông. Hôm nay ông đã cho tôi một món quà quý báu còn hơn cả tiền bạc. Đó là ông đã không khinh dể tôi mà còn coi tôi như người anh em của ông”.

Bài Phúc âm hôm nay, thánh Marcô cũng tường thuật lại một cử chỉ đẹp mà Chúa Giêsu đã dành cho người bệnh phong hủi nan y. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giêsu cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui. Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giêsu, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ Chúa Giêsu, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và yêu thương.

Có ai đó đã từng nói rằng: “một lời nói hay không bằng một cử chỉ đẹp”. Cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi người biết làm đẹp lòng nhau. Cuộc sống sẽ bớt đi những tủi hờn, những cô đơn và thất vọng nếu chúng ta biết sống đẹp với nhau. Đừng chơi xấu, đừng loại trừ nhau, nhưng hãy đón nhận nhau. Cuộc sống sẽ vơi đi những nỗi sầu khổ đắng cay nếu mỗi người chúng ta biết đối xử đẹp với nhau.

Thế nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những lối sống tiểu nhân tầm thường, nên vẫn còn đó những oan ức, những giọt nước mắt đắng cay vì tình người phụ bạc, vì tình đời thay trắng đổi đen. Cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những lối sống kém văn hoá, những cư xử thấp hèn nên vẫn còn đó những ứng xử thô lỗ, cộc cằn, những hành vi phi nhân và bất nghĩa.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy can đảm loại bỏ những hành vi thô lỗ, cộc cằn, những hành xử thiếu văn hoá khởi đi từ chính gia đình chúng ta. Mỗi thành viên trong gia đình hãy biết dâng tặng cho nhau những cử chỉ đẹp như: sự quan tâm, sự khiêm tốn, ôn hoà và hiền hậu với nhau. Chúng ta không thể “khôn nhà dại chợ”, sống tốt với hàng xóm mà cư xử tệ với anh em. Chúng ta không thể sống trọn vẹn đức ái Kitô giáo nếu chúng ta không yêu mến gia đình chúng ta. Đức ái luôn mời gọi chúng ta phục vụ nhau một cách quảng đại, hy sinh và quên mình. Đức ái mời gọi chúng ta sống khiêm nhu, hiền lành và nhẫn nại với nhau. Đức ái bao hàm sự bao dung và đón nhận nhau trong yêu thương và tha thứ. Đức ái không cho phép chúng ta loại trừ hay tẩy chay nhau. Đức ái mời gọi chúng ta dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương làm đẹp lòng nhau.

Chúa Giêsu năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể phán một lời thì con người anh có thể lành lặn. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi tay để trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho anh. Phải chăng, Ngài cũng muốn chúng ta hãy tiếp tục trao ban cho nhau những nghĩa cử yêu thương nồng ấm tình người? Ước gì từng người chúng ta hãy biết dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu dàng, những hành vi bác ái và vị tha. Ước gì lối sống đẹp của chúng ta sẽ là dấu chỉ chứng nhân tin mừng cho thế giới hôm nay. Amen.

 

18.Một vị Thiên Chúa vượt trên lề luật, phong tục--An Phong, OP
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người phong cùi. Người đã bộc lộ dung mạo của một vị Thiên Chúa vượt lên trên tất cả mọi phong tục, tập quán, lề luật, định chế xã hội… Bởi một lẽ duy nhất là vị Thiên Chúa của Tin mừng là vị Thiên Chúa dám nghĩ, dám làm, dám sống.

Sách Lê vi, chương 13, câu 45-46 có viết: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu ria và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại”. Theo sách Talmud - Babilon, họ đi vào nhà nào là mang ô uế vào nhà đó. Bất cứ ai chạm đến họ đều bị coi là ô uế. Họ là những người bị Chúa phạt, họ không được phép lên Đền thờ Giêrusalem, và nếu có được tham dự lễ nghi phụng vụ, họ phải ở trong một căn phòng đặc biệt dành riêng cho họ. Họ bị đối xử như người đã chết.

Người phong cùi trong Tin mừng hôm nay đã dám “đến gặp Chúa Giêsu, quì xuống, van xin…”. Đức Giêsu “chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh…”. Cả hai hành vi, người cùi đến gặp Chúa và Chúa đưa tay chạm đến họ, đều là những hành vi “liều mạng”, vượt trên mọi thể chế, phong tục… bình thường.

* Người phong cùi hẳn là biết rõ việc mình làm. Anh biết thân phận mình, biết những qui định ngặt nghèo là không được đến gần người khác. Anh chẳng màng đến những qui định này. Hẳn là anh không ghê tởm con người mình và cũng không sợ phán quyết khắc nghiệt của Đức Giêsu. Anh biết Người là Đấng nhân từ và bao dung. Nếu ghê tởm chính mình, hẳn là anh đã trốn biệt. Nếu sợ phán quyết khắc nghiệt, hẳn là anh đã không dám đến gần Đức Giêsu và van xin Người chữa lành. Anh đã liều và đã đạt được điều mình mong muốn.

* Đức Giêsu, một Rabbi Do Thái chắc chắn là biết rõ điều luật “cấm không được đến gần người cùi trong khoảng cách một sải tay”. Nhưng Người đã không màng đến những qui định như thế. Người tự do và thoải mái hành động vì hạnh phúc con người. Người đã phá đổ những qui định phi nhân bản - loại trừ một con người đau khổ. Đức Giêsu thực là hình ảnh một vị Thiên Chúa cúi mình xuống với nỗi khổ đau của con người. Người đã cúi mình thật sâu (kenosis) trong biến cố làm người và trong cái chết trên thập giá. Người cúi xuống để nâng con người lên, miễn là con người nhận ra chính mình và cầu xin ơn cứu độ.

Ngày nay, căn bệnh cùi thể lý đã bị tiến bộ y khoa đẩy lui, nhưng vẫn còn đó những bệnh cùi tâm linh, như tệ nạn xã hội: si đa, xì ke, ma túy, mọi hình thức vô nhân… và thường bị những người chung quanh khinh bỉ. Cùng với Đức Giêsu, người kitô hữu được kêu gọi thể hiện sự thông cảm, quan tâm đối với những người bất hạnh. Cùng với Đức Giêsu, người kitô hữu được kêu gọi để dám vượt qua những định chế, tập tục vô nhân.

Lạy Chúa Giêsu,

xin dạy cho chúng con

biết cúi mình xuống với những mảnh đời đau khổ, bất hạnh

để cảm thông và chia sẻ,

vì chính chúng con cũng đã được Chúa cảm thông và chia sẻ.

Xin cho chúng con

dám vượt qua con người của mình, như người phong hủi,

để đến và khẩn cầu với Chúa.

 

19.Niềm vui tròn đầy--John W. Martens--Lm GB. Văn Hào chuyển ngữ
Vừa đi khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi (Mc 1,45)

Trong tác phẩm “Bàn về sự nhiễm uế và tội lỗi trong nền văn hóa Do Thái cổ đại”, tác giả Jonathan Klawans đã nêu ra sự khác biệt giữa sự nhiễm uế do tội lỗi, và sự nhiễm uế do tập tục. Sự nhơ uế mang tính luân lý gồm những tội như ngoại tình và giết người, hàm ngậm những hành vi tội lỗi và dơ bẩn. Còn sự nhơ uế do phong hóa mang tính tập tục bao gồm những tiến tình tự nhiên, như việc sinh nở, hành vi giao phối vợ chồng, chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ v..v.. Những quy trình tự nhiên này không liên quan gì đến hành vi tội lỗi cả. Bệnh phong hủi, là một trong những bệnh ngoài da vẫn được người ta xem như một thứ nhơ uế, nhưng chỉ mang tính phong hóa theo tập tục thời bấy giờ mà thôi.

Cho dù một người mắc bệnh ngoài da, như những người bệnh phong, sẽ không bị kết án là có tội, nhưng theo sách Lêvi “ người đó vẫn bị coi là nhơ uế bao lâu còn mang bệnh tật trong người. Họ phải sống một mình, tách khỏi lều trại nơi cộng đồng sinh sống (Lv 13,45-46)”. Nhiều người nhiễm bệnh phong hủi còn bị cắt đứt sự tương giao hoàn toàn, cả về mặt xã hội và cả trong đời sống tôn giáo. Những sự nhiễm uế khác theo tập tục, như sinh nở, kinh nguyệt, chỉ kéo dài một thời gian ngắn, thường một ngày hay một tuần, nhưng cách riêng nhiễm uế do bệnh cùi có thể trở thành vĩnh viễn suốt cả một đời người.

Chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi một người phong hủi đi tìm kiếm và đến gặp Đức Giêsu. Anh ta nài xin Ngài giúp anh ta trở lại hòa nhập với cộng đồng. Qùy gối trước mặt Đức Giêsu, anh ta khẩn xin tha thiết với một ước muốn giản đơn “ Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Mặc dù bệnh nhân không nài ép Chúa với một cung điệu ai oán và trang trọng, nhưng anh ta bày tỏ mong ước với một động thái xác quyết và tin tưởng, vì “ Ngài có thể làm việc này”. Đây là một thái độ biểu tỏ đức tin. Anh ta tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Đức Giêsu và tín thác nơi lòng trắc ẩn của Ngài.

Đức Giêsu chạnh lòng thương đối với bệnh nhân. Marcô sử dụng hạn từ Splanchnizomai trong tiếng Hy lạp, diễn tả một tình cảm sâu xa, một sự thương cảm và yêu thương dạt dào. Trái tim của Đức Giêsu đã lay động trước hoàn cảnh bi thương của người bệnh và Ngài giơ tay chạm vào anh ta. “Ngài nói: Tôi muốn, anh hãy được sạch. Lập tức bệnh phong hủi biến mất và anh ta được lành sạch (Mc 1,42)”. Khi chạm vào người cùi, Đức Giêsu có làm điều gì sai trái không? Chắc chắn không và tuyệt đối không. Cho dù bệnh cùi là căn bệnh lây lan, và luật Do Thái vẫn coi sự sờ chạm đến bệnh nhân là một sự nhiễm uế, nhưng sự nhiễm uế này hoàn toàn không phải do tội lỗi. Khi Đức Giêsu chạm đến người cùi để chữa lành cho anh ta, có thể đó là một hành vi phản khoa học, khiến dễ bị lây nhiễm, nhưng tuyệt đối nơi Ngài không thể có sự nhiễm uế. Động thái này có nghĩa là gì? Chúng ta thấy Đức Giêsu vẫn cẩn thận tuân thủ lề luật và Ngài không tỏ ra khinh suất lề luật chút nào.

Sau khi bệnh nhân đã hoàn toàn được lành lặn, Đức Giêsu nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay và còn căn dặn kỹ lưỡng “ Đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta biết (Mc 1,44). Sự đồng cảm của Đức Giêsu được thể hiện không phải bằng một cái ôm hôn thắm thiết để chúc mừng anh ta, vì anh được trở lại hòa nhập với cộng đồng. Nhưng, Ngài nói với người được chữa lành là hãy đi thực hành những gì mà luật Môsê dạy bảo, như đã viết trong sách Lêvi 14,1-32. Bệnh nhân sau khi được lành bệnh, phải thực hiện điều luật, để được đón nhận trở lại hội nhập với cộng đồng. Vị tư tế sẽ còn phải kiểm tra, như sách Lêvi đã dạy, và sự kiểm tra này kéo dài suốt cả tuần lễ. Anh ta đang trên đường để tái hòa nhập, và lúc Đức Giêsu chữa lành cho anh ta, anh ta vẫn chưa có thể trở lại với cộng đồng một cách hoàn toàn lúc bấy giờ.

Nhưng tại sao Đức Giêsu lại nghiêm giọng bảo anh ta đừng nói gì cho ai biết? Có phải thực sự Đức Giêsu mong muốn người bệnh đã được chữa lành phải câm lặng tuyệt đối hay không? Có phải bệnh nhân sau khi được lành sạch sẽ không nói cho vị tư tế biết ai đã chữa lành cho mình?

Sứ mạng cứu thế của Đức Giêsu là mời gọi mọi người tiến vào Vương quốc Nước Trời, thế thì tại sao Ngài lại nghiêm cấm người vừa được chữa lành do quyền năng của Ngài lại phải câm nín? Người được Đức Giêsu cứu chữa chắc chắn không thể im miệng được. Anh ta ra đi và bắt đầu công bố cho mọi người, quảng bá rộng khắp tin vui mà mình mới được lãnh nhận. Vì vậy số người đến tìm gặp Đức Giêsu ngày càng đông đến mức độ Ngài không thể công khai vào thành nào, mà chỉ có thể ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành (Mc 1,45).

Dường như có sự mâu thuẫn và đối kháng giữa chỉ thị của Đức Giêsu cấm người bệnh đừng nói gì với ai, với sứ mệnh quảng bá Vương quốc Nước Trời. Trong Tin mừng Marcô, chúng ta thấy nhiều lần Đức Giêsu đã nói như vậy. Các học giả kinh thánh gọi đó là “Bí mật Thiên Sai”. Một đàng, Đức Giêsu mời gọi mọi người hãy bước theo Ngài và Ngài đã chữa lành các bệnh nhân một cách công khai, một đàng lại có vẻ như Ngài muốn bịt miệng các chứng nhân, cấm họ nói bất kỳ điều gì. Có phải đây là một sự đánh đố mang tính tâm lý mà Đức Giêsu khởi xướng, hay chỉ là một kỹ xảo chơi chữ theo kiểu văn chương mà Marcô đã sử dụng?

Các học giả cho chúng ta thấy thái độ phản ứng của bệnh nhân được chữa lành nói lên câu trả lời cho vấn nạn này. Niềm vui Tin Mừng vọt trào nơi tâm hồn những con người mà Đức Giêsu đã sờ chạm đến, phải được công bố và được nhân rộng. Niềm vui đó cần được sẻ chia, cần được quảng bá rộng khắp cho mọi người. Người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay đã chu toàn những gì lề luật đòi hỏi, nhưng anh ta biết rằng mình không thể câm lặng, ôm giữ cho riêng mình niềm vui sung mãn và ngập tràn đó. Sau khi đã trải nghiệm sự vui mừng lớn lao vì được thụ lãnh quyền năng chữa lành của Đức Giêsu, anh ta ra đi và nói cho mọi người biết. Đây là hình mẫu và là chân dung của một nhà truyền giáo đích thực, mà mỗi người chúng ta cần phải sao chép.

 

20.Giơ tay đụng vào--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo…”

Kể từ cái trải nghiệm nhỏ bé nhận được trong khóa học BISA VIII tại Bangkok - Thái Lan đúng vào mấy ngày Tết Nhâm Thìn, tôi đã có một cái nhìn rất khác về ‘phép lạ’ Đức Giêsu chữa người bị phong hủi.

BISA (Bishops’ Institute for Social Action) là khóa học dành cho các giám mục Á Châu về các đề tài liên quan tới phát triển con người theo Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội do OHD (Office of Human Development) thuộc FABC (Federation of Asian Bishops’ Conferences) tổ chức. Khóa VIII na7m đó có sự tham dự của khoảng 30 giám mục, 10 đại biểu linh mục, giáo dân đại diện cho 18 Hội Đồng Giám Mục và 06 tổ chức quốc tế. Tôi được mời tham dự trong tư cách đại diện cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vì đề tài học tập liên quan đến các di dân và thổ dân. Khóa học được chia làm hai phần, bốn ngày dành cho chương trìnhthực nghiệm (immersion program) và bốn ngày cho hội nghị thuyết trình và thảo luận. Trong phần thực nghiệm, các tham dự viên được chia thành từng nhóm 4-5 người đi thực tế trong một môi trường xã hội cụ thể. Nhóm tôi gồm 04 người, trong đó có 02 giám mục, đi làm việc tại một trung tâm PCU-AIDS (Palliative Care Unit for AIDS Patient Center) tại tỉnh Sayong miền đông nam Bangkok - Thái Lan, gần biên giới Kampuchia. Công việc của chúng tôi là cùng với các y công và y tá của trung tâm chăm sóc các bệnh nhân AIDS đang trong giai đoạn cuối. Một trong các công việc tôi được trao là thay tã (tampers) và chùi rửa các bệnh nhân AIDS hoàn toàn bại liệt.

Việc phục vụ và đụng chạm trực tiếp tới những con người này (một thứ phong hủi ghê tởm hiện đại?) trong trạng thái dơ bẩn nhất của thân xác họ, đã để lại nơi tôi một ấn tượng khó quên; mọi cảm xúc tự nhiên trong mình như muốn nổi loạn, buộc tôi phải gồng mình kiềm chế. Cảm nghĩ lóe lên nhiều lần trong đầu tôi lúc đó chính là: “Ôi tình yêu nhập thể, khủng khiệp quá!” Phải, Thiên Chúa trong mầu nhiệm nhập thể đã đụng chạm trực tiếp tới tình trạng kinh tởm dơ dáy tột cùng của thể xác, nhất là của tinh thần con người (trường hợp Người giơ tay đụng vào người mắc bệnh phong cùi ghê tởm ở đây chỉ là một chút điển hình!). Và Người làm hành đông này không có bất kỳ một thiết bị bảo hộ nào như tôi lúc đó, nào là khẩu trang, bao tay cao su, nào là các thiết bị y tế, nước sát trùng… và cả các tấm tã cực kỳ tiện lợi. Điều duy nhất mà Người được trang bị và sở đắc tới độ siêu đẳng (đồng thời cũng chính là điều tôi hoàn toàn thiếu thốn) đó là ‘Người chạnh lòng thương’! Thế đấy, tình yêu nhập thể thực quá cụ thể và chạm tới những ngõ ngách cùng tận và tăm tối nhất của kiếp người. Điều mà Đức Giêsu đã làm với người phong hủi xưa, Người sẽ còn tiếp tục làm mãi với từng con người nhân loại chúng ta, đặc biệt những ai cùng khổ bất hạnh, bệnh tật kinh tởm nhất, cả về mặt thể lý lẫn luân lý; bất cứ ai Người cũng chạm tới được miễn là họ biết ‘quỳ xuống và van xin…’ như người phong hủi xưa.

Và cũng từ trải nghiệm này tôi còn được học thêm một điều nữa, đó là việc chữa lành (hay phép lạ) không phải là điều quan trọng và cần nhấn mạnh nhất. Khi phục vụ tại CPU-AIDS tôi được cho biết, bệnh nhân nào tìm lại được ý chí muốn sống, người đó mới có cơ may kéo dài cuộc sống, ngược lại bệnh nhân sẽ tàn lụi vô phương cứu chữa. Tác động lớn nhất trong việc điều dưỡng không phải là thuốc men hay phương tiện y tế, mà chính là trả lại cho bệnh nhân niềm tin và hy vọng. Tôi đã thấy vài trường hợp điển hình ngay nơi các bệnh nhân AIDS mà tôi phục vụ (thay tã, đút cơm hay nắn bóp), một số họ đã bắt đầu tỏ ra có các dấu hiệu hồi phục rõ ràng. Một bệnh nhân AIDS-TB (lao phổi) nặng, bị mọi người xa tránh vì dễ lây nhiễm và nhầy nhụa, nhưng khi được tôi ân cần đút cơm và trò truyện, anh đã nở được nụ cười thật tươi sau nhiều ngày vật vã… Và bác sĩ cho biết, bệnh tình của anh đã có dấu hiệu khả quan hơn.

Thế đấy, tác giả Mác-cô viết: ‘Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch…’ ôi sao mà xác thực quá! ‘Chạnh lòng thương’ còn quan trọng hơn nhiều việc Đức Giêsu lấy quyền năng mà làm phép lạ… Nói cách khác, chính ‘chạnh lòng thương’ mới là phép lạ lớn hơn hết vì nó đáp ứng trực tiếp nỗi khát vọng thâm sâu nhất của bệnh nhân phong hủi này, khi anh ta thoát khỏi tình trạng bị mọi người hắt hủi, và kể từ lúc đó chứng phong hủi của anh khởi sự tiến trình hoàn toàn biến mất.

Ôi, sức mạnh của lòng thương xót thật vô song, và mong sao mọi linh mục của Đức Kitô không những hiểu được điều này mà còn tham gia tích cực vào quyền năng này nữa!

Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết cảm tạ Chúa không ngừng, không phải vì các phép lạ hoặc các ơn trọng đại con nhận được, nhưng vì đã biết tín thác vào lòng Chúa xót thương. Cho dầu không thể sửa trị được hết các yếu đuối phần hồn phần xác (sẽ không bao giờ, với bất cứ ai!), con vẫn mừng vui khôn xiết vì Chúa đã chạnh thương chạm tới sự ghê tởm, thấp hèn và tội lỗi của con, qua đó trả lại cho con niềm hy vọng tràn trề và một sức sống bất tận. Amen.

 

21.Niềm hy vọng--Trầm Thiên Thu
Niềm hy vọng là nhân đức trông cậy – một trong ba nhân đức đối thần. Người Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Còn với Thiên Chúa, tất cả đều nhờ đức tin (x. Mt 9:22; Mc 5:34; Lc 8:48; Lc 17:18; Lc 18:42), và tất cả đều có thể: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).

Về đức cậy, Thánh TS Augustinô cho biết: “Đức cậy khuyến cáo chúng ta coi nhẹ đời này là hư ảo, hy vọng tương lai là hạnh phúc. Người nào đem hy vọng của họ ký thác nơi chóng qua như mây khói ở đời này, đó là đi ngược lại đức cậy”. Còn Thánh TS Terese Avila xác định: “Thiên Chúa yêu thích những linh hồn khẳng khái nhưng ước vọng vĩ đại”.

Trong ca khúc “Tôi Muốn”, NS Lê Hựu Hà có những ước muốn rất “khác người”, nhưng lại rất gần gũi với Công giáo: “Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên, tôi muốn sống như loài hoa hiền. Tôi muốn làm một thứ cỏ cây, vui trong gió và không ưu phiền. Tôi muốn mọi người biết thương nhau, không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, tôi muốn thấy tình yêu ban đầu. Em có thấy hoa kia mới nở, trong giây phút nhưng đẹp tuyệt vời, như hạnh phúc thoáng qua mất rồi, giờ đâu còn tìm được nét vui…”. Ước muốn luôn là điều quan trọng. Có ước muốn thì mới có thể quyết định hành động.

GIẢ THUYẾT

Chỉ vì không có, vì thiếu cái gì đó nên người ta mới ước muốn, khao khát. Bất cứ ai cũng có ước muốn, dù ước muốn đó nhỏ hay lớn, gần hay xa. Rõ ràng nhất là những bệnh nhân, ước muốn đơn giản và cụ thể là được khỏi bệnh. Ngày nay người ta rất sợ chứng ung thư, còn ngày xưa người ta “ngán” chứng phong hủi (cùi). Chính Đức Chúa nói với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Theo sách Lêvi, người nào hói đầu hoặc sói trán là người thanh sạch (Lv 13:40-41). Nhưng nếu chỗ hói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt thì đó lại là phong hủi loang ra (Lv 13:42).

Hồi đó, các bệnh nhân phong bị người ta xa lánh, khi tư tế khám, nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt thì người ấy bị phong hủi và bị coi là ô uế. Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!” (Lv 13:45). Theo luật xưa, “bao lâu còn mắc bệnh thì còn ô uế, người đó phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:46). Khổ thật!

Như vậy là khắt khe và bất nhân quá! Ngày xưa đã đành vậy, vì là thời Cựu ước; ngày nay cũng chẳng hơn gì, mặc dù là thời Tân ước, và mặc dù chúng ta mệnh danh là những người theo Đạo Yêu Thương. Thánh Lm Gioan Vianney phân tích: “Lý do chúng ta không có cách giải quyết tốt là vì chúng ta coi trọng mình quá nhiều”. Ôi, vẫn liên quan “cái tôi” đáng ghét!

Bệnh phong là laoị bệnh ghê gớm, ngày xưa là chứng nan y. Ngày nay, bệnh phong không còn đáng sợ, mà chứng nan y đáng sợ là ung thư hoặc HIV/AIDS. Tuy nhiên, đó là bệnh liên quan thể lý. Loại phong cùi, chứng ung thư hoặc HIV ghê gớm nhất chính là tội lỗi, thế nhưng có vẻ người ta lại… không sợ. Quái lạ!

Đối với các tù nhân, ngày được phóng thích giống như thoát khỏi địa ngục trần gian. Các bệnh nhân được khỏi bệnh như được tái sinh. Các tội nhân được tha thứ như được vào thiên đàng. Niềm hạnh phúc khác nhau nhưng có thể nói là họ có chung “đỉnh điểm” của niềm hạnh phúc, khó có thể diễn tả bằng ngôn ngữ loài người. Thật vậy, “hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Muốn chứng tỏ mình hết phong cùi thì phải trình diện tư tế. Muốn chứng tỏ mình sạch tội thì phải xưng thú tội lỗi. Tuy nhiên, khi “xưng tội ra với Chúa thì không được giấu giếm lầm lỗi của mình” (x. Tv 32:5). Chúa không hề chấp tội chúng ta (2 Cr 5:19), đó là điều chắc chắn, bởi vì chính Ngài đã hứa: “Tội các người dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững? (Tv 130:2). Ôi, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa quá bao la!

Thánh TS Augustinô phân tích: “Chúa dựng nên con thì Chúa không cần con, nhưng Chúa cứu độ con thì Chúa cần con”. Tại sao? Giả sử bạn sa xuống hố mà chỉ kêu cứu, cứ thụ động mà không chịu hợp tác thì ai có thể cứu? Ít ra bạn cũng phải đưa tay ra cho người ta kéo lên chứ! Chúa muốn mà chúng ta không muốn thì Chúa cũng… “bó tay”. “Bó tay” ở đây không có nghĩa là Chúa “bất lực”, không làm gì được, nhưng Chúa không ép ai, bởi vì Ngài hoàn toàn cho phép chúng ta trọn quyền tự do chọn lựa và quyết định số phận đời mình. Đó mới là điều chúng ta đáng quan ngại!

Là phàm nhân thì ai cũng là tội nhân, vì đã có “vốn tội” rồi: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Vì thế, không ai hơn ai trước mặt Thiên Chúa, chỉ hơn nhau ở chỗ “biết sám hối hay không”. Ngài luôn chờ chúng ta ăn năn sám hối. Hãy tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa” (Tv 32:5), và chính Ngài sẽ tha thứ tội vạ cho chúng ta, chứ không ai có quyền tha tội. Được tha tội và tin mình sạch tội sẽ trở nên công chính, vì chỉ “nhờ đức tin mà người ta nên công chính” (Rm 3:21; Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6; Gl 3:24; Dt 11:7). Và vì thế: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo” (Tv 32:11). Các vị thánh lớn đều là những “tội nhân thánh thiện”: Thánh vương Đavít, Thánh GH tiên khởi Phêrô, Thánh Phaolô, Thánh Augustinô,… và “độc đáo” nhất là “thánh trộm cướp khét tiếng” cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên đồi Canvê. Điều đó cho thấy rằng nếu thực sự ước muốn thì chúng ta sẽ được sạch, nếu chân thành xin lỗi Chúa thì Ngài sẽ tha ngay lập tức!

Tuy nhiên, có 2 trạng thái “liên lụy tội lỗi” mà chúng ta cần phải lưu ý:

1. ĐỪNG gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách CAN DỰ VÀO TỘI LỖI CỦA NGƯỜI KHÁC.

2. ĐỪNG gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách LÔI KÉO HỌ VÀO TỘI LỖI CỦA MÌNH.

Có những giả thuyết mãi mãi là giả thuyết, nhưng có những giả thuyết lại khả dĩ trở thành sự thật – một sự thật minh nhiên hoặc mặc nhiên.

SỰ THẬT

Người ta sẽ chú tâm hành động sau khi đã ước muốn, như thánh Phaolô dạy: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31). Vâng, làm để tôn vinh Thiên Chúa chứ không vì lý do gì khác, và “đừng làm gương xấu cho bất cứ ai” (1 Cr 10:32), dù người đó cùng đạo hay khác đạo với mình, thậm chí có vẻ không liên quan tới mình. Ai cũng phải “cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:33). Thật là khó chứ không hề đơn giản, thế nhưng ai cũng phải cố gắng thực hiện. Nếu cảm thấy khó thì hãy theo lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô: “Anh chị em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).

Thật tuyệt vời với cách nhận định của thi sĩ Paul Claudel (*) đậm “chất” đức tin: “Chúa xuống thế KHÔNG để diệt trừ khổ đau, cũng KHÔNG giải nghĩa khổ đau, mà để CHIA SỚT khổ đau”. Đó là một triết lý mang tính giáo lý cao cấp.

Trong các “mối khổ”, chắc chắn ai cũng biết rằng bệnh là khổ – dù bệnh thể lý hay tinh thần. Riêng bệnh phong thì bệnh nhân rất khổ sở, không chỉ khổ vì đau đớn thể lý mà còn đau khổ về tinh thần vì bị người ta xa lánh. Bệnh nhân phong rất đau đớn vào những mùa trăng, thế nên Hàn Mặc Tử đã “rao bán” trăng: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho”. Thấy Chúa Giêsu là một “dị nhân”, chắc chắn với lòng tin mạnh mẽ nên bệnh nhân phong đã đến gặp Người và quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Mc 1:40). Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1:41). Và phép lạ đã xảy ra: Chứng phong hủi biến khỏi anh ngay lập tức. Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” (Mc 1:44).

Chúa Giêsu không hề làm ảo thuật mà làm phép lạ thật, Ngài cũng không muốn chứng tỏ “đẳng cấp” mà chỉ muốn chứng tỏ lòng yêu thương, Ngài luôn tôn trọng luật pháp xã hội thời đó, Ngài muốn làm gương cho người khác về đức vâng lời. Vả lại, Ngài biết những người “tai to mặt lớn” sẽ tìm cách hại Ngài chỉ vì tính nhỏ nhen, vì lòng ghen ghét. Con gà tức nhau tiếng gáy, thấy người khác hơn mình thì mình “không ưa”, tìm cách trù dập, hoặc “không ăn được thì đạp đổ”, đó là tình trạng tệ hại của con người vì “cái tôi” quá lớn, nó che khuất mọi tầm nhìn mất rồi. Đúng như một danh nhân đã nhận xét: “Chỉ có người giỏi mới chân nhận tài năng của người khác”. Kinh Thánh nói: “Con chó quay lại chỗ nó mửa, đứa ngu lặp lại chuyện ngu đần” (Cn 26:11).

Hữu xạ tự nhiên hương. Mùi hương thơm có sức lan tỏa. Tiếng lành cũng được đồn xa. Đèn sáng rất dễ nhìn thấy. Thế nên vừa mới ra khỏi đó, bệnh nhân phong được chữa lành kia “bắt đầu rao truyền và tung tin khắp nơi, đến nỗi Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành, và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài” (Mc 1:45). Chúa Giêsu đúng là một “siêu sao” kỳ diệu!

Lạy Thiên Chúa là Đấng trung tín, xin ban thêm các nhân đức cần thiết cho con, xin thanh tẩy và thánh hóa con bởi vì con ô uế nhưng thật lòng ước muốn được nên sạch, mặc dù bất xứng nhưng con thành tâm tín thác vào Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của nhân loại. Amen.

------------------

(*) Paul Louis Charles Marie Claudel (người Pháp, 6/8/1868 – 23/2/1955). Ông là nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, và từng được đăng hình trên bìa báo Time. Ông sinh ở Villeneuve-sur-Fère, trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Chị của ông là nhà điêu khắc Camille Claudel. Năm 1893, ông làm ở Bộ Ngoại giao Pháp, từng làm lãnh sự và đại sứ ở nhiều nước Âu châu, Á châu, Mỹ châu. Ông được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, và năm 1946 được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Ông được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Chính ông cho biết rằng cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh, và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Ông không quan tâm “người nào là ai” mà “người đó là người nào”. Ông thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Nhiều vở kịch của ông được dựng thành phim cũng nổi tiếng.

 

22.Ước vọng--Trầm Thiên Thu
Bệnh phong còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẩn Hansen (1) gây ra. Vi khuẩn này không có bào tử nên nó không lây qua vật trung gian. Khi ở ngoài, nó chỉ tồn tại được 1-2 ngày. Vi khuẩn Mycobacterium Leprae và Mycobacterium Lepromatosis là tác nhân gây bệnh phong. Da thịt bệnh nhân thường nổi nhọt, lở loét, nặng hơn thì vết thương lõm vào da thịt, lông mày rụng, mắt lộ ra,...

Bệnh nhân phong chịu đựng sự đau nhức vào những đêm trăng sáng, trăng càng sáng thì họ càng đau nhức vì vi khuẩn rúc rỉa, do đó mà Thi sĩ Phanxicô Hàn Mặc Tử (1912-1944) đã mong ước “khác người” khi ông thốt lên: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho...” (Trăng Vàng Trăng Ngọc).

Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co rút lại, khiến đôi tay co quắp. Ở mức độ nặng ngón tay ngón chân rụng dần. Ước vọng của họ rất đơn giản: Khỏi bệnh. Họ khổ cả thể lý lẫn tinh thần vì bị mọi người xa lánh, kỳ thị. Ngày nay, bệnh phong đã trị được, nhưng người ta vẫn “ngại” khi tiếp xúc với bệnh nhân phong.

Bệnh phong xuất hiện từ xa xưa, thời Cựu Ước cũng đã có. Thời đó, Đức Chúa phán với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Kinh Thánh giải thích: “Tư tế sẽ khám người ấy: nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt, người ấy bị phong hủi: người ấy ô uế. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế, nó bị vết thương ở đầu” (Lv 13:43-44). Các bệnh nhân hóa nạn nhân, vì họ không chỉ khổ thể lý mà còn khổ tâm, có thể nói đối với họ là điều sỉ nhục!

Thật vậy, vì thời đó người ta lập ra “quy chế người phong hủi”, khắt khe và tàn nhẫn lắm: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’. Bao lâu còn mắc bệnh thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:45-46). Ngày nay, cái quan niệm tàn nhẫn đó vẫn chưa thể “tẩy não” hoàn toàn được! Nếu có dịp đến Trại Phong Di Linh (2), bạn sẽ thấy các bệnh nhân phong thật đáng thương. Họ có vẻ ít nói với vẻ ngần ngại lắm. Có lẽ họ không dám tin rằng người đối diện với họ không ác ý, vì trong tâm trí họ đã in sâu “nếp nghĩ” rồi!

Phong cùi thể lý thật đáng sợ và đáng thương, nhưng phong cùi tâm linh còn đáng sợ và đáng thương hơn. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị chứng “phong cùi” này. Nhưng thật diễm phúc vì chúng ta có Đại Bác Sĩ Giêsu chữa trị. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Dạng diễm phúc này đôi khi chúng ta không để ý, nhưng thực sự là niềm hạnh phúc khôn tả, vì được Thiên Chúa chúc phúc.

Một khi cảm nhận được như vậy, chắc hẳn người ta không ngần ngại hoặc lần lữa đến với Bí tích của Lòng Chúa Thương Xót: “Con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con. Con tự nhủ: ‘Nào ta đi thú tội với Chúa’, và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con” (Tv 32:5). Sau đó, người ta còn chia sẻ với người khác về niềm vui thánh thiện: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo!” (Tv 32:11).

Có Chúa là có tất cả. Người có Chúa không còn ham mê điều gì khác ngoài Chúa, và họ làm gì cũng chỉ muốn tôn vinh Chúa. Đúng như Thánh Phaolô khuyên: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người Do-thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:31-33). Người biết sống vì Chúa thì cũng biết vì tha nhân, bởi vì thước đo lòng mến Chúa là lòng yêu người. Vả lại, ai nói yêu mến Chúa mà lại ghét tha nhân thì là kẻ nói dối (1 Ga 4:20). Ước gì chúng ta khả dĩ mạnh dạn nói được như Thánh Phaolô khi chúng ta tâm sự với người khác: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).

Trình thuật Mc 1:40-45 nói về việc Đức Giêsu chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Lc 5:12-16). Một hôm, có người bị phong hủi đến gặp Ngài, anh ta quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Chữ “” ở đây không phải là nghi ngờ, mà chỉ là “một cách nói” mà thôi. Chắc hẳn người này đã rất khổ sở vì mắc bệnh phong đã lâu, khổ đủ thứ, và anh rất muốn được khỏi để không bị xã hội ruồng rẫy. Anh đến cầu xin với Chúa Giêsu, chứng tỏ anh rất vững tin vào Ngài, tin chắc Ngài là người có quyền phép vô song. Anh tin thật chứ không mê tín dị đoan hoặc xin theo phong trào như nhiều người ngày nay vẫn làm. Vâng, vấn đề quan trọng là niềm tin chân thành và vững vàng.

Nghe anh nói, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!”. Thật hạnh phúc cho anh vì ước muốn của anh hoàn toàn hợp ý Chúa. Thế nên ngay lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. Anh đã được toại nguyện.

Nhưng Ngài nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết”. Chúa Giêsu bảo anh “coi chừng” vì anh có nói ra cũng chẳng ai tin, và những kẻ có quyền hành chỉ muốn tìm dịp để bắt giết Ngài. Tuy nhiên, làm sao anh có thể im lặng được, và anh không thể hoãn lại cái sự sung sướng ấy, thế nên vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Ngài không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành.

Nhưng Ngài có đi đâu thì người ta cũng tìm cho bằng được, bởi vì họ đã tận mắt thấy anh chàng phong cùi hôm nào đã sạch hoàn toàn. Lạ quá sức! Và rồi dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài, đông như trẩy hội.

Ai cũng có những ước vọng, dù lớn hay nhỏ, ước vọng cho chính mình và cho người khác, nhất là cho những người thân yêu. Ước vọng có thể cao thượng, bình thường hoặc tầm thường. Thi văn sĩ kiêm lý luận phê bình Samuel Johnson (1709-1784, Anh quốc) nói: “Mỗi người đều giàu có hay nghèo khổ tùy thuộc tỷ lệ giữa niềm ước vọng và sự thỏa mãn của mình”.

Thiên Chúa biết rõ mọi ước vọng thầm kín của chúng ta (Tv 38:10). Tác giả Thánh Vịnh cho biết: “Ngài nghe thấy ước vọng của kẻ nghèo hèn; Ngài cho họ an lòng và lắng tai nghe họ, để bênh kẻ mồ côi và người bị áp bức, khiến cho kẻ mang thân cát bụi, chẳng còn khủng bố ai” (Tv 10:17-18).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết cầu xin Con Một Ngài chữa lành “chứng phong cùi” tâm hồn của chúng con. Xin dẫn chúng con đến với những người nhỏ bé hèn mọn trong xã hội, trong Giáo Hội, để chúng con thông cảm và chia sẻ với họ bằng tấm lòng chân thành vì Danh Thánh Đức Giêsu Kitô. Người là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.

----------------------------

(1) Bác sĩ Armauer Hansen, người Na-Uy, đã phát hiện vi khuẩn gây bệnh phong vào năm 1873.

(2) ĐGM Cassaigne, thường được gọi thân thương là Cha Sanh, thuộc Hội Thừa Sai Balê, đến Di Linh năm 1927. Chính ngài đã lập Trại Phong Di linh (Djiring) năm 1929. Ngài sinh ngày 30-1-1895 tại Grenade (Pháp), thụ phong linh mục ngày 19-2-1925. Ngài được bổ nhiệm làm giám mục chánh tòa Saigon, lễ tấn phong giám mục diễn ra tại Nhà Thờ Đức Bà ngày 24-6-1941. Khẩu hiệu Giám mục của ngài là “Bác Ái và Yêu Thương” (Caritas et Amor). Ngài qua đời lúc 10 giờ đêm ngày 30-10-1973 và được mệnh danh là “Tông Đồ của Người Cùi”.

 

23.Ước muốn--Trầm Thiên Thu
Người Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Còn với Thiên Chúa, tất cả đều nhờ đức tin (x. Mt 9:22; Mc 5:34; Lc 8:48; Lc 17:18; Lc 18:42).

Trong ca khúc “Tôi Muốn”, cố NS Lê Hựu Hà có những ước muốn rất “khác người”, nhưng lại rất gần với Công giáo: “Tôi muốn mình tìm đến thiên nhiên, tôi muốn sống như loài hoa hiền. Tôi muốn làm một thứ cỏ cây, vui trong gió và không ưu phiền. Tôi muốn mọi người biết thương nhau, không oán ghét không gây hận sầu. Tôi muốn đời hết nghĩa thương đau, tôi muốn thấy tình yêu ban đầu. Em có thấy hoa kia mới nở, trong giây phút nhưng đẹp tuyệt vời, như hạnh phúc thoáng qua mất rồi, giờ đâu còn tìm được nét vui…”. Ước muốn luôn quan trọng. Có ước muốn thì mới có thể quyết định hành động.

NẾU MUỐN SẠCH…

Vì không có, vì thiếu cái gì đó nên người ta mới ước muốn. Ai cũng có ước muốn, dù ước muốn đó nhỏ hay lớn. Rõ ràng nhất là những bệnh nhân, họ chỉ muốn được khỏi bệnh. Ngày nay người ta sợ chứng ung thư, ngày xưa người ta “ngán” phong (cùi). Đức Chúa nói với ông Môsê và ông Aharon: “Khi trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế Aharon hoặc với một trong các tư tế, con của Aharon” (Lv 13:1-2). Theo sách Lêvi, người hói đầu hoặc sói trán là người thanh sạch (Lv 13:40-41). Nhưng nếu chỗ hói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt, thì đó là phong hủi loang ra ở chỗ sói đầu hoặc sói trán (Lv 13:42).

Các bệnh nhân phong bị người ta xa lánh, khi tư tế khám, nếu nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống như phong hủi da thịt, thì người ấy bị phong hủi và bị coi là ô uế. Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!” (Lv 13:45). Theo luật xưa, “bao lâu còn mắc bệnh thì còn ô uế, người đó phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13:46).

Khắt khe và bất nhân quá! Ngày xưa đã đành vậy, vì là thời Cựu ước; ngày nay cũng chẳng hơn gì, dù là thời Tân ước, dù chúng ta mệnh danh là những người theo Đạo Yêu Thương. Thánh Gioan Vianney nói: “Lý do chúng ta không có cách giải quyết tốt là vì chúng ta coi trọng mình quá nhiều”.

Bệnh phong là bệnh ghê gớm, ngày xưa là nan y. Ngày nay nan y là ung thư hoặc HIV/AIDS. Nhưng đó là bệnh thể lý. Loại phong cùi, ung thư hoặc HIV ghê gớm hơn chính là tội lỗi, thế nhưng người ta lại… không sợ!

Các tù nhân, ngày được phóng thích đối với họ như thoát khỏi địa ngục. Các bệnh nhân được khỏi bệnh như được tái sinh. Các tội nhân được tha thứ như được vào thiên đàng. Niềm hạnh phúc khác nhau nhưng có thể nói là họ có chung “đỉnh điểm” của niềm hạnh phúc, khó có thể diễn tả bằng ngôn ngữ loài người. Thật vậy, “hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv 32:1-2). Muốn chứng tỏ mình hết phong cùi thì phải trình diện tư tế. Muốn chứng tỏ mình sạch tội thì phải xưng thú tội lỗi. Tuy nhiên, khi “xưng tội ra với Chúa thì không được giấu giếm lầm lỗi của mình” (x. Tv 32:5). Chúa không hề chấp tội chúng ta (2 Cr 5:19). Chắc chắn vậy, vì chính Ngài đã hứa: “Tội các người dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18). Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được!

Thánh Augustinô phân tích: “Chúa dựng nên con thì Chúa không cần con, nhưng Chúa cứu độ con thì Chúa cần con”. Tại sao? Bạn sa xuống hố mà chỉ kêu cứu, cứ thụ động mà không chịu hợp tác thì ai có thể cứu? Ít ra bạn cũng phải đưa tay ra cho người ta kéo lên chứ! Chúa muốn mà chúng ta không muốn thì Chúa cũng “bó tay”. “Bó tay” ở đây không có nghĩa là Chúa “bất lực”, không làm gì được, nhưng Chúa không ép ai, Ngài hoàn toàn để chúng ta tự do chọn lựa và quyết định số phận đời mình. Đó mới là điều chúng ta đáng quan ngại!

Ai cũng có tội: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 51:7). Vì thế, không ai hơn ai trước mặt Thiên Chúa, chỉ hơn nhau ở chỗ “biết sám hối hay không”. Ngài luôn chờ chúng ta ăn năn sám hối. Hãy tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa” (Tv 32:5), và chính Ngài sẽ tha thứ tội vạ cho chúng ta, chứ không ai có quyền tha tội. Được tha tội và tin mình sạch tội sẽ trở nên công chính, vì chỉ “nhờ đức tin mà người ta nên công chính” (Rm 3:21; Rm 5:1; Rm 9:30; Rm 9:32; Rm 10:6; Gl 3:24; Dt 11:7). Và vì thế: “Hỡi những người công chính, hãy vui lên trong Chúa, hãy nhảy mừng. Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất tiếng hò reo” (Tv 32:11). Các vị thánh lớn đều là những “tội nhân thánh thiện”: Thánh vương Đavít, thánh GH tiên khởi Phêrô, thánh Mađalêna, thánh Phaolô,… và “độc đáo” nhất là “thánh trộm cướp khét tiếng” cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu trên đồi Canvê. Điều đó cho thấy rằng nếu muốn thì chúng ta sẽ được sạch, nếu xin lỗi Chúa thì Ngài sẽ tha ngay!

Thiết tưởng, chúng ta cũng nên lưu ý 2 trạng thái “liên lụy tội lỗi”:

1. Đừng gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách can dự vào tội lỗi của người khác.

2. Đừng gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách lôi kéo họ vào tội lỗi của mình.

… SẼ ĐƯỢC SẠCH

Khi ước muốn, người ta sẽ chú tâm hành động, như thánh Phaolô dạy: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh chị em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31). Vâng, làm để tôn vinh Thiên Chúa chứ không vì lý do gì khác, và “đừng làm gương xấu cho bất cứ ai” (1 Cr 10:32), dù người đó cùng đạo hay khác đạo với mình, thậm chí có vẻ không liên quan tới mình. Ai cũng phải “cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ” (1 Cr 10:33). Thật khó, không hề đơn giản, nhưng ai cũng phải làm. Nếu thấy khó thì hãy theo lời nhắn nhủ của thánh Phaolô: “Anh chị em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1).

Paul Claudel (*) có cách nhận định thật tuyệt vời: “Chúa xuống thế không để diệt trừ khổ đau, cũng không giải nghĩa khổ đau, mà để chia sớt khổ đau”. Đó là một triết lý mang tính giáo lý cao cấp.

Bệnh là khổ – dù bệnh thể lý hay “bệnh” tinh thần. Bệnh nhân phong rất khổ sở, không chỉ khổ vì đau đớn thể lý mà còn đau khổ vì tinh thần vì bị người ta xa lánh. Bệnh nhân phong rất đau đớn vào những mùa trăng, thế nên Hàn Mặc Tử đã “rao bán” trăng: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho”. Thấy Chúa Giêsu là một “dị nhân”, chắc chắn với lòng tin mạnh mẽ nên bệnh nhân phong đã đến gặp Người và quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (Mc 1:40). Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (Mc 1:41). Và phép lạ đã xảy ra: Chứng phong hủi biến khỏi anh ngay lập tức. Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” (Mc 1:44).

Chúa Giêsu không hề làm ảo thuật mà làm phép lạ thật, Ngài cũng không muốn chứng tỏ “đẳng cấp” mà vì yêu thương, Ngài luôn tôn trọng luật pháp xã hội thời đó, Ngài muốn làm gương cho người khác về đức vâng lời. Vả lại, Ngài biết những người “tai to mặt lớn” sẽ tìm cách hại Ngài vì lòng ghen ghét. Gà tức nhau tiếng gáy, thấy người khác hơn mình thì mình “không ưa”, đó là tình trạng tệ hại của con người. Đúng như một danh nhân nhận xét: “Chỉ có người giỏi mới chân nhận tài năng của người khác”.

Hương thơm lan tỏa. Tiếng lành đồn xa. Thế nên, vừa ra khỏi đó, bệnh nhân phong được chữa lành kia “bắt đầu rao truyền và tung tin khắp nơi, đến nỗi Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành, và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Ngài” (Mc 1:45). Chúa Giêsu đúng là một “siêu sao” kỳ diệu!

Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con, xin thanh tẩy và thánh hóa chúng con vì chúng con thật lòng ước muốn được sạch. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

-------------------------

(*) Paul Louis Charles Marie Claudel (người Pháp, 6/8/1868 – 23/2/1955). Ông là nhà ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, và từng được đăng hình trên bìa báo Time. Ông sinh ở Villeneuve-sur-Fère, trong gia đình một công chức tỉnh lẻ. Chị của ông là nhà điêu khắc Camille Claudel. Năm 1893, ông làm ở Bộ Ngoại giao Pháp, từng làm lãnh sự và đại sứ ở nhiều nước Âu châu, Á châu, Mỹ châu. Ông được tặng thưởng huân chương Đại thập tự, và năm 1946 được bầu làm viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. Ông được coi là nhà thơ cuối cùng của phái ấn tượng, có khuynh hướng hoài cổ và tôn giáo. Chính ông cho biết rằng cuốn sách gối giường của ông là Kinh Thánh, và tất cả sáng tác của ông làm thành một cuốn Kinh Thánh mới. Ông không quan tâm “người nào là ai” mà “người đó là người nào”. Ông thể hiện nhịp điệu tự nhiên của trái tim và hơi thở con người. Nhiều vở kịch của ông được dựng thành phim cũng nổi tiếng.

 

24.Hãy cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thuỵ
Tin mừng Mc 1: 40-45: Ngay từ hồi xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi đụng chạm thể xác giữa những người khỏe mạnh và những người mắc bệnh phong cùi...

Người phong cùi tiến gần Chúa Giêsu, khiêm tốn, nài xin Chúa chữa lành. Muốn hiểu được lời thỉnh cầu này, chúng ta phải biết rằng vào lúc bấy giờ, người phong cùi là kẻ hoàn toàn bị khai trừ khỏi xã hội. Mắc phải một chứng bệnh nặng nề và ô uế như thế, kẻ ấy phải sống ngoài cộng đoàn của mình.

Ngay từ hồi xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi đụng chạm thể xác giữa những người khỏe mạnh và những người mắc bệnh phong cùi.

Sách luật Môse nói như sau: “Một khi mắc chứng bệnh này, người phong cùi phải mặc quần áo rách rưới, tóc tai bù xù, râu mép để dài và phải la lớn: Ô uế, ô uế”. Bao lâu còn mắc bệnh thì kẻ ấy vẫn phải sống tách biệt, phải ra ngoài đồng vắng mà ở” (Lv 13,45-46).

Trong Kinh Thánh, bệnh phong cùi không những chỉ là thứ bệnh gây kinh tởm, gậm nhấm và làm biến dạng cơ thể người bệnh, mà nó còn là thứ bệnh mang chiều kích tôn giáo.

Kẻ mắc bệnh phong cùi bị xem như đã phạm trọng tội nên bị Chúa trừng phạt.

Một số giáo sĩ đương thời với Chúa Giêsu còn dám phóng đại cho rằng bệnh phong cùi được dùng để trừng phạt bảy mối tội đầu như: vu khống, giết người, làm chứng gian, sống trụy lạc, kiêu căng, trộm cắp và tham lam.

Từ thuở xưa, người phong cùi bị mọi người kể như là một xác chết không hồn. Bị phong cùi là ngay lập tức bị khai trừ, bị ruồng bỏ như một thây ma ô uế, nghĩa là không thể tương giao với Thiên Chúa cũng như với con người.

Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành thứ bệnh này. Ngài đã dùng như một hình phạt thì chỉ mình Ngài mới có thể giải thoát bệnh nhân khỏi hình phạt đó. (x. cuộc đời Myria, em gái Môse trong Ds 12,1-16).[1]

Chính vì thế, người phong cùi đến với Đức Giêsu, quì gối xuống van xin Người, và nói với Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi sạch.” Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh ta và nói với anh ta: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.” Ngay lập tức, bệnh phong cùi biến khỏi anh ta và anh ta được sạch.

Sau khi người bệnh được chữa lành, Đức Giêsu nghiêm giọng, đuổi anh ta đi ngay và nói với anh ta: “Coi chừng, đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, anh hãy tiến dâng những gì Môsê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ” (Mc 1,44).

Anh ta đã không vâng lời Chúa Giêsu nhưng đã lớn tiếng rao báo lòng thương vô bờ bến của Chúa đối với anh. Và đây chính là cách bày tỏ tác động lớn lao của việc được chữa lành nơi anh ta. Làm sao anh ta có thể im lặng được khi niềm vui gặp được Đức Giêsu, hạnh phúc được chữa lành, được hội nhập vào cộng đồng là quá lớn. Để diễn tả sự sống mới, cuộc đời mới, tương quan mới, anh ta không còn cách nào khác là ra đi loan báo về Đức Giêsu.

Một Mục Sư Tin Lành kể lại: "Ông được mời đến giảng Lời Chúa tại một trài cùi do cơ quan truyền giáo lập ra. Ông rất đắn đo, do dự vì ông không thích đến một nơi như vậy. Nhưng rồi vì lời mời quá nồng nhiệt tha thiết nên cuối cùng ông không thể từ chối. Ông nghĩ cử tọa là những người bị xã hội ruồng bỏ, ít học, nghèo nàn với cuộc sống của những con người như những vật phế thải nên không cần chuẩn bị bài giảng.

Ông đến nơi trước một ngày. Vừa 7g00 sáng, ông đã thấy họ mang Thánh Kinh đến nhà thờ trong trại, mặc dù theo chương trình, buổi thờ phượng 9g00 mới bắt đầu. Ông tò mò bước lần đến nhà thờ. Ông thấy họ cầu nguyện, họ tôn vinh rồi họ cầu nguyện. Ông thấy họ rất vui, bình an và rất hạnh phúc có lẽ hơn những người lành mạnh trong Hội Thánh của ông.

Tời giờ thờ phượng, họ như sốt ruột, ngóng chờ tôi và rất muốn nghe bài chia sẻ của tôi. Cầu nguyện khai lễ là một người cùi cao niên. Ông cảm tạ Chúa đã ban cho họ sự sống, ban cho họ thức ăn, quần áo mà không phải làm lụng vất vả như nhiều người khác. Ông cầu xin Chúa ban phúc cho những người hảo tâm đã thương yêu và giúp đỡ họ. Ông nài xin Chúa ban cho những ân nhân của họ có cuộc sống hạnh phúc.

Tôi cúi đầu khi nghe lời cầu nguyện. Lòng tôi bắt đầu tự hỏi.

Tại sao họ có sự bình an, hạnh phúc trong khi họ mang trong người chứng bệnh nan y? Biết bao nhiêu người lành lặn như tôi đã vô cùng chật vật tìm kiếm sự bình an, hạnh phúc như họ. Họ sống trong thiếu thốn, với nhu cầu tối thiểu nhưng họ rất bình an và vui thỏa. Tại sao họ có thể cám ơn Chúa khi đang mang trên mình một chứng bệnh nan y, bị xã hội ruồng bỏ? Những thắc mắc đó vẫn tiếp tục trong đầu tôi.

Sau đó họ tôn vinh. Họ hát bản nhạc” Hãy Đếm Các Ơn Phúc Chúa Ban”. Họ hát hết ba câu rồi họ tiếp tục tôn vinh trở lại. Họ hát say mê, say mê tôn vinh cho đến khi người điều khiển chương trình ra dấu chấm dứt thì họ mới ngưng hát.

Tôi thấy xấu hổ trước khung cảnh đầy hạnh phúc này. Tôi xấu hổ trước thái độ tôn vinh của họ. Tôi thấy tôi không xứng đáng đứng trên bục giảng để nói với một cử tọa tràn đầy hạnh phúc, tràn ngập sự bình an, thỏa lòng và nhất là hết lòng cảm tạ vì những hồng ân Chúa ban cho họ.

Mục Sư kể tiếp: “Dĩ nhiên bài chia sẻ của tôi là lời thú tội".

- Tôi xấu hổ vì tôi không "Đếm Các Ơn Phúc Chúa Ban" cho mà chỉ biết trông chờ những gì còn đang thiếu.

- Tôi xấu hổ vì tôi chỉ cảm tạ những gì tôi có mà người khác không có, trong khi họ cảm tạ Chúa vì những nhu yếu của con người như không khí, hơi thở, thức ăn cần dùng, quần áo giản dị, lành lặn và giấc ngủ an lành mỗi đêm.

Quả thật họ ý thức được thế nào là hành trang của một khách lữ hành, sống tạm ở thế gian rồi sẽ trở về với Chúa. Chúng ta biết mình là lữ hành nhưng sống như một người định cư vĩnh viễn. Mai này gặp Chúa, thật sẽ ngỡ ngàng, xấu hổ.

Người phong cùi đã lớn tiếng cám ơn Chúa Giêsu dù Chúa Giêsu đã cấm anh ta. Đây là một điều làm chúng ta phải suy nghĩ. Nếu trong cuộc sống, chúng ta nhận ra những ơn lành mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, chắc chắn chúng ta phải loan báo Tin Vui cho những người khác. Trong thực tế, chúng ta đã nhận được rất nhiều ơn, nhưng chúng ta đã không nhận ra những hồng ân đó. Vậy chúng ta hãy tha thiết xin Chúa ban cho chúng ta nhận ra các ơn lành phần hồn phần xác mà mỗi ngày Thiên Chúa ban cho chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ hăng say đi loan báo Tin Mừng Tin Vui như người phong cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

-----------------

[1] Jacques Hervieux: CN 6B TN

 

25.Hãy đem đến cho xã hội chút tình người--Lm Nguyễn Hữu Thy
Một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người, đó là tính hợp quần, tính đoàn thể: Bất cứ con người nào cũng đều mang trong mình nhu cầu muốn được giao lưu với người khác, muốn được thuộc về một gia đình, muốn được thuộc về một đoàn thể hay một cộng đồng.

Vì thế, sự đau khổ lớn nhất của một bệnh nhân phong cùi không chỉ là bệnh tật đang ngày đêm gặm mòn cơ thể anh, nhưng trước hết là sự ghê tởm và xa tránh của đồng loại, là sự bị cô lập khỏi xã hội loài người. Anh không còn được sống trong gia đình, không còn được tiếp xúc với người khõe mạnh hay không còn được sống chung trong làng xóm với người khác, nhưng phải sống ở một nơi biệt lập hẳn với người khác, ở trong những túp lều hay trong những hang động xa xôi hẻo lánh. Vì sợ lây bệnh, nên không một ai dám bắt tay hay động vào người anh. Đó thật là một bản án vô cùng nặng nề, là cả một cực hình khủng khiếp nhất mà con người phải gánh chịu. Vì thế, trong một cuốn tiểu thuyết nổi danh tựa đề là “La Peste“ - Bệnh Dịch, Albert Camus đã trình bày rất ấn tượng về tình trạng của người bị mắc bệnh dịch: phải sống ra sao, bị đối xử như thế nào, v.v... Nhất là ông đã làm cho người đọc hiểu được sự tác động của bệnh dịch trên tâm trạng và trên cả cuộc sống người bệnh trầm trọng như thế nào!

Ngày nay bệnh phonh cùi hay bệnh hủi không còn mang tính cách nghiêm trọng nữa, vì nó có thể chữa lành. Một thứ bệnh khủng khiếp từng tiêu hủy bao nhiêu triệu nhân mạng trong hằng thế kỷ qua đã hoàn toàn bị chận đứng. Đó thật là một niềm vui quá to lớn, là một ơn lành vô cùng trọng đại cho toàn thể nhân loại. Con người có thể thở phào nhẹ nhõm và sống tin tưởng lạc quan hơn.

Thế nhưng ngày nay, một loại vi khuẩn của bệnh “phong cùi “kiểu mới đã tái xuất hiện dưới những dạng thức và danh xưng hoàn toàn khác hẳn, đang tác hại trên nhân loại và đã biến bao nhiêu người thành “người hủi thời đại“. Dĩ nhiên, ở đây tôi không muốn chỉ đề cập tới những bệnh nhân bị nhiễm vi trùng Xi-đa, HIV hay những người nghiện xì ke ma túy, nhưng cả những người bị tàn tật đang phải sống nhờ vào sự bố thí của xã hội, những người vô gia cư đang lang thang đầu đường xó chợ hay những tội phạm và thân nhân của họ, v.v....

Có lẽ con người trong bất cứ thời đại hay trong bất cứ xã hội nào cũng phải mang ơn những người bệnh phong cùi, những người đang bị đẩy ra ngoài lề xã hội, bởi vì nhờ họ bệnh mà chúng ta mới biết được rằng mình còn có quá nhiều may mắn và hạnh phúc là không bị nhiễm những thứ vi trùng của những căn bệnh độc hãi đó. Và cũng nhờ vậy mà chưa bị xã hội cô lập, tẩy chay, chưa bị đẩy ra ngoài lệ xã hội.

Tuy nhiên, ai tự quá đề cao mình, cho mình là quan trọng, là “cái rốn “ của vũ trụ, người đó đương nhiên coi kẻ khác là đối thủ nguy hiểm của mình và không thể chấp nhận cùng cho đứng trên một chiến tuyến với mình đươc, nhưng tìm cách gạt bỏ ra ngoài lề xã hội. Vâng, theo tâm lý, khi thấy có ai đó có lối sống khác với chúng ta, tư duy khác với chúng ta, có tư tuởng chính trị khác với chúng ta hay giao lưu với những người chúng ta không quen biết,nhất là với những người chúng ta không ưa, v.v... tự nhiên chúng ta cảm thấy anh ta là người xa lạ, cảm thấy mình đang bị đe dọa và rôi tìm cách xa lánh, cô lập anh ta và tìm cách đẩy anh ta ra ngoài lề: Loại người này không thể chấp nhận được, y không thuộc về quỉ đạo của chúng tôi. Tiếp đế, vì không ưa nên đổ thừa cho bỏ ghét, cốt tìm cách loại trừ cho bằng được loại đối tượng mà chúng ta không ưa như thế!

Trong khi đó, Đức Kitô, Đấng mà chúng ta được mang trên mình tên gọi của Người - Kitô hữu - lại có quan điểm và cách cư xử hoàn toàn khác hẳn. Đối với Người, trước hết tất cả mọi người đều là con cái Thiên Chúa, được Thiên Chúa dựng nên, được Thiên Chúa vô cùng yêu thương và đã được Người kêu mời hưởng ơn cứu rỗi. Đức Giêsu không chỉ dạy cho con người biết rằng họ đều là anh chị em với nhau, bởi vì họ có một Cha chung trên Trời, nhưng chính Người đã sống như thế. Sự cố Đức Giêsu chữa lành người bệnh cùi được tường thuật lại trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay là một ví dụ điển hình về thái độ và cách xử sự đầy nhân bản của Đức Giêsu.

Trước hết, một cuộc sống như người bị bệnh phong này đang sống, kể như là không còn sống nữa, sống mà cũng như đã chết. Đó là cái chết về mặt tinh thần, cái chết “xã hội, trước khi chết thực sự về mặt y khoa. Do đó Đức Giêsu đã thương cho số phận của anh ta nên đã giơ tay ra và nói với người bệnh đáng thương đang đứng trước mặt mình: “Tôi muốn cho anh nên sạch và khỏi bệnh!” Vâng, tình thương của Đức Giêsu đối với loài người chúng ta không chỉ bằng lời nói suông, không chỉ bằng tâm tình thông cảm và an ủi lý thuyết, nhưng bằng chính việc làm cụ thể, bằng sự dấn thân trọn vẹn.

Bởi vậy, chúng ta cần phải thành thực tự hỏi lòng mình:

- Làm thế nào để những người mắc phải những thứ bệnh khủng khiếp như phong hủi hay Xi-đa - xưa kia cũng như ngày nay - có thể tin tưởng được rằng họ vẫn được chấp nhận, khi chính họ lại không cảm nghiệm được điều đó trong đời sống hằng ngày?

- Làm thế nào để cho vợ con và thân nhân của của những người phạm pháp còn tin tưởng vào sự thiện hảo và lòng tốt của đồng loại được, khi họ đang bị người láng giềng lối xóm nghi kỵ, tránh né và cô lập?

- Làm thế nào để những người vợ/chồng ly dị nhau và nay lại lập gia đình với người khác, còn tin tưởng vào lòng thương xót và khoan dung vô bờ của Thiên Chúa, khi họ bị chính nghững người Kitô hữu khác đối xử một cách bất khoan dung với họ, xua đuổi họ, nhất là tẩy chay không cho họ được lãnh nhận các Phép Bí Tích?

- Làm thế nào để một người luôn bị thất bại trong cuộc đời, luôn chỉ gặp đau khổ và cảm thấy mình bỏ rơi, còn có thể sống lạc quan và tin tưởng vào hạnh phúc được, khi không có lấy một người còn biết thông cảm và chia sẻ số phận hẩm hiu của anh ta, cùng đồng hành và động viên anh ta, giơ tay mắn chặt tay anh ta và thăm hỏi thân tình?

Chắc chắn rằng xã hội chúng ta, Giáo Hội chúng ta cũng như mỗi người Kitô hữu chúng ta sẽ không bị mất mát hay thiệt hại gì cả, nếu chúng ta biết gạt bỏ những định kiến và cố gắng đem đến cho cuộc sống xã hội thêm chút tình người, thêm chút tình nhân bản nữa, một chút nữa thôi! Nếu được như thế, bài Tin Mừng về biến cố Đức Giêsu chữa lành người phong cùi trong Chúa Nhật hôm nay khi được đọc trong tất cả các nhà thờ trên toàn thế giới sẽ không trở thành uổng công vô ích! Nếu được như thế, phép lạ Đức Giêsu đã làm để chữa lành bệnh xưa sẽ còn được tái diễn mãi, ít là được “lành bệnh“ về mặt tinh thần, và giải cứu “người bị bệnh phong“ ra khỏi chốn ngục tù sự chết và đem anh ta trở lại cuộc sống mới trong tin tưởng và an hòa.

 

26.Tôi muốn anh được sạch--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Từ câu 1:39, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu đã bắt đầu mở rộng hoạt động khắp miền Galilê. Tiếp theo là câu chuyện chữa lành người phong hủi. Và trong câu kết (1:45), Marcô cho thấy dân chúng ở Galilê cũng bị thu hút mạnh mẽ bởi Chúa Giêsu. Họ đến với Người từ mọi vùng, như dân chúng ở Capharnaum đã làm (1:35-37). Câu chuyện chữa lành người phung hủi được thuật lại riêng, không chung với các bệnh nhân khác. Hầu hết các bệnh nhân đều được mang đến cho Chúa Giêsu để được chữa lành (1:32-34), chỉ có bệnh nhân phung hủi nầy tự mình tìm đến với Người. Lý do là vì sợ bị ô uế, mà chẳng ai dám đụng đến người phung hủi. Hành động và lời nói của người phung hủi đã được làm nổi bật cách đặc biệt trong trình thuật nầy.

Hành động đầu tiên của bệnh nhân là đến lại gần và quỳ gối trước mặt Người. Theo luật Môisen, bệnh phong hủi là một bệnh ghê tởm. Người mắc bệnh bị xem như người ô uế, bị loại ra khỏi hàng ngũ của dân Thiên Chúa thánh thiện, và phải xa lánh mọi người (Lv 13). Bệnh nầy bị đánh giá như là một sự hủy hoại không những thân xác, mà cả mọi tương quan của bệnh nhân với Thiên Chúa và xã hội. Do đó, đến gần và quỳ gối trước Chúa Giêsu là một thái độ đức tin. Ông đến với Chúa Giêsu vì đã thấy Người đã chữa lành nhiều người (1:21-28; 32-34). Và ông cũng thấy Người có quyền năng hơn cả các luật sĩ (x.1:22), nên ông bất kể luật Môisen mà đến với Người. Ông đến để cầu xin chữa bệnh: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Lời cầu xin nầy xác nhận đức tin thúc đẩy ông đến với Chúa Giêsu (x. 1:15). Ông tin Người có quyền năng, và Người có thể làm được nếu Người muốn. Ông phó thác vào ý muốn của Người. Lời cầu xin cũng phản ánh hiện trạng của ông: bệnh phong hủi làm cho ông bị ô uế, bị ruồng bỏ và chỉ có Chúa mới làm cho ông được sạch.

Đáp lại cử chỉ đức tin của người phong hủi, Chúa Giêsu đưa tay đụng đến anh và nói lời chữa bệnh. Đưa tay ra là dấu hiệu hành động của quyền năng Thiên Chúa (Xh 3:20; 7:5; Tv 138:7), hoặc hành động nhân danh Thiên Chúa (Xh 14:16.21.27). Đụng đến người phung hủi theo Luật là vấy uế. Nhưng vì Chúa Giêsu ở trên Luật Môisen (x. 2:10-12), nên khi đụng đến ông, Người không bị ô uế. Ngược lại, Người làm cho người bị kể là ô uế được lành sạch hoàn toàn. Cũng đáp lại lời tuyên xưng đức tin của người phung hủi, Chúa Giêsu dùng lại lời của ông mà chữa ông lành:”Tôi muốn, anh sạch đi!”.

Lý do Chúa Giêsu muốn người phung hủi ra về trong thinh lặng là để ông có thể cảm nghiệm lâu dài và cách cá nhân quyền năng của Thiên Chúa, biểu lộ trong Chúa Giêsu, đang thực hiện trong ông. Quyền năng ấy đã chữa ông lành bệnh phong hủi, đã đưa ông vào lại trong tương quan và hiệp thông với Thiên Chúa và con người (x. Lv 14:1-32). Nhưng Chúa Giêsu không thành công. Người không thể kiềm hãm được người phong hủi. Ông được chữa lành, và ông kinh nghiệm bản thân về lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa quá lớn lao trong ông, khiến ông chỉ có một cách là “rao giảng” kèrusso, tin mừng ấy cho mọi người biết. Sau Gioan (1:4), Chúa Giêsu (1:14.38. 39), ông là người thứ ba rao giảng những điều kỳ diệu của Thiên Chúa (1:45), và những người khác sau ông (3:14; 5:20; 6:12; 7:36).

Chúa Giêsu đến để hội nhập lại những người ngoài trật tự của con người và Thiên Chúa. Người thực hiện điều ấy với quyền năng và lòng thương xót, nên danh Người vẫn được loan truyền giữa con người.

 

27.Người mắc bệnh phong hủi--Lm. Anphongsô
Chúa Giêsu vẫn luôn mở rộng lòng đối với tất cả chúng ta, chỉ cần chúng ta đến và thưa với Người bằng tâm tình đơn sơ như anh bệnh phong hôm nay: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Chia sẻ:

Căn bệnh truyền nhiễm mà hôm nay chúng ta nghe, ở Việt Nam, được người miền Bắc gọi là “hủi”, người miền Nam gọi là “cùi”, còn người miền Trung gọi là “phong”. Từ “phong” nghe có vẻ thanh hơn, nên được sử dụng rộng rãi để nói về số phận bi thương của bệnh nhân mang trên mình căn bệnh truyền nhiễm.

Trong Bài đọc I trích sách Lêvi chúng ta vừa nghe, theo luật Cựu Ước, vì phong là bệnh nan y và hay lây, nên trên da thịt những ai phát ra nhọt, lác, lở loét... đều phải rời bỏ gia đình, sống riêng ở nơi hoang vắng, nghĩa địa. Người phong phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu. Mỗi khi có người nào đến gần mình, bệnh nhân phải la lên: “Ô uế! Ô uế!” để người ta biết mà tránh xa. (Lv 13,45-46). Bệnh nhân phong chịu đau đớn nhất mỗi khi trời có trăng. Trăng càng sáng thì vi trùng Hansen càng rúc rỉa, do đó mà thi sĩ Hàn Mặc Tử, tên thật là Phanxicô Trần Trọng Trí (1912-1944), trong những tháng ngày chống chọi với căn bệnh này, đã phải đau đớn thốt lên: “Ai mua trăng, tôi bán trăng cho...” (Trăng Vàng Trăng Ngọc).

Bị đau đớn về thể xác như thế, người phong còn chịu đau đớn trong tâm hồn gấp đôi vì bị cách ly với mọi người, bị coi như mắc trọng tội. Không phải chỉ trong xã hội Do Thái ngày xưa, mà ngay cả thời nay, một số người cũng nhìn người phong với một ánh nhìn kỳ thị, tránh xa. Và chính vì bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài, nên người phong sống mà như chết.

Thế nhưng, người bệnh phong trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô (Mc 1,40-45) thay vì tránh xa, thì lại bất chấp sự cấm đoán của luật lệ, anh lấy hết can đảm đến gặp Chúa Giêsu để cầu khẩn Người: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Phải công nhận lời cầu nguyện này rất đẹp lòng Chúa, vì nó biểu lộ lòng tín thác của bệnh nhân vào Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa, có quyền năng chữa lành bệnh cho anh. Việc anh không đòi hỏi Chúa Giêsu chữa bệnh theo ý muốn của anh, nhưng để Người tự do hành động theo ý muốn của Người “Chỉ cần Ngài muốn là đủ” cho thấy bệnh nhân trông cậy vào lòng từ bi nhân hậu của Người. Chính sự chân thành của anh khi cầu xin đã chạm đến lòng trắc ẩn thẳm sâu nơi Chúa Giêsu khiến Người lập tức nói: “Tôi muốn, anh sạch đi”.

Chúa Giêsu vẫn luôn mở rộng lòng đối với tất cả chúng ta, chỉ cần chúng ta đến và thưa với Người bằng tâm tình đơn sơ như anh bệnh phong hôm nay: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Dẫu vậy, đã có lần nào chúng ta cầu xin Chúa tha thiết với tâm tình phó thác vào tình thương và quyền năng của Chúa như người phong hôm nay? Nhu cầu của chúng ta luôn có, nhưng để lãnh nhận ơn Chúa, có khi nào lúc cầu xin, chúng ta đặt ý muốn của Chúa lên trên ý muốn của chúng ta? Thay vì “Xin cho con vạn sự như ý”, chúng ta có dám học nơi gương người phong hôm nay tâm tình cậy trông để cũng biết cầu nguyện rằng “Xin cho con vạn sự như ý Chúa”.

Hôm nay cũng là ngày 11 tháng 2, ngày Quốc tế cầu cho Bệnh nhân. Hiện nay, trên thế giới, dường như càng ngày càng có những căn bệnh mới, bệnh lạ mà các nhà khoa học chưa tìm ra được thuốc chữa. Còn có những người đang phải chịu sự ghẻ lạnh, không được đoái hoài gì tới: đó là những người già cả ốm đau bị con cái bỏ rơi, những người mang những căn bệnh xã hội bị kỳ thị. Thêm vào đó, còn có những trẻ vị thành niên bụi đời do chịu những cú sốc và không được quan tâm từ việc gia đình có cha mẹ đường ai nấy đi; và còn những người trẻ được nuông chiều nên đã rơi vào nghiện ngập games, ma túy, bạo lực; những thai nhi là hoa quả của tình yêu nhưng lại bị xem là hậu quả tai hại nên phải đối diện với việc bị sát hại; trẻ sơ sinh bị bỏ rơi vì cha mẹ coi chúng như một món nợ, cả những người nam nữ bị bán làm nô lệ; những người tàn tật bị xem là những kẻ ăn bám xã hội…

Trước những vấn nạn ấy, chúng ta còn được mời gọi bắt chước Chúa Giêsu, đến với các “bệnh nhân” bằng con tim của Chúa. Như khoa sư phạm giáo dục Don Bosco, thánh nhân dùng thuật ngữ ‘Amorevolezza’ để diễn tả lòng thương mến này. Chính “lý trí, tôn giáo và lòng thương mến” là một trong ba yếu tố dẫn đến thành công. Nếu không có lòng thương mến, Chúa Giêsu đã không chạm đến người phong và chữa lành cho anh. Cũng vậy, nếu thiếu vắng tình yêu, chúng ta cũng chẳng bao giờ có thể chữa lành những san chấn tâm lý, bệnh tật và nỗi đau khổ của anh chị em.

Vâng, mỗi chúng ta được mời gọi hãy sống với một tấm lòng cảm thương như Chúa. Chính khi chúng ta đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, chúng ta mới có thể sống với một tấm lòng sẵn sàng làm việc thiện cho anh chị em mình. Ngày Tết Nguyên Đán Mậu Tuất 2018 đã gần kề, vậy chúng ta cũng được mời gọi không chỉ lo cho mình và gia đình có được cái Tết đầy ắp tình thân và hạnh phúc nhưng cũng được mời gọi có một trái tim nhân lành như Chúa để có thể đong đầy tình thương cho người kém may mắn, để họ cũng được đón Tế trong bình an của Chúa Xuân.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có một trái tim cảm thương để biết hành động như lời thánh nữ Têrêsa Avila mời gọi: “Ngày nay Chúa Giêsu không còn hiện diện cách thể lý nhưng Người hiện diện qua chính con người của chúng ta. Người dùng chính đôi mắt của chúng ta để Người nhìn ngắm thế giới, Người dùng chính đôi chân của chúng ta để Người có thể bước đến giúp đỡ anh chị em mình, Người dùng chính cánh tay của chúng ta để nâng dậy và chúc lành cho thế giới. Vì thế, chúng ta hãy là cánh tay, cặp mắt, đôi chân của Chúa”. Amen.

 

28.Chữa người phong cùi--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’--Radio Veritas Asia
Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Đến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này.

Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:

- Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?

Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:

- Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.

Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.

Căn bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi cảm thấy bị bỏ rơi.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.

Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.

 

29.Người bị loại trừ--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Đối với tâm lý người xưa nói chung và người Do Thái nói riêng, bệnh tật nếu không phải do tội lỗi thì cũng là trò ma chước quỷ bày ra. Xét theo diện nào, thì bệnh tật cũng đều đáng sợ. Và bệnh càng nặng, càng ghê tởm, người ta càng phải cẩn thận, đề phòng.

Ở đất Do Thái thời bấy giờ có lẽ không bệnh nào nan trị bằng bệnh phong cùi. Nó vừa ghê tởm vừa dễ lây. Xã hội lập tức đã phải có biện pháp đối với những người mắc bệnh phong cùi. Luật pháp Do Thái trục xuất người phong cùi ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội. Người phong cùi phải ra khỏi nhà, đến ở những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp xúc với ai và cũng không được để cho ai đến gần mình. Gặp ai qua đường, bệnh nhân phải lên tiếng làm hiệu trước để cho mọi người tránh xa, kẻo bị ô nhiễm theo luật. Vô phúc cho ai bị ô nhiễm như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được tham dự các nghi lễ nữa, trước khi làm lễ thanh tẩy theo luật dạy. Còn chính người phong cùi, khi thấy thân xác lành sạch phải đến trình diện các Thầy Tư Tế để xin khám nghiệm. Nếu đúng đã lành bệnh thật, họ còn phải dâng lễ đền tội và thanh tẩy trước khi được cấp giấy chứng nhận phục hồi quyền hiệp thông với cộng đồng xã hội.

Anh chị em thân mến,

Có hiểu số phận thảm thương của người phong cùi trong xã hội Do Thái thời xưa, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đoạn Tin Mừng hôm nay: Một người phong cùi dám đến gần Chúa Giêsu, bất chấp pháp luật ngăn cấm. Anh đến quỳ xuống van lạy Chúa Giêsu. Thái độ đó chứng tỏ một lòng tin thật mạnh mẽ. Chúa Giêsu động lòng thương, Ngài cũng bất chấp pháp luật, Ngài giơ tay ra đụng đến người phong cùi và phán: “Ta muốn anh được sạch”, tức thì bệnh phong cùi biến mất, người phong cùi được lành sạch.

Ngày nay, quan niệm khắt khe đối với bệnh phong cùi đã chuyển biến. Nhiều người và nhiều tổ chức từ thiện đã và đang xả thân chăm sóc, giúp đỡ, điều trị những người phong cùi trên thế giới. Với đà tiến bộ của y khoa, người ta đã hy vọng sẽ một ngày không xa, sẽ bài trừ được hết bệnh phong cùi.

Tuy nhiên, có một thứ bệnh phong cùi mà khoa học không bao giờ chữa được, đó là bệnh phong cùi của tâm hồn, đó là tội lỗi: hận thù, kỳ thị chủng tộc, ý thức hệ, bạo lực. Chính bệnh phong cùi này mới đáng sợ, vì nó cô lập con người xa cách Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa. Bệnh phong cùi này chỉ có Máu Thánh Chúa Kitô mới thanh tẩy được. Chúa Giêsu đã đến để giao hòa vạn vật với nhau, nhờ được giao hòa với Thiên Chúa. Vì Ngài đến để xóa bỏ tội lỗi và làm cho tất cả nhân loại được nên trong sạch, được đến gần Thiên Chúa, được nên dân Chúa. Chúa Giêsu đã chết và và sống lại để cho chúng ta được lành sạch, cho chúng ta được làm con Thiên Chúa và làm anh em hết mọi người. Không loại trừ ai và không bị ai loại trừ. Ngài đã giao hòa vạn vật trên trời dưới đất, không còn loài vật sạch hay dơ, không còn biên giới ngăn cách chúng ta với Chúa và với mọi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đã để lại trong Giáo Hội các Nhiệm Tích, nhất là Nhiệm Tích Hòa Giải là phương thế Chúa dùng để tẩy sạch bệnh phong cùi của chúng ta và giao hòa nối kết chúng ta lại với Chúa và với mọi người, để củng cố mối dây liên kết ấy ngày càng bền chặt hơn.

Thưa anh chị em,

Chúng ta đã biết, theo luật pháp Do Thái, người mắc bệnh phong cùi phải ở riêng ngoài trại, cách ly mọi người, không được đến gần ai và cũng không ai được đến gần họ. Nhưng ở đây, với lòng tin mãnh liệt, người cùi đón đường và tiến đến bên Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, thay vì xa lánh bệnh nhân như luật buộc, “Ngài đưa tay ra đụng đến người phong cùi”. Đối với Chúa, không có vấn đề kỳ thị, cấm kỵ, loại trừ. Chúa là tất cả cho mọi người, không kỳ thị chủng tộc, văn hóa, giàu nghèo, bệnh tật…

Thái độ tin tưởng của người phong cùi và hành động nhân hậu của Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học: chúng ta đừng bao giờ tự biến thành người mắc bệnh phong cùi nghĩa là đừng tự cô lập mình với anh em, đừng tự giam mình trong pháo đài ích kỷ, thù hận nhưng hãy biết quảng đại yêu thương bằng việc sẵn sàng quên mình vì mọi người.

Noi gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy biết nhìn người anh em đồng loại như một “cái mình khác” của chính mình. Một khi nhìn nhận như thế, chúng ta phải trở nên anh em của bất cứ người nào, không trừ một ai, và phải đi đến với mọi người để phục vụ trong tình yêu thương. Người già cả, người nghèo khó, người bệnh tật, người cô đơn hay hèn kém… Tất cả đều kêu gọi lương tâm Kitô giáo của chúng ta, và chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa: “Tất cả những gì anh em làm cho một người bé nhỏ nhất trong các anh em Ta, là anh em đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Chúng ta hãy nhìn nhận trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Mọi người đều là anh em mà chúng ta phải yêu mến một cách thật tình. Bằng chính lời nói, hành động yêu thương mà chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô và thông hiệp với những người khác trong mầu nhiệm tình yêu của Cha trên trời.

Có lẽ ông bà anh chị em đã được nghe nói đến Đức Cha Jean Cassaigne, nguyên Giám Mục Giáo phận Sài Gòn của chúng ta trước đây. Sau 15 năm làm Giám Mục Sài Gòn, Đức Cha Jean Cassaigne đã tình nguyện về sống giữa những bệnh nhân phong cùi thân yêu của ngài ở trại phong cùi Di Linh (Lâm Đồng), trong một ngôi nhà gỗ nhỏ hẹp. Tuy không giữ một địa vị nào trước mặt xã hội, nhưng ngài thật là một người bạn của người phong cùi, một chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa, một con người hy sinh phục vụ người phong cùi, chấp nhận mang lấy bệnh phong cùi của họ và chết đi ở giữa họ.

Mười tám năm trời, ngài sống trong thinh lặng giữa rừng núi thâm u, với những bệnh nhân phong cùi, không mấy ai biết đến. Nhưng khi ngài mất đi vào năm 1973, mọi người hay biết đều cảm phục tấm gương hy sinh anh dũng của ngài, ngài đáng được gọi là: “Cha của người phong cùi”.

Tấm gương bác ái cao cả đó, không phải ai cũng có thể noi theo được, nhưng trước mắt chúng ta, còn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh kiểu dân Do Thái thời Cựu Ước xa lánh người phong cùi. Có khi chúng ta đã gán cho họ những nhãn hiệu thù nghịch, để rồi không bao giờ muốn tiếp xúc với họ, sợ mình trở thành “cùi” như họ. Có khi chúng ta đã từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ, chỉ vì họ không cùng tôn giáo hay lập trường với chúng ta. Nếu chúng ta làm như vậy là chúng ta khinh thường, làm nhục sứ mạng giao hòa mọi người mọi vật, sứ mạng mà Chúa Giêsu đã nhận lãnh từ Chúa Cha, đã thi hành bằng cách hiến mạng sống mình, đổ đến giọt máu cuối cùng trong trái tim của Ngài.

Trong Thánh Lễ hôm nay, khi chúng ta tưởng niệm Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu, mầu nhiệm là cho chúng ta được giao hòa với Chúa và với nhau, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta luôn xa lánh tội lỗi để được hiệp thông với Chúa và với anh em, biết sống quảng đại mối giao hòa với hết mọi người mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho chúng ta.

 

30.Bệnh phong cùi--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Một vụ nổ đã làm cho chú bé bảy tuổi vị bỏng nặng ở đôi chân, đến nỗi các bác sĩ đã nghĩ rằng cần phải cưa chúng. Người ta nói với mẹ cậu: “Thằng Glenn của chị sắp thành kẻ tàn phế suốt đời đấy”.

Thế mà hai năm sau, với niềm tự tin mạnh mẽ, cậu đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những đi bộ mà cậu còn chạy được nữa. Dù chạy không nhanh lắm, nhưng vẫn chạy được.

Cuối cùng, cậu thi đậu đại học. Môn ngoại khôn của cậu là chạy đua. Quả thật, cậu đã làm cho mọi người phải kinh ngạc. Cậu lần lượt phá kỷ lục ở liên đại học.

Tại đại hội Olympic Berlin, chẳng những cậu được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét, mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này.

***

Với niềm tin vào khả năng của chính mình, cậu bé tưởng chừng như một phế nhân, đã trở thành vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Với niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa, người phong cùi tưởng chừng như suốt đời sống trong căn bệnh ghê tởm nhất, đã trở nên lành sạch.

Đối với người Do thái, kẻ mắc bệnh phong cùi bị coi như Thiên Chúa chúc dữ và xã hội loại bỏ. Không được tham dự nghi lễ trong hội đường. Họ là thành phần tội lỗi, phải sống thành từng nhóm nơi mồ mả, phải la lên “ô uế” để mọi người tránh xa. Ai trò chuyện với họ là phạm luật. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, người phong cùi đã hết lòng tin tưởng quyền năng của Đức Giêsu, nên anh đã quỳ xuống van xin: “Nếu Người muốn, Người có thể khiến tôi nên sạch” (Mc 1,40).

Thấy lòng tin của anh, Đức Giêsu động lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh” (Mc 1,41). Chạm đến người phong cùi, Đức Giêsu đã phạm luật, khiến người ta khó chịu. Người muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Đức Giêsu, con người được tiếp xúc thần tính của Người, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Người. Chính vì thế mà bệnh phong biến mất và anh ta được sạch.

M. Carré có nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, thì chúng ta phải là những nhà chuyên môn của niềm tin tưởng cậy trông”. Vâng, trong lúc đau đớn tột cùng nơi thân xác vì bị vi trùng Hansen gặm nhắm rúc rỉa; trong lúc tâm hồn tan nát vì bị mọi người kinh tởm xa cách. Chính trong lúc đau khổ ngút ngàn ấy, người phong cùi lại hoàn toàn tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa và trọn vẹn phó thác cho tình yêu của Người.

Vì thế, Đức Giêsu chỉ còn biết rộng rãi trao ban tình yêu của Người, để làm phát sinh một hiệu quả vô cùng diệu kỳ là cho anh lành sạch cả thế xác lẫn tâm hồn. G. Bossis viết: “Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra p hép lạ”.

Bí quyết trở nên hgùng cường của nước Mỹ được in trên đồng tiền của họ, đó là câu: “In God We trust” (chúng tôi tin vào Thiên Chúa). Thánh Phanxicô Salesio nói: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.

Lạy Chúa, trong cơn đau khổ cùng quẫn, chúng con vẫn tin tưởng nơi Người, chỉ một mình Người thôi. Trong bóng đêm cô đơn trống vắng, chúng con vẫn cậy trông nơi Người; tất cả nơi Người.

Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin thương chữa lành mọi bệnh tật xác hồn chúng con. Amen.

 

31.Lòng thương xót vượt qua tất cả--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Có một cô gái đẹp và tính tình rất tốt. Nhan sắc cũng như đức tính của cô làm mê hồn nhiều chàng trai, khiến biết bao trai tráng trong làng mê mẩn đến điên cuồng và rất nhiều người muốn được làm chồng cô trong tương lai!

Tuy nhiên, một tai ương ập đến với cô, đó là: một hôm, cô đang nấu ăn ở trong bếp, bỗng nhiên bình ga bốc nổ, khiến lửa bốc cháy dữ dội và bén vào người làm cô bị bỏng rất nặng. Người thân của cô đưa cô đến bệnh viện, nhưng các bác sĩ chỉ có thể cứu sống cô, họ không thể làm thêm được gì hết! Kết cục, khuôn mặt và thân hình của cô bị biến dạng, trông ghê rợn hãi hùng! Cũng kể từ thời điểm đó, cô không được sự ngưỡng mộ của những thanh niên cùng trang lứa. Chẳng ai thèm để ý và hy vọng được làm chồng của cô như trước nữa. Ai nhìn thấy cô, họ cũng đều sợ hãi vì sự dị dạng bất thường nơi cô. Nhiều người còn buông ra những lời nguyền rủa không thương tiếc cho số phận hẩm hiu của nàng. Nói chung, họ đều xa tránh cô, khiến cô rất đau đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần!

Hôm nay, câu chuyện Tin Mừng cũng trình bày về số phận của người bị phong cùi. Anh ta cũng trải qua biết bao đau đớn về thể xác và chịu đựng nỗi khốn khổ khôn nguôi về tinh thần.

Tuy nhiên, may mắn cho anh cùi trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe, giữa biết bao người khinh miệt, ruồng bỏ, hất hủi, loại trừ, chà đạp và xúc phạm, anh đã gặp được quý nhân phù trợ. Đức Giêsu đã không chỉ thương anh bằng tình thương của con người với nhau, mà Ngài còn thương anh bằng trái tim và lòng thương xót của Thiên Chúa, nên anh đã được chữa lành không chỉ thể xác, nhưng còn được chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn mà bấy lâu anh đã lãnh chịu.

1. Căn bệnh thế kỷ và nỗi khổ khôn nguôi

Để hiểu được nỗi khổ tâm đến xót xa của người bệnh và thấy được lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu, chúng ta cần tìm hiểu về quan niệm, lối nhìn của người Dothái thời bấy giờ về căn bệnh quái ác này và thái độ của họ đối với người không may mắc phải.

Vào thời Đức Giêsu, người ta rất sợ hãi nghe được hay nhìn thấy hoặc đụng trạm đến những người bị bệnh phong. Họ coi những người này như một thứ quái dị, đồ bỏ. Vì thế, những người bị mắc phải bệnh cùi, họ bị chính người thân trong gia đình và xã hội loại ra bên lề.

Theo quan niệm của người Dothái, bất cứ ai tiếp xúc với người bệnh phong thì đều bị coi là ô uế và nếu đụng chạm tới thì mắc tội trọng. Người mắc bệnh phong cùi thì không bao giờ được vào thành Giêrusalem cũng như bất cứ thành phố nào được bảo vệ bằng tường bao. Người phong cùi mà vô tình thò đầu vào nhà nào thì nhà ấy trở thành nhà ô uế và ngay cả cái kèo trên mái nhà cũng bị ô uế theo. Khi ra ngoài đường, họ không được chào hỏi ai và cũng chẳng được ai chào hỏi. Khoảng cách mà người bệnh và người khỏe phải giữ với nhau, đó là gần hai mét. Nếu vô tình, người bệnh đứng ở đầu gió, thì những ai ở cùng hướng gió phải cách 45 mét. Hơn nữa, người ta kiêng kỵ đến độ những vật bày bán ở nơi người phong đi qua, cũng không nên mua và chắc chắn là không ăn.

Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở góc độ bị coi thường khinh miệt, mà chính bản thân họ, họ cũng phải tự mình ý thức là người đáng bị kinh tởm và tự nhận mình là người gây nên sự bất tiện cho mọi người. Để hiểu rõ điều này, chúng ta thấy sách Lêvi có đề cập đến như sau: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc che râu và kêu lên: ‘Ô uế! Ô uế!’ Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại” (Lv 13,45-46).

Chính vì sự phân biệt phũ phàng đến như vậy, nên họ bị đẩy vào rừng sâu hay nơi sa mạc hoặc ra nơi đồng ruộng để tồn tại.

Trong hoàn cảnh đó, những người bị bệnh, họ đau đớn tột cùng về thể xác, nhưng có lẽ nỗi đau tinh thần còn lớn hơn gấp bội qua việc bị khinh thường và loại trừ ngay từ những người thân. Nỗi ám ảnh về số phận và tự ti vì bị coi là tội lỗi nên mới phải chịu thứ bệnh quái ác này đã làm cho họ bị dằn vặt tinh thần rất nhiều!

Tuy nhiên, hôm nay, Đức Giêsu và chính anh cùi đã lội ngược dòng với những quan niệm của người Dothái đương thời, để giữa Ngài và anh có một mối liên hệ mật thiết qua lòng trắc ẩn của Đức Giêsu và nơi đức tin mạnh mẽ của anh, khiến Đức Giêsu đã làm phép lạ để giải thoát anh cách toàn diện, trọn vẹn.

2. Đức tin và lòng thương xót

Vượt qua ranh giới, bất chấp lề luật, chẳng sợ lây nhiễm, nên Đức Giêsu đã tiến lại và chạm vào người bị phong cùi. Đây là hành vi phi thường đến dợn tóc gáy mỗi khi người Dothái nghĩ tới!

Còn nơi người phong cùi, anh ta có thái độ tin tưởng quá phi thường và thái độ tôn thờ đến tuyệt đối, nên đã dám đến gần Đức Giêsu, quỳ gối và van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”.

Thái độ này của Đức Giêsu hoàn toàn đi ngược lại với những nhà lãnh đạo và quan niệm của dân chúng thời bấy giờ. Nơi Đức Giêsu, Ngài không thể ngồi đó xem cách hành xử bất công của người Dothái và sự tủi nhục của người bệnh. Không! Ngài coi nó như bổn phận buộc mình phải thi hành. Điều này làm toát lên dung mạo xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.

3. Bài học cho chúng ta

Sống trong xã hội loài người, dù thời điểm nào, người ta cũng cần lắm một tấm lòng cảm thông đối với người bất hạnh. Mặt khác, nếu chúng ta là những người bị coi là bất hạnh, thì chính mình phải là người can đảm chạy đến với Chúa để được Ngài xót thương.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

Thứ nhất, hãy noi gương Đức Giêsu, luôn yêu thương và không loại trừ anh chị em chúng ta, nhất là những người bất hạnh, nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi, buồn khổ, mặc cảm, tự ti…. Luôn biết hàn gắn những vết thương tâm hồn và tôn trọng nhân phẩm của người khác. Tránh xa sự chia rẽ và thái độ phân biệt đối xử để sống sự liên đới với mọi người.

Thứ đến, cần tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Luôn sống tình bác ái yêu thương, nhất là hãy hành động vì đức ái. Có thế, chúng ta mới đụng chạm được cốt lõi của Tin Mừng và mới có cơ hội ngửi, cảm, thấu nỗi đau khổ của anh chị em xung quanh và ra tay nâng đỡ họ. Cần can đảm loại trừ những gì làm thui chột tình thương và không phù hợp với giá trị Tin Mừng.

Thứ đến, noi gương người phong cùi, hãy khiêm tốn và can đảm đứng dạy để tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, vì Ngài sẽ chữa lành những ai bệnh tật, xoa dịu những tâm hồn đau thương, băng bó những cõi lòng tan nát, an ủi những ai sầu khổ và cứu chuộc những ai có lòng tin.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho đôi mắt của chúng con được mở ra và nhìn thấy những người bất hạnh; cho trái tim biết rung lên những nhịp đập yêu thương; cho khối óc biết nghĩ đến người đau khổ; cho đôi chân biết đi tới những nơi cần sự giúp đỡ; cho đôi tay biết mở ra để ban phát, và, cho đôi tai biết lắng nghe để cảm thông. Amen.

 

32.Ai là người đồng thời với người phong cùi?--‘Mở Ra Những Kho Tàng’
Căn bệnh cùi đã lây nhiễm rất nhiều trong xã hội thời bấy giờ. Vào thời Chúa Giêsu căn bệnh này thì đáng sợ nhất trong mọi thứ bệnh tật. Những khuôn mặt bị tàn phá của nạn nhân đã cưỡng bách họ phải sống trong vùng hoang mạc xa cách gia đình và bạn bè, họ không còn xứng đáng thờ lạy một cách công khai nữa.

Khi người phong cùi tiến đến gặp Chúa Giêsu để tìm sự chữa lành, ông ta đã ra ngoài giới hạn của mình. Ông không được phép rời khỏi chỗ lưu đày của mình để đến nơi dân chúng tụ họp lại. Ông là một người đã bị xã hội ruồng bỏ. Đúng hơn khi yêu cầu sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, ông ta đã kêu lên: “Tôi bị ô uế, tôi bị ô uế” và như vậy là không ai dám đến gần ông ta.

Đoạn Phúc Âm ngày hôm nay thì rất đặc biệt, không những Chúa Giêsu tiếp đón người đàn ông đó; mà thật sự Ngài còn đưa tay ra và đụng đến ông. Ngài không xua đuổi, khinh bỉ người đàn ông biến dạng khốn khổ này. Và hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã kêu xin một quyền lực cao hơn của luật Lêvi là bất cứ ai đụng đến người hủi là người không thanh sạch và như thế có nghĩa là người không xứng đáng làm việc thờ lạy. Chúa Giêsu đã ngấm ngầm loại bỏ điều luật như vậy và Ngài tuyên bố đức Ái cao hơn tất cả các việc khác. Ngài nói với người hủi hãy đi trình diện với tư tế ở đền thờ để vị tư tế tuyên bố ông đã được sạch bệnh hủi và chấp nhận cho ông trở lại việc thờ phượng công khai.

Ngài muốn thay đổi thái độ của chúng ta hướng đến những người hủi và những người bị loại bỏ trong xã hội. Chúng ta cần phải chấp nhận một thách đố từ Chúa Giêsu, không nhìn những người hủi như là chưa bao giờ nhìn thấy, nhưng hãy nhìn những người đó với tất cả sự quan tâm bởi họ đã bị những người cùng thời khinh miệt.

Căn bệnh đáng sợ nhất trong thời đại của chúng ta là bệnh Siđa, một cách nào đó như là bệnh hủi trong thời đại chúng ta bây giờ. Một số người nhanh chóng kết án bất cứ người nào lây nhiễm HIV, làm như đó là một sự xuống cấp của luân lý, đi xa hơn nữa có thể nói Thiên Chúa đã phạt họ, rằng họ phải chịu như vậy thì đáng lắm, Chúa Giêsu không hỏi người cùi về đạo đức của ông. Người không làm một xét đoán nào về ông ta ngay cả khi Ngài đọc được nỗi lòng của ông. Chúa Giêsu biết Cha của Người là Thiên Chúa nhân từ và hay tha thứ và Chúa Giêsu đã đến để trợ giúp người phong hủi này. Điều đó nói với chúng ta thái độ mà chúng ta phải trở thành.

Một số người bạn của chúng ta muốn người ngoại quốc ra khỏi đất nước của mình. Thái độ đó của họ chính đáng khi xem những người dân nhập cư như tội nhân, bởi vì họ hay xem thường và hay phá luật. Giáo Hội không bào chữa cho bất kỳ hành động bất công hay thô bạo nào, nhưng Giáo Hội vẫn lấy Chúa Giêsu làm gương mẫu đức ái thì cao hơn bất cứ luật nào khác.

Một số người nhìn vẻ khinh miệt trên những người lãnh tiền trợ cấp, họ là những bà mẹ không kết hôn, họ rất nhanh chóng dè bỉu các phần từ khác trong nòi giống hoặc quốc gia có điều gì hơn bản thân họ. Có ai lắng nghe Phúc Âm rồi lại khinh bỉ người khác không? Có người nào theo Chúa Giêsu trong hành trình nhân từ và thương xót của Người để rồi đối xử với người khác cách khinh bỉ không? Có người nào cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, mà lại kết án người khác không?

Ngày nay ít người mắc bệnh hủi nhưng lan tràn giữa chúng ta là căn bệnh oán ghét, tự cho mình là công chính và loại bỏ những người bạn của mình, những người có lương tâm không thể có những tinh thần đó, nó xa lạ với những người theo Chúa Giêsu.

 

33.Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Trần Bình Trọng
Ngay từ thời cổ xưa, bệnh phong cùi đã gây ra mối lo sợ cho loài người, tương tự như mối lo sợ của người đời nay về những bệnh nan trị như ung thư, si-đa... Ngoài việc phải phấn đấu với chứng bệnh huỷ hoại thân thể, người phong cùi còn phải chịu một hình phạt thấm thía hơn về tinh thần: đó là bị người đời xa tránh.

Người phong cùi thời xưa phải sống tách biệt khỏi người lành mạnh. Sách Lêvi ghi lại: Người ấy phải ở riêng ra, chỗ ở của họ là một nơi bên ngoài trại (Lv 13:46). Nếu gặp người mạnh khoẻ ngoài đường, họ phải hô hoán lên: Ô uế (Lv 13:45) cho người khác biết mà đề phòng. Ngoài ra người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì bệnh phong cùi bị coi là nhơ bẩn. Vì thế mà người phong cùi trong Phúc âm hôm nay quyết tâm đến gặp Chúa để xin được chữa lành: Nếu Ngài muốn, xin Ngài cứu chữa tôi (Mc 1:40). Động lòng thương xót, Chúa giơ tay động vào người cùi mà bảo: Tôi muốn, anh hãy được sạch (Mc 1:42).

Đọc những vần thơ của Hàn Mặc Tử, người thi sĩ trẻ tuổi tài cao mắc bệnh cùi, phải vào ở trại Qui Hoà, biểu lộ những rung cảm trong cảnh buồn tủi và sầu khổ, ta mới hiểu được nỗi đau đớn trong cảnh cô đơn thất vọng của người mắc bệnh như thế nào! Cuối cùng người thi sĩ bệnh phong đã tìm nương tựa vào Chúa và niềm an ủi nơi trinh nữ Maria.

Hình ảnh linh mục Đa-miêng, vị tông đồ người cùi, cho thấy một đời hi sinh quên mình. Khi Đức cha ở đảo Molokai giới thiệu cha Đamiêng với dân cùi ở đảo là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Đamiêng rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức cha giải thích cho cha Đamiêng là họ không thể hiểu nổi tại sao một người ở phương xa từ Bỉ quốc, không liên hệ gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, không bệnh tật như họ, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của mình nên mới đến sờ thử vào người cha, xem cha có thực sự mắc bệnh cùi không? Rồi họ nói với nhau: Không. Dần dần cha Đamiêng hoà đồng được với họ và không còn cảm thấy ghê tởm như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.

Một vị tông đồ khác, Đức cha Cassaigne, từ chức tổng giám mục Sàigòn để lên phục vụ người cùi ở Di Linh. Đức cha viết thư về Pháp kể lại: khi những ung nhọt bắt đầu lở loét, khiến người xung quanh tởm ghớm, người cùi không tự giúp mình được nữa, thì dân làng đưa họ vào xó rừng, để người cùi ở lại đó một mình, cô đơn, hiu quạnh, đói khổ mà chết dần chết mòn. Cuối cùng Đức Cha Cassaigne cũng chết vì mắc bệnh cùi.

Tình yêu Chúa còn thúc đẩy những nữ tu và giáo dân như Sơ Maria Goretti và chị Anna Xuân đã phục vụ những trại cùi ở quê nhà. Nữ tu Nguyễn Thị Khuyên sau hai mươi năm săn sóc người cùi ở trại Ja Lai, Kông Tum cũng mắc bệnh mà chết. Năm 1963, báo chí Sàigòn loan tin về một chiêu đãi viên trẻ đẹp, hãng máy bay PANAM Mỹ, tình nguyện sang phục vụ người cùi ở trại Di Linh sáu tháng. Đến xin ý kiến Giám mục Fulton Sheen xem cô phải làm gì để tạ ơn Thiên Chúa cho sắc đẹp của cô như Đức Cha đã có lần khen và hỏi xem cô đã làm gì để tạ ơn Chúa. Bất chợt không sửa soạn, Đức Cha đề nghị cô nên sang Việt Nam giúp Đức Cha Cassaigne phục vụ người cùi ở đây một thời gian để làm dịu bớt những đau khổ và lẻ loi của người xấu số. Thất vọng về lời đề nghị, cô bỏ ra về mà không thèm chào. Nhờ suy nghĩ và cầu nguyện, cuối cùng cô đã chấp nhận ra đi.

Hiện nay vẫn còn có những trại phong cùi trên thế giới. Năm 2005, con số khai báo cho Liên hiệp quốc là 47.596 người mắc bệnh phong cùi ở Phi châu, 36.877 ở Mỹ châu, 5.398 ở miền tây Đia Trung Hải, 186.182 ở Đông Nam Á châu gồm Việt nam với 28 trại phong cùi và 10.010 ở phía Tây Thái Bình Dương. Ngày nay vẫn còn có những linh mục, nữ tu, và giáo dân tình nguyện phục vụ họ. Vào Ngày Phong Cùi Thế Giới 29 tháng 01, 2006 Đức giáo hoàng Bênêđítô XVI cho rằng nguyên nhân của bệnh phong cùi là do sự nghèo đói và kêu gọi cộng đồng quốc tế tìm cách diệt trừ mầm mống của bệnh này. Có dịp đi thăm một trại phong cùi, với cặp mắt quan sát bệnh nhân cũng như những người phục vụ họ, cùng với đầu óc suy tư và ghi nhận, ta sẽ thấy đời sống thay đổi. Rồi sẽ thấy mình bớt phạm tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Và rồi mình cũng sẽ tự hỏi mình xem yếu tố nào đã thúc đẩy những người này dám hi sinh quên mình để phục vụ họ như vậy?

Giới tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường ví tội lỗi như một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi, cũng khiến người ta bị cô lập về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Chúa và tha nhân. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Có những tội khiến người ta muốn tránh, không muốn gặp người khác vì mắc cở. Người khác cũng không muốn gặp họ vì không muốn gợi lại những kỉ niệm đau lòng quá khứ và không muốn trở thành nạn nhân lần thứ hai.

Để được thoát khỏi cảnh tuyệt vọng, người phong cùi đã tìm đến Chúa để xin được ơn chữa lành. Bệnh nhân đã không để cho thất vọng chi phối. Anh ta đã đến kêu cầu với Chúa. Điều mà người mắc bệnh cùi thiêng liêng cần có là đức tin và lòng cậy trông như niềm tin cậy của người phong cùi vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Để có thể nại đến lòng thương xót và quyền năng của Chúa, người ta phải nhận mình có bệnh hoặc có tội. Người không nhận mình có bệnh hay có tội, thì không tìm đến thầy thuốc. Họ là những người vô phương cứu chữa.

Lời cầu nguyện cho bệnh nhân phong và những người phục vụ họ:

Lạy Chúa, Chúa đã đến chữa người phong cùi thuở xưa.

Xin Chúa cũng chữa bệnh phong trong thời hiện đại,

ban cho bệnh nhân lòng tin cậy, phó thác vào Chúa.

Xin soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia

để họ tìm ra thuốc men và cách thế trị bệnh.

Còn những người phục vụ bệnh nhân,

xin Chúa là nguồn sức mạnh và kiên nhẫn của họ

và gìn giữ họ khỏi bị nhiễm bệnh. Amen.

 

34.Một lời cầu nguyện đẹp--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
Bệnh tật nào cũng luôn khiến con người đau khổ. Nhưng bệnh phong cùi có lẽ là căn bệnh khiến con người đau khổ gấp đôi. Họ không chỉ đau khổ về thể xác mà còn đau khổ về tâm hồn. Họ không được hòa nhập với xã hội. Họ phải sống trong các trại, cách ly với môi trường xung quanh. Mặc dù ngày hôm nay người ta đã tìm ra được thuốc để chữa trị căn bệnh nan y này, nhưng những người phong cùi vẫn chưa thoát được cái nhìn kỳ thị của xã hội. Đạo diễn Trần Văn Thủy viết trong kịch bản phim “Chuyện tử tế” cho rằng cái gì xấu xa nhất thì người ta gán cho người hủi: Đồ hủi, không dây với hủi, lười như hủi, xấu như hủi, bẩn như hủi …Tôi không có may mắn được sống với người phong cùi như các bạn đồng khóa với tôi. Nhưng tôi cũng đã có vài lần được theo cha linh hướng Cosma Hoàng Văn Đạt, nay là Giám mục Bắc Ninh, đến thăm và dâng lễ tại các trại phong Miền Bắc. Gặp gỡ họ, tôi mới thấy hết được nỗi đau của họ. Có người chẳng bao giờ được về thăm quê hương vì người thân không muốn. Có những người được người thân đến thăm thì còn buồn hơn. Người thân đến thăm mà không dám uống nước vì sợ lây bệnh.

Nếu như người phong cùi ngày hôm nay phải gặp nhiều nỗi khổ như thế thì người phong cùi thời Chúa Giêsu còn khổ hơn nhiều lần. Bài đọc 1 trích trong sách Lêvi mô tả tình trạng của người mắc bệnh phong: “Người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại”. (Lv 13,45-46). Hiểu như thế, ta mới thấy hết tình trạng bi đát của người phong cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Cũng như bao nhiêu người khác, hẳn anh đã nghe biết về một Ngôn Sứ mới xuất hiện có tên là Giêsu. Vị Ngôn Sứ ấy có những khả năng phi thường. Người giảng dạy và chữa được mọi bệnh hoạn tật nguyền. Người làm cho người mù sáng mắt, người câm nói được, người điếc nghe được và người què đi lại bình thường. Trong thâm tâm, anh tin rằng Chúa có khả năng chữa anh lành bệnh phong cùi. Nhưng làm sao đến được với Chúa? Trong Tin Mừng, Thánh Marcô mô tả vắn gọn rằng “một người phong cùi đến tìm gặp Chúa Giêsu”. Nhưng tôi nghĩ trong thực tế, người phong cùi đã phải vất vả lắm mới tới gặp được Chúa. Anh phải vượt qua mọi rào cản của đám đông. Có lẽ trong tột cùng của đau khổ, con người có thể làm được tất cả. Chắc chắn có nhiều cái nhìn soi mói và ghẻ lạnh. Nhưng anh không quan tâm. Anh tin vào Chúa và xác tín rằng Chúa có thể chữa anh. Và cuối cùng anh đã gặp được Chúa. Nếu tôi là anh lúc đó, tôi sẽ cầu nguyện với Chúa thế này: “Chúa ơi con đau khổ quá. Con đã bị căn bệnh này từ lâu. Con không chỉ đau về thân xác mà còn tan nát tận cõi lòng. Cả xã hội và người thân đều tránh xa con. Xin Chúa hãy chữa con lành đi”. Thế nhưng anh đã không cầu như tôi nghĩ. Anh thưa với Chúa: Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa con lành. Ôi một lời cầu nguyện thật đẹp. Không phải con muốn mà là Chúa muốn. Dù con bi đát, dù con đau khổ nhưng nếu Chúa muốn thế thì con chấp nhận. Cầu nguyện như thế, trong lòng anh đã đầy sức mạnh rồi. Anh sẽ có đủ sức để chấp nhận tất cả nghịch cảnh. Anh không bắt Chúa làm theo ý anh mà để thuận theo ý Chúa. Chúa đã cho anh hơn cả những gì anh mong đợi. Chúa đã chữa anh lành và trả anh về với cuộc sống cộng đoàn.

Tôi thấy nhiều người trong chúng ta không làm được như anh phong cùi hôm nay. Chúng ta đến nhà thờ để cầu nguyện, nhưng không phải thuận theo ý Chúa mà theo ý của chúng ta. Và khi không được như ý, chúng ta hay có thái độ buồn chán và thất vọng. Chúng ta đổ lỗi cho Chúa, đổ lỗi cho tha nhân. Cuối cùng, chúng ta không có được sự bình an trong tâm hồn.

Lạy Chúa, mọi sự của con đều là của Chúa. Chúa trao ban, Chúa lại lấy đi. Người muốn sao nên vậy. Xin cho con biết chấp nhận nghịch cảnh dù cho có bi đát đến đâu. Xin đừng theo ý con nhưng một xin theo ý Chúa. Xin ban cho con đủ sức để thực thi những gì Chúa muốn trong cuộc đời của con. Amen.

 

35.Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR
Căn bệnh đáng sợ nhất đối với dân Do thái ngày xưa chính là bệnh cùi. Nó như cơn đại dịch truyền nhiễm gieo rắc biết bao khiếp sợ cho những nạn nhân của nó vì hồi ấy không có hy vọng cứu chữa. Số phận của người bị bệnh cùi thực sự rất đáng thương. Ngay khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh, người bệnh bị cách ly khỏi mọi đời sống xã hội và bị ép buộc phải trốn tránh xã hội. Điều này có nghĩa là người bệnh phải thốt ra lời từ biệt gia đình, bỏ lại sau lưng tất cả cuộc sống nghề nghiệp và tất cả mọi người thân thương quen biết. Một lần vĩnh biệt như là đã chết. Tâm trạng âu lo hoảng loạn và nỗi đau lòng khổ tâm vì bị loại trừ hoàn toàn ra khỏi cộng đồng xã hội phải nói thật là có sức tàn phá khủng khiếp. Ở mọi phương diện, người cùi là một người bên lề xã hội, không chút hy vọng nào được hưởng tình thân hữu của bè bạn huốn gì đến việc đón nhận tình yêu. Nạn nhân không còn được coi như là con người nữa, phải bới tìm thức ăn trong những đống rác ngoài thành, luôn đeo lủng lẳng một cái chuông quanh cổ để báo cho người ta tránh xa. Hơn nữa theo quan niệm Do Thái bệnh tật là một hình phạt bởi tội lỗi mà ra và là dấu chỉ bị tách xa khỏi Thiên Chúa quyền năng, Đấng trao ban sự sống. Mỗi khi dân Do thái không trung tín với Giavê Thiên Chúa, Tiên tri Ysaia đã dùng bệnh phong cùi làm biểu tượng ám chỉ tình trạng bệnh hoạn của dân trầm kha đến mức nào.

Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Chúa Giêsu rất là xúc động cảm thông khi gặp người phong cùi. Ngài không sợ giơ tay ra động chạm vào họ. Đây là lần duy nhất trong số những lần tiếp xúc giữa Chúa và người bệnh mà Ngài tỏ ra động lòng trắc ẩn rõ ràng nhất. Điều này nói lên một điều gì đó sâu xa nơi Con Người đang-ra-tay-chữa-lành kia, như là dấu chỉ của lòng thương xót, đồng thời giúp chúng ta nhìn sâu vào trong lòng thương xót của Thiên Chúa luôn quan tâm chăm sóc mọi thứ bệnh tật phần xác cũng như phần hồn.

Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Nó khu trú trong những tâm hồn băng hoại làm chúng ta phải chia lìa với Thiên Chúa, và còn nghiêm trọng hơn là bệnh cùi thiêng liêng không ai thấy và trong suốt một thời gian dài cũng chẳng ai hay. Tin vui đích thực dành cho tất cả chúng ta là cũng y như ngày xưa Đức Chúa Giêsu giơ tay ra chạm tới và chữa lành người cùi, thì ngày nay Ngài cũng sẽ giơ tay ra cứu vớt chúng ta, chữa lành băng bó tất cả những vết thương tội lỗi chúng ta.

Nếu ngày xưa bệnh cùi bị xem là một thứ bệnh dịch khủng khiếp thì ngày nay bệnh AIDS đang đe doạ sinh mạng biết bao người trên thế giới. Điều mà người ta thường quên mất là họ vẫn là một con người vì thế trong khi đang chết dần mòn vì vẫn chưa có thuốc chữa, hay vắc-xin chủng ngừa chống lây lan, những người bệnh AIDS nhiều khi bị xa lánh, bị xem thường, bị coi là đáng kiếp với số phần thịnh nộ của Thiên Chúa. Là môn đệ đích thực của Ngài, chúng ta đã được sai đi để chữa lành, để giải hoà và yêu thương vô điều kiện. Quyền năng của Thiên Chúa nơi bản năng thiện hảo của người môn đệ Đức Kitô sẽ có dịp vươn ra chạm đến những tâm hồn bằng nhiều cách không sao giải thích được. Trong khi chúng ta cảm thấy phẫn nộ bất bình như bị xúc phạm trước phong cách cư xử với người phong cùi thời trước, thì ngày nay nếu như có nhu cầu kêu gọi, liệu người ta có hy vọng là chúng ta sẽ đem đến cho một căn bệnh AIDS khủng khiếp những cảm thông xoa dịu chữa lành của Đức Kitô?

 

36.Niềm vui tăng--Lm. Vũ Đình Tường
Khi nhận được tin vui sẽ có hai sự kiện xảy ra trong tim ta. Một là niềm vui làm cho tim ta thổn thức khôn nguôi. Một khi niềm vui làm cho con tim thổn thức thì con tim không thể cầm giữ niềm vui rộn ràng đó cho chính nó nhưng nó đòi được bộc phát ra, chia sẻ với thân nhân, thân hữu. Điều kì lạ là càng chia sẻ niềm vui thì niềm vui đó càng lớn mạnh và rộn ràng hơn. Đây chính là kinh nghiệm bản thân anh chàng mắc bệnh phong hủi trong sách Thánh Macô 1-40-50. Thời đó ai mắc bệnh cùi hủi coi như đời tàn vì không những bệnh nan y mà còn bị loại ra khỏi cộng đoàn đang sống. Bệnh khiến mọi người kinh tởm, sợ, tránh xa vì sợ lây bệnh nên đẩy người bệnh ra khỏi cộng đoàn. Một hiểu lầm tai hại, giết người đáng tiếc là xã hội thời đó liệt kẻ bệnh vào hàng tội lỗi, bị trừng phạt bệnh nan y.

Người phong hủi gặp Đức Kitô và xin Ngài chữa lành. Đức Kitô tỏ lòng thương chữa anh lành bệnh. Ngài dặn anh giữ im lặng đừng nói cho công chúng nhưng báo cho linh mục và dâng lễ vật tạ ơn. Báo cho linh mục để anh được công nhận và đón trở về cộng đoàn. Dâng lễ vật tạ ơn để nói lên tâm tình tạ ơn của anh với Thiên Chúa. Niềm vui của anh quá lớn, trào dâng anh đã làm nửađiều Đức Kitô dặn, dâng lễ vật, còn im tiếng thì không. Anh lên tiếng ca tụng Thiên Chúa trước đám đông. Kết quả của việc không vâng lời dẫn đến hậu quả.

(Đức Kitô) không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người c.45

Đức Kitô ngăn cấm người phong hủi nói về Đức Kitô vì anh không biết rõ Ngài lài ai. Thực ra không phải mình anh mà hầu như không ai biết rõ về Đức Kitô và sứ mạng của Ngài. Người gọi Ngài là tiên tri đại tài; kẻ khác bác sĩ lừng danh; người nữa một thanh niên đạo đức; một số cho Ngài là nhà lãnh đạo đầy triển vọng xuất hiện đến giải thoát dân chúng khỏi ách đô hộ của hoàng đế Roma. Đức Kitô xuống thế không phải làm những điều như người ta tưởng. Sứ mạng của Ngài là mang tình yêu Chúa đến tha nhân. Sứ mạng Ngài là đem con người ra Ánh Sáng thoát bóng tối sự chết. Sứ mạng Ngài là giải thoát con người khỏi nô lệ của ma quỉ. Sứ mạng Ngài là dậy con người biết vâng phục Thánh Ý Chúa Cha.

Đức Kitô ngăn cấm người phong hủi nói về Người bởi thời gian được chọn mặc khải Đức Kitô là ai là do chính Đức Kitô chọn, không phải ma quỉ hay con người có quyền chọn lựa mà Chính Chúa. Vì thế Đức Kitô ngăn cấm ma quỉ nói Ngài là ai. Thiên Chúa là Đấng duy nhất quyết định khi nào đến lúc mặc khải về Ngài. Ngày nay chúng ta biết thời gian mặc khải Đức Kitô là Con Thiên Chúa xảy ra sau Phục Sinh. Sau khi chịu khổ hình thập giá và sống lại vinh quang là lúc Đức Kitô tỏ vinh quang của Ngài một cách rõ ràng cho muôn dân. Đức Kitô dậy các môn đệ làm điều đó khi sai các ông đi rao giảng về Đức Kitô.

Có lẽ những ai đã từng biết người bị phong hủi trước kia nay thấy anh bình phục mừng thay cho anh và cùng với anh loan tin vui đó cho mọi người. Còn người đi đường không biết khi thấy anh vui mừng, rạng rỡ. Họ kinh ngạc và hỏi nhau điều chi làm cho con người mạnh khoẻ vui hơn hội xuân thế. Đức Kitô không những chữa anh lành bệnh mà còn phục hồi chức vị thành viên cộng đoàn, ban cho anh đời sống mới, con tim hoan lạc và ban thêm niềm tin nhỏ xíu của anh thành một người đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô.

Chúng ta đừng ngạc nhiên khi cầu xin Đức Kitô chữa bệnh cho mình hoặc thân nhân mà có khi lời cầu xin được nhận lời; khi không được Chúa đáp ứng. Đức Kitô chữa bệnh để tỏ lộ quyền năng của Thiên Chúa trên bệnh tật và sự dữ, thần ác. Sứ mạng cao cả của Đức Kitô là ban ơn cứu độ cho muôn dân, giải thoát họ khỏi xiềng xích tội lỗi và chỉ dẫn con đường về cùng Chúa Cha. Đấng có quyền quyết định cho gì, cho bao nhiêu, lúc nào thuộc về Chúa là Đấng ban phát, không phải kẻ xin là chúng ta có quyền quyết định. Kẻ xin chỉ biết đón nhận với tâm tình tạ ơn, miệng cao rao ca tụng Thiên Chúa, như người phong hủi đã làm.

 

37.Chia sẻ niềm vui--Lm. Vũ Đình Tường
Con người không chỉ có nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ mà còn nhu cầu tinh thần cũng như nhu cầu tâm linh nữa. Nhu cầu tinh thần thể hiện qua việc tâm sự buồn cần chia sẻ cùng người tin tưởng, biết lắng nghe. Nềm vui cần chia sẻ cho người khác biết để niềm vui được trọn vẹn. Niềm vui trọn vẹn là niềm vui được chia sẻ cho mọi người cùng chung niềm vui với mình. Niềm vui không trọn vẹn là niềm vui bị giấu kín trong cõi lòng. Phải dấu kín vì sợ. Thí dụ một người trúng số độc đắc không giám công khai cho người khác biết niềm vui vì sợ niềm vui kia sẽ mang đến hậu quả tai hại vì thế chỉ âm thầm vui một mình.

Biết được nhu cầu cần chia sẻ cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy người bị bệnh phong cùi là bệnh thời đó không thuốc chữa. Ai mắc bệnh đó coi như bị bỏ ra ngoài xã hội, bị xã hội ruồng bỏ, không cho sinh hoạt chung trong cộng đoàn. Người đó có cuộc sống dật dờ, sống cũng như chết vì không còn bạn bè, thân thích. Anh ta được Đức Kitô chữa lành. Niềm vui của anh tràn ngập tâm hồn nên anh không thể cầm giữ trong lòng mà cất tiếng ca tụng Thiên Chúa. Mặc dù Đức Kitô dặn anh đừng nói cho ai biết việc này cho đến khi vào đền thờ dâng lời tạ ơn nhưng anh không kiềm chế được niềm vui và để cho nó bộc phát. Có lẽ dù không lớn tiếng nói, khuôn mặt anh không dấu được niềm vui. Miệng luôn điểm nụ cười. Làn da trên người tố cáo niềm vui nội tâm, nó không còn sần sùi, trông đến gớm như xưa nhưng bóng nhẵn. Chính những dấu chỉ này tố cáo anh nhận được ơn đặc biệt. Vì thế khi nhìn bàn tay sạch bệnh anh không thể nào không lớn tiếng vui mừng. Soi bóng mình trên nước anh không khỏi nhảy múa. Toàn thân con người anh tự tố cáo, toàn thân con người viết lên bản nhạc vui, nội tâm mừng rỡ, tấm lòng hân hoan. Chính vì thế mà anh không thể kìm hãm được niềm vui.

Hàng năm tôi có cơ may nhận biết những khuôn mặt ngây thơ, rộn rã, niềm vui như thế. Đó là những khuôn mặt cười tươi, hồn nhiên, trong sáng của các em chuẩn bị tập dợt trong dịp lãnh nhận bí tích Thêm Sức hay Rước Lễ lần đầu. Trên khuôn mặt thơ dại kia cũng vẽ lên niềm vui rực sáng như thế. Các em cũng tung tăng trong y phục bóng láng, cũng vui vẻ khoe nhau quần áo, lơ, giầy mới. Các em cũng bước đi đá chân sáo, nhảy nhót nhịp nhàng diễn tả niềm vui tràn đầy trong tâm hồn. Rất ít thấy niềm vui như trên thể hiện nơi người lớn. Người lớn diễn tả niềm vui rộn ràng, kín đáo hơn các em. Tôi bắt gặp người nào đó tay làm miệng hát nho nhỏ câu ca tụng tình Chúa. Niềm vui diễn tả nhẹ nhàng qua nốt nhạc. Tôi thấy anh nọ thanh thản trong bộ y phục, đường ủi thẳng tắp, không một vết nhăn. Cái càvạt còn thơm mùi vải mới. Thái độ thong thả của anh cho biết anh đang vui trong lòng, lòng phơi phới tiến về trung tâm chia sẻ niềm vui với mọi người. Tôi gặp cụ già, rẽ ngôi giữa đầu, quần áo chỉnh tề đến trước giờ hội hơn tiếng đồng hồ. Điều đó biểu lộ niềm vui mong chờ cụ ôm ấp trong tim.

Những niềm vui đó bàng bạc trong cuộc sống, trong những sinh hoạt tôn giáo, những dịp đại lễ, nhắc chúng ta tôn giáo không phải luôn là gánh nặng với nhiều luật lệ cứng ngắc. Tôn giáo là cánh cửa mang lại niềm vui, thức tỉnh niềm vui trong tâm hồn. Niềm vui được đánh thức, được khuếch tán rộng ra mỗi khi tâm hồn ta gặp gỡ Đức Kitô.

Anh cùi gặp Đức Kitô xin Ngài được chữa lành, làm sống lại cuộc đời ủ dột. Xã hội loài người liệt anh vào hạng vất bỏ. Đức Kitô ban cho anh sự sống với, sống vui mạnh hơn những người đón nhận ơn mưa móc, hưởng lộc từ xã hội.

Xin ơn gặp gỡ Đức Kitô, cuộc đời được biến đổi thành chuỗi ngày vui thoả.

 

38.Giêsu: Đấng chữa lành mọi bệnh tật con người--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,

Bệnh tật là một thảm họa đối với con người. Nó không chỉ phá hủy dần năng lực sống, mà tệ hơn, tù hãm hoặc dần tước đoạt tình liên đới hiệp thông đẩy con người vào tình trạng cô đơn, cô độc, chết dần chết mòn.

Bệnh tật giết chết con người, cả thể xác lẫn tinh thần. Vì lẽ đó, ai cũng sợ hãi và áp dụng mọi biện pháp phòng tránh.

Thời Chúa Giê-su, bệnh phong cùi là thảm họa, vì nó lây lan trong cộng đồng. Người mắc bệnh phải bị cách ly cho đến khi chứng minh là đã được chữa lành.

Covid-19 là thảm họa trên toàn thế giới. Tính nghiêm trọng của dịch bệnh còn hơn cả bệnh cùi. Bất cứ ai dương tính hoặc đến từ vùng dịch đều phải cách ly bắt buộc trong một khoảng thời gian ấn định. Virus phát tán vào không khí do hô hấp và lập tức lây sang người khác khi không tuân thủ khoảng cách an toàn.

Bệnh phong cùi thời Chúa Giê-su bị coi là nan y, nguy hiểm. Covid-19 bị xếp vào loại đặc biệt nguy hiểm, bởi sự lây lan khủng khiếp và giết chết bệnh nhân trong một thời gian ngắn.

Từ khi phát hiện nhiễm bệnh cho đến chết phải bị cách ly hoàn toàn. Chỉ nghĩ đến nó thôi cũng thấy rùng rợn.

Con người cũng bất lực trước dịch bệnh như bệnh phong cùi thời Chúa Giê-su !

Ai sẽ cứu chúng ta khỏi tình trạng bi thảm này?

Thưa: tình liên đới hiệp thông trong Chúa Giê-su chữa lành tất cả, vì nó đặt nền tảng trên chính “tình yêu và sự sống”.

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày thảm cảnh con người bị khuất phục bởi bệnh tật và ơn chữa lành trong Đức Kitô.

Bài đọc I, trích sách Lê-vi, xác định dấu hiệu bệnh phong cùi khi quan sát trên da thịt có những ung nhọt, dần lở loét thành vết thương không lành, thì đó là bệnh phong cùi.

Luật quy định cho người mắc bệnh phong: phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và luôn kêu lên: “Ô uế, ô uế”, người khác nghe biết tránh xa để khỏi nhiễm uế.

Nặng nề hơn là phải ở riêng, cách ly khỏi sinh hoạt xã hội. Đó chính là sự nghiệt ngã đổ xuống nạn nhân. Lẽ ra người bệnh phải được quan tâm, nâng đỡ, săn sóc đặc biệt, để họ vơi đi nỗi đau bệnh tật. Sự kì thị này đẩy nạn nhân vào đau khổ, thất vọng gấp nhiều lần.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su đã đến đúng lúc. Chúa và người phong cùi gặp nhau. Cuộc gặp gỡ mang tính lịch sử. Giê-su đã vượt lên trên những quy định khắt khe của luật. Người đến gần, chạm vào anh, khiến phong hủi biến mất, anh được sạch.

Ai có thể vui mừng hơn anh phong cùi được khỏi bệnh hôm nay.

Không thể cầm mình, anh đi trình diện với tư tế, chứng minh đã khỏi bệnh, rồi lớn tiếng rao truyền và tung tin mừng khắp nơi.

Anh phong cùi được sạch trở nên chứng nhân Tin Mừng. Anh đã góp phần thúc đẩy dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Chúa Giê-su.

Thưa anh chị em,

Không chỉ anh phong cùi, mà tất cả cùng chung tình trạng, vì mọi người đều đã phạm tội và đã che khuất vinh quang Thiên Chúa, nên khi được thứ tha, mỗi người cũng cần có thái độ như người được khỏi bệnh hôm nay.

Thánh Phao-lô, trong bài đọc II, chỉ cách thức tông đồ rất đơn giản, nhưng hữu hiệu: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10, 31). Việc kế tiếp cần lưu tâm: “Đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là Do Thái hay dân ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa” (1Cr 10, 32).

Lời dạy mang tính phổ quát đại đồng, nghĩa là: không loại trừ ai.

Phao-lô nêu gương cho chúng ta thực hành nếp sống văn hóa toàn thể, tích cực bồi đắp nền văn minh tình thương. Trong mọi hoàn cảnh, ngài cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.

Thưa anh chị em,

Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống niềm hy vọng đức tin như người phong cùi đã dám chạy đến với Chúa và kêu cầu ơn chữa lành. Đức tin ấy có việc làm nên đã sẵn sàng trút mọi lo toan cho Chúa, vì tin rằng người mang lấy gánh nặng bệnh tật của anh.

Thật, ơn chữa lành của Chúa, không đơn giản xẩy ra sau lệnh truyền của Giê-su, nhưng là sự nhận lấy, mang thay bệnh tật và sự yếu đau của chúng ta mà lôi kéo nó lên thập giá. Chúa Giê-su phải trả giá đắt để chuộc lấy sự hư mất của chúng ta.

Ơn chữa lành được thực hiện bằng một cuộc trao đổi kỳ diệu: Đấng vốn giầu có, chấp nhận trở nên nghèo hèn, để chúng ta, những kẻ vốn nghèo trở nên giầu có mọi sự. Đấng mang lấy bệnh tật, thương tích, tội lỗi của chúng ta, để chúng ta được ơn chữa lành và được thứ tha. Đấng hằng sống đã chấp nhận sự chết, để những kẻ phải chết được sống muôn đời.

Cảm tạ lòng Chúa xót thương, chúng ta cũng cần hành động như người phong cùi hôm nay: chỗi dậy, lớn tiếng loan truyền cho mọi người, Thiên Chúa đã yêu thương và đã làm điều kỳ diệu cho chúng ta. Hành động tạ ơn đó rất đẹp lòng Chúa.

Nguyện xin bình an của Chúa ở cùng chúng ta luôn mãi. Amen.

 

39.Tìm kiếm lương thực nuôi hồn--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Ông Delia Delgatto, Giám đốc Trung tâm quốc gia chăm sóc trẻ em của Chi-lê cho biết: Một bé trai người Chi-lê 10 tuổi, bị cha mẹ nghiện ma tuý nặng, vứt bỏ ra đường từ lúc lên năm. Từ đó, em chung sống với một đàn chó hoang chừng 15 con trong một cái hang tại thành phố cảng Talcahuano, ở phía Nam Chi-lê. Ngày ngày cậu bé cùng đi kiếm ăn chung với đàn chó. Hôm nào không tìm được thực phẩm, những con chó cái trong đàn đã cho bé trai này bú sữa của chúng.

Ông Delia kể tiếp: "Cảnh sát Chi-lê bắt lại được bé trai này khi bé nhảy xuống một cái hồ tìm cách thoát thân.”

Vì lâu ngày ở chung với chó, em không biết nói tiếng người mà chỉ biết gầm gừ như chó. Và cũng vì chưa có tên nên báo chí gọi em là Bé Chó. (nguồn:Vietcatholic ngày 21 tháng 6 năm 2001)

Bé Chó nầy không hề thiếu lương thực nuôi xác, nhưng em thiếu hoàn toàn lương thực tinh thần như văn hoá, lễ nghĩa, lời dạy bảo khôn ngoan... nên em không thể thành người. Em mang hình hài con người nhưng tính tình và cách sống của em lại thuộc loài chó.

Sự kiện hiếm có nầy chứng tỏ cho thấy rằng nếu chỉ dùng lương thực nuôi xác mà không hấp thụ lương thực tinh thần, con người trở nên như con vật.

Để trở thành người, chúng ta không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần đến văn hoá, giáo dục và nhất là Lời khôn ngoan mang lại sự sống đời đời của Chúa Giêsu. (Mt 4,4)

Khao khát lương thực tinh thần

Tin Mừng hôm nay cho thấy đám đông dân Do-Thái nô nức tìm đến với Chúa Giêsu, không phải để tìm lương thực vật chất mà là tìm kiếm những lời dạy khôn ngoan.

Vì thấy các môn đệ mệt nhoài sau hành trình rao giảng, Chúa Giêsu sai các ông tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi cho lại sức.

Các môn đệ vừa xuống thuyền ra đi thì đám đông dân chúng đoán biết địa điểm mà các ngài sẽ đến nên từ các thành, họ kéo nhau đi vòng quanh bờ hồ, tuôn đến nơi ấy trước Chúa Giêsu và các môn đệ.

Khi Chúa Giêsu lên bờ thì thấy dân chúng đã tụ họp đông đảo đang khao khát đón nhận những lời khôn ngoan của Người. Chúa cảm thương họ vì họ như đàn chiên đói khát bơ vơ không người chăn và Người đã trao ban lời khôn ngoan cho họ.

Thiên Chúa ban cho con người cơm bánh để nuôi phần xác nhưng điều quan trọng hơn là Người ban lương thực tinh thần để bồi bổ tâm linh họ.

Chúng ta vô cùng diễm phúc khi được sống bên Chúa Giêsu là hiện thân của Sự Khôn Ngoan, được đón nhận Kinh Thánh là kho tàng chứa đựng sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Vì thế, nếu không biết khai thác kho tàng khôn ngoan nầy thì thật vô cùng uổng phí.

Người Ả-rập Xê-út trước đây mang phận nghèo truyền kiếp. Tổ tiên họ sở hữu một kho tàng vô cùng phong phú nằm ngay dưới chân mình. Đó là một kho dầu lửa khổng lồ chiếm hơn một phần tư trữ lượng dầu của toàn thế giới. Tiếc thay, vì không biết khám phá kho tàng đó, nên cha ông họ đã sống trong nghèo đói cùng cực từ đời nầy sang đời khác.

Từ năm 1938, nhờ việc phát hiện và khai thác kho “vàng trắng” vĩ đại này, Ả-rập Xê-út trở thành nước xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới và nhân dân Ả-rập trở thành những người giàu có bậc nhất.

Như người Ả-rập xưa, chúng ta cũng đang sống bên cạnh kho tàng khôn ngoan của Thiên Chúa. Kho tàng đó là Lời Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Kho tàng đó là chính Chúa Giêsu, hiện thân của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng tiếc thay chúng ta không biết khai thác kho tàng khôn ngoan bên cạnh mình, nên chúng ta vẫn còn là những người nghèo đói trong đời sống tâm linh.

Lạy Chúa Giêsu,

Xin cho chúng con luôn nhớ rằng thân xác của chúng con mai đây sẽ hư nát và chỉ còn là tro bụi, nên chỉ cần chăm sóc vừa phải, còn linh hồn chúng con sẽ tồn tại vĩnh viễn nên đáng được nuôi dưỡng chu đáo hơn. Amen.

 

40.Cứu chữa khỏi bệnh phong hủi trong tâm hồn--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Trần Ngà
Thời Chúa Giêsu, người mắc bệnh phong lâm vào hoàn cảnh vô cùng bi đát và thảm hại. Cuộc sống của họ tồi tệ ngàn lần hơn cái chết. Thà chết phứt đi còn hơn là phải chịu cái chết dần mòn trong đau đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần. Nỗi đau thương nhất mà người phong hủi phải gánh chịu là bị cách ly khỏi cha mẹ, bạn trăm năm, con cái, những người thân yêu và hết thảy mọi người để sống trong sự ghê tởm, ghẻ lạnh của người đời và kết thúc cuộc đời bằng cái chết cô đơn thảm hại.

Bài trích sách Lêvi được trích đọc trong phụng vụ hôm nay diễn tả phần nào tình trạng thương tâm đó: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế!”. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế. Nó phải ở riêng ra, cách ly khỏi mọi người. Chỗ ở của nó là một nơi riêng bên ngoài trại.” (Lêvi 13, 45-46)

Tội lỗi cắt lìa chúng ta khỏi thân mình Chúa Giêsu.

Tội lỗi cũng y như một thứ bệnh phong hủi trong tâm hồn gây tác hại cho người lỗi phạm không thua kém.

Giáo lý công giáo dạy rằng bí tích thánh tẩy tháp nhập người tín hữu vào Thân Mình Chúa Giêsu như cành nho được tháp vào thân nho và cũng như thân nho chuyển thông nhựa sống nuôi cành thế nào thì Chúa Giêsu cũng chuyển thông sự sống thần linh của Người cho các tín hữu như thế.

Bí tích thánh tẩy làm cho “người tín hữu trở thành chi thể trong Thân Thể Chúa Giêsu” (giáo lý công giáo số 1267), nhờ đó, sự sống vĩnh cửu của Chúa Giêsu được thông ban cho họ y như sự sống của toàn thân châu lưu trong từng chi thể.

Thế nhưng, khi phạm tội trọng, người tín hữu tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giêsu như cành nho bị chặt phăng khỏi thân nho, như bàn tay bị cắt lìa cơ thể.

Hậu quả của việc cắt lìa nầy là họ trở nên như một cành nho khô héo, thành một bàn tay đứt lìa, và vì thế, sự sống thiêng liêng của Thiên Chúa không còn được thông ban cho họ nữa. Thân phận của họ lúc nầy còn tệ hơn cả thân phận người phong hủi bị gạt ra khỏi gia đình, thôn xóm và cách ly với mọi người.

Chúa Giêsu cứu ta khỏi tội và đưa ta hoà nhập lại với Hội Thánh.

Khi “người bị phong hủi đến gặp Chúa Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Chúa Giêsu chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.” (Mc 1, 40-42)

Làm sao tả hết nỗi mừng vui hoan hỉ của người phong được Chúa chữa lành. Anh ta reo lên vui sướng và mặc dù Chúa Giêsu nghiêm cấm anh tiết lộ danh tánh Người đã cứu chữa anh, nhưng niềm hạnh phúc trào dâng không thể nào kìm nổi đã khiến anh phải cao rao cho mọi người biết hồng ân anh đã lãnh nhận. (Mc 1, 42)

Từ đây, anh được thoát khỏi chứng bệnh quái ác và không còn bị cách ly với xã hội loài người, được giã từ nơi cô tịch để về sum họp với gia đình, làng xóm, được đoàn tụ với bao người thân yêu.

Hôm nay, để cứu chúng ta khỏi tình trạng “cành lìa cây”, “cánh tay bị cắt lìa cơ thể” do tội lỗi gây ra, Chúa Giêsu lập nên bí tích giải tội để nối kết chúng ta lại với Thân Mình Người, để cho sự sống thần linh của Người tiếp tục truyền qua cho chúng ta như sự sống của thân nho chuyển thông cho cành, như sự sống từ thân mình chuyển qua cho bàn tay.

Ngày qua ngày, Chúa Giêsu vẫn trông chờ chúng ta ăn năn trở về như người cha chờ đợi đứa con đi hoang, như mẹ hiền mong ước đứa con lưu lạc trở về. Người vẫn thao thức tìm kiếm chúng ta như người chủ chiên đi tìm con chiên lạc rất yêu dấu.

Ước gì chúng ta biết thành khẩn tìm đến với Chúa Giêsu như người mắc bệnh phong trong Tin Mừng hôm nay, khiêm tốn quỳ xuống trước mặt Người và tha thiết van xin: “Lạy Chúa, xin thanh tẩy linh hồn con nên trong sạnh. Xin cho con được giao hoà với Chúa để sự sống của Chúa lại được thông truyền cho chúng con.”

 

41.Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi--Noel Quesson
Người phong cùi quỳ xuống cầu xin Chúa: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”.

Bác sĩ Collins là một người vô tín, có kiến thức cao, ngày kia, gặp một bác nông dân đi lễ, ông lên tiếng hỏi:

- Bác đi đâu vậy?

- Tôi đi nhà thờ, thờ lạy Chúa.

- Chúa của bác to hay nhỏ?

- Thưa ông, Chúa rất lớn, đến mức các tầng trời không chứa nổi; nhưng Người cũng rất nhỏ, có thể ngự nơi trái tim tôi.

Câu nói của bác nông dân đã tóm gọn đầy đủ niềm tin vào Thiên Chúa: tin vào Chúa quyền năng, có thể làm được mọi sự. Đồng thời cũng tin rằng Chúa yêu thương ta triệt để, Người làm chủ trái tim ta. Người phong cùi kể trong Tin Mừng hôm nay đã cho ta thấy một lòng tin như vậy.

Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người phong cùi là loại người đáng ghê tởm nhất. Họ không được ở chung với cha mẹ anh em trong nhà, không được tiếp xúc với dân làng. Họ phải sống thành nhóm riêng nơi mồ mả, chốn hoang vu. Mỗi khi thấy ai tới gần, họ phải la lên: “Ô uế! ô uế!” để người ta biết mà tránh xa họ. Luật Môsê cấm liên hệ với người phong cùi. Trò chuyện với họ là phạm luật, chưa kể sự đụng chạm tới thân xác họ. Trong hoàn cảnh cách ly đó, một người phong cùi đã nghe nói về Chúa Giêsu, anh tin tưởng Chúa có quyền cứu anh. Anh đón đường đến quỳ trước mặt Chúa và van xin: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi”.

Chuyện này xảy ra vào giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu. Người ta chỉ mới nghe đồn về Chúa như một dấu lạ xuất hiện, nhưng người phong cùi này hẳn phải được ơn trên soi sáng, mới có được một lòng tin đặc biệt như vậy. Anh đón gặp Chúa mà không sợ Ngài xua đuổi. Anh biểu lộ niềm tin, biết rõ Chúa có thể chữa mình khỏi thứ bệnh nan y. Anh quỳ gối trước Chúa, tỏ lòng tôn sùng, một thái độ người ta vốn dành cho thần linh, cho Thượng Đế.

Thấy lòng tin của anh, Chúa xúc động thương cảm, giơ tay chạm vào người anh và nói: “Ta muốn anh được khỏi”. Chạm đến người phong cùi, Chúa đã phạm luật, khiến một số người đang dò xét Chúa phải bực bội vì hành động này. Dĩ nhiên, Chúa muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Chúa có quyền và đến để làm việc đó. Nhưng ở đây, Chúa muốn tỏ ra Người đã hài lòng trước lòng tin vững mạnh của người phong cùi. Tình yêu Chúa đã trao ban rộng rãi và có thể phát sinh những hiệu quả kỳ diệu, khi con người tin tưởng mở rộng tâm hồn đón nhận.

Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người soi sáng, chúng con luôn nhận ra Chúa quyền năng và yêu thương đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa lành chúng con và những người anh chị em bệnh nạn đang kêu cầu Chúa. Chúng con ngợi khen Ngài.

 

42.Hãy được lành!--Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Dù tình trạng bi đát đến mức nào, Chúa Giêsu vẫn có thể hoán chuyển thành tốt hơn, miễn là ta biết tin vào Ngài"

Năm 1981, nhạc sĩ vĩ cầm người anh, Peter Cropper được mời đến Phần Lan trình diễn một buổi hoà nhạc đặc biệt. Vì lòng ngưỡng mộ biệt tài của Peter, Viện Hàn Lâm âm nhạc hoàng gia đã biếu ông chiếc vĩ cầm vô giá tên là Stradivarius được chế tạo cách đó 285 năm, để ông sử dụng trong các buổi hoà nhạc. Chiếc nhạc cụ quí hiếm này mang tên nhà chế tạo vĩ cầm người Ý Antonio Stradivari. Nó được cấu tạo bằng 80 phiến gỗ đặc biệt với 30 lớp sơn bóng cũng đặc biệt. Âm thanh phát ra hết sức rõ ràng, du dương. Nhưng khi Peter Cropper đến Phần Lan, một cơn ác mộng khinh khiếp không thể tin được đã xảy ra. Vì khi bước lên sân khấu trình diễn, Peter bỗng trợt chân ngã xuống, làm chiếc vĩ cầm bị vỡ tan thành từng mảnh! thế là Peter trở về Luân Đôn tâm trí khủng hoảng cực độ. Một người chuyên sửa đàn dày dạn Kinh nghiệm tên là Charler Beare tình nguyện cố gắng hết sức phục hồi chiếc đàn cho Peter. Charler miệt mài làm việc ngày đêm với chiếc đàn vỡ. Thế rồi cuối cùng ông đã lắp ráp được toàn bộ các mảnh vỡ lại để làm thành chiếc đàn nguyên vẹn như trước. Và giây phút thử nghiệm hồi hộp đã đến, mọi người đều nín thở chờ xem âm thanh tiếng đàn phát ra. Beare trao chiếc vĩ cầm cho Peter Người nhạc sĩ vĩ cầm vô cùng hồi hộp cầm chiếc đàn lên bắt đầu chơi nhạc… Tất cả mọi người có mặt ở đấy không dám tin vào tai mình, bởi vì chẳng những âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như xưa mà xem ra hiện giờ còn xuất sắc hơn trước khi nó bị vỡ nữa!

Những tháng sau đó, Cropper đã mang chiếc vĩ cầm đi trình diễn vòng quanh thế giới. Và hằng đêm, chiếc vĩ cầm mà mọi người nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn bị hư phế đó đã mang lại cho Crroper biết bao lời hoan hô nồng nhiệt từ đám thính giả.

Câu chuyện về chiếc vĩ cầm trên là một hỉnh ảnh tuyệt hảo diễn ý những gì đã xảy ra cho người bị phong cùi trong bài Phúc Âm hôm nay. Thời xưa, không hình ảnh nào ghê tởm bằng hình ảnh người bệnh cùi. Ai ai cũng sợ bị anh ta lây bệnh. Đời sống của người bệnh cùi chẳng khác gì cuộc sống địa ngục. Người khác lấy làm gớm ghiếc anh ta đã dành, mà chính anh ta cũng kinh tởm chính mình nữa. Thánh vịnh 31 đã mô tả tình trạng thê thảm của anh như sau; "Những kẻ tôi quen biết đều sợ hãi tôi, trông thấy tôi ngoài đường là họ lánh xa… Tôi chả khác nào đồ vật phế thải" (Tv 31: 11-12). Thế mà đối với người phung cùi bị đát như vậy, Chúa Giêsu vẫn giơ đôi tay trìu mến của Ngài chạm vào và chữa cho anh ta lành bệnh.

Câu chuyện người phung cùi và câu chuyện chiếc vĩ cầm chứa đựng một sứ điệp quan trọng đối với tất cả chúng ta. Chúng cho ta thấy những điều vẫn thường xuyên xảy đến trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hạn một biến cố cực kỳ bi đát nào đó như; một người thân mình qua đời, bạn bè phản bội mình, tại nạn xẩy tới làm con mình tàn tật, cha mình mất sở làm, mẹ mình nghiện rượu… khi sự bất hạnh ấy chụp lên đầu chúng ta, lòng chúng ta đầy đớn đau, lo lắng, giống như người bệnh cùi lúc bị vướng bệnh, chúng ta cảm thấy cõi lòng tan nát, và giống như Peter khi đánh vỡ chiếc vĩ cầm, chúng ta cũng bị rơi vào tâm trạng hết sức khủng hoảng.

Vậy hai câu chuyện trên dạy chúng ta điều gì khi lâm phải những hoàn cảnh bi đát tương tự như thế? Chúng cho ta thấy không có hoàn cảnh bi đát nào khủng khiếp đến mức ta không thể vượt qua được. Không một tai hoạ nào tàn khốc đến mức không thể phục hồi được. Dầu cho rủi ro tàn phá đến mức nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nhặt lên những mãnh vụn và bắt đầu khiến tạo lại thành một hình dạng mới. Bất cứ khi nào chúng ta nghĩ rằng đời mình kể như vĩnh viễn tàn lụi, hư hỏng, chúng ta chỉ cần quay nhìn về Chúa Giêsu, Ngài có thể chữa lành cuộc đời tan vỡ chúng ta, giống như người sửa đàn tài hoa đã sửa chữa chiếc vĩ cầm bể nát nọ. Và Chúa Giêsu còn làm được hơn thế. Ngài có thể biến một cuộc đời tan nát thành tốt hơn, đẹp hơn trước đó nữa.

Cách đây nhiều năm một vụ nổ đã làm một chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở chân đến nỗi các bác sĩ nghĩ rằng cần phải cưa chân đi. Một người bạn nói với mẹ cậu bé: "Chị nên chuẩn bị đón nhận điều này, thằng Glenn của chị sắp sửa thành kẻ tàn phế suốt đời đấy!" thế mà hai năm sau, cậu bé đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những Glenn đi bộ được, cậu ta còn chạy được nữa, dù chạy không nhanh lắm, những dầu sao cậu ta vẫn chạy được, cuối cùng, Glenn vào được đại học. Hoạt động ngoại khóa của cậu là môn chạy đua, giờ đây cậu chạy không phải để chứng tỏ cho thấy thiên hạ đã lầm, mà chẳng là vì cậu có năng khiếu về môn này. Các kỷ lục liên đại học chẳng bao lâu bị đôi chân thoăn thoắt của cậu phá vỡ. Thế rồi kỳ Đại hội Ôlympic Berlin đã đến. Glenn chẳng những được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này. Năm sau, Glenn Cunningham lại phá vỡ kỷ lục môn chạy dưới vòm có mái che.

Cậu bé mà người ta từng cho là sẽ trở thành một phế nhân, nay đã trở thành vận động viên chạy chay nhanh nhất thế giới. Cậu bé mà cuộc đời tan vỡ vì vụ nổ kinh khiếp đã trở nên mạnh mẽ hơn cả khi biến cố bi đát ấy chưa xảy ra.

Thánh Phaolô tóm tắt sứ điệp chứa đựng trong các bài đọc hôm nay qua những lời thơ gởi tín hữu Corintô như sau: "Chúng tôi, thường bị âu sầu nhưng không bị đè bẹp, thỉnh thoảng bị rơi vào ngờ vực nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Và dầu nhiều lần bị ngược đãi, nhưng chúng tôi vẫn không bị tiêu diệt… vì lý do này, chúng tôi chẳng bao giờ ngã lòng. " (2 Cr 4: 8-9, 16)

Và trong thư gởi tín hữu Roma thánh Phaolô có nói; "Chúng tôi biết rằng Thiên Chúa làm cho mọi sự trở nên tốt đẹp cho những kẻ yêu mến Ngài" (Rm 8:28)

Đây chính là "Tin Mừng" ẩn chứa trong các bài đọc Thánh Kinh hôm nay. Những bài đọc này dạy ta biết rằng dù ta có gặp tai nạn thảm khốc đến mức nào, chúng ta cũng vẫn có thể được chữa lành- giống như trường hợp chiếc vĩ cầm quí giá nọ. Những bài đọc dạy ta rằng bất cứ bệnh tật nào dù thê lương đến đâu xảy đến cho chúng ta như bệnh cùi chẳng hạn, chúng ta vẫn có thể được chữa lành dù sự kiện bi đát nào ụp xuống trên ta giống trường hợp xảy đến cho Glenn, chúng ta cũng vẫn có thể hoàn toàn phục hồi như cậu ta. Những bài đọc còn dạy chúng ta thêm điều này. Dù Chúa Giêsu có thể không chọn phương cách phục hồi toàn vẹn đời sống cho chúng ta, Ngài vẫn có thể dùng nghịch cảnh để biến đổi chúng ta trở nên tốt đẹp và có giá trị hơn trước.

Chúng ta hãy kết thúc bằng lời cầu nguyện được tìm thấy trong túi một chiến binh tử trận.

"Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm nên những vịêc vĩ đại, thế mà Ngài lại bắt tôi yếu đuối để tôi có thể làm những điều tốt đẹp hơn. Tôi cầu xin được giàu có để sống hạnh phúc, thế mà ngài lại để tôi nghèo khổ hầu tôi được khôn ngoan hơn… Tôi cầu xin nắm được quyền cao chức trọng để được mọi người tán dương, thế mà tôi vẫn phải chịu cảnh thấp hèn để tôi cảm thấy cần đến Chúa…

Tôi chẳng nhận được điều gì tôi cầu xin, nhưng tôi lại nhận được mọi điều tôi hy vọng. Mọi lời cầu xin không thốt ra lời lại được đáp trả hầu như ngoài dự tính của tôi. Và như thế tôi được liệt vào số những người được Chúa chúc phúc nhiều nhất"…

 

43.Mùa tình yêu--Lm Giuse Đỗ Vân Lực
Mùa tình yêu đã đến. Những bó hoa thơm ngát đưa hương tình yêu vượt qua mọi biên giới. Tình yêu đem con người lại gần nhau. Tình yêu đan chéo cuộc đời. Tình yêu là một sức mạnh sáng tạo và mạc khải những khung trời huyền nhiệm trong thế giới con người. Chính sức mạnh tình yêu đã kéo Con Thiên Chúa đến trần gian, khiến Đức Giêsu có thể đến với những người đau khổ nhất. Hôm nay Chúa đến với người phong cùi để mạc khải tất cả sức mạnh tình yêu Thiên Chúa vượt qua mọi trở ngại và phục hồi giá trị đích thực cho con người.

Số phận con người

Mặc dù khoa học và xã hội đã đi đến những bước nhảy vọt trong việc phục hồi giá trị cho những người phong cùi, nhưng ngày nay những người phong cùi vẫn phải sống trong một thế giới riêng. Bình thường việc đó chỉ có tính cách xã hội, vì sợ lây bệnh. Nhưng ngày xưa luật Do thái còn muốn đi xa hơn. Những người phong cùi bị mất hẳn tư cách tôn giáo, bị loại ra khỏi cộng đoàn phượng tự. Đó là một nỗi sỉ nhục lớn lao cho những người mắc bệnh nan y. Tất cả đều xa lánh. Kể cả thần thánh cũng không chấp nhận những con người khiếm khuyết và không còn xứng đáng làm phần tử xã hội Giavê, một xã hội chuyên lo phụng tự. Thiếu lành mạnh thân xác tố cáo một linh hồn tội lỗi. Khi đã bị các tư tế chứng nhận mắc bệnh, người phong cùi phải biệt lánh ra một nơi, phải để tóc râu phủ kín người và phải la lên cho mọi người tránh xa. Họ phải xa lánh mọi người kể cả gia đình và bạn bè. Nói tóm, họ bị tước hết quyền làm người. Chính vì thế, Đức Giêsu đã đến phá vỡ hàng rào ngăn cản người phong cùi với cộng đồng. Phép lạ Người làm không chỉ nhằm chữa tật bệnh thể xác, nhưng còn trả lại quyền làm người và đưa họ về với làng xóm, về cuộc sống cộng đồng. Bởi vậy, khác với mọi người tránh xa vì sợ lây bệnh, Đức Giêsu “giơ tay đụng vào” người phong hủi (Mc 1:41). Hơn nữa “Người chạnh lòng thương” (c.41) trước lời van xin tha thiết của người bệnh: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c.40). Quyền lực của Người không thể kìm nổi trước một đức tin mạnh mẽ như thế. Người nói: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (c.41). Điều mơ ước của người phong hủi đã thành sự thật: “Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (c.42). Còn niềm vui nào lớn hơn?! Anh đã chứng kiến một ân phúc lớn nhất trong đời anh. Thân thể anh từ nay sạch hết mọi vết thương mưng mủ. Chân tay lành lặn. Da dẻ mịn màng như tất cả mọi người.

Điểm quan trọng không phải là thân xác lành mạnh, nhưng là toàn thể cuộc sống của anh. Để được hội nhập vào cộng đoàn, anh phải tuân theo lời căn dặn của Đức Giêsu: “Hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Môsê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết” (c.44). Đó là thủ tục tối thiểu để người phong cùi trở lại cuộc sống bình thường như mọi người. Từ nay anh sẽ lấy lại tất cả những tương quan đã mất. Bạn bè, gia đình, thân nhân anh sẽ vui mừng biết chừng nào khi nhìn thấy anh trở lại với làng xóm! Anh sẽ chia sẻ quyền lợi và nghĩa vụ với mọi người. Từ nay không ai có quyền khinh bỉ anh nữa. Anh đã thực sự làm người và có thể hãnh diện về những đóng góp của mình vào cuộc sống xã hội. Niềm vui lớn lao như thế làm sao giữ kín mãi trong lòng? Bởi vậy, mặc dù Đức Giêsu cấm anh “đừng nói với ai cả” (c.44), “nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được” (c.45).

Tin mừng ấy đã đến với mọi người. Chính vì biết quên mình và chỉ sống “để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31), Đức Giêsu đã lăn xả vào mọi hoàn cảnh để “cho nhiều người được cứu độ” (1 Cr 10:33). Thánh Phaolô đã theo sát gót Thày chí thánh, đến nỗi ông đã hãnh diện khuyên nhủ tín hữu Côrintô: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kitô” (1 Cr 11:1). Theo Đức Kitô không phải để làm phép lạ, tạo sự kinh ngạc cho nhiều người. Nhưng theo Đức Kitô để phục hồi quyền con người và trả lại cho con người những tương quan tốt đẹp nhất trong cộng đồng nhân loại.

Giá trị con người trong cộng đồng nhân loại

Tình yêu đã thúc đẩy Đức Giêsu đến với con người trong hoàn cảnh cùng cực nhất. Người đã phục hồi thể xác, nhân phẩm cá nhân và giá trị đích thực của cộng đoàn. Nếu mọi người đều có một thái độ đến với đồng loại như Người, chắc chắn mọi biên giới giữa người với người đã sụp đổ từ lâu. Nhưng cho tới nay, giữa con người vẫn còn quá nhiều xa cách về chủng tộc, ngôn ngữ, văn hóa, chính trị, tôn giáo v.v. Chính vì vậy cần có một cuộc canh tân mãnh liệt theo tinh thần Đức Giêsu để xóa tan những ngăn cách tưởng tượng dựa trên giàu nghèo, địa vị. Tất cả đều phải vì con người. Khi không giúp con người làm người nữa, mọi tương quan đều vô nghĩa.

“Con người được kêu gọi để sống hiệp thông và sống thành cộng đoàn, cùng hiện hữu với và vì người khác. Dĩ nhiên, con người không sinh ra cho cộng đoàn hay tập thể đến nỗi phải hi sinh quyền lợi con người cho cộng đoàn hay tập thể. Trái lại, cộng đoàn hiện hữu vì con người là những thành phần của cộng đoàn, và mục đích của cộng đoàn hay tập thể là bảo vệ và cổ xúy quyền làm người.” (Dwyer 1994:733) Khi chỉ còn biết có tập thể, người ta quên mất nguồn gốc và mục đích của tập thể đó. Xét về mọi phương diện, cộng đoàn hay tập thể không thể có trước con người. Cộng đoàn hay tập thể cuối cùng cũng chỉ là một phương tiện giúp con người đạt tới cứu cánh cuộc đời mà thôi. Chính vì thế Đức Giêsu đã không ngần ngại đến với những người nghèo khổ, bệnh tật, bị đàn áp và gạt ra ngoài lề xã hội, để trả lại địa vị đích thực của con người.

Không làm người, không thể xây dựng giá trị đích thực nhân bản và siêu việt. Khi đã làm người, con người mới xây dựng những cơ cấu để giúp nhau đạt tới mục đích cuộc sống cách nhanh nhất và hoàn hảo nhất. Nói khác, “con người được kêu gọi để tham dự vào việc tạo thành xã hội hầu thăng tiến hạnh phúc các thành phần xã hội.” (Dwyer 1994:734) Chính vì thế, những luật lệ không còn phù hợp với con người thời đại đều cần phải xét lại. Mỗi thời đại đều có những nhu cầu và khuynh hướng riêng. Bởi thế con người được mời gọi không ngừng tham gia vào việc thành hình và cải tổ cơ chế xã hội để đáp ứng những đòi hỏi thời đại. Không ai có thể phủ nhận quyền lợi và bổn phận đó của con người.

Tất cả giá trị con người đều tuỳ thuộc tình yêu. Chính trong tình yêu, các bạn trẻ mới nhận ra giá trị người yêu. Thiên Chúa cũng mở ra một mùa tình yêu khi sai Con Một đến với những người nghèo khổ nhất, những người đã bị chính anh em mình chối bỏ. Với sức mạnh tình yêu, người môn đệ đích thực có thể vượt qua mọi trở ngại để Đức Kitô mạc khải cho mọi người biết “Thiên Chúa là tình yêu.”(1 Ga 4:16) Chỉ khi nào “Đức Kitô là tất cả và ở trong tất cả,” (Cl 3:11) giá trị đích thực con người mới được thành toàn. Tất cả mọi nỗ lực đều hướng tới niềm hi vọng đó, vì tình yêu Thiên Chúa đã chứng tỏ tất cả sức mạnh nơi cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô.

Nhưng làm sao nhận ra sức mạnh vô song của tình yêu, nếu không cầu nguyện? Quả thực, “sức mạnh lời cầu hệ tại việc chiêm nghiệm hai chân lý nền tảng: tình yêu và lòng trung tín của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện sẽ chiếu toả trong thế giới, biến thành chứng từ cho những ai không cùng chia sẻ niềm tin với chúng ta. Bởi đó, ca ngợi tình yêu và lòng trung tín của Thiên Chúa trở thành một chứng từ có thể biến đổi thế giới, một thế giới bị đe doạ vì kỹ thuật đang che mờ cõi thiêng, lòng tự mãn đang tràn ngập xã hội.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 5/2/03)

 

44.Đức Giêsu chữa người bị phong cùi--JKN
Câu hỏi gợi ý:

1. So với những người Do Thái thường tình, cách đối xử của Đức Giêsu đối với những người cùi hủi có gì khác lạ? Ta có thể rút ra bài học gì về cách xử sự với những người xấu số, bị người đời khinh ghét, ghê tởm?

2. Đức Giêsu có phân biệt đối xử dựa trên giàu nghèo, sang hèn không? Sự phân biệt đối xử như thế chứng tỏ một tình trạng tâm linh thế nào?

3. Tại sao Đức Giêsu lại yêu cầu người cùi được Ngài chữa lành đừng nói gì về việc Ngài đã làm cho anh ta?

4. Làm được một việc lành mà lại muốn khoe cho người khác biết thì ta được lợi gì về mặt tâm linh? Thiên Chúa đánh giá việc làm của con người dựa trên cái gì?

Suy tư gợi ý:

Thái độ của Đức Giêsu đối với những người bệnh cùi: yêu thương và tôn trọng người xấu số
Bệnh cùi là một bệnh rất dễ lây truyền, mà ở vào thời Đức Giêsu, lại là một bệnh nan y không có thuốc chữa. Nếu không có biện pháp cách ly những người bệnh cùi khỏi những người không bệnh, thì thật là nguy hiểm cho xã hội. Vì thế, luật Môsê (x. Lv 13,1-14,57) chủ trương buộc những người lãnh đạo trong dân phải cô lập họ ở một nơi nhất định, thường là hẻo lánh, đồng thời tuyên bố những người nhiễm bệnh này là người ô uế, để mọi người tránh xa họ. Ai tiếp xúc với họ thì cũng trở thành ô uế. Nhưng người cùi nhiều khi lại không chịu ở nơi qui định cho họ, mà lại hay đi lang thang để xin ăn, hoặc tìm cách gặp thân nhân của mình. Vì thế, để buộc họ phải tránh xa mình, một số dân chúng đã ném đá họ khi gặp họ trên đường đi. Do đó, người bị bệnh cùi phải sống một cuộc sống hết sức cô đơn, khốn khổ, thiếu thốn, và đầy mặc cảm vì bị mọi người ghê tởm, xa lánh.

Nhưng theo Đức Giêsu, dù thân hình họ xấu xa gớm ghiếc, họ vẫn là con cái Thiên Chúa, là con cháu của Áp-ra-ham, là đồng bào ruột thịt, nên họ vẫn là anh chị em với mình. Vì thế, mình cần phải yêu thương họ, phải đối xử với họ bằng tình thương. Vả lại, không vì hình thể gớm ghiếc bên ngoài mà giá trị con người của họ bị suy giảm trước mặt Thiên Chúa. Đối với Đức Giêsu, người biết nhìn vào chiều sâu của tâm hồn con người, thì họ không đáng gớm ghiếc và xa lánh cho bằng những người cùi hủi về mặt tâm linh. Cùi hủi tâm linh là tình trạng của những con người sống không biết đến tình nghĩa, sống ích kỷ, chỉ nghĩ tới hạnh phúc hay đau khổ của một mình mình hay của gia đình mình, không hề nghĩ đến hạnh phúc hay đau khổ của người khác, hay của những gia đình khác. Họ sẵn sàng có những hành động bỉ ổi để đè nén hay áp chế người khác, và cách hành động của họ thường là “ném đá dấu tay”, “khẩu Phật tâm xà”. Càng là người trí thức, càng có địa vị cao trong tôn giáo và xã hội, sự cùi hủi này càng được ngụy trang một cách tinh vi, khéo léo bằng những lời nói, hành động vị tha, bằng vẻ đạo đức bên ngoài (x. Mt 23). Đức Giêsu càng tỏ ra an ủi vỗ những người cùi hủi thể chất bao nhiêu, Ngài càng không tiếc lời khiển trách những người cùi hủi tâm linh bấy nhiêu, thậm chí đến “cạn tàu ráo máng” (x. Mt 23).

Khi người cùi hủi đến cầu cứu Đức Giêsu, Ngài không hề tỏ ra ghê tởm hay xúc phạm đến anh. Trái lại, Ngài “chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào” người anh và nói: “Tôi muốn anh được sạch!” Ta đừng vội nghĩ rằng Ngài là Thiên Chúa nên Ngài không sợ lây nhiễm, hay có lây nhiễm thì Ngài sẽ dùng phép lạ để tự chữa. Tôi nghĩ rằng Ngài là “người” thật sự, đúng nghĩa một con người, nghĩa là có thể bị lây nhiễm như bao người khác. Và nếu bị lây nhiễm, không hẳn Ngài sẽ dùng quyền phép Thiên Chúa để tự chữa cho mình, cũng như Ngài đã không lạm dụng quyền năng Thiên Chúa để biến đá thành bánh mà ăn khi đói (x. Mt 4,2-4), hay để trốn thoát khi bị bắt (Mt 26,47-56), v.v… Tốt hơn, nên nghĩ rằng Ngài đối xử với anh ta bằng một tình yêu chân thành nhất, bằng sự tôn trọng đúng nghĩa nhất của một con người đối với một con người, bất chấp phải trả giá đắt. Và đó là điều ta nên noi gương Ngài khi đối xử với mọi người, nhất là với những người xấu số, bị xã hội coi thường, khinh bỉ. Đạo đức của ta có hay không, ít hay nhiều hệ tại điều này. Sự phân biệt đối xử căn cứ trên giàu nghèo, sang hèn chứng tỏ một tâm hồn nghèo nàn về đạo đức và tâm linh.

2. Thái độ của Đức Giêsu: không muốn ai biết về mình

Bài Tin Mừng cho thấy, sau khi chữa lành căn bệnh nan y như thế, Ngài nói với người được chữa lành: “Đừng nói gì với ai cả”. Đó là một thái độ thường hằng của Ngài sau khi làm được một điều gì đáng khen ngợi, thậm chí đến kinh ngạc: Ngài không muốn được người khác biết đến (x. Mt 8,4; 16,20; 17,9; Mc 1,34; 1,44; Lc 4,41), trì phi vì ích lợi cho họ (chẳng hạn để họ được cứu rỗi). Ngài đã áp dụng đúng điều Ngài khuyên mọi người: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,1.3).

Thử đặt mình vào địa vị của Ngài khi làm xong một việc mà không ai làm được, ta sẽ cảm thấy ta muốn được nổi tiếng, được mọi người ca tụng hay khen ngợi, hầu đi tới đâu ta cũng được khâm phục, kính trọng và được đối xử một cách đặc biệt. Ta cũng mong có những đặc quyền đặc lợi vì những việc phi thường đã làm được. Khi viết được một bài báo hay, giảng được một bài mà ta đoán được nhiều người tâm đắc, làm được một việc tốt, ta mong chờ những lời khen ngợi. Nếu không được khen, ta cảm thấy như bị hụt hẫng, lòng không thỏa mãn. Ta muốn “cái tôi” của ta được phình to lên, to hơn những người khác.

Xét trên bình diện tự nhiên, đó là một khuynh hướng rất thường tình, rất phổ quát, khá lành mạnh, nó tạo nên động lực để ta cố gắng, nỗ lực hết mình. Tuy nhiên, nếu để khuynh hướng tự nhiên này ảnh hưởng quá đáng trên tất cả mọi việc làm, đến nỗi nó trở thành động lực duy nhất thúc đẩy ta hành động tốt, thì ta trở nên một con người rất tầm thường, dù ta có làm được những việc phi thường. Lúc đó, ta làm mọi sự chỉ là để được khen, được nổi tiếng, một mục đích hoàn toàn vị kỷ, chứ không còn vì yêu thương, vì ích lợi cho người khác nữa.

Còn xét trên bình diện siêu nhiên, khuynh hướng này có thể trở thành một mầm nguy hại cho sự phát triển tâm linh, đạo đức. Theo định luật của tâm linh, muốn cho tâm linh lớn lên, phát triển, thì “cái tôi” phải nhỏ đi, nghĩa là phải sống tinh thần tự hủy, tự xóa mình, quên mình. Đời sống tâm linh càng cao, thì động lực thúc đẩy ta hành động càng phải vị tha, càng phải “vô kỷ, vô công, vô danh” (=không làm vì mình, làm xong không cậy công, không mong được người khác biết mình đã làm).

3. Cách Thiên Chúa đánh giá việc làm của con người

Sự thánh thiện của một người được đánh giá theo mức độ vị tha, quên mình khi hành động. Động lực thúc đẩy hành động của một người thánh thiện chính là tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Càng thánh thiện thì động lực thúc đẩy càng phải thuần túy là tình yêu hơn, và càng ít tính chất vị kỷ đi. Chính tình yêu làm cho hành động – dù nhỏ hay lớn – trở nên có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết: “Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có tình yêu, thì tôi cũng chẳng là gì cả. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không vì yêu thương, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,2-3). Như thế, những việc có vẻ đầy tình thương như “đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí”, nếu ta làm chỉ vì mong được tiếng là đạo đức, là thương người, hay để được một lợi ích nào đó cho bản thân ta, chứ hoàn toàn không vì yêu thương, thì chẳng có giá trị gì trước mặt Thiên Chúa. Nó chẳng phải là một việc đạo đức, mặc dù có vẻ rất đạo đức.

Câu nói trên của thánh Phao-lô cho thấy: một việc làm dù rất nhỏ như quét nhà, giặt giũ, nấu bếp của một người vợ hay người con trong nhà, nếu được làm với tâm tình yêu mến Thiên Chúa, nhằm làm cho những người thân yêu của mình tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, thì có thể có giá trị rất lớn trước mặt Thiên Chúa. Những việc làm nhỏ bé được làm với tình yêu ấy rất có thể giá trị trước Thiên Chúa hơn cả những việc làm hết sức lớn lao của những bậc vị vọng trong xã hội cũng như Giáo Hội, nếu những người này làm chỉ vì muốn được danh tiếng, được thăng quan tiến chức, chứ không phải vì yêu thương.

Cứ xem cách đánh giá của Đức Giêsu khi quan sát những người bỏ tiền vào thùng dâng cúng cho đền thờ thì thấy rõ cách định giá trị của Thiên Chúa đối với các việc làm của con người: “Bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết” (x. Mt 12,41-44). Cách Ngài đánh giá khác hẳn với cách của con người. Ngài dựa trên tấm lòng, động lực thúc đẩy hành động, chứ không dựa trên hiện vật hay kết quả của hành động. Cùng một việc làm, nhưng động lực tình yêu càng lớn, thì giá trị công việc càng cao. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể đánh giá chính xác giá trị của một hành động, vì chỉ Ngài mới biết rõ động lực thúc đẩy của hành động ấy là gì.

Cầu nguyện

Lạy Cha, Đức Giêsu luôn luôn tự đồng hóa Ngài với tha nhân của con, nhất là với những người bé mọn, đau khổ nhất (x. Mt 25,40.45; Lc 9,48). Xin cho con biết yêu thương và cư xử với những người bị thế gian coi thường ấy như với chính Cha và Đức Giêsu vậy.

 

45.Tình thương và bác ái--Lm. Thu Băng
Đức Cha John Cassaigne (sinh năm 1895) là Linh Mục thuộc Hội Truyền giáo Hội Ba lê (19-12-1925) đã được cử sang truyền giáo tại Việt Nam (5-5-1926). Ngài đã lãnh sứ mệnh Cha Sở miền cao nguyên Di Linh (20-10-1926), lúc cha vừa trọn 32 tuổi. Sau mười lăm năm gây dựng công việc truyền giáo trên miền thượng. Từ con số không (có một người tín hữu nào lên đến 400, và biến buôn thượng trở thành một xứ đạo sầm uất, ngài đã lập nên một làng thượng cùi để đêm ngày săn sóc. Ngài thương những người thượng cùi hơn con đẻ). Mặc dù Ngài được bề trên Tổng quyền Sàigòn đặt lên chức vụ Giám Mục (4-2-1941), nhưng ngài vẫn tiếc công trình xây dựng làng cùi với 133 người con mà ngài đã và đang săn sóc. Cuối cùng ước vọng của ngài cũng được toại nguyện, vì bệnh cùi đã chơm nở trên thân thể ngài (1943). Biết ngài đã mắc bệnh nên Bề trên đã cho ngài từ chức Giám Mục Sàigòn để trở về với làng cùi nguyền sống chết với họ cho đến ngày bệnh cùi nơi ngài phát nặng (30 năm).

Với công lao xây dựng và hy sinh cho đồng bào kinh thượng thật lớn lao ấy. Ngày 12-4-1972, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa đã đến tận giường bệnh trao tặng ngài “Bảo Quốc Huân Chương” tri ân lòng quảng đại sâu xa của ngài. Sau 6 tháng chịu đau đớn vì bệnh nạn, ngài nói với người Thượng “Tôi hy vọng Chúa nhân lành sẽ đón tôi về. Tôi sẽ ở cùng anh chị em luôn mãi”. Ngài để lại lời di chúc: “Tôi ao ước được đau khổ vì Chúa. Tôi ao ước được chịu khổ lâu dài với anh chị em xấu số của tôi. Tôi ước ao được an nghỉ yên giữa những người anh em đau khổ. Tôi sung sướng được hiến thân cho quê hương Việt Nam muôn đời của tôi (1895-1973)”. Và Ngày (5-11-1973) lễ an táng của người cha yêu thương đã làm trọn được lời di chúc.

Người cùi trong bài Phúc Âm Thánh Lễ hôm nay cũng vậy. Anh chẳng biết gì về Chúa Giêsu, nhưng anh đã được Chúa Giêsu thương chữa lành cho, kéo anh ra khỏi cơn bệnh ngặt nghèo mà người Do Thái đã cho là Chúa phạt. Tình thương và bác ái của Cha Cassaigne cũng chạm đến lòng trắc ẩn mà ngài nhận được nơi Thiên Chúa, đã giúp biết bao người khôi phục lại niềm tin, đã giúp họ hiểu được giá trị của con người là hình ảnh của Thiên Chúa.

Thời xưa, không hình ảnh nào ghê gớm cho bằng hình ảnh người cùi. Nhất là trông người cùi lở loét, mặt mũi sưng phù, tai to, rướm máu, chân tay cụt đi từng ngon. Ai cũng sợ bị lây và muốn tránh xa và chính ngay người cùi cũng cảm thấy mình gớm tởm, thấy mình như đang đi vào cõi chết. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn giơ đôi tay trìu mến của Ngài để chạm đến họ, để chữa họ, vì thương họ bị bỏ rơi, bị nhục mạ. Tình thương của Ngài đi đến chỗ tuyệt cùng, đi đến chỗ dấn thân sâu thẳm.

Là người Công Giáo, chúng ta cũng được mời gọi nên nhân chứng yêu thương và phục vụ cho người khác theo khả năng và sự dấn thân của mình, để mọi người được tiếp nhận lòng tình thương của Chúa trải dài trên chúng ta.

Theo gương người cùi trong Phúc Âm, chúng ta cũng hãy kể cho mọi người biết những điều Chúa Kitô đã làm cho chúng ta, đã thương chúng ta, đã săn sóc chúng ta, để quyền năng của Ngài được mọi người ca ngợi

 

46.Tình thương--Lm. Nguyễn Hữu An
Thánh với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều biết đến.

Cái thánh thiêng là cái cao cả siêu việt, khác lạ, đáng kính và nhiều khi đáng sợ.

Cái phàm tục là cái thông thường, cái tầm thường, nhiều khi còn có thể đáng khinh và bị coi là ô uế dơ dáy.

Trong các tôn giáo sơ khai, cái thánh thiêng hiện diện ở khắp nơi trong mọi sự từ núi cao đến sông dài, từ đền thờ tới gốc đa, gốc đề, từ tượng thần đến cái bình vôi, từ cá sấu đến các tinh tú.

Trái lại, ngày nay trong thế giới tục hoá, mọi sự đều được giải thiêng, chẳng có gì thánh thiêng ngoài khoa học thực nghiệm duy lý với các định luật, các công thức.

Trong tiếng Do thái, “thánh” có nghĩa là tách biệt. Cái linh thiêng là cái gì tách biệt khỏi cái thường ngày, khỏi cái tầm thường thông tục. Cái thánh thiêng là cái gì khác lạ cao xa, ở bên ngoài, ở bên kia, ở bên trên cái thông thường. Do đó Thiên Chúa được gọi là Đấng Thánh, bởi vì Người cao cả, siêu việt tuyệt đối khác lạ. Người là Đấng siêu việt. Đấng cao cả, linh thiêng phải ngự ở những nơi linh thiêng cao cả, đó là những ngọn núi thánh, những Đền thờ, những nơi tách biệt khỏi chốn phàm trần.

Những người được tuyển chọn để phục vụ Đấng Thánh cũng phải là những người tách biệt khỏi người phàm. Hàng Tư tế trong dân Do thái chỉ được chọn từ chi tộc Lêvi, họ phải là những người không tỳ vết, không tật nguyền, phải giữ những luật lệ khắt khe hơn người thường.

Tất cả những gì dành riêng cho Đấng Thánh, những gì được coi như thuộc về Người, đó đều là những cái thánh: núi thánh, đền thánh, nơi thánh, ngày thánh, đồ vật thánh. Phạm đến những cái đó là phạm đến chính Đấng Thánh.

Quan niệm lính thánh như vậy muốn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục. Từ đó người ta đẩy xa Đấng Thánh ra khỏi cuộc đời và ngày càng đóng khung Người vào trong phạm vi của núi thánh, của Đền thờ, của nơi thánh, nơi cực thánh. Không gian của Người ngày càng bị thu hẹp lại.

Dân Israel được gọi là Dân Thánh, dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa. Họ tự coi mình là sở hữu Thiên Chúa: Người là của riêng họ, thuộc về họ.

Dân Israel chờ đợi một vị thiên sai ngự đến trong cung thánh đền thiêng.

Trong một thế giới mà cái thánh thiêng và cái phàm tục được xác định rạch ròi tỉ mỉ, chúng ta mới thấy việc Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Thánh làm người, một người phàm ở giữa những người phàm gặp phải sự chống đối quyết liệt.

Ngay từ giây phút đầu thai, Đức Giêsu đã không đến trong Đền thờ mà lại đến trong căn nhà nhỏ bé ở Nazareth. Người đầu thai trong lòng một thôn nữ vô danh đối với người Do thái. Rồi khi chào đời Người đã lấy chuồng bò làm nhà ở, lấy máng cỏ làm nôi, lấy những kẻ mục đồng vốn bị người Do thái coi là uế tạp làm bầu bạn. Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu sống như một người tầm thường giữa những người nghèo khổ, đồng hành ăn uống với những người bị coi là tội lỗi, thâu nhận người thu thuế làm môn đệ.

Trang tin mừng Chúa nhật hôm nay, Đức Giêsu không ngại đưa tay sờ tới người cùi để chữa cho người ấy được lành sạch. Đức Giêsu không kinh tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế.

Người mắc bệnh phong cùi đau đớn về thân xác sẽ chết dần chết mòn. Nỗi đớn đau về tinh thần còn khốn khổ hơn nữa. Trong bài đọc 1 sách Lêvi quy định “Người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo rách, xoã tóc che râu và kêu lên:”Ô uế! Ô uế!”. Họ bị cách ly ra khỏi cộng đồng, sống tủi nhục cho đến chết. Ai tiếp xúc hay đụng đến họ là bị nhơ bẩn, ô uế. Nếu người phong cùi chỉ thò đầu vào nhà nào thì nhà đó bị lây bẩn đến tận cây kèo trên mái. Không ai được phép chào hỏi một người phong cùi ngoài đường, không được đến gần 2 mét. Nếu người phong đứng đầu gió, người ở cuối gió phải cách xa 45m. Ngay cả một quả trứng cũng không được ăn nếu bán ở đường phố có người phong đi qua. Chưa có bệnh tật nào lại phân rẽ một người với đồng bào mình như bệnh phong. Thê mà Đức Giêsu đã sờ đến người phong. Bàn tay Người đụng vào da thịt bệnh nhân với các vết thương lỡ loét. Người không bị ô uế, bị dơ bẩn nhưng Người làm cho bệnh nhân hết ô uế và được lành sạch, được hội nhập vào đời sống cộng đoàn. Anh ta lấy lại phẩm giá con người. Niềm vui quá lớn lao khiến anh đi loan báo khắp nơi.

Đức Giêsu bác bỏ hoàn toàn quan niệm về sạch dơ của người Do thái. Đối với Người, không có gì bên ngoài lại làm cho con người ra dơ trước mặt Thiên Chúa. Cái gì dơ, cái gì tội lỗi chính là từ trong lòng con người mà phát xuất ra. Đó là: tà dâm, trộm cắp giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh tị, kêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế.

Đức Giêsu khẳng định: Ngày Sabat được lập ra cho con người chứ không phải con người được dựng nên cho ngày Sabat và vì thế con người làm chủ luôn ngày Sabat. Tất cả đều vì con người và cho con người. Đức Giêsu luôn sống tình thương cho con người. Tình thương chính là sự thánh thiện. Đấng Thánh hôm nay có tên gọi là Tình Thương. Tình thương là chia sẽ, là hiệp nhất. Sự thánh thiện của Đức Giêsu luôn rộng mở lan toả hương thơm tình thương.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có viết trong cuốn”Giọt máu” một câu rất sâu sắc “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đấy là chí thánh”. Tác giả hiểu ý nghĩa của từ chí thánh theo đúng những gì là phàm tục, thế gian là cõi hồng trần bụi bặm. Cái chí thánh chính là dìm mình, hoà vào trong bùn lầy, trong tội lỗi để làm cho từ vũng bùn lầy, từ vực thẳm tội lỗi ấy nở hoa, rực lên sự thánh thiện.

Tình thương của Chúa Giêsu là tình thương cúu thế, muốn thanh tẩy con người tội lỗi, rửa sạch tâm hồn và trao ban sự sống mới.

Người Kitô hữu mỗi ngày đến nhà thờ dự tiệc Thánh Thể, tiệc Tình thương. Đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận tình thương của Chúa. Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bàc ái yêu thương góp phần thánh hoá trần gian. Người tín hữu luôn được mời gọi sống như lời Thánh Phaolô khuyên nhủ trong bài đọc 2:”Dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm vì danh Chúa Kitô”.

 

47.Đức Giêsu chữa một người phong hủi--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh

Tác giả đã đặt câu truyện này vào thời gian Đức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê. Chúng ta chỉ biết tổng quát như thế nhờ c. 39. So sánh với hai tác giả nhất lãm kia (Mt 8,2-4; Lc 5,12-16), chúng ta cũng thấy bối cảnh không rõ ràng. Mỗi tác giả đã kể lại câu truyện này theo những bận tâm thần học của mình mà thôi. Trong TM Mc, với mẩu truyện cuối cùng này của ch. 1, hành động quyền lực của Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao nhất, vì Người chữa lành được bệnh phong hủi.

2.- Bố cục

Bản văn này có ba phần:

1) Chữa lành người phong hủi (cc. 40-42);

2) Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (cc. 43-44);

3) Biến cố được phổ biến và hậu quả (c. 45).

3.- Vài điểm chú giải

- người bị phong hủi (40): Sách Lêvi đã nói đến chứng bệnh này trong ch. 13–14: bệnh lây lan đặc biệt nguy hiểm, cũng là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính vì thế, người ta không nói “chữa lành” nhưng là “được thanh tẩy (làm cho sạch)” khỏi bệnh phong hủi. Ta hiểu được một lối chơi chữ trên hai từ Híp-ri nâga’ (“nó đánh”) và nega’ (“đòn đánh”; “vết phong hủi”; “người mắc bệnh phong hủi”) (x. 2 V 15,5; 2 Sb 26,19-20; Is 53,4.8).

Người tôi tớ của Đức Chúa được mô tả như người phong hủi (Is 53,3-5). Nhìn thấy Người, dân chúng tưởng Người đã phạm tội (x. G 4,7tt; 8,13tt; 2,7-8). Vị ngôn sứ không phủ nhận nguyên nhân là tội, nhưng đây là tội của dân.

Từ đó, ta hiểu vì sao xử lý những ca bệnh phong hủi được dành cho các tư tế: các vị là những nhà chuyên môn phân biệt được các dạng bệnh, và chỉ các vị mới đưa người đã lành bệnh tái tháp nhập cộng đồng dân Chúa bằng nghi lễ thanh tẩy (x. Lv 13; 14,19; Đnl 24,8).

Tuy nhiên, nếu đúng là bệnh phong thì người ta coi là chỉ có Thiên Chúa mới chữa được, bởi vì cũng giống như gọi một người chết về lại với cuộc sống. Thiên Chúa cũng có ban quyền chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn, như Môsê (Ds 12,9-14; x. Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V 5,9-14). Vậy, người ta còn có thể chờ đợi ai chữa bệnh phong hủi trong tương lai, nếu không phải là chờ đợi Đấng Mêsia (x. Mt 11,5)?

- Người chạnh lòng thương (41) (HL. splanchnistheis, partic. aorist của động từ splanchnizomai do từ ta splanchna, lòng dạ): “bị rúng động”; “bị chuyển động trong lòng”.

- giơ tay đụng vào anh: Hành vi này là tiêu biểu của một cuộc chữa lành bằng uy quyền. “Đụng” đây không phải là vi phạm quy định của luật lệ Do Thái liên hệ đến sự trong sạch, nhưng là chuyển thông sức mạnh chữa lành.

- Người nghiêm giọng (“làm gắt”, NTT) (43): Động từ Hy Lạp embrimaomai, “khịt khịt” (ngựa); “phát tiếng hừ hừ do cơn giận dữ trong lòng” (người). Đức Giêsu cho hiểu rằng Người vừa làm một việc ngoại lệ là chữa bệnh công khai, ngược lại với quyết định của Người. Do đó, Người “đuổi” anh này đi ngay để người ta đừng hiểu sai sứ mạng của Người. Động từ embrimaomai không có từ tương đương trong ngôn ngữ Tây phương (TOB: s’irritant; BJ: en le rudoyant; NAB: warning him sternly; Mann: sent him away with the stern warning).

- để làm chứng cho người ta biết (“để làm chứng trước mặt họ”, NTT) (44): Có những người cho rằng câu này nhắm đến dân chúng (chẳng hạn, cha Lagrange: “pour l’attester au peuple”). Nhưng hiểu như thế có phần ép bản văn. Quả thật, Đức Giêsu bảo người phong đến trình diện tư tế và nhắc anh phải dâng một hy lễ đúng theo Lv 14,1-32, nhưng theo ý nghĩa minh nhiên của bản văn, đại danh từ quy về các tư tế. Việc chuyển đi từ số ít sang số nhiều được giải thích là: việc làm chứng sẽ vượt quá cá nhân vị tư tế chứng thực, để đến với toàn giai cấp tư tế. Như thế, Đức Giêsu đã giao cho anh này một sứ mạng phải thực hiện nơi các tư tế (x. Mc 5,19): việc chữa lành người phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Vì chiếu cố đến họ, Đức Giêsu đã miễn chuẩn lệnh truyền về bí mật thiên sai.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Chữa lành người phong hủi (40-42)

Với bài tường thuật Đức Giêsu chữa người phong hủi để kết thúc ch. 1, Mc đưa hành vi quyền lực của Đức Giêsu tới tuyệt đỉnh. Bệnh phong được người Do Thái coi như là một chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của người bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền lực to lớn. Lời khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước đây của Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Đức Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức khắc.

* Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (43-44)

Đức Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư tế, để các vị này ghi nhận bệnh đã lành và để cho kẻ trước đây bị loại trừ nay được chấp nhận vào lại trong cộng đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp thông vào nền phụng tự của anh em mình. Đức Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và cấm người đã khỏi bệnh nói về chuyện mình được chữa khỏi.

* Biến cố được phổ biến và hậu quả (45)

Tuy nhiên, anh này không tuân theo lệnh của Đức Giêsu, anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do đó, danh tiếng của Đức Giêsu càng lan rộng hơn nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền lực của Đức Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là có người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các hành vi đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa, thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi người có thể tin vào Người.

+ Kết luận

Chữa bệnh phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Mục tiêu Mc nhắm là cho thấy Đức Giêsu đến loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, làm chứng về quyền chúa tể của Thiên Chúa đang tìm cách cứ độ con người. Tuy nhiên, ơn cứu độ Người hứa ban không phải là một ơn cứu độ phi nhân, trái lại được gửi đến cho trọn vẹn con người. Thiên Chúa đã làm điều đó nơi Đức Giêsu, Đấng có một trái tim biết thương cảm.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Như người bệnh của bài Tin Mừng, chúng ta được lưu ý: không ép buộc Thiên Chúa luôn luôn phải sẵn sàng trợ giúp chúng ta và theo cách chúng ta quy định. Chúng ta cứ bày tỏ với Ngài tình cảnh khốn cùng của chúng ta, rồi để Ngài định liệu:”Nếu Ngài muốn”.

2. “Người phong cùi này cung cấp cho chúng ta một lời khuyên rất tốt về cách cầu nguyện. Anh không nghi ngờ ý muốn của Chúa, y như thể anh không muốn tin vào sự tốt lành của Người. Khi nói rằng nếu muốn, Chúa có thể thanh tẩy anh, anh khẳng định quyền lực ấy thuộc về Chúa, đồng thời khẳng định đức tin của anh… Nếu đức tin yếu, đức tin trước tiên phải được củng cố. Chỉ khi đó đức tin mới cho thấy tất cả quyền lực của mình là đạt được việc chữa lành tâm hồn và than xác.

Có lẽ Tông Đồ Phêrô đã nói đến đức tin đó khi bảo: “Người đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ” (Cv 15,9)… Đức tin tinh tuyền, được sống trong tình yêu, được duy trì nhờ sự nhẫn nại, kiên nhẫn trong chờ đợi, khiêm nhường cách khẳng định mình, cương quyết trong niềm tin tưởng, đầy trọng kính trong lời cầu nguyện và đầy khôn ngoan trong những gì cầu xin, đức tin này chắc chắn trong mọi hoàn cảnh được nghe lời này của Chúa: ‘Tôi muốn’” (Thánh Paschase Radbert (?-khoảng 849), đan sĩ Biển đức).

3. Chúng ta học nơi Đức Giêsu sự kín đáo trong việc phục vụ. Như Đức Giêsu, người Kitô hữu phục vụ, cứu chữa, vì lòng mình cảm thương sâu sắc nỗi khốn cùng của anh chị em mình, chứ không phải để chứng tỏ bản thân. Người Kitô hữu phục vụ vì lòng chan hòa bác ái, chứ không phải vì thiếu thốn (đi tìm sự nể trọng của người khác).

4. Hôm nay, chúng ta cũng học nơi người phong thái độ mau mắn đi làm chứng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đang liên tục ban muôn vàn ân sủng cho chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và đang nhận được những ân huệ lớn lao nào.

 

48.Hữu hạn và Toàn năng--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Chúa nhật trước Giáo hội mời gọi chúng ta biết vượt ra khỏi sự tầm thường ở đời này để đến với những giá trị cao đẹp và trường cửu. Chúa nhật này, chúng ta được mời gọi cảm nhận sự giới hạn của con người. Chấp nhận giới hạn của mình là cánh cửa giúp ta bước vào và đụng chạm tới quyền năng của Vĩnh cửu.

Giới hạn của con người

Bài đọc trích trong sách Levi (Lv 13, 1-2. 44-46) và bài Tin mừng theo Thánh Marco (Mc 1, 40-45) nói về những người mang bệnh phong. Ngày nay căn bệnh này không còn là nỗi sợ hãi của nhân loại bởi đã có thuốc đặc trị. Nhưng những gì được nói đến trong các Bài đọc cho ta thấy sự sợ hãi của người dân với căn bệnh này. Nó diễn tả sự bất lực của con người khi đã nhiễm bệnh cùi. Người ta sợ bị nhiễm bệnh từ người bệnh nên xã hội đã dùng biện pháp cách ly thật tồi tệ. Người khoẻ xa lánh bệnh nhân, còn bệnh nhân phải “phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế.” (Lv 43, 45-46).

Đứng trước cái giới hạn và sự bất lực của con người trong hiện tại, có người chấp nhận thân phận giới hạn của mình; Nhưng có người coi đó chỉ là tạm thời và tin tưởng khoa học sẽ giúp giải quyết tất cả, nên họ không chấp nhận sự giới hạn của con người.

Bệnh cùi hủi năm xưa giờ đây nhân loại đã chiến thắng. Nhưng cả thế giới đang đối diện với đại dịch Covid. Người ta cảm nhận thật nét thân phận mong manh của con người. Đến giờ này thì người ta đã làm được kháng sinh để giải quyết vấn đề. Việc đẩy lui Đại dịch chỉ còn là thời gian. Và những người không chấp nhận sự giới hạn của kiếp người lại thở phào và thốt lên: con người sẽ làm được tất cả mà. Hình ảnh Siêu nhân ngày càng rõ nét với họ.

Sự thật của cuộc sống thì vẫn cứ bày ra trước mắt. Người ta giải quyết được vấn đề này thì vấn đề khác xuất hiện. Nếu con người sẽ chiến thắng tất cả thì đó là việc của con người tương lai mà thôi. Con người trong hiện tại chắc chắn nó phải cúi đầu trước giới hạn của mình. Đại dịch Covid rồi sẽ qua đi, nhưng thái độ đón nhận cuộc sống này đưa bạn và tôi đến những chân trời khác nhau.

Quyền năng của vĩnh cửu

Thiên Chúa xuống thế làm người. Nơi Ngài sự sống tràn đầy và vĩnh cửu. Quyền năng của Ngài được bộc lộ qua chính Đức Giê-su trong thân phận con người. Trong bài Tin mừng, Thánh Marco đã mô tả quyền năng của Ngài thật lớn lao. Tong Tin mừng tuần trước chúng ta được chứng kiến Chúa Giê-su chữa lành mọi người với mọi thứ bệnh. Ngài không cần dùng thuốc hay liệu pháp gì cả. “Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các ngài.” (Mc 1, 31). Chỉ một sự đụng chạm giữa bệnh nhân và Chúa Giê-su đã khiến mọi bệnh tật tan biến.

Trong bài Tin mừng tuần này cũng có cảnh con người bị bệnh, một bệnh nhân không còn hy vọng gì đối với con người, đã đụng chạm đến Đức Giê-su, Đấng Toàn năng. Người phong cùi trong trình thuật đã hoàn toàn khỏi bệnh ngay khi Chúa Giê-su đụng đến anh.

Chỉ việc đụng chạm ấy khiến con người khỏi bệnh thì là phi lý đối với khoa học. Người ta không thể hiểu được việc không có sự can thiệp gì của các biện pháp y tế mà bệnh tình có thể biến mất. Nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự lại đều có thể. Nếu bạn tin vào Thiên Chúa thì hẳn bạn biết Ngài đã dựng nên con người chúng ta. Ngài đã dựng nên con người từ không mà có, thì việc ngài đưa con người từ tình trạng bệnh tật trở về tinh trạng khoẻ mạnh thì có gì mà không thể. Thiên Chúa hoàn toàn có thể biến sự dữ thành sự lành, và Ngài đã và đang làm chuyện đó trong cuộc sống này với chúng ta. Trường hợp bị bệnh phong nổi tiếng trong sách Các Vua (2 V 5,1-14) về ông Naaman đã được tiên tri Elisa đã chữa lành bệnh phong cách lạ lùng. Tất cả những gì ông phải làm là xuống sông Giodan tắm thì khỏi.

Vậy phải làm sao để có thể được chữa lành như những người trong Kinh thánh đã khỏi.

Chấp nhận giới hạn để Chúa nâng ta lên trong bất tử

Bạn sẽ chẳng bao giờ chạy đến thầy thuốc nếu bạn không có bệnh. Và bạn cũng chẳng chấp nhận nhập viện nếu bạn cho rằng mình không có bệnh gì cả hay căn bệnh của bạn hoàn toàn có thể bị tiêu diệt với khả năng của bạn. Người ta chỉ thực sự cất lên lời cầu cứu khi thấy mình đã bất lực, không thể giải quyết được vấn đề. Người ta cũng chỉ chấp nhận để vị bác sỹ chữa trị nếu họ tin rằng bác sỹ này có thể chữa cho họ.

Những người bệnh phong trong Thánh Kinh đã nhận ra sự bất lực của con người đối với bệnh tình của mình. Đồng thời họ nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Đấng hoàn toản có thể chữa lành cho họ. Thánh Marco đã mô tả chi tiết cho thấy người bệnh phong đã có cả 2 thái độ này: “có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”” (Mc 1,40).

Người này sẽ chẳng được khỏi nếu họ không chấp nhận giới hạn của chính mình và chạy đến với Chúa trong sự thần phục. Với Chúa Giê-su thì quả thực, việc chữa lành bệnh nhân này chỉ là Ngài có muốn hay không. Cũng như trong trình thuật Sáng tạo, ở đây Chúa chỉ muốn là mọi sự liền có. Bệnh nhân được mời gọi đi trình diện các tư tế, đi dâng của lễ chỉ là để được hoà nhập vào trong đời sống của thế giới với những con người hữu hạn chúng ta. Còn trước quyền năng của Đấng Vô Biên thì những việc đó chẳng là gì.

Đấng Toàn Năng và giàu lòng Thương xót vẫn có đó và luôn sẵn sàng chữa lành cho chúng ta. Bạn và tôi đều là những kẻ hữu hạn sống giữa thế gian chật hẹp này. Chúng ta sẽ mãi quẩn quanh trong giới hạn khi chúng ta ảo tưởng chính mình, nhận mình là siêu nhân có thể làm được tất cả. Trái lại, chính khi chấp nhận sự bất lực của mình, biết cúi mình trước Đấng Toàn Năng, bạn và tôi hoàn toàn có thể vươn cao bay xa, chiến thắng mọi bệnh tật hay trở ngại, bởi chính Chúa kéo ta lên và chữa lành cho ta. Nếu Chúa muốn thì mọi sự không thể đối với con người đều trở thành có thể và giản đơn.

Lạy Chúa, này con đây. Thân con yếu đuối, xác con mỏi mòn. Bao gục ngã đã làm con biến đổi. XIn Chúa kéo con lên, xin tái tạo con và dẫn con về trong ơn nghĩa Chúa.

 

49.Vâng phục, tín thác và tri ân--Alphonse Marie Trần Bình An
Ngày 20 tháng 9, 1940, Nguyễn Trọng Trí nhập trại phong Quy Hòa, thời Mẹ Maria Juetta. Sau ba tuần, nhờ sự chăm sóc tận tụy của các nữ tu dòng Phan Sinh (Franciscaine), bệnh tình Trí thuyên giảm.. Từ tuần lễ thứ tư, sinh hoạt của Trí đều đều như kinh Nhật Tụng: 5 Giờ sáng dậy đi nhà nguyện đọc kinh, sốt sắng dâng lễ, rước lễ. 7 Giờ cùng anh em bệnh nhân dùng điểm tâm cháo trắng với đường tán đen. 8 Giờ được băng bó, uống thuốc hoặc chuyện vãn với anh em đồng bệnh. 11 Giờ cơm trưa rồi nghỉ ngơi. 14 giờ 30 Lên nhà nguyện đọc kinh lần hạt đến 17 giờ dùng cơm chiều… Trí là một người rất sùng kính Đức Mẹ Maria, lúc nào cũng cầu xin Đức Mẹ và thứ bảy nào cũng xưng tội.. Suốt hơn một tuần, từ 30 tháng 10, 1940 đến 7 tháng 11, 1940, Trí bị bệnh kiết lỵ nặng nên mất sức! Đêm ngày 8. 11. 1940 Trí lấy hai tập giấy pelure, dùng bút chì cùn trong áo veston sáng tác bài thơ cuối cùng La Pureté de l' Âme (Tâm Hồn Thanh Khiết) để ca tụng Đức Maria cùng các bà mẹ dưới đất là thân mẫu và các nữ tu Phan Sinh đã săn sóc Trí. Đây là bút tích cuối đời của Trí. Khi ông Nguyễn Văn Xê đưa Mẹ Nhất Maria Juetta, người Pháp, đọc bài viết này, Mẹ Juetta nói: “Giỏi quá, uổng quá, Hàn Mạc Tử là một thiên tài hiếm có! Nhưng Mẹ xin phép tác giả đổi chữ "nénuphards" (hoa súng) thay cho chữ "lotus" (hoa sen) vì cuộc đời tu sĩ của chúng tôi tại đây với các bệnh nhân phong, chính là những bông hoa súng lên xuống theo con nước và bập bềnh trôi nổi như mọi vật trong hồ, chứ không dám tự nhận mình như những bông hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".

Sau 52 ngày được các nữ tu, đặc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận tình săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông Nguyễn Văn Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt thở lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi. (Lm Trần Quý Thiện, Tưởng niệm nhà thơ Công giáo Hàn Mặc Tử)

Thi sĩ Hàn Mặc Tử đã sống 52 ngày cưối đời thật trong sáng với tinh thần sám hối trở về, hân hoan chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, tán dương Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc qua những vần thơ tuyệt vời. Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô tường thuật Đức Giêsu chữa lành người phong, căn dặn đi trình thầy tư tế và không được tiết lộ. Nhưng khi được chữa lành, anh không thể nín lặng, công khai vui mừng rao truyền và loan tin vui.

Lời cầu xin của anh là gương mẫu cho bất cứ ai thành tâm nguyện cầu, xin Chúa xót thương cứu giúp: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.” Anh hoàn toàn xin vâng theo Thánh Ý Chúa toàn năng, khiến Đức Giêsu chạnh lòng thương và giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.”

Vâng phục

“Nếu Ngài muốn,” Với lời khẩn cầu tha thiết, trân trọng Đấng Thiên Sai, anh bệnh phong tuyên xưng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, toàn quyền nắm giữ sinh mệnh, cũng như sức khỏe, hạnh phúc, bình an của mình. Lời nguyện xin khiêm hạ này cũng gợi nhớ “Xin Vâng” của Mẹ: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như sứ thần nói.” (Lc 1, 38)

Người bệnh phong không dám biểu lộ ý riêng của mình, vả lại không thân thưa, thì Đức Giêsu cũng đã thấu suốt nguyện vọng ấp ủ từ bao lâu rồi. Anh hoàn toàn vâng theo Thánh Ý toàn năng, sẵn sàng chấp thuận Thiên Chúa định đoạt thân phận, không hề oán than. Một đức tin vững chãi qua cơn thử thách thật nặng nề.

Trước cuộc khổ nạn kinh hoàng, Đức Giêsu cũng làm gương sáng chói về đức vâng lời, Người ba lần cầu nguyện: “Cha ơi, nếu được xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha. ” (Mt 26, 39-44)

“Chúa Cứu Thế đã cách mạng, muôn triệu người hưởng ứng, khẩu hiệu của Ngài: “Vâng lời đến chết!” (Đường Hy Vọng, số 395)

Tín thác

“Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi được sạch.” Hoàn toàn tín thác vào quyền năng vô biên của Thiên Chúa, người bệnh phong công khai tin cậy, trao thân gửi phận cho Đức Giêsu cứu giúp. Người Kitô hữu liệu có luôn xác tín vào Thông điệp Lòng Chúa Thương Xót, được Chúa Giêsu truyền cho chị nữ tu Faustina Kowalska hay chăng? “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa.” Có hoàn toàn vững tin như lời nguyện Hiệp Lễ chăng? “Lạy Chúa, con không đáng rước Chúa vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch.”

Vì đặt trọn niềm tin và hy vọng vào Chúa, người phong không ngần ngại lỗi luật Do Thái, phải chịu cách ly với người lành. Đức Giêsu vì thương yêu, chí nhân chí ái, cũng vô tư vượt qua điều luật này, khi Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch.”

“Con người hy vọng để sống, để tiếp tục sống. Con người sẽ quay về với ai có thể mang lại cho họ niềm hy vọng lớn lao nhất: Niềm hy vọng ấy, Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10). Niềm hy vọng ấy, Chúa ban qua tay Mẹ Maria:”Nguồn hy vọng của chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 962)

Tri ân

Được chữa lành, anh quên ngay lời Đức Giêsu căn dặn “đừng nói gì với ai cả.” Bởi vì lòng anh tràn ngập niềm tri ân, cảm tạ Thiên Chúa. Anh không thể giữ niềm vui, ân huệ cho riêng mình, mà hân hoan công khai chia sẻ với mọi người về hồng ân mới lãnh nhận nhưng không.Nên vừa đi khỏi, anh đã rao truyền và loan tin ấy khắp nơi.”

Lòng Mến tràn đầy của anh đã lan tỏa khắp nơi, khiến dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Đức Giêsu. Niềm tri ân, lòng cảm mến đã biến anh thành chứng nhân sống động, rao giảng Tin Mừng đến tha nhân. Anh không sở hữu ơn cứu độ cho riêng mình, mà trái lại anh đã thực hiện đúng ba bước như mới đây Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích. Ngài cho rằng có ba tiêu chuẩn để không không tư nhân hóa sự cứu rỗi: “Đức Tin vào Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta, Đức Cậy khích lệ chúng ta nhìn tới những lời hứa và tiến đi về phía trước và Đức Mến là chăm sóc lẫn nhau, khuyến khích tất cả chúng ta thực hành bác ái và các việc lành." (Đồng Nhân, Vietcatholic, ĐTC: Thành phần ưu tú của Giáo hội không được biến đức tin làm của riêng mình)

Lạy Chúa Giêsu, xin cứu thoát chúng con khỏi bệnh phong, khỏi bệnh liệt kháng tâm hồn, xin cứu chúng con khỏi vũng lầy tội lỗi, khỏi thung lũng đầy nước mắt này, xin ban cho chúng con biết sám hối, ăn năn trở về cùng Chúa hằng ngày.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn che chở chúng con khỏi những căn bệnh nan y thời đaị là đánh mất Tin, Cậy, Mến. Xin Mẹ cầu bầu, cứu giúp chúng con thoát khỏi cạm bẫy ba thù, để được Mẹ dắt dìu chúng con theo Chúa luôn. Amen.

 

50.Tôi muốn, anh sạch đi!--Alphonse Marie Trần Bình An
Chiếc xe buýt Buôn Trấp, ngoại ô thành phố Buôn Mê Thuột tạt vào trạm đón khách. Môt nữ tu nhỏ nhắn Dòng Nữ Vương Hòa Bình nhanh nhẹn bước lên. Người soát vé hỏi đi đâu. Nữ tu nhanh nhẩu đáp: “Làm ơn cho tôi xuống trại cùi E Ana!” Nghe thế, hành khách đang nêm kín trên xe, bỗng nhiên tự động dạt ra, để tránh cho xa nữ tu ấy.

Thấy ghế trống do khách bỏ lại, nữ tu liền nhìn quanh cúi đầu, mỉm cười cám ơn, rồi lặng lẽ ngồi xuống lần hạt. Hình ảnh đó lâu nay đã trở nên qúa quen thuộc trên tuyến đường này. Thậm chí nhiều khi người soát vé cũng ngần ngại, chẳng dám đến gần, để thu tiền vé của nữ tu đang phục vụ trại cùi ấy!

Ngày nay, mặc dầu y khoa đã chế ngự và chữa trị được bệnh phong hủi, nhưng người ta vẫn không thế thoát được nỗi kinh hoàng về chứng tưởng như nan y ấy. Thế mà từ hơn 2000 năm trước, có người cùi đến gặp Chúa Giê su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch, Ngài chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. (Mc 1, 40-42)

Chúa Giêsu thật sự là nhà cánh mạng lỗi lạc tiên phong đối với bênh nhân phong cùi. Sau này, còn biết bao vị thánh theo chân Người đến an ủi người cùi, như thánh Phanxicô Assisiô khó khăn, Cha Thánh Đa Miêng, cùng gần đây Đức Tổng Giám Mục Sài Gòn Jean Cassaigne, các tu sĩ phục vụ trại phong …

Hiện nay bệnh cùi thể xác đã có thể điều trị được, nhưng bệnh cùi tâm hồn mới thật sự đáng sợ. Tính bất nhân, vô cảm, gian manh, cùng những điều ác mới chính là chứng bệnh nan y, vô phương cứu chữa, nếu không tìm đến nguồn ơn cứu độ của Đức Kitô. Cứ đơn giản bắt chước thái độ chân thành, tin cậy và quả quyết của người cùi trong Tin Mừng, mà nguyện xin: Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch, chắc chắn không ai phải thất vọng.

Tiếc thay, hình như bây giờ người ta dửng dưng với chứng bệnh cùi tâm hồn. Tựa như câu nói dân gian: Cùi không sợ lở! Người ta còn thích ung dung sống chung, sống cùng, sống với nó nữa, chẳng hề khiếp đảm hay mắc cở. Nên nào muốn chữa trị tuyệt nọc. Nào muốn sám hối, chạy đến tòa Hòa Giải, mà Chúa Giêsu vẫn hằng mòn mỏi chờ đợi để tha thứ, để chữa trị bình phục. Có lẽ Chúa đành chịu bó tay, chỉ biết tiếc thương cho những con bệnh ngoan cố xa lánh Ngài.

Lạy Chúa, xin cho con được thoát khỏi những chứng hư tật xấu vô luân, khỏi những đam mê xác thịt, khỏi những cám dỗ tiền tài, danh vọng, để trở nên sạch sẽ trước nhan thánh Chúa.

Lạy Mẹ mến yêu, xin dìu dắt con thoát khỏi ách nô lệ của bệnh cùi hiện đại, tránh xa những cạm bẫy ba thù, để con hy vọng được sạch sẽ về cùng Mẹ. Amen.

 

51.Chứng phong hủi biến khỏi anh--Lm. Trầm Phúc
Chúng ta nghe kể lại phép lạ Chúa Giêsu chữa một người cùi, xem như một phép lạ riêng cho một bệnh nhân mắc một thứ bệnh mà thời đó người ta xem như bệnh ô uế. Ô uế ở đây phải hiểu là cả thân xác và cả tâm hồn. Theo luật Môsê, ai mắc bệnh ngoài da lan tỏa khắp người, thì không được ở trong cộng đoàn, phải tìm một chỗ riêng biệt để khỏi lây cho người khác, và người khác cũng không bị nhiễm lây sự ô uế đó. Ai chạm vào người bệnh sẽ bị ô uế.

Trình thuật của Maccô không nói rõ phép lạ này xảy ra ở đâu, chỉ nói là ở cửa một thành phố. Người bệnh không được phép vào thành phố hay nơi có đông người. Thái độ của anh cùi là một sự liều lĩnh. Anh đến với Chúa Giêsu. Anh có thể bị đuổi và có thể bị ném đá vì người ta rất sợ bệnh này. Bệnh nhân phải đứng xa và la lên: “Ô uế, ô uế!” Anh này ngược lại đã đến với Chúa, quỳ gối xuống, van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Thái độ và lời khẩn xin của anh cùi cho chúng ta thấy lòng tin vững mạnh của anh. Anh không sợ bị xua đuổi. “Nếu Ngài muốn”. Anh tin tuyệt đối vào quyền năng của Ngài. Anh quỳ gối xuống, một cử chỉ vừa khiêm tốn vừa tha thiết. Thánh Maccô cho thấy thái độ nhân từ của Chúa Giêsu. Ngài đáp lại bằng một cử chỉ hết sức yêu thương. Ngài chạnh lòng thương, giơ tay động đến anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi”. Chúa Giêsu cũng liều khi giơ tay chạm đến anh cùi. Ngài không sợ bị ô uế. Thay vì chỉ cần nói một lời, Ngài chạm đến anh. Một cử chỉ đầy tình thương. Ngài muốn cho anh thấy rằng Ngài thông cảm sâu xa hoàn cảnh khốn khổ của anh. Ngài chấp nhận bị liên lụy với anh trong sự khốn khổ của anh. Nhập thể là như thế. Ngài chấp nhận thân phận con người như chúng ta. Ngài không đứng ở xa, Ngài đến gần, thật gần để chia sẻ nỗi thống khổ của con người, của chúng ta. Chúng ta có nhìn thấy được tình thương của Ngài không? Chúng ta có tin không? Chúng ta có đến với Ngài để được chữa lành không?

Theo lời cầu xin của anh cùi, Chúa nói rõ: “Tôi muốn, anh hãy lành sạch”. Bệnh cùi biến ngay. Một lời nói vừa uy nghi và vừa hữu hiệu! Ngài chứng tỏ Ngài là một Đấng có uy quyền, là Đấng Thiên Sai. Chữa lành bệnh nhân có thể xem như một sự giải thoát. Mục tiêu của Ngài, quyền năng của Ngài chính là cứu vớt con người khỏi bệnh tật phần xác và cả những đau khổ phần hồn.

Chữa lành bệnh tật cũng là dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta đang bị đè nặng dưới đau khổ và tội lỗi. Chúng ta có cảm thấy mình là thân phận nhơ hèn tội lỗi không? Chúng ta thân phận cùi đày khốn khổ, chúng ta có cảm thấy cần một lời tha thứ hay chữa lành không? Thường chúng ta không tin vì chúng ta không biết mình bị phong cùi. Tâm hồn chúng ta có gì là tốt đẹp? Chúng ta có cảm thấy cần được lành sạch không? Hay chúng ta vẫn tự mãn như tên Pharisêu kia, cảm thấy mình thánh thiện và khinh chê những người khác? Hay chúng ta thích ở lì trong sự nhơ hèn của chúng ta? Hay chúng ta cảm thấy mình đủ thánh thiện rồi, không cần phải thanh tẩy?

Cha De Mello nói: “Những người tội nhân khét tiếng nhất là những người không biết mình phạm tội”.

Hãy thành thật và khiêm tốn nhìn lại tâm hồn mình, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta thật khốn cùng, đầy những vết nhơ tật xấu. Chúng ta chưa thánh thiện đâu. Đức Thánh Cha Phanxicô vẫn không ngại nói rằng mình là người tội lỗi.

Thế giới hôm nay đang cần những người thánh, nhưng được mấy người? Nhiều người Công giáo đã mất đi tâm thức về tội lỗi, phạm tội mà vẫn thấy mình công chính. Đây chính là tai nạn kinh khủng nhất mà không ai hay. Trong một giáo xứ, một vài người thù oán cha sở, tìm hết mọi cách để hạ nhục và hãm hại cha sở của mình suốt hơn hai mươi năm, vẫn rước lễ mỗi ngày. Một giáo dân khác, mười năm không đi xưng tội vẫn rước Chúa mỗi tuần. Như thế là thế nào? Họ đã mất đi ý thức về tội. Họ giữ đạo như một thủ tục, như một thói quen. Ngược lại, thánh Gioan-Maria Vianney, Cha sở họ Ars, vẫn luôn cảm thấy mình quá tội lỗi không xứng đáng làm cha sở. Ngài đã tìm cách bỏ trốn họ đạo hai lần, nhưng không thành công. Ai là người thánh thiện? Trong quyển sách “Người hành hương nước Nga”, anh ấy chỉ có một lời nguyện trên môi suốt năm này đến năm khác: “Lạy Chúa, xin thương xót con vì con là người tội lỗi”. Chúng ta có cảm thấy như thế không? Tinh thần thống hối là con đường đưa vào sự sống. Muốn được sống, chúng ta hãy làm như anh cùi kia: nhìn nhận sự khốn cùng của mình, tìm đến Chúa, quỳ gối xuống nài xin, tin tưởng: “Nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho con được sạch”.

Chúa Giêsu không xa lắm đâu. Ngài ở nơi tòa giải tội. Ngài trông chờ chúng ta đến để chữa chúng ta lành sạch. Ngài không mõi mệt tha thứ. Chúng ta có muốn đến với Ngài thường xuyên để tâm hồn chúng ta được lành sạch và tươi sáng không?

Và phương thuốc hiệu nghiệm nhất để chữa lành tâm hồn chúng ta chính là Mình Thánh Chúa. Đó là phương thuốc của tình yêu. Hãy ăn lấy tấm Bánh Tình Yêu để tình yêu của Ngài thấm nhập vào da thịt và tâm hồn phong cùi chúng ta, mang lại sức sống dồi dào và giúp chúng ta hòa nhập vào đoàn dân thánh, cao rao những kỳ công và tình yêu của Chúa. Giờ đây, Chúa không cấm chúng ta rao truyền quyền năng Chúa như đã cấm anh cùi. Giờ đây chúng ta có thể lớn tiếng ca ngợi lòng thương xót của Chúa cho mọi người. Hãy đi ra, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói. Hãy rao giảng Tin Mừng cứu độ cho mọi người, như anh cùi kia, vì Chúa đang đến, vì “tình yêu của Chúa bền vững muôn đời”.

 

52.Chúa thương chữa người bệnh cùi--Hiếu Nguyễn sưu tầm--thanhlinh.net
MINH HỌA LỜI CHÚA

1. Một loại phong cùi

Trong một giáo xứ, cha sở đã lập một ban Hội đồng mục vụ. Ngài chọn những người đạo đức gương mẫu vào ban này. Ngài luôn khuyến khích nâng cao tinh thần tông đồ và lòng vị tha cho họ.

Dầu vậy, một người trong ban đã sa ngã phạm tội làm gương xấu, phần đông bổn đạo đều biết và xầm xì bàn tán. Người đó lại là người trước nay rất đạo đức, hăng hái hoạt động tông đồ.

Thấy vậy cha sở rất đau lòng. Ngài cầu nguyện cách riêng cho ông và tìm cách khuyên mời ông ăn năn hối cải. Ngài hỏi ý kiến một vị trong Hội đồng:

- Ông nghĩ sao về gương của người đó?

- Thưa cha, một người trong Hội đồng mà làm gương xấu như thế thì không thể chấp nhận được.

Cha hỏi người khác, ông này nói:

- Con đề nghị sa thải ông ấy, nếu không cả Hội đồng sẽ mang tiếng và khó làm việc.

Thấy một người ngồi im lặng có vẻ nghĩ ngợi, cha sở hỏi:

- Còn ông, ông nghĩ sao?

- Thưa cha, theo con nghĩ: ông ta chưa đến nỗi tệ. Nếu con lâm vào hoàn cảnh ông ấy chắc con còn tồi tệ hơn.

----------

Tin mừng hôm nay thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa lành người mắc bệnh phong cùi. Phải chăng gương xấu của người trong Hội đồng mục vụ trên đây cũng là một loại phong cùi, phong cùi vì gương xấu của ông ta. Loại bệnh này cũng lây nhiễm nguy hiểm cho người khác: nhất là ông ta là người có chức quyền trong họ đạo, thì ô nhiễm của ông ta càng trầm trọng hơn.

Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta trong thư gởi giáo đoàn Côrintô hôm nay: “Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai”. Vậy Chúa Giêsu đã phán: Ai làm gương xấu, hãy treo đá vào cổ nó và xô xuống biển cho nó chết.

Tại sao Chúa kết án nặng cho kẻ làm gương xấu như thế? Vì nó rất nguy hiểm, nó làm cớ cho kẻ khác bắt chước phạm tội như nó. Nó là một thứ phong cùi hay lây nhiễm ô uế xấu xa.

Nhưng Chúa vẫn thương cứu chữa những kẻ ấy. Lẽ nào chúng ta không thương giúp?... (Theo “Maria, Mẹ tuyệt mỹ”).

2. Anh tung tin khắp nơi

Dưới thời tổng thống Sutacô Gaiep bắt đạo, Giáo hội Công giáo tại Mêhicô phải chịu bách hại dữ dằn. Hai mươi ngàn nhà thờ bị đóng cửa. Đặc sứ Tòa Thánh và các linh mục tu sĩ nước ngoài bị trục xuất. Hàng ngàn Linh mục và giáo dân bị xử bắn vì không chịu chối Chúa bỏ đạo. Tại thành phố Pueblo có cụ Jose Saphan là Kitô hữu can đảm. Cụ có tiệm tạp hóa nhỏ, và bất chấp lệnh cấm đạo, cụ treo tấm bảng trước cửa tiệm với hàng chữ lớn: “Vạn tuế Chúa Kitô” Đây là khẩu hiệu của các tín hữu Kitô ở Mêhicô… Ngày 20 tháng 07 năm 1926, viên tướng tư lệnh quân đội tại thành phố Pueblo đi ngang cửa tiệm cụ, thấy tấm bảng với hàng chữ đó. Ông tức giận truyền cho cụ phải tháo gỡ. Nhưng cụ cương quyết trả lời “Không” với viên tướng. Thế là cụ bị bắt giam ngục. Và hôm sau bị dẫn đem đi bắn. Nhưng chưa tới nơi hành quyết, cụ đã bị một tên lính bắn chết nằm bên vệ đường

Tin mừng hôm nay thuật lại, sau khi Chúa Giêsu chữa người phong hủi được sạch, “Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay và bảo: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả… Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi” (Mc.1,43-45).

Mặc dầu bị Chúa Giêsu cấm đoán, người phong hủi được Chúa chữa lành cũng can đảm “rao truyền và tung tin ấy khắp nơi” cho con người nhận biết quyền năng vô cùng của Chúa, để mọi người nhìn nhận Người, tin kính Người là Đấng Cứu Thế Chúa Cha sai đến để cứu rỗi con người.

Cụ Jose Saphan trong câu chuyện trên đây tuy bị cấm cách tù ngục cũng vẫn mạnh mẽ tuyên xưng vương quyền của Chúa Kitô. Cụ biết nhà cầm quyền sẽ dứt bỏ biểu ngữ tuyên xưng niềm tin của cụ và sẽ giết cụ, nhưng cụ vẫn can đảm nói lên xác tín chỉ có Chúa Kitô là Thiên Chúa duy nhất cứu rỗi con người, đem lại hạnh phúc đích thực và vững bền cho loài người.

Phải chăng đó là những tấm gương tuyệt vời cho các Kitô hữu chúng ta hôm nay. Dù khó khăn cam khổ thế nào cũng mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin vào Đấng cứu độ duy nhất là Chúa Giêsu Kitô.

(Theo “Phép lạ trên biển cả”).

---------

3. Chiếc vĩ cầm bị bể

Năm 1981, Peter Cropper nhạc sĩ vĩ cầm danh tiếng nước Anh được mời đến Phần Lan trình diễn trong buổi hòa nhạc đặc biệt. Anh đã được nhạc viện hoàng gia tặng cho chiếc vĩ cầm vô giá đã chế tạo cách đó 285 năm. Anh luôn sử dụng nó trong các buổi hòa nhạc. Hôm nay anh mang nó đến Phần Lan để trình diễn. Nhưng rủi thay khi bước lên sân khấu, anh trợt chân té xuống, làm chiếc vĩ cầm vô giá của anh vỡ tan từng mảnh!...

Thế là anh trở về Luân Đôn, lòng trí khủng hoảng tột độ. Dù vậy anh không chán nãn ngã lòng. Anh mang nó đến một người thợ chuyên sửa đàn đầy kinh nghiệm tên là Charles Beare và nhờ ông sửa chữa. Cuối cùng ông đã lắp ráp lại được toàn bộ các mảnh vỡ, làm thành cây đàn nguyên vẹn như trước. Ông giao chiếc đàn lại cho Peter. Người nhạc sĩ vĩ cầm lấy cây đàn hồi hộp trổi nhạc. Âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như trước và xem ra còn xuất sắc hơn trước khi nó bị bể vỡ nữa. Từ đó anh mang nó đi trình diễn khắp nơi và nó đem lại cho anh biết bao lời hoan hô nồng nhiệt.

----------

Câu chuyện chiếc vĩ cầm trên đây là một hình ảnh tuyệt hảo cho những gì đã xảy ra nơi người phong cùi trong Tin mừng hôm nay. Ai cũng gớm ghiếc anh ta vì sợ lây nhiễm, chính anh ta cũng ghê tởm chính mình như Thánh vịnh 31 mô tả:

“Những kẻ tôi quen biết đều sợ hãi tôi

trông thấy tôi ngoài đường là họ xa lánh!

…Tôi chẳng khác nào đồ phế thải”.

Thế mà đối với người phong cùi ghê tởm đó, Chúa Giêsu đã đưa tay trìu mến chạm vào, chữa cho anh khỏi bệnh. Điều đó đem đến cho chúng ta một sứ điệp quan trọng. Nếu một điều gì chẳng may xảy đến cho chúng ta, như một tai nạn, một bạn bè phản bội, một người thân mất, một nghèo đói bệnh tật, vv… làm cho chúng ta đau đớn khổ sở trầm trọng giống như người mắc bệnh cùi, như nhạc sĩ Peter khi đánh vỡ chiếc vĩ cầm… Chúng ta chỉ cần chạy đến Chúa Giêsu và kêu xin Người. Người sẽ chữa lành cuộc đời tan nát của chúng ta như ông thợ tài giỏi đã sửa chữa chiếc vĩ cầm tan vỡ. Và Người còn làm được hơn thế nữa. Người sẽ biến cuộc đời tan nát chúng ta tốt hơn, đẹp hơn trước nữa. (Theo “Sunday Homilies”).

4. Bệnh phong cùi

Một vụ nổ làm chú bé 7 tuổi bị phỏng nặng hai chân, đến nỗi bác sĩ không chữa được, bảo phải cưa đôi chân. Và như thế nó sẽ phải tàn phế suốt đời!...

Thế mà hai năm sau với niềm tin mãnh liệt, cậu đã bỏ cặp mạng, tự đi được và còn chạy được nữa.

Cậu thi đậu đại học, và chọn môn ngoại khóa là chạy đua. Và cậu làm cho mọi người kinh ngạc, cậu phá kỷ lục môn này…

--------

Cậu bé tưởng chừng phải tàn phế suốt đời đã trở thành vận động viên xuất sắc nhờ niềm tin vào khả năng của mình. Với niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa, người phong cùi đã được lành sạch.

Tin mừng hôm nay thuật lại: “Người bị phong hủi đến với Chúa Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (Mc.1,40-42).

Đối với người Do thái xưa, kẻ mặc bệnh cùi là bị Chúa phạt vì tội lỗi của họ, và xã hội xa lánh vì sợ lây nhiễm, lây nhiễm phong cùi và nhất là lây nhiễm ô uế xấu xa. Trong tình trạng bi đát đau khổ đó, người phong cùi đã biết tin tưởng Chúa, chạy đến chúa, quỳ xuống van xin: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh. Đức Giêsu động lòng thương, đưa ty chạm đến anh và bảo: Tôi muốn. Tôi cho anh khỏi bệnh. Ngay tức khắc, anh được lành sạch. (Mc.1,40-42).

M. Carré nói: “Sống trong một thế giới đầy đau khổ trước mắt, chúng ta phải là những nhà chuyên môn của tin tưởng trông cậy”. Và G. Bossis mời gọi chúng ta: “Hãy tin và tin nhiều hơn nữa cho đến khi xảy ra phép lạ” (Theo “Như Thầy đã yêu”).

 

53.Tại sao người được chữa lành không giữ lời Đức Giêsu căn dặn?--Lm. Giuse Lê Minh Thông
Dẫn nhập

Bài Tin Mừng Mc 1,40-45 thuật lại việc Đức Giêsu chữa một người mắc bệnh phong hủi và những gì xảy ra sau đó. Không phải tình cờ khi bản văn lặp đi lặp lại bốn lần từ “sạch”, trong đó 3 lần là động từ katharizô: “sạch” (Mc 1,40.41.42) và 1 lần danh từ katharismos “sự sạch” (1,44). Người mắc bệnh phong “muốn được sạch” và Đức Giêsu “muốn anh ta được sạch”. Hai ước muốn gặp nhau và lập tức anh ta được sạch. Sau đó Đức Giêsu nói anh ta đi trình diện tư tế, để xác nhận “sự sạch” (được chữa lành) nơi anh ta. Như thế, bệnh phong hủi làm người ta trở thành “không sạch” và bị cách ly khỏi xã hội. Bệnh phong làm cho sự giao tiếp và tương quan của người bệnh với người khác bị cắt đứt. Vậy làm thế nào để biến đổi từ tình trạng “không sạch” trở thành “được sạch”, từ tình trạng “tương quan bị cắt đứt” trở thành “có tương quan với người khác”?

Điều lạ lùng trong cách hành văn là sau khi chữa lành, Đức Giêsu lại đuổi anh ta đi ngay, dặn anh ra không nói gì với ai và đi trình diện tư tế, nhưng anh ta đã không giữ lời Đức Giêsu căn dặn. Thay vì giữ im lặng thì người được chữa lành lại đi “rao giảng nhiều nơi, đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai đi vào thành” (1,45). Sự việc anh ta không giữ lời Đức Giêsu trong bản văn có ý nghĩa gì? Bài viết sẽ bàn về việc chữa lành bệnh phong hủi và phản ứng lạ lùng của người được chữa lành. Cụ thể là (1) Người mắc bệnh phong đã làm gì trước khi được chữa lành, (2) đã phản ứng thế nào sau khi được chữa lành và (3) tại sao không làm theo lời Đức Giêsu căn dặn.

1. Hành động trước khi được chữa lành

Câu chuyện mở đầu bằng việc người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin để Người làm cho anh được sạch. Về phía Đức Giêsu, Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và nói: “Tôi muốn, anh hãy được sạch” (1,41). Lập tức bệnh phong biến khỏi và anh ta được sạch. Như thế, việc chữa lành được thực hiện từ cả hai phía.

Ba động tác về phía người mắc bệnh phong hủi là “đến với”, “quỳ xuống” và “van xin Đức Giêsu” bằng một lời nói: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi sạch” (1,40). Về phía Đức Giêsu, Người cũng thực hiện ba bước, trước hết Người chạnh lòng thương, thứ đến Người đụng vào người phong hủi và sau cùng Người nói lên ý muốn của Người: “Tôi muốn, anh hãy được sạch” (1,41). Trong hai lời nói của hai nhân vật, đều xuất hiện động từ “muốn” (thelô) và động từ “sạch” (katharizô). Như thế, “ước muốn được sạch” của người bệnh phong chỉ có thể được thực hiện khi anh ta đối diện với một người vừa “muốn chữa lành”, vừa “có khả năng chữa lành”. Nếu “không muốn” và “không xin” thì chẳng có gì để nói, nhưng nếu “muốn” và “van xin” mà không gặp được “có khả năng” thì cũng không có gì xảy ra.

Bản văn vừa đề cao hành động của người bị phong hủi: “Đến với Đức Giêsu” và “van xin Người”. Đây là hành động “cầu xin” dựa trên niềm tin, bởi vì đây không phải là cách chữa bệnh bình thường. Đồng thời bản văn đề cao “ước muốn” và “khả năng chữa lành” của Đức Giêsu. Người là Đấng có quyền năng làm cho người mắc bệnh phong “được sạch”, nghĩa là làm cho một người bị loại trừ khỏi cộng đoàn được hội nhập trở lại và có thể thiết lập tương quan với mọi người trong cộng đoàn.

2. Phản ứng sau khi được chữa lành

Sự hội nhập cộng đoàn của người được chữa lành diễn tả qua sự đảo ngược cách ngoạn mục. Từ chỗ anh ta không được tiếp xúc với cộng đồng đến chỗ trở thành người rao giảng về lời của Đức Giêsu. Người thuật chuyện cho biết: “Vừa đi khỏi, anh ta đã bắt đầu rao giảng nhiều nơi và loan truyền lời ấy” (1,45a). Câu kết của bài Tin Mừng cho thấy tầm ảnh hưởng lời rao giảng của anh ta: “...đến nỗi Người (Đức Giêsu) không thể công khai đi vào thành, Người đành ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người” (1,45b).

Người mắc bệnh phong được chữa lành là người đã thi hành sứ vụ của Đức Giêsu: “Rao giảng” (kêrussô). Thực vậy, trước đoạn văn Mc 1,40-45, tác giả Tin Mừng Máccô cho biết ở Mc 1,39: “Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng (kêrussô) trong các Hội đường.” Đến Mc 1,45, chính người được chữa lành đi “rao giảng nhiều nơi”, còn Đức Giêsu, Người lại không di chuyển để “giảng dạy” mà “ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người” (1,45b). Chi tiết: “Người ta từ khắp nơi đến với Người” cho thấy kết quả lời rao giảng của người bị bệnh phong được chữa lành là ngoài sức tưởng tượng.

Đầu đoạn văn, người phong “đến với Đức Giêsu” chứ không phải Đức Giêsu đến với anh ta; đến cuối đoạn văn, Đức Giêsu lại không thể công khai vào thành, vì người được chữa lành đã làm cho nhiều người khác từ khắp nơi “đến với Đức Giêsu”. Bản văn muốn nói với độc giả rằng ai đã thực sự gặp được Đức Giêsu và được Người “chữa lành bệnh tương quan”, thì người ấy sẽ phản ứng bằng cách “rao giảng về Đức Giêsu” và làm cho “nhiều người khác”, “đến với Người”. Điều lạ trong bản văn là “lời rao giảng thành công” của người được chữa lành là do “không giữ lời Đức Giêsu”.

3. Ý nghĩa của việc “không vâng lời” ở Mc 1,44-45

Sau khi người bệnh được chữa lành, Đức Giêsu đã làm gì và nói gì với anh ta? Người nghiêm giọng, đuổi anh ta đi ngay và nói với anh ta: “Coi chừng, đừng nói gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, anh hãy tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ” (1,44).

Người được chữa lành đã hoàn toàn không giữ lời Đức Giêsu dặn. Đức Giêsu nói “Coi chừng, đừng nói gì với ai” thì anh ta lại “loan truyền lời ấy cho cả thành biết”. Đức Giêsu bảo “hãy đi trình diện tư tế và tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền” thì anh ta lại không đi trình diện tư tế và dâng của lễ mà đi vào thành rao giảng và nói với mọi người về việc anh ta được chữa lành. Tại sao anh ta không giữ lời Đức Giêsu căn dặn? Kiểu hành văn này có ý nghĩa gì?

Lời dặn của Đức Giêsu có thể hiểu là nhằm tránh sự hiểu lầm về tư cách Mê-si-a của Người và Người có thể vào các thành rao giảng. Điều đáng chú ý là việc người được chữa lành không giữ lời dặn của Đức Giêsu trong đoạn văn mang lại những hiệu quả tích cực. Có thể liệt kê ba ý sau:

(1) Điều tích cực thứ nhất là anh ta nói về Đức Giêsu cho mọi người, nhưng lời rao giảng của anh ta không thay thế lời rao giảng của Đức Giêsu, ngược lại, lời rao giảng của người được chữa lành đã làm cho “mọi người đến với Đức Giêsu”.

(2) Điều tích cực thứ hai là thay vì Đức Giêsu vào thành, đi rao giảng cho đám đông, thì bây giờ dân chúng từ khắp nơi đến với Người. Nhờ lời rao giảng của người được chữa lành, Đức Giêsu có thể giảng dạy mà không phải đi đâu cả. Đồng thời, nhờ anh ta mà cử toạ được chuẩn bị trước, dân chúng chủ động đến với Đức Giêsu nghĩa là họ thực sự muốn nghe lời Người.

(3) Điều tích cực thứ ba của việc “không giữ lời dặn của Đức Giêsu” là cách thức bày tỏ tác động lớn lao của việc chữa lành nơi anh ta. Làm sao anh ta có thể im lặng khi niềm vui gặp được Đức Giêsu, hạnh phúc được chữa lành, được hội nhập vào cộng đồng là quá lớn. Để diễn tả sự sống mới, cuộc đời mới, tương quan mới, anh ta không còn cách nào khác là ra đi loan báo về Đức Giêsu. Dân chúng khắp nơi đã cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc ấy, nên họ đã kéo đến với Đức Giêsu, để cũng “được sạch” tâm linh, nghĩa là có thể thiết lập tương quan với Đức Giêsu và tương quan với người khác.

Đề tài người được chữa lành “không giữ lời Đức Giêsu dặn” (Mc 1,44-45) còn xuất hiện ở các nơi khác trong Tin Mừng Mác-cô và đây là một trong những kiểu hành văn độc đáo của văn chương Mác-cô. Đề tài tương phản: “Càng cấm, càng nói” đã được phân tích phần nào trong bài viết: “Bí mật công khai”. Cấm không được nói mà ai cũng biết!

(http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/05/tim-hieu-tm-mc-bi-mat-cong-khai-cam.html). Chi tiết “không vâng lời Đức Giêsu” trong Mc 1,40-15, nhằm cho độc giả biết hai thông tin:

(1) Theo truyền thống Do Thái, để người bệnh phong hủi chữa lành có thể hội nhận vào cộng đồng, người ấy phải “trình diện tư tế, và tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền” (1,44).

(2) Đối với độc giả dân ngoại (cũng là độc giả qua mọi thời đại), họ được mời gọi hành động như người phong được chữa lành: Ra đi rao giảng để mọi người từ khắp nơi đến với Đức Giêsu.

Kết luận

Đoạn Tin Mừng Mc 1,40-45 giúp độc giả suy gẫm về hai đề tài lớn: (1) “Tương quan” và “hội nhập cộng đoàn”, “hội nhập xã hội”; (2) Thể hiện niềm vui và hạnh phúc được chữa lành bằng cách rao giảng “lời ban sự sống” đã đón nhận để mọi người đến với Đức Giêsu.

Con người có thể “cô đơn” và “đơn độc” ngay giữa đám đông. Có những người hoàn toàn khoẻ mạnh về thể lý, nhưng tương quan với người khác lại có thể bị tổn thương, bị rạn nứt, thậm chí bị cắt đứt, đổ vỡ, nghĩa là trở thành những người “bị tách rời khỏi cộng đoàn” hay “tự mình cắt đứt tương quan với người khác”. Bài Tin Mừng dùng hình ảnh “bệnh phong hủi” để diễn tả “tương quan bị cắt đứt” giữa cá nhân và cộng đoàn. Vì thế, cần đến với Đức Giêsu để được Người chữa lành. Hành trình của người mắc bệnh phong trong bản văn là lời mời gọi độc giả hãy “đến với và van xin” Đức Giêsu. Người sẽ chữa lành họ, vì Người là “Đấng muốn chữa lành” và “có khả năng chữa lành”. Nghĩa là Đức Giêsu có khả năng làm cho độc giả được thanh tẩy, được sạch, được hội nhập cộng đoàn và bước vào tương quan tốt đẹp với người khác.

Đồng thời, một khi đã được chữa lành, độc giả sẽ cảm nhận niềm vui và hạnh phúc khôn tả, đó là niềm vui và hạnh phúc được bước vào tương quan với Đức Giêsu và với mọi người. Niềm vui và hạnh phúc lớn lao này sẽ thúc đẩy những ai được chữa lành lên đường, ra đi rao giảng và loan báo về Đức Giêsu để mọi người cũng được đón nhận niềm vui và hạnh phúc ấy bằng cách tìm đến với Đức Giêsu. Cách thức rao giảng mà bản văn đề cao là rao giảng như thế nào đó, để không phải mọi người đến với mình, nhưng để họ “đến với Đức Giêsu”, “lắng nghe Đức Giêsu” và tin vào Người. Ước mong độc giả thực sự gặp gỡ Đức Giêsu, bước vào tương quan tràn đầy sức sống với Người và với mọi người. Từ đó hân hoan ra đi rao giảng và làm chứng về Đức Giêsu để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đã lãnh nhận cho những người xung quanh mình./.

Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/02/mc-140-45-tai-sao-nguoi-uoc-chua-lanh.html

 

54.Đối với Thiên Chúa, không ai là người bị bỏ rơi--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Khi mới đọc qua, đoạn Phúc âm này làm chúng ta ngạc nhiên vì một sự tương phản: Chúa Giêsu có hai thái độ trái ngược nhau. Chúa Giêsu vừa cảm động, xót thương người cùi, vừa xua đuổi anh, và ngược đãi anh. Đoạn này khiến ta phải suy nghĩ về lòng nhân hậu của Chúa Giêsu, lòng nhân hậu vừa nhạy cảm lại vừa cương quyết.

1) Chúa Giêsu dễ cảm xúc, ‘Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay sờ đến người ấy mà phán bảo: Ta muốn, ngươi hãy lành bịnh’. Chúa Giêsu đã xúc cảm cách rất nhân loại. Lòng từ bi vô biên của Chúa ‘Giêsu-làm-người’ không phải chỉ là một sự hảo tâm, tuy hiệu nghiệm nhưng xa vời. Trong sự mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã truyền thông lòng từ bi vô biên của Người bằng sự rung cảm của một con tim thật sự nhân loại, trái tim của Chúa Giêsu. Lòng từ bi đó trở thành một sự cảm xúc rất nhân loại, nó biến thành lòng xót thương khi đứng trước sự đau khổ, nghĩa là thành khả năng có thể ‘cùng đau khổ’. Chúa Giêsu đau khổ trước sự đau khổ của người phung cùi khi anh này đến với Người. Hơn nữa, vì Người thương con bịnh, nên nỗi đau khổ của y làm cho Người khó chịu hơn chính sự đau khổ của Người. Khi người ta yêu ai thực sự, nếu người này đau khổ, người ta muốn mang lấy sự đau khổ cho kẻ ấy để giải thoát cho y. Chúa Giêsu không chữa cho người phung cùi bằng một hiệu quả của quyền-lực-toàn-năng Người. Người cúi xuống sát con bịnh đang quỳ dưới chân Người. Người đáp ứng lời van xin của y bằng một cử chỉ từ bi nhân hậu đi xa đến độ vi phạm cả một giới răn Lề Luật. Người chạm đến bịnh nhân cùi bằng tay Người. Chỉ một cử chỉ đó cũng đủ gây bối rối cho bịnh nhân mà một trong những đau khổ lớn lao nhất trong đời họ là cảm thấy bị loại ra khỏi xã hội loài người, những đồng loại không còn muốn tới gần họ nữa chứ đừng nói chi đến sự chìa tay ra cho họ. Vì họ là người không ai muốn sờ mó, đụng chạm tới. Như vậy là lòng từ bi của Chúa không những đã hữu ích cho họ bằng cách chữa họ lành đã, mà còn nâng họ lên hàng cao, bằng cách phục hồi danh dự địa vị cho họ, bằng cách trả lại cho họ danh dự con người. Chúng ta ghi nhớ điểm Chúa Giêsu đụng đến người cùi trước khi y lành đã, và cử chỉ ấy đã chữa y khỏi căn bịnh. Lòng từ nhân của chúng ta có thực sự động lòng xót thương, gần gũi sự đau khổ, chấp nhận hoặc phục hồi cho tha nhân nhân phẩm của họ chăng? Một lòng từ nhân như vậy lắm khi mang trong bản chất nó quyền lực chữa lành một số bịnh tật.

2) Chúa Giêsu cương quyết. Nhưng rồi ngược đãi y, Chúa Giêsu liền xua đuổi y mà bảo: Coi chừng đừng nói gì với ai. Chúa Giêsu không muốn ai tiếp nối những cử chỉ từ bi của mình bằng những tình cảm giả vờ hoặc thái quá. Trái lại là khác. Người không bao giờ rời mắt khỏi những lợi ích cao cả của sứ mạng Người. Không bao giờ Người chấp nhận cho một quyền lợi riêng tư đi ngược lại với quyền lợi tổng quát. Trong trường hợp hiện tại, sự lợi ích của sứ mạng Người đòi hỏi 1 hành động tiến dần đến mục đích tối hậu là: mọi người nhận ra Người, Chúa Giêsu, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế. Trước các phép lạ Người làm, khi Người khởi đầu ra đi thi hành sứ mạng, những người tốt có thể coi Người như một nhân vật được thiên phú một quyền năng phi thường, không hơn không kém. Nhưng Chúa Giêsu cương quyết muốn rằng các phép lạ Người làm tiên vàn phải là chữ ký của Lời Người. Trước hết, Người muốn ban Lời Người. Đối với Người, điều quan hệ, không phải là sự nổi tiếng về quyền năng chữa bệnh của Người, nhưng là sức mạnh cứu độ của Lời Người. Vậy Lời ấy là nguồn gốc ơn cứu độ ở chỗ nào? Ở chỗ là Lời ấy kêu gọi con người hãy có lấy một sự tuyên xưng đức tin. Lòng tin vào Lời và Con Người của Chúa Giêsu mở cửa cho ơn cứu độ. Khi hắt hủi người cùi được chữa lành vì lòng từ nhân của Người, Chúa Giêsu không muốn bịnh nhân làm phương hại đến sứ mạng của Người bằng một niềm hân hoan thiếu kín đáo. Người không muốn sự chữa lành phần xác bao vây trí óc kẻ đương thời thu hẹp khả năng chữa lành bệnh của quyền năng Người. Người đã đến để loan báo Nước Thiên Chúa và chính trên sự loan báo ấy, Người muốn tập trung mọi tâm hồn và con tim, các phép lạ chỉ là một trong những ngôn ngữ của sự loan báo ấy. Thửa đất thực sự của lòng nhân từ Chúa chính là ơn Cứu chuộc mà chúng ta tiếp nhận bằng đức tin.

 

55.Người phong cùi được sạch--William Barclay
Trong Tân Ước không có chứng bệnh nào bị coi là khủng khiếp đáng thương hại bằng bệnh phong cùi. Lúc Chúa Giêsu sai mười hai tông đồ, Ngài truyền dặn “Hãy chữa lành kẻ đau… làm sạch người phong”(Mt 10,8). Số phận người phong rất hẩm hiu. E.W.G. Masterman trong bài viết về bệnh phong in trong bộ “Tự điển Về Chúa Cứu Thế và Các Sách Phúc Âm” mà chúng tôi sẽ trích dẫn phần lớn có nói “không có bệnh nào khác đẩy người ta vào một tình trạng bị ghê tởm quá lâu năm như thế”. Trước hết, chúng ta hãy xét những sự kiện.

Có ba loại bệnh phong:

1/ Có bệnh phong do lao xương, nó bắt đầu bằng vô số lần hôn mê, rời rã và đau nhức ở các khớp xương, rồi nó xuất hiện trên thân thể, đặc biệt là trên lưng thành từng mảng da tái nhợt. Trên các mảng da ấy hình thành những mụn nhỏ ban đầu màu hồng sau chuyển sang màu nâu. Da trở nên dày hơn. Các mụn nhỏ đặc biệt tập trung tại các nếp da trên má, trên mũi, trên môi và trên trán. Cả gương mặt bị thay đổi hoàn toàn, khiến mặt bệnh nhân không còn là mặt người nữa và theo người xưa nói, thì trông giống như mặt sư tử hay dê thần. Các mụn cứ lở loét và từ đó có nước thối chảy ra. Lông mày rụng hết, đôi mắt sáng lên, giọng nói trở thành khàn khàn và hơi thở thì khò khè vì những vết ung thối gây ảnh hưởng trên các dây thanh quản. Tay chân cũng lở loét. Dần dần bệnh nhân trở thành một khối lở loét. Thời gian trung bình của căn bệnh là chín năm và nó kết thúc bằng sự sa sút tinh thần, hôn mê, rồi chết. Bệnh nhân trở thành hết sức ghê tởm cả cho chính mình lẫn người khác.

2/ Có bệnh phong tê, các giai đoạn đầu của bệnh này cũng giống như trên, nhưng trong loại này các dây thần kinh nhiễm bệnh. Các khu vực bị nhiễm mất hết cảm giác. Nó có thể xảy ra mà bệnh nhân chẳng hay biết gì cả, ngay khi bị đốt hay bị cắt vẫn không có cảm giác đau ở những chỗ đáng lẽ phải đau. Bệnh càng phát triển thì những chỗ dây thần kinh nhiễm bệnh trở thành nhợt nhạt, biến thành vết phồng lên. Các bắp thịt biến dần, các gân teo lại cho đến khi đôi tay bị có quắp lại. Móng tay rồi cũng biến dạng, rồi có những mụn lở loét ở bàn chân, bàn tay. Các ngón chân ngón tay rụng dần cho đến cuối cùng, cả bàn tay hoặc bàn chân có thể cụt hẳn. Căn bệnh kéo dài khoảng hai mươi đến ba mươi năm năm, đây là một cái chết dần mòn khủng khiếp của thân xác.

3/ Loại bệnh phong thứ ba là loại phổ biến nhất, kết hợp cả hai loại phong lở và phong tê.

Đó là bệnh phong nói chung, chắc đã có nhiều người phong như vậy tại Palestine và thời Chúa Giêsu. Bệnh phong được mô tả ở Lêvi 13 và theo phần mô tả đó thì rõ ràng vào thời Tân Ước, từ “phong” được dùng chỉ nhiều chứng bệnh ngoài da khác. Dường như nó cũng dùng chỉ bệnh “bạch tạng” phủ toàn thân bằng những mảng da màu trắng, và có lẽ do đó mà có câu nói “bị phong trắng như tuyết”, dường như nó còn gồm cả bệnh sài (ring-worm) vốn khá phổ biến bên phương đông. Từ Do Thái chỉ bệnh phong ở Lêvi là tsaraath, nhưng Lêvi 13,47 còn đề cập tsaraath của y phục, và tsaraath trong nhà thì được đề cập trong Lêvi 14,33. Những vết ố trên quần áo có lẽ do nhữngg loại nấm những mốc, ở trong nhà thì có lẽ do nhũng loại nấm mốc trên cây mục hay trên loại rêu thường mọc trên đá. Dường như từ tsaraath, bệnh phong theo ý nghĩa của dân Do Thái bao gồm tất cả các chứng bệnh ngoài da lan dần che phủ cả thân thể. Với kiến thúc y khoa thô thiển thời bấy giờ, không thể chuẩn đoán để phân loại các chứng bệnh ngoài da, nhưng gộp chung cả chứng bệnh nan y, chết người với những chứng bệnh không nguy hiểm mấy vào cùng một loại cũng tương đối vô hại.

Bất kỳ chứng bệnh nào như kể trên đều khiến bệnh nhân bị ô uế, bị cấm thông công, giao thiệp với mọi người, phải ở riêng bên ngoài trại, đi đây đó với quần áo rách rưới, đầu trần, toàn thân che kín đến tận môi trên, vừa đi, vừa phải la lên “ô uế, ô uế” để báo cho mọi người về sự hiện diện ô uế của mình. Chúng ta có thể thấy cùng một cảnh tượng như vậy vào thời Trung cổ và đó chỉ là một hình thức áp dụng luật Môsê. Vị linh mục mặc áo choàng, cầm thập giá dẫn kẻ phong vaò nhà thờ, đọc kinh hành lễ an táng cho bệnh nhân. Người phong tuy còn sống nhưng bị kể như đã chết. Người ấy phải mặc y phục đen để mọi người có thể nhận thấy và người ấy sống trong một trại cùi. Người ấy không được tham dự một buổi hành lễ trong nhà thờ, nhưng có thể nhìn qua một cái lỗ dành cho người phong đục trong vách khi buổi lễ được cử hành. Chẳng những kẻ phong phải chịu sự đau đớn thể xác mà còn phải gánh chịu nỗi buồn khổ và đau đớn tinh thần vì bị xã hội ruồng bỏ và thật sự bị xa tránh như người ta tránh xa bệnh dịch vậy.

Nếu người phong được lành, bệnh phong thật sự vốn là nan y nên có lẽ ở đây ám chỉ các chứng bệnh ngoài da khác, người ấy phải trải qua một nghi lễ phức tạp về việc được lành bệnh như đã mô tả trong Lêvi 14. Người ấy phải được thầy tư tế khám xét, phải đem đến hai con chim, một con bị giết trong dòng nước chảy, thêm vào đó còn phải đem cây hương nam, màu đỏ sậm và nhành kinh giới, các vật ấy và con chim còn sống được nhúng vào máu của con chim đã bị giết, sau đó thả con chim bay đi. Người lành bệnh phải tắm rửa, thay y phục và cạo râu tóc. Bảy ngày sau, người ấy được tái khám. Bấy giờ, người ấy lại phải cạo lông, tóc, râu và lông mày. Rồi một số của lễ được dâng lên gồm hai con chiên đực không tỳ vết, một chiên cái chưa giáp năm, bột lọc chế dầu làm của lễ chay và một ít dầu. Số của lễ được giảm bớt cho người nghèo. Thầy tư tế lấy máu con vật và dầu bôi trên trái tai hữu, ngón tay cái bên mặt và trên ngón chân cái bên mặt của người được lành bệnh. Thầy tư tế khám xét lần cuối và nếu quả thật người ấy đã được lành bệnh, thì cho phép ra về với tờ chứng nhận người ấy đã được sạch.

Đây là một trong những bức tranh nổi bật của Chúa Giêsu:

1/ Ngài không xua đuổi kẻ đã vi phạm luật. Người phong không hề được quyền trò chuyện với Ngài, nhưng Chúa Giêsu đã thoả mãn nhu cầu của một người lâm cảnh tuyệt vọng bằng thái độ thương xót và đầy cảm thông.

2/ Chúa Giêsu đã đưa tay ra chạm đến bệnh nhân. Ngài đã rờ tay vào kẻ ô uế. Với Chúa Giêsu thì người ấy không ô uế, người ấy chỉ là một linh hồn đang lâm cảnh tuyệt vọng cần được cứu giúp.

3/ Sau khi chữa lành người ấy, Chúa Giêsu dạy người ấy nên đi về, làm đúng mọi thủ tục đã ấn định. Chúa Giêsu giữ đúng luật lệ và sống công chính theo cách loài người. Ngài không bướng bỉnh thách đố các quy ước của loài người, nhưng khi cần, Ngài sẵn sàng phục tùng các quy ước ấy.

Ở đây chúng ta thấy cả lòng thương xót, quyền năng và sự khôn ngoan được kết hợp.

 

56.Chữa người phung hủi--Jacques Hervieux
Trình thuật khởi đầu một cách đầy bất ngờ, chẳng xác nhận thời gian lẫn nơi chốn (c. 40a). Đặc biệt động từ “đến” được dùng ở thì hiện tại lịch sử. Chắc chắn Maccô muốn nêu bật giá trị “hiện thực” của biến cố này cho bản văn của ông. Thêm vào đó, ngay nơi bản văn cũng đưa ra cho độc giả một vài vấn nạn. Tại sao Chúa Giêsu lại đuổi thẳng thừng anh chàng vừa được Ngài chữa lành? (c. 43). Tại sao anh chàng phung hủi vừa được chữa lành lại dám bất tuân không giữ lệnh Chúa truyền cho anh ta phải giữ kín miệng? (c. 45). Các nghịch lý này hẳn sẽ tác hại cho sự mạch lạc của bản tường trình có tính trực tiếp như thế nếu chúng không được giải thích đầy đủ trong nhãn quan của một sự cố được đọc lại dưới ánh sáng đức tin. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này.

Người bệnh tiến đến gần Chúa Giêsu, khiêm tốn, tin cậy van xin: anh ta quỳ gối xuống trước mặt Chúa, nài xin Chúa chữa lành nếu Chúa muốn (c. 40b). Muốn hiểu được lời thỉnh cầu này, chúng ta phải biết rằng vào lúc bấy giờ, người phung hủi là kẻ hoàn toàn bị “khai trừ” khỏi xã hội. Mắc phải một chứng bệnh nặng nề và ô nhiễm như thế, kẻ ấy phải sống ngoài lề cộng đoàn của mình. Ngay từ thời xa xưa trong quá khứ, người ta đã đề ra những biện pháp phòng ngừa kỹ lưỡng nhất để tránh mọi sự đụng chạm thể xác giữa những người khỏe mạnh và loại người mắc bệnh đáng tởm này. Bức chân dung được luật Môsê vẽ ra về loại bệnh nhân này tố cáo sự khai trừ mãnh liệt của Lề Luật như sau: “Một khi mắc chứng bệnh này, kẻ phong hủi phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai xõa xuống, râu mép để dài và phải la lớn: “Ô uế, ô uế!”. Bao lâu còn mắc bệnh thì kẻ ấy vẫn phải sống tách biệt, phải ra ngoài đồng vắng mà ở” (Lv 13,45-46). Thực thế, trong Kinh Thánh, bệnh hủi không những chỉ là thứ bệnh gây kinh hãi, gặm nhấm và làm biến dạng hình hài bệnh nhân (đến nỗi thấy kẻ ấy người ta phải che mặt), nó còn là thứ bệnh mang chiều kích tôn giáo. Kẻ mắc bệnh này bị xem như đã phạm một trọng tội nên bị Chúa trừng phạt. Một số giáo sĩ đương thời Chúa Giêsu còn dám phóng đại cho rằng bệnh hủi dùng để trừng phạt bảy mối tội đầu như: vu khống, giết người, làm chứng gian, ham trụy lạc, kiêu căng, trộm cắp và tham lam. Từ thời xửa thời xưa, người phong hủi bị mọi người kể như là một xác chết biết di động. Bị phung hủi là lập tức bị khai trừ, và bị ruồng bỏ như một thây ma đầy “ô uế”, nghĩa là không thể thông giao với Thiên Chúa cũng như với loài người. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể chữa lành được thứ bệnh này. Ngài đã dùng nó như hình phạt thì chỉ Ngài mới có thể giải thoát bệnh nhân khỏi hình phạt đó (xem Cuộc đời Myria, em gái Môsê trong Ds 12,1-16).

Thế mà người ta trông thấy Chúa Giêsu đã phản ứng như thế nào trước lời van xin của kẻ phung hủi bị khai trừ khỏi xã hội và cộng đoàn (c.41). Cử chỉ của Chúa Giêsu thật đơn sơ nhưng tràn đầy ý nghĩa: Ngài dám đưa tay chạm đến kẻ mà không ai dám sờ đến. Và lời Ngài mang uy lực lời nói của Thiên Chúa: Ngài nói và sự việc xảy ra đúng theo lời Ngài (c. 42).

Khi tường thuật lại sự cố này, hẳn Maccô đã chủ ý mang lại cho nó trọn vẹn một trong số các dấu chỉ giúp người ta nhận ra việc khánh thành thời đại Đấng Mêsia (x. Mt 11,1-5, câu trả lời của Chúa Giêsu cho các sứ giả của Gioan Tẩy Giả). Như vậy, Đấng Mêsia, Đấng hồi phục trọn vẹn sức khỏe thể lý và thiêng liêng cho con người, hiện đang có mặt ở đây. Tuy nhiên, một lần nữa, người ta lại ngạc nhiên về tiến trình gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bệnh nhân được chữa lành (c. 43-44a). Hành vi của vị đạo sư quả là cứng cỏi. Ngài đuổi anh chàng trước đó bị mắc bệnh phung hủi: động từ trong tiếng Hy Lạp ở đây có nghĩa là “xua đuổi, trục xuất”. Chính Maccô đã dùng động từ này để chỉ việc trục xuất ma quỷ (1,34-39’ 3,15-22; 6,13 v.v…). Sự thô bạo của Chúa Giêsu đi kèm theo mệnh lệnh nghiêm khắc truyền giữ kín miệng, nghĩa là truyền anh ta phải giữ “Bí mật của Đấng Thiên Sai”. Vị Đạo Sư không muốn người ta hiểu sai ý nghĩa sứ mệnh của Ngài. Ngài không phải là gã phù thủy mà họ mong ước đến để tiêu hủy mọi sự dữ trên trái đất. Họ chỉ có thể thực sự hiểu được bản thể và sứ mệnh sâu sắc của Ngài dưới ánh sáng cuộc tử nạn và Phục Sinh của Ngài.

Trình thuật tiếp tục với lời Chúa Giêsu yêu cầu người trước đây bị phung hủi: “Hãy đi trình diện tư tế…” (c. 44b). Khi sai anh ta đến trình diện thầy tư tế, Chúa Giêsu muốn bảo đảm cho anh ta được tái hội nhập vào cộng đoàn tôn giáo. Chính thầy tư tế là người chính thức được đặc cách để chuẩn nhận việc anh ta được lành bệnh (Lv 14,1-9 và tiếp theo). Chu toàn nghi thức như thế trước các vị đại diện dân chúng không khác nào đưa ra “bằng chứng” cho dân Do Thái biết rằng Chúa Giêsu đã hoàn tất niềm mong đợi lâu dài về Đấng Mêsia. Từ đó họ phải kết luận ra rằng thời gian cứu độ đã đến.

Tuy nhiên đây quả là điều làm chúng ta ngạc nhiên: Anh chàng phung hủi đã vi phạm lệnh Chúa truyền phải nín lặng về trường hợp khỏi bệnh của anh ta (c. 45a); Anh ta vẫn cứ “công bố” tin này ra; đây chính là động từ được dùng để diễn tả việc công bố Phúc âm. Rõ ràng ở đây Maccô đã “ nhảy qua” thời đại Chúa Giêsu để đặt các độc giả của ông vào “hiện thực tính”. Người từng bị phung hủi trước kia giờ đã trở thành một loại thừa sai loan báo Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại thì “Bí mật Mêsia” không cần giữ kín nữa. Giờ đây, sau khi được các biến cố cứu độ soi sáng, theo gương anh chàng phung hủi được Chúa Giêsu chữa lành, các độc giả được mời gọi loan báo sứ điệp giải phóng vui mừng của Chúa Giêsu.

Tuy nhiên, khi kết thúc trình thuật này, Maccô đã trở về lại với thời đại Chúa Giêsu. Vì hành vi cứu độ này cũng như vì bị dân chúng đồn ầm lên, vị Đạo Sư bó buộc phải lẩn trốn đám đông đang từ khắp nơi tuôn đến với Ngài (c. 45b). Lúc khởi đầu câu chuyện là một bệnh nhân đơn độc bạo Gioan tiến đến gần Chúa Giêsu. Vào đoạn kết là một đoàn người đông đúc tuôn đến gần vị lương y. Đối với đám đông này, cũng như đối với độc giả, câu hỏi được nêu lên như sau: “Người này là ai mà có thể đem lại vị trí cũ cho những kẻ bị khai trừ, giúp họ thông hiệp với Thiên Chúa và với cộng đồng anh em bè bạn của họ?”.

 

57.Chúa Nhật 6 Thường Niên--Noel Quesson
Có người bị phong hủi đến gặp gỡ Đức Giêsu... và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.

Theo lối hành văn Sêmít cổ xưa, mà người ta gọi là “gom kết” lại, thì trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây được đóng khung trong hai câu giống nhau. Ở đầu trình thuật ông diễn tả một bước chân của cá nhân. Kết thúc trình thuật, ta thấy nhiều người đến từ khắp nơi.

Đức Giêsu, là chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Nhưng con người, cũng phải đến gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn con đến gặp gỡ Chúa.

Anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Đừng quên chúng ta mới ở chương đầu của Tin Mừng Maccô. Con người đó thật là mạnh dạn, hay anh ta đã có một lòng tin phi thường. Anh ta làm một cử chỉ: thưa gửi vài lời. Đó là những gì mà người ta thường chỉ có thể làm và nói với một mình Thiên Chúa.

Thực tế vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được. Việc chữa lành người phong hủi là một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một người chết. Đó là một trong những “dấu chỉ” của thời Thiên Sai (Mt 11,25; Lc 7,18-22). Thái độ khiêm tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng tin của anh nơi Đức Giêsu. Đúng vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy nhất là “kêu xin” Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì con người không thể thực hiện được: “Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi được khỏi bệnh”. Đó là một lời nguyện xin cần được lặp đi lặp lại.

Động lòng thương trước người đó.

Ở đây bản thảo Hy Lạp giữ hai từ: “splagknisteis” có nghĩa là động lòng thương, xốn xao lòng dạ, cảm động đến tận tâm can, và “orgisteis” có nghĩa là “nổi giận”. Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ “nổi giận” nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh sư, khó chịu trước kiểu nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng vì cả hai “câu dịch” đều có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý nghĩa, tưởng là không vô ích. Tại sao Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh, lại không có thể đi đến mức đó, nghĩa là có thể sử dụng những sai lầm của những người sao chép Kinh thánh để nói với ta? Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng nhận thấy một “phản ứng rất nhân bản”! Việc nhập thể của Thiên Chúa thật là “hiện thực”, đi tới tình trạng chấp nhận cả những tình cảm của con người tầm thường như thế: xót thương, giận hờn. Lạy Chúa. Xin tạ ơn Chúa vì đã muốn cảm nghiệm những cảm xúc của chúng con và đã bầy tỏ cách công khai những diễn biến tình cảm đó. Nổi giận... “Thực ra điều đó ý nghĩa gì? Riêng tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự nhiên của Thiên Chúa trước nỗi đau khổ của con người”. Đức Giêsu nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt đáng thương bị các vết thương mâng mủ làm biến dạng. Và Người không thể chịu nổi điều đó, Người nổi giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là Chính “Thiên Chúa hiện hình cụ thể”. Qua thái độ biểu lộ tính khí trên, Đức Giêsu muốn nói với ta rằng, Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt của con người, luôn bị bệnh tật tác hại trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn nộ của biết bao người, nhưng trước “vấn đề sự dữ”, họ chỉ biết chống đối mãnh liệt nhất đến nỗi phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa.

“Động lòng thương”. Kiểu nói này ta có thể hiểu ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm, dửng dưng, nhưng là một Thiên Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa cùng chịu khổ với nhưng người đau khổ, một Thiên Chúa mang trên mình những thương tích của chúng ta (Is 53,5). Đấng “làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ thể” nói cho ta biết tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa đối với bệnh nhân. Vậy khi nào chúng ta mới chấp nhận thế giới này, như thực trạng hiện nay của nó, không thể “hoàn hảo” được? Chỉ có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn hảo. Thế gian không phải là “Chúa”. Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã không thể làm khác hơn là tạo dựng một thế gian “không phải là Chúa nếu không Người đã không làm được điều gì cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn. Do đó, Người đã quyết định tạo dựng con người, được ghi dấu ấn “hữu hạn”, rõ ràng “không phải là Chúa”. Và như thế, con người phải gánh chịu những rủi ro về tình trạng sức khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm trở thành phong hủi, điên khùng, khi các nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải có can đảm nhìn thẳng vào “thế gian này”. Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo thành một tạo vật mang dấu tích hạn hẹp và bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó trong chương trình là một ngày kia sẽ ban cho nó sự sống thần thiêng của Người.

Đối với Thiên Chúa, con người chưa hoàn hảo, vì chưa được sống lại, chưa được thần hóa. Và sự dữ tác hại con người; đã làm cho Người “nổi giận”, đã khơi dậy “lòng thương xót” của Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một số người bệnh, như là một “dấu chỉ” báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự “sẽ được hoàn tất” (Rm 8,18).

Đức Giêsu giơ tay đụng vào anh ta

Chúng ta lại có dịp suy nghĩ đến “bàn tay”. Ở đây, đối với một người phong hủi, một người “không ai được sờ động đến”, thì cử chỉ của Đức Gìẽsu phải mang một ý nghĩa đặc biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve họ bao giờ cả. Luật đã cấm như thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ, họ cũng phải kêu to lên để người khác lánh xa: “Nhơ! Nhơ!”: Thế mà ở đây, Đức Giêsu lại dám phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người phong hủi.

Người bảo: “Tôi muốn, tôi cho anh được khỏi bệnh”.

Đức Giêsu cứu chữa, nhờ một “cử chỉ” và “bằng một lời phát biểu: Đó là nguyên lý để cử hành mỗi bí tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác, và chúng ta cần đến những cử chỉ trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên trán chúng ta, thì một lời cũng được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó. Trong Bí Tích Thánh Thể, khi bánh ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân xác ta; thì đồng thời cũng có một lời đọc nêu lên ý nghĩa: “Mình Thánh Đức Kitô”.

Tôi cũng có thể dành một chút thời gian để suy gẫm về lời phát biểu: “Tôi muốn!”. Ở đây, một lần nữa, người dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản văn chính thức bằng tiếng Hy Lạp của Maccô (thật là đáng tiếc!). Người phong hủi đã không nói: “Nếu Ngài muốn điều đó”, nhưng là nếu Ngài muốn”. Và Đức Giêsu cũng không đáp lại: “Tôi muốn điều đó”, mà là “Tôi muốn”. Điểm quan trọng muốn đề cao ở đây, không phải là đại danh từ “điều đó”, những quyền năng thuộc nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa không nhấn mạnh đến điều mong muốn.

Ngay tức khắc, chứng phong hủi biến đi, và anh ta được khỏi bệnh

Câu nói trên phản lại bối cảnh văn hóa của thời đại, là Maccô lúc đó đang viết Tin Mừng. Đối với một người Do Thái, bệnh phong hủi là một “hình phạt của Thiên Chúa”, Đấng đã phạt Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9).

Gêhadi, đầy tớ của Êlisê (2V 5,27), Ôdia, ông vua đầy tham vọng (2Sb 26,16). Bệnh phong hủi là chứng bệnh gây sợ hãi, đến nỗi có người kinh sợ dù chỉ nhìn thấy một vết loang lổ trên tường. Vì thế, sách Lê vi đã dành cả hai chương nói về bệnh này. Chứng bệnh làm cho mặt và tay chân người bệnh thối rữa, chứng tỏ sự khủng khiếp của nó. Người ta coi đó như sức tác hại của ma quỷ. Nói đúng ra, người bị phong hủi không được sống thông hiệp với kẻ khác, bị loại ra khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong chứng bệnh làm ung thối con người như thế, người ta coi đó là “biểu tượng” của tội lỗi. Như thế, ai mà không bị phong hủi! Và ai sẽ cứu chữa ta khỏi chứng bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự “tiếp cận” và “lời” của Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ Mình Chúa xin cứu chữa tâm hồn con người hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu người trong các nước thuộc thế giới thứ ba mắc bệnh phong hủi.

Và giũa chúng ta trong những xã hội tân tiến, vẫn cần tìm kiếm những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác động “chữa lành” của Đức Giêsu đối với biết bao người nghèo khó: Đó là những người không có vẻ đẹp và ngoại hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó là những kẻ bị gạt ra khỏi xã hội chúng ta, những trẻ em khuyết tật, những người mắc bệnh nan y.

Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay.

Đó là câu dịch chính xác theo đúng bản văn của Maccô (nhưng ta cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa: “Người cho anh ta ra về với lời cảnh giác nghiêm trọng”). Nếu tôn trọng bản văn, thì Chúa Giêsu được giới thiệu cho ta ở đây, không phải là hạng người “nhu mì”, mà các bức ảnh thuộc thế kỷ trước đã trình bày cho ta, nhưng là một con người đầy cương nghị.

Coi chừng, không được nói gì với ai cả.

Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ phải im lặng, Người cũng đòi buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu nói rất mạnh: “không gì hết”, “không với một ai cả”.

Đó là “bí mật Thiên Sai” nổi tiếng, đã được Maccô lặp đi lặp lại tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó, hầu như Đức Giêsu tránh làm phép lạ, vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do Thái (và cả chúng ta nữa!) dễ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng đám đông tuôn đến với hy vọng rằng, Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc đời này, Người có thể giải quyết những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền độc lập có tính chính trị. Đúng vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là nguy hiểm! Điều đó có thể làm hỏng sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta hoàn toàn hiểu sai ý nghĩa. Các phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng, Nước Thiên Chúa chỉ bao gồm một thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc cứu độ thực sự việc cứu rỗi triệt để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được hiểu tường tận dưới ánh sáng tử nạn và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến lúc đó để không còn lầm lẫn nữa về bản chất của công cuộc “giải phóng” con người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện! Còn những việc chữa bệnh chỉ là cách loan báo sự sống lại.

Nhưng lo đi trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta.

Đức Giêsu truyền cho người được ơn lạ phải im lặng, không được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho anh trách nhiệm phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể tái hội nhập vào xã hội. Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở Giêrusalem là những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên sai qua việc chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi họ kết án Người. (Ga 15,22).

Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã vội công bố và tung tin ấy ra; đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.

Đối với Maccô. “Lời” được công bố trên đây là một thuật ngữ, được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong Tin Mừng: đó là Phúc Âm, là Tin Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy người được cứu chữa, khi đến lượt mình lại trở nên “kẻ cứu độ” người khác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có công bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta chiêm ngắm tình yêu Đức Giêsu dành cho bầu khí cô tịch, cho những “nơi hoang vắng”. Người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa kín mật, một Thiên Chúa không gây ồn ào, một “Thiên Chúa ẩn giấu”.

 

58.Tội lỗi còn hơn phong cùi nữa--Yvon Daigneau
Mở đầu.

Sứ vụ của Chúa Giêsu nơi loài người đã được khẳng định trong các trường hợp đơn giản và thông thường mà mọi người đều hiểu được. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ngài không đến mang giải pháp cho vô số vấn đề hàng ngày, nhưng để giải phóng loài người khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết đang thống trị họ. Giai đoạn đời sống Chúa Giêsu mà chúng ta đọc trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ cách mới mẻ và thời sự về sứ vụ của Ngài đối với chúng ta.

Bệnh tật.

Chúng ta thất vọng và chua xót khi thuốc của chúng ta uống không đạt hiệu quả. Ai mà không tìm cách chống lại một cơn nhức đầu sổ mũi bằng những liều thuốc thần được quảng cáo khắp nơi, và cuối cùng cũng phải nhượng bộ trước sức tấn công của bệnh cúm. Vào thời Chúa Giêsu, người ta hầu như không có cách nào chống lại bệnh tật cả và nó cũng hoành hành như ngày nay. Nơi người ngoại giáo, người ta thường mặc nhiên gán cho bệnh tật sự thù ghét của những quyền lực của thần dữ, cho sự trừng phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi, ngay cả những tội lỗi mà người ta không hề biết tới. Tại Israel, bệnh tồi tệ nhất trong các bệnh là bệnh phong cùi. Đôi khi người ta có thể lành được nhưng điều ấy có nghĩa là Chúa đã tha tội. Thường thường, phải để cho cơn bệnh tăng dần theo diễn tiến ghê rợn của nó thôi.

Người phong cùi đến với Chúa Giêsu xin được tẩy sạch. Anh ta xin một điều lớn hơn là được hồi phục trong thân xác. Anh ta khẩn nài Chúa Giêsu tẩy sạch tâm hồn anh khỏi những tội lỗi đã gây cho anh nỗi khốn khổ này. Một khi được tẩy sạch trong lòng, thân xác anh sẽ được tái sinh.

Thái độ của Chúa Giêsu.

Không ai sẽ ngạc nhiên về thái độ của Chúa Giêsu cả. Trái lại người ta ngạc nhiên về những lời cảnh cáo nghiêm khắc của Ngài. Chữa lành người bệnh chẳng đủ rồi ư? Tại sao còn bắt anh phải giữ thinh lặng, một việc khó khăn như thế, trong lúc mọi người chung quanh đều nhận thấy anh ta được chữa lành? Tại sao bắt anh ta phải làm một công việc phiền toái, là đến cho một công chức của đền thờ kiểm tra việc chữa lành đã quá hiển nhiên như thế.

Chúa Giêsu yêu cầu kẻ Ngài tẩy sạch khỏi bệnh phong cùi làm một việc hoán cải nghiêm túc và rõ rệt. Sự thinh lặng mà anh ta phải giữ về biến cố anh được chữa lành sẽ ngăn cản anh khỏi gán cho mình công trạng của việc thanh tẩy này, hoặc dùng nó để thu hút sự chú ý đến mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ anh khỏi chơi trò anh hùng, điều này sẽ gây ra kiêu ngạo và sinh tội nữa.

Còn việc anh ta phải làm tại đền thờ sẽ ghi dấu sự kiện anh được tái nhập vào cộng đoàn, mà chỉ có thể thực hiện một cách công khai thôi. Việc này cũng sẽ cho phép anh bắt đầu lại cuộc sống trung thành với Chúa. Tuyên dương những kỳ công của Thiên Chúa mà thôi thì chưa đủ, còn phải sống ngày này qua ngày nọ trong sự khiêm tốn trung thành với ý Chúa nữa. Việc trình diện nơi đền thờ sẽ khai mào cho sự trung thành mới mẻ này.

Người phong cùi.

Theo Tin Mừng, người phong cùi không có vẻ hiểu rõ ý định của Chúa Giêsu về mình. Anh ta không thể giữ miệng được, anh nói oang oang ra và mọi người đi tìm Chúa Giêsu, mỗi người đều hy vọng sẽ nhận được phép lạ cho mình hoặc, ít nhất, là được chứng kiến những phép lạ mà mình sẽ kể cho bà con lối xóm.

Anh chị em hãy ghi nhận rằng Chúa Giêsu không gọi người ấy tới để nói với anh ta rằng Ngài rút lại việc chữa lành và anh sẽ bị phong cùi như trước. Ngài để cho anh hưởng niềm vui và cuộc sống mới, cho dù nó bắt đầu một cách mỏng dòn. Lòng thương xót của Chúa như thế đó, Ngài vẫn trung thành bất chấp những sự vụng về, chậm tin và thất tín của những kẻ đã được thương xót.

Kết luận.

Trong lòng mỗi người chúng ta có một nguồn ô nhiễm lan đến sự sống mà phép rửa đã ban cho chúng ta. Đó là một sự gắn bó keo sơn với tội lỗi, những tội mà chúng ta tái phạm hoài một cách vô ý thức. Chúng ta cần được thanh tẩy triệt để, đó là công trình của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến xin Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy chúng ta.

 

59.Thiên Chúa giàu lòng thương xót--Đaminh Phạm Thanh Cao, OP
Kính thưa cộng đoàn,

Hằng ngày khi nhìn lên Thánh giá, mỗi người không khỏi tự vấn: tại sao chúng ta lại tôn thờ một Giêsu chết treo tất tưởi trên cây gỗ giá!? Điều mà người Do Thái coi là ô nhục và dân ngoại cho là điên rồ (1Cr 1,23). Thánh Phaolô trả lời cho chúng ta câu hỏi này khi chia sẻ với tín hữu Ga-lát: Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh với tôi, và tôi với thế gian. (Gl 6,14). Đó là niềm vinh dự của thánh nhân và cũng là của chúng ta. Vì đó là cách Thiên Chúa bày tỏ lòng thương xót và tình yêu của Người cách tột cùng - vì bên kia sự chết là sự sống vinh quang.

Nếu nhà văn Nguyễn Huy Thiệp nói: cứu độ là như sen ngụp lặn dưới bùn lầy nhơ nhớp, hút lấy tất cả những gì của bùn lầy để dâng cho đời đoá sen tươi thắm thì đây còn hơn thế. Chính Đức Giêsu đã mang lấy toàn bộ tội lụy và nhuốc nhơ của chúng ta vào mình mà đưa lên cây thập giá và cho nở hoa vinh quang. Vinh quang này biến đổi chúng ta thành một con người hoàn toàn mới - con người trong mối hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau. Mối thông hiệp bị phá vỡ do nguyên tội nay được kết nối lại.

Cuộc kết nối này được tiên báo nhiều lần trong Cựu Ước và nhiều việc làm thi thố lòng thương xót của Đức Giêsu. Trình thuật chữa lành người phong hủi hôm nay là một trong những hình ảnh báo trước:

Thứ nhất: Đức Giêsu - Thiên Chúa - không đứng từ đàng xa dùng quyền năng của Người mà chữa anh nhưng đã chạnh lòng thương, cúi xuống, đụng tới anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi”. Tức thì anh được sạch. Được chữa lành, anh được trở lại mối thân tình với Thiên Chúa, vì vào thời đó, dân Do Thái cho rằng: bệnh tật, nhất là phong hủi được coi như án phạt của Chúa trên kẻ có tội.

Thứ hai: việc người truyền anh trình diện với tư tế để anh được chứng thực khỏi bệnh đồng nghĩa với việc anh được hội nhập trở lại cộng đồng. Vì vào thời Đức Giêsu người phong hủi phải sống tách biệt khỏi cộng đồng.

Như thế không phải là hình ảnh báo trước cuộc kết nối trọn hảo chính Đức Giêsu sẽ thực hiện nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Người! Nhưng để có thể được kết nối trở lại thì chúng ta cần có thái độ nào. Chính người phong hủi là tấm gương sống động cho mỗi người. Chính anh đã bước ra khỏi bản thân để đến với Đức Giêsu và xin Người: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”. (Mc 1, 40). Anh xin điều Đức Giêsu - Thiên Chúa muốn mà không phải theo ý anh; trong khi, thường chúng ta hay xin theo ý của ta và than trách Người khi không được như ý. Anh tin tưởng và phó thác một cách đơn thành cho tình thương và lòng thương xót của Đức Giêsu. Chính vì thế, Đức Giêsu đã thực hiện khoản luật trên hết mọi khoản luật - luật yêu thương - khi người cúi xuống, đụng tới và chữa lành anh. Điều Người không thể thực hiện tại quê hương của mình khi dân chúng chỉ xin theo ý họ và không tin (Mc 6, 1-6; Mt 13, 54-58; Lc 4, 16-30).

Thật vậy, Thiên Chúa như người cha giàu lòng thương xót trong dụ ngôn người con hoang đàng. Người luôn chờ mong và sẵn sàng mở rộng vòng tay yêu thương và tha thứ khi người con biết nhìn nhận bản thân, tin tưởng và mở lòng ra với cha mình.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể! Đâu đó vẫn còn tình trạng phân biệt kỳ thị chủng tộc, tôn giáo. Đâu đó vẫn còn hàng rào ngăn cách đối với những người HIV, lao; những người khuyết tật; những người tù tội; những người cơ nhỡ… Đó là thứ phong hủi thời đại mới. Thứ bệnh nhiều khi chính mình mắc phải mà chẳng hay. Xin thêm đức tin cho chúng con. Xin cho con biết phó thác, tin tưởng nơi Người, để Người ra tay chữa lành chứng phong hủi trong tâm hồn con. Xin cho con là cánh tay nối dài của tình yêu thương của Chúa trong thời đại hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể!

Cây Thánh giá gồm hai thanh: thanh dọc nối Trời và Đất, thanh ngang nối người với người. Xin cho con mang trọn thập giá đời mình không phải riêng thanh ngang hay thanh dọc vì Chúa dạy con: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo tôi. (Mc 8, 34). Xin dùng con để con trở thành mối dây hiệp thông nơi mình sinh sống để Tình Chúa Tình Người mãi nở hoa. Amen.

 

60.Chúa Nhật 6 Thường Niên--Lm. Anthony Trung Thành
Bài đọc I và Bài Tin Mừng hôm nay đề cập đến bệnh phong cùi. Vì thế, trong bài suy niệm hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Bệnh phong là gì? Số phận người mắc bệnh phong thời Đức Giêsu như thế nào? Chúng ta có mắc chứng bệnh phong không?

1. Bệnh Phong là gì?

Theo bách khoa toàn thư mở (vi.wikipedia.org): Bệnh phong, còn gọi là bệnh hủi hay cùi, do vi khuẩn Hansen gây ra. Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi bị nặng, vết thương lõm vào da thịt. Lông mày rụng, mắt lộ ra, thanh quản bị lở nên giọng nói khàn. Người bệnh cũng không còn cảm giác nóng, lạnh và đau. Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng, ngón tay ngón chân rụng dần.

Bệnh phong chỉ lây khi tiếp xúc lâu dài với các thể phong nặng (phong hở) như phong ác tính, phong đang tiến triển, chảy nước mũi nhiều và có tổn thương lở loét ở da, ở bàn tay, bàn chân. Các thể phong nhẹ khác ít có khả nǎng lây hơn nhiều. Tỷ lệ lây giữa vợ chồng chỉ là 2-3%. Bệnh không di truyền và có thể chữa khỏi. Hiện có nhiều loại thuốc điều trị rất có hiệu quả. Trong đó khi dùng thuốc Rifampicine sau 5 ngày sẽ hạn chế khả năng lây lan của vi khuẩn tới 99,9%.

Trên thế giới có khoảng 15 triệu bệnh nhân phong cùi. Riêng ở Việt Nam hiện nay, con số bệnh nhân phong cùi tiềm tàng có từ 120.000 đến 150.000 người. Có 23.371 bệnh nhân đã được chữa lành, 18.000 bệnh nhân còn biểu hiện di chứng, tỷ lệ mắc phải 0,1/10.000 (1/100.000 dân), tổng số làng phong đếm được là 13: Bến Sắn (Bình Dương); Bình Minh (Đồng Nai); Cẩm Thủy (Thanh Hóa); Di Linh (Lâm Đồng); Đắc Kia (Contum); Phú Bình (Thái Nguyên); Phước Tân (Đồng Nai); Quả Cảm (Bắc Ninh); Qui Hòa (Qui Nhơn); Quỳnh Lập (Nghệ An); Sóc Sơn (Hà Nội); Thanh Bình (Tp HCM); Văn Môn (Thái Bình). (Nguồn: vi.wikipedia.org)

2. Thời Đức Giêsu, số phận người mắc bệnh phong như thế nào?

Bài đọc I, trích sách Lêvi, cho chúng ta một số điểm để xác nhận người có thể có dấu hiệu mắc bệnh phong cùi: “Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường, hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông.” (Lv 13,1-2). Khi những người có dấu hiệu như thế hoặc các dấu hiệu tương tự khác như lác, ung, phỏng, chốc, lang ben, sói đầu (x. Lv 13, 3-43) thì được đưa đến các tư tế và các tư tế có nhiệm vụ khám. Sau khi khám, vị tư tế đó kết luận có phải là mắc bệnh phong cùi hay không. Nếu tư tế kết luận bệnh nhân mắc bệnh phong cùi thì bệnh nhân đó phải chấp nhận những luật lệ sau đây: “Vậy ai mắc bệnh phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại.” (Lv 13, 44-46).

Như vậy, khi xác định là bệnh nhân phong cùi thì người bệnh không những chịu đau đớn về thể xác do bệnh phong cùi gây ra mà họ còn phải chịu muôn vàn đau khổ khác về tinh thần:

Đau khổ thứ nhất là họ phải ở riêng, tức là phải sống cách ly với người thân, với gia đình, với cộng đoàn. Từ nay, họ không được sinh hoạt với gia đình với cộng đoàn, họ không được tham dự các lễ nghi tôn giáo như trước nữa. Sự cách ly này có thể vĩnh viễn cho đến chết. Bởi vì, vào thời Đức Giêsu, bệnh phong cùi thuộc loại bệnh nan y, tức là không có thuốc chữa khỏi. Đó là một đau khổ lớn lao đối với người mắc bệnh phong cùi.

Đau khổ thứ hai là khi đi ra ngoài hay khi gặp người khác họ phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình bị bệnh truyền nhiễm và ô uế. Làm như thế, để cho người khác biết mà xa tránh họ. Đó là một nỗi tủi nhục và đau khổ đối với họ.

Đau khổ thứ ba là họ mang tiếng bị Chúa phạt. Bởi vì, theo người Do thái, bệnh là do tội, vì tội cho nên Chúa phạt. Người bị bệnh phong cùi là do Chúa phạt. Đây là đau khổ lớn nhất mà người phong cùi phải chịu.

May mắn thay có một số bệnh nhân được Đức Giêsu chữa lành. Chẳng hạn, trường hợp được khỏi bệnh mà Tin mừng hôm nay tường thuật lại hay trường hợp mười người phong cùi được sạch (Lc 17, 11-19). Tuy nhiên, con số được Đức Giêsu chữa khỏi không phải là nhiều so với vô vàn vô số người phải chấp nhận sống chung với bệnh, họ sống mà như đã chết.

3. Chúng ta có mắc bệnh phong cùi không?

Có lẽ ít ai trong chúng ta mắc thứ bệnh phong cùi về thể xác. Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân này. Đồng thời, tùy khả năng và hoàn cảnh cho phép chúng ta cần quan tâm đến những bệnh nhân phong cùi bằng cách: Dành thời gian tới các trung tâm để thăm viếng họ, đóng góp tiền của để giúp đỡ họ.

Tội lỗi cũng là loại bệnh phong cùi thiêng liêng. Ít ai tránh khỏi tội lỗi, nên ít ai tránh khỏi bệnh phong cùi thiêng liêng. Chúng ta mắc bệnh phong cùi thiêng liêng khi chúng ta lỗi luật Chúa, lỗi luật Hội Thánh: Có người mắc bệnh phong cùi do lỗi công bằng, bác ái yêu thương; có người mặc bệnh phong cùi do tham nhũng; có người mắc bệnh phong cùi do ích kỷ; có người mắc bệnh phong cùi do ham mê tửu sắc danh lợi; có người mắc bệnh phong cùi do kỳ thị hận thù; có người mắc bệnh phong cùi do ngoại tình; có người mắc bệnh phong cùi do thiếu sự hiếu thảo với ông bà, cha mẹ…Ngoài ra, chúng ta cũng có thể mắc bệnh phong cùi khi chúng ta tự cách ly mình với anh em, với cộng đoàn, với những người xung quanh: Đó là khi chúng ta sống ích kỷ không quan tâm đến những người xung quanh; đó là khi chúng ta gây chia rẽ, hận thù, làm cho cuộc sống giữa chúng ta và tha nhân bị ngăn cách.

Những thứ bệnh phong cùi thiêng liêng này cũng làm cho chúng ta sống mà như đã chết. Chúng ta bị cách ly với Chúa và cộng đoàn. Nếu không được chữa khỏi, chúng ta sẽ phải cách ly vĩnh viễn với Chúa đời này và đời sau. Vì thế, hãy đến với Đức Giêsu qua bí tích Giao hòa để được chữa khỏi, vì chỉ Ngài mới có thể chữa khỏi bệnh phong cùi thiêng liêng này.

Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chữa những nạn nhân bị bệnh phong cùi. Xin cho chúng con thoát khỏi những bệnh phong cùi thiêng liêng. Amen.

 

61.Bệnh tật là thông phần đau khổ với Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Bệnh là một hiện tượng hiển nhiên trong cuộc đời, đã mang thân người là có bệnh. Cho nên, ông bà ta nói: “sinh lão bệnh tử là qui luật của con người". Mỗi chúng ta có thể trải qua một hay nhiều lần bệnh, không lúc này thì khi khác, không nặng thì nhẹ. Do đó, bệnh là một hiện tượng rất gần gũi với con người trực tiếp hoặc gián tiếp dù người đó giàu, nghèo, chức quyền hay dân thường, Giáo sĩ hay giáo dân. Người đời khi nói đến bệnh, là người ta nghĩ đến sự đau đớn, khổ sở, khó chịu, buồn bã, âu lo, sợ hãi, tủi hổ, xấu xa. Bệnh dĩ nhiên phải đau, điều này không ai phủ nhận. Nhưng điều quan trọng là làm thế nào, dù đau (về thân), chúng ta đừng có khổ (về tâm). Chúng ta nói rằng bệnh làm sao mà không buồn không khổ? Tôi đã từng thắc mắc như nhưng sau khi bệnh, tôi nghiệm ra rằng lúc mình bệnh là cơ hội để nhận biết tín hiệu cơ thể mình yếu lắm, vì Lời Chúa nói: “Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi. Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng. Một cơn gió thoảng là xong. Chốn xưa mình ở cũng không biết mình!” (TV 103,15-16). Vì vậy, bệnh là dấu hiệu cho chúng ta biết rằng chúng ta cần điều chỉnh cho cuộc sống trở nên thoải mái hơn về tinh thần cũng như thể xác. Vì chưng, Chúa nói: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu" (Lc 12,5). Cho nên, khi bệnh, chúng ta thấy nhu cầu cho đời sống tâm linh trở nên cần thiết hơn vì chưng có Chúa, ta nào sợ chi, có Chúa làm cho ta hoan lạc và bình an.

Qủa thế, Thánh Kinh kể Ông Gióp, là một người hiền đức nhưng gặp căn bệnh quái ác, bà con ai cũng bỏ ông chạy xa đến nỗi ông kêu than rằng: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ” (G 7,7). Tuy thế, ông tuyệt đối không bao giờ coi bệnh tật như là dấu chỉ hình phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại phải bệnh hoạn? Đối với ông, bệnh tật thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt hơn hết là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài ban ơn cho ông làm cho ông phải thốt lên rằng: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2,10). Cho nên, Đức Giêsu đến trần gian không thuyết giảng về đau khổ bệnh tật nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Cụ thể, hôm nay Tin Mừng kể: “Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!”

Người đời coi đau khổ là một cái gì đó xấu và tội chẳng ai muốn đón nhận. Còn với Đức Giêsu, cần phải chấp nhận đau khổ bệnh tật để chiến đấu và chiến thắng. Cho nên Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ bệnh tật nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người trong xã hội. Vì vậy, Chúa Giêsu hơn Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại ở điểm này: Ngài đã không những chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống; nhờ đó, đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình yêu, chính là bình an của Chúa. Vì vậy, mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu ở trần gian là: rao giảng Tin Mừng và mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Vì vậy, Thánh Phaolô trong bài đọc hai dạy rằng trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm ích lợi cho riêng mình, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.

Qủa thế, Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng và tin rằng quả thật Thiên Chúa yêu thương người ta, Ngài dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không thành đau khổ, để tật nguyền vẫn bình an. Cho nên, Đức Giaó Hoàng Phanxicô nói rằng: “Hoạt động cứu độ của Đức Ki-tô không chỉ diễn ra cùng với con người và cuộc sống tại thế của Ngài nhưng vẫn còn tiếp diễn thông qua Giáo Hội, bí tích của tình yêu và sự âu yếm của Thiên Chúa dành cho con người. Sai phái những môn đệ của mình trong các sứ mạng, Đức Giêsu ban cho họ một sự ủy thác kép: loan báo Tin Mừng cứu độ và chữa lành những bệnh tật (Mt 10, 7-8). Cho nên, Giáo Hội đã luôn dành sự quan tâm hỗ trợ hết mình đối với những ai bệnh tật trong sứ mạng của mình. Những người nghèo khó và những người đau khổ lúc nào cũng ở bên cạnh các ngươi (Mt 26,11), và Giáo Hội tiếp tục tìm kiếm họ trên các ngả đường, quan tâm đến những ai yếu đau như một phương thế đặc quyền để gặp gỡ Đức Ki-tô, để đón nhận Ngài và phục vụ Ngài. Quan tâm đến một người yếu đau, đón nhận người đó, phục vụ người đó là phục vụ Đức Ki-tô vì chưng người yếu đau là thịt của Đức Ki-tô”(Bài giảng trong Giờ kinh truyền tin 08-2-2015).

Noi gương Chúa Giêsu hôm nay, mỗi người chúng ta hãy biết nhìn anh chị em bệnh tật ốm đau như Chúa Giêsu đau khổ vậy. Một khi nhìn nhận như thế, chúng ta trở nên anh chị em của họ, không trừ một ai, và sẵn sàng để phục vụ trong tình yêu thương. Chúng ta hãy nhớ rằng trong mọi người sự có mặt của Chúa Kitô. Mọi người đều là anh em mà chúng ta phải yêu mến một cách thật tình. Vậy, giờ đây, chúng ta đang dự tiệc Thánh Thể, tiệc Tình thương. Lát nữa đây, chúng ta đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận tình thương của Chúa. Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bác ái yêu thương sẻ chia góp phần cứu độ trần gian qua việc thăm viếng, ủi an và sẻ chia tinh thần cũng như vậy chất cho người nghèo khổ, ốm đau, bệnh tật vì người yếu đau là thịt của Đức Ki-tô. Amen.

 

62.Vị lương y
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta thấy Chúa Giêsu đã chữa lành bện phong cùi cũng như đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền khác nữa. Tuy nhiên, ngài còn là một vị bác sĩ thiêng liêng, chữa lành những đau yếu phần hồn của chúng ta.

Thật vậy, trước hết ngài chữa lành những vết thương trong tâm hồn bằng những lời giảng dạy đầy khôn ngoan. Đúng thế, Tin Mừng sẽ làm cho con người được hạnh phúc, được khoẻ mạnh và được tự do. Nếu như tất cả chúng ta đều tuân giữ những điều chì dạy của vị lương y thần linh này, thì thế giới đã thoát khỏi biết bao nhiêu tai hoạ khủng khiếp. Chúng ta chỉ cần nhắc lại một vài nét đại cương, chẳng hạn với bài giảng trên núi, Chúa bảo: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, yêu chuộng hoà bình, phúc cho ai dịu hiền và khổ đau. Rồi Ngài còn xác định rõ ràng: Hãy yêu thương kẻ thù địch. Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Bằng đó cũng đã đủ để chúng ta thấy được con đường giải thoát bản thân chúng ta cũng như toàn thể thế giới.

Tiếp đến Ngài chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta bằng những phương tiện hữu hiệu, đó là các bí tích. Nhất là với bí tích Giải Tội và Thánh Thể. Thực vậy, nhờ hai bí tích này mà Chúa Giêsu chữa lành những tâm hồn tội lỗi, an ủi, bổ dưỡng và đem lại sự bình an mà thế gian không thể trao ban. Một ông bác sĩ đã viết: Ngoài bí tích Giải Tội và Thánh Thể, chúng ta sẽ không thể tìm thấy một phương tiện nào khác, khả dĩ đem lại sự nâng đỡ, sức mạnh và bình an cho tâm hồn, đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ bổ sức cho các ngươi. Hay như một mục sư Tin Lành cũng đã nói: Việc xưng tội riêng là điều cần thiết để tâm hồn được khoẻ mạnh và bình an, cũng như làm cho thần kinh giảm bớt đi được sự căng thẳng.

Sau cùng, Chúa Giêsu chữa lành những vết thương trong tâm hồn bằng sự hiện diện đầy tình thương xót của Ngài. Thực vậy, là vị lương y, Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta trong những giờ phút đau khổ, Ngài lắng nghe những lời chúng ta kêu cầu ngày cũng như đêm. Nhất là trong nhà thờ với bí tích Thánh Thể như lời Ngài đã phán: Này Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Chúng ta hãy nhớ lại quang cảnh người phong cùi tìm đến gặp Chúa và nói: Lạy Thầy, xin thương xót đến tôi cùng. Nếu những người bệnh biết tìm đến bác sĩ, thì sự đau yếu của họ sẽ được chữa trị, nếu chúng ta biết tìm đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta sẽ được an ủi và khích lệ trước những khổ đau gặp phải. Bởi đó hãy chạy đến với Chúa và hãy kêu xin Chúa: Lạy Chúa xin thương xót con. Và lúc bấy giờ tâm hồn chúng ta sẽ ngập tràn niềm vui mừng và hy vọng, như lời Chúa đã bảo: Không phải những người khoẻ mạnh mà là những kẻ đau yếu mới cần đến thầy thuốc.

 

63.Phong cùi
Theo luật Do Thái, những người phong cùi không được sống trà trộn với dân chúng. Đồng thời ai nấy phải lo giữ mình, không được động chạm tới họ. Họ phải sống riêng biệt ngoài thành, mặc áo rách, để tóc dài, không cạo râu. Nếu chẳng may gặp người mắc bệnh thì phải hô to lên để những người khác tìm lối tránh. Những người mắc bệnh không những chỉ đau khổ phần xác mà còn đau khổ phần hồn vì họ luôn phải sống trong một tình trạng cô đơn và tuyệt vọng.

Đối với ngày xưa, cũng như đối với hôm nay, chứng bệnh này vẫn còn là một nan y khó chữa, chính vì thế chúng ta hiểu được tại sao người bệnh qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã bất chấp lề luật, chạy đến tìm gặp Chúa Giêsu, vì anh nghĩ rằng mình không còn phương tiện nào khác để được khỏi. Niềm hy vọng duy nhất của anh trong lúc bấy giờ là Chúa Giêsu. Bởi đó, anh đã quỳ xuống, sụp lạy Ngài và xin Ngài cứu chữa. Còn Chúa Giêsu đã đón nhận anh một cách nhân từ, chữa lành cho anh và bảo anh phải đi trình diện với hàng tư tế để được chứng nhận là mình đã khỏi thực sự. Qua cử chỉ và thái độ của Chúa, chúng ta nhận thấy Ngài thực tình thương xót như tiên tri Isaia đã viết: Ngài coi mọi bệnh tật của chúng ta như là của riêng Ngài, Ngài mang lấy hết mọi tai ương của chúng ta. Trước thái độ tin tưởng của người phong cùi, Chúa Giêsu đã đặt tay trên anh và chữa lành cho anh, cũng như Ngài đã từng cứu chữa biết bao những kẻ bệnh hoạn tật nguyền tìm đến với Ngài.

Tình thương này không phải chỉ được biểu lộ với những người đau khổ thân xác, mà còn đối với những người đau khổ phần hồn, tức là những kẻ tội lỗi. Chính Ngài đã xác định lập trường: Ta đến để kêu gọi những kẻ tội lỗi. Một người tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối. Chính vì vậy, Ngài không ngần ngại ngồi ăn uống với những người mà bọn biệt phái liệt vào hạng tội lỗi như Lêvi và Giakêu. Đồng thời Ngài còn sẵn sàng tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, cho tên trộm lành và nhiều người khác nữa.

Hẳn chúng ta đã biết qua về cuộc đời của cha Đamiêng, vị tông đồ người hủi. Ngài sinh tại nước Bỉ, gia nhập dòng Trái Tim Chúa và Mẹ Maria. Sau khi làm linh mục, ngài được sai đi giảng đạo tại Hạ Uy Di. Sau đó ngài tình nguyện đi giúp những người cùi ở Molokai. Ngài đã hy sinh trót cả cuộc đời, sống với họ, giúp đỡ họ và chết giữa họ.

Như chúng ta đã biết, phong cùi là một chứng bệnh nan y và ghê sợ, nó làm cho cơ thể bị lở loét, người mắc bệnh mặc dù còn sống nhưng thực sự chỉ là một thây ma biết đi với một thân hình hôi thối. Đó cũng chính là hình ảnh của một tâm hồn tội lỗi, bởi vì tội lỗi cũng sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở thành nhơ nhớp, hôi thối và chết đi như vậy. Tuy nhiên chúng ta đã có một vị lương y thần diệu đó là Chúa Giêsu. Nếu muốn được chữa lành, chúng ta hãy bắt chước người phong cùi chạy đến sấp mình trước mặt Chúa, xin Ngài xót thương. Ngài cũng sẽ bảo chúng ta trình diện với linh mục, nghĩa là hãy chạy đến toà giải tội với tâm tình thống hối ăn năn, hầu nhờ đó mà chúng ta sẽ được chữa lành, được tha thứ.

 

64.Phong cùi
Bệnh cùi là một chứng bệnh hay lây, và theo quan niệm của người Do Thái, dưới cái nhìn tôn giáo, thì bệnh cùi là do tác động của một thứ thần ô uế. Người mắc bệnh cùi bị liệt vào hàng những kẻ dưới quyền lực của ma quỷ và lẽ đương nhiên họ không được quyền chung đụng với người trong sạch. Theo lề luật Do Thái, có cả những khoản quy định tình trạng xã hội của những kẻ mắc phải chứng bệnh hiểm nghèo này. Họ bị tách biệt khỏi cộng đồng loài người, cả về phương diện xã hội lẫn tôn giáo.

Đoạn Tin Mừng tuy ngắn ngủi nhưng đầy chi tiết giúp chúng ta hiểu được tầm mức và ý nghĩa hành động của Chúa Giêsu. Thực vậy chính người mắc bệnh phong cùi đã đi bước trước. Anh đến với Chúa và van xin Ngài cho anh được lành sạch. Lời van xin bao gồm nhiều ý nghĩa. Anh muốn Chúa Giêsu cho anh được lành và qua đó, cho anh trở thành người sạch và được gia nhập cộng đồng xã hội.

Hành động của người mắc bệnh quả là táo bạo. Anh đã liều lĩnh vượt ra khỏi những điều luật lệ quy định là phái xa tránh người khác, thậm chí còn phải la to để người khác biết mà tránh. Anh đến với Chúa Giêsu, để trình bày tình trạng của mình, cũng như ý muốn được chữa lành. Hành động liều lĩnh này hẳn phải xuất phát từ lòng tin tưởng không những ở quyền năng của Chúa Giêsu có thể chữa lành bệnh, mà nhất là ở lòng nhân từ thương yêu của Ngài, muốn giải thoát người ta khỏi bệnh tật. Chắc là anh đã từng được nghe thiên hạ nói về Ngài. Diễn tiến của sự việc cho thấy anh đã không tin tưởng hão huyền. Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước thái độ và lòng tin của anh. Và Ngài đã làm phép lạ để cứu chữa anh.

Nhìn vào hành động của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài cũng đã không ngần ngại vi phạm điều lề luật quy định vì Ngài đã giơ tay đặt trên người bệnh. Dĩ nhiên, không thể coi đoạn Tin Mừng này như là một sự khuyến khích cho việc vi phạm lề luật, nhưng cách xử sự của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy còn có những cái quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật, hay nói cách khác, lề luật vì con người chứ không phải con người vì lề luật. Bằng chứng là tiếp đó chúng ta lại thấy Chúa Giêsu căn dặn người được lành hãy đi trình diện cùng trưởng tế, dâng của lễ theo luật Maisen. Một nghi thức mà tất cả những người được khỏi bệnh cùi, vì lý do nào đều phải làm để được công khai và chính thức tuyên bố là mình được khỏi, được sạch và do đó được quyền vào lại trong cộng đồng xã hội.

Người mắc bệnh phong cùi là hình ảnh tượng trưng cho tâm hồn tội lỗi, vì tội lỗi cũng chính là thứ phong cùi thiêng liêng, làm cho tâm hồn chúng ta trở nên hôi thối và chết dần chết mòn. Bời đó, với một lòng tin tưởng, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu, để được chữa lành, để được tha thứ, nhờ đó, chúng ta được liên kết với Thiên Chúa và với anh em, sợi dây liên kết này vốn đã đứt đoạn do tội lỗi của chúng ta.

 

65.Bệnh "cùi" tâm hồn và thân xác
Cách đây ít lâu, tôi có dịp ghé thăm các bệnh nhân bị phong hủi ở "Trại cùi Di Linh". Mỗi người có một hoàn cảnh thật đáng thương. Họ làm nhà ở gần nhau, sống tập trung mà mọi người vẫn gọi là "trại", nơi đó ngoài những dì Dòng Bác Ái, những ý tá, bác sĩ hay những người thiện nguyện chăm sóc...thì hầu như tất cả đều là những người bệnh. Họ sống với nhau như những người đồng cảnh ngộ mà không dám đi xa ra khỏi "trại" của mình vì sợ bị mọi người xa lánh. Bởi vì người ta ghê tởm vì căn bậnh của họ hoặc là sợ bị lây. Hoàn cảnh của những người bị phong hủi ở Di Linh cũng không khác chi với người bị phong hủi trong bài Tin Mừng hôm nay. Có thể nói tất cả những người bị bệnh phong hủi thì thật đáng thương, nhất là trong hoàn cảnh xã hội Do Thái lúc bấy giờ thì lại càng đáng thương hơn nữa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do Thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: "Ô uế, ô uế", cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị coi như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị coi như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.

Thế nhưng khi mà người ta nghĩ mình không còn niềm hy vọng nào, không còn chỗ nào để bám víu, không còn ai quan tâm, không còn ai dám đụng vào, thì chính Chúa lại đưa bàn tay ra chạm lấy để nâng họ lên. Qua hình hình ảnh của những Dì Phước, những lương y bác sĩ, những người thiện nguyện cho tôi thấy rõ hình ảnh của Đức Giêsu qua con người của họ nhằm xoa dịu đi căn bệnh đau khổ trên thân xác họ. Từ hình ảnh đó cho tôi liên tưởng đến những bệnh "cùi" trong tâm hồn nó còn nguy hiểm hơn gấp bội, mà chắc chắn nơi mỗi người đều có căn bệnh đó trong người

1. Chữa bệnh cùi thể xác.

Tất cả ước mơ của người thanh niên bị bệnh phong hủi trong bài Tin Mừng là được khỏi bệnh, trở nên lành sạch, được làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Khi anh ta đến xin "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Chúng ta có thể ngần hiểu rằng anh ta đã hoàn toàn tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu và chỉ có Chúa Giêsu mới chữa anh ta khỏi bệnh mà thôi. Từ lời kêu cầu mong mỏi của con người đó, Ngài đã không ngần ngại trả lời "Tôi muốn, anh sạch đi!", điều đó đã được phát xuất từ con tim, Ngài đã trả lại cho anh những gì đã mất. Ngài phá tan đi rào cản ngăn cách giữa người bệnh mà xã hội Do Thái ruồng bỏ bằng cách "giơ tay đụng". Thái độ đối xử của của Đức Giêsu hoàn toàn bình đẳng với những người bất hạnh. Còn chúng ta đã có thái độ như thế nào? Chúng ta có thái độ coi thường và xa tránh không? Thật là đáng trách khi mà ngày nay chúng ta vẫn giữ lấy những thành kiến lầm lạc, những luật lệ làm cho con người xa cách con người, nhiều khi đưa đến làm cho họ xa cách cả Thiên Chúa.

2. Chữa bệnh cùi tâm hồn

Điểm hay trong bài Tin Mừng hôm nay chính là khi thấy người bị bệnh hủi đến gần mình, Đức Giêsu không xua đuổi, nhưng để anh đến. Chẳng những thế Ngài còn "giơ tay đụng" vào anh. Bằng cử chỉ giơ tay đụng vào anh như thế, Đức Giêsu tỏ dấu hoan nghênh anh, đón nhận anh. Và thái độ hoan nghênh đón nhận đó đã chữa anh khỏi mặc cảm và nỗi đau bị xua đuổi. Cho nên có thể nói, trước khi chữa bệnh thể xác cho anh, Ngài đã chữa lành tinh thần của anh. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh, Người đã vuốt ve tâm hồn anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh.

Lạy Chúa, Xin cho chúng con nhận ra quyền năng và tình yêu của Chúa trong cuộc đời chúng con. Để chúng con cũng biết chạy đến xin Ngài chữa lành bệnh tật hồn xác chúng con. Amen.

 

66.Chúa Nhật 6 Thường Niên
Trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ, người ta phải sợ hãi khi chứng kiến những cơn bệnh hiểm nghèo như bệnh cùi. Chẳng những nó cướp đi mạng sống của con người, mà nó lại còn gây ra biết bao đau đớn về thể xác, về tinh thần và đặc biệt trong xã hội lúc đó người cùi bị đẩy ra bên ngoài xã hội, không được tham gia sinh hoạt như những người bình thường khác. Một người cùi đến xin Chúa Giêsu chữa lành trong bài Tin Mừng (Mc 1, 40 - 45) hôm nay phần nào cho thấy điều ấy.

Bị đẩy ra bên ngoài xã hội, người cùi này rất tủi hổ, khổ sở. Khi ấy người cùi không còn được coi như "một con người". Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh đó nên Người không thể bỏ qua cơ hội chữa lành này cho người cùi này.

"Nếu Ngài muốn, Ngài cho tôi nên sạch" (Mc 1, 40). Lời van xin thống thiết nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng mà anh ta van xin. Anh ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Anh ta hiều rằng người này là "chiếc phao cuối cùng, bác sĩ cuối cùng.." để có thể giúp đỡ cho anh ta. Người cùi thốt lên được lời van xin nầy vì anh ta nhận ra được tình trạng hiện tại của mình, anh ta cảm nhận được tất cả nỗi thống khổ mà mình đang mang. Anh ta mong muốn thoát khỏi nó: anh muốn thoát khỏi những đau đớn của thể xác lẫn tinh thần, anh muốn thoát khỏi nỗi cô đơn để có thể hoà nhập được với cộng đoàn. Anh càng mong muốn hơn cho mình được trở nên tinh sạch như mọi người, bản thân anh cũng không chấp nhận được tình trạng hiện tại của chính mình. Ước muốn và hành động để thực hiện điều đó. Anh vượt qua mọi trở ngại và đến với Chúa Giêsu, trở ngại của căn bệnh, anh vượt trở ngại của đám đông, trở ngại của sự e dè trước những luật lệ của xã hội.

Chúa Giêsu nhìn thấy nỗi lòng của anh. Ngài ban cho anh những gì cần thiết để anh được tinh sạch, trở về cuộc sống đời thường: "Ta muốn, anh hãy trở nên sạch". Người đã ban một phép lạ cho anh. Đó hẳn là một Hồng Ân hết sức lớn lao cho anh.

Thiên Chúa cũng muốn cho hết mọi người cũng được như thế. Ngài cũng đang nói với mỗi người chúng ta: "Ta muốn, con hãy trở nên lành sạch". Nhưng những gì Thiên Chúa muốn, có phải là những gì mà chúng ta cũng đang muốn? Hay những gì Ngài muốn, mà đành phải chờ đợi vì không thấy con người đến với Ngài để Ngài thực hiện ý muốn.

Mỗi người trong chúng ta hãy nhìn vào tình trạng hiện tại của chính mình. Mỗi người đang mang một căn bệnh của thời đại, căn bệnh truyền nhiễm, hiểm nghèo hơn mà không ai có thể đến gần được, căn bệnh làm cho mình phải chết dần chết mòn theo năm tháng, căn bệnh làm cho chúng ta không thể hoà nhập được với mọi người. Cũng chính căn bệnh đó làm cho con người trở nên cô đơn tuyệt vọng. Nhưng chúng ta có nhìn thấy, có nhận ra tình trạng hiện tại của mình không? Nếu chúng ta biết cố gắng, muốn thoát khỏi những đau khổ của hiện tại mà biết tìm đến với Chúa, cầu xin và vâng theo thánh ý Chúa. Nếu mỗi người biết thực hiện ý muốn ngay lành của mình, mà đến trước mặt Chúa với lòng chân thành, thì tình trạng hiện tại của chúng ta có lẽ khá hơn bây giờ nhiều lắm.

Xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra tình trạng hiện tại của chính mình, biết siêng năng đến với Chúa, cụ thề là qua bí tích Giải tội và bí tích Thánh Thể để Ngài làm cho chúng ta được trở nên tinh sạch hơn. Hằng ngày Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta trong cõi lòng. Chỉ cần một chút cố gắng, một lòng mến thật sự, Chúa sẽ thực hiện phép lạ đó cho mỗi người trong chúng ta. Phương thế chữa lành và bồi dưỡng hữu hiệu vẫn là Bí Tích Giải Tội và Thánh Thể.

 

67.Chúa Nhật 6 Thường Niên
Con người luôn muốn được khoẻ mạnh, sống chan hoà với mọi người trong xã hội. Cho nên, hôm nay phúc âm kể lại việc Chúa Giêsu đã chữa bệnh cho một người cùi, đem anh ta trở về với Thiên Chúa, trở về với chính mình và trở về gia nhập vào đời sống cộng đoàn.

Thời Chúa Giêsu, y học chưa phát triển nên bệnh cùi là một bệnh nan y. Bệnh cùi gây nhiều khổ đau, khổ sở cho người mắc phải. Nó làm cho cơ thể người bệnh đau đớn nhức nhối, chết dần chết mòn. Hơn thế nữa, nó còn là một chứng bệnh dễ lây, vì thế người ta thường cô lập những kẻ mắc phải chứng bệnh này ở một nơi riêng, không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Trong đạo Do Thái, người mắc bệnh này bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu to lên: "ô uế, ô uế" cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với người bệnh cùi đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh này bị coi như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người cùi. Thế nên ta thấy cảm thương và đau xót cho người cùi. Bởi lẽ người cùi không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt. Họ bị xã hội khinh dễ và loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng, họ sống mà bị coi như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết ảnh hưởng dần dần.

Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người cùi không phải là căn bệnh cùi gây ra, nhưng chính là nỗi đau bị tất cả mọi người ruồng bỏ. Do đó, chúng ta không lạ gì khi biết người cùi mặc cảm chán nản sợ sệt. Họ thất vọng về chính bản thân mình, họ chán nản và căm ghét xã hội đã bỏ rơi họ, xã hội đã cách ly và tránh xa họ. Hơn nữa, người mắc bệnh cùi không được cử hành việc tế tự. Họ mắc bệnh thì không được ở trong cộng đoàn để lo phụng sự Thiên Chúa. Từ những dữ kiện trên cho ta thấy những người cùi khao khát được lành sạch, thoát khỏi bệnh tật để được sống tự do sinh hoạt như những người khoẻ mạnh khác, được sống chung với cộng đoàn và cũng được thi hành việc tế tự thờ phượng Thiên Chúa theo bổn phận mình.

Chính niềm khát khao đó và cộng thêm niềm tin nên người cùi này hết sức can đảm đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho mình. Người cùi đã làm một điều táo bạo vượt ra ngoài luật lệ cho phép. Điều duy nhất khiến anh ta có can đảm để làm như vậy, đó là lòng tin vào Chúa Giêsu, một người mà anh đã được nghe nói đến. Anh ta không sợ mình làm cho Ngài bị dơ bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính Ngài sẽ làm cho anh được sạch. Lòng tin này khiến anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài và kêu van: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi nên sạch".

Anh mong được khỏi bệnh. Anh mong được làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Anh tin là Ngài có thể làm được. Trước niềm tin này Chúa Giêsu đã động lòng thương, Ngài đã chữa anh ta. Ngài trả lại cho anh ta toàn bộ những gì đã mất. Kết quả của đức tin và sự nỗ lực hết mình là phép lạ của Chúa Giêsu xảy ra cho anh.

Khi chữa bệnh, Chúa Giêsu đã giải thoát anh khỏi những đau đớn phần xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên lành sạch. Anh được gia nhập cộng đoàn. Khi chữa anh khỏi bệnh, Chúa Giêsu đồng thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng qua. Những vết thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Chúa Giêsu đã hồi sinh tâm hồn lạnh giá của anh. Anh đã được Thiên Chúa tái tạo con người tốt đẹp như thuở ban đầu trong ý định của Thiên Chúa. Bên cạnh đó, một lần nữa, Chúa Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người cùi. Không những Ngài đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân. Lòng thương xót đã khiến Chúa Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Chúa Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm kỵ của đạo Do Thái. Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn dành cho con người nhữg điều tốt đẹp nhất.

Có thể nói hình ảnh của bệnh cùi cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho tội lỗi. Bởi vì tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên xấu xa trước mắt Thiên Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn chúng ta bị băng hoại và sau cùng giết chết sự sống của Thiên Chúa, sự sống ân sủng trong chúng ta. Đồng thời, tội lỗi còn là như một chứng bệnh truyền nhiễm, do gương mù gương xấu của chúng ta mà nó sẽ lây lan sang những người chung quanh. Ngày nay, người ta mất ý thức về tội. Người Kitô hữu coi phạm tội là việc bình thường. Người ta cứ phạm tội. Tội lỗi mỗi ngày một nhiều hơn, nó tràn ngập khắp nơi. Nó ảnh hưởng xấu đến đời sống vật chất, tinh thần và cuối cùng là sự chết. Tội lỗi làm cho chúng ta mất liên lạc. Tội lỗi làm cho con người không hiệp thông với chính mình, với tha nhân và với Thiên Chúa. Vì thế, sau khi đã tái nhận biết sự nặng nề và xấu xa của tội lỗi là như thế, chúng ta hãy quyết tâm thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.

Muốn cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội, Chúa Giêsu bảo anh đi trình diện với thượng tế theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Chúa Giêsu đón nhận anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận. Nhân phẩm anh được phục hồi. Giờ đây anh có thể tự tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người. Phần chúng ta, là người Công giáo, chúng ta phạm tội, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta hãy sám hối, khiêm nhường nhìn nhận tội lỗi của mình và can đảm đi xưng tội. Nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa tha thứ. Bởi vì bí tích Giải tội chính là Bí tích của lòng thương xót của Thiên Chúa. Và tòa Giải tội chính là nơi để chúng ta gặp gỡ và làm hòa cùng Thiên Chúa. Chắc trong chúng ta ít nhiều ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, có những vết thương sâu kín, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm an ủi được. Hãy noi gương người bệnh phong chạy đến với Chúa Giêsu. Ngài sẽ xóa đi những mặc cảm đè nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta. Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ kín hồn ta. Hơn nữa, bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta không loại trừ anh em mình ra khỏi lòng mình, khỏi xã hội. Hãy can đảm và vui lòng đến với những người bị bỏ rơi, biết an ủi những người đang buồn khổ, biết tránh cho tha nhân những mặc cảm nặng nề, tôn trọng danh dự và nhân phẩm của tha nhân, giúp cho tha nhân được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời sống xã hội. Chúng ta hãy mạnh dạn diệt trừ bệnh chia rẽ, loại trừ, phân biệt, nghi kị... anh em mình.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã chữa lành người cùi trong đoạn phúc âm hôm nay. Xin Chúa cũng chữa lành những thương tích do tội lỗi đang phá hoại linh hồn chúng con. Xin cho chúng con can đảm đến với Bí tích Giải tội để được tha thứ, để đón nhận lòng thương xót và ân sủng của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng con không loại trừ tha nhân nhưng luôn biết thương yêu và giúp đỡ họ. Amen.

 

68.Lạy Ngài, nếu Ngài muốn thì Ngài có thể
Đáng lẽ những bài tường thuật phép lạ phải có tính lịch sữ cao. Nhưng vì được viết lâu sau Phục Sinh và dưới ánh sáng Phục Sinh lại nằm trong ý đồ của tác giả nên bị cắt xén và sữa đổi ngay cả với những chi tiết có tính lịch sữ như thời điểm và địa điểm. Mc chỉ muốn hé mở từ từ 'bí mật thiên sai' của Đức Giêsu nên 'cấm không cho nói'. Có lẽ ý chính của đoạn nầy là cách cầu nguyện có hiệu quả: cầu nguyên theo ý Chúa 'nếu Chúa muốn' chứ không xin theo ý ta vì như vậy là ép buộc Chúa, không để Chúa tự do. Chuá không thể chấp nhận.

Vài điểm CHÚ GIẢI

- Một người cùi đến gặp Người: kẻ cùi phải tránh xa mọi nguời và phải la lên 'cùi,cùi' Anh nầy bạo gan mới dám 'đến gặp'. Lòng tin mạnh mẻ khiến anh 'liều'.

- Anh ta quì xuống van xin 'nếu Ngài muốn Ngài có thể làm cho tôi được sạch': Khiêm tốn. Xin tận đáy lòng. Dấu chỉ nữa của lòng tin mạnh. Xin thì phải theo ý người cho. Ngài có thể. Tin chắc. Muốn là quyền của Ngài. Ép buộc không được. Vô phép! Chúa chỉ làm theo ý Chúa

- Người động lòng thương giơ tay chạm vào anh: Thấy lòng tin Người động lòng thương. Chỉ lòng tin mạnh mới làm cho Người động lòng và chạm vào. Ít được chú ý nên xin không được.

- Và bảo 'Ta muốn, anh hãy sạch đi': Chúa vô cùng yêu thương luôn muốn cứu chữa và ban ơn. Chúa muốn nhưng 'anh hãy sạch đi'. Sạch hay không là cuối cùng tuỳ ở anh. Anh không tự muốn bằng lòng tin mạnh thì cái 'Ta muốn' của Chúa không đến được với anh. Không có kết quả dù cái 'Ta muốn' có toàn năng. Là ý chính của tác giả khi thuật câu chuyện nầy để dạy cách cầu nguyện hiệu quả. Chỉ cầu nguyện cách nầy là có hiệu quả. Đức Giêsu đã nói 'cầu nguyện mà tin thật trong lòng thì được ngay'. Phải cho Chúa thấy lòng tin. Đức tin làm cho người ta cầu nguyện khiêm tốn và xin theo ý Chúa. Chúa chỉ làm theo ý Chúa chứ không làm theo ý bất cứ ai. Không xin theo ý Chúa là không biết xin vì Chúa không cho.

- Lập tức bệnh cùi biến khỏi anh và anh được sạch: Chúa cho thì kết quả tức khắc dù là bệnh nan y vì không có gì là không thể đối với Chúa.

- Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay và bảo 'coi chừng đừng nói với ai: Có lẽ chỉ có mình anh ta vì anh ta dám đến gần và Đức Giêsu không muốn cho người ta biết (sẽ phiền phức) nên mới đuổi. Hơn nữa chưa đến giờ trong chương trình của Chúa Cha (sau thập giá và Phục Sinh). Bây giờ chưa hiểu đúng về Đấng Messia của Thiên Chúa vì người ta đang mong đấng 'Messia do thái'.

- Nhưng hãy đi trình diện với tư tế.....: Phải giữ trọn lề luật và Đức Giêsu còn muốn anh ta nhờ giữ luật mà được chính thức phục hồi tư cách làm người bình thường mà bệnh cùi đã tước mất.

- Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền tin ấy khắp nơi......: Không vâng lời Chúa. Khi xin thì tin mà được rồi thì hết tin. Phúc Âm khó hiểu vì lẫn lộn chi tiết lịch sử trong ánh sáng Phục Sinh. Máccô được viết năm 67-70 khi mệnh lệnh rao giảng đang được thực hiện rộng rãi.

Cầu nguyện - cầu xin - là việc làm chiếm phần lớn sinh hoạt giữ đạo của người tín hữu. Nhưng cầu xin nhiều mà chẳng thấy được bao nhiêu vì không quan tâm và không làm đúng như Đức Giêsu dạy. Mở miệng ra là xin, lời nguyện nào cũng chỉ là xin mà không xin với những điều kiện Đức Giêsu dạy Xin mà tin thật trong lòng thì được. Người ta chỉ cầu nguyện bằng môi miệng mà không xin bằng cả tấm lòng nên không thấy được.

Phải cho Chúa thấy lòng tin 'thấy lòng tin của họ' Đức Giêsu nói với người bại liệt 'cùi thiêng liêng' tội con đã được tha. Điều kiện thứ nhất phải là sạch tội. Người cùi đến gặp Đức Giêsu quì xuống van xin. Khiêm tốn trước mặt Chúa dù là cùi Chúa cũng động lòng thương. Phải có lòng tin mới làm được cử chỉ nầy. Điều kiện thứ hai là 'nếu Ngài muốn' xin theo ý Chúa. Chúa muốn thì không gì là không thể. Phải để Chúa muốn theo ý Chúa. Đừng bắt Chúa muốn theo ý ta: là không có lòng tin, phải để Chúa tự do muốn. Làm cho Chúa muốn là tin: Chúa yêu thương, Chúa tốt lành. Mọi điều Chúa muốn đều là tốt nhất cho ta. Đừng dạy Chúa muốn thế nầy thế kia.

Chúa biết cùi là không tốt. Chúa muốn cho người cùi hết bệnh. Phần người cùi phải cho Chúa thấy lòng tin. Tin thì sám hối, bỏ tội làm ngăn cách với Chúa như bệnh cùi cách ly người cùi với cộng đoàn dân thánh. Tin-sám hối là khiêm tốn phó thác vào tình yêu và sự tốt lành của Chúa.

Một chi tiết không được quan tâm là Đức Giêsu bảo 'đừng nói với ai' nhưng ra khỏi đó thì anh ta 'rao truyền khắp nơi' làm hại Đức Giêsu 'không thể vào thành hay làng nào được mà phải dừng lại ở những nơi vắng vẻ'. Khi xin thì biết xin theo ý Chúa mà được rồi thì bỏ ý Chúa làm theo ý thích của mình nên 'làm hại Đức Giêsu'. Phải luôn làm ý Chúa. Xin Chúa thì theo ý Chúa là tỏ lòng tin còn khi làm thì cũng phải làm theo ý Chúa luôn mới nói lên lòng tin thật sự. Lâu dài mới đủ chứng minh.

Lạy Ngài nếu Ngài muốn......

 

69.Được lành sạch để hòa nhập lại cộng đoàn
Có một bài hát sinh hoạt như sau:

"Tôi chỉ thực sự là người nếu tôi sống với anh em tôi,

Đâu phải ai xa lạ mà là người đang sống bên tôi,

Thế giới này không ai là một hòn đảo,

Vườn hoa này không có loài hoa lạc loài."

Đúng vậy, một trong những điều đáng sợ đối với một con người là bị mọi người xa lánh và ghê tởm. Bởi ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã dựng nên con người là hai chứ không phải là một (St 1, 22 - 23). Cho nên, tự bản chất con người được dựng nên để sống với, sống chung, sống cho và sống vì người khác. Hay nói cách ngắn gọn tự bản tính con người được kêu gọi để sống cộng đoàn.

Trong đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy anh thanh niên bị bệnh phong cùi đã rất khổ tâm. Vì đối với người Do thái ngày xưa bệnh phong cùi là một trong những căn bệnh được xem là ô uế. Do vậy, chính người bệnh không được phép chủ động để tiếp xúc với bất cứ người nào lành sạch. Cũng thế, những người lành sạch thấy người bệnh phải tránh xa nếu như muốn không bị lây nhiễm ô uế.

Trong hoàn cảnh bị cô lập như thế, anh thanh niên này hầu như tuyệt vọng. Giờ đây anh chỉ còn biết cậy trông vào Chúa Giêsu. Quả thật, sự cậy trông và tin tưởng của anh vào Người đã đem lại cho anh kết quả tốt. "Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi! " (Mc 1, 41). Đây là cử chỉ hết sức đẹp mà anh đã được Chúa Giêsu ban tặng cho anh.

Sau khi được lành sạch Chúa Giêsu còn căn dặn anh:: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết." (Mc 1, 44). Đi trình diện với tư tế để làm chứng rằng từ nay anh chính thức được trở lại với cộng đoàn theo đúng bản tính của mình.

Mỗi khi sống trong tình trạng tội lỗi là mỗi khi chúng ta đã tự tách mình ra khỏi cộng đoàn dân thánh của Chúa. Những khi ấy chúng ta hãy mau mắn đến với Toà giải tội để được hoà nhập lại với cộng đoàn thiêng liêng quý giá ấy.

Còn đối với đời sống chung nhiều khi vì ích kỷ, tự ái, ganh tỵ và ghen ghét chúng ta tự tách mình ra khỏi cộng đoàn anh chị em của mình hay làm cho mọi người phải ghê sợ khi phải tiếp xúc với mình. Những lúc ấy chúng ta hãy can đảm dẹp bỏ những lợi ích riêng tư để hoà nhập với anh chị em của mình.

Đồng thời, chúng ta cũng luôn có thái độ thông cảm đón nhận anh chị em mình. Dù họ có tệ rạc cách mấy thì họ vẫn được chính Máu cũa Chúa Giêsu cứu chuộc nên chúng ta không nên có bất cứ thái độ nào để cô lập anh chị em của mình.

 

70.Đức Giêsu, Đấng cứu chữa người bất hạnh
Ngày nay, bệnh AIDS là mối đe doạ cho loài người. Tính đến nay có đến hàng triệu người nhiễm HIV. Rất nhiều người đang lâm vào tình cảnh bi đát, đau thương như đang đứng bên bờ vực thẳm. Nhưng bệnh này còn đỡ hơn bệnh cùi ngày xưa. Trong sách Lêvi qui định: ai bị cùi sẽ phải ở riêng, phải mặc áo rách và đi tới đâu cũng phải tự mình kêu lên: " ô uế" để mọi người tránh xa ra. Đối với người mắc bệnh nan y đó phải khổ sở đến mức nào vì họ bị loại khỏi xã hội, không tiếp xúc được với ai, không được ai chăm sóc và nâng đỡ!

Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã cứu chữa anh cùi cả phần xác lẫn phần hồn. Chính Ngài đã giúp anh thóat khỏi mặc cảm bị mọi người bỏ rơi và xa lánh, chính Ngài giúp anh hòa nhập với xã hội. Ngài dạy anh đi trình diện tư tế theo luật định để anh được hoà nhập với cộng đoàn, được quyền tiếp xúc với mọi người và được hưởng quyền lợi chính đáng như mọi người khác. Điều này cho thấy sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những người đau khổ, thấp hèn. Ngài giải thóat anh khỏi mọi nỗi khổ đau và cho anh hiểu tình thương vô biên của thiên Chúa đối với mình. Lúc anh tiếp xúc được với Ngài thì bệnh cùi của anh biến đi.

Chúa Giêsu là người có hành động táo bạo, dám đụng vào anh cùi, không sợ sự ô uế của anh lây qua. Ngược lại, chính sự trong sạch của Chúa Giêsu và tình yêu của Ngài đã làm cho bệnh cùi phải biến đi. Tuy nhiên, có người thắc mắc tại sao Chúa Giêsu lại không cho anh loan tin vui đó cho mọi người. Có lẽ theo quan niệm của người Do thái thời đó, họ quá chú trọng đến một Messia đến giải phóng dân tộc hơn là cứu chuộc tòan diện cả hồn và xác; họ mong một Messia uy quyền hay ra hình phạt hơn là đối xử nhân từ với tội nhân nên Chúa Giêsu chưa muốn tỏ mình ra ngay lúc đó chăng? Có lẽ Ngài muốn rằng: Qua những lời rao giảng của Ngài, dân chúng sẽ hiểu đúng và chính xác về Ngài hơn. Ngài không muốn họ tìm Người chỉ vì phép lạ, nhưng tìm đến Ngài để hiểu biết đường lối Chúa và đón nhận ơn cứu rỗi.

Có một điều lạ là làm sao anh cùi biết về Chúa Giêsu, và quyết chí tìm đến Ngài để xin được cứu chữa. Bởi vì người cùi đâu được chen vào đám đông để nghe Chúa Giêsu giảng, cũng đâu được nói chuyện với ai vì mọi người đều sợ bệnh cùi của anh! Có lẽ anh không cần nghe nhiều về Chúa như mọi người nhưng lòng của anh luôn biết hướng về ngài, chỉ cần nghe một chút đã nhận ra được quyền năng của Ngài. Điều đáng lưu ý là anh cùi có lòng tin, đến van xin Chúa thì Ngài mới chữa lành cho. Nếu anh không biết kêu cầu Chúa thì anh sẽ khó mà khỏi bệnh.

Ngày hôm nay, lòai người chúng ta cũng gặp rất nhiều căn bệnh trầm kha về tinh thần hoặc về thể xác nhưng có được bao nhiêu phần trăm biết chạy đến Chúa Giêsu để được Ngài cứu chữa! Chắc hẳn, Ngài đang thiết tha mời gọi mỗi người chúng ta: hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc mang gánh nặng nề,Ta sẽ bổ sức cho.

Khi được Chúa chữa lành hay bổ sức cho, chúng ta hãy biết cám ơn Chúa, biết chúc tụng Chúa, biết đáp đền ơn Ngài bằng việc giúp những người khác biết Chúa Giêsu bằng cách rao truyền và làm chứng về lòng nhân từ và ơn cứu độ Chúa ban cho lòai người. Chúng ta hãy làm như lời thánh Phaolô dạy trong bài đọc 2: hãy làm tất cả để tôn vinh Chúa, đừng làm gương xấu nhưng hãy bắt chước Đức Kitô, làm mọi việc vì Chúa, vì ích lợi của tha nhân để họ được ơn cứu độ nhờ đời sống gương mẫu và lời rao giảng của mình. Chúng ta hãy bắt chước thánh Phaolô loan báo Tin Mừng Chúa cứu độ cho những người mà mình gặp gỡ, như anh cùi vừa được ơn lành bệnh thì không kềm lòng được, anh phải rao truyền cho mọi người biết ngay.

Chúng ta biết rõ rằng: Chúa Giêsu đã chết nhưng đã phục sinh để cứu chuộc mọi người chúng ta, nhưng chúng ta còn thụ động trong việc giữ đạo, không thiết tha sống theo lời dạy bảo của Chúa, chưa lo nói về Chúa cho người khác nghe! Nhiều khi chúng ta có dịp nói về chuá nhưng chúng ta vẫn trù trừ, không tỏ ra hết lòng tin cậy Chúa và không truyền đạt cho những người xung quanh biết về Chúa! Đó là sai sót lớn của chúng ta hôm nay. Có lẽ bài Tin Mừng hôm nay là thuốc chữa bệnh cho chúng ta, nhắc chúng ta nhớ lại bổn phận khi chịu Bí tích Thêm sức, đó là: can đảm thi hành Lời Chúa, hăng hái họat động tông đồ, góp phần xây dựng xã hội để thể hiện đức tin của mình, làm chứng cho Chúa giữa xã hội lòai người.

Nếu mọi người hăng hái rao truyền về Chúa như anh cùi hôm nay thì thế giới không mấy chốc sẽ tràn đầy Tin Mừng của Chúa. Từ đó, trên môi miệng của mọi người sẽ là những lời yêu thương, hy vọng và vui mừng vì Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta.

 

71.Niềm tin vào Lòng Thương Xót
Tin Mừng Thánh Marcô trình bày cuộc sống Chúa Giêsu một cách đơn giản và gần gũi với con người. Thánh Marcô vẽ ra một bức tranh rất thực về con người Chúa Giêsu. Tuy nhiên, không vì thế mà Marcô bỏ quên phương diện thần tính của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ là một người ở giữa loài người. Ngài còn là một Thiên Chúa đang sống giữa con người. Ngài luôn khiến tâm trí con người cảm động trước những lời nói và việc làm của Ngài. Qua phép lạ Chúa Giêsu chữa lành anh bệnh phong hôm nay, tôi muốn chia sẻ về niềm tin vào lòng thương xót củaThiên Chúa.

Sứ mạng cứu chữa

Hành động của Chúa Giêsu hôm nay khiến con người phải ngỡ ngàng trước tình thương của Thiên Chúa. Phong hủi là thứ bệnh ghê tởm nhất thời Chúa Giêsu. Không có bệnh nào lại huỷ hoại con người lâu dài và ghê gớm như bệnh này. Nó khiến cơ thể bị lở loét, tanh hôi và rụng mất dần từng chi thể. Tệ hại hơn, những người bệnh phong bị coi như là "người đã chết". Họ hoàn toàn bị khai trừ khỏi xã hội loài người. Mọi người khi thấy họ thì tránh xa vì sợ bị ô uế. Chúa Giêsu không hề xa tránh anh. Hành động của Ngài hoàn toàn khác hẳn với những người khác. Ngài đến giơ tay và đụng chạm vào anh. Tình thương của Ngài làm cho chứng phong cùi được chữa khỏi. Chứng phong hủi không lây được sang Ngài, trái lại sự thanh sạch của Ngài đã lan tràn sang anh, khiến anh được sạch.

Sứ mạng yêu thương

Chúa Giêsu mỗi khi xuất hiện Ngài luôn giữ vai trò là người gieo rắc tình thương: bệnh tật được chữa lành, tang tóc được hân hoan, tội lỗi được tha thứ, ngay cả cái chết đối với Ngài chỉ là giấc ngủ bình an. Ở Naim, ngài đã biến đổi giọt nước mắt của người mẹ khóc thương con mình thành những giọt lệ vui mừng khi Ngài cho con bà sống lại. Cho đến nỗi, khi bị treo trên thập giá, tình thương Ngài vẫn tiếp tục cho anh trộm lành trong tuyệt vọng được tham dự vào Nước Ngài. Hành động Chúa Giêsu khiến cho con người nhận thấy quyền năng của Ngài là tình yêu chứ không phải là sức mạnh của binh lực. Ngài đến mang cho con người sự sống chứ không phải là kẻ tiêu diệt sự sống.

Đáp đền trong tin tưởng

Về phía anh phong hủi, anh đã không lầm khi dám liều mình tiến đến van nài trước vị Thầy đầy tình thương: "Nếu Ngài muốn, ngài có thể làm cho tôi được sạch". Chính lòng tin đã thúc giục anh vượt qua những lời chê cười, khinh bỉ của bao cặp mắt người đời. Thông thường nếu anh đến với một thầy Rabbi hay mô#t thầy giáo luật chắc hẳn anh sẽ bị ném đá đuổi đi. nhưng với Chúa Giêsu, anh đặt hết niềm tin tưởng vào Ngài. Anh tin rằng, Ngài có thể làm được điều mà người khác không thể. "Nếu Ngài muốn", một lời mở đầu cho lời cầu xin đầy tin tưởng vào phó thác hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không hề bận tâm đến bề ngoài xấu xí, hôi tanh của anh, nhưng Ngài nhìn thấy tận trong tim anh một nỗi khát khao được chữa lành.

Hôm nay anh bệnh phong này đã làm được điều mà nhiều người chưa hề dám nghĩ. Đức tin của anh đã phát sinh hiệu quả khi gặp được tình thương của Chúa Giêsu. Đức tin là dám nghĩ rằng tình thương Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ta mặc dầu mọi bằng chứng đều cho thấy ngược lại. Tin là dám nghĩ rằng Thiên Chúa đang ở bên ta mặc dù thực tế ta thấy Ngài còn quá xa cách. Tin là dám nghĩ Ngài vẫn yêu thương ta dù ta chẳng có gì đáng yêu. Tin là dám nghĩ rằng Ngài vẫn hành động liên lĩ trong ta để biến đổi ta cho dù có khi ta nghĩ Ngài đã chết rồi. Anh phong hủi hôm nay đã dám nghĩ, dám làm điều mà nhiều người không dám làm, dám nghĩ.

Một điều đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là: Lòng thương xót Chúa thì không có giới hạn, thế nhưng Chúa Giêsu không chữa lành hết mọi bệnh nhân phong cùi của xứ Palestine. Ngài cũng không tiêu diệt tận gốc bất kỳ một thứ bệnh tật nào. Chúa Giêsu chỉ chữa một vài người mà Ngài gặp trên đường và xin Ngài cứu chữa. Điều đó nói lên rằng lòng thương xót không cho phép Ngài chữa một lần cho tất cả mọi bệnh tật rồi "cuốn goi" ra đi. Nhưng Ngài muốn cứu chữa từng người để cho con người thấy rằng Ngài vẫn đang còn hiện diện nơi đây để sẵn sàng cứu chữa những ai cần đến Ngài.

Hiện nay bệnh tật vẫn còn đó đây trên khắp thế giới. Những chứng bệnh nan y vẫn lan tràn và sự dữ vẫn còn nhan nhản. Những thứ bệnh tiểu đường, béo phì, HIV, siêu vi B... đủ làm cho nhiều người phải lo lắng. Tuy nhiên những chứng bệnh tâm hồn lại khiến con người càng lo lắng hơn. Những thiếu sót, lỡ lầm làm cho đời sống của ta bị tanh hôi, lở loét. Nó khiến tình yêu Thiên Chúa bị che mờ đến mức ta không nhìn thấy được nữa. Tội lỗi dễ khiến ta mất tin tưởng vào Thiên Chúa và luôn tìm cách lánh xa Ngài. Tuy nhiên, ta nên nhớ rằng: Bất luận ta nghĩ mình xấu xa như thế nào; bất luận tội lỗi làm cho ta ô uế ra sao. Chúa Giêsu luôn thấu suốt tận thâm sâu của mỗi người. Ngài sẵn sàng cứu chữa cho những tâm hồn biết tin tưởng cầu xin.

Những lỗi lầm trong quá khứ, những thử thách trong hiện tại dễ làm cho ta trở nên lạnh lùng khi đối diện với Thiên Chúa. Chúng ta hãy vững tin như người phong cùi trong Tin mừng hôm nay. Anh đã mạnh dạn tiến đến Chúa Giêsu. Chỉ một lần can đảm của anh khiến cho anh được sạch. Ước gì mỗi ngày ta càng thêm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta mạnh dạn đến với Ngài để tình yêu của Ngài luôn được hoạt động cách mạnh mẽ và hiệu quả trong cuộc đời của mỗi chúng ta.

 

72.Loan báo Tin Mừng
Một người tân tòng mới trở lại cùng Chúa, ngày kia có anh bạn láng giềng tới chơi và hỏi: Anh biết được những gì về Đức Kitô? Người tân tòng trả lời: Có, tôi biết nhiều lắm. Người bạn hỏi: Vậy Ngài sinh ra bao giờ, ở đâu và chết lúc bao nhiêu tuổi. Trước những câu hỏi này, người tân tòng tỏ ra bối rối vì kiến thức của anh về Đức Kitô còn non yếu. Cuối cùng người tân tòng bèn thú nhận: Phải, về Đức Kitô thì tôi biết ít lắm, nhưng có điều này chắc chắn: Trước đây tôi nằm đường nằm chợ, tôi say sưa be bét, nợ nần ngập đầu ngập cổ. Trước đây, vợ tôi ít khi mỉm cười với tôi. Thấy bóng tôi là sợ hãi. Nhưng hôm nay, tôi là một người đàn ông tiết độ, hết nợ và còn dư tiền để tậu một căn nhà mới. Hôm nay, vợ tôi thường tươi cười với tôi. Đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Đó là niềm tin tưởng và xác tín của tôi.

Tình cảnh của người tân tòng này cũng phần nào giống với người phong cùi của đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng anh tin chắc Ngài đã chữa lành cho anh và anh ra đi loan truyền cho mọi người biết điều đó…

Với chúng ta cũng vậy, chúng ta phải nói cho mọi người biết những gì Đức Kitô đã làm cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy lưu ý tới hành động của Chúa Giêsu. Ngài không sợ bị nhơ bẩn, bị ô uế, trái lại Ngài đã giơ tay ra, đụng tới người phong cùi và bỗng nhiên cơn bệnh của anh biến mất.

Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn còn giơ tay ra đụng tới chúng ta và chữa lành chứng bệnh phong cùi tâm hồn chúng ta là tội lỗi. Thực vậy, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Giải tội, để chữa lành những ung nhọt tội lỗi. Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Thêm sức, để trao ban Thánh Linh và gia tăng sức sống. Và nhất là Ngài không phải chỉ đụng đến chúng ta mà còn ngự vào tâm hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể. Rồi khi chúng ta đau yếu, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Xức dầu để xoa đi những đớn đau phần hồn cũng như phần xác. Ngài giơ tay ra cho những cô dâu và chú rể để giúp họ thánh hóa cuộc sống gia đình…

Chính vì thế, chúng ta có thể mượn lời kinh chúc tụng của Mẹ Maria để cảm tạ hồng ân Thiên Chúa. Ngài là Đấng toàn năng, đã làm cho tôi muôn việc trọng đại. Là những người cha người mẹ, chúng ta phải nói cho con cái biết những gì Chúa đã làm cho chúng ta và cho gia đình chúng ta nữa.

Tất cả chúng ta, những Kitô hữu, cũng phải nói cho những người tin cũng như không tin, bằng lời nói và bằng đời sống, những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.

Có thể chúng ta không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Ngài đã làm chuyển biến, đã làm thay đổi để chúng ta được trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.

 

73.“Vì loài người chúng tôi”
“Ngài chạnh lòng thương, giơ tay sờ vào anh ta”

Như bị một ma lực cuốn hút, người phong cùi cứ rẽ đám đông xấn tới, tiến lại gần Đức Giêsu, mặc cho người ta nạt nộ quát mắng, ngăn cản anh. Và cũng bất chấp dư luận, Đức Giêsu đã giơ tay ra đón và sờ vào anh ta. Theo phong tục Do Thái thời Chúa (và bây giờ ở nhiều nơi vẫn còn như vậy), bệnh nhân phong bị cấm, không được lui tới những xóm thôn, thị tứ, nơi những “người lành” cư ngụ. Họ bị coi là “kẻ xấu xa” vì đã bị Thiên Chúa luận phạt ngay ở đời này vì tội lỗi của mình. Họ bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người, sống lang thang vất vưởng như những bóng ma. Họ là những con ma sống, hay những xác chết còn thở hí hóp. Họ phải la to lên cảnh báo khi có người tới gần họ. Ai cũng không muốn “dây với người hủi”. Nhưng Đức Giêsu đã giơ tay đón anh ta, sờ vào anh ta. Khi đôi tay nhân lành chạm vào làn da “sượng sần và tê điếng”, lạ thay và cũng cao cả nhường bao! Làn da vô cảm ấy đã nhẵn nhụi, hồng hào lành lặn trở lại. Ai nói được hết nỗi vui của anh. Nhưng Đức Giêsu lại bảo anh phải gấp rút đi gặp các tư tế.

Đây là một thủ tục cần thiết để người phong có thể hội nhập lại xã hội. Chứng nhận của tư tế sẽ giúp cho gia đình anh, bạn bè anh, bà con lối xóm vui lòng đón anh trở lại xã hội người. Cứu người phong khỏi bệnh, Chúa còn trả lại nhân phẩm cho anh, cứu anh khỏi thân phận bị loại trừ, hất hủi.

Lệnh truyền thứ hai của Chúa đối với người phong là anh ta không được kể chuyện mình cho ai nghe. Chi tiết này xem ra mâu thuẫn với việc phải đi bẩm báo các vị tư tế, và ý muốn cho anh hội nhập xã hội trở lại. Đương sự đã không thể giữ miệng được lâu. “Vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin đó khắp nơi”. Anh đã trở thành người rao giảng Tin Mừng cứu độ, bởi vì anh đã được cứu độ, được giải phóng. Việc anh loan báo tin vui đã khiến Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Chúa không muốn bị người ta xem Ngài là ông thầy lang mát tay, Ngài không muốn gây một sự cuồng nhiệt nơi quần chúng. Cho dù làm cho người ta hiểu đúng Tin Mừng của Chúa không phải là một điều dễ dàng.

Thánh Gioan đã gọi các phép lạ của Chúa là những “dấu chỉ”, Chứng tỏ vương quốc tình yêu, công bình, hòa bình, hạnh phúc của Thiên Chúa đang đến với lịch sử nhân loại. Qua các phép lạ, Chúa muốn chứng tỏ vì sao Chúa đến. Chúa đến không phải để làm thầy lang, người trừ qủi, người giảng thuyết, mà là để chia sẻ thân phận cùng khổ, tuyệt vọng của con người chúng ta, và để cứu chúng ta khỏi mọi sự dữ. Như chúng ta vẫn thường tuyên xưng: “Vì loài người chúng tôi và để cứu chuộc chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”.

 

74.Cử chỉ
So với những cử chỉ lớn lao, thì những cử chỉ nhỏ bé lại có thể giúp chúng ta thấu hiểu hơn về tính cách của một con người. Những điều lớn lao chứng tỏ cho chúng ta về sức mạnh nơi một con người. Còn những điều nhỏ nhoi lại cho chúng ta thấy được bản tính nhân loại nơi một con người. Chúng ta có được ví dụ rất tốt đẹp này trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là cử chỉ của Đức Giêsu, qua việc Người đụng chạm vào kẻ bị phong hủi, trước khi chữa lành cho anh ta. Mặc dù tự thân sự đụng chạm là một điều nhỏ bé, nhưng trong bối cảnh này, đó là một việc làm lớn lao. Chính những cử chỉ nhỏ bé giống như vậy, lại khẳng định được nhân cách và giá trị của con người.

Ngày nay, người ta không còn sợ hãi bệnh phong hủi như trước đây. nếu người nào bị lây nhiễm căn bệnh này, mà được điều trị kịp thời, thì họ có thể hoàn toàn khỏi bệnh, và không ai biết rằng họ đã từng bị mắc bệnh. Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, bệnh phong hủi là một trong những căn bệnh đáng sợ nhất. Đối với dân chúng thời đó bệnh phong hủi tương tự như căn bệnh AIDS đối với chúng ta ngày nay.

Người mắc bệnh phong hủi bị cấm không được sống chung với cộng đồng, để bảo vệ cho cả cộng đồng khỏi bị lây nhiễm. Những người phong hủi cũng bị loại ra khỏi những sinh hoạt tôn giáo, bởi vì họ bị coi là những kẻ không tinh sạch theo lễ nghi, và không ai dám liên lạc với họ. Do đó, họ là những kẻ sống ngoài lề xã hội và tôn giáo. Họ bị mọi người ruồng rẫy, khinh miệt và người ta tin rằng họ bị chính Thiên Chúa cũng ruồng rẫy, khinh miệt nữa. Nếu muốn công bố là đã khỏi bệnh, họ phải trải qua một lễ nghi thanh tẩy, trước khi được chấp nhận trở lại với cộng đồng.

Đức Giêsu biết tất cả những điều này. Tuy nhiên, Người đã vượt qua những cấm đoán của xã hội và tôn giáo. Đức Giêsu cho phép người phong hủi lại gần Người. Thế rồi Người đã làm một điều mà không ai ngờ. Người tiến đến gần, đụng chạm vào người phong hủi, trước khi chữa lành cho anh. Tại sao Người lại dám làm một điều mà lề luật cấm đoán? Sự đụng chạm đó cho thấy lòng thương xót lớn lao của Đức Giêsu đối với người sống ngoài lề xã hội, kẻ tội lỗi và người đau khổ.

Người đụng chạm vào người phong hủi, để có thể chứng tỏ rằng tất cả mọi sự đều tinh sạch đối với người mà tự bản thân họ đã tinh sạch. Sự không tinh sạch bên ngoài không hề làm mất đi sự tinh sạch của tâm hồn. Người đụng chạm vào anh ta, để dạy cho chúng ta rằng không được khinh miệt bất cứ ai, và coi họ như là những kẻ đáng thương, bởi vì nỗi đau đớn thể xác của họ. Người đụng chạm vào các thương tích của con người, không phải để cho các thương tích đó có thể dính chặt vào Người, mà là để Người có thể trừ khử chúng ta ra khỏi người đang bị đau đớn.

Đối với người phong hủi, cử chỉ đơn giản đó mang ý nghĩa của cả một thế giới. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người phong hủi không phải là tự thân căn bệnh, mà là nỗi đau đớn vì bị tất cả mọi người ruồng rẫy. Khi đụng chạm vào người anh ta, Đức Giêsu đem đến cho anh một dấu hiệu của sự đón nhận, và sửa đổi nơi anh ý tưởng rằng mình không tinh sạch, vô giá trị, không là gì cả, chỉ là một con người bỏ đi mà thôi.

Đức Giêsu đã có sự hiểu biết lớn lao, và có cảm xúc đối với những người đau khổ, Oscar Wilde nói về điều này như sau;

“Đức Giêsu đã thấu hiểu bệnh phong hủi của người phong hủi, sự tối tăm của người mù, sự bất hạnh do thói tự mãn của những kẻ sống theo lạc thú, sự nghèo nàn đến kỳ lạ của những kẻ giàu có, sự thèm khát có thể dẫn con người đến tình trạng uống cả những giòng nước bùn lầy”.

Đức Giêsu nhấn mạnh đến khả năng thương xót của chúng ta. Người thách đố suy nghĩ của chúng ta về lòng yêu mến. Mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương lớn lao. Thật đáng tiếc là chúng ta thường không sử dụng đến khả năng yêu thương đó. Chúng ta có được khả năng này trong sức mạnh của chúng ta, để tiếp cận được với những người đang phải chịu đựng nỗi đau đớn của cảnh bị ruồng rẫy. Chúng ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.

Khi nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta nhận ra được cách cư xử, mà một cộng đoàn Kitô hữu nên có, đối với những kẻ tội lỗi và những người bị xã hội ruồng bỏ. Trong thời đại của chúng ta, ai là những người phong hủi (sống ngoài lề xã hội)? Chúng ta đã nhận biết được cách cư xử của Đức Giêsu đối với họ. Vậy chúng ta phải cư xử với họ ra sao? Và theo mức độ con người, mỗi người chúng ta đều đã được Đức Kitô thanh tẩy trong phép Rửa tội, và chúng ta cần phải loan truyền tin vui.

 

75.Lời của Thiên Chúa có sức chữa lành
Anh chị em thân mến,

Mẹ Têrêsa Calcutta đang chăm sóc một người bệnh đầy ghẻ lở bên đường. Anh hôi thối bẩn thỉu lắm. Khi Mẹ đang lau rửa cho anh, một nguời đi đường trông thấy nói với Mẹ: "Trả cho tôi một triệu đô la, tôi cũng không làm cái việc này." Mẹ nghe nói ngẩng đầu lên trả lời: "Phần tôi, tôi cũng vậy."... Đúng thế, điều Mẹ Têrêsa muốn nói ở đây là, Mẹ và Tu hội của Mẹ lo lắng cho người nghèo không phải vì tiền, nhưng vì Chúa Giêsu... Chúa Giêsu yêu thương người đau yếu, bệnh tật, người tội lỗi hèn kém biết bao; Chúa luôn muốn chữa lành và chúc phúc cho họ. Chính vì điểm này mà Mẹ và Hội dòng của Mẹ, đã quyết tâm lo lắng cho người nghèo. Đây chính là chủ đề mà Hội thánh mong muốn chúng ta tìm hiểu hôm nay.

a/. Trước hết, xin nói về quan niệm và Luật lệ của Do thái về bệnh cùi:

+ Họ coi bệnh cùi là một thứ bệnh rất ngặt nghèo, không chỉ khủng khiếp về thể xác mà còn là dấu hiệu của hình phạt do đã phạm một tội nào đó. Đọc qua bài Cựu Ước, trích sách Lê vi ở trên, ta thấy những qui định của Lề luật dành cho người lây nhiểm bệnh cùi thật là khủng khiếp (Levi 13, 2.44-46): "Nếu ai mắc bệnh phong cùi, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế. Người ấy phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu. Gặp ai phải tránh xa và kêu lên: ô uế! ô uế! Phải ở riêng ra; chổ ở của họ là bên ngoài trại."

+ Ta thử nhìn lại về những qui định dành cho người bị bệnh cùi: Trước hết, khi trên da thịt của người nào có dấu hiệu nhọt, lát, hoặc đốm, mà đã được tư tế xác nhận là dấu hiệu bệnh cùi, ông sẽ tuyên bố người đó bị ô uế. Nhưng ta thử nghĩ, thời Chúa Giêsu, làm gì có những dụng cụ thử nghiệm chính xác như của ngày hôm nay, nên sẽ có rất nhiều lầm lẫn, nhất là khi tư tế không có cảm tình với người đó, kể cả vì ganh tị, hay để trả thù...Kế đến, vị tư tế sẽ công bố người bị phong cùi là hạng ô uế. Mà nếu bị coi là ô uế, cuộc đời của họ kể "tàn rồi", vì họ coi bệnh cùi là không chữa được, và hầu như vĩnh viển bị loại trừ ra khỏi cộng đồng xã hội, nhất là lễ nghi thờ phượng của người do thái. Lúc đó, người bệnh còn sống mà kể như đã chết. Cộng đồng coi người cùi là đáng sợ, vì họ ô uế, nên nếu cho họ gia nhập cộng đồng, cộng đồng sẽ bị ô uế luôn. Sau cùng, người bị bệnh phong cùi ít đau khổ thể xác hơn là tinh thần, vì họ cảm thấy bị mọi người sợ hải, cảm thấy bị khinh miệt, bị ghê tởm, nhất là bị xếp loại vào hạng người đang sống dưới ách của thần ô uế, bị phán xét là tội lỗi, bị Chúa chúc dữ và trừng phạt.

b/. Phần này chúng ta nói về việc anh cùi đến với Chúa Giêsu và cách Chúa chữa lành cho anh ta.

+ Bài Tin mừng thuật lại việc anh đi đến với Chúa Giêsu rất cụ thể: Anh đến bên Chúa Giêsu, quì xuống và van xin: "lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.." Đối với anh cùi, Chúa Giêsu là Đấng có thể chữa lành mọi bệnh tật cho anh, vì anh tin Chúa có sức mạnh chiến thắng thần ô uế. Anh đặt hết niềm tin vào Người. Có thể lâu nay, anh nghe người ta nói về Thầy Giêsu có quyền năng cao cả như thế, và anh chỉ tin vào Thầy Giêsu, không tin vào ai cả, kể cả các tư tế, hay chính gia đình anh nữa. Vì thế, anh không tuân theo qui chế dành cho người cùi, gặp người khác là bỏ chạy còn la "ô uế" nữa. Anh đã lên đường, lên con đường của lòng tin, con đường dẫn đến Đấng chữa lành cho nhân loại, và với lòng tin mạnh mẻ, anh nói: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể....."

+ Phần Chúa Giêsu, Phúc âm nói: "Chúa chạnh lòng thương..." vì Nguời hiểu được tâm trạng của anh cùi, hiểu được lòng tin của anh, nên Người đã chữa cho anh ngay: "Ta muốn, anh hãy được sạch". Chúa không chỉ chữa lành cho anh tật bệnh phần xác, mà chữa lành cho cả tật bệnh tâm hồn. Người chữa cho anh khỏi bị nguyền rủa là ô uế, chữa cho anh khỏi tiếng oan rất nặng nề là bị Chúa trừng phạt, giải thoát cho anh khỏi mặc cảm hèn kém, phục hồi cho anh tình trạng nguyên vẹn là một con người được bình đẳng trong xã hội, cả trong nghi lễ phụng thờ tôn giáo của do thái nữa...

Đó chính là Lời Thiên Chúa có sức chữa lành cho anh. Lời Thiên Chúa muốn anh lành mạnh, muốn anh không yếu đuối, muốn anh sống trong niềm tự tin, không mặc cảm, muốn anh không khuất phục quyền uy của ma quỉ, muốn anh sau khi chữa lành, được phục hồi toàn vẹn "hình ảnh của Thiên Chúa" lúc tạo dựng, nhờ cái chết của Con Chí ái của Ngài...

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Anh cùi trong Tin mừng hôm nay, đã quá đau khổ thể xác, cũng quá đau khổ trong tâm hồn. Chúa Giêsu hiểu anh ta lắm, cả lòng tin của anh ta nữa, nên Chúa đã chữa lành cho anh ta. Phần chúng ta hôm nay, khi yếu đuối, sa ngã, ta có muốn Chúa Giêsu chữa lành tội lỗi của ta, là tật bệnh phần hồn không?

 

76.Lạc quan
Cho đến thời Chúa Giêsu, luật lệ Do thái vẫn rất khắt khe đối với những người phong cùi. Những luật lệ này đã có từ thời ông Môsê được ghi lại trong chương 13 sách Lêvi, qui định rất tỉ mỉ và rõ ràng những trường hợp người bị cùi và cách đối xử với những người ấy. Nghĩa là khi có những triệu chứng bệnh ngoài da, người bệnh phải đến gặp tư tế để khám nghiệm. Nếu là phong cùi thì tư tế sẽ tuyên bố người đó không thanh sạch. Từ đó họ không được ở chung với người lành, không được ở trong làng, nhưng phải sống biệt lập trong hoang địa, không được tham gia bất cứ sinh hoạt nào. Họ không được tới gần người lành, cũng không được để người lành tới gần. Họ phải mặc áo rách, để tóc bù xù, và khi thấy người lành thì phải hô to: “dơ, dơ” để người ta biết mà tránh xa. Nếu họ đụng tới người lành hay người lành đụng tới họ thì người ấy trở thành dơ bẩn và bị khai trừ trong thời gian luật định.

Như vậy, khi đã mắc bệnh cùi là mặc nhiên bị đẩy vào một cái chết dần mòn khủng khiếp. Chẳng những thế, kẻ mắc bệnh cùi còn bị xã hội nguyền rủa và xa lánh. Thân xác tiêu hao, tinh thần băng hoại, đời sống người bệnh không còn gì khác hơn là những tháng ngày rên siết đau thương trong khốn cùng tuyệt vọng.

Hiểu rõ số phận người cùi như vậy, chúng ta sẽ hiểu được trường hợp người cùi trong bài Tin Mừng hôm nay. Một người cùi đến gần Chúa Giêsu và Chúa đã chữa cho người ấy được lành sạch. Như thế, người cùi này đã vượt qua các hàng rào mà luật đặt cho người cùi. Và chính Chúa Giêsu cũng đã vượt qua hàng rào luật định khi Ngài chạm tới người cùi. Nghĩa là với lòng tin mạnh mẽ người cùi đón đường và đến gần Chúa. Còn Chúa, thay vì xa lánh như luật cấm, Ngài giơ tay chạm đến người bệnh. Việc Ngài chạm tới người cùi không làm cho Ngài ra dơ bẩn mà lại làm cho người cùi được lành sạch. Ngài không phạm luật nhưng Ngài làm cho luật nên hoàn hảo.

Thái độ của người cùi này đáng cho chúng ta suy nghĩ. Dù với tâm trạng e dè sợ sệt, anh vẫn tin tưởng kêu xin. Lời cầu xin ấy không phải là một hoài nghi, nhưng diễn tả một niềm tin hoàn toàn phó thác cho tình thương của Chúa Giêsu giữa cảnh cùng đường tuyệt vọng. Trước thái độ tin tưởng khiêm tốn của anh, Chúa Giêsu rất hài lòng, Ngài đặt nhẹ tay trên vai anh và chữa anh lành bệnh bằng một lời đầy âu yếm: “Tôi muốn, anh hãy được sạch”.

Đặt tay hay đụng chạm đến người cùi là một cử chỉ mà lề luật không cho phép và cấm ngặt, vì nó sẽ làm cho con người ra dơ bẩn. Và với quyền năng của mình, không cần đụng chạm vào người cùi, Chúa Giêsu vẫn có thể chữa lành anh ta. Thế nhưng, tình yêu dâng hiến sẽ nhận được tình yêu đáp trả. Tâm tình tin yêu của người cùi đã được Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ yêu thương của Ngài.

Câu truyện người cùi trên đây tuy ngắn gọn, nhưng diễn tả được đậm nét nguyên tắc sống của người Kitô hữu: không bi quan về cuộc sống. Không bao giờ mất tin tưởng, dầu cuộc đời xem ra như chẳng còn lối thoát. Và nhất là không bao giờ được quên tình yêu thương săn sóc của Cha trên trời. Bởi vì chẳng có gì ngăn cản con người tìm đến với tình yêu Thiên Chúa. Dù cho cuộc sống có tăm tối u buồn, quanh ta chẳng còn người cảm thông, thì vẫn còn Chúa Giêsu, Ngài luôn chờ đón và sẵn sàng đáp lời chúng ta. Và chúng ta hãy đến với Ngài để học nơi Ngài cách đáp trả.

Chúng ta đừng bao giờ tự làm cho mình thành người mắc bệnh cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình pháo đài ích kỷ, lập dị… Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử… Chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu dân Do thái xa lánh người cùi. Hoặc chúng ta từ chối tiếp xúc, hợp tác với cá nhân này hay tập thể nọ chỉ vì họ không cùng tín ngưỡng hay không đồng tư tưởng với chúng ta. Nếu sống như vậy là chúng ta tự làm cho mình mắc bệnh cùi và làm cho anh em trở thành người cùi.

Chúng ta đừng bao giờ sống như thế, chúng ta đừng bao giờ tự cô lập mình, đừng bao giờ gây chia rẽ; trái lại, hãy luôn sống cởi mở với mọi người, đối xử với mọi người trong tinh thần yêu thương và hợp tác.

Lạc quan vui sống là đặc tính cơ bản của người Kitô hữu. Chúng ta cần phải lạc quan vì nhận thức được phẩm giá làm người và làm con Chúa của mình. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng mình luôn được Thiên Chúa yêu thương săn sóc. Chúng ta lạc quan vui sống vì biết rằng đàng sau mọi gian nan thử thách của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ. Mỗi ngày có những đau khổ, nhưng cũng lại có niềm vui. Người Kitô chúng ta luôn biết vươn mình trên đau khổ để đón nhận niềm vui được trao ban từ tấm lòng, từ bàn tay, từ nụ cười của Thiên Chúa yêu thương. Một cuộc sống như thế phải là điều bình thường cho những ai biết đặt trọn niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa. Một cuộc sống như thế không những chỉ là nguồn vui cho riêng mình mà còn mang hạnh phúc đến cho gia đình, cho xã hội nữa.

 

77.Lòng từ ái
Trong Kinh Thánh qua các thời kỳ, người ta tin rằng căn bệnh phong hủi rất hay lây nhiễm. Vì lý do đó, những người phong hủi bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Người ta biết đến họ như là những người không thể đụng chạm vào được. Sự hiện hữu của họ quả thật là lạnh lùng, cô độc. Họ phải sống xa cách với mái nhà, gia đình và bạn bè của họ. Họ là những con người đã từng hòa mình trong cuộc sống, thế mà hiện nay, họ không là gì cả. Cuộc đời của họ là một cái chết sống động. Người ta tin rằng họ bị Thiên Chúa nguyền rủa. Người ta cho rằng họ không chỉ là những kẻ bệnh hoạn, mà còn không tinh sạch nữa. Người đàn ông đang tiến lại gần Đức Giêsu chính là loại người đó. Anh ta không được xuất hiện trước công chúng, mà không rung chuông, hoặc không la to lên báo hiệu, để cho mọi người cảnh giác. Anh ta có nguy cơ bị xua đuổi bằng những cục đá. Nhưng anh ta quyết định đi gặp một người, mà anh ta tin rằng sẽ không xua đuổi anh.

Đức Giêsu nhìn thấy người phong hủi đang lại gần, và cho phép anh ta tiến thẳng đến với Người. Liệu Người có đụng chạm vào người phong hủi này không? Nếu Người sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nếu Người không sờ tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nhận thấy tình trạng bi đát của anh ta, Đức Giêsu đã động lòng thương, Người tiến lại gần và sờ vào anh. Đây là một hành động biểu tượng, chắc chắn sẽ gây sốc cho những người xem. (Người ta nhận thấy ở bắc Ailen, thậm chí ngay cả một cái bắt tay đơn giản, cũng có thể gây rắc rối). Khi đụng chạm vào người phong hủi, thì Đức Giêsu đã tự biến mình thành một người không tinh sạch. Hầu hết mọi người trong chúng ta đều e ngại người đau yếu và người nghèo khổ. Chúng ta có thể cho người ăn xin một vài đồng lẻ, nhưng chắc chắn chúng ta không hề có tương quan gì đối với họ. tuy nhiên, chúng ta lại thích được đụng chạm vào. Chúng ta cảm thấy vinh dự, khi được một nhân vật quan trọng nào đó bắt tay, hoặc vỗ vào lưng chúng ta.

Chắc hẳn là sự tiếp xúc về mặt thể lý tạo cho mọi người, đặc biệt là những người đau yếu và bị thương tật, một cảm giác nồng ấm và vui tươi. Chính khi đụng chạm vào người khác, chúng ta cảm nhận được một cách chính xác về người đó. Đức Giêsu đã đụng chạm vào những người phong hủi, tội lỗi, đau yếu và kẻ chết.

Bạn hãy thử tưởng tượng xem người phong hủi cảm thấy sung sướng đến thế nào, khi Đức Giêsu đụng chạm vào người anh ta. Trước hết, anh ta cảm thấy mình là một con người. Thân xác của anh ta đã bị tổn thương sâu xa hơn – do cảm giác rằng mình bị tất cả mọi người, kể ac Thiên Chúa, xua đuổi và bỏ rơi. Bằng cách đụng chạm vào anh ta, Đức Giêsu đã chữa lành tinh thần bị tổn thương của anh ta. Thế rồi người phong hủi nói “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.

Đức Giêsu đáp: “Tất nhiên là tôi muốn”. Và Người đã chữa lành cho anh. Bây giờ, anh được chữa lành cả về thân xác nữa, hoàn toàn được lành lặn.

Nơi người y bác sĩ, lòng từ ái hầu như là một điều quan trọng nhất đối với một bệnh nhân. Khi người ta xuất viện sau một cuộc phẫu thuật hoặc một cơn bệnh, một trong những điều mà người ta luôn phê bình, đó là về cách cư xử của các bác sỹ và y tá.

Đức Giêsu yêu cầu người phong hủi im lặng về việc chữa bệnh của Người. Nhưng người này lại loan báo đi khắp mọi nơi về điều mà Đức Giêsu đã làm cho anh ta. Và anh ta không chỉ nói về sự kiện Đức Giêsu chữa lành cho anh, nhưng anh ta còn nói về tấm lòng từ ái và sự tôn trọng thật đáng kinh ngạc, mà Người đã cư xử với anh.

Đức Giêsu đưa bàn tay đầy yêu thương và chữa lành về phía một người hạ đẳng. Người thách đố chúng ta – những kẻ đi theo Người – trong việc tiếp cận với những con người mà ngày nay xã hội ruồng bỏ: các tù nhân, những người nghiện ma túy, những lữ khách, các nạn nhân Aids…

Những điều mà người ta có thể làm cho người khác thật đáng kinh ngạc. Người ta có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang đến niềm vui sống, thông truyền cảm hứng cho những kế hoạch tương lai, phục hồi lòng tự trọng và tự hào. Thậm chí người ta còn có thể phản ánh một cách lờ mờ về lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa nữa.

 

78.Phong cùi
Như chúng ta đã biết, bệnh phong cùi là một chứng bệnh hiểm nghèo, rất khó chữa trị. Nó làm cho người mắc phải, bị đau đớn nhức nhối, và trở nên hôi thối. Nó gậm nhấm các chi thể, làm cho các chi thể bị băng hoại, chết dần chết mòn và sau cùng bị rơi rụng.

Hơn thế nữa, nó còn là một chứng bệnh rất hay lây, vì thế người ta thường cô lập những kẻ mắc phải chứng bệnh này ở một nơi riêng rẽ, không cho tiếp xúc với thế giới bên ngoài.

Hình ảnh của bệnh phong cùi cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho tội lỗi. Bởi vì tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên xấu xa và hôi thối dưới mắt Thiên Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn chúng ta bị băng hoại và sau cùng giết chết sự sống của Thiên Chúa, sự sống của ơn sủng trong chúng ta. Đồng thời, tội lỗi còn là như một chứng bệnh truyền nhiễm, do gương mù gương xấu của chúng ta mà nó sẽ lây lan sang những người chung quanh.

Thế nhưng có một điều bi đát, đó là đối với những kẻ mắc phải chứng bệnh phong cùi, thì như tôi vừa nói, người ta thường để họ sống biệt lập tại một nơi hoang vắng, hay trong những trại riêng biệt, hầu giới hạn sự lây lan của nó.

Còn tội lỗi thì khác, nó đang ở giữa chúng ta, trà trộn vào trong chúng ta, thế lực và ảnh hưởng của nó mỗi ngày một bành trướng, nó tràn ngập khắp nơi, từ thôn quê cho tới tỉnh thành, không chỗ nào mà không có dấu vết của nó, để rồi con người thời nay đã đánh mất ý thức về nó. Họ coi phạm tội là một chuyện bình thường, như ăn một chén cơm, uống một ly nước.

Riêng với chúng ta thì sao? Sau khi đã nhận biết sự nặng nề và xấu xa của tội lỗi là như thế, chúng ta hãy có lấy một điều dốc quyết và kiên trì thực hiện điều dốc quyết ấy, đó là thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.

Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về vua thánh Louis, ngày kia ngài cùng với một số quan chức đi thăm một trại cùi. Ngài hỏi một viên đại thần. Nếu ngươi được phép chọn lựa: Một là phạm tội trọng hai là mắc chứng bệnh phong cùi thì ngươi sẽ chọn đường nào.

Viên đại thần trả lời: kẻ hạ thần thà phạm một trăm tội trọng chứ chẳng thà mắc phải chứng bệnh ghê tởm ấy.

Thế nhưng nhà vua đã nói với ông ta: Còn trẫm, thà rằng trẫm mắc phải chứng bệnh ghê tởm gấp trăm lần chứ chẳng thà phạm một tội trọng mất lòng Chúa.

Cố gắng xa tránh tội đã đành, còn khi trót phạm tội, chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa, hãy giục lòng thống hối ăn năn, như vua thánh Đavid ngày xưa: Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã vấp phạm đến Chúa, rồi sau đó thi hành ngay phương thế mà Chúa Giêsu đã chỉ cho người phong cùi.

Phương thế ấy như thế nào: Con hãy đi trình diện cùng tư tế. Phải chăng mỗi khi chúng ta phạm tội, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta rằng: Con hãy đi gặp linh mục nơi tòa giải tội.

Bởi vì như chúng ta đã biết, bí tích Giải tội chính là bí tích của lòng thương xót, nhờ đó mà chúng ta sẽ được Chúa tha thứ. Và tòa giải tội chính là nơi để chúng ta gặp gỡ và làm hòa cùng Thiên Chúa.

Có một người khô khan nguội lạnh, tới gặp một vị linh mục và nói: Thưa cha con tội lỗi nặng nề lắm, chỉ có một cách là thắt cổ chết quách đi cho rồi. Vị linh mục dẫn người đó tới chân tượng thánh giá và hỏi:

Ai chịu chết trên đó?

- Thưa, Chúa Giêsu.

Tại sao Ngài lại chịu chết?

- Thưa, để cứu chuộc nhân loại.

Vậy trong nhân loại có con hay không?

- Thưa, có.

Thế là người đó thêm niềm cậy trông, giục lòng ăn năn, xưng thú tội lỗi và tìm lại được sự bình an cho tâm hồn.

Hãy xa tránh tội lỗi để tâm hồn được bình an, đồng thời hãy ăn năn sám hối để lấy lại được tình nghĩa của Chúa.

 

79.Phong cùi
Bệnh phong cùi ngày nay không còn là một chứng bệnh nan y, nếu được chữa trị theo đúng phương pháp. Số người mắc bệnh cùi ở Việt Nam vẫn còn nhiều, khoảng 20.000 người. Họ thường phải sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh. Đa số bệnh nhân bị tật nguyền, không thể mưu sinh. Nói chung, họ luôn thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà ở cũng như thiếu tình thương chăm sóc.

Phần lớn trong họ chưa biết Chúa, nên trước những đau khổ thân xác và tinh thần, họ dễ rơi vào cảnh tuyệt vọng. Đã có những tấm lòng nhân hậu, noi gương Chúa Giêsu, cúi xuống trên nỗi bất hạnh của họ. Chẳng hạn các tu sĩ nam nữ, các giáo dân thiện chí tại những trại phong cùi, rải rắc trên toàn đất nước.

Thế nhưng, trong bối cảnh của xã hội Do Thái cách đây hơn 2000 năm, thì phong cùi quả là một chứng bệnh khủng khiếp. Họ bị đồng hóa với những kẻ bị Thiên Chúa trừng phạt. Kiếp sống của họ thật đáng thương. Họ phải mặc quần áo tả tơi, tóc tai phải bù xù, râu mép phải che lại. Họ bị xua đuổi khỏi cộng đoàn, sống tách biệt trong những nơi hoang vắng và nếu có đi tới đâu, thì phải kêu lớn tiếng: Tôi nhơ bẩn, để người khác nghe thấy mà tránh cho xa. Người mắc bệnh phong cùi như thế bị coi như là một người đã chết ngay khi còn đang sống. Họ chỉ là như một thây ma biết di động mà thôi.

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại câu chuyện một người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu. Anh ta đã làm một điều táo bạo vượt ra ngoài luật lệ cho phép. Điều duy nhất khiến anh ta có can đảm để làm như vậy, đó là lòng tin vào Chúa Giêsu, một người mà anh đã được nghe nói đến. Anh ta không sợ mình làm cho Ngài bị nhơ bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính Ngài sẽ làm cho anh được sạch. Lòng tin này khiến anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài và kêu van:

- Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi nên sạch.

Tất cả ước mơ của anh là được khỏi bệnh, trở nên lành sạch, được làm một con người bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Anh tin là Ngài có thể làm được chuyện lớn lao đó, miễn là Ngài muốn.

Trước tình cảnh bi đát này Chúa Giêsu đã động lòng thương, Ngài đã đưa tay ra đúng vào con người anh ta. Và Ngài trả lại cho anh ta toàn bộ những gì đã mất. Chúa Giêsu không ngại nhơ bẩn, bởi vì Ngài đã để cho lòng thương xót trào dâng.

Đoạn Tin Mừng trên đòi chúng ta phải thay đổi thái độ đối với những kẻ bất hạnh. Nếu hiểu phong cùi là chứng bệnh hiểm nghèo làm cho nên ghê tởm, thì trong xã hội còn biết bao nhiêu thứ phong cùi khác nữa. Chẳng hạn những người nghiện ma túy, những người trộm cắp từng vào tù ra khám, những người mắc bệnh Siđa… Chúng ta dễ có thái độ coi thường và xa tránh. Nhiều khi họ muốn trở nên lành sạch, muốn mọi người quên đi cái dĩ vãng lầm lỡ của họ và làm lại cuộc đời, nhưng chúng ta lại không tin là họ có thể thực hiện được điều ấy. Chúng ta phê phán cái bề dầy của dĩ vãng, chúng ta khinh bỉ và chê trách họ.

Chúa Giêsu đã đưa tay động tới người phong cùi và chữa lành cho anh ta. Ước mong phép lạ Chúa Giêsu ngày xưa được kéo dài bằng thái độ yêu thương và chăm sóc của chúng ta.

 

80.Tông đồ người phong
Có một hòn đảo nằm chơi vơi giữa biển Thái Bình Dương mênh mông, trên đảo chỉ toàn là những người phong: cụt tay, đứt chân, mắt đui, mày lở, răng rụng... Một hôm, Đức giám mục phụ trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các linh mục ở Âu Châu hãy tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một linh mục trẻ, đẹp trai, thông minh, khoẻ mạnh đã hăng hái đáp lời, đó là cha Đa-Miêng, sau này được tặng thêm biệt danh "Tông đồ người phong".

Khi đặt chân đến hòn đảo này, cha Đa-Miêng đã được tiếp đón và giới thiệu như sau: chiều hôm đó, trong ngôi nhà thờ rất đông người phong, đức giám mục đứng trên bàn thờ quay xuống giới thiệu với mọi người: "Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng các con, yêu thương săn sóc các con, thì đây cha Đa-Miêng, một linh mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay cho đến chết, các con có sung sướng không?" Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng cạnh đức giám mục chẳng hiểu họ nói gì. Rồi họ từ từ bước lên cung thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Đa-Miêng thấy họ đến gần mình thì sởn tóc gáy và nổi da gà, trông họ như những thây ma còn sống, như những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây? Họ tiến đến bên cha, người thì sờ vào mặt, người thì sờ vào tay, người thì sờ vào áo cha.. Cha hỏi đức giám mục: "Thưa đưc cha, họ làm gì vậy?" Đức cha trả lời: "Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết thống gì với họ, trẻ trung, đẹp trai, không bệnh tật như họ, tự nhiên lại đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này, họ không tin mắt mình nên họ đến sờ mó vào người cha, xem cha có bị phong như họ không, và họ nói với nhau: "Không, cha đẹp quá, cha không bệnh tật gì cả, cha thương chúng ta quá".

Sống với những người phong ở đây được một thời gian, dần dần Cha Đa-Miêng hòa đồng được với họ, nói tiếng của họ, cha không còn cảm thấy tởm gớm họ như những ngày đầu mới đến, nói đúng hơn, cha đã quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ, nên chẳng còn thấy ghê sợ gớm tởm nữa. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh phong, thân mình lở loét, nhức nhối, mặt mày sần sùi, đen đủi, trông rất dễ sợ. Một số báo ở Bỉ đăng hình cha và kể lại sự hy sinh vĩ đại của cha. Thân mẫu của cha, mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình bà cũng chẳng nhận ra nổi đứa con yêu, bà hỏi đứa cháu: "Hình ai đây mà trông ghê sợ vậy?" cô cháu trả lời: "Một người phong bên đảo Môlôkai của cha Đa-Miêng đấy". Qua mắt được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với người phong trên hòn đảo này cho đến chết, tình yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.

Phong, hủi hay cùi cũng là một thứ bệnh. Đã có lần nào anh chị em gặp một người phong cỡ nặng chưa? Mời anh chị em vào trại phong Di Linh, Quy Hòa, Bến Sắn... anh chị em sẽ thấy một người phong nặng, không còn hình tượng gì là con người nữa, tứ chi rụng hết, mặt mũi sần sùi, thân mình lở loét. Có người đến đây không chịu nổi sự dơ bẩn đã té xỉu vì hôi thối nặng mùi. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng sợ mắc phải chứng bệnh như thế, chúng ta sẽ tránh xa và gìn giữ vệ sinh cẩn thận kẻo mắc thứ bệnh này.

Cũng vậy, bệnh phong đối với xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị kể là dơ bẩn, một loại không thánh nữa, bị cô lập riêng ra một nơi, không được ở chung với dân làng, ngay cả cha mẹ thân nhân cũng không được chứa người đó trong nhà. Một người phong thời Chúa Giêsu là một nạn nhân thật sự bị ruồng bỏ, đi đâu người đó cũng phải lắc chuông loặc kêu lên "dơ, dơ" để mọi người biết mà tránh xa... Đau khổ nhất là bị cộng đồng Do Thái giáo gạt ra ngoài như một loại dứt phép thông công, cho nên, người mắc bệnh phong hết sức đau khổ về tinh thần cũng như thể xác, về của ăn họ chỉ sống nhờ của bố thí.

Nhưng trong câu chuyện Tin Mừng kể lại, chúng ta thấy người phong này đã đi vào xóm làng, chạy theo Chúa Giêsu và xin Ngài cứu chữa. Làm như thế là người này đã vi phạm luật lệ thời đó và có thể bị ném đá chết. Nhưng niềm tin vào Chúa đã khiến anh không sợ hãi để liều mình như thế. Thực vậy, anh đến với Chúa với một niềm tin tuyệt đối, anh khiêm nhường quỳ xuống van xin: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Chúng ta hãy để ý câu anh nói "Nếu Ngài muốn", anh nói như thế không phải là anh hồ nghi gì quyền năng của Chúa, mà ngược lại, anh hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Nói rõ hơn, anh biết rằng Chúa có thể và Chúa có quyền làm cho anh khỏi bệnh, nhưng điều đó còn tùy ý Chúa, tùy lòng thương xót của Chúa. Đây cũng là gương mẫu nhắc nhở chúng ta mỗi khi cầu xin Chúa điều gì: xin vâng, xin tùy ý Chúa, xin tùy lòng thương xót của Chúa.

Đàng khác, người Do Thái hết sức khinh bỉ những người phong, đến nỗi bất cứ ai giao tiếp cách nào với họ, như nói chuyện với họ thôi, cũng bị kể là dơ bẩn và không nên thánh được. Thế mà Chúa Giêsu đã nói chuyện và đụng chạm đến người phong này để chữa lành anh ta thì đủ nói lên lòng thương xót của Chúa như thế nào. Có những phép lạ Chúa chỉ phán một lời hay chỉ làm một cử chỉ nào đó, ở đây Chúa dùng cả hai: Chúa vừa nói "Tôi muốn, anh sạch đi" vừa cầm tay bệnh nhân để nói lên tình thương của Ngài đối với anh ta.

Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: những người phong là những người đáng thương, chúng ta đừng bao giờ sợ hãi mà xa tránh, nhưng hãy thật lòng thăm hỏi và cố gắng chia sẻ, giúp đỡ tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của chúng ta.

 

81.Hàn Mặc Tử
Qua bài viết: “Nhớ Hàn Mặc Tử”, của ông Nguyễn văn Xê, người bạn đồng bệnh sống với anh Nguyễn Trọng Trí, tức nhà thơ Hàn Mặc Tử ở Quy Hòa vào những giây phút cuối cùng, đăng trên cuốn “Hằn Mặc Tử, Thơ và Đời”, do nhà xuất bản Văn Học, tôi mới giải quyết được nỗi thắc mắc. Hàn Mặc Tử bị bệnh phong cùi hành hạ, thân xác vô cùng đau đớn, bị người đời xa tránh, ghê tởm, vậy mà sao thơ của anh lại thanh tao, siêu thoát “bay cho đến cõi thiên đàng”? Cả ý, lẫn lời, cùng với tâm hồn của nhà thơ đã thoát ra khỏi cơn bệnh khổ đau bay lên thật cao.

Câu trả lời đã nằm trong câu thơ: “Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh”, trong bài “Thánh Nữ Đồng Trinh Maria”. “Trí” là Nguyễn Trọng Trí, tên anh. “Miêu duệ” nghĩa là con cháu. Ý nói Hàn Mặc Tử tự nhận mình là con cháu của các thánh. Đúng như vậy! Vì trái tim của anh tràn ngập tình yêu thương. Nguồn suối yêu thương tuôn đổ xuống từ người mẹ, người chị, và Mẹ Juetta. Tất cả thu về một nguồn mạch chính, tình yêu Thiên Chúa qua Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Từ đó, anh tự hào mình là con cháu của các thánh, của tình yêu!

Trần thị Huyền Trang trong bài “Những Người Thân Yêu, Những Vòng Tay Nối Kết” đã viết như sau về người mẹ của Hàn Mặc Tử, bà góa phụ Nguyễn thị Duy: “Căn bệnh nan y của nhà thơ là gánh nặng trên đôi vai già nua của bà. Nhưng người mẹ, trước sau như một, tận tụy thương con, nghe bất cứ nơi nào có thầy thuốc giỏi là không nề xa xôi khổ cực; lẽo đẽo theo con đến tận nơi chữa trị. Bà cố dành cho Hàn mọi nguồn an ủi tinh thần, chăm chút từng sở thích của đứa con bạc phận. Bà tự tay làm cho Hàn món cá bống kho tiêu rim mặn… Khi Hàn quyết định vào bệnh viện phong Quy Hòa… bà khóc lóc sợ xa đứa con yêu quý”.

Theo tâm lý, trong những lúc lâm nguy người ta thường gọi đến mẹ như một trẻ thơ xin cầu cứu. Trường hợp của Hàn Mặc Tử cũng như vậy: “Mẹ ơi, con sắp chết nay mai. Con không sợ chết mẹ ạ. Nhưng nghĩ rằng con sẽ phải rời bỏ mẹ, con đau lòng quá”.

Về chị Nguyễn thị Như Lễ, chị của Hàn Mặc Tử “là người gần gũi Hàn Mặc Tử nhất về tính tình và sở thích. Nếu như mẹ được Tử nhìn qua hình ảnh Đức Bà Maria ở năng lực che chở và đức hy sinh thì chị Lễ… là hiện thân của Đức Bà ở vẻ đẹp sáng trong uyển chuyển…” “Với tình thương rộng lớn và niềm thông cảm sâu sắc, chị đã cố gắng cho Hàn cảm giác dễ chịu và tự do tuyệt đối”. “Chị đã có mặt trong những trang thơ… lặng lẽ và dịu dàng như một vầng trăng, tỏa đầy những luồng sáng thanh khiết và ấm áp”.

Và Mẹ Juetta người Pháp, phụ trách nhà thương Nam bệnh phong cùi ở Quy Hòa, đã săn sóc Hàn Mặc Tử ngay từ khi mới nhập bệnh viện, được ông Xê diễn tả như sau:

“… người bệnh nhân đó như bị tê hai chân nên gắng gượng lắm mới đứng lên được, đầu gối run run bước từng bước một, tay bám vào xe cho khỏi ngã. Mẹ Juetta: “Mau đưa tay cho mẹ đỡ xuống con”. Mẹ nói và bước tới xốc đỡ người bệnh xuống đất một cách nhẹ nhàng. Theo bàn tay dìu đỡ của mẹ Juetta, người bệnh cố đi như lết, đầu cúi xuống… đến giường số 3, mẹ dừng lại: “Trí, đây là chỗ của con”. … Mẹ Juetta bưng đến một tách lớn đầy sữa nóng, và múc từng muỗng cho Trí uống. Trí e ngại nói: “Xin mẹ để con tự bưng uống được”; mẹ lắc đầu nói: “Không được, để mẹ đút cho con uống vì sữa nóng sẽ làm con phỏng tay”. Rồi mẹ sung sướng mỉm cười thấy Trí cố gắng uống cạn ly sữa. Mẹ nói: “Con nằm nghỉ, chút nữa ăn cơm” và Trí lễ phép: “Con cám ơn mẹ”.

Những nguồn mạch yêu thương này đã tạo nên nghị lực mạnh mẽ cho Hàn Mặc Tử tự phấn đấu trong đau khổ và đã chắp đôi cánh cho thơ của anh bay lên trời cao, như chính Hàn Mặc Tử đã tâm sự với anh Xê:

“Trí và tôi thường nói chuyện với nhau và có lần Trí thổ lộ tâm tư đôi chút: Tôi đến Quy Hòa này là nơi có bãi biển, rừng dừa xanh, núi non hùng vĩ, cù lao xanh huyền ảo, đặc biệt là tình người, nên tôi được hưởng cái bình an của nội tâm, cái thanh tao của nguồn vui tưởng như đã chết trong khi ở thôn Tấn đầy đau khổ, nghèo túng, cô đơn, không một ai đến an ủi, săn sóc, dù là người thân quyến”.

Tình yêu cứu chuộc con người. Sự săn sóc đặc biệt của mẹ Juetta đã giải thoát Hàn Mặc Tử, đã giúp cho Hàn Mặc Tử sống giữa sự hôi thối của bệnh phong cùi lại cảm thấy “Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng”. Sống giữa khổ đau lại cảm nghiệm “Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”. Chỉ có tình yêu mới giúp Hàn Mặc Tử chắp cánh đại bàng bay lên khung trời cao rộng từ vực thẳm tăm tối của đau khổ và tuyệt vọng. Qua tình yêu đích thực phản ảnh tấm lòng của Đức Mẹ Maria đối với nhân loại, mẹ Juetta đã chữa lành tâm hồn của Hàn Mặc Tử:

“Lạy bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn,

Giàu nhân đức, giàu muôn lộc từ bi,

Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy

Cơn lâm nguy vừa trải qua dưới thế”.

Mặc dù đau đớn đến run rẩy nhưng lòng vẫn tràn ngập mến thương:

“Run như run hơi thở chạm tơ vàng…

Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”.

Và sau cùng đã giúp anh “bay cho đến cõi thiên đàng” như ông Xê đã chứng kiến tận mắt: “Còn nói đến cử chỉ hành động bộc lộ ra ngoài mà tôi và mọi người thấy rõ ràng nhất là Trí trong những ngày giờ biết mình sắp chết thì rất sốt sắng lo về phần hồn của tôn giáo, nên Trí rất thích nói về Đức Mẹ Maria đầy ơn phước”.

Hôm nay, có hai bài đọc nói về bệnh cùi. Bài đọc thứ nhất trích từ sách Lêvi nói rõ người bị bệnh cùi phải “ở riêng một mình ngoài trại”. Còn bài Phúc âm diễn tả việc Chúa Giêsu giơ tay đặt lên người cùi, tiếp xúc với anh và anh được khỏi bệnh. Trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, bệnh cùi là biểu tượng của tội lỗi. Người Do Thái coi người bị bệnh cùi đã bị phạt bởi Thiên Chúa do tội lỗi của họ. Và sự lây lan của nó giống như sự lan truyền của tội lỗi. Do đó tất cả mọi người bị cấm đụng chạm đến họ. Họ bị tách biệt, cô lập ra khỏi gia đình, cộng đoàn và xã hội. Nhưng Chúa Giêsu, với tình yêu vô biên của Ngài: “Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy”. Ngài phá tan cái hàng rào ngăn cách, cái thành kiến sai lệch của cả ngàn năm. Nhờ đó tâm hồn anh ta đã được chữa lành trước khi bệnh phong cùi thể xác thực sự biến mất.

Quả thực, việc đặt tay hay đụng chạm đến người bệnh cùi phải là một việc khởi sự từ trong tâm hồn, từ con tim phát xuất yêu thương. Ngoài tình yêu ra không có một động lực nào có thể thúc đẩy chúng ta đến gần hay đụng chạm, chưa nói đến việc săn sóc. Một tình yêu lớn lao như Chúa Giêsu đã làm trước tiên, rồi mẹ Juetta ở trại phong Quy Hòa, và các sơ săn sóc các bệnh nhân bị cùi, bệnh AIDS… đã làm theo: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu:. (Jn 15, 13).

Chỉ nhờ tình yêu và ân sủng Thiên Chúa ban, con người mới có thể hành động được những việc phi thường như vậy thôi!

Truyện kể về việc Mẹ Têrêsa Calcutta đang săn sóc một người bệnh đầy thương tích nằm bên vệ đường. Anh hôi thối dơ dáy và bẩn thỉu. Khi mẹ đang lau rửa các vết thương cho anh, có một người khách qua đường trông thấy, cúi xuống nói với Mẹ Têrêsa như sau: “Trả cho tôi một triệu đôla tôi cũng không thể làm được việc này”. Mẹ Têrêsa bèn ngẩng đầu lên trả lời: “Tôi cũng vậy!”

Tiền bạc, của cải, vật chất hay bất cứ sự gì trên thế gian này cũng không thể làm cho người ta có thể hy sinh quên mình mà săn sóc cho các bệnh nhân bị phong cùi lở loét hôi thối được. Nhưng với tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa thì tất cả đều có thể làm được. Quyền năng của Thiên Chúa làm được mọi sự.

Đức Giám mục Fulton Sheen, nhà giảng thuyết trứ danh trên các show TV mỗi đêm thứ tư trong những năm 1955 – 1960. Một đêm ngài kể cho khán giả nghe về chuyến viếng thăm một trại cùi bên Phi Châu. Để làm quà ngài mang theo rất nhiều thánh giá bằng bạc có thể phát cho khoảng 500 bệnh nhân cùi trong trại. Bệnh nhân đầu tiên ngài gặp chỉ còn lại một cánh tay trái. Tay phải và bàn tay được băng bó với những vết thương nhầy nhụa. Đức cha mới cầm một tượng thánh giá, giữ nó cách bàn tay của người cùi chừng 10 cm và thả nó xuống lòng bàn tay của bệnh nhân. Trong một chớp nhoáng, ngài bị đánh động bởi chính việc ngài làm. Ngài nói:

“Thình lình, tôi nhận ra có 501 người cùi trong trại. Và người cùi ghẻ lở nhất là tôi. Tôi đã tặng họ cây thánh giá là biểu tượng tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa cho tất cả chúng ta. Nhưng rồi, tôi đã lấy đi mất cái tình yêu tuyệt đối đó và nhắm mắt lại trước cái ý nghĩa của nó đối với tôi. Tôi không dám nhìn thẳng vào cây thánh giá bé nhỏ. Và sau cùng tôi đã biết tôi phải làm gì. Tôi ấn bàn tay tôi vào bàn tay của những người cùi với một biểu tượng của tình yêu giữa chúng ta. Và rồi tôi đã làm y như thế cho 499 người bệnh cùi còn lại”.

Bao lâu chúng ta còn cảm thấy ghê tởm, sợ sệt và e dè là còn có ngăn cách. Còn ngăn cách là chưa có ân sủng và tình yêu đích thực. Mà không có tình yêu đích thực thì không thể nào làm cho một bệnh nhân phong cùi cảm thấy: “Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng” được! Huống chi là giúp cho họ cảm nghiệm: “Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng”!

 

82.Sự chấp nhận
Chắc hẳn rằng bệnh phong hủi là một căn bệnh khủng khiếp, nhưng không khủng khiếp bằng cảm giác không được yêu thương, không ai mong muốn mình bị ruồng bỏ. Một trong những điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho một con người, đó là bị xua đuổi. Sự xua đuổi gây tổn thương cho bất cứ cảm xúc hoặc tâm trạng nào khác. Điều này làm tổn hại đến giá trị bản thân, khiến cho người ta cảm thấy mình vô giá trị. Sự xua đuổi còn làm cho người ta muốn co rút lại hoặc công khai nổi loạn. Trong một bộ lạc ở Châu Phi, có một hình phạt chủ yếu là tẩy chay.

Sự xua đuổi gây tác hại đối với trẻ con, người lớn tuổi, người tật nguyền… Đối với một đứa trẻ, tình trạng bị cha mẹ bỏ rơi tương đương với cái chết. Người lớn tuổi sợ hãi bị bỏ rơi, còn hơn là tất cả những bệnh tật của họ. Những vết thương nặng nề nhất gây ra cho người bị tật nguyền, không phải là do những hạn chế của họ về mặt thể lý hoặc tâm lý, nhưng là do tình trạng bị bỏ rơi mà họ đã từng trải qua. Những người làm công việc sáng tạo (các nhà văn, nghệ sĩ v.v…) đều là những người nhạy cảm, dễ cảm thấy đau khổ, bất chấp những thành công mà họ đã đạt được. về một phương diện nào đó, mỗi người chúng ta đều đã từng cảm thấy nỗi đau bị khước từ.

Có những cách để tự cô lập mình khỏi tình trạng bị khước từ – phiêu lưu đôi chút, không muốn (không cần) gì cả, tránh né các mối quan hệ. Dường như tốt hơn là nên xây dựng những bức tường, và tránh né các mối quan hệ, hơn là liều mình chịu đau khổ vì bị khước từ. Nhưng điều này cũng giống như việc cưa chân đi, để khỏi cần phải mang giày.

Người đàn ông tiến lại gần Đức Giêsu là một người đã bị ruồng bỏ. Vì là một người phong hủi, nên anh ta bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Thậm chí người ta còn không được đụng chạm vào anh ta. Vào thời kỳ đó, bệnh tật bị coi như một sự trừng phạt vì tội lỗi. Do đó, người ta coi người phong hủi cũng bị cả Thiên Chúa ruồng bỏ. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người phong hủi không phải là căn bệnh phong hủi, nhưng chính là nỗi đau bị tất cả mọi người ruồng bỏ.

Khi chúng ta khước từ người nào, là chúng ta đang thực sự cư xử với họ giống như những “người phong hủi”, mặc dù chúng ta không ý thức về điều đó. Chúng ta có thể khước từ một người, theo những cách thế nhỏ bé nhưng tinh tế – bằng một giọng nói hoặc thậ chí chỉ bằng một cái nhìn của chúng ta. Nhưng những chuyện khó chịu nhỏ nhặt do bị khước từ, lại có thể tích lũy thành những hậu quả trầm trọng lâu dài.

Điều thú vị không phải là việc Đức Kitô chữa lành người phong hủi, nhưng là cách Người chữa lành cho anh ta. Vì bị tất cả mọi người loại trừ và ruồng bỏ, nên những kẻ phong hủi bắt buộc phải rung chuông báo hiệu mọi người, mỗi khi người đó ra đường; không một ai muốn đến gần họ, vì sợ bị lây nhiễm, và bị qui cho là không tinh sạch.

Nhưng Đức Giêsu lại bỏ qua tất cả điều này. Người đã động lòng thương, khi nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của người phong hủi. Đức Giêsu cho phép người đó đến gần Người. Thật ra Người đã làm một điều mà không ai ngờ: Người tiến lại gần và đụng chạm vào anh ta. Bằng cách đó, Người đem đến cho anh một dấu hiệu đón tiếp, và chấn chỉnh nơi anh ta ý tưởng rằng mình là người dơ bẩn, không xứng đáng, và không là gì cả, mà chỉ là một hạng người thừa. Trước khi chữa lành cho thân xác tan nát của anh, Người đã chữa lành sự nhận thức đầy mặc cảm nơi anh.

Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi đúng theo con người của anh. Sự chấp nhận là một câu trả lời cho sự khước từ. Đây là một trong những điều thân ái nhất có thể xảy ra cho chúng ta. Khi chấp nhận, chúng ta có cảm giác rằng con người mình có giá trị.

Mỗi người chúng ta đều khát khao được chấp nhận con người của mình. Chính sự quí mến và chấp nhận của người khác, làm cho chúng ta được là con người duy nhất theo đúng bản chất của mình. Khi chúng ta cho rằng mình làm việc chỉ vì công việc, rằng người khác cũng có thể làm cùng một công việc đó, thậm chí còn tốt đẹp hơn chúng ta, thì chúng ta không phải là con người duy nhất. Nhưng khi chúng ta chấp nhận con người của mình, thì chúng ta có khả năng nhận ra được đầy đủ tiềm năng nơi bản thân mình.

Đây là cách Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi, và chấp nhận chúng ta. Và đến lượt mình, đây cũng là cách thế mà chúng ta phải học hỏi, để biết chấp nhận người khác, và tiếp cận với những người đang phải chịu đựng nỗi đau khổ tình trạng bị khước từ. Đến lượt mình, chúng ta phải có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.

 

83.Chúa Nhật 6 Thường Niên.
Anh chị em thân mến.

Chúng ta biết câu chuyện nàng công chúa lọ lem.

Một cô gái hiền từ xinh đẹp, siêng năng cần mẫn trong công việc, nhưng lại phải sống trong một hoàn cảnh thật éo le. Những người chung quanh không thông cảm cũng không nhìn thấy những cực khổ mà nàng phải chịu, lại còn tìm cách làm cho nàng phải vất vả thêm.

Có dịp lễ hội nàng ước mong đi tham dự, nhưng khó quá. Nàng không biết làm sao cho công việc được kết thúc sớm, cũng không biết làm sao có bộ áo đẹp để dự lễ hội như những thiếu nữ cùng trang lứa khác. Điều nàng muốn đã được thực hiện; công việc được kết thúc và áo đẹp cũng được mang đến cho nàng. Nhưng dự lễ hội nàng phải lo về sớm trước giờ quy định. Trong lúc vội vàng trở về, nàng đánh rơi chiếc giầy của mình.

Ở hiền gặp lành, điều nàng mong muốn thoát khỏi cảnh cơ cực đã được thực hiện. Vị hoàng tử đã cho nàng thoát cảnh lọ lem, cho nàng một địa vị mới. Nàng đã hoàn toàn thay da đỗi thịt. Từ nay nàng không còn phải cực khổ, không còn phải lam lủ, nàng đã được hoà nhập với mọi người, được mọi người biết đến và yêu thương. Nàng đã cố gắng và được giúp đở để nàng đạt được những gì mình mong muốn.

Nếu Ngài muốn, Ngài cho tôi nên sạch.

Lời van xin thống thiết nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào Đấng mà anh ta van xin. Người cùi thốt lên được lời van xin nầy vì anh ta nhận ra được tình trạng hiện tại của mình, anh ta cảm nhận được tất cả nỗi thống khổ mà mình đang mang. Anh ta mong muốn thoát khỏi nó: anh muốn thoát khỏi những đau đớn của thể xác lẫn tinh thần, anh muốn thoát khỏi nỗi cô đơn để có thể hoà nhập được với cộng đoàn. Anh càng mong muốn hơn cho mình được trở nên tinh sạch như mọi người, bản thân anh cũng không chấp nhận được tình trạng hiện tại của chính mình. Ước muốn và hành động để thực hiện ước muốn. Anh vượt qua mọi trở ngại và đến với Chúa Giêsu, anh vượt trở ngại của đám đông, trở ngại của căn bệnh, trở ngại của sự e dè trước những luật lệ của xã hội.

Chúa Giêsu nhìn thấy anh cùng với nỗi niềm ước mơ chân thành. Ngài ban cho anh những gì cần thiết để anh được tinh sạch, trở về cuộc sống đời thường. "Ta muốn, anh hãy trở nên sạch".

Thiên Chúa cũng muốn cho hết mọi người như thế. Ngài cũng nói với mỗi người chúng ta như thế: "Ta muốn, con hãy trở nên sạch".

Nhưng những gì Thiên Chúa muốn, có phải là những gì mà mỗi người đang muốn? Hay những gì Ngài muốn, mà đành phải chờ đợi vì không thấy con người đến với Ngài để Ngài thực hiện ý muốn.

Mỗi người trong chúng ta, để một chút thinh lặng, nhìn vào tình trạng hiện tại của chính mình. Mỗi người đang mang một căn bệnh của thời đại, căn bệnh truyền nhiễm mà không ai có thể đến gần được, căn bệnh làm cho con người của mình chết dần chết mòn theo năm tháng, căn bệnh làm cho chúng ta không thể hoà nhập được với mọi người. Cũng chính căn bệnh đó làm cho con người trở nên cô đơn tuyệt vọng. Nhưng chúng ta có nhìn thấy, có nhận ra tình trạng hiện tại của mình không? Chúng ta có muốn thoát khỏi nó để tìm mọi phương cách, cố gắng như nàng công chúa lọ lem. Nếu chúng ta biết cố gắng, muốn thoát khỏi những đau khổ của hiện tại mà biết tìm đến với Chúa, cầu xin và vâng thheo thánh ý Chúa. Nếu mỗi người biết thực hiện ý muốn ngay lành của mình, mà đến trước mặt Chúa với lòng chân thành, thì tình trạng hiện tại của chúng ta có lẽ khá hơn bây giờ nhiều lắm.

Mỗi người đang bằng lòng với những gì của hiện tại và không muốn bỏ đi những gì mình đang có. Chúng ta không muốn cho mình sạch hơn, mới hơn, cũng không muốn đến với Chúa. Còn việc hoà nhập với mọi người, không cần thiết, vì bản thân của mình tự rời xa mọi người, để không còn phải nghe những lời nói mà mình không thích. Chúng ta cũng không muốn nghe lời nói của Chúa Giêsu: "Ta muốn con hãy trở nên sạch". Nếu như thế thì làm sao Thiên Chúa có thể làm gì được cho chúng ta.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết nhận ra tình trạng hiện tại của chính mình, biết năng đến với Chúa để Ngài làm cho chúng ta được trở nên sạch.

 

84.Hãy làm lại lần nữa.
Trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô viết: Hãy cẩn thận, xem xét cách sống của mình, đừng sống như kẻ dại khờ, nhưng hãy sống như kẻ khôn ngoan, biết tận dụng mọi thời giờ... vì thế anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa (Ep 5,14.15).

Có thể nói, rất nhiều người coi ý Chúa giống như một điều nặng ngàn cân sắp sửa rơi vào họ. Nhưng thật sự mà nói từ ngữ “ý Chúa” đã được chuyển dịch từ tiếng Do thái và Hy lạp. Ý nghĩa của nó chính là sự mong mỏi, ước ao, mong chờ tình yêu nơi người khác. Không phải chỉ trong tâm trí, hoặc trong trái tim những phải là toàn thể con người. Sự mong đợi này đem đến cho chúng ta nhận thấy sự sâu thẳm chờ đợi của Chúa đối với chúng ta. Nhờ thế, chúng ta lãnh nhận Thánh ý Chúa với tất cả tấm lòng của chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Hãy thấm nhuần Thần Khí, cùng nhau đối đáp những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và Thánh Ca do Thần Khí linh ứng: hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:19). Nơi khác Thánh Phaolô viết, “Hãy mặc lấy Đức ái, đó là mối dây liên kết tuyệt hảo... và hãy hát dâng Thiên Chúa, những bài Thánh Vịnh, Thánh Thi và Thánh Ca do Thần Khí linh ứng với tất cả tâm hồn” (Cl 3:14,16).

Khi chúng ta mong đợi để thánh ý Chúa thể hiện nơi chúng ta, chúng ta cảm nhận thấy cuộc sống của mình mang nhiều ý nghĩa và không ngừng hát những bài Thánh Ca. Chúng ta sẽ lãnh nhận những sự thúc đẩy mãnh liệt mỗi khi Chúa hành động. Chúng ta là những tín hữu, là Giáo Hội luôn dâng lên Chúa không ngừng những bài Thánh Ca để ca tôn danh Ngài.

Nhưng làm cách nào để chúng ta hát những bài Thánh Ca đó? Giống như nhà viết nhạc luôn mong muốn những người ca trưởng và những ca viên trình diễn những ca khúc của họ theo ý mình. Có rất nhiều điệu nhạc để trình diễn: như “adagio” có nghĩa là chậm; “allegro” có nghĩa là “nhanh, vui tươi” và “con brio” có nghĩa là “hoạt bát, hứng khởi.” Đó chính là cuộc sống mà Chúa Kitô kêu mời chúng ta. Chúng ta phải đáp ứng cách hăng say khi Chúa Kitô mời gọi chúng ta trong cuộc sống mới.

Cuộc sống phấn khởi của chúng ta sống động được đặt nền tảng trong chân lý Phúc Âm. Sức mạnh đó không đến với chúng ta do “quyền bính chính phủ” hoặc từ những vị lãnh tụ quốc gia, các nhà độc tài, hoặc do chính nơi con người tự mãn của mình. Nhưng sức mạnh tuyệt đối đó do chính Thiên Chúa ban cho chúng ta. Ngài là Đấng tác tạo chúng ta. Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi tối tăm. Đấng đã nhận chúng ta là những con cái của Ngài và được Ngài chúc phúc. Chúa Kitô cũng không lìa bỏ chúng ta, Ngài nói: “Ta ở với các con! Hãy nhận lấy sự sống và sống thật tốt lành.”

Một hình ảnh thực tiễn nhất là khi chúng ta thẩy một em bé lên cao, rồi chúng ta chụp được nó. Em bé rất là thích và la to rằng “làm nữa đi” và nếu chúng ta tiếp tục làm như vậy, chúng ta sẽ luôn nghe được em bé kêu lên giống như những lần trước.

Đối với Thiên Chúa cũng không khác hơn. Khi Ngài tạo một bông hoa đẹp, nó cũng kêu lên như vậy và Ngài đã tạo dựng nên muôn vàn bông hoa tuyệt đẹp. Ngài không ngừng tạo nên chúng. Để nhận thức được ơn cứu rỗi, nhận biết mình được cứu chuộc, và trở nên một tạo vật hoàn ý của Thiên Chúa, chúng ta phải trở nên giống như Ngài. Là một Kitô hữu, chúng ta được biến đổi trở nên những người không cảm thấy chán nản, vô tri, tăm tối do những phát triển của thế giới ngày nay.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, người phong cùi quỳ xuống trước Chúa Giêsu với tất cả lòng tin của ông và nói: “Ngài có thể chữa tôi lành bệnh,” ông ta nói tiếp: “Nếu Ngài thực hiện, tôi sẽ khỏi.” Chúa Giêsu đặt tay trên người đó và nói: “Ta sẽ làm. Hãy chỗi dậy”. Ngay tức thì, người phong cùi được lành bệnh. Sự chữa lành bệnh này có ý nghĩa là từ nay người phong cùi không còn sống trong sự khinh chê. Ông đã được giải thoát khỏi gánh nặng thể xác. Chính vì vậy ông đã không ngừng ca tụng và loan truyền cho mọi người biết về quyền năng của Chúa Giêsu.

Hầu hết những ai cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong tâm hồn của mình. Họ đều thay đổi cách sống của họ. Như Thánh Phêrô, Anrê, Giacôbê, Gioan; Maria, Mattha, người đàn bà xứ Samarita; người đàn bà ngoại tình, người mù v. v... khi Chúa Giêsu đi vào cuộc sống của họ, họ được sống với Chúa. Họ cảm nhận được sự mới mẻ nơi Thiên Chúa là Đấng tạo thành mọi vật. Và Ngài vẫn không ngừng công việc đó; vì thế, họ đã thay đổi cách sống trong cuộc sống của họ.

Trong Phúc Âm hôm nay, những người theo Chúa Kitô là những người luôn vui vẻ, hoạt bát, vui tươi ngay cả những lúc gặp khó khăn. Sách Tông Đồ Công Vụ viết: “Hồi ấy, Hội Thánh tại Giêsusalem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội... Ông Saolô thì phá hoại Hội Thánh. Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục. Những người không bị bắt phải tản mác khắp nơi loan báo lời Chúa. Ông Philípphê xuống một thành miền Samari và rao giảng Đức Kitô cho dân ở đó. Dân chúng một lòng lắng nghe những điều ông Philípphê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm... Trong thành, người ta rất vui mừng (Cv 8:1,3-8).

Chúa Giêsu nói với các môn rằng, “Như Cha đã thương yêu Ta, Ta cũng yêu thương các con... Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn. Rồi Ngài dậy họ làm thế nào để niềm vui của họ được trọn vẹn: “Hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,9.11-12).

Cho dù bất cứ vì lý do gì, chúng ta sống trong cộng đoàn, chúng ta làm tất cả để thoả lòng khao khát Thiên Chúa. Khi chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa trong tâm hồn, chúng ta vui mừng, phấn khởi trong cuộc lữ hành Kitô hữu. Khi chúng ta thoát khỏi con người ích kỷ, chúng ta phục vụ tha nhân thì lúc đó chúng ta càng nhận được sự Chúa hiện diện trong chúng ta. Và chúng ta đáp lại cách nhiệt tình đối với tình yêu của Thiên Chúa, Đấng luôn không ngừng tác tạo mọi vật, không phải chỉ những bông hoa nhỏ dại, nhưng là những con người hạnh phúc.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con biết phụng thờ Chúa trong vui tươi.

 

85. “Tôi muốn, anh sạch đi!”
Vài hàng sơ lược

Trong đoạn Phúc Âm này chúng ta nghe Mác-cô kể lại câu chuyện người bị bệnh phong xin Chúa Giêsu chữa lành. Trước khi đi vào đoạn Phúc Âm, chúng ta hãy trở về với bối cảnh xã hội Do-thái, để hiểu được tình trạng và hoàn cảnh của người bị bệnh Phong thời đó. Theo Cha Cantalamesse thì sách Lêvi dạy rằng, người nào bị nghi mắc bệnh phong, phải được đưa tới một vị tư tế, vị này, sau khi khám xét, “tuyên bố người đó là dơ.” Để làm cho những sự việc ra xấu hơn, người phong đáng thương hại, bị loại khỏi tình bạn con người, chính người bịnh phải làm cho kẻ khác tránh xa mình, bằng cách báo cho họ biết sự nguy hiểm: “Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “Ô uế! Ô uế! “Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.” (Lv 13, 45-46)

Về điều này, Rudolf Pesch giải thích rằng: “Những người bị bệnh Phong được coi là kẻ bị ô uế, những người đáng chết. Họ phải xa lìa với xã hội, phải tự động cách ly với xã hội. Dù luật lệ trong Thánh Kinh có nghiêm ngặt, nhưng sự cách ly người Phong ra khỏi xã hội không được làm triệt đở ở khắp mọi nơi công cộng. Người bệnh Phong không được bước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng trong các làng mạc, họ không bị cách ly hoàn toàn. Với những điều kiện đòi hỏi nhất định, hình như người ta cũng có thể để cho người bị bệnh Phong bước vào đền thờ. Dù thế nào, thì người bệnh Phong vẫn bị coi là những người bị Thiên Chúa xa cách.

Như vậy ai có thể chữa cho người bị bệnh Phong? Theo Adolf Pohl thì: “Việc chữa lành khỏi bệnh Phong được coi như là sự Phục Sinh từ cõi chết. Và người ta chỉ có thể chờ mong Thiên Chúa làm điều đó. Khi Vua dân Ít-ra-en, trong sách thứ 2 các Vua 5,7, nhận lệnh chữa lành cho người bị bệnh Phong, thì ông đã thốt lên rằng: “Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi?”

Ngoài ra, nói chung chung về bệnh Phong, theo Cha Cantalamesse thì “hai nhân tố lạ lùng đã góp phần gia tăng sự ghê tởm trước bệnh phong, đến nỗi biến nó thành biểu tượng của sự bất hạnh nhất có thể giáng xuống một con người, và cô lập những nạn nhân vô phúc tội nghiệp trong những con đường vô nhân đạo nhất.

Nhân tố thứ nhất là sự xác tín rằng, cơn bệnh này lây lan đến nỗi làm nhiễm độc bất cứ ai có thể đã tiếp xúc với người bệnh; nhân tố thứ hai, cũng không có cơ sở, vì bệnh phong là hình phạt vì tội lỗi.

Nhân vật đã góp phần hơn hết thay đổi thái độ và luật pháp đối với những người bệnh phong là Raoul Follereau (1903-1977). Trong năm 1954 ông đã thiết lập Ngày Thế Giới Bệnh Phong cổ võ những đại hội khoa học và cuối cùng, trong năm 1975 đã thành công để luật pháp thu hồi sự kỳ thị những người bệnh phong. Ngoài ra, có một câu chuyện rất cảm động về tấm lòng của ông Raoul giành cho người Phong: “Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái cùi và đưa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến cô gái bỡ ngỡ. Nhưng lạ thay, cô gái lại không chịu chìa tay ra đáp lễ. Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc bèn giải thích: Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân bắt tay khách. Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt tay khách, nhưng đâu cấm khách hôn bệnh nhân phải không? Vừa nói, ông Raoul vừa tiến đến ôm hôn cô gái cùi. Mọi người sững sờ. Trong phút chốc cả đám người cùi nhào đến bên ông. Và một tiếng thốt lên trong nghẹn ngào: Hôm nay, tôi cảm thấy chúng tôi là người.”

Trở về với đoạn Phúc Âm, chúng ta có thể phân ra như sau: câu 40: Cuộc gặp gỡ giữa người Phong với Giêsu, và người bị Phong mở lời xin được chữa lành. Câu 41: Giêsu chữa lành. Câu 42: Anh bị bệnh Phong được sạch. Câu 43-44: cấm không được loan truyền tin chữa lành, mà chỉ đến trình diện các tư tế. Câu 45: Dù bị cấm nhưng người khỏi bệnh vẫn lên đường loan báo tin vui.

Suy niệm

- Câu 40 kể là có một người bị bệnh Phong đến gặp Giêsu. Người bị bệnh Phong trong đôi mắt của người Do-thái, là người có tội với Thiên Chúa, đời sống của họ xa cách Thiên Chúa. Ở đây Adolf Pohl như đặt mình vào trong thân phận của người Phong và tự nói với mình rằng: “Tôi không hợp với Chúa. Tôi không xứng đáng có tương quan với Chúa.... Tôi không phải là con cái của Chúa, mà là con cái của thế gian. Tôi chỉ được “trang điểm” bởi một “lớp phấn Kitô hữu” rất mỏng. Trong cộng đoàn tốt lành kia, tôi là một cái xác lạ lẫm. Tôi không còn thật nữa: “Chẳng lẽ người phàm công chính trước Thiên Chúa? “Chẳng lẽ con người lại thanh sạch trước Đấng dựng nên mình?” (Gióp 4, 17)

Chính người Phong hủi đó hôm nay lại đến với Giêsu. Trong khi mọi người đều xa lánh anh ta, nếu anh ta xuất hiện trên đường. Vâng, chỉ có Giêsu thì không chạy trốn, chỉ có Giêsu ở lại và để cho anh ta đến với mình. Cha Cantalamesse giải thích rằng: “Chúa Giêsu không sợ lây, Người để kẻ phong đến với Người và quì trước mặt Người. Còn hơn điều đó: trong một thời đại khi người ta tưởng rằng chỉ sự ở gần người bệnh phong là đã lây nhiễm rồi, Người giơ tay và đụng vào anh.” Chúng ta đừng tưởng tất cả sự này là tự nhiên và không bắt Chúa Giêsu trả giá nào. Là con người, Chúa chia sẻ trong sự này, như trong nhiều điểm khác, những xác tín của thời đại Người và của xã hội Người đương sống. Nhưng sự thương cảm của Người đối với người bệnh thì mạnh trong Người hơn là sự sợ bệnh phong”

Khi đến gần Giêsu, người Phong quỳ xuống dưới chân Chúa và mở lời van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Thái độ quỳ xuống dưới chân ở đây đúng là thái độ kêu xin khẩn nài. Chúng ta có thể thấy ở đoạn khác: “Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người” (Mc 5, 22) hay “Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người.” (Mc 7, 26). Thái độ của anh bạn Phong không chỉ nói lên lời khẩn nài kêu xin, mà theo Rudolf Pesch và Adolf Pohl, thì còn nói lên niềm tin tưởng của anh vào Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta thấy rằng, anh đã nói: “Nếu Ngài muốn”, chứ không nói như người cha có con bị bệnh câm: “Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì...” (Mc 9, 22). Tâm tình của anh bạn bị Phong hàm chứa một niềm tin chắc chắn vào Đấng yêu thương và quyền năng. Phải chăng anh ta tin rằng, Đấng có lần nói với mình: “Con là con yếu dấu của Cha”, sẽ không bao giờ bỏ rơi anh, chính Ngài sẽ giải thoát và cứu chữa anh? Phải chăng, với thái độ và lời nói của mình, anh muốn cầu nguyện với Chúa rằng: “Lạy Chúa! Xin thương xót con, con không giấu Chúa những vết thương của con, Chúa là bác sĩ, con là bệnh nhân; Chúa đầy lòng thương xót, con thì khốn khổ” (“Confessions,” X,39).

Ngoài ra, Adolf Pohl còn chú ý một điều nữa, là anh bị bệnh Phong trong câu nói kia, đã nhắc đến hai từ “Ngài” và chỉ có một từ: “tôi”. Chúng ta thấy qua lời xin trên đụng tới quyền năng của Giêsu. Ở đây theo Rudolf Pesch thì quyền năng của Giêsu là quyền năng của Thiên Chúa. Vâng, Giêsu có muốn sử dụng quyền năng của mình để cứu chữa người bất hạnh kia không? Với tâm tình của sách Khôn Ngoan 11, 23: “Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự”, chúng ta tiếp tục chiêm ngắm thái độ của Giêsu.

- “Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” (câu 41) Lời kêu xin của ang bị bệnh Phong thúc đẩy Giêsu mạnh đế nỗi, Giêsu đã tỏ ra bốn hành động liên tiếp. Ở đây chúng ta chú ý đến 4 động từ: (1) Người “chạnh lòng thương”. Theo Adolf Pohl thì các tác giả nhất lãm không bao giờ dùng từ chạnh lòng thương này để chỉ về sự thương hại, sự tội nghiệp cho bất cứ con người nào. Từ “chạnh lòng thương” như diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa. Cho nên ở đây không ám chỉ đến cảm giác tội nghiệp của Giêsu, mà diễn tả thực sự thiên tính của Ngài - một Thiên Chúa là tình yêu. Vâng, với ĐTC Biển Đức, thì trong câu chuyện này “Chúa Kitô là “bác sĩ” chân thật của nhân loại, là Đấng Chúa Cha từ trời đã sai xuống thế gian hầu chữa lành con người, bị đánh dấu trong thân xác và tinh thần bởi sự tội và các hậu quả sự tội....Tin Mừng Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta Chúa Giêsu Đấng, lúc bắt đầu thừa tác vụ công khai của Người, hoàn toàn hiến mình để rao giảng và chữa lành người bệnh trong những làng xứ Galilêa. Những dấu lạ vô kể Người thực hiện cho người bệnh xác nhận “tin mừng” Nước Chúa. Tin Mừng hôm nay tường thuật sự chữa lành một người phong và diễn tả với hiệu quả lớn cường độ tương quan giữa Thiên Chúa và con người, tóm tắt trong một cuộc đối thoại kỳ lạ: Người phong nói “nếu ngài muốn, ngài có thể chữa tôi được sạch”, Chúa Giêsu trả lời “Tôi muốn, anh hãy sạch”, tay Người đụng vào mình anh và giải cứu anh khỏi bệnh phong (Mc 1, 40-42).” Hành động thứ hai (2) Người “giơ tay”. Theo Rudolf Pesch thì hành động này biểu tượng cho sức mạnh và động từ (3) “đụng” vào anh là biểu tượng cho việc truyền sức mạnh của Chúa Giêsu lên trên người bị bệnh Phong. Vâng, sức mạnh của tình yêu, sức mạnh đem lại sự chữa lành. Chúng ta cũng có thể nhớ lại hình ảnh Giêsu đối với nhạc mẫu của Phê-rô: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.” (Mc 1,31). Ngoài ra, về hành động (2) và (3) này ĐTC diễn tả rất hay: “Cử chỉ này của Chúa Giêsu, Đấng giơ tay và động tới thân mình đầy vết thương của kẻ kêu xin Người, bày tỏ rõ ràng ý muốn Thiên Chúa chữa lành tạo vật sa ngã của Người, Chúa Kitô là “tay” Thiên Chúa giang ra cho nhân loại hầu nhân loại có thể được giải thoát khỏi những đống cát di chuyển bệnh tật và sự chết, hầu trỗi dậy bằng cách dựa vào tảng đá vững chắc của tình yêu thần linh (x. Tv 39, 2-3).”

Tiếp theo ba hành động kia là lời nói (4)”Tôi muốn, anh sạch đi! “ Đây là lời có sức chữa lành. Lời có sức chữa lành này Chúa Giêsu cũng lên tiếng với con gái ông Gia-ai: “Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “ (Mc 5, 41) hay Chúa Giêsu đã thốt lên “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra” để chữa lành cho người vừa điếc vừa ngọng.(ss. Mc 7, 34).

- Sau 4 hành động của Chúa Giêsu, thì điều gì đã xảy ra? “Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch” (câu 42) Điều xảy ra đúng như ĐTC vừa nói ở trên, là phục hồi sự sống cho anh bị bệnh Phong “cách dồi dào” (Ga 10,10), sự sống trọn vẹn, hạnh phúc, đời đời. Cụ thể hơn, chúng ta để ý tới từ “lập tức”. Từ này diễn tả sống động quyền năng và sức mạnh của Giêsu. Ngoài ra, động từ “biến” thuộc về bản chất của ma quỷ, chúng nhập vào và rồi lại biến đi. Tuy vậy, câu chuyện chữa lành anh bị Phong đây không thể so sánh được với những câu chuyện Chúa xua đuổi ma quỷ. Vâng, giờ đây anh được sạch rồi. Một tin vui thật lớn!

- Tin vui này có được phép loan truyền rộng rãi ra không? 43 Nhưng Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay,44 và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.”(câu 43 và 44)

Nếu anh mới được chữa lành khỏi bệnh Phong không được phép nói với bất cứ ai về việc Giêsu chữa cho mình, thì không đúng, vì theo câu 44 anh phải đi trình diện nơi các tư tế, để họ chứng thực anh được khỏi bệnh, như anh mù trong phúc âm Gioan. (ss. 9, 1-41) Vâng, anh thanh niên đã được thanh sạch khỏi bệnh Phong cần được xã hội đón nhận, cần có được một chỗ đứng hẳn hoi. Tương quan với Chúa và tương quan với người khác luôn đi đôi với nhau. Sau khi trình diện nơi các tư tế xong theo như luật Môi-sê (Lê-vi 14, 1-9), thì anh cần phải dâng lễ vật như Mô-sê đã truyền (ss. Lê-vi 14, 10 và 21tt). Và như vậy người ta sẽ biết về sự thanh sạch của anh. “Người ta” ở đây chỉ số nhiều, theo Adolf Pohl nghĩa là những tư tế ở Ga-li-lê-a mà anh ta trình diện, và những tư tế ở Giê-ru-sa-lem nơi anh ta dâng của lễ.

Như vậy phải hiểu làm sao điều Chúa Giêsu ngăn cấm? Theo Pesch thì anh không nên nói về việc anh được chữa lành, mà qua chính sự trình diện và nghi thức dâng của lễ theo luật Mô-sê, anh sẽ được chứng thực khỏi bệnh. Ngoài ra, theo các nhà chú giải, thì vì Chúa Giêsu còn phải thi hành sứ mạng của Ngài. Nếu danh tánh của Ngài mà bị rao truyền khắp nơi, có thể Ngài bị cản trở không tự do đi lại được nữa, và qua đó ảnh hưởng đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Ngài. Chúng ta có thể thấy được hậu quả về điều này, khi đọc câu 45. Sau khi anh ta tung tin ra, thì Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được nữa. Mặt khác, sự nghiêm cấm này liên quan đến chính thân phận của Chúa Giêsu: Trong Ngài chính Đấng Tạo Dựng và công trình cứu rỗi đang hiện diện. Vâng, Giêsu không phải là một tiên tri, mà là một Tiên Tri trọn hảo. Ngài là Con Thiên Chúa: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1, 11) Và điều này không được phép tiết lộ ra. Vì nếu người Do Thái, dân đang trông chờ Đấng Messia, mà biết được, thì có lẽ chương trình của Chúa Giêsu sẽ chưa được nửa đường đã gãy cánh. Vâng, chương trình của Giêsu, Đấng Messia đích thực, đâu có hợp với sự mường tượng và mong đợi của dân Do-thái. Chúng ta cứ chiêm ngắm cuộc đời của Ngài thì sẽ nhận ra ngay.

Như vậy, anh thanh niên được thanh sạch đã không giữ lời nghiêm cấm của Giêsu. Một cách nào đó chúng ta cũng có thể thông cảm với anh, vì trước một phép lạ, một ơn cứu rỗi quá lớn lao trên chính bản thân mình, anh ta không thể nào câm lặng không rao truyền về vị thầy thuốc tốt lành tài ba. Ở đây, Mác-cô một cách nào đó đã cố ý làm nổi bật việc tung tin của anh thanh niên này, như là một cách rao giảng Tin Mừng, giống như người thanh niên được Chúa Giêsu chữa lành khỏi bị quỷ ám trong chương 5, 18-20: “Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người. Nhưng Người không cho phép, Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giêsu đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.”

Tham khảo

- Về sự chữa bệnh của Chúa Kitô. Bài huấn dụ của ĐTC Biển Đức XVI trình bày lúc trưa khi ngài đọc kinh Truyền Tin từ cửa sổ văn phòng ngài với hàng ngàn người tập hơp trong Quảng Trường Thánh Phêrô. VietCatholic News 13/02/2006

- Cha Raniero Cantalamessa Dòng Capuchine, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích Tin Mừng Chúa Nhật VI TN: Những bệnh phong hủi mới của xã hội VietCatholic News 11/02/2006

- Rudolf Pesch,

- Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/1

- Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1.

 

86.Hãy sẻ chia nỗi đau của người đồng loại--Huệ Minh
Ai trong chúng ta cũng hơn một lần nghe bài hát Hàn Mạc Tử. Bài hát có những câu như thế này:

Hàn Mạc Tử xuôi về quê cũ, dấu thân nơi nhà hoang

Mộng Cầm hỡi thôi đừng thương tiếc, tủi cho nhau mà thôi

Tình đã lỡ xin một câu hứa, kiếp sau ta trọn đôi

Còn gì nữa thân tàn xin để một mình mình đơn côi.

Thân tàn này xin để một mình mình đơn côi! Thật tội nghiệp! Tại sao thế? Tại vì Hàn Mạc Tử đã mang trong mình căn bệnh hiểm nghèo là bệnh phong hủi. Ai mắc bệnh phong hủi đều phải bị tách riêng ra khỏi cộng đồng bởi lẽ căn bệnh này sẽ lây cho người khác.

Không phải vào thời Hàn Mạc Tử mới có căn bệnh này nhưng từ xưa lắm, từ hồi ông Môsê đã có chứng bệnh này. Và, ta cũng vừa nghe trong sách Lêvi lời Đức Chúa phán với ông Môsê và Aaron rằng: "Nếu người nào thấy da thịt mình xuất hiện màu sắc khác thường, hoặc mụn nhọt hay những vết bóng láng, đó là dấu bệnh phong cùi, phải đem họ đến tư tế Aaron, hoặc đến một vị nào trong các con trai của ông. Vậy ai mắc bệnh phong cùi, và tư tế ra lệnh phải ở riêng, thì phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và la to rằng mình mắc bệnh truyền nhiễm và ô uế. Bao lâu người đó còn mắc bệnh phong cùi và ô uế, họ phải ở riêng một mình ngoài trại".

Những ai vướng vào căn bệnh phong hủi sẽ cảm thấy thật tủi thân vì bị xã hội cách ly, con người cách ly. Thế nhưng, với Thiên Chúa, đặc biệt nơi Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa làm người sinh xuống trần gian này có cách nhìn khác và cách hành xử khác.

Ta thấy thánh Máccô thuật lại cho chúng ta câu chuyện có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu. Khi nhìn thấy Chúa Giêsu anh ta quỳ xuống thưa với Chúa Giêsu rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch".

Nhìn thấy anh, nhìn thấy cách hành xử của anh, nhìn thấy lòng tin của anh và Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh". Và rồi, sau lời của Chúa Giêsu, mọi người thấy tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch.

Sau khi chữa lành cho anh, Chúa Giêsu nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng mình đã được khỏi bệnh".

Chạnh lòng thương những con người bệnh hoạn tật nguyền để rồi Chúa Giêsu đã chữa lành cho họ và đã mời gọi những người đi theo Chúa cũng phải có lòng chạnh thương như Chúa vậy.

Nhiều và nhiều người đã đi theo con đường của Chúa Giêsu đi là đã chia sẻ, đã băng bó những vết thương lòng cho những người đau yếu bệnh tật. Trong nhiều người đi theo con đường mà Chúa Giêsu đi đó, ta bắt gặp hình ảnh quen thuộc trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta đó là Đức cha Jean Cassaigne.

Đức cha Jean Cassaigne (1895 – 1973) là người sáng lập trại phong cùi Di Linh. Ngài đã bỏ quê hương xứ sở để đến sống và phục vụ những người phong cùi suốt 47 năm trời. Rồi chính ngài cũng mắc phải bệnh phong cùi giống như những người mà ngài phục vụ. Mặc dù mắc phải căn bệnh quái ác này nhưng ngài vẫn tin tưởng và cảm tạ Chúa rằng: “Chúa quyền uy, với lòng nhân ái vô biên, đã cho tôi được nên giống như họ”.

Lúc cuối đời trên giường bệnh, Đức cha nói với người nữ tu chăm sóc ngài và một số bệnh nhân thay phiên trực rằng: “Suốt 47 năm dài (1926–1973), cha đã sống giữa các con, đã sống tại Việt Nam này và đã dâng hiến tất cả cho các con. Giờ đây cha không còn tiếc gì về sự dâng hiến toàn diện ấy. Việt Nam chính là quê hương thứ hai của cha, bởi vì Chúa muốn như vậy. Khi về với Chúa, cha vẫn ở với các con, các con đừng lo…”. Đức cha được an táng bên nhà nguyện Trại Phong ngày 5-11-1973.

Đức cha Jean Cassaigne đã tiếp nối sứ mạng yêu thương của Chúa Giêsu. Đức cha không những chạm tay để xoa dịu nỗi đau của anh chị em bất hạnh, mà ngài còn hòa mình vào nỗi đau đó, cùng đau đớn như họ để cảm thông, chia sẻ và nâng đỡ họ.

Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu đã sống như con người chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngài sống như con người để cảm thương thân phận mỏng dòn, yếu đuối bệnh tật của con người. Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã đưa tay ra đụng chạm đến người phong cùi để chữa lành và xoa dịu nỗi khổ đau của họ. Qua đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy bắt chước Ngài để đưa tay ra đụng chạm, nâng đỡ những anh chị em đang gặp khổ đau, bất hạnh.

Ngày hôm nay, tuy bệnh phong cùi đã có thuốc chữa và không còn đáng sợ nữa, nhưng vẫn còn nhiều mảnh đời thê thảm không kém gì những người bệnh phong cùi năm xưa, đó là những người già cả neo đơn, những người nghèo đói, bệnh tật, những trẻ em lang thang … Họ đang cần đến đôi tay sẻ chia, nâng đỡ của chúng ta.

Nhìn lại cuộc đời của ta, ta may mắn hơn những anh chị em bị bệnh phong còn lại ở vài trại trên đất nước ta, ta may mắn hơn những người kém may mắn phải vướng vào những chứng bệnh ngặt nghèo. Nhìn lại sự may mắn đó để rồi trong cuộc sống, có khi tiết kiệm ly cà phê, tô bún hay chút gì đó của nhu cầu vật chất để sẻ chia. Thiển nghĩ rằng những chia sẻ của ta cũng chẳng làm gì khá hơn cho cuộc đời kém may măn của anh chị em đồng loại nhưng ít nhiều cũng xoa dịu phần nào nỗi đau của những người đó.

Ngày nào mang nỗi đau tôi mới hiểu nỗi đau là gì?

Ngày nào trong khát khô tôi mới hiểu phận người ăn xin.

Chỉ cần ly nước thôi, chỉ cần bát cơm rơi bàn tay ai đó đón đưa.

Ngày hôm nay, ta đang sống giữa một xã hội mà tăng dần sự vô cảm và đánh mất tình đồng loại. Nhiều người vẫn cứ mãi khư khư của cải vật chất trong lòng mình. Dĩ nhiên là quyền họ làm họ được hưởng nhưng xin họ mở lòng ra để chia sẻ chút gì đó cho những mảnh đời kém may mắn xung quanh họ.

Và, trước nhất ta hãy cầu cho chính bản thân ta để ta biết sẻ chia cho những người cần một chút lòng thành của ta, ngay bên cạnh ta, ngay trong gia đình ta.

 

87.Niềm vui của chàng phung cùi, niềm vui của chúng ta--Huệ Minh
Tin mừng Mc 1: 40-45: Khi nào niềm tin của chúng ta đủ mạnh thì khi ấy Chúa có thể đến, và ở lại với chúng ta và chữa lành cho chúng ta. Còn khi niềm tin của chúng ta nó cứ hời hợt thì Chúa làm sao có thể đến với chúng ta...

Kính thưa Cộng Đoàn,

Chúng ta vừa nghe trang Tin Mừng theo Thánh Máccô thuật lại việc Chúa Giêsu chữa cho người phong.

Anh ta làm điều mà Chúa Giêsu không vui, bởi vì chữa cho anh thì Chúa Giêsu dặn anh ta: Đừng có đi nói với ai hết. Anh không làm theo lời Chúa Giêsu dặn. Và rồi anh ta vừa được chữa lành xong, anh ta đi loan báo cho mọi người cái niềm vui mà anh được chữa lành đó.

Và tại sao anh lại vi phạm cái lời của Chúa? Xin thưa: vì anh cảm thấy sướng quá! Bởi vì bao nhiêu năm trời anh ta bị giam trong nỗi cô đơn của đau đớn, của bệnh tật của sự miệt thị của biết bao nhiêu con người.

Trong khi đó, Chúa đã chạm và chữa cho anh sạch sẽ bệnh. Từ cái chạm của Chúa Giêsu, tất cả mọi khổ đau thể xác và tinh thần của anh đã biến mất. Phải nói rằng đó là một niềm vui quá lớn, không thể che giấu được nên anh chia sẻ niềm vui đó cho người khác, thì khi ấy niềm vui đó của anh mới được trọn vẹn. Và Chúng ta thấy, đó là niềm vui của cuộc đời.

Thi thoảng, chúng ta thấy giáo xứ này giáo xứ kia, chỗ này chỗ kia, cử hành gọi là năm thánh. Khai mạc năm thánh để mừng kỷ niệm thành lập giáo xứ chẳng hạn.

Năm thánh đó, thì chúng ta thấy đó là năm của niềm vui. Mời gọi mỗi người sống trong cái niềm vui của năm thánh, niềm vui từ Thiên Chúa trao ban cho con người.

Trong Thánh Kinh thì nếu mà trở về với những cái biến cố mà chúng ta thấy trong Cựu Ước có, đó là năm thánh.

Năm THÁNH là cái chữ mà gói gọn “vui lên”. Vui lên bởi vì năm thánh là năm của ơn toàn xá, là năm của niềm vui .

Và trong năm đó thì chúng ta thấy: Người nào nghèo mà đi bán đất cho người khác thì được trở về với cái miếng đất ngày xưa của mình, và những người đi làm nô lệ thì được giải thoát và được trả tự do. Và trong năm Thánh người nào mà bị mắc nợ thì được xóa sạch.

Thì rõ ràng chúng ta thấy rằng là năm thánh là năm của niềm vui lắm!

Và rồi, nhiều khi trong cuộc đời của chúng ta, giáo xứ của chúng ta, họ đạo của chúng ta, mừng năm thánh; chúng ta không có cảm thấy cái niềm vui, bởi vì cuộc sống của chúng ta vẫn còn đó những khó khăn. Mình nợ ngân hàng thì mình vẫn phải trả cho ngân hàng. Mình nợ người này người kia, mình phải trả lại cho người này người kia.

Và rồi, để làm sao mình có cái cảm nghiệm được cái niềm vui, niềm vui trong Chúa, niềm vui có Chúa, niềm vui cùng Chúa?

Thì chúng ta trở về với cái anh chàng phong cùi trong Tin Mừng hôm nay. Chúng ta thấy, tại sao anh ta vui? Vui, bởi vì anh ta quá đau khổ ! Trong chớp mắt thôi! anh ta có kinh nghiệm về sự giải thoát của Chúa Giêsu cho anh ta khỏi bệnh tật. Thật sự ra mà nói thì , chúng ta chưa có cái cảm nghiệm được cái niềm vui của Thiên Chúa dành cho mình. Chúng ta chưa có kinh nghiệm được giải thoát!

Và rồi, chúng ta cũng cảm thấy ngạc nhiên là tại sao mà Chúa lại dặn anh ta đừng có đi nói cho người khác về việc Chúa làm cho anh ta. Bởi vì đó là bí mật Đấng Messia, Chúa Giêsu không muốn anh ta đi loan báo cho mọi người rằng là: Chúa đã chữa lành cho anh ta. Bởi vì Chúa Giêsu sợ nếu mà anh ta đi loan báo việc Ngài đến chữa lành cho anh ta. Thì không khéo người ta nhìn Chúa Giêsu như một thầy lang, như là một người bác sĩ có tài chữa lành bệnh tật thôi!

Nhưng mà, sứ mạng của Chúa Giêsu thì không phải là như thế! Cái sứ mạng mà chúng ta thấy đâu đó! Chúa Giêsu chữa lành trong kinh thánh đó chỉ là mang dấu chỉ để mời người ta nhìn đến một cái ơn giải thoát sâu xa hơn. Ơn giải thoát đó, chúng ta phải nhìn vào thực tế và trong hoàn cảnh của người Phong cùi chúng ta sẽ thấy rõ.

Ở bài đọc thứ nhất, mô tả về người Phong cùi thời đó, cũng như bây giờ. Người nào mà bị phong cùi thì bị ở riêng một nơi .

Người nào bị phong cùi thì đầu tóc để rối, đi đâu cũng la lên rằng là "cùi đây, cùi đây"! để người ta biết mà tránh. Nếu mà không tránh thì bị lây.

Và chúng ta thấy, sống trong hoàn cảnh như thế thì người phong cùi không chỉ đau về nỗi đau thể xác mà còn là mang một cái nỗi đau tâm lý. Một cái nỗi đau của con người sống bị loại trừ, bị gạt ra bên lề xã hội nữa.

Và đặc biệt với xã hội người Do Thái là xã hội tôn giáo thì người ta lại quan niệm rằng: những người bị phạm tội là Chúa phạt như thế!

Đã nghèo, đã bệnh tật mà còn mang trong mình cái mặt cảm bị Thiên Chúa trừng phạt..Và đau đớn nhất là, không được vào trong Hội đường để mà thờ phượng Chúa nữa, đau khổ lắm!

Và rồi chúng ta thấy, sau khi được chữa lành, thì anh ta trở về với cộng đoàn và bệnh phong coi như là bị loại trừ khỏi anh. Anh ta cảm thấy cô đơn, đau khổ lắm nhưng mà rồi được trở về hòa nhập lại với cộng đoàn. Đó là một niềm vui!

Và chúng ta phải ở trong cái trạng thái của anh ta, khi mà mình được giải thoát khỏi nỗi cô đơn và mình được hội nhập cộng đoàn, với mọi người thì lúc đó mình mới cảm thấy niềm vui.

Ngày hôm nay, chúng ta thấy, chúng ta đang sống giữa một cái xã hội mà truyền thông phát triển: điện thoại, internet. Và chúng ta thấy: tưởng chừng con người đến với nhau nhiều hơn, nhưng mà thật sự ra con người cô đơn.

Nhiều lần, nhiều lúc đi ra quán cà phê chúng ta thấy: cả gia đình ngồi với nhau đó, nhưng mà mỗi người một cái điện thoại, mỗi người một cái iPhone, mỗi người một cái iPad để rồi không ai nhìn đến ai cả, và ai cũng làm việc riêng của mình, dẫu rằng người ta ngồi chung với nhau.

Chúng ta thấy, chính trong cái sự phát triển đó! mà con người không còn hiệp thông với nhau. Và đặc biệt chính vì cái sự hiệp thông đó của con người bị cắt đứt, thì con người cũng bị cắt đứt khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa.

Ngày hôm nay, người ta đến với Chúa: ầu ơ ví dầu, trong các thánh lễ, đến cho xong, đến cho hết rồi đi về. Không còn một cái tương quan nào với Thiên Chúa nữa.

Và rồi tất cả những điều đó đã làm nên cái tội lỗi nơi con người. Con người không còn tin nhận Thiên Chúa nữa.

Chính trong cái đam mê tội lỗi của mình, đam mê đã giam hãm con người ta, cắt đứt khỏi tương quan với Thiên Chúa và con người, và người ta loại trừ THIÊN Chúa ra khỏi người ta.

Đức Piô thứ 12 bảo: Tội con người ngày hôm nay đó là gì? Là tội mà con người đánh mất về cảm thức về tội lỗi.

Thì rõ ràng rằng là, ngày hôm nay giữa một cái xã hội mà chúng ta thấy, lương tâm người ta không còn bị cắn rứt nữa bởi tội lỗi, và người ta không cần đến Thiên Chúa nữa. Người ta sống trong một cái xã hội vô thần một cái quan niệm vô thần người ta không cần THIÊN CHÚA nữa!

Thì khi đó người ta đâu có cần đến để mà cầu xin Chúa chữa lành, như cái anh chàng phong cùi ngày hôm nay. Khi nào, người ta cảm thấy mình bị tội lỗi, mình bị cô đơn, mình bị đau khổ, thì lúc đó mình mới cần được giải thoát như anh chàng phong cùi.

Và chúng ta thấy anh chàng phong cùi ngày hôm nay, rất là dễ thương! Anh ta quỳ gối xuống và tha thiết xin: Lạy thầy, nếu thầy muốn thì xin cho con được khỏi bệnh. Nếu thầy muốn, nghĩa là thầy làm được ! Thầy muốn thì con sạch thôi! Và anh ta diễn tả niềm tin tuyệt đối vào Chúa Giêsu.

Và đôi khi chúng ta thấy, chúng ta có niềm tin đấy! Nhưng mà niềm tin ấy chưa đủ mạnh, bởi vì chúng ta vẫn chạy theo tà thần. Chúng ta vẫn chạy theo thần này thần kia, để chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời và chúng ta không còn cảm thấy ơn CHÚA cứu độ là cái ơn cần cho cuộc đời của chúng ta nữa.

Và khuôn mặt của người phong cùi ngày hôm nay, chính là khuôn mặt của mỗi người chúng ta. Liệu rằng chúng ta có khám phá ra trong cái khuôn mặt của anh cùi là khuôn mặt của mỗi người chúng ta hay không? Khi chúng ta mang trong mình tội lỗi, yếu đuối, nhưng mà điều quan trọng rằng chúng ta có chạy đến với Chúa hay không?

Cuộc đời này chúng ta vẫn chạy theo những niềm vui. Niềm vui bên ngoài, rồi cuối cùng cũng được lấp đầy, nhưng mà rồi cuối cùng cũng thiếu thốn.

Và chúng ta cứ loay hoay mãi trong cái niềm vui của trần gian, chứ không phải là cái niềm vui mà Thiên Chúa ban tặng.

Niềm vui mà Thiên Chúa ban tặng là niềm vui sâu xa trong tâm hồn. Niềm vui đó chúng ta cần phải đi khám phá trong tĩnh lặng, trong gắn bó mật thiết với Chúa và đặc biệt trong niềm tin với Chúa. Như anh chàng phong cùi ngày hôm nay. Anh ta đã đủ mạnh niềm tin để anh ta quỳ xuống và Xin Chúa chữa lành.

Liệu rằng: chúng ta có can đảm, để chúng ta quỳ xuống với Chúa, xin Chúa chữa lành cho chúng ta như anh ta hay không?

Khi nào niềm tin của chúng ta đủ mạnh thì khi ấy Chúa có thể đến, và ở lại với chúng ta và chữa lành cho chúng ta. Còn khi niềm tin của chúng ta nó cứ hời hợt thì Chúa làm sao có thể đến với chúng ta. Nay chúng ta chạy đến chỗ này, mai chúng ta chạy đến chỗ kia! để chúng ta tìm được cái niềm vui, tìm được cái sự giải thoát. Nhưng mà thật sự ra, tất cả những cái đó chỉ là bên ngoài chỉ là niềm vui của tạm bợ không phải là niềm vui đến từ Chúa.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để chúng ta bắt chước như anh chàng phong cùi của ngày hôm nay:

Để xin Chúa chữa lành cho chúng ta.

Để chúng ta thoát khỏi những bệnh tật của thể xác, của tâm hồn.

Để chúng ta đến gần Chúa hơn, và chúng ta sống mật thiết với Chúa hơn như anh cùi ngày hôm nay. Amen.